<經 id="n1444">CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA XUẤT GIA SỰ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1444 CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ XUẤT GIA SỰ <卷>QUYỂN 1 Tổng Nhiếp Tụng: Xá-lợi-tử xuất gia, Và ngoại đạo hai người, Cùng Khu ô thiếu nhi, A-la-hán, bịnh, nữ. Biệt Nhiếp Tụng: Xá-lợi-tử xuất gia, Cho thọ pháp Cận viên, Điều phục gọi Tiểu quân, Ngoại đạo Lúc đó có vua nước Chiêm-ba tên là Ương-già và vua nước Ma- kiệt-đà láng giềng hiệu là Đại-liên-hoa, hai nước giáp ranh nhau đều có binh mã hùng cường tinh nhuệ, dân chúng trong hai nước đều sống thịnh vượng giàu vui. hai nước đã trải qua nhiều năm đánh nhau lúc thắng lúc bại, sau đó vua Ương-già với nước giàu dân mạnh tính kế trả thù xưa nên cố gắng luyện tập quân đội hùng mạnh, định ngày tuyên thệ xuất quân tru diệt thù địch. Lúc đó những người sống ở vùng biên giới biết được liền sai sứ giả báo cho vua Đại-liên-hoa hay, vua hay tin liền xuất quân chống cự, hai bên giao tranh, vua Đại-liên-hoa bại trận rút quân về thành cố thủ. Vua Ương-già sai sứ đến nói với vua Đại-liên-hoa: “Nếu hàng phục thì tốt, bằng không sẽ không dung thứ, có lên trời cũng giăng lưới bắt, có trốn trong nước cũng giăng dây trói, có trốn lên núi hay chạy vào rừng cũng không thoát khỏi”, vua Đại-liên-hoa nghe rồi rất sợ hãi nói với quần thần: “Quân của vua Ương-già hùng mạnh lại sai sứ đến bảo quy hàng, đất nước nguy ngập, các khanh có phương pháp nào cứu vãn hay không?”, quần thần nói kệ tâu vua: “Có vua thì có nước, Không vua nước không còn, Nước mất trùng hưng được, Người chết không sống lại. Nước và mạng khác nhau, Người nên khéo giữ mạng, Nước mất lập lại được, Mạng mất không sống lại.” Nói kệ rồi quần thần khuyên vua quy hàng, vua nghe theo tự trói mình đến quy hàng và thệ ước với vua Ương-già sẽ triều cống vónh viễn, công việc hoàn tất, vua Đại-liên-hoa được thả về. Lúc đó Bồ tát đang ở trên cõi trời Đổ-sử, quán thấy thế gian có đủ năm việc muốn hạ sanh nên chư thiên ở cõi trời Lục dục lo liệu những việc cần làm để cho Bồ tát vào thai của phu nhơn Tam tịnh Ma-da trong nhà Duyệt đầu đàn ở nước Ca-duy-la-vệ, lại khiến cho bà Ma-da được giấc mộng tốt lành là mộng thấy Bồ tát hiện hình voi trắng giáng thần vào thai mẹ. Lúc đó đại địa chấn động, ánh sáng rực rỡ lấn át sắc vàng ròng, chiếu soi khắp thế gian hơn cả ánh sáng của mặt trời mặt trăng, trên chiếu soi đến tận cõi trời ba mươi ba, dưới chiếu soi đến tận những nơi mà ánh sáng của mặt trời mặt trăng không chiếu tới khiến chúng sanh không nhận biết nhau, nhưng vừa gặp thần quang này soi tới liền thấy được nhau. Thánh nhơn thị hiện tướng, người thế gian không thể biết được, cho nên ngay trong ngày Bồ tát hạ sanh, hậu cung của vua bốn nước đồng thời cũng hạ sanh Thái-tử, vua của bốn nước đều cho là điềm lành của con mình. Một là vua Đại-liên-hoa của thành Vương-xá vào ngày sanh Thái- tử, thấy ánh sáng chiếu soi này liền cho là điềm lành của con mình, tự nghó: “Oai đức của con ta như mặt trời mọc, oai quang của con ta có thể chiếu sáng thế gian”, do ánh quang thù thắng biểu thị cho điềm tốt lành, nên vua đặt tên cho Thái-tử là Ảnh-thắng. Hai là đại vương Ma la của thành Thất-la-phiệt cũng như vua Đại- liên-hoa cho ánh sáng này là điềm lành của con mình, nói rằng: “Con ta mới sanh liền có điềm lành thù thắng, ánh sang chiếu khắp nơi, quốc giới thanh bình”, vua theo đức này nên đặt tên cho Thái-tử là Thắng quân. Ba là Đại vương Xa-đa-di của thành Ô-xá-ny cũng như hai vua kia cho ánh sáng này là điềm lành của con mình, nói rằng: “Con ta có đức nên ánh sáng xuất hiện”, vua theo điềm lành trên nên đặt tên cho Thái-tử là Xuất-quang. Bốn là vua A-nan-đa-nê-di của thành Kiều-xa-di cũng như các vua kia cho ánh sáng này là điềm lành của con mình, nói rằng: “Con ta đản sanh như mặt trời mới mọc, ánh sáng chiếu soi phá trừ tăm tối, ánh sáng chuyển chiếu lên cao biểu thị cho sự tốt lành”, vua theo điềm lành này nên đặt tên cho Thái-tử là Nhật sơ. Cả bốn vua đều không biết thần quang đó là do đại thần lực của Bồ tát Thích-ca hiển hiện ra, nhưng các vương tử này đều có thắng nhân tích tập lâu đời, đều có đại nguyện lực nên cùng dẫn quyến thuộc theo bậc Thánh hạ sanh cõi này. Cho nên ngày Thái-tử Ảnh-thắng ra đời cũng là ngày năm trăm đại thần đều sanh con trai, họ đặt tên con theo tộc họ của mình. Thái-tử Ảnh-thắng được giao cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng, theo thời gian dần dần trưởng thành như hoa sen vượt lên khỏi mặt nước. Thái-tử không những học thông các môn binh thư kỹ nghệ, lịch số, kế toán cho đến tất cả pháp của vua quán đảnh dòng Sát-đế-lî; mà còn học thông các thứ công xảo và các phép tắc điều khiển voi ngựa, bắn cung, đánh kiếm, phương pháp điều binh cho đến bốn bộ Minh luận thảy đều thông suốt. Con của năm trăm vị đại thần cũng như Thái-tử đều học thông tất cả. Thời gian sau, Thái-tử coi ngó việc nước, một hôm Thái-tử cởi voi du hành thấy có người đang trưng thu thuế, liền hỏi tùy tùng: “Những người này tại sao được trưng thu thuế?”, đáp: “Đây là sứ giả của vua Ương-già nước láng giềng đến đây trưng thu thuế”, Thải tử hỏi: “Tại sao nước ta lại cho họ trưng thu thuế?”, đáp; “Đó là thệ ước từ xưa”. Lúc đó Thái-tử triệu sứ giả đến nói rằng: “Vua nước ngươi là Quán đảnh dòng Sát-đế-lî vua nước ta cũng là Quán đảnh dòng Sát- đế-lî, việc trị nước không đồng, dân chúng cũng khác, tại sao các ngươi vượt biên giới của mình đến đây trưng thu thuế. Các ngươi hãy mau trở về nước, từ nay dứt hẳn việc làm này”. Sứ giả nghe rồi tự nghó: “Thái-tử bản tánh ngang ngược, ý muốn bội lời thệ ước để ta trở về tay không. Ta nên đến gặp vua Đại-liên-hoa đòi trưng thu thuế”, nghó rồi liền cùng đến chỗ nhà vua và được vua ra sắc lịnh cho trưng thu thuế như cũ. Trên đường về cung, Thái-tử lại gặp sứ giả trưng thu thế như cũ liền nói: “Ta đã ra lịnh các ngươi rời khỏi nơi đây, tại sao các ngươi còn lưu lại. Trở về nước thì tốt, nếu không ta sẽ nghiêm trị”. Sứ giả nghe rồi sợ hãi cùng nhau trở vế nước, đem việc này tâu lên vua Ương-già: “Thái-tử Ảnh- thắng là người ngang ngược, bội lời thề ước không cho trưng thu thuế. Cúi mong nhà vua sớm có kế sách đối phó, nếu không sẽ chiêu lấy họa hoạn sau này”, vua nghe rồi nói kệ: “Cây lúc đang lên mầm, Móng tay bấm liền đứt, Nếu đợi đến cao lớn, Búa rìu không chặt ngã”. Lúc đó vua Ương-già tức giận sai sứ mang thư đến cho vua Đại- liên-hoa, trong thư nói: “Ảnh-thắng ngang ngược, phải trói cổ đưa tới đây, nếu không ta sẽ thân chinh giết nó, nên hiểu ý của trẫm”, vua xem xong kinh hãi sợ mất nước nên triệu Thái-tử đến trách cứ và đưa thư cho Thái-tử xem, Thải tử xem xong tâu vua: “Vua nước họ là Quán đảnh dòng Sát-đế-lî, vua nước ta cũng là Quán đảnh dòng Sát-đế-lî, lãnh thổ khác nhau tại sao cho họ trưng thu thuế. Cúi xin Đại vương ban cho con bốn binh để con chống lại họ”. Vua nghe rồi tự xét thấy Thái-tử có thể gánh vác được việc lớn nên phúc thư cho vua Ương-già, trong thư nói: “Nhà vua muốn tôi bắt Ảnh-thắng trói cổ đưa đến, nhưng đứa con này muốn kế tục sự nghiệp của Tiên vương. Lịnh trên tuy đáng làm nhưng tôi chưa dám vâng theo, đại vương muốn dùng hùng lực lấn áp, khí mạnh lấn sang, binh mã trán đồng, tôi chỉ biết chờ xử tội”. Vua Ương-già xem xong hết sức tức giận ra lịnh chỉnh trang quân lực để vua thân chinh tru diệt Ảnh-thắng, nhà vua thống lónh ngàn vạn quân binh, cờ xí rợp trời, chuông trống vang dậy tiến quân đánh nước Ma-kiệt-đà. Vua Đại-liên-hoa nghe tin kinh hãi, liền triệu Ảnh-thắng đến giao cho bốn binh, Thái-tử thống lónh năm trăm người con của các đại thần hỏi: “Vua Ương-già cùng nước ta có oán thù xưa, nay ta phải phục hận, họ xâm lấn nước ta ắt có nhiều mưu kế, các ngươi thọ ân sũng của vua nay có phương sách gì giúp ta dẹp giặc an dân hay không?”, tất cả đều đáp: “Chúng tôi không có kế sách gì, nhưng chúng tôi dám liều thân phò Thái-tử”, Thái-tử liền nói kệ: “Trị quốc nuôi lê dân, Phải nên khéo giữ gìn, Bị ngoại xâm lấn chiếm, Bá tánh biết nương đâu?” Nói kệ rồi bảo: “Các người hãy đồng tâm hợp lực hộ vệ ta”. Sau đó Thái-tử ra lịnh xuất chinh, oai đức hùng mạnh và nói với ba quân: “Ta nghe người thiện chiến không cần quân trận, nay vua Ương-già có binh mã đông và hùng mạnh, nếu đối địch chỉ thương tổn cho ta, ta phải dùng mưu trí mới là thượng sách”. Thái-tử liền tuyển mộ những người mạnh khỏe, chờ lúc địch không phòng bị giết vua Ương-già khiến cho ba quân sáu sư nhất thời tan rã, sau đó chỉnh đốn binh mã tiến lên phương Bắc, người trong nước kia không biết vua mình đã chết nên cố thủ thành. Thái-tử liền ra lịnh treo đầu vua Ương-già lên ngọn giáo cho quân trong thánh thấy và ra lịnh: “Đây là đầu vua Ương-già, các ngươi hãy mau mở cửa thành, nếu không sẽ bị giết chết cùng một lúc”, mọi người nghe rồi sợ hãi liền mở cửa thành quy hàng, Thái-tử vào thành tồi sai sứ về tâu lại vua cha: “Nhờ oai đức của Đại vương và quần thần tận lực nên vua Ương-già nghịch mạng đã bị giết chết, quốc giới từ nay thanh bình”. Vua Đại-liên-hoa nghe rôi vô cùng mừng rỡ sai đem các y phục trang sức và lọng bảy báu đến ban cho Thải tử và phong làm vua nước Chiêm-ba thay thế vua Ương-già, nhân dân từ nay gọi là đại vương Ảnh-thắng, thần công thánh đức lan truyền khắp nơi, dân chúng sống an lạc không còn trộm cướp. Thời gian sau vua Đại-liên-hoa băng hà, quần thần nước Ma-kiệt-đà báo tang cho vua Ảnh-thắng biết và mời trở về trị nước, vua Ảnh-thắng giao việc nước Chiêm-ba cho cựu thần rồi nghiêm giá binh mã trở về nước thọ tang. Sau tang lễ vua Ảnh-thắng lên ngôi kế vị, dùng pháp giáo hóa dân, mưa thuận gió hòa, khắp nơi an ổn, các nước lân cận đều kính nể không còn oán địch. Lúc đó ở trung Thiên trúc có con của một Bà-la-môn đi đến phương nam cầu học, ở nam Thiên trúc có một đại Bà-la-môn tên là Địa sư thông suốt bốn bộ luận, được mọi người tôn xưng là Đại sư. Đồng tử Bà-la-môn này đến phương nam rồi tới chỗ Đại sư đảnh lễ và xin được làm đệ tử cầu học, Đại sư hỏi muốn học gì, liền đáp là muốn học bốn bộ Minh luận, Đại sư thâu nhận, đồng tử này theo Đại sư học các pháp sự. Theo pháp của Bà-la-môn, mỗi tháng có ba ngày không làm các việc khác, chỉ làm ba việc là tắm rửa, vào thành thị và đốt củi. Đến ngày này các đệ tử của đại sư cùng đi kiếm củi về để đốt, trên đường đi họ cùng hỏi thăm nhau về quê quán và chủng tộc, người thì đáp là ở phương Đông, người đáp là ở phương Nam, người đáp là ở phương Tây, người đáp là ở phương Bắc, người đáp là ở Trung phương (Trung Thiên trúc). Lúc đó có người nói kệ: “Trí huệ ở phương Đông, Kính thuận ở phương Nam, Lưỡng thiệt ở phương Tây, Ác khẩu ở phương Bắc”. Còn Trung phương thì không biết như thế nào?”. Sau đó họ bạch thầy: “Ô-ba-đà-da, chúng con muốn đến Trung phương tham quan và yết kiến các bậc thầy nơi đó, chúng con muốn hàng phục các luận sư ở nơi đó, nhờ nhân duyên này tên tuổi của chúng con sẽ lan truyền khắp nơi và được nhiều trân tài”, vị Đại sư này vốn ái niệm các đệ tử nên đem y phục và các vật dụng đã có chia cho các đệ tử rồi cùng các đệ tử đi đến nước ở trung phương. Trên đường đi họ cùng những người có trí huệ luận nghị đều được thắng nên có nhiều theo xin cầu học và thờ làm thầy. Khi đến nước ở trung phương, vị đại sư này suy nghó: “Ta nghe những người có trí đều tập trung ở triều đình, ta nên đến đó hàng phục họ, vì sao? Vì ví như cây lớn có gốc và cành lá, những nơi ta đi qua luận nghị đều được thắng chỉ là cành lá, nếu ở nơi triều đình ta được thắng mới là chặt được gốc”, nghó rồi liền đến chỗ vua xin được cùng luận nghị với các luận sư trong nước. Nhà vua nghe rồi liền hỏi quần thần: “Trong nước ta có các Bà-la-môn nào có thể luận nghị cùng vị đại sư này không?”, quần thần đáp: “Có Bà-la-môn ở thôn Na-la thông suốt bốn bộ Minh luận, trí huệ như lửa đã tự tạo luận, tên là Ma- trá-la”, nhà vua nói: “Hãy mời vị Ô-ba-đà-da đó đến”. Đại thần vâng lịnh mời đến, vua hỏi: “Ô-ba-đà-da có thể ở trước ta luận nghị cùng vị đại sư kia không?”, liền đáp: “Thần xin gắng sức đối đáp”. Sau khi bố trí đàn tràng xong, cả hai cùng vào chỗ ngồi bắt đầu cùng luận nghị, vị Đại sư khách được trình bày trước bèn tụng ra năm trăm bài kệ tụng, Ma-trá-la tụng đáp lại và chỉ ra những lỗi sai của Đại sư rồi nói: “Ngôn nghóa trong bài tụng của ông không tương đương, không hợp đạo lý”, Đại sư nghe rồi liền im lặng, theo pháp luận nghị ai im lặng không đáp lại được là thua. Nhà vua nghe biết Ma-trá-la luận nghị được thắng rất vui vẻ hỏi rằng: “Ô-ba-đà-da hiện ở thôn ấp nào?”, đáp là thôn Na la, nhà vua liền phong thưởng thôn Na-la cho Ma-trá-la được tùy ý thọ dụng. Thường tình có danh lợi thì liền có nhân duyên, cho nên Ma-trá- la cưới một người con gái dòng Bà-la-môn làm vợ cùng sống rất hạnh phúc, không bao lâu sau sanh được một trai, do có vóc dáng cao nên được gọi là Trường thể. Trường thể đến tuổi trưởng thành học thông các môn, cho đến bốn bộ Bệ-đà, pháp tế tự, sáu cách cho và nhận thảy đều được thành tựu. Thời gian sau vợ của Ma-trá-la lại sanh thêm một gái, do có đôi mắt như chim Anh-vũ nên được gọi là Anh-vũ, đến tuổi trưởng thành cũng học thông các pháp luận nghị, khi cùng người anh luận nghị, cô thường được thắng, nên người cha nói: “Con là nam tử mà lại luận nghị thua con gái, ta nếu không có người thừa kế, tài sản của ta ắt chuyển qua người khác”. Lúc đó ở nam Thiên trúc có một đồng tử Bà-la-môn tên là Để-sa, thông hiểu luận Vô hậu thế (không có đời sau), vì cầu pháp nên đến Trung phương gặp Ma-trá-la cầu học và được Ma-trá-la thâu nhận.Sau khi thọ pháp rồi, sau giờ học Để-sa thường hay luận thuyết, thời giam sau lại cùng thầy luận nghị trước vua, Ma-trá-la là bậc niên trưởng nên được trình bày trước, muốn cho Để-sa rối loạn nên Ma-trá-la tụng năm trăm bài kệ tụng dài, không ngờ Để-sa nói tụng đáp lại và chỉ ra những lỗi sai rồi nói: “Đây là lời sai (phi ngôn), lời này phi loại (xếp loại sai), thuyết này không đúng”, khiến cho Ma-trá-la im lặng không đáp lại được nên bị thua. Nhà vua muôn phong ấp ban thưởng cho Để-sa, đại thần liền tâu: “Nếu ai luận nghị được thắng đếu phong ấp ban thưởng thì nước Ma-kiệt-đà không bao lâu sẽ mất hết, vua nên thu lại thôn ấp đã ban thưởng cho Ma-trá-la trước kia để ban thưởng cho Để-sa”, nhà vua chuẩn y. Ma-trá-la nghe rồi trở về bảo vợ thu xếp hành trang để đi đến thôn khác, người vợ hỏi nguyên do, Ma-trá-la nói: “Lâu nay ta thừa sự nhà vua, nhưng khi ta luận nạn không thắng, vua liền đoạt lại thôn ấp đã ban thưởng cho ta”, người vợ nghe rồi liền thu xếp hành trang sửa soạn lên đường. Lúc đó thân tộc nghe biết tin này liền cùng nhau đến thăm hỏi, Ma-trá-la nói: “Lâu nay ta thừa sự… giống như đoạn văn trên, cho nên ta phải ra đi”, thân tộc nói: “Ô-ba-đà-da sống ở đây rất tốt, xin hãy ở lại cùng với thân tộc”, Ma-trá-la nói kệ: “Trong nước bị người khinh, Sống nước ngoài tốt nhất, Nơi không bị khinh khi, Là quê hương thân tộc”. Lúc đó Để-sa nói với Ma-trá-la: “Ô-ba-đà-da, tôi là khách chỉ ở tạm rồi đi, thôn ấp thầy đã thọ dụng, tôi xin giao lại cho thầy”, Ma-trá- la không chịu nhận nên Để-sa nói: “Xin thầy hãy ở lại nhận một nửa thôn ấp, tôi nhận một nửa”, Ma-trá-la nhận lời rồi nói với vợ: “Hiền thủ, lâu nay ta thừa sự nhà vua nhưng khi luận nạn không thắng, vua không bảo hộ ta nữa. Để-sa lại cho ta ân huệ, giao lại cho ta một nửa thôn ấp, ta nên gả con gái cho Để-sa”, người vợ nói: “Hãy đợi ý kiến của con trai lớn là Câu-sắt-sỉ-la”. Sau đó Ma-trá-la nói với con trai: “Lâu nay ta thừa sự … giống như đoạn văn trên, nay ta muốn gả Xá-lị cho Để-sa”, Câu-sắt-sỉ-la nói: “Để-sa là oán thù của cha, đoạt thôn ấp của cha, lẽ nào cha lại kết làm người thân”, Ma-trá-la nói: “Con thật ngu si không biết gì, ý của cha mẹ con nên vâng theo”, sau đó Ma-trá-la y theo lễ pháp gả con gái cho Để-sa. Lúc đó Câu-sắt-sỉ-la suy nghó: “Ta vì ít nghe kém học nên bị coi thường, Để-sa kia do thông luận không có đời sau mà được thắng, ta cũng nên học luận này”, nghó rồi hỏi thăm tìm người thông hiểu luận không có đời sau để cầu học. Có người chỉ ở phương Nam, Câu-sắt-sỉ-la liền đi đến phương Nam hỏi thăm, có người chỉ đến gặp một Phạm chí tên , Câu-sắt-sỉ-la liền đến chỗ Phạm chí đó cầu học luận không có đời sau, Phạm chí nói: “Ta không truyền dạy cho người thế tục”, Câu-sắt-sỉ-la vì cầu học nên theo Phạm chí xuất gia rồi lập thệ: “Nếu ta không thông hiểu luận này quyết không cắt móng tay”, do nguyên nhân nay nên móng tay của Câu-sắt-sỉ-la dài dần ra, người đương thời gọi Câu-sắt-sỉ-la là Trường-trảo-phạm-chí. Lúc đó Xá-lị về sống với Để-sa rất hạnh phúc, có một vị trời ở cõi Tịnh-cư đã trồng căn lành từ lâu sẽ thọ thân sau cùng, không còn thích sanh tử, siêng tu cầu Niết-bàn nên ẩn thân nơi cõi trời Tịnh-cư đến thác sanh vào thai của bà Xá-lị. Lúc đó bà nằm mộng thấy có người cầm đuốc đi vào bụng mình, rồi thấy mình đi lên núi cao và bay lên hư không, lại thấy đại chúng làm lễ mình. Tỉnh dậy bà liền kể cho chồng nghe giấc mộng đó, Để-sa tuy hiểu về sách giải mộng nhưng vẫn không giải được giấc mộng này, bèn đến chỗ vị thầy giải mộng nhờ giải, vị thầy giải mộng nói: “Đó là một giậc mộng tốt lành, sẽ sanh quý tử, năm lến mười bốn tuổi sẽ đọc tụng thông suốt các luận của Thiên đế, sau này sẽ thắng tất cả luận nạn. Thấy lên núi cao và bay lên hư không được mọi người làm lễ là người con trai này sẽ xuất gia có oai đức lớn, thành tựu đại giới được trời người cung kính”. Sau khi mang thai Xá-lị luận nạn với chồng đều được thắng, Để-sa suy nghó: “Trước đây ta luận nạn đều thắng Xá lị, nay Xá-lị đều được thắng, đấy chính là nhờ oai đức của thai nhi”. Thời gian sau đủ ngày tháng Xá-lị sanh được một con trai, dung mạo đoan nghiêm, đủ các tướng tốt của bậc đại nhân, tôn thân tụ họp ăn mừng và muốn đặt tên cho đứa bé, người cha nói: “Nên đưa cháu đến gặp ông ngoại đặt tên”, ông ngoại nói: “Nó là con của Để-sa nên đặt tên là Ô-ba-Để-sa”, Để-sa suy nghó: “Đứa bé này được đặt tên theo họ cha, ta nên thêm họ mẹ đặt tên cho nó”, nghó rồi liền đặt tên là Xá-lợi-tử, cũng gọi là Ô-ba-Để-sa. Xá-lợi-tử được giao cho tám bà nhũ mẫu chăm sóc, ngày qua tháng lại đứa bé trưởng thành như hoa sen vượt lên khỏi mặt nước, học thông các môn học và cả bốn bộ Bệ-đà, năm lên mười sáu tuổi đã có thể luận nghị hàng phục được người khác. Một hôm ở trước cha đọc luận vệ đà rồi hỏi cha ý nghóa, người cha nói không biết, Xá-lợi-tử nói: “Những bài tụng này là do các vị Cổ tiên làm ra, người đời nay tuy không hiểu nghóa nhưng những bài tụng này không phải là không có ý nghóa”. Người cha thấy Xá-lợi-tử học vượt trội hơn mọi người nên giao cho Xá-lợi-tử dạy năm trăm học trò về Minh luận. Lúc đó ở thôn Lâm viên có một đại thần tên là Hình-ảnh giàu có thọ dụng đầy đủ, thê thiếp tuy nhiều nhưng không có con. Vì cầu con nên ông đi khắp các thiên miếu cho đến thọ thần ở sơn lâm để cầu, cuối cùng có một vị trời với thân sau cùng đến thác sanh vào thai vợ ông. Thời gian sau đủ ngày tháng vợ ông sanh được một trai muốn đặt tên cho con, mọi người bàn: “Đứa bé này do chư thiên mang đến nên đặt tên là Câu-lý-đa (Thiên bảo), cũng gọi là Mục-kiền-liên”. Người cha giao hài nhi cho tám bà nhũ mẫu chăm sóc, đến tuổi trưởng thành học thông các môn học, sáu loại pháp sự và bốn bộ Vệ đà, cũng giống như Xá-lợi-tử dạy cho năm trăm học trò về Minh luận. Tan học, năm trăm học trò này vừa đi vào thành vừa tán tụng, lúc đó năm trăm học trò của Xá-lợi-tử cũng vừa đi vào thành vừa tán tụng, nghe năm trăm học trò kia tán tụng liền nói: “Tại sao các vị tụng sai văn luận?”, hỏi: “Sai như thế nào?”… Sau đó năm trăm học trò của Xá-lợi-tử hỏi biết được là học trò của Mục-kiền-liên ở thôn Lâm viên nên tâm ý vui mừng trở về gặp thầy, thầy hỏi nguyên do không chịu nói, thầy liền nói kệ: “Trong lòng có tình ý, Có thể biết chuẩn xác, Dùng thanh sắc, căn thân, Biết giấu không thể được”. Học trò nghe rồi liền đem việc trên kể lại, thầy nghe xong nói rằng: “Những lời họ đọc tụng là văn hồi đáp đều đúng không sai”. Lúc đó các học trò của Mục-kiền-liên trở về với sắc mặt không vui, thầy hỏi nguyên do không nói, gạn hỏi mới đem việc trên kể lại, thầy nghe xong nói rằng: “Theo những lời họ tán tụng thì thầy của họ là bậc thông minh trí huệ, trường luận, đoản luận, thúc văn, dẫn văn đều cực kỳ xảo diệu”, hai bậc thầy này qua học trò đều muốn gặp mặt để hiểu biết nhau. Lúc đó Ô-ba-Để-sa đến gặp cha xin được đến thôn Lâm viên, người cha hỏi nguyên do liền đáp là muốn được gặp người con trai của vị đại thần Hình-ảnh tên là Câu-lý-đa, người cha nói: “Trí huệ của người ấy có thể thắng con”, Ô-ba-Để-sa nói: “Trí huệ không thắng nhưng nhà giàu có được mọi người tôn trọng”, liền nói kệ: “Tôn trọng người cao niên, Người giàu có cũng vậy, Người học rộng nghe nhiều, Đáng tôn trọng thừa sự”. Người cha nghe rồi liền nói: “Nếu người ấy đến đây, ta có thể truyền dạy, nhưng con không nên đến đó”. Lúc đó Câu-lý-đa cũng đến xin phép cha đi đến thôn Na-thích-đà, người cha hỏi nguyên do, đáp là muốn gặp người con của Bà-la-môn Để-sa tên là Ô-ba-Để-sa, người cha nói: “Họ giàu hơn con không?”, đáp là không giàu hơn nhưng trí huệ hơn, liền nói kệ: “Niên trưởng đáng tôn trọng, Người học nhiều cũng thế, Hoặc người nhiều tiền của, Đều tôn trọng thừa sự”. Người cha nghe rồi liền nói: “Nếu người ấy đến đây, con nên tặng tài vật nhưng con không nên đến đó”. Thời gian sau, trong thành Vương-xá có lễ hội, theo pháp vua hoặc vua tự đến hoặc sai Thái-tử đến. Lúc đó vua có việc riêng nên sai Thái-tử Vị-sanh-oán đến, đại thần Hình-ảnh nghe biết liền suy nghó: “Vua Ảnh-thắng băng hà thì Thái-tử sẽ kế vị, Câu-lý-đa sẽ thừa sự làm Thần tử”, nghó rồi liền bảo con: “Con nên đến chỗ lễ hội bố trí bốn tòa ngồi: Tòa vua, tòa đại thần, tòa âm thanh và tòa Bà-la-môn; con nên ngồi trên tòa Đại thần thứ hai ”. Lúc đó Để-sa cũng hay tin này liền bảo con: “Con nên đến chỗ lễ hội, thấy bốn tòa ngồi thì con nên để bình bát và tích trượng ở tòa ngồi thứ ba, còn con nên ngồi tòa thứ tư. Từ sáng đến chiều các luận sư đã có trong lễ hội đều sẽ không bằng con”. Ô-ba- Để-sa vâng lời cha ngồi ở tòa thứ tư, trong lúc mọi người tấu nhạc tán ca, Ô-ba-Để-sa đều ngồi im lặng nên mọi người bàn tán: “Người này chắc là Đại ngu, nếu không phải Đại ngu thì là bậc Đại trí”. Khi âm nhạc dừng, Câu-lý-đa hỏi Ô-ba-Để-sa: “Bạn có nghe thấy mọi người tấu nhạc tán ca không?”, đáp: “Tôi chánh nội quán nên không nghe thấy”, liền nói kệ: “Da gân chết tấu nhạc, Làm mọi người vui vẻ, Vô thường mau như xe, Người trí biết không vui”, Câu-lý-đa nghe rồi liền hỏi: “Bạn có phải là Ô-ba-Để-sa không?”, đáp phải, bèn hỏi lại: “Bạn có nghe thấy họ tấu nhạc tán ca không?”, đáp: “Tôi chánh nội quán nên không nghe thấy”, liền nói kệ: “Tất cả loại chuỗi ngọc, Trang sức làm nặng thân, Thân chuyển động nhảy múa, Đều nhiếp thuộc hư dối, Ca hát làm trò vui, Cũng như tiếng la hét, Tất cả đều vô thường, Nghó đến có gì vui”. Ô-ba-Để-sa nghe rồi liền hỏi: “Bạn có phải là Câu-lý-đa không?”, đáp phải, Ô-ba-Để-sa nói: “Tôi vì bạn nên đến đây, bạn hãy cùng tôi xuất gia”, Câu-lý-đa nói: “Những việc tế tự, tế thần lửa, cầu phúc, tu khổ hạnh… tồi đều thông hiểu; tôi lại là con của bậc đại thần thường cỡi voi đi, tại sao lại phải xuất gia?”, Ô-ba-Để-sa nói kệ: “Khi cây sắp muốn ngã, Nhánh lá không chống nổi, Chết đến cũng như vậy, Tài sản nào cứu được . Bạn hãy đến cùng tôi xuất gia”, Câu-lý-đa nói: “Tôi phải hỏi cha mẹ”, Ô-ba-Để-sa nói tốt lắm. Sau đó Câu-lý-đa đến xin phép cha mẹ cho đi xuất gia, người cha nói: “Những việc tế tự, tế thần lửa, cầu phúc, khổ hạnh con đều thông hiểu, con lại là con của Đại thần cỡi voi đi, tương lai sẽ là đại thần, vì sao phải xuất gia?”, Câu-lý-đa nói kệ: “Thà ở trong rừng mặc vỏ cây, Ở chung với thú, ăn trái cây, Không bận quốc sự, khỏi ràng buộc, Người trí không làm việc đáng lo”. Người cha nói: “Cha chỉ có mình con thương yêu biết bao, nhưng ý nguyện của con kiên quyết như thế thì cha cũng chấp thuận cho con xuất gia”. Lúc đó các bạn của Câu-lý-đa đều đến cùng Câu-lý-đa phát thắng tâm, sách tấn thân ý đi đến thôn Na thích đà hỏi thăm Ô-ba-Để- sa, người trong thôn nói: “Ô-ba-Để-sa đang ở nơi A-lan-nhã dạy cho năm trăm học trò đọc tụng thần chú Phạm tónh”. Sau khi gặp nhau, Ô- ba-Để-sa hỏi Câu-lý-đa: “Bạn đã được cha cho xuất gia rồi sao?”, đáp là đã cho, Ô-ba-Để-sa nói: “Bạn hãy tạm chờ, tôi cũng đi xin phép cha mẹ rồi sẽ trở lại ngay”, nói rồi Ô-ba-Để-sa đến xin phép cha mẹ, người cha chấp thuận cho con xuất gia, Ô-ba-Để-sa trở lại gặp Câu-lý-đa nói là cha mẹ đã cho phép, Câu-lý-đa hỏi tại sao mau như thế, Ô-ba-Để-sa nói: “Không phải chỉ hôm nay mà đã năm trăm đời, tôi đã từng xuất gia lại từng phát nguyện sanh đến nơi không quá sang cũng không quá hèn, gia cảnh bình thường, gia sự đơn giản nên mau trở lại”, Câu-lý-đa nói: “Còn tôi thuộc dòng tộc cao quý, muốn xuất gia không thể tùy nghi. Chúng ta hãy cùng thành vua yết kiến các vị tịnh phạm”. Lúc đó Lục sư ngoại đạo ở trong thành đều tự cho mình đã đắc thần thông, tự tại vô ngại; Ô-ba-Để-sa cùng Câu-lý-đa đến chỗ lục sư Bộ thích noa hỏi: “Nhân giả hành pháp nhãn gì, tu tập giáo pháp gì, chứng đắc quả gì và nếu trì phạm hạnh sẽ được thù thắng gì?”, đáp: “Ta thấy biết như vầy và nói học thuyết như vầy: không bố thí, không ái, không kiến, không cúng tế, không có thiện hạnh, Không có ác hạnh, không có quả dị thục của nghiệp báo thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có cha, không có mẹ, không có hữu tình hóa sanh. Trên thế gian không có A-la-hán chánh hạnh chánh thành tựu. Nếu người nơi đời này, đời sau ở nơi pháp của mình chứng được thần thông, nói là được viên thành rằng: sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, chỗ làm đã xong, không còn thọ thân sau; thì chỉ thọ đời này, đoạn dứt đời sau, chết là hết, bốn đại giả hợp tạm gọi là thân, khi chết bốn đại trở về chỗ ban đầu là Không giới thứ năm. Các căn biến đổi, đem tử thi hỏa thiêu, cháy thành tro trắng thì không còn gọi là người nữa. Hiểu như vậy rồi, người trí hành bố thí và người thọ thí nếu ai nói có thì đều là vọng thuyết, hư thuyết, kẻ đó là ngu muội; còn người trí biết rõ đều là đoạn hoại, không có thân sau”. Câu-lý-đa và Ô-ba-Để-sa nghe rồi liền suy nghó: “Vị thầy này trụ nơi phi đạo, hành sự phi trí; người trí không nên theo học và tu theo đạo này”, liền nói kệ: “Tà giải không nói đúng, Ưa thích pháp thấp kém, Nếu Thiện giáo như thế, Phi pháp sẽ thế nào?”. Cả hai biết rõ những lời đó như đánh vào vật khí rỗng, liền bỏ đi đến chỗ lục sư Mạt yết lî cù xà ly tử hỏi giống như đã hỏi vị trước, vị này đáp: “Ta nhận biết như vầy và nói học thuyết như vầy: Hữu tình thọ khổ không nhân không duyên, được an tịnh cũng không nhân không duyên, được an tịnh tự nhiên không do nhân duyên. Hữu tình không có trí huệ, không có tri kiến đều không do nhân duyên; hữu tình có trí huệ, có tri kiến cũng không do nhân duyên, trí huệ tự nhiên cũng không do nhân duyên. Không lục, không tinh tấn, không trượng phu, không có hình hài của ta, không có hình hài của kẻ khác, không có hành động của ta, không có hành động của người. Tất cả hữu tình, tất cả sinh mạng, tất cả loài không có trú xứ, không có chỗ ở, không có quan niệm chính xác về chánh đạo, về chỗ quy y của hữu tình, về khổ lạc, về giác ngộ, đó là sáu nẻo chúng sanh”. Cả hai nghe rồi suy nghó: Bậc thầy này trú nơi phi đạo, tu theo tà đạo; bậc trí giả nên xa lìa”, liền nói kệ: “Tà giải không nói đúng, Ưa thích pháp thấp kém, Chánh pháp đã như vậy, Phi pháp sẽ thế nào?” Cả hai biết rõ những lời nói đó như đánh vào vật khí rỗng, liền bỏ đi đến chỗ lục sư San-thệ-di tỳ thích tri tử hỏi giống như đã hỏi hai vị trước, vị này đáp: “Ta thấy biết như vầy và có học thuyết như vầy: Nếu cần giết người thì cứ giết và bảo người giết; cần tự đốt hay bảo người đốt, chặt, hại… cũng như vậy. Không cho mà nên lấy, nên hành tà dục, nên nói dối, nên uống rượu; nếu dùng dao ben chém chết người nhiều như núi, chất lại thành đống cũng không có tội hay quả báo gì cả. Ở phía nam sông Hăng sát sanh, qua phía bắc sông Hằng cúng tế làm hội thí, Cả hai đếu không có tội phúc. Đối với các pháp bố thí, trì giới … bốn Nhiếp pháp không làm thì được quả báo lớn”, Cả hai nghe rồi liền suy nghó: “Thuyết này là phi lý, đều là tà giáo, người trí nên từ bỏ”, liền nói kệ: “Tà giải không nói đúng, Ưa thích pháp thấp kém, Chánh pháp đã như vậy, Phi pháp sẽ thế nào?” Cả hai biết rõ những lời nói này như đánh vào vật khí rỗng, liền bỏ đi đến chỗ Lục sư A-thị-đa-kê-xá-cam-bạt-la-tử hỏi như đã hỏi các vị trên, vị này đáp: “Ta thấy biết như vầy và có học thuyết như vầy: Có bảy thân là địa, thủy, hỏa, phong, khổ, lạc và mạng; bảy thân này đều không có năng tác, không có sở tác, không có năng hóa, không có sở hóa, không có tổn hại, tích tụ an trụ như những cây sao đỡ lẫn nhau, chúng đều không sanh và không thay đổi cho đến chúng không hại nhau. Tội hay phước hay cả tội phước, khổ hay lạc hay cả khổ lạc, ở trong bảy thân này thân nào là trượng phu có thể hại nhau, người giết hay kẻ bị giết đều không có chủ tể, không hoại thế gian. Mạng nơi sáu thân, ở các khiếu cùng sáu thân làm chủ, rốt cuộc không tổn hại, trong đó cũng không hại nhau cũng không đấu tranh. Không có người ngộ, cũng không có phát ngộ, cũng không nhớ nghó, không có người tỉnh thức, không có biểu thị và người biểu thị. Tất cả có một vạn bốn ngàn sáu trăm môn phát thú độ lấy làm thượng thủ; lại có năm nghiệp, ba nghiệp là năng tác, hai nghiệp là sở tác; cũng có toàn nghiệp, cũng có bán nghiệp. Có sáu mươi bốn ngàn thân thuộc, sáu mươi trung kiếp, một trăm ba mươi Na thích ca các căn; lại có một trăm ba mươi sáu bịnh giới, có bốn mươi chín ngàn quyến thuộc của rồng, bốn mươi chín ngàn diệu súy điểu, bốn mươi chín ngàn quyến thuộc của ni kiền tử, bốn mươi chín ngàn quyến thuộc của ngoại đạo. bảy lần Có là một kiếp, bảy lần Không là một kiếp, bảy đời A-tô-la, bảy đời Ty-xá-già, bảy Thiên-cư, bảy Nhân gian, bảy ao lớn, bảy ao nhỏ, bảy mộng lớn, bảy trăm mộng nhỏ, bảy hầm hố lớn, bảy trăm hầm hố nhỏ, bảy đại ngộ, bảy trăm tiểu ngộ, sáu đoan nghiêm sanh, mười tăng trưởng. Về phía trượng phu là tám muôn bốn ngàn đại kiếp, trong đó kẻ ngu người trí đều phải luân chuyển qua rồi mới đoạn hết khổ và được giải thoát. Như lấy chỉ cột vào một vật nặng thả xuống đến hết chỉ, kẻ ngu người trí cũng vậy, đều phải trải qua tám muôn bốn ngàn kiếp lưu chuyển trong sanh tử đến hết kiếp mới được giải thoát. Trong đây nếu có Sa môn, Bà-la-môn nào nói rằng: Tôi giữ giới cấm này, cần khổ tu phạm hạnh, người chưa thành thục sẽ làm cho thành thục, người đã thành thục thì hết khổ đắc quả. Nếu ai nói lời này là không có lý, vì khổ vui thường trú, không có tăng giảm, không thể biết được. Tôi nói biết rõ sanh tử là thật không hư”. Cả hai nghe rồi liền suy nghó: “Vị thầy này trụ nơi phi đạo, người trí nên xa lìa”, liền nói kệ giống như văn kệ trên. Cả hai đều biết rõ những lời nói này như đánh vào vật khí rỗng, liền bỏ đi đến chỗ Nật-yết-lan-đà-tử hỏi như đã hỏi các vị trên, vị thầy này đáp: “Ta thấy biết như vầy và có học thuyết như vầy: Tất cả quả báo mà hữu tình thọ nhận đều là do nghiệp đời trước, nghiệp ác trong quá khứ nếu nay tu phạm hạnh sẽ được hết khổ; nay tu nghiệp thiện, do nhân duyên này sẽ được thiện quả, không tạo nghiệp ác nữa sẽ được lậu tận, lậu đã tận rồi, nghiệp khổ không còn, nghiệp khổ hết thì được giải thoát”. Cả hai nghe rồi liền suy nghó: “Những lời của vị thầy này nói đều là phi đạo, người trí nên xa lìa”, liền nói kệ giống như văn kệ trên. Cả hai đều biết rõ những lời nói này như đánh vào vật khí rỗng nên bỏ đi.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA XUẤT GIA SỰ <卷>QUYỂN 2 CÓ DUYÊN ĐỘ XÁ LỢI TỬ VÀ MỤC KIỀN LIÊN Lúc đó Câu-lý-đa và Ô-ba-Để-sa đến chỗ vị giáo sư tên là San- the-di, hỏi mọi người: “Vị sư ấy tónh tọa ở đâu?”, vị sư này đang ở trong phòng nghe rồi suy nghó: “Ta ở đây đã lâu nhưng không nghe ai dùng từ tónh tọa này”. Cả hai biết vị sư đó đang tónh tọa nên không muốn làm kinh động, bèn ẩn ở chỗ khuất đợi vị sư ấy xuất định. Sau đó San-thệ-di xuất định, các căn thanh tịnh, Cả hai đến gặp và hỏi: “Nhân giả có pháp nhãn gì, khai thị những gì, có thù thắng gì, tu phạm hạnh gì và được quả gì?”, San-thệ-di đáp: “Ta thấy biết như vầy: Chân thật không nói dối, không làm hại chúng sanh, thường không sanh tử, không đọa, không diệt sẽ được sanh lên hai cõi trời Phạm”. Cả hai hỏi: “Học thuyết này có nghóa gì?”, liền đáp: “Không nói dối gọi là xuất gia, không làm hại chúng sanh là cùng tất cả pháp lấy làm căn bản. Không sanh, không tử, không đọa, không diệt là Niết-bàn; sanh lên hai cõi trời Phạm là chỗ mà các Bà-la-môn đã tu phạm hạnh đều mong đạt đến”. Cả hai nghe rồi liền xin được xuất gia tu phạm hạnh, San-thệ-di liền cho Cả hai xuất gia, sau khi Cả hai xuất gia mọi người nghe biết đều mang phẩm vật đến dâng cúng nên San-thệ-di được rất nhiều lợi dưỡng. Ông liền suy nghó: “Vọng tộc xa xưa của ta thuộc dòng họ Kiều trần, nay ta cũng họ Kiều trần, nhưng ta được nhiều lợi dưỡng lại là do phúc đức của hai người đệ tử, không phải do phúc đức của ta”. San-thệ-di vốn có năm trăm đệ tử thường dạy cho họ luận điển, nay chia cho Câu-lý-đa và Ô-ba-Để-sa mỗi người một nửa đệ tử của mình để thay mình dạy giáo pháp cho họ. Thời gian sau San-thệ-di mắc bịnh, Ô-ba-Để-sa bảo Câu-lý-đa tìm y dược chữa trị nhưng uống vào bịnh càng nặng thêm, lúc đó San-thệ-di bỗng miệng móm cười, Ô-ba-Để-sa nói: “Bậc đại nhân móm cưới ắt có nhân duyên, xin hỏi thầy móm cười là có nhân duyên gì?”, San-thệ-di nói: “Quả thật ta móm cười là có duyên do, ở Kim châu có vị vua tên là Kim chủ, ông ta qua đời, khi sắp hỏa thiêu vợ ông ta cũng tự thiêu theo. Chúng sanh ngu si bị dục lôi kéo, dục tình đắm nhiễm nên chịu khổ não này”, Ô-ba-Để-sa hỏi là vào ngày tháng năm nào, San-thệ-di liền nói rõ ngày tháng năm, Ô-ba-Để-sa liền ghi lại rồi nói: “Chúng con xuất gia vì cầu đoạn sanh tử, thầy đã đạt được, xin chỉ dạy cho chúng con”, đáp: “Ta xuất gia cũng vì cầu việc này, nhưng điều các ngươi thỉnh cầu ta vẫn chưa đạt được. Vào ngày Bao sái đa có các thiên chúng ở trong hư không nói rằng: Trong dòng họ Thích có sanh một đồng tử, tại núi Tuyết có sông tên Phân lộ, trên bờ sông là trú xứ của tiên nhơn Kiếp- tỷ-la có một Bà-la-môn thông thiên văn và xem tướng. Vị này tiên đoán đồng tử này nếu không xuất gia sẽ là Chuyển luân Thánh vương, nhưng nếu xuất gia sẽ chứng Như lai Chánh đẳng chánh giác danh vang khắp mười phương. Các con nên xuất gia trong giáo pháp của vị ấy để tu phạm hạnh, không nên ỷ dòng họ tôn quý, phải siêng tu phạm hạnh, điều phục các căn, các con sẽ đắc quả vi diệu nơi vị ấy, không họ sanh tử nữa”, liền nói kệ: “Tích tụ đều tiêu tán, Cao ngất ắt rơi rớt, Hội họp ắt biệt ly, Có mạng đều phải chết”. Không bao lâu sau San-thệ-di qua đời, các đệ tử dùng lụa màu xanh, vàng đỏ trắng tẩm liệm rồi đem vào trong rừng hỏa thiêu. Lúc đó ở Kim châu có một Bà-la-môn tên là Kim phát đi đến thành Vương- xá gặp Ô-ba-Để-sa, Ô-ba-Để-sa hỏi biết được là từ Kim châu đến liền hỏi ở đó có việc gì hi hữu không, đáp: “Không có việc gì hi hữu, chỉ có vua Kim chủ chết, khi đem đi hỏa táng, vợ ông cũng tự thiêu theo”, Ô-ba-Để-sa liền hỏi rõ ngày tháng rồi kiểm tra lại mới biết là đúng như lời thấy đã nói, Câu-lý-đa nói: “Thầy ta đã chứng diệu pháp nhưng lại không dạy bí pháp cho chúng ta, nếu thầy không chứng được pháp nhãn thiên nhó thì làm sao biết phương ấy có việc như thế”, tuy nói như thế nhưng Câu-lý-đa lại nghó là Ô-ba-Để-sa chắc đã được diệu pháp từ thầy nên nói với Ô-ba-Để-sa: “Chúng ta cùng lập thệ: Ai chứng được pháp thượng diệu trước thì sẽ độ cho người kia”, lập thệ rồi cùng du hành trong nhân gian. Lúc đó Bồ tát đã hai mươi chín tuổi đang ở trong cung hưởng thọ ngũ dục lạc, do thấy cảnh sanh già bịnh chết nên nửa đêm vượt thành đến trong rừng già tu khổ hạnh sáu năm nhưng không đạt được gì. Bồ tát tự điều hòa hơi thở rồi thọ dụng sữa lạc…, dùng tô dầu thoa thân và tắm bằng nước thơm, sau đó đến tụ lạc Quân doanh nhận cháo sữa của hai mục nữ tên Hoan-hỉ và Hoan-hỉ lực dâng cúng. Sau đó có một người tên là Thường trụ đưa cho Bồ tát bó cỏ Cát tường, Bồ tát trải cỏ này dưới cội cây Bồ đề, chánh thân đoan tọa và phát thệ nguyện: “Nếu ta không đoạn tận các lậu, quyết sẽ không rời khỏi tòa này”. Lúc đó Bồ tát chưa chứng ngộ nên phải hàng phục ba mươi sáu vạn câu chi ác ma và trăm ngàn quỷ thần là quyến thuộc của ác ma. Bồ tát dùng áo giáp và trượng Từ bi hàng phục quân ma rồi liền chứng được Chánh giác bồ đề vô thượng. Lúc đó có Phạm thiên đến thỉnh Phật thuyết pháp, Phật đến thành Bà-la-nê-tư ba lần chuyển pháp luân, trong hội này người nghe pháp có hơn năm mươi người con của Đại thần, nghe pháp rồi đều xin xuất gia và thọ Cận viên. Sau đó Phật đến thôn Bạch điệp lâm, nơi đây có sáu mươi người kết làm bạn thân sau khi nghe Phật thuyết pháp đều phát tâm chánh tín. Kế đó Phật đến thôn Quân trụ, nơi đây có hai người con gái của trưởng thôn tên là Nan-đà và Nan-đà-bà-la, sau khi nghe Phật thuyết pháp đều sanh tâm chánh tín. Kế đó Phật đến bên ao Ưu lâu tần loa, nơi đây có vị Đại tiên tên là Ca-nhiếp và một ngàn đệ tử nghe Phật thuyết pháp rồi đều xin xuất gia và thọ cận viên. Kế đó Phật đến đỉnh Già-da chỗ Chế-để, thị hiện ba loại thần biến để nhiếp phục Già-da Ca-diếp được trụ nơi Viên tịch. Sau đó Phật đến Trượng lâm nước Ma-kiệt-đà thuyết pháp khiến cho vua Ảnh-thắng được thấy Chơn đế, cùng tám vạn thiên chúng và Bà-la-môn cư só nước Ma-kiệt- đà đến thành Vương-xá trụ ở Trúc-lâm bên ao Yết-lan-đạc-ca. Lúc đó Ô-ba-Để-sa và Câu-lý-đa đang du hành trong nhân gian, khi đến thành Vương-xá thấy trong thành tịch tónh tự nghó: “Có hai nhân duyên khiến trong thành kia tịch tónh: Có oán tặc làm cho sợ hãi hoặc có Bà-la-môn đại oai đức”, nghó rồi liền đi quán sát thì thấy không có oán tặc làm cho sợ hãi, liền biết là có bậc đại oai đức ở trong thành. Lúc đó Phật quán biết hai người dị học này đã ở chỗ chư Phật quá khứ gieo trồng thiện căn sâu dầy, cũng như ung nhọt đã muồi gặp duyên liền vỡ được lành, hai người này cũng vậy nay căn cơ đã đến lúc chín muồi được hóa độ. Phật lại quán căn khí của hai người này làm sao được độ, có duyên với ai và ở chỗ nào; liền quán biết hai người này sẽ phát tâm nơi người có đầy đủ luật nghi. Phật liền bảo Bí-sô Mã-thắng đến độ: “Thầy nên đến nhiếp thọ hai người ấy”, Mã-thắng vâng lời Phật dạy đảnh lễ rồi đi. Sáng hôm sau, Mã-thắng đắp y mang bát vào thành Vương-xá theo thứ lớp khất thực với oai nghi thư thái, đoái nhìn như Ngưu vương. Lúc đó Ô-ba-Để-sa nhìn thấy Mã-thắng oai nghi thư thái liền khen ngợi là chưa từng có và nghó: “Những người xuất gia đã có trong thành không thể so sánh với vị này được, ta nên hỏi vị ấy đã xuất gia từ nơi ai, đã học pháp gì và thầy là ai”, nghó rồi liền đứng bên đường đợi tôn giả, khi tôn giả đến gần liền hỏi: “Ai là thầy của tôn giả, tôn giả đã học pháp gì và xuất gia từ nơi ai?”, Mã-thắng nói: “Đại sư của tôi thuộc chủng tộc Thích ca là sa môn Kiều-đáp-ma đã chứng Chánh đẳng bồ đề vô thượng. Vị ấy là thầy tôi, tôi nương nơi vị ấy cạo bỏ râu tóc xuất gia, học giáo pháp, tu phạm hạnh”, Ô-ba-Để-sa nói: “Rất mong tôn giả thuyết giảng cho tôi nghe”, Mã-thắng nói: “Giáo pháp của Như lai sâu xa vi diệu, khó hiểu khó biết. Tôi mới xuất gia không thể giảng giải hết, cũng không thể ghi nhớ hết, chỉ nói sơ lược nghóa mà thôi”, Ô-ba-Để-sa nói: “Cúi xin lược nói”, Mã-thắng nói kệ: “Các pháp từ Duyên khởi, Như lai nói là Nhân, Pháp kia Nhân duyên diệt (tận), Là Đại sa môn nói”. Vừa nghe kệ xong, Ô-ba-Để-sa liền xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn, thấy được pháp rồi tâm không còn nghi hoặc, không còn sợ hãi, chắp tay cung kính nói: “Đấy chính là chánh pháp, ai trú pháp này sẽ không còn đọa lạc, đây là chỗ vô ưu, con từ vô lượng kiếp đến nay chưa được nghe pháp yếu thâm diệu như thế này. Xin hỏi tôn giả Đại sư hiện nay đang ở nơi đâu?”, Mã-thắng nói: “Đại sư đang ở Trúc-lâm bên ao Yết-lan-đạc-ca thành Vương-xá”, Ô-ba-Để-sa nghe rồi Hoan-hỉ liền cung kính đi nhiễu ba vòng, cáo từ tôn giả Mã-thắng để đến chỗ Câu-lý-đa. Câu-lý-đa từ xa thấy Ô-ba-Để-sa đi đến liền hỏi: “Hôm nay dung mạo của bạn tươi sáng khác thường, phải chăng đã được diệu pháp cam lồ?”, Ô-ba-Để-sa khen nói đúng rồi đem việc trên kể lại và nói lại bài kệ trên, Câu-lý-đa nghe rồi liền yêu cầu Ô-ba-Để-sa nói lại một lần nữa, Ô-ba-Để-sa nói lại kệ: “Các pháp từ Duyên khởi, Như lai nói là Nhân, Pháp kia Nhân duyên diệt (tận), Là Đại sa môn nói”. Vừa nghe kệ xong, Câu-lý-đa liền xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn, thấy được pháp rồi tâm không còn nghi hoặc, không còn sợ hãi, chắp tay cung kính nói: “Đấy chính là chánh pháp, ai trú pháp này sẽ không còn đọa lạc, đây là chỗ vô ưu, tôi từ vô lượng kiếp đến nay chưa được nghe pháp yếu thâm diệu như thế này. Bạn có biết Đại sư hiện nay đang ở nơi đâu không?”, đáp: “Đại sư đang ở Trúc-lâm bên ao Yết-lan-đạc-ca thành Vương-xá”, Câu-lý-đa nói: “Chúng ta nên cùng đi đến chỗ Phật xuất gia tu phạm hạnh”, Ô-ba-Để-sa bằng lòng, Câu- lý-đa nói: “Chúng ta nên hỏi các đệ tử có muốn cùng đi hay không”, Ô-ba-Để-sa nói: “Lành thay, bạn là bậc danh đức mọi người đều nghe biết danh, bạn nên hỏi các đệ tử”, Câu-lý-đa hỏi các đệ tử: “Nay tôi cùng Ô-ba-Để-sa đến chỗ Phật xuất gia tu phạm hạnh, ý các ngươi như thế nào?”, đáp: “Sở học của chúng con đều do thầy truyền thọ, nay thầy theo Phật xuất gia, chúng con cũng theo Phật xuất gia”, Câu-lý-đa khen lành thay. Lúc đó Ô-ba-Để-sa và Câu-lý-đa cùng các đệ tử của mình đi đến chỗ Phật, từ xa trông thấy Bí-sô Mã-thắng ngồi dưới gốc cây cách chỗ Phật không xa, Ô-ba-Để-sa hỏi Câu-lý-đa: “Chúng ta nên đến lễ Phật trước hay lễ Ô-ba-đà-da trước?”, Câu-lý-đa nói: “Nên lễ Ô-ba- đà-da trước”, nói rồi Cả hai đến đảnh lễ Bí-sô Mã-thắng. Lúc đó trong chúng của Như lai có một Bà-la-môn trước đây thờ thần mặt trăng, Thế tôn vì người này nói kệ: “Người nào tỏ ngộ pháp, Không luận trẻ hay già, Đều phải cung kính họ, Như mặt trăng mới mọc”. Lại có một Bà-la-môn thờ lửa, Thế tôn cũng vì người đó nói kệ: “Người nào tỏ ngộ pháp, Không luận trẻ hay già, Đều phải cung kính họ, Như lửa tịnh vật uế”. Đảnh lễ tôn giả xong, Cả hai cùng đến chỗ Phật, lúc đó Thế tôn đang nói pháp cho vô lượng trăm ngàn chúng Bí-sô trước sau vây quanh, Thế tôn từ xa trông thấy nhóm thầy trò Ô-ba-Để-sa và Câu-lý-đa đi đến liền bảo các Bí-sô: “Các thầy có thấy hai người thượng thủ trong nhóm đang đi đến không?”, đáp thấy, Thế tôn nói: “Hai người ấyở trong giáo pháp của ta xuất gia tu đạo sẽ là bậc nhất về thần thông và trí huệ trong chúng Thanh văn”. Ô-ba-Để-sa và Câu-lý-đa đến đảnh lễ Phật rồi bạch Phật: “Thế tôn, cúi xin cho chúng con xuất gia và thọ Cận viên, thành tánh Bí-sô tu trì phạm hạnh trong thiện pháp luật này”, Phật nói: “Thiện lai Bí-sô, tu hành phạm hạnh”. Phật vừa nói xong, Cả hai đều râu tóc tự rụng, thân mặc ca sa như đã từng cạo tóc, trải qua bảy ngày đầy đủ oai nghi như Bí-sô một trăm tuổi hạ. Nhiếp tụng: “Thế tôn bảo thiện lai, Các căn liền tịch tónh, Tóc rụng, mặc pháp y, Oai nghi như một trăm hạ”. Sau đó có nhiều Bí-sô đắp y mang bát vào thành theo thứ lớp khất thực, trong thành có nhiều đệ tử của San-thệ-di thấy các Bí-sô liền chê cười, nói kệ: “Phật ở thành Vương-xá, Ma-kiệt-đà tối thắng, San thệ đều độ hết, Nay Phật sẽ độ ai”. Các Bí-sô nghe rồi oai đức liền mất, trong lòng không Hoan-hỉ, khất thực xong rở về trú xứ thọ thực rồi đến chỗ Phật đem việc trên kể lại, Phật nói: “Nếu họ nói như vậy thì các thầy nên nói kệ đáp lại: Hễ độ phải như pháp, Thế tôn dạy là chánh, Các ngươi có biết không, Phật độ là y pháp”. Nếu các thầy đáp lại như thế, họ không còn oai đức sẽ im lặng bỏ đi”. Hôm sau các Bí-sô đắp y mang bát vào thành khất thực cũng gắp các đệ tử của San-thệ-di chê cười nói kệ như trên, liền nói kệ đáp lại: “Hễ độ phải như pháp, Thế tôn dạy là chánh, Các ngươi có biết không, Phật độ là y pháp”, Họ nghe kệ xong liền mất oai đức, im lặng bỏ đi. Thời gian sau, vợ chồng Bà-la-môn Ma-trá-la qua đời, vợ chồng Bà-la-môn Để-sa cũng qua đời, Câu-sắt-sỉ-la từ phương Nam mang luận Vô hậu thế về đến thôn na thích đà, người giữ cổng trông thấy liền hỏi: “Ông có phải là Câu-sắt-sỉ-la không?”, đáp phải rồi hỏi: “Bà- la-môn Ma-trá-la nay ở đâu?”, đáp là đã chết, lại hỏi: “Vợ chồng Để-sa nay ở đâu?”, cũng đáp là đã chết, lại hỏi: “Xá-lợi-tử nay ở đâu?”, đáp là đã xuất gia ở chỗ Đại sư San-thệ-di. Câu-sắt-sỉ-la nghe rồi liền đi vào thành Vương-xá hỏi thăm San-thệ-di nay ở đâu, mọi người đáp: “Đại sư đã qua đời, các đệ tử của ông đều đến chỗ sa môn Kiều-đáp-ma xuất gia”. Câu-sắt-sỉ-la nay là phạm chí Trường trảo nghe rồi liền đi đến chỗ Phật, gặp Phật nói rằng: “Này sa môn Kiều-đáp-ma, tất cả ngã và pháp, tất cả thấy biết đều là tôi không ham muốn. Việc thờ lửa đã có là thấy như vầy và nói như vầy: Theo tôi thấy đều nên trừ bỏ hết, cũng xa lìa sự thay đổi, nếu từ bỏ cái thấy này thì không chấp thủ tương tục và không chấp thủ cái thấy biết khác. Này sa môn Kiều-đáp-ma, tôi thấy như vầy và hiểu như vầy: Việc mà thế gian thấy biết phần nhiều trái với việc thờ lửa; thấy và hiểu như vậy đều là trú ở đạo này. Sa môn Kiều-đáp-ma có thấy và hiểu như vậy không?. Lại nữa, người thờ lửa nói: Nếu Sa môn, Bà-la-môn bỏ được thấy biết này, không chấp thủ thấy biết khác, người ấy mới là chân Sa môn, Bà-la-môn. Lại nữa người thờ lửa nằm trong ba kiến giải: Một là tất cả không ham muốn, hai là tất cả ham muốn, ba là tất cả nguyện không ham muốn.…”, cho đến câu Trường trảo xuất gia. Phật bảo các Bí-sô: “Trong các đệ tử Thanh văn của ta, bậc minh giải thông lợi hơn cả chính là Bí-sô Câu-sắt-sỉ-la”. Lúc đó Xá-lợi-tử đoạn trừ hết phiền não chứng quả A-la-hán, các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, tôn giả Xá-lợi-tử trước đây đã tạo hạnh nghiệp gì, nhờ hạnh nghiệp ấy mà nay được trí huệ thông lợi, trí huệ sâu xa, trí huệ không nghi hoặc?”, Phật nói: “Này các Bí-sô, Xá-lợi-tử trước kia tạo nghiệp nay trở lại tự thọ quả báo, các thầy lắng nghe: Thuở xưa tại một thôn nọ, có một Bà-la-môn cưới vợ chưa bao lâu sanh được một trai, không bao lâu sau lại sanh thêm một gái, khi Cả hai trưởng thành thì cha mẹ đều qua đời vì bịnh. Đồng tử buồn thương nên muốn vào rừng núi ở, liền dẫn em gái vào trong rừng hái lượm hoa quả để chống chõi qua ngày. Này các Bí-sô, ví như rắn độc có năm điều đáng sợ: Một là nhiều sân, hai là nhiều hận, ba là làm ác, bốn là không biết ân nghóa, năm là lợi độc. Người nữ cũng vậy, có năm điều xấu như trên, sao gọi là người nữ lợi độc? Tức là người nữ phần nhiều ôm lòng dục mạnh mẽ. Lúc đó người em gái tuổi đã trưởng thành, tâm dục cũng phát triển nói với người anh: “Em không thể ở trong rừng ăn hoa quả để sống, chúng ta hãy rời khỏi nơi đây đến sống cùng mọi người, tìm cầu thức ăn thức uống”. Người anh bèn đưa em ra khỏi rừng, đến một nhà Bà-la-môn khất thực, Cả hai gọi cửa, chủ nhà bước ra nhìn thấy rồi hỏi: “Aån só cũng có vợ hay sao?”, người anh nói: “Đây không phải là vợ, mà là em gái tôi”, chủ nhà hỏi: “Em gái ông đã có chỗ nào chưa?”, người anh nói: “Chưa có”, chủ nhà nói: “Nếu vậy ông hãy gả em gái cho tôi”, người anh nói: “Em tôi đã tránh xa pháp ác thế gian”, người em gái với tâm dục hừng thạnh liền nói với anh: “Em không thể ở trong rừng ăn hoa quả để sống, em cũng không chịu đựng được bị phiền não bức bách. Chúng ta hãy từ bỏ núi rừng trở về cùng sống với mọi người, anh nên gả em cho vị Bà-la-môn này”, người anh nói: “Ta thật không thể đem gả em vì đây là pháp ác, không phải là việc làm của ta nhưng em có tâm thế tục thì em muốn làm gì tùy ý”. Bà-la-môn biết tâm ý của người em gái bèn dẫn vào nhà, họp thân tộc cùng làm lễ cưới rồi nói với người anh: “Anh hãy cùng chúng tôi sống chung một nhà, sẽ dành riêng một phòng cho anh”, người anh nói: “Tôi không cầu dục lạc, chỉ ưa muốn xuất gia”, người em gái nói: “Chúng ta hãy cùng lập lời thề ước”, người anh hỏi: “Thề ước như thế nào?”, người em gái nói: “Nếu anh chứng được quả thù thắng thì trở lại gặp em”, người anh nói: “Lành thay, sẽ làm như lời em nói”. Người anh từ giả rồi đến chỗ các ẩn só sống đời xuất gia, do sức thiện căn đời trước nên người anh ngay nơi ba mươi bảy phẩm pháp bồ đề phần, không thầy tự ngộ chứng quả Độc giác. Lúc đó người anh nhớ đến lời thề ước với em gái nên đi đến chỗ người em gái, ở trước người em liền bay lên hư không, thân hiện thần biến, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… rồi trở xuống đất. Phàm phu hễ thấy được thần thông, tâm ý mau hồi chuyển như cây đại thọ bị ngã xuống đất nên người em gái sụp xuống đảnh lễ rồi nói: “Đại huynh, anh đã được thắng đức thù diệu rồi sao?”, đáp phải, người em nói: “Anh khất thực nuôi thân, em vì cầu phúc, anh hãy ở lại để em được cúng dường”, người anh nói: “Em không tự tại, hãy hỏi ý người chồng”. Người em vào nói với chồng: “Anh biết không, anh tôi xuất gia thành tựu cấm giới đã đắc quả thượng diệu đệ nhất trong thế gian. Tôi muốn cúng dường nhưng không dám tự chuyên, nếu anh cho phép, tôi sẽ cúng dường tứ sự cho anh tôi trong ba tháng”, người chồng nói: “Hiền thủ, nếu anh ấy không xuất gia, dù tôi không muốn cũng phải cung cấp trọn đời; huống chi anh ấy đã xuất gia và đã đắc đạo thù thắng, nay theo ý em cúng dường cho anh ấy trong ba tháng”. Trong ba tháng hai vợ chồng cúng dường đầy đủ không để thiếu thốn, mãn ba tháng họ đem vải tốt, dao và kim chỉ cho người anh, người anh nhận rồi cầm dao cắt vải, dao bén nên cắt rất nhanh, người em gái thấy rồi liền phát nguyện: “Xin nguyện căn tánh tôi sẽ sắc bén, nhanh và khéo như dao bén này cho đến đời vị lại thành tựu lợi trí”; người anh lại cầm kim xỏ chỉ may khéo léo không trở ngại, người em gái thấy rồi liền phát nguyện: “Xin nguyện thân tôi đến đời vị lại được trí huệ sâu xa thông đạt vô ngại như đường kim mũi chỉ này”. Này các Bí-sô, người em gái thuở xưa đó chính là Xá-lợi-tử ngày nay, quá khứ do cúng dường vị Độc giác rồi phát nguyện nên ngày nay được trí huệ sắc bén, thông minh bậc nhất. Này các Bí-sô, phải biết quả báo tự làm tự thọ, hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng… các thầy nên học như thế.” Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi thỉnh hỏi Phật: “Cụ thọ Xá-lợi-tử đã tạo nghiệp gì trong quá khứ mà nay được sanh ra trong một gia đình trung lưu, không thuộc quý tộc cũng không hạ tiện, lại thường được xuất gia?”, Phật nói: “Các thầy lắng nghe: Thuở xưa có một quốc vương lấy vợ không lâu thì dắm say dục lạc, ham mê săn bắn. Vài năm sau sanh được một trai, Thái-tử trưởng thành thấy vua cha trị nước phi pháp liền suy nghó: “Cha ta mệnh chung sẽ đọa vào địa ngục, ta kế vị rồi cũng sẽ giống như cha, ta nên đến trong Thiện pháp luật xuất gia tu phạm hạnh”, nghó rồi liền đến xin phép vua cha cho xuất gia, vua cha nói: “Tất cả việc cúng tế thiên thần đều là vì cấu phú quý, con là Thái- tử cỡi voi đi, vương vị kề bên, vì sao lại cầu xuất gia?”, vua cha trách mắng rồi không cho Thái-tử xuất gia. Thời gian sau, Thái-tử cỡi voi ra thành du ngoạn, thấy một người nghèo cầm miếng lá xin ăn, Thái- tử nói: “Hiền thủ, ta ở địa vị tôn quý nên không được xuất gia, ngươi không có địa vị tôn quý vì sao lại không xuất gia?”, đáp: “Tôi không có y bát làm sao xuất gia được?”, Thái-tử nói: “Ta sẽ cho ngươi y bát, ngươi nên xuất gia”, nói rồi liền cho y bát và dẫn người ăn xin này đến chỗ vị tiên nhơn đã đắc ngũ thông đang tọa thiền dưới một gốc cây, bạch rằng: “Cúi xin tiên nhơn cho vị này xuất gia”. Tiên nhơn liền cho xuất gia, Thái-tử nói với người ăn xin kia rằng: “Bây giờ tôi phải trở về, nếu người đắc đạo chứng quả thì hãy báo cho tôi biết”, đáp: “Tôi sẽ làm đúng như lời Thái-tử nói”. Xuất gia rồi người kia đến chỗ yên tónh nổ lực thiền tư, không bao lâu sau ngay nơi ba mươi bảy phẩm pháp bồ đề phần, không thầy tự ngộ chứng quả Độc giác. Chứng quả rồi liền nhớ đến lời đã hứa với Thái-tử nên đi đến chỗ Thái-tử, ở trước Thái-tử liền bay lên hư không, thân hiện thần biến, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… rồi trở xuống đất. Phàm phu hễ thấy được thần thông, tâm ý mau hồi chuyển như cây đại thọ bị ngã xuống đất, Thái-tử kính lễ rồi hỏi: “Thánh giả đã chứng được quả thù thắng rồi sao?”, đáp phải, Thái-tử liền suy nghó: “Người kia chứng quả là nhờ ta. Ta không xuất gia, không chứng được quả, há chẳng phải là do ta sanh trong nhà quý tộc hay sao”, nghó rồi liền phát nguyện: “Xin nguyện tôi đời đời kiếp kiếp đừng sanh trong nhà quý tộc, cũng không sanh trong nhà hạ tiện, mà sanh trong gia đình trung lưu để không gặp trở ngại dễ được xuất gia”. Này các Bí-sô, Thái-tử trong quá khư chính là Xá-lợi-tử ngày nay, do quá khư phát nguyện đó nên nay sanh trong gia đình trung lưu lại thường được xuất gia. Này các Bí-sô, phải biết quả báo tự làm tự thọ, hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng… các thầy nên học như thế.” Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi thỉnh hỏi Phật: “Cụ thọ Xá-lợi-tử quá khứ đã tạo phước nghiệp gì mà thiện căn thành thục, được Phật thọ ký là Trí huệ bậc nhất trong chúng Thanh văn?”, Phật nói: “Cũng là do sức phát nguyện trong đời quá khứ, các thầy lắng nghe: Thuở xa xưa ngay trong Hiền kiếp này, khi con người sống thọ hai vạn tuổi, có Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba đầy đủ mười hiệu. Xá-lợi-tử có một thầy dạy ở chỗ Phật Ca-nhiếp-ba mà được xuất gia, Phật Ca-nhiếp-ba thọ ký cho thầy của Xá-lợi-tử là thông minh trí huệ bậc nhất trong chúng Thanh văn, cho nên khi sắp lâm chung Xá-lợi-tử phát nguyện: “Nguyện nhờ công đức thiện căn tu phạm hạnh này ở đời vị lai lúc con người thọ một trăm tuổi, có Phật Thích-ca-mâu-ni ra đời đầy đủ mười hiệu, tôi sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán và được Phật thọ ký là thông minh trí huệ bậc nhất trong chúng Thanh văn”. Này các Bí-sô, do nguyện lực đó nên ngày nay Xá-lợi-tử được ta thọ ký là thông minh trí huệ bậc nhất trong chúng Thanh văn”. Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi thỉnh hỏi Phật: “Cụ thọ Đại Mục- kiền-liên trước kia đã từng tạo nghiệp gì mà thiện căn thành thục được Phật thọ ký là Thần thông bậc nhất trong chúng Thanh văn?”, Phật nói: “Các thầy lắng nghe: Thuở xưa, cách thành Ba-la-nại không xa là chỗ ở của một tiên nhơn, vị này tâm từ bi trải khắp các hữu tình. Lúc đó có một tiều phu nghèo khổ vác củi đi đến gần chỗ vị tiên nhơn ở, mệt nhọc khom người xuống thở, tiên nhơn nhìn thấy thương xót tự nghó: “Người này nghèo khổ là do đời trước không chịu tu hành, gieo trồng thiện căn nên nay tuy được thân người nhưng phải chịu vất vả như thế, ta nay nên độ người này xuất gia tu phạm hạnh”, nghó rồi liền bảo tiều phu: “Ngươi vất vả như thế, vì sao không xuất gia?”, đáp: “Đại tiên, tôi nghèo khổ vất vả kiếm sống, ai lại đọ cho tôi xuất gia”, tiên nhơn nói: “Ta sẽ độ, nếu ngươi chứng được quả hãy báo cho ta biết”, đáp: “Đại tiên, nếu con đắc quả sẽ báo cho đại tiên biết”. Tiên nhơn liền cho xuất gia, sau khi xuất gia người này đến chỗ yên tónh nổ lực thiền tư, không bao lâu sau ngay nơi ba mươi bảy phẩm pháp bồ đề phần, không thầy tự ngộ chứng quả Độc giác. Chứng quả rồi liền nhớ đến lời đã hứa với tiên nhơn nên đi đến trước tiên nhơn liền bay lên hư không, thân hiện thần biến, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… rồi trở xuống đất. Phàm phu hễ thấy được thần thông, tâm ý mau hồi chuyển như cây đại thọ bị ngã xuống đất, tiên nhơn kính lễ rồi phát nguyện: “Xin nguyện với vô lương công đức đã tu ở đời vị lai sẽ có được oai đức thần thông bậc nhất như vị kia đã có”. Này các Bí-sô, tiên nhơn trong quá khư đó chính là Đại Mục-kiền- liên ngày nay. Này các Bí-sô, phải biết quả báo tự làm tự thọ, hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng… các thầy nên học như thế.” Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi thỉnh hỏi Phật: “Cụ thọ Đại Mục- kiền-liên đã tạo hạnh nghiệp gì mà nay được Phật thọ ký là Thần thông bậc nhất trong chúng Thanh văn?”, Phật nói: “Các thầy lắng nghe: Thuở xa xưa ngay trong Hiền kiếp này lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-nhiếp-ba ra đời… giống như đoạn văn trên cho đến câu lúc lâm chung phát nguyện”: “Nguyện nhờ công đức thiện căn tu phạm hạnh này ở đời vị lai lúc con người thọ một trăm tuổi, có Phật Thích-ca-mâu -ni ra đời đầy đủ mười hiệu, tôi sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán và được Phật thọ ký là Thần thông bậc nhất trong chúng Thanh văn”. Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi thỉnh hỏi Phật: “Cụ thọ Kiều-trần- như đời trước đã hành nghiệp gì mà nay thiện căn thành thục được Tứ như ý giải, lợi căn minh liễu?”, Phật nói: “Các thầy lắng nghe: Thuở xưa ngay trong Hiền kiếp này khi con người sống thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-nhiếp-ba ra đời… giống như đoạn văn cho đến câu lâm chung phát nguyện: “Nguyện nhờ công đức thiện căn tu phạm hạnh này ở đời vị lai lúc con người thọ một trăm tuổi, có Phật Thích-ca-mâu-ni ra đời đầy đủ mười hiệu, tôi sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán và được Tứ như ý giải, lợi căn minh liễu”. Phật trụ ở đời, nếu có ai muốn xuất gia thọ cận viên đều đến gặp Phật, Phật nói: “Thiện lai, Bí-sô”, thì râu tóc tự rụng, thân mặc ca sa với bình bát trên tay liền trở thành người xuất gia thọ cận viên. Sau đó có người ở nước ngoài xa đến chỗ Bí-sô cầu xuất gia, Bí-sô đưa người này đến chỗ Phật, trên đường đi người này qua đời nên không được xuất gia và thọ cận viên. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật suy nghó: “Làm cho các đệ tử Thanh văn mệt nhọc, ở quốc độ xa nếu có người đến cầu xuất gia và thọ cận viên, nên để Tăng chúng cho họ xuất gia và truyền thọ Cận viên”, nghó rồi Phật tập họp các Bí-sô nói rằng: “Do nhân duyên này, từ nay về sau nếu có người cầu xuất gia, Tăng chúng Bí-sô nên cho họ xuất gia và truyền thọ Cận viên”. Lúc đó Tăng chúng không biết nên cho xuất gia và truyền thọ cận viên như thế nào nên bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Hễ có người đến cầu xuất gia nên hỏi họ các chướng nạn, nếu không có chướng nạn mới cho họ thọ Tam quy. Bảo họ quỳ gối chắp tay tự xưng tên rồi nguyện trọn đời quy y Phật lưỡng túc tôn, quy y Pháp ly dục tôn, quy y Tăng chúng trung tôn, Kế cho họ thọ năm học xứ, sau đó truyền thọ mười giới và sau cùng là truyền thọ hai trăm năm mươi giới”. Sau đó có người xuất gia được thọ Cận viên rồi đối với Ô-ba-đà- da và A-giá-lợi-da không có tâm kính sợ, những việc ra làm đều không hỏi hai thầy, các Bí-sô bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Nay ta chế định cho các đệ tử: Nếu đệ tử muốn làm việc gì như dùng nước tưới rưới trên đất, dùng Cù Ma-da đắp nền nhà, cho đến các việc liên quan tới y bát, ăn uống… đều phải bạch thầy. Có khách Bí-sô không quen đến ở trong phòng… các việc đều phải bạch thầy, nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp. Trừ năm việc không phạm là xỉa răng, uống nước, đại tiểu tiện, lễ bài Chế để trong phạm vi bốn mươi chín tầm. Nếu thầy may vá y, đệ tử nên thưa thầy: Thầy không nên lao nhọc như vậy, con sẽ làm cho thầy. Nếu nói và làm như vậy thì tốt, nếu không như vậy thì phạm tội Việt pháp. Nếu thầy làm việc phước và làm việc do Tăng sai, đệ tử không làm thay không phạm. Hai thầy có bịnh, đệ tử phải chăm sóc, những thức ăn uống và thuốc thang cần dùng đều nên thuận theo ý thầy, không được nghịch ý. Nếu làm được như vậy thì tốt, nếu không như vậy thì phạm tội Việt pháp. Nếu thầy phạm tội, đệ tử cùng ở chung nên phương tiện khéo khuyên can thầy phát lồ thuyết hối. Nếu thầy tà kiến bị Tăng tác pháp xua đuổi, đệ tử ở chung nên ở trong chúng ân cần sám tạ khiến Tăng Hoan-hỉ, rồi phương tiện khuyên can thầy bỏ ác kiến để cùng tăng hòa hợp và được an lạc trụ. Nếu thầy phạm tội Tăng-già-phạt-thi-sa, đệ tử nên khuyên can thầy phát lồ. Nếu thầy bị Tăng cho hành pháp Biến trú cho đến hành Ý hỉ, không được ở cùng phòng với thiện Bí-sô; đệ tử nên khuyên can thầy như pháp sám hối khiến cho tội Căn bản và nghiệp được trừ, trở lại đồng như thiện Bí-sô. Nếu làm được như vậy thì tốt, nếu không như thế thì phạm tội Việt pháp. Ngược lại đệ tử có lỗi, thầy cũng phải khuyên can quở trách khiến cho họ hối cải.” CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA XUẤT GIA SỰ <卷>QUYỂN 3 Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Cận quân an cư ba tháng mùa mưa xong liền độ một đệ tử rồi cùng đệ tử này đi đến thành Thất-la-phiệt, đến nơi rửa chân xong liền đến chỗ Phật, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên. Thường pháp của chư Phật là khi có khách Bí-sô đến liền thăm hỏi từ đâu đến, hạ an cư ở đâu, Cận quân bạch Phật: “Thế tôn, con từ nước khác đến và đã an cư ba tháng mùa mưa ở đó”, Phật hỏi: “Vị thiện nam này là đệ tử của ai?”, đáp là của con, Phật hỏi: “Thầy đã xuất gia bao lâu?”, đáp: “Con xuất gia được hai năm, người đệ tử này con độ được một năm”. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “Bí-sô Cân quân này khởi lỗi đầu tiên, nay ta chế định cho các Bí-sô: không được chỉ mới xuất gia vài năm mà đã độ đệ tử và cho thọ Cận viên; nếu không ở chung với thầy thì nên tự cầu y chỉ. Người xuất gia chưa đủ mười hạ không được độ Cầu-tịch và truyền thọ Cận viên. Nếu có khách Bí-sô đến chưa quen biết thì không được cho y chỉ. Nếu Bí-sô đủ mười hạ, hiểu rành việc thông bít trong Giới kinh Biệt giải thoát thì mới được độ Cầu-tịch và làm thầy y chỉ… Nếu tự mình chưa điều phục mà lại điều phục người thì không có lý đó. Người ngu si không có trí huệ cũng không cho độ người, vì tự mình chưa chứng ngộ giải thoát tịch định và được Niết-bàn lại độ người khác là không có lý đó. Tự mình ở trong chỗ bùn nhơ chưa ra khỏi mà lại muốn độ người khác là không có lý đó.” Lúc đó có Bí-sô già vô trí không thông hiểu giới luật lại độ một ngoại đạo và truyền thọ Cận viên, thọ giới rồi liền thỉnh cầu thầy giáo thọ, vị thầy do không hiểu biết gì nên không thể giáo thọ cho đệ tử, người đệ tử ngoại đạo này liền chê bai, không tín kính nữa. Các Bí-sô bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Từ nay các Bí-sô phải đủ mười hạ mới được độ đệ tử và truyền thọ cận viên. Phải thành tựu năm pháp mới được làm thầy y chỉ: Một là thọ cận viên được mười hạ trở lên, Hai là đệ tử nếu có bịnh, có thể chăm sóc, Ba là có nghi đệ tử phạm Ác-tác thì phải tùy việc cử tội, Bốn là nếu đệ tử có tà kiến phải chỉ dạy cho có chánh kiến. Năm là đệ tử nếu không ưa thích pháp, phải cố gắng nhiếp thọ khiến được an lạc trụ. Lại có năm pháp: Một là đầy đủ giới, hai là đa văn, ba là trì kinh, bốn là trì luật, năm là trì luận. Lại có năm pháp: Một là đủ giới không thiếu sót, hai là đa văn, ba là hiểu nghóa kinh, bốn là hiểu rõ việc thông bít trong Tỳ-nại-da và năm là thông hiểu nghóa trong tạng luận. Lại có năm pháp: Một là đầy đủ giới, hai là đa văn, ba là trì kinh biết nghóa, bốn là thông hiểu Tỳ-nại-da, năm là thông hiểu tạng Ma-trất -lý-ca. Lại có năm pháp như trên, chỉ khác là có thêm chữ rất. Lại có năm pháp như trên, chỉ khác là có thêm chữ thắng. Lại có năm pháp như trên, chỉ khác là có thêm chữ có thể. Lại có năm pháp: Một là giới thành tựu, hai là đa văn thành tựu, ba là thắng giải thoát thành tựu, bốn là chứng trí thắng giải thoát thành tựu, năm là trí huệ thành tựu. Lại có năm pháp: Một là tín thành tựu, hai là giới thành tựu, ba là đa văn thành tựu, bốn là Xả thành tựu, năm là trí thành tựu. Lại có năm pháp: Một là đủ giới, hai là đa văn, ba là tinh tấn, bốn là niệm, năm là tuệ. Lại có năm pháp: Một là đủ giới, hai là đa văn, ba là tinh tấn, bốn là định, năm là bát nhã. Lại có năm pháp, bốn pháp đầu như trên, năm là ưa thích tịch tónh. Lại có năm pháp: Một là thành tựu giới uẩn hữu học, Hai là thành tựu định uẩn hữu học, Ba là thành tựu tuệ uẩn hữu học, Bốn là thành tựu giải thoát uẩn hữu học, Năm là thành tựu giải thoát tri kiến uẩn hữu học. Lại có năm pháp thành tựu vô học giống như thành tựu hữu học ở trên. Lại có năm pháp: Một là biết có lỗi, hai là biết biểu thị, ba là biết ý biểu thị, bốn là biết xả, năm là biết tùy giải. Lại có năm pháp: Một là biết có ngăn ngại, hai là biết không có ngăn ngại, ba là tùy lúc dạy bảo, bốn là cho y chỉ, năm là nhiếp thọ. Lại có năm pháp: Một là biết có phạm. hai là biết không phạm, ba là biết tội khinh, bốn là biết tội trọng, năm là biết rõ Ba-la-đề-mộc-xoa và rộng giảng giải. Người thành tựu các loại năm pháp trên, đủ mười hạ mới được độ người xuất gia và cho thọ Cận viên, cho người y chỉ và giáo thọ. Nếu không như thế thì phải y chỉ người khác mà ở.” Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: “Thế tôn, như Phật đã dạy phải thành tựu các loại năm pháp trên và đủ mười hạ mới được độ đệ tử…. Nếu Bí-sô tuy đã được sáu mươi tuổi hạ nhưng không thông hiểu Giới kinh Biết giải thoát, cũng không thành tựu năm pháp trên thì có nên y chỉ người khác mà ở hay không?”. Phật nói nên, lại hỏi y chỉ như thế nào, Phật nói nên y chỉ người già, lại hỏi nếu không có người già, Phật nói nên y chỉ người trẻ, chỉ trử lễ bái còn các việc khác đều phải tuân hành. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một Bí-sô ngu si vô trí, không hiểu rõ thiện ác lại độ một ngoại đạo cho xuất gia và cho thọ cận viên. Người này thường hay cùng các Bí-sô tranh cải rồi tự ý hoàn tục và đủ lởi chê trách các Bí-sô, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Kẻ ngu si vô trí bỏ thiện pháp luật để đến với tà kiến, ví như người bị cơn đói bức bách bỏ thức ăn ngon để ăn các thứ nhơ bẩn. Cho nên các Bí-sô không nên vội độ ngoại đạo làm đệ tử, chỉ nên độ thích tử. Nếu có Thích tử mặc y ngoại đạo đến cầu xuất gia thì nên độ để họ thành tánh Bí-sô. Trừ thích chủng ra, các ngoại đạo khác đều phải trải qua bốn tháng ở chung để xem xét rồi mới độ”. Lúc đó các Bí-sô không biết pháp cho ở chung và tiếp độ ngoại đạo như thế nào nên bạch Phật, phật nói; “Nếu có ngoại đạo đến cầu xuất gia trước nên hỏi họ các chướng nạn, nếu không có chướng nạn thì cho họ thọ tam quy và năm học xứ. Sau đó dẫn họ đến trong tăng bảo họ quỳ gối chắp tay bạch rằng: Đại đức Tăng lắng nghe, con là ngoại đạo tên nay cầu xin xuất gia, trong bốn tháng xin đem y phục trước kia của con cúng cho tăng già, cúi xin cho phép con (3 lần). Kế bảo họ đến chỗ mắt thấy nhưng tai không nghe rồi sai một Bí-sô tác bạch yết ma như sau: Đại đức Tăng lắng nghe, ngoại đạo tên cầu xin xuất gia, trong bốn tháng đem y phục trước kia cúng cho tăng già và Ô-ba-đà-da . Nếu Tăng đúng thời đến, Tăng nên chấp thuận… cho đến câu: Nếu ai không chấp thuận thì nói. Tăng đã chấp thuận vì im lăng, việc này tôi xin nhớ giữ như vậy. Trong bốn tháng những việc mà ngoại đạo làm đều dồng như Cầu-tịch, mặc y của Thân giáo sư và ăn thức ăn của Tăng. Nếu trong bốn tháng này họ thay đổi nhận thức trước kia của họ thì nên cho xuất gia, nếu tâm họ không thay đổi thì nên đuổi họ trở về. Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: “Thế tôn, như Phật đã dạy là nếu họ thay đổi nhận thức trước kia mới cho xuất gia, nhưng làm sao biết được là họ thay đổi nhận thức trước kia của họ?”, Phật nói: “Ở trước mặt họ nên tán thán Tam bảo và công đức của Phật, đồng thời chê bai ngoại đạo. Nếu họ nghe như thế mà sanh tâm Hoan-hỉ thì nên cho họ xuất gia; ngược lại nếu họ không sanh tâm Hoan-hỉ, nghe chê bai ngoại đạo mà buồn thì không nên độ, nên đuổi họ trở về. Như vậy nếu họ nghe chê bai ngoại đạo mà tâm không sân hận, đó là thay đổi nhận thức trước kia. Nếu có ngoại đạo thở lửa đến cầu xuất gia thì nên độ và cho thọ cận viên, vì sao?, vì người thờ lửa tin vào ba loại nghiệp: Một là Hữu nghiệp, hai là Sở tác nghiệp, ba là Tác nhân nghiệp. Các thầy nên học như thế.” Phật ở trong Trúc-lâm bên ao Yết-lan-đạc-ca thành Vương-xá, ở trong thành này số Bí-sô kỳ túc ít hơn số Bí-sô trẻ. Lúc đó an cư ba tháng hạ xong, Phật muốn du hành đến Nam sơn nên bảo tôn giả A-Nan-đà: “Thầy nên thông báo cho các Bí-sô, ai muốn đi theo Thế tôn du hành thì nên sửa soạn y bát”, tôn giả vâng lời Phật dạy đi thông báo. Các Bí-sô kỳ túc nói với A-Nan-đà: “Tôi không thể theo Thế tôn du hành”, A-Nan-đà hỏi nguyên do, liền đáp là do già yếu. Các Bí-sô trẻ cũng nói là không thể đi theo, A-Nan-đà hỏi nguyên do, liền đáp: “Thầy của tôi đã không đi nên tôi phải ở lại chăm sóc”. Cuối cùng chỉ có số ít Bí-sô đi theo Phật du hành, lúc sắp đi Phật nhìn ngó hai bên xem các Bí-sô có chấp trì y bát như pháp không, thấy các Bí-sô đi theo không đông nên hỏi A-Nan-đà nguyên do, A-Nan-đà đem việc trên bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Từ nay các Bí-sô được năm tuổi hạ trở lên, thành tựu năm pháp sẽ được tùy chỗ thọ học, du hành nhân gian không cần y chỉ. năm pháp gồm có: Một là biết có phạm, hai là biết không phạm, ba là biết tội trọng, bốn là biết tội khinh, năm là khéo trì Ba-la-đề-mộc-xoa và rộng giảng giải”. Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: “Thế tôn, nếu các Bí-sô dưới năm tuổi hạ nhưng thành tựu năm pháp thì có được du hành nhân gian tùy chỗ thọ học hay không?”, Phật nói: “Không được, nay ta chế định năm tuổi hạ trở lên và thành tựu năm pháp mới được tùy ý du hành, tùy chỗ thọ học. Nếu chưa đủ năm tuổi hạ, dù thông suốt tam tạng vẫn không được tùy ý du hành, tùy chỗ thọ học, phải nương ở với thầy và cần y chỉ”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó Đại Mục-kiền-liên cho mười bảy thiếu niên xuất gia và truyền thọ Cận viên, trong số đó Ưu-ba-ly đứng đầu, đến nửa đêm họ đói bụng cùng kêu khóc vang dậy. Phật nghe tiếng trẻ khóc liền hỏi A-Nan-đà nguyên do, A-Nan-đà đem việc trên bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Nay ta chế định nếu ai chưa đủ hai mươi tuổi thì không được cho họ thọ Cận viên, thành tánh Bí-sô, vì sao?, vì chưa đủ hai mươi tuổi sẽ không thể chịu đựng được lạnh nóng đói khát, muỗi trùng cắn đốt và bịnh tật … Lại nữa khi bị thầy quở trách cũng không thể chịu đựng được các khổ não. Phải đủ hai mươi tuổi mới có chí khí mạnh, chịu đựng được sự quở trách và khổ cực… Vì chưa đủ tuổi mà cho thọ Cận viên mới có các lỗi trên, cho nên từ nay các Bí-sô không được truyền thọ Cận viên cho người chưa đủ hai mươi tuổi. Nếu có Cầu-tịch cầu thọ Cận viên, Bí- sô nên hỏi đã đủ hai mươi tuổi chưa, nếu không hỏi thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó trong thành có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu liền sanh được một trai, đứa bé này dần dần trưởng thành thì gia nghiệp của trưởng giả cũng dần dần tiêu tán hết. Trưởng giả suy nghó: “Ta nghèo khổ nên cầu xuất gia”, nghó rồi liền nói với con: “Ta nay già yếu không thể cùng con chấn hưng gia nghiệp, ta muốn ở trong thiện pháp luật xuất gia, ý con thế nào?”, đáp; “Cha xuất gia, con cũng xuất gia theo”. Nói rồi hai cha con cùng đi đến trong rừng Thệ-đa gặp các Bí sô cầu xin xuất gia, các Bí-sô liền cho Cả hai xuất gia và dạy cho Cả hai oai nghi hành pháp, vài ngày sau các Bí-sô bảo Cả hai rằng: “Hai ngươi biết không, nai không nuôi nai, thành Thất-la-phiệt này rộng lớn, dân đông đều kính tín Tam bảo, hai ngươi nên đi đến đó khất thực tự nuôi thân”. Cả hai nghe rồi liền chấp trì y bát cùng vào thành Thất-la-phiệt theo thứ lớp khất thực, đi đến ngã tư đường Cầu-tịch nhỏ thấy một phụ nữ đang chiên bánh bán liền đến xin, phụ nữ đó nói: “Đưa tiền tôi mới đưa bánh”, đáp là không có tiền, phụ nữ đó không chịu đưa bánh, Cầu-tịch nhỏ này liền kêu khóc lớn tiếng và nằm lăn ra đất, mọi người nhìn thấy như vậy đều chê trách rằng: “Tại sao Bí-sô lại độ đứa bé chưa ráo máu đầu như thế xuất gia”. Các Bí-sô nghe biết bạch Phật, Phật nói: “Do độ kẻ nhỏ tuổi xuất gia nên có lỗi này. Từ nay người chưa đủ hai tuổi không được cho xuất gia. Nếu có đồng tử đến cầu xuất gia, Bí-sô nên hỏi đã đủ hai tuổi chưa, nếu không hỏi thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó Ô-ba-Nan-đà có hai cầu tịch cùng nhau chơi đùa như phụ nữ chơi đùa với chồng, như người nam chơi đùa với người nữ. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Do độ hai cầu tịch cùng một lúc nên có lỗi này. Từ nay ai độ hai cầu tịch cùng một lúc thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có hai anh em cùng đến cầu xuất gia, các Bí-sô không dám độ, không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu là anh em cùng cầu xuất gia thì nên độ, không phạm. hai cầu tịch kia vì chưa đủ tuổi nên giữ lại một người để dạy bảo, còn người kia nên đưa đến một vị thân quen hay đại đức nào đó dạy bảo, đến khi đủ hai mươi tuổi thì cho họ thọ cận viên, nếu họ đã đủ hai mươi mà không cho thọ cận viên thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, trong thành có một cư só nuôi một nô bộc siêng năng phục dịch không có lười biếng, làm việc gì cũng hoàn tất. một hôm chủ nhà nổi giận, người nô bộc suy nghó: “Ông chủ thật khó phục dịch, ta nên trốn đi, nhưng quên nhà khó thể bỏ đi. Ta nghe nói các sa môn Thích tử được vua ân sủng, không bị tổn hại, ta nên đến đo xin xuất gia”, nghó rồi liền đi đến trong rừng Thệ-đa ở chỗ các Bí-sô xin xuất gia, các Bí-sô liền cho xuất gia và cho thọ Cận viên rồi chỉ dạy giáo pháp, vị này y theo giáo pháp tu hành, không bao lâu sau diệt trừ phiền não chứng quả A-la-hán. Lúc đó gia chủ sanh tâm hối, tự nghó: “Tên nô bộc của ta đã làm việc siêng năng không lười biếng, ta không nên tức giận khiến nó bỏ đi như vậy, nếu gặp lại nó ta sẽ xin lỗi”, nghó rồi đứng ở bên cửa thành chờ Bí-sô, khi Bí-sô đắp y mang bát vào thành khất thực, gia chủ thấy rồi liền nói: “Hiền thủ, ngươi tuy được xuất gia, nhưng nay không có ai phục dịch cho ta, hãy theo ta trở về”. Bí-sô liền bay lên hư không, thân hiện thần biến, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… rồi trở xuống đất. Phàm phu hễ thấy được thần thông, tâm ý mau hồi chuyển như cây đại thọ bị ngã xuống đất, vị gia chủ này liền cúi mình đảnh lễ và bạch: “Thánh giả đã có công năng như vậy, con nguyện từ nay cúng dường tứ sự cho Thánh giả”. Từ đó tiếng đồn vang khắp và đến tai của vua Thắng-quang, vua liền ra lịnh cho quần thần: “Từ nay trong nhà của các quan, trưởng giả … có nô bộc muốn cầu xuất gia thì nên cho họ được xuất gia, không gây trở ngại”. Lúc đó trong thành Thất-la-phiệt có một trưởng giả nuôi một nô bộc siêng năng làm việc… giống như trường hợp trên, chỉ khác ở chỗ nô bộc này sau khi xuất gia không có được chứng quả nên khi gia chủ nắm tay Bí-sô nói rằng: “Hiền thủ, ngươi tuy đã xuất gia nhưng nay không có ai phục dịch ta, hãy cùng ta trở về”, thì Bí-sô này nói: “Nếu ông xúc chạm tôi, ông sẽ bị chặt tay. Vua Thắng-quang có sắc lịnh xem Bí-sô đồng như vương tử”, trưởng giả gia chủ nghe lời này liền chê trách các Bí-sô: “Sa môn Thích tử phá hoại, tại sao lại cho nô bộc xuất gia”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu đã có lỗi này thì từ nay các Bí-sô không nên tùy tiện cho nô bộc xuất gia. Nếu họ đến cầu xuất gia nên hỏi: Ngươi không phải là nô bộc phải không. Không hỏi mà cho xuất gia thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, trong thành có một trưởng giả cho vay, có lúc chỉ lấy lãi, có lúc lấy cả gốc lẫn lãi. Sau đó trưởng giả gặp một người mắc nợ đòi cả gốc lẫn lãi, người này nghèo khó không thể trả cả gốc lẫn lãi nên trưởng giả bắt họ làm tờ cam kết hẹn ngày trả mới thả cho về. Người này suy nghó: “Ta vốn không thể trả nổi cả gốc lẫn lãi, ta nên bỏ đi nhưng quê nhà khó bỏ đi được. Ta nghe nói sa môn Thích tử được vua xem đồng như vương tử, ta nên đến đó cầu xuất gia”, nghó rồi liền đến trong rừng Thệ-đa ở chỗ các Bí-sô cầu xuất gia, các Bí-sô liền cho xuất gia và cho thọ cận viên. Sau khi được thọ Cận viên, người này phát tâm dõng mãnh siêng tu không gián đoạn, không bao lâu sau chứng quả A-la-hán. Lúc đó trưỡng giả cho vay sanh tâm hối hận suy nghó: “Số tiền nó mắc nợ trước kia đã trả cả gốc lẫn lãi, nếu gặp lại nó, ta sẽ xin lỗi”, nghó rồi liền đứng bên cửa thành chờ Bí-sô, khi Bí-sô đắp y vào thành khất thực, trưởng gia thấy rồi liền đến nắm tay nói rằng: “Ngươi tuy đã xuất gia nhưng vẫn trả ta cả gốc lẫn lãi, nay ngươi nên trở về nhà”. Bí-sô liền bay lên hư không, thân hiện thần biến, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… rồi trở xuống đất. Phàm phu hễ thấy được thần thông, tâm ý mau hồi chuyển như cây đại thọ bị ngã xuống đất, trưởng giả cho vay liền cúi mình đảnh lễ bạch rằng: “Thánh giả đã có công năng như vậy, con nguyện từ nay cúng dường tứ sự cho Thánh giả”. Từ đó tiếng đồn vang khắp và đến tai của vua Thắng-quang, vua liền ra lịnh cho quần thần: “Từ nay nếu có ai mắc nợ không thể trả được mà muốn xuất gia theo Phật thì không nên gây trở ngại cho họ”. Lúc đó trong thành Thất-la-phiệt có một trưởng giả cho vay… giống như trường hợp trên, chỉ khác ở chỗ người mắc nợ này sau khi xuất gia rồi không có chứng được quả nên khi bị trưởng giả cho vay nắm tay nói rằng: “Người xuất gia rồi thì ai sẽ trả nợ cả gốc lẫn lãi cho ta, hãy theo ta trở về nhà”, thì Bí-sô này nói rằng: “Nếu ông xúc chạm tôi, ông sẽ bị chặt tay. Vua có sắc lịnh người mắc nợ không thể trả được nếu xuất gia thì tất cả nợ nần đều khỏi trả”. Người kia nghe lời này rồi liền chế trách các Bí-sô: “Sa môn Thích tử phần nhiều ôm lòng ngạo mạn, người đang mắc nợ lại độ cho xuất gia”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu có lỗi này sanh thì từ nay các Bí-sô không nên tùy tiện độ người mắc nợ. Nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu thì sanh được một trai… dần dần trưởng thành. một hôm đồng tử này bị cha mẹ giận trách liền muốn trốn đi, tự nghó: “Quê nhà khó bỏ đi được. Ta nghe nói sa môn Thích được xem đồng như vương tử, ta nên đến đó cầu xuất gia”, nghó rồi liền đi đến trong vườn Cấp ở chỗ các Bí-sô cầu xuất gia, các Bí-sô liền cho xuất gia và cho thọ Cận viên. Thời gian sau, người cha tìm con đến chỗ các Bí-sô hỏi thăm, các Bí-sô đáp là đã độ cho xuất gia, người cha liền chê trách rằng: “Có phải các Bí-sô thường cầm sẵn con dao đợi khi có người đến cầu xuất gia liền cạo tóc liền phải không? Vì sao phải cạo gấp như vậy?”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Không được cạo tóc liền. Nếu có đồng tử ở gần đến cầu xuất gia, nên chờ đợi bảy, tám ngày sau mới được cạo tóc. Nếu là người phương xa đến cầu xuất gia thì có thể cạo tóc liền không phạm”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu liền sanh được một trai. một hôm, trưởng giả nói với vợ: “Hiền thủ, nuôi con đến lớn ắt phải nhiều tốn kém, nay ta muốn đi đến phương xa khác buốn bán cầu lợi”, nói rồi liền ra đi nhưng sau đó không thấy trưởng giả trở về. Người vợ ở nhà tảo tần nuôi con đến lớn và cho con đến trường để học ngoại điển, không ngờ người con này học không tiếp thu được gì cả trong khi các bạn đồng học đối với các luận điển đã có đều học thông suốt. Người mẹ liền đến trường gạn hỏi thầy giáo nguyên do, thầy giáo nói: “Đối với người học có hai việc khiến cho học nghiệp được thành tựu: Một là biết hổ thẹn, hai là biết sợ hãi. Con trai của bà không có hai đức tánh này”, người mẹ nói: “Nếu nó không chịu cố gắng học thì thầy cứ cho nó roi”. Thầy giáo nghe theo lời người mẹ, khi thấy đồng tử này không chịu học liền quở trách và đánh roi, đồng tử khóc rồi chạy về mách mẹ, không ngờ lại bị người mẹ đánh thêm, đồng tử suy nghó: “Ta thật khổ, không mách mẹ thì chỉ bị thầy giáo đánh, về mách lại còn bị mẹ đánh thêm. Ta không thể chịu đựng được khổ này, ta nên trốn đi”. Đồng tử liền đi đến trong rừng Thệ-đa, gặp một Cầu-tịch đang hái hoa liền khen: “Thật sung sướng thay”, Cầu-tịch hỏi nguyên do, liền đáp: “Vì thầy được xuất gia”, liền hỏi: “Vậy sao ngươi không xuất gia?”, đáp: “Đâu có ai độ cho tôi”, Cầu-tịch nói: “Ngươi đến đây, tôi sẽ dẫn đến gặp thầy tôi”. Cầu- tịch liền dẫn đến gặp thầy bạch rằng: “Ô-ba-đà-da, vị thiện nam này muốn xuất gia”, vị thầy liền cho xuất gia. Sau đó người mẹ đến trường hỏi thầy giáo: “Con tôi đâu?”, đáp: “Bị tôi đánh, nó liền bỏ về nhà”, người mẹ nói: “Nó về nhà lại bị tôi đánh thêm nên nó bỏ đi, không biết đã đi đâu”. Người mẹ liền đi khắp nơi tìm kiếm nhưng không tìm thấy, cuối cùng đứng bên cửa thành Vương-xá nhìn ngó Đông tây, bỗng thấy hai cầu tịch tay cầm bát đi đến, một Cầu-tịch chính là con mình liền đấm ngực kêu khóc: “Đứa con ngu si này, ta tìm kiếm khắp nơi không gặp, tai sao con lại xuất gia trong nhóm sa môn bần tiện này”, nói rồi liền nắm tay con kéo lôi về nhà và bắt phải hoàn tục, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Do không xin phép cha mẹ liền cho xuất gia nên mới có lỗi này, Từ nay các Bí-sô nếu có người đến cầu xuất gia, không xin phép cha mẹ mà liền cho kia xuất gia thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong Trúc-lâm bên ao Yết-lan-đạc-ca thành Vương-xá, trong thành có một Bà-la-môn cưới vợ chưa bao lâu thì sanh được một trai, dần dần trưởng thành bỗng mắc bịnh nặng, tìm đến nhiều thầy thuốc nhưng không hết bịnh, người mẹ bảo con: “Con nên đến cầu xin trưởng giả Thị phược ca trị bịnh”. Người con liền đến chỗ trưởng giả xin trị bịnh, trưởng giả nói: “Bịnh của ngươi rất nặng, rất khó trị; nhưng y thuật của ta chỉ dùng để trị cho hai hạng người: Một là Phật và Tăng chúng, hai là người ở trong cung vua. Vì thế ta không rảnh trị bịnh cho ngươi, ngươi hãy về đi”. Người con trở về nói lại cho mẹ nghe, người mẹ nói: “Vậy con nên xuất gia”, người con nói: “Con là chủng tộc Bà- la-môn, sao lại phải xuất gia trong Sa môn tạp chủng đó?”, người mẹ nói: “Con xuất gia để được trị bịnh, hết bịnh thì hoàn tục có khó gì”, người con nói: “Xuất gia sẽ bị cạo tóc, con phải làm sao?”, người mẹ nói: “Cạo rồi thì tóc cũng mọc lại, con sợ gì chứ !”. Người con liền đến trong Trúc-lâm ở chỗ các Bí-sô cầu xuất gia, được xuất gia rồi ngay trong đêm ấy người này không chịu vào phòng, vị thầy hỏi nguyên do, liền đáp là có bịnh, vị thầy hỏi: “Tại sao ngươi không nói cho ta biết?”, đáp: “Vì không thấy thầy hỏi”, vị thầy nghe rồi rất tức giận. Sáng hôm sau có người đệ tử cũ đến viếng thăm, thấy thầy không vui liền hỏi nguyên do, vị thầy nói: “Chỗ ở của ta lại là chỗ nuôi bịnh, người có bịnh đều tụ lại đây”, đệ tử nói: “Như Thế tôn dạy có hai việc: Một là không nên làm quá sức mình, hai là đã độ rồi thì không nên bỏ. Nay thầy đã độ rồi thì biết làm sao”. Đúng lúc đó có y vương Thị phược ca đến, vị thầy hỏi y vương: “Bịnh của Bí-sô này có thể chữa được không?”, đáp: “Bịnh này quá nặng, nếu vua Thắng-quang cấp thuốc đầy đủ thì tôi sẽ chữa được”. Bí-sô này sau khi hết bịnh liền đấn bạch thầy: “Con vì có việc mong cầu nên mới xuất gia, nay đã toại nguyện con muốn trở về nhà”, vị thầy hỏi: “Con đã đắc A-la-hán chưa?”, đáp chưa, lại hỏi: “Con đã đắc quả Bất lai, Nhất lai hay Tu đà hoàn chưa?”, đáp đều chưa, lại hỏi: “Nếu vậy tại sao lại muốn về nhà”, đáp: “Con vì muốn trị bịnh nên mới xuất gia, nay bịnh đã lành nên muốn trở về”, vị thầy nói: “Trong pháp xuất gia có bốn quả thù thắng, con đều không được. Con nên ở lại trả tiền thuốc cho người, nếu không sau này bịnh phát trở lại, chắc chắn sẽ chết không nghi”. Người này không nghe lời liền bỏ về nhà, sau đó đem hoa quả… đến báo đáp Thị phược ca, Thị phược ca hỏi nguyên do, liền nói là muốn báo đáp, Thị phược ca nói không nhớ, liền đem việc trên kể lại, Thị phược ca nghe rồi nói rằng: “Ngươi đã xuất gia trong pháp luật thiện thuyết đáng lẽ phải chứng được bốn quả sa môn, nhưng ngươi thọ của tín thí lại rơi vào đường ác”. Sau đó Thị phược ca đến chỗ Phật đem việc trên bạch Phật và nói: “Thế tôn, các Bí-sô cho người bịnh nặng xuất gia và thọ cận viên sẽ làm cho tài vật trong kho của vua tổn giảm, thân con cũng lao nhọc. Cúi xin Thế tôn chế định các Thánh giả đừng cho người bịnh nặng xuất gia”, Phật im lặng nhận lời, Thị phược ca biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ rồi lui ra. Phật tự nghó: “Do độ người bịnh nặng nên có lỗi này”, liền bảo các Bí-sô: “Từ nay không được độ người có bịnh nặng. Nếu có người đến cầu xuất gia nên hỏi hỏi bịnh gì không, nếu không hỏi liền độ thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong rừng Ni-cù-đà thành Kiếp-tỷ-la, lúc đó vua Tịnh- phạn bảo trong dòng họ Thích, mỗi nhà nên cho một người xuất gia. Bà con thân thuộc đến thăm nghe thuyết pháp Hoan-hỉ rồi khởi lòng tin cầu xuất gia, trong số đó hoặc là cha, anh, chồng, con… nên người nhà buồn thương kêu khóc, vua Tịnh-phạn nghe biết liền hỏi nguyên do, thân quyến của những người xuất gia nói rõ nguyên do. Vua nghe rồi liền đến chỗ Phật bạch Phật: “Cúi xin Thế tôn cho tôi một ước nguyện”, Phật hỏi: “Đại vương muốn điều gì?”, đáp: “Ước nguyện này là vì dòng họ Thích, nếu Thế tôn làm Chuyển luân thánh vương thì người trong dòng họ Thích đều đi theo, nhưng Thế tôn lại xuất gia nên điều mà chúng tôi mong mõi lại không được toại. Lại nữa, Nan-đà là Lực chuyển luân vương, Thế tôn lại độ cho xuất gia nên chúng tôi cũng mất hy vọng; La-hổ-la có đại oai đức sẽ lên ngôi vua, Thế tôn cũng độ cho xuất gia, chúng tôi cũng tuyệt vọng. Thế tôn, cha mẹ đối với con tình thương sâu nặng, cúi xin Thế tôn chế định nếu cha mẹ chưa cho phép không nên độ cho xuất gia”. Phật im lặng nhận lời, vua biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ rồi ra về, Phật tự nghó: “Do không hỏi ý kiến của cha mẹ liền độ cho xuất gia nên có lỗi này”, Phật liền bảo các Bí-sô: “Từ nay nếu có người đến cầu xuất gia trước nên hỏi cha mẹ đã cho phép chưa, nếu cha mẹ đã cho phép mới được độ cho xuất gia, nếu không hỏi mà liền độ thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó có người từ xa đến cầu xuất gia nói là cha mẹ đã cho phép, nhưng các Bí-sô không dám độ liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu có người từ xa đến, cha mẹ đã cho phép thì nên độ, không hỏi không phạm”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA XUẤT GIA SỰ <卷>QUYỂN 4 Lúc đó có đoàn thương buôn trải qua gian nan trên biển trở về, rất mệt nhọc nên ngủ vùi. Tháp tùng theo đoàn thương buôn này có Bí-sô Tăng hộ, lúc đó Tăng hộ nhìn biển cả suy nghó: “Như Phật đã dạy có năm việc nhìn xem không thấy chán: Một là người đầy đủ tướng Tượng vương (voi chúa), hai là Chuyển luân thánh vương, ba là biển cả, bốn là núi Diệu cao vương, năm là Như lai Ứng cúng Chánh đẳng giác”, nhìn xem một hồi rồi ngủ thiếp. Lúc đó đoàn thương buôn thức dậy vội vả lên đường, đến khi trời sáng mới phát hiện không có tăng hộ, trong lòng hoang mang bủa ra đi tìm khắp nơi nhưng không tìm thấy, một người nói: “Chúng ta bỏ Thánh giả lại là điều không tốt, nên trở lại tìm”, một người khác nói: “Thánh giả có đại oai đức, hiểm nạn trong biển còn chịu đựng được huống chi ở trên đất liền”, nói rồi cùng tiếp tục lên đường. Lúc đó Tăng hộ ngủ trên bãi cát sỏi đến khi trời nắng nóng mới thức dậy, nhìn quanh không còn ai biết là đoàn thương buôn đã đi, liền một mình đi về phía trước, đi mãi mà không thấy dấu chân người, lại thấy có một con đường nhỏ liền đi theo con đường này đến một khu rừng lớn, trong rừng có một ngôi chùa nguy nga, trong chùa ngoài chùa đều trang hoàng rất đẹp, có suối trong có ao nước với cây báu mọc thành hàng và với các loại chim quý như Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-vũ, Xá-lợi… như ở trên thiên cung. Các Bí-sô ở đây đều đầy đủ oai nghi, Tăng hộ cung kính lễ rồi đem sự việc của mình kể lại, các Bí-sô dẫn vào trong nhà ăn, trên bàn ăn đã có thức ăn dọn sẵn rất ngon, Bí-sô hỏi có đói không, đáp có, Bí-sô nói: “Nếu đói thì hãy ăn”, đáp: “Đợi Tăng già ăn sẽ cùng ăn”, Bí-sô nói: “Thầy đi đường mệt nhọc nên ăn trước, nếu đợi tới giờ ăn sẽ có chuyện không hay”, Tăng hộ ăn xong rồi đứng một bên. Đến giờ ăn, trong chùa đánh kiền chùy, chư tăng mỗi người tự mang bát đến ngồi vào bàn theo thứ lớp, bỗng nhiên tất cả đều biến mất, bát trên tay biến thành cây sắt, mọi người cầm cây sắt này đánh lẫn nhau đến khi đầu mặt tét ra chảy máu khắp đất, qua giờ ăn rồi cảnh chùa mới hiện lại như cũ, các Bí-sô bình phục như không có chuyện gì xảy ra, các căn tịch tónh. Sau đó Tăng hộ hỏi các Bí-sô: “Các vị ở đây đã tạo nghiệp nhân gì mà phải chịu khổ như vậy?”, Bí-sô đáp: “Này Tăng hộ, người ở châu Thiệm-bộ không tin”, Tăng hộ nói: “Tôi đã thấy trước mắt làm sao không tin”, Bí-sô nói: “Này Tăng hộ, vào thời Phật Ca-nhiếp-ba chúng tôi là Thanh văn, sắp đến giờ ăn chúng tôi đánh nhau, do nghiệp này nên nay ở trong địa ngục này chịu khổ báo nhẹ, ở đây chết sẽ vào đại địa ngục. Khi thầy trở về lại châu Thiệm-bộ nên nói lại cho Tăng già biết sắp đến giờ ăn chớ có đánh nhau”, Tăng hộ nhận lời rồi từ giã, tiếp tục đi về phía trước, lại thấy một ngôi chùa nguy nga giống như trước, cũng thấy các Bí-sô đầy đủ oai nghi… giống như trước, chỉ khác là trong bát của các Bí-sô này là nước đồng sôi, các Bí-sô lấy nước đồng sôi này tạt lẫn nhau… qua giờ ăn cảnh chùa hiện lại như cũ, Tăng hộ cũng như trước hỏi nguyên do, Bí-sô nói: “Chúng tôi là Thanh văn trong thời Phật Ca-nhiếp-ba, đến giờ ăn được các món ăn ngon, khi thấy có khach Bí-sô đến, chúng tôi khởi nghó đợi khách đi rồi sẽ cùng nhau ăn. Không ngờ trời mưa kéo dài suốt bảy ngày khách không đi được, thức ăn vì thế hư thối không ăn được phải đổ bỏ. Do thọ của tín thí mà không bình đẳng thọ thực nên phải chịu khổ báo nhẹ ở trong địa ngục này, sau khi chết sẽ vào đại địa ngục. Thầy trở về châu Thiệm-bộ nên nói lại cho tăng già biết”. Tăng hộ nhận lời rồi tiếp tục đi về phía trước, cũng thấy một ngôi chùa nguy nga như trước, cũng có các Bí-sô oai nghi đầy đủ… giống như trước, chỉ khác là các Bí-sô vừa vào bàn ăn thì chùa bỗng bị cháy, các Bí-sô đều bị thiêu đốt, qua giờ ăn cảnh chùa hiện lại như cũ. Tăng hộ cũng như trước hỏi nguyên do, Bí-sô nói: “Chúng tôi là Thanh văn trong thời Phật Ca-nhiếp-ba vì phá giới nên bị Tăng già tẫn xuất. Chúng tôi đi đến nơi khác ở chung với những người đồng cảnh ngộ. Thời gian sau có một Bí-sô trì giới tinh tấn đến, sau đó lại có một Bí-sô trì giới đầy đủ đến cùng chỉnh lý Tăng đồ và quở trách chúng tôi nên chúng tôi sanh lòng bất nhẫn. Sau đó vào giờ ăn đại chúng đang ăn, chúng tôi đồng tâm phóng hỏa đốt chùa cháy rụi, do nghiệp lực này nên chịu khổ báo nhẹ ở trong địa ngục này, sau khi chết sẽ vào đại địa ngục. Thầy trở về châu Thiệm-bộ nên nói lại cho Tăng già biết”. Tăng hộ nhận lời rồi tiếp tục đi về phía trước lại thấy có hữu tình hình thể như bức tường hoặc như đại thọ, hoặc như chiếc lá… hoặc như cột trụ, lại có hữu tình bị dây trói kéo làm cho đứt đoạn… Cuối cùng Tăng hộ đến một trú xứ của năm trăm tiên nhơn, họ thấy Tăng hộ đến liền nói với nhau: “Sa môn Thích tử đa ngôn đa ngữ, chúng ta không nên cùng nói chuyện”, vì thế khi Tăng hộ xin chỗ nghỉ thì các tiên nhơn này đều im lặng không nói. Lúc đó có một tiên nhơn từ bi nói với các tiên nhơn: “Lẽ nào chúng ta không cho sa môn này một chỗ nghỉ hay sao?”, các tiên nhơn nói: “Cho chỗ nghỉ nhưng không cùng nói chuyện”, nói rồi chỉ cho Tăng hộ một căn phòng trống. Tăng hộ vào phòng rửa chân rồi tónh tọa, đoan thân chánh niệm, vào đầu đêm bỗng có nhiều tiên nữ đến yêu cầu tăng hộ nói pháp yếu, Tăng hộ nói: “Tôi bị các tiên nhơn chế phục không cho nói chuyện nên được ở trong phòng này, các vị bảo tôi nói pháp yếu có phải muốn tôi bị đuổi khỏi chỗ này không?”, các tiên nữ tự nghó: “Sa môn này từ xa mới đến chắc là mệt nhọc, chúng ta nên đi”, nghó rồi liền bỏ đi, sau nửa đêm lại đến yêu cầu nói pháp yếu, Tăng hộ cũng đáp như lần trước, các tiên nữ lại bỏ đi, cuối đêm lại đến yêu cầu nói pháp yếu nữa, Tăng hộ cũng đáp như trước. Lúc đó các tiên nữ nói: “Trời đã sáng rồi tại sao không đi. Thánh giả không nhớ lời Phật dạy, đến chỗ khủng bố phải nhẫn chịu hay sao?”, Tăng hộ nghe rồi liền muốn ra đi, lại nghó: “Các tiên nhơn này đều là dị học, ta nên nói kệ theo sở học của họ cho họ nghe để họ Hoan-hỉ”, nghó rồi liền nói kệ: “Lõa hình và tóc dài, Bôi tro và nhịn ăn, Nằm đất, tắm rửa thân, Ngồi xổm và niệm tà, Các pháp tà như vậy, Không thể thoát sanh tử, Chỉ trừ pháp chân diệu, Trang nghiêm nơi tự thân, Chánh kiến trụ tư duy, Sẽ đoạn tham sân si, Từ bi hành hỉ xả, Không giết hại chúng sanh, Siêng tu nơi học xứ, Chân sa môn như vậy, Cũng là Bà-la-môn, Không khác tánh Bí-sô”. Các tiên nhơn nghe rồi liền nói với nhau: “Người này tụng kinh của chúng ta”, nói rồi liền lắng nghe lời kệ, Tăng hộ kế thuyết kinh Thành dụ khiến họ được giác ngộ, vừa nghe kinh xong các tiên nhơn liền chứng quả thứ ba, đồng thanh nói rằng: “Thiện thuyết, kinh này thật vi diệu”. Tán thán rồi cùng đến chỗ tăng hộ xin được xuất gia và được thọ cận viên, Tăng hộ nói: “Các vị có tin tâm tăng thượng như vậy thật là tốt, vì như lời Phật dạy, người xuất gia có năm lợi ích: Công đức xuất gia là tự lợi của ta, không chung với người khác, thế nên người trí cầu xuất gia. Tự biết ta là người thấp kém bị người khác sai khiến, sau khi xuất gia lại được người khác lễ bái cúng dường và tán thán, thế nên người trí cầu xuất gia. Từ cõi này mệnh chung sẽ sanh lên cõi trời, rời khỏi ba đường ác, thế nên người trí cầu xuất gia. Do từ bỏ thế tục xuất ly sanh tử, sẽ được an ổn nơi Niết-bàn vô thượng, thế nên người trí cầu xuất gia. Thường được chư Phật, chúng Thanh văn và các bậc Thắng thượng nhơn tán thán, thế nên người trí cầu xuất gia. Các vị nên khéo quán năm lợi ích này, khởi tâm ân trọng rời bỏ lưới thế tục để cầu đại công đức. Nay ta độ cho các vị xuất gia, các vị muốn ở đây hay đến chỗ Phật?”, các tiên nhơn đáp: “Muốn cùng tôn giả đến chỗ Phật xuất gia, không biết dùng thần lực của tôn giả hay dùng thần thông của chúng tôi để đến đó?”. Tăng hộ nghe nói rồi tâm không vui tự nghó: “Các tiên nhơn nghe ta nói pháp liền chứng được quả cao, ta tuy được giải thoát nhưng lại không chứng được quả ấy”, nghó rồi liền nói với các tiên nhơn: “Hãy đợi tôi một chút, tôi còn có việc cần làm”, nói rồi đến bên gốc cây kiết già phu tọa, đoan thân chánh niệm, tâm ý tịch nhiên, không bao lâu sau phiền não đốn trừ chứng được quả A- la-hán, thoát ly ba cõi như dao cắt mùi thơm, không sinh sân hận, xem vàng như đất không khác, đáng được chư thiên Đế-thích, Phạm vương cúng dường. Chứng quả rồi liền bảo các tiên nhơn: “Hãy nắm lấy chéo y của tôi để nương thần lực của tôi đến chỗ Phật”. Lúc đó đoàn thương buôn năm trăm người đang dừng ngựa xe ở giữa đường để nghỉ ngơi, từa xa trông thấy Tăng hộ nương hư không đi đến liền hỏi vọng lên: “Thánh giả đang định đi đâu?”, đáp: “Năm trăm tiên nhơn này muốn xuất gia nên tôi đưa họ đến chỗ Phật”, năm trăm thương nhơn nghe rồi cùng nói: “Thánh giả, chúng tôi cũng muốn xuất gia, xin Thánh giả hãy hiện thân xuống, chờ chúng tôi đem tài vật giao cho người nhà rồi cùng đi”. Sau khi họ phân phó tài vật xong rồi, Tăng hộ cùng một ngàn người này đi đến chỗ Phật, lúc đó Phật đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, từ xa thấy đoàn người của Tăng hộ đi đến liền bảo đại chúng: “Các thầy có thấy Bí-sô tăng hộ cùng một ngàn người kia đang đi đến đây không?”, đáp: À có thấy, Phật nói: “Thế gian cúng dường không bằng người này giáo hóa người khác xuất gia và điều phục tế độ họ”. Lúc đó Tăng hộ đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên bạch Phật: “Thế tôn, các tộc tánh tử này gồm có một ngàn người đều muốn ở trong pháp luật thiện thuyết xuất gia và thọ cận viên thánh tánh Bí-sô, cúi xin Phật từ bi thương xót chấp thuận”. Phật nói: “Thiện lai Bí-sô, ở trong giáo pháp của ta khéo tu phạm hạnh, thành đại sa môn”. Phật vừa nói xong, cả ngàn người đều râu tóc tự rụng, thân mặc ca sa như đã từng cạo tóc, trải qua bảy ngày đầy đủ oai nghi như Bí-sô một trăm tuổi hạ. Phật nói pháp yếu cho họ rồi tự mỗi người đoan thân chánh niệm, tâm ý tịch nhiên, không bao lâu sau phiền não đốn trừ chứng được quả A-la-hán, thoát ly ba cõi như dao cắt mùi thơm, không sinh sân hận, xem vàng như đất không khác, đáng được chư thiên Đế-thích, Phạm vương cúng dường. Lúc đó tăng hộ bạch Phật: “Thế tôn, ở chỗ kia con thấy có các hữu tình hoặc thân như bức tường… giống như đoạn văn trên, không biết họ đã tạo những nghiệp gì mà chịu quả báo ấy?”, Phật nói: “Này Tăng hộ, tất cả hữu tình đã tự tạo nghiệp trở lại tự thọ quả báo, không ai thay thế được. Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba ở trong rừng Thi-lộc chỗ Tiên nhơn đọa xứ, lúc đó có các Cầu-tịch ở chỗ đức Phật ấy. Những chúng sanh hình dáng như vách tường là do làm dơ bẩn vách tường trong chốn già lam nên chịu quả báo đó. Những chúng sanh hình dáng như cột trụ là do khạc nhổ hỉ mũi làm dơ bẩn cột trụ trong chốn già lam nên chịu quả báo đó. Chúng sanh có hình dáng như cái muổng chính là các Cầu- tịch phân chia nước mật trong già lam, lúc đó cầu tịch đang rửa muổng, có khách Bí-sô đến hỏi: “Đã dọn đưa nước uống phi thời cho Tăng già chưa?”, cầu tịch đáp: “Đã dọn đưa xong rồi, không thấy tôi đang rửa muổng hay sao?”, do quát mắng Bí-sô nên cầu tịch phải chịu quả báo đó. Chúng sanh có hình dáng như cái cối chính là Bí-sô vì muốn giã mè nên đến chỗ cầu tịch giữ kho hỏi mượn cái cối, cầu tịch giữ kho nói: “Đại đức hãy chờ một chút, tôi quên mất nó ở đâu rồi, chút nữa tìm ra sẽ đưa cho đại đức”, Bí-sô nổi giận nói: “Nếu tôi tự do lấy cối thì không luận là giã mè mà còn giã luôn thân ngươi”, cầu tịch suy nghó: “Nếu ta trả lời vị ấy sẽ giận thêm”, nghó rồi nên im lặng, đợi khi vị đó hết giận mới đến nói với vị ấy rằng: “Thầy có biết tôi là người như thế nào không?”, Bí-sô nói: “Ngươi xuất gia làm cầu tịch trong giáo pháp của Phật Ca-nhiếp-ba”, cầu tịch nói: “Việc của người xuất gia thầy còn chưa làm xong nên bị phiền não ràng buộc, còn tôi đã giải thoát. Thầy nói ra lời thô ác nên sám hối mới diệt được tội”, Bí-sô đó tuy thuyết hối nhưng vẫn phải chịu quả báo đó. Chúng sanh có hình dáng như cái chão chính là tịnh nhơn trong chùa thừa sự cho các Bí-sô, một hôm đang rang thuốc thấy Bí-sô trừng mắt nhìn liền sanh lòng oán hận cố ý đập bể chão nên phải chịu quả báo đó. Chúng sanh bị dây cột trói kéo đứt đoạn chính là Bí-sô thọ sự, lúc đó có thí chủ cúng dường vật dụng cho tăng để dùng lúc trời nóng lạnh, Bí-sô thọ sự này đem y vật dùng cho mùa nóng đưa cho Tăng dùng vào mùa lạnh, đem y vật dùng cho mùa lạnh đưa cho Tăng dùng vào mùa nóng nên phải chịu quả báo đó. Lúc đó các Bí-sô có nghi thỉnh hỏi Phật: “Cụ thọ tăng hộ đã từng tạo hạnh nghiệp gì và do nghiệp ấy được sinh vào nhà trưởng giả giàu có lại được xuất gia, chứng quả A-la-hán làm được việc lợi ích lớn như thế?”, Phật nói: “Bí-sô Tăng hộ đã tạo các phước nghiệp nên nay trở lại thọ quả quả báo. Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba ở trong rừng Thi lộc chỗ Tiên nhơn đọa xứ, lúc đó Tăng hộ cũng xuất gia ở chỗ đức Phật đó làm Chúng chủ có năm trăm đệ tử, nam nữ bốn phương đều quy ngưỡng. Vị chúng chủ này tuy kiên trì phạm hạnh không có khuyết phạm nhưng lại không chứng được quả, nên khi sắp lâm chúng liền phát nguyện: “Tôi kiên trì phạm hạnh, tinh tấn không lười biếng trong pháp luật thiện thuyết của Phật Ca-nhiếp-ba, nhưng lại không được chứng quả. Nguyện nhờ công đức thiện căn tu phạm hạnh này ở đời vị lai lúc con người thọ một trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu, tôi sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán”. Lúc đó năm trăm đệ tử đến hỏi thầy đã phát nguyện thù thắng gì, vị chúng chủ liền nói rõ nguyện mà mình đã phát, các đệ tử nghe rồi liền nói: “Nếu Ô-ba-đà-da phát nguyện như vậy, con cũng nguyện theo thầy xuất gia và cùng chứng quả A-la-hán”. Lúc đó có năm trăm người trong thôn đến thăm nghe biết việc này cũng đồng nguyện được theo xuất gia và cùng chứng quả A-la-hán. Này các Bí-sô, vị chúng chủ thuở xưa chính là Tăng hộ ngày nay, năm trăm đệ tử thuở xưa chính là năm trăm tiên nhơn, năm trăm người trong thôn thuở xưa chính là năm trăm thương nhơn. Vị chúng chủ thuở xưa do nhân duyên cúng dường tăng già nên nay được quả báo sanh trong nhà giàu có, do xưa phát nguyện ấy nên nay được quả báo chứng A-la-hán; lại nữa do thuở xưa diều phục rộng khắp nên nay được quả báo điều phục nhiều người, độ nhiều hữu tình làm việc đại lợi ích như thế. Này các Bí-sô, phải biết quả báo tự làm tự thọ, hễ tạo nghiệp đen thì cảm quả báo dị thục đen; tạo nghiệp trắng thì cảm quả báo dị thục trắng… các thầy nên học như thế.” Lúc đó các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Bí-sô hóa rồng bắt đầu phát tâm từ lúc nào?”, Phật nói: “Quá khứ trong Hiền kiếp khi con người sống thọ hai vạn tuổi có đức Phật ra đời hiệu là Ca-nhiếp-ba ở trong rừng Thi lộc chỗ Tiên nhơn đọa xứ đang thuyết pháp cho các Thanh văn: “Này các Bí-sô, nên trú nơi A-lan-nhã hoặc trong núi, dưới gốc cây, chỗ tịch tónh… đoan thân chánh niệm, tinh tấn chớ buông lung, các thầy nên học như thế”. Các Bí-sô vâng lời Phật dạy, mỗi người tìm đến một nơi hoặc trên núi Diệu cao hoặc bên ao Vô nhiệt…, lúc đó có một con tiểu long vị Kim súy điểu chúa bắt bay lên không trung, từ trên không nhìn xuống thấy các Bí-sô đoan thân chánh niệm tónh tọa liền suy nghó: “Các Bí-sô thật an lạc không như ta đang chịu khổ”, nghó rồi liền sanh tâm quy ngưỡng, tín tâm ân trọng, sau khi khởi niệm này liền mạng chung, thác sanh vào nhà một Bà-la-môn ở thành Bà-la-nê-tư. Đồng tử này đến tuổi trưởng thành liền xuất gia và thọ cận viên, siêng tu phạm hạnh, không bao lâu sau phiền não đốn trừ chứng được quả A- la-hán, thoát ly ba cõi như dao cắt mùi thơm, không sinh sân hận, xem vàng như đất không khác, đáng được chư thiên Đế-thích, Phạm vương cúng dường. Lúc đó vị A-la-hán này liền quán mình đã tạo nghiệp gì, từ đâu chết sinh đền đây mà chứng được quả này; quán rồi liền biết mình từ loài rồng chết được sanh vào cõi người, do thấy các Thanh văn mà phát tâm ân trọng; lại quán thấy cha mẹ rồng trong quá khứ ở trong Long cung liền dùng thần thông hiện đến trong Long cung, thấy cha mẹ đang khóc liền hỏi nguyên do. Rồng mẹ nói: “Con tôi bị Kim súy điểu chúa bắt đi không biết ra sao”, vị A-la-hán nói: “Tôi chính là con rồng nhỏ ấy, sau khi chết thác sanh trong nhà Bà-la-môn, sau đó xuất gia nơi Phật Ca-nhiếp-ba siêng tu phạm hạnh, đoạn trừ phiền não chứng A-la-hán”. Rồng mẹ nói: “Thật là hi hữu khó tin, vì rồng con của tôi tánh tình vốn ác được sanh vào cõi lành còn khó, làm sao có thể chứng được A-la-hán”, vị A-la-hán nói: “Tôi thật đã chứng quả, không phải nói hư dối”, rồng mẹ nói: “Nếu thật như thế, từ nay về sau hằng ngày xin thỉnh Thánh giả xuống đây thọ thực”, vị A-la-hán im lặng nhận lời thỉnh, hằng ngày đến trong Long cung thọ thực, ăn xong mới trở về chỗ ở của mình. Vị A-la-hán này có nuôi một cầu tịch, các Bí-sô hỏi cầu tịch: “Thầy của con hằng ngày đi đến đâu thọ thực?”, đáp là không biết, lại hỏi tại sao không đi theo, đáp: “Thầy con có đại oai đức dùng thần thông để đi, con không có oai đức làm sao đi theo được”, các Bí-sô nói: “Khi thầy con sắp đi, con nên lặng lẽ nắm lấy chéo y”, đáp: “Con sợ bị rơi xuống đất”, các Bí-sô nói: “Cột núi Tô-mê-lô vào y của thầy con, núi còn không rớt huống chi là thân con”. Cầu-tịch nghe lời chỉ vẻ nên sắp đến giờ ăn, lặng lẽ đến chỗ thầy đứng ở chỗ khuất, đơi khi thầy bay lên hư không liền nắm lấy chéo y của thầy bay theo. Khi đến trong long cung thấy sắp đặt hai chỗ ngồi liền hỏi tại sao, rồng chỉ phía sau, lúc đó vị thầy mới biết là Cầu-tịch lén theo sau. Các rồng suy nghó: “ Vị thầy đã chứng quả có đại oai đức nên cúng dường thức ăn của trời, còn vị đệ tử chưa chứng nên cúng dường thức ăn của phàm phu”, liền cùng dường cho hai vị như đã nghó. Sau khi ăn xong Cầu-tịch thâu bát của thầy, thấy trong bát còn sót vài hạt cơm bèn lấy ăn, mùi vị ngon ngọt ở thế gian không sánh bằng liền suy nghó: “Hai người cùng ăn sao lại có phân biệt”, nghó rồi liền sanh tâm sân hận phát nguyện: “Ta xuất gia nơi Phật Ca-nhiếp-ba tu phạm hạnh, nguyện đem công đức này được sanh trong loài rồng có đại oai đức đoạt lấy Long cung, đuổi hết các rồng này đi”. Do tâm sân hận mãnh liệt nên sau khi phát nguyện xong nơi hai tay chảy ra nước trong, lúc đó các rồng trong cung đều bị đau đầu, các rồng nói với vị thầy: “Cầu-tịch này không nghó việc thiện, nên ngăn cản”, vị thầy nói: “Đây là cõi ác, cớ sao con lại phát nguyện như vậy”, Cầu-tịch nói kệ: “Tâm con đã đi xa, Khó thể nắm bắt lại, Cớ sao khó truy hối, Vì hai tay chảy nước”. Nói kệ xong thân hóa thành rồng, đuổi hết các rồng đi và chiếm lấy Long cung. Này các Bí-sô, Bí-sô hóa rồng chính là Long vương bị đuổi, Long vương do nhân duyên này mà bắt đầu phát tâm”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một ngoại đạo đến trú xứ của các Bí-sô thấy giường nằm, ngọa cụ… cho đến thức ăn uống đều thượng diệu, liền suy nghó: “Ta nên xuất gia ở đây để được thọ hưởng mọi thứ thượng diệu, đến ngày nghe pháp thì ta sẽ trở về trú xứ của mình để nghe”, nghó rồi liền đến chỗ các Bí-sô cầu xuất gia, các Bí-sô liền cho xuất gia và thọ cận viên. Thường pháp của ngoại đạo là Bao-sái-đà vào ngày thứ mười bốn, Bí-sô Bao-sái-đà vào ngày thứ mười lăm nên ngoại đạo này trở về trú xứ của ngoại đạo để Bao-sái-đà vào ngày thứ mười bốn, qua ngày thứ mười lăm mới trở lại chỗ Bí-sô để trưởng tịnh. Thời gian sau vì có duyên sư nên tăng già bố tát vào ngày thứ mười bốn, ngoại đạo này suy nghó: “Hôm nay hai nơi cùng trưởng tịnh, ta nên đến kia hay ở đây. Sa môn Thích tử vốn từ bi hỉ xả, khoan dung còn ngoại đạo thì nghiêm khắc, nếu ta không đến ắt sẽ phạt và quở trách ta”, nghó rồi liền đến trú xứa của ngoại đạo bố tát. Lúc đó các Bí-sô đánh kiền chùy tập họp Tăng già, đại chúng đều đến tập họp chỉ thiếu có mỗi Bí-sô ngoại đạo, các Bí-sô tìm không thấy nên cùng tác pháp trưởng tịnh. Sáng hôm sau Bí-sô ngoại đạo trở về, các Bí-sô hỏi đã đi đâu, liền đáp: “Tôi từ chỗ các phạm hạnh cũ bố tát xong trở về”, các Bí-sô nghe rôi liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Ngoại đạo kia còn chấp tà kiến không chịu bỏ, nếu còn ở trong giáp pháp của ta chẳng những không có lợi ích, cũng không tăng trưởng pháp nhãn, nên diệt tẫn cho họ hoàn tục. Từ nay về sau nếu có ngoại đạo đến cầu xuất gia nên hỏi: Ngươi không phải là ngoại đạo còn ưa thích tà pháp phải không? Nếu đáp phải thì nên đuổi ra, nếu không hỏi thì phạm tội việt pháp”. Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: “Thế tôn, ngoại đạo như thế nào nên diệt tẫn?”, Phật nói: “Một là ngoại đạo vẫn còn giữ y phục trước kia của mình; hai là ngoại đạo còn ưa thích pháp của họ, không bỏ tà kiến; ba là ngoại đạo trở về trú xứ của ngoại đạo, mặc lại y phục của ngoại đạo cho đến khi mặt trời mọc. ba loại ngoại đạo như thế đều phải diệt tẫn”. Phật ở thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu thì sanh được một trai, sau đó trưởng giả vì muốn kinh doanh cầu lợi nên sang phương khác buôn bán, không may lại qua đời không trở về nữa, người vợ ở nhà phải tự lực nuôi con khôn lớn. Đến tuổi trưởng thành, đồng tử này cùng các bạn đến nhà một trưởng giả, người con gái của trưởng giả đó ném tràng hoa vào người đồng tử, các bạn liền hỏi đồng tử: “Bạn có hẹn với người con gái ấy phải không?”, đáp là có, các bạn nói: “Ông trưởng giả đó tánh nghiêm khắc ác độc, bạn ước hẹn với con gái của ông ta, ông ta biết được sẽ hại bạn”. Các bạn khuyên can rồi liền đưa đồng tử về nhà và nói với người mẹ: “Bạn ấy cùng ước hẹn với con gái ông trưởng giả làm việc phi pháp, chúng con đã khuyên can nhưng e trong đêm nay bạn ấy sẽ đi đến đó, bác nên tìm cách ngăn cản”, nói rồi ra về. Người mẹ bảo con trai vào phòng, trong phòng để-sẵn bình nước và cái bô, bà đóng cửa lại và nằm ngủ ngay trước cửa phòng của con. Đến nửa đêm, người con kêu mẹ: “Mẹ hãy mở cửa cho con ra ngoài tiểu tiện”, người mẹ nói: “Trong phòng có để-sẵn cái bô, con cứ tiểu vào trong đó”. Không bao lâu sau người con lại kêu mẹ mở cửa, người mẹ vẫn không mở và nói rằng: “Ta biết con muốn đi đâu, ta có chết cũng không mở cửa”, người con nghe rồi liền tức giận, lại do lửa dục đốt tâm nên không điều ác gì mà không dám làm, liền tông cửa ra giết chết mẹ rồi chạy đi đến nhà trưởng giả để gặp người con gái kia. Lúc đó cô gái thấy đồng tử thân hình run rẫy liền nói: “Anh chớ sợ, cha em không có ở nhà”, đồng tử nói: “Đêm nay vì em mà anh đã giết chết mẹ mình”, cô gái hỏi: “Là mẹ ruột hay mẹ kế”, đáp là mẹ ruột, cô gái suy nghó: “Người này nổi giận ngay cả mẹ mình còn dám giết, huống chi là ta”, nghó rồi liền nói: “Hãy chờ ở đây, em lên lầu một chút rồi trở xuống ngay”, lên lầu rồi cô gái liền la lớn là có giặc, đồng tử nghe rồi liền chui qua ống thoát nước trốn ra ngoài, về đến nhà liền la to lên rằng: “Giặc giết chết mẹ tôi”. Sau khi hỏa táng mẹ xong, đồng tử suy nghó: “Ta đã tạo tội nghịch”, từ đó trong lòng luôn sợ hãi bất an nên tìm đến các nơi thờ trời hỏi nên tu hạnh nghiệp gì để diệt tội. Có người nói là phải nhảy vào lửa, có người nói nên từ trên cao nhảy xuống, có người nói nên nhảy vào nước, lại có người nói nên thắt cổ… đều là tự sát, không có lối thoát. Thời gian sau đồng tử này đến trong rừng Thệ-đa nghe các Bí-sô tụng kệ: “Nếu người tạo nghiệp ác, Tu thiện trừ diệt được, Kia chiếu soi thế gian, (như) Mặt trời ra khỏi mây.”, Đồng tử nghe rồi liền suy nghó: “Sa môn Thích tử có pháp trừ tội, ta nên xuất gia tu thiện nghiệp để diệt trừ tội của mình”. Nghó rồi liền đến chỗ các Bí-sô cầu xuất gia, các Bí-sô liền cho xuất gia và cho thọ cận viên, sau đó siêng năng tinh tấn tu tập, không bao lâu sau thông suốt ba tạng được biện tài vô ngại, khéo hay luận đáp. Có một Bí-sô hỏi: “Vì nhân duyên gì mà thầy tinh tấn như vậy, chắc là mong cầu điều gì?”, đáp: “Tôi vì muốn diệt trọng tội”, lại hỏi trọng tội gì, đáp là tội giết mẹ, lại hỏi là mẹ ruột hay nhũ mẫu, đáp là mẹ ruột. Bí-sô này đem việc trên bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Người giết mẹ xuất gia trong giáo pháp của ta sẽ làm hoại chánh pháp, nên diệt tẫn. Từ nay về sau nếu có người đến cầu xuất gia nên hỏi: Ngươi không có giết mẹ phải không?, nếu không hỏi thì phạm tội Việt pháp”. Sau khi bị Tăng diệt tẫn, người này suy nghó: “Ta không thể hoàn tục, ta nên đến biên phương xa xôi”, nghó rồi liền đến chốn biên phương hóa độ một trưởng giả, trưởng giả này phát tâm tín kính xây chùa cho Bí-sô này ở, không bao lâu sau có nhiều người đến nghe pháp nương ở, trong số đó có nhiều người chứng quả A-la-hán. Thời gian sau Bí-sô này mắc bịnh lạ, thuốc thang không thể trị lành, đến lúc nguy khốn mới bảo các đệ tử xây nhà tắm, các đệ tử vâng lời cho xây nhà tắm vừa xong thì vị thầy nói kệ: “Tích tụ đều tiêu tán, Cao ngất ắt rơi rớt, Hội họp ắt biệt ly, Có mạng đều phải chết”. Nói kệ xong thì qua đời đọa vào địa ngục Vô gián. Lúc đó vị đệ tử đã chứng quả A-la-hán nhập định quán xem Ô-ba-đà-da thác sanh vào chỗ nào, quán trên thiên cung không thấy; kế quán trong cõi người, cõi bàng sanh, ngạ quỷ cũng đều không thấy; kế quán cõi địa ngục thì thấy thầy đang ở trong ngục Vô gián. Vị đệ tử này suy nghó: “Thầy ta lúc còn sống đa văn trì giới, dùng pháp nhiếp thọ, không hiểu đã tạo nghiệp gì phải đọa trong Vô gián”, nghó rồi liền quán thêm, mới biết thầy mình đã phạm tội nghịch là giết mẹ nên bị lửa dữ ở địa ngục bức thân. Lúc bị hành hạ ở địa ngục, vị này khởi tưởng đây là nhà tắm nên kêu lên là nhà tắm, ngục tốt nghe được dùng chùy đánh vào đầu nói rằng: “Tội nhân bạc phước, đây là địa ngục Vô gián sao gọi là nhà tắm”, bị đánh liền phát thiện tâm nên mạng chung sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Tất cả hữu tình sanh lên cõi trời đều khởi ba niệm: Một là ta từ đâu sanh đến đây, hai là nay ta đang ở đâu, ba là ta do nghiệp duyên gì. Khởi niệm rồi liền quán biết ta chết từ địa ngục vô gián, được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương, do nhân duyên làm nhà tắm nên được sanh lên cõi trời này. Quán biết rồi liền suy nghó: “Ta nhờ nơi thiện phương tiện của Thế tôn nên mới được sanh lên cõi trời, ta nên đến gặp Thế tôn để báo ân”, nghó rồi liền đến chỗ Phật, nghe pháp xong liền chứng Sơ quả, được Kiến đế rồi liền trở về thiên cung. Lúc đó vị đệ tử chứng A-la-hán đến giờ ăn của chúng Tăng ngồi ở vị trí bậc Thượng tòa trong chúng, thị giả dọn đưa nước, lúc Thượng tọa thọ nước đầu ngón tay chạm vào nước lạnh liền nghó đến thầy mình đang đọa trong địa ngục phải uống nước đồng sôi, liền quán cõi địa ngục thì không còn thấy thầy đâu; kế quán cõi người, bàng sanh ngạ quỷ cũng không thấy; kế quán cõi trời thì thấy thầy được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương, sau đó ở chỗ Phật đã được Kiến đế. Quán thấy biết rồi liền móm cười nói rằng: “Chỉ có Phật pháp tăng là vi diệu thanh tịnh bất tư nghì. Phạm tội nghịch, nghiệp cực trọng bị đọa vào địa ngục rồi lại được sanh lên cõi trời, thật là có công năng thù thắng”, vị thị giả dọn đưa nước thấy Thượng tọa cười liền nói: “Ô-ba-đà-da chết, thầy được lên làm Thượng tọa nên vui vẻ móm cười phải không?”, Thượng tọa nói: “Này cụ thọ, điều mà thầy vừa hỏi bây giờ là không đúng lúc, đợi khi Tăng già tập họp hãy hỏi điều nay, ta sẽ giải đáp cho thầy”. Sau đó khi Tăng già tập họp, vị thị giả kia liền hỏi Thượng tọa giống như đoạn văn trên, thương tọa liền đem việc trên nói cho đại chúng nghe, đại chúng nghe xong đều Hoan-hỉ tán thán công đức của Tam bảo như ở đoạn văn trên. Phật ở trong rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt thuyết pháp cho vua Thắng-quang, vua nghe pháp xong liền được Kiến đế, lúc đó có tám vạn thiên chúng cùng vô lượng trăm ngàn Phạm chí, Bà-la-môn đồng thời cũng được Kiến đế, vua liền cho người đánh trống tuyên lịnh: “Mọi người nên biết, người trong nước ta không được làm giặc cướp, nếu làm giặc cướp bị bắt được sẽ bị đi đày và tẩn xuất. Tài vật của người bị mất ta sẽ xuất kho bồi thường”. Cũng vào lúc đó Phật thuyết kinh Thiếu Niên cho vua nước Kiều-tát-la khiến sanh lòng tín kính, vua cũng cho người đánh trống tuyên lịnh: “Mọi người nên biết, người trong nước ta không được làm giặc cướp, nếu làm giặc cướp bị bắt được sẽ giết chết. Tài vật của người bị mất ta sẽ xuất kho bồi thường”. Lúc đó bọn giặc cướp của hai nước này nghe nhà vua tuyên lịnh như vậy liền tập trung lại ở ranh giới giữa hai nước để trốn tránh, người sống trong hai nước đều nghe biết ở ranh giới giữa hai nước có bọn giặc cướp thường đón đường các đoàn thương buôn cướp của giết người. Lúc đó có các thương nhơn đi đến giữa đường thì gặp cướp, trong số các thương nhơn có người bị giết chết, có người bỏ chạy, lại có một vị A-la-hán tháp tùng theo các thương nhơn thấy việc này rồi trong lúc chánh tư duy thì bị giết chết. Người chạy thoát được liền chạy đến chỗ vua Thắng-quang kêu cứu, vua hỏi biết rõ chỗ bị cướp rồi liền ra lịnh cho đại tướng Tỳ-lô-trạch-gia đem quân đi bắt giặc. Lúc đó bọn cướp đang ở trong rừng phân chia tài vật vừa cướp được, đại tướng cho quân bao vây tứ phía rồi đánh trống thổi ốc, giặc cướp nghe rồi kinh hoàng bỏ chạy, có kẻ bị giết, có kẻ bị bắt. Đại tướng cho chở tất cả tài vật và bọn cướp đã bắt được giải về đến chỗ vua. Vua hỏi bọn cướp: “Các ngươi há không nghe ta tuyên lịnh, người trong nước ta không được làm giặc cướp, nếu làm giặc cướp bị bắt được sẽ giết chết hay sao?”, đáp: “Chúng tôi đều nghe biết”, vua hỏi: “Nếu đã nghe biết tại sao còn làm giặc cướp, cướp hết tài vật của đoàn thương buôn?”, đáp: “Nếu không làm giặc cướp thì không thể sinh sống được”, vua hỏi: “Nếu như vậy thì chỉ nên lấy của, tại sao còn giết người?”, đáp: “Vì muốn khủng bố họ nên mới giết”. Vua nói: “Nếu như vậy ta cũng có cách xử tội làm cho các ngươi sợ hãi, cách xử tội này nếu trước nay chưa thấy thì nay các ngươi được thấy”, nói xong nhà vua ra lịnh giết hết bọn cướp. Trong số bọn cướp có một tên chạy thoát được liền chạy đến trong rừng Thệ-đa ở chỗ các Bí-sô cầu xuất gia, các Bí-sô liền cho xuất gia và thọ Cận viên. Sau đó các Bí-sô dẫn Bí-sô này vào rừng thây chết, Bí-sô này thấy xác của những tên cướp liền rơi nước mắt, các Bí-sô nói với nhau: “Bí-sô mới xuất gia này tín tâm rất sâu, nhìn thấy những thây chết này liền rơi nước mắt”. Bí-sô này nghe rồi liền khóc lớn, các Bí-sô hỏi nguyên do, liền đáp: “Người này là cha, người này là anh, người này là em của tôi”, các Bí-sô hỏi: “Họ đều là giặc cướp, đã giết chết một A- la-hán, không lẽ thầy cũng là một trong số bọn cướp đó hay sao?”, đáp phải. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Người giết A-la-hán là đoạn phước điền, phạm tội nghịch, nếu xuất gia sẽ làm hoại giáo pháp của ta, nên diệt tẫn cho hoàn tục. Từ nay các Bí-sô nếu có người đến cầu xuất gia nên hỏi: Ngươi không có giết A-la-hán phải không?, nếu không hỏi thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: “Nếu có người trước đã xuất gia, phá hòa hợp Tăng rồi hoàn tục, sau đó lại đến cầu xuất gia, có nên cho họ xuất gia không?”, Phật nói: “Không nên. Từ nay trở đi nếu có người đến cầu xuất gia, các Bí-sô nên hỏi: Ngươi có từng phá hòa hợp Tăng hay không?, nếu đáp là không thì nên độ, nếu không hỏi như thế thì phạm tội Việt pháp”, Ưu-ba-ly lại hỏi: “Nếu có người sanh tâm ác nghịch với Thế tôn làm thân Phật chảy máu, sau đó đến cầu xuất gia thì có nên độ họ không?”, Phật nói: “Không nên. Nếu có người đến cầu xuất gia, các Bí-sô nên hỏi: Ngươi không có ác tâm làm thân Phật chảy máu phải không?, nếu đáp là không có thì nên độ, nếu không hỏi như thế thì phạm tội Việt pháp”. Ưu-ba-ly lại hỏi: “Nếu có người trước đã xuất gia tùy phạm một trong bốn pháp Ba-la-thị-ca rồi hoàn tục, sau đó lại đến cầu xuất gia thì có nên độ họ không?”, Phật nói: “Không nên. Nếu có người đến cầu xuất gia, các Bí-sô nên hỏi: Ngươi có từng phạm một trong bốn tội trọng hay không?, nếu không hỏi như thế thì phạm tội Việt pháp”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “Nếu có Bí-sô bị Tăng tác pháp yết ma Bất kiến cử, liền hoàn tục; sau đó lại xuất gia và thọ Cận viên tiếp tục gây tội, không chịu phát lồ, còn nói là không thấy tội thì Tăng nên diệt tẫn. Nếu Bí-sô nào phạm tội không chịu sám hối, sanh ác kiến không chịu bỏ, bị tăng tác pháp yết ma Bất sám cử, Bất xả ác kiến cử, hoàn tục rồi lại đến cầu xuất gia, vẫn không chịu sám hối và không bỏ ác kiến thì nên diệt tẫn”. Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ-đa thành Thất-la-phiệt, lúc đó những người đệ tử được Lục chúng Bí-sô độ khi chưa biết thầy mình là người ác hạnh thì cùng ở chung thừa sự cúng dường, nhưng khi biết rồi thì bỏ đi đến ở chung với các Bí-sô thiện hạnh để thỉnh hỏi những việc cần làm trong ba thời. Lục chúng Bí-sô nói với nhau: “Những Hắc bát này đoạt đệ tử của chúng ta, nếu chúng ta có độ thêm ai thì hãy độ những người như vầy như vầy”. Sau đó Ô-ba-Nan-đà thấy một người không có tay liền nói: “Hiền thủ, sao ngươi không xuất gia?”, đáp: “Ai có thể độ một người không có tay như tôi”, Ô-ba-Nan-đà nói: “Giáo pháp của Thế tôn từ bi khoan thứ, ta sẽ độ ngươi”. Nói rồi liền dẫn về cho xuất gia và thọ Cận viên rồi dạy các hành pháp và oai nghi, vài ngày sau bảo rằng: “ ngươi biết không, nai không nuôi nai, thành Thất-la-phiệt này rộng lớn, dân đông đều kính tín Tam bảo, ngươi nên đi đến đó khất thực tự nuôi thân”, Bí-sô không tay bạch: “Thân con như vầy làm sao khất thực được”, Ô-ba-Nan-đà nói: “Ta sẽ dạy ngươi”, nói rồi liền mặc ba y vào người đệ tử rồi dùng dây cột lại, kế cột đãy bát vào vai trái, cột cây tích trượng vào vai phải của đệ tử. Bí-sô không tay vào thành khất thực, một phụ nữ trông thấy không có tay liền la lên: “Ai đã độc ác chặt Cả hai tay của Bí-sô nay như vậy?”, Bí-sô nói: “Tôi bị chặt hai tay khi còn ở thế tục, không phải sau khi xuất gia”, phụ nữ kia hỏi: “Ai đã độ thầy xuất gia?”, đáp là Ô-ba-Nan-đà, phụ nữ kia nghe rồi liền nói: “Trừ nhóm Lục chúng ác hạnh ra, không ai độ người như thế này xuất gia”. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Do độ người căn thân không đầy đủ nên có lỗi này. Sao gọi là căn thân không đầy đủ? Tức là không tay, không ngón tay, không chân, sứt môi, không môi… Nếu ai độ những người như thế thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó Ưu-ba-ly bạch Phật: “Nếu người phải chống gậy, bị ban trắng hoặc già quá, nhỏ quá… được độ không?”, Phật nói: “Không được. Tất cả những bịnh làm nhơ ngọa cụ của tăng đều không được độ. Lại nữa những người què chân, mắt lé, mù, chột, gù lưng, lùn thấp, có bướu cổ, câm, điếc… đều không được độ, nếu độ thì phạm tội Việt pháp. Lại nữa những người dâm dục quá độ, bị nữ nhân làm tổn thương, bị tổn thương do làm việc nặng, bị thương tổn do đi bộ, đại tiểu tiện không thể cấm chế… đều không được độ, nếu độ thì phạm tội Việt pháp”, lại hỏi: “Những người mắc bịnh ghẻ lác, ghẻ độc, mạch lươn, bịnh lác khô, lác ướt, gầy còm, hen suyển, sốt rét, điên cuồng, nghiện ngập, tró… có được độ không?”, Phật nói: “Không được, nếu độ thì phạm tội Việt pháp”. <篇>LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 78