<經 id="n1448">CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1448 CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ Hán dịch : Tam tạng Pháp sư Nghóa Tịnh đời Đường <卷>QUYỂN 1 Nhiếp tụng 1 : Khai cho dùng các thuốc, Dầu, mỡ trị bịnh ghẻ, Thuốc chữa mắt, phong điên, Tất lân bà ta vv… Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc thành Thất-la-phiệt, lúc đó là vào mùa thu, các Bí-sô nhiễm bịnh thân thể vàng vỏ, ốm yếu, tiều tụy không có sức lực, Thế tôn tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan-đà nguyên do, A-nan- đà bạch Phật: “các Bí-sô nhiễm thời tiết mùa thu bị bịnh nên thân thể vàng vỏ …”, Phật nói: “do bịnh khổ này, nay ta khai cho các Bí-sô uống dùng các loại thuốc”. Tuy Phật khai cho dùng các loại thuốc nhưng các Bí-sô đúng thời mới uống dùng, phi thời thì không nên vẫn ốm yếu như cũ, Thế tôn lại hỏi A-nan-đà nguyên do, A-nan-đà bạch Phật: “vì các Bí-sô chỉ dùng thuốc đúng thời còn phi thời thì không nên vẫn ốm yếu như cũ”, Phật nói: “nay ta khai cho các Bí-sô được dùng 4 loại thuốc : 1 là Thời dược, 2 là Cánh dược, 3 là Thất nhật dược, 4 là Tận thọ dược.” 1 – Thời dược : như bún (miến, mì, nui … ), bánh bột, ngũ cốc ( xôi, bắp …), thịt (cá), cơm. Những món ăn này đều là đúng thời mới ăn. – Cánh dược ( phi thời dược ): 8 loại nước uống a – Chiêu giả tương : Chiêu giả là tên của 1 loại cây ở Ấn độ, cũng gọi là Điên trớ lê, trái giống như trái bồ kết nhung có mùi vị như trái mơ, lớn chừng 2 ngón tay, dài khoảng 3, 4 tấc, người đương thời ép lấy nước uống. b – Mao giả tương : tức là nước ép từ trái chuối với 1 ít bột hồ tiêu. c – Cô lạc ca tương : nước ép từ trái Cô lạc ca, mùi vị như nước trái táo chua. d – A thuyết tha tương : nước ép từ trái A thuyết tha. e – Ô đàm bạt la tương : giống như trái mận, ép lấy nước dùng. f – Bát lỗ sái tương : giống như trái anh áo, ép lấy nước dùng. i – Miệt lật trụy tương : giống như trái nho, ép lấy nước dùng. j – Khát thọ la tương : cấy giống như cây Lâu lư, trái giống như trái tào nhỏ, ép lấy nước dùng. Khi dùng các loại nước uống này phải rửa tay sạch, lọc lượt rồi mới dùng. Nội nhiếp tụng : Trái dưà, trái chuối và táo chua, Trái A thuyết tha, Ô bạt la, Anh áo, bồ đào, khát thọ la, 8 loại nước uống này nên biết. - Thất nhật dược : như tô, dầu, đường, mật, đường phèn được cất dùng trong vòng bảy ngày. - Tận thọ dược : thuốc thuộc loại củ (rễ), cọng (cành, thân cây), lá, hoa, quả được cất dùng trị bịnh trọn đời. Lại có 5 loại thuốc nhựa cây, 5 loại thuốc tro, 5 loại thuốc muối, 5 loại thuốc sáp. a - Thuốc thuộc loại củ ( rễ ) : như hương phụ tử, xương bồ, gừng vàng, gừng sống, bạch phụ tử và các loại tương tợ đều được tùy ý dùng làm thuốc. b - Thuốc thuộc loại cọng (cành, thân cây) : như cạy chiên đàn, dây sắn, cây trắc bá diệp, cây thiên mộc hương, dây bất tử, tiểu bách và các loại tương tợ đều được tùy ý dùng làm thuốc. c - Thuốc thuộc loại lá : như lá Toan thái bà xa ca (Trung Hoa không có ), lá Nhâm bà (lá xoan), lá Cao xa đắc chỉ (Trung Hoa không có) và các loại tương tợ đều được tùy ý dùng làm thuốc. d - Thuộc thuộc loại hoa : như hoa Bá xá ca, hoa Nhâm bà, hoa Đà đắc kê, hoa sen… và các loại hoa khác đều được tùy ý dùng làm thuốc. e - Thuốc thuộc loại quả : như quả Ha lê lặc, quả Am-ma-lặc, quả Bí ế đắc chỉ, quả tất bát và các loại quả khác đềi được tùy ý dùng làm thuốc. f - 5 loại thuốc nhựa: nhựa cây A ngụy, nhựa cây Ô khang, nhựa cây Tử khoáng, nhựa sáp ong vàng, nhựa cây Hương an tất. i - 5 loại thuốc tro: tro lúa gạo, tro hạt mè, tro bột gạo, tro cỏ Ngưu tất, tro lá cây Bà xa. j - 5 loại thuốc muối: muối đen, muối đỏ, muối đá trắng, muối làm từ ruộng muối, muối biển. g - 5 loại thuốc sáp: cây A-ma-la, cây Xoan, cây Thiệm bộ, cây Thi-lợi-sa, cây Cao-thiêm-bạc-ca. Trong 5 loại dược này, Thời dược là loại dược dùng đúng thời ; nếu đem Cánh dược, Thất nhật dược, Tận thọ dược điều hòa với Thời dược thì chỉ dùng đúng thời, không được dùng phi thời. Nếu đem Cánh dược, Thất nhật dược, Tận thọ dược điều hòa với Cánh dược thì nên dùng vào canh 1, qua canh 1 thì không được dùng. Nếu đem Thất nhật dược điều hòa với Tận thọ dược thì được dùng trong bảy ngày, quá bảy ngày không được dùng. Nếu là tận thọ dược điều hòa với Tận thọ dược thì được cất dùng trọn đời, nhưng 4 loại dược này nếu điều hòa với nhau thì được miễn cưỡng dùng, khi không bịnh và khi bịnh lành thì không được dùng hoặc đem cho đồng phạm hạnh. Nên thọ trì như sau : rửa tay sạch rồi nhận lấy loại dược cần dùng, đối trước 1 Bí-sô tác pháp thọ trì : Cụ thọ nhớ nghó, tôi Bí-sô tên , vì có bịnh duyên xin được thọ trì loại Tận thọ dược này để uống dùng. ( ba lần ) Thất nhật dược hoặc Cánh dược cũng tác pháp như vậy. Duyên khởi ở thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một Bí-sô mắc bịnh phong đến thầy thuốc hỏi phương thuốc trị bịnh, thầy thuốc nói: “hãy dùng mỡ động vật thì bịnh sẽ khỏi”, Bí-sô nói: “tôi làm sao có thể dùng mỡ động vật được”, thầy thuốc nói: “trừ loại thuốc này ra, các loại thuốc khác không thể trị lành”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Bí-sô có bịnh, nếu thầy thuốc nói: trừ loại thuốc này ra, các loại thuốc khác không thể trị lành”, thì hãy dùng mỡ”. Lúc đó các Bí-sô không biết dùng loại mỡ gì nên trở lại hỏi thầy thuốc, thầy thuốc nói: “Đại sư là bậc Nhất thiết trí, thầy nên đến hỏi thì sẽ biết”, các Bí-sô đến hỏi Phật, Phật nói: “có 5 loại mỡ : 1) là mỡ cá, 2) là mỡ lợn biển, là mỡ cá giao, 4) là mỡ gấu, 5) là mỡ heo. Năm loại mỡ này nếu nấu phi thời, lượt phi thời, thọ phi thời, cất giữ phi thời thì không nên dùng. Nếu nấu đúng thời, lượt phi thời, thọ phi thời, cất giữ phi thời thì không nên dùng. Nếu nấu và lượt đúng thời, thọ và cất giữ phi thời thì không nên dùng. Nếu nấu, lượt và thọ đúng thời mà cất giữ phi thời thì không nên dùng. Nếu thọ, lượt, thọ và cất giữ đều đúng thời thì nên dùng như cách dùng dầu, tức là chỉ cất dùng trong bảy ngày, quá bảy ngày thì không nên dùng.” Lúc đó Bí-sô bịnh nhời dùng mỡ nên bịnh được lành, sau khi lành bịnh liền đem mỡ còn dư quăng bỏ. Sau đó có Bí-sô khác cũng mắc bịnh Phong liền đến chỗ thầy thuốc phương thuốc trị bịnh, thầy thuốc chỉ tìm đến Bí-sô mắc bịnh trước đó để xin, Bí-sô này liền đến chỗ Bí-sô hỏi xin mỡ dư, Bí-sô nói: “tôi đã đem vất bỏ rồi”, Bí-sô này nói: “thầy thật không tốt, đã làm việc không nên làm”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “thuốc dùng còn dư không nên vất bỏ, nên thâu cất, nếu có Bí-sô nào cần đến xin thì nên cho ; nếu không có ai đến xin thì nên mang đến trong phòng chứa thuốc để cất giữ, sau này ai có cần thì đến đó hỏi xin để dùng ; nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó lại có một Bí-sô trên thân mọc ghẻ liền đến chỗ thầy thuốc hỏi phương thuốc trị ghẻ, thấy thuốc nói: “Thánh giả nên dùng loại thuốc sáp (bôi trơn) thì bịnh sẽ khỏi”, Bí-sô nói: “tôi há là người đam mê dục lạc hay sao?”, thầy thuốc nói: “trừ loại thuốc này ra, các loại thuốc khác không thể trị lành”, Bí-sô lại hỏi: “cần dùng laọi thuốc sáp gì ?”, thầy thuốc nói: “Đại sư là bậc Nhất thiết trí, thầy nên đến hỏi thì sẽ biết”, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “có 5 loại thuốc sáp : 1) là yêm một la, 2) là nhâm bà, 3) là thiệm bộ, 4) là dạ hợp, 5) là câu xa ma. 5) loại cây thuốc này hoặc vỏ cây hay lá cây đem giã nát, chưng cách thủy rồi thoa trên ghẻ”. Sau khi thoa, thân lại mọc ghẻ nữa, Phật bảo nên làm thuốc bột, các Bí-sô giã thuốc ướt làm thành viên, không thể thành bột, Phật nói: “không nên giã thuốc ướt, hãy phơi cho khô”, các Bí-sô phơi thuốc ngoài trời nắng gắt nên thuốc mất công hiệu, Phật nói: “không nên phơi ngoài trời nắng gắt”, các Bí-sô lại phơi trong mát nên khi thoa thuốc dính y, Phật nói: “hãy phơi lúc trời nắng nhẹ”. Bí- sô sau khi thoa thuốc liền đi tắm, thuốc rơi xuống hết không còn công hiệu, Phật nói: “hãy dùng tay khô thoa cho thuốc thấm vào da, sau đó mới tắm”, các Bí-sô y theo lời dạy bịnh được lành, sau khi bịnh lành liền đem vất bỏ thuốc dư. Sau đó có Bí-sô khác cũng bị ghẻ giống như thế liền đến thầy thuốc hỏi phương thuốc trị, thầy thuốc chỉ tìm đến hỏi thuốc nơi Bí-sô đã mắc bịnh trước, Bí-sô này liến đến chỗ Bí-sô trước hỏi xin thuốc, Bí-sô trước nói là đã vất bỏ rồi, Bí-sô này nói: “sao không cất giữ mà lại vất bỏ như thế ?”, Bí-sô này bạch Phật, Phật nói: “thuốc dùng còn dư không nên vất bỏ, nên thâu cất, nếu có Bí-sô nào cần đến xin thì nên cho ; nếu không có ai đến xin thì nên mang đến trong phòng chứa thuốc để cất giữ, sau này ai có cần thì đến đó hỏi xin để dùng; nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên khởi ở thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô bị đau mắt liền đến thầy thuốc hỏi phương thuốc trị bịnh, thấy thuốc nói: “Thánh giả hãy dùng loại thuốc An thiện na thì bịnh sẽ khỏi”, Bí-sô nói: “tôi há là người Ái dục hay sao?”, thầy thuốc nói: “trừ loại thuốc này ra, các loại thuốc khác không thể trị lành”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu thầy thuốc nói: trừ loại thuốc này ra, các loại thuốc khác không thể trị lành, thì hãy dùng loại thuốc An thiện na”, Bí-sô không biết nên dùng loại An thiện na gì, đến hỏi thầy thuốc, thầy thuốc nói: “Đại sư là bậc Nhất thiết trí, thầy nên đến hỏi thì sẽ biết”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “có 5 loại An thiện na : 1) là hoa An thiện na, 2) là mủ An thiện na, 3) là bột An thiện na, 4) là viên An thiện na, 5) là đá An thiện na. 5 loại này đều dùng để chữa bịnh mắt”, Bí-sô dùng thuốc xong bịnh được lành liền đem vất bỏ thuốc còn dư. Sau đó lại có Bí-sô đau mắt, đến thầy thuốc hỏi phương thuốc trị, thầy thuốc chỉ tìm đến hỏi xin thuốc nơi Bí-sô bị đau mắt trước, Bí-sô này đến hỏi xin thì Bí-sô trước nói là đã vất bỏ rồi, Bí-sô này bạch Phật, Phật nói: “thuốc dùng còn dư không nên vất bỏ, nên thâu cất, nếu có Bí-sô nào cần đến xin thì nên cho; nếu không có ai đến xin thì nên mang đến trong phòng chứa thuốc để cất giữ, sau này ai có cần thì đến đó hỏi xin để dùng; nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ giống như trước, lúc đó có Bí-sô Tây yết la mắc bịnh phong điên, đi lang thang khắp nơi, các Bà-la-môn cư só thấy liền hỏi là con của ai, có người nói: “đó là con của cư só , do người này cô độc nên mới đến trong giáo pháp của Sa môn Thích tử xuất gia, nếu không xuất gia thì họ hàng thân thích có thể trị bịnh phong điên cho ông ta”, các Bí-sô nghe biết đem việc này bạch Phật, Phật nói: “các Bí-sô nên đến hỏi thầy thuốc phương thuốc trị bịnh phong điên”, Bí-sô liền đến thầy thuốc hỏi, thầy thuốc nói: “hãy cho ăn thịt tươi sống thì bịnh sẽ khỏi”, Bí-sô nói: “Bí-sô ấy há lại ăn thịt tươi sống hay sao?”, thầy thuốc nói: “trừ loại thuốc này ra, các loại thuốc khác không thể trị lành”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu thầy thuốc nói: trừ loại thuốc này ra, các loại thuốc khác không thể trị lành, thì hãy cho Bí-sô ấy ăn thịt tươi sống”, các Bí-sô đem thịt tươi sống cho Bí-sô bịnh ăn, Bí-sô bịnh nhìn thấy thịt tươi sống nên không chịu ăn, Phật bảo nên bịt mắt lại rồi cho ăn, các Bí-sô y lời làm theo, Bí-sô bịnh ăn xong khi mở khăn bịt mắt thấy tay dính máu liền nôn mửa ra hết, Phật nói: “không nên mở khăn bịt mắt ra liền, đợi rửa tay sạch rồi đem thức ăn thơm ngon khác đến trước mắt mới mở khăn bịt mắt ra bảo Bí-sô bịnh ăn thức ăn thơm ngon đó bịnh sẽ được lành”. Không ngờ sau khi khỏi bịnh Bí-sô này thường nhớ nghó đến loại thuốc ấy, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu bịnh đã khỏi thì nên thuận hành như trước kia không có bịnh, nấu làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên khởi ở thành Vương xá, lúc đó cụ thọ Tất lân đà bà ta mới xuất gia có nhiều bịnh, các Bí-sô đến thăm hỏi sức khỏe liền đáp là bất an vì thường có bịnh, các Bí-sô hỏi: “trước kia thầy thường dùng loại thuốc gì ?”, đáp: “trước kia tôi thường mang theo một chiếc túi đựng đủ loại thuốc, cần loại nào thì dùng loại ấy”, các Bí-sô hỏi: “sao nay lại không dùng như thế”, đáp là Phật chưa khai cho dùng, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “nay ta khai cho các Bí-sô cất giữ túi đựng thuốc”, các Bí-sô chứa đủ loại thuốc không chứa hết, Phật nói nên làm dây cột, các Bí-sô làm dây cột túi thuốc trên cọc ngà voi lâu ngày thuốc hư rã, Phật nói: “hãy phơi cho khô”, các Bí-sô phơi thuốc ngoài trời nắng gắt nên thuốc mất công hiệu, Phật nói: “không nên phơi ngoài trời nắng gắt”, các Bí-sô lại phơi trong mát, thuốc lại hư rã, Phật nói: “hãy phơi lúc trời nắng nhẹ”, gặp trời mưa gió Bí-sô không dám thu cất, Phật nói: nên bảo cư só hay Cầu tịch thu cất, nếu không có ai thì Bí-sô tự thu cất, phần bị mưa ướt nên bỏ, phần không dính ướt thì cất giữ dùng, vì bịnh duyên nên khai cho dùng, nếu không có bịnh duyên thì không được dùng”. Duyên khởi ở thành Thất-la-phiệt, lúc đó cụ thọ Hiệt ly phạt đa trong tất cả thời đều không thích tìm cầu, nên các Bí-sô đều gọi Hiệt ly phạt đa là người ít mong cầu. Sau đó vào 1 buổi sáng Hiệt ly phạt đa đắp y mang bát vào thành theo thứ lớp khất thực, chợt nghe tiếng ép mía liền đi đến xem thì thấy họ đang làm đường tán bằng cách trộn bột gạo vào trong đường. Bí-sô nói với người làm đường: “chớ có trộn bột vào trong đường”, người làm đường nói: “còn có vật khác trộn vào để làm đuờng tán hay sao?”, đáp: “tôi không biết, chỉ là vì chúng tôi xem đường tán là loại phi thời dược, cho nên ông chớ trộn bột vào trong đường”, người làm đường nói: “là thời dược hay phi thời dược cũng vậy, ngoài cách này ra không còn cách nào làm đường tán cả”, Bí-sô nghe rồi liền bỏ đi. Sau đó ở trong chúng được chia đường tán dùng phi thời, Bí-sô này nghi không dám ăn, đệ tử hỏi nguyên do, đáp: “vì trong đây có hòa trộn thời dược”, đệ tử nghe rồi cũng không dám ăn, các Bí-sô thấy liền hỏi nguyên do, đệ tử đáp: “thầy tôi nói trong đây có hòa trộn thời dược”, các Bí-sô nghe rồi cũng không dám ăn, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “không vì lý do đó mà thành nhiễm vì cách làm phải như thế, nếu xuất xứ là tịnh thì được dùng, chớ có nghi”. Hôm khác, Hiệt ly phạt đa cũng vào thành khất thực đến trước phố Hương thành, thấy người làm đường đang vò viên đường tán bằng cách lấy bột xoa vào tay để vò viên, vò viên này xong lại lấy bột xoa vào tay để vò tiếp viên khác. Bí-sô thấy rồi liền nói: “tay đã dính bột đừng có cầm đường vì đây là loại phi thời dược”, người làm đường nói: “Thánh giả, có ai liên tục dùng nước rửa tay rồi mới vò viên đường hay không?”. Bí- sô này sau đó không dám ăn đường tán phi thời, các đệ tử cũng không ăn … giống như trên, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu căn bản thành nhiễm thì không nên ăn, nếu thể vốn tịnh thì ăn không phạm”. Duyên khởi ở thành Thất-la-phiệt, lúc đó cụ thọ Xá-lợi-tử mắc bịnh phong, Đại Mục-kiền-liên thấy rồi liền suy nghó: “ta đã từng nuôi bịnh cho Xá-lợi-tử nhưng không hỏi thầy thuốc phương thuốc trị, nay ta nên đến hỏi”, nghó rồi liền đến hỏi thầy thuốc, thầy thuốc nói: “xét theo bịnh trạng thì nên dùng giấm muối thì bịnh sẽ được lành”. Sau khi xin được giấm, Đại Mục-kiền-liên muốn xin muối, cụ thọ Tất lân đà bà ta nói: “trước đây tôi có cất giữ muối trong cái sừng để dùng trọn đời, nếu Thế tôn khai cho dùng giấm muối thì tôi sẽ cho muối”, Xá-lợi-tử nghe rồi nói với Đại Mục-kiền-liên: “tôi nghi là nếu đem loại Tận thọ dược hòa trộn với loại Thời dược thì không được dùng phi thời”. Đại Mục- kiền-liên bạch Phật, Phật nói: “nếu đem Cánh dược, Thất nhật dược, Tận thọ dược điều hòa với Thời dược thì chỉ dùng đúng thời, không được dùng phi thời. Nếu đem Cánh dược, Thất nhật dược, Tận thọ dược điều hòa với Cánh dược thì nên dùng theo thời hạn của Cánh dược, nếu quá thời hạn thì không được dùng. Nếu đem Thất nhật dược điều hòa với Tận thọ dược thì được dùng trong bảy ngày, quá bảy ngày không được dùng. Nếu là tận thọ dược điều hòa với Tận thọ dược thì được cất dùng trọn đời. Nếu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó Thế tôn từ nước Địch miêu du hành đến rừng Thi lộc chỗ Tiên nhơn đọa xứ thành Bà-la-nê-tư, trong thành này có một trưởng giả tên là Đại quân giàu có, vợ tên là Đại quân nữ. Trưởng giả này kính tín Tam bảo ưa thích hiền thiện, nghe tin Phật đến trong thành này liền suy nghó: “Thế tôn chính là Đại sư của ta, tuy ta thường cúng dường nhưng chưa đầy đủ, nay ta nên đem tư tài đã có cùng dường Thế tôn”, nghó rồi liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi liền im lặng. Trưởng giả nghe pháp xong hoan hỉ bạch Phật: “cúi xin Thế tôn cùng đại chúng thọ con thỉnh ba tháng hạ an cư cúng dường tứ sự”, Phật im lặng nhận lời, Trưởng giả biết Phật nhận lời vui mừng đảnh lễ rồi ra về. Suốt trong ba tháng an cư trưởng giả cúng dường tứ sự đầy đủ không để thiếu thốn, mỗi ngày vào sáng sớm trưởng giả đến đảnh lễ Phật rồi đi thăm các Bí-sô bịnh. Lúc đó có 1 Bí-sô bịnh, thầy thuốc bảo phải dùng canh thịt bịnh mới được lành, trưởng giả nghe rồi liền vế nhà bảo vợ : “Hiền thủ, có 1 Bí-sô bịnh thầy thuốc bảo phải dùng canh thịt bịnh mới được lành. Nàng hãy nấu món canh đó đem dâng cho Bí-sô bịnh”, vợ trưởng giả sai người hầu mang tiền đến lò mổ mua thịt, không may ngày hôm đó quốc vương sanh con nên cấm giết mổ, nếu ai vi phạm sẽ trị tội nặng, cho nên dù có mua thịt với giá cao cũng không mua được. Người hầu trở về báo lại, vợ trưởng giả suy nghó: “trong ba tháng vợ chồng ta nguyện cúng dường tứ sự đầy đủ, nếu không có món canh thịt này thì Bí- sô bịnh kia sẽ qua đời, ta sẽ có lỗi”, nghó rồi liền vào trong phòng cầm dao bén cắt thịt nơi đùi đưa cho người hầu nấu canh thịt dâng cho Bí-sô bịnh ăn. Người hầu vâng lời nấu canh thịt đem cho Bí-sô bịnh ăn, Bí-sô ăn xong liền lành bịnh mà vẫn không biết thịt trong canh là thịt nơi thân của vợ trưởng giả, Bí-sô suy nghó: “ta thọ cúng dường này thì không nên nằm không, ta phải đắc những pháp chưa đắc, chứng những pháp chưa chứng, hiểu những pháp chưa hiểu”, nghó rồi đoan thân chánh niệm, tâm ý tịch nhiên, không bao lâu sau phiền não đốn trừ chứng được quả A-la-hán, đầy đủ 3 Minh 6 Thông và 8 Giải thoát, hiểu rõ “ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau ”, thoát ly ba cõi như dao cắt mùi thơm, không sinh sân hận, xem vàng như đất không khác, đáng được chư thiên Đế thích, Phạm vương cúng dường. Sáng sớm hôm sau Phật đắp y mang bát cùng Đại chúng đến nhà trưởng giả, ngồi vào chỗ ngồi rồi hỏi trưởng giả: “vợ của ông đang ở đâu ?”, đáp là đang ở trong phòng. Lúc đó nhờ oai lực không thể nghó bàn của Phật khiến cho nơi bị cắt thịt được lành lặn như cũ, vợ trưởng giả sanh tâm hoan hỉ liền bước ra khỏi phòng đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật hỏi: “vì nguyên nhân gì mà ở trong đường hiểm sanh tử cô có thể phát tâm hạnh Bồ-tát ?”, vợ trưởng giả chắp tay nói kệ: “Luân hồi trong sanh tử, Thân này dễ có được, Trong trăm ngàn ức kiếp, Khó gặp cảnh tôn thắng”. Lúc đó trưởng giả đem các món ăn thơm ngon dâng cúng Phật và đại chúng, sau đó ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi trở về trú xứ, tập họp các Bí-sô bảo rằng: “ai ăn thịt người thì bị mọi người chê trách. Trong các thứ thịt thì ăn thịt người là đáng bị chê trách nhất, cho nên các Bí- sô không được ăn thịt người, nếu ăn thịt người thì phạm Tốt thổ la để. Nay ta nói về hành pháp của vị thượng tòa trong chúng : hễ đến giờ ăn, nếu có người mang thịt đến dâng cúng, vị thượng tọa nên hỏi là thịt gì, nếu thượng tòa già bịnh không nhớ hỏi thì vị thượng tòa thứ 2 nên hỏi, nếu thượng tòa không hỏi thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó các Bí-sô có nghi thỉnh hỏi Phật: “vợ trưởng giả đại quân cắt thịt trên thân cúng dường Bí-sô nên Bí-sô được lành bịnh, trong lòng phấn chấn siêng tu không gián đoạn nên dứt hết các lậu hoặc. Sau khi biết được là đã ăn thịt người bị mọi người chê trách, đối với pháp Phật có trái, đáng quở trách vì sao Bí-sô lại được lậu tận ?”, Phật bảo các Bí-sô: “không phải chỉ đời này Bí-sô nhận người nữ kia cúng dường mà trong vô lượng kiếp đời quá khứ, người nữ đó cũng đã đem thịt trên thân cúng dường Bí-sô đó. Quá khứ nhờ người nữ kia cúng dường mà chứng được năm Thông, ngày nay lại được đầy đủ 6 thông và được Lậu tận. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa trong thành Bà-la-nê-tư có một trưởng giả giàu có, tín thuận và trọng nhân nghóa, vợ trưởng giả cũng vậy. Lúc đó có một Bà-la-môn thông minh hiểu rộng, có 500 đệ tử vây quanh để học Minh luận, trưởng giả tín kính nên thỉnh Bà-la-môn và các đệ tử về nhà cúng dường trọn đời, mỗi sáng trưởng giả đều đến thăm viếng, thấy có một người đệ tử bịnh khổ liền đến hỏi thầy thuốc phương thuốc trị, thầy thuốc bảo nên cho ăn canh thịt. Trưởng giả liền trở về bảo vợ : “có một người đệ tử của Bà-la-môn bịnh, thầy thuốc bảo phải dùng canh thịt bịnh mới được lành. Nàng hãy nấu món canh đó đem dâng cho Bí-sô bịnh”, vợ trưởng giả sai người hầu mang tiền đến lò mổ mua thịt, không may ngày hôm đó hoàng hậu sanh con nên cấm giết mổ, nếu ai vi phạm sẽ trị tội nặng, cho nên dù có mua thịt với giá cao cũng không mua được. Người hầu trở về báo lại, vợ trưởng giả suy nghó: “ vợ chồng ta thỉnh Bà-la-môn và các đệ tử cúng dường, nếu không có món canh thịt này thì người đệ tử bịnh kia sẽ qua đời, ta sẽ có lỗi”, nghó rồi liền vào trong phòng cầm dao bén cắt thịt nơi đùi đưa cho người hầu nấu canh thịt đưa cho người bịnh ăn. Người bịnh ăn xong liền lành bịnh, bịnh khỏi rồi liền suy nghó: “hôm nay nhà vua cấm giết mổ, không biết thịt này từ đâu mà có, chắc là vợ của trưởng giả tự cắt thịt của mình nấu canh cho ta ăn. , ta phải đắc những pháp chưa đắc, chứng những pháp chưa chứng, hiểu những pháp chưa hiểu”, nghó rồi liền siêng năng tinh tấn, không bao lâu sau chứng được năm thông. Này các Bí-sô, vợ trưởng giả thuở xưa chính là vợ trưởng giả ngày nay; người đệ tử bịnh ngày xưa chính là Bí-sô bịnh ngày nay. Quá khứ nhờ người nữ này cắt thịt cúng dường mà chứng được năm thông, ngày nay cũng nhờ người nữ này cắt thịt cúng dường mà được lậu tận. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen ; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng, tạo nghiệp đen trắng xen tạp thì được quả báo xen tạp. Cho nên các thầy nên bỏ nghiệp đen và nghiệp xen tạp, nên tu nghiệp thuần trắng.” Lúc đó ở thành Thất-la-phiệt, vua Thắng quang vua nước Kiều- tát-la có con voi chiến bậc nhất bỗng bị bịnh dịch chết, lại gặp lúc mất mùa đói kém nên dân chúng đều ăn thịt voi. Sáng sớm hôm đó Lục chúng Bí-sô vào thành theo thứ lớp khất thực đến trước nhà 1 trưởng giả, trong nhà trưởng giả đang nấu thịt voi, mùi thơm bốc ra nên Lục chúng liền bước vào trong nhà xin, vợ trưởng giả nói không có thức ăn, Lục chúng hỏi: “nấu món ăn gì mà mùi thơm bốc ra như thế ?”, vợ trưởng giả nói: “đó là thịt voi, các vị ăn thịt voi được hay sao?”, Lục chúng nói: “chúng tôi dựa vào thí chủ, nếu thí chủ ăn thịt voi thì chúng tôi cũng ăn thịt voi”, vợ trưởng giả nghe rồi liền mang thịt voi ra cúng dường. Lục chúng nhận đầy bát rồi mang đi, các Bí-sô khác thấy liền hỏi: “thầy xin được món gì mà đựng đầy bát như thế ?”, đáp là thịt voi, liền hỏi: “thầy há ăn cả thịt voi hay sao?”, đáp: “lúc này mất mùa đói kém, không ăn há chịu chết đói hay sao?”, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “Trời rồng, dược xoa, phi nhơn, quốc vương, đại thần đều cung kính Bí-sô, ví sao Bí- sô lại ăn thịt voi của vua. Nếu vua nghe biết được sẽ nghó rằng: do các Bí-sô ăn thịt voi nên con voi chiến bậc nhất của ta mới chết, vua sẽ chê trách các Bí-sô, vì thế các Bí-sô không nên ăn thịt voi, ai ăn sẽ phạm tội Việt pháp. Thịt voi đã như thế thì thịt ngựa cũng thế”. Phật ở trú xứ gần bên ao Yết già thành Chiêm ba, trong ao có con rồng chúa tên là Chiêm bệ đa tín tâm, mỗi tháng vào ngày 14 và mồng 1 rồng ra khỏi cung biến thành hình người đến chỗ Bí-sô thọ 8 học xứ, sau đó đến chỗ vắng vẻ hiện lại nguyên hình, không làm tổn hại các chúng sanh khác. Gặp lúc mất mùa đói kém nên dân chúng đến cắt xẻ thân rồng mang về ăn, lúc đó Lục chúng Bí-sô vào thành theo thứ lớp khất thực đến trước nhà 1 trưởng giả, trong nhà trưởng giả đang nấu thịt rồng, mùi thơm bốc ra nên Lục chúng liền bước vào trong nhà xin, vợ trưởng giả nói không có thức ăn, Lục chúng hỏi: “nấu món ăn gì mà mùi thơm bốc ra như thế ?”, vợ trưởng giả nói: “đó là thịt rồng, các vị ăn thịt rồng được hay sao?”, Lục chúng nói: “chúng tôi dựa vào thí chủ, nếu thí chủ ăn thịt rồng thì chúng tôi cũng ăn thịt rồng”, vợ trưởng giả nghe rồi liền mang thịt rồng ra cúng dường. Do dân chúng đến lấy thịt rồng ngày một nhiều hơn nên rồng vợ suy nghó: “do các Bí-sô ăn thịt rồng nên mọi người càng ăn nhiều hơn, chồng ta biết chừng nào mới thoát ly nổi khổ, ta nên đem việc này bạch Phật”, đợi đến khi đêm xuống, rồng vợ đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, ánh sáng nơi thân rồng chiếu sáng khắp bờ ao Yết già, rồng chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, chồng con có tín tâm, mỗi tháng vào ngày 14 và mồng 1 rồng ra khỏi cung biến thành hình người đến chỗ Bí-sô thọ 8 học xứ, sau đó đến chỗ vắng vẻ hiện lại nguyên hình, không làm tổn hại các chúng sanh khác. Gặp lúc mất mùa đói kém nên dân chúng đến cắt xẻ thân rồng mang về ăn, các Bí-sô cũng ăn thịt rồng, như vậy đến lúc nào chồng con mới hết khổ. Cúi xin Thế tôn từ bi thương xót chế ngăn các Bí-sô đừng ăn thịt rồng”, Phật nghe rồi liền im lặng, biết Phật đã nhận lời rồng vợ liền ra về. Sáng hôm sau, Phật đến trong đại chúng bảo các Bí-sô: “đêm qua có rồng vợ của vua rồng Chiêm bệ đa đến chỗ ta bạch rằng: Thế tôn, chồng con có tín tâm, mỗi tháng vào ngày 14 và mồng 1 rồng ra khỏi cung biến thành hình người đến chỗ Bí-sô thọ 8 học xứ, sau đó đến chỗ vắng vẻ hiện lại nguyên hình, không làm tổn hại các chúng sanh khác. Gặp lúc mất mùa đói kém nên dân chúng đến cắt xẻ thân rồng mang về ăn, các Bí-sô cũng ăn thịt rồng, như vậy biết chừng nào chồng con mới hết khổ. Cúi xin Thế tôn chế ngăn các Bí-sô đừng ăn thịt rồng. Vì thương xót rồng nên ta nhận lời, từ nay các Bí-sô không nên ăn thịt rồng. Người ăn thịt rồng thì trời rồng đều chê trách khinh rẽ, làm tiêu mất pháp lành không phải là Thích ca tử. Nếu Bí-sô nào ăn thịt rồng thì phạm tội Việt pháp”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 2 Phật ở nước Ma-kiệt-đà du hành đến vườn Trúc lâm bên ao Yết lan đạc ca thành Vương xá, lúc đó vua Ảnh thắng nghe tin Phật du hành đến nước mình liền suy nghó: “trước đây ta có nguyện thường cúng Phật nhưng chưa từng thỉnh Phật an cư ba tháng, nay ta nên thỉnh Phật và Tăng an cư ba tháng cúng dường tứ sự và sai Y vương Thị-phược-ca cấp thuốc trị bịnh”, nghó rồi vua Ảnh thắng liền cùng quần thần đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi liền im lặng. Vua luền rời khỏi chỗ ngồi chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn thọ con thỉnh an cư ba tháng trong cung, con sẽ đem tư tài đã có cúng dường tứ sự và bảo Y vương Thị-phược-ca cấp thuốc trị bịnh cho Tăng”, Phật im lặng nhận lời, vua biết Phật đã nhận lời nên đảnh lễ Phật rồi ra về. Trở về cung vua liền ra lịnh chuẩn bị mọi thứ để cúng dường Phật và Tăng trong ba tháng hạ. Lúc đó vua Thắng quang nghe tin vua Ảnh thắng thỉnh Phật và Tăng vào trong cung cúng dường ba tháng hạ liền suy nghó: “ông ấy là vua nước lớn còn cúng dường Phật và tăng như thế, ta cũng là vua nước lớn, nếu Thế tôn đến nước ta, ta cũng sẽ đem tư tài cúng dường và bảo thầy thuốc A-đế-da trị bịnh”. Sau khi an cư ba tháng ở thành Vương xá xong, Thế tôn đắp y mang bát cùng đại chúng du hành đến thành Thất-la-phiệt trụ ở trong vườn Cấp-cô-độc, vua Thắng quang nghe tin này liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi liền im lặng. Vua rời khỏi chỗ ngồi chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, cúi xin Thế tôn thọ con thỉnh an cư ba tháng cúng dường tứ sự và bảo thầy thuốc A-đế-da trị bịnh cho Tăng”, Phật im lặng nhận lời, vua đảnh lễ Phật rồi ra về. Về đến trong cung liền ra lịnh chuẩn bị mọi thứ cúng dường và bảo thầy thuốc A-đế-da cấp thuốc trị bịnh cho Tăng, mỗi sáng vua Thắng quang đều đến trong Tỳ-ha-la đảnh lễ Phật và đi thăm các Bí-sô. Lúc đó vua thấy có 1 Bí-sô mắc bịnh Tró thân thể vàng vỏ, ốm yếu, tiều tụy không có sức lực liền hỏi căn bịnh rồi bảo thầy thuốc A-đế-da đến chữa bịnh cho Bí-sô, nhưng thầy thuốc này vốn không tín kính Tam bảo nên không chịu chữa trị. Sau đó vua gặp lại Bí-sô bịnh thấy vẫn ốm yếu như cũ nên hỏi rõ nguyên do, vua nghe rồi liền nổi giận ra lịnh bắt thầy thuốc đến hỏi rằng: “trước đây Ta bảo ngươi chữa bịnh cho Bí-sô, tại sao ngươi không chịu chữa trị, nếu ngươi không chữa lành bịnh cho Bí-sô Ta sẽ tước quan vị của ngươi”, thầy thuốc này nghe vua quở trách như vậy liền ôm giận Bí-sô bịnh nói rằng: “há chẳng phải do ông ta mà vua muốn đoạt quan vị của ta hay sao”. Thầy thuốc liền dẫn Bí-sô bịnh ra ngoài tinh xá trói tay chân lại để cắt Tró, Bí-sô bịnh bị bức bách đau đớn nên gào to: “con gặp nạn khổ sao Thế tôn đại từ bi không thương xót”. Thường pháp của chư Phật là trong tất cả thời không việc gì mà không biết, do tâm lực đại bi Phật đi đến chỗ Bí-sô bịnh, vừa thấy Phật đến thầy thuốc liền trút giận nói rằng: “kẻ ti tiện kia, hãy đến xem hạ bộ của đệ tử ngươi như thế nào”, Phật nghe lời này liền bỏ đi. Về đến trú xứ trải tòa ngồi rồi móm cười, từ trong miệng phóng ra hào quang 5 sắc chiếu xuống hay chiếu lên, nếu chiếu xuống thì chiếu đến ngục Vô gián và các ngục khác khiến cho chúng sanh trong đây đang bị đốt nóng liền được mát mẻ, đang bị lạnh cóng liền được ấm áp. Họ cảm thấy an lạc liền suy nghó: “ta và mọi người từ cảnh khổ địa ngục chết đi, được sanh vào cõi khác chăng?”. Thế Tôn sau khi làm cho các hữu tình kia sanh tín tâm liền hiện nhiều tướng khác nữa, thấy những tướng này họ liền suy nghó: “chúng ta không phải chết ở đây sanh về cõi kia, mà là do sức oai thần của Đại Thánh đã khiến thân tâm chúng ta hiện được an lạc”. Đã sanh tín kính thì có thể diệt các khổ, ở cõi nhơn thiên được thọ thân thắng diệu, thành chơn pháp khí thấy được lý chơn đế. Nếu hào quang chiếu lên thì đến cõi trời Sắc cứu cánh, trong hào quang diễn nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã… và nói kệ: “Người phải nghe Phật dạy Dốc cầu đạo xuất ly Phá được quân sanh tử Như voi phá nhà tranh. Ở trong pháp luật Phật Dũng tiến thường tu học Xa lìa đường sanh tử Bờ mé khổ không còn”. Hào quang này sau khi chiếu khắp ba ngàn Đại thiên thế giới liền trở về chỗ Phật, nếu Thế Tôn nói việc quá khứ thì hào quang trở vào phía sau lưng, nếu nói việc vị lai thì hào quang trở vào phía trước ngực, nếu nói việc địa ngục thì hào quang trở vào phía dưới chân, nếu nói việc bàng sanh thì hào quang trở vào phía gót chân, nếu nói việc ngạ quỷ thì hào quang trở vào phía ngón chân, nếu nói việc loài người thì hào quang trở vào đầu gối, nếu việc của Lực luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay trái, nếu nói việc của Chuyển luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay phải, nếu nói việc cõi trời thì hào quang trở vào rốn, nếu nói việc của Thanh văn thì hào quang trở vào miệng, nếu nói việc của Độc giác thì hào quang trở vào phía giữa hai chân mày, nếu nói việc của đạo quả Chánh đẳng chánh giác thì hào quang trở vào phía trên đảnh đầu. Lúc đó ánh sáng nhiễu quanh Phật ba vòng vào vào trong miệng Phật, cụ thọ A-nan-đà bạch Phật: “Thế Tôn Như Lai Ứng chánh đẳng giác vui vẻ móm cười chẳng phải là không có nhơn duyên”, liền nói kệ thỉnh Phật: “Từ miệng Phật phóng hào quang vi diệu, Chiếu khắp Đại thiên không phải một tướng, Chiếu khắp cả 10 phương các quốc độ, Như mặt trời chiếu sáng khắp hư không. Phật là nhân tối thắng của chúng sanh, Có thể trừ kiêu mạn và lo buồn. Không nhân duyên, kim khẩu không mở lời, Miệng móm cười ắt nói việc kỳ lạ. Con lặng lẽ quan sát đấng Mâu Ni, Ai muốn nghe, Phật nói cho nghe, Như sư tử vương rống tiếng vi diệu, Cúi xin Phật quyết nghi cho chúng con, Phật như Diệu sơn vương trong biển cả, Nếu không nhân duyên, Phật không dao động, Tự tại từ bi, miệng Phật hiện móm cười, Nói nhân duyên cho người đang khao khát”. Thế Tôn bảo A-nan-đà: “Đúng vậy A-nan-đà, không phải không có nhân duyên mà Như Lai Ứng chánh đẳng giác miệng hiện móm cười. Thầy thuốc A-đế-da tự hại mình vì đã mắng Phật là kẻ ti tiện. Ta nhớ từ đời vua Đại tam mạt đa đến nay, ta chưa từng bị mắng chửi như thế, vậy mà nay thầy thuốc A-đế-da dùng lời ác mắng Ta, do nghiệp ác này bảy ngày sau ông ta sẽ hộc máu mà chết và bị đọa vào địa ngục chịu khổ lâu dài. Vì thế này các Bí-sô, không nên nhờ thầy thuốc không có tín tâm như thầy thuốc A-đế-da trị bịnh. Bịnh Tró có hai cách chữa: Một là dùng chú thuật, hai là dùng thuốc, nếu Bí-sô bịnh nào nhờ thầy thuốc như thầy thuốc A-đế-da trị bịnh thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó các đại thần tâu vua: “thầy thuốc A-đế-da mắng Phật là kẻ ti tiện và cố ý làm cho Bí-sô bịnh chết”, vua nghe rồi liền tức giận ra lịnh xử trảm, đại thần tâu: “Đại vương, A-đế-da đã là người chết cần gì giết nữa, Thế tôn đã dự ký bảy ngày sau ông ta sẽ hộc máu mà chết và bị đọa vào địa ngục”, vua nói: “nếu vậy hãy đuổi hắn ra khỏi nước”. Sau khi bị đuổi ra khỏi nước, A-đế-da đi đến thành Sa kê đa lại cũng bị đuổi ra khỏi nước, đi đến thành Bà-la-nê-tư cũng bị đuổi ra khỏi nước, lần lượt đi đến các thành như Phệ-xá-ly, Vương xá, Chiêm ba cũng đều bị đuổi, cuối cùng đến ngồi dưới một gốc cây, cho đến sông suối ao hồ nào cũng bị thiện thần xua đuổi, lúc đó ông ta suy nghó: “loài dã can còn có chỗ để dừng nghỉ, còn ta thì không có, cho đến một gốc cây cũng không dung nạp ta”, suy nghó rồi buồn bực trong lòng hộc máu ra mà chết và bị đọa vào địa ngục A tỳ. Lúc đó Thế tôn nói kệ: “Người nào ở thế gian, Miệng nói ra lời ác, Là dùng dao búa bén, Tự chặt đứt thân mình. Khen ngỡi những kẻ ác, Chê bai người hiền thiện, Miệng sanh các tội lỗi, Không chiêu cảm quả vui. Cờ bạc tuy mất lợi, Lỗi ấy cũng còn nhẹ, Hủy nhục Phật Thế tôn, Tội này hết sức nặng. Ai dùng lời độc ác, Hủy báng các vị Thánh, Sẽ đọa ngục An bộ, Trải qua trăm ngàn năm, Lại do lời ác mắng, Hủy báng các vị Thánh, Đọa vào ngục Thanh bào, Bốn vạn hai ngàn năm”. Phật ở trong nước Địch miêu du hành đến một thôn và nghỉ đêm trong một trú xứ cũ nhưng trước đây chưa kết giới, đêm đó Thế tôn bỗng phát bịnh phong, cụ thọ A-nan-đà suy nghó: “ta thường hầu hạ Thế tôn, nay Thế tôn phát bịnh, ta nên đến hỏi thầy thuốc phương thuốc trị bịnh”, nghó rồi liền đến hỏi thầy thuốc, thầy thuốc nói: “Thánh giả hãy dùng tô nấu với ba loại thuốc sáp cho Thế tôn uống thì bịnh sẽ khỏi”. Sau khi điều hòa các thứ thuốc ấy và nấu xong, A-nan-đà đem dâng cho Thế tôn uống, Thế tôn hỏi A-nan-đà là thuốc gì, A-nan-đà đem việc trên bạch Phật, Phật hỏi: “thầy nấu ở đâu?”, đáp là nấu trong giới, Phật hỏi là ai nấu, đáp là tự nấu, Phật nói: “này A-nan-đà, nếu nấu trong giới, cất chứa qua đêm trong giới thì không nên dùng ; nếu nấu trong giới, cất qua đêm ngoài giới thì không nên dùng ; nếu nấu ngoài giới, cất qua đêm trong giới thì không nên dùng ; nếu nấu ngoài giới, cất qua đêm ngoài giới thì được dùng. Lại nữa này A-nan-đà, Bí-sô tự lấy tất cả loại thuốc và tự nấu thì không nên dùng; nếu ở ngoài giới tìm Cầu tịch hay Bạch y nấu thì Bí-sô được dùng”. Phật ở tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi liền im lặng. Trưởng giả rời khỏi chỗ ngồi chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và chúng Bí-sô ngày mai đến nhà con thọ thực”, Phật im lặng nhận lời. Sáng hôm sau trưởng giả trải tòa ngồi, sắp đặt mọi thứ xong liền sai sứ đến bạch Phật: “đến giờ thọ thực, xin Phật biết thời”. Lúc đó các Bí-sô vâng lời Phật dạy đắp y mang bát đến nhà trưởng giả thọ thỉnh thực, Phật không đi thọ thỉnh thực mà sai người đi lấy thức ăn về, do có 5 duyên : Một là cần yên tónh, hai là nói pháp cho chư thiên, ba là thăm nom người bịnh, bốn là xem xét phu cụ của tăng, 5 là chế học xứ cho các Bí-sô. Trong trường hợp này Phật vì muốn chế giới nên không đi thọ thỉnh thực mà bảo A-nan-đà lấy thức ăn mang về. Lúc đó ở nhà trưởng giả, cơm dọn lên hơi sống, A- nan-đà suy nghó: “cơm này hơi sống, Thế tôn làm sao ăn được, Thế tôn lại mắc bịnh phong nếu ăn cơm này, bịnh sẽ nặng thêm. Nếu ta không thọ thì Thế tôn chưa khai, ta nên thọ mang về nấu lại cho chín để Thế tôn dùng, nhân đây Thế tôn sẽ tùy khai”, nghó rồi A-nan-đà mang cơm sống về trú xứ, sau khi nấu lại cho chín rồi mới mang đến cho Phật ăn, Phật hỏi: “này A-nan-đà, cơm này với cơm mà các Bí-sô đã ăn có khác nhau không?”, đáp: “có khác vì cơm mà các Bí-sô đã ăn hơi sống”, Phật hỏi: “cơm này nhận từ đâu?”, A-nan-đà đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “lành thay A-nan-đà, Ta chưa nói mà thầy đã biết thời. Từ nay Ta khai cho các Bí-sô nếu thọ cơm sống thì nên nấu lại cho chín rồi mới ăn”. Lúc đó Lục chúng Bí-sô xin gạo để nấu cơm, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu cơm nấu hai phần chín một phần sống thì khai cho tự nấu lại mà ăn; nếu rau đậu, cá thịt nấu đã đổi màu, thọ rồi thì khai cho tự nấu lại mà ăn; nếu là các loại nước uống như sữa đã nấu sôi ba lần, thọ rồi thì khai cho tự nấu lại mà uống đều không phạm. Nhưng nếu là gạo, rau đâu sống, cá thịt chưa đổi màu, sữa chưa sôi ba lần nếu tự nấu để ăn thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc thành Thất-la-phiệt, lúc đó ở trong thành Thâu-ba-la-ca có một trưởng giả tên là Tự tại giàu có, nhiều quyến thuộc, cưới con gái của một trưởng giả quý tộc làm vợ, cùng sống rất hạnh phúc. Không bao lâu sau người vợ có thai, đủ ngày tháng sanh được một bé trai, trải qua 2một ngày trưởng giả mở tiệc ăn mừng và nhờ thân tộc đặt tên cho bé, thân tộc nói: “đã là con của trưởng giả Tự tại thì nên đặt tên là An lạc”. Thời gian sau người vợ lại sanh thêm bé trai thứ hai đặt tên là Thủ hộ, bé trai thứ ba đặt tên là Hoan hỉ. Sau đó trưởng giả bỗng mắc bịnh nằm liệt giường, tánh tình cũng trở nên cộc cằn cau có, thường hay mắng chửi người thân nên vợ con đều tránh xa, không chăm sóc cho ông nữa. Lúc đó đứa tớ gái trong nhà suy nghó: “trưởng giả này là chủ của ta, thường ngày lo toan trăm việc, cung cấp cơm áo cho chúng ta, nay lâm trọng bịnh vợ con không có chăm sóc, ta không chăm sóc là điều không nên”. Nghó rồi liền đến chỗ thầy thuốc nói rằng: “hiền thủ có biết trưởng giả Tự tại không?”, thầy thuốc nói: “tôi có biết ông ấy, không biết hiện nay ông ấy thế nào?”, đứa tớ gái nói: “hiện nay ông ấy lâm trọng bịnh, vợ con không có chăm sóc, ông có thể kê toa thuốc cho ông ấy không?”, thầy thuốc nói: “nếu vợ con ông ấy không có chăm sóc thì ai chăm sóc cho ông ấy ?”, đứa tớ gái nói: “tôi sẽ chăm sóc cho ông ấy, nay ông ấy không có người thân, tôi cũng không có tiền nhiều, xin ông chọn loại thuốc rẽ tiền cho ông ấy uống”. Sau đó đứa tớ gái lén lấy trộm ít tài vật của vợ con ông trưởng giả và giảm bớt chi tiêu của mình để mua thuốc về cho trưởng giả uống, không bao lâu sau bịnh được lành, trưởng giả suy nghó: “ta mang bịnh khổ mà vợ con không có chăm sóc, ta được sống còn là nhờ ơn của đứa tớ gái, ta đâu thể không báo đáp”. Nghó rồi liền nói với đứa tớ gái: “hiền thủ, tôi mang bịnh khổ vợ con không chăm sóc, nhờ hiền thủ lo thuốc thang chăm sóc nên được sống còn. Vậy hiền thủ muốn gì tôi sẽ làm cho được toại nguyện”. Tớ gái nói: “nếu đại gia đối với tôi có yêu mến riêng thì xin hãy cùng tôi giao hoan”. Trưởng giả nói: “cần gì phải làm việc giao hoan này, tôi sẽ cho hiền thủ 500 kim tiền và giải phóng kiếp nô lệ hạ tiện cho hiền thủ”. Tớ gái nói: “Đại gia, tuy tôi mong được thoát khỏi kiếp nô lệ hạ tiện, nhưng tôi lại mong muốn được cùng ông giao hoan”. Trưởng giả nói: “nếu hiền thủ muốn thế thì cứ theo ý nguyện của hiền thủ. Khi nào nguyệt kỳ qua, thân thanh tịnh thì hãy đến báo cho tôi biết”. Thời gian sau, khi nguyệt kỳ qua, thân thanh tịnh, người tớ gái liền đến báo cho trưởng giả biết, trưởng giả liền cùng người tớ gái giao hoan. Không bao lâu sau, người tớ gái mang thai, khi cô mang thai tất cả kho tàng của trưởng giả đầy tràn. Đủ ngày tháng sanh được một bé trai dung mạo đoan nghiêm, bé trai này vừa sanh ra thì của cải trong nhà tăng thêm. Sau đó trưởng giả mở tiệc ăn mừng và nhờ thân tộc đặt tên, thân tộc nói nên đặt tên là Viên mãn. Trưởng giả giao bé trai cho tám bà vú nuôi: hai bà lo việc bú mớm, hai bà lo việc bồng giữ, hai bà lo việc tắm rửa, hai bà cùng vui đùa, nên bé mau lớn như bông sen lên khỏi mặt nước, đến khi trưởng thành học thông các môn học và các môn kỹ nghệ, lại còn có thể dạy cho người khác. Lúc đó ba người con trai lớn của trưởng giả đều đã cưới vợ, chìm đắm trong dục lạc bỏ bê gia nghiệp, trưởng giả thấy vậy nên ngồi chống cằm lo nghó với dáng vẻ ưu sầu. Ba người con thấy cha như vậy liền hỏi nguyên do, trưởng giả nói: “các con biết không, ngày xưa cha kiếm được 10 vạn tiền vàng rồi mới cưới vợ, cho đến ngày nay ta vẫn tự kiếm sống. Các con vừa cưới vợ xong liền đam mê dục lạc, gia nghiệp đã có ắt sẽ tiêu tán, ta lo sau khi ta chết các con do đâu sống còn”. Lúc đó người con thứ một cởi bông tai báu đang đeo xuống và thay vào bằng đôi bông tai gỗ, thề rằng: “nếu con không thể buôn ban kiếm lời được 10 tiền vàng thì trọn đời không đeo bông tai báu nữa”; người con thứ hai cũng cởi bông tai báu xuống và thay vào bằng đôi bông tai đồng đỏ ; người con thứ ba cũng cởi bông tai báu xuống và thay vào bằng đôi bông tai thiếc. Do nhân duyên này nên người con đầu vốn tên là An lạc, nay được gọi là Bông tai gỗ; người con thứ hai vốn tên là Thủ hộ, nay được gọi là Bông tai đồng; người con thứ ba vốn tên là Hoan hỉ, nay được gọi là Bông tai thiếc. Cả ba người con đều đem hàng hóa vượt biển mua bán kiếm lời, người con thứ tư thấy vậy cũng muốn vượt biển mua bán kiếm lời như các anh, trưởng giả nói: “còn nhỏ chưa đủ sức vượt biển, con hãy ở lại coi ngó hàng hóa trong phố chợ”. Thời gian sau ba người con trai lớn trở về với nhiều tài vật đã kiếm được đưa cho cha xem, mỗi người đều kiếm được số tiền 10 vạn tiền vàng như đã thề với cha. Lúc đó Viên mãn cũng muốn cha mình xem tài vật mà mình đã kiếm được trong phố chợ, người cha nói: “con không đi xa thì số tiền kiếm có là bao mà xem xét”, Viên mãn nói: “con tuy không đi xa nhưng xin cha hãy xem xét”, người cha miễn cưỡng xem xét, không ngờ số tiền cậu út kiếm được lại gấp bội các anh, người cha vui mừng suy nghó: “con út có phước đức lớn, tuy không đi xa nhưng lại thu được nhiều tiền tài như vậy”. Thời gian sau người cha lâm bịnh liền suy nghó: “sau khi ta mất, các con ắt sẽ chia rẽ, ta nên tính kế trước”, nghó rồi liền bảo các con: “các con hãy mang củi đến đây”, khi củi được mang đến, người cha nói: “các con hãy cùng đốt đống củi”, sau khi đống củi được đốt lên, người cha nói: “các con hãy phân chia đống củi đang cháy và mang đi”, sau khi phân chia, mỗi người mang củi đi thì đống củi liền tắt, người cha nói: “các con thấy không?”, đáp thấy, người cha liền nói kệ: “Đống lửa dựa nhau nên rực sáng, Nếu đem phân tán liền bị tắt, Anh em chung sống cũng như vậy, Nếu chia rẽ ắt bị tiêu diệt”. Các con nên biết, sau khi ta mất các con không nên nghe theo lời vợ mà chia rẽ nhau. “Nếu nghe lời vợ, nhà liền tan, Người tỉnh nghe gọi, tâm thôi thúc, Nước bị phá đều do quan xấu, Do quá tham nên cắt ân tình.” Nói kệ xong, người cha bảo người con trai lớn ở lại, còn tất cả ra ngoài, nói rằng: “sau khi ta chết, con là con trưởng nên sống cùng em út, chớ có chia lìa, của cải có thể bỏ nhưng không được bỏ rơi em út, vì sao, vì em út của con có phước đức lớn”, liền nói kệ: “Tích tụ đều tiêu tán, Cao ngất ắt rơi rớt, Hội họp ắt biệt ly, Có mạng đếu phải chết”. Nói kệ xong liền qua đời, các con lo tang lễ rồi đưa xác cha đến trong rừng thây chết hỏa thiêu, sau đó bàn với nhau: “khi cha còn sống, mọi thứ cần dùng đều do cha cung cấp ; nay cha mất, chúng ta nên họp lực buôn bán cầu lợi làm cho gia nghiệp ngày càng hưng thịnh”, người em út là Viên mãn cũng muốn cùng đi, người anh cả nói: “em nên ở lại đây mua bán và trông coi gia nghiệp, còn các anh mua bán ở phương xa”, nói xong cùng chia tay nhau, mỗi người đều mang theo hàng hóa đến phương xa mua bán, Viên mãn ở lại nhà trông coi gia nghiệp. Lúc đó ba người chị dâu đều sai người hầu đến chỗ chú út xin những vật dụng cần thiết, gặp lúc chú út tiếp khách hàng lâu, người hầu không thể gặp được, chị dâu cả hỏi người hầu nguyên do rồi nói: “con của tớ gái làm gia chủ thì chúng ta làm sao an ổn được”, nói rồi bảo người hầu canh chừng khi nào vắng khách thì đến xin, lần này đến đúng lúc không có khách hàng nên nhận được đủ thứ vật dụng mang về. Hai người hầu của hai chị dâu kế đến xin vật dụng cũng gặp trường hợp như chị dâu cả không xin được liền, lại thấy người hầu của chị dâu cả nhận được đủ thứ vật dụng mang về liền hỏi vì sao, người hầu của chị cả nói: “vì xin đúng lúc chú út không có tiếp khách hàng nên tôi nhận được các thứ vật dụng mau”. Hai người hầu này sau đó thường đi theo người hầu của chị dâu cả canh đúng lúc chú út không có tiếp khách hàng để nhận được các vật dụng mau, hai người chị dâu kế hỏi nguyên do, hai người hầu nói rõ sự việc, hai người chị dâu kế ôm lòng oán giận nói rằng: “con của tớ gái làm sao trông coi gia nghiệp chu đáo được”. Thời gian sau, ba người anh trở về với nhiều tài lợi, người anh cả hỏi vợ: “chú út coi ngó gia nghiệp, cung cấp mọi thứ có chu đáo không?”, đáp là rất chu đáo. Lúc đó hai người anh kế hỏi vợ thì hai người vợ này đều nói: “con của tớ gái coi ngó gia ngiệp thì làm sao chu đáo được”, hai người chồng nghe rồi liền suy nghó: “tất cả phụ nữ đều hay tranh chấp, nếu nghe lời họ anh em sẽ chia lìa”. Thời gian sau, đúng lúc chú út mở kho lụa ca thi thì con của người anh cả đến, chú út liền chọn một xấp vải tốt cho nó. Hai người chị dâu kế thấy vậy liền sai con mình đến xin, không may chú út đã đóng kho lụa Ca thi và đang mở kho vải khác xấu hơn, thấy hai cháu đến chú út liền đưa cho mỗi cháu một xấp vải mang về. Hai người chị dâu kế thấy cho con mình vải xấu liền nói với chồng: “anh thấy không, con của anh cả được lụa Ca thi, còn con chúng ta chỉ được vải xấu”, người chồng suy nghó: “con anh cả đến đúng lúc kho lụa Ca thi đang mở, con con chúng ta đến lúc kho khác đang mở”. Thời gian sau, chú út đang mở kho đường phèn thì con của anh cả đến, chú út liền cho nó một túi đường phèn; hai chị dâu kế thấy vậy liền sai con đến xin, không may kho đường phèn đã đóng, gặp lúc chú út đang mở kho đường cát nên chú út đưa cho mỗi cháu một túi đường cát mang về. Hai người chị dâu kế thấy vậy liền nói với chồng: “anh thấy không, con của anh cả được đường phèn, con chúng ta chỉ được đường cát”, nghe vợ gièm pha châm chích mãi như thế nên hai người anh kế đều muốn chia tài sản ra ở riêng, hai người bàn với nhau: “nếu phân chia thì đồ vật trong nhà và ruộng vườn ở ngoài là một phần; đồ vật trong kho và hàng hóa mua bán ở ngoài là một phần; Viên mãn là một phần. Nếu anh cả nhận ruộng vườn và đồ vật trong nhà thì chúng ta nhận đồ vật trong kho và hàng hóa mua bán bên ngoài; ngược lại nếu anh cả nhận vật trong kho và hàng hóa bên ngoài thì chúng ta nhận đồ vật trong nhà và ruộng vườn bên ngoài. Phân chia như thế để trị phạt Viên mãn, khiến cho nó chịu khổ sở”. Bàn tính xong cả hai đến chỗ người anh cả nói rõ sự việc, người anh cả nói: “gia nghiệp tan nát đều do nghe lời vợ, các em hãy suy nghó lại”, hai người em kế nói là đã quyết ý rồi, người anh cả nói: nếu vậy hãy mời người đoán sự đến”, hai người em kế nói: chúng em đã bàn tính kỹ rồi, không cần mời người đoán sự”, liền nói rõ sự phân chia tài sản như đã tính ở trên, người anh cả hỏi: “Viên mãn không đựoc chia phần hay sao?”, hai người em kế nói: “nó là con của đứa tớ gái làm sao có phần được, nhưng chúng tôi đã xếp nó vào trong số của cải trong nhà, nếu anh thương thì nhận nó”, người anh suy nghó: “khi lâm cha có dặn ta đừng bỏ rơi nó, của cải có thể bỏ nhưng đứa em út không nên bỏ”, nghó rồi người anh nói: “như lời em đã nói thì anh nhận Viên mãn”. Sau khi phân chia gia sản xong, người được chia nhà liền đuổi chị dâu ra, nói là nhà đã được chia; người được chia kho đồ vật liền đến kho đuổi Viên mãn ra nói là đã được chia. Lúc đó chị dâu cả cùng Viên mãn ra ngoài tìm đến nhà người quen, những đứa con của chị dâu cả đói bụng kêu khóc, chị dâu bảo Viên mãn cho chúng thức ăn, Viên mãn bảo đưa tiền, chị dâu nói: “chú dùng ức tiền vàng để mua bán, lấy một ít tiền mua thức ăn cho chúng không được sao?”, đáp: “tôi đâu biết trước có việc phân chia gia sản này, nếu biết trước tôi đã cất giấu vô lượng ức tiền vàng ơ chỗ khác”. Chị dâu cả đành phải móc tiền đưa cho Viên mãn đi mua ít thức ăn, Viên mãn cầm tiền đi vào chợ bỗng gặp một người gánh củi đi bán, nhìn thấy trong gánh củi có loại gỗ quý ở trong biển gọi là Ngưu đầu chiên đàn, liền hỏi người bán củi “anh bán gánh củi này bao nhiêu?”, đáp: “chỉ cần 500 tiền”, Viên mãn nói: “tôi sẽ đưa cho anh 500 tiền”, nói xong rút lấy cây Chiên đàn trong gánh củi ra đi vào trong chợ cưa thành bốn khúc, phần bột vụn Chiên đàn đem bán được một ngàn tiền liền trở lại giao cho người bán củi 500 tiền rồi bảo người gánh củi gánh đến đưa cho chị dâu, nói là Viên mãn bảo gánh tới. Người ấy y theo lời gánh tới chỗ chị dâu, chị dâu thấy gánh củi đấm ngực kêu lên: “Viên mãn sao mà ngây dại như thế, của cải vừa bị phân tán thì trí huệ cũng không còn. Tôi bảo mua thức ăn lại đi mua củi mà không có thức ăn gì để nấu cả”. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 3 Lúc đó vua nước Thâu-ba-lặc-ca bị bịnh nóng sốt nằm mê man, thầy thuốc bảo phải dùng bột Ngưu đầu chiên đàn thoa lên người, vua liền ra lịnh đại thần tìm mua, đại thần đến chỗ Viên mãn hỏi có Ngưu đầu chiên đàn không, đáp là có chút ít rồi hỏi cần bao nhiêu, đại thần nói cần mua một ngàn tiền. Sau khi mua được bột Ngưu đầu chiên đàn, đại thần đem về thoa lên người của vua, vua khỏi bịnh rồi liền suy nghó: “trong kho của vua không có Ngưu đầu chiên đàn thì không xứng gọi là vua”, nghó rồi liền hỏi đại thần đã mua được từ đâu, đại thần đáp là mua từ chỗ Viên mãn, vua liền cho gọi Viên mãn đến, Viên mãn suy nghó: “vua cho gọi ta ắt là vì Ngưu đầu chiên đàn”, nghó rồi liền lấy ba khúc Chiên đàn bỏ vào trong mình còn một khúc cầm trên tay đi đến chỗ vua, vua hỏi: “anh có Ngưu đầu chiên đàn phải không?”, Viên mãn liền đưa khúc Chiên đàn cho vua xem, vua hỏi trị giá bao nhiêu, đáp là một ức tiền vàng, vua lại hỏi con nữa hay không, đáp là còn ba khúc, vua liền bảo đại thần đưa cho Viên mãn bốn ức tiền vàng, Viên mãn tâu: “thần xin nhận tiền của ba khúc Chiên đàn này còn khúc kia xin dâng vua”, vua liền đưa cho Viên mãn ba ức tiền vàng rồi nói: “khanh cần gì ta sẽ ban cho”, Viên mãn nói: “nếu vua hoan hỉ thì thần chỉ xin một điều là được sống trong nước của vua mà không bị lấn hiếp khinh khi”, vua liền bảo các đại thần: “từ nay các khanh có thể quản thúc các vương tử, không nên quản thúc Viên mãn”, Viên mãn liền cáo từ ra về. Lúc đó các thương nhơn trong thành nghe tin có 500 thương khách từ biển đang đi đến nước Thâu-ba-lặc-ca liền bàn với nhau: “các thương khách này đến chúng ta phải cùng nhau mua bán, không được mua bán một mình”, một người nói nên mời Viên mãn tới, người khác nói: “Viên mãn nay đã nghèo xác, mời đến làm gì”. Lúc đó Viên mãn ra khỏi thành cũng hay tin có 500 thương khách từ biển vừa đến đây liền đi đến gặp họ hỏi: “hôm nay các vị mang những món hàng gì đến”, các thương khách kể ra những món hàng được mang đến, Viên mãn hỏi tất cả trị giá bao nhiêu, các thương khách nói: “thương chủ đã thừa biết giá cả rồi còn hỏi làm gì?”, Viên mãn nói: “vì hôm nay tôi mua hàng một mình nên phải hỏi, không thể tự mình định giá”, các thương khách nói tổng cộng trị giá là 18 ức tiền vàng, Viên mãn nói: “tôi bằng lòng mua hết, các anh nhận trước ba ức tiền vàng này, số vàng còn lại sau khi bán hàng xong tôi sẽ giao đủ”, các thương khách bằng lòng, Viên mãn giao tiền vừa nhận được từ vua rồi tự tay niêm phong đóng dấu các món hàng đã mua, để ở chỗ các thương khách rồi đi. Sau đó các thương nhơn trong thành đến chỗ các thương khách hỏi: “hôm nay có những món hàng gì?”, các thương khách kể ra, các thương nhơn nói: “những món hàng như thế trong kho chúng tôi đều đã có rồi”, các thương khách nói: “bất kể trong kho các ông có hay không thì những món hàng này chúng tôi đều đã bán hết rồi”, các thương nhơn hỏi đã bán cho ai, đáp là bán cho Viên mãn, lại hỏi bán với giá bao nhiêu, đáp: “giá mà chúng tôi bán cho Viên mãn sợ các ông không mua nổi”, lại hỏi: “các ông đã nhận được bao nhiêu tiên từ Viên mãn?”, đáp là ba ức tiền vàng, các thương nhơn nói: “Viên mãn đã thâu hết hàng hóa của các anh em”. Lúc đó các thương nhơn cho gọi Viên mãn đến hỏi rằng: “trước đây chúng ta có giao ước không được mua hàng hóa một mình, phải cùng nhau định giá rồi chia nhau, tai sao anh bội ước?”, Viên mãn nói: “các ông lập giao ước sao không báo cho anh em chúng tôi, giao ước đó không liên quan tới tôi”, các thương nhơn không xét đúng sai, ép buộc Viên mãn phải nộp phạt 60 Ca-lợi-sa-ba-noa (một Ca-lợi-sa-ba-noa bằng 400 tiền vàng). Viên mãn chưa kịp thâu tiền hàng nên không có tiền nộp phạt, các thương nhơn bắt Viên mãn phơi nắng, sứ giả của vua đi tuần trông thấy bèn tâu vua biết, vua liền cho gọi Viên mãn và các thương nhơn đến hỏi nguyên do, các thương nhơn nói là vì Viên mãn bội ước, Viên mãn tâu vua: “các thương nhơn này lập giao ước không có báo cho thần biết”, vua hỏi có báo cho biết hay không, các thương nhơn đáp là không có, vua nghe rồi liền thả cho đi. Sau đó vua nước Thâu-ba-lặc-ca cần một số hàng hóa nên gọi các thương nhơn đến nói rằng: “nay ta cần một số hàng như , các khanh hãy mang đến đây”, các thương nhơn nói: “số hàng hóa vua đang cần hiện có ở chỗ Viên mãn”, vua nói: “trước đây ta có ra lịnh không quản thúc Viên mãn nên không thể theo đòi anh ta, các khanh đến chỗ Viên mãn hỏi mua và mang đến đây”, các thương nhơn cho mời Viên mãn đến nhưng Viên mãn không chịu đến, các thương nhơn đành phải đến chỗ Viên mãn, Viên mãn tỏ ra cao ngạo vài ngày sau mới chịu ra tiếp, các thương nhơn nói: “chúng tôi hiện đang cần một số hàng hóa như , xin hãy để giá vốn cho chúng tôi”, Viên mãn nói: “tôi buôn bán là để kiếm lời, nếu để giá vốn thì sao gọi là thương chủ”, các thương nhơn nói: “nếu vậy hãy để cho chúng tôi với giá lời gấp đôi”, Viên mãn suy nghó: “họ đều là thương chủ, ta phải kính trọng họ, nay được lời gấp đôi, ta nên chấp nhận”, suy nghó rồi liền chấp nhận bán số hàng hóa đó với giá 15 ức tiền vàng để trả nợ cho các thương khách, số hàng hóa còn lại để trong kho. Sau đó Viên mãn suy nghó: “số hàng hoa này như sương buổi sớm, làm sao có thể chứa đầy bình, ta nên vào biển tìm châu báu”, nghó rồi liền cho người đánh trống thông báo cho các thương nhơn trong thành biết: “thương chủ Viên mãn sắp vào biển tìm châu báu, ai cùng đi với thương chủ thì không phải trả tiền thuế đi đường. Nếu ai muốn cùng đi thì chuẩn bị hành trang và hãy mang hàng hóa đến để cùng đi”. Lúc đó có 500 thương nhơn mang hành trang và hàng hóa đến cùng đi với Viên mãn vào biển tìm được nhiều châu báu và cùng trở về an ổn, như vậy cho đến sáu lần nên danh tiếng đồn vang xa. Sau đó có các thương nhơn ở thành Thất-la-phiệt mang hàng hóa đến nước Thâu-ba-lặc-ca, sau khi dừng nghỉ rồi đến chỗ Viên mãn nói muốn cùng vào biển, Viên mãn nói: “các vị có nghe người nào vào biển đã sáu lần được an ổn trở về mà còn muốn đi nữa hay không?”, các thương nhơn nói: “chúng tôi từ xa đến đây là muốn nương theo anh vào biển được an ổn trở về, nếu anh không đi thì chúng tôi cũng không dám đi”, Viên mãn nghe rồi liền suy nghó: “tuy ta không muốn tìm cầu nữa nhung vì muốn làm lợi cho họ nên phải vào biển lần nữa”, nghó rồi liền bằng lòng cùng các thương nhơn này vào biển. Suốt trên đường đi nghe các thương nhơn này tụng các kinh chú với âm thanh trong trẻo nên Viên mãn khen là ca vịnh hay, các thương nhơn nói: “đó không phải là ca vịnh mà là tụng kinh chú”, Viên mãn hỏi là kinh chú gì, đáp là lời Phật dạy, Viên mãn vừa nghe danh từ Phật, toàn thân liền chấn động hỏi Phật là ai, các thương nhơn nói: “có sa môn Kiều-đáp-ma thuộc dòng họ Thích ca từ bỏ vương vị xuất gia tu chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gọi là Phật”, Viên mãn lại hỏi Phật đang ở đâu, đáp là đang ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ đa thành Thất-la- phiệt, Viên mãn nghe rồi ghi nhớ trong lòng. Chuyến đi này Viên mãn cũng cùng các thương nhơn trở về an ổn, lúc đó người anh cả suy nghó: “Viên mãn vượy biển nhiều lần khổ cực, nay đến lúc cưới vợ cho chú ấy”, nghó rồi người anh cả nói với Viên mãn: “em thích con gái của thương chủ hay trưởng giả nào, anh sẽ hỏi cưới cho em”, Viên mãn nói: “em không thích lấy vợ, xin anh cho em xuất gia”, anh cả nói: “trước kia chúng ta nghèo thiếu sao em không xưất gia, nay trở nên giàu có sao em lại muốn xuất gia?”, Viên mãn nói: “khi nghèo thiếu không thể xuất gia, nay giàu có mới xuất gia”. Anh cả thấy Viên mãn đã quyết ý nên bằng lòng cho Viên mãn xuất gia, Viên mãn nói: “vào biển cả có nhiều tai nạn nguy hiểm, người vào biển nhiều nhưng trở về thì ít, anh nhất định không nên vào biển cả. Những tài bảo mà em có được là do phước đức chứ không phải do lừa đảo, tài bảo mà anh hai và anh ba có được đều là không trong sạch. Sau khi em xuất gia nếu hai anh ấy trở lại xin sống chung thì anh chớ chấp nhận”. Nói xong Viên mãn dẫn theo một người hầu đi đến thành Thất-la-phiệt, ở trong một khu rừng rồi bảo người hầu đến báo với trưởng giả Cấp-cô-độc là thuơng chủ Viên mãn đang ở trong rừng muốn gặp trưởng giả. Trưởng giả nghe rồi liền hỏi người hầu: “thương chủ mang theo những vật gì đến đây?”, người hầu đáp: “chỉ dẫn theo một mình tôi, ngoài ra không có mang vật gì cả”, trưởng giả suy nghó: “người này có phước đức lớn, ta không nên để vào thành như thế, phải đem theo voi ngựa và nô bộc ra đón ông ấy”. Sau khi đón Viên mãn về nhà, trưởng giả đem nước thơm cho tắm gội rồi đãi ăn uống, đợi ăn xong mới hỏi Viên mãn: “thương chủ hôm nay đến có việc gì?”, đáp: “trưởng giả, hôm nay tôi muốn được ở trong pháp luật khéo giảng nói của Như lai xuất gia thọ viên cụ, thành tánh Bí-sô”. Trưởng giả liền nghiêm trang khen ngợi: “thật hi hữu, Tam bảo xuất hiện ở thế gian, ông có thể xuất gia là hiếm có ; ông có nhiều tài bảo và quyến thuộc, có thể xả bỏ để xuất gia lại càng hiếm có hơn”, nói rồi liền dẫn thương chủ đến gặp Phật. Lúc đó Phật đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn Bí-sô, từ xa thấy trưởng giả Cấp-cô-độc dẫn Viên mãn đến liền bảo các Bí-sô: “trưởng giả Cấp-cô-độc mang hạt châu vô giá đến dâng cho ta, ở trong phật pháp không ai độ chúng sanh nhiều hơn người này”. Trưởng giả cùng Viên mãn đến đảnh lễ Phật rồi bạch Phật: “Thế tôn, thương chủ Viên mãn nguyện được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô, ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh. Cúi xin Thế tôn cho Viên mãn xuất gia”. Phật im lặng nhận lời rồi bảo Viên mãn: “Thiên lai Bí-sô, gắng tu phạm hạnh”, Phật vừa nói xong, râu tóc Viên mãn tự rụng, thân mặc ca-sa như đã từng cạo tóc, trải qua bảy ngày đầy đủ oai nghi như Bí-sô 100 tuổi hạ, Phật nói kệ: “Thế tôn gọi “Thiện lai”, Tóc rụng, đủ y bát, Các căn đều tịch tónh, Thành tựu theo ý niệm”. Lúc đó cụ thọ Viên mãn đảnh lễ Phật rồi bạch rằng: “cúi xin Thế tôn nói pháp yếu để con được nghe từ Phật, sau đó con sẽ một mình ở nơi yên tónh, không phóng dật, siêng năng tu tập để được an lạc trụ. Đó là nguyên nhân hôm nay con bỏ nhà chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, tu tập phạm hạnh, ở trong hiện pháp chứng được trí huệ thần thông, hiểu rõ “sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau”. Phật khen: “lành thay, thầy sẽ được nghe pháp yếu cho đến không còn thọ thân sau như lời thầy đã thỉnh. Này Viên mãn, hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ: Đã có nhãn thức phân biệt đối với sắc, sắc sáng đáng yêu là điều ý ưa thích, tương ưng với dục làm người tham đắm. Các dục như thế, Bí-sô thấy rồi liền khởi lạc dục, khen ngợi, đắm trước, ưa thích ; do ưa thích nên khởi tâm tham, do tâm tham hòa hợp với dục lạc, do hỉ tham tương ưng nên xa lìa Niết-bàn. Này Viên mãn, đã có nhó thức phân biệt âm thanh, tỷ thức nhận biết hương thơm, thiệt thức nhận biết mùi vị, thân thức nhận biết xúc chạm, tâm thức nhận biết pháp, sắc sáng đáng yêu… giống như đoạn văn trên cho đến xa lìa Niết-bàn. Này Viên mãn, ai có mắtbiết rõ về sắc, sắc sáng đáng yêu…, nếu không đắm nhiễm thì gần với Niết-bàn. Nay ta đã nói pháp yếu, thầy muốn đến trụ nơi nào?”. Viên mãn đáp: “con đã nghe hiểu nghóa của pháp yếu, nay con muốn đến trụ ở nước Thâu-na-bát-la- đắc-già”, Phật nói: “người ở nước ấy hung bạo, thô lỗ, nóng nảy cộc cằn và độc ác. Nếu họ chửi mắng thầy bằng những lời cộc cằn thô lỗ, lăng nhục phỉ báng thầy trước mọi người thì thầy nghó sao?”, đáp: “nếu họ chửi mắng con…, con sẽ nghó là họ còn hiền lành vì đã không dùng gậy gộc, gạch đá… đánh ném con”, Phật nói: “nếu họ dùng gậy gộc, gạch đá… đánh ném thầy thì thầy nghó sao?”, đáp: “nếu họ dùng gậy gộc… con sẽ nghó là họ vẫn con hiền lành vì đã không dùng đao kiếm làm hại con”, Phật nói: “nếu họ dùng đao kiếm làm hại thầy thì thầy nghó sao?”, đáp: “con sẽ nghó là họ vẫn còn hiền lành vì đã không giết chết con”, Phật nói: “nếu họ giết chết thầy thì thầy nghó sao?”, đáp: “con sẽ nghó: “có đệ tử Thanh văn của Phật còn nhàm chán báo thân chịu các khổ não, trong lòng hổ thẹn nên đã dùng dao cho đến các phương tiện để tự đoạn mạng sống. Người trong nước ấy nếu đoạn mạng con tức là giúp con lìa được thân cấu uế này không chịu các khổ não nữa”. Phật khen: “lành thay, thầy đã thành tựu ý nhu hòa nhẫn nhục như vậy thì được đến nước đó. Thầy cứ đi và sẽ vượt qua khổ não, cũng nên độ người khác; thầy sẽ được giải thoát, cũng nên giải thoát cho người khác; thầy sẽ được an ổn và cũng làm cho người khác an ổn; thầy sẽ được Niết-bàn và cũng làm cho người khác được Niết-bàn”, nghe Phật dạy xong, Viên mãn vui mừng đảnh lễ Phật rồi lui ra. Lúc đó Viên mãn nghỉ đêm ở trong vườn Cấp-cô-độc, sáng hôm sau đắp y mang bát vào thành khất thực, ăn xong thu xếp ngọa cụ giao trả rồi du hành đến nước Thâu-na-bát-la-đắc-già. Trên đường đi gặp một người thợ săn cầm cung tên đi săn bắn, thợ săn này thấy Viên mãn liền suy nghó: “ta định đi săn mà gặp Sa môn trọc đầu là không may mắn”, nghó rồi liền lắp cung tên muốn bắn Viên mãn, Viên mãn liền vén áo bày bụng ra nói: “Hiền thủ hãy bắn vào bụng này”, rồi nói kệ: “Chim ở hư không, nai ở rừng, Vì tìm miếng ăn vường bẫy lưới, Hữu tình câm đao kiếm đâm đánh, Chém giết lẫn nhau đến diệt vong. Ngạ quỷ bị đói khát bức bách, Ăn sắt nóng, uống nước đồng sôi. Ta từ lâu do cái bụng này, Mà phải luân hồi chịu khổ não”. Thợ săn nghe kệ rồi liền suy nghó: “người xuất gia này tu hạnh nhẫn nhục thành tựu, lẽ nào ta nở hại người như vậy hay sao”, nghó rồi liền khởi tín tâm. Lúc đó Viên mãn liền nói diệu pháp cho ông ta nghe, khiến ông ta quy y Tam bảo thọ trì năm học xứ ; sau đó độ thêm 500 người nam trở thành Ô-ba-sách-ca và 500 người nữ trở thành Ô-ba-tư- ca. Họ xây 500 Tỳ-ha-la ở trong thành ấy và cung cấp vô số giường dây, giường cây, ngọa cụ lớn nhỏ thỉnh Viên mãn ở đó an cư ba tháng. Sau ba tháng Viên mãn Bí-sô đoạn trừ các phiền não, chứng A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Lúc đó hai anh kế của Viên mãn tiêu hết của cải tìm đến chỗ người anh cả nói rằng: “kẻ vô tướng bần cùng ấy đã ra khỏi nhà ta, ba anh em chúng ta hãy cùng sống chung như trước đây”, anh cả hỏi: “ai là kẻ vô tướng?”, đáp là Viên mãn, anh cả nói: “Viên mãn có thắng phước sao nói là vô tướng, khi còn ở nhà thắng tướng đã hiện rõ, không phải là kẻ vô tướng”, hai người em nói: “dù vô tướng hay không vô tướng thì cũng đã đi rồi, ba anh em chúng ta nên cùng sống chung với nhau”, anh cả nói: “của cải các em kiếm được là phi pháp, của cải của ta kiếm được là như pháp, làm sao ở chung với nhau được”, hai người em nói: “của cải của anh có được là do con của tớ gái vào biển cả kiếm được đem cho anh, anh được của cải này nên khen ngợi nó, chê bai chúng tôi. Nếu anh có khả năng thì hãy vào biển tìm châu báu”, người anh nghe lời này liền nổi giận nói: “ta sẽ vào biển”. Người anh trên đường ra biển tìm châu báu gặp phải gió bão thổi giạt đến một hòn đảo, trên đảo toàn là cây Ngưu đầu chiên đàn, các thương nhơn đi chung thấy rồi nói với nhau: “trước đây chúng ta có nghe nói đến cây Ngưu đầu chiên đàn, nay mới được thấy. Của quý này do Dược xoa Đại tự tại coi giữ, nhân lúc Dược xoa không có ở đây, chúng ta nên đồng tâm chặt lấy mau”, nói rồi 500 thương nhơn với 500 búa rìu đồng loạt đốn chặt cây. Lúc đó có một dược xoa tên là Tác hỉ vội chạy đến báo cho Dược xoa Đại tự tại biết, Dược xoa này nghe rồi nổi giận liền dùng thần lực nổi gió bão và nương hư không đi đến. Lúc đó các thương nhơn thấy gió bão kéo tới hết sức kinh sợ, mỗi người nghó đến vị trời mà mình tín ngưỡng rồi nói kệ: “Thần nước, gió tự tại, Chư tiên, trời Đế thích, Chúng Long vương, Dược xoa, Các thần A-tu-la, Con đang gặp nguy hiểm, Cúi xin các tôn thần, Cứu con khỏi tai ách, Hết sức đáng sợ này, Xin thỉnh cầu Đế thích, Hoặc là Đại phạm thiên, Thần cây và thần đất, Người hãy nên cứu giúp, Con đang gặp gió quỷ, Cúi xin hãy cứu độ”. Lúc đó người anh cả này đứng im lặng không niệm thiên thần, các thương nhơn liền hỏi tại sao, liền đáp: “trước đây Viên mãn em tôi có dặn tôi không nên vào biển, tôi vì trái lời nên gặp nạn này, tôi biết phải làm sao”, các thương nhơn nói: “Thánh giả Viên mãn có phước đức lớn, chúng ta nên quy y cầu cứu độ”, nói rồi đồng loạt niệm nam mô Thánh giả Viên mãn. Lúc đó có một thiên nữ vốn quy kính cụ thọ Viên mãn, nghe thấy các thương nhơn niệm như vậy liền đến báo cho Viên mãn biết, Viên mãn nghe rồi liền sanh ức niệm và nhập định Như thị, do định lực nên ẩn thân ở nước Thâu-na-bát-la đắc già rồi hiện thân ngồi trên cột buồm của chiếc thuyền người anh cả, khiến cho gió bão quay trở lại giống như gặp núi Tu di ngăn chận, không làm cho thuyền bị hoại. Lúc đó Dược xoa Đại tự tại quán thấy cụ thọ Viên mãn ngồi trên cột buồm liền hỏi: “Thánh giả vì sao xúc não tôi ?”, đáp: “tôi đâu có xúc não, nếu tôi không có được công đức lực thì anh tôi đã bị hại chết rồi và tôi chỉ có cái danh rỗng mà thôi”, Dược xoa nói: “tôi có bổn phận coi giữ Ngưu đầu chiên đàn này cho Kim luân Thánh vương”, Viên mãn hỏi: “Phật với Luân vương, ai tôn quý hơn?”, Dược xoa hỏi: “Phật đã xuất thế rồi sao?”, đáp là đã xuất thế, Dược xoa nói: “nếu vậy thì mặc tình chất cho đầy”. Lúc đó các thương nhơn nghe được lời này mới tỉnh hồn lại liền đối với Viên mãn khởi tâm tôn kính, họ chất Ngưu đầu chiên đàn đấy thuyền chở đến nước Thâu-na-bát-la-đắc-già, Viên mãn nói với anh: “nếu gặp nạn ở biển cả xưng niệm danh hiệu ai cầu cứu độ mà được cứu độ thì của cải thu được đều thuộc về vị ấy, Ngưu đầu chiên đàn này tôi lấy để xây cất một Tỳ-ha-la, còn châu báu kiếm được anh hãy đem chia cho các thương nhơn”. Người anh làm theo lời Viên mãn bảo, lúc đó Viên mãn kêu gọi các thợ giỏi đến thương lượng về tiền công xây cất Tỳ-ha-la, nói rằng: “các ông muốn mỗi ngày nhận được 500 tiền hay nhận một nhúm bột Ngưu đầu chiên đàn?”, các người thợ đồng đáp là muốn nhận một nhúm bột Ngưu đầu chiên đàn. Sau khi thương lượng xong họ bắt tay vào việc, không bao lâu sau Tỳ-ha-la được hoàn thành, Viên mãn sau khi trả công cho các người thợ xong, các bột vụn Ngưu đầu chiên đàn còn lại đều nghiền nát để đắp nền. Lúc đó các anh em của Viên mãn đã hòa thuận lại và cùng khởi tâm tín kính muốn phụng thỉnh Phật và Tăng đến cúng dường, liền hỏi Viên mãn Phật đang ở đâu, đáp là đang ở tại thành Thất-la-phiệt, lại hỏi cách đây bao xa, đáp là khoảng hơn trăm dặm, lại hỏi: “chúng tôi đến gặp đức vua tâu việc thỉnh Phật và tăng đến đây cúng dường có được không?”, đáp được, các anh của Viên mãn liền đến chỗ đức vua tâu rõ mọi việc và yêu cầu đức vua giúp đỡ, vua nói: “các khanh tùy ý làm, Ta sẽ hỗ trợ việc cúng dường này”. Lúc đó Viên mãn bay lên lầu cao quỳ gối đốt hương, rải hoa và rưới nước tịnh, vọng về rừng Thệ đa nói kệ cung thỉnh Phật và Tăng: “Giới tịnh, trí huệ diệu, Biết được người quy y, Giúp người không chỗ nương, Xin nhận lời con thỉnh”. Nói kệ xong, do thần lực của Phật, hoa rải này họp thành một cái lọng bay thẳng đến rừng Thệ đa che trên đảnh Phật; cũng do thần lực của Phật hương đã đốt tụ lại thành mây ở trên hư không và nước tịnh đã rưới tụ lại thành cây Phệ lưu ly bay đến rừng Thệ đa. Lúc đó cụ thọ A-nan-đà thấy tướng lành này liền chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, tướng lành thỉnh Phật và Tăng này từ nơi nào đến?”, Phật nói: “từ nước Thâu- na-bát-la-đắc-già đến”, lại hỏi cách nơi đây bao xa, Phật nói: “khoảng hơn 1 trăm dặm, thầy hãy đi thông báo cho các Bí-sô: ngày mai ai nhận lời thỉnh của cụ thọ Viên mãn đi đến nước Thâu-na-bát-la-đắc-già thọ thực thì đến lấy thẻ”. A-nan-đà vâng lời Phật đi thông báo và sáng hôm sau đi phát thẻ, Phật nhận thẻ trước, kế đến các Bí-sô trưởng lão đều nhận thẻ, lúc đó trưởng lão Bồn chẩm viên mãn cũng muốn lấy thẻ, A- nan-đà liền nói kệ: “Cụ thọ, thầy nên biết, Chẳng phải vua tát la, Chẳng phải dòng Tô đạt, Và phu nhân Lộc mẫu, Mà lần thiết cúng này, Tại Thâu-ba-lặc-ca, Cách đây hơn trăm dặm, Có thần thông mới đi, Không có thì ở lại”. Trưởng lão này tuy có trí huệ nhưng chưa được thần thông, nghe lời này liền suy nghó: “tuy ta đã đoạn phiền não nhưng chưa được thần thông thì không thể đi”, nghó rồi liền phát đại tinh tấn và được thần thông. Lúc đó A-nan-đà đã phát thẻ đến vị trưởng lão thứ ba, trong khoảnh khắc vị này chưa nhận thẻ thì trưởng lão Bồn chẩm viên mãn dùng thần lực duỗi cánh ta ra nhận thẻ rồi nói kệ: “Không nhờ dung nhan được thần thông, Cũng không nhờ đa văn biện tài, Chỉ nhờ sức giới tuệ tịch tónh, Thân tuy già bịnh cũng chứng được”. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “Bồn chẩm viên mãn ở trong các Bí- sô Thanh văn là người thứ một dùng thần thông nhận thẻ, trưởng lão là người đáng được khen ngợi vì nhờ thứ lớp phát thẻ mà chứng được lục thông”, đợi phát thẻ xong, Phật bảo các Bí-sô: “trước đây Ta có nói rằng: các Bí-sô nếu làm việc thiện thì nên che giấu, nếu lỡ phạm lỗi thì nên phát lồ. Nay ở trong thành kia có nhiều ngoại đạo, các thầy nên hiện thần thông để đi đến đó thọ Viên mãn thỉnh thực”. Lúc đó ở nước Thâu-na-bát-la-đắc-già, nhà vua ra lịnh quét dọn trang hoàng khắp trong thành, dùng nước thơm Chiên đàn rưới đất, đốt các loại hương thơm, treo cờ phướn, rải hoa. Ở 18 cửa thành, vua và quần thần đứng ở cửa thành lớn, 17 cửa thành còn lại là 17 vị vương tử đứng với các món cúng dường để nghinh đón Phật và Tăng, ba anh em Viên mãn cùng đứng bên nhà vua cho đến khi thấy 5 Bí-sô thọ sự dùng thần thông lực đến gồm có: Một vị coi ngó rau cải, một vị coi ngó thức ăn chuẩn bị nấu, một vị coi ngó nước sạch dùng để nấu, một vị coi ngó các món ăn được nấu xong, Lúc đó nhà vua thấy 5 vị này đến từ trong hư không liền hỏi Viên mãn có phải là thế tôn không, Viên mãn đáp: “đây là 5 Bí-sô thọ sự đi đến trước để coi ngó mọi việc cúng dường, Thế tôn và các vị trưởng lão đều chưa đến”, vua lại hỏi: “vì sao Thế tôn chưa đến?”, đáp: “người coi ngó công việc đến trước, Thế tôn đến sau”, lúc đó có Ô-ba-sách-ca nói kệ: “Sư tử, hổ, voi, rồng và bò, Dùng vật báu trang trí chỗ ngồi, Hoặc có cờ báu và núi báu, Cây báu, xe báu đủ màu sắc, Có người cỡi mây trong hư không, Phóng ánh sáng chiếu diệu trang nghiêm, Dùng thần thông lựcnương hư không, Hoan hỉ đến trong thành ấp này, Có người từ mặt đất vọt lên, Có người từ hư không hiện xuống, Có người tónh tọa trong hư không, Thần biến ấy không thể nghó bàn”. Lúc đó ở thành Thất-la-phiệt, Phật ngồi trong phòng đoan thân chánh niệm, đưa chân bước xuống đất khiến cho đại địa chấn động sáu cách: Là động, động khắp nơi, động khắp các nơi. Là kích động, kích động khắp nơi, kích động khắp các nơi. Là hiện ở Đông, ẩn ở Tây. Là hiện ở Tây, ẩn ở Đông. Là hiện ở Nam, ẩn ở Bắc. Là hiện ở Bắc, ẩn ở Nam. Ở nước Thâu-na-bát-la-đắc-già, nhà vua nghe tiếng chấn động liền hỏi Viên mãn, Viên mãn đáp: “do Phật bước chân xuống đất nên đại địa chấn động sáu cách như trên”. Lúc đó Phật phóng ra ánh sáng màu hoàng kim chiếu đến khiến cho mặt đất ở nước Thâu-na-bát-la-đắc-già biến thành đất hoàng kim, nhà vua thấy rồi vui mừng hỏi Viên mãn, Viên mãn nói: “do Phật phóng ánh sáng chiếu đến nên mặt đất biến thành hoàng kim”. Lúc đó Phật cùng 500 A-la-hán chuẩn bị nương thần thông lực đi đến nước Thâu-na-bát- la-đắc-già, do Phật đã tự điều phục nên điều phục vây quanh, do đã tự tịch tónh nên tịch tónh vây quanh, do đã tự giải thoát nên giải thoát vây quanh, do đã tự an ổn nên an ổn vây quanh, do đã tự thiện thuận nên thiện thuận vây quanh, do tự đã là A-la-hán nên A-la-hán vây quanh, do đã tự lìa dục nên lìa dục vây quanh, do đã tự đoan nghiêm nên đoan nghiêm vây quanh. Lúc đó có thiên nữ cầm nhánh cây Bạc-câu-la làm lọng đi sau che cho Phật, Phật quán biết ý nhạo tùy miên giới tánh sai biệt của thiên nữ, xứng căn cơ nói pháp khiến cho thiên nữ sau khi nghe pháp liền chứng được quả Dự lưu. Sau đó lại có 500 Ô-ba-tư-ca thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp với ánh sáng chiếu diệu trang nghiêm… liền sanh tâm hoan hỉ, Phật quán biết ý nhạo tùy miên của họ, ứng cơ nói pháp khiến cho họ sau khi nghe pháp liền chứng được quả Dự lưu. Khi được chứng quả, họ bạch Phật rằng: “Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến chúng con được Kiến đế chứng quả, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt chúng con ra khỏi ba cõi, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đếu bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-ba-tư-ca. Thế tôn, chúng con nay nên tu nghiệp gì để cúng dường?”, Phật dùng thần biến lực lấy tóc và móng tay đưa cho họ để họ xây tháp thờ, thiên thần ở rừng Thệ đa đem một cây lọng cắm bên trong tháp và nương ở trong tháp để cúng dường, nên người đời gọi tháp này là tháp Trạch thần. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 4 Lúc đó phật du hành đến chỗ 500 vị tiên đang ở, nơi đó hoa quả tốt tươi, thức ăn uống đầy đủ nhưng các vị tiên này không có tâm xẻn tham, ai đến đó đều được tùy tình ăn hoa quả. Phật biết đã đến lúc điều phục các vị tiên này nên dùng thần lực làm cho hoa quả nơi ấy đều rơi rụng, dòng suối trong mát cũng khô cạn, hoa cỏ đều héo úa, mặt đất tự nhiên nứt nẻ. Các tiên nhơn thấy rồi liền ngồi chống cằm ưu sầu, Phật đến hỏi nguyên do, các tiên nói: “vì Phật là bậc Lưỡng túc thắng phước điền đến nên chỗ chúng tôi mới biến tướng như thế”, Phật hỏi: “các vị có muốn cảnh trí nơi đây trở lại như cũ hay không?”, đáp là rất muốn, Phật liền thu nhiếp thần lực khiến cho hoa quả tươi tốt và cảnh trí trở lại như cũ, các tiên thấy rồi sanh tâm hi hữu quy kính Phật, Phật quán biết ý nhạo tùy miên của họ, ứng cơ nói pháp khiến cho họ sau khi nghe pháp xong đều chứng quả Bất hoàn và được thần thông. Lúc đó họ đều chắp tay bạch Phật: Thế tôn, chúng con nguyện được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô, ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”. Phật nói: “Thiện lai Bí-sô, hãy tu phạm hạnh”, Phật vừa nói xong, 500 vị tiên đều râu tóc tự rụng, thân mặc ca-sa như đã từng cạo tóc, trải qua bảy ngày đầy đủ oai nghi như Bí-sô 100 tuổi hạ, Phật nói kệ: “Thế tôn gọi “Thiện lai”, Tóc rụng, đủ y bát, Các căn đều tịch tónh, Thành tựu theo ý niệm”. Các Bí-sô này nhờ chuyên tâm tu tập đoạn trừ các phiền não, chứng A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, được như thật trí: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Lúc đó có một vị tiên là giáo thọ của các tiên kia bạch Phật rằng: “Thế tôn, trước kia con dùng hình dáng tiên nhơn lưa dối người đời khiến họ đọa ba đường ác, xin cho con điều phục họ trước rồi mới xuất gia”, Phật cùng 500 vị tiên đã xuất gia và các Bí-sô dùng thần thông lực nương hư không tạo thành hình bán nguyệt đi đến núi Xử sơn. Vị tiên giáo thọ này trông thấy Phật đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, ánh sáng chiếu diệu trang nghiêm liền suy nghó: “ta mau xuống núi để gặp Thế tôn, nếu đợi sau khi điều phục mình và người xong thì không còn gặp được nữa, ta phải nhảy xuống núi để đến kịp chỗ Thế tôn”, nghó rồi liền nhảy xuống núi. Thường pháp của Phật là được niệm không quên, vừa thấy vị tiên giáo thọ nhảy xuống nui, Phật liền dùng thần lực đón lấy, rồi quán theo ý nhạo tùy miên của tiên nhơn này, ứng cơ nói pháp khiến cho vị tiên này sau khi nghe pháp xong liền chứng quả Bất hoàn và được thần thông. Được chứng quả rồi vị tiên này bạch Phật: Thế tôn, con nguyện được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô, ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”. Phật nói: “Thiện lai Bí- sô, hãy tu phạm hạnh”, Phật vừa nói xong, râu tóc của tiên nhơn này tự rụng, thân mặc ca-sa như đã từng cạo tóc, trải qua bảy ngày đầy đủ oai nghi như Bí-sô 100 tuổi hạ, Phật nói kệ: “Thế tôn gọi “Thiện lai”, Tóc rụng, đủ y bát, Các căn đều tịch tónh, Thành tựu theo ý niệm”. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “Bí-sô này ở trong chúng Thanh văn của ta là bậc thượng thủ về tin hiểu ta, được gọi là Bí-sô mặc áo vỏ cây”. Lúc đó Phật cùng 1000 Bí-sô vây quanh dùng thần thông đi đến thành Tô-ba-la, Phật suy nghó “nếu ta từ cửa đi vào thì những người đứng ở cửa thành sẽ sanh niệm khác, ta nên dùng thần lực nương hư không mà vào”, nghó rồi Phật dùng thần lực nương hư không hiện xuống trong thành Tô-ba-la. Vua cùng ba anh em Viên mãn và 17 vương tử cùng vô lượng trăm ngàn dân chúng đồng đến chỗ Phật. Phật và đại chúng đến trong Tỳ-ha-la vừa được xấy cất xong bằng Chiên đàn. Mọi người bên ngoài thấy Phật vào trong không trở ra nữa nên muốn phá Tỳ-ha-la, Phật suy nghó: “nếu Tỳ-ha-la bị phá thì phước đức của thí chủ mất hết, ta nên dùng thần lực biến nó thành thủy tinh”, Khi Tỳ-ha-la biến thành thủy tinh trong ngoài đều trong suốt, mọi người bên ngoài đều nhìn thấy được Phật, lúc đó Phật quán theo ý nhạo tùy miên giới tánh sai biệt của đại chúng xứng với căn cơ nói pháp khiến cho vô lượng hữu tình hoặc được sanh căn lành giải thoát phần, hoặc vào trí huệ phần; hoặc chứng quả dự lưu, Nhất lai, Bất lai, hoặc xuất gia cuối cùng chứng quả A-la- hán; hoặc phát tâm Thinh văn Bồ-đề, hoặc phát tâm Độc giác Bồ-đề, hoặc phát tâm vô thượng Bồ-đề, quy y Tam bảo. Lúc đó ba anhem của Viên mãn lo liệu các thứ cúng dường xong liền sai sứ đến bạch Phật biết thời; cùng lúc đó trong biển cả có hai long vương một tên là Hắc giả, một tên là Kiều-đàm-ma, cả hai cùng suy nghó: “Thế tôn đang nói diệu pháp tại thành Tô-ba-la, chúng ta nên đến đó nghe pháp”, nghó rồi mỗi Long vương cùng với 500 quyến thuộc của mình, dùng oai lực của rồng hóa ra 500 dòng sông chảy về thành Tô-ba-la. Lúc đó Phật suy nghó: “nếu hai long vương kia cùng các quyên thuộc đến đây thì đất nước này sẽ bị chìm ngập và hư hoại”, nghó rồi liền bảo Đại Mục-kiền- liên thọ thực trước vì năm lý do: 1.Là từ nơi xa đến. 2.Là sắp đi đến nơi xa. 3.Là có người bị bịnh. 4.Là vì thăm người bịnh. 5.Là người thọ sự. Đại Mục-kiền-liên vâng lời Phật thọ thực trước rồi vội đến chỗ Long vương nói rằng: “xin thương xót dân chúng thành Tô-ba-la, chớ có hủy hoại”, Long vương nói: “chúng con đến với tâm thiện, không có ý làm hại cho đến loài kiến huống chi là làm hại dân chúng thành Tô-ba-la”, nói rồi đến chỗ Phật, Phật nói diệu pháp khiến cho Long vương quy y Tam bảo và thọ trì năm học xứ. Quy y rồi Long vương thỉnh Phật thọ thức ăn và thức uống của mình cúng dường trước, Phật suy nghó: “nếu ta nhận nước của một rồng thì số lượng rồng còn lại là vô hạn, ta nên lập phương tiện”, nghó rồi Phật bảo A-nan-đà: “500 Long vương muốn dâng nước cúng dường, nhưng Ta không thể nhận riêng từng vị, thầy hãy mang bình bát ra sông múc một bát nước mang đến đây”, Mục liên vâng lời Phật đi lấy nước mang về, Phật nhận lấy rồi uống. Lúc đó Mục liên suy nghó: “Thế Tôn có dạy công lao cha mẹ đối với con cái rất lớn, vì cha mẹ có thể làm được những việc khó làm cho con như bú mớm, nuôi dưỡng dạy dỗ… Trong châu Thiệm bộ này nếu có người con nào một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ trải qua 100 năm cũng không thấy mõi mệt; hoặc dùng ma ni, chơn châu… cung phụng cho cha mẹ được sung sướng cũng chưa thể gọi là báo được ân. Nếu cha mẹ không có tín tâm khiến sanh chánh tín, nếu cha mẹ không có giới thì khiến cha mẹ thọ giới, nếu cha mẹ có tánh xan tham thì khiến che mẹ làm việc huệ thí, cha mẹ không có trí huệ thì khiến phát sanh trí huệ… người con nào có thể khuyến dụ cha mẹ được an trụ như thế mới gọi là báo được ân. Phật đã dạy như thế nhưng ta vẫn chưa làm được”, nghó rồi liền nhập định quán sát xem người mẹ đã mất hiện thác sanh vào nơi nào, bèn quán thấy mẹ mình thác sanh ở thế giới Ma-lợi-chi, lại quán ai có thể đến đó dùng pháp giáo hóa, bèn quán biết chỉ có Phật mới làm được việc này, những người khác đều không thể. Quán biết rồi liền đến bạch Phật: “Thế tôn, cha mẹ đối với con cái có thể làm những việc khó làm, mẹ con nay thác sanh ở thế giới Ma-lợi-chi, con quán thấy không ai khác có thể đến đó dùng pháp giáo hóa, cúi xin Thế tôn thương xót”, Phật nói: “dùng thần lực của ai để đến nơi đó?”, đáp: “cúi xin Thế tôn gia bị, dùng thần lực của con để cùng đến nơi đó”. Lúc đó Đại Mục- kiền-liên dùng thần lực của mình dời một chân đạp trên một thế giới, một chân đạp trên núi Mê lô, trải qua bảy ngày dùng oai lực như vậy mới đến được thế giới Ma-lợi-chi. Thấy Mục liên từ xa đi đến, người mẹ liền chào hỏi thăm con, những người ở nơi đó nghe rồi liền nói với nhau: “cô gái này còn nhỏ sao lại có người con già”, Mục liên nghe rồi liền nói với mọi người: “vị này là người mẹ đã sanh ra tôi và đã nuôi dưỡng tôi”. Lúc đó Phật quán biết ý nhạo tùy miên giới tánh sai biệt của người mẹ xứng căn cơ nói bốn đế lý khiến bà được Kiến đế chứng quả Dự lưu. Chứng quả rồi bà bạch Phật: “Thế tôn đã làm lợi ích cho con, lợi ích này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đếu bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả”, liền nói kệ: “Nhờ oai lực Thế tôn, Đóng kín cửa đường ác, Đường ác nhiều trở ngại, Chỉ bày cửa Niết-bàn, Thế tôn trừ tội lỗi, Khiến sanh mắt trí huệ, Đến được nguồn trong sạch, Vượt qua bờ biển khổ, Thế tôn thầy người trời, Khéo trừ già bịnh chết, Trăm ngàn đời khó gặp, Nay gặp được chứng quả”. Nói kệ xong bạch Phật: “nay con xin quy y Tam bảo làm Ô-ba- tư-ca, nay con muốn cúng dường Phật và cụ thọ Mục liên”, Thế tôn im lặng nhận lời, bà liền dâng thức ăn cúng dường Phật và Mục liên, Phật thọ thực xong, nói pháp cho bà mẹ nghe, bảo Mục liên đi rửa bát xong rồi trở về bổn độ, Mục liên hỏi: “Thế tôn, dùng thần lực của ai để trở về bổn độ?”, Phật nói: “dùng thần lực của ta”, Phật vừa nói xong thì Phật và Mục liên đã ở trong rừng Thệ đa, Mục liên bạch Phật: “Thế tôn, thật là hi hữu, thần lực này có tên là gì?”, Phật nói: “đây là thần thông Tốc niệm”. Mục liên bạch Phật: “trước do con không hiểu cảnh giới của Phật sâu xa như vậy, nếu con đạt được cảnh giới này thì như trong mỗi hạt dầu mè, con đều giáo hóa hết khiến được đạo Vô thượng Chánh biến tri. Nay con tuy chứng quả A-la-hán nhưng vẫn không thể đạt được hạnh Bồ-đề này”. Lúc đó các Bí-sô ở rừng Thệ đa đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, Bí-sô Viên mãn đã gieo trồng nghiệp nhân gì mà mau chứng quả A-la-hán, lại do tạo nghiệp gì mà sanh trong nhà giàu sang, lại do tạo nghiệp gì mà phải thác sanh trong bụng người tớ gái?”, Phật bảo các Bí-sô: “Bí-sô Viên mãn đã tích tập các nghiệp, tư lương đắc đạo biến duyên như vậy, tuy ở trong luân hồi mà lại được giác ngộ, tự làm tự thọ, không phải mình tạp nghiệp mà địa giới chịu; cũng chẳng phải nước gió lửa chịu, mà chính mình tự chịu; cũng chẳng phải uẩn giới, lục nhập giới chịu, như bài kệ: “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba, Phật có đủ 10 hiệu Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng só, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn ở tại thành Bà-la-nê-tư. Lúc đó Viên mãn xuất gia trong giáo pháp của Phật đó, thông suốt ba tạng và giữ chức vụ coi ngó công việc của các Bí-sô. Thời gian sau đến phiên một vị A-la-hán quét dọn trong ngoài chùa, vị này vừa quét dọn xong thì gió thổi bay rác trở lại làm dơ đất, vị này suy nghó: “hãy đợi gió lặng rồi sẽ quét trở lại”. Không ngờ chưa kịp quét sạch lại thì Viên mãn thấy đất dơ cho là chưa quét nên nổi sân mắng: “đứa đầy tớ nào quét dọn ở đây?”, Vị A-la-hán nghe rồi liền suy nghó: “thầy ấy đang giận, mình nên im lặng, đợi nguôi giận rồi sẽ nói rõ”. Khi thấy Viên mãn đã nguôi giận, vị A-la-hán này đến nói với Viên mãn :“thầy có biết tôi là người thế nào không?”, đáp: “thầy xuất gia trong giáo pháp của Phật Ca-nhiếp-ba, tôi cũng vậy”, vị A-la-hán nói: “tuy tôi cùng xuất gia và cùng nghiệp xuất gia, nhưng đối với tôi việc nên làm đều đã làm xong và được giải thoát. Thầy vẫn còn bị ràng buộc, khẩu nghiệp bất thiện, hãy sám hối để tội được tiêu trừ”. Tam tạng Viên mãn nghe rồi liền sám hối, lỗi này đáng lẽ bị đọa địa ngục, nhờ sám hối nên được làm người nhưng vẫn phải từ bụng đứa tớ gái sanh ra đến nay đã 500 đời, đời này tuy mang thân sau cùng cũng vẫn từ thai của đứa tớ gái sanh ra. Do quá khứ tích tập thiện nghiệp nên được sanh trong nhà giàu sang, do siêng năng làm việc của tăng, đọc tụng có trí huệ hiểu rõ Uẩn, xứ, giới nhập nhân duyên, xứ phi xứ nên nay được xuất gia trong giáo pháp của ta, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán. Này các Bí-sô, phải biết quả báo tự làm tự thọ, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục trắng, tạo nghiệp đen trắng xen tạp thì cảm quả dị thục xen tạp. Cho nên các thầy hãy xả bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp đen trắng xen tạp, nên tu nghiệp thuần trắng”. Các Bí-sô nghe Phật dạy rồi liền tín thọ phụng hành. Lúc đó ở thành Vương xá có hai long vương một tên là Sơn, hai tên là Diệu, nhờ sức oai thần của hai long vương này nên 500 suối nước, 500 đầm nước trong và các ao hồ trong thành thường chảy không dứt, mưa thuận gió hòa, ngũ cốc tốt tươi. Khi Thế tôn điều phục được hai long vương Nan-đà và Ô-ba-nan-đà rồi, mỗi tháng vào những ngày mồng 8, rằm. 23 và cuối tháng, hai long vương này từ trong biển cả bay lên núi Diệu cao đến chỗ Phật cúng dường và nghe pháp. Lúc đó hai long vương Sơn và Diệu thấy hai long vương này cùng đến chỗ Phật cúng dường nên nói với nhau: “hai long vương này từ nơi xa xôi còn đến thành này thừa sự Thế tôn và nghe pháp, tại sao chúng ta ở tại thành này lại không đến kính lễ, chúng ta nên đến cúng dường Thế tôn”, nói rồi liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Thế tôn liền nói pháp yếu khiến cho hai long vương này quy y Tam bảo và thọ trì năm học xứ. Từ đó về sau thân rồng và của cải đều tăng thạnh, được tăng thạnh rồi hai rồng bàn với nhau: “chúng ta nên vào biển cả cư trú ở chỗ sâu rộng nhất”, bàn xong liền đến bạch Phật xin Phật thương xót chấp thuận cho việc vào biển cư trú, Phật nghe rồi liền nói: “vua Tần-tỳ-sa-la là quốc chủ, hai ngươi muốn đi thì nên báo cho Đại vương biết”, hai rồng nghe rồi liền từ tạ ra về, nói với nhau: “như lời Phật dạy thì hình như Phật không đồng ý, chúng ta nên nương ở chỗ cũ”. hai long vương này nếu ban đêm đến yết kiến Phật thì giữ nguyên hình trạng, nếu ban ngày đến thì hóa thân cư só. Thời gian sau vào một hôm giữa ban ngày hai long vương hóa thân cư só đến chỗ Phật nghe pháp, cùng lúc đó vua Tần-tỳ- sa-la cũng đến chỗ Phật. Vua ỷ vào dòng Sát-đế-lî quán đảnh nên cống cao ngã mạn, nếu muốn đến chỗ Phật thì ra lịnh tả hữu đến trước bảo mọi người rằng: nếu thấy nhà vua đến thì hãy đứng dậy cung kính. Ta hữu đến chỗ Phật truyền khẩu dụ, thấy có hai cư só bèn trở lại tâu với nhà vua, vua nghe rồi liền suy nghó: “hai cư só là người sống trong nước ta, thấy ta đến há không đứng dậy cung kính hay sao”, nghó rồi liền đến chỗ Phật. Lúc đó hai long vương thấy nhà vua đến liền hỏi Phật: “Thế tôn, chúng con nên kính pháp hay kính nhà vua?”, Phật nói: “chư Phật Thế tôn và A-la-hán đều tôn kính pháp”, liền nói ba bài kệ: “Như chư Phật quá khứ, Cho đến Phật vị lai, Hiện tại các Thế tôn Đã đoạn tất cả ưu, Đều cùng tôn kính pháp. Nói năng và đi đứng, Thường trong tất cả thời, Đều tôn trọng chánh pháp. Cho nên người cầu ích, Mong muốn được giàu vui, Nên phải tôn kính pháp, Thường nhớ lời Phật dạy.” Hai long vương nghe Phật dạy như vậy nên khi thấy nhà vua đến không đứng dậy kính lễ, vua liền suy nghó: “hai trưởng giả này là người trong nước ta, thấy ta đến mà không kính lễ”, nghó rồi liền nổi sân, khi đến đảnh lễ Phật, Phật biết tâm nhà vua đang sân nên nói qua việc khác mà không nói pháp, vua thấy vậy liền thỉnh Phật nói pháp, Phật nói kệ: “Nếu tâm không thanh tịnh, Trong lòng còn sân hận, Không thể hiểu lời Phật, Đã nói pháp vi diệu. Hàng phục tâm đấu tranh, Không có ý bất định, Và trừ tâm phẫn hại, Mới hiểu được pháp mầu”. Nhà vua nghe kệ rồi liền suy nghó: “chính do hai cư só này nên Thế tôn không nói pháp cho ta nghe”, nghó rồi liền đảnh lễ Phật ra về, sau đó ra lịnh cho tả hữu: “các ngươi đợi hai cư só ở bên Phật, khi họ cáo từ Phật ra về, các ngươi nên bảo họ rằng: Đại vương có dạy hai người phải mau ra khỏi nước, không nên ở trong đất nước của Đại vương nữa”. Tả hữu vâng lịnh ở lại đợi hai long vương và nói lại lời của nhà vua, hai long vương nghe rồi liền nói với nhau: “đây là điều ta hằng mong muốn, lời nhà vua nói thật hợp ý chúng ta”. Hai long vương liền dùng oai lực của rồng hóa ra dòng nước lũ, chảy qua các kênh ngòi khe suối rồi chảy vào sông, các sông lần lượt chảy ra biển, từ đó trở đi thân và tư tài của hai long vương càng tăng thạnh, quyến thuộc càng đông. Sau khi hai rồng ra đi, 500 suối nước đều khô cạn, trời hạn hán không mưa khiến cho ngũ cốc mất mùa, dân chúng lo buồn. Vua Tần-tỳ-sa-la thấy việc này rồi liền suy nghó: “trước đây trong thành Vương xá có hai long vương, nhờ oai lực của chúng… giống như đoạn văn trên, cho đến câu tại sao nay bỗng nhiên sông suối ao hồ đều cạn khô, trời hạn hán không mưa khiến cho ngũ cốc mất mùa. Phải chăng hai long vương này đã qua đời hoặc đã đi đến nước khác hoặc có kẻ chú yếm nhiếp giữ rồng hoặc là đã bị chim Kim súy điểu ăn thịt. Thế tôn là bậc Nhất thiết trí, ta nên đến hỏi Phật nguyên do”, nghó rồi nhà vua liền đến chỗ Phật đảnh lễ Phật rồi bạch hỏi như trên, Phật nói: “Đại vương nên biết, chẳng phải hai rồng kia đã qua đời… cho đến chẳng phải bị chim Kim súy điểu ăn thịt, mà chính là Đại vương đã xua đuổi chúng”. Vua nói: “con không nhớ là đã gặp lần nào huống chi là xua đuổi”, Phật liền nhắc cho vua nhớ: “lúc đó nhà vua đến chỗ ta đã gặp hai cư só đang ngồi bên ta nghe pháp, khi ra về nhà vua đã nói gì với sứ giả?”, vua nói: “con bảo sứ giả nói với họ là đừng ở trong nước của con nữa”, Phật nói: “hai cư só đó là hóa thân của hai long vương đến chỗ ta nghe pháp yếu”, vua liền hỏi: “hiện nay họ đã đi đâu?”, Phật nói: “họ đã ra biển cả”, vua nghe nói rồi mặt hiện vẻ buồn lo hỏi Phật: “Thế tôn, quốc giới của con có bị suy tổn hay không?”, Phật nói: “quốc giới của nhà vua chưa đến nỗi suy tổn, nhưng nhà vua nên sám tạ hai long vương kia”, vua nói: “họ ở trong biển cả con làm sao gặp để sám tạ?”, Phật nói: “mỗi tháng vào bốn ngày chay họ thường đến kính lễ ta, ngày ấy vua nên đến ta sẽ chỉ để nhà vua sám tạ họ”, vua hỏi: “khi sám tạ họ, con có lễ dưới chân họ không?”, Phật nói: “nhà vua chỉ cần duỗi tay phải ra nói với họ rằng: xin dung thứ cho tôi, xin đừng giận lời nói trước kia. Hai long vương nghe rôi sẽ tha thứ cho nhà vua”. Thời gian sau đến ngày Bảo sái đà, hai long vương đến chỗ Phật, vua Tần-tỳ-sa-la cũng đến, Thế tôn hiện tướng chỉ cho vua biết, vua liền như lời Phật dạy sám tạ Long vương và yêu cầu hai long vương trở lại, hai long vương nói: “chúng tôi đã ra biển, thân và tư tài của chúng tôi càng rộng lớn không thể trở lại trong đây ở như trước kia”, vua nói: “nếu như vậy thì nước tôi sẽ bị mất”, hai long vương nói: “nhà vua chớ lo lắng, vua nên xây hai Thần đường ở ngoài thành, cứ sáu tháng một lần đem các món cúng dường đến đó cúng dường, chúng tôi sẽ đến, tôi sẽ cho các quyến thuộc ở đó để ủng hộ quốc giới”. Nhà vua nghe rồi liền cho xây hai Thần đường, hai long vương cho quyến thuộc ở lại đó, tới ngày cúng dường mới đến thọ sự cúng dường. Thời gian sau, quyến thuộc của hai long vương sanh kiêu mạn, rồng dữ được dịp giáng mưa đá xuống, lúc đó trong thành có một Bà-la-môn thông thạo chú thuật trừ mưa đá, mỗi khi thấy sắp có mưa đá ông liền tác pháp trừ nên người trong thành đều phân chia hoa lợi đã thu được cho ông. Lúc đó ở nước Nam Thiên trúc cũng có một Bà-la-môn giỏi chú thuật trừ diệt mưa đá, ông nghe nói ở thành Ba-lợi-ca thuộc nước Bắc Thiên trúc có vị vua tên là Siêu quân dùng chánh pháp trị nước, trong thành có cung của Long vương Tôn-đà-la. Long vương này có oai lực lớn và mạnh mẽ nên ông muốn đi đến đó để hàng phục rồng này. Thầy chú thuật này khi đi đến thành Vương xá tới nhà của thầy chú thuật trước đây, thầy trên trời mây giăng như sắp giáng mưa đá xuống mà thầy chú thuật đó cứ đi tới đi lui, đi qua đi lại mãi nên hỏi vợ của ông thầy chú thuật đó: “vì sao chống cô cứ đi qua đi lại mãi thế?”, người vợ đó nói: “lần này mây giăng này rất thạnh, chồng tôi không dứt trừ nổi”, Thầy chú thuật khách nói: “nếu chồng cô không dứt trừ nổi thì tôi sẽ dứt trừ”, người vợ đó nói: “nếu được vậy thì tốt”. Thầy chú thuật khách liền lấy ít nước chú nguyện rồi rẩy lên hư không, mây liền tan. Lúc đó các Bà-la-môn cư só ở thành Vương xá sanh tâm hi hữu, đều đem tài vật đến biếu tặng, thầy chú thuật chỉ thầy chú thuật khách nói với mọi người: “lần này mây giăng rất thạnh, tôi không dứt trừ nổi, do thầy chú thuật khách này đã làm tan mây”, mọi người liền đưa tài vật biếu tặng và nói: “xin hãy ở lại đây, chúng tôi sẽ phân chia hoa lợi cho thầy”, thầy chú thuật khách nói: “theo ý của các vị”. Thầy chú thuật khách ở lại, sau đó lại tác pháp làm tan mây khiến cho mưa đá dứt trừ, các Bà-la-môn cư só thấy hết mưa đá liền suy nghó: “do phước đức của chúng ta nên mưa đá không rơi xuống nữa, chúng ta cần gì phải phân chia hoa lợi cho ông ta nữa”, nghó rồi liền không chia cho hoa lợi nữa, thầy chú thuật khách oán hận, thu chú pháp rồi bỏ đi nên sau đó lại có mưa đá. Mọi người đến tìm thầy chú thuật khách, thầy chú thuật trước nói: “mọi người không chia hoa lợi cho ông ta nữa nên đã bỏ đi rồi”, mọi người nói: “nếu ông ta trở lại thì hãy nói cho chúng tôi biết”, thầy chú thuật trước nhận lời. Thầy chú thuật khách đi dần tới biên giới thành Thắng quân, đến chỗ nhà vua chúc vua được trường thọ rồi tâu rằng: “Đại vương, trong nước của vua có Long vương tên là Tôn-đà-la, trong cung rồng có một loại thuốc nếu uông vào sẽ tăng thêm sức mạnh, xin vua hãy chỉ cng rông cho thần, nếu lấy được thuốc ấy, thần sẽ chia cho Đại vương”, vua nói: “này Bà- la-môn, rồng ấy rất hung dữ, chớ có xúc phạm nó, nó sẽ làm hại ông”, Thầy chú thuật khách nói: “tôi có chú lực, cho dù khắp châu Thiệm bộ này đều là rồng Tôn-đà-la tôi vẫn điều phục được, huống chi chỉ có 1 rồng Tôn-đà-la. Đại vương, trong nước vua có phạm nhân nào đáng tội chết không ?”, đáp có, Thầy chú thuật khách nói: “xin hãy cho người ấy dẫn tôi đến cung rồng chỉ chỗ rồng ở”, vua Thắng quân liền cho gọi tử tội đền và bảo dẫn Thầy chú thuật khách đến cung rồng chỉ chỗ rồng ở. Đến nơi, Thầy chú thuật khách liền lẻn vào trong cung rồng lấy thuốc được rồi vội mang về chỗ nhà vua, chia bớt thuốc cho vua rồi trở về chỗ ỏ cũ trong thành Vương xá, thầy chú thuật trước kia thấy rồi liền báo cho mọi người trong thành biết, họ liền mang tài vật đến biếu và ân cần yêu cầu ông ở lại trừ mưa đá, thấy mọi người ân cần lưi lại nên ông nhận lời. Thường tình của con người là thích thạnh bỏ suy, hễ giàu có thì sanh kiếu ngạo buông lung, lúc đó Thầy chú thuật khách cưới 1 cô gái cùng dòng tộc làm vợ, không bao lâu sau sanh một con trai đặt tên là Tiểu sơn, sau đó lại sanh thêm một gái đặt tên là Điện quang. Các Bà- la-môn gọi Thầy chú thuật khách là Tôn-đà-la, gọi vợ của ông ta là Chấn bạc, gọi vợ của Tiểu sơn là Thắng luân não. Lúc đó Thầy chú thuật khách suy nghó: “ta cứ tác pháp trừ mưa đá mãi như thế rất là mệt nhọc, ta nên tác pháp làm cho dứt hẳn, không cho sanh khởi nữa”, nghó rồi liền tác pháp làm cho mưa đá vónh viễn không khởi nữa. Mọi người trong thành thấy vậy liền nói với nhau: “do phước đức của chúng ta nên mưa đá không rơi xuống nữa, chúng ta cần gì phải phân chia hoa lợi cho ông ta nữa”, bàn bạc xong, họ liền ngưng việc chia hoa lợi cho Thầy chú thuật khách nữa. Thầy chú thuật khách vốn xẻn chú pháp nên không truyền dạy cho ai kể cả con mình, lại do đắm trước lạc thú, không siêng năng luyện tập chú thuật như trước kia, thuốc lấy được từ trong cung rồng bỏ đó không xem nên đều hư hoại, thời gian sau muốn dùng cũng không dùng được nữa, muốn tác pháp chú thuật cũng không nhớ cách tác pháp. Thầy chú thuật khách ôm lòng oán dân mọi người trong thành nên tìm đến các bậc thầy dị học hỏi rằng: “có cách gì để được mọi sự mong cầu đều như ý không ?”, các vị ấy hoặc nói nhảy vào lửa, hoặc bảo uống thuốc độc hoặc bảo nhảy từ trên cao xuống … đều là bảo xả bỏ mạng sống chớ không chỉ cách. Thầy chú thuật khách tuần tự đến trong Trúc lâm hỏi các Bí-sô như trên, Bí-sô bảo nên xuất gia, hỏi xuất gia phải làm việc gì, đáp là suốt đời tu phạm hạnh, thiền tư đọc tụng… để diệt trừ phiền não… như thế thì ở đời vị lai mọi mong cầu sẽ được như ý. Thầy chú thuật khách nói: “việc làm này khó quá”, Bí-sô nói: “nếu không làm được thì nên cúng dướng thức ăn thức uống cho các trưởng lão Bí-sô”, Thầy chú thuật khách nói: “việc này cũng khó làm, xin hãy chỉ cách khác”, Bí-sô nói: “nếu vậy, hãy thỉnh bốn vị Đại Thanh văn cúng dường thức ăn thức uống rồi phát nguyện sẽ được như ý, vì sao, vì bốn đại Thanh văn giống như cái bình quý, ai cầu gì cũng được như ý”, Thầy chú thuật khách nói: “việc này tôi làm được”, nói rồi liền thỉnh bốn vị đại Thanh văn cúng dường rồi phát nguyện: “nguyện nhờ căn lành cúng dường này khiến cho Long vương Tôn-đà-la biến mất khỏi cung rồng, con sẽ sanh trong cung rống ấy để làm tổn hại dân chúng trong thành Vương xá”. Lúc đó người vợ hỏi người chồâng đã phát nguyện gì, sau khi nghe biết rồi nói rằng: “tôi cũng nguyện theo làm vợ ông”, người con trai nói với cha: “con cũng nguyện theo làm con của cha”, người con gái nói: “con cũng nguyện theo làm con gái của cha”, vợ của người con trai nói với chồng: “em cũng nguyện theo làm vợ của anh”. Sau khi cùng phát nguyện xong, cả nhà đều đi ngủ, đêm đó trời bỗng giáng xuống một trận mưa to làm xói hỏng chân tường đồng loạt sụp đổ xuống đè chết hết cả nhà Thầy chú thuật khách. Do nguyện lực nên họ sanh vào cung rồng xua đuổi long vương Tôn-đà-la rồi sống ở đấy với sáu vạn quyến thuộc của mình. Thầy chú thuật khách nay được gọi là Long vương Tôn-đà-la, vợ là Chân bạc, con trai là Tiểu sơn, con gái là Điện quang, vợ của tiểu sơn là Thăng luân. Thường pháp của rồng là khi sanh ra liền quán biết là do nguyện lực nên sanh trong cung rồng, lại quán biết là muốn làm tổn hại dân chúng trong thành Vương xá nên mới sanh trong cung rồng. Quán biết rồi liền suy nghó: “đợi lúa mọc tươi tốt rồi tàn phá làm cho họ khổ sở hay lá lúa chưa mọc mà tàn phá thì họ khổ, phải đợi lúa mọc xanh tốt rồi tàn phá thì họ sẽ khổ sở hơn”, nghó rồi liền gọi các quyến thuộc đến nước Ma-kiệt-đà giáng mưa lành khiến cho lúa mọc tươi tốt. Đợi đến khi lúa đã mọc xanh tốt, Long vương Tôn-đà-la cùng sáu vạn quyến thuộc giáng xuống mưa đá phá hoại mùa màng, sau đó giáng thêm một trận mứa lớn làm cho trôi hết gốc lúa và thân lúa không còn sót. Lúc đó người trong nước Ma-kiệt-đà nói với nhau: “rồng này cho đến cuống lúa cũng không để sót”, nhân đây Long vương Tôn-đà-la được gọi là Long vương Vô đạo cán.  <卷>QUYỂN 5 Nội nhiếp tụng: Vương thành Na-lan-đà, BA-tra, Trúc trượng lâm, Căng già, Thắng phong sơn, Khiếu thanh, Phệ-xá-ly. Phật ở trong Trúc lâm bên ao Yết-lan-đạc-ca thành Vương xá, lúc đó Thái tử Vị sanh oán bị Đề-bà-đạt-đa kích động đủ cách, nghe theo lời liền giết hại vua cha là người thuận chánh pháp để lên ngôi vua. Vị vua này cũng làm các việc gây tổn hại cho Phật như thả voi lớn tên Hộ tài, ngựa dữ và chó dữ để hại Phật. Nghe việc này rồi bà mẹ là Vy-đề- hi bảo con: “con chớ làm việc khinh hủy Thế tôn, Thế tôn thường sợ chúng sanh làm việc khinh hủy, e Phật rời khỏi thành Vương xá thì đất nước này sẽ mất lợi ích lớn, vì nhờ oai lực của Thế tôn nên dân chúng ở nước An-già và Ma-kiệt-đà được lợi hỉ”, vua nghe rồi liền tức giận nói với mẹ: “những nước khác không có Như lai thì đều bị tiêu diệt hết hay sao”, bà mẹ đủ lời khuyên can nhưng vua Vị sanh oán không hồi tâm. Lúc đó Thế tôn suy nghó: “Thái tử Vị sanh oán gây vô lượng tội, ta phải làm cho người này trụ nơi Vô căn tín, nhưng nay chưa đúng thời, ta nên đến thành Thất-la-phiệt”, nghó rồi Phật liền cùng chúng Thanh văn du hành đến thành Thất-la-phiệt trụ ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ đa. Các vua nước lân bang nghe tin vua Vị sanh oán làm việc khinh hủy Thế tôn nên Thế tôn đã rời thành Vương xá đi đến thành Thất-la-phiệt liền suy nghó: “vua nước ấy đã giết hại vua cha là người thuận chánh pháp, vậy mà chưa biết đủ, nay lại khinh hủy Thế tôn là bậc đáng được trời người cúng dường, các nước chúng ta nên họp nhau lại thảo phạt tước đoạt vương vị của vua ấy”, nghó rồi các vua lần lượt sai sứ giả đến thông báo để cùng chuẩn bị giáp trụ, chỉnh trang bốn binh: tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh tiến đánh thành Vương xá. Lúc đó Long vương Vô đạo cán giáng xuống một trận mưa đá tổn lại mùa màng, làm cho 500 sông suối đều khô cạn, trời hạn hán khiến cho dân chúng đói khát không an ổn. Vua Vị sanh oán trong lòng đau khổ, phi nhân được dịp gây ra các bịnh dịch khiến người bị bịnh dịch chết rất nhiều, xe tang nối nhau chở xác chết ra khỏi thành, vua bị trăm thứ khổ não bức bách nên ngồi chống cằm rầu ró, bà mẹ Vy-đề-hi thấy vậy liền bảo con: “ta đã bảo con không nên khinh hủy Thế tôn, Phật là bậc Vô sở úy, nhưng nếu bị khinh hủy thì sẽ rời khỏi thành Vương xá. Phật mà bỏ đi thì trong nước sẽ hiện việc chẳng lành, chính là những việc đang xảy ra”, vua hỏi bà mẹ: “vậy bây giờ con phải làm sao?”, bà mẹ nói: “con nên đến sám hối Thế tôn”, vua nói: “con thật sự không dám đến gặp Thế tôn, chắc là Phật đang giận trách”, bà mẹ nói: “con há không nghe: đối với người dùng Chiên đàn hay người cầm dao búa, Phật đều không sanh niệm khác. Nếu có người với tâm tịnh tín dùng Chiên đàn thoa, Như lai cũng không khởi tâm hỉ đối với người ấy. Nếu có người với tâm sân hận cầm dao đến làm hại, Như lai cũng không khởi tâm sân đối với người ấy”. Vua nghe rồi liền bảo vị đại thần: “khanh hãy mau đến chỗ Phật vì Ta đảnh lễ Phật và thăm hỏi Phật có được khỏe mạnh an lạc không; sau đó bạch Phật rằng: nếu con có tội thì cha cũng không chấp, cúi xin Thế tôn thương xót trở lại thành Vương xá , nếu Phật không trở lại thì đất nước sẽ diệt vong”, vị đại thần tuân lịnh vua đi đến thành Thất-la-phiệt tới chỗ Phật đảnh lễ Phật rồi bạch lại những lời vua Vị sanh oán đã dặn, Phật im lặng nhận lời, vị đại thần thấy Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật rồi ra về. Sau đó Phật cùng các Bí-sô rời thành Thất-la-phiệt tuần tự du hành đến nước Ma-kiệt-đà, do oai lực của Phật, các vị thần phun nước tám công đức làm đầy ao suối, giáng xuống mưa ngọt và xua đuổi các bịnh dịch. Vua các nước lân bang cũng rút binh trở về, dân chúng buôn bán trở lại, các thương nhơn nước ngoài cũng đến giao dịch mua bán trở lại, trong nước thái bình nên dân chúng ở khắp đường phố đều ca ngợi oai đức của Phật, các ngoại đạo cũng im lặng khuất phục sanh tâm hoan hỉ. Lúc đó vua Vị sanh oán hay tin Phật đã vào quốc giới vui mừng ra lịnh các đại thần: “ở trên các đường phố cách Vương thành hai dặm rưỡi nên cho quét dọn sạch sẽ, rưới nước thơm Chiên đàn và trang hoàng đẹp đẽ; trong thành Vương xá cho đốt hương thơm và rải hoa để nghinh đón Phật”, các đại thần tuân lịnh làm theo lời vua, nhà vua đích thân thống lónh bốn binh ra đón Phật. Khi Phật sắp bước vào trong thành, chân phải vừa đạp lên ngưỡng cửa thành thì mặt đất chấn động sáu cách, chư thiên rải hoa và thiên y cúng dường Phật. Khi Phật vào trong thành, các tướng kỳ lạ hiện ra như sau: các đường nhỏ hẹp bỗng rộng lớn ra, các cây nhỏ bỗng nhiên cao lớn, voi ngựa… các laòi chim đều cất tiêng kêu vui mừng, các loại khí vật tự phát tiếng kêu, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được, người không đủ các căn liền được đầy đủ, người đang say mê đều được tỉnh, người trúng độc đều được khỏe mạnh lại, người oán thù nhau đều sanh tâm từ bi, người mang thai sanh con không thấy đau đớn, người bị giam cầm đều được giải thoát, người nghèo thiếu được của cải. Một Ô-ba-sách-ca thấy những việc này rồi liền nói kệ: “Thế tôn đến nước nào, Nước ấy không còn sợ, Đói khát và quân địch, Mưa gió được điều hòa, Dân chúng đều tu phước, An lạc không lo buồn, Trăm ngàn việc kỳ lạ, Đều thành tựu nơi đây”. Lúc đó Phật an ủi đại chúng trong thành Vương xá, không ai là không được lợi ích rồi đến Trúc lâm, vua Vị sanh oán đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi liền im lặng. Vua nghe pháp rồi hoan hỉ tín thọ, chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và chúng Tăng thương xót thọ con thỉnh ba tháng cúng dường tứ sự đầy đủ”, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời nhà vua đảnh lễ Phật ra về. Về đến trong cung nhà vua liền ra lịnh lo liệu mọi thứ cúng dường cho Phật và Tăng trong ba tháng không để thiếu thốn. Các thiên thần thấy vậy liền xua đuổi tất cả tai dịch qua đến thành Quảng nghiêm khiến cho dân chúng trong thành này đều mắc bịnh dịch chết rất nhiều… giống như ở thành Vương xá trước đây. Lúc đó trong thành Quảng nghiêm có một Bà-la-môn tên là Đô-mạt-la nằm mông nghe thấy Thiện thần nói kệ: “Thế tôn Điều ngự sư, Tối tôn của trời người, Nếu đi đến thành này, Thì tai hại tiêu tan.” Sáng hôm sau Đô-mạt-la liền đem việc trong mộng kể lại cho các cư só, các Lật-cô-tỳ trong thành, mọi người nghe rồi nói với nhau: “nên làm cách nào và sai người nào đi thỉnh Phật đến trong thành này an cư ba tháng, chúng ta cúng dường cầu cho tai hại tiêu tan”, nói rồi liền bảo Đô-mạt-la: “ông hãy đi thỉnh Thế tôn, ngoài ông ra không ai có thể làm được việc này”, Đô-mạt-la suy nghó: “ta đến chỗ Phật đảnh lễ rồi thăm hõi Phật có được ít bịnh, ít não, khỏe mạnh và an lạc không. Các cư só ở thành Quảng nghiêm sai con đến thỉnh Phật, cúi xin Thế tôn thương xót dân chúng thành Quảng nghiêm, nếu Thế tôn không đến thì nhân dân trong thành không bao lâu nữa sẽ diệt vong”, nghó rồi liền nói: “vua Vị sanh oán rất hiếu sát, tánh hung bạo đã giết hại nhiều người, nếu tôi đến nước đó thỉnh Phật ắt sẽ bị vua giết”, các cư só nói kệ: “Hai nước là oán địch, Không bắt giữ sứ giả, Huống chi sứ gặp Phật, Mà giết hại hay sao?”. Lúc đó Đô-mạt-la lám pháp kiết tường rồi đi đến thành Vương xá, nghỉ ngơi xong đến chỗ Phật đảnh lễ Phật rồi bạch Phật: “các cư só thành Phệ-xá-ly đảnh lễ Thế tôn và hỏi thăm Thế tôn có được ít bịnh, ít não, được an lạc không?”, Phật hỏi: “dân chúng trong thành có được an ổn không?”, đáp: “cúi xin Thế tôn thương xót dân chúng thành Quảng nghiêm, nếu Thế tôn không đến thì nhân dân trong thành không bao lâu nữa sẽ diệt vong, thành chỉ còn cái tên rỗng không còn ai ở”, Thế tôn nói: “Ta và chúng Thanh văn đã thọ vua thỉnh ở đây an cư ba tháng cúng dường tứ sự, ông hãy gặp vua tâu rõ việc này, nếu vua chấp thuận thì ta sẽ đến trong thành đó”. Đô-mạt-la nghe Phật nói rồi liền sai sứ trở về nước tâu cho vua rõ, vua nước đó nghe rồi liền bảo sứ giả: hãy bảo Đô-mạt-la đến chỗ vua Vị sanh oán thay mặt ta thăm hỏi vua nước ấy có được ít bịnh, ít não và an vui không. Sau đó tâu vua nước ấy rằng: xin Đại vương đồng ý cho Thế tôn đi đến thành Phệ-xá-ly, nếu vua không đồng ý cho Thế tôn đến thì nhân dân trong thành Phệ-xá-ly không bao lâu nữa sẽ diệt vong, thành chỉ còn cái tên rỗng không còn ai ở”. Đô- mạt-la nghe rồi liền suy nghó: “ta nên gặp Đại vương trước hay gặp đại thần trước, xưa có câu: không nên gặp vua trước, hãy gặp đại thần trước vì nếu vua không đồng ý thì đại thần có thể nói giúp”, nghó rồi liền đến chỗ đại thần trước, đại thần hỏi đến có việc gì, liền đáp: “tôi đến để thỉnh Như lai, nhưng phải được vua đồng ý, xin ông tâu giúp”, đại thần nhận lời, Đô-mạt-la liền đến chỗ vua tâu rằng: “dân chúng thành Phệ- xá-ly thăm hỏi Đại vương có được ít bịnh, ít não và an vui không?”, vua hỏi: “dân chúng nước ấy có an ổn không?”, đáp: “cúi xin Đại vương đồng ý cho Thế tôn đi đến thành Phệ-xá-ly, vì nếu Thế tôn không đến thì nhân dân trong thành không bao lâu nữa sẽ diệt vong, thành chỉ còn cái tên rỗng không còn ai ở”, vua nói: “trước đây ta thường suy nghó: mong cho thành Phệ-xá-ly sớm bị tiêu diệt”. Đô-mạt-la nghe vua nói rồi liền lui ra, lúc đó đại thần tâu vua: “Đại vương, có bao giờ Thế tôn bỏ mặc một hữu tình nào chịu khổ không?”, vua nói không có, đại thần nói: “nếu không có mà Đại vương không đồng ý tức là Đại vương đã không cung kính Thế tôn. Dù Đại vương có đồng ý hay không, vì lợi ích cho chúng sanh Thế tôn cũng sẽ đi đến thành Phệ-xá-ly”, vua nói: “ý của Phật không phải là điều mà ta biết được, khanh hãy gọi Đô-mạt-la đến đây”, đại thần vâng lịnh gọi đến, vua bảo Đô-mạt-la: “ngươi hãy lập ước: nếu ngươi có thể cung kính cúng dường Thế tôn như ta thì ta sẽ đồng ý lời cầu xin của ngươi”. Đô-mạt-la nghe vua nói rồi liền sai sứ về nước báo lại, dân chúng trong thành nói với sứ giả: “vua nước đó chỉ có một mình còn có thể cúng dường, chúng ta đông người há không thể cúng dường đầy đủ hay sao?”, Đô-mạt-la nghe rồi liền tâu lại với vua Vị sanh oán. Lúc đó vua Vị sanh oán đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: “Thế tôn, con nguyện trọn đời còn lại cúng dường Thế tôn và chúng Thanh văn, nhưng vì lợi ích các hữu tình nên đồng ý để Thế tôn đến nước kia, cúi xin Thế tôn thọ con thỉnh thực một ngày”, Phật im lặng nhận lời, vua biết Phật đã nhận lời liền trở về cung ra lịnh sửa soạn các món ăn thanh tịnh cúng dường đầy đủ, sáng sớm sai sứ đến bạch Phật thời đáo. Phật sau khi thọ thực xong, vua tự tay cầm bình vàng rót nước cho Phật rồi bạch rằng: “cúi xin Thế tôn điều phục Dược xoa và rồng dữ, Long vương Vô đạo cán này đã làm tổn hại nước con trong một thời gian dài nên không oán mà thành oán, không thù mà thành thù, không nghịch mà thành nghịch. Lúa mạ chưa mọc và đã mọc đều bị phá hoại hết”, Phật im lặng nhận lời, chú nguyện cho vua rồi trở về trú xứ bảo A-nan-đà: “thầy hãy cùng ta đi đến ấp Ba-traly”. Lúc đó Phật cùng A-nan-đà du hành đến ấp Ba-traly trụ ở bên tháp, dân chúng trong làng nghe tin đều đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật nói: “các vị nên biết, người phóng dật có năm lỗi: Là có Bà-la-môn, cư só do phóng dật nên tranh chấp lẫn nhau, đưa đến quan phân xử nên của cải đều phân tán. Là lại có Bà-la-môn, cư só do phóng dật nên tiếng xấu lan khắp nơi. Là lại có Bà-la-môn, cư só do phóng dật nên cống cao ngã mạn, khi đến trong chúng Sát-đế-lî, Bà-la-môn, cư só, sa môn không phải là thượng thủ nên lo sợ luồn cúi người. Là lại có Bà-la-môn, cư só do phóng dật tranh chấp nên khi sắp qua đời, tâm sanh hối lỗi. Là lại có Bà-la-môn, cư só thường phóng dật, do phóng dật tự cao nên sau khi chết đọa trong ác đạo, sanh trong địa ngục. Ngược lại, người không phóng dật có 5 lợi ích: Là có Bà-la-môn, cư só do không phóng dật, không tranh chấp lẫn nhau, nên của cải không mất mát. Là lại có Bà-la-môn, cư só do không phóng dật nên tiếng tốt lan khắp nơi. Là lại có Bà-la-môn, cư só do không phóng dật nên không cống cao ngã mạn, khi đến trong chúng Sát-đế-lî, Bà-la-môn, cư só, sa môn là bậc thượng thủ nên không lo sợ, vui vẻ du hành. Là lại có Bà-la-môn, cư só do không phóng dật không tranh chấp nên khi sắp qua đời, không có hối lỗi. Là lại có Bà-la-môn, cư só, do không phóng dật nên sau khi chết được sanh lên trời. Cho nên các vị không nên phóng dật”. Các Bà-la-môn, cư só này nghe pháp rồi liền chắp tay cung kính bạch Phật: “cúi xin Như lai thương xót, đêm nay nghỉ lại trong quán xá của chúng con”, Thế tôn im lặng nhận lời. Lúc đó Bà-la-môn Hành vũ là đại thần của nước Ma-kiệt-đà nghe tin Thế tôn đến làng Ba-traly trụ ở bên tháp, lại nghe dân chúng trong làng cúng dường Thế tôn, ông liền đi xe ngựa màu trắng, mang theo bình báu, gậy vàng và 500 đồng tử đến yết kiến Thế tôn. Đến nơi, ông xuống xe đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho Bà-la-môn được lợi hỉ rồi liền im lặng. Bà-la-môn chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và chúng Bí-sô thọ con thỉnh thực vào ngày mai ở tại nhà con”, Phật im lặng nhận lời. Sau đó Phật vào phòng ngồi kiết già quán thấy thiên thần Đại oai lực dùng dây đo ranh giới muốn xây cất đại thành, xế chiều Thế tôn xuất định đi đến chỗ các Bí-sô hỏi A-nan-đà: “thầy không nghe làng Ba-traly muốn xây cất đại thành hay sao?”, đáp: “con có nghe Bà-la-môn Hành vũ cùng chư thiên trời Tam thập tam muốn xây cất đại thành”, Phật nói: “Ta ở trong thất nhập định, dùng thiên nhãn thanh tịnh quán thấy ở làng Ba-traly có thiên thần Đại oai đức và các thiên thần nhỏ cùng dân chúng đều sống thuận theo giáo pháp của thiên thần. Do có các thiên thần sống ở đó nên biết thành này sẽ là thành tối thượng, không bị nước ngoài xâm lấn, cũng không bị nước lửa làm hại”. Lúc đó Bà-la-môn Hành vũ trở về đến nhà lo sửa soạn các món cúng dường, sáng sơm sai sứ đến chỗ Phật bạch thời đáo… Sau khi Phật thọ thực xong, Bà-la-môn Hành vũ cầm bình vàng rót nước và phát nguyện: “con nguyện đem công đức cúng dường Phật và Thánh chúng hôm nay, hồi hướng cho các thiên thần sống ở làng Ba-traly được an lạc lâu dài”. Phật liền nói kệ: “Người nào có lòng tin, Cúng dường cho chư thiên, Vâng lời Đại sư dạy, Là được Phật ngợi khen. Nếu ở nơi chốn nào, Có người trí sinh sống, Cúng dường người trì giới, Và nói lời chú nguyện, Nên kính bậc đáng kính, Nên cúng bậc đáng cúng, Chư thiên hộ như con, Thường được sống an vui”. Thế tôn nói diệu pháp cho Bà-la-môn nghe được lợi hỉ rồi trở về bổn xứ. Lúc đó Bà-la-môn đã làm xong những việc nên làm liền chánh niệm tư duy: “ở chỗ Thế tôn rời khỏi làng Ba-traly, ta sẽ xây một cái cổng cao gọi là cổng Kiều-đáp-ma; con đường mà Thế tôn đi đến sông Căng già, ta sẽ tu sửa lại gọi là đường Kiều-đáp-ma”. Thế tôn biết được tâm niệm của Bà-la-môn nên đi đường giữa ở phía bắc làng Ba-traly để ra khỏi làng đi đến sông Căng già. Lúc đó vua Vị sanh oán suy nghó: “ta phải mang lọng đến cúng dường Thế tôn”, nghó rồi liền mang lọng đến, có tất cả là 500 cây lọng che cho Thế tôn. Cùng lúc đó các Lật-cô-tỳ ở thành Quảng nghiêm suy nghó: “vua Vị sanh oán mang lọng đến cúng dường Thế tôn, chúng ta cũng nên cúng dường”, nghó rồi liền mang 500 cây lọng đến cùng dường Thế tôn. Lúc đó các Long vương cũng suy nghó: “vua và các Lật-cô-tỳ đã cúng dường, ta đọa trong đường ác há không cúng dường Thế tôn hay sao?”, nghó rồi liền mang 500 cây lọng đến cúng dường Thế tôn. Lúc đó chư thiên cõi trời Tứ thiên vương cũng suy nghó: “những người ấy không thấy rõ nhân quả báo ứng còn tự cúng dường, chúng ta biết rõ nhân quả há lại không cúng dường hay sao?”, nghó rồi liền mang 500 cây lọng đến cúng dường Thế tôn. Lúc đó chư thiên trời Tam thập tam cũng suy nghó: “các vị trời đó đều đã cúng dường, ta há không cùng dường hay sao?”, nghó rồi liền mang 500 cây lọng đến cúng dường. Thế tôn thấy rồi liền suy nghó: “ta phải tạo nhân duyên thù thắng cho trời người khiến sanh lòng tin”, nghó rồi liền hiện thần lực khiến cho mỗi người trong chúng hội đều nghó rằng chỉ có ta cầm lọng che cho Phật. Hồi Phật vừa chứng đạo quả Chánh giác cũng có 2500 vị trời người cầm lọng che cho Phật. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn đã tạo nghiệp gì mà khi chứng Bồ-đề có đến 2500 vị thiên cầm lọng che cho Phật?”, Phật nói: “các thầy nên biết, quá khư Ta đã tích tập tư lương làm các nghiệp lành… nên nay tự thân thọ quả. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa có vua Chuyển luân tên là Đại thiện hiện, đầy đủ bốn quân lực có thể tồi phục quân địch được thắng lợi. Vua dùng chánh pháp cai trị làm Pháp vương, vua có đủ bảy báu, chỉ thiếu một người con nữa là đủ số 1000, vua thường dẫn những người con này đi theo bên mình. Lúc đó các phu nhân nói với nhau: “chúng ta sanh con rồi đều phải xa cách nó vì tánh vua thường hay dẫn các con đi theo bên mình. Chúng ta cùng lập ước nếu ai mang thai không được báo cho vua biết”. Thời gian sau, có một phu nhân mang thai, các phu nhân đem giấu ở nơi kín đáo không cho vua thấy. Đủ ngày tháng phu nhân đó sanh một bé trai dung mạo đoan nghiêm ai cũng yêu mến, da màu hoàng kim, tay dài quá gối, trán cao mũi thẳng…, đứa bé này từ khi sanh ra cho đến trưởng thành các phu nhân đều yêu thương như con ruột của mình. Thời gian sau, người con trai này cùng các phu nhân ở trên lầu cao thấy nhà vua với tám vạn quốc vương vây quanh và các người con hộ vệ hai bên, có bảy báu dẫn đường, oai quang ngời sáng liền hỏi các bà mẹ: “người đó là ai”, bà mẹ đáp: “vị vua đó là cha của con”, lại hỏi: “sau khi vua cha băng hà, con có được kế vị không?”, đáp: “nếu kể cả con thì nhà vua đã có đủ một ngàn người con, sau khi vua cha băng hà người con lớn nhất sẽ nối ngôi, con là con út không được kế vị”. Người con nghe rồi liền nói: “nếu sau khi vua cha băng hà, con là con út không được nối ngôi thì xin các mẹ cho con được xuất gia, với lòng tin chân chánh sau khi xuất gia con sẽ tinh tấn tu phạm hạnh”, các bà mẹ nói: “chúng ta đều yêu mến con, con chớ sanh tâm này”, người con nói: “con đã lập chí, xin các mẹ cho con xuất gia”. Thấy con quyết chí như vậy, các bà mẹ đành phải đồng ý, nói rằng: “con hãy cam kết với chúng ta là nếu con chứng đạo hãy trở về cho chúng ta biết”, người con nói: “xin vâng lời mẹ”. Người con này từ giả các bà mẹ đi đến chỗ tịch tónh, ngay nơi 37 phẩm pháp Bồ-đề phần, không thầy tự ngộ chứng quả Độc giác. Chứng quả rồi liền nhớ đến lời đã hứa với các bà mẹ, vì muốn làm lợi ích cho các bà mẹ nên vị Độc giác liền bay lên hư không đến trước các bà mẹ, thân hiện thần biến, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… rồi trở xuống đất. Phàm phu hễ thấy được thần thông, tâm ý mau hồi chuyển như cây đại thọ bị ngã xuống đất, các bà mẹ này liền đảnh lễ và nói: “Thánh giả đã chứng quả được thần thông như vậy, nay Thánh giả cần thức ăn, chúng tôi cầu phước, cúi xin hãy ở trong khu vườn này thọ chúng tôi cúng dường”, vị Độc giác im lặng nhận lời. Từ đó hằng ngày các bà mẹ lần lượt cúng dường thước ăn thức uống cho vị Độc giác. Cho đến một ngày vị Độc giác suy nghó: “đối với thân huyển hóa này, việc cần nên làm ta đều đã làm xong, nay ta nên nhập Vô dư Niết-bàn”, nghó rồi liền như ngỗng chúa em liền bay lên hư không, thân hiện thần biến, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… hiện thần biến xong liền nhập Vô dư Niết-bàn. Lúc đó các bà mẹ chất củi thơm hỏa thiêu, dùng sữa rưới tắt, thu lấy xá lợi để trong bình vàng rồi xây tháp thờ ở trong vườn, dùng vòng xuyến và các đồ trang sức để trang nghiêm tháp, bên trên tháp treo cờ phướn và lọng báu. Thời gian sau vào một mùa xuân, trong vườn hoa tỏa hương thơm ngát, chim hót líu lo, vua cùng các phu nhân và thể nữ vào trong vườn dạo chơi, khi trông thấy tháp vua liền hỏi người giữ vườn là tháp của ai, liền đáp không biết, vua liền hỏi các phu nhân nguồn gốc của tháp, các phu nhân lo sợ tâu vua: “xin Đại vương ban cho vô úy mới dám nói”, vua nói: “ta ban cho vô úy, hãy nói cho ta nghe”. Các phu nhơn liền đem sự việc trước kia kể lại, vua nghe rồi liền nói: “các nàng thật sai lầm, người con ấy đã ưa thích ngôi vua vì sao không báo cho Trẫm biết để Trẫm lập lên làm vua thọ quán đảnh. Nó là người có oai đức, tuy đã nhập Niết-bàn nhưng ta cũng đem mũ lọng bằng lụa năm sắc đặt trên tháp”. Vì yêu mến người con này nên nhà vua đã đặt những vật ấy lên trên tháp. Này các Bí-sô, vua Thiện hiện thuở xưa chính là thân ta, xưa kia ta đem lọng cúng dường tháp của vị Độc giác, nhờ phước nghiệp này nên ta đã ở ngôi Chuyển luân vương trải qua 2500 lần. Lại nhờ nghiệp này ngày nay khi chứng đạo quả Vô thượng Chánh giác chư thiên và người đã cầm 2500 trăm cây lọng che cho Ta. Nếu ta không chứng quả thù thắng thì sẽ còn ở ngôi Chuyển luân vương thêm 2500 trăm lần nữa. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng… các thầy nên học như thế”. Nghe Phật dạy rồi, các Bí-sô đều hoan hỉ phụng hành.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 6 Lúc đó vua Vị sanh oán nước Ma-kiệt-đà và các Lật-cô-tỳ ở thành Quảng nghiêm đều tạo cầu thuyền cho Phật qua sông, các rồng suy nghó: “ta đọa trong nẻo ác nên tu phước nghiệp bằng cách ngẩng đầu lên nối nhau làm cầu cho Phật qua sông Căng già”, nghó rồi liền cùng ngẩng đầu lên nôi nhau làm cầu rồng. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “trên ba chiếc cầu này, các thầy muốn đi qua cầu nào tùy ý. Ta cùng A-nan- đà sẽ đi trên cầu rồng”, một Ô-ba-sách-ca thấy rồi nói kệ: “Người trí vượt biển cả, Nương thuyền không làm cầu, Người ngu thường làm cầu, Nương thuyền lớn qua sông. Thế tôn đã qua sông, Bà-la-môn trên bờ, Thanh văn nương bè đi, Bí-sô muốn tắm rửa, Chỗ nào cũng có nước, Cần gì phải tìm giếng, Đoạn trừ gốc tham Ái, Còn cầu mong gì nữa”. Qua sông Căng già rồi từ xa thấy cao nguyên, Phật bảo A-nan-đà: “thầy có thấy cao nguyên không, muốn biết nhân duyên, ta sẽ nói cho nghe”, đáp: “xin Thế tôn khai thị”, Phật nói: “cao nguyên này xưa kia là nơi vua Đại khiếu thanh tạo dựng cây phướn báu cao một ngàn tầm được trang trí toàn vàng và châu báu. Dưới cây phướn vua rộng làm bố thí, làm công đức này xong liền quăng phướn báu này xuống sông Căng già, thầy có muốn nhìn thấy phướn báu đó không?”, đáp: “chính là lúc con và các Bí sô đều muốn nhìn thấy”, Phật đưa bàn tay thí vô úy trăm phước có tướng luân chạm vào đất, lúc đó các rồng suy nghó: “vì sao Thế tôn chạm tay vào đất”, liền biết Thế tôn muốn cho các Bí-sô nhìn thấy phướn báu nên các rồng lôi phướn báu đó lên khỏi mặt đất cho các Bí-sô nhìn thấy, chỉ riêng có Bí-sô Bạt-đà-ly ưa thích yên tónh ngồi nơi vắng vẻ vá y phấn tảo là không nhìn phướn báu. Phật bảo các Bí-sô: “các thầy hãy mau nhìn phướn báu vì không bao lâu nữa nó sẽ ẩn mất”, khi phướn báu ẩn mất các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn, chúng con đều nhìn thấy chỉ riêng có Bí-sô Bạt-đà-ly ưa thích yên tónh ngồi nơi vắng vẻ vá y phấn tảo là không đến xem. Đó là do vị ấy đã lìa tham Ái hay do trước đây đã từng nhìn thấy nên không đến xem nữa. Nếu vị ấy lìa dục thì ở đây cũng có người lìa dục, nếu đã từng thấy thì thấy ở đâu?”, Phật nói: “các thầy nên biết, vị ấy đã lìa tham Ái và cũng đã từng nhìn thấy phướn báu này. Thuở xưa có vị vua tên là Khiếu thanh là bạn thân của vua trời Đế thích, vua vì không có con nên lòng thường mong cầu, ngồi chống cằm suy nghó: “ta có nhiều của báu, nhiều bầy tôi nhưng lại không có con, sau khi ta chết không có người kế vị”, vua trời Đế thích hỏi rõ nguyên do rồi nói: “xin chớ lo buồn, khi các thiên tử của tôi có tướng chết hiện, tôi sẽ khuyến khích họ xuống làm con của vua”. Thường pháp của chư thiên nếu ai sắp chết thì có năm tướng suy hiện: Là thiên y dơ bẩn, Là hoa trên đầu héo, Là miệng thở ra hôi, Là dưới hông đổ mồ hôi, Là không thích chỗ ngồi của mình. Thời gian sau có một thiên tử đã hiện tướng suy, vua trời Đế thích khuyên: “Khanh nên thọ sanh vào bụng phu nhân thứ nhất của vua Khiếu thanh”, thiên tử này nói: “tất cả quốc đều thường gây lầm lỗi, nếu thần thọ sanh nơi đó sẽ làm việc ác, trái với pháp lý và sẽ đọa vào Vô gián, nên thần không muốn thọ sanh vào nơi ấy”, vua trời Đế thích nói: “ta sẽ gia bị cho khanh thường tónh giác”, thiên tử này đáp: “Thiên chủ nên biết, chư thiên phóng dật đắm trước dục lạc, làm sao nhớ đến thần”, vua trời Đế thích nói: “tuy là như vậy, nhưng ta hứa sẽ giúp khanh thường tónh giác”. Thiên tử này nghe rồi liền thác thai vào phu nhân thứ nhất của vua Khiếu thanh, ngày phu nhân mang thai, vua và mọi người trong cung đều vui mừng reo to. Đủ ngày tháng sanh một bé trai dung mạo đoan nghiêm… cho đến câu vua Khiếu thanh yêu cầu quyến thuộc đặt tên cho bé, quyến thuộc nói: “lúc Thái tử nhập thai, mọi người đều vui mừng reo to nên đặt tên cho Thái tử là Đại khiếu thanh”. Thái tử Đại khiếu thanh được trao cho cho tám bà vú nuôi dưỡng: hai bà lo việc bú mớm, hai bà lo việc bồng giữ, hai bà lo việc tắm rửa, hai bà cùng vui đùa và được nuôi bằng các thức ăn ngon bổ dưỡng nên mau lớn như bông sen lên khỏi mặt nước, đến tuổi trưởng thành học thông các môn học và 18 môn kỷ nghệ, có trí huệ biện tài. Tất cả vua dòng Sát-đế-lî thọ ngôi quán đảnh có oai lực lớn, làm chủ nhân gian khiến cho các vua nước lân bang đều hàng phục và dân chúng được an vui thì phải có đủ tài nghệ như sau: giỏi điều khiển voi, ngựa, chạy xe, giỏi bắn cung tên, thông binh pháp… Giỏi cách bắn cung tên có năm: Là bắn từ xa đều trúng đích. Là nghe tiếng bắn liền có thể giết chết đối phương. Là có thể bắn trúng vào chỗ yếu của đối phương. Là hễ giương cung là bắn trúng. Là bắn thủng được những chỗ cứng chắc. Thường pháp của Thái tử là khi vua cha còn trên ngôi thì danh tiếng chưa hiển lộ. Thời gian sau vua Khiếu thanh băng, Thái tử Đại khiếu thanh lên nối ngôi, ban đầu dùng chánh pháp cai trị nhưng sau lại dùng phi pháp. Vua trời Đế thích nhắc nhở: “trước đây ta khuyên nhân giả làm con của vua Kh- iếu thanh, nay Nhân giả không nên dùng phi pháp trị nước, vì làm thế sẽ đọa địa ngục”, vua Đại khiếu thanh nghe rồi liền dùng chánh pháp trị nước, nhưng không bao lâu sau lại dùng phi pháp. Lần thứ hai vua trời Đế thích nhắc nhở như lần trước, vua Đại khiếu thanh nói: “làm vua thường hay phóng dật, đắm trước dục lạc, nghe rồi liền quên. Xin Thiên chủ từ bi lưu lại một vật gì đó để khi tôi nhìn thấy, tôi sẽ làm công đức”. Vua trời Đế thích ra lịnh cho Công xảo thiên (tiếng Phạm là Tỳ thủ yết ma thiên): “ông hãy đến đạo tràng trang nghiêm trong cung của vua Đại khiếu thanh hóa ra phướn báu cao một ngàn tầm được trang trí toàn vàng và các châu báu”, Công xảo thiên vâng lịnh làm theo lời vua trời Đế thích. Lúc đó vua Đại khiếu thanh thấy phướn báu rồi liền cho xây một nhà bố thí để làm công đức, cử người cậu ruột tên là A-thâu-ca lo liệu việc cúng dường. Lúc đó dân chúng trong nước đều thích nhìn phướn báu, đến nhà bố thí thọ bố thí rồi ra nhìn phướn báu mãi, bỏ việc mua bán nên đóng thuế cho vua không đầy đủ. Thấy các đại thần thâu thuế ít, vua Đại khiếu thanh hỏi rõ nguyên do rồi ra lịnh dẹp bỏ nhà bố thí. Thấy nhà bố thí dẹp bỏ, dân chúng tự làm thức ăn mang đến chỗ phướn báu ăn rồi nhìn ngắm, giống như trước bỏ việc mua bán nên đóng thuế không đủ. Vua hỏi rõ nguyên do rồi lập hội bố thí rộng rãi làm các công đức lần cuối cùng rồi quăng phướn báu xuống sông Căng già. Này các Bí-sô, cậu ruột của vua Đại khiếu thanh là A-thâu-ca nay chính là Bí-sô Bạt-đà-ly, vì ngày xưa đã lo liệu việc cúng dường từng thấy phướn báu nên nay không nhìn nữa”. Lúc đó các Bí-sô hỏi Phật: “phướn báu này sẽ bị hoại diệt ở đâu?”, Phật nói: “Vị lai khi con người thọ tám vạn tuổi, có Chuyển luân Thánh vương tên là Hướng khư cai trị đúng pháp, dùng pháp Thập thiện giáo hóa dân. Vua có đủ bốn binh, có thể hàng phục tất cả, đánh đâu thắng đó, thường tu phẩm thiện là Đại pháp vương và có đủ bảy báu: xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần coi giữ quân binh báu. Vua có một ngàn người con mạnh mẽ dũng lực có thể phá tan oán địch chế phục bốn phương. Trong nước dân chúng không ai bị xâm đoạt, người phạm tội không cần dùng dao gậy mà chỉ dùng pháp tuyên lịnh liền điều phục được. Vua có đại thần tên là Thiện tịnh, vợ của Thiện tịnh tên là Tịnh diệu có lòng từ che khắp tất cả. Thời gian sau phu nhân Tịnh diệu này sanh một người con tên là Từ thị, đại thần Thiện tịnh đem tám vạn Ma- nạp-bà mà mình đang dạy cho bốn bộ luận Bệ đà giao cho Từ thị dạy. Lúc đó bốn vị thiên vương đều đem phục tàng và phướn báu dâng cho vua Hướng khư : 1.Là phục tàng Băng kiệt la đến từ nước Yết lăng gia. Là phục tàng Bàn trục ca đến từ nước Mật hy la. 3.Là phục tàng Y lA-bát-la đến từ nước Kiền đa la và 4. Là phục tàng Hướng khư đến từ thành Bà-la-nê-tư. Vua Hướng khư đem phướn báu này ban cho Thiện tịnh, Thiện tịnh lại đem cho Từ thị, Từ thị lại đem cho tám vạn Ma-nạp- bà, các Ma-nạp-bà này cùng nhau phân chia, phướn báu vô thường chỉ trong chốc lát. Từ thị thấy rồi liền biết tất cả pháp đều sẽ tiêu diệt, trong lòng lo nghó đến trong rừng yên tịnh tu quán, phát tâm đại từ bi, dùng kiếm trí huệ chẳng đứt phiền não, chứng đắc Bồ-đề vô thượng, hiệu là Di lặc Ứng chánh đẳng giác. Khi vị này thành Phật, ngay trong ngày hôm đó bảy báu của vua Hướng khư ẩn mất, nhà vua liền cùng tám vạn quốc vương cũng xuất gia theo; vương nữ báu tên là Tỳ-xá-khư cùng tám vạn cung nhân, thể nữ cũng xuất gia theo, Thiện tịnh cùng tám vạn Ma-nạp-bà cũng xuất gia. Lúc đó Phật Di lặc cùng tám vạn Bí-sô đến núi Tôn túc ở chỗ Bí-sô Ca-nhiếp-ba lưu lại bộ xương, chỉ tay cho cửa núi mở rồi hai tay nâng bộ xương của Ca-nhiếp-ba và nói pháp cho các Thanh văn nghe: Quá khứ lúc con người thọ 100 tuổi có Phật hiệu là thích ca Mâu ni xuất hiện trên thế gian, vị Ca-nhiếp-ba này là Thanh văn ít muốn biết đủ, hành hạnh đầu đà bậc nhất trong chúng Thanh văn, sau khi Phật Thích ca diệt độ, chính vị này đã kiết tập giáo pháp của Phật Thích ca. Lúc đó các Thanh văn của Phật Di lặc nhìn thấy bộ xương của Ca-nhiếp-ba lưu lại đều sanh lo buồn suy nghó: “thân này làm sao có thể chứng được các công đức như thế”, do suy nghó như vậy nên các Thanh văn này đều chứng quả A-la-hán. Có tất cả 96 ức A-la- hán đã chứng hạnh đầu đà đều sanh tâm nhàm lìa, lúc đó phướn báu này ẩn mất”. các Bí-sô bạch Phật: “do nhân duyên gì luân vương Hướng khư xuất thế đồng thời với Phật Di lặc?”, Phật nói do nguyện lực, lại hỏi do nguyện lực gì, Phật nói: “Thuở xưa ở nước Trung Thiên trúc có vị vua tên là Ma-ta-bà dùng chánh pháp cai trị nên đất nước phồn thịnh an vui, trong nước không có kiện tụng, dân chúng ấm no, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa. Ở Bắc Thiên trúc đồng thời có vua tên là Đa tài cũng dùng chánh pháp cai trị nên đất nước phồn thịnh an vui, trong nước không có kiện tụng, dân chúng ấm no, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa. Trong nước Trung Thiên trúc có một đại thần sanh được một trai, vừa sanh ra trên lỗ tai đã có đeo khoen báu, đại thần mở tiệc ăn mừng để đặt tên cho con, do lúc mới sanh đã có đeo khoen báu nên được đặt tên là Bảo quang. Đến khi lớn khôn nhìn thấy cảnh già bịnh chết, Bảo quang sanh tâm lo nghó rồi bỏ thế tục vào núi rừng tu tập, ngay ngày hôm đó chứng đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác hiệu là Bảo quang Như lai. Thời gian sau vua Đa tài ở Bắc Thiên trúc cùng các đại thần lên lầu cao, vua hỏi: “có vua nước nào dùng chánh pháp cai trị nên đất nước phồn thịnh an vui, trong nước không có kiện tụng, dân chúng ấm no, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa như nước của ta không?”, lúc đó có một vị từng đến nước Trung Thiên trúc liền tâu: “ở nước Trung Thiên trúc có vua Ma-ta-bà dùng chánh pháp cai trị giống như Đại vương”, vua nghe rồi liền nổi giận bảo các đại thần: “ta muốn thân chinh thảo phạt nước ấy”. Vua Đa tài liền thống lónh bốn binh với đầy đủ khí giới tiến đánh nước Trung Thiên trúc, đến sông Căng già đóng quân ở bờ phía nam. Vua Ma-ta-bà hay tin vua Đa tài thống lónh bốn binh đóng quân ở bờ phía Nam cũng thống lónh bốn binh với đầy đủ khí giới đến sông Căng già đóng quân ở bờ phía bắc. Lúc đó Bảo quang Như lai biết đã đến lúc điều phục hai vị vua này liền đến dừng nghỉ ở bên sông Căng già , ngay trong đêm đó khởi tâm thế gian. Thường pháp của chư Phật là khi khởi niệm thế gian thì vua trời Đế thích, Phạm thiên và Hộ thế thiện thần đều biết ý Phật nên đồng đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, thân quang của chư thiên này chiếu sáng chỗ đóng quân của vua Ma-ta-bà. Lúc đó vua Đa tài thấy ánh sáng đó rất kinh ngạc liền hỏi quần thần là ánh sáng gì, một vị đáp: “trong nước của vua Ma- ta-bà có Phật xuất thế hiệu là Bảo quang Như lai, hôm nay có chư thiên đại oai đức đồng đến cúng dường nên có ánh sáng ấy”, vua nói: “trong nước của vua Ma-ta-bà có Phật bảo là thắng phước điền xuất thế, chiêu cảm chư thiên đại oai đức đến cúng dường, ta há có thể làm hại vua và dân chúng nước ấy hay sao?”, nói rồi liền sai sứ đến báo với vua Ma-ta- bà: “mời Đại vương đến gặp vua nước tôi. Đại vương có phước đức lớn nên trong nước có bậc thắng phước điền là Bảo quang Như lai Ứng chánh đẳng giác được chư thiên đại oai đức đến cúng dường. Vua nước tôi muốn gặp Đại vương bắt tay giao ước hòa bình, hai bên không còn lo sợ và đều được an ổn”. Vua Ma-ta-bà nghe rồi còn ngờ vực chưa tin liền đến chỗ Bảo quang Như lai đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, vua Đa tài sai sứ mời con đến để bắt tay giao ước hòa bình, con không biết có nên đi hay không?”, Phật nói: “Đại vương nên đến gặp sẽ được an ổn”, vua lại hỏi: “khi đến gặp con nên thi lễ thế nào?”, Phật nói: “vua ấy có oai lực, vua nên lễ bái trước”. Vua Ma-ta-bà nghe theo lời Phật đi đến chỗ vua Đa tài định lễ bái thì vua Đa tài liền đứng dậy nghinh tiếp, hai bên hỏi thăm nhau rồi cùng hoan hỷ giao ước hòa bình, sau đó cùng đến chỗ Bảo quang Như lai đảnh lễ rồi ngồi một bên, vua Ma-ta-bà bạch Phật: “Thế tôn, trong tất cả các vị vua, ai là bậc tôn quý hơn hết đáng được kính lễ?”, Phật nói: “Chuyển luân Thánh vương đáng được kính lễ”, vua Ma-ta-bà ghi nhớ trong lòng, chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn cùng các Bí-sô thọ con ngày mai thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời. Ngày mai sau khi Phật thọ thực xong, vua Ma-ta-bà liền ở trước Phật chí thành phát nguyện: “con nguyện đem công đức cúng dường Phật và Thánh chúng hôm nay, đời vị lai con sẽ được làm Chuyển luân Thánh vương”, phát nguyện vừa xong liền nghe tiếng thổi loa, Bảo quang Như lai liền thọ ký: “đời vị lai khi con người thọ đến tám vạn tuổi, vua sẽ xuất hiện ở đời làm Chuyển luân Thánh vương hiệu là Hướng khư”, mọi người nghe rồi đều vui mừng reo to lên. Lúc đó vua Đa tài đi chưa xa, nghe tiếng reo hò liền hỏi quần thần nguyên do gì có tiếng reo hò như thế, sau khi tìm hiểu quần thần tâu là vua Ma-ta-bà được Phật thọ ký đời vị lai sẽ được làm Chuyển luân Thánh vương nên mọi người vui mừng reo hò như thế. Vua nghe rồi liền quay xe lại, đến chỗ Bảo quang Như lai đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, trên thế gian này ai đáng được Luân vương lễ bái?”, Phật nói: “Đại vương, chỉ có Như lai Ứng chánh đẳng giác là bậc đáng được Chuyển luân Thánh vương lễ bái cúng dường”, vua nghe rồi liền chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và các Bí-sô thọ con ngày mai thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời… cho đến sau khi Phật thọ thực xong, vua Đa tài phát tâm đại từ bi trùm khắp thế giới phát nguyện: “con nguyện đem công đức cúng dường này ở đời vị lai được sớm thành Phật, làm thầy của trời người”, Phật liền thọ ký cho vua: “đời vị lai khi con người thọ đến tám vạn tuổi, Đại vương sẽ được thành Phật hiệu là Di lặc đầy đủ 10 hiệu”. Này các Bí-sô, do nguyện lực này nên Phật Di lặc và Luân vương đồng thời xuất hiện ở thế gian.”. Lúc đó Phật bảo A-nan-đà: “thầy hãy cùng ta đi đến tụ lạc câu chi”, A-nan-đà liền cùng Phật du hành đến nước Phật lật thị dần dần đến tụ lạc Câu chi, dừng nghỉ ở trong rừng Thắng nhiếp phía bắc tụ lạc rồi bảo các Bí-sô: “các thầy nên biết, nếu phá giới cấm thì Tam-ma-địa cũng mất theo. Các thầy hãy tu tập trì giới thì Tam-ma-địa có thể thường còn. Dùng trí huệ ấy tu luyện thân tâm sẽ được giải thoát ba độc. Tu tập như vậy được giải thoát rồi, bậc Thánh hiểu rõ: sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau”. Sau đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến tụ lạc Na- địa-ca, A- nan-đà liền cùng Phật ở nước Phật lật thị du hành đến tụ lạc Na-địa-ca ở trong tòa nhà Quần thị ca. Lúc đó trong tụ lạc này bị bịnh dịch nên người chết rất nhiều, trong số đó có Lục mục thân cận, Cực tinh tấn cận, Thắng đoan nghiêm cận là bậc tối thượng trong chúng đoan nghiêm và các Ô-ba-sách-ca như Hiền thiện, Hiện danh xưng, Thí xưng, Thượng xưng… đều chết vì bịnh dịch. Sáng sớm các Bí-sô đắp y mang bát vào tụ lạc khất thực nghe được tin này, sau khi khất thực xong trở về đến chỗ Phật đem sự việc đã nghe được bạch Phật rồi hỏi: “Thế tôn, những người chết ấy sanh vào trong đường nào?”, Phật nói: “các Ô-ba-sách-ca Lục mục thân cận… đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử nên được hóa sanh, chứng quả Bất hoàn, không còn thối chuyển trong thế giới này nữa. Trong làng còn có 25một Ô-ba-sách-ca khác đã chết cũng đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử… giống như trên ; lại có 300 Ô-ba-sách-ca đã chết, đã đoạn ba hạ phần kiết sử và một phần tham sân si nên chứng quả nhất lai, một lần nữa thọ sanh sẽ đoạn trừ tất cả phiền não; lại có 500 Ô-ba- sách-ca đã chết, đã đoạn ba hạ phần kết chứng quả Dự lưu, không còn đọa trong đường ác, phải bảy lần thọ sanh nữa, luân chuyển dứt rồi sẽ đoạn trừ hất phiền não. Các thầy nên biết, có người sắp chết đến hỏi ta: “sống suông não loạn, không có lợi lạc nhưng hễ có sống thì phải có chết; dù Như lai xuất hiện hay không xuất hiện thì sanh diệt là việc thường có gì lạ đâu”. Nhưng pháp ấy tức là pháp giới, Như lai do thần thông của chính mình, chứng Hiện giác rồi phân biệt chỉ bày rộng nói diệu pháp như sau : Do cái này có nên cái kia có ; do cái này sanh nên cái kia sanh. Do Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục xứ, Lục xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái. Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não. Đây là quá trình sanh ra Khổ uẩn. Do cái này không nên cái kia không ; do cái này diệt nên cái kia diệt. Do Vô minh diệt nên Hành diệt, Hành diệt nên Thức diệt, Thúc diệt nên Danh sắc diệt, Danh sắc diệt nên Lục xứ diệt, Lục xứ diêït nên Xúc diệt, Xúc diệt nên Thọ diệt, Thọ diệt nên Ái diệt, Ái diệt nên Thủ diệt, Thủ diệt nên Hữu diệt, Hữu diệt nên Sanh diệt, Sanh diệt nên Lão tử, ưu bi khổ não diệt. Đây là quá trình diệt trừ Khổ uẩn. Này các Bí-sô, nay Ta sẽ nói kinh Pháp cảnh, các thầy hãy lắng nghe: các thầy hãy sanh tin ưa Chánh giác, đó gọi là Pháp cảnh. Đối với Pháp và Tăng già, các bậc Thánh đủ giới đức trong sạch các thầy đều phải sanh tín kính, đó gọi là Pháp cảnh.” Lúc đó Phật ở nước Phật lật thị du hành đến tụ lạc Na-tró-ca, phu nhân Yêm-một-la ba lợi nghe tin này rồi liền sai con chim Anh vũ tên là Viên diện hiểu được tiếng người, bay đến chỗ Thế tôn hỏi thăm Phật có được ít bịnh ít não và an lạc không; nếu Thế tôn du hành đến thành Quảng nghiêm xin thương xót đến trong vườn Yêm-một-la. Chim vâng lời bay đến chỗ Phật, vừa bay đến thành Quảng nghiêm thì gặp các đồng tử Lật-cô-tỳ ra ngoài thành vui chơi. Thấy chim Anh vũ bay qua, chúng đồng thanh nói: “chúng ta sẽ bắn chết ngươi”, nói xong liền giương cung bắn, nhưng mũi tên lại quay trở lại trên đầu của chúng, chim Anh vũ nói kệ: “Hai nước là oán địch, Không bắn chết sứ giả, Huống chi sứ gặp Phật, Mà giết hại hay sao ?”. Các đồng tử cũng nói kệ: “Mũi tên không sức lực, Lời ngươi nói hiệu nghiệm, Nhờ oai đức của Phật, Ngươi bay đi, đừng sợ”. Chim Anh vũ bay đền chỗ Phật rồi liên bạch lại lời chủ đã dạy, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời chim liền bay về, nhưng bay chưa đến vườn của chủ đã bị con Diều hâu bắt ăn thịt. Sau khi chết, chim được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương, sanh lên cõi trời này rồi Thiên tử suy nghó: “nhờ gieo nhân lành gì mà ta được sanh lên đây”, liền quán biết là nhờ làm sứ giả của Phật nên bỏ thân súc sanh được thiện báo này, quán biết rồi liền suy nghó: “ta không nên để qua đêm mới báo ân Phật”, nghó rồi liền trang nghiêm thân và mang các loại hoa trời, vào giữa đêm hiện đến chỗ Phật đảnh lễ và cúng dường, thân quang của vị trời này chiếu sáng khắp trong tụ lạc. Phật biết được căn tánh của thiên tử liền nói diệu lý của bốn Thánh đế khiến cho Thiên tử này sau khi nghe pháp xong được chứng quả Dự lưu. Chứng quả rồi Thiên tử bạch Phật: “Thế tôn đã làm lợi ích cho con, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, đặt để con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đếu bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-ba-sách-ca”, lúc đó, thiên tử vui mừng giống như người buôn được tài lợi, như nhà nông được trúng mùa, như dũng só chiến thắng địch, như người bịnh được lành, đảnh lễ Phật rồi trở về thiên cung. Lúc đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến thành Quảng nghiêm dừng nghỉ ở vườn xoài, Phật bảo A-nan-đà: “thầy hãy đến thành Phệ-xá-ly, khi chân bước đến cổng thành thì đọc chú và nói bài kệ sau đây: Tì sa la tha, Tì sa la tha, Tì sa la tha, Tì sa la tha, phục đồ phục đồ, lô ca a nổ cam cấp cô a nhược ba dạ để tát phược phục đà a nô mạc để đề na tát phược phục đà ba la, phục đà a nô mạc để na tát phược A- la-hán a nô mạc để na tát phược thức xoa a nô mạc để tát phược thi la phược ca a nô mạc để tát phược tát để phược nịch. Nô mạt để ba la để ca ma nô mạt để na ca thỉ phược la nô mạt để na nhơn đà la nô mạt để na đề bà nô mạt để na a tố la đà la nô mạt để na a tô la tất lý sái nô mạt để na tát phược phục đà nô mạt để na tì sa la tì sa la tì sa la tì sa la phục đồ lô ca nô can cấp câu miểu bát dã để văn giá đà, dứt tai nạn, đuổi tai nạn, đuổi ma quỷ. Thế tôn sắp vào, bậc đại tự tại tối thắng tôn cùng vua trời Đế thích, Phạm thiên sắp vào. Chủ thế giới, Hộ thế Tứ thiên vương cùng vô lượng trăm ngàn chư thiên quyến thuộc sắp vào. Vua A-tu-la cùng vô lượng trăm ngàn quỷ thần quyến thuộc có lòng tin Phật cũng sắp vào để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Các quỷ thần chớ gây tổn hại, hãy ra mau, ra mau; nếu có ai khởi tâm ác thì hãy ra mau, ai có tâm từ bi thì được ở lại, ai muốn ủng hộ cũng được ở lại. Vì thương xót hữu tình nên Thế tôn nói chú này: Tô mẫu, tô mẫu, tô mẫu, tô lô lô mẫu lô mẫu mẫu mẫu lô tô mạc lô mạc tô mạc lô mạc lô mạc lô mạc lô mạc lô mạc lô mạc lô di lý di lý tô lô di lý tô lô di lý tô lữ di lý tô lữ di lý tô lữ di lý tô lữ di lý tô lữ di lý tô lữ di lý tô lữ di lý tô lữ di lý tô lữ di lý tô lữ di lý lý lý lý lý lý lợi lợi lợi lợi lợi lợi di lý di lý di lý di lý di lợi di lợi hạ tư di di lý di lý tư tư nhị căng già la già la ca-tra căng Ca-la Ca-la ca giá căng Ca-la căng Ca-la căng Ca-la căng Ca-la căng Ca-la căng Ca-la căng Ca-la câu lợi xa căng Ca-la căng ca li ca lơi xa lý lý lý lý a lý phá sa lý bô lý bô lý bô lý bô lý bô lý bô lý bô lý bô nại tha nại tha thác ly bố ly bố na tha thác niết lý ca xa thác ly bố ly bô lý niết lý xa thác ba la da tha ly bô ly bố ba la dạ tha. Thế tôn thương xót thế gian sắp vào thành này để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, vì từ bi hỷ xả nên nói kệ này; vì thành tựu chư thiên và tất cả chúng sanh nên dùng trí huệ pháp tánh tối thắng mà nói kệ này: Đoạn trừ các kiết tập, Xa lìa các tham Ái, Tâm ấy thường tịch tónh, Có thể được an lạc. Thế gian nếu có người, Khéo trụ đạo Niết-bàn, Nói được tất cả pháp, Có thể được an lạc. Lưu chuyển trong sanh tử, Làm chỗ nương cho người, Lợi ích các hữu tình, Có thể được an lạc. Luôn dùng tâm đại bi, Nuôi dưỡng các hữu tình, Thương yêu như con đỏ, Có thể được an lạc. Những người đã quy y, Ở trong đường sanh tử, Nương theo được thiện lợi, Có thể được an lạc. Chứng ngộ tất cả pháp, Thanh tịnh không nhiễm ô, Thân miệng ý tịch tónh, Có thể được an lạc. Dõng mãnh khi xuất hiện, Làm tăng thêm tiền tài, Thành tựu các việc nghóa, Có thể được an lạc. Xưa kia khi đản sanh, Đại địa đều chấn động, Muôn loài đều hoan hỉ, Có thể được an lạc. Đât biến động sáu cách, Chứng đắc đạo Bồ-đề, Ma vương sanh sầu khổ, Có thể được an lạc. Khéo chuyển bánh xe pháp, Danh tiếng vang 10 phương, Nói các lý Thánh đế, Có thể được an lạc. Diễn nói pháp vi diệu, Hàng phục các ngoại đạo, Nhiếp thọ các hữu tình, Có thể được an lạc. Nguyện Phật đem an lạc, Cho đến trời Đế thích, Tất cả các quỷ thần, Thường làm người ủng hộ. Nhờ công đức của Phật, Chư thiên đều hoan hỉ, Các sự việc mong cầu, Thảy đều được thành tựu. Thường hộ loài hai chân, Và các loài bốn chân, Người đi được an ổn, Người đến cũng an vui. Ban đêm được an vui, Ban ngày cũng an vui, Không gặp các việc ác, Tất cả đều an lạc. Tất cả người thế gian, Và tất cả chư thiên, Quỷ, tu la, súc sanh, Thảy đều không ưu não. Quỷ thần nào đến đây, Từ đất hay không trung, Thường dùng tâm đại bi, Ngày đêm làm việc lành. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 7 Duyên của phu nhân Am-la (tiếp theo) Lúc đó A-nan-đà vâng lời Phật đến thành Quảng nghiêm, khi chân bước lên ngưỡng cửa thành liền nói chú và kệ như trên. Phu nhơn Am-la nghe tin Phật đến vườn xoài của mình liền cùng các tùy tùng đi trên xe báu ra khỏi thành đến chỗ Thế tôn để lễ bái cúng dường. Đến nơi, phu nhơn xuống xe, lúc đó Thế tôn đang nói pháp cho vô luợng Bí-sô, từ xa trông thấy Phu nhân Am-la đi đến liền bảo các Bí-sô: “các thầy hãy nương theo pháp tu của mình an trụ chánh niệm vì Phu nhân Am-la sắp đến. Sao gọi là an trụ chánh niệm? Nghóa là những nghiệp ác trước đây nên xả, những nghiệp ác chưa sanh đè nén không cho sanh; những nghiệp lành trước đây đừng cho quên mất và nên siêng tu tập cho viên mãn để chứng được trí huệ. Đó gọi là tinh tấn. Sao gọi là chánh ý?: Khéo tự quán sát khi đi đứng nằm ngồi, sắp xếp y bát như pháp. Sao gọi là chánh định?: Phải tự quán sát nội thân siêng tu chánh niệm, chánh ý, lìa tâm bất thiện đối với tất cả chúng sanh. Nội thân, ngoại thân, nội ngoại thân; nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ; nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm; thấy pháp tùy thuận, siêng tu tinh tấn, xả ác và an trú chánh niệm. Phu nhân Am-la sắp đến, các thầy hãy khéo tu tập theo lời Ta dạy”. Lúc đó Phu nhân Am-la đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho phu nhân được lợi hỉ rồi liền im lặng. Phu nhân Am-la chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và các Bí-sô thọ con thỉnh thực vào ngày mai”, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời Phu nhân Am-la đảnh lễ rồi ra về. Lúc đó các Lật-cô-tỳ nghe tin Phật đang ở trong vườn xoài liền đi xe đến chỗ Phật, nếu đi xe màu xanh thì ngựa, dây cương, roi, càng xe, dù, khăn, kiếm, quạt, y phục cho đến người hầu tất cả đều màu xanh; các xe màu vàng, đỏ, trắng cũng như vậy. Trên đường đi, họ quát tháo xua đuổi người hai bên đường để đi mau đến chỗ Phật, từ xa thấy các Lật-cô-tỳ sắp đến, Phật bảo các Bí-sô: “ai trong các thầy chưa thấy chư thiên cõi trời Tam thập tam đi chơi thì hãy nhìn các Lật-cô-tỳ này. Chư thiên dùng thần thông tự tại dạo chơi trong vườn cũng như các Lật-cô- tỳ này không khác”. Đến nơi, các Lật-cô-tỳ xuống xe đi đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho họ được lợi hỉ rồi liền im lặng. Lúc đó có một Ma-nạp-bà tên là Quảng sức ở trong pháp hội chắp tay bạch Phật: “Thiện thệ, con có biện tài, con muốn dùng kệ ca ngợi Phật”, Phật khen lành thay, Ma- nạp-bà liền nói kệ: “Đại vương Ương già mang giáp báu, Ở Ma-kiệt-đà được tự tại, Thế tôn ra đời tại nước ấy, Danh vang 10 phương như núi Tuyết, Như hoa Câu mâu đà, hoa sen, Khi hoa nở tỏa hương thơm ngát. Đấng Thiện thệ từ bi tự tại, Xuất thế danh vang khắp mọi nơi, Khi mặt trời mọc, sen hồng nở, Khi mặt trăng mọc, Câu mâu nở, Mọi người thấy Phật đều hoan hỉ, Giống như thấy trăng sáng trên không, Thấy trí huệ lực của Như lai, Như thấy lửa rực sáng trong đêm, Khai phát mắt sáng cho chúng sanh, Trừ hết tất cả mọi nghi hoặc”. Các Lật-cô-tỳ nghe rồi đều khen hay, đồng loạt cởi thượng phục tạêng cho Ma-nạp-bà rồi chắp tay bạch Phật: “cúi xin Phật và các Bí-sô thọ con thỉnh thực vào ngày mai”, Phật nói: “Ta đã thọ Phu nhân Am-la thỉnh thực trước rồi”, các Lật-cô-tỳ nói: “chúng con nay đã bị Phu nhân Am-la, người có trí huệ tối thắng đi trước một bước rồi, khiến chúng con không được cúng dường Thế tôn trước, vậy chúng con xin được cúng dường sau”, Phật khen lành thay, các Lật-cô-tỳ nghe Phật chấp nhận rồi vui vẻ ra về. Thấy các Lật-cô-tỳ đã đi, Ma-nạp-bà chắp tay bạch Phật: “do con kheo ca ngợi Thế tôn nên các Lật-cô-tỳ đã cho con 500 thượng phục, nay con xin cúng dường Thế tôn, xin thương xót thọ nhận”, Thế tôn thương xót thọ nhận rồi nói: “Như lai Ứng cúng Chánh biến tri xuất hiện ở thế gian có năm pháp hy hữu: Là thầy của Trời người xuất hiện có đủ 10 hiệu Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng só, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn nói pháp yếu ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều thiện, văn nghóa xảo diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch. Là ai có lòng tin tôn trọng lời Như lai nói, nghe thọ hành trì, tâm không tán loạn. Là nếu ai nghe Phật nói pháp rồi đều mỗi mỗi phụng hành theo. Là người nghe pháp rồi có thể chứng ngộ, hoan hỉ tín thọ, sanh đại thiện căn tương ưng với xuất ly. Là nếu nghe pháp cú sâu xa thì dùng trí huệ hiểu rõ. Này Ma-nạp-bà, hễ là người tốt thì mang chút ân cũng không quên huống chi chịu nhiều ân, ngươi hãy ghi nhớ điều này”. Sau khi về đến nhà Phu nhân Am-la lo chuẩn bị mọi thức cúng dường để sáng mai thỉnh Phật và các Bí-sô thọ thực… cho đến Phật thọ thực rồi nói kệ khen ngợi công đức bố thí cho Phu nhân Am-la nghe: “Ai bố thí đều được kính yêu, Tiếng tốt đồn xa, hương xông khắp, Vì thế người trí thường bố thí, Cầu vui, trừ tham, được vô úy, Thường sanh làm vua trời Đế thích, Cùng dạo chơi với các vị trời, Cung điện chư thiên đang chờ đón, Sau khi chết sanh lên cõi trời, Thân quang chiếu sáng dạo vườn Hỉ, Cùng các thiên nữ thọ ngũ dục, Các đệ tử Phật nghe pháp này, Chắc chắn sẽ sanh cõi trời ấy”. Phật tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho phu nhân được lợi hỉ rồi ra về. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, do nghiệp duyên gì mà các Lật-cô-tỳ hoặc sanh lên cõi trời hoặc ở nhân gian đếu có oai đức lớn, cho đến trong đời này được hưởng phước báu như cõi trời tam thập tam?”, Phật bảo các Bí-sô: “các thầy nên biết, các Lật-cô-tỳ này đã tích tụ tư lương… như kệ nói: “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi, có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba có đủ 10 hiệu cùng hai vạn Bí-sô ở trong rừng Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ, thành Bà-la-nê-tư. Lúc đó có 500 Ô-ba-sách-ca sửa soạn hàng hóa định vào biển tìm châu báu… sau khi đến được đảo châu báu, họ đua nhau nhặt lấy châu báu chất đầy thuyền. Lúc đó bỗng có gió bão thổi giạt thuyền vào một khe núi, thuyền không thể chuyển động được, mọi người lo sợ cùng ở trên bãi cát đắp cát thành tháp rồi bỏ châu báu vào trong tháp để cúng dường Phật Ca-nhiếp-ba. Trong giấc ngủ họ mộng thấy vầng ánh sáng rực rỡ, trong đó phát ra âm thanh: “các ngươi hãy chuẩn bị lên đường chớ có phóng dật. Bảy ngày sau sẽ có hải triều dâng đến, nhờ hải triều này thuyền các ngươi sẽ được an ổn trở về”. Sáng hôm sau các thương nhơn cùng kể lại giấc mộng và nói với nhau: “chúng ta cúng dường Phật Ca- nhiếp-ba là vô thượng phước điền, nhờ căn lành này nguyện cho chúng ta có được oai đức lớn trong trời người, giống như chư thiên trên cõi trời Tam thập tam”. Này các Bí-sô, 500 thương nhơn ấy chính là 500 Lật-cô-tỳ ngày nay, xưa kia nhờ xây tháp bằng cát và đem châu báu để trong tháp cúng dường Phật Ca-nhiếp-ba nên ngày nay được quả báo có oai đức lớn trong cõi Trời người giống như chu thiên trên cõi trời tam thập tam. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen ; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập chớ có buông lung”, nghe Phật dạy rồi, các Bí-sô đều hoan hỉ tín thọ phụng hành. Lúc đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến tụ lạc Trúc lâm, dừng nghỉ trong rừng Thăng nhiếp ba, ở vùng này gặp lúc mất mùa đói kém, khất thực khó được, Phật bảo các Bí-sô: “gặp lúc thế gian mất mùa đói kém, khất thực khó được, các thầy nên thực hành theo pháp như trong các kinh Cơ kiệm, kinh Đạo phẩm truyền lai, kinh Lục tập, kinh Đại Niết- bàn đã nói”. Sau đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến tụ lạc Vô gián, khi đi đến một nơi Phật bỗng móm cười, thường pháp của chư Phật là khi Phật móm cười, từ trong miệng phóng ra hào quang năm sắc chiếu xuống hay chiếu lên, nếu chiếu xuống thì chiếu đến ngục Vô gián và các ngục khác khiến cho chúng sanh trong đây đang bị đốt nóng liền được mát mẻ, đang bị lạnh cóng liền được ấm áp. Họ cảm thấy an lạc liền suy nghó: “ta và mọi người từ cảnh khổ địa ngục chết đi, được sanh vào cõi khác chăng?”. Thế Tôn sau khi làm cho các hữu tình kia sanh tín tâm liền hiện nhiều tướng khác nữa, thấy những tướng này họ liền suy nghó: “chúng ta không phải chết ở đây sanh về cõi kia, mà là do sức oai thần của Đại Thánh đã khiến thân tâm chúng ta hiện được an lạc”. Đã sanh tín kính thì có thể diệt các khổ, ở cõi nhơn thiên được thọ thân thắng diệu, thành chơn pháp khí thấy được lý chơn đế. Nếu hào quang chiếu lên thì đến cõi trời Sắc cứu cánh, trong hào quang diễn nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã… và nói kệ: “Người phải nghe Phật dạy Dốc cầu đạo xuất ly Phá được quân sanh tử Như voi phá nhà tranh. Ở trong pháp luật Phật Dũng tiến thường tu học Xa lìa đường sanh tử Bờ mé khổ không còn”. Hào quang này sau khi chiếu khắp ba ngàn Đại thiên thế giới liền trở về chỗ Phật, nếu Thế Tôn nói việc quá khứ thì hào quang trở vào phía sau lưng, nếu nói việc vị lai thì hào quang trở vào phía trước ngực, nếu nói việc địa ngục thì hào quang trở vào phía dưới chân, nếu nói việc bàng sanh thì hào quang trở vào phía gót chân, nếu nói việc ngạ quỷ thì hào quang trở vào phía ngón chân, nếu nói việc loài người thì hào quang trở vào đầu gối, nếu việc của Lực luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay trái, nếu nói việc của Chuyển luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay phải, nếu nói việc cõi trời thì hào quang trở vào rốn, nếu nói việc của Thanh văn thì hào quang trở vào miệng, nếu nói việc của Độc giác thì hào quang trở vào phía giữa hai chân mày, nếu nói việc của đạo quả Chánh đẳng chánh giác thì hào quang trở vào phía trên đảnh đầu. Lúc đó ánh sáng nhiễu quanh Phật ba vòng rồi vào đảnh đầu, cụ thọ A-nan-đà bạch Phật: “Thế Tôn Như Lai Ứng chánh đẳng giác vui vẻ móm cười chẳng phải là không có nhơn duyên”, liền nói kệ thỉnh Phật: “Từ miệng Phật phóng hào quang vi diệu, Chiếu khắp Đại thiên không phải một tướng, Chiếu khắp cả 10 phương các quốc độ, Như mặt trời chiếu sáng khắp hư không. Phật là nhân tối thắng của chúng sanh, Có thể trừ kiêu mạn và lo buồn. Không nhân duyên, kim khẩu không mở lời, Miệng móm cười ắt nói việc kỳ lạ. Con lặng lẽ quan sát đấng Mâu Ni, Ai muốn nghe, Phật nói cho nghe, Như sư tử vương rống tiếng vi diệu, Cúi xin Phật quyết nghi cho chúng con, Phật như Diệu sơn vương trong biển cả, Nếu không nhân duyên, Phật không dao động, Tự tại từ bi, miệng Phật hiện móm cười, Nói nhân duyên cho người đang khao khát”. Thế Tôn bảo A-nan-đà: “Đúng vậy A-nan-đà, không phải không có nhân duyên mà Như Lai Ứng chánh đẳng giác miệng hiện móm cười, này A-nan-đà, thầy có thấy nơi này không?”, đáp có thấy, Phật nói: “đây là chỗ mà ba vị Chánh đẳng giác trong quá khứ đã ngồi”, A-nan- đà liền trải tọa cụ cho Phật ngồi để nơi này thành nơi có bốn Thế tôn đã ngồi. Sau đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến tụ lạc Di thế la và dừng nghỉ ở trong rừng Ma-ha-đề-bà, như trong phẩm Ma-ha-đề-bà và quốc vương tương ưng có nói rõ. Sau đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến giếng A-nậu, đến bên giếng thấy một người nữ cầm gàu dây định tới giếng múc nước. Có 1người nam yêu mên người nữ này, người nữ này cũng yêu mên người nam kia, cả hai cùng nhau nói cười đến bên giếng. Lúc đó người có dẫn con nhỏ đi theo, vì mãi nói cười với người nam nên không biết là đã quấn dây gàu vào cổ đứa con, khi quăng xuống giếng để múc nước mới hay, vội kéo lên thì đứa con đã chết. Người nữ này do thấy đứa con vì mình mà chết nên bất giác buột miệng nói kệ: “Ta biết gốc tham dục, Sanh ra từ phân biệt, Nếu ta không phân biệt, Dục do đâu phát sanh”. Phật bảo A-nan-đà: “thầy hãy ghi nhớ bài kệ này, đó là lời chư Phật quá khứ đã dạy, vì trong miệng của kẻ phàm phu ngu tối nên nói câu kệ đó không phát ra ánh sáng. Như lời Phật ấy nói, ta chưa từng thấy một pháp nào chuyển động mau lẹ như tâm”, người nữ kia thấy con chết trong lòng hối hận áo não đến đảnh lễ Phật, Phật quán ý nhạo tùy miên của người nữ, xứng cơ nói pháp khiến người nữ nghe rồi được chứng quả Dự lưu. Được kiến đế rồi liền bạch Phật: “Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến con được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, đặt để con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đếu bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-ba- tư-ca”. Lúc đó Phật bảo A-nan-đà: “xưa kia khi Ta còn là Bồ-tát, ở nơi này có vị tiên tên là Bạt già bà mời ta ngồi và đem hoa quả cúng dường, ở nơi khác cũng cúng dường như vậy. Xưa kia khi Ta còn là Bồ-tát, có vua trời Đế thích giả làm thợ săn đắp y hoại sắc, Ta vì muốn xuất gia nên cởi chiếc áo mềm mại đổi lấy y hoại sắc. Sau này có Bà-la-môn, cư só tín tâm ngay nơi này xây tháp Thọ ca-sa, đến nay các Bí-sô đều lễ bái cúng dường tháp ấy. Vua trời Đế thích đem y Ca thi na của ta cất trên cõi trời Tam thập tam và lập ngày hội Ca thi ca, đến nay chư thiên cõi trời ấy vẫn còn cúng dường. Đến một nơi khác Phật bảo A-nan-đà: “xưa kia khi còn là Bồ-tát, Ta dùng thanh kiếm màu hoa sen xanh tự cắt búi tóc ném lên hư không. Sau này có Bà-la-môn, cư só tín tâm ngay tại nơi này xây tháp Cắt búi tóc, đến nay các Bí-sô vẫn lễ bái cúng dường. Vua trời Đế thích đem búi tóc của Ta cất trên cõi trời Tam thập tam và lập ngày hội búi tóc, đến nay vẫn còn”. Đến nơi khác Phật bảo A-nan-đà: “xưa kia khi Ta hành Bồ-tát đạo, tại nơi này Xiển-đà-ca đã đem ngựa chúa Kiền thát già trở về cung. Sau này có Bà-la-môn, cư só ngay tại nơi này xây tháp Mã hồi, đến nay các Bí-sô vẫn còn cúng dường”. Đến tụ lạc Ngưu uyển, Phật bảo A-nan-đà: “Xiển-đà-ca-sanh ra và lớn lên ở nơi này”. Lúc đó những vị kỳ túc của các lực só dòng Sát-đế-lî nghe Phật sắp đến liền bảo các lực só dọn dẹp trang hoàng hai bên đường, còn họ trang hoàng trong thành. Các lực só này lúc đang quét dỏn hai bên đường thấy có một tảng đá lớn chắn ở giữa đường, muốn dẹp bỏ nhưng rinh không nổi. Phật đi đến thấy vậy liền nói: “hãy để ta chuyển giúp cho”, nói rồi dùng tay nâng tảng đá ném lên không trung, tảng đá bay cao đến nổi không thể nhìn thấy khiến các lực só đều kinh sợ, Phật bảo đừng sợ rồi dùng thần lực làm cho tảng đá nát thành bui từ trên không rơi xuống, các lực só hỏi: “bụi này từ đâu rơi xuống?”, Phật nói: “ta đã biến tảng đá này thành bụi, các ngươi có muốn đống bụi này họp lại thành tảng đá như cũ không?”, đáp là muốn, Phật liền dùng năng lực giải thoát làm cho đống bụi họp lại thành tảng đá như cũ, các lực só hỏi: “Thế tôn dùng lực gì có thể nâng tảng đá ấy lên?”, Phật nói là dùng lực của cha mẹ sanh, lại hỏi: “Thế tôn dùng lực gì làm cho tảng đá nát thành bụi?”, Phật nói dùng nănglực thiền định, lại hỏi: “Thế tôn dùng lực gì họp đống bụi lại thành tảng đá ?”, Phật nói dùng năng lực giải thoát, lại hỏi: “lực của cha mẹ sanh ra mạnh yếu như thế nào?”, Phật nói: “lực của mười người bằng lực của một con bò thường; lực của mười con bò thường bằng lực của một con bò xanh; lực của mười con bò xanh bằng lực của một con voi nhỏ; lực của mười con voi nhỏ bằng lực của một con voi lớn; lực của mười con voi lớn bằng lực của một con voi xanh; lực của mười con voi xanh bằng lực của một con voi đỏ; lực của mười con voi đỏ bằng lực của một con voi ngà trắng; lực của mười con voi ngà trắng bằng lực của một con voi Tân đà sơn; lực của mười con voi Tân đà sơn bằng lực của một con Hương tượng; lực của mười con Hương tượng bằng lực của một lực só; lực của 10 lực só bằng lực của một đại lực só; lực của 10 đại lực só bằng lực của một mãnh tượng; lực của 10 mãnh tượng bằng lực của một Dạ xoa Chương trụ la; lực của 10 Dạ xoa Chương trụ la bằng lực của một bán Na-la-diên; lực của hai bán Na-la-diên bằng lực của một Na-la-diên. Mỗi chi phần của Như lai đều có lực Na-la-diên tự nhiên sanh. Nhiếp tụng: Người, bò với bò xanh, Voi xanh, đỏ lớn nhỏ, Lực só với Dạ xoa, Không bằng Na-la-diên. Lực Na-la-diên này là lực của Như lai do cha mẹ sanh ra”, các lực só lại hỏi: “ngoài lực Na-la-diên và lực giải thoát ra còn có lực gì khác không?”, Phật nói: “còn có lực phước đức, nhờ lực phước đức đầy đủ nên Như lai ở dưới cội Bồ-đề đã hàng phục 36 ức ma quỷ, chứng đạo quả Vô thượng giác”, lại hỏi: “ngoài lực phước đức ra còn có lực nào nữa không?”, Phật nói: “còn có lực trí huệ, nhờ lực trí huệ đầy đủ nên Như lai đã trừ bỏ tất cả phiền não tích tụ từ vô thỉ đến nay”, lại hỏi: “ngoài lực trí huệ ra còn có lực nào nữa không ?”, Phật nói: “còn có lực thần thông, do lực thần thông viên mãn nên Như lai có thể hàng phục Lục sư ngoại đạo kỳ cựu vô trí và cống cao”, lại hỏi: “ngoài lực thần thông ra còn có lực nào nữa không?”, Phật nói: “còn có lực vô thường, nhờ lực vô thường viên mãn nên Như lai đối với lực do cha mẹ sanh ra, lực thiền định, lực giải thoát, lực phước đức, lực thần thông thảy đều diệt hết ở nơi cây song lâm. Nhiếp tụng: Lực thiền định, giải thoát, Phước đức và trí huệ, Tất cả lực như thế, Lực vô thường hơn hết. Các lực só nên biết, thân ta như ngọn núi vàng do lực vô thường nên không bao lâu nữa sẽ tiêu diệt. Cho nên người trí phải cầu mong đến chỗ không bị vô thường bức bách. Người đời nay tuổi thọ càng thấp, sức khỏe yếu ớt; tảng đá này người đời xưa thường cầm ném liệng chơi đùa, các ngươi hãy nhìn xem, bên cạnh của tảng đá này còn có dấu ngón tay lưu lại”. Các lực só nghe Phật nói rồi sanh tâm hi hữu, trừ bỏ kiêu mạn, lúc đó Phật quán biết ý nhạo tùy miên của các lực só liền nói lý bốn chơn đế và các pháp chứng đạt trí huệ, khiến cho họ chứng được quả Dự lưu. Sau đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến thành Câu thi na, trên đường đi thấy có thành Phạm bà nhưng Phật ghé vào mà đi thẳng đến thành Câu thi na. Đến nơi, Phật chỉ hai cây sa la rồi nói với A-nan-đà: “không bao lâu nữa ta sẽ nhập Bát Niết-bàn tại đây”. Sau đó Phật du hành đến Câu lô số, điều phục vua ở thành Gián sắc, lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “Ta biết rõ tất cả các lậu đều đã diệt, không phải là Ta không biết, không thấy. Này các Bí-sô, đó là sắc, sắc tích tập, sắc đoạn diệt; đó là thọ, tưởng, hành, thức cho đến thức tích tập, thức đoạn diệt cũng như vậy. Nếu có Bí-sô nào thường tu tập định, khởi niệm mong cầu không từ các lậu hoặc mà được giải thoát; nhưng Bí-sô ấy lại đều từ các lậu mà tâm được giải thoát, vì sao, vì do Bí-sô ấy không tu tập nên mới như thế”, lại hỏi: “Thế tôn, do vị ấy không tu tập những gì ?”, Phật nói: “do không tu tập bốn; Niệm trụ, bốn; Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Chi giác phần, tám Thánh đạo. Bí-sô nên biết, như gà mái đẻ trứng, hoặc 5, 6 hay 12 quả trứng, nếu gà mẹ không thường xuyên ấp những quả trứng này, không làm cho nó ấm, cũng không chuyển dời, nghó rằng: “những đứa con ta sanh ra sẽ dùng mỏ hoặc móng phá vỡ vỏ trứng”. Nó mong những con gà con an ổn ra khỏi vỏ trứng, nhưng những quả trứng này đã không được ấp đúng pháp nên gà con không thành tựu, không thể ra khỏi vỏ, vì sao, vì gà mẹ không thường xuyên ấp trứng, không làm cho nó ấm, cũng không chuyển dời nên không thể nở ra gà con. Bí-sô tu tập Định cũng như vậy, Bí-sô phải từ việc hữu lậu mà tâm được giải thoát, vì sao, vì do không tu tập nên mới như vậy. Không tu tập những gì ?: Tức là “do không tu tập bốn Niệm trụ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Chi giác phần, tám Thánh đạo. Bí-sô nào siêng năng tu định, nghó rằng không từ hữu lậu mà được giải thoát, nhưng Bí-sô ấy phải từ hữu lậu mà được giải thoát. Tu tập những gì ?: Tức là do tu tập bốn Niệm trụ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Chi giác phần, tám Thánh đạo. Bí-sô nên biết, như gà mái đẻ trứng, hoặc 5, 6 hay 12 quả trứng, nếu gà mẹ thường xuyên ấp những quả trứng này, làm cho nó ấm, chuyển dời đúng pháp, gà mẹ không nghó rằng: “những đứa con ta sanh ra sẽ tự dùng mỏ hoặc móng phá vỡ vỏ trứng”. Những con gà con đã được hình thành có thể dùng mỏ và móng phá vỡ vỏ trứng, an ổn ra khỏi vỏ, vì những quả trứng này đã được ấp đúng pháp nên gà con được thành tựu, có thể ra khỏi vỏ, vì sao, vì gà mẹ thường xuyên ấp trứng, làm cho nó ấm, chuyển dời đúng pháp nên có thể nở ra gà con. Bí-sô tu tập Định cũng như vậy, Bí-sô phải từ việc hữu lậu mà tâm được giải thoát, vì sao, vì do tu tập nên được như vậy. Do tu tập những gì ?: Tức là do tu tập bốn Niệm trụ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Chi giác phần, tám Thánh đạo. Bí-sô nên biết, ông thầy thợ mộc và các đệ tử thường dùng búa rìu, do thường dùng nên có vết chai ở ngón tay. Ông thầy thợ mộc và các đệ tử không thể tự thuận theo chánh trí chánh kiến mà dùng được búa rìu, chính là do thường dùng nên tự nhiên thuần thục, khi thần thục rồi mới biết là đã thuần thục việc làm này. Bí-sô tu Định cũng như vậy, vị ấy không thể tự thuận theo chánh trí chánh kiến để biết là đã đoạn được bao nhiêu lậu hoặc. Về sau khi lậu hoặc đoạn hết rồi vị ấy mới biết, vì sao, vì do siêng năng tu tập. Tu tập những gì ?: tức là do tu tập bốn Niệm trụ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Chi giác phần, tám Thánh đạo. Bí-sô nên biết, như chiếc thuyền ra biển vào tháng sáu, trải qua mùa hè nóng nực, bị gió thổi và mặt trời thiêu đốt, sau đó lại gặp mưa thì tự nhiên tan rã. Bí-sô tu định cũng như vậy, các chướng ngại, các kiết sử tương ưng, tùy miên phiền não tự nhiên giải tán, do tu tập nên vị ấy được giải thoát. Tu tập những gì?: Tức là tu tập bốn Niệm trụ… như trên”. Lúc Thế tôn nói pháp này có 60 Bí-sô không sanh các lậu hoặc, tâm được giải thoát. Sau đó Phật cùng A-nan-đà du hành đến thành Thiên chỉ và nói rằng: “Thiện giác Thích ca sinh trưởng trong thành này”. Đến vườn Lâm-tỳ-ni, Phật bảo A-nan-đà: “Ta được sanh ra trong vườn này, sau khi sanh ra, Ta đi về phía Nam bảy bước không cần ai nâng đỡ, nhìn khắp bốn phương nói rằng: “đây là thân sau cùng, ta không còn thọ sanh nữa”. Đến thành Kiếp-tỷ-la, Phật bảo A-nan-đà: “vua Tịnh-phạn sanh ở thành này và giữ ngôi vua trong một thời gian dài”. Đến thành Tỳ thâu na la, Phật bảo các Bí-sô: “hôm nay ta sẽ phân biệt giảng nói hai thứ quả báo thiện ác, các thầy hãy lắng nghe: những điều ác là tham sân si các hoặc theo trói buộc ta; những điều thiện là không tùy thuận tham sân si các hoặc”. Đến tụ lạc Câu na, Phật bảo A-nan-đà: “Như lai Câu na hàm mâu ni sanh ra, thành tựu quả vị Chánh giác và Bát Niết-bàn tại nơi đây”. Đến tụ lạc Lê địa, Phật bảo A-nan-đà: “lúc còn là Bồ-tát, ta du hành đến làng của Phụ vương, ngồi dưới gốc cây Thiệm bộ, tư duy nhập định, chứng được Sơ thiền vô lậu”. Đến nơi khác, Phật bảo A-nan-đà: “đây là nơi ngày xưa Như lai Câu-na-hàm-mâu-ni cất ca-sa”. Đến tụ lạc tẩy dục, Phật bảo A-nan-đà: “ngày xưa Như lai Câu-na-hàm- mâu- ni đã tắm tại đây nên tụ lạc này được gọi là tụ lạc tẩy dục”. Đến tụ lạc Tư ca để, Phật dừng ở trong rừng Thăng nhiếp ba phía Bắc tụ lạc rồi bảo các Bí-sô: “Ngày xưa có một người thợ tên là A-trala thường vác cây sào tre trên vai mà đi, đệ tử của ông tên là Mê-lặc-ca thường đứng trên cây sào tre này múa xiếc. Lúc đó A-trala nói với Mê-lặc-ca: “khi con ở trên sào tre múa xiếc, con phải thường nhìn xuống dưới để hai bên trông chừng lẫn nhau, chớ có sơ suất, chúng ta mới không bị thương tổn. Múa xong trở xuống an ổn, mọi người thấy chúng ta có tài năng sẽ hoan hỉ thưởng tiền cho chúng ta”, Mê-lặc-ca nói: “thầy chớ nói lời này, vì sao, vì thầy tự giữ mình, con cũng tự dụng tâm. Sau khi múa xong con sẽ xuống an ổn và cả hai đều không bị thương tổn, mọi người thấy rồi sẽ thưởng tiền cho chúng ta”. Này các Bí-sô, lời của Mê-lặc-ca nói là thuận đạo lý, vì sao, vì nếu có thể tự thủ hộ thân mình thì mới có thể thủ hộ người khác; nếu muốn thủ hộ người khác thì không thể tự thủ hộ. Sao gọi là tự thủ hộ thì có thể thủ hộ người khác? Do nổ lực thường xuyên tu tập, do tự thủ hộ nên khi tiếp xúc cảnh hiện tiền, tự có thể thủ hộ và thủ hộ người khác. Sao gọi là muốn thủ hộ người khác thì không thể tự thủ hộ? Do không muốn não loạn người khác, không làm cho họ tức giận, không làm tổn hại, từ bi thương xót mọi người, vì thế có thể thủ hộ người khác nhưng không thể tự thủ hộ. Các Bí-sô nên tu học như thế, nếu muốn tự thủ hộ thì nên tu tập bốn Niệm trụ xứ. Sao gọi là bốn Niệm trụ xứ? Tức là nhớ nghó đến các trụ xứ Thân, thọ, tâm và pháp. Các Bí-sô nên tu học như thế”. Sau đó Phật đến tụ lạc Xa-nan-già-la, dừng nghỉ trong một khu rừng rồi bảo các Bí-sô: “ta sẽ nhập tịch định trong hai tháng ở khu rừng này, trừ người đem thức ăn uống ra, tất cả các Bí-sô khác đều không được đến gặp ta. Tới ngày Bố tát cũng sai người đem thức ăn đến lấy Dục”. Dặn dò rồi Phật nhập tịch định, mãn hai tháng Phật xuất định rồi bảo các Bí-sô: “nếu có ngoại đạo đến hỏi các thầy: “Sa môn Kiều-đáp- ma làm việc gì mà nhập tịch định trong hai tháng?”, thì các thầy nên đáp là nhập Tam muội sổ tức. Vì sao, vì trong hai tháng ta đã ngồi yên quán sổ tức, khi tu pháp quán này ta biết rõ như thật chưa từng bị tán loạn đối với hơi thở vào; cũng biết rõ như thật chưa từng bị tán loạn đối với hơi thở ra. Hơi thở dài ngắn, sanh diệt, toàn thân thở ra, ta đều biết rõ; toàn thân thở vào, ta cũng đều biết rõ; Khinh an hành thở ra, khinh an hành thở vào, ta đều biết rõ như thật. Ta biết rõ như thật khinh an tâm hành mà thở vào, như thật biết rõ khinh an tâm hành mà thở ra, khiến tâm hoan hỉ, khiến tâm chuyên chú trong Định. Ta như thật biết rõ tâm giải thoát mà thở vào, như thật biết rõ tâm giải thoát mà thở ra. Như thật biết rõ cái thấy vô thường, xả ly, nhàm lìa và hoại diệt mà thở vào… cho đến thở ra. Bí-sô nên biết, khi ấy ta biết đây là hành thô, ta vượt qua hành này và dùng khinh an hành để hành các hạnh vi tế khác. Do ta vượt qua hành thô và dùng khinh an hành để tu các hạnh vi tế khác nên có ba vị trời đến chỗ ta ngồi, một vị nói: “Sa môn Kiều- đáp-ma đã diệt độ”; vị thứ hai nói: “vị ấy không phải đã diệt độ,mà là sắp diệt độ”; vị thứ ba nói: “không phải đã diệt độ, cũng không phải sắp diệt độ, mà là an trụ trong thiền định. Tất cả các bậc Ứng cúng đều có Định như thế. Này các Bí-sô, hôm nay ta sẽ như pháp nói việc tu hành của bậc Thánh, của chư thiên, Phạm thiên, của bậc Vô học, Hữu học và của Như lai cho các thầy nghe. Tất cả bậc Hữu học nếu chưa đắc thì sẽ đắc, chưa chứng thì sẽ chứng, chưa thấy hướng đi thì sẽ thấy được hướng đi. Tất cả bậc Vô học đã thấy được hướng đi thì sẽ được tăng trưởng; bậc Hữu học thấy được pháp sẽ được an lạc trụ, như trong kinh Đạo phẩm tập có nói rõ”. <篇> <卷>QUYỂN 8 Lúc đó Phật từ nước Kiều-tát-la du hành đến tụ lạc Tăng trưởng, dừng nghỉ trong rừng Tăng trưởng. Chủ tụ lạc là Bà-la-môn Liên hoa hành được vua Thắng quân phong ấp, ông có một đệ tử tên là Yêm một la tử học rộng nghe nhiều, biện tài sắc bén và có 500 đệ tử phạm hạnh đọc tụng luận Tứ minh. Liên hoa hành nghe tin có sa môn Kiều-đáp-ma thuộc dòng họ Thích ca từ bỏ vương vị xuất gia, tu chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, danh vang khắp 10 phương là bậc Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng só, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Vị Phật này đã nói với Trời người, ma, Phạm, Sa môn, Bà-la-môn rằng: “sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau ” . Pháp của vị ấy nói ra ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều thiện, văn nghóa xảo diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch. Liên hoa hành nghe nói vị ấy nay đã đến trong tụ lạc này, liền suy nghó: “trong kinh của ta nói rằng: “người nào có đủ 32 tướng thì sẽ có hai hướng: Là nếu ở tại gia sẽ làm Chuyển luân Thánh vương, dùng chánh pháp cai trị và có đủ bảy báu : bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần chỉ huy quân đội báu và ngọc ma ni báu. Vua có đủ ngàn người con oai đức dõng mãnh, tướng mạo đoan nghiêm có thể chế phục nước khác, trong nước không có trộm cướp, không dùng dao roi trị phạt, chỉ dùng chánh pháp giáo hóa. Là nếu cạo bỏ râu tóc xuất gia sẽ thành đạo quả Chánh giác”, nghó rồi liền bảo đệ tử Yêm một la tử: “Ta nghe tin có sa môn Kiều- đáp-ma thuộc dòng họ Thích ca từ bỏ vương vị xuất gia tu chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề… giống như đoạn văn trên. Các con hãy đến chỗ Sa môn Kiều-đáp-ma tự sẽ biết rõ có đúng như lời ta nói hay không”. Các đệ tử vâng lời cùng các Bà-la-môn kỳ cựu đến chỗ Phật chào hỏi rồi đứng một bên, Phật tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho các Bà-la-môn kỳ cựu được lợi hỉ. Lúc đó Yêm một la tử với tâm ngạo mạn đi qua đi lại không nghe Phật nói rồi bất chợt dừng lại hỏi nghóa, Phật dù trả lời cũng không có ý nghe và vẫn tỏ thái độ khinh mạn đối với Thế tôn như cũ. Phật bảo Yêm một la tử: “các Bà-la-môn kỳ cựu đều đã đủ ba minh, ngươi há có thể khinh mạn bất chợt vấn nạn như thế hay sao?”, Yêm một la tử nói là không có hỏi gì cả, Phật nói: “trong khi ta nói pháp yếu cho các Bà-la-môn thượng thủ nghe, ngươi cứ đi qua đi lại rồi bất chợt đưa ra câu hỏi, ta đáp ngươi cũng không chịu nghe”, Yêm một la tử nói: “nếu là đồng loại Bà-la-môn thì tôi có thể cùng ngồi luận nghóa, Ngài là sa môn cạo tóc không phải là Bà-la-môn, tôi đi qua đi lại hỏi đáp thì có lỗi gì. Sa môn các vị đang đi trên đường ác, nhiễm pháp xấu nên tôi mới nói chuyện với thái độ như vậy”, Phật nói: “ngươi đến đây vì cầu lợi ích, ta quán thấy ngươi chưa từng thừa sự Sư trưởng”, Yêm một la tử nghe rồi tức giận, muốn phỉ báng khinh hủy nên nói: “dòng họ Thích ca ngu si, không biết cung kính người có phạm hạnh thù thắng”, Phật nói: “dòng họ Thích ca có lỗi lầm gì?”, Yêm một la tử nói: “trước dây tôi có việc đi vào thành Kiếp-tỷ-la, những người thuộc dòng họ Thích ca ở trên lầu cao chỉ tôi nói rằng: đó là đệ tử của Liên hoa hành, thái độ khinh mạn không cung kính tôi”, Phật nói: “ngươi có thấy con chim sâu không, khi ở trong tổ nó còn tự tại nói năng đủ thứ, huống chi dòng họ Thích ca há không được nói năng tự tại hay sao?”, Yêm một la tử nó: “có bốn giai cấp: Bà-la-môn, Sát-đế-lî, Phệ xá, Thủ đạt la. Bốn giai cấp này đều cung kinh các Bà-la-môn, chỉ có dòng họ Thích ca thấy bậc tôn thắng mà không cung kính”. Lúc đó Phật liền quán cha mẹ đời trước của Yêm một la tử thuộc chủng loại gì, quán biết được là do nô tỳ của dòng họ Thích ca-sanh ra, những người thuộc dòng họ Thích ca là chủ của họ vào đời trước, Phật liền hỏi Yêm một la tử thuộc dòng họ gì, đáp là thuộc dòng họ Nhó luân, Phật nói: “ta quán thấy dòng họ của ngươi là nô tỳ của dòng họ Thích ca-sanh ra”. Các Bà-la-môn kỳ cựu liền nói: “Sa môn Kiều-đáp-ma, không nên đem dòng họ nô tỳ ra phỉ báng anh ta, vì sao, vì anh ấy là người học rộng nghe nhiều, nói năng lưu loát có thể luận nạn đối đáp với Kiều-đáp-ma”, Phật bảo các Bà-la-môn: “nếu các vị cho rằng Yêm một la tử có thể luận nạn với ta thì hãy im lặng nghe anh ta đối đáp. Nếu anh ta không thể cùng ta lập tông vấn nạn thì sẽ im lặng”, Phật liền bảo Yêm một la tử: “này Ma- nạp-bà, thuở xưa có quốc vương hiệu là Cam giá, có bốn người con tên là Cự diện, Trường nhó, Tượng kiên và Túc xuyến. Sau vì mắc tội nên bốn người con này bị vua đuổi đi, họ dẫn theo em gái đến biên giới nước khác bên bờ sông Căng già ở dưới núi Tuyết, cách trú xứ của tiên nhơn Kiếp-tỷ-la không xa. Họ cắt cỏ làm nhà rồi lấy những người em khác mẹ làm vợ và sanh con đẻ cái. Thời gian sau, vua chợt nhớ đến bốn người con này nên hỏi quần thần, quần thần tâu rõ mọi việc như trên, vua nghe rồi nói rằng: “bốn người con của ta có thể làm được như vậy sao?”, nói rồi giơ tay phải lên khen rằng: “các con ta có năng lực lớn”. Này Ma-nạp-bà, do người có oai đức được gọi là cực năng nên dòng họ được gọi là Thích ca (đời Đường dịch là Năng). Ngươi có nghe sự sanh khởi nào khác không?”, Yêm một la tử đáp: “tôi nghe dòng họ Thích ca từ xưa đến nay sanh ở nơi đây”, Phật nói: “ngày xưa vua Cam giá có một nô tỳ tên là Chức kinh, dung mạo đoan trang ai cũng yêu mến. Lúc đó có một tiên nhơn thuộc họ Ma đăng già, do thường ở một chỗ với nô tỳ đó nên cả hai cùng tư thông và sanh được một bé trai, vừa sanh ra đứa bé đó có thể nói: “hãy tắm rửa trừ chất bẩn cho tôi”. Người đương thời gọi quỷ là Ca ny bà dạ na, do đứa bé này vừa sanh ra liền nói được câu ấy nên mọi người cho là quỷ và gọi đứa bé này là Ca ny bà dạ na, từ đó đến nay có thêm dòng họ Ca ny bà dạ na. Này Ma-nạp-bà, ngươi có nghe dòng họ này sanh ra từ việc này không?”. Lúc đó Yêm một la tử im lặng, Phật hỏi đến ba lần cũng đều im lặng, thấy Yêm một la tử im lăng không trả lời thần Kim cang cầm chày Kim cang phát lửa sáng chói, có màu sắc như lửa đưa về phía Yêm một la tử, nghó rằng: “Thế tôn hỏi ba lần mà không chịu đáp thì ta sẽ đập vỡ đầu ra làm bảy mảnh”. Do oai lực của Phật khiến cho Yêm một la tử nhìn thấy thần Kim cang, thấy rồi hết sức kinh sợ liền đáp: “tôi có nghe”. Các Bà-la- môn kỳ cựu bạch Phật: “trước đây chúng tôi không tin lời Thế tôn nói, bây giờ mới biết dòng họ của Yêm một la tử là do nô tỳ của dòng họ Thích ca-sanh ra”, Phật nói: “các vị cũng không nên khinh chê Yêm một la tử, vì sao, vì xưa kia tiên nhơn ấy có thần thông oai đức lớn. Do vua Cam giá có lỗi với tiên nhơn nên tiên nhơn niệm chú và thề độc để quở trách vua. Vua lo sợ nên tay trái dắt con gái, tay phải cầm bình vàng đem đến cho tiên nhơn lấy làm vợ, nhưng tiên nhơn không chịu”. Lúc đó Phật thấy Yêm một la tử im lặng, cúi đầu không còn oai phong nữa nên bảo Yêm một la tử: “này Ma-nạp-bà, nếu một thanh niên dòng Sát- đế-lî lấy một thiếu nữ dòng Bà-la-môn và sanh được một trai, đứa bé này có được cùng ngồi, cùng cúng tế nước và đọc sách ở trong chúng Bà-la-môn không?”, đáp là được, Phật lại hỏi: “đứa bé này có được phép quán đảnh của dòng Sát-đế-lî không?”, đáp: “được, vì đứa bé này là cháu ngoại của Bà-la-môn và là cháu nội của dòng Sát-đế-lî”, Phật lại hỏi: “nếu một thanh niên Bà-la-môn cưới thiếu nữ dòng Sát-đế-lî sanh được một trai, đứa bé này có được cùng ngồi, cùng cúng tế nước, cùng đọc sách ở trong chúng Bà-la-môn và được phép quán đảnh của dòng Sát-đế-lî không?, đáp: “được, vì đứa bé này là cháu nội của Bà- la-môn và là cháu ngoại của dòng Sát-đế-lî”, Phật lại hỏi: “nếu thanh niên dòng Sát-đế-lî phạm tội, bị dòng Sát-đế-lî đuổi đi thì đứa bé này có được cùng ngồi, cùng cúng tế nước và đọc sách ở trong chúng Bà-la- môn không?”, đáp là được, lại hỏi: “có được phép quán đảnh của dòng Sát-đế-lî không?”, đáp: “được, vì đứa bé này là người thân”, Phật nói: “này Ma-nạp-bà, nếu thanh niên Bà-la-môn bị Bà-la-môn đuổi đi thì đứa bé này có được cùng ngồi, cùng cúng tế nước và đọc sách ở trong chúng Bà-la-môn không?”, đáp là không được, lại hỏi: “có được phép quán đảnh của dòng Sát-đế-lî không?”, đáp: “không được, vì người cha bị đuổi và bị gọi là Bà-la-môn Chiên đồ la”, Phật nói: “Ma-nạp-bà nên biết, người sanh ra trong dòng họ Sát-đế-lî, được dòng họ coi là tôn quý; nhưng dòng Bà-la-môn thì không như vậy. Cho nên chủ thế giới Ta bà là Phạm thiên đã nói kệ: Người kế thừa Sát lợi, Tôn quý trong loài người, Minh hạnh túc viên mãn, Đứng đầu cõi trời người. Này Ma-nạp-bà, ta nay cũng nói kệ như thế, ngươi nghó sao nếu Bà-la-môn tịnh hạnh cưới con gái Bà-la-môn sanh được một trai, đứa bé này có được cùng ngồi, cùng cúng tế nước và đọc sách ở trong chúng Bà-la-môn không?”, đáp là được, Phật nói: “nhân việc cưới gả mà chấp nhận dòng họ, nếu có ai chấp trước vào dòng họ, tự nói ta là Ma-nạp-bà thì người đó không thể được Mịnh hạnh túc vô thượng; nếu xả bỏ ngã mạn mới có thể chứng được”. Lúc đó Yêm một la tử bạch Phật: “hạng người cuồng say khinh mạn Thế tôn như con, quá khứ hiện tại cho đến vị lai đều không có, cui xin Thế tôn nói thắng pháp khiến con được chứng Minh hạnh túc”, Phật nói: “Ma-nạp-bà hãy lắng nghe, Phật có đủ 10 hiệu Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng só, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở thế gian, nói pháp yếu ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều thiện, văn nghóa xảo diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch. Người nào nghe được pháp này có thể sanh lòng tin, do tin nên chuyên tu học, biết được đời sống tại gia là nơi tích tụ khổ não, còn xuất gia là hướng đến chốn tịch tónh. Nếu ở tại gia thì thường bị phiền não trói buộc suốt đời, không thể tu tập phạm hạnh, nghó rằng: ta sẽ cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa với taâm chánh tín, bỏ nhà sống nếp sống không nhà, giữ tịnh giới đầy đủ pháp hạnh. Nếu có phạm tội nhỏ cũng sanh lo sợ, tất cả phẫm thiện thọ rồi tu học, bỏ sát sanh, dứt dao gậy, sanh tâm từ bi đối với các hữu tình, cho đến ruồi muỗi kiến cũng không sanh tâm sát hại” . Như trong phẩm Giới uẩn kinh Trường A cấp ma nói về Bà-la-môn Am bà sa. Sau đó Phật đến tụ lạc Diệp nói kinh Tứ Phật tòa cho bốn chúng, kế đến tụ lạc Nhật xuất nói pháp cho hai chị em Hiền hỷ và Minh nguyệt. Phật lại từ nước Kiều-tát-la du hành trong nhân gian đến thành Thất-la-phiệt, trưởng giả Cấp-cô-độc đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi liền im lặng. Trưởng giả chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và các Bí-sô ngày mai thọ con thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời, trưởng giả liền trở về lo liệu mọi thứ để cúng dường, sáng hôm sau sai sứ đến thỉnh Phật… Phật thọ thực rồi nói pháp cho trưởng giả được lợi hỉ rồi ra về. Sau đó các Bà-la-môn, cư só lần lượt thỉnh Phật và Thánh chúng thọ thực, khi các Bí-sô thọ thực chưa kịp ăn đã cho người nghèo đến xin trước, khiến các thí chủ chê trách, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “nên ăn xong rồi mới đem thức ăn dư cho người nghèo đến xin”. Lúc đó có hai đồng tử đến xin, một thuộc dòng Bà-la-môn, hai thuộc dòng Sát-đế-lî; đồng tử dòng Bà-la-môn không biết giờ, Tăng chưa ăn đã đến xin trước nên không được thức ăn; đồng tử dòng Sát- đế-lî đợi Tăng ăn xong mới đến xin nên được nhiều thức ăn. Do nhân duyên này, đồng tử dòng Bà-la-môn nổi giận thề độc: “nếu có quyền lực, tôi sẽ chặt đầu các đệ tử của Thích ca vất bỏ trên mặt đất”; đồng tử dòng Sát-đế-lî phát nguyện: “nếu có quyền lực, hằng ngày tôi sẽ cúng dường cho Phật và các Bí-sô thức ăn đủ sáu mùi vị”. Sau đó cả hai đến ngủ bên gốc cây, bỗng có chiếc xe ngựa phóng qua cán đứt đầu đồng tử Bà-la-môn, do việc này Phật nói kệ: “Ý thường dẫn đầu, Trong việc tạo nghiệp. Tâm mà tức giận, Mau thọ quả báo, Khổ đến bức thân, Xe cán đứt đầu”. A-nan-đà hỏi Phật kệ này có nghóa gì, Phật nói: “thầy có thấy đồng tử dòng Bà-la-môn sanh tâm bất thiện đối với Bí-sô tăng, phát lời thề độc nên bị xe cán chết. Ta vì việc này nên nói kệ trên”. Lúc đó trong thành Thất-la-phiệt có một trưởng giả qua đời, không có con kế thừa, các Bà-la-môn cư só đang bàn bạc việc này thì chợt thấy đồng tử dòng Sát-đế-lî nằm bên gốc cây, mặt trời đã nghiêng về Tây nhưng bóng cây vẫn che mát cho đồng tử. Cho là điềm lạ nên mọi người dẫn về cho kế thừa gia tài của trưởng giả. Lúc đó đồng tử suy nghó: “đây là nhờ oai lực của Phật pháp tăng, ta nên thỉnh Phật và các Bí-sô cúng dường”, nghó rồi liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho đồng tử được lợi hỉ rồi im lặng. Đồng tử chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và các Bí-sô ngày mai thọ con thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời… Phật thọ thực rồi xứng cơ nói pháp khiến cho đồng tử ngay nơi tòa ngồi chứng quả Dự lưu… đồng tử xin quy y Tam bảo cho đến trọn đời không thối chuyển, đảnh lễ Phật rồi ra về. Phật sau khi về đến trú xứ liền nói kệ: “Ý thường dẫn đầu, Trong việc tạo nghiệp, Tâm ý thanh tịnh, Liền hưởng quả lành”. A-nan-đà hỏi Phật ý nghóa của bài kệ, Phật nói: “thầy có thấy đồng tử dòng Sát-đế-lî do phát lòng tin Phật và Thánh chúng nên được các Bà-la-môn dẫn về cho kế thừa gia tài của trưởng giả, do việc này nên ta nói kệ trên”. Sau đó Phật đến tụ lạc Bà la la nói kinh Tứ Phật tòa, đến tụ lạc Thắng thổ lại nói kinh Tứ Phật tòa, kế đến tụ lạc Sư tử cũng nói kinh Tứ Phật tòa, đến tụ lạc Tân cũng nói kinh Tứ Phật tòa, vào trong thành cũng nói kinh Tứ Phật tòa. Lúc đó trong thành Vương xá có hai phạm chí tên là Vi tòa và Cao tòa ở bên ao Ma-kiệt-đà, ban đêm ăn hết số cá đã câu được, sáng hôm sau ngồi trên ghế cao tụng kệ: “Thực hành chánh pháp, Đó là Bí-sô, Xả bỏ mọi việc, Đó là đường thiền”. Do quán biết đã đến lúc điều phục được hai phạm chí này nên Phật đi đến chỗ họ nói kệ: “Ngươi nên chứng ngộ, Như đã nói kệ, Bên ngoài tợ thiện, Trong tâm bất tịnh, Lặng lẽ điều phục, Chớ hại chúng sanh, Lìa các việc ác, Đó là đường thiền. Nếu thân miệng ý, Không làm việc ác, Điều phục chính mình, Đó là đường thiền”. Hai phạm chí nghe kệ rồi suy nghó: “Kiều-đáp-ma đã biết được tâm ta”, nghó rồi liền sanh cung kính, Phật quán căn tánh xứng cơ nói bốn đế lý khiến cho hai phạm chí nghe pháp rồi liền chứng quả Dự lưu. Sau đó do các Bí-sô thấy hai phạm chí ngồi trên ghế cao nghe pháp mà được chứng quả nên bắt chước, có một Bí-sô ngồi trên ghế cao ở trước Phật nghe pháp, đáng lẽ nghe pháp xong được chứng quả nhưng Bí-sô này lại không được, Phật quán biết là do ngồi trên ghế cao nghe pháp với tâm không kính trọng nên chế học xứ không cho các Bí-sô làm như thế nữa. Sau đó Phật rời khỏi thành Vương xá đến tụ lạc Đa căn thọ vào trong làng khất thực, lúc đó có một người nữ ở thành Kiếp-tỷ-la theo chồng đến ở trong làng này, thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, liền suy nghó: “Thế tôn đã bỏ ngôi vị Luân vương xuất gia tu đạo, khất thực để sống, nếu Phật đến chỗ ta, ta sẽ cúng dường bột gạo rang”, Phật quán biết ý nghó của người nữ này nên đi đến chỗ người nữ nói rằng: “hãy bỏ thức ăn đầy bát cho ta”, thấy Phật biết được ý nghó của mình, người nữ càng thêm cung kính liền dâng đầy bát bột gạo rang. Lúc đó Phật liền móm cười, thường pháp của Phật là khi Phật móm cười, từ trong miệng phóng ra hào quang năm sắc chiếu xuống hay chiếu lên, nếu chiếu xuống thì chiếu đến ngục Vô gián và các ngục khác khiến cho chúng sanh trong đây đang bị đốt nóng liền được mát mẻ, đang bị lạnh cóng liền được ấm áp. Họ cảm thấy an lạc liền suy nghó: “ta và mọi người từ cảnh khổ địa ngục chết đi, được sanh vào cõi khác chăng?”. Thế Tôn sau khi làm cho các hữu tình kia sanh tín tâm liền hiện nhiều tướng khác nữa, thấy những tướng này họ liền suy nghó: “chúng ta không phải chết ở đây sanh về cõi kia, mà là do sức oai thần của Đại Thánh đã khiến thân tâm chúng ta hiện được an lạc”. Đã sanh tín kính thì có thể diệt các khổ, ở cõi nhơn thiên được thọ thân thắng diệu, thành chơn pháp khí thấy được lý chơn đế. Nếu hào quang chiếu lên thì đến cõi trời Sắc cứu cánh, trong hào quang diễn nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã… và nói kệ: “Người phải nghe Phật dạy Dốc cầu đạo xuất ly Phá được quân sanh tử Như voi phá nhà tranh. Ở trong pháp luật Phật Dũng tiến thường tu học Xa lìa đường sanh tử Bờ mé khổ không còn”. Hào quang này sau khi chiếu khắp ba ngàn Đại thiên thế giới liền trở về chỗ Phật, nếu Thế Tôn nói việc quá khứ thì hào quang trở vào phía sau lưng, nếu nói việc vị lai thì hào quang trở vào phía trước ngực, nếu nói việc địa ngục thì hào quang trở vào phía dưới chân, nếu nói việc bàng sanh thì hào quang trở vào phía gót chân, nếu nói việc ngạ quỷ thì hào quang trở vào phía ngón chân, nếu nói việc loài người thì hào quang trở vào đầu gối, nếu việc của Lực luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay trái, nếu nói việc của Chuyển luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay phải, nếu nói việc cõi trời thì hào quang trở vào rốn, nếu nói việc của Thanh văn thì hào quang trở vào miệng, nếu nói việc của Độc giác thì hào quang trở vào phía giữa hai chân mày, nếu nói việc của đạo quả Chánh đẳng chánh giác thì hào quang trở vào phía trên đảnh đầu. Lúc đó ánh sáng nhiễu quanh Phật ba vòng rồi vào giữa hai chân mày, A-nan-đà bạch Phật: “Thế tôn, Như lai Ứng chánh đẳng giác móm cười không phải là không có nhân duyên”, liền nói kệ thỉnh Phật… cho đến câu Phật bảo A-nan-đà: “đúng vậy, Như lai Ứng chánh đẳng giác móm cười không phải là không có nhân duyên. Thầy có thấy người nữ Bà-la-môn vừa cúng dường bột gạo rang cho ta với tâm tín kính không?”, đáp là thấy, Phật nói: “do căn lành này, từ đây về sau suốt 13 kiếp, người nữ này sẽ không đọa trong ba đường ác, chỉ luân hồi thọ sanh trong cõi trời người, thân sau cùng sẽ chứng quả Độc giác hiệu là thiện nguyện”. Tin này không mấy chốc lan truyền khắp nơi, chồng của người nữ kia đang đi vào trong rừng hái trái cây và đốn củi, nghe được tin này liền nổi giận đi đến chỗ Phật hỏi: “ông đã đến nhà tôi được vợ tôi bố thí gạo rang, ông liền thọ ký đời vị lai sẽ thành Phật Bích chi phải không?”, Phật nói phải, người chồng nói: “Kiều-đáp-ma, ông bỏ ngôi Luân vương xuất gia mà còn nói dối để được cúng bột gạo rang. Ai sẽ tin theo ông bố thí một hạt giống nhỏ mà lại được quả báo lớn như thế”, Phật nói: “Bà-la-môn, do nhân duyên này ta hỏi, ông nên tùy ý đáp. Ý ông nghó sao, ông có thấy pháp hy hữu nào không?”, đáp: “Kiều-đáp-ma, không cần pháp hy hữu nào khác, ngay trong tụ lạc Đa căn thọ này tôi đã thấy việc hy hữu. Ở phía đông làng này có cây Noa cù đà cao lớn sum suê, dưới gốc cây thường có 500 chiếc xe đậu mà không trở ngại nhau, do việc này nên lấy tên cây đặt tên ngôi làng”, Phật nói: “hạt của Đa căn thọ đó bao lớn, có lớn bằng bờ ruộng hay hàng rào dậu, trục bánh xe, cái ky hoặc bằng trái Tần loa… hay không?”, đáp: “không, chỉ bằng một phần tư của hạt cải”, Phật nói: “Bà-la-môn, ai sẽ tin điều ông nói là từ một hạt giống nhỏ như thế mà có thể sanh ra cây đại thọ cao lớn như thế”, đáp: “mặc cho ông có tin hay không, chính mắt tôi đã thấy, vả lại đất đai vùng này không cằn cỗi mà rất phì nhiêu, hạt giống tuy không lớn nhưng được gieo đúng cách, mưa gió thuận thời nên cây phát triển to lớn như thế”. Phật do nhân duyên này nói kệ: “Như ruộng và hạt giống, Ông đã chính mắt thấy. Đối với nghiệp quả báo, Như lai đích thân chứng. Như điều ông đã thấy, Hạt nhỏ thành cây lớn. Cũng vậy, ta đã thấy, Nhân nhỏ thành quả lớn”. Nói kệ rồi, Phật đưa lưỡi dài rộng ra đến mí tóc rồi hỏi Bà-la- môn: “ý ông nghó sao, người có thể đưa lưỡi dài rộng ra đến mí tóc, ở trên trăm ngàn ngôi vị luân vương mà nói dối hay chăng?”, liền đáp là không, Phật liền nói kệ: “Bản thân ta chưa từng nói dối, Tướng lưỡi rộng dài do thành Phật. Hôm nay ông phải nói như vầy : Nhờ gặp Như lai được giác ngộ”. Nghe kệ rồi Bà-la-môn liền sanh kính ngưỡng, Phật quán biết ý ngạo tùy miên xứng cơ nói pháp khiến cho Bà-la-môn này được chứng quả Dự lưu và xin quy y Tam bảo, thọ trì năm học xứ, đảnh lễ Phật rồi ra về. Sau đó Phật đến tụ lạc Trùng-tỳ-la, như trong Tạp A cấp ma có nói rõ kinh này. Kế Phật đến tụ lạc biên địa, nơi đây có cậu của Đại Mục-kiền-liên xuất gia học đạo với Tiên nhơn, Phật quán biết chỉ có Đại Mục-kiền-liên mới điều phục được ông ấy nên bảo Mục liên đến đó điều phục. Đến nơi, vị Tiên nhơn bảo mục liên: “hãy dừng lại, chớ vào, đây là chỗ tu đạo của Bà-la-môn”, đáp: “tôi cũng là Bà-la-môn”, Tiên nhơn nói kệ: “Trên thân không phạm tuyến, Không mang đồ cúng tế, Đầu trọc, chẳng thờ lửa, Vọng nói Bà-la-môn”. Mục liên nói kệ đáp: “Hổ thẹn là phạm tuyến, Chánh huệ, đồ cúng tế, Thường mang nước tịnh giới, Thanh tịnh là quân trì, Nói thật là đốt lửa. Trong tâm thường tịch định, Yên tu hạnh điều phục, Đấy chính là thờ lửa”. Tiên nhơn nói: “dù cho như vậy cũng không để Sa môn cạo tóc vào chỗ ở của tôi”. Lúc đó Đại Mục-kiền-liên liền dùng thần lực hóa sanh trận mưa lớn rồi đến ngồi bên gốc cây cạnh cái ao, thị giả của Long vương Nan-đà và Ô-ba-nan-đà sống trong ao này suy nghó: “Thánh giả Mục liên được hai long vương kính trọng, ta nên đến cúng dường”, nghó rồi liền ra khỏi Long cung, đến chỗ Mục liên đang ngồi quấn quanh tôn giả bảy vòng rồi dùng đầu che trên đầu tôn giả. Thường pháp của Tiên nhơn là nếu thấy chúng sanh bị khổ bức thân mà không khởi ý cứu giúp thì thối thất đạo tiên, lúc đó tiên nhơn suy nghó: “người xuất gia ấy gặp mưa lớn bị khổ bức thân, nếu ta không giúp sẽ thối thất đạo tiên”, nghó rồi liền đến chỗ Mục liên bảo vào trong am ngồi, Mục liên nói: “đại tiên đã mất đạo tiên”. Lúc đó tiên nhơn bỗng nhận ra người xuất gia này chính là cháu của mình, liền hỏi: “Thánh giả là Mục liên phải không?”, đáp: “mọi người gọi là Mục liên”. Lúc đó Mục liên dẫn Tiên nhơn đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật rằng: “Thế tôn, đây là cậu của con đã xuất gia theo đạo tiên, cúi xin Thế tôn thương xót cứu hộ”, Phật quán biết ý ngạo tùy miên xứng cơ nói pháp khiến cho Tiên nhơn này sau khi nghe pháp xong liền chứng quả Bất hoàn, Tiên nhơn chắp tay bạch Phật: “con nguyện được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, thành tánh Bí-sô ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”. Phật nói: “thiện lai Bí-sô”, Phật vừa nói xong râu tóc liền tự rụng, Tăng-già- lê mặc trên thân, oai nghi thành tựu. Sau khi Đại Mục-kiền-liên đi rồi, thị giả rồng còn ở đó hóa làm tiên nhơn ở trong am, lúc đó trong làng bị hạn hán, dân chúng kéo đến chỗ hóa tiên nhơn yêu cầu cứu giúp, hóa tiên nhơn bảo dân chúng hãy đến đây sống sẽ thoát nạn, dân chúng nghe theo lời đến ở. Do thị giả rồng làm lọng che cho tôn giả Mục liên nên dân trong làng đặt tên làng là Lọng rồng, sau đó có một thiện nam tín tâm ngay nơi đó xây lên một ngôi chùa. Sau đó Phật đi đến thành Ma đô lượng, như trong Tương ưng trụ có nói rõ. Kế Phật từ thành Câu lỗ du hành đến tụ lạc Đại thương và nói kinh Hộ quốc ở đó.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 9 Lúc đó Phật đi đến thành Voi, có một Bà-la-môn thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, bước đi như núi báu liền nói kệ khen ngợi Phật: “Thân sắc màu vàng ròng, Mắt trong và mày rộng, Thành tựu tâm từ bi, Đầy đủ các công đức, Bậc Điều ngự trượng phu, Là Trời trong loài Trời, Đã vượt qua biển Hữu”. Phật nghe kệ rồi liền móm cười, thường pháp của Phật là khi Phật móm cười, trong miệng phóng ra ánh sáng lớn… giống như đoạn văn trên cho đến câu ánh sáng xoay quanh Phật ba vòng rồi vào đảnh đầu. Lúc đó cụ thọ A-nan-đà bạch Phật: “Thế Tôn Như Lai Ứng chánh đẳng giác vui vẻ móm cười chẳng phải là không có nhơn duyên”, liền nói kệ thỉnh Phật: “Trên khuôn mặt Thế tôn, Phát ra ngàn hào quang, Như mặt trời mới mọc, Chiếu sáng khắp 10 phương. Lìa bỏ tâm kiêu mạn hạ liệt, Chư Phật tối thượng trên thế gian, Không duyên cớ Phật không móm cười, Điều phục phiền não các oán địch”. Thế Tôn bảo A-nan-đà: “Đúng vậy A-nan-đà, không phải không có nhân duyên mà Như Lai Ứng chánh đẳng giác miệng hiện móm cười. Thầy có nghe thấy Bà-la-môn kia nói kệ khen ngợi Ta không. Nhờ công đức thiện căn khen ngợi này, suốt trong 20 kiếp Bà-la-môn kia sẽ không đọa trong ác đạo, thường được sanh trong cõi trời người, khi mang thân cuối cùng sẽ chứng quả Phật Bích chi hiệu là Ưng tán”. Lúc đó các Bí- sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật, Phật nói: “các thầy lắng nghe, Bà-la-môn này không phải chỉ ngày nay nhờ ca ngợi Như lai nên được ta thọ ký thành Phật Bích chi, mà trong quá khứ cũng nhờ khen ngợi ta mà được vua ban cho năm tụ lạc lớn : Thuở xưa ở thành Bà-la-nê-tư có vị vua tên là Phạm thọ, dùng chánh pháp cai trị nên đất nước giàu có an vui, dân chúng đông đúc không có tật bịnh, vua rất thích người tài học. Lúc đó trong thành có một Bà-la-môn tài học, người vợ nói: “trời sắp lạnh, anh hãy đến bênvua khéo tán tụng làm cho vua hoan hỉ, vua sẽ ban cho anh áo lạnh”, Bà-la-môn liền đến chỗ vua, thấy vua cởi voi từ thành đi ra liền suy nghó: “ta nên tán tụng vua trước hay tán tụng con voi trước. Con voi này ai thấy cũng yêu mến, ta nên tán tụng voi trước”, nghó rồi liền nói kệ khen voi: “Như voi của Đế thích, Oai quang đủ sắc diệu, Mạnh mẽ và trang nghiêm, Voi của vua cũng vậy”. Vua nghe rồi rất vui liền nói kệ đáp: “Voi yêu quý của ta, Ai thấy đều hoan hỉ, Ngươi khéo ca ngợi nó, Đáng ban năm tụ lạc”. Này các Bí-sô, voi chúa ngày xưa chính là thân ta, Bà-la-môn ca ngợi voi ngày xưa chính là Bà-la-môn vừa ca ngợi ta. Xưa kia nhờ nói kệ khen ta nên được vua ban cho năm tụ lạc, ngày nay nhờ nói kệ khan ngợi ta nên được ta thọ ký sẽ chứng quả Phật Bích chi”. Sau đó Phật đến một thành lớn, sự việc như trong kinh Tứ Phật tòa có nói rõ. Kế Phật đến thành Tố lỗ yết quần, trong thành có một Bà-la-môn tên là Nhân đà la, tuổi trẻ học rộng nghe nhiều, tự cho mình là thông minh, đối với các hạng người từng không để lòng, khi nghe tin Phật đã đến thành này liền suy nghó: “ta nghe Sa môn Kiều-đáp-ma có dung mạo đoan nghiêm, ta nên đến xem vị ấy có oai nghiêm hơn ta chăng”. Lúc đó Phật đang nói pháp yếu cho đại chúng nghe, Bà-la-môn này đi đến chỗ Phật, thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng 1 tầm, sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, liền suy nghó: “Sa môn Kiều-đáp-ma đẹp hơn ta, nhưng không cao bằng ta”, nghó rồi liền nhìn lên đảnh đầu của Phật, nhưng nhìn không thấy được, bèn leo lên chỗ cao để nhìn cũng không thấy được. Phật liền nói: “cho dù ngươi có leo lên đỉnh núi Diệu cao cũng không thể nhìn thấy được, ngươi há không nghe nói các trời, A-tu-la và loài người ở thế gian đều không thể nhìn thấy được đảnh tướng của Như lai hay sao. Nếu ngươi muốn biết chiều cao của thân Như lai thì hãy ở dưới đất chỗ thờ lửa tại nhà ngươi có một cây Ngưu đầu chiên đàn , ngươi hãy rút nó lên và dùng để đo thì có thể biết được chiều cao của thân do cha mẹ sanh của như lai”, Bà-la-môn suy nghó: “đây là việc kỳ lạ ta chưa từng nghe qua”, nghó rồi liền về nhà đào lấy cây Ngưu đầu chiên đàn lên thì thấy đúng như lời Phật nói, liền sanh lòng tin nghó rằng: “Sa môn Kiều-đáp-ma chắc chắn là bậc Nhất thiết chủng trí, ta nên đến thừa sự cúng dường”, nghó rồi liền đến chỗ Phật ca ngợi rồi ngồi một bên. Phật quán biết ý ngạo tùy miên xứng cơ nói pháp khiến cho Bà-la-môn này được chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả liền xin quy y Tam bảo và thọ trì năm học xứ rồi chắp tay bạch Phật: “nếu Thế tôn cho phép, con sẽ dựng cột Ngưu đầu chiên đàn cho mọi người đều biết”, Phật nói tùy ý, Bà-la-môn liền đem cây Ngưu đầu chiên đàn ở nhà mình đến chỗ tịch tónh dựng lên rồi thiết trai hội cúng dường, các Bà-la-môn cư só khác kết cỏ kiết tường trên cột để cầu phước. Do Bà-la-môn Nhân đà la thiết trai hội này nên ngày hội ấy được gọi là ngày hội Nhân đà la. Phật hiện đại thần thông lúc nào thì ngoại đạo thất sắc thối lui lúc ấy, họ chạy đến vùng biên địa hoặc đến nhà của các cận sự Bà-la- môn. Lúc đó Phật từ nước Kiều-tát-la du hành đến tụ lạc Bà-la-môn, nghe tin Phật đến, các ngoại đạo hốt hoảng chạy đến nhà các cận sự nói rằng: “chúc các vị thêm phước, tôi xin từ giả ra đi”, họ nghe rồi liền hỏi nguyên do, liền đáp: “chúng tôi thấy các vị giàu có, không muốn các vị bại vong nên mới ra đi”, liền hỏi: “vì sao chúng tôi bị bại vong?”, đáp: “các vị nên biết Sa môn Kiều-đáp-ma cùng 1200 tùy tùng sắp đến đây, họ sẽ giáng xuống mưa đao mưa đá và làm cho vô số phụ nữ có con trở thành không con”, mọi người nói: “nếu như thế thì các vị hãy ở lại giúp chúng tôi, bỏ đi như vậy là không tốt”, các ngoại đạo nói: “nếu các vị lập giao ước thì chúng tôi sẽ ở lại, đó là làm hại Sa môn Kiều-đáp-ma”, mọi người nhận lời rồi cùng cầm dao gậy cung tên ra đứng giữa đường, có một cụ già thuộc dòng họ thích thấy vậy liền hỏi: “các vị định làm gì?”, đáp là đi giết kẻ thù, liền hỏi ai là kẻ thù, đáp là Sa môn Kiều- đáp-ma, cụ già nói: “nếu Thế tôn là kẻ thù của các ông thì ai là bạn của các ông, hãy về đi”. Cụ già thấy họ không chịu quay về liền suy nghó: “không thể nói pháp mà điều phục họ được, phải dùng oai lực mới được”, nghó rồi liền vào làng phóng hỏa khắp bốn phía khiến cho mọi người trong làng đếu kinh hãi kêu gào, những người định hại Phật nghe tiếng kêu gào liền nói với nhau: “Sa môn Kiều-đáp-ma cách đây còn xa mà đã gây tổn thất lớn cho chúng ta như thế, chúng ta hãy quay về dập tắt lửa”, nhưng khi quay về không thể nào dập tắt được ngọn lửa. Lúc đó Phật vừa đến nơi thấy vậy liền nói: “ta sẽ dập tắt lửa cho mọi người”, vừa nói dứt lời do oai lực của Phật lửa đều tắt hết, mọi người thấy rồi đều sanh lòng tin bạch Phật: “Thế tôn vì việc gì mà đến đây?”, Phật nói: “vì làm lợi ích cho mọi người nên đến”. Lúc đó Phật quán biết ý ngạo tùy miên xứng cơ nói pháp khiến cho họ được chứng quả Dự lưu, các Bí-sô đếu có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, cụ già họ Thích này vì thương người thân nên đốt làng, do nghiệp lực này có mặc vô lượng tội không?”, Phật nói: “không phải chỉ đời này vì thương người thân mà cụ già ấy đốt làng, vô số đời trong quá khứ cũng đã từng vì người thân mà đốt làng. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa trong một tụ lạc nọ có 500 con vượn sinh sống, do chúng phá hoại mùa màng nên dân trong làng bàn với nhau: “nên làm kế gì để dứt họa này?”, một người nói: “nên giết hết bầy vượn kia mới dứt được họa”, một người hỏi: “giết chúng bằng cách nào?”, một người nói: “nên chặt hết cây quanh làng, chỉ chừa lại một cây hồng rồi đặt gai góc bốn phía, khi hồng chín chúng sẽ leo lên cây hái trái ăn, lúc đó chúng ta sẽ giết hết chúng”. Mọi người nghe theo, đợi đến khi hồng chín bầy vượn leo hết lên cây liền cầm dao gậy đến để chặt cây, bầy vượn thấy đều sợ hãi chuyền qua lại trên cành nhưng vượn chúa vẫn thản nhiên ăn trái, bầy vượn nói: “chúng ta đang gặp nguy khốn, vì sao vẫn thản nhiên ăn trái?”, Vượn chúa nói kệ: “Tất cả người đa sự, Tự nhiên sanh chướng ngại, Cây lớn rất khó chặt, Cứ ăn chớ sợ hãi”. Lúc đó trong bầy vượn có một con vượn con bị cột trói trong làng đang rầu ró, một con vượn khác liền hỏi nguyên do, nó nói: “người trong làng này định giết hết quyến thuộc của tôi, tôi đang bị trói không giúp gì được nên tôi lo buồn”, vượn kia nói: “tôi sẽ mở trói cho bạn”. Được mở trói, con vượn con liền chạy đi đốt làng, những người định chặt cây nghe tiếng kêu la liền bảo nhau: “những con vượn này còn cách chúng ta xa, chưa thể giết chúng ngay được, nhưng làng đang bị cháy chúng ta phải cứu lửa trước”, nói xong họ bỏ chạy về làng lo cứu lửa, bầy vượn trèo xuống đi tránh nạn. Này các Bí-sô, con vượn con ngày xưa chính là cụ già dòng họ Thích ngày nay, không phải chỉ đời này vì thương người thân mà đốt làng, quá khứ cũng vì thương người thân mà đốt tụ lạc”. Sau đó Phật đến thành Ca-la và nói kinh Tứ Phật tòa, kế đến thành Lư hê đức ca, dừng nghỉ trong cung Dược xoa Tượng lực. Lúc đó Dược xoa này đang đi tuần tra các Dược xoa, nghe tin Phật đã vào thành và dừng nghỉ trong cung của mình, liền trở về cung đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho Dược xoa được lợi hỉ rồi im lặng. Dược xoa Tượng lực chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn hãy nghỉ lại trong cung của con đêm nay”, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời, Dược xoa Tượng lực liền hóa 500 phòng ở trong cung có đầy đủ giường, ngọa cụ… để cúng dường cho Phật và Tăng. Dược xoa Tượng lực có một Dược xoa bạn tên là Khuất để ca đang ở trong nước Ca thấp di la, liền sai sứ đến nói với người bạn ấy: “tôi đã thỉnh Phật và Tăng, ở phương Bắc chỗ bạn có trái cây gì hãy mang đến để cúng dường”. Khuất để ca chất đầy nho vào thùng đưa cho sứ Dược xoa mang về, chất thành một đống lớn, các Bí- sô nhìn thấy không biết là loại trái gì, Phật nói: “đây là trái nho trồng ở phương Bắc, các Bí-sô nên dùng lửa tác tịnh rồi mới ăn”. Lúc đó các Bí-sô tác tịnh từng trái kéo dài thời giờ, Phật nói: “không nên tác tịnh từng trái, nên ở trên đống trái cây lấy một đốm lửa tác tịnh vào ba chỗ là được”. Dược xoa Tượng lực đem thức ăn uống dâng lên cúng dường Phật và Tăng… cho đến câu Phật nói pháp cho Dược xoa được lợi hỉ rồi đứng dậy. Lúc đó Phật thấy nho còn dư nhiều nên bảo các Bí-sô ép lấy nước, các Bí-sô ép rồi nấu, do nấu chưa chín nên nước nho lên men sủi bọt lên, Phật nói: “nên nấu cho chín rồi đem cất dùng làm nước uống phi thời cho chúng tăng”. Sau khi về phòng, Phật suy nghó: “ta ra đời tuổi thọ ngắn, giờ nhập Niết-bàn của ta sắp đến mà còn nhiều việc giáo hóa cần phải làm; nếu ta cùng A-nan-đà đi đến các nước ở Bắc thiên trúc thì khó thành tựu việc giáo hóa, ta nên đi cùng Dược xoa Kim cang thủ”, nghó rồi Phật liền nói kệ gọi Dược xoa ấy đến: “Người có niệm hiền thiện, Người chánh niệm an ổn, Người chánh niệm ngủ ngon, Tư duy được tịch tónh. Người có niệm nguyện thiện, Người chánh niệm an ổn, Người chánh niệm ngủ ngon, Xa lìa tâm hơn thua”. Nói kệ rồi bảo Dược xoa cùng đi đến Bắc Thiên trúc để điều phục Long vương A-bát-la bằng thần thông. Từ xa trông thấy rừng xanh, Phật nói với Dược xoa: “sau khi ta diệt độ 100 năm, ở nơi đó sẽ có một Tỳ- ha-la được dựng lên, rất tốt cho người tu Xa-ma-tha”. Kế Phật và Dược xoa đến tụ lạc Tích tập, trong tụ lạc này có Dược xoa Giác lực rất bạo ác, tuy dân làng thường cúng tế nhưng vẫn bị dược xoa này làm tổn hại. Nghe tin Phật đã đến, dân làng cùng đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi liền im lặng. Họ chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, Dược xoa Giác lực là kẻ thù của dân làng trong một thời gian dài thường làm tổn hại, cúi xin Thế tôn thương xót chúng con điều phục dược xoa này”, lúc đó Dược xoa Giác lực cũng đang có mặt, Phật liền bảo nên bỏ tâm ác, Dược xoa Giác lực nói: “con sẽ bỏ tâm ác không làm tổn hại nữa”. Phật liền cho Dược xoa quy y Tam bảo và thọ tịnh giới, Dược xoa liền dựng lên một ngôi chùa tên là Xưng tập được những người có tín tâm cúng dường đầy đủ. Khi Phật ra đi, Dược xoa Giác lực đi theo, Phật nói: “ngươi hãy trở về giữ gìn chùa ấy, sau khi ta diệt độ ngươi hãy đem xương vai của ta cất giữ, sau này sẽ có người xây tháp thờ gọi là tháp tích tập”. Kế Phật đến tụ lạc Nê-đức-lặc-ca để điều phục Dược xoa Pháp lực… Dược xoa này dựng một ngôi chùa tên là Nê-đức-lặc-ca. Kế Phật đi đến bờ sông Tín độ thị hiện thần biến để điều phục người lái đò khiến được kiến đạo và điều phục Dược xoa Lôïc điệp, dược xoa này còn lưu lại 1 dấu chân gọi là dấu chân Lộc điệp. Kế Phật đi đến trú xứ của tiên nhơn để điều phục tiên nhơn Trượng quán, chỗ nằm ngồi của tiên nhơn đó gọi là chỗ nằm ngồi Trượng quán. Lúc đó Phật cùng Dược xoa Kim cang thủ vào trong cung của Long vương Vô đạo cán, thấy Phật vào Long vương này nổi giận khởi tâm làm hại bay lên hư không giáng xuống mưa đá và đất đá. Phật nhập định từ bi khiến cho mưa đá và đất đá biến thành các loại hương bột Chiên đàn… rơi xuống; Rồng liền phóng ra các loại binh khí thì các thứ ấy đều biến thành hoa sen bốn màu rơi xuống ; Rồng phun ra mây khói, Phật cũng dùng thần lực phóng ra mây khói khiến cho tâm cuồng mạn cống cao của rồng dứt diệt, rồng bèn vào trong cung nằm nghỉ. Lúc đó Phật suy nghó: “có hai cách điều phục rồng là làm cho nó sợ hãi hoặc làm cho nó nổi giận, nhưng đối với Long vương này, ta nên làm cho nó sợ hãi”, nghó rồi Phật bảo Dược xoa Kim cang thủ: “ngươi hãy xúc não long vương ác này”. Dược xoa vâng lời Phật dạy, cầm chày kim cang đập phá ngọn núi làm cho núi nghiêng ngã xuống lấp phân nửa ao mà rồng đang nương ở, Long vương sợ hãi định trốn chạy, Phật nhập định Hỏa giới khiến 10 phương đều có lửa. Long vương không còn đường chạy trốn, thấy chỉ có chỗ Phật đứng là không có lửa liền chạy đến chỗ Phật đảnh lễ bạch rằng: “vì sao Thế tôn não loạn tôi?”, Phật nói: “ta là Pháp vương sao lại não loạn ngươi, nếu ta không đạt được lòng từ thù thắng thì ta đã diệt độ lâu rồi và chỉ còn lại cái tên suông”, nói rồi Phật dùng bàn tay vô úy kiết tường có tướng thiên bức luân xoa lên đảnh đầu của Long vương nói rằng: “Hiền thủ nên biết, do cúng dường thức ăn uống thơm ngon và thí bình nước sạch cho các Thanh văn, đáng lẽ ngươi được sanh lên cõi trời Tam thập tam; chỉ vì ngươi phát nguyện tà vạy nên nay phải mang thân súc sanh giết hại chúng sanh, sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục”, Long vương bạch Phật: “cúi xin Thế tôn chỉ dạy cho con việc nên làm”, Phật nói: “ngươi nên quy y Tam bảo và thọ tịnh giới rồi ban sự vô úy cho dân chúng đang sống ở Ma-kiệt-đà”, Long vương nói: “con xin nghe theo lời Phật dạy”. Lúc đó Long vương cùng vợ con quyến thuộc đều quy y Tam bảo và thọ tịnh giới, kế bạch Phật: “còn có Long vương tên là Tiễn, cúi xin Thế tôn cho thọ tịnh giới để phát tâm từ bi không làm hại chúng sanh nữa”. Phật điều phục Long vương và các quyến thuộc rồng xong rồi ra đi, từ xa trông thấy một khu rừng màu xanh lục, Phật bảo Dược xoa Kim cang thủ: “sau khi ta diệt độ 100 năm, ở nước Ca thấp di la này sẽ có đệ tử Bí-sô điều phục rồng độc Hổ lỗ trà rồi xin rồng ấy một chỗ ngồi kiết già, phương tiện truyền bá chánh pháp khắp nơi đây, đây là nơi tu Tỳ-bát-xa-na tốt nhất”. Kế Phật đến tụ lạc Túc lô để điều phục Tiên nhơn và Dược xoa Bất phát tác cùng các quyến thuộc, ở tụ lạc Kiền đà điều phục nữ Dược xoa và các quyến thuộc ; kế đến thành Đạo cốc lầu các giáo hóa mẹ của vua Thắng quân khiến bà trụ nơi bốn chân đế; kế đến thành Nãi lý dật đa, trong thành này có một người thợ gốm ỷ vào nghề khéo léo của mình nên sanh ngã mạn, đồ gốm được làm ra để nguyên trên bàn quay gốm, đợi khô mới lấy xuống. Biết đã đến lúc điều phục, Phật hóa thành một thợ gốm đến nói với thợ gốm kia: “đồ gốm của ông sao giống như từ trên bàn quay gốm mới đem xuống”, đáp: “đã khô rồi mới lấy xuống”, hóa thợ gốm nói: “tôi cũng để khô rồi mới lấy xuống như ông, nhưng tôi còn có thuật khác”, liền hỏi là thuật gì, đáp: “không những ở trên bàn quay gốm làm ra đồ gốm đã thành, tôi còn có thể làm ra các vật bằng bảy báu”. Sau khi thấy rồi thợ gốm kia tin phục, lúc đó phật thu nhiếp thần biến hiện trở lại bổn thân, nói pháp vi diệu khiến cho người thợ gốm kia cùng quyến thuộc trụ nơi bốn chân đế. Sau đó Phật đến thành Lục sa nói pháp cho Dược xoa Bộ đa và các quyến thuộc, khiến họ quy y Tam bảo và thọ tịnh giới ; ở thành Hộ tích điều phục người chăn bò và Long vương Tô giá. Kế đến thành Tăng hỷ điều phục vua Thiên hữu và các quyến thuộc khiến họ trụ nơi bốn chân đế; kế điều phục bảy người con của dòng họ Chiên đồ la và Dược xoa Hộ ao cùng các quyến thuộc. Bên cạnh thành này có một cái ao lớn, A thấp phược ca và Bố nại bà tố đều thọ thân rồng ở trong ao này, sau 12 năm chúng mới xuất hiện với tâm sân giận nghó rằng: “Thế tôn không nói pháp cho ta nghe khiến chúng ta đọa trong ác đạo mang thân rồng này, chúng ta phải hủy hoại pháp Phật”, lúc đó Phật suy nghó: “hai con rồng độc này có oai lực lớn, sau khi ta diệt độ chúng sẽ phá hoại giáo pháp của ta”, nghó rồi liền đến bên ao nói với hai rồng: “ta sẽ nói pháp cho hai ngươi nghe”, hai rồng nói: “chúng tôi há có thể hiểu được hay sao?”, nói rồi liền lặn xuống nước nghó là dù Thế tôn có nói pháp chúng cũng không hiểu được, Phật liền lưu lại bóng mình trên mặt ao, thấy bóng Phật chúng cho là Phật vẫn còn ở trên bờ ao. Cũng tại nơi đây Phật điều phục hai nữ Dược xoa Na lợi ca và NA-trà đạt đa. Sau đó Phật đến thành Quân để, trong thành có một nữ dược xoa tên Quân để rất bạo ác, nó bắt con trai con gái của dân trong làng để ăn thịt. Nghe tin Phật đến ở ngoài thành, dân chúng trong thành rủ nhau ra khỏi thành đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho họ được lợi hỉ rồi liền im lặng. Dân làng chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và các Bí-sô thọ chúng con thỉnh thực vào ngày mai”… cho đến câu sau khi Phật thọ thực xong, họ cầm bình vàng đến rót nước cho Phật và cầu xin rằng: “Thế tôn đã điều phục rồng độc và dược xoa ác, Dược xoa Quân để này đã làm tổn hại chúng con trong một thời gian dài, thường bắt con của chúng con ăn thịt, cúi xin Thế tôn thương xót điều phục dược xoa này”. Lúc đó dược xoa Quân để cũng có mặt, Phật nói: “ngươi đã nghe rồi chứ, lâu nay ngươi đã phi pháp tạo nghiệp tội”, dược xoa bạch Phật: “nếu mọi người hứa lập cho con một ngôi miếu thờ thì con sẽ dứt bỏ việc làm ác này”, Phật quay qua hỏi ý kiến của dân làng, mọi người đều chập nhận lời yêu cầu của nữ Dược xoa, sau khi điều phục xong nữ Dược xoa cùng các quyến thuộc Phật đi đến tụ lạc Khát thọ la. Đến nơi thấy có một đồng tử nặn đất làm hình tháp để chơi, Phật nói với Dược xoa Kim cang thủ: “sau khi ta diệt độ, vua Ca-ny-sắc-ca sẽ xây một tháp lớn gọi là tháp Ca-ny-sắc- ca ngay chỗ đồng tử nặn hình tháp và làm nhiều Phật sự khác”. Trên đường từ tụ lạc Lư hê đắc cho đến cung của Long vương Vô đạo cán, Phật đã điều phục được bảy vạn bảy ngàn hữu tình rồi trở về trú xứ vào phòng ngồi tónh tọa, đến xế chiều xuất định bảo A-nan-đà cùng đi đến tụ lạc Cô vương, A-nan-đà bạch Phật: “Thế tôn trước có nói sẽ đến Bắc Thiên trúc để điều phục Long vương Vô đạo cán , sao nay lại bảo cùng di đến tụ lạc Cổ vương?”, Phật nói: “ta đã cùng Dược xoa Kim cang thủ đi đến Bắc Thiên trúc rồi, trên đường từ tụ lạc Lư hê đắc cho đến cung của Long vương Vô đạo cán, Ta đã điều phục được bảy vạn bảy ngàn hữu tình; ở Bắc Thiên trúc đất đai gồ ghề, nhiều gai góc, nhiều đá sỏi, lòng người độc ác, phụ nữ ác hạnh”. Khi đến tụ lạc Cổ vương, Phật bảo A-nan-đà: “trước đây vua Chúng hứa là người đầu tiên ở nơi đây thọ ngôi vị quán đảnh, do nhân duyên này mà nơi đây gọi là Cổ vương”; kế đến tụ lạc Hiền mã, Phật bảo A-nan-đà: “vào thời vua Chúng hứa, nơi đây có ngựa báu xuất hiện nên nơi đây được gọi là Hiền mã”. Phật cùng A-nan-đà kế đi đến Ma thổ la, từ xa trông thấy rừng cây màu xanh lục Phật bảo A-nan-đà: “đó là núi Ô lô môn đồ, sau khi ta diệt độ 100 năm sẽ có hai anh em Ma thổ la tên là NA-tra và Bà tra, ngay nơi đây xây lên một ngôi chùa tên là NA-tra bà tra là nơi thuận lợi nhất cho người tu tập Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xa-na. Ở Ma thổ la sẽ có một đồng tử thuộc họ Thức dược nhơn tên là Bí mật, con con trai tên là cận mật, sau khi ta diệt độ 100 năm, Cận mật sẽ xuất gia trong giáo pháp của ta, làm nhiều Phật sự. Lúc đó đệ tử của A-nan-đà có tên là Mạc điền địa sẽ độ Cận mật làm Bí-sô và đó là người cuối cùng truyền bá giáo pháp của ta. Ở trong chùa NA-tra bà tra có một cái hang dài 18 khuỷu tay, rộng 12 khuỷu tay, cao bảy khuỷu tay, những người được Cận mật giáo hóa chứng quả A-la-hán rồi đều ném một cái thẻ dài bốn ngón tay vào trong hang này. Sau khi Cận mật diệt độ, các đệ tử gom lấy số thẻ ấy lại một chỗ để làm lễ trà tỳ cho thầy mình”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn thọ ký cho Cận mật vị lai sẽ làm lợi ích các hữu tình như thế hay sao?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay Cận mật sẽ làm lợi ích mà trong quá khứ cũng đã làm nhiều lợi ích, các thầy hãy lắng nghe: Thuở xưa ở núi Ô lô môn đồ này có ba chỗ ở: một chỗ có 500 vị Duyên giác ở, một chỗ có 500 Tiên nhơn ở và một chỗ có 500 con vượn ở. Con vượn chúa vốn tánh bạo ác, hễ có vượn cái nào sanh con đều bị nó giết nên các vượn cái đều lo buồn bàn tính với nhau: “chúng ta lập ước, nếu trong chúng ta có ai mang thai thì không nên báo cho vượn chúa biết”. Sau đó có một vượn cái mang thai, các con vượn kia đem giấu kín một nơi và len hái trái cung cấp cho nó đến ngày sanh nở, đủ ngày tháng sanh ra một con vượn đực. Chúng lén nuôi dưỡng cho đến ngày trưởng thành, trưởng thành rồi nó vào bầy đánh đuổi vượn chúa ra khỏi bầy. Vượn chúa lang thang đi trong rừng dần đến chỗ ở của các vị Độc giác, tìm cách thân cận, hằng ngày hái trái mang đến cúng dường, các vị Độc giác ăn dư đem cho nó lại. Thường pháp của vị Độc giác là sau khi ăn xong thì ngồi kiết già, vượn chúa thấy rồi cũng bắt chước ngồi. Thời gian sau các vị Độc giác nghó rằng đã chứng được pháp nên chứng, việc làm đã xong nên muốn nhập Niết-bàn. Nghó như vậy nên các vị Độc giác liền bay lên hư không, thân hiện thần biến, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… rồi nhập Vô dư Niết-bàn. Con vượn này thấy di thể của vị Độc giác muốn dùng tay cởi tấm y trên mình vị Độc giác, thiện thần sợ làm tổn hại đến di thể nên đuổi vượn ra ngoài và lấp kín miệng hang. Thấy hang bị lập vượn buồn rầu bỏ đi dần đến chỗ ở của các tiên nhơn, thấy các vị này đang tu khổ hạnh, có người đưa tay lên, có người đứng nhấc một chân, có người đốt năm chỗ trên thân… vườn liền tìm cách thân cận, thường hái trái mang đến cúng dường, tiên nhơn ăn dư cho lại vượn. Sau khi thân cận rồi, vượn bắt đầu phá oai nghi của tiên, bắt tiên phải hành theo pháp của vị Độc giác, người đưa tay lên thì nó kéo xuống rồi ra dấu bảo ngồi kiết già; người đứng co chân thì nó kéo chân xuống ra dấu bảo ngồi kiết già; người đốt thân thì nó dập tắt lửa rồi ra dấu bảo ngồi kiết già… Các vị tiên này liền bạch với thầy mình: “con vượn này đã làm chướng ngại cho việc tu khổ hạnh của chúng con”, vị thầy hỏi rõ nguyên do rồi nói: “vượn có thể ghi nhớ được sự việc, chắc chắn nó đã từng thấy tiên nhơn nào tu đạo có oai nghi như vậy nên mới ra dấu bảo các con làm như thế, các con cứ ngồi kiết già theo nó bảo thử xem”. Vâng lời thầy dạy, các tiên nhơn liền ngồi kiết già, cũng do đời trước đã gieo căn lành nên đời này được quả báo, các vị tiên này ngay nơi 37 phẩm pháp Bồ-đề phần, không thầy tự ngộ chứng quả Độc giác. Lúc đó họ kính trọng con vượn, khi có trái cây ngon họ đưa cho vượn ăn trước rồi mới ăn sau, thời gian sau con vượn chết họ chất củi với hương thơm để thiêu xác vượn. Này các Bí-sô, con vượn ngày xưa sống chung với các vị Độc giác chính là Ưu-ba-cúc-đa ngày nay, do ngày xưa đã làm nhiệu việc lợi ích nên nay được ta thọ ký là sẽ làm lợi ích cho các hữu tình”. <卷>QUYỂN 10 Lúc đó các Bà-la-môn tịnh hạnh trong thành Ma thổ la nghe tin Sa môn Kiều-đáp-ma đến thành liền nói với nhau: “Sa môn Kiều-đáp-ma được mọi người khen ngợi, đã tỏ ngộ chân lý, khai thị hiển bày pháp thanh tịnh cho bốn chúng nghe, nếu ông ấy vào thành này thì chúng ta sẽ mất hết lợi dưỡng. Nghe nói Sa môn Kiều-đáp-ma sẽ không đến nơi không tôn trọng mình, nếu ở đây có người không tôn trọng thì Sa môn Kiều-đáp-ma sẽ không vào trong thành. Nếu chúng ta cho người hèn hạ đến khinh hủy thì Sa môn Kiều-đáp-ma sẽ không để lòng; nếu có người ở địa vị cao không tôn trọng và khinh hủy Sa môn Kiều-đáp-ma thì tốt, nhưng trong số chúng ta ai là người đứng đầu?”. Trong thành này có một Bà-la-môn tên là Nhó la bộ đề thông đạt Tứ minh và bốn bộ luận Vệ đà, có thể hiển bày tông phái của mình và đả phá tông phái khác, lời nói ra đều đúng sự thật. Các Bà-la-môn liền đến chỗ Nhó la bộ đề nói rằng: “Thân giáo sư, chúng con nghe tin Sa môn Kiều-đáp-ma đến thành này, ông ấy được mọi người khen ngợi… giống như đoạn văn trên cho đến câu nếu có người ở địa vị cao không tôn trong và khinh hủy Sa môn Kiều-đáp-ma thì tốt. Ngoài Thân giáo sư ra không có bậc thượng thủ nào làm được việc khinh hủy này”, Nhó la bộ đề nói: “lưỡi của tôi chuyển động tùy ý, nếu đáng khinh hủy thì tôi khinh hủy, nếu đáng ca ngợi thì tôi ca ngợi”. Lúc đó Nhó la bộ đề cùng các Bà-la-môn kỳ cựu đến chỗ Phật, Nhó la bộ đề thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, đang ngồi dưới gốc cây với oai nghi tịch tónh; thấy rồi sanh hoan hỉ liền nói kệ ca ngợi: “Nhó la rất vui mừng, Khen Phật Nhất thiết trí, Nói công đức thù thắng, Ai nghe cũng ưa thích, Khéo điều phục các căn, Như pháp tịnh thân ý, Biển công đức rộng lớn, Tôi nay lược khen ngợi, Bậc luận nghị đệ nhất, Điều phục không lầm lỗi, Biết được nghóa đệ nhất, Đả kích không dao động, Minh hạnh đều trọn vẹn, Thiện xảo các cấm giới, Thắng định vững như núi, Đủ lực Na-la-diên”… Như thế cho đến 500 bài tụng ca ngợi Phật, Phật quán biết Bà-la- môn này đã tin sâu liền nói diệu pháp khiến cho ông ta ngay nơi chỗ ngồi chứng được chơn đế lý. Sau khi trở về thành, các Bà-la-môn kỳ cựu đều quở trách Nhó la bộ đề tại sao lại khen ngợi Phật như thế, Nhó la bộ đề nói: “tôi đã có nói rằng lưỡi của tôi chuyển động tùy ý, nếu đáng khinh hủy thì tôi khinh hủy, nếu đáng ca ngợi thì tôi ca ngợi. Do tôi thấy Sa môn Kiều-đáp-ma có công đức lớn, đáng ca ngợi nên tôi ca ngợi, các vị không nên quở trách tôi”. Sáng hôm sau Phật cùng đại chúng đắp y mang bát định vào thành khất thực, hôm đó nhằm ngày hội cúng sao ở trong thành, nữ thần Tinh tú suy nghó: “nếu Sa môn Kiều-đáp-ma vào thành thì ngày lễ cúng sao của ta sẽ bị chướng ngại, ta phải phương tiện khiến ông ta không vào thành”, nghó rồi liền hiện thân lõa hình ở trước Phật, Phật bảo nữ thần: “dù cho ngươi có trang sức với y phục đẹp đẽ vẫn còn chưa đẹp, huống chi là lõa hình”, nữ thần nghe lời này rồi hổ thẹn biến mất. Lúc đó Phật dừng lại ở bên đường trải tòa ngồi trước đại chúng nói rằng: “thành Ma thổ la này có năm điều xấu: 1. Là đất đai không bằng phẳng. 2.Là nhiều gai gốc. 3.Là người dân chỉ ăn một loại thức ăn. 5. Là có nhiều người nữ. Vì thế chúng ta không nên vào thành này”, nói rồi Phật rời khỏi chỗ ngồi đi đến vườn của Dược xoa Lư ngồi cạnh một gốc cây với đại chúng vây quanh. Dân chúng trong thành nghe biết được tin này liền cùng làm các món ăn chở đến chỗ Phật để cúng dường, đến nơi rồi đảnh lễ Phật và ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho mọi người được lợi hỉ rồi liền im lặng. Dân chúng chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, chúng con đã lo liệu các món ăn tinh khiết chở đến để cúng dường, cúi xin Thế tôn thương xót thọ”, Phật bảo A-nan-đà: “hãy tập họp tất cả các Bí-sô đang ở trong cung Dược xoa Lư đến để thọ cúng dường”. A-nan-đà vâng lời Phật đi tập họp các Bí-sô xong rồi bạch Phật: “xin Phật biết thời”… cho đến câu Phật thọ thực xong, dân chúng trong thành Ma thổ la bạch Phật: “Thế tôn đã điều phục Dược xoa và rồng dữ, dược xoa Lư này đã làm tổn hại chúng con trong một thời gian dài nên không oán mà thành oán, không thù mà thành thù, không nghịch mà thành nghịch. Con của chúng con đều bị nó bắt ăn thịt hết, cúi xin Thế tôn thương xót điều phục dược xoa này”. Lúc đó Dược xoa Lư cũng có mặt, Phật liền bảo dược xoa: “đây là việc phi pháp, ngươi nên nhàm lìa”, Dược xoa bạch Phật: “nếu mọi người có thể xây một Tỳ-ha-la cho tứ phương tăng thì con sẽ bỏ việc ác này, không làm tổn hại nữa”, Phật quay sang hỏi ý kiến của dân chúng trong thành, mọi người đều chấp nhận lời yêu cầu này. Sau khi điều phục được Dược xoa Lư, Phật lần lượt điều phục các dược xoa Trì, Lâm và nữ Dược xoa Ha lê ca; kế hiện đại thần thông vào thành Ma thổ la điều phục nữ dược xoa Ám cùng 500 quyến thuộc của nó. Tổng cộng Phật đã điều phục 2500 Dược xoa ở trong thành và ngoài thành Ma thổ la, những người tín tâm đã tạo dựng tất cả 2500 trú xứ. Sau đó Phật đi đến tụ lạc Ổ đạt la và dừng nghỉ trong rừng Ổ đạt la, lúc đó Bà-la-môn Ổ đạt la diên nghe tin này liền đi xe ngựA-trắng, tay cầm gậy vàng và bình nước bằng vàng cùng các quyến thuộc ra khỏi thành đến chỗ Phật, nơi nào đường sá thông suốt thì đi xe, nơi nào không thông thì đi bộ. Đến nơi rồi liền thăm hỏi sức khỏe của Phật, sau đó Bà-la-môn bạch Phật: “Thế tôn cho phép con hỏi vài câu”, Phật nói tùy ý hỏi, liền hỏi: “năm Căn đối với các giới xứ đều giữ đối tượng riêng của mình, không giữ đối tượng khác. Sao gọi là giới xứ và giới xứ nhiếp?”, Phật nói: “năm Căn đối với các giới xứ đều thu nhiếp đối tượng riêng của mình, không thu nhiếp đối tượng khác, đó là nhãn giới xứ cho đến thân giới xứ. Các căn này do ý nhiếp thọ và y chỉ nơi ý”, lại hỏi ý y chỉ nơi đâu, đáp là y chỉ nơi niệm, lại hỏi niệm y chỉ nơi đâu, đáp là y chỉ nơi Tứ niệm xứ, lại hỏi Tứ niệm xứ y chỉ nơi đâu, đáp là y chỉ nơi Thất giác chi, lại hỏi Thất giác chi y chỉ nơi đâu, đáp là y chỉ nơi Minh giải thoát, lại hỏi Minh giải thoát y chỉ nơi đâu, đáp là y chỉ nơi Niết-bàn, lại hỏi Niết-bàn y chỉ nơi đâu, Phật nói: “này Bà-la-môn, điều mà ông vừa hỏi quả thật xa vời vì ông không thể đến được cảnh giới đó, việc tu phạm hạnh của ta là đoạn trừ khổ đau, không con cảnh khổ nữa”, nghe Phật nói rồi Bà-la-môn hoan hỉ ra về và nghó cách làm tổn hại Phật, ông nghó: “ta nghe nói người nào cúng dường cho Phật và chúng Thanh văn phát nguyện gì đều được như ý”, nghó rồi liền trở lại chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và các Bí-sô thọ con thỉnh thực vào ngày mai”… cho đến câu Bà-la-môn phát nguyện: “nguyện cho Sa môn Kiều-đáp-ma và các đệ tử thọ con thỉnh thực rồi sẽ làm bò trong nhà con”. Lúc đó Phật biết được ý nghó này liền nói với Bà-la-môn: “lời ông phát nguyện là phi pháp nên không thể thành tựu vì các Bí-sô đã không còn thọ thân sau”. Sau khi trở về trú xứ Phật bảo các Bí-sô: “Bà- la-môn Ổ đạt la diên đã phát nguyện ác, các thầy nên tụng kệ chú của Phật quá khứ để lời phát nguyện kia không thành tựu”. Sáng hôm sau Phật cùng A-nan-đà vào làng khất thực, lúc đó có một bà lão tên là Ca chiến la định đi đến giếng múc nước, Phật quán biết bà lão này đã đến lúc hóa độ liền bảo A-nan-đà: “thầy hãy đến chỗ bà lão nói rằng Thế tôn cần nước, bà hãy đem nước đến”. Bà lão nghe A-nan-đà nói xong liền mang nước đến cho Phật, thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, như núi báu di chuyển, bà lão sanh tâm yêu mến như mẹ yêu con, liền đưa tay định ôm Phật và kêu con ơi. A-nan-đà định cản ngăn nhưng Phật nói không nên ngăn: “vì bà lão này trong 500 đời đã từng làm mẹ của ta, nếu không để cho bà ấy ôm ta, bà sẽ hộc máu”, nói rồi Phật nghiêng đầu cổ cho bà lão ôm rồi xứng cơ nói pháp cho bà nghe, khiến cho bà trụ nơi bốn chân đế lý, chứng quả Dự lưu. Chứng quả rồi bà bạch Phật: “Thế tôn đã mang lại lợi ích cho con, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được, khiến con hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đếu bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả”, liền nói kệ: “Việc làm của con thảo, Là báo ân từ mẫu, Tôi nay nhờ Phật quang, Tiến trên đường Niết-bàn. Lành thay việc hy hữu, Thoát khỏi ba đường ác, Tôi dùng chút ít công, Mau đến chỗ Vô ưu”. Nói kệ rồi đảnh lễ Phật ra về. Thời gian sau được chồng cho phép xuất gia, bà đến đảnh lễ Phật bạch rằng: “Thế tôn, con nguyện được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô ni ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”. Phật chấp thuận và giao bà cho Đại thế chủ, Đại thế chủ cho bà xuất gia và thọ cận viên rồi chỉ dạy pháp yếu, bà siêng năng tu học, không bao lâu sau phiền não đốn trừ chứng được quả A-la-hán, thoát ly ba cõi đáng được trời người cúng dường. Sau đó bà đem pháp yếu đã được nghe giảng lại cho người khác, Phật nói bà là người phân tích kinh pháp bậc nhất trong chúng Bí-sô ni Thanh văn. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Bí-sô ni Chiến Ca-la đã từng tạo nghiệp gì mà về già mới xuất gia, lại do duyên gì mà chịu nghèo hèn, thân cuối cùng không có thai, lại được xuất gia chứng quả A-la-hán, trong việc thuyết pháp sao lại được tối thắng?”, Phật bảo các Bí-sô: “Bí-sô ni Chiến Ca-la đã từng tạo nghiệp lành tích tụ tư lương… ngày nay tự thọ lấy quả báo. Các thầy nên biết, ngày xưa khi ta còn hành đạo Bồ-tát, bà đã từng làm mẹ ta, do nghiệp này nên nay được xuất gia lúc tuổi già. Khi ta hành đạo Bồ-tát bà đã từng ngăn cản, lại không làm việc thiện, còn phu nhân Ma-da thì thường làm việc thiện nên bị sẩy thai. Vào thời Phật Ca-diếp, bà đã nhục mạ các Thức xoa, Bí-sô ni Hữu học và Vô học gọi là nô tỳ, nên nay mang thân nô tỳ nghèo hèn. Lại do ở trong giáo pháp của Phật ca-diếp xuất gia đọc tụng nghe pháp nên Uẩn thiện xảo, giới xứ duyên khởi thiện xảo, xứ phi xứ thiện xảo nên nay được xuất gia trong giáo pháp của ta, đoạn trừ phiền não chứng quả Vô học. Khi xưa Thân giáo sư của bà ở trong giáo pháp của Phật Ca-diếp là người thuyết pháp bậc nhất nên khi sắp qua đời bà đã phát nguyện: “nguyện nhờ công đức thiện căn tu phạm hạnh này ở đời vị lai lúc con người thọ 100 tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ 10 hiệu, tôi sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán và được Phật thọ ký là thuyết pháp bậc nhất trong chúng Thanh văn ni như Thân giáo sư của con”. Do lời phát nguyện này nên nay Bí-sô ni ấy là người thuyết pháp bậc nhất trong giáo pháp của ta. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen ; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng… các thầy nên học như thế.” Sau đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến tụ lạc Phệ la, khi đến một khu vườn, trong vườn có một Bà-la-môn đang tưới cây, thấy Phật đến liền suy nghó: “nếu Sa môn Kiều-đáp-ma vào đây thì nước giếng sẽ bị dơ bẩn”, nghó rồi liền giấu gàu nước. Lúc đó Phật dùng thần lực vào trong vườn khiến cho nước trong giếng chảy đầy tràn ra ngoài, Bà-la- môn thấy rồi liền khởi tín tâm đưa gàu nước cho Phật, Phật nói kệ: “Khắp nơi đều có nước, Dùng nước giếng làm gì, Dứt ý tưởng khát Ái, Còn cầu mong gì nữa”. Bà-la-môn bạch Phật: “Thế tôn, con nguyện được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”. Phật nói thiện lai Bí-sô… cho đến Phật nói kệ: “Thế tôn gọi “Thiện lai”, Tóc rụng, đủ y bát, Các căn đều tịch tónh, Thành tựu theo ý niệm”. Nhờ siêng năng tinh tấn, không bao lâu sau Bí-sô này đoạn hết phiền não chứng quả A-la-hán… Thích phạm chư thiên đều cung kính. Sau đó Phật du hành đến thành Tỳ lan để, dừng nghỉ dước gốc cây Luyện mộc, vua trong thành tên là Hỏa thọ nghe tin này liền suy nghó: “Sa môn Kiều-đáp-ma được các vua nước khác cung kính cúng dường, ta cũng nên tôn trọng cúng dường để khỏi bị chê cười là Như lai vào trong nước, vua Hỏa thọ đã không cúng dường”, nghó rồi vua xa giá ra khỏi thành đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi liền im lặng. Vua chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và các Bí-sô thọ con thỉnh cúng dường tứ sự trong ba tháng hạ an cư”, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời vua vui mừng trở về cung ra lịnh quần thần: “hằng ngày các khanh nên chuẩn bị 18 món ăn ngon và thông báo khắp trong nước không ai được cúng dường cho Sa môn Kiều-đáp-ma, nếu tự ý cúng dường sẽ bị giết”. Đêm hôm đó vua nằm mộng thấy có màn trắng vây quanh cung thành, tỉnh mộng trong lòng lo lắng suy tư không biết là điềm lành hay điềm dữ. Sáng hôm sau kể lại giấc mông cho quốc sư nghe và hỏi là tốt hay xấu, vị quốc sư này suy nghó: “giấc mộng này báo điềm lành, nhưng nếu ta nói là điềm lành thì vua sẽ thêm cung kính cúng dường Sa môn Kiều-đáp-ma, ta nên nói là điềm xấu”, nghó rồi liền tâu vua rằng: “giấc mộng này báo điềm chẳng lành, vua có thể bị mất ngôi hoặc chết”, vua hỏi có cách gì cứu vãn thì quốc sư nói: “trong ba tháng hạ vua nên ẩn trong thâm cung đừng cho ai gặp mặt, nếu được như vậy thì vua sẽ không mất ngôi cũng không bị chết”, vua nghe theo lời quốc sư nên ra thông báo khắp trong nước không ai được gặp vua trong ba tháng ha, nếu ai trái lịnh sẽ mất mạngï rồi ẩn mình trong thâm cung. Sáng sớm hôm đó A-nan-đà đến trong cung xin được gặp vua thì thấy trong cung yên lặng, liền hỏi người giữ cửa: “vua Hỏa thọ đã thỉnh Phật và tăng cúng dường ba tháng hạ, vì sao trong cung im lìm không có chuẩn bị gì hết?”, người giữ cửa nói: “Thánh giả, vua tuy có ra lịnh chuẩn bị các món ăn ngon nhưng không nói rõ là chuẩn bị cho ai”, A- nan-đà bảo vào bạch vua, liền đáp: “vua đã ra lịnh khắp trong nước không ai được gặp mặt vua, nếu ai trái lịnh sẽ mất mạng”, A-nan-đà nghe rồi liền trở về bạch Phật, Phật bảo A-nan-đà: “thầy hãy đắp Tăng kỳ chi dẫn theo 1 thị giả vào thành ở nơi ngã tư đường thông báo: ai có lòng tin cúng dường cho Phật và các Bí-sô trong ba tháng hạ thì bây giờ là đúng lúc”, A-nan-đà vâng lời Phật dạy đi thông báo nhưng dân chúng trong thành đều nói: “Thánh giả, chúng tôi có thể cúng dường đầy đủ cho Phật và các Bí-sô trong ba tháng hạ, nhưng nhà vua đã ra lịnh không ai được cúng dường cho Phật và tăng trong ba tháng hạ, nếu ai làm trái sẽ giết”. Lúc đó có một thương chủ từ phương Bắc đến với 500 thớt ngựa đến thành này, ông nghó: “bây giờ là mùa mưa nếu ta đi tiếp sợ bùn lầy làm cho ngựa bị thối móng”, nghó rồi liền dừng lại trong thành ở suốt ba tháng mùa mưa. Con Trí mã của ông mỗi ngày ăn hai thăng lúa mạch, các con ngựa khác mỗi ngày ăn một thăng, khi thương chủ nghe biết việc này nghó là mình không phải là người ở lâu trong đất nước này nên nói với A-nan-đà: “Thánh giả, nếu Thế tôn có thể ăn được lúa mạch của ngựa thì mỗi ngày tôi sẽ cúng dường cho Phật hai thăng, còn các Bí-sô khác mỗi người một thăng”, A-nan-đà liền đem việc này bạch Phật, Phật suy nghó: “do ta đã tạo nghiệp nên nay tự thọ lấy quả báo…” cho đến Phật nói kệ: “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Nói kệ rồi Phật bảo A-nan-đà: “thầy hãy đi thông báo cho các Bí- sô: nếu ai có thể cùng Thế tôn ở nơi đây an cư và ăn lúa mạch của ngựa trong ba tháng thì hãy lấy thẻ”, A-nan-đà vâng lời Phật dạy đi thông báo, như thế có tất cả 498 Bí-sô đều lấy thẻ. Lúc đó Xá-lợi-tử bạch Phật: “Thế tôn, con bị bịnh phong không thể ăn lúa mạch của ngựa suốt trong ba tháng”, Đại Mục-kiền-liên cũng bạch Phật: “Thế tôn, con xin đi theo chăm sóc cho tôn giả”. Phật và 498 Bí-sô ở lại an cư còn Xá-lợi- tử và Đại Mục-kiền-liên lên núi tam phong an cư và được vua trời Đế thích cúng dường trong ba tháng. Lúc đó Phật bảo A-nan-đà lo liệu lúa mạch mà thương chủ đem đến cúng, A-nan-đà đem lúa mạch đến nhà một bà lão trong làng nhờ liệu lý, bà nói: “Thánh giả, tôi đã già yếu không thể liệu lý, Thánh giả hãy nhờ thiếu nữ ở nhà kế bên”, A-nan-đà liền đến nhờ thiếu nữ, thiếu nữ nói: “nếu Thánh giả chịu trả lời câu hỏi của tôi thì tôi sẽ lo liệu số lúa mạch này”, A-nan-đà nhận lời, thiếu nữ hỏi Phật nghóa là gì, A-nan-đà suy nghó: “nghóa Phật sâu xa khó hiểu, nếu ta nói sợ cô ấy không hiểu được, ta nên nói việc của Chuyển lu- ân Thánh vương”, nghó rồi liền nói: “này cô, nếu Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời thì có đủ bảy báu: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần chỉ huy quân đội báu và ngọc ma ni báu. Bánh xe báu xuất hiện như thế nào? Nếu Chuyển luân Thánh vương dòng Sát-đế-lî quán đảnh tắm gội sạch sẽ ròi cùng quần thần lên lầu cao, bánh xe báu sẽ xuất hiện từ phương Đông màu vàng ròng đủ ngàn căm. Lúc đó vua suy nghó: “ta từng nghe vua Sát-đế-lî quán đảnh vào ngày 15 tắm gội sạch sẽ lên lầu cao mà có bánh xe báu hiện đến thì chắc chắn thành tựu ngôi vị Chuyển luân Thánh vương, ta phải thử xem”, nghó rồi vua rồi khỏi chỗ ngồi quỳ xuống, hai tay nâng bánh xe báu lên rồi phát nguyện: “Luân bảo thắng diệu, hãy hiển hiện việc mà Chuyển luân Thánh vương quá khứ đã làm”. Phát nguyện xong, vua cùng bánh xe báu và bốn binh liền bay lên hư không tới những nơi mà Luân vương quá khứ đã tới, bánh xe báu dừng lại nơi nào, vua dừng lại nơi đó. Lúc đó tám vạn bốn ngàn vua của các nước nhỏ đều đến chỗ Luân vương tâu rằng: “đại thiên đã đến, đất nước tôi dân chúng đông đúc, giàu có an vui, xin thiên vương dừng lại nơi đây, chúng thần sẽ làm thị vệ”. Luân vương nói: “các khanh hãy dùng chánh pháp giáo hóa thế gian, không được ở chung với người phi pháp, ai làm như vậy chính là thị vệ của ta”. Bánh xe báu đi đến khắp bốn phương điều phục tất cả rồi quay trở về cung điện của vua. Voi báu xuất hiện như thế nào? Voi có màu hoa sen, bảy Chi đầy đặn, hình dáng đẹp đẽ oai vệ. Vua nhìn thấy rồi vui vẻ khen là voi báu hiền thiện, kế cho gọi người giỏi điều phục voi đến bảo điều phục voi báu xong thì dẫn đến chỗ vua. Người điều phục voi sau khi điều phục voi xong liền dẫn đến chỗ vua, vì muốn thử voi nên sáng sớm vua cỡi voi ra khỏi cung đi khắp bốn phương, đến giờ ăn mới trở về cung. Ngựa báu xuất hiện như thế nào? Ngựa có màu xanh biếc, đầu đen nhánh dáng vẻ đẹp đẽ hiên ngang. Vua nhìn thấy rồi vui vẻ khen là ngựa báu hiền thiện, kế cho gọi người giỏi điều phục ngựa đến… giống như trường hợp voi báu, vì muốn thử ngựa, vào sáng sớm vua cỡi ngựa đi khắp bốn phương… Ngọc Ma ni báu có màu xanh biếc như lưu ly, đủ tám góc, ánh sáng rực rỡ chiếu phá tối tăm… Nữ báu dung mạo đoan chánh xinh đẹp, các lỗ chân lông trên thân đều phát ra mùi hương Chiên đàn, miệng phát ra mùi thơm hoa sen xanh, khi lạnh chạm vào nàng thì được ấm, khi nóng chạm vào nàng thì được mát.” Khi A-nan-đà nói đến nữ báu thì thiếu nữ đã liệu lý xong lúa mạch, cô đảnh lễ tôn giả rồi phát nguyện: “nguyện nhờ phước nghiệp này, đời vị lai con sẽ được làm nữ báu của Luân vương”. A-nan-đà mang lúa mạch về đến chỗ Phật, Phật tuy đã quán biết mọi việc nhưng vẫn hỏi A-nan-đà là ai đã liệu lý số lúa mạch này, A-nan-đà liền đem sự việc trên kể lại, Phật nói: “vì sao thầy không nói công đức của Phật mà nói việc của luân vương?”, đáp: “lúc đó con nghó là công đức của Phật sâu xa sợ thiếu nữ đó nghe không hiểu được nên mới nói việc của luân vương”, Phật nói: “thầy đã sai rồi, nếu thầy nói về công đức của Phật thì thiếu nữ này ắt sẽ phát tâm vô thượng Bồ-đề không thối chuyển. Nhưng do nguyện lực vừa rồi, thiếu nữ ấy đời vị lai sẽ làm nữ báu của Luân vương”. Lúc đó mọi người khắp xa gần đều nghe biết việc thiếu nữ nhờ liệu lý lúa mạch cho Phật mà được Phật thọ ký làm nữ báu của Luân vương, sau đó liền có 500 thiếu nữ phát tâm liệu lý lúa mạch cho các Bí-sô và đều phát nguyện làm thị nữ cho nữ báu của luân vương. Khi A-nan-đà thấy Phật ăn lúa mạch liền khóc than rằng: “suốt trong ba đại kiếp Phật đã tu các nghiệp lành, tại sao ngày nay ở trong thành này lại phải ăn lúa mạch của ngựa”, Phật liền bảo A-nan- đà: “thầy có muốn ăn thử một hạt lúa mạch dư này không?”, A-nan-đà liền ăn thử , cảm thấy mùi vị rất thơm ngon nên bạch Phật rằng: “từ trước đến nay con chưa từng nếm được mùi vị thơm ngon như thế này”, Phật nói: “dù cho là lúa mạch của ngựa vào miệng của Như lai cũng trở thành vị cam lồ, ngon ngọt hơn tất cả các mùi vị”. Lúc đó vua của các nước xa gần đều nghe biết việc vua Hỏa thọ thỉnh Phật và các Bí-sô cúng dường ba tháng an cư rồi lại ẩn mình trong thâm cung, khiến Phật và tăng phải ăn lúa mạch của ngựa liền phái sứ giả đến gặp vua, nhưng không được vào gặp phải ở ngoài cửa. Lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc liền cho 500 xe chở gạo thơm ngon đến chỗ Phật, Ma vương biết được liền hiện thân cụ thọ A-nan-đà đến ngăn không cho chở đến chỗ Phật, nói với đoàn xe chở lương thực rằng: “trời rồng dược xoa kính trọng Thế tôn, chỉ cần đưa bát ngửa lên trời là có thức ăn thơm ngon của trời tam thập tam cúng dường đầy bát. Làm gì có việc Thế tôn ăn lúa mạch của ngựa, hãy mau quay xe trở về đi”. Mọi người không chịu quay trở lai nên ma vương biến hóa mưa gió lớn làm nước dâng tràn ngập đến trục bánh xe không thể đi được. Vì vậy suốt trong ba tháng hạ Phật và tăng đếu phải ăn lúa mạch của ngựa, còn hai tôn giả Xá-lợi-tử và Đại Mục-kiền-liên ở trên núi thọ chư thiên cúng dường. Mãn ba tháng, thương chủ đến thỉnh Phật và Tăng thọ thực với các món ăn ngon… cho đến câu sau khi Phật thọ thực xong, thương chủ đảnh lễ Phật rồi phát nguyện: “nguyện nhời căn lành này, đời vị lai con sẽ được làm Chuyển luân Thánh vương, Trí mã của con đang cỡi sẽ là Thái tử, 500 con ngựa còn lại sẽ là con của con, người nữ được Phật thọ ký sẽ là nữ báu của con, 500 người nữ kia sẽ là thể nữ của con”, Phật quán biết ý nghó của thương chủ liền nói: “này thương chủ, ý nguyện của ông sẽ được thành tựu ở đời vị lai”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 11 Lúc đó vua Hỏa thọ ở trong thâm cung mong thấy điềm lành, cụ thọ A-nan-đà đến cửa cung vua xin được gặp vua. Vì đã mãn ba tháng nên người giữ cửa liền vào tâu với vua có Thánh giả A-nan-đà xin được gặp, vua nói: “ta đang mong thấy điềm lành, Bí-sô A-nan-đà là người thuộc dòng họ tôn quý, là người có phước đức, có danh văn, dung sắc tốt đẹp, lời nói ra đều hiền thiện, siêng tu các phẩm thiện nên cho vào, không nên ngăn cản”. Lúc đó sứ giả của các nước cũng cùng cụ thọ A-nan-đà vào gặp vua, sau khi hỏi thăm sức khỏe vua rồi, A-nan-đà nói: “Thế tôn gởi lời thăm hỏi Đại vương và bảo rằng: “Phật và Thánh chúng đã an cư trong nước của vua đủ ba tháng, nay muốn ra đi”, nên sai tôi đến báo cho Đại vương biết”, vua nói: “trong mùa hạ vừa qua, Thế tôn có an lạc không, ăn uống có đầy đủ không?”, sứ giả các nước nói: “Đại vương vô đạo, đã thỉnh Phật và Tăng cúng dường ba tháng an cư lại ẩn mình trong thâm cung, không hỏi han gì đến cũng không cho ai gặp mặt, khiến cho Thế tôn đã phải ăn lúa mạch của ngựa suốt ba tháng”, vua hỏi A-nan-đà: “Thánh giả, có thật Thế tôn và chúng tăng đã ăn lúa mạch của ngựa suốt trong ba tháng không?”, đáp là thật, vua nghe rồi liền té xỉu, phải lấy nước rưới lên mặt mới tỉnh lại, vua cho gọi quần thần đến hỏi: “ta đã ra lịnh mỗi ngày chuẩn bị các món ăn ngon, các khanh không làm như vậy hay sao?”, đáp: “Đại vương tuy có bảo như thế, nhưng lại không bảo chuẩn bị các món ăn đó cho ai”. Sau đó vua Hỏa thọ đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi im lặng. Vua chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, con có lỗi rất lớn, do con ngu si không phân biệt hiền thiện, thiếu khôn khéo nên trước đây đã thỉnh Thế tôn và chúng tăng cúng dường ba tháng an cư, lại ẩn mình trong thâm cung … Cúi xin Thế tôn thương xót cho con sám hối”, Phật nói: “Đại vương, đúng như vua đã nói do vua ngu si không phân biệt…; nhưng Đại vương nên biết, ai gây lỗi lầm mà biết tự hối thì tội tự tiêu diệt, phước đức tăng thêm, vì sao, vì do thấy tội và biết sám hối”, vua bạch Phật: “cúi xin Thế tôn và chúng tăng thọ con cúng dường tứ sự trọn đời”, Phật nói: “Đại vương, Như lai ra đời thọ mạng ngắn ngủi, những người chưa được độ còn rất nhiều mà giờ nhập Niết-bàn sắp đến, ta không thể thọ sự cúng dường của vua trọn đời được”, vua bạch: “nếu Thế tôn không thọ con cúng dường trọn đời thì xin thọ con cúng dường trong bảy năm … cho đến bảy ngày”, Phật đều không nhận, vua lại bạch: “nếu vậy xin Phật và chúng tăng thọ con cúng dường vào ngày mai”, Phật suy nghó: “nếu không thọ lời thỉnh này, vua sẽ hộc máu mà chết”, nghó rồi Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời, vua đảnh lễ Phật rồi trở về cung hỏi quần thần: “các khanh có cách gì làm cho Phật và tăng thọ hết các món cúng dường vào ngày mai không?”, đáp: “hãy để trên đất rồi thỉnh Phật và tăng đi qua, như thế cũng coi như là đã ăn”. Vua liền ra lịnh làm theo cách đó, lúc đó trong chúng tăng có một vị lớn tuổi mới xuất gia, trong tâm còn sân hận việc vua thỉnh Phật và Tăng cúng dường ba tháng hạ, lại để cho Phật và tăng ăn lúa mạch của ngựa, nên dùng chân hất đổ các món ăn cúng dường để trên đất. Các trưởng giả, Bà-la-môn thấy đều chê trách, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, do nhân duyên này Phật chế học xứ không được dùng chân đá đổ thức ăn để ăn, nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn trước đã tạo nghiệp gì mà trải qua vô số kiếp xả bỏ đầu mắt… bố thí, đã thành tựu quả vị Chánh đẳng giác mà ngày nay lại còn phải cùng 498 Bí-sô đến trong thành này ăn lúa mạch của ngựa trong ba tháng an cư; 2 cụ thọ Xá-lợi-tử và Đại Mục-kiền-liên vì sao lại được chư thiên cúng dường?”, Phật bảo các Bí-sô: “nghiệp đã tạo xưa kia, ngày nay trở lại tự thọ. “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa lúc con người thọ đến tám vạn bốn ngàn tuổi, có Phật hiệu là Tỳ-bà-thi Như lai, Ứng chánh đẳng giác, đủ 10 hiệu. Phật cùng tám vạn bốn ngàn Bí-sô trụ ở gần kinh đô thành Thân huệ, trong thành có một Bà-la-môn dạy học cho 500 đồng tử rất được dân chúng trong thành tôn trọng, cúng dường như một vị Ứng cúng. Khi Tỳ-bà-thi Như lai đến trụ nơi này thì dân chúng trong thành không còn cung kính tôn trọng cúng dường Bà-la-môn như trước nữa, điều này khiến ông ta sanh tâm tật đố đối với Phật và tăng. Vào một buổi sáng, các Bí-sô Hữu học và Vô học đắp y mang bát vào thành khất thực được đầy bát thức ăn ngon. Bà-la-môn thấy rồi liền gọi đến để xem đã khất thực được gì, do tật đố nên nói với các học trò: “những người này không đáng được cúng dường các món ăn ngon như thế, chỉ nên thí cho họ lúa mạch thô”, các học trò hùa nhau nói theo: “đúng như lời Thân giáo sư nói, họ chỉ đáng được ăn lúa mạch thô”. Lúc đó trong số học trò có hai người nói: “Ô-ba- đà-da, chớ nên nói lời này. Phật và Tăng chính là bậc ứng cúng, đáng được chư thiên cúng dường không phải có người cúng dường mà thôi”. Này các Bí-sô, Bà-la-môn ngày xưa chính là ta ngày nay, các học trò nói hùa theo chính là 498 Bí-sô ngày nay, hai học trò hiền thiện ngày xưa chính là Xá-lợi-tử và Đại Mục-kiền-liên ngày nay. Do trước kia ta đối với Tỳ-bà-thi Như lai và các Bí-sô Hữu học, vô học sanh tâm tật đố nói ra lời bất thiện; các học trò nói hùa theo nên ngày nay cùng chịu quả báo này, hai học trò không nói hùa theo, nhờ thiện nghiệp đó nên ngày nay được chư thiên cúng dường. Cho nên Ta thường tuyên thuyết: “hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng, tạo nghiệp xen tạp thì cảm quả báo xen tạp… các thầy nên học như thế.” Sau đó Phật cùng A-nan-đà đi đến thành Vô năng địch, dừng nghỉ bên bờ sông Căng già, lúc đó có một Bí-sô đến chỗ phật đảnh lễ rồi chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, xin hãy lược nói diệu pháp cho con nghe, con sẽ hết lòng lãnh thọ, siêng năng tu tập để được thông đạt. Do nhân duyên này mà con rời bỏ gia đình giàu có, cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa xuất gia, mong cầu được phạm hạnh vô thượng, dùng trí hữu học để đắc pháp, thấy pháp, được tự lợi lợi tha, hiểu rõ “sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau”, Phật nhìn thấy trong sông Căng già có một cây gỗ lớn đang trôi theo dòng nước liền hỏi Bí- sô này: “thầy có thấy cây gỗ đang trôi theo dòng nước đó không?”, đáp thấy, Phật nói: “nếu Bí-sô nào giống như cây gỗ đó không vướng vào bờ bên này, không vướng vào bờ bên kia, không ở giữa dòng, không vướng vào cồn bãi, không bị người hay phi nhơn vớt, không rơi vào chỗ nước xoáy, không bị mục rã thì không bao lâu sau sẽ trôi ra biển lớn, Bí-sô cũng vậy, nếu không vướng bờ bên này… giống như trên cho đến câu không bao lâu sau sẽ nhập Niết-bàn”, Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn, không vướng bờ bên này… ý nghóa như thế nào, cúi xin lược nói khiến con được khai ngộ… không còn thọ thân sau?”, Phật nói: “bờ bên này là chỉ cho sáu nội xứ, bờ bên kia là chỉ cho sáu ngoại xứ; trụ ở giữa dòng là chỉ cho tham đắm dục lạc; vướng vào cồn bãi là tâm sanh ngã mạn; bị người vớt là Bí-sô cùng các bạch y ân nghóa thù đáp qua lại; bị phi nhơn vớt là Bí-sô phát nguyện rằng: do căn lành này nguyện được sanh lên cõi trời hay cõi quỷ thần; rơi vào chỗ nước xoáy là xả bỏ học xứ; bị mục rã là phá tịnh giới làm pháp ác, nhiễu loạn bậc hiền thiện, làm bạn với ma, không phải sa môn mà đội lớp sa môn, không phải phạm hạnh mà tợ như phạm hạnh”. Nghe Phật dạy rồi, Bí-sô hoan hỉ tín thọ đảnh lễ rồi đi, sau đó hành theo lời Phật dạy siêng năng tu tập… hiểu rõ “sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau”, chứng quả A-la-hán. Lúc đó có một người chăn bò tên là Hoan hỉ, đứng chống gậy cách Phật không xa đang lắng nghe lời Phật nói, lúc đó có một con ếch nằm gần dưới chân người chăn bò, bị cây gậy chống trên lưng xuyên qua da thịt, tuy nó đau đớn nhưng không dám kêu lên vì sợ người chăn bò tán tâm không nghe được pháp. Do nó cố chịu đựng và phát tâm thanh tịnh đối với Thế tôn nên mạng chung và được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Người chăn bò nghe pháp xong liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch rằng: “Thế tôn, con không thích vướng vào bờ bên này… không bị mục rã, con nguyện được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”, Phật nói: “ngươi không giao lại bầy bò cho chủ hay sao?”, đáp là không cần giao lại, Phật hỏi vì sao, đáp: “những con bò mẹ này đều có nghé con ở nhà của chủ, chúng nhớ con sẽ tự trở về, cho nên không cần giao lại. Cúi xin Thế tôn cho con được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”, Phật nói: “hãy đợi một lát, tuy bầy bò biết tự trở về, nhưng trước đây ngươi đã thọ cơm áo của chủ, không thể bỏ đi mà không nói cho chủ biết”. Lúc đó người chăn bò Hoan hỉ đảnh lễ Phật rồi lớn tiếng kêu lên: “tôi rất lo sợ”, vừa kêu vừa chạy, lúc đó có khoảng 100 người chăn bò khác nghe thấy liền hỏi lo sợ điều gì, đáp là sợ sanh già bịnh chết, vừa đáp vừa chạy khiến họ cũng bỏ chạy theo; những người chăn bò khác cho đến người chăn dê, cắt cỏ, đốn củi… trên đường nghe thấy vậy cũng bỏ chạy theo. Dân trong làng thấy họ ồ ạt chạy đến như vậy, ai nấy đều lo sợ có người bỏ chạy, có người lo cất giấu của cải, có người cầm gậy gộc chạy ra, chận người đi đầu hỏi nguyên do, cũng đáp như trên. Lúc đó cụ thọ Xá-lợi-tử thấy người chăn bò đi đã lâu liền bạch Phật: “Thế tôn, người chăn bò xin xuất gia vì sao Thế tôn lại để cho người ấy trở về”, Phật nói: “người chăn bò này nếu ở nhà thọ hưởng ngũ dục là không có lý đó, sau khi giao bò lại cho chủ sẽ trở lại đây. Thầy hãy chờ xem, vị tộc tánh thiện ấy sẽ cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, chánh tín xuất gia, tu tập phạm hạnh, được thấy chơn lý, dùng trí của mình thấy pháp chứng ngộ, cũng làm cho người khác chứng ngộ, sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau”. Sau đó, người chăn bò tên Hoan hỉ giao bò cho chủ rồi liền cùng 500 người đã chạy theo mình, đến chỗ Phật bạch rằng: “Thế tôn, con đã giao bò xong, cúi xin Thế tôn cho con được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”, Phật nói: “này Hoan hỉ, ngươi và 500 người cùng đến đều được xuất gia trong giáo pháp của ta… sau khi xuất gia hãy siêng năng tu tập phẩm thiện cho đến khi tâm được giải thoát”. Lúc đó con ếch mang chung được sanh thiên, thường pháp của chư thiên là khi sanh lên cõi trời đều khởi ba niệm: 1.Là ta từ đâu sanh đến đây. 2.Là nay ta đang ở đâu. 3.Là ta do nghiệp duyên gì. Thiên tử Ếch liền quán biết mình vừa xả thân ếch sanh lên cõi trời Tứ thiên vương là do phát lòng tin đối với Phật. Quán biết rồi liền suy nghó: “nếu hưởng thọ thiên lạc trước, không đến gặp Phật là vô ơn, ta nên đến gặp Phật trước”, nghó rồi thiên tử Ếch với dung nghi chư thiên, trang nghiêm thân đến chỗ Phật vào lúc nửa đêm, thân quang chiếu sáng bờ sông Căng già. Thiên tử rải hoa trời cúng dường, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên nghe Phật nói pháp. Phật quán biết ý nhạo tùy miên xứng cơ nói bốn Thánh đế khiến cho thiên tử này được chứng quả Dự lưu, thiên tử vui mừng như khách hàng gặp người bán hàng, như nhà nông gặp trời mưa, như đánh trận được thắng, như bịnh được lành, đảnh lễ Phật rồi trở về thiên cung. Thường vào đầu đêm cuối đêm, các Bí-sô tỉnh giác tư duy thấy được ánh sáng này nên sáng hôm sau đến thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, đêm qua phải chăng có chư thiên Phạm, Thích, Hộ thế tứ vương đã đến chỗ Phật?”, Phật nói: “không có, do người chăn bò Hoan hỉ lúc đứng chống cây gậy nghe pháp, có một con ếch nằm gần dưới chân người chăn bò, bị cây gậy chống trên lưng xuyên qua da thịt, tuy nó đau đớn nhưng không dám kêu lên vì sợ người chăn bò tán tâm không nghe được pháp. Do nó cố chịu đựng và phát tâm thanh tịnh đối với Ta nên mạng chung và được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Đêm qua vị thiên tử này đã đến nghe pháp, được chứng quả rồi trở về cung trời”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “người chăn bò tên Hoan hỉ và 500 người đi theo trước đây đã từng tạo nghiệp gì mà phải làm người chăn bò, lại được xuất gia trong giáo pháp của Phật, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán? Thiên tử Ếch đã tạo nghiệp gì mà phải mang thân ếch, lại được kiến đế?, Phật bảo các Bí-sô: “do họ tự tạo nghiệp nên nay tự thọ lấy quả báo, như kệ nói: Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba Như lai Ứng chánh đẳng giác, có đủ 10 hiệu ở trong rừng Thi lộc chỗ Tiên nhơn đọa xứ thành Bà-la-nê- tư. Lúc đó người chăn bò tên Hoan hỉ xuất gia trong giáo pháp của Phật ấy, là đại pháp sư thông suốt ba tạng, biết rõ phép tắc và giỏi trì tụng; có 500 đệ tử theo học nghiệp được vị pháp sư này dạy bảo. Vị pháp sư này khéo hay hòa giải việc tranh cải trong chúng, lúc đó có hai Bí-sô trong lòng ngã mạn không chịu theo học vị pháp sư này, sau vì việc tranh cải mới tìm đến vị pháp sư này yêu cầu dứt giùm việc tranh cải. Pháp sư suy nghó: “nếu ta dứt diệt việc tranh cải này thì hai Bí-sô này sẽ không trở lại đây nữa, ta nên chuyển giao cho Tăng, như vậy cũng không trái pháp”, nghó rồi liền nói: “ta không biết rõ nhân duyên tranh chấp của cụ thọ, hãy đến nhờ tăng giải quyết”. hai Bí-sô này đến nhờ tăng quyết đoán, vị pháp sư này cũng có việc tăng phải vào thôn, làm xong việc tăng trở về liền hỏi các đệ tử về việc của hai Bí-sô kia, các đệ tử đem việc Tăng đã quyết đoán kể lại, vị pháp sư này nghe rồi tức giận nói rằng: “Tăng quyết đoán như vậy không khác gì đám chăn bò, họ không khác gì là người chăn bò trước khi xuất gia”, 500 người đệ tử nói hùa theo: “đúng như lời thầy nói Tăng quyết đoán giống như pháp của người chăn bò”. Này các Bí-sô, vị pháp sư thuở xưa nay chính là người chăn bò tên hoan hỉ, 500 đệ tử nói hùa theo ngày xưa nay chính là 500 người chăn bò cùng đi theo. Do ngày xưa họ nói lời thô ác đối với các đệ tử Thanh văn của Phật Ca-nhiếp-ba nên trong 500 đời thường làm người chăn bò. Do ở trong giáo pháp của Phật kia đã huân tu Uẩn giới nhập duyên khởi, xứ phi xứ nên ngày nay được xuất gia trong giáo pháp của ta, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán. Thiên tử Ếch cũng xuất gia trong giáo pháp của Phật Ca-nhiếp- ba nhưng thường tu định, lúc đó du hành trong nhân gian đến một ngôi chùa trong một làng nọ nghỉ qua đêm. Đầu đêm thầy ngồi nhiếp tâm nhập định thì nghe tiếng đọc tụng của các Bí-sô trong chùa làm cho thầy không thể nhiếp tâm được, liền suy nghó là đợi đến nửa đêm sẽ nhập định. Đến nửa đêm thầy sắp nhập định lại nghe tiếng đọc tụng của các Bí-sô trong chùa, liền suy nghó là đợi đến cuối đêm. Đến cuối đêm thầy sắp nhập định lại nghe tiếng đọc tụng nữa, do chưa ly dục trong lòng tức giận nên lớn tiếng nói rằng: “các Bí-sô này từ chiều tối đến sáng đều phát ra tiếng ếch kêu”. Này các Bí-sô, Bí-sô tu định ngày xưa chính là thiên tử Ếch ngày nay. Do nói lời thô ác đối với các đệ tử Thanh văn của Phật Ca-nhiếp- ba nên trong 500 đời phải mang thân ếch. Do phát tâm thanh tịnh đối với ta trước khi chết, nên sau khi chết được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Do tu phạm hạnh trong giáo pháp của Phật Ca-nhiếp-ba nên ngày nay được Kiến đế. Cho nên ta thường tuyên thuyết: hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng … các thầy nên học như thế.” Lúc đó Phật muốn qua sông Căng già, có 500 con ngỗng, 500 con cá, 500 con rùa hữu nhiễu Thế tôn, Phật liền nói ba câu diệu pháp: “chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, Niết-bàn tịch diệt. Các ngươi nên phát tâm thanh tịnh, nhàm chán thân bàng sanh”. Nghe pháp xong, tất cả ngỗng, cá, rùa đều đoạn thực không muốn ăn nữa, đối với loài bàng sanh nếu bị lửa đói đốt thì qua đời, chúng được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Thường pháp của chư thiên là khi sanh lên cõi trời đều khởi ba niệm: 1.Là ta từ đâu sanh đến đây. 2.Là nay ta đang ở đâu. 3.Là ta do nghiệp duyên gì. Thiên tử liền quán biết mình vừa bỏ thân bàng sanh, được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương là nhờ nghe Phật nói ba câu diệu pháp. Quán biết rồi liền đến chỗ Phật… giống như trường hợp của thiên tử Ếch cho đến câu được chứng quả Dự lưu, đảnh lễ Phật rồi cùng trở về thiên cung. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, những con ngỗng, cá rùa này trước đây đã tạo nghiệp gì mà sanh trong loài bàng sanh, lại tạo nghiệp gì mà được Kiến đế?”, Phật bảo các Bí- sô: “chúng đã tự tạo nghiệp nên nay tự thọ lấy quả báo, như kệ nói: “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba ở trong rừng Thi lộc chỗ Tiên nhơn đọa xứ thành Bà-la-nê-tư. Những con ngỗng cá rùa này đều đã xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, nhưng lại hủy phạm các học xứ nhẹ nên bị đọa trong loài bàng sanh. Do phát tâm thanh tịnh đối với ta nên được sanh lên cõi trời, do đã tu phạm hạnh trong giáo pháp của Phật Ca-nhiếp-ba nên nay được Kiến đế. Cho nên ta thường tuyên thuyết… giống như đoạn văn trên.” Sau khi Phật qua sông Căng già rồi, bỗng có 500 quỷ đói hiện đến trước mặt, thân tướng đen xấu giống như cây cột nhà cháy, đầu tóc rối tung, bụng lớn như núi Thái, cổ nhỏ như cây kim, toàn thân cháy rực giống như đống lửa. Chúng chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, do đời trước chúng con đã tạo nghiệp ác nên đời này không nghe được tên nước, cúi xin Phật từ bi bố thí nước cho chúng con”, Phật liền bảo Đại Mục- kiền-liên đi múc nước sông đưa cho các quỷ đói uống. Khi Đại Mục- kiền-liên đưa nước cho chúng uống, do cổ họng của chúng quá nhỏ nên không thể uống được, Phật liền dùng thần lực mở rộng cổ họng của chúng để chúng uống được nước, do uống quá nhiều nên bụng chúng bị căng rách phải mạng chung. Do phát sanh tâm tịnh tín đối với Phật nên chúng được sanh lên cõi trời… giống như trường hợp ếch, ngỗng cá rùa ở trên cho đến câu được kiến đế, đảnh lễ Phật rồi trở về thiên cung. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “những ngạ quỷ này đã từng tạo nghiệp gì mà sanh làm ngạ quỷ, lại tạo nghiệp gì mà lại được kiến đế ?”, Phật bảo các Bí-sô: “do chúng tự tạo nghiệp nên ngày nay tự thọ lấy quả báo, như kệ nói: “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba có đủ 10 hiệu, ở trong rừng Thi lộc chỗ Tiên nhơn đọa xứ thành Bà-la-nê-tư. Lúc đó Phật và chúng thanh văn theo thứ lớp khất thực và khuyên mọi người cúng dường tam bảo, do giáo hóa rộng lớn nên Bí-sô khất thực ngày càng đông. Lúc đó có 500 Ô-ba-sách-ca vì công việc nên tập trung lại một chỗ, thấy có nhiều Bí-sô đến chỗ họ khất thực nên họ nổi giận nói ra lời thô ác: “các Bí-sô này theo xin ăn giống như quỷ đói”. Này các Bí-sô, 500 Ô-ba-sách-ca ngày xưa chính là 500 quỷ đói ngày nay. Do ngày xưa gọi các Thanh văn của Phật Ca-nhiếp-ba là quỷ đói nên trong 500 đời thường mang thân quỷ đói. Do phát tâm thanh tịnh đối với ta nên thân quỷ đói này mạng chung được sanh lên cõi trời. Do có tu phạm hạnh làm Ô-ba-sách-ca trong giáo pháp của Phật Ca-nhiếp- ba nên nay được Kiến đế. Cho nên ta thường tuyên thuyết… giống như đoạn văn trên”. Lúc đó Phật nhìn ngó hai bên bờ sông Căng già và hỏi các Bí-sô có muốn nghe duyên khởi của sông Căng già hay không, đáp là thích nghe, Phật bảo các Bí-sô: “Thuở xưa có một vị vua tên là Thật trúc, dùng chánh pháp cai trị nên đất nước phồn thịnh an vui, trong nước không có trộm cướp bịnh dịch, dân chúng ấm no, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa. Đến mùa xuân vua cùng các thể nữ dạo trong vườn hoa, thấy có một người tóc bạc da nhăn, ốm yếu, suy nhược đang chống gậy đi qua; vua liền hỏi là người gì, đáp: “đó là người già, tất cả mọi người hễ tuổi trẻ qua đi thì tuổi già hiện đến”, vua nghe rồi trong lòng lo buồn. Kế lại thấy một người thân thể ghẻ lở, da nứt nẻ, máu mủ rỉ ra … hơi thở khò khè, chống gậy đi qua ; vua liền hỏi là người gì, đáp: “đó là người bịnh, tất cả mọi người nếu đời trước có tạo nghiệp ác thì đời này phải chịu nghiệp báo như thế”, vua nghe rồi liền suy nghó: “nếu như vậy thì ta không nên làm việc ác nữa”. Kế lại thấy một cỗ xe tang… đi sau xe có nhiều người kêu khóc, vua liền hỏi là người gì, đáp: “đó là người chết, tất cả mọi người cuối cùng rồi cũng sẽ chết giống như vậy”. Thấy những cảnh tượng già bịnh chết như vậy rồi, trong lòng nhà vua ưu não liền cho xe quay trở về cung, ẩn mình trong thâm cung. Trong nước vua có một Bà-la-môn tên là ứng thời thuộc dòng quý tộc, giàu có và thông suốt bốn bộ Minh luận. Nghe tin nhà vua sau khi thấy cảnh già bịnh chết… ẩn trong thâm cung, liền cùng các Bà-la-môn khác cỡi xe ngựA-trắng, tay cầm gậy vàng, bình vàng đến chỗ nhà vua thăm hỏi, sau khi hỏi rõ nguyên do liền tâu với vua rằng: “Đại vương, thế gian ai nấy đều tự thọ lấy nghiệp quả, có hữu tình tạo nghiệp lành, có hữu tình tạo nghiệp ác, cũng có hữu tình tạo nghiệp vừa thiện vừa ác. Đại vương chớ có lo buồn, Đại vương là Chuyển luân Thánh vương thường tạo ng- hiệp lành, sau khi chết sẽ được sanh thiên. Đại vương nên biết, Chuyển luân Thánh vương hơn hẳn mọi người, hiện đời thọ hưởng an lạc, được sanh lên trời còn an lạc hơn. Nay Đại vương nên lập hội bố thí”. Vua nghe rồi liền ra lịnh quần thần thông báo cho dân chúng trong nước biết vua sẽ lập hội thí vô già, ai cần gì thì đến thọ vật thí. Quần thần tuân lịnh vua lập nhà thí thực, người cần thức ăn thì thí thức ăn, người cần áo mặc thì thí áo mặc. Nước vo gạo chảy từ nhà thí thực ra tụ lại thành ao lớn gọi là ao Vô nhiệt, suốt 12 năm nước ao chảy lan ra thành sông gọi là sông nước gạo.” Khi đi đến thành Đồng trưởng, Phật bảo A-nan-đà: “có vua tên là Trưởng tịnh sanh trưởng tại thành này, nên thành này được gọi là Tượng thanh”. Khi đi đến thành Át già nhó ca, Phật dừng chân ở ngoài thành rồi móm cười, nói cho A-nan-đà nghe bốn dấu tích hóa duyên của Phật. Khi đi đến thành Thí bảo, Phật nói với A-nan-đà: “ngày xưa ở tại nơi này, Bồ-tát đã thí nhiều châu báu nên thành này được gọi là thí bảo”. Khi đi đến cây Ba la lực, Phật móm cười và nói về bốn dấu tích hóa duyên của Phật. Khi đi đến thành Kim thăng, Phật nói: “ngày xưa ở trong thành này Bồ-tát đã lập đàn bô thí, dùng thăng lượng vàng để thí cho người đến xin nên thành này được gọi là Kim thăng”. Khi đi đến thành Tự lai, Phật nói: “trong thành này có vua tên là trưởng tịnh dùng chánh pháp cai trị, dân chúng được an vui. Về sau trên đảnh nhà vua bỗng mọc một cục bướu mềm như bông, không gây khó chịu; khi bướu chín mùi liền tự vỡ ra, trong đó có một đứa bé dung mạo đoan nghiêm đáng yêu… nên mọi người gọi tên là Đảnh sanh. Khi đứa bé được đưa vào cung, trong cung có sáu vạn thể nữ vừa nhìn thấy đứa bé, vú liền tuôn sữa và đều nói câu: “hãy để tôi nuôi”, nên Đảnh sanh còn được gọi tên là Lạc dưỡng. Khi Đảnh sanh khôn lớn, vua Trưởng tịnh mắc bịnh, tuy được chữa trị đủ thuốc thang nhưng bịnh càng ngày càng nặng thêm, vua liền bảo quần thần đưa Đảnh sanh đến để lập lên làm vua. Đảnh sanh chưa kịp đến thì sứ giả lại đến báo là nhà vua đã băng hà, Đảnh sanh liền suy nghó: “vua cha đã băng, ta cần gì phải đi”, do nghó vậy nên quay về, quần thần sai sứ đến đón, Đảnh sanh nói: “nếu ta có mạng làm vua thì sẽ làm vua tại đây”, quần thần nói: “nếu lập lên làm vua phải có nghi lễ và làm lễ trong hoàng cung nơi tòa sư tử với lọng và vương miện… xin Thái tử hãy đến trong hoàng cung”, Đảnh sanh nói: “nếu ta là pháp vương thì những thứ đó không cầu cũng tự đến”. Lúc đó có dược xoa tên là Tác nhật thường theo một bên thừa sự cho Đảnh sanh, nghe Thái tử nói vậy nên ngay trong đêm đó dời tòa sư tử, lọng, vương miện, và cung điện từ Đô thành đến chỗ Thái tử, do duyên này thành có tên là Tự lai. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 12 Chuyện giếng cháo, lúa mạch vàng. Chuyện nông dân và con trâu. Chuyện cô gái hủi cúng nước cháo. Chuyện vua Thắng quang . Chuyện cô gái nghèo cúng đèn. Chuyện vua Đảnh sanh . Chuyện giếng cháo và lúa mạch vàng: Lúc đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến thành Thất-la-phiệt, có một Bà-la-môn cày ruộng với bụng đói, khi con gái của ông mang cháo tới cho ông thì Thế tôn cũng vừa đi đến chỗ ông, thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, bước đi như núi báu. Bà-la- môn liền khởi lòng tin trong sạch, vui mừng như người không con được con, như người nghèo được của báu, như người cầu làm vua được làm vua. Bất cứ ai đời trước có thiện căn thì vừa thấy Phật liền phát sanh tâm tín kính như vậy. Bà-la-môn đem món cháo mà mình sắp ăn cúng cho Phật, bạch rằng: “Sa môn Kiều-đáp-ma, xin thương xót nhận món cháo này”. Lúc đó Phật hóa hiện một cái giếng cạn, bảo Bà-la-môn đổ cháo vào giếng, ông vừa đổ vào thì giếng dâng đầy cháo thơm phức, đó là do oai lực của Phật và của chư thiên. Phật bảo Bà-la-môn đem cháo này dâng cúng cho chúng tăng, do Phật gia trì nên chúng tăng ăn đã no đủ mà giếng cháo vẫn còn đầy. Bà-la-môn càng thêm tin tưởng đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Phật quán biết ý nhạo tùy miên xứng cơ nói pháp khiến cho Bà-la-môn này được chứng quả Dự lưu, ông vui mừng như người buôn được lời, như đánh nhau được thắng, như bịnh nặng được lành. Ông hoan hỉ thọ trì, đảnh lễ Phật rồi quay trở lại ruộng lúa mạch thì thấy lúa mạch đều có sắc vàng, ông khởi tưởng kỳ đặc liền nói kệ: “Ruộng phước điền tối thắng, Lìa được các lầm lỗi, Vừa mới gieo hạt giống, Liền gặt hái kết quả”. Bà-la-môn liền đến chỗ vua chúc vua sống lâu rồi tâu với vua rằng: “Đại vương nên biết, thần vừa gieo hạt giống, liền thành lúa mạch vàng, cúi xin Đại vương cho người đến lấy phần (thu thuế)”, vua liền cho người đến lấy. Bà-la-môn gặt lúa chất thành đống rồi đong lúa đóng thuế cho vua, lúa này liền biến thành lúa mạch, đong lại bảy lần như vậy phần lúa đóng thuế cho vua đều biến thành lúa mạch thường. Vua nói: “lúa mạch vàng là phước báo của Bà-la-môn, chẳng phải là phước báo của ta, hãy để ông ấy tùy ý đong cho ta”, Bà-la-môn dùng ý vô ngại đong phần lúa đóng thuế cho vua, lúa mạch lúc này mới là lúa mạch vàng. Chuyện nông phu và con trâu: Phật đi đến nơi khác thấy có 500 nông phu đang cày cấy, da nứt nẻ, tay phồng, chân lở, mặc áo vải gai thô; con trâu cày cũng bị thương trên cổ, rách da chảy máu, hơi thở hào hển. Các nông dân này thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng 1 tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời… giống như đoạn văn trên. Vì muốn điều phục họ nên Phật đi đến gần chỗ họ trải tọa cụ ngồi, các nông phu đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên nghe Phật nói pháp. Phật quán biết ý nhạo tùy miên xứng cơ nói pháp khiến cho các nông phu này được chứng quả Dự lưu, chứng quả rồi tất cả đều chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, con nguyện được ở trong pháp luật khéo giảng nói này xuất gia thọ viên cụ, Thánh tánh Bí-sô ở chỗ Thế tôn tu tập phạm hạnh”. Phật bảo: “thiện lai Bí-sô, hãy đến đây tu phạm hạnh… như bài tụng: Thế tôn gọi “ Thiện lai”, Tóc rụng, đủ y bát, Các căn đều tịch tónh, Thành tựu theo ý niệm”. Các Bí-sô này siêng năng đoạn trừ các phiền não, không bao lâu sau đều chứng quả A-la-hán. Lúc đó các con trâu giật đứt dây chạy đến chỗ Phật, nhiễu quanh Phật rồi đứng yên, Phật nói cho các con trâu nghe ba câu pháp như trường hợp của con ngỗng, cá, rùa ở trên cho đến câu các thiên tử được Kiến đế rồi trở về thiên cung. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, các nông phu đã tạo nghiệp gì mà nay phải làm nông dân, lại được xuất gia, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán?. Các con trâu đã tạo nghiệp gì mà nay phải làm trâu, được gặp Phật khai ngộ sanh lên cõi trời và được Kiến đế?”, Phật bảo các Bí- sô: “do họ tự tạo nghiệp nên nay tự thọ lấy quả báo, như kệ nói: Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba Như lai Ứng chánh đẳng giác, có đủ 10 hiệu ở trong rừng Thi lộc chỗ Tiên nhơn đọa xứ thành Bà-la-nê-tư. Các nông phu này đều xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, nhưng không chịu đọc tụng, cũng không tác ý kinh, thọ thức ăn của tín thí rồi tụ tập hí luận, lười biếng không siêng năng tu tập. Này các Bí-sô, 500 Bí-sô đó chính là 500 nông dân ngày nay, 500 thí chủ cất chùa ngày xưa nay chính là 500 trưởng giả. Do ngày xưa họ thọ tín thí cúng dường nhưng không đọc tụng, lười biếng nên trong 500 đời thường làm nông phu loa cày cấy để trả nợ thí chủ. Nhờ xuất gia trong giáo pháp của phật Ca-nhiếp-ba, tu phạm hạnh nên ngày nay được xuất gia trong giáo pháp của ta, đoạn trừ các phiền não chứng quả A-la-hán. Những con trâu này cũng đã xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, nhưng vì hủy phạm các học xứ nhẹ nên nay phải sanh làm trâu. Nhờ phát tâm thanh tịnh đối với Ta nên được sanh thiên, do ngày xưa đã tu phạm hạnh nên ngày nay được Kiến đế. Cho nên ta thường tuyên thuyết: hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng… các thầy nên học như thế.” Lúc đó Phật bảo A-nan-đà cùng đi đến thành Đô dị ca, có một Bà- la-môn đang cày bừa thấy Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời… liền suy nghó: “nếu ta đến đảnh lễ Sa môn Kiều-đáp- ma thì bỏ bê công iệc, nếu không đến đảnh lễ thì mất phước lợi”, nghó rồi để không bỏ bê công việc mà vẫn được phước lợi nên Bà-la-môn từ xa nói vọng tới chỗ Phật: “xin kính lễ!”, Phật bảo A-nan-đà: “Bà- la-môn này tự chiêu lây lỗi lầm, ở nơi đây có xá lợi toàn thân của Phật Ca-nhiếp-ba vẫn còn nguyên vẹn, nếu ông ta đến đảnh lễ ta thì liền được đảnh lễ hai vị Phật Thế tôn”, A-nan-đà nghe rồi trải tọa cụ bạch Phật: “cúi xin Thế tôn ngồi xuống để chỗ này có hai vị Phật thọ dụng”. Phật bảo các Bí-sô: các thầy có muốn thấy xá lợi toàn thân của Phật Ca-nhiếp-ba Như lai Ứng chánh đẳng giác không?”, đáp là muốn thấy, Phật liền khởi tâm thế gian, Thường pháp của Phật là khi Phật khởi tâm thế gian thì trời rồng đều biết ý Phật, lúc đó rồng quán biết Thế tôn muốn cho các Bí-sô thấy xá lợi toàn thân của Phật Ca-nhiếp-ba, rồng liền mang xá lợi ấy lên hư không cho tất cả được thấy,Phật bảo các Bí- sô: “các thầy hãy nhìn kỹ nếu không nó sẽ ẩn mất”. Lúc đó vua Thắng quang hay được tin này cũng muốn đến xem nên cùng các phi hậu… và các quần thần, trưởng giả Cấp-cô-độc… cùng vô lượng hữu tình đi theo sau vua đến chỗ xá lợi, nhưng lúc đó xá lợi ẩn mất, họ buồn rầu nói với nhau: “chúng ta đến thật uổng công, chẳng thấy được gì cả”. Lúc đó có một Ô-ba-sách-ca đến chỗ có xá lợi của Phật Ca-nhiếp-ba cung kính hữu nhiễu nghó là sẽ được phước lợi, Phật quán biết tâm kia mong cầu phước lợi nên nói kệ: “Dù đem trăm ngàn vàng Thiệm bộ, Cất chứa bố thí cho tất cả, Không bằng người có tâm thanh tịnh, Siêng năng hữu nhiễu nơi tháp Phật”. Lại có một Ô-ba-sách-ca lấy bùn (xi măng) tô lên chỗ xá lợi ẩn mất, Phật nói kệ: “Dù đem trăm ngàn vàng Thiệm bộ, Cất chứa bố thí cho tất cả, Không bằng người có tâm thanh tịnh, Đem bùn tô lên nơi tháp Phật”. Nghe Phật nói phước lợi như thế nên trăm ngàn người đều đem bùn tô lên chỗ ấy, lại có người đem hoa rải lên, Phật nói kệ: “Dù đem trăm ngàn vàng Thiệm bộ, Cất chứa bố thí cho tất cả, Không bằng người có tâm thanh tịnh, Đem hương hoa cúng dường tháp Phật”. Lại có người đem tràng hoa, đèn sáng, cờ phướn, lọng cúng dường ở chỗ ấy với tâm thanh tịnh, Phật nói kệ: “Bố thí ruộng phước mà ta nói, Công đức Như lai không thể lường, Chánh giác giống như là biển cả, Đạo sư vô thượng là tối thắng”. Lúc đó mọi người suy nghó: “phước duyên mà Phật nói đã ẩn mất, nếu cúng dường Phật hiện tại thì có phước lợi không?”, Phật quán biết ý nghó của họ nên nói kệ: “Ai có thể cúng dường, Vị Phật trong hiện tại, Với tâm tư trong sạch, Phước lợi không có khác. Phật không thể nghó bàn, Diệu pháp cũng khó nghó, Người thanh tịnh cũng vậy, Quả báo giống như nhau. Danh tướng khó suy lường, Đều chuyển bánh xe pháp, Bờ công đức chánh giác, Không thể nào đến được.” Sau khi nghe Phật nói pháp này, vô lượng hữu tình hoặc được pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất; hoặc chứng quả dự lưu, Nhất lai, Bất lai, hoặc xuất gia cuối cùng chứng quả A-la-hán; hoặc phát tâm thinh văn, hoặc phát tâm Độc giác, hoặc phát tâm vô thượng Bồ-đề, quy y Tam bảo gieo trồng căn lành. Lúc đó các Bà-la-môn, trưởng giả, cư só có lòng tin liền lập hội thí lớn ở nơi đó, nên nơi ấy được gọi là vùng Thí thủy. Chuyện cô gái bịnh hủi cúng nước cháo: Sau đó Phật du hành đến nước Kiều-tát-la, trụ ở trong vườn Cấp- cô-độc rừng Thệ đa thành Thất-la-phiệt, nghe tin Phật đến, trưởng giả Cấp-cô-độc liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi liền im lặng. Trưởng giả chắp tay bạch Phật: cúi xin Thế tôn và các Bí-sô ngày mai thọ con thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời… cho đến câu trưởng giả sai sứ đến bạch Phật thời đáo và bảo người cửa: “hôm nay Phật và chúng tăng đến thọ thực, đừng để cho ngoại đạo vào nhà ta”. Lúc đó cụ thọ Ca-nhiếp-ba sống trong A-lan-nhã, râu tóc hơi dài, đắp y bá nạp đi đến rừng Thệ đa, thấy không có ai liền hỏi người giữ cửa là Phật và chúng tăng đã đi đâu, đáp là đến nhà trưởng giả để thọ thỉnh thực, Ca- nhiếp-ba suy nghó: “ta hãy đến đó thọ thực, nhân tiện đảnh lễ Phật và Tăng”, nghó rồi đi đến nhà trưởng giả, nhưng người giữ cửa không cho vào, nói rằng trưởng giả có dặn không cho ngoại đạo vào lúc Phật và Tăng đang thọ thực, Ca-nhiếp-ba suy nghó: “Bà-la-môn, trưởng giả tín tâm mà còn không biết ta là Sa môn Thích tử, ta nên thương xót cứu vớt người nghèo cô độc để được lợi ích thù thắng. Hôm nay ta nên thương xót cứu vớt hạng người nào?”. Lúc đó có một cô gái ăn xin mắc bịnh hủi, xương thịt lở lói, máu mủ tuôn ra, cô vừa xin được ít nước cháo, Ca-nhiếp-ba liền theo xin nước cháo ấy. Cô gái thấy Ca-nhiếp-ba dung mạo đónh đạc, oai nghi đầy đủ liền suy nghó: “do ta chưa từng cúng dường người như vậy nên đời này nghèo khổ lại mắc bịnh hủi. Nếu được Thánh giả thương xót, ta sẽ dâng cúng nước cháo này”, Ca-nhiếp-ba biết được ý nghó của cô gái liền đưa bát ra bảo sớt nước cháo vào bát, cô gái sớt nước cháo vào bát rồi suy nghó: “Thánh giả vì hộ tâm ta nên thọ nước cháo này nhưng chưa chắc đã dùng”, Ca-nhiếp-ba biết được ý nghó của cô gái nên ngồi xuống bên tường trước mặt cô gái để uống nước cháo, cô gái lại suy nghó: “vì hộ tâm ta nên Thánh giả mới thọ nước cháo này, nhưng vị ấy sẽ thọ thêm thức ăn ngon khác”, biết được ý nghó của cô gái, Ca-nhiếp-ba nói: “này cô gái, cô nên hoan hỉ, từ hôm nay cho đến giờ ăn ngày mai nhờ nước cháo này ta được trải qua một ngày một đêm”. Cô gái vui mừng suy nghó: “hôm nay ta được lợi ích lớn vì Thánh giả Đại Ca-nhiếp-ba đã thọ ta cúng dường”, nghó rồi liền sanh tâm thanh tịnh đối với Ca-nhiếp- ba, sau đó qua đời được sanh lên cõi trời Đổ sử. Vua trời Đế thích thấy cô gái bố thí nước cháo với tâm thanh tịnh đã qua đời, không biết thác sanh vào cõi nào liền quán ở cõi Địa ngục… cho đến cõi trời Tam thập tam cũng không thấy, liền đến đảnh lễ Phật nói kệ hỏi Phật: “Ca-nhiếp-ba đại nhân, Theo thứ lớp khất thực, Cô gái cúng nước cháo, Được sanh vào cõi nào ?” Phật nói kệ đáp: “Cõi trời Đổ-sử-đa, Hưởng dục lạc theo ý, Cô gái cúng nước cháo, Đã sanh lên cõi ấy”. Vua trời Đế thích nghe rồi suy nghó: “những người không biết tu phước mà còn bố thí được lợi ích lớn, huống chi ta biết tu phước đã được lợi ích, sao không bố thí tu các phước nghiệp. Thánh giả Ca-nhiếp-ba thương xót người nghèo khổ, ta nên hóa làm người nghèo để cúng dường một bửa ăn”, nghó rồi liền hóa thân làm người nghèo xấu xí, mặc áo vải gai thô, tay chân nứt nẻ đang dệt vải trong một căn nhà lá giống như tổ chim, phu nhân Xá chi hóa làm vợ người thợ dệt để sẳn thức ăn cõi trời một bên chờ Thánh giả Ca-nhiếp-ba đến khất thực để cúng dường. Lúc đó Ca-nhiếp-ba theo thứ lớp khất thực đến trước cửa nhà, vị hóa thiên này sớt thức ăn thượng diệu của cõi trời vào đầy bát, Ca-nhiếp-ba thấy thức ăn thượng diệu này quán biết là Thiên đế nên nói: “này Kiều thi ca, vì sao thiên chủ gây khó khăn cho người nghèo khổ?”, đáp: “Thánh giả, tôi đã làm gì mà nói là gây khó khăn cho người nghèo khổ, những người không biết tu phước mà còn bố thí được lợi ích lớn, huống chi tôi biết tu phước sao không cúng dường tu các phước nghiệp. Thế tôn há chẳng nói: “Phải thường tu tạo phước, Không phước gặp khổ nguy, Người nào có tu phước, Hiện đời được an lạc”. Từ nay về sau Thánh giả nên quán trước rồi hãy thọ thức ăn”. Lúc ấy vua trời Đế thích từ trên hư không sớt thức ăn thượng diệu của chư thiên vào bát, tôn giả Ca-nhiếp-ba nghiêng bát không hứng khiến thức ăn rơi xuống đất. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “do việc này, các Bí-sô nên mang bát có nắp đậy”, lúc đó mọi người đều biết việc cô gái bịnh hủi cúng nước cháo cho tôn giả Ca-nhiếp-ba, sau khi chết được sanh lên cõi trời Đổ-sử-đa. Chuyện vua Thắng quang: Vua Thắng quang nghe được việc này liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi liền im lặng. Vua chắp tay bạch Phật: cúi xin Thế tôn và các Bí-sô vì Thánh giả Ca-nhiếp-ba thọ con thỉnh thực trong bảy ngày”, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời… cho đến câu vua đích thân dâng thức ăn cho Phật và Tăng. Lúc đó có một đứa bé ăn xin ngồi chờ cho thức ăn dư thấy vậy liền phát sanh lòng tín kính suy nghó: “do ngày xưa vua tu phước nghiệp nên nay được địa vị tôn quý, lại còn cúng dường Tam bảo”. Sau khi thọ thực xong Phật nói với nhà vua: “ta sẽ vì vua nói kệ bố thí và chú nguyện cho cậu bé được phước đức lớn kia”, vua nghe rồi liền suy nghó: “hôm nay Thế tôn thọ ta cúng dường, sao lại có người nào khác được phước đức lớn”, nghó rồi liền bạch Phật: “cúi xin Thế tôn chú nguyện cho người nào được phước đức lớn”, Phật liền chú nguyện cho cậu bé ăn xin như thế đến ngày thứ sáu, vua buồn rầu chống cằm suy nghó: “Thế tôn thọ ta cúng dường mà lại chú nguyện cho cậu bé ăn xin”. Quần thần sau khi hỏi biết rõ nguyên do liền tâu vua: “xin vua yên tâm, sáng mai thần sẽ thỉnh Thế tôn xưng tên vua mà chú nguyện”, kế bảo người đầu bếp làm thức ăn nhiều gấp bội và bảo người dọn thức ăn khi dâng thức ăn một phần sớt vào bát, một phần để rơi xuống đất. Họ vâng lời làm theo, lúc đó cậu bé xin ăn thấy thức ăn rơi xuống đất vội chạy đến lượm lấy, người dọn thức ăn không cho nhặt, cậu bé ăn xin nói: “vua cúng dường thức ăn nhiều vô kể, vì sao không cho người nghèo chúng tôi nhặt lấy thức ăn rơi?”, do tâm tán loạn nên lúc đó cậu bé ăn xin không khởi tâm tín kính như trước nữa. Sau khi Phật và tăng thọ thực xong, vua ngồi đối diện với Phật suy nghó: “hôm nay Thế tôn chú nguyện cho ta hay cho người khác?”, Phật chú nguyện cho vua như sau: “Đủ bốn binh: voi ngựa xe bộ, Ở thành này vật thực tự tại, Vua không biết vì sao có được, Nhờ cúng dường cơm lạt không muối”. Lúc đó cụ thọ A-nan-đà bạch Phật: “Thế tôn đã nhiều lần thọ vua Thắng quang cúng dường, nhưng con chưa nghe Phật nói kệ chú nguyện này”, Phật hỏi A-nan-đà: “thầy có muốn nghe nghiệp duyên cúng dường cơm lạt không muối của vua Thắng quang ngày xưa không ?”, đáp muốn nghe, Phật bảo các Bí-sô: “Ngày xưa ở trong một làng nọ có một trưởng giả cưới vợ không bao lâu thì người vợ mang thai, đủ ngày tháng sanh một con trai, đến khi con khôn lớn người chồng để lại một ít tiền cho người vợ ở nhà chi tiêu rồi gom góp của cải làm vốn sang xứ khác buôn bán cầu lợi, không ngờ sau khi người chồng ra đi, người vợ lại sanh con và hay tin người chồng đã chết không thể trở về. Có một trưởng giả ở gần đó bảo người mẹ: “bà hãy cho con bà qua làm công cho nhà tôi, tôi sẽ cấp cho quần áo và thức ăn”, người mẹ chấp nhận, trưởng giả bảo người con của bà làm ruộng ngoài đồng và sai người mang thức ăn tới. Thời gian sau đến ngày tiết hội, người mẹ suy nghó: “ngày nay trong nhà trưởng giả thiết hội cúng dường Sa môn, Bà- la-môn… chắc không có ai mang thức ăn đến cho con ta, ta nên đến đó lấy thức ăn đem cho nó để nó khỏi bị đói”, nghó rồi liền đến nhà trưởng giả nói vợ vợ trưởng giả, vợ trưởng giả nghe xong nổi giận nói: “thức ăn chưa cúng dường cho các Sa môn, Bà-la-môn… thì làm sao cho người làm công ăn trước được. Ngày nay nhịn một bửa, ngày mai sẽ bù gấp đôi”, người mẹ nghe rồi suy nghó: “hôm nay con ta sẽ bị đói, trong nhà còn có một cục cơm lạt không muối ta nên mang cho nó ăn đở đói”, nghó rồi liền đem cục cơm lạt không muối ở nhà đến cho con, người con nói: “mẹ hãy để đó rồi về nhà đi”. Lúc đó ở thế gian không có Phật chỉ có vị Độc giác là phước điền ở đời, làm lợi ích cho những người khốn khổ. Người con thấy vị Độc giác đi tới, oai nghi đónh đạc liền suy nghó: “do ngày xưa ta không cúng dường ruộng phước như thế nên đời này chịu khổ, nếu vị ấy thọ cục cơm lạt không muối này thì ta sẽ dâng cúng”, biết được ý nghó của chàng trai nghèo này, vị Độc giác đưa bát ra nói rằng: “hiền thủ muốn cúng thì hãy bỏ vào bát này”, chàng trai liền để cục cơm lạt không muối vào trong bát. Này các Bí-sô, chàng trai nghèo cúng cục cơm vắt ngày xưa, nay chính là vua Thắng quang. Do ngày xưa thành tâm cúng dường cục cơm lạt không muối mà sáu lần làm vua cõi trời Tam thập tam, sáu lần làm vua quán đảnh ở thành Thất-la-phiệt, ngày nay lại làm vua quán đảnh ở nơi này, phước báo ấy mới hết, cho nên ta mới nói kệ chú nguyện trên”. Chuyện cô gái nghèo cúng đèn: Lúc đó dân chúng đều nghe biết việc này, vua liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi liền im lặng. Vua chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn thương xót thọ con cúng dường tứ sự trong ba tháng”, Phật im lặng nhận lời, trong ba tháng mỗi ngày vua cho chuẩn bị trăm món ăn ngon và y phục trị giá trăm ngàn tiền cho các Bí-sô, lại đem cả vạn bình dầu thơm đến để thắp sáng vào ban đêm. Do hội thí thực biểu hiện sự trân trọng nên trong nước rất náo nhiệt, lúc đó có một cô gái ng- hèo đi xin ăn kiếm sống, hỏi mọi người duyên cớ vì sao náo nhiệt, mọi người nói: “vua Thắng quang cúng dường tứ sự cho chúng Tăng trong ba tháng… tối nay vua mở hội thắp đèn để biểu hiện tâm ân trọng nên náo nhiệt như thế”. Cô gái nghe rồi suy nghó: “vua Thắng quang tu phước không biết chán, ta không thể làm được, chỉ có thể đi xin một ngọn đèn để cúng dường”, nghó rồi liền đi xin dầu để đốt đèn, mang ngọn đèn đến chỗ Phật kinh hành chắp tay phát nguyện: “nguyện nhờ căn lành này, con được thành bậc Vô thượng giác lúc con người sống thọ 100 tuổi như Phật Thích ca; Như Phật Thích ca có hai vị Xá-lợi-tử và Đại Mục- kiền-liên đứng hầu hai bên hiền thiện tương ưng, Bí-sô A-nan-đà làm thị giả, cha là Tịnh-phạn, mẹ là Ma-da, thành có tên là Kiếp-tỷ-la, con trai là La-hỗ-la… con nguyện ở đời vị lai cũng sẽ có đệ tử, cha mẹ, quốc thành, thê tử giống như vậy; như Phật Thích ca khi nhập Bát Niết-bàn, từng phần trên thân đều nát thành xá lợi, con cũng giống như vậy khi Bát Niết-bàn từng phần trên thân đều nát thành xá lợi”. Lúc đó Phật vẫn còn kinh hành, thị giả cũng chưa đi nghỉ, cụ thọ A-nan-đà thấy các ngọn đèn khác đều đã tắt, chỉ còn ngọn đèn của cô gái nghèo là chưa tắt liền suy nghó: “Phật không thể ngủ trong khi đen còn cháy sáng, ta nên tắt cây đèn đang cháy này”, nghó rồi liền dùng tay quạt tắt nhưng đèn không tắt, kế dùng y quạt tắt đen vẫn không tắt, kế cầm quạt quạt tắt đèn vẫn không tắt. Lúc đó Phật bảo A-nan-đà: “thầy chớ có khổ nhọc vô ích, cho dù có ngọn gió to thổi đến vẫn không làm cho đèn tắt, huống chi là thầy dùng tay, y cho đến dùng quạt quạt tắt. Vì sao, vì đèn này là do người nữ phát nguyện rộng lớn và dùng ý vô hạn để thắp lên. Này A-nan-đà, đời vị lai khi con người sống thọ 100 tuổi người nữ ấy sẽ thành Chánh giác hiệu là Thích ca Mâu ni Như lai Ứng chánh đẳng giác, đầy đủ 10 hiệu, cũng có các đệ tử hiện thiện tương ưng như ta… giống như đoạn văn trên”. Lúc đó mọi người đều nghe biết việc người nữ chỉ cúng một ngọn đèn mà được Phật thọ ký đời vị lai sẽ thành Phật, nghe biết rồi các Bà-la-môn… nói với nhau: “cô gái nghèo này đời vị lai sẽ thành tựu các đức”, nên họ đem y phục thức ăn… đến cho cô gái đó. Lúc đó vua Thắng quang nghe biết việc này cho là Phật không công bằng liền đem một ngàn bình dầu thơm lớn, dùng đóa bốn loại châu báu làm đóa đốt đèn để thắp sáng chỗ Phật kinh hành rồi bạch Phật: “Thế tôn, vì Thánh giả Ca-nhiếp-ba con đã thỉnh Phật và Tăng cúng dường trong bảy ngày, nên Phật nói nghiệp duyên cúng dường cơm lạt không muối của con ngày xưa. Sau đó con lại thỉnh Phật và tăng cúng dường tứ sự trong ba tháng, mỗi ngày trăm món ăn ngon, mỗi Bí-sô được cúng y phục trị giá trăm ngàn tiền, con lại cúng cả vạn bình dầu thơm để đốt đèn… Vậy mà không được Thế tôn thọ ký sẽ thành Vô thượng giác ở đời vị lai. Cúi xin Phật thọ ký cho con được thành Phật, làm bậc đạo sư trong đời vị lai”, Phật nói: “Đại vương, đạo quả Vô thượng Chánh đẳng giác rất khó lường, khó hiểu thấu, khó đạt đến được, vi diệu khó biết, là chỗ hiểu biết của người trí, người ngu không thể nào hiểu biết đến được, cũng không thể đổi chác được. Không phải chỉ do một sự cúng dường mà cầu được, cũng chẳng phải do trăm ngàn sự cúng dường mà đạt đến được, Đại vương, ai mong cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng giác phải tu các hạnh bố thí Ba-la-mật, tu các phước lành, thân cận thiện tri thức, khiêm nhường cung kính mới có thể thành bậc đạo sư”. Nghe Phật nói xong, vua rơi lệ bạch Phật: “khi cầu quả Vô thượng Đẳng chánh giác, Thế tôn đã bố thí những gì, tu những nghiệp lành gì?”, Phật nói: “bỏ qua những kiếp khác, hôm nay ta sẽ nói sơ lược những vật mà ta đã bố thí và nghiệp lành mà ta đã tu tập để cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác ở trong Hiền kiếp này, vua hãy lắng nghe: Chuyện vua Đảnh sanh: Thuở xưa khi con người sống thọ vô lượng tuổi, có vua tên là trưởng tịnh dùng chánh pháp cai trị, dân chúng được an vui. Về sau trên đảnh nhà vua bỗng mọc một cục bướu mềm như bông, không gây khó chịu; khi bướu chín mùi liền tự vỡ ra, trong đó có một đứa bé dung mạo đoan nghiêm đáng yêu… nên mọi người gọi tên là Đảnh sanh. Khi đứa bé được đưa vào cung, trong cung có tám vạn bốn ngàn thể nữ vừa nhìn thấy đứa bé, vú liền tuôn sữa và đều nói câu: “hãy để tôi nuôi”, nên Đảnh sanh còn được gọi tên là Lạc dưỡng. (Như trong phẩm Tương ưng vương pháp kinh A Cấp ma). Vương tử Đảnh sanh vui chơi cùng các đồng tử khác trong khoảng thời gian gấp sáu lần tuổi thọ của vua trời Đế thích; sau đó làm Thái tử trong khoảng thời gian gấp sáu lần tuổi thọ của vua trời Đế thích rồi mới lên ngôi vua, cũng trong khoảng thời gian gấp sáu lần tuổi thọ của vua trời Đế thích; dùng chánh pháp trị thế ở châu Thiệm bộ, trong cung thì mưa y phục cõi trời, bên ngoài thì mưa vàng bạc châu báu. Lúc đó bên cạnh thành Quảng nghiêm có 500 vị tiên tên là Xú diện, nơi họ ở có đủ loại chim kêu loạn xạ khiến các vị tiên này không chịu nổi, liền chú nguyện cho chúng rụng hết lông cánh. Vua Mạn-đà-la nghe biết việc này nghó rằng: “Các tiên nhơn này không có lòng từ bi, sao để họ ở nơi đây được”, nghó rồi liền đuổi họ ra khỏi nước, các tiên nhơn suy nghó: “vua làm vua bốn cõi, nay chúng ta sẽ sống ở đâu”, nghó rồi liền đến sống ở chân núi Diệu cao. Về sau vua đến sống ở Tây Câu đà ni trong khoảng thời gian bằng sáu lần tuổi thọ của vua trời Đế thích -; ở Đông Phất đề bà và Bắc Câu lô châu cũng như vậy; ở bảy dãy núi vàng ròng vua cũng trải qua thời gian bằng sáu lần tuổi thọ của vua trời Đế thích. Khi vua và quân binh tiến lên đỉnh núi Tu di, các tiên nhơn liền chú nguyện cho quân binh không thể cử động, lúc đó có một Dược xoa tên là Không cư thấy rồi liền nói kệ: “Xin tiên hãy bỏ tâm sân hận, Để cho mọi thứ được thành tựu, Đây là Đại vương Mạn-đà-la, Không giống bầy chim thành Quảng nghiêm”. Vua thấy quân binh không cử động liền hỏi là ai đã ngăn cản, đáp là đại tiên, vua hỏi đại tiên ưa thích gì nhất, đáp là ưa thích búi tóc nhất, vua liền chú nguyện: “nguyện cho vị tiên ấy không còn búi tóc trên đầu và làm người hầu của ta”. Vua vừa nguyện xong, búi tóc của vị tiên ấy tự rụng và cầm gậy đi tới chỗ vua. Nữ báu của vua nói: “đó là tiên nhơn, Đại vương chớ gây họa, hãy thả ông ta”. Vua nghe rồi liền thả tiên nhơn, tiên nhơn tức giận liền giữ giới hạnh, không bao lâu sau chứng được năm thông. Lúc đó hai long vương Nan-đà và Ô ba-nan-đà thấy quân binh của vua cho là quân binh A-tu-la liền dẫn bốn binh ra đánh, khi thấy là vua Mạn-đà-la binh chúng của Long vương đều thối lui, bốn đại Dược xoa cũng bỏ chạy đến chỗ Tứ thiên vương tâu: “hôm nay có quân binh của vua Mạn-đà-la kéo đến, vua ấy có phước đức lớn sắp đến cung vua trời Đế thích, chúng ta nên mang hương hoa và các món cúng dường ra nghinh đón họ”. Sau đó tất cả cùng đến cung vua trời Đế thích, vừa trông thấy vua Đảnh sanh, vua trời Đế thích liền chia nửa tòa ngồi mời ngồi. Lúc đó có bốn binh của A-tu-la kéo đến, Dược xoa liền vào báo cho vua trời Đế thích biết, vua trời Đế thích định dẫn binh ra đối địch, vua Mạn-đà-la bảo vua trời Đế thích ở lại để mình dẫn binh ra đối phó. Nói rồi vua dẫn 1tám vạn lực só khỏe mạnh nương hư khôngmà đi và bảo các lực só phát ra âm thanh lớn nói rằng: chúng tôi là lực só có oai đức lớn, nghe âm thanh này quân A-tu-la đều bịt tai bỏ chạy. Lúc đó vua Đảnh sanh suy nghó: “ta nên sống ở đây, người ở châu Thiệm bộ đông đúc giàu có vui vẻ, cho đến ba châu kia đều thuộc về ta, ta nay nên chiếm ngôi vua trời Đế thích làm chủ cõi trời người”, vừa nghó xong vua liền mất thần thông rơi trở xuống châu Thiệm bộ và mắc bịnh nặng, vua liền nói kệ: “Có thật nhiều của cải, Vẫn không hết ham muốn, Vui ít mà khổ nhiều, Người trí nên xa lìa. Dù hưởng vui cõi trời, Cũng không thỏa ý thích, Muốn biết hết vui thích, Chỉ có Phật, Thanh văn. Ví như núi vàng tụ, Cao như Tuyết sơn vương, Vẫn còn thấy chưa đủ, Người trí hiểu như vậy, Do thấy gốc khổ này, Dục lạc không đáng ưa, Ấm, căn là mũi tên, Hãy cùng học luật giáo”. Nói kệ rồi vua thực hành đại bố thí rồi lại nói kệ: “Ta biết thọ mạng ngắn, Đời sau ắt chịu khổ, Nay làm các công đức, Để đời sau được vui, Người nào thích tu phước, Thì tùy sức bố thí, Người ưa thích tu phước, Đời này đời sau vui”. Này Đại vương, ý vua nghó sao, vua Mạn-đà-la ngày xưa nay chính là thân ta. Thuở xưa ta làm lợi ích cho hữu tình như vậy mà còn không thể đạt được quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác; huống chi là bố thí chút ít mà có thể đạt được hay sao, do duyên nơi nhân này chỉ có quả báo sanh tử mà thôi”. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 13 Phật lại bảo vua Thắng quang: “thuở xưa ta vì cầu quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác làm lợi ích cho các hữu tình như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa có Chuyển luân Thánh vương tên là Đại Hỷ kiến, có đủ bảy báu và bốn Thần thông… như trong phẩm 63 của kinh Trường A cấp ma có nói rõ. Lúc đó vua Hỷ kiến ưa thích chánh pháp nên cúng dường thức ăn cho 500 vị Độc giác, sau đó lại dâng cúng cho mỗi vị Độc giác một tấm giạ rồi nói kệ: “Đã chứng tâm rộng lớn, Nhơn giả chớ phóng dật, Cúng dường người trì giới, Thì sẽ được tăng ích, Người cúng dường hiểu rõ, Tín tâm được giải thoát, Do chứng, tâm không tội, Đời sau được an vui”. Này Đại vương, Chuyển luân Thánh vương có đủ bảy báu và bốn Thần thông ngày xưa, nay chính là thân ta. Xưa nhờ cúng dường 500 vị Độc giác tuy không được quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhưng nhờ nhân duyên này tích tụ thiện căn để đến ngày nay được thành tựu đạo quả Chánh giác”. Phật lại bảo vua Thắng quang: “này Đại vương, để cầu quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ta đã làm công đức xả thí như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa có một Bà-la-môn tên là Thời chí thuộc dòng hào tộc, thường thực hành bố thí và cúng dường các Bà-la-môn. Ông có 84 vạn con voi lớn được trang sức bằng các đồ trang sức bằng vàng, dùng lụa vàng phủ lên lưng voi và có tua ren rũ xuống dưới. Ông đem những con voi này cúng dường cho các Bà-la-môn… như trong kinh Tý la ma có nói rõ. Kinh Trung A cấp ma có bài kệ về công đức bố thí này: “Thí rồi nguyện họ vui, Ta thí trụ vô úy, Cúng dường cho thế gian, Trời cùng với mọi người, Cầu cho tất cả vui, Xả thí, trụ vô úy, Thường cầu sẽ giải thoát, Giàu có làm nhân chủ”. Này Đại vương, Bà-la-môn cúng dường 84 vạn con voi thuở xưa đó chính là thân ta ngày nay. Xưa kia nhờ xả thí tuy ta chưa chứng được đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhưng nhờ nhân duyên đó ta có chánh tín, cho đến nay công đức viên mãn mới thành tựu được quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Phật lại bảo vua Thắng quang: “này Đại vương, để cầu đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ta đã bố thí tu các phước nghiệp như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa có Chuyển luân Thánh vương tên là Kiết thắng thống lónh bốn châu, có đủ bảy báu và được ba thần thông, do không có con nên nhà vua đã tìm đủ cách để có con. Lúc đó có một người đến tâu vua: “có một loại thuốc tên là đa tử, vương phi uống vào sẽ có con”, vua nghe rồi liền cho người đi tìm loại thuốc này. Khi tìm được thuốc vua liền cho vươngphi uống, uống xong vương phi liền mang thai nhưng không biết là nhờ uống thuốc, Đủ ngày tháng sanh một con trai nhưng lại có hình dáng kỳ dị, mặt như sư tử và có sức mạnh như Na-la-diên, vua làm lễ đặt tên cho con là Mao thảo. Khi vương tử trưởng thành, ở phía trước vương tử bỗng xuất hiện một chiếc loa và bánh xe vi diệu; nếu vương tử thổi loa này thì quân địch nghe tiếng loa đều bỏ chạy hoặc bị điếc tai; nếu nghe tiếng bánh xe chuyển động cũng đều bỏ chạy. Sau khi chế phục được vua các ngoại bang, vương tử đến báo cáo với phụ vương, phụ vương vui mừng cho người sang nước lân bang hỏi cưới công chúa cho Thái tử, nhưng trong ngày lễ thành hôn công chúa thấy Thái tử có hình dáng kỳ dị nên sợ hãi bỏ chạy. Thái tử cầm loa, bánh xe và đao đuổi theo công chúa, trên đường đi thấy voi ngựa của nhà vua bị sư tử ăn; Thái tử liền cầm loa thổi khiến cho sư tử, hổ, sói đều bỏ chạy. Những người giữ voi ngựa đem một phần sáu số voi ngựa biếu cho Thái tử, Thái tử nói: “số voi ngựa các vị biếu cho ta, hãy để lại đây, khi quay về ta sẽ lấy”, nói rồi tiếp tục đuổi theo công chúa. Lúc đó thân quyến của Thái tử đem binh mã tới bảo Thái tử: “Thái tử hãy quay về, nếu nhất quyết đuổi theo thì hãy dẫn số binh chúng này đi theo”, Thái tử nói: “tôi đi một mình, không cần binh chúng”, nói rồi một mình đi đến nước của vợ. Thấy Thái tử đến cha vợ bảo: “hãy dẫn công chúa đi”, Thái tử liền dẫn công chúa đi, trên đường trở về Thái tử đến chỗ người giữ voi để nhận số voi ngựa họ đã biếu, họ nói là đã bị gió thổi bay mất hết, Thái tử nghe rồi liền nói kệ: “Voi ngựa lớn và nhỏ, Đều bị gió thổi bay, Huống chi bò và dê, Suy tư liền tự biết.” Trở về cung tắm rửa rồi soi gương mới thấy mình hình dung đáng sợ, tự nghó: “mặt mũi ta đáng sợ như vậy, hèn chi mọi người đều ghê sợ, ta mang chi thân này nữa”, nghó rồi liền vào trong rừng muốn tự tử. Lúc đó vua trời Đế thích quán thấy Thái tử là Bồ-tát trong Hiền kiếp liền suy nghó: “nếu làm cho Thái tử được xinh đẹp thì sẽ không muốn tự tử nữa”, nghó rồi liền cho Thái tử hạt châu trong búi tóc, sau khi đeo hạt châu này Thái tử trở nên xinh đẹp như thiên tử và có đủ bảy báu. Sau khi vua cha băng hà, Thái tử lên nối ngôi, thống lónh bốn cõi, dúng chánh pháp cai trị, có oai lực lớn, ở 60 vạn thành, vua đều thiết lập ng- hóa đường, y theo pháp thế tục lập nhà tế tự chuyên tu bố thí trong nhiều năm. Sau khi cúng dường cho các Bà-la-môn trong suốt trăm ngàn năm, vua nói kệ: “Ai có nhiều thọ dụng, Chư thiên và loài người, Keo kiệt không bố thí, Nhiều của mà không xả, Người mê lòng chấp chặt, Phật dạy nên bố thí, Cầm gậy không phải dũng, Tâm năng thí mới dũng”. Này Đại vương, Chuyển luân Thánh vương xưa kia thiết lập nghóa đường, y theo pháp thế tục lập nhà tế tự chuyên tu bố thí, rộng tu công đức, chính là thân ta ngày nay. Nhờ xả thí nên ngày nay ta mới thành tựu quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ta tu tập phước này còn nhờ nơi nhân duyên, tín căn và tích tụ căn lành nên nay mới chứng quả Chánh giác”. Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ta đã hành bố thí, tu phước nghiệp như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa có một vị vua tên là Loa Ma-đằng-ca với hằng trăm quyến thuộc vây quanh, vua có tâm từ bi thường làm lợi ích cho các hữu tình. Gặp lúc trong nước mất mùa đói kém, vua chí thành phát nguyện, trời liền giáng mưa xuống, nhờ thế nước ấy trở nên giàu có, thời gian sau vua bỏ ngôi vua xuất gia theo tiên nhơn, chứng được năm thông. Lúc đó ở thành Bà-la-nê-tư có vua tên Phạm đức cai trị, dân chúng đông đúc an vui, bỗng có tướng số đoán rằng trong 12 năm tới trời sẽ không mưa, vua liền cho đánh trông bố cáo dân chúng : “ai có thể chuẩn bị lương thực trong 12 năm thì ở lại, ai không thể thì được phép sang nước khác”. Dân chúng nghe rồi nói với nhau: “nghe nói ở nước Ma-đằng- ca có vị tiên chân thật thệ nguyện thì trời liền giáng mưa, nên nước ấy được giàu có an vui, chúng ta nên sang nước đó”, nói rồi đều cùng nhau bỏ sang nước Ma-đằng-ca sinh sống. Ở nước đó sau khi vua cha xuất gia Thái tử lên nối ngôi, trong suốt 12 năm cung cấp đầy đủ lương thực cho những người sống nhờ ở nước mình. Lúc đó vua Phạm đức hỏi quần thần mới biết dân chúng nước mình đã bỏ sang ở nước Ma-đằng-ca, liền bảo quần thần: “hiện nay thế gian đói kém như thời mạt kiếp, chúng ta nên làm cách gì để thoát khỏi nạn này?”, quần thần tâu: “vua Ma-đằng-ca nay đã xuất gia chứng đạo tiên, chúng ta nên cung thỉnh vị ấy đến”. Vua nghe rồi liền đến chỗ tiên Ma-đằng-ca cung thỉnh đến nước mình phát lời nguyện chân thật, tiên nhơn nhận lời đến nước đó phát lời nguyện chân thật như sau: “Ta dù sanh dòng Chiên đồ la, Cũng không ác tâm làm tổn hại, Tam Loa xin báo cho hết thảy, Chư thiên và người đều đã thấy, Nay ta phát lời nguyện chân thật, Từ lâu đã huân tập tâm từ, Thường vì chúng sanh khắp pháp giới, Xin rồng giáng mưa cứu người đói, Từ khi sanh ra luôn tu thiện, Từ lâu huân tập tâm từ bi, Dùng vô lượng lời chân thật này, Xin rồng giáng mưa cứu chúng sanh”. Tiên nhơn phát nguyện xong, ờ thành Bà-la-nê-tư liền có mưa to, trong nước được mùa không còn đói kém nữa, dân chúng sống nhờ ở nước Ma-đằng-ca đều trở về lại quê hương. Này Đại vương, vua Tam Loa Ma-đằng-ca ngày xưa chính là thân ta ngày nay, Ngày xưa ta hành từ bi làm lợi ích cho các hữu tình, nếu phát lời nguyện chân thật thì trời liền giáng mưa, khiến cho trong nước được mùa hết đói kém. Đại vương, không phải chỉ do bố thí mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề, còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu quả vô thượng Bồ-đề, ta đã tu bố thí, làm các phước nghiệp như sau, đai vương hãy lắng nghe: Thuở xưa ở nước Di địa la có vua chuyển luân tên là Đại thiên như trong kinh A Cấp ma có nói rõ, vua tự thấy mình có nhiều thọ dụng nên làm pháp tế tự và nói kệ: “Nếu mong cầu giàu có, Ở cõi trời và người, Nên tùy sức bố thí, Do vì sợ bần cùng, Người thí được người trọng, Sau được chư thiên cúng, Người, phi nhơn quy y, Như mưa rơi, kết trái.” Đại vương, vua chuyển luân ngày xưa chính là thân ta ngày nay, ngày xưa do ta quyết định hướng về đường lành, thường tu phạm hạnh nên trong tám bốn ngàn đời thường ở ngôi vị Chuyển luân. Đại vương, không phải chỉ do bố thí mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề, còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác.” Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu quả Vô thượng Bồ-đề, ta đã tu bố thí làm các phước nghiệp như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa ở thành Di địa la có vua chuyển luân tên là Nê-di-la như trong kinh A Cấp ma có nói rõ, vua thấy mình có nhiều thọ dụng nên làm các pháp tế tự, bố thí cho tất cả rồi nói kệ: “Thấy ai làm pháp lành, Thì hãy làm lành theo, Người biếng nhác không làm, Chính là người thấp hèn”. Lúc đó vua trời Đế thích bảo vua Nê-di-la: “vua hãy đến trong cung của tôi để thọ hưởng ngũ dục cõi trời, tùy ý thọ lạc”, vua liền nói kệ: “Như mượn vật của người, Hết hạn thì phải trả, Thiên lạc cũng như vậy, Giống như vật mượn tạm, Ta về Di địa la, Tu tạo các phước nghiệp, Nhờ phước sanh lên trời, Sẽ đến trong cung ấy”. Vua Nê-di-la liền trở về nước mình lo tu bố thí làm các phước nghiệp rồi nói kệ: “Người hiền khen bố thí, Tùy thời mà hành xả, Sát lợi, Phạm, Phệ xá, Chiên đồ, Tuất đạt la, Hành xả lúc đói kém, Giúp họ được no đủ, Sẽ xa lìa đường ác, Sau được sanh lên trời, Người trí biết phước này, Nên thường hành xả thí, Do thí được giải thoát, Phú quý và sanh thiên”. Này Đại vương, vua chuyển luân ngày xưa chính là thân ta ngày nay, ngày xưa ta lên cõi trời Tam thập tam được vua trời Đế thích chia tòa mời ngồi và mời ở lại thọ hưởng năm dục, ta còn trở về nước Di địa la thiết lập nghóa đường, y theo pháp thế tục lập nhà tế tự chuyên tu bố thí. Đại vương, không phải chỉ do bố thí mà chứng quả Vô thượng Bồ- đề, còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu quả Vô thượng Bồ-đề, ta đã hành xả thí tu các phước nghiệp như sau, đai vương hãy lắng nghe: Thuở xưa có vị vua tên là A-nan-đà, vua có trăm người con, người con nhỏ nhất tên là Cảnh diện. Thời gian sau vua nhiễm bịnh dù đã dùng đủ loại thuốc, bịnh vẫn không khỏi mà còn nặng thêm, khi sắp qua đời vua bảo quần thần nên lập vua mới, quần thần hỏi vua định lập ai, vua nói: “người nào có phước đức, có phước báo của chư thiên, khi mang giày báu thì người trong cung đều nghe lời, là người thấy được sáu phục tàng: 1.Là nội tàng. 2.Là ngoại tàng. 3.Là nội ngoại tàng. 4. Là phục tàng ở trong rừng. 5.Là phục tàng ở trong núi. 6.Là phục tàng ở dưới nước; thì người đó nên lập làm vua”, nói xong vua băng hà. Sau khi chọn lựa, quần thần thấy chỉ có vương tử út tên cảnh diện là có đủ các điều kiện trên nên lập lên làm vua, sau khi lên ngôi vua thấy có sáu phục tàng. Hễ vua đứng dưới gốc cây nào thì bên dưới có phục tàng, gọi là phục tàng trong rừng cây; vua ở trong khe núi hay vườn hoa cũng vậy, cho đến vua vui đùa trong nước thì dưới nước đó có phục tàng. Vua dúng chánh pháp cai trị, trong nước mất mùa đói kém trong 12 năm, vua y pháp tế tự bố thí khiến cho dân chúng được no đủ rồi nói kệ: “Nhờ pháp được của cải, Người trí không cất chứa, Bố thí là giữ giới, Thí và người thọ thí, Sa môn, Bà-la-môn , Người nghèo được no đủ, Sau khi bỏ thân này, Sẽ được sanh lên trời, Hiểu rõ được việc này, Chánh tín niệm giải thoát, Thường mạnh mẽ bố thí, Hành xả không lẫn tiếc”. Này Đại vương, vua Cảnh diện ngày xưa chính là thân ta ngày nay. Ngày xưa dân chúng đói kém trong 12 năm ta đã bố thí cho tất cả được no đủ, không phải chỉ do bố thí mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề, còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, ta đã hành bố thí tạo các phước nghiệp, phát tinh tấn Ba-la-mật như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa ở nước Bàn già la có hai ông vua, vua ở phía Bắc tên là Viết tài trụ trong thành Long các, một người làm vua ở phía Nam. Vua Viết tài dùng chánh pháp cai trị nên đất nước phồn thịnh an vui, trong nước không có kiện tụng, dân chúng ấm no, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa. Cạnh thành Long các có một cái ao lớn, trên mặt ao phủ đầy các loại hoa sen và có nhiều loại chim đến đây cư trú, dưới ao có một Long tử tên Diệu sanh thường nổi mây giáng mưa đúng thời làm cho ruộng lúa tốt tươi, dân chúng được mùa. Vua phía Nam bản tánh hiểm ác, thô bạo dùng phi pháp cai trị khiến cho dân chúng lầm than nên trời không giáng mưa, dân chúng đều bỏ trốn sang thành Long các để sống. Vua phía Nam khi ra khỏi thành săn bắn thấy xóm làng trống rỗng, miếu thờ thần hư hoại bèn hỏi quần thần nguyên do, quần thần liền tâu rõ nguyên do như trên, vua nghe rồi liền hỏi: “làm cách nào để cho nhân dân quay trở lại?”, quần thần đáp: “nếu Đại vương cũng thục hành từ bi làm lợi ích cho chúng sanh như vua Viết tài phía Bắc, thì không bao lâu sau dân chúng sẽ quay trở về quê cũ. Cạnh thành Long các ở phía Bắc có một cái ao lớn, trên mặt ao phủ đầy các loại hoa sen và có nhiều loại chim đến đây cư trú, dưới ao có một Long tử tên Diệu sanh thường nổi mây giáng mưa đúng thời làm cho ruộng lúa tốt tươi, dân chúng được mùa”, vua hỏi quần thần: “làm cách nào để Long tử Diệu sanh đến sống ở nước ta”, quần thần tâu: “nếu có người trì chú thì Long tử ấy có thể đến đây sống”. Vua liền ra lịnh đánh trống thông báo trong dân chúng:” ai có thể trì minh chú khiến cho Long tử Diệu sanh ở thành Long các phía Bắc đến sống ở nước ta thì sẽ được thưởng một rương vàng ròng và nhiều thứ khác”, lúc đó có một thầy trì chú tên là Chú xà đến chỗ Đại thần nói: “nếu chắc chắn cho tôi một rương vàng ròng thì tôi có thể trì chú gọi Long tử Diệu sanh đến ở nơi đây”, đại thần liền đưa cho ông ta một rương vàng, ông liền nói: “đợi tôi trì chú gọi rồng đến sẽ nhận vàng sau”. Lúc đó thầy trì chú liền đi đến thành Long các quan sát bốn phía ao để biết chỗ rồng ở rồi trở về báo cho đại thần biết đến ngày thứ bảy rồng sẽ đến nước phía Nam. Long tử Diệu sanh biết thầy trì chú đến đây tác pháp, trong bảy ngày nữa sẽ dẫn mình đến nước phía Nam, liền suy nghó: “làm cách nào để có thể không xa lìa cha mẹ và quyến thuộc, phải trốn ở đâu để tránh được họa này?”. Cách ao không xa có hai người thợ săn cư trú, một người tên Bà la ca, một người tên Pha la ca. Thời gian sau thợ săn Bà la ca chết, chỉ còn lại thợ săn Pha la ca, Long tử Diệu sanh liền đến chỗ thợ săn này nói rằng: “anh có biết nhờ ai mà dân chúng nơi đây được an vui, no đủ không?”, đáp: “đều là nhờ vua hành từ bi làm lợi ích cho tất cả”, lại hỏi: “ngoài nhà vua ra còn nhờ ai nữa?”, đáp: “còn nhờ có Long tử Diệu sanh ở trong ao thường giáng mưa đúng thời khiến cho lúa và ngũ cốc được mùa”, lại hỏi: “nếu có người nào dẫn rồng đi đến nơi khác thì anh sẽ làm gì người ấy”, đáp là sẽ giết người đó, lại hỏi: “anh có biết Long tử Diệu sanh không?”, đáp là không biết, rồng nói: “tôi chính là Long tử Diệu sanh, hiện nay có thầy trì chú ở nước phía Nam tên là Chú xà sắp đến đây kiết giới tác pháp để dẫn tôi đi. bảy ngày nữa ông ta đến ao tác pháp bốn phía ao, đóng cọc giăng lưới… lúc đó anh hãy ẩn một nơi gần đó, khi thấy tôi quậy nước, anh hãy bắn vào yếu huyệt của ông ta rồi đến bảo ông ta rằng: hãy thu hồi chú pháp, nếu không ta sẽ chém đầu. Anh đợi ông ta giải chú pháp rồi mới giết ông ta, nếu không làm như thế tôi sẽ thường bị chú pháp trói buộc đến chết, thợ săn nói: “nếu chỉ vì lợi ích cho riêng Long tử tôi còn làm, huống chi là vì lợi ích cho tất cả dân chúng nơi đây, xin Long tử chớ lo”, Long tử liền dẫn thợ săn đến gần ao chỉ chỗ ẩn nấp. Đến ngày thứ bảy, thầy trì chú đến chỗ ao lập đàn kiết giới tác pháp như lời Long tử nói, thợ săn liền bắn tên vào yếu huyệt của ông ta và làm đúng như lời Long tử đã dặn. Được cứu thoát, rồng ra khỏi ao ôm người thợ săn nói: “anh chính là cha mẹ tôi, vì đã cứu thoát tôi khỏi nổi khổ xa lìa cha mẹ và quyến thuộc, anh hãy theo tôi xuống Long cung”, nói rồi liền dẫn thợ săn xuống Long cung đãi ăn rồi tăng cho thợ săn viên ngọc quý, cha mẹ của Long tử tặng thêm cho thợ săn nhiều châu báu, thợ săn nhận rồi trở về nhà. Cách ao không xa có trú xứ của một vị tiên, một ngày nọ thợ săn đến chỗ tiên nhơn kể lại sự việc trên, tiên nhân liền nói: “ở trong Long cung có một sợi dây Bất không, anh nên xin sợi dây đó, không nên lấy châu báu làm gì”. Thợ săn nghe rồi sanh lòng tham, thời gian sau lại đến trong Long cung thấy sợi dây như lời tiên nhân nói, liền xin rồng sợi dây đó mà không nhận lấy châu báu, rồng nói: “sợi dây này vô dụng đối với anh, vì sợ chim cánh vàng và để hộ thân nên chúng tôi phải giữ sợi dây này”, thợ săn nói: “nếu Long tử nhớ ân nghóa thì hãy cho tôi xin sợi dây ấy”, rồng nghe rồi suy nghó: “người này đã có ân với ta, ta nên hỏi cha mẹ rồi hãy cho”, nghó rồi liền hỏi ý kiến cha mẹ sau đó mới đưa cho thợ săn, thợ săn nhận sợi dây rồi vui mừng trở về nhà. Lúc đó ở trong cung, vua Viết tài lo buồn vì vương phi không có thai, nghó rằng: “ta có vô lượng của báu mà không có con kế thừa, nếu biết ta không có con mọi người sẽ lập người khác lên kế thừa ngôi vị”, quần thần và quyến thuộc của vua sau khi biết rõ nguyên do liền khuyên vua nên cầu con ở các miếu thờ thiên thần, nhưng nếu nhờ khẩn cầu mà có con thì mọi người đều có ngàn người con, thật tế phải hội đủ ba điều mới có thể có con: 1.Là cha mẹ giao hội. 2.Là người mẹ đúng thời kỳ có thai. 3. Là tham Ái hiện hữu. Do nhà vua hết lòng cầu con nên Bồ-tát ở Hiền kiếp giáng thần vào thai của đại phu nhân của vua. Lúc đó vương phi biết mình có thai, tâm sanh hoan hỉ nói với vua: “Đại vương biết chăng, thiếp nay đã có thai, thai nằm bên nách trái nhất định là con trai”. Vua nghe rồi rất vui mừng, lúc đó vương phi suy nghó: “sau 10 tháng ta sẽ sanh con, con ta sẽ nối thạnh tổ nghiệp, hy vọng sau khi ta chết nó sẽ vì ta bố thí, tu các phước nghiệp, ta còn sống thì nó thương theo bên ta”. Khi sắp sanh, vương phi dạo chơi, trên thân trang sức chuỗi anh lạc như thiên nữ dạo chơi trong vườn Hoan hỉ… 9 tháng trôi qua, hài nhi ra đời dung mạo đoan nghiêm, ai nhìn cũng yêu mến, lúc đó có chư thiên đánh trống giúp vui khiến vua rất kinh ngạc. Sau đó vua ra lịnh quét dọn sạch sẽ trong thành ấp … cúng dường cho các Sa môn, Bà-la-môn và những người nghèo khổ, phóng thích tù nhân… Trải qua một ngày vì Thái tử tu Các phước nghiệp như thế, vua mới hội quần thần đặt tên cho Thái tử, quần thần bàn luận: “vua tên tài, nên đặt tên cho vương tử là Thiện tài”. Vua giao Thái tử cho tám bà nhũ mẫu chăm sóc… không bao lâu sau Thái tử trưởng thành như hoa sen lên khỏi mặt nước, học thông các môn học và kỹ nghệ, tất cả 64 kỹ năng. Vua lại xây cho Thái tử ba cung điện với ba vườn thượng uyển ứng với ba mùa xuân hạ đông… Lúc đó thợ săn Pha la ca nhân săn đuổi cầm thú đến một ngọn núi, dưới chân núi có trú xứ của một tiên nhân, nơi đó có hoa quả tốt tươi với đủ loài chim đẹp, lại có ao lớn với đủ loại hoa sen. Vị tiên nhân đó có tóc và móng tay đều dài, mình mặc vỏ cây, do tu khổ hạnh nên thân hình khô đét, thợ săn thấy rồi liền đảnh lễ và hỏi tiên nhân ở đây đã bao lâu, tiên nhơn nói là đã 40 năm, lại hỏi: “tiên nhân ở nơi đây có thây việc gì kỳ lạ không?”, tiên nhân nói: “nước trong ao này trong mát, mùi vị như sữa được hòa với vị hoa. Mỗi tháng vào ngày 15 có vương nữ Khẩn-na-la tên là Duyệt ý cùng 500 quyến thuộc mang theo các loại hương hoa đến tắm trong ao này. Khi tắm họ trổi nhạc, nghe tiếng nhạc này các con chim sống nơi đây đều ngừng hoạt động, bản thân ta cũng cảm thấy vui vẻ, sảng khoái đến bảy ngày. Hiền thủ, ta ở nơi đây chỉ thấy có việc này là kỳ lạ”. Thợ săn nghe rồi suy nghó: “ta có được sợi dây bất không của rồng cho, ta nên dùng dây này bắt trói vương nữ Duyệt ý”, nghó rồi liền đợi đến ngày 15 núp ở gần ao, khi thấy vương nữ xuống ao tắm liền ném sợi dây bắt trói, thấy vương nữ bị bắt trói, các quyến thuộc đều bỏ chạy tứ tán. Lúc đó thợ săn thấy vương nữ xinh đẹp muốn ôm lấy, vương nữ nói: “ông không thể làm chồng tôi được, vì tôi chỉ có thể làm vợ vua”, thợ săn nói: “chỉ là ta sợ cô bỏ chạy”, vương nữ nói: “tôi sẽ không bỏ chạy nếu ông giữ viên ngọc báu trong búi tóc của tôi”, thợ săn liền giữ viên ngọc báu và dẫn vương nữ đi. Trên đường về gặp Thái tử Thiện tài đi săn, thợ săn suy nghó: “Thái tử nếu gặp vương nữ xinh đẹp này nhất định sẽ chiếm đoạt, chi bằng ta tự dân cho Thái tử”, nghó rồi liền đem đến dâng cho Thái tử, Thái tử vừa thấy vương nữ liền sanh tâm tham đắm, như con thiêu thân bay vào lửa, như sóng nước không thể dừng được, như bò tơ và chim cánh vàng nhanh nhẹn không thể ngăn cản, như gió bảo thổi không thể quay lại, như khỉ được cây leo chuyền không dừng… Đó là do tâm tham dục phiền não tích tụ từ vô thỉ đến nay, cảnh dục do tâm cấu uế, do vọng tưởng nghó đến vị lạc của dục … làm dây cung, tâm dục làm tên và lấy đối tượng vương nữ làm đích, nên Thái tử nói kệ: “Thấy dung nhan nàng như trăng rằm, Hoặc như ánh chớp giữa đám mây, Tâm rối loạn như voi bị bắn, Đón nhận Duyệt ý mang về thành”. Thái tử thưởng cho thợ săn nhà cửa và ruộng đất rồi dẫn vương nữ Duyệt ý về trong cung cùng hoan lạc, vương nữ xinh đẹp dịu dàng biết cách săn sóc nên Thái tử rất yêu mến không muốn xa lìa. Thời gian sau có hai Bà-la-môn đến trong thành Long các, một người theo hầu vua được vua tôn là thầy và ban thưởng nhiều của cải; một người theo hầu Thái tử và cũng được Thái tử ban cho nhiều của cải. Lúc đó Bà-la-môn này hỏi Thái tử: “nếu sau này Thái tử được lập lên làm vua, sẽ đối xử với tôi như thế nào?”, Thái tử nói: “như cha ta đã tôn vị kia làm thầy, ta cũng sẽ tôn ông làm thầy, đứng đầu trong số các Bà-la-môn”. Nghe được lời này, Bà-la-môn kia tức giận suy nghó: “ta phải làm cách gì để Thái tử không được nối ngôi, huống chi là Bà-la-môn này được địa vị tôn quý”. Thời gian sau có nước lân bang sang xâm lấn, vua sai tướng đi đánh dẹp đều bị thua quay về, quốc sư suy nghó: “nay đã đúng thời cơ, ta nên tâu vua cho Thái tử đi chinh phạt khiến cho Thái tử bị giặc giết chết”, nghó rồi liền tâu vua: “Thái tử trẻ tuổi lại có sức mạnh, Đại vương hãy cho làm đại tướng đến đó chống địch, chắc chắn sẽ chế phục được giặc”. Vua nghe rồi liền cho gọi Thái tử đến bảo: “con hãy làm đại tướng dẫn binh đến nước khoáng dã đánh dẹp quân địch”, Thái tử tuân lịnh rồi trở về cung từ giã vợ, nhưng khi gặp Duyệt ý liền quên mất lời vua cha đã dạy; vua cho gọi lần thứ hai và cũng như trước khi gặp duyệt ý liền quên mất. Quốc sư tâu vua: “Thái tử tham đắm Duyệt ý, xin Đại vương ra lịnh cho quân binh tập họp ở chỗ Thái tử rồi bảo Thái tử xuất phát trước mặt vua”, vua nghe rồi liền làm y theo lời quốc sư, Thái tử xin được từ giã Duyệt ý vua không cho, lại xin được từ giã mẹ vua liền cho, Thái tử đến chỗ mẹ đưa viên ngọc trên búi tóc của Duyệt ý cho mẹ và nói rằng: “viên ngọc này xin mẹ hãy cất giữ chớ đưa cho Duyệt ý, trừ khi gặp khổ não bức bách có thể chết, lúc đó mẹ mới đưa lại cho nàng”, người nhận lời, Thái tử nhiễu quanh mẹ ba vòng rồi lên đường. Đi cách thành không xa, Thái tử cho quân dừng nghỉ dưới một gốc cây, lúc đó vua trời Phệ thất la mạt noa dẫn quyến thuộc đi ngang qua nơi đó, bỗng nhiên họ không thể chuyển động được, vua trời này kinh ngạc suy nghó: “ta từng đi qua nhiều nơi nhưng chưa gặp trường hợp như thế này”, liền quán biết Thái tử là Bồ-tát trong Hiền kiếp sắp đi đến nước kia đánh dẹp giặc, vua trời suy nghó: “ta nên giúp Thái tử, đừng để cho vị ấy bị tổn hại”, nghó rồi liền ra lịnh cho Dược xoa thứ năm dẫn quân binh đến thành Khoáng dã đánh bại quân địch giúp cho Thái tử. Dược xoa vâng lịnh dẫn bốn binh hóa làm hình người cao lớn như cây Đa la, voi to lớn như núi, ngựa lớn như voi thị hiện oai lực làm cho quân giặc khiếp vía và bảo quân giặc mở cửa thành để đón Thái tử. Thái tử vào thành sắp xếp lại mọi việc và cắt đặt quan mới trấn giữ rồi dẫn quân trở về nước. Trong đêm ấy vua cha nằm mộng thấy diều hâu bay đến quắp ruột của vua nhiễu quanh bốn mặt thành, còn thân vua được đưa vào nhà bằng châu báu. Tỉnh giấc vua lo sợ sẽ bị đoạt vương vị hoặc là bị chết nên hội quần thần kể lại giấc mộng trên. Quốc sư nghe rồi liền biết Thái tử đã thắng trận nhưng lại cố ý giải sai giấc mộng nên tâu vua rằng: “đây là ác mộng, báo điềm vua sẽ bị mất ngôi hoặc bị chết. Trong chú pháp của Bà-la-môn có phương pháp trừ bỏ nguy ách này”, vua liền hỏi là phương pháp gì, quốc sư nói: “nên đào một cái ao trong vườn thượng yuển của vua, giết thú dữ lấy máu đổ đầy ao, chung quanh trang hoàng đẹp đẽ và tô láng bằng cát trắng và tạo bốn đường đi, cửa vào ở một bên, cửa ra ở một bên. Sau đó phải có một Bà-la-môn thông suốt Tứ minh dùng lưỡi liếm chân vua, kế dùng mỡ của Khẩn-na-la để đốt hương làm lễ trừ tai ách cho vua được ở lâu trên ngôi vua”, vua nói:“mọi thứ đều có thể làm được nhưng mỡ Khẩn-na-la tìm đâu ra?”, quốc sư nói: “vợ của Thái tử chính là vương nữ của Khẩn-na-la”, vua nói: “nàng ấy và con ta thương yêu như vậy, ta không thể”, quốc sư nói: “Đại vương há không nghe: Bỏ một vì quyến thuộc, Vì làng bỏ quyến thuộc, Bỏ làng giữ thành ấp, Vì thân bỏ đại địa. Vua cần được bảo vệ, Và bảo vệ Thái tử, Sau mới đến người khác, Cần phải giết Duyệt ý”. Vua nghe rồi liền ra lịnh làm theo lời quốc sư. Lúc đó các cung nữ trong cung của Thái tử nghe biết việc này vui mừng nói với nhau: “sẽ đến lượt chúng ta hầu hạ Thái tử”, Duyệt ý nghe rồi liền hỏi nguyên do, một cung nữ nói rõ mọi việc cho Duyệt ý biết, Duyệt ý nghe rồi sầu não chạy đến chỗ mẹ của Thái tử than khóc, người mẹ nói: “hãy đợi ta tim hiểu hư thật như thế nào”. Sau khi biết rõ thật hư, mẹ của Thái tử nói với Duyệt ý: “đã đến lúc con phải ra đi, nếu ta không đưa lại cho con viên ngọc trên búi tóc này của con tức là ta phụ lòng Thái tử”, Duyệt ý nhận viên ngọc liền bay đi. Lúc đó vua đã vào trong ao và Bà-la-môn đã liếm dưới chân vua xong muốn lấy mỡ của vương nữ Khẩn-na-la thì vương nữ đã bay lên hư không và nói kệ vọng xuống: “Thân tôi vì cấu nhiễm, Ham vui nên đến đây, Nay đã được giải thoát, Nương hư không bay đi”. <篇> <卷>QUYỂN 14 Lúc đó thấy vương nữ bay đi, vua lo sợ hỏi quốc sư: “Duyệt ý đã bay đi, bây giờ phải làm sao?”, quốc sư nói: “tai ách của Đại vương đã được tiêu trừ”. Lúc đó Duyệt ý suy nghó: “ta chịu khổ não này đều là do vị tiên kia, ta nên đến đó nói cho ông ta biết”, nghó rồi liền đến chỗ vị tiên nói rằng: “vì đại tiên nói cho người khác biết về tôi nên tôi mới mắc nạn này”, kế đưa cho vị tiên chiếc nhẫn và nói rằng: “nếu Thái tử có đến đây, đại tiên nên đưa chiếc nhẫn này và bảo Thái tử rằng: chỗ tôi ở, đường đi hiểm trở,Thái tử nên quay về; nếu Thái tử không chịu quay về thì đại tiên nên chỉ đường đi cho Thái tử như sau : Ở phía Bắc có ba ngọn núi, vượt qua ba ngon núi này lại đến ba ngọn núi khác, vượt qua ba ngọn núi đó lại đến ba ngọn núi khác nữa mới đến Tuyết sơn vương, phía Bắc núi này lại có nhiều núi khác như Khư đạt la, Y sa đà la… cuối cùng đến núi Khư na la, dưới chân núi này có một cái hang, trong hang này có một trụ đá cao lớn, khi leo lên trụ đá này nên mặc áo da nai đứng đợi, sẽ có một con chim bay đến quắp bay qua các ngọn núi khác, cuối cùng đến một cái hang tên là Tân già la, trong hang có một dòng nước như cháo loãng, có một con mãng xà nương ở và có chim ác cần phải bắn giết chúng, sau đó lại có hai con bò đến cần phải đánh gẫy sừng của chúng, kế lại có nhiều Dược xoa đến cần phải dùng đinh sắt đóng vào trán của chúng… Sau đó lại phải vượt qua nhiều con sông có nhiều giao long nương ở, ở sông Năng già thì có nữ Dược xoa tên Câu ba nương ở, muốn vượt qua ý chí phải mạnh mẽ; ở sông Bà đằng già không có ai ở nhưng muốn vượt qua tâm phải siêu việt; ở sông Đa bà nhó có nhiều giao long, muốn vượt qua phải ngậm kín miệng; ở sông Chỉ đa la sẽ khiến phát sanh tham dục, muốn vượt qua phải ca các bản nhạc; ở sông Ô lô đà nhó có nô tỳ của Khẩn-na-la ở, muốn vượt qua tâm phải chánh định; ở sông A tát nhó có vợ mới của vua Khẩn-na-la ở, muốn vượt qua phải im lặng chớ nói; ở sông A thí vó sa có nhiều rắn đủ màu, muốn vượt qua phài đọc chú ngăn rắn độc; ở trong sông Tỳ đà nước rất dơ đục, muốn vượt qua phải cầm kiếm bén chặt bụi rậm để qua. Cuối cùng đến một thành có 500 Dược xoa đứng giữ cửa đang mở, đó là thành của vua Khẩn-na-la”, nói xong vương nữ Duyệt ý bay đi. Lúc đó Thái tử dẹp yên quân giặc rồi trở về thành na bố la, nghó ngơi rồi mới đến bái yết vua cha, vua dùng lời thương yêu vỗ về Thái tử, Thái tử tâu: “nhờ oai lực của vua cha nên con được an ổn trở về, con đã giao Bảo tử làm quan trấn giữ ở nơi đó để thu thuế đúng pháp”, tâu rồi xin phép trở về cung, vua cha liền giữ ở lại nhưng Thái tử đã lâu không gặp Duyệt ý nên nôn nóng muốn trở về cung ngay, vua cha biết không thể giữ Thái tử nên im lặng. Thái tử trở về cung tìm không thấy Duyệt ý, các cung nhơn tập họp đến định làm loạn ý Thái tử nhưng Thái tử chỉ nghó tối Duyệt ý và hỏi nàng ở đâu, các cung nhơn liền kể rõ sự việc cho Thái tử nghe, Thái tử nghe rồi trong lòng sầu khổ, cung nhơn nói: “trong cung còn rất nhiều người đẹp hơn Duyệt ý, xin Thái tử chớ sầu khổ”. Thái tử sau khi biết được vua cha làm việc vô ân, liền đến chỗ mẹ kể lễ: “nếu con không gặp Duyệt ý thì tâm con mê loạn, dù nàng đi đến đâu con cũng sẽ đi tìm”, người mẹ nói: “vì Duyệt ý gặp nạn khổ nên mẹ đã để nàng ra đi”, liền hỏi mẹ sự việc xảy ra như thế nào, người mẹ kể lại sự việc, Thái tử liền hỏi Duyệt ý đã đi về hướng nào, người mẹ nói: “thấy duyệt ý bay về phía núi kia, nhưng trong cung còn nhiều người đẹp hơn nàng ấy, vì sao con lại quá sầu khổ như vậy”, đáp là không thích ai khác ngoài Duyệt ý, người mẹ càng vỗ về thì Thái tử càng sầu não. Sau đó Thái tử tìm đến chỗ thợ săn hỏi: “trước đây ngươi bắt được Duyệt ý ở đâu?”, thợ săn đáp: “ở trong núi kia có một vị tiên cư trú gần một cái ao, Duyệt ý thường đến tắm trong ao đó, nhờ tiên nhơn nói nên tôi mới biết mà bắt được”. Thái tử trở về cung và suy nghó: “ta nên tìm đến chỗ vị tiên đó để hỏi thăm tin tức”, nghó rồi chuẩn bị tìm đến chỗ tiên nhơn ở trong núi kia, vua cha hay tin liền bảo Thái tử: “sao con mê loạn như thế, ta sẽ ban cho con một cung nhơn đẹp nhất”, Thái tử nói: “nếu không có Duyệt ý, con không thể sống trong cung này”, vua nghe rồi liền ra lịnh canh giữ khắp các cửa thành không cho Thái tử xuất cung. Nửa đêm Thái tử bỗng thức dậy suy nghó: “trong sách nói có năm hạng người tinh giấc lúc nửa đêm: 1.Là chồng nhớ vợ hoặc vợ nhớ chồng; 2.Là vợ bị chồng hờn trách; 3.Là người làm nghề trộm cướp; 4. Là tướng quân; 5. Là Bí-sô siêng tu khổ hạnh. Ta thuộc hạng người thứ nhất. Nếu ta đi ra bằng cửa chính thì vua cha sẽ xử tội người giữ cửa”, nghó rồi liền lén xuất cung. Ra khỏi thành thì trăng vừa mọc, Thái tử nhìn trăng liền nhớ đến Duyệt ý nên nói kệ: “Trăng sáng chiếu ban đêm, Là vua các ngôi sao, Sao Tất như mắt Ái, Cũng như đại đạo sư”. Thái tử vừa đi vừa hỏi: “có ai thấy Duyệt ý mắt như hoa sen xanh ở đâu không?”. Trên đường đi gặp Nai, liền hỏi: “Nai ăn cỏ uống nước rong chơi không có khổ như ta, Nai có thấy Duyệt ý của ta ở đâu không?”, sau đó đến một nơi hoa quả sum suê, có nhiều ong hút mật trên bông hoa liền hỏi Ong: “màu xanh không cấu bẩn, có tướng màu hoàng kim, Ong có thấy Duyệt ý của ta ở đâu không”, sau đó gặp một con mãng xà liền hỏi: “lưỡi như lá cây, há miệng trợn mắt đều có khói lửa. Lửa dục trong ta cũng như vậy, Mãng xà có thấy Duyệt ý của ta ở đâu không?”, sau đó đến một khu rừng thấy chim trăm lưỡi đang hót liền hỏi: “vua của các loài chim đã bay qua các rừng cây, có vương nữ Khẩn-na-la tên Duyệt ý, mắt và tóc có màu như hoa sen xanh, chim có thấy ở đâu không?”, kế đến cây Vô sầu, cành tên Hoa gian, hoa tên Kiết lợi là vua của các loại cây liền nói: “khi nhớ Duyệt ý tâm ta mê loạn, cây tên Vô sầu, ta chắp tay mong cầu hãy giúp ta không còn ưu sầu”. Do nhớ Duyệt ý tâm mê loạn nên Thái tử nói đủ những lời như vậy, cuối cùng đi đến chỗ tiên nhơn nói lời ca ngợi như sau: “thân mặc vỏ cây, thường ăn trái cây ngon nhất, nay con đảnh lễ đại tiên, cúi xin chỉ chỗ của Duyệt ý”, tiên nhơn an ủi Thái tử rằng: “hãy ngồi xuống ta nói cho nghe: mặt như trăng rằm, mắt tựa sen xanh, mày dài và mịn giống trăng cuối tháng, hình dung xinh đẹp ai cũng thích nhìn. Hãy ăn trái cây sẽ hết ưu phiền, tìm kiếm không khó. Lúc ra đi Duyệt ý có dặn dò ta đưa cho Thái tử chiếc nhẫn này và nói rằng: đường hiểm trở khó đi xin hãy quay về, nếu Thái tử không chịu quay về thì mới chỉ đường. Ở phía bắc có ba ngọn núi, vượt qua ba ngọn núi này sẽ đến ba ngọn núi khác… giống như đoạn văn kể trên cho đến câu theo thứ lớp như vậy mà đi”. Nghe tiên nhơn nói xong, Thái tử cấm lấy chiếc nhẫn đảnh lễ tiên nhơn rồi ra đi, tiên nhơn nói: “Thái tử một thân một mình, sao phải khổ nhọc tìm kiếm Duyệt ý làm chi, e rằng sẽ mất mạng”, Thái tử nói: “tôi đã quyết ý, mặt trăng trên không có ai là bạn; vua loài thú dựa vào sức mạnh củananh vuốt cũng không có bạn; lửa thiêu đốt mọi thứ có ai là bạn. Cho dù không bè bạn thì có trở ngại gì, nếu gặp biển lớn có thể không vào, nếu bị rắn độc cắn có thể không trị lành, hễ là bậc đại nhân thì cứ siêng năng làm việc, nếu việc không thành cũng không có lỗi”. Lúc đó Thái tử mang theo các loại dược thảo, chú pháp trừ rắn độc vượt qua núi sông… theo thứ lớp như lời Duyệt ý đã dặn, cuối cùng đến được vương thành của Khẩn-na-la. Nơi đây có đủ các loại hoa đẹp, đủ loại chim quý… lại thấy có vô sô nữ Khẩn-na-la đến ao lấy nước, Thái tử liền hỏi: “các cô lấy nước để làm gì?”, đáp: “vương nữ Duyệt ý ở trong nhơn gian, thân nhiễm nhơn khí, phải dùng nước này tắm rửa để trừ bỏ nhơn khí đó”, lại hỏi: “các thùng nước này xối tắm một lần hay theo thứ lớp?”, đáp là xối tắm theo thứ lớp, Thái tử nghe rồi liền bỏ chiếc nhẫn vào trong thùng nước rồi nói: “hãy đem thùng nước này xối tắm cho vương nữ trước tiên”, nữ Khẩn-na-la nghe rồi biết là có duyên do nên đem xối tắm cho vương nữ trước, chiếc nhẫn liền rơi xuống người của vương nữ, Duyệt ý thấy rồi liền hỏi: “lúc ngươi đi lấy nước có gặp ai không?”, đáp là có gặp một thanh niên rồi nói rõ tướng mạo cho vương nữ biết, Duyệt ý nghe rồi biết là Thái tử nên sai người đem giấu kín một nơi, sau đó đến chỗ vua cha tâu rằng: “nếu cha gặp Thái tử Thiện tài, cha sẽ làm gì?”, đáp: “sẽ chặt thành trăm khúc, vì nó là người đâu ở đây được”, Duyệt ý nói: “nếu chàng là người thì sao đến nơi đây được”, vua cha nghe rồi liền hết tức giận nói rằng: “nếu nó đến được nơi đây, ta sẽ đem tất cả vật trang sức và nhiều vật báu cùng một ngàn nữ Khẩn-na-la và gả con cho nó”. Duyệt ý nghe rồi vui mừng bảo Thái tử sửa sang y phục để ra mắt vua cha, vua cha thấy Thái tử diện mạo khôi ngô tuấn tú cũng ưa thích, nhưng muốn thử tài nghệ của Thái tử nên cho đặt 1 trụ vàng lớn cao bảy cây Đa la, lại đặt bảy cái trống và bảy tấm bia. Thái tử vốn đã thông đạt các môn kỹ nghệ, lại là Bồ-tát trong Hiền kiếp nên được chư thiên trợ giúp. Lúc đó Thái tử ở trước vua Khẩn-na-la thổi sao, khảy đàn không hầu, tỳ bà các loại âm nhạc để cúng dường, sau đó cầm đại đao chặt cột trụ cao bảy cây Đa la , kế dùng cung tên bắn xxuyên qua bảy cái trông và bảy tấm bia mà thân vẫn không lay động như núi Tu di, chư thiên trên không và chúng Khẩn-na-la đều reo hò vang dậy. Vua Khẩn-na-la thấy việc này rồi rất kinh ngạc, sau đó cho trang sức một ngàn nữ Khẩn-na-la giống như Duyệt ý rồi hỏi Thái tử có biết ai là Duyệt ý hay không, Thái tử dùng lời chân thật nói kệ: “Duyệt ý là người nữ, Mà tôi yêu mến nhất, Nàng tin thì hãy mau, Bước ra trước một bước”. Duyệt ý nghe rồi liền bước ra trước một bước. Lúc đó chúng Khẩn- na-la đều tâu vua: “Thái tử có oai lực, diện mao khôi ngô rất xứng với Duyệt ý, xin vua đừng hành hạ nữa, nên gả Duyệt ý cho Thái tử”, vua nghe rồi liền y theo pháp của Khẩn-na-la, tay trái cầm tay công chúa, tay phải cầm bình vàng nói với Thái tử: “đây là Ái nữ của ta, ta gả cho Thái tử làm vợ và một ngàn nữ Khẩn-na-la làm tỳ thiếp”. Thái tử cùng Duyệt ý trở về cung thọ hưởng hoan lạc, thời gian sau Thái tử nhớ đến cha mẹ sanh tâm ưu phiền nên nói cho Duyệt ý biết, Duyệt ý bèn tâu với vua cha, vua cha nghe rồi cho phép trở về thăm và khuyên nên cẩn thận vì loài người nhiều xảo trá, rồi biếu tặng thêm nhiều vàng bạc châu báu. Nhờ sức của Khẩn-na-la, không bao lâu sau Thái tử cùng Duyệt ý trở về đến thành Na bố la, khi họ vào trong thành các loại hương thơm của Khẩn-na-la lan tỏa khắp nơi. Sau khi nghỉ ngơi xong, Thái tử cùng Duyệt ý mang tất cả vàng bạc châu báu mà vua Khẩn-na-la biếu tặng đến chỗ phụ vương và tâu rõ lại mọi việc. Vua cha nghe rồi biết Thái tử có oai lực siêu việt, liền cho làm pháp quán đảnh để lập lên làm vua. Lúc đó Thái tử suy nghó: “nhờ ta kết duyên cùng Duyệt ý nên được nối ngôi vua, ta tự biết nhân duyên trong quá khứ đã được phước báo như thế nên ngày nay ta phải hành bố thí, tạo các phước nghiệp nhiều hơn ngày xưa”, nghó rồi Thái tử thiết lập nghóa đường, y theo pháp thế tục lập nhà tế tự chuyên tu bố thí trong suốt 12 năm. Này Đại vương, Thái tử Thiện tài xưa kia chính là thân ta ngày nay, xưa kia ta vì Duyệt ý siêng năng tinh tấn nên có được oai lực siêu việt; sau khi kết duyên lại với Duyệt ý ta đã trong suốt 12 năm lập nhà tế tự chuyên tu bố thí. Không phải chỉ do bố thí mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề, còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay ta mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Phật lại bảo vua Thắng quang : “Đại vương, để cầu quả Vô thượng Bồ-đề, ta đã hành huệ thí làm các phước nghiệp như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa ở thành Vó thí phược có vua tên là Vó thí bà mật đa lên nối ngôi vua, dùng chánh pháp cai trị nên đất nước phồn thịnh an vui, trong nước không có trộm cướp dịch bịnh, dân chúng ấm no, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa. Vua có chánh tín, từ bi thường làm lợi ích cho mình và cho người, thương yêu muôn dân. Thời gian sau hoàng hậu có thai và sanh được một hoàng tử khôi ngô đủ các thướng hảo, ai cũng thích nhìn. Vua làm lễ đặt tên cho con, quần thần nói: “đây là con của vua Vó thí phược mật đa nên đặt tên là Vó thí phược đa la”. Vua giao Thái tử cho tám bà nhũ mẫu chăm sóc… không bao lâu sau Thái tử trưởng thành như hoa sen lên khỏi mặt nước, học thông các môn học như lịch số, toán pháp… và các môn kỹ nghệ như cỡi ngựa, bắn cung … Thái tử tánh hiền lành, chân thật thường hay bố thí, do biết Thái tử thường hay bố thí nên những người nghèo khổ ở xa gần đều kéo đến cầu xin và đều được cho đầy đủ. Thời gian sau Thái tử muốn đi dạo trong vườn uyển nên trang nghiệm thân bằng các chuỗi anh lạc, mặc áo da nai, cưỡi xe tứ mã có doàn người đánh trống tấu nhạc dẫn đầu. Lúc đó có một Bà-la-môn khen Thái tử có oai lực lớn và nói kệ: “Trong số người nhóm họp, Ngài có tiếng tăm lớn, Hãy đem chiếc xe này, Tặng cho người đáng cho”. Thái tử nghe rồi liền xuống xe đem xe tứ mã bố thí cho Bà-la-môn này và nói kệ: “Ta buông xả xe này, Hoan hỉ mà bố thí, Nguyện thoát ly ba cõi, Mau chứng quả Bồ-đề”. Thời gian sau Thái tử lại cỡi voi trắng đến dạo chơi vườn uyển, voi có màu trắng như hoa sen trắng giống như voi núi Tuyết, có các tướng tốt như voi của vua trời Đế thích, tự dùng vẻ đẹp của mình để tự trang nghiêm và hiển bày công đức, voi này lớn lên đứng đầu trong các voi. Lúc đó là vào mùa xuân, trăm hoa đua nở, chim hót líu lo, vua nước sát biên giới nghe biết thái nữ đang dạo chơi vườn uyển liền bảo một Bà- la-môn đến chỗ Thái tử xin voi, Bà-la-môn này dùng lời hay kheo nói kệ để xin voi: “Ngài ưa thích bố thí, Tiếng tốt vang khắp nơi, Hãy thí voi cho tôi, Bây giờ là đúng lúc”. Thái tử nghe rồi liền xuống lưng voi, vui mừng đem voi thí cho Bà-la-môn và nói kệ phát nguyện: “Nguyện xả voi trắng này, Đem thí cho Bà-la-môn, Để thoát ly ba cõi, Mau chứng quả Bồ-đề”. Lúc đó quần thần vội đến tâu vua: “vua nước địch sai một Bà-la- môn đến xin Thái tử con voi trắng đang cỡi, Thái tử liền đem cho”, vua nghe rồi tức giận cho gọi Thái tử đến đủ lời quở trách rồi đuổi ra khỏi nước. Thái tử nghe vua cha quở trách, suy nghó rồi nói kệ: “Con tu hạnh bố thí, Cứu vớt chúng sanh khổ, Đã mặc giáp kiên cố, Xả voi trắng tốt nhất, Cho đến vật trong nhà, Tùy sức đều bố thí, Con muốn đến trong rừng, Để tu tập luyện hạnh, Bỏ nhà tu khổ hạnh, Nên đến rừng luyện hạnh, Không nói lời như vậy, Sao bố thí cho người”. Sau đó Thái tử đến nói với vợ: “Hiền thủ, ta muốn vào trong rừng tu khổ hạnh”, người vợ nghe rồi không muốn xa chồng nên nói: “thiếp và các con sẽ theo chàng vào trong rừng tu đạo”, liền nói kệ: “Như đêm không có trăng, Như đất không lúa mạ, Như rừng khô cạn nước, Vợ không chồng cũng vậy”. Thái tử nói: “chúng ta ắt phải xa nhau, có hợp đều phải biệt ly, huống chi nàng thân nữ yếu đuối phải ăn ngon, mặc đẹp, chỗ ngủ ấm êm; ở trong rừng chỉ ăn trái cây, nằm trên đất cứng và dùng vỏ cây che thân, nàng không thể”, người vợ nói: “dù chịu khổ này thiếp cũng sẽ không thối tâm”, Thái tử nói: “nếu nàng đã nói lời này thì xin chớ có quên”. Sau đó Thái tử đến chỗ vua cha chắp tay nói kệ: “Xin cha tha thứ lỗi cho con, Đã đem voi cho Bà-la-môn , Do lỗi này, con nay vào rừng, Nguyện quốc khố ngày càng tăng thêm”. Vua cha nghe rồi nghẹn ngào nói không ra tiếng, không chịu được nổi khổ biệt ly nên ôm cổ Thái tử nói: “con nên ở lại và đừng bố thí như thế nữa”, Thái tử nói kệ: “Nếu con mà ở lại, Sẽ thí cả đất đai, Bản thân và vợ con, Tâm thí không thay đổi”. Nói kệ rồi Thái tử lạy tạ từ biệt phụ vương, dân chúng trong thành buồn bã tiễn đưa Thái tử ra khỏi thành, trăm ngàn quyến thuộc cũng cuỡi xe đi theo tiễn đưa Thái tử. Lúc đó có người nghe dân chúng trong thành đồng loạt khóc lớn liền hỏi nguyên do, mọi người nói là do Thái tử vào trong rừng tu khổ hạnh. Lúc đó Thái tử nói kệ từ biệt mọi người: “Tất cả ân ái từ lâu nay, Đến khi qua đời cũng biệt ly, Như chim ngủ đêm tạm ở cây , Vợ con quyến thuộc cũng như vậy. Mọi người nên biết pháp như thế, Thế gian đều sợ phải biệt ly, Còn ta chuyên chú việc ta làm, An trụ bất động như Tu di”. Đi cách xa thành khoảng hơn 30 dặm thì có một Bà-la-môn đến nói với Thái tử: “tôi đã đi theo Thái tử hơn 30 dặm đường”, rồi nói kệ: “Nghe Ngài thích thí nên đến xin, Tôi đi trên đường rất mệt nhọc, Vì muốn Ngài thành tựu nguyện thí, Để ngài mau chứng quả Bồ-đề”. Vợ Thái tử nghe rồi liền nói kệ: “Bà-la-môn ngươi thật xấu xa, Bị đuổi đến rừng cũng không tha, Sao ngươi không một chút thương xót, Thái tử bị đuổi đều do ngươi”. Thái tử nói với vợ: “Hiền thủ không nên nói lời thô với Bà-la-môn này”, rồi nói kệ: “Nếu không có người xin bố thí, Do đâu ta chứng quả Bồ-đề, Trong sáu độ, bố thí đứng ở đầu, Tu hạnh này mau chứng Bồ-đề”. Nói kệ rồi vui vẻ đem xe thí cho Bà-la-môn rồi nói kệ: “Diệt xan tham, sân hận, Cho Bà-la-môn xe, Là đem pháp đại tiên, Chuyển thành pháp vô lậu”. Thái tử thí xe rồi cõng con đi đến trong rừng khổ hạnh. Thời gian sau, khi vợ Thái tử đi hái trái cây trong rừng, vua trời Đế thích vì muốn thử Thái tử nên hóa làm một Bà-la-môn đến chỗ Thái tử khen ngợi rồi nói kệ: “Chàng trai dòng họ đoan nghiêm, Một mình ở trong rừng núi, Con trai, con gái thân yêu, Hãy mau đem thí cho tôi”. Thái tử nghe rồi nhưng vì thương con nên đứng yên suy nghó, Bà- la-môn liền nói: “tôi nghe nói Ngài có thể bố thí tất cả, ai xin gì cũng cho. Hãy đem hai đứa con cho tôi, đừng nên suy nghó nữa”, rồi nói kệ: “Trên đất và hư không, Đều nghe Ngài thích thí, Ngài hãy mau xả thí, Toại tâm cầu của tôi”. Thái tử nói: “dù phải xả thân mạng tôi cũng không tiếc, huống chi là con cái. Nay tôi suy nghó là có ý riêng”, rồi nói kệ: “Nay tôi xả thí con, Quyết chí ở trong rừng, Không bàn với mẹ chúng, Sợ hận sanh đau buồn, Không để người nói rằng, Thái tử tâm kiên cố, Xả con không xả thân, Sợ người sanh nhạo báng”. Bà-la-môn nói: “Ngài sanh trong dòng họ vua chúa, cả đại địa đều nghe biết Ngài thương xót chúng sanh, thường hành bố thí, đã đem con hương tượng bố thí cho Bà-la-môn; lại thường cứu giúp người nghèo thiếu, ai xin gì cũng đều được thỏa mãn, không để về tay không. Tôi từ xa đến đừng để tôi uổng công, xin điều phục ngựa tâm ý, đừng thối chuyển tâm để sự mong cầu của tôi luống uổng”. Lúc đó Thái tử vì thương con nên tâm mê loạn nói kệ: “Nay đem con yêu quý, Thí cho Bà-la-môn , Chúng sẽ sanh khổ não, Vì phải Ái biệt ly. Nếu nay tôi không cho, Hạnh thí do đâu thành, Thà chịu khổ biệt ly, Để sở cầu viên mãn”. Thái tử quyết tâm xả thí rồi liền nói kệ: “Biển khổ trong thế gian, Hữu tình đều bị chìm, Thật khó thể vượt qua, Ta nguyện làm thuyền bè”. Nói kệ rồi, tay phải dắt con trai, tay trái dắt con gái đem thí cho Bà-la-môn. Lúc đó hai đứa con mước mắt đều lưng tròng, nghẹn ngào than khóc; Thái tử bố thí rồi phát nguyện: “Bố thí con tôi nguyện, Thẳng đến đạo Bồ-đề, Thệ cứu các chúng sanh, Vượt khỏi biển sanh tử”. Phát nguyện vừa xong, đại địa chấn động sáu cách, do đại địa chấn động nên những người tu tịnh trong núi đều kinh ngạc tự hỏi vì sao. Lúc đó có một vị tiên thuộc chủng tộc Bà-tất-tra, giỏi coi tướng nên nói với các tiên nhơn: “Thái tử ăn cây trái trong rừng, Mọi người thấy rồi đều hoan hỉ, Do trong biển khổ cầu ra khỏi, Bồ-tát thí con, đất chấn động”. Lúc đó hai đứa con lạy tạ từ giã cha rồi nói kệ: “Chúng con không gặp mẹ, Nhưng cha đã đem cho, Con tạm biệt mẹ hiền, Đi theo Bà-la-môn”. Thái tử nghe rồi nước mắt đoanh tròng, ôm cổ hai con nói kệ: “Trong lòng cha rất thương các con, Không phải cứng rắn không đau xót, Nhưng vì lợi ích cho trời người, Đành phải đem hai con bố thí, Cha vì cầu Vô thượng Bồ-đề , Và cầu chứng Niết-bàn an lạc, Cứu vớt hữu tình trong biển khổ. Mong cầu thoát khỏi khổ luân hồi”. Lúc đó hai đứa con biết tâm cha đã quyết nên nói với cha: “nếu khi mẹ trở về xin cha hãy nói với mẹ là chúng con xin sám hối, vì còn nhỏ dại ngu si không hiểu biết nên có nhiều lỗi lầm, có lúc nói lời không cung kính, xin hãy tha thứ cho chúng con”, nói rồi hữu nhiễu ba vòng từ giã cha đi theo Bà-la-môn, chân tuy bước đi nhưng nhiều lần quay đầu lại nhìn. Khi hai con ra đi, ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, chư thiên trong hư không nói kệ: “Đại só quyết tâm thí, Sẽ thành Vô thượng giác, Thí con trai, con gái, Tâm vững không thối chuyển”. Lúc đó người mẹ đang trên đường trở về, thấy đại địa chấn động nên bước đi vội vã. Một vị thiên thấy vậy liền hóa ra một con sư tử cái chận đường trở về, sợ người mẹ này trở về kịp sẽ ngăn cản hạnh thí của Bồ-tát. Người mẹ nói kệ: “Ngươi là vợ vua thú, Vì sao chận đường đi, Ta chung thủy với chồng, Xin ngươi mau mở đường. Ngươi là vợ vua thú, Ta là vợ nhân vương, Theo pháp là chị em, Ngươi hãy mau tránh đường”. Lúc đó sư tử cái hiện lại bổn hình và tránh đường, người mẹ trong lòng lo lắng suy nghó: “chắc là hai con ta gặp việc chẳng lành rồi”, nghó rồi liền nói kệ: “Mắt tôi đang máy động, Nghe quạ kêu quái gỡ, Ắt có khổ biệt ly, Con ta còn hay mất, Mà thấy đất chấn động. Tâm ta càng bất an, Chắc là mất hai con, Tâm ta như lửa đốt”. Về đến trú xứ vội nhìn ngó khắp nơi tìm kiếm hai con nhưng không thấy, tâm người mẹ sanh mê loạn suy nghó: “chắc là chúng đang chơi với các con chim sâu hoặc đang ngủ bên trong”. Vào bên trong thấy Thái tử liền hỏi con tôi đâu, Thái tử nói: “có một Bà-la-môn đến xin nên tôi đã đem hai con bố thí, xin nàng hãy tùy hỉ”, người mẹ vừa nghe xong liền ngất xỉu ngã xuống đất, sau đó đau khổ nói kệ: “Con ta mặt như hoa, Tay mềm như lá sen, Chưa từng chịu cực khổ, Nay con đang ở đâu, Con chơi cùng thú con, Thật thà như hươu nai, Nay con đang ở đâu, Có bị người sai dịch, Vì con đi theo người, Nên thân con chịu khổ. Lúc đi không gặp con, Đâu ngờ phải biệt ly, Ở trong rừng núi này, Chỉ thường ăn trái cây, Chịu đói rét hầu người. Nay con gặp khổ nguy, Xa lìa cả cha mẹ, Và tất cả quyến thuộc, Đều do kẻ ác kia, Nên con chịu đắng cay. Con thuộc dòng sát lợi, Nay phải hầu hạ người, Ngày đêm bị sai khiến, Bị các khổ bức bách. Do tạo nghiệp tội trong quá khứ, Hữu tình chịu khổ Ái biệt ly, Nếu ta thường nói lời chân thật, Tất cả chúng sanh đều bình đẳng, Do lời thệ nguyện chân thật này, Đời đời không khổ Ái biệt ly. Nguyện hai con thoát khỏi thân hèn, Mau chứng được Niết-bàn an lạc”. Lúc đó người mẹ nhớ hai con nên thấy cây do hai con trồng liền buồn khóc và nói kệ: “Những bụi cây và hoa thuốc này, Đều là do hai con ta trồng, Chỉ riêng cây hoa thuốc này tốt, Còn ta và con đều khô héo”. Sau đó thấy các thú con, người mẹ lại nhớ hai con liền buồn khóc nói kệ: “Ngươi cùng con đi chơi, Sống thật là vui vẻ, Hai con nay đi đâu, Mẹ kiếm tìm khổ não”. Sau đó trên đường đi tìm kiếm, người mẹ thấy sườn núi cao hiểm trở không có dấu chân người đi, liền nhớ đến con buồn khóc nói kệ: “Đường vách núi hiểm trở, Kia ắt dùng roi gậy, Bức bách hai con đi, Bà-la-môn độc ác, Hai con kêu vỡ họng, Gào khóc đến ói máu, Giống như thú sợ chạy, Chân mềm làm sao đi”. Lúc đó Thái tử thấy vợ quá buồn khổ, than khóc không dứt liền nói kệ khuyên can: “Tôi không có tâm giận, Mà đem con bố thí, Vì lợi ích hữu tình, Khó xả mà xả thí, Con cái và quyến thuộc, Khó xả nay đã xả, Sẽ được quả Đại nhân, Vô thượng diệu Bồ-đề, Nay ta thệ xả thí, Là vì cầu giải thoát, Nên mới đem hai con, Thí cho Bà-la-môn”. Người vợ nghe rồi liền nói với chồng: “Tôi không có ý ngăn, Chàng chớ sanh niệm khác, Nếu chàng muốn thí tôi, Chàng cứ tùy ý thí, Dứt Ái thí thân quyến, Vì chí cầu Bồ-đề, Sở cầu được đầy đủ, Sẽ cứu hết quần mê”. Lúc đó vua trời Đế thích muốn giúp cho chí nguyện Bồ-tát được thành tựu nên vào giữa đêm dẫn vô số chư thiên đến chỗ Bồ-tát, thân quang chiếu sáng khắp núi rừng nói với Bồ-tát rằng: “người đời ngu si mê cuồng loạn trí…” vừa nói đến đây vua trời Đế thích liền suy nghó: “Bồ-tát có một người vợ đang hầu hạ, nếu không có người vợ này trợ giúp, Bồ-tát sẽ rất khổ sở ; nhưng ta cũng phương tiện đến xin người vợ này”, nghó rồi vua trời Đế thích hoa làm một Bà-la-môn đến chỗ Bồ-tát nói kệ: “Vợ Ngài đủ các tướng, Lại chung thủy với chồng, Nhưng Ngài hãy đem vợ, Thí cho Bà-la-môn”. Người vợ nghe rồi liền nói kệ: “Bà-la-môn thấp hèn, Ngươi tham không hổ thẹn, Quen thói làm phi pháp, Hoại tâm trinh của ta”. Kế nói với người chồng: “Thiếp không tiếc thân mình, Cũng không tự cầu an, Nếu thiếp đi theo hắn, Ai sẽ hầu hạ chàng?”. Thái tử nghe rồi liền nói với vợ: “ta rất thương yêu nàng nhưng vì cầu pháp vô tận, nàng hãy đi theo người ấy, dù cho nàng đi rồi, tôi sẽ bị chết tôi cũng phải bố thí”, nói rồi liền suy nghó: “đây là lần xả thí sau cùng, tâm ta không còn ràng buộc”, nghó rồi liền nói với Bà-la-môn: “Hãy nên cung cấp quý nhân này, Là người hiền thiện, tâm thẳng ngay, Tôi rất yêu mến người vợ này, Nay đem thí cho Bà-la-môn”. Lúc đó đại địa chấn động sáu cách, người vợ nghẹn ngào đi theo Bà-la-môn, đã mất hai con nay lại xa chồng, trên khổ chồng thêm khổ, người vợ đau buồn nói kệ: “Do ta tạo nghiệp này, Từ xưa cho đến nay, Như Bò mất con khổ, Ta khổ còn nhiều hơn”. Nghe vợ Thái tử nói lời này, vua trời Đế thích hiện lại bổn hình nói rằng: “Ta chẳng phải là người, cũng chẳng phải Bà-la-môn, Ta là vua trời Đế thích có thể chế phục A-tu-la, chỉ vì Ta muốn giúp cho Bồ- tát thành tựu đại nguyện Vô thượng Bồ-đề nên mới thị hiện làm như thế”, vợ Thái tử nghe rồi vui mừng nói kệ: “Xin nguyện con của con, Được thoát thân nô lệ, Gặp được nhân duyên lành, Trở về chỗ phụ vương”. Sau đó vua trời Đế thích dẫn vợ Thái tử trở về giao trả lại và nói rằng: “Trả lại vợ cho Ngài, Để hầu hạ tùy ý, Đừng đem cho ai nữa, Coi như giữ gùm tôi”. Lúc đó Bà-la-môn hóa thân của vua trời Đế thích dắt hai đứa con của Thái tử vào trong nước của vua cha Thái tử để rao bán cháu của vua. Quần thần nhìn biết là cháu của vua vội về tâu với vua rằng: “Chúng thần thấy cháu vua, Cháu trai và cháu gái, Đi theo Bà-la-môn, Bị rao bán trong thành”. Vua nghe rồi ngất xỉu, hồi lâu mới tỉnh, tỉnh rồi liền ra lịnh dẫn hai cháu đến, vua nhìn thấy hai cháu gầy gò, dơ bẩn, áo quần rách nát, đau lòng lại ngất xỉu, tỉnh rồi nói kệ: “Ngay khi ở trong rừng, Vẫn còn ưa bố thí, Các khanh hãy mau gọi, Con ta và nàng dâu”. Lúc đó dân chúng trong nước đều đến thỉnh Thái tử trở về, thời gian sau Thái tử lên nối ngôi vua cha cũng tiếp tục bố thí cho tất cả Sa môn, Bà-la-môn cho đến những người nghèo hèn cô độc… Bồ-tát tu vô lượng phước nghiệp rồi nói kệ: “Ai cầu đạo Bồ-tát, Hãy nên siêng bố thí, Sát lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà-la, Vàng bạc và vật báu, Cho đến chuỗi anh lạc, Nô tỳ và đầy tớ, Thí cho người trì giới, Vợ và con của mình, Thí cho Bà-la-môn, Người ấy được quả báo, Đời này và đời sau”. Này Đại vương, vua Vó thí phược đa la thuở xưa chính là thân ta ngày nay. Ngày xưa ta đã hành bố thí, tu vô lượng phước nghiệp như thế để cầu quả Vô thượng Bồ-đề, không phải chỉ do bố thí mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề, còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu quả Vô thượng Bồ-đề, ta đã tu bố thí làm các phước nghiệp như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa ở thành Bà-la-nê-tư có vua tên Phạm đức, sau khi lên ngôi vua dùng chánh pháp cai trị nên đất nước phồn thịnh an vui, trong nước không có trộm cướp dịch bịnh, dân chúng ấm no, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa. Một hôm thầy tướng số xem thiên văn dự đoán rằng trong 12 năm tới trời sẽ hạn hán không mưa, vua liền ra lịnh đánh trông thông báo cho dân chúng biết: “tướng sư dự đoán trong 12 năm tới trời sẽ hạn hán không mưa, nếu ai có thể dự trữ đủ lương thực để dùng trong 12 năm thì ở lại; nếu ai không thể thì tùy ý đi đến nơi khác, sau khi đất nước sung túc trở lại thì trở về”. Lúc đó trong thành có một trưởng giả tên là Tán đản giàu có, gia sản nhiều như Tỳ sa môn thiên vương, trưởng nghe được thông báo này liền cho gọi người giữ kho đến hỏi: “trong kho của ta có đủ lương thực dùng trong 12 năm không?”, đáp là đủ, trưởng giả nghe rồi liền ở lại trong nước ; những người khác không đủ điều kiện để ở lại đều bỏ sang nước khác. Lúc đó thế gian không có Phật, chỉ có Độc giác vì thương xót hữu tình và những người nghèo khổ nên xuất hiển ở đời, là bậc ứng cúng duy nhất cho loài người. Trong thành Bà-la-nê-tư, tại một nơi có 500 vị Độc giác cư trú, một nơi khác cũng có 500 vị Độc giác, lúc đó 500 vị Độc giác thứ nhất mang bát đến nhà trưởng giả Tán đản khất thực và nói với trưởng giả rằng: “ông có thể cúng dường ẩm thực cho 500 người xuất gia trong 12 năm bị hạn hán không?”, trưởng giả nói: “đợi tôi hỏi người giữ kho”, sau khi hỏi người giữ kho rồi trưởng giả nhận lời cúng dường ẩm thực cho các vị Độc giác trong 12 năm bị hạn hán. 500 vị Độc giác này vừa đi khỏi thì 500 vị Độc giác thứ hai lại đến khất thực và nói với trưởng giả cũng giống như trên, trưởng giả nói: “chẳng phải con đã nhận lời cúng dường rồi sao, vì sao các Ngài lại đến hỏi lại lần nữa?”, các vị Độc giác liền nói: “các vị Độc giác trước là khác, chúng tôi là những người vừa mới đến”, trưởng giả cũng nói là đợi hỏi người giữ kho, sau khi hỏi người giữ kho xong, trưởng giả cũng nhận lời cúng dường suốt 12 năm bị hạn hán rồi hỏi: “hằng ngày các Thánh giả thọ thực vào giờ nào?”, đáp là vào giờ ngọ, trưởng giả liền cho xây cất một trú xứ để hằng ngày cúng dường cho 1000 vị Độc giác đến đó thọ thực vào giờ ngọ. Một hôm trưởng giả hỏi vị Độc giác: “Thánh giả, lúc này thế gian mất mùa đói kém, lúc nào trời mới có thể mưa?”, liền đáp là hôm nay trời có thể mưa, lại hỏi có thể gieo giống được không, đáp là được, trưởng giả nghe rồi liền cho gieo hạt giống. Lúc vua trời Đế thích suy nghó: “trưởng giả đã phát tâm cúng dường 1000 vị Độc giác, là bậc tối tôn trong sự bố thí, không có ai hơn. Ta cũng nên trợ giúp trưởng giả thành tựu công đức”, nghó rồi liền giáng mưa xuống, các hạt lúa giống mọc thành dây bầu, trưởng giả liền đến hỏi vị Độc giác nguyên do, đáp là cứ tưới đúng thời, trưởng giả nghe theo lời tưới đúng thời, các dây bầu liền sanh hoa quả, mỗi hoa cho ra trái to như trái bầu hoặc như cái lu, trưởng giả lại đến hỏi, vị Độc giác đáp là cứ chờ đúng thời tự nó sẽ nở ra. Thời gian sau trái chín tự vỡ ra, bên trong chứa đủ loại hạt giống, nhờ vậy trong nước không còn đói kém nữa, dần dần sung túc trở lại, dân chúng nghe tin này đều trở về lại quê hương. Lúc đó trưởng giả cúng dường ẩm thực cho 1000 vị Độc giác trong suốt 12 năm rồi nói kệ phát nguyện: “Tâm thông minh chứng ngộ, Thân ngữ cũng tịch tónh, Thường cúng dường bậc này, Bậc Ứng cúng vô lậu, Đủ thần thông biến hóa, Trang nghiêm có danh xưng, Cúng dường bậc Vô úy, Mình và quyến thuộc vui, Cúng dường bậc Ứng cúng, Có đầy đủ tịnh giới, Trồng được nghiệp an vui, Đời này và đời sau.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 15 Lúc đó Phật bảo vua Thắng quang: “trưởng giả Tán đản thuở xưa chính là thân ta ngày nay. Ngày xưa ta đã cúng dường 1000 vị Độc giác trong suốt 12 bị hạn hán nên được vua trời Đế thích trợ giúp công đức bằng cách giáng mưa xuống, không phải chỉ do bố thí mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề, còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Nhiếp tụng: Ngựa chúa, Tiên làm chứng, Rắn, Cọng mạng, Chim chúa, Anh võ, nước Vó đề ha , Rùa, họ Tô, hai thương chủ. Ngựa chúa: Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu quả Vô thượng Bồ-đề, ta đã làm lợi ích nhiếp thọ các hữu tình như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa Ta làm ngựa chúa tên là Bà ha la để làm lợi ích nhiếp thọ hữu tình, như trong kinh Tăng kỳ đắc phần Dược xoa thuộc kinh Trung A Cấp ma có nói rõ. Tiên làm chứng: Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa cách thành Bà-la-nê-tư không xa, có một vị Tiên cư trú, tâm từ bi thương xót hữu tình. Cách chỗ Tiên ở không xa có hai nông dân đang cày bừa bỗng tranh cải rồi đánh nhau, sau đó chạy đến chỗ Tiên nhờ Tiên làm chứng rồi đến chỗ vua thưa kiện, vua liền hỏi vị Tiên làm chứng sự việc như thế nào, Tiên nói: “người này giận người kia, người kia tức người này; người kia đánh người này, người này đánh lại người kia”, vua nghe rồi liền nói như vậy cả hai đều đáng phạt, Tiên nói: “nếu y theo pháp của vua Chuyển luân để đoán sự thì tôi sẽ làm chứng, nếu hành theo pháp khác thì tôi không làm chứng”, vua hỏi: “như thế nào gọi là y theo pháp của vua Chuyển luân để đoán sự?”, Tiên đáp: “pháp của vua Chuyển luân đoán sự là bỏ việc vô ích, trụ nơi việc có ích”, vua nghe rồi liền bảo hai nông dân: “các ngươi hãy đi đi, chớ có tái phạm”. Này Đại vương, Tiên nhơn làm chứng thuở xưa chính là thân ta ngày nay. Ngày xưa tuy làm chứng nhưng ta làm chứng đúng pháp, làm chứng chân thật, không phải chỉ như thế mà được chứng quả Vô thượng Bồ-đề ; còn phải làm lợi ích nhiếp thọ hữu tình và do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Rắn Mãng xà: Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu quả Vô thượng Bồ-đề, ta đã làm lợi ích nhiếp thọ hữu tình như sau, Đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa, còn ở trong Bất định tụ, Ta làm Sư tử chúa đã xả thân mạng để làm lợi ích hữu tình. Lúc đó 500 thương nhơn đi qua một con đường hiểm, do họ nói chuyện lớn tiếng với nhau nên làm cho con rắn Mãng xà giật mình thức giấc, nó lao tới quấn lấy 500 thương nhơn này khiến họ kinh sợ lớn tiếng kêu cứu các thiên thần. Sư tử chúa đang ở trong rừng nghe tiếng kêu gào này liền chạy tới mới thấy con Mãng xà đang quấn lấy các thương nhơn. Lúc đó Sư tử chúa thấy một con voi con đứng cách đó không xa liền tới bên voi nói: “các thương nhơn sắp bị rắn mãng xà ăn, voi có thể liều mình cứu họ không?”, voi hỏi: “Sư tử định làm thế nào?”, Sư tử nói: “tôi phải phóng lên đầu của voi, hai chân sau bấu vào đầu voi rồi dùng móng vuốt của hai chân trước đánh vào đấu rắn. Hai chân sau bấu vào đầu voi sẽ làm voi bị chết, tôi đánh vào đầu rắn, rắn sẽ chết, rắn phun nọc độc tôi cũng sẽ chết”, voi nghe rồi liền nói: “nếu xả thân mạng mà cứ được nhiều người thì tôi không tiếc”. Sư tử chúa nghe rồi liền phóng lên đầu voi, hai chân sau bấu vào đầu voi … giống như đoạn văn trên cho đến câu sư tử cũng chết vì nọc độc của rắn. Các thương nhơn thoát chết định tiếp tục lên đường, chư thiên trên không trung bảo các thương nhơn: “Sư tử chúa này là Bồ-tát trong Hiền kiếp, đã xả thân mạng để cứu các vị, các vị phải cúng dường Sư tử và voi rồi hãy đi”, các thương nhơn nghe rồi liền đem các món cúng dường để trên thân Sư tử chúa và voi để cúng dường, nhiễu quanh rồi mới đi. Này Đại vương, Sư tử chúa thuở xưa chính là thân ta ngày nay. Ngày xưa trong thân bàng sanh, ta còn có thể xả thân mạng để cứu các thương nhơn, không phải chỉ do tâm từ nhiếp thọ hữu tình mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề; còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, phát tâm chánh tín nên ngày nay mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Chim Cọng mạng: Thuở xưa Bồ-tát ở Bất định tụ làm súc sanh, ở trong một khu rừng đẹp có chim Cọng mạng một thân hai đầu: Một đầu tên là Đạt ma, một đầu tên là A đạt ma. Lúc đó Đạt ma ăn quả ngọt, A-đạt-ma lại ăn quả độc khiến cho chim mê loạn; A-đạt-ma phát nguyện: “nguyện tôi sanh ra nơi nào cũng là bạn ác làm tổn hai anh”, Đạt ma phát nguyện: “nguyện tôi đời đời hành tâm từ làm lợi ích cho anh”. “Này Đại vương, Đạt ma thuở xưa chính là thân ta ngày nay, còn A đạt ma thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay. Do tâm từ và nhân duyên tích tập căn lành mà nay ta chứng được quả Vô thượng Bồ-đề”. Chim chúa: Thuở xưa, Bồ-tát ở Bất định tụ làm súc sanh, ở trong một ao nước trong có một con chim chúa cầm đầu 500 con chim; trong số đó có một con chim già do không thể bay xa kiếm mồi nên thường lén ăn chim con và trứng chim, nó giả bộ đi chậm chạp và khi đã ăn no thì đứng một chân. Lúc đó các chim con sầu não, đến chỗ chim chúa kể lại sự việc, chim chúa liền điều tra xem ai đã ăn các chim con. Bồ-tát tuy mang thân súc sanh nhưng tâm không có khác, sau khi điều tra chim chúa liền biết thủ phạm chính là con chim già, nó giả bộ đi chậm chạp và đang đứng một chân ở bờ ao. Bồ-tát chim chúa liền đến gần nó nói kệ: “Ăn nuốt các trứng chim, Và các con chim con, Co cẳng đứng một chân, Giống như người trì giới, Giả bộ đi chậm chạp, Nói nhỏ nhẹ giả dối, Cong cổ giả bộ thế, Ắt là nhiều gian trá”. Chim già nghe rồi liền biết chim chúa đã biết thủ phạm là mình, lúc đó chim chúa nói: “ngươi hãy tìm cách, đừng để cho các chim khác biết thủ phạm là ngươi, chúng sẽ kết oán với ngươi”, chim chúa nghe rồi liền bỏ trốn đi, từ đó các chim con không còn lo sợ nữa. “Này Đại vương, chim chúa thuở xưa chính là thân ta ngày nay, do tâm từ bi nhiếp thọ hữu tình và do nhân duyên tích tụ căn lành với sức chánh kiến mà ta chứng được quả Vô thượng Bồ-đề”. Chim Anh võ: Thuở xưa, Bồ-tát ở Bất định tụ làm súc sanh, ở trong một khu rừng nọ có một con chim Anh võ hiểu được tiếng người. Lúc đó vua Phạm đức ở thành Bà-la-nê-tư lên nối ngôi vua dùng chánh pháp cai trị, có một con chim khác muốn hại chim Anh võ nên Anh võ bay sà vào lòng bàn tay của vua và nói: “xin vua đừng dùng phi pháp cai trị”. Lúc đó vua thọ năm giới từ chim Anh võ, hứa dùng chánh pháp cai trị và bảo quần thần: “từ nay đối với tất cả chim thú đều ban cho Vô úy thí”. “Đại vương, chim Anh võ ngày xưa chính là thân ta ngày nay, do nhân duyên tích tụ căn lành mà nay ta mới chứng được quả Vô thượng Bồ-đề”. Nước Vó đề ha: Thuở xưa, lúc vua Phạm đức ở thành Bà-la-nê- tư lên ngôi vua, nước Vó đề ha không chịu thần phục nên vua Phạm đức muốn đi chinh phạt. Vua Phạm đức có quân binh hùng mạnh, nước Vó đề ha tuy có đông binh mã nhưng lại hành từ bi, không muốn gây chiến tranh. Khi hay tin vua Phạm đức dẫn bốn binh đến chinh phạt, vua nước Vó đề ha ra lịnh dân chúng quét dọn đường sá, lượm bỏ đá sạn, treo cờ phướn khắp nơi và chuẩn bị sẳn thức ăn thức uống, sau đó ra lịnh dân chúng trong thành ra khỏi thành khoảng 25 dặm, dùng hương hoa nghinh đón và dùng trăm ngàn lời khen ngợi đức của vua Phạm đức. Đến nơi vua Phạm đức nghe thấy việc này liền hết tức giận, suy nghó: “đã nói những lời tốt đẹp không trái nghịch như thế thì ta nên lui quân”, quần thần của nước Vó đề ha đến nói với vua Phạm đức: “xin vua hãy qua nước tôi dự tiệc chiêu đãi của vua nước tôi”. Lúc đó vua nước Vó đề ha nói kệ: “Đại vương đã tha thứ, Tôi đích thân kính mời, Mở tiệc chiêu đãi vua, Mong được làm bạn thân”. Vua Phạm đức cũng nói kệ: “Do nhẫn được giải thoát, Tâm sân dứt, không khởi Là bậc nhất thiết năng, Thắng tất cả mọi người”. Từ đó hai nước giao hảo, hai vua hòa thuận với nhau, vua Phạm đức dẩn quân trở về, nước Vó đề ha không còn lo sợ chiến tranh nữa. “Này Đại vương, vua nước Vó đề ha thuở xưa chính là thân ta ngày nay, do ta đã điều phục tâm mình và nhân duyên tích tụ căn lành với sức chánh tín mà ta chứng được quả Vô thượng Bồ-đề”. Rùa chúa: Thuở xưa, Bồ-tát ở Bất định tụ làm súc sanh, ở trong biển cả có một con rùa chúa thấy có 300 thương nhân đi thuyền vào biển bị thú biển đánh vỡ thuyền liền vớt họ để trên lưng mình và đưa họ lên bờ khiến họ được an ổn, bảo toàn mạng sống. “Đại vương, rùa chua thuở xưa chính là thân ta ngày nay, do từ bi và do nhân duyên tích tập căn lành với sức chánh tín mà ta chứng được quả Vô thượng Bồ-đề”. Đại thần họ Tô: Thuở xưa, ở nước Tỳ đề ha có 500 đại thần, trong số đó có hai anh em làm đại thần cao nhất, người anh tên là Tô Tư na, người em tên là Tư na. Tư na hay tìm kiếm lỗi của người để làm việc không lợi ích, Tô tư na thì thường làm việc lợi ích. Do Tư na hay làm việc không lợi ích như thế nên dân chúng trong thành đến tâu với vua khiến vua ra lịnh đuổi tư na ra khỏi nước, Tư na liền qua thành Bà- la-nê-tư thờ vua Phạm đức. Thời gian sau Tô tư na xin phép vua nước Tỳ đề ha đi đến thành Bà-la-nê-tư thăm em và bàn việc hòa thuận với em. “Này Đại vương, đại thần Tô tư na thuở xưa chính là thân ta ngày nay, do ta thường làm việc lợi ích hữu tình và do nhân duyên tịch tập căn lành với sức chánh tín mà ta chứng được quả Vô thượng Bồ-đề”. Hai thương nhân: Thuở xưa, trong một thành nọ có hai thương nhơn sinh sống, họ chở hàng quý trên 500 cổ xe sang xứ khác buôn bán, khi đi đến một con đường hiểm một thương nhơn bị Dược xoa ăn thịt, thương nhơn thứ hai được bình yên thoát ra khỏi đường hiểm đó, sự việc có nói rõ trong kinh Trung A Cấp ma. “Này Đại vương, thương nhơn thứ hai được bình an thoát ra khỏi đường hiểm đó chính là thân ta ngày nay, do ta hành từ bi và do nhân duyên tích tập căn lành với sức chánh tín mà ta chứng được quả Vô thượng Bồ-đề”. Voi chúa sáu ngà: Thuở xưa Bồ-tát ở Bất định tụ làm súc sanh, trong một khu rừng nọ có một con voi chúa sáu ngà, vợ của nó tên là Bạt đà là con voi tôn quý nhất trong số các voi cái. Lúc đó voi chúa rời khỏi đàn đến một chỗ vắng vẻ khác, tại đây nó gặp một con voi cái khác rất xinh đẹp đáng yêu và cùng gần gũi với nhau như vợ chồng, sau đó chúng thường đi bên nhau khiến cho voi cái Bạt đà tức giận muốn giết chết cả hai. Tuy giận tức như thế nhưng voi cái Bạt đà không làm gì được, nó liền phát nguyện ác: “nguyện tôi sanh ra nơi nào đều làm hại hai kẻ này”, phát nguyện ác rồi nó lên đỉnh núi cao gieo mình xuống tự sát, thần thức của nó thác thai vào bụng của đại phu nhân nước Tỳ đề. Đủ ngày tháng, đại phu nhân sanh ra một bé gái đầy đủ các tướng tốt, đến khi trưởng thành được gả cho vua Phạm đức làm phu nhân thứ nhất. Do túc nghiệp nên phu nhân này ôm lòng thù oán voi chúa sáu ngà liền tâu với vua Phạm đức là muốn có được ngà của voi chúa sáu ngà. Vua liền tập họp tất cả thợ săn lại và ra lịnh săn bắt voi chúa sáu ngà để lấy ngà của nó, các thợ săn vâng lịnh vua cùng đi săn bắt. Lúc đó người cầm đầu các thợ săn nói rằng: “các vị hãy trở về, một mình tôi săn bắt voi chúa sáu ngà được rồi”, nói rồi thợ săn này mang theo đủ mọi vật dùng đến trong rừng tìm chỗ ẩn nấp để quan sát voi chúa, lúc đó voi chúa và voi cái sống xa đàn ở riêng chỗ vắng vẻ. Thợ săn này mặc áo nhẫn nhục (áo người xuất gia mặc), giấu cung tên và áo giáp tìm cách giết voi chúa. Voi cái nhìn thấy thợ săn liền bảo voi chúa: “hãy cùng đi đến chỗ khác, có người đến muốn giết chúng ta”, voi chúa hỏi người đó hình dạng thế nào, voi cái nói: “người đó mặc áo nhẫn nhục, ngoài hiện tướng từ bi”, voi chúa nói: “thế thì không phải sợ, vì trong lớp áo ca-sa không có việc chẳng lành. Người khoát áo ca-sa, tâm trụ từ bi, như mặt trăng không có sức nóng, người này cũng vậy”. Do không nghi ngờ nên voi chúa và voi cái tùy ý dạo chơi không chút đề phòng, thợ săn liền bắn mũi tên độc vào yếu huyệt của voi chúa. Voi cái nói với voi chúa: “tại sao chàng lại nói là người mặc ca-sa không có tâm làm hại?”, voi chúa nói kệ: “Tâm không sanh tội lỗi, Cũng không do chiếc áo, Chỉ do nơi phiền não. Do tâm lìa từ bi, Như vàng bọc lá đồng, Vào lửa, chất đồng hiện, Người ngu tuy không biết, Nhưng người trí biết rõ, Cung, tên, người đều độc, Do nơi họ làm ác, Ca-sa vốn tịch tónh, Tất cả do tâm tạo”. Voi cái nói kệ: “Tôi không trái lời chàng, Như lời chàng đã nói, Nhưng tôi muốn nghiền đứt, Người ấy thành nhiều khúc”. Lúc đó voi chúa suy nghó: “làm sao chữa lành phiền não này, nếu là vợ của Bồ-tát mà khởi tâm oán hại thì không nên”, nghó rồi liền nói kệ: “Như người bịnh bị quỷ ám, Gặp thầy thuốc muốn làm hại, Thầy thuốc biết không hề giận, Nàng hoan hỉ cũng như thế”. Voi cái nghe rồi liền im lặng. Lúc đó đàn voi kéo đến, voi chúa sợ đàn voi làm hại thợ săn nên đến bên thợ săn nói bằng tiếng người: “ngươi chớ sợ hãi”, do Bồ-tát tuy ở trong loài bàng sanh mà vẫn hành hành Bồ-tát, nên voi chúa dùng vòi quấn quanh người thọ săn để che chở rồi bảo voi cái và đàn voi đi nơi khác, sau đó bảo thợ săn rằng: “này thợ săn, đàn voi đã đi hết rồi, anh cần vật gì trên thân tôi thì cứ tùy ý lấy”, thợ săn nghe rồi hết sức ngạc nhiên, suy nghó: “đây mới là người, ta chẳng phải là người ; ta là thú trong loài người, kia là người trong loài voi. Kia tuy mang thân súc sanh mà có tình có trí như vậy, ta tuy mang thân người nhưng không có trí huệ”, nghó rồi rơi lệ, Bồ-tát liền hỏi nguyên do, đáp: “voi đã làm tổn tôi”, voi chúa suy nghó: “ta hiện tướng cứu giúp chưa hề làm tổn anh ta”. Lúc đó thợ săn nói: “thân voi có vô lượng công đức, không có tội mà tôi giết hại, đó chính là làm tổn tôi. Thân voi tuy trúng tên bị thương, còn có thể chữa trị; nhưng tâm tôi bị bắn, ngu si vô trí khó thể trị lành”, liền nói kệ: “Ta đang quán sát hạnh voi chúa, Công đức rộng lớn cũng như biển, Kẻ làm hại mình cũng từ bi, Tâm Bồ-tát này thật khó sánh, Cho dù tôi đang mang thân người, Vẫn không chân trí giác như vậy, Chỉ có mỗi sân hận thế này, Thân không có được chút phước đức, Dù thân người hình dáng trang nghiêm, Không bằng voi mang thân bàng sanh. Voi là loài vật có trí người, Voi chúa đứng đầu trong loài voi, Không kể hình dạng liền thành người, Không do loài vật, không phải người. Nếu ai có công đức, nhân từ, Người ấy mới chính thật là người”. Voi chúa nói: “anh không cần nhọc sức nói nhiều với những lời hay như thế, anh hãy nói cho tôi biết vì sao anh lại muốn bắn giết tôi?”, đáp: “đó là tôi vâng lịnh vua bắn giết voi để lấy ngà”, voi chúa nói: “nếu vậy anh hãy lấy mau, tùy ý nhổ lấy ngà của tôi để anh được lợi ích, vì Bồ-tát ôm lòng buông xả tất cả”, liền nói kệ: “Làm lợi ích tất cả hữu tình, Mau hết trôi giạt biển sanh tử, Thường chứng trí Vô thượng Bồ-đề , Nguyện mau sớm vào thành Niết-bàn”. Thợ săn nói: “tuy tôi cần lấy ngà nhưng tôi không thể nhổ lấy. Nếu voi cho tôi nhổ, xin hãy trụ tâm từ bi, nếu không như thế tay tôi sẽ rụng khi đang nhổ”, voi chúa nói: “nếu anh không thể nhổ, tôi sẽ tự nhổ cho anh. Vì chân ngà cắm sâu trong thịt, khi nhổ máu trắng sẽ tuôn ra”. Khi voi chúa tự nhổ ngà xong, máu chảy đầy thân như núi phủ tuyết, voi chúa lúc đó thấy thân mình như vậy sợ tâm thối chuyển nên muốn làm cho tâm kiên cố không rối loạn. Lúc đó chư thiên trên hư không thấy tâm của Bồ-tát được viên mãn liền hiện tướng lạ, một vị nói kệ: “Chư thiên chúng tôi thấy, Voi chúa hành khổ hạnh, Khi đang nhổ ngà ra, Chịu vô lượng đau khổ, Nhưng tâm vẫn kiên cố, Không thối chuyển Bồ-đề”. Một vị khác nói: “Nhổ ngà như vậy, thân chịu khổ, Làm sao có thể phát Bồ-đề, Giống như người chịu khổ địa ngục, Ắt không thể phát tâm từ bi”. Lúc đó voi chúa quấn lấy sáu chiếc ngà đưa cho thợ săn và nói kệ: “Hiền thủ, anh hãy bỏ việc ác, Bỏ cung tên, kiếm bén đang cầm, Anh mặc ca-sa nhơn từ này, Tôi thấy áo này tâm rất vui, Hoặc có thí tịnh, thọ cũng tịnh, Hoặc có thí tịnh, thọ không tịnh, Tôi nay thấy anh tịnh nên thí, Người thí, người thọ thảy đều tịnh. Nếu thật tên độc bắn trúng tôi, Tôi không sanh một chút sân hận, Nguyện tôi mau chứng quả Bồ-đề, Cứu độ luân hồi được giải thoát”. “Này Đại vương, voi chúa sáu ngà thuở xưa chính là thân ta ngày nay, không phải chỉ do khổ hạnh bố thí mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề, còn phải do tu vô lượng phước đức nhân duyên, tích tập căn lành, với sức chánh kiến nên ngày nay ta mới chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Phật lại bảo vua Thắng quang: “Đại vương, để cầu quả Vô thượng Bồ-đề, ta đã từng làm con thỏ xả thịt thân mình để bố thí cho vị tiên nhơn. Lại nữa Đại vương, thuở xưa cha mẹ của ta đều mù mắt, ta thường cõng vác trên vai, trên lưng và nuôi dưỡng cha mẹ trong một thời gian dài. Lại nữa Đại vương, thuở xưa thế gian tà kiến, khi cha mẹ già yếu thì hoặc bỏ đói hoặc nhận chìm dưới sông, hoặc ném vào lửa thiêu đốt, cho rằng làm như thế cha mẹ được sanh thiên. Lúc đó ta đã làm phương tiện khiến việc làm phi pháp này chấm dứt. Lại nữa Đại vương, còn có vô lượng nhân duyên như trong kinh Dược xoa na ca có nói rõ. Lại nữa Đại vương, Bồ-tát ở Bất định tụ làm súc sanh là vượn chúa đứng đầu 500 con vượn. Lúc đó vua Phạm đức ở thành Bà-la-nê- tư đã làm cho chúng kinh sợ, ta với thân vượn chúa đã xả thân để cứu 500 con vượn. Lại nữa Đại vương, Bồ-tát ở Bất định tụ làm súc sanh mang thân chim Tró như trong kinh chim Tró bổn sanh có nói rõ; hoặc mang thân voi như trong kinh Tương bổn sanh có nói rõ; hoặc mang thân rồng như trong kinh Long bổn sanh có nói rõ; hoặc mang thân Ngỗng chúa như trong kinh Nga bổn sanh có nói rõ”. Lúc đó vua Thắng quang hỏi Phật: “Thế tôn phát nguyện cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề lần đầu tiên vào lúc nào?”, Phật nói: “Đại vương lắng nghe: Thuở xưa cách đây vô lượng kiếp có vua tên là Quang minh, vua có voi báu thân trắng như hoa sen, bảy Chi đầy đặn, dáng vẻ oai vệ ai cũng thích nhìn. Lúc đó vua bảo người điều phục voi chừng nào điều phục voi xong thì mang đến cho vua cỡi. Thời gian sau người điều phục voi sau khi thấy voi đã thuần thục liền dẫn voi đến chỗ vua, vua liền cỡi voi cùng người điều phục voi ra khỏi thành đi săn bắn. Không ngờ voi báu nghe mùi của voi cái liền chạy theo mùi để tìm voi cái, lúc đó voi chạy mau như gió nên vua bảo người điều phục voi rằng: “Ta thấy hư không chuyển, Bốn phương đều đảo lộn, Đất núi như bàn quay, Cây cũng đi trên không, Chân voi không dời đổi, Giống như bay trên không, Thấy núi trước chạy đến, Núi sau không lay động, Ngươi hãy bắt voi dừng, Đánh roi cho nó sợ, Vì voi chưa điều phục, Thấy cái chết kề bên”. Người điều phục voi nói: “Thần đã tụng chú của đại tiên, Và dùng móc sắt đánh rất mạnh, Chỉ khiến voi báu chạy thêm mau, Các pháp đã dùng đều vô ích, Dù móc sắt cũng không cản được. Vua nên biết không điều phục được, Vì tham dục đã thâm nhập tâm, Dục ở trong tâm như đóng đinh, Tham dục khi phát rất mạnh mẽ, Không ai có thể chận đứng được”. Lúc đó người điều phục voi tâu vua: “khi voi chạy đã mệt, vua hãy níu vào một cành cây và để nó đi đâu tùy ý”, vua và người điều phục voi níu vào một cành cây, ví như từ chỗ chết được sống lại, vua nói: “người điều phục voi chưa thuần thục mà đã đem đến cho ta cỡi”, đáp: “Đại vương, chỉ vì voi này nghe mùi voi cái, do tham dục làm say nên không chịu nghe lời. Nó tuy đi nhưng sau bảy ngày nó sẽ trở về, vì sau khi gặp voi cái cùng hành dục xong, nó sẽ trở về”. Đến ngày thứ bảy quả nhiên voi báu trở về, người điều phục voi lúc đó đốt một hòn sắt nóng đỏ đưa tới trước voi, voi liền tiến đến muốn nuốt lấy, người điều phục voi nói: “Đại vương, nếu voi nuốt hòn sắt nóng đỏ này sẽ chết”, vua nói: “ngươi đã điều phục voi được như vậy, tại sao lúc ấy lại làm cho ta một phen khiếp vía”, người điều phục voi nói: “thần chỉ điều phục được thân, không thể điều phục được tâm”, vua hỏi: “khanh thấy ai đã điều phục được tâm chưa?”, đáp: “đã thấy, chính là Phật Thế tôn đã điều phục được cả thân tâm. Tất cả hữu tình tuy rất muốn điều phục tâm mình nhưng vì không thể điều phục được nên đều thối thất. Các ngoại đạo tuy tu khổ hạnh nhưng tham dục đầy tâm vẫn không thể trừ được, có người xả cảnh lìa nơi tham dục nhưng vẫn không giữ vững cuối cùng cũng thối thất. Từ A-tu-la, trời người cho đến súc sanh, tất cả loài hàm thức đều bị tham dục trói buộc từ vô thỉ đến nay như bánh xe quay, tâm tuy vô tướng nhưng không ai được tự tại. Đại vương dù có oai lực lớn chiến thắng trong các trận chiền cũng không thể điều phục được tâm mình, chỉ có Phật Thế tôn là không còn tham dục, tâm được tự tại”. Lúc đó vua liền phát nguyện cầu quả Vô thượng Bồ-đề và nói kệ: “Ta nguyện tu phước cầu quả Phật, Được thành đấng Thiện thệ tự tại, Ai chưa thể qua được bờ kia, Tôi thề độ họ đến bờ kia. Nghe Phật ly dục, phát Bố đề, Lại hành huệ thí, dùng chánh pháp, Nguyện đời sau tôi được thành Phật, Diệt tham dục, lợi ích hữu tónh”. Này Đại vương, vua Quang minh thuở xưa chính là thân ta ngày nay, vào thời đó ta đã phát nguîen cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề lần đầu tiên”. Vua Thắng quang lại hỏi Phật: “Thế tôn bố thí cho ai lần đầu tiên để cầu chứng quả Vô thượng Bồ-đề?”, Phật nói: “Đại vương lắng nghe: Thuở xưa cách đây vô lượng kiếp có thành tên là Tỳ ha bỉ địa, trong thành có một người thợ gốm. Lúc đó có Phật ra đời hiệu là Thích ca Mâu ni chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác đầy đủ 10 hiệu, vị Phật đó cũng có các đệ tử Thinh văn tên là Xá-lợi-tử,ø Đại Mục-kiền- liên và A-nan-đà là thị giả. Một hôm Phật cùng vô lượng các Bí-sô du hành trong nhân gian khi đi đến thành này thì Phật bị cảm gió, Phật liền bảo A-nan-đà đến nhà thợ gốm xin tô dầu và nước mật. A-nan-đà vâng lời Phật dạy đến nhà thợ gốm xin, thợ gốm nghe rồi liền đem tô dầu và nước mật rồi cùng con đi đến chỗ Phật. Thợ gốm dùng tô dầu nước mật này thoa lên người Phật, sau đó lấy nước ấm tắm cho Phật rồi đưa nước đường cát cho Phật uống, nhờ đó bịnh được lành. Thợ gốm này nói kệ phát nguyện: “Con đem tô mật cúng Như lai, Nguyện được công đức lợi rộng lớn, Dòng họ, danh hiệu, chúng Thanh văn, Đều giống như Phật Thích ca ngày nay, Khéo hay điều phục loài hữu tình, Xa lìa các khổ về viên tịch”. Con người thợ gốm cũng phát nguyện: “nguyện đời vị lai con cũng như thị giả của Phật”. Này Đại vương, ta lúc đó lần đầu tiên cúng dường Phật Thích ca Mâu ni để cầu chứng quả Vô thượng Bồ-đề, người con lúc đó phát nguyện nay chính là A-nan-đà”. Vua Thắng quang lại hỏi Phật: “từ lần cúng dường đầu tiên cho đến lúc thành Phật, Thế tôn đã cúng dường bao nhiêu vị Phật để cầu chứng quả Vô thượng Bồ-đề?”, Phật nói: “Trong A-tăng-kỳ kiếp thứ một, từ lúc ta cúng dường Phật Thích ca cho đến Phật Hộ thế, với tâm thanh tịnh như thế ta đã cúng dường bảy vạn năm ngàn đức Phật, trong khoảng thời gian đó cúng dường chưa hề có tâm sai khác, chỉ một mực cầu chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, từ Phật Nhiên Đăng cho đến Phật Bảo kế, ta đã cúng dường với tâm thanh tịnh bảyvạn sáu ngàn vị Phật như thế, tuy trải qua nhiều đời, nhưng tâm ta vẫn không sai khác, thường đem lòng thành tín cúng dường chư Phật. Trong A-tăng-kỳ kiếp thứ ba, từ Phật Bảo kế cho đến Phật An Ổn ta đã cúng dường bảy vạn bảy ngàn vị Phật như thế. Đến Phật Ca-nhiếp-ba, ta cũng cúng dường không có tâm khác, thường đem lòng thành tín cúng dường chư Phật. Khi còn là Bồ-tát, ta đã cúng dường như vậy và đều được chư Phật thọ ký đương lai sẽ chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, từ bi nhiếp thọ các hữu tình”, nghe Phật nói rồi vua Thắng quang vui mừng đảnh lễ Phật rồi ra về. Lúc đó A-nan-đà nói kệ thỉnh Phật: “Cúi xin đấng Thế tôn, Phân biệt cho con rõ, Nơi phát nguyện đầu tiên, Vì cầu đại Bồ-đề. Lại nguyện Vô thượng só, Nói nhân duyên bổn sự, Cúng dường bao nhiêu Phật, Trong thời gian bao lâu?”. Phật nói kệ đáp: “Bậc lưỡng túc vô thượng, Thương xót các hữu tình, Phát Bồ-đề nơi ấy, Nguyện vượt khỏi ba cõi. Nghe tâm Phật lìa dục, Nói rõ duyên voi say, Chán tập khí tham dục, Nên phát tâm Bồ-đề, Phát thệ nguyện kiên cố, Bố thí như hà sa. Vào đời vua Quang minh, Chuyên mong cầu Chánh giác. Vào thời Phật Thích ca, Ta làm người thợ gốm, Cúng dường lần đầu tiên, Tô dầu và nước mật. Cũng từng làm người nữ, Chánh tín ngôi Tam bảo. Ta gặp Phật Kiêu Trần, Dùng đèn dầu dâng cúng. Vào thời Phật Vô thắng, Ta từng làm Tam tạng, Tranh cải với đại chúng, Mắng chúng tăng là nữ, Do nghiệp ác nơi miệng, Ta biến thành nữ nhân, Hồi tâm thanh tịnh rồi, Trở lại thành đàn ông. Ở trong đời quá khứ, Ta từng làm vương tử, Anh em Phật Bảo kế, Ta cúng dường đèn sáng. Ba tháng đã cúng dường, Phật Thế tôn An ổn. Sau khi Phật diệt độ, Đem xá lợi xây tháp. Từng làm vị trưởng giả, Ba tháng cúng dường Phật. Sau khi Phật diệt độ, Xây tháp 90 khuỷu. Sau thấy có Thắng Phật, Đứng đầu dòng Phạm chí, Ta cung kinh chắp tay, Cúng dường bậc tôn quý. Khi xưa làm Phạm chí, Hiểu rõ các sách luận, Ta gặp Phật Lợi ích, Thí tòa cho Như lai. Khi tu tập khổ hạnh, Từng theo pháp tiên nhơn, Gặp Thế tôn Kiêu Trần, Níu thân nhảy xuống núi. Ta từng làm tiên nhơn, Gặp đức Phật Nhạo kiến, Đến chỗ chư Phật ở, Đem trái cây cúng dường. Khi xưa làm tiên nhơn, Gặp Thế tôn Thiện nhãn, Đem áo bằng vỏ cây, Che lên thân Phật ấy. Xưa từng làm nhân vương, Cúng dường Phật Lặc xoa, Liền xả bốn binh chúng, Cầu Vô thượng Bồ-đề . Từ đức Phật Thích ca, Cho đến Phật Hộ thế, Bảy vạn năm ngàn Phật, Ta đều cúng dường hết. Trong A-tăng-kỳ đầu, Ta cúng dường như vậy, Một lòng không thay đổi, Thường phát nguyện Bồ-đề. Kế gặp Phật Nhiên đăng, Đa văn rất đáng yêu, Ta làm phạm chí cúng, Bảy sen xanh cho Phật. Ta từng làm quốc vương, Gặp Phật hiệu Hữu tướng, Ở chỗ Phật tu hành, Cúng dường cho Phật này. Ta từng làm quốc vương, Có Phật hiệu Trụ tu, Dùng trân bảo sắc diệu, Và âm thanh cúng dường. Ta từng làm quốc vương, Phật hiệu Siêu Sư tử, Ta dùng phang lọng báu, Cúng dường Như lai này. Ta từng làm quốc vương, Phật tên An ổn nhật, Ta đem một ngàn thành, Cúng dường hết cho Phật. Ta từng làm quốc vương, Có Phật tên Phạm chí, Đem nhà tắm, nước thơm, Tùy thời tắm cho Phật. Ta từng làm quốc vương, Cúng dường ở trong thành, Ba ngàn Phật, Phạm chí, Và vị Phật Thi khí. Ta từng làm trưởng giả, Ở trong thành Tài tăng, Cúng 25 vị Phật, Tu hành các phạm hạnh. Ta từng làm trưởng giả, Ở trong đại thành ấy, Cúng dường Phật Thi khí, Xây dựng tháp và chùa, Để cúng dường bảy Phật, Phụng thí đồ trân bảo, Cho đến các nô tỳ, Nhà cửa và vườn hoa. Từng làm vua tín kính, Đối với Phật Thi khí. Lại ở trong thành ấy, Chỉ cầu Chánh đẳng giác. Ta từng làm Phạm chí, Gặp Phật tên Hoan hỉ, Vì cầu quả Bồ-đề, Đem trái cây cúng dường. Ta từng làm Trưởng giả, Gặp Phật tên Thiện nhãn, Dùng châu báu ma ni, Cúng dường Như lai này. Ta từng làm thương chủ, Gặp Phật tên Thiện sanh, Ngồi dưới cội Bồ-đề, Đem bánh cúng dường trước. Ta từng làm thương chủ, Của một ngàn thương nhân, Gặp đức Phật Thiện ý, Ngồi dưới cội Bồ-đề, Đem hương thoa thân Phật, Lại dùng quạt quạt mát, Ngồi bên Phật nghe pháp, Nghe xong tâm khai ngộ. Xưa ta làm thương chủ, Gặp Phật tên Thích ca, Ta dùng các hoa báu, Rải hoa lên cúng Phật. Xưa ta làm thương chủ, Gặp Phật tên Cao đăng, Đem phướn, hoa, âm nhạc, Để cúng dường Phật này. Ta từng làm quốc vương, Gặp Phật tên Tối thượng, Vượt khỏi các biển Hữu, Cúng dường các cỗ xe. Ta từng làm quốc vương, Gặp Phật tên Tôi tôn, Trong trăm dặm Phật đi, Ta rải hoa trên đất. Ở trong đời quá khứ, Nghe Phật sắp đi qua, Ta đem phang lọng đẹp, Và bốn binh vây quanh. Có Phật muốn qua sông, Ta làm người lái đò, Thấy Phật, tâm vui mừng, Đưa Phật qua bờ kia. Ta từng làm thương chủ, Gặp Phật tên Hiền xa, Ta làm cầu cho Phật, Để Phật qua yên ổn. Ta từng làm quốc vương, Gặp Phật tên Đại phạm, Dùng Chiên đàn cất chùa, Để cúng dường Thế tôn , Cúng y Tăng già chi, Cho Như lai đắp mặc, Mất mùa cúng nước thơm, Giáng mưa, dân theo Phật. Ta từng làm quốc vương, Gặp Phật tên Tịnh nguyệt, Trong nước nhiều dịch bịnh, Cúng Phật, dịch tiêu trừ. Xưa khi ta làm vua, Gặp phật tên Điều đế, Thỉnh Phật nói diệu pháp, Vì cầu đạo Bồ-đề. Xưa khi ta làm vua, Gặp Phật tên Phạm tôn, Cúng y Tăng già chi, Cho Như lai đắp mặc. Lúc ấy nước mất mùa, Ta dùng nước Chiên đàn, Cúng cho Như lai tắm, Dân no ấm theo Phật. Xưa khi ta làm vua, Gặp Phật tên Đế thích, Trong nước gặp tai ách, Khởi lòng từ, tai dứt. Xưa khi ta làm vua, Cúng dường Phật Điều đế, Dùng trăm vạn của báu, Làm thức ăn cúng Phật. Xưa ta làm Phạm chí, Gặp Phật tên Tất đạt, Dùng trăm ngàn tụng tán, Ca ngợi Thiên nhơn sư. Xưa ta làm Phạm chí, Phật tên Đế thích tràng, Ta chắp tay chánh tín, Nguyện vị lai như Phật. Bắt đầu Phật Nhiên đăng, Cho đến Đế thích tràng, Bảy vạn sáu ngàn Phật, Ta đều cúng dường hết. Trong A-tăng-kỳ hai, Cúng dường các đức Phật, Tâm chưa từng thay đổi, Chí nguyện cầu Bồ-đề. Trong A-tăng-kỳ ba, Ta làm vua cúng dường, Phật tên An Ổn Nhật, Xây tháp khi Phật diệt. Xưa ta làm quốc vương, Cúng dường Phật mọi thứ, Đầy đủ theo ý thích, Xây tháp tên Pháp vương. Xưa ta làm thương chủ, Gặp Phật tên Tất cúng, Ta đem các hoa vàng, Rải lên Phật cúng dường. Xưa ta làm thương nhơn, Gặp Phật tên Bảo kế, Dệt lưới vàng cho Phật, Phủ lên thân Đại sư. Xưa ta làm thương nhơn, Phật tên Thượng Liên hoa, Ta đem hoa bạc cúng, Rải lên thân Như lai. Xưa ta làm thương nhơn, Gặp Phật tên Thượng xưng, Ta đem ngôi nhà đẹp, Cúng dường cho Như lai. Xưa làm đại quốc vương, Phật hiệu là Thắng luận, Ngày Phật chứng Bồ-đề, Ta đem binh hộ vệ. Xưa ta làm thương nhơn, Gặp Phật tên Vô cấu, Xây tháp và nhà tắm, Cho đến đốt đèn sáng. Xưa khi ta làm vua, Gặp Phật tên Hiệp giác, Nhập định trên tảng đá, Ta trỗi nhạc cúng dường. Xưa ta làm thương nhơn, Gặp Phật tên Tu hành, An giặc độ dân chúng, Ta quét đất, Phật qua. Xưa ta làm thương nhân, Phật Tịnh trụ sắp đến, Ta xây cất tinh xá, Và vườn hoa cúng Phật. Xưa làm đại quốc vương, Gặp Phật tên Tướng sư, Ta cúng ngọc ma ni, Ta còn là Bồ-tát. Xưa làm đại quốc vương, Gặp Phật tên Hệ đô, Ta xây tháp Pháp vương, Treo phan lọng cúng dường. Xưa làm đại quốc vương, Gặp Phật tên Xả trọng, Ta cúng dường bình, trượng, Xây tháp và thiết hội. Xưa ta làm thương chủ, Gặp Phật tên Kiến nghóa, Ta đem vàng, châu báu, Các loại hương cúng dường. Xưa làm đại quốc vương, Phật tên Chư bình nghóa, Du hành trong nhân gian, Ta đem bốn binh đón. Xưa làm đại quốc vương, Phật tên Tha lợi kiến, Khi Phật muốn vào thành, Ta tấu nhạc, rải hoa. Xưa ta làm thương chủ, Gặp Phật tên Để sa, Ta dùng hương thân cây, Và hương rễ rải cúng. Xưa ta từng làm Đại tiên nhơn, Gặp Phật Thần túc ở bảo khám, Chỉ dùng một câu kệ khen Phật, Vượt qua chín kiếp tu khổ hạnh. Xưa làm Phạm chí tên Tối thượng, Gặp Phật Thế tôn Tỳ-bà-thi, Tay ta cầm cỏ, phát Bồ-đề, Vui mừng rải cúng thân Như lai. Khi xưa Bồ-tát làm thương chủ, Gặp Phật Thế tôn tên Thi khí, Và các chúng đệ tử Thanh văn, Cung cấp y thực trong ba tháng. Xưa làm thương chủ rất chánh tín, Đã ở chỗ Phật Tỳ-bà-thi, Và các chúng đệ tử Thanh văn, Cung cấp y thực trong ba tháng. Xưa làm thương nhơn rất chánh tín, Ở chỗ Phật Ca lưu thôn đà, Đem hất tài sản cúng dường Phật, Theo Phật xuất gia tu phạm hạnh. Xưa làm thương chủ rất chánh tín, Gặp Phật Ca da ca Mâu ni, Trước xây tinh xá, sanh cung kính, Sau đó mới theo Phật xuất gia. Xưa làm Phạm chí tên Tối thắng, Nơi Lưỡng túc tôn Ca-diếp Phật, Do nghe, ưa hộ lời Phật giảng, Mới được xuất gia tu tịnh ý. Khi xưa Bồ-tát làm quốc vương, Cúng dường cho tiên nhơn Di lặc, Nhập định thấy ta sẽ thành Phật, Tiên liền đi đến cúng dường ta. Từ Phật An Ổn đến Ca-diếp, Cúng dường bảy vạn bảy ngàn Phật, Phụng sự tất cả chư Như lai, Mới đủ số ba A-tăng-kỳ, Thảy đều vui vẻ mà cúng dường, Chưa từng có chút tâm sai khác. Đều phát nguyện Vô thượng Bồ-đề , Khi làm Bồ-tát cúng dường Phật, Tất cả thị hiện đều thọ ký, Trước chúng nói ta sẽ thành Phật. Do nguyện trước của ta đầy đủ, Nếu đem nguyện trước nay xét lại, Cùng với nguyện này đều đầy đủ, Nên các đại đức Phật Thế tôn , Thọ ký ta Vô thượng Bồ-đề . Xưa ta từng làm vua Thi tỳ, Cũng thường bố thí cho tất cả, Khi mang thân Đại vương Vó lạm, Xả thân xả của để bố thí. Xưa làm thương chủ vào biển lớn, Trì giới chuyên cầu đến bờ kia, Có thể tự hại để chúng vui, Giúp tất cả vượt qua biển khổ. Xưa ta cũng từng làm Tiên nhơn, Thường tu Nhẫn nhục Ba-la-mật, Thân thể tay chân bị cắt xả, Do nhẫn nhục, tâm không thối chuyển, Như kinh Bổn sanh Khẩn-na-la. Ta từng uống cạn nước biển cả, Để đủ Tinh tấn Ba-la-mật, Đều do khẩu nghiệp nói chân thật. Xưa làm đại thần tên Dược vật, Bàn luận cùng Phạm chí Ngưu xuất, Sẽ đủ Bát-nhã-Ba-la-mật, Chư thiên đánh trống để giúp vui. Xưa làm Phạm chí tên Sanh nhiên, Siêng tu Thiền định Ba-la-mật, Trên đầu, chim sanh con đẻ cái, Vẫn không xuất định đuổi chim đi. Tu hành đủ sáu Ba-la-mật, Tâm từ thường có Tứ niệm xứ, Do ta cầu điều nguyện tôn quý, Nên các nguyện cầu đều đầy đủ. Đối với tất cả Phật đại đức, Thiên nhơn sư, ta đều cúng dường, Chúng sanh trong biển khổ ba cõi, Đều hồi hướng về đường Niết-bàn. Ta làm Bố tát tu cúng dường, Từ thân vua Quang minh về sau, Cho đến Phật Thế tôn Đế tràng, Đã độ một ngàn câu chi chúng, Huống chi thành Phật độ vô biên. Đại đạo sư tôn quý ở đời, Chúng Trời người đã độ, chưa độ, Ta đã làm cầu và thuyền bè, Kiên cố độ hết các hữu tình. Nếu sau khi ta vào viên tịch, Do đã cứu vớt vô số người, Những người có thể tu phước đức, Đương lai sẽ vào thành Niết-bàn. Nếu sau khi ta vào viên tịch, Ai có thể tu tập Phật sự, Cúng dường chút ít nơi tượng Phật, Liền được sanh thiên, vui vô cùng. Nếu sau khi ta vào viên tịch, Lưu lại vị cam lồ pháp bảo, Nếu hữu tình nào nghe pháp này, Đều có thể tu tập xuất ly”. <篇> <卷>QUYỂN 16 Thế tôn là vô thượng phước điền được thế gian cung kính tôn trọng; từ quốc vương, đại thần, Bà-la-môn, cư só… cho đến thiên long bát bộ đều đem các loại ẩm thực, y phục, ngọa cụ, thuốc thang… cung cấp cho Phật và chúng Bí-sô. Lúc đó Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc thành Thất-la-phiệt, Các ngoại đạo tập họp lại ở trong giảng đường bàn với nhau: “trước nay chúng ta ở đây được quốc vương, đại thần… tôn trọng, cung cấp cho chúng ta ẩm thực, y phục… nhưng nay có Sa môn Kiều-đáp-ma xuất hiện, họ đều cung kính tôn trọng cúng dường tứ sự cho phước điền này, chúng ta không có lợi dưỡng nữa, phải làm sao?”, một người nói: “chúng ta nên vu báng Sa môn ấy là người giữ phạm hạnh mà làm việc phi phạm hạnh”, một người khác hỏi: “vu báng như thế nào?”, đáp: “trong pháp hội chúng ta có một người nữ xinh đẹp, ai cũng thích nhìn. Chúng ta hãy bảo nàng ấy nói là Sa môn Kiều-đáp-ma đã cùng tôi tư thông”, liền hỏi: “người nữ xinh đẹp đó là ai?”, đáp: “đó là người nữ ngoại đạo tên Chiên già”. Các ngoại đạo cho gọi Chiên già đến và bảo rằng: “nàng nên biết, lợi dưỡng mà chúng ta có trước nay đều không còn nữa, đó là do có Sa môn Kiều-đáp-ma xuất hiện, xin nàng hãy cứu giúp chúng tôi”, Chiên già hỏi: “các vị bảo tôi làm gì?”, đáp: “nàng hãy nói trước mọi người rằng: Sa môn Kiều-đáp-ma đã cùng tôi làm việc phi phạm hạnh. Nếu nàng làm như thế thì chúng ta sẽ được tôn trọng cúng dường như xưa”, Chiên già nói: “tôi không thể vu báng Sa môn Kiều-đáp-ma, vì vị ấy là thầy của trời người, được vua và các đại thần kính trọng, có vô lượng oai đức, ai có thể tin lời tôi nói”, các ngoại đạo nói: “nếu nàng không nghe theo lời chúng tôi bảo thì chúng tôi sẽ không nói chuyện với nàng nữa. Nàng cũng không được vào nhà của chúng tôi, chúng tôi sẽ tẫn xuất nàng cho đến chết, sau khi chết nàng sẽ bị đọa địa ngục”, Chiên già nghe rồi liền hỏi: “vậy bây giờ tôi phải làm gì?”, đáp: “bây giờ nàng nên thường xuyên lui tới trong rừng Thệ đa”, Chiên già vâng lời làm theo, thời gian sau Chiên già giấu cái bát trong bụng và đi đến chỗ Như lai. Lúc đó Thế tôn đang nói diệu pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, từ xa thấy người nữ ngoãi đạo này đi đến, Thế tôn liền suy nghó: “xưa kia ta đã tạo nghiệp này, nay đã chín muồi giống như dòng nước thác”. Nữ ngoại đạo đến trước Thế tôn nói kệ: “Giọng hay làm người mến, Lời lẽ thật dịu dàng, Đã khiến tôi mang thai, Mà lại còn nói pháp”. Thế tôn nói kệ: “Nếu người nào nói dối, Sẽ đọa vào địa ngục.” Nữ ngoại đạo nói kệ: “Ai làm nói không làm, Kẻ ấy đọa địa ngục”. Thế tôn nói: “đọa hay không đọa địa ngục, tự tâm mỗi người biết, ngươi vu báng đời sau chịu khổ”. Lúc đó vua trời Đế thích suy nghó: “nữ ngoại đạo này muốn làm ô uế Phật và tăng”, nghó rồi liền dùng thần lực làm cho cái bát giấu trong bụng rơi xuống đất, khiến cho nữ ngoại đạo hổ thẹn quay về. Sau đó vị thượng thủ trong chúng Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn, chúng con muốn đi đến bờ ao Vô nhiệt để mỗi người tự nói về bổn sự”, Phật im lặng nhận lời. Thường pháp của chư Phật là khi xuất hiện ở đời, chưa nhập Niết-bàn còn giáo hóa hữu tình thì nên làm 10 việc: Là thọ ký Thái tử Pháp vương quán đảnh đã trồng căn lành từ lâu. Là làm cho hữu tình chưa phát tâm liền phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Là Kiến lập Tam bảo. Là Kiết giới. Là Xả một phần trong năm phần thọ mạng. Là Hiện đại thần thông ở thành Thất-la-phiệt . Là Thị hiện từ trên cõi trời đi xuống ở tụ lạc Bình lâm. Là Giúp cha mẹ thấy được Chơn đế lý. Là ở bên ao Vô nhiệt cùng các Bí-sô nói về nhân duyên nghiệp báo. (Trong Hán tạng không có việc thứ 10). Lúc đó Phật cùng các Bí- sô cả thảy 999 vị ẩn mất nơi thành Thất-la-phiệt và hiện ra ở bên ao Vô nhiệt, đến chỗ du hành của Dược xoa Dã mãnh, cảnh trí nơi đây rất đáng yêu, cây trái sum suê, ao này dẫn nước ra bốn con sông để chảy ra bốn biển: 1. Là sông Căng gia. 2. Là sông Tân độ. 3. Là sông Phược xoa. 4. Là sông Sí đa. Nơi đây xa xôi hiểm trở, nếu không phải người có thần thông thì không thể đến được. Đến rồi Phật liền khởi tâm thế gian nên Long vương Nan-đà và Ô ba-nan-đà quán biết ý Phật, liền ở trong ao hóa ra hoa sen ngàn cánh giống như bánh xe, sắc như vàng ròng, cánh hoa bằng châu báu, nhụy hoa bằng kim cương, lại có vô lượng trăm ngàn hoa sen khác vây quanh. Lúc đó Phật lên ngồi trên hoa sen ngàn cánh, con các Bí-sô mỗi người lên ngồi trên hoa sen vây quanh. Lúc đó cụ thọ Xá-lợi-tử đang vá y Tăng già chi trên núi Kỳ-xà-quật ở thành Vương xá nên không có mặt ở ao Vô nhiệt, Phật bảo Đại Mục-kiền-liên đi kêu Xá-lợi-tử đến, Đại Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy liền ẩn mất ở ao Vô nhiệt và hiện ra trước mặt Xá-lợi-tử: “Thế tôn cùng 999 Bí-sô đã đến ao Vô nhiệt, nay thầy nên cùng tôi đi đến đó”, Xá-lợi-tử đáp: “hãy đợi tôi vá y xong sẽ cùng đi”, Đại Mục-kiền-liên nói: “hãy để tôi phụ giúp”, nói rồi liền dùng thần lục biến năm ngón tay thành năm cây kim để phụ giúp vá y, Xá-lợi-tử nói: “thầy hãy đi trước, tôi sẽ đến sau”, Đại Mục-kiền-liên nói: “nếu thầy không đi liền, tôi sẽ kéo thầy đi”, Xá-lợi-tử nói: “thầy có thần thông bậc nhất, hãy nắm cái móc y này mà kéo tôi đi”, Đại Mục-kiền-liên liền kéo cái móc y, Xá-lợi-tử suy nghó: “thầy ấy có oai lực lớn ắt sẽ kéo được cái móc y”, nghó rồi liền dùng thần thông bám thân vào núi Kỳ-xà-quật khiến cho núi này bị lay động và cả mặt đất châu Thiệm bộ cũng bị chấn động, Long vương Nan-đà và Ô ba-nan-đà cùng đại chúng ở ao Vô nhiệt cũng bị chấn động, các Bí-sô hỏi Phật: “Thế tôn, có phải do Long vương Nan-đà và Ô ba-nan- đà làm cho đại địa chấn động không?”, Phật nói: “không phải, đó là do các đại Thanh văn hiện thần thông”. Lúc đó Xá-lợi-tử suy nghó: “dù ta bám vào núi Tu di, thầy ấy cũng sẽ mang ta đi được, ta phải dùng tâm trụ nơi ao Vô nhiệt, tại hoa sen mà Như lai đang ngồi thì thầy ấy không thể làm cho lay động được”, Đại Mục-kiền-liên nói: “thầy đã hiển hiện thần thông rồi, hãy đến chỗ Thế tôn”, đáp: “thầy hãy đi trước, tôi sẽ đến sau”. Đại Mục-kiền-liên liền đi trước, không ngờ chưa đến chỗ Phật thì Xá-lợi-tử đã đến trước, đảnh lễ Phật rồi lên ngồi trên hoa sen, Đại Mục-kiền-liên mới về đến, Xá-lợi-tử nói: “thầy đi trước, sao giờ mới đến”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, trước nay cụ thọ Đại Mục-kiền-liên được gọi là Thần thông bậc nhất, nay mới biết là không như thế”, Phật bảo các Bí-sô: “không phải chỉ ngày nay mà từ xưa cũng đã như thế, các thầy lắng nghe: Thuở xưa, ở nước Trung Thiên trúc có một họa sư, vì có việc nên đến nước khác và nghỉ nhờ trong nhà của một họa sư khác. Chủ nhà làm một cô gái máy bằng gỗ, sắc thái đoan nghiêm rồi bảo cô gái này đến hầu hạ khách, khách tưởng là người thật nên bảo đến cùng ngủ nhưng cô gái cứ đứng im, khách liền nắm tay kéo khiến cho tay rời khỏi thân, lúc đó khách mới biết là cô gái máy bằng gỗ nên hết sức hổ thẹn. Khách liền suy nghó: “ta đã bị chủ nhà ngầm làm nhục, ta phải làm cho anh ta bị nhục trước mọi người”, nghó rồi liền vẽ thân mình lên vách bên cánh cửa chính, giống như người tự thắt cổ, rồi ẩn mình sau cánh cửa. Sáng ra chủ nhà ngạc nhiên không hiểu tại sao mặt trời đã lên cao mà khách vẫn chưa dậy, liền đến phòng xem thử. Vừa mở cửa ra liền thấy khách đã treo cổ tự tử, lại thấy cô gái máy bằng gỗ bị gãy ra nằm trên đất, chủ nhà nghó rằng: “vì ta thắng nên anh ấy tức mà chết”. Theo pháp của nước này, hễ có người chết phải tâu cho vua biết rồi sau mới được chôn nên chủ nhân liền đến báo cho vua biết để xin chôn cất. Vua liền sai sứ đến xem xét, sứ giả bảo chủ nhà: “anh hãy cắt đứt dây cho tôi khám nghiệm là tự treo cổ chết hay bị chủ nhà làm cho chết”, chủ nhà liền lấy rìu chặt dây, rìu chạm vào tường mới biết chỉ là bức vẽ nên rất hổ thẹn trước sứ giả của vua. Phật bảo các Bí-sô: “Họa sư khách ngày xưa chính là Xá-lợi-tử ngày nay, họa sư chủ nhà chính là Đại Mục-kiền-liên ngày nay. Ngày xưa nhờ tay nghề kheo nên cuối cùng Xá-lợi-tử đã thắng Đại Mục-kiền-liên; ngày nay dùng thần thông cũng được thắng”. “Lại nữa các Bí-sô, hãy lắng nghe: Thuở xưa trong một làng nọ có hai họa só, ai nấy đều tự cho mình là giỏi và đều muốn thi thố tài năng trước vua, nên cùng đi đến chỗ vua, vua liền bảo: “mỗi người hãy vẽ lên một vách tường cho ta xem chứ ta không tin nơi lời nói”. Họa só thứ nhất trải qua sáu tháng mới vẽ xong bức vách, họa só thứ hai chỉ trang trí chung quanh bức vách. Sau khi vẽ xong, họ tâu vua đến xem, vua cùng quần thần đến xem bức vẽ thứ một và đều khen là rất đẹp. Họa só thứ hai tâu vua: “bức vẽ của thần chỉ là ảnh của bức vẽ thứ một phản chiếu lên, thần đã dùng một lớp sơn tô mỏng lên”, vua xem xong ngạc nhiên nói rằng: “bức vẽ này còn đẹp hơn bức vẽ kia”, họa só thứ hai tâu: “đây không phải là bức vẽ của thần, đó là ảnh hiện của bức vẽ kia mà thôi”, vua nói: “nhưng làm như khanh lại rất đẹp”. Này các Bí-sô, họa só chỉ trang trí chung quanh bức vách trong sáu tháng ngày xưa chính là Xá-lợi-tử ngày nay; họa só miệt mài vẽ trong sáu tháng chính là Đại Mục-kiền-liên ngày nay. Ngày xưa đo tay nghề khéo mà Xá-lợi-tử đã thắng, nay thi thố thần thông cũng lại thắng”. “Lại nữa này các Bí-sô, các thầy lắng nghe: Thuở xưa cách thành Bà-la-nê-tư có hai vị tiên, một tên là Thắng khư, một tên là Lợi khí đa. Thời gian sau trời mưa to bùn lầy trơn trợt khiến cho tiên nhơn Thắng khư bị trượt chân té ngã, tiên nhân nổi sân chú nguyện trong 12 năm không mưa. Vua Phạm thọ và dân chúng trong thành nghe biết tin này liền đến chỗ vị tiên ấy yêu cầu đừng làm thế, tiên nhơn nói: “do ta không chịu đựng được nên đã chú nguyện làm cho 12 năm không mưa”, và không chịu giải chú. Vua bèn đến chỗ tiên Lợi khí đa yêu cầu giải chú, vị tiên này nói lời chân thật phát nguyện thì trời liền mưa. Này các Bí-sô, tiên Thắng khư ngày xưa chính là Đại Mục-kiền- liên ngày nay, tiên Lợi khí đa chính là Xá-lợi-tử”. “Lại nữa này các Bí-sô, hai tiên ấy có chút phiền não với nhau, tiên Lợi khí đa liền đến chỗ tiên Thắng khư sám hối, khi vị này cúi đầu xuống lạy thì tiên Thắng khư đạp lên tóc của tiên Lợi khí đa, khi bị đạp tiên này chú nguyện: “nguyện cho ngày mai mặt trời vừa mọc đều ông sẽ vỡ tan”, tiên Thắng khư liền chú nguyện: “nguyện cho mặt trời đừng mọc”. Lúc đó mặt trời không mọc, thế giới tối đen, dân chúng trong thành kéo đến chỗ tiên nhơn yêu cầu đừng làm như vậy, tiên Thắng khư nói: “nếu mặt trời mọc thì đầu ta sẽ vỡ tan”, tiên Lợi khí đa nói: “thầy hãy làm cái đầu bằng đất và đội lên”, tiên này nghe lời làm cái đầu đầu đất đội lên, mặt trời vừa mọc cái đầu bằng đất liền vỡ tan. Này các Bí-sô, tiên Thắng khư ngày xưa chính là Đại Mục-kiền- liên ngày nay, tiên Lợi khí đa chính là Xá-lợi-tử. Ngày xưa Xá-lợi-tử đã thắng nay cũng lại thắng”. “Này các Bí-sô, hãy lắng nghe: Thuở xưa ở nước Trung Thiên trúc có người thợ khéo, giỏi về tiện khắc ngà voi, ông lấy ngà voi tiện khắc thành một thăng gạo rồi mang theo đi đến nước ba tư và tìm đến nhà một người thợ khéo khác, chủ nhà đi vắng chỉ còn có người vợ, ông liền đưa thăng gạo cho người vợ nhờ nấu giùm, người vợ kia nói: “xin hãy để gạo lại và đi đi”. Sau đó người vợ kia đem nấu, củi hết mà gạo vẫn không chín, người chồng trở về sau khi hỏi rõ nguyên do liền xem kỹ gạo mới biết dạo đó làm bằng ngà voi. Người chồng nói dối với vợ: “vì nước này có tro nên gạo nấu không chín, nàng hãy bảo người thợ kia đi lấy nước trong và ngọt đến để nấu thì gạo mới chín”. Nói rồi người chồng liền ra ngoài vẽ một cái ao nước, trong ao lại vẽ một con chó chết đã sình thối. Khi người thợ khéo mang thùng đến ao lấy nước thấy có con chó chết sình thối liền bịt mũi và đánh rơi thùng nước xuống, lúc đó mới biết là ao nước vẽ thành nên rất hổ thẹn. Này các Bí-sô, người thợ dùng ngà tiện khắc thành hạt gạo ngày xưa chính là Đại Mục-kiền-liên ngày nay, người thợ vẽ ao nước chính là Xá-lợi-tử. Này các Bí-sô, định mà Như lai đạt được, các vị Độc giác cũng không thể biết ; định mà các vị Độc giác đạt được, ngay cả Xá-lợi- tử và Đại Mục-kiền-liên cũng không biết được; định mà Xá-lợi-tử và Đại Mục-kiền-liên đạt được, các Thanh văn khác đều không biết được. Tuy Bí-sô Xá-lợi-tử có đầy đủ oai đức lực hơn hẳn Mục liên, nhưng do Mục liên thường hiển hiện thần thông nên mật nói là Đại Mục-kiền- liên có thần thông bậc nhất”. Lúc đó Đại Ca-nhiếp-ba tự nói về nghiệp báo của mình bằng kệ: “Ca-diếp đi đến trước đại chúng, Nói rõ pháp tu hành đời trước, Xả thí chút ít các công đức, Được vô lượng thắng phước điền này, Như sư tử chúa ở thế gian, Đi trong núi rừng không lo sợ, Nay Đại Ca-diếp cũng như vậy, Diễn nói pháp xưa tâm không sợ. Tôi xưa từng thí thăng gạo thường, Cho bậc Độc giác chứng Vô lậu, Đang trụ định Tam muội Vô cấu, Tôi nay tín thọ cũng như thế, Ở trong Phật giáo phát đại nguyện, Thường nghe pháp tối thắng như vậy, Do nhân duyên này được quả báo, Ngàn đời sanh ở Bắc uất đơn, Nước ấy trường thọ không Ta-người, Dần được tôn quý không thiếu sót, Do một nghiệp này được quả báo, Ngàn đời được sanh trời Đao lợi, Trời ấy thọ anh lạc diệu hương, Sắc tướng đẹp đẽ để nghiêm thân, Đến khi tuổi thọ hết qua đời, Lại sanh cõi trời thọ thiên lạc, Chỉ do một nghiệp phát đại nguyện, Có nhiều của báu không tham đắm, Không cầu năm dục thọ các lạc, Xả bỏ, xuất gia học Phật đạo, Xưa tôi không gặp bậc Minh sư, Cũng không gặp các chúng Thanh văn, Gặp người mặc ca-sa hoại sắc, Liền đảnh lễ cầu xin xuất gia, Ta thấy lúc xuất gia như vậy, Được ngồi trong chúng ở trước Phật, Từ chúng đứng dậy đảnh lễ Phật, Nói Phật chính là Thân giáo sư, Lúc ấy Thế tôn nói ra lời: Ông là đệ tử, ta là thầy. Muốn cầu ra khỏi các nạn khổ, Cần phải nghe thọ pháp tịnh diệu. Thế tôn nói diệu pháp cho con, Khởi đại từ bi đối với con, Bốn thiền, 10 lực và sáu căn, Cho đến tu tám chi Thánh đạo, Con nay đã được pháp như thế, Đoạn hết lậu hoặc không sanh nữa, Con thọ thân này lần cuối cùng, Được làm các cùng các Thánh Hiền. Như lai thường nói pháp chơn thật, Người giữ giới tịnh nguyện tùy tâm, Nguyện con đã phát nay đã đạt, Thân cuối cùng không còn thọ sanh, Đời sống và tham nay đã dứt, Kiết sử đoạn tận không còn buộc. Ở trong pháp, con là trưởng tử, Nhờ lực Pháp vương lìa các khổ, Con đã được Thế tôn thọ ký, Trong hạnh đầu đà là bậc nhất, Đã thấy thật đế, chứng chơn pháp, Lậu hoặc đoạn tận được bất động, Ở trước Thế tôn nói nghiệp xưa, Nay ở trong ao lớn A-nậu, Đại Thánh từ tôn gia bị con, Ngồi trên hoa sen nói việc này”. Lúc đó các đại Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc hỏi cụ thọ Xá-lợi-tử: “cụ thọ đã từng tạo nghiệp gì mà nay được trí huệ lớn và biện tài vô ngại?”, Xá-lợi-tử nói kệ: “Xưa gặp ẩn só trong núi rừng, Là vị Độc giác tâm tịch tónh, Ở nơi vắng vẻ tu tịnh hạnh, Thân mặc ca-sa dơ rách xấu, Thấy vị ấy tâm tôi hoan hỉ, Liền lấy y kia đem giặt nhuộm, Và dùng kim chỉ khâu vá lại, Ân cần đảnh lễ thật cung kính, Vị ấy sanh tâm thương xót tôi, Nên vọt thân lên trong hư không, Hiện các loại thần thông biến hóa, Sau đó nương hư không bay đi, Tôi thấy các thần biến này rồi, Chắp tay ân cần phát hoằng nguyện, Nguyện con đời đời được trí huệ, Có oai lực lớn, nhiều của cải, Sanh ở trong dòng họ hào quý, Thường được xuất gia lìa năm dục, Do nguyện lực này được xuất gia, Trong 500 đời lìa lưới tục. Đây là thân sau cùng, Sanh ở trong nhân gian, Thừa sự Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác, Nay tôi được xuất gia, Trong giáo pháp Thích ca, Đã được pháp an ổn, Hết nóng được mát mẻ. Ở trong khoảng nửa tháng, Đọc tụng đến bờ kia, Đối trước Thân giáo sư , Và trong Tăng chúng nói. Thế tôn thọ ký con, Là trí huệ bậc nhất, Tùy thuận chuyển pháp luận, Giúp chúng sanh ngộ giải, Đại huệ Xá-lợi-tử, Nay ở trong chúng tăng, Tự nhớ nghiệp quá khứ, Trong ao Vô nhiệt nói”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Đại Mục-kiền- liên: “cụ thọ Xá-lợi-tử đã nói xong túc nghiệp, nay đến lượt cụ thọ nói nghiệp báo của mình”, Đại Mục-kiền-liên nói kệ: “Xưa tôi là ẩn só, Ở ẩn trong núi rừng, Có một người đi đến, Cầu xin tôi xuất gia, Tôi liền cho cạo tóc, Tắm rửa và nhuộm y, Để cho kia đắp mặc. Người ấy ở chỗ vắng, Ngồi kiết già ngay thẳng, Chứng được quả Duyên giác, Nương hư không bay đi. Lúc đó tôi hoan hỉ, Liền cung kính chắp tay, Phát lời thệ nguyện rộng, Vị ấy được thần thông, Con nguyện được thần thông, Cũng giống như vị ấy, Do sức căn lành này, Đời đời thường được phước, Đây là thân sau cùng, Được sanh trong loài người, Thừa sự Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác. Trong giáo pháp Thích ca, Tôi đã được xuất gia, Chứng quả A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ, Thế tôn thọ ký tôi, Là thần thông bậc nhất. Nhờ bố thí chút ít, Nay được quả báo lớn, Nghiệp ác xưa sót lại, Tôi nói các vị nghe, Xưa ở trong nước lớn, Tôi sanh nhà hào quý, Lúc còn là thiếu niên, Ra khỏi cổng đi chơi, Về nhà định ăn uống, Thấy cha mẹ giao hội, Họ liền sanh hổ thẹn, Nên lấy gậy đánh tội, Tôi ôm lòng hờn giận, Phát nguyện khi khôn lớn, Đánh họ nát như cỏ. Vừa phát nguyện ác này, Sanh địa ngục Hắc thằng, Chịu khổ cùng cực xong, Được sanh lên làm người. Đây là thân sau cùng, Do có tội còn sót, Nên gặp nạn ngoại đạo, Mạng căn gần muốn đứt, Tội báo cuối cùng hết, Không còn sót chút nào, Ở bên cha mẹ hiền, Phát lòng tin trong sạch, Nếu có các quần sanh, Đọa vào trong đường ác, Do tâm ôm lòng ác, Thường chịu khổ không vui, Nay đối trước Kỳ túc, Nói nghiệp báo đời xưa, Trong ao lớn A-nậu, Ngồi yên trên đài sen”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc nói với cụ thọ Thiện diệu: “cụ thọ Mục liên đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ nói nghiệp báo đời trước của mình”, cụ thọ Thiện diệu nói kệ: “Xưa tôi vào trong chùa, Thấy đất có rác rến, Tôi liền cầm chổi quét, Đổ bỏ hết rác rến, Làm cho đất sạch sẽ, Và phát lòng tịnh tín, Chính do căn lành này, Thân thường được đẹp đẽ, Cha mẹ đặt cho tôi, Tên là Diệu thiện lai, Ở trước các quyến thuộc, Được tiếng khen tốt đẹp, Mọi người thường thích nhìn, Người thấy sanh hoan hỉ, Thừa sự Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác, Tôi chứng A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ, Xưa tôi phát nguyện này: Lậu tận thành Vô lậu, Ở các châu Thiệm bộ, Dùng thảm trải lên đất, Hoặc ai có thể quét, Chỗ kinh hành lìa dục, Người ấy có thể quét, Sạch hết đại địa này, Hoặc ai có thể quét, Trú xứ Tăng bốn phương, Và quét sạch đất tháp, Lớn bằng chỗ để bát, Người này phước tăng trưởng, Có thể tự giác ngộ, Đại chúng nay nên biết, Ứng chánh đẳng diệu giác, Có tụ công đức lớn, Nếu siêng cúng dường tháp, Sẽ được quả báo lớn, Đều là do ngày xưa, Đã tu các nghiệp lành, Nên được an lạc này. Cho nên ở tháp Phật, Hết lòng mà cúng dường, Ruộng phước lớn tối thắng, Bố thí nên tịnh tâm, Đối với Phật chánh giác, Hoặc Thanh văn của Phật, Cúng ít được phước nhiều, Do thanh tịnh trì giới, Thiện diệu trước đại chùng, Tự nói nhiệp đời xưa, Ở trong ao Vô nhiệt , Ngồi trên đài sen diệu”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Diệu ý: “cụ thọ Thiện diệu đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ nói nghiệp báo đời xưa của mình”, cụ thọ Diệu ý nói kệ: “Xưa tôi là đồng tử, Cùng với các bạn lữ, Tai đeo Tô mạc na, Đi vào trong vườn hoa, Thấy ngôi tháp của Phật, Tỳ-bà-thi Như lai, Đang được trời và người, Cùng nhau đến cúng dường, Với tâm thanh tịnh thí, Đem vòng tai, tràng hoa, Treo lên trên tháp Phật, Mỗi người phát nguyện riêng, Tôi thấy họ cúng hoa, Liền ở trước mọi người, Đem hoa tai của mình, Treo lên trên tháp Phật, Do sức thiện căn này, Sanh sáu cõi trời Dục, Thường được quả báo lớn. Tôi chỉ cúng hoa tai, Mà trong trăm ức năm, Hưởng diệu lạc cõi trời, Cuối cùng chứng Vô sanh. Các đại đức nên biết, Chánh giác nhiều phước đức, Siêng tu pháp cúng dường, Tối thắng trong thế gian, Nên cung kính cúng dường, Tháp Phật và đệ tử, Tịnh tâm cúng chút ít, Được phước quả vô biên. Tôi nhớ đời quá khứ, Tạo nghiệp lành nhỏ này, Thường thọ lạc cõi trời, Nay gặp được Tôn sư, Vô thượng đẳng chánh giác, Được chứng A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ. Đây là thân sau cùng, Không còn tái sanh nữa, Chính do nhân duyên này, Tôi tên Tô mạt na, Giải thoát các khổ uẩn, Đã vượt qua biển Hữu, Bí-sô Tô mạt na, Trình bày trước đại chúng, Nhân duyên nghiệp báo xưa, Ở trong ao Vô nhiệt, Ngồi yên trên đài hoa”. Lúc đó các vị Thanh-văn Kỳ-túc bảo Bí-sô Câu-chi: “cụ thọ Tô mạt na đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ, xưa kia cụ thọ đã tạo nghiệp gì và do nghiệp gì mà cụ thọ được Phật thọ ký là Tinh tấn bậc nhất?”, cụ thọ Câu chi nói kệ: “Xưa ở thành Thân huệ, Xây dựng trú xứ Tăng, Hoàn thành với tâm tịnh, Cúng cho Tăng bốn phương, Lại ở trong chùa ấy, Dùng thảm trải lên đất, Với tâm tư hoan hỉ, Rồi phát thệ nguyện rộng, Thường được thừa sự Phật, Chứng được quả Vô thượng, Và Niết-bàn đệ nhất, Đoạn hết các phiền não, Tôi do phước đức này, Ở trong 90 kiếp, Thường thọ thân trời nguời, Vui vẻ không lo sợ, Do nghiệp còn sót lại, Thọ thân sau cùng này, Sanh trong nhà giàu sang, Chỉ có tôi con một, Đủ 10 tháng sanh ra, Tâm cha mẹ vui mừng, Cha liền cấp của cải, Số đến 200 vạn, Chân tôi có lông vàng, Độ dài khoảng bốn tấc, Vi diệu rất mềm mại, Giống như Đâu la miên, Trải qua 90 kiếp, Chân thường không đạp đất, Do nhân duyên phước đức, Thừa sự Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác. Thọ lạc cõi trời người, Và chứng A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ. Thế tôn thọ ký tôi, Là Tinh tấn bậc nhất, Các lậu đã đoạn tận, Đến được chỗ Vô cấu, Tôi Nhị thập câu chi, Đối trước các Kỳ túc, Nói nghiệp báo đời xưa, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Diệu Âm: “cụ thọ Nhị thập câu chi đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Diệu âm nói kệ: “Xưa tôi gieo nghiệp lành, Trải qua 90 kiếp, Không đọa ba đường ác, Mà được thân Trời người, Tôi chưa biết Tam bảo, Chỉ thấy tháp của Phật, Hiệu là Tỳ-bà-thi, Tâm vui thích cúng dường, Nên dùng ba tiền vàng, Mua các loại hương thơm, Đem cúng trên tháp Phật, Nhất tâm không thối chuyển, Chính do phước lực này, Cõi trời người thường vui, Nay chứng A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ. Xưa ở trước tháp Phật, Phát nguyện rộng vi diệu, Do chút cúng dường này, Thọ quả báo vô lượng. Đại chúng nay nên biết, Đẳng giác có phước lớn, Cúng chút ít trước tháp, Được quả báo vô biên, Thế tôn thọ ký tôi, Đối với văn kệ tụng, Có biện tài tuyên nói, Bậc nhất trong Đa văn . Nay ở trước đại chúng, Và các vị kỳ túc, Nói nghiệp báo đời xưa, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Tân đầu lô phả la đọa xà: “cụ thọ Diệu âm đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Tân đầu lô nói kệ: “Xưa sanh trong nhà giàu, Bên cha mẹ tự tại, Cha cho tôi giữ kho, Khi hầu hạ cha mẹ, Tâm tôi thường keo kiệt, Đối với anh chị em, Và các hạng nô tỳ, Không cấp cho y thực, Khi mẹ tôi đòi ăn, Tôi keo kiệt không cho, Miệng còn nói lời ác: Hãy ăn đá và sạn. Do nghiệp lực ác này, Đọa vào đại địa ngục, Đại nhiệt và Hắc thằng, Chịu các khổ trong đó, Chịu khổ Địa ngục xong, Mới được sanh làm người, Do nghiệp lực ác này, Tôi thường ăn đá sạn, Khi được thức ăn uống, Ăn thường không biết no, Đói khát thường hành hạ, Do đó thường chịu khổ. Đây là thân sau cùng, Được làm người xuất gia, Thừa sự Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác. Tôi nay được xuất gia, Trong giáo pháp Thích ca, Được chứng A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ. Thế tôn thọ ký tôi, Đã đoạn tận phiền não, Ở trong Sư tử rống, Được gọi là bậc nhất. Nay tuy được thần thông, Vẫn thường ăn đá sạn, Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã làm không mất, Các trưởng lão nên biết, Tôi nhớ nghiệp ác xưa, Đã chịu đủ các khổ, Dư nghiệp nay đã hết. Tôi tên Tân đầu lô, Nay ở trước đại chúng, Nói nghiệp báo đời xưa, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Thiện lai: “cụ thọ Tân đầu lô đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Thiện lai nói kệ: “Tôi nhớ đời quá khứ, Trong đại thành Thân ý, Sanh trong nhà quý tộc, Có vô lượng kho lẫm, Vua tên Tùy chúng ý, Quần thần cũng như vậy, Người đoan nghiêm dễ mến, Sắc tướng dung nghi đẹp. Lúc đó tôi cưỡi xe, Mọi người đều vây quanh, Cùng đến vườn Thắng viên, Để hưởng thọ dục lạc. Tôi thấy trong vườn hoa, Sa môn điều phục căn, Thân mặc áo dơ xấu, Ngồi yên tịnh bất động, Tôi thấy vị này rồi, Tâm sanh đại hoan hỉ, Tuy thấy mặc áo xấu, Và tâm không chán ghét, Nhưng miệng lại mắng rằng: Chán ghét không ưa nhìn, Vì thân mắc bịnh hủi, Khi ăn thường nôn mửa. Chính do nơi nghiệp báo, Miệng nói lời ác này, Nên sau khi qua đời, Sanh vào trong Địa ngục, Bị đói khát bức bách, Thường chịu đủ các khổ, Có tên là Viễn lai, Lại tên là Chúng khí, Thân hình rất xấu xí, Chịu khổ địa ngục xong, Mới được sanh làm người, Thân mắc bịnh hủi nặng, Ăn xong thường nôn mửa, Tay ôm đầu lâu người, Lấy lá tre làm áo, Dùng cỏ làm vách nhà, Nương ở trong nhà này, Khi vào làng xin ăn, Thường bị người xua đuổi, Hoặc bị dùng gậy đánh, Hoặc không cho vào nhà, Thường bị người khinh chê, 500 đời như vậy, Không thuận với lòng người, Trời người, thần đều bỏ, Lúc đó tôi thấy Phật, Chúng Tăng già vây quanh, Tôi muốn ở trong chúng, Chí thành xin sám hối, Nên thấy đại chúng rồi, Tôi liền vội chạy đến, Và nói ra lời này: Nguyện đủ thức ăn uống, Cho tôi và đại chúng. Ở trước Phật nghe pháp, Nhưng không ai cho ăn, Tôi thất vọng bỏ đi, Đại đạo sư Mâu ni, Từ bi nói với tôi: Thiện lai, hãy ngồi xuống. Nghe xong tôi rất vui, Khom mình và chắp tay, Cung kính đảnh lễ Phật, Rồi ngồi qua một bên, Thế tôn đại từ bi, Vì đã thương xót tôi, Nên nói pháp vi diệu, Tôi nghe pháp kiến đế, Lệ tuôn rơi lã chã, Tôi liền xin xuất gia, Thế tôn cho xuất gia, Tên tôi là Thiện lai, Thừa sự Đại đạo sư, Thế tôn thọ ký tôi, Đệ nhất trong Xứ giới, Nay ở trước đại chúng, Nói nghiệp báo đời xưa, Ngồi yên trong hoa sen, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Hữu hỷ: “cụ thọ Thiện lai đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Hữu hỷ nói kệ: “Xưa ở thành Vương xá, Thân hưởng thọ giàu sang, Gặp lúc trời hạn hán, Tôi thỉnh Tiên thọ thực, Sau có Tiên khác đến, Dung nghi rất đoan chánh, Đó là vị Duyên giác, Lậu tận, tâm tự tại, Do tâm tôi keo kiệt, Nên khởi niệm ác này: Ai đối với người này, Cung cấp mãi bảy năm, Nước tiểu ngựa nấu cơm, Cho tiên nhơn ấy ăn. Không ngờ sau khi ăn, Tiên nhơn liền qua đời. Do tạo nghiệp ác này, Đọa vào trong Địa ngục, Chúng hợp và Đại khiếu, Bị lửa nóng nung đốt, Chịu khổ địa ngục xong, Mới được sanh làm người, Nhiều bịnh không tự tại, Khi chết khổ kịch liệt, 500 đời như thế, Đời đời thường chịu khổ, Bịnh nặng thường theo thân, Luôn bị khổ bức bách. Đây là thân sau cùng, Được sanh trong nhân gian, Thừa sự Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác, Tôi đã được xuất gia, Chứng quả A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ, Ở giai vị trưởng lão, Được thần thông vô lậu, Tùy thuận các người bịnh, Làm cho bịnh tiêu trừ, Tôi Bí-sô Hữu Hỷ, Đối trước các Kỳ túc, Tự nói nghiệp báo xưa, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Da-xá (Danh xưng): “cụ thọ Hữu hỷ đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Da-xá nói kệ: “Xưa là ẩn só nơi Lan nhã, Tôi vào trong thôn để khất thực, Bỗng thấy thây một người nữ chết, Sình trướng chảy mủ, phẩn nước tiểu, Tôi liền như lý khéo quán chiếu, Ngồi kiết già quán thân bất tịnh, Ngay khi tôi quán tưởng bất tịnh, Nhất tâm niệm tưởng không tán loạn, Tôi ngồi quán tưởng một hồi lâu, Tử thi bỗng nhiên nứt vỡ ra, Chảy tràn chất bất tịnh hôi thối, Côn trùng ruồi nhặng đều bu đến. Lúc ấy tôi xuất định, Trở về nơi Lan nhã, Không đi khất thực nữa, Cũng không nghó đến ăn. Nếu khi vào tụ lạc, Chỉ vì cầu ăn uống, Nhưng thấy tử thi rồi, Không còn muốn ăn nữa, Thân tất cả hữu tình, Đều do bốn đại họp, Chứa đầy phân, nước tiểu, Và máu mủ hôi thối, Nếu chánh quán như vậy, Liền lìa được dục tưởng, Trụ nơi bốn phạm hạnh, Vô lượng thiện quán sát, Sau khi thân mạng chung, Sanh cõi trời Đại phạm, Từ trời Phạm thiên chết, Sanh Ba la niệt tư, Trong dòng họ giàu sang, Làm con nhà trưởng giả, Thọ dụng đều đầy đủ, Ngày đêm thường thọ lạc, Ban đêm lúc nằm ngủ, Bỗng nhiên tỉnh dậy thấy, Các thể nữ xinh đẹp, Cởi bỏ áo anh lạc, Thân hình đều lõa lồ, Nằm ngủ gối lên nhau. Do nghiệp lực đời xưa, Đã quán tưởng Bất tịnh, Từ thân người nữ chết, Nên tâm sanh nhàm lìa, Lớn tiếng kêu: Khổ thay, Nhưng không ai đáp lại, Tôi lúc đó xuống lầu, Được chư thiên mở cửa, Ra khỏi đại thành này, Đến bờ Nam con sông, Thấy Phật ở bờ Bắc, Tôi lớn tiếng gọi Phật: Con đang bị tổn hại, Xin Thánh giả cứu giúp. Đại sư nghe tiếng tôi, Nói ra lời hiền thiện: Hãy sang đây, đừng sợ. Tôi nghe rồi lội sang, Để lại chiếc giày báu, Tôi đến chỗ Đại bi, Chánh giác vô thượng só, Thế tôn nói diệu pháp, Nghe pháp xong tỏ ngộ, Tôi liền xin xuất gia, Sau đó được Kiến đế, Thế tôn gia bị tôi, Tinh tấn không phóng dật, Cuối đêm sao mai mọc, Lậu tận, hết phiền não, Nay ở trước Kỳ túc, Danh xưng nói nghiệp xưa, Ngồi yên trong hoa sen, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Tài ích: “cụ thọ Danh xưng đã nói bổn nghiệp rồi, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Tài ích nói kệ: “Xưa ở thành Bà-la-nê-tư , Quốc vương tên là Kiết cơ la, Thế tôn Ca-diếp đã diệt độ, Vua cho xây tháp để thờ Phật, Tôi là con trưởng của Vua ấy, Danh tiếng của vua vang khắp nơi, Do tôi ở trên tháp báu này, Dựng một cây lọng để cúng dường, Đã tạo nghiệp thắng thiện như vậy, Nên được thắng phước cõi trời người, Sanh ở chỗ nào cũng giàu sang, Là đại thí chủ nhiều kho lẫm. Tôi trong 500 đời, Bố thí nhiều vô kể, Những người đến cầu xin, Sa môn, Bà-la-môn , Đều không trái ý ai, Tất cả đều được đủ, Cho đến bậc lìa dục, Các Duyên giác vô lậu, Có đến 500 vị, Tôi đều thanh tịnh cúng. Do sức thiện căn này, Nên thân sau cùng này, Sanh trong nhà giàu sang, Vừa sanh ra liền nói: Trong nhà ta có nhiều kho lẫm, Nay muốn bố thí cho người nghèo, Bố thí người nghèo không nhàm đủ, Mọi thức ăn uống và vật dụng, Các bậc hiền thiện nay nên biết. Mọi người nghe tôi nói lời này, Ai nấy kinh ngạc đều bỏ chạy, “Ngươi có phải là người, Hay là trời, Dược xoa, Hãy nói cho ta nghe”. Tôi vội đáp như vầy: “Mẹ ơi, hãy lắng nghe, Con là con của mẹ, Chẳng phải quỷ, dược xoa, Chỉ do Túc mạng trí, Thường làm trưởng giả hằng bố thí”. Mẹ nghe lời này rất hoan hỉ, Mẹ hiền liền nói với tôi rằng: Con yêu đừng lo, cứ bố thí. Mẹ nói lời này xong, Thân quyến nuôi dưỡng tôi, Thảy đều yêu thương tôi, Người thấy sanh hoan hỉ, Từ khi sanh tôi ra, Kho lẫm thường tăng thêm, Cả vàng bạc nô bộc. Nên mọi người đặt tên, Gọi tôi là Tài ích, Tôi thường hay bố thí, Cho người xin đầy đủ. Nay theo Đẳng chánh giác, Xuất gia để học đạo, Tôi không vì lánh nạn, Mà cầu xin xuất gia. Nay được sáu thần thông, Thanh tịnh cầu xuất ly, Các vua thường cúng dường, Đại thần đều tôn trọng, Thường đầy đủ y thực, Tôi Bí-sô Tài ích, Ở trước các kỳ túc, Nói nghiệp báo đời xưa”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 17 Các đại đệ tử nói nhân duyên nghiệp báo (tt): Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Bạc-câu-la: “cụ thọ Tài ích đã nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Bạc- câu -la nói kệ: “Xưa ở thành Thân huệ , Tôi làm người bán thuốc, Tỳ-bà-thi trụ thế, Tôi đem thuốc cúng dường, Đức Phật và chúng Tăng, Ai đến xin cũng cho, Thuốc rễ thân lá hoa, Đều đem cúng chúng Tăng, Trong ba tháng an cư, Tùy cúng thức ăn uống. Ai cúng Ha-lê-lặc, Cho các vị Bí-sô, Trong 91 kiếp, Không đọa ba đường ác. Do quả báo cúng thuốc, Được quả thù thắng này. Tuy cúng chút ít thuốc, Thọ lạc đến vô cùng. Ai cúng ha lê lặc, Sanh thiên thọ thiên lạc, Do nghiệp báo sót lại, Được sanh trong loài người, Sanh vào nhà Hữu học, Không thọ đồ cúng dường, Chỉ trong ba ngày đêm, Thông suốt ba tạng kinh, Chỉ đắp y phấn tảo, Và thích A-lan-nhã, Không thích chỗ ồn náo, Tôi nay 160 tuổi, Thân chưa từng có bịnh, Do nhờ cúng ít thuốc, Thường hưởng vui trời người. Bạc-câu-la trước chúng, Tự nói nghiệp báo xưa, Ngồi yên trong hoa sen, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Tôn giả: “cụ thọ Bạc-câu-la đã nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Tôn giả nói kệ: “Xưa làm người thuộc da, Nhớ nghó việc đời trước, Năm ấy gặp đói kém, Nấu da làm thức ăn, Để giữ gìn mạng sống. Sau có một sa môn, Từ xa đến khất thực, Tôi khởi lòng tịnh tín, Cúng thức ăn da này, Vị Độc giác ăn xong, Bay vọt lên không trung, Tôi phát tâm thanh tịnh, Chắp tay rất cung kính, Thấy thần biến này rồi, Càng khởi tâm ân trọng, Nguyện cho con đời sau, Thường gặp bậc Thánh này, Được quả báo thù thắng, Giống như bậc Thánh này, Thể vật thí không sắc, Cũng không hương và vị, Người thấy, tâm thanh tịnh, Đem cúng thức ăn này. Tuy chỉ cúng chút ít, Được quả báo vô lượng, Hưởng vui cõi trời người, Được thân người thù thắng. Đây là thân sau cùng, Được sanh trong loài người, Thừa sự Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác, Xưa kia tôi phát nguyện, Chứng được quả vô thượng, Nay chứng A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ. Tôi tên Đại Tôn giả, Nay đối trước Thánh chúng, Tự nói nghiệp báo xưa, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo các cụ thọ Ưu-lâu-tần- loa-ca-diếp, Na-đề-ca-diếp, Già-da-ca-diếp: “cụ thọ Tôn giả đã nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt các cụ thọ”, ba cụ thọ cùng nói kệ: “Xưa chúng tôi là ba thương chủ, Cùng đi chơi với các anh em, Gặp tháp thờ đức Phật Ca-diếp, Bị hư lở, sụp đổ gần hết, Chúng tôi kêu gọi các thương nhơn, Xây dựng tháp này lại cho mới, Sau đó cùng nhau xây tháp lại, Chúng tôi treo lọng báu trên tháp, Chính do nghiệp lành thù thắng này, Được sanh lên trời hưởng thiên lạc, Trên trời hết phước sanh làm người, Lại được giàu sang thường an lạc. Nay gặp Thế tôn Đẳng chánh giác, Được xuất gia trong giáo pháp Phật, Thế tôn ở bên sông Ni liên, Vận thần thông, hiện đại thần biến, Chúng tôi nhờ chỉ bày chánh pháp, Được vào cung Vô thượng Niết-bàn. Do kính trọng giáo pháp Đại sư, Nên treo lọng báu trên tháp Phật, Do các thiện căn sai biệt này, Nên hết nóng bức, được mát mẻ. Nhóm Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp, Ở trước các tôn giả kỳ túc, Tự nói nhân duyên nghiệp báo xưa, Ngồi tòa sen trong ao Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Danh xưng: “các cụ thọ Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp… đã nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Danh xưng nói kệ: “Xưa tôi từng làm người bán hương, Khéo phân biệt được các tánh thuốc, Có một chỗ tôi mua hương và thuốc, Vì nàng ấy hết sức xinh đẹp, Khiến ai thấy cũng sanh tham dục, Do tôi thấy nàng ấy xinh đẹp, Bất giác tâm tôi sanh Ái nhiễm, Ôm lấy nàng ấy làm việc dâm. Do nghiệp ác này sanh ác đạo, Sau được thân người, tay thường liệt, Trong 500 đời thường chịu khổ. Nay được thừa sự Phật Thế tôn, Theo Phật xuất gia để học đạo, Đã được chứng quả A-la-hán, Trừ hết nóng bức, được mát mẻ. Tôi nhớ nghó nghiệp ác đời xưa, Đã qua 100 kiếp, nghiệp vẫn còn, Nay đã đắc thần thông, Do nghiệp còn sót lại, Nên cánh tay trái tôi, Không bằng cánh tay phải. Dù là nam hay nữ, Cướp vợ hay đoạt chồng, Thường đọa trong địa ngục, Chịu đau khổ dữ dội. Hãy xa lìa vợ người, Như xa ngọn lửa hừng. Cho nên người có trí, Chỉ vui với vợ mình. Cần phải quán sát kỹ, Nếu tham nhiễm vợ người, Thường chịu khổ địa ngục, Không lúc nào ngừng nghỉ. Do tôi gây tội này, Bất cứ sanh chỗ nào, Cũng thọ quả báo ấy, Ở trong Nại lạc ca. Đây là thân sau cùng, Vào giai vị Vô thượng, Giải thoát tất cả khổ, Hết nóng được mát mẻ. Muốn cầu được an lạc, Không nên dâm vợ người. Giải thoát các phiền não, Được an lạc vi diệu. Tôi Bí-sô Danh xưng, Ở trước các kỳ túc, Tự nói nghiệp báo xưa, Trong ao lớn Vô nhiệt”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Hỏa sanh: “cụ thọ Danh xưng đã nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Hỏa sanh nói kệ: “Xưa khi tôi ở thành Thân huệ, Có Phật chánh giác Tỳ-bà-thi, Lúc đó tôi tên Vô sở trước, Tôn quý nhật ở trong chúng nhơn. Phật có 62 vạn chúng, Đệ tử Thanh văn cùng vây quanh, Tôi thỉnh Thế tôn Tỳ-bà-thi, Và các đệ tử trong ba tháng, Lúc đó quốc vương thành Thân huệ , Cũng thỉnh Thế tôn và đệ tử. Cho nên tôi cùng vua thành ấy, Cách ngày thiết thực để cúng dường. Đến ngày tôi, cúng dường gấp bội, Cho Phật và các chúng Thanh văn, Như thế cúng dường ba tháng xong, Tôi và vua đều cùng cúng dường. Vào ngày cuối cùng vua thiết hội, Ở trong cung của thành Thân huệ, Cúng dường trăm vị món ăn ngon, Y phục, ngọa cụ và vật báu, Còn đặt tòa cao trong vườn hoa, Tòa ấy trị giá trăm ngàn vàng, Thức ăn, y phục cũng như thế, Thiết cúng cho mỗi vị Bí-sô, Trị giá không thể nào tính được. Voi và ngựa đều được trang sức, Dùng lưới kim tuyến trang nghiêm thân. Trước mỗi vị tăng đều có lọng, Thứ lớp chỗ ngồi đều đầy đủ. Thể nữ trong cung được trang điểm, Dùng hương Chiên đàn thoa thân thể, Đều cầm bình vàng đựng nước thơm, Đứng hầu ở chỗ Bí-sô tăng. Sau cùng khi dâng lễ vật cúng, Vua tự tay dâng cho Phật và tăng. Khi tôi đang xem vua cúng dường, Liền nhất tâm chánh niệm tư duy: Ẩm thực thượng diệu đều lo được, Tòa báu trang nghiêm thật khó làm, Lại còn vật dụng thượng diệu khác, Voi nhựa như vua kiếm đâu ra. Tôi vừa suy nghó như vậy rồi, Vua trời Đế thích liền hiện đến, Lúc đó vua trời nói với tôi: Lành thay, ta sẽ giúp cho ngươi. Sau khi vua trời nói lời này, Liền hóa ra vườn rừng tối thắng, Vườn ấy hết sức là tuyệt đẹp, Tòa ngồi chư thiên thật trang nghiêm, Lại đem y phục của cõi trời, Dâng cúng Phật và Bí-sô tăng. Trước thỉnh Thế tôn Tỳ-bà-thi, Và các chúng đệ tử Thanh văn. Lúc ấy vua trời và chư thiên, Voi báu bậc nhất đều hiện đến, Mỗi vị tay cầm lọng báu trời, Ở trong hư không che đầu Tăng. Đem thức ăn cõi trời, Cúng dường Chơn Thánh chúng. Hưởng vui cõi trời người, Trong 91 kiếp, Không đọa ba đường ác. Do nghiệp thiện đời trước, Cảm quả thân mềm mại. Nay thọ thân sau cùng, Sanh tại thành Vương xá, Trong cung vua Ảnh thắng , Gia tộc thế lực nhất, Vua và đại phu nhân, Thương yêu và nuôi dưỡng. Quần thần đều yêu mến, Người trong nước cũng vậy. Trên trời thường thọ lạc, Nay thọ sanh cõi người, Thọ lạc như cõi trời. Vô thượng Đại đạo sư, Chánh giác Mâu ni chủ, Vì điều phục nhơn thiên, Nên đến thành Vương xá. Tôi nghe tin Phật đến, Trong lòng rất hoan hỉ, Liền đến chỗ Như lai, Đã thấy Thế gian đăng, Bậc giữ đuốc sáng mãi, Tôi từ trên xe xuống, Đi bộ đến chỗ Phật, Cung kính đảnh lễ Phật, Thâm tâm tôi vui vẻ, Tôi ngồi qua một bên, Chiêm ngưỡng Đại từ tôn, Vô lượng trời và người, Đang cung kính vây quanh. Thế tôn bảo tôi rằng: Ngươi nên đoạn triền phược, Vô thượng Thiên tôn sư, Vì từ bi đến đây, Nói pháp bốn Thánh đế, Người nghe được khai ngộ. Tôi nghe rồi liền bạch: Xin Chánh giác Thế tôn, Cho phép con xuất gia, Được thành tánh Bí-sô. Vô thượng Đại từ phụ, Bậc không ai sánh bằng, Thương xót gọi: “Thiện lai”, Nói xong, thành Bí-sô, Siêng năng không phóng dật, Khổ hạnh mà tu tập, Liền chứng quả vô sanh, Được vào cung Niết-bàn, Thừa sự Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác, Chứng quả A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ, Thoát khỏi biển ba cõi, Vượt qua sông sanh tử. Tất cả khổ lo buồn, Do đây đoạn trừ hẳn. Tôi Bí-sô Hỏa sanh, Đối trước chơn Thánh chúng, Tự nói nghiệp đời xưa, Trong ao lớn Vô nhiệt, Ngồi yên trên đài sen”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Hộ quốc: “cụ thọ Hỏa sanh đã nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Hộ quốc nói kệ: “Xưa có vua tên Kiết cơ lợi, Chủ nước Ca thi làm lợi dân, Tôi là con nhỏ nhất của vua, Vua xây tháp lớn để thờ Phật, Sau đó bảo người con nhỏ nhất, Tự thân cầm lọng dâng cúng Phật, Nghe vua cha dạy, tôi hoan hỉ, Sắp đặt lọng báu rồi phát nguyện, Chính do nhân duyện nghiệp thiện này, Được thọ diệu lạc cõi trời người, Thân thường có ánh sáng tối thắng. Đời này thọ thân người sau cùng, Sanh ra trong đại thành Thương khố, Ở trong gia đình giàu có nhất, Tôn quý bậc nhất ở thế gian. Ai thấy cũng vui mừng cung kính, Quả báo thù thắng hiện theo thân, Sắc tướng trang nghiêm, tâm yên tónh, Mọi thứ thọ dụng đều đầy đủ, Không thiếu thốn bất cứ thứ gì. Trước trưởng lão, Bí-sô Hộ quốc, Tự nói nhân duyên nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Sa để: “cụ thọ Hộ quốc đã nói bổn nghiệp xong, nay đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Sa để nói kệ: “Xưa ở thành Vương xá, Vua tôi rất giàu sang, 500 tiên nhơn đến, Đều cùng nhau cúng dường. Lúc đó tôi ra lịnh, Chuẩn bị làm thức ăn, Để cúng các tiên nhơn. Thứ lớp phân cho tôi, Tôi là người đứng đầu, Nên cúng Tiên trước nhất. Gia đình tôi lo liệu, Đủ 500 phần ăn, Đem cơm này cung cấp, Cho các vị tiên nhơn. Khi đem cơm cúng dường, Tôi sanh tham tiếc, nghó: Anh chị em của ta, Vợ, con cái, bà con, Ta còn không cho ăn, Tiên này ngồi ba tháng, Sẽ hao tốn rất nhiều, Huống chi 500 người, Ta cần phải làm cho, Vị tiên này qua đời, Nếu vị ấy chết rồi, Ta không hao tốn nữa, Không mắc tội giết Tiên. Nghó việc ác này rồi, Tôi nấu nước tiểu ngựa, Hòa vào trong thức ăn, Đưa cho Tiên này ăn. Tiên ăn rồi mắc bịnh, Gan ruột lộn ra ngoài, Tiên chết rồi mới biết, Tiên là người đắc đạo. Lúc đó các Long thần, Đều cùng la to rằng: Thương nhơn này tội nặng, Giết Tiên chết oan uổng, Độc giác đã tự tại, Bậc tịch tónh vô lậu. Bà con đều giận tôi, Nói rằng tôi đã gây, Một nghiệp ác rất nặng, Vì đã giết Tiên nhơn. Tôi nghe rồi ưu sầu, Đến các Tiên nhơn khác, Chí thành xin sám hối. Sau khi sám hối xong, Cúng dường 500 vị, Khiến đều được no đủ. Sau đó tôi phát nguyện: Nguyện con ở đời sau, Nhờ phước cúng dường này, Được giải thoát như thế, Nguyện lìa các ràng buộc, Không sanh nhà bần cùng. Do tôi sanh tâm ác, Đã hại chết Độc giác, Nên sau khi tôi chết, Đọa vào trong Địa ngục, Ở đó cả ngàn năm. Sau được sanh làm người, Có tuổi thọ ngắn ngủi, Tuy có nhiều của cải, Bố thí cho nhiều người, Nhưng mắc bịnh đường ruột, Vì thế mà qua đời. Đời này gặp Đại Thánh, Được làm người xuất gia, Y giáo được thành tựu, Xả bỏ hết xan tham, Ngồi tòa sen Vô nhiệt, Nói nhân duyên bổn nghiệp”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Tất đa Ca-nhiếp- ba: “cụ thọ Sa Để đã nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Tất đa Ca-nhiếp-ba nói kệ: “Xưa thỉnh chúng Bí-sô, Suốt bảy năm liên tục, Ở trong tụ lạc kia, Gặp thời thế đói kém, Tôi được phân cúng dường, Vị Độc giác đáng tôn, Tâm ý đều tịch tónh, Không phiền não thanh lương, Tôi trước có phát thệ: Ai xin cũng không cho, Dù con hay thân quyến, Có làm việc mới cho. Do phát nguyện như vậy, Nên mới gây nghiệp ác, Vì Bí-sô không làm, Cớ sao lại cho ăn. Tôi liền dẫn Bí-sô, Đi băng qua đồng ruộng, Vòng xa mới đến nhà, Cho vị ấy ăn uống, Do nghiệp ác này chín, Tôi đọa vào địa ngục, Chúng hoạt và Viêm nhiệt, Chịu đủ các khổ sở. Nghiệp báo địa ngục hết, Mới được sanh làm người, Đời đời thường nghèo khổ, Khó kiếm được thức ăn. Đây là thân sau cùng, May gặp bậc Điều ngự, Chánh giác Vô thượng tôn, Tịnh tín xin xuất gia, Trừ hết các Hữu lậu, Chứng được sáu thần thông, Được quả A-la-hán. Nhưng đại chúng nên biết, Tôi tuy chứng thần thông, Khất thực rất khó nhọc, Mới được thức ăn uống, Phải trải qua đường xa, Mới xin được chút ít, Mệt như sắp đứt hơi. Tôi họ Tất ca nhiếp, Tên là Nhó đại oai, Ngồi hoa sen Vô nhiệt, Tự nói nghiệp duyên xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Châu-ly-bàn-đà- ca: “cụ thọ Tất đa Ca-nhiếp-ba đã nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Bàn-đà-ca nói kệ: “Tôi ở trong đời trước, Làm người chăn nuôi heo, Sau khi cột miệng heo, Dắt chúng lội qua sông, Khi đi đến giữa sông, Những con heo ngạt thở, Nên đều bị chết hết, Tôi cũng trôi theo dòng, Hôn mê không biết gì, Lúc đó có tiên nhơn, Thương xót cứu vớt tôi, Khiến cho thoát chết chìm, Lại còn cho xuất gia, Dạy Tam muội vô tướng, Cho tôi được điều thiện. Sau khi tôi qua đời, Được sanh lên cõi trời, Tuổi thọ trời hết rồi, Sanh trở xuống làm người, Cung kính Đẳng chánh giác, Xả tục mà xuất gia, Nhưng tôi rất ngu đần, Chỉ dạy không nhớ được, Trong vòng ba tháng trời, Chỉ thuộc một câu kệ, Khi hiểu được nghóa câu, Phiền não dục đều trừ. Nghiệp đã tạo trước đây, Nhớ nghó lại như vậy, Trải qua vô lượng lần, Luân hồi biển sanh tử. Ở trước Phật Thế tôn, Trong ao Vô nhiệt này, Tôi Châu ly bàn đà, Nói nghiệp đen trắng này”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Xà-bộc: “cụ thọ Châu ly bàn đà ca nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Xà-bộc nói kệ: “Phật Ca-diếp diệt độ, Tôi là đệ tử Phật, Đa văn, thông ba tạng, Nhưng thường bỏn xẻn pháp, Không đọc tụng, giảng giải, Cho các Bí-sô nghe, Sợ các Bí-sô khác, Có hiểu biết hơn mình, Bí-sô đến chỗ tôi, Cầu học hỏi chút nghóa, Vì tôi ôm lòng ác, Hỏi vặn mà không dạy, Nên các Bí-sô đến, Quở trách khuyên can tôi, Tại sao không giảng pháp, Làm việc phi lý này. Khi tôi sắp qua đới, Trong lòng bỗng hối hận, Chơn diệu pháp đã hiểu, Không giảng cho người nghe. Mạng chỉ còn bảy ngày, Thời gian trôi không ngừng, Tôi tập họp đại chúng, Sám hối các tội lỗi, Sau khi hối lỗi xong, Dứt bỏ tâm xẻn pháp, Liền ở trong đại chúng, Nói pháp luôn bảy ngày, Cho đại chúng hiểu nghóa, Mọi người nghe pháp rồi, Cùng bàn luận với nhau. Nhờ lúc sắp lâm chung, Nói diệu pháp bảy ngày, Tôi sanh lên cõi trời, Thọđầy đủ thiên lạc, Tuổi thọ trời hết rồi, Sanh trở xuống làm người, Ở thành Kiếp-tỷ-la, Trong dòng họ Thích ca, Giàu sang có địa vị, Dung mạo rất đáng yêu, Dân chúng đều yêu mến, Thọ dụng đều đầy đủ. Những người trong dòng họ, Đều xả tục xuất gia, Tôi do tham dục trói, Nên không thích xuất gia. Đấng Điều ngự trượng phu, Chỉ vì thương xót tôi, Nên nhiều lần khuyên can, Tôi liền lạy Điều ngự, Cho tôi trong bảy năm, Thương xót thọ tôi thỉnh, Bảy năm trôi qua rồi, Tôi sẽ đến chỗ Phật, Xin làm người xuất gia. Phật bảo mạng mong manh, Chắc gì đến bảy năm, Mạng chỉ trong hơi thở. Lời Phật tôi tôn trọng, Tôi không dám không nghe, Nhưng hẹn bảy ngày nữa, Trong vòng bảy ngày này, Được tùy ý bố thí. Lúc đó trong ngoài thành , Bà con đều ủng hộ, Ánh sáng lợi tối thượng, Chiếu khắp trong thành quách, Có đến vô số người, Đều theo ra ngoài thành. Tịnh tín cầu xuất gia, Trong giáo pháp của Phật, Suốt 25 năm, Tâm không có giác ngộ, Tội liền từ tâm khởi, Muốn thối lui về nhà, Không muốn ở chùa nữa, Vì không được cam lồ. Đã sanh tâm khiếp sợ, Nên trong lòng hổ thẹn, Cha mẹ và thân quyến , Ắt sẽ chê cười tôi, Đã nghó điều bất thiện. Thà tôi tự hủy mình, Chẳng nên sống lây lất, Nghó rồi liền cầm dao, Ngồi kiết già ngay thẳng, Để dao ở trên đầu, Tâm liền được giải thoát, Trừ hết các kiết phược, Tôi hết lời ca ngợi : Lạ thay, Phật Pháp Tăng, Có pháp lành thù thắng. Trước tôi có tư tưởng, Phàm phu định tự vẫn, Không còn tiếc thân mạng, Lại được Vô thượng tịch. Tôi ở trong đời trước, Lười biếng hay xẻn pháp, Chính do quả báo này, Khó khăn mới giải thoát. Do nhờ lúc lâm chung, Nói diệu pháp bảy ngày, Nay nghiệp này chín muồi, Trừ hết tâm tham dục. Pháp căn Thích ca tử, Xà nô oai đức lớn, Ở trong ao Vô nhiệt , Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ A-nê-lô-đà: “cụ thọ Xà-bộc nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ A-nê-lô- đà nói kệ: “Xưa tôi không nghề nghiệp, Nghèo nàn gánh củi bán, Nương bậc đủ danh xưng, Phụng sự đại Sa môn. Nay sanh dòng Thích ca, Tên A-nô-lê-đà, Rất giỏi ca và múa, Thường sáng tác khúc ca. May gặp được Đại sư, Vô úy đẳng chánh giác, Liền khởi tâm tính tín, Lìa tục cầu xuất gia, Nghe Phật nói diệu pháp, Nghe rồi không buông lung, Tinh tấn được ba Minh. Theo lời Đại sư dạy, Quán biết được túc mạng, Sự việc đã trải qua, Cõi trời Tam thập tam, Thọ sanh đã bảy lần, bảy lần sanh làm người, Đều được làm nhân vương, Quán đảnh Sát-đế-lî, Cai trị châu Thiệm bộ, Kia bảy, đây cũng bảy, Luân hồi 14 lần, Đối với sự thọ dụng, Đều biết được nguồn gốc, Các loại quả báo này, Đều đã thọ đầy đủ, Dù sanh ra ở đâu, Tôi đều được vui vẻ. Quán thấy các hữu tình, Luân hồi trong sanh tử, Mất đây, hiện chỗ khác. Tôi nhất tâm suy nghó: Luân hồi trong năm cõi, Thiên nhãn đều thấy rõ, Khi đắc đạo an tường, Thiên nhãn rất sáng sạch. Thế gian Vô thượng sư, Biết ý nghó của tôi, Phật thân ý thần thông, Hiện đến chỗ tôi ở, Lúc đó tôi suy nghó: Được nghe lời tăng thượng, Đại sư không lầm lỗi, Lời nói cũng không sai. Sau khi nghe Phật nói, Tôi y giáo tịnh trụ, Tâm liền sanh tinh tấn, Thường tu không phóng dật, Thông đạt được ba Minh, Việc cần làm làm xong, Đối với Sống không thích, Đối với Chết không buồn, Chỉ biết đợi thời đến, Chánh niệm trụ oai nghi, Thôn Trúc lâm Quảng nghiêm, Sẽ mạng chung tại đó, Ở ngay dưới rừng Trúc, Chọn làm nơi quy hóa. Do trước cúng thức ăn, Nay được quả thù thắng. Cung kính Đại đạo sư, Đẳng chánh giác vô tỉ, Tôi chứng A-la-hán, Nơi tịch tónh thanh lương. Ai thấy cũng bảo tôi, Là người có phước lớn, A-nê-lô-đà này, Trước Phật, chúng Bí-sô, Ở trong ao Vô nhiệt, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Sư tử vương Ca-la: “cụ thọ A-nê-lô-đà nói bổn nghiệp xong, nay đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Ca-la nói kệ: “Xưa tôi ép nước mía, Đem đến lò nấu đường, Có vị Độc giác bịnh, Lê bước đến chỗ tôi, Suốt bảy ngày tôi thường, Dâng vị ấy dầu đường, Sau khi mãn bảy ngày, Độc giác bay lên không. Lúc đó tôi đi vắng, Trở về người hầu nói: Có phước điền thù thắng, Trước đây thọ chủ cúng. Tôi nghe lời này rồi, Phát lòng tin trong sạch, Vội đến chỗ Ngài bay, Lòng hết sức kính ngưỡng. Do phát tâm trong sạch, Lại do cúng dầu đường, Trên trời, dưới nhân gian, Tôi đủ phước, tâm sáng. Đây là thân sau cùng, Cung kính Đại đạo sư, Vô thượng đẳng chánh giác, Tôi nay được xuất gia, Trong giáo pháp đại sư, Chứng quả A-la-hán, Nơi tịch tónh thanh lương, Tâm tôi rất an lạc, Được rất nhiều lợi dưỡng, Y thực và ngọa cụ, Thuốc thang không thiếu thốn. Do tôi có chút việc, Phải cần bốn thùng đường, Thí cho người may y, Và cúng dường đại chúng. Chư thiên biết ý tôi, Liền bảo vua Ảnh thắng: Hãy cúng cho Ca-la, Nước đường cát trong mát, Do cúng dường nước này, Vua được lợi ích lớn, Hãy sai Thị-phược-ca, Đem Am-la và đường. Vua Ảnh thắng phước lớn, Liền cho bốn con voi, Chở mỹ vị thơm ngon, Đem đến cúng cho tôi. Tôi được đường ngọt này, Cung cấp ngàn hai trăm, Năm mưới Bí-sô tăng. A-la-hán Ca-la, Đầy đủ sáu thần thông, Ở trong ao Vô nhiệt , Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ La-hỗ-la: “cụ thọ Ca-la nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ La-hỗ-la nói kệ: “Trước kia tôi làm vua, Ở đô thành Quảng nghiêm, Dùng chánh pháp cai trị, Làm lợi ích mọi người. Có một vị tiên đến, Rất hùng dũng oai đức, Đến chỗ tôi nói rằng: Tôi chính là trộm cướp, Đã lấy trộm nước uống, Xin vua xử theo pháp. Tôi liền bảo tiên nhơn: Nếu tiên đủ pháp, đức, Nước sông suối và giếng, Đều được tùy ý uống. Tiên vẫn còn nghi hoặc, Không thể trừ hết được, Cứ xin vua trị tội, Để không còn lo nghó. Tôi liền bảo Tiên ấy: Hãy vào trong vườn hoa, sáu ngày không được ăn, Sau đó tùy ý đi. Do tôi tạo nghiệp này, Tuy không có ý ác, Trong Hắc thằng, Viêm nhiệt, Chịu khổ 60 năm. Thân cuối hết nghiệp báo, Sáu năm trong thai mẹ. Tuy do vô tâm tạo, Không có nghiệp thân miệng, Nhưng vẫn do duyên này, Đã chịu các quả khổ, Các trưởng lão nên biết, Nghiệp đã làm không mất. Tôi là La-hỗ-la, Ở trước các tôn giả, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ A-nan-đà: “cụ thọ La-hỗ-la nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ A-nan-đà nói kệ: “Thời Phật Tỳ-bà-thi, Tôi lo liệu nước thơm, Cho Bí-sô tăng tắm, Rồi phát nguyện như vầy : Nguyện con trong đời sau, Cũng giống các vị này, Trong sạch không vết nhơ, Trừ hết các phiền não, Dung nghi được đoan nghiêm, Nhan sắc hơn hoa sen. Sau khi tôi mạng chung, Được sanh lên cõi trời, Cõi trời rất tuyệt diệu, Cõi người cũng thù thắng, Dù sanh đến nơi nào, Thường giàu có an vui. Sau mang thân Độc giác, Khi xây một cái tháp, Trang trí và thoa hương, Giát vàng lên trên tháp, Tôi chắp tay phát nguyện: Đời sau các căn đủ, Thân tướng như vàng ròng, Giữ mãi không thay đổi. Chính do căn lành này, Sanh Bà-la-nê-tư, Làm người con thứ nhì, Của vua nước Ca đà, Thấy tháp Phật Ca-diếp, Cung kính sanh tịnh tín, Cúng dâng một cây lọng, Để trong ngôi tháp này. Do trước làm nước tắm, Sau giát vàng lên tháp, Nay cúng lọng cho tháp, Nên thọ báo an lạc. Do phước nghiệp sót lại, Thọ thân sau cùng này, Trong dòng họ thích ca, Làm em của Như lai, Đời nay thân của tôi, Đầy đủ tướng trượng phu, 30 tướng thù diệu, Không có chút khiếm khuyết. Sau tôi được xuất gia, Trong giáo pháp Thích ca, Chứng quả A-la-hán, Hết nóng được mát mẻ, Tôi được Phật thọ ký, Thân tướng tốt đoan nghiêm, Đời này sanh đã dứt, Đến được chỗ vô thượng. Tôi là A-nan-đà, Ở trước chúng Bí-sô, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Thật lực tử: “cụ thọ A-nan-đà nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Thật lực tử nói kệ: “Tôi ở trong đời trước, Là thương lữ Bổ ngư, Nhân mua bán tiến phát, Có Tiên đến cùng đi, Là chơn thật Độc giác, Lậu tận, tâm vô ngại, Trong thời gian gặp nhau, Tôi thường thỉnh cúng dường, Ở chỗ vị ấy ngủ, Tôi vì trải ngọa cụ, Để nước rửa, dầu thoa, Lại còn cúng đèn thắp, Làm bạn với vị ấy, Tâm cung kính thừa sự, Khi đi đến phía trước, Gần tới chỗ bờ biển, Tôi quỳ xuống bạch rằng: Đại đức có việc gì, Mà đi đến nơi này, Chúng tôi vì tham dục, Nên không từ khổ não, Đi đến chỗ hiểm nạn, Trong biển cả không bờ. Đáp đã trừ phiền não, Nguyện ông thường an lạc, Đời đời đủ phước lớn, Nhiều của không thiếu gì. Lúc đó tôi liền lấy, Thượng y cúng cho Ngài, Rồi đảnh lễ nhiễu phải, Ngài vì thương xót tôi, Nên thọ y tôi cúng, Rồi bay lên hư không, Tôi thấy thần thông này, Liền chắp tay phát nguyện: Đời sau con thường gặp, Bậc tôn đức như vầy, Diệu pháp vị ấy đắc, Nguyện con cũng được chứng. Đời sau nguyện gặp Phật, Được làm người xuất gia, Cúng dường chúng Tăng già, Phát sanh thần thông lớn. Chính do căn lành này, Thường thọ lạc cõi trời, Cõi người cũng an vui, Dù sanh ở nơi nào, Giàu có nhiều của cải, Phước đức hằng ngời sáng. Từ ban đầu thọ báo, Đến nay thân cuối cùng, Ở thành Câu thi na, Được làm con lực só, Đẹp đẽ rất đáng yêu, Dung mạo không ai bằng, Mọi người đều kính yêu, Nhà giàu có bậc nhất, May gặp Thích sư tử, Vô thượng đẳng chánh giác, Liền khởi tâm thanh tịnh, Xả tục xin xuất gia, Trụ ở trong Trúc lâm, Và ở trong núi rừng, Chúng Thanh văn tụ đến, Bị Bí-sô xúc não, Vì phân chia ngọa cụ, Cùng Bí-sô nói lỗi, Thường thường chê trách nhau, Tôi buồn bã suy nghó: Khi nào dứt sanh tử, Sẽ làm người cung cấp. Do tôi thường tinh tấn, Tu tập theo giáo pháp, Chứng được A-la-hán, Đầy đủ sáu thần thông, Liền đến chỗ Đại sư, Đảnh lễ Phật chắp tay, Xin Phật cho phép tôi, Được làm người cung cấp, Phân phát các ngọa cụ, Không theo tham sân si, Từ bi phân bình đẳng. Đại sư biết ý tôi, Liền im lặng nhận lời, Cho tôi ở trong chùa, Đối với các Bí-sô , Thân làm việc từ bi, Miệng ý cũng như vậy, Phân phát phòng, ngọa cụ, Tâm khiêm nhường kính trọng. Các Bí-sô đến đi, Và các vị đi đường, Gặp họ tôi vui mừng, An ủi và thăm hỏi, Khi phân phát ngọa cụ, Năm ngón tay phát sáng, Như đốt ngọn đuốc lớn, Hiển hiện thần thông lớn. Bí-sô nào muốn thấy, Thần biến mà tôi có, Đợi đến trời tối mịt, Mới đi đến chỗ tôi, Nhiều vị khác đến tiếp, Tôi đều dùng tâm từ, Phân phát ngọa cụ cho, Không sanh tâm bực bội. Trước tôi có thệ nguyện, Nay đều được viên mãn, Thánh tử Thật lực này, Lậu tận, tâm tự tại, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Cận tướng: “cụ thọ Thật lực tử nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Cận tướng nói kệ: “Tôi ở trong đời trước, Là thợ săn trong rừng, Vì muốn giết hươu nai, Mang cung và tên độc, Lên núi cao hiểm trở, Qua đêm không mệt mõi. Hễ gặp được cầm thú, Liền sanh tâm giết hại, Giương cung bắn tên độc, Giết nó chết lập tức. Lần đó tôi cầm cung, Đi vào trong khu rừng, Thấy một vị Độc giác, Ở dưới một gốc cây, Bỗng tôi sanh tức giận, Ngài tịch tónh không lỗi, Tôi lại giương cung bắn, Do bị trúng tên độc, Nên Ngài rất đau đớn, Ngay tại gốc cây ấy, Xả mạng vào Niết-bàn. Tôi do nghiệp ác này, Khi chết đọa địa ngục, Trải vô lượng ngàn năm, Chịu đủ các thống khổ. Ở địa ngục hết rồi, Lại mang thân súc sanh, Bị giết hại trong rừng, Lại đọa vào địa ngục, Đời đời thường lo sợ, Mỗi bước đều kinh hãi, Thường khốn khổ vì đói, Rất gầy ốm, tiều tụy, Lại thường gặp thợ săn, Kẻ giết hại mạnh bạo, Đã dùng tên độc nhọn, Bắn làm tôi ngã nhào, Thấy tôi ngã xuóng đất, Còn sống, thân oằn oại, Thợ săn dùng dao bén, Xả thịt tôi mang đi. 500 đời như vậy, Thường chịu các khổ não. Sau đó ở nơi khác, Vì tìm kiếm thức ăn, Thấy nhiều vị đại tiên, Ở dưới chân núi ấy, Đang tu tập khổ hạnh, Có thần lực oai đức, Sau khi thấy Tiên chúng, Tôi sanh tâm vui mừng, Quan sát các đại tiên. Do tâm thanh tịnh này, Được sanh vào cõi người, Từ xa thấy Độc giác, Đến để xin thức ăn, Tôi thường xuyên thỉnh Ngài, Đến nhà tôi thọ thực, Cúng dường vị ấy xong, Tôi chắp tay phát nguyện: Nguyện tôi trong đời sau, Thường gặp được tôn sư, Được làm người xuất gia, Đạt được Vô sở úy, Dứt hết các Hữu lậu. Chính do căn lành này, Tôi được sanh lên trời, Lại sanh trong cõi người, Giàu có nhiều của cải, Thừa sự Đại đạo sư, Đẳng chánh giác vô tỉ, Gặp được Đại Mâu ni, Xả tục mà xuất gia, Tịnh tâm xuất gia rồi, Rất thích giáo pháp Phật, Chứng được A-la-hán, Đủ sáu đại thần thông. Các đại đức, tôi nay, Đoạn hết các kiết phược, Sẽ vào trong hang núi, Rồi mới xả thọ mạng, Sẽ có rắn rất độc, Bò xuống cắn thân tôi, Lúc đó tôi viên tịch. Các đại đức, tôi nghó: Do đời xưa tạo nghiệp, Chịu vô lượng quả báo, Nghiệp đã tạo không mất. Bí-sô Cận tướng này, Đối trước chúng Tăng già, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Hiền tử: “cụ thọ Cận tướng nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Hiền tử nói kệ: “Thời thế xưa đói kém, Thật u ám đáng sợ, Có tới 500 người, Đi xin ăn để sống, Tôi đứng đầu trong nhóm, Dẫn họ đi xin ăn, Họ xin được thức ăn, Đều đến dâng cho tôi, Dù thức ăn ngon dở, Cũng đều cấp cho tôi, Trong lòng không ý xấu, Đều theo lời tôi bảo. Lần đó có một người, Vào chợ rao bán bánh, Tôi liền cưỡng đoạt lấy, Bỏ chạy ra khỏi chợ, Chủ bánh đuổi theo sau, Do tôi chạy rất mau, Chủ bánh đuổi không kịp, Cuối cùng đến một nơi, Nhìn quanh không có ai, Tôi định lấy bánh ăn, Nghó là được no đủ, Bỗng có một đại tiên, Đang đi đến chỗ tôi, Thấy vị Độc giác này, Các căn rất tịch tónh, Tôi liền suy nghó rằng: Đói nghèo là khổ nhất, Do trước chẳng tu phước, Nay chịu quả đói nghèo, Ta nên đem bánh này, Cúng cho vị Độc giác. Do phát tâm chí thành, Sanh khởi ý trong sạch, Nên tôi đem chiếc bánh, Dâng cúng thắng phước điền, Đại sư nhận bánh rồi, Ăn ở trước mặt tôi, Rồi vì thương xót tôi, Nên bay lên hư không, Tôi liền chắp tay lạy, Nguyện cầu ở đời sau, Sẽ sanh nhà phú quý, Nhan sắc được đẹp đẽ, Và nguyện thường được gặp, Các đại đức như vậy, Pháp mà vị ấy chứng, Tôi nguyện cũng được chứng. Chính do căn lành này, Ở cõi trời cõi người, Đều được nhiều an lạc, Xinh đẹp và sáng sủa, Lại còn được làm vua. Do thiện cúng dường này, Không sanh trong ác đạo. Do nghiệp còn sót lại, Thọ thân sau cùng này, Trong dòng họ Thích ca, Thừa sự Thích sư tử, Vô thượng đẳng chánh giác. Khi Đại đức Thế tôn , Về giáo hóa thân tộc, Tôi cùng các thân quyến, Xả tục đi xuất gia, Trước đây tôi có nguyện, Nay đều đã viên mãn, Chứng quả A-la-hán , Nơi tịch tónh thanh lương, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Hiền diêm: “cụ thọ Hiền tử nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Hiền diêm nói kệ: “Thời Phật Câu lưu tôn, Có người xây tháp Phật, Tôi là người làm thuê, Thường làm thuê cho người, Trong lúc xây tháp này, Tôi thường nói lời ác : Cần gì xây tháp lớn, Biết ngày nào mới xong, Chỉ cần xây tháp nhỏ, Không nên quá tổn phí, Giảm công, không còn lo, Lại mau được thành tựu. Chính do nơi khẩu nghiệp, Nói lời thô ác này, Nên sau khi mạng chung, Tôi đọa vào địa ngục, Hết nghiệp báo địa ngục, Dù sanh ở nơi nào, Nhan sắc đều xấu xí, Mọi người đều ghét bỏ. Thời Phật Ca-nhiếp-ba, Tôi làm chim Câu la, Thành Bà-la-nê-tư , Ở trong một khu rừng, Có vị Đại minh đăng, Chúng Bí-sô vây quanh, Tôi hót tiếng hòa nhã, Bay nhiễu phải phía trên. Hễ gặp Phật và Tăng, Khi đang đi khất thực, Hoặc khi đi trở về, Tôi đều bay nhiễu phải. Chính do căn lành này, Nên được sanh làm người, Thừa sự bậc Điều ngự, Vô thượng đẳng chánh giác, Được làm người xuất gia, Trong giáo pháp thích ca, Chứng quả A-la-hán, Nơi tịch tónh thanh lương. Phật thọ ký cho tôi, Nghe nhiều, giữ phép tắc, Tiếng hay, thường diễn thuyết, 4 chúng đến chỗ tôi, Nghe tôi nói diệu pháp, Trời người các hữu tình , Thảy đều ngưỡng mộ tôi. Xưa tạo ít nghiệp lành, Nhưng làm nghiệp ác nặng, Nay thọ các quả báo, Nghiệp đã làm không mất, Tôi Bí-sô Hiền diêm, Đối trước các trưởng lão, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Mật tánh: “cụ thọ Hiền diêm nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Mật tánh nói kệ: “Xưa ở bên Quảng Nghiêm, Tôi là con khỉ chúa, Thấy nơi ấy nhiều bát, Tôi liền lấy bát Phật, Các Bí-sô la to, Thế tôn liền nói rằng: Các Bí-sô đừng lo, Bát không có mất đâu. Lúc đó tôi cầm bát, Leo lên cây đại thọ, Đựng mật sạch đầy bát, Rồi thong thả trèo xuống, Đem dâng bát mật này, Cho bậc đại đạo sư. Do bát mật có trùng, Nên Đại sư không nhận, Tôi xem thấy có trùng, Liền vớt lấy trùng ra, Rôi đem dâng trở lại, Thế tôn cũng không nhận, Vì mật chưa tác tịnh. Tôi liền lấy nước sạch, Điểm tịnh vào bát mật, Rồi với tâm chí thành, Dâng cho Đẳng chánh giác. Phật duỗi tay trăm phước, Nhận bát mật tôi dâng, Đưa cho chúng Thanh văn. Trong lòng tôi vui sướng, Ở trước đấng pháp vương, Khom mình lạy rồi đi. Tôi nguyện sau khi chết, Thường gặp Đại đạo sư, Thọ trì pháp vi diệu, Chính do căn lành này, Nên nay được thân người, Thừa sự bậc Điều ngự, Vô thượng đẳng chánh giác, Được làm người xuất gia, Trong giáo pháp Thích ca, Chứng quả A-la-hán , Nơi tịch tónh thanh lương, Đầy đủ 6 thần thông. Danh xưng, phước vang xa, Người tôn kính cúng dường. Tôi cùng các Bí-sô , Du hành trong nhân gian, Đến ở chỗ đồng trống, Đại chúng đều khát nước, Lúc đó tôi liền nghó: Nếu có được mật sạch. Phi nhơn ở bốn phương, Biết ý nghó của tôi, Liền mang bình mật lớn, Đến dâng cúng cho tôi, Tôi nhận rồi đem cho, Các Bí-sô uống no. Xưa tôi mang thân khỉ, Do đem mật cúng Phật, Nên thoát thân súc sanh, Bước trên đất cam lồ. Nguyện xưa kia đã phát, Nay đều đã thành tựu, Tôi Bí-sô Mật tánh, Đối trước các trưởng lão, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA DƯỢC SỰ <卷>QUYỂN 18 Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Nhân duyên: “cụ thọ Mật tánh nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Nhân duyên nói kệ: “Cách đây 91 kiếp, Tôi ở thành Thân huệ, Thấy Phật Tỳ-bà-thi, Sắp đi vào thành đô, Tôi rải hoa dâng cúng, Hoa nở cành thẳng đứng, Thành lọng che đảnh Phật, Tâm tịnh quỳ xuống chân, Cung kính đảnh lễ Phật, Rồi chắp tay nhiễu phải, Tuy không nghe Phật pháp, Cũng không thọ Tam quy, Chỉ phát tâm thanh tịnh, Tôi đi theo Thiện thệ. Do tạo nghiệp lành này, Trải qua 91 kiếp, Chưa từng sanh cõi ác, Thường mang thân Đại thiện, Thọ thiên lạc thù thắng. Nhiều đời sanh làm người, Giàu có nhiều của cải, Đây là thân sau cùng, Sanh dòng họ tịnh hạnh, Đối với các bí điển, Văn nghóa và xem tướng, Chương cú đều thông hiểu, Và tướng hảo đại nhân, Ở trong rừng tịnh hạnh, Giáo thọ 500 người, Bà-la-môn vây quanh. Tôi rời thành vào rừng, Lúc đó gặp Thế tôn, Chúng Bí-sô vây quanh, Tinh tấn rất dõng mãnh. Tôi đến Ma-kiệt-đà, Lại gặp đấng Đại bi, Liền khởi tâm tịnh tín, Chính do nhân duyên này, Được biết tướng thù thắng. Sau khi thấy Thế tôn , Đầy đủ các tướng tốt, 32 tướng trang nghiêm, Và 80 vẻ đẹp, Thấy tướng trang nghiêm ấy, Tôi chí thành kính lễ, Ca ngợi Đại đạo sư. Trong sách tướng có nói, Phật có đầy đủ tướng, Nhất định là đại sư, Thế gian không ai bằng, Hơn Phạm thiên, Đế thích, Không có người thứ hai. Vượt cả thần trời đất, 10 phương không ai bằng, Không thấy ai hơn Phật. Trên trời, trong loài người, Là đại tướng hàng ma, Chỗ dựa nơi không dựa, Dẫn đường người lạc lối. Tôi nguyện làm Thanh văn, Theo lời Phật đã dạy. Thế tôn duỗi tay xuống, Tay trăm phước trang nghiêm, Xoa đầu tôi rồi bảo: Chính do tâm ông tịnh, Nên được nhiều thắng lợi, Tâm thanh tịnh cúng dường, Phước ấy không hạn lượng. Phát khởi ý tịnh diệu, Nơi vô thượng phước điền, Ma-nạp-bà đã gieo, Vónh viễn theo đường lành, Không còn sợ cõi ác, Được mở cửa cam lồ, Mọi sở thích thành tựu. Nếu có muốn xuất gia, Cứ tùy ý đến đây, Lành thay Bà-la-môn , Hãy cạo bỏ râu tóc. Nghe pháp âm Phật xong, Tôi bảo các môn đồ, Môn đồ liền hỏi tôi, Sao lại làm sa môn, Vì sao bỏ trắng sạch, Chọn lấy chỗ tối đen, Bỏ dòng họ thắng diệu, Muốn làm loại hạ tiện. Chủng loại Bà-la-môn , Siêu việt trên thế gian, Từ miệng ngực Phạm thiên, Hóa sanh Bà-la-môn . Các trò không hiểu rõ, Các trò không biết gì, Giáo lý các trò học, Theo hiểu biết của ta, Văn nghóa rộng vô cùng, Ta làm theo hiểu biết, Các trò tùy duyên đi, Nếu không có cần gì, Cứ làm theo ý thích, Ta không còn là thầy, Từ nay không dạy nữa. Lúc đó các môn đồ, Rơi lệ tùy duyên đi. Đấng đại bi tịch tónh, Dịu dàng an ủi tôi: Hãy đến, thiện Bí-sô. Tôi liền thọ cận viên, Tâm tịnh tín xuất gia, Đầy đủ đại thần thông, Việc nên làm làm xong. Tôi quán nghiệp đời trước, Thiên nhãn đều sáng sạch, Biết được tướng sanh tử, Nơi đã từng thọ thân. Nay đã chứng thần thông, Dứt hết hoặc hữu lậu, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Kiều-trần-như: “cụ thọ Nhân duyên nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Kiều-trần-như nói kệ: “Xưa trong đời quá khứ, Phật Ca-diếp diệt độ, Tôi thấy các Thanh văn , Tập họp lại bàn bạc : Đại bi Ca-nhiếp-ba , Sao Niết-bàn sớm quá, Người xuất gia quá ít, Chánh pháp không tỏ rạng, Pháp chúng ta đã nghe, Đem chỉ dạy cho nhau, Tinh tấn không phóng dật, Trong Phật giáo siêng tu. Tất cả cùng lên núi, Trải cỏ làm tòa ngồi, Cùng thệ chưa dứt lậu, Không rời khỏi chỗ ngồi. Do quyết tâm tinh tấn, Không tiếc thân mạng mình, Đều chứng được thần thông, Tất cả vào Niết-bàn. Tôi vì căn cơ kém, Không thể dứt được lậu, Tuy có pháp tương ưng, Nhưng thân lại qua đời. Nhờ có pháp tương ưng, Không xả niệm tinh tấn, Nên được sanh lên trời, Trong cung trời Đổ sử, Gặp được Thích sư tử, Mâu ni đại Bồ-tát, Nói pháp cho chư thiên, Tôi nghe được pháp này, Liền hết lòng ghi nhớ, Ưa thích chánh pháp này. Nghiệp báo trên trời hết, Sanh xuống Kiếp-tỷ-la, Mang họ Kiều-trần-như, Dòng tịnh hạnh quyền thế, Lúc đó Bồ-tát là, Con của vua Tịnh-phạn, Bỏ nước đi xuất gia, Tu khổ hạnh trong rừng, Vua Tịnh-phạn bảo tôi, Hãy đi theo xuất gia, Để hầu hạ Thái tử. Tôi với tâm thanh tịnh, Đến hầu hạ Bồ-tát. Vì không chứng Thánh đạo, Tôi nhàm chán bỏ đi, Thích ca đại mâu ni, Khi chuyển chánh pháp luân, Nói ra diệu pháp này, Tôi chứng ngộ đầu tiên. Dưới thời Phật Ca-diếp, Xuất gia tu phạm hạnh, Trong giáo pháp Thích ca, Chứng được quả vô lậu. Bí-sô Kiều-trần-như, Đối trước các trưởng lão, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Ô-ba-ly: “cụ thọ Kiều-trần-như nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Ô-ba- ly nói kệ: “Xưa trong thời quá khứ, Thành Bà-la-nê-tư, Có vua tên Phạm thọ, Tôi thường hay hầu hạ, Cắt tỉa râu tóc vua, Đủ cách làm cho đẹp, Y phục đều cùng loại, Xông hương rồi đem dâng, Kính trọng hầu hạ vua. Tôi thích ở chỗ vua, Nói điều chưa từng nghe, Dục, vị ngọt rất ít, Là gốc của tội lỗi, Biển khổ đều do đây, Không thể được an lạc. Ai xuất gia lìa dục, Nghe pháp chưa từng nghe, Nên thần rất hâm mộ, Xin vua cho xuất gia. Vua liền bảo tôi rằng: Nếu khanh đã quyết định, Xuất gia được chứng ngộ, Sẽ trở lại gặp ta, Ta cho phép xuất gia. Tôi bèn tâu vua rằng: Ý thần đã quyết định, Xin vua hiểu lòng thần, Xuất gia được chứng ngộ, Thần hứa sẽ trở lại. Khi được vua cho phép, Tôi liền vào trong rừng, Giữ tâm không hư dối, Xả tục mà xuất gia, Tùy sức mình tu tập, Siêng năng không phóng dật, Được đến chỗ ly dục. Dưới thời vua Phạm thọ, Tôi tên Căng ba la, Được mọi người yêu quý. Tôi với tâm chánh trực, Đến chỗ thầy xin phép, Đi gặp vua Phạm thọ, Giúp vua sanh chánh kiến, Sau khi thầy cho phép, Tôi từ giã lên đường, Đến Ba la nê tư, Vua Phạm thọ nghe tin, Đích thân đến chỗ tôi, Do oai đức của vua, Chư thiên cũng đến theo, Vua từ xe bước xuống, Cung kính đảnh lễ tôi, Ngồi một bên nghe pháp, Tôi vì nói diệu pháp, Giúp vua đoạn các dục, Sau khi dứt các dục, Vua phát tâm mạnh mẽ, Nói muốn cầu xuất gia, Vì không thích dục lạc. Vua liền cho con trưởng, Lên nối ngôi vua cha. Vị vua tối thắng này, Bỏ nước đi xuất gia. Tôi bảo vua đi gặp, Đại tiên ở trong rừng, Để cầu xin xuất gia, Vua với tâm chánh trực, Đảnh lễ các đại tiên, Nguyện cầu được xuất gia. Vua cạo bỏ râu tóc, Thân mặc áo ca-sa, Quần thần và thân quyến, Có đến vô lượng người, Cùng xả tục xuất gia. Tôi với tâm chánh trực, Nói diệu pháp cho họ, Khiến sanh bốn thiền định. Sau khi tôi qua đời, Sanh lên Vô biên quang, Cõi trời ấy hết phước, Sanh trở xuống nơi đây, Dù sanh ở nơi nào, Giàu có nhiều của báu, Cõi trời và cõi người, Thường thọ lạc thắng diệu. Đây là thân sau cùng, Sanh ở Kiếp-tỷ-la, Trong dòng họ Thích ca, Từng hầu hạ Thích tôn, Do oai đức Thích tôn, Mới được đi xuất gia. Khi tôi cạo râu tóc, Cho vương tử Thích ca, Có thưa với họ rằng: Thánh giả không giúp nhau, Tôi làm gì để sống. Các vương tử nói rằng: Chuỗi anh lạc đã có, Và y phục thượng diệu, Thảy đều cho anh hết Tôi thấy các vương tử, Đều vất bỏ tất cả, Để cầu được xuất gia, Tôi là người nghèo khổ, Giữ nhiều châu báu này, Nếu có người nghe biết, Ắt sẽ đến hại tôi. Tôi nên biết điều độ, Đem các châu báu này, Treo lên trên cây cao, Cũng cầu xin xuất gia, Cùng với các vương tử. Các vương tử nghe rồi, Cho tôi xuất gia trước. Phật vì thương xót tôi, Bảo thiện lai Bí-sô, Cho tôi xuất gia rồi, Mới độ các vương tử, Để đốn trừ ngã mạn. Sau khi được xuất gia, Được chứng sáu thần thông, Chứng quả A-la-hán, Vượt qua bờ bên kia, Phật thọ ký cho tôi, Trì luật là bậc nhất. Bí-sô Ô-ba-ly, Đối trước các trưởng lão, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó Đại đạo sư, Bảo tôn giả Vi quang, Tự nói nghiệp báo xưa, Từng thọ báo thiện ác, Tôn giả nghe Phật dạy, Nhớ lại nghiệp báo xưa, Liền ở trước đức Phật, Tự nói nghiệp báo xưa: “Xưa ở trên Liên hoa, Đấng cứu thế tối thắng, Có tháp nơi Khoáng lâm, Nơi đó nhiều thú dữ, Nên không ai dám đến, Để cung kính cúng dường, Người sống gần nơi đó, Không biết nghiệp tội phước. Lúc đó tôi đến tháp, Dọn sạch các cỏ cây, Cầm chổi quét sạch tháp, Trong ngoài tháp đều sạch, Rồi kính lễ tám phương, Sau đó mới trở về. Chính do căn lành này, Tôi được sanh lên trời, Cõi trời Tam thập tam, Hưởng dục lạc thù thắng. Cho đến ba sáu lần, Tôi đều làm vua trời, Thiên cung mà tôi ở, Thường bằng vàng rực rỡ, Rộng khoảng 36, Dài 60 thiện na. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Nên sanh xuống nhân gian, Bảy lần làm nhân chủ. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Dù thọ sanh nơi đâu, Thân quang đều sắc vàng. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Thường sanh trong dòng họ, Bà-la-môn, Sát-lợi. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Tùy ý đi kiệu, xe, Voi, ngựa, không đi bộ. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Nếu vào rừng gai góc, Tự nhiên đều bằng phẳng. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Chưa từng bị bịnh tật, Cũng không có phiền não. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Hễ đi đến nơi đâu, Tướng kiết tường đều hiện. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Thường được người quý trọng, Kính thờ như Đại thiên. Tôi nhờ duyên kỳ lạ, Là làm sạch tháp Phật, Thân chưa từng chịu khổ, Dù là khổ não nhỏ. Phật pháp không vết nhơ, Thật không thể nghó bàn. Tâm tịnh được quả lớn, Cũng không thể nghó bàn. Ai muốn cầu thắng lạc, Dứt trừ hết sanh tử, Nên kính trọng tháp Phật, Phụng thờ Vô thượng tôn. Đại đức, tôi nhớ lại, Đời trước tạo nghiệp lành, Nên được hưởng báo lành, Rất đáng được ưa thích. Bí-sô Vi quang này, Đối trước chúng Tăng già, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô Thanh-văn Kỳ-túc bảo cụ thọ Khuê-túc: “cụ thọ Vi quang nói bổn nghiệp xong, giờ đến lượt cụ thọ”, cụ thọ Khuê-túc nói kệ: “Đại đức, tôi nhớ lại, Quá khứ câu chi kiếp, Nơi Phật Nhất thiết siêu, Đã làm được phẩm thiện. Lúc đó Phật Thế tôn, Vô biên trăm ngàn ức, Chúng Thanh văn vây quanh, Muốn vào Đại vương đô, Tôi từ nơi làng khác, Có việc đến thành này, Gặp được Đẳng chánh giác, Đủ 32 tướng tốt, Sáng như nhật nguyệt chiếu, Như ánh chớp đêm đen, Che mờ các ánh sáng, Phật quang chiếu sáng nhất, Tôi chưa từng được thấy. Bỗng thấy ở phía trước, Có một Bà-la-môn, Liền hỏi đó là ai, Đáp là Phật đạo sư, Trời người không ai bằng. Lúc đó nghe tiếng Phật, Tôi sanh tâm tín kính, Và thích dung nghi Phật, Toàn thân tôi an lạc. Bỗng nghe tiếng nhạc trời, Tiếng phi nhơn tán tụng, Trời mưa hoa hương bột, Ở trong thành Thượng thắng, Hoặc rải hoa sen xanh, Hoặc mưa Thiệm bát ca, Hoặc mưa bột Chiên đàn. Chư thiên ở trên không, Cung kính hữu nhiễu Phật. Trong lòng tôi ngưỡng mộ, Muốn tìm tràng hoa thơm, Nhưng không ở đâu có, Bỗng thấy người bán lọng, Cây lọng trắng sáng đẹp, Liền vội đến hỏi mua, Để đem dâng cúng Phật, Tôi thành tâm cầm lọng, Lọng bỗng tự vọt đi, Đến che trên đầu Phật, Phật đi, lọng cũng đi, Phật dừng, lọng cũng dừng, Lọng không rời thân Phật, Tự nhiên ở trên không. Tôi cùng với đại chúng, Thấy thần biến này rồi, Đều cung kính chắp tay, Thành tâm kính lễ Phật. Tôi thấy Đẳng chánh giác, Chúng Thanh văn uy nghi, Sau khi trở về nhà, Tâm tôi thường suy nghó, Mong ước được gặp Phật. Tôi nhờ dâng cúng lọng, Cho Vô thượng phước điền, Do nơi căn lành này, Thường đầy đủ bảy báu, Sau khi tôi qua đời, Sanh làm vua cõi trời, Cõi trời Tam thập tam , Chư thiên đều kính trọng. Sau đó sanh cõi người, Làm vua tên Tự lực, Giàu có nhiều dõng mãnh, Vua nước khác thần phục. Do tạo nghiệp lành này, Dù luân chuyển nơi đâu, Căn lành không đứt đoạn, Cũng không đọa đường ác. Đây là thân sau cùng, Được làm người xuất gia, Trong giáo pháp Thích ca, Thừa sự đức Điều ngự, Chứng quả A-la-hán, Nơi tịch tónh thanh lương. Dù Ma biến hoa thân, Cao đến một do tuần, Làm hình tướng khủng bố, Tôi liền hỏi là ai, Dám làm việc não loạn, Quán biết đó là Ma, Cố ý đến não loạn, Tôi bảo ma Ba tuần: Cứ tùy ý hiện thân, Đầu lớn như Tu di, Rồi hãy đến chỗ tôi. Tôi đã chứng La hán, Đủ ba Minh sáu Thông, Được Phật chỉ dạy pháp, Đã được an lạc trụ, Thọ người cúng nắm cơm, Nhập định suốt bảy ngày, Thọ giải thoát ý lạc, Là pháp tôi tu tập. Đại đức, tôi suy nghó, Do nghiệp lành đời trước, Nay thọ nhiều quả báo, Thọ lạc rất tịnh diệu. Bí-sô Khuê-túc này, Đối trước chúng Tăng già, Trong ao Vô nhiệt não, Tự nói nghiệp báo xưa”. Lúc đó các Bí-sô đều đã tự nói nghiệp báo xưa xong, liền bạch Phật: “chúng con đã tự nói nghiệp báo xưa xong, cúi xin Thế tôn nói nghiệp báo xưa, Thế tôn xưa đã tạo nghiệp gì mà sau khi thành Chánh giác lại bị đá trên núi xô lăn xuống làm cho chân bị thương?”, Phật bảo các Bí-sô: “xưa kia khi còn là phàm phu, Như lai đã gây nghiệp nay nên nay tự thọ báo. Khi nghiệp đã chín muồi, biến duyên hiện tiền như bóng theo hình, nhất định chiêu lấy quả báo, không ai khác chịu thay. Này các Bí-sô, người nào đã tạo nghiệp thiện ác thì chẳng phải đất nước gió lửa ngoại giới chịu lấy quả báo; mà chính ngay nơi Uẩn xứ giới trong tự thân chiêu lấy quả dị thục. “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa, trong một làng nọ có một trưởng giả cưới vợ không bao lâu liền sanh một con trai, bé trai này dần dần khôn lớn thì người mẹ bỗng qua đời. Người cha cưới thêm vợ kế, không bao lâu sau người vợ kế này có thai và sanh một con trai. Thời gian sau, người con trai trưởng cưới vợ và sanh rất nhiều con cái; sau đó bà mẹ kế chết, người em trai khác mẹ đến ở chung với anh. Sau khi hỏi rõ thân thế của người em trai này, người vợ của người anh trưởng hỏi chồng: “gia tài có chia cho người em khác mẹ này không?”, người chồng nói là chia đều, người vợ nói: “chú ấy chỉ có một thân, chúng ta đông người, làm sao chia đều được”, người chồng nói là thế pháp quy định như vậy, người vợ nghe rồi liền xúi giục chồng giết chết người em, người chồng nói: “ta đâu thể vì gia tài mà giết chết em mình”. Do người vợ cứ ở bên tai xúi giục mãi, người chồng cũng hồ đồ nghe theo, hễ tâm bị nhiễm dục thì không có việc ác nào mà không làm. Người chồng suy nghó: “nếu ta giết nó ở trong làng thì mọi người đều biết, hãy dụ nó đến chỗ vắng vẻ không người”, nghó rồi liền rủ người em cùng vào rừng hái trái, hai anh em cùng đi đến một sườn núi dốc, người anh liền xô người em xuống núi, sau đó dùng đá đập chết người em. Này các Bí-sô, người anh trưởng giết chết em ngày xưa chính là thân ta ngày nay. Ngày xưa vì tài sản, ta đã dẫn người em khác mẹ vào rừng rồi xô xuống sườn núi và dùng đá đập cho chết. Do nghiệp ác này nên trong nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm ta bị đọa trong địa ngục chịu các khổ báo. Do nghiệp còn sót nên ngày nay tuy ta đã chứng Đẳng chánh giác, ta vẫn bị đá trên núi xô lăn xuống làm chân bị thương”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn đã tạo nghiệp gì mà sau khi thành Chánh giác vẫn bị cây cọc gỗ Tử khương đâm làm chân bị thương?”, Phật bảo các Bí-sô: “đó là do xưa kia ta đã tạo nghiệp nên nay phải chịu quả báo. “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Ngày xưa trong một thành lớn có hai thương chủ giỏi kinh doanh mua bán, sau khi lo liệu xong tàu buồm, họ lại ra biển để tìm cầu châu báu. Nhờ thuận buồm xuôi gió nên họ đến được đảo châu báu, một người biết trù lượng sức thuyền để chở số châu báu vừa đủ; người kia không biết trù lượng lại do lòng tham nên chở đầy thuyền. Sau khi ra biển, thuyền chở đầy châu báu quá tải không chịu nổi nên muốn chìm, thương chủ này năn nỉ thương chủ bạn cứu giúp. Thương chủ bạn châm chước cho chứa bớt một ít châu báu lên thuyền mình rồi kéo thương chủ kia qua thuyền của mình trước khi thuyền bị chìm xuống biển. Thương chủ được cứu suy nghó: “hai chúng ta cùng ra biển đến đảo châu báu, nay thuyền của ta bị chìm, châu báu cũng mất hết, ta há để cho thương chủ kia trở về với đầy thuyền châu báu hay sao. Ta phải đục thủng thuyền cho thuyền chìm mất hết cũng như ta”, nghó rồi liền lén đục thủng thuyền. Thương chủ bạn trông thấy nói rằng: “bạn làm như vậy không những châu báu mất hết mà chúng ta cũng không sống được trở về”. Thương chủ kia do lòng ganh ghét quá mạnh nên không chịu nghe theo lời can ngăn của bạn, vẫn tiếp tục đục thủng thuyền, thương chủ bạn thấy không thể can ngăn được nên đâm chết thương chủ kia. Này các Bí-sô, thương chủ bạn đâm chết thương chủ đục thuyền kia chính là thân ta ngày nay. Do nghiệp ác này nên suốt nhiều năm, cho đến trăm ngàn năm ta bị đọa vào địa ngục chịu các khổ báo. Do nghiệp còn sót nên ngày nay tuy ta đã thành Chánh giác vẫn bị cây gỗ Tử khương đâm làm chân bị thương”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn trước đã tạo nghiệp gì mà sau khi thành Chánh giác vào làng Sa la khất thực không được gì, phải mang bát không trở về?”, Phật bảo các Bí-sô: “đó là do xưa kia ta đã tạo nghiệp … cho đến câu tự chịu quả báo. Các thầy lắng nghe: Ngày xưa trong thành Bà-la-nê-tư có một Ma-nạp-bà đi xin ăn để sống, thời đó không có Phật nên chỉ có vị Độc giác là phước điền duy nhất. Lúc đó có vị Độc giác tên là Lạc tịch ở chỗ Tiên nhơn đọa xứ trong rừng Thi lộc thành Bà-la-nê-tư. Vị này vào sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, Ma-nạp-bà cũng vào thành xin ăn, đến trước nhà một trưởng xin nhưng không được cho gì. Vừa lúc đó vị Độc giác theo thứ lớp đến trước cửa nhà trưởng giả này khất thực, Ma-nạp-bà thầy liền suy nghó: “ta hãy rình xem người xuất gia này có xin được gì không”, nghó rồi liền rình bên cửa. Lúc đó vợ của trưởng giả thấy vị Độc giác thân tâm tịch tónh liền sanh lòng tín kính, nên đem thức ăn thượng diệu sớt đầy bát để cúng dường. Khi vị Độc giác vừa quay trở ra thì Ma- nạp-bà này liền chặn đường nói rằng: “này người xuất gia, hãy cho tôi xem thức ăn trong bát của Ngài”. Thường pháp của vị Độc giác là nếu không khởi quán thì không biết được tâm ý người khác. Lúc đó vị Độc giác đưa bát cho Ma-nạp-bà xem, do trong lòng ganh ghét nên Ma-nạp- bà này buông tay cho bát rơi xuống đất và làm cho thức ăn trong bát đổ hết ra đất rồi lấy chân dẫm lên. Vị Độc giác thấy rồi liền nói: “này Ma-nạp-bà, vì sao lại làm như vậy, nếu cậu cần thì cứ nói, tôi sẽ cho cậu”. Ma-nạp-bà nói những lời thô ác rồi đứng một bên, vị Độc giác tuy không được ăn nhưng do tự điều thuận nên bỏ đi trở về rừng Thi lộc. Này các Bí-sô, Ma-nạp-bà ngày xưa chính là thân ta ngày nay. Xưa do ta ôm lòng ganh ghét đã làm cho vị Độc giác không được ăn, do nghiệp ác này trải qua nhiều năm cho đến trăm ngàn năm, ta bị đọa vào địa ngục chịu khổ báo. Do nghiệp còn sót nên ngày nay tuy ta đã thành Chánh giác, khi vào làng Sa-la khất thực phải mang bát không trở về”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn trước đã tạo nghiệp gì mà nay bị dâm nữ Mị dung do ngoại đạo xúi bẩy đến để vu báng Thế tôn?”, Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe: Thuở xưa, khi con người thọ tám vạn tuổi, có Phật Tỳ-bà-thi Như lai xuất hiện ở đời. Vị ấy có hai đệ tử: một tên là Bà-tư-sắt-tra, một tên là Bạt-la-đà-bà-xàø. Bà-tư-sắt- tra y theo lời Phật dạy siêng năng tu tập không có phóng dật nên được chứng quả A-la-hán. Bạt-la-đà-bà-xàø do thọ trì ba tạng kinh, đọc tụng thông suốt nên làm đại pháp sư. Thời gian sau có một trưởng giả đối với vị pháp sư em sanh lòng tín kính nên xấy cất một trú xứ với đầy đủ vật dụng cúng dường cho pháp sư. Pháp sư em liền mời sư huynh A-la-hán đến cùng ở chung, trưởng giả này thấy vị A-la-hán này thân tâm tịch tónh, oai nghi đónh đạc nên sanh lòng tín kính gấp bội, liền lo liệu thức ăn và y phục thượng diệu để dâng cúng. Lúc đó pháp sư em sanh tâm ganh ghét, suy nghó: “ta làm thầy của trưởng giả đã lâu nhưng chưa hề cúng cho ta y phục thượng diệu như thế, nay vừa gặp sư huynh ông ta liền dâng cúng”, nghó rồi do tâm ganh ghét nên pháp sư em từ đó cố ý vạch tìm lỗi lầm của vị sư huynh. Vị sư huynh biết tâm sư đệ có khác nên nhiếp tâm quán sát, liền quán biết sư đệ đang ganh ghét nên đem y phục thương diệu đó cho lại sư đệ. Tuy được y rồi nhưng vị sư đệ vẫn cố ý vạch tìm lỗi của sư huynh như cũ, nhưng không tìm được. Thời gian sau, trưởng giả sai con gái đến trong trú xứ Tăng làm công quả, vị pháp sư em bảo cô gái: “cô có thể làm giúp ta một việc được không?”, liền hỏi là giúp làm việc gì, đáp: “hãy mặc áo này về, nếu trưởng giả hỏi ai cho thì đáp là của Thánh giả Bà-tư-sắt-tra cho; nếu trưởng giả hỏi vì sao lại cho thì đáp là cho với ý của nam nữ”. Người con gái này làm y theo lời pháp sư en đã dạy, trưởng giả nghe rồi liền sanh tâm bất kính đối với sư huynh A-la-hán. Thường pháp của bậc đại nhân là sợ bị khinh mạn, nên vị ấy rời bỏ trú xứ ấy ra đi. Này các Bí-sô, vị pháp sư em ngày xưa chính là thân ta ngày nay. Xưa do ta ôm lòng ganh ghét nói ra lời vu báng nên trải qua nhiều năm cho đến trăm ngàn năm, ta bị đọa vào địa ngục chịu khổ báo. Do nghiệp còn sót nên ngày nay tu ta đã thành Chánh giác, vẫn bị ngoại đạo Phạm chí sai dâm nữ đến vu báng”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn xưa đã tạo nghiệp gì mà sau khi thành Chánh giác vẫn bị Ma-nạp-bà nữ Chủy đoan vu báng?”, Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe: Thuở xưa trong thành Bà-la-nê-tư có một Bà-la-môn học thông Minh luận, lại có 500 đồng tử theo ông thọ học. Lúc đó dân chúng trong thành đều tôn trọng cung kính cúng dường ông như một bậc A-la-hán. Thời gian sau bỗng có một vị tiên chứng năm thông du hành trong nhân gian đến trong thành này, dân chúng thấy tiên nhơn thân tâm tịch tónh, dung nhan điều thuận nên sanh tâm tịnh tín. Với phước nghiệp đã có, họ đến chỗ tiên nhơn cung kính cúng dường khiến cho Bà-la-môn kia không còn được kính ngưỡng và được cúng dường như trước nữa. Bà-la-môn sanh lòng ganh ghét tiên nhơn, khởi ý ác nói với học trò rằng: “tiên nhơn ấy rất tham dục”, các học trò cũng nói theo thầy là tiên nhơn ấy rất tham dục rồi đi rao nói khắp trong thành, dân chúng nghe lời này liền sanh tâm khác, tiên nhơn sợ bị khinh mạn nên bỏ đi đến nơi khác. Này các Bí-sô, Bà-la-môn ngày xưa chính là thân ta ngày nay, 500 đồng tử học trò chính là 500 Bí-sô ngày nay. Xưa do ta ganh ghét nên vu báng tiên nhơn là người tham dục, do nghiệp ác này trải qua nhiều năm cho đến trăm ngàn năm, ta bị đọa vào địa ngục chịu khổ báo. Do nghiệp còn sót nên ngày nay tuy ta đã thành Chánh giác, ta cùng 500 Bí-sô vẫn bị Ma-nạp-bà nữ Chủy đoan đến vu báng”. Lại nữa các Bí-sô, trong thành Bà-la-nê-tư có vua tên Phạm thọ dùng chánh pháp cai trị, dân chúng giàu có an vui. Trong thành có một dâm nữ tên là Hiền thủ làm nghề bán sắc để sống, lúc đó có một người nam tên là Vi ngẫu, tánh tình bạo ác. Người này đem y phục, chuỗi anh lạc tặng cho dâm nữ để được cùng nàng hoan lạc, nàng mặc áo định đến chỗ Vi ngẫu thì có một người nam khác cầm 500 tiền vàng đến muốn cùng nàng hoan lạc. Hiền thủ suy nghó: “nếu ta đến chỗ Vi ngẫu thì sẽ mất 500 tiền vàng này, nhưng có người đem tiền đến dâng thì không nên bỏ mất, ta cùng người nam này hoan lạc, sau đó sẽ đến chỗ Vi ngẫu”, nghó rồi liền bảo người hầu: “ngươi hãy đến chỗ Vi ngẫu nói hãy đợi ta chải đầu, tắm rửa, trang điểm xong sẽ đến”. Người hầu đi rồi, Hiền thủ cùng người nam này hoan lạc, do người nam này có nhiều công việc nên không ở lại lâu, Hiền thủ suy nghó: “bây giờ ta đến chỗ Vi ngẫu, không biết anh ta có vừa ý không”, nghó rồi liền bảo người hầu: “người hãy đến chỗ Vi ngẫu nói là ta đã tắm rửA-trang điểm xong rồi, sẽ đến vườn hoa để cùng hoan lạc”, người hầu đến nói, Vi ngẫu nói: “hồi nãy nói là chưatrang điểm xong, giờ lại nói là trang điểm xong rồi, là có ý gì?”, người hầu do phải đi tới lui hai, ba lượt nên trong long không vui, liền đem việc trên kể lại, nói rằng: “cô ấy mặc áo và đeo chuỗi anh lạc của ông tặng lại cùng người nam khác hoan lạc, nên bảo tôi đến nói đi nói lại như vậy”. Vi ngẫu nghe rồi tâm dục biến mất, tâm giết hại phát sanh liền bảo người hầu về báo lại là hãy đến gặp ở vườn hoa. Khi Hiền thủ đến, Vi ngẫu hỏi: “nàng mặc áo và đeo chuỗi anh lạc của ta tặng lại cùng hoan lạc với người nam khác là nghóa làm sao?”, Hiền thủ nói: “đó là lỗi của tôi, xin anh tha thứ”, Vi ngẫu nghe rồi liền rút dao chặt đầu Hiền thủ, người hầu thấy liền la lớn, dân chúng nghe tiếng la liền chạy đến. Lúc đó có một vị Độc giác tên Cực lạc đang ngồi nhập định dưới 1 gốc cây gần đó, Vi ngẫu liền để con dao dính máu ở chỗ vị Độc giác rồi chạy lẫn vào trong đám đông. Dân chúng chạy đến thấy con dao dính máu ở chỗ vị Độc giác liền cho rằng vị Độc giác là kẻ giết người, liền lấy dây tròi lại dẫn đến chỗ vua, vị Độc giác nói cách nào họ cũng không tin, vua nghe rồi không truy xét liền ra lịnh đem chém vị Độc giác. Vi ngẫu thấy vị Độc giác sắp bị đem ra chém liền suy nghó: “khổ thay người xuất gia giữ giới, đức hạnh mà chịu hàm oan. Đó là lỗi của ta, ta không nên đưa vị ấy đến chỗ chết”, nghó rồi liền đến chỗ vua tâu rõ sự thật và xin vua khai ân. Này các Bí-sô, Vi ngẫu ngày xưa chính là thân ta ngày nay, do nghiệp ác nay nên trải qua nhiều năm cho đến trăm ngàn năm, ta bị đọa vào địa ngục chịu khổ báo. Do nghiệp con sót nên ngày nay tuy ta đã thành chánh giác vẫn cọn bị người đến vu báng”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn trước đã tạo nghiệp gì mà sau khi thành Chánh giác lại còn cùng 498 Bí-sô phải ăn lúa mạch của ngựa ở Biên thành; còn Xá-lợi-tử và Đại Mục-kiền-liên lại được chư thiên cúng dường?”, Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe: Thuở xưa lúc con người thọ đến tám vạn bốn ngàn tuổi, có Phật hiệu là Tỳ-bà-thi Như lai, Ứng chánh đẳng giác, đủ 10 hiệu. Phật cùng tám vạn bốn ngàn Bí-sô trụ ở gần kinh đô thành Thân huệ, trong thành có một Bà-la-môn dạy học cho 500 đồng tửrất được dân chúng trong thành tôn trọng, cúng dường như một vị Ứng cúng. Khi Tỳ-bà-thi Như lai đến trụ nơi này thì dân chúng trong thành không còn cung kính tôn trọng cúng dường Bà- la-môn như trước nữa, điều này khiến ông ta sanh tâm tật đố đối với Phật và tăng. Vào một buổi sáng, các Bí-sô Hữu học và Vô học đắp y mang bát vào thành khất thực được đầy bát thức ăn ngon. Bà-la-môn thấy rồi liền gọi đến để xem đã khất thực được gì, do tật đố nên nói với các học trò: “những người này không đáng được cúng dường các món ăn ngon như thế, chỉ nên thí cho họ lúa mạch thô”, các học trò hùa nhau nói theo: “đúng như lời Thân giáo sư nói, họ chỉ đáng được ăn lúa mạch thô”. Lúc đó trong số học trò có hai người nói: “Ô-ba-đà-da, chớ nên nói lời này. Phật và Tăng chính là bậc ứng cúng, đáng được chư thiên cúng dường không phải có người cúng dường mà thôi”. Này các Bí-sô, Bà-la-môn ngày xưa chính là ta ngày nay, các học trò nói hùa theo chính là 498 Bí-sô ngày nay, hai học trò hiền thiện ngày xưa chính là Xá-lợi-tử và Đại Mục-kiền-liên ngày nay. Do trước kia ta đối với Tỳ-bà-thi Như lai và các Bí-sô Hữu học, vô học sanh tâm tật đố nói ra lời bất thiện; các học trò nói hùa theo nên ngày nay cùng chịu quả báo này, hai học trò không nói hùa theo, nhờ thiện nghiệp đó nên ngày nay được chư thiên cúng dường”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn trước đã tạo nghiệp gì mà khổ hạnh suốt 6 năm vẫn không thể chứng quả?”, Phật bảo các Bí-sô: “…các thầy lắng nghe: Thuở xưa ở làng Vô tỉ có một người thợ gốm tên là Hỷ hộ như trong phẩm Vương pháp tương ưng kinh Trung A Cấp ma có nói rõ. Này các Bí-sô, Ma-nạp-bà tên Vô thượng ngày xưa chính là thân ta ngày nay. Xưa do ta nói Phật Ca-nhiếp-ba tu khổ hạnh chưa chứng đầy đủ trí huệ nên ngày nay ta tu khổ hạnh suốt trong sáu năm vẫn không thể chứng đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nếu thuở đó ta không sám hối trước vị Phật đó và nguyện cầu được chứng Đẳng chánh giác ở đời vị lai thì dù trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp tu phẩm thiện, ta vẫn chưa thể thành Phật”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn trước đã tạo nghiệp gì mà sau khi thành Chánh giác vẫn còn đau bịnh?”, Phật bảo các Bí-sô: “… các thầy lắng nghe: Thuở xưa ở một làng nọ có một thầy thuốc, lúc đó con trai của một trưởng giả trong làng mắc bịnh nên trưởng giả mời thầy thuốc đến nhà chữa bịnh cho con, thầy thuốc sau khi ra toa cho uống thuốc, bịnh liền khỏi, trưởng giả liền mang ít của cải ra biếu cho thầy thuốc. Thời gian sau trưởng giả mắc bịnh, ba lần mời thầy thuốc, ba lần đều được chữa khỏi nhưng trưởng giả lại không đem lễ vật đến tạ ân. Thầy thuốc trong lòng tức giận suy nghó: “trưởng giả ba phen mắc bịnh, ba phen ta đều chữa khỏi nhưng ông ta đều không tạ ân; nếu lần sau ông ta mắc bịnh nữa ta sẽ cho uống thuốc không đúng bịnh để người ngu đó chịu khổ đau đớn như đứt ruột”. Thời gian sau con của trưởng giả bịnh cũ tái phát liền đến mời thầy thuốc, do trong lòng đã sanh tức giận nên thầy thuốc liền ra toa cho uống thuốc không đúng bịnh khiến cho con của trưởng giả đau đớn như đứt ruột. Này các Bí-sô, thầy thuốc ngày xưa chính là thân ta ngày nay. Do xưa ta với tâm ác cho con của trưởng giả uống thuốc không đúng bịnh nên ta bị đọa vào địa ngục chịu khổ báo cho đến trăm ngàn năm. Do nghiệp còn sót nên ngày nay sau khi đã thành Chánh giác ta vẫn bị đau bịnh”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn xưa đã tạo nghiệp gì mà sau khi thành Chánh giác, khi người khác tru diệt dòng họ Thích, Thế tôn liền đau đầu?”, Phật bảo các Bí-sô: “… các thầy lắng nghe: Thuở xưa ở cạnh sông Lưu huệ có 500 ngư phủ, lúc đó trong biển cả có hai con cá lớn bị trôi giạt mắc cạn trong sông. Các ngư phủ này bắt được rồi bàn với nhau: “nếu ta giết cá này thịt sẽ thối rữa không ai chịu mua, chúng ta nên cột lại, khi có ai đến mua chúng ta sẽ cắt thịt dần để bán, như vậy thít cá mới tươi”, bàn xong họ làm y như vậy, khi có ai đến mua họ mới cắt bán từng phần khiến cho cá đau đớn giẫy giụa, máu chảy khiến nước sông biến thành màu đỏ. Lúc đó có đứa bé ở trên bờ thấy cảnh này liền vui cười thích thú. Này các Bí-sô, đứa bé cười thích thú đó chính là thân ta ngày nay. Xưa thấy cảnh ngư phủ giết cá cắt lấy thịt bán, ta vui thích nên trải qua cho đến trăm ngàn năm thường mắc bịnh đau đầu, Do nghiệp con sót nên ngày nay sau khi thành Chánh giác, lúc dòng họ Thích bị tru diệt ta liền bị đau đầu”. Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: “Thế tôn trước đã tạo nghiệp gì mà sau khi thành Chánh giác vẫn còn bị đau lưng trúng gió?”, Phật bảo các Bí-sô: “… các thầy lắng nghe: Thuở xưa có một tráng só du lịch qua các nước đến một kinh đô, vua ở kinh đô đó có một tráng só nổi danh là vô địch. Hai tráng só này gặp nhau, vì muốn biết ai mạnh yếu nên họ hẹn đấu nhau. Thường pháp củatráng só là chỉ cần nắm tay nhau liền biết được ai mạnh yếu, lúc đó tráng só từ ngoài đến sau khi nắm tay tráng só trong nước xong liền biết tráng só này không thể thắng nổi mình, vị tráng só trong nước cũng biết như thế nên nói với tráng só kia rằng: “anh nên biết dòng họ tôi ở trong nước này nổi danh là vô địch từ lâu đời nay. Tôi biết không thể thắng nổi anh, chỉ xin anh đừng đánh gục tôi để dòng họ tôi khỏi bị chê cười, tôi sẽ đem con gái đẹp của mình gả cho anh”. Tráng só từ ngoài đến nghe nói vậy liền nhận lời, ba lần đánh ba lần đều giả thua nhưng tráng só vô địch lại không giữ lời gả con gái, tráng só kia trong lòng tức giận nên lần thứ tư khi đánh nhau, liền nâng tráng só vô địch trong nước lên và ném mạnh xuống khiến cho tráng só nổi danh vô địch này bị gãy cột sống mà chết. Này các Bí-sô, tráng só đánh chết tráng só vô địch trong nước đó chính là thân ta ngày nay. Do nghiệp ác này trải qua cho đến trăm ngàn năm ta chịu khổ báo trong địa ngục. Do nghiệp còn sót nên ngày nay sau khi đã thành Chánh giác ta vẫn còn bị đau lưng. Này các Bí-sô, vì lý do này ta thường tuyên thuyết: hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu nghiệp trắng, các thầy nên học như thế.” Lúc đó Thế tôn cùng 500 Bí-sô A-la-hán nói nghiệp báo xưa ở trong ao Vô nhiệt đã xong, liền ẩn mất ở ao Vô nhiệt và hiện ra ở trong vườn của Lộc tử mẫu phía đông thành Thất-la-phiệt. Lộc tử mẫu nghe tin liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho được lợi hỉ rồi liền im lặng. Lúc đó Lộc tử mẫu chắp tay bạch Phật: cúi xin Thế tôn và các Bí-sô ngày mai thọ con thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời Lộc tử mẫu trở về nhà lo liệu đầy đủ các món ẩm thực rồi sai sứ đến thỉnh Phật… cho đến câu Phật thọ thực xong, nói pháp chỉ dạy cho Lộc tử Mẫu được lợi hỉ rồi trở về trú xứ. Về đến xứ Phật mới bảo các Bí-sô: “Lộc tử mẫu thỉnh Phật và Tăng thọ thực xong lại quên thỉnh Thế tôn đọc kệ chú nguyện”. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 79