<經 id="n1441">TÁT BÀ ĐA BỘ TỲ NI MA ĐẮC LẶC GIÀ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1441 TÁT BÀ ĐA BỘ TỲ NI MA ĐẮC LẶC GIÀ <卷>QUYỂN 1 CÁC VIỆC VỀ TỲ NI Hỏi về giới Ba-la-di: Tới đảnh lễ Thế tôn, Pháp vương, Thánh chủng tử, Hàng phục các ác hạnh, Khéo điều phục đệ tử, Tỳ-ni là tối thắng, Nay con nói ít phần. Như cây, rễ là gốc, Cành lá nương rễ sanh, Tất cả thiện pháp tụ, Tỳ-ni là gốc rễ, Lời Thế tôn đã dạy, Như đê điều ngăn nước, Nước chảy mạnh không vỡ, Đê Tỳ-ni cũng vậy, Ngăn dòng nước ác giới. Phật và các Bồ tát, Tối tôn trong loài người; Phật Bích chi thanh tịnh, đối. Đệ tử của Mâu ni, Ứng cúng A-la-hán , Cũng nói nhân Tỳ-ni, Lìa được phược Hữu vi, Đang lìa và sẽ lìa, Đều trụ nơi Tỳ-ni. Lìa Luật không giải thoát, Nên phải siêng năng học. Thánh chúng, Tăng hòa hợp, Tạng bí mật của Phật, Thường ở đời không diệt. Đèn pháp soi thế gian, Lìa Luật không tịch diệt. Hỏi: phạm tội trong Tỳ-ni là tác hay là vô tác? Đáp: Là tác và vô tác. Hỏi: Phạm là Sắc hay là Phi sắc? Đáp: Phạm là Sắc Hỏi: Phạm là Khả kiến hay là Bất khả kiến? Đáp: Phạm là Khả kiến. Hỏi: Sao gọi là Khả kiến? Đáp: là do thân làm Hỏi: Sao gọi là Bất khả kiến? Đáp: Đó là thân vô tác và khẩu tác vừa là vô tác. Hỏi: Phạm là Hữu đối hay là Vô đối? Đáp: Nếu là Tác thì gọi là Hữu đối, nếu là Vô tác thì gọi là Vô Hỏi: Phạm là Hữu lậu hay là Vô lậu? Đáp: Phạm là Hữu lậu . Hỏi: Phạm là Hữu vi hay là Vô vi? Đáp: Phạm là Hữu vi. Hỏi: Phạm là pháp thế gian hay là xuất thế gian? Đáp: Phạm là pháp thế gian. Hỏi: Phạm là nhiếp thuộc Ấm hay không nhiếp thuộc Ấm? Đáp: Phạm là nhiếp thuộc Ấm. Hỏi: Phạm là nhiếp thuộc Giới hay không nhiếp thuộc Giới? Đáp là nhiếp thuộc Giới. Hỏi: Phạm là thọ hay là không thọ? Đáp: Phạm là thọ. Hỏi: Là từ thọ sanh hay không từ thọ sanh? Đáp: Là từ thọ sanh. Hỏi: Phạm nên nói là bốn đại tạo hay không phải bốn đại tạo? Đáp: là bốn đại tạo. Hỏi: Là từ kiết sử sanh hay không từ kiết sử sanh? Đáp: Là từ kiết sử sanh. Hỏi: Là thuộc hữu ký hay là vô ký? Đáp: Vừa là hữu ký vừa là vô ký. Hỏi: Sao gọi là thuộc hữu ký? Đáp: Là biết Phật đã chế giới mà cố ý phạm. Hỏi: Sao gọi là thuộc vô ký? Đáp: Là biết Phật đã chế giới nên không cố ý phạm. Hỏi: Là ẩn mất hay không ẩn mất? Đáp: Vừa là ẩn mất vừa là không ẩn mất. Hỏi: Sao gọi là ẩn mất? Đáp: Là biết Phật đã kết giới mà cố ý phạm. Hỏi: Sao gọi là không ẩn mất? Đáp: Là biết Phật đã kết giới nên không cố ý phạm. Giống như ẩn mất và không ẩn mất, nhiễm ô và không nhiễm ô cũng vậy. Hỏi: Là nhiễm ô hay là không nhiễm ô? Đáp: Là nhiễm ô. Hỏi: Phạm là có tranh cãi hay là không tranh cãi? Đáp: Là có tranh cãi. Hỏi: Là có duyên hay là không duyên? Đáp: Là không duyên. Hỏi: Là tâm hay là phi tâm?, đáp là phi tâm. Hỏi: Là tâm số hay là phi tâm số? Đáp: Là phi tâm số. Hỏi: Là có quả báo hay không có quả báo? Đáp: Vừa có quả báo vừa không có quả báo. Hỏi: Sao gọi là có quả báo? Đáp: Nhớ có phạm là có quả báo. Hỏi: Sao gọi là không có quả báo? Đáp: Không nhớ có phạm là không có quả báo. Hỏi: Phạm là nghiệp hay không phải nghiệp? Đáp: Là nghiệp. Hỏi: Phạm là từ ngoài vào hay là từ trong vào? Đáp: Là từ ngoài vào. Hỏi: Phạm nên nói là quá khứ, vị lai hay hiện tại? Đáp: Có cả ba , quá khứ là việc đã phạm rồi nên sám hối; vị lai là việc chưa phạm, ắt sẽ phạm; hiện tại là hiện tiền phạm mà không phát lồ sám hối. Hỏi: Phạm là thiện, bất thiện hay vô ký? Đáp: Là bất thiện và vô ký, bất thiện là cố ý phạm giới Phật đã chế; vô ký là không cố ý phạm giới. Hỏi: Phạm là nhiếp thuộc Dục giới, Sắc giới hay Vô sắc giới? Đáp là nhiếp thuộc Dục giới. Hỏi: Phạm là Học hay là Vô học? Đáp: Không phải Học, cũng không phải Vô học. Hỏi: Phạm là Kiến đế đoạn hay là Tu đoạn? Đáp: Là tu đoạn. Hỏi: Phạm tội là thuộc thân, khẩu hay ý? Đáp: Thuộc thân là như Tỳ-kheo cố ý sát sanh, trộm cắp… cho đến tự tay đào đất, ăn phi thời, uống rượu…; thuộc khẩu là như Tỳ-kheo thật không có pháp hơn người mà nói là có, nói lời thô với người nữ… Trong đây không có loại phạm tội riêng thuộc về tâm. Hỏi: Có trường hợp làm việc này thì phạm và làm việc này mà không phạm không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo không thọ y Ca-hi-na mà chứa y dư, thường thường ăn, ăn biệt chúng, không bạch mà vào tụ lạc… tùy theo mỗi việc mà phạm. Ngược lại nếu Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na thì được chứa y dư, thường thường ăn, ăn biệt chúng, không bạch mà vào tụ lạc… đều không phạm. Hỏi: Có trường hợp người làm yết ma thì phạm và có người làm mà không phạm không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo cho một Tỳ-kheo yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn hoặc yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn. Tỳ-kheo này tự thấy tội, hạ ý tùy thuận, đến xin xả yết ma. Các Tỳ-kheo liền ở ngoài giới cho xả yết ma thì gọi là phạm; ngược lại nếu ở trong giới cho xả yết ma thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp nói làm yết ma thì phạm và nói làm yết ma mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo bị yết ma Bất kiến tẫn… hạ ý tùy thuận đến xin xả yết ma, các Tỳ-kheo ra ngoài giới cho xả yết ma, sau đó cùng Tỳ-kheo này cọng sự, cùng ở chung và giáo thọ. Tỳ-kheo khác thấy nói rằng: “Tăng đã cho Tỳ-kheo này yết ma Bất kiến tẫn…, thầy chớ nên cùng cọng sự…”, đáp là người này đã thấy tội và đã cho xả yết ma, liền hỏi là xả yết ma ở đâu, đáp là ở ngoài giới. Đây gọi là nói làm yết ma có phạm; ngược lại nếu ở trong giới cho xả yết ma tẫn thì gọi là nói làm yết ma không phạm. Hỏi: Có trường hợp tự nói thì phạm và dù nói hay không nói đều phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ở trong năm thiên giới, phạm mỗi mỗi việc rồi tự nói có phạm, đó gọi là tự nói thì phạm. Tỳ-kheo đã phạm mỗi mỗi việc trong năm thiên giới rồi , dù nói hay không nói đều gọi là có phạm. Hỏi: Có trường hợp do tự nói gọi là phạm và do người khác nói mà gọi là phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo phạm mỗi mỗi việc ở trong năm thiên giới tự nói ra, đó là do tự nói gọi là phạm. Nếu các Tỳ-kheo nghe theo lời Ưu-bà-di đáng nói mà trị tội Tỳ-kheo phạm thì do người khác nói mà gọi là phạm. Hỏi: Có trường hợp nhớ thì gọi là phạm và không nhớ cũng gọi là phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo phạm mỗi việc trong năm thiện giới, nhớ hết hoặc chỉ nhớ một ít, đây là nhớ thì gọi là phạm; nếu đã phạm rồi, dù nhớ hết hay không nhớ một việc nào vẫn gọi là có phạm. Hỏi: Có trường hợp hiện tiền phạm và hiện tiền không phạm hay không? Đáp: Có, nếu hiện tại tiền phạm thì gọi là hiện tiền phạm; hiện tại tiền không phạm thì gọi là hiện tiền không phạm. Hỏi: Có trường hợp phạm Ác tà kiến bất cọng trụ liền do việc này mà phạm đủ các loại Bất cọng trụ hay không?, đáp là có, như trước đã nói rõ. Hỏi: Có trường hợp tác pháp yết ma Bất cọng trụ, liền do yết ma này mà phạm đủ loại Bất cọng trụ hay không? Đáp là có, như trước đã nói rõ. Hỏi: Có trường hợp tự nói Bất cọng trụ, liền do tự nói này mà phạm đủ loại Bất cọng trụ hay không? Đáp: là có. Hỏi: Có trường hợp phạm tội Tăng tác pháp yết ma, do việc này mà đông nhiều Tỳ-kheo hoặc hai, một Tỳ-kheo được tác pháp yết ma hay không? Đáp: Có, như Ni tăng tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường cho Tỳ-kheo phạm tội, đông nhiều Tỳ- kheo hoặc hai, một Tỳ-kheo cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp do việc này mà làm yết ma Khổ thiết, cũng do việc này mà làm yết ma Khu xuất, yết ma tẫn, yết ma chiết phục hay không? Đáp: là có. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-di và cũng từ việc này lại phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni phạm thân xúc chạm nhau là Ba-la-di, Tỳ-kheo phạm thân xúc chạm nhau lại là Tăng-già-bà-thi-sa. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-di và cũng từ việc này mà phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo-ni che giấu tội trọng thì phạm Ba-la-di, Tỳ- kheo che giấu tội trọng thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-di và cũng từ việc này lại phạm Đột-kiết-la hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo-ni tùy thuận Tỳ-kheo bị tẫn thì phạm Ba-la-di, Tỳ-kheo tùy thuận lại phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Tăng-già-bà-thi-sa và cũng từ việc này lại phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo cố ý làm xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi- sa, Tỳ-kheo-ni cố ý xuất tinh thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp từ việc này phạm Tăng-già-bà-thi-sa và cũng từ việc này lại phạm Đột-kiết-la hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni khuyên Tỳ-kheo-ni khác thọ y thực từ người nam có tâm nhiễm ô thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; Tỳ-kheo khuyên thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-dật-đề và cũng từ việc này lại phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo đòi thức ăn ngon thì phạm Ba-dật-đề, Tỳ-kheo- ni lại phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni. Hỏi: Có trường hợp từ việc này phạm Ba-dật-đề và cũng từ việc này lại phạm Đột-kiết-la hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo-ni đại tiểu tiện trên cỏ tươi thì phạm Ba-dật- đề, Tỳ-kheo lại phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp từ việc làm nhiễm ô Tỳ-kheo-ni mà không được xuất gia thọ giới cụ túc, cũng từ việc làm nhiễm ô Tỳ-kheo-ni lại được xuất gia thọ giới cụ túc hay không? Đáp: Có, nếu là việc phi phạm hạnh làm nhiễm ô Tỳ-kheo-ni thì người nay không được xuất gia thọ giới cụ túc; nếu là việc xúc chạm làm nhiễm ô Tỳ-kheo-ni thì người này được xuất gia thọ giới cụ túc. Hỏi: Có trường hợp người tặc trụ lại được xuất gia thọ giới cụ túc hay không? Đáp: Nếu đã trải quá hai, ba lần bố tát thì người này không được xuất gia thọ giới cụ túc; nếu chỉ trải qua một lần hay chưa trải qua lần nào thì người này được xuất gia thọ giới cụ túc. Hỏi: Có trường hợp người phá Tăng lại được xuất gia thọ giới cụ túc hay không? Đáp: Có, nếu tưởng là phi pháp mà phá Tăng thì người này không được xuất gai thọ giới cụ túc; nếu tưởng là pháp mà phá Tăng thì người này được xuất gia thọ giới cụ túc. Hỏi: Có trường hợp người giết mẹ lại được xuất gia thọ giới cụ túc hay không? Đáp: Có, nếu khởi tưởng là mẹ mình mà giết thì người này không được xuất gia thọ giới cụ túc; nếu tưởng là người khác mà giết thì người này được xuất gia thọ giới cụ túc; trường hợp giết cha, giết A-la-hán cũng vậy. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Thế tôn, giết mẹ có tâm thiện, tâm bất thiện và tâm vô ký hay không?”, Phật nói: “Có, giết mẹ có cả ba tâm thiện, tâm bất thiện và tâm vô ký. Nếu mẹ bịnh nặng, không muốn mẹ chịu khổ não lâu dài nên giết thì gọi là tâm thiện giết mẹ. Nếu vì tài sản, vì vợ con mà giết mẹ thì gọi là tâm bất thiện giết mẹ; nếu chặt cây, phá tường, đào đất lỡ làm chết mẹ thì gọi là tâm vô ký giết mẹ”. Lại hỏi: Có phải tâm thiện, tâm bất thiện và tâm vô ký giết cha mẹ đều phạm Ba-la-di và tội nghịch hay không? Đáp: Phải, nếu cha mẹ bị bịnh chịu khổ não nên khởi tâm giết để được lìa khổ não, đây gọi là tâm thiện giết cha mẹ mà phạm Ba-la-di và tội nghịch. Nếu vì tài lợi mà khởi tâm giết cha mẹ thì đây là tâm bất thiện giết cha mẹ phạm Ba-la-di và tội nghịch. Nếu làm phương tiện để giết rồi đi ngủ, khi ngủ cha mẹ chết thì đây là tâm vô ký giết cha mẹ phạm Ba-la-di và tội nghịch. Hỏi: Có trường hợp dùng tâm thiện, tâm bất thiện và tâm vô ký giết cha mẹ mà không phạm Ba-la-di và tội nghịch hay không? Đáp: Có, nếu cha mẹ bị bịnh nặng, cung dưỡng cơm cháo, thuốc thang; cha mẹ ăn uống xong liền mạng chung. Đây là tâm thiện giết cha mẹ mà không phạm Ba-la-di, cũng không phạm tội nghịch. Nếu giết mẹ của người khác hoặc mẹ là loài dê… thì đây là tâm bất thiện giết cha mẹ mà không phạm Ba-la-di cũng không phạm tội nghịch. Trường hợp bắn vào cây, vào vách, vào bia mà lại trúng nhằm cha mẹ, nhân đây mà chết; đây là tâm vô ký giết cha mẹ không phạm Ba-la-di cũng không phạm tội nghịch. Giống như trường hợp giết cha mẹ, giết A-la-hán cũng như vậy. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tịnh hạnh cùng ở chung trong giới lại không hòa hợp, Tăng tác pháp yết ma thì thành yết ma mà vẫn không phạm hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo đó là Như lai. Lại hỏi: Có năm loại thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, có trường hợp chỉ nói một loại Ba-la-đề-mộc-xoa làm bố tát mà vẫn thành làm bố tát hay không? Đáp: Có, đó là trường hợp nói ba lần bố tát. Hỏi: Như Phật dạy là bạch y ở trong Tăng, Tăng làm bố tát thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, thành thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa mà không phạm giới phải không? Đáp: Có, đó là trường hợp vua Bình sa Hỏi: có trường hợp Tỳ-kheo ở trong ba tâm là tâm thiện phạm hay tâm bất thiện phạm hay tâm vô ký phạm? Đáp: Cả ba tâm, tâm thiện phạm là như Tỳ-kheo mới thọ giới chưa biết giới tướng nên tự tay nhổ cỏ trước tháp, tự làm sạch cỏ chỗ kinh hành, tự hái hoa…; tâm bất thiện phạm là như Tỳ-kheo cố ý phạm giới mà Phật đã kết; tâm vô ký phạm là nếu không cố ý phạm giới. Hỏi: Đối với A-la-hán, trong ba tâm là tâm thiện phạm, hay tâm bất thiện phạm hay tâm vô ký phạm? Đáp: Bậc A-la-hán nếu có phạm lỗi gì đều là do tâm vô ký. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì bậc A-la-hán lúc ngủ bị người khác khiêng để trên giường cao rộng lớn, hoặc khiêng để trên giường có người nữ; hoặc cùng phòng ngủ với người chưa thọ đại giới hai đêm rồi, sau người đó lén trở lại vào trong phòng nên khi thức dậy liền hối lỗi. Vì thế nên nói bậc A-la-hán phạm lỗi gì đều là do tâm vô ký. Hỏi: Có trường hợp Phá tăng thì thọ mạng một kiếp và thọ mạng một kiếp là do phá Tăng không? Đáp: Có bốn trường hợp, không phải Phá tăng thì thọ mạng một kiếp là nếu khởi tưởng là pháp mà Phá tăng; Thọ mạng một kiếp không phải do Phá tăng là như các long vương Y-la, Ma-na-tư, Ca-lưu-già-la, Nan-đà, Bạt-nan-đà, Ca-tỳ-la, A-nhiếp-ba-la, Diêm-la-vương tuy thọ mạng một kiếp nhưng không phải do Phá tăng; Phá tăng thì thọ mạng một kiếp là như Điều đạt phá Tăng; không phải do phá Tăng cũng không phải thọ mạng một kiếp là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Phá tăng thì thọ báo một kiếp và thọ báo một kiếp là do Phá tăng hay không? Đáp: Có bốn trường hợp, không phải Phá tăng thì thọ báo một kiếp là nếu khởi tưởng là pháp mà Phá tăng; Thọ báo một kiếp không phải do Phá tăng là như các long vương Y-la, Ma-na-tư, Ca-lưu-già-la, Nan-đà, Bạt-nan-đà, Ca-tỳ-la, A-nhiếp-ba-la, Diêm-la-vương tuy thọ báo một kiếp nhưng không phải do Phá tăng; Phá tăng thì thọ báo một kiếp là như Điều đạt phá Tăng; không phải do phá Tăng cũng không phải thọ báo một kiếp là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Phá tăng là vì tà định và hễ tà định là Phá tăng hay không? Đáp: Có bốn trường hợp, Phá tăng không phải vì tà định như khởi tưởng là pháp mà Phá tăng; không phải hễ tà định là Phá tăng như Lục sư ngoại đạo tuy tà định nhưng không Phá tăng; Phá tăng là vì tà định như Điều đạt do tà định mà Phá tăng; không phải Phá tăng vì tà định cũng không phải hễ tà định là Phá tăng là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Phá tăng là vì vô minh và hễ vô minh là Phá tăng hay không? Đáp: Có bốn trường hợp, Phá tăng không phải vì vô minh như khởi tưởng là pháp mà Phá tăng; không phải hễ vô minh là Phá tăng như người giết cha mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật bị thương chảy máu tuy vô minh nhưng không Phá tăng; Phá tăng là vì vô minh như Điều đạt; không phải Phá tăng là vì vô minh cũng không phải hễ vô minh là Phá tăng là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Tỳ-kheo có thể khởi việc phá Tăng hay Tỳ-kheo-ni… có thể khởi việc phá Tăng? Đáp: Chỉ có Tỳ-kheo có thể khởi việc phá Tăng, không phải Tỳ- kheo-ni, Thức-xoa-ma-na… có thể khởi việc phá Tăng; ba chúng Ni chỉ có thể trợ giúp việc phá Tăng mà thôi. Lại nữa chỉ có Tỳ-kheo-ni mới có thể phá Tỳ-kheo-ni tăng; Tỳ-kheo, Thức-xoa-ma-na… không thể. Hỏi: Phá Tăng thành tựu thì tội thành tựu phải không? Đáp: Việc phá Tăng thành tựu thì tội phá Tăng thành tựu. Phá tăng phạm tội Thâu-lan-giá. Hỏi: Tất cả người thọ pháp đều là Bất cọng trụ phải không? Đáp: Có bốn câu, là thọ pháp không phải là Bất cọng trụ: Nếu thọ năm pháp thì gọi là thọ pháp, không gọi là Bất cọng trụ; là Bất cọng trụ không phải là thọ pháp: Nếu phạm mỗi việc Ba-la-di nhưng không thọ năm pháp; vừa là thọ pháp vừa là Bất cọng trụ: Vừa thọ năm pháp vừa phạm mỗi việc Ba-la-di; không phài là thọ pháp cũng không phải là Bất cọng trụ: Trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Tất cả người thọ pháp đều có đủ loại Bất cọng trụ phải không? Đáp: có bốn câu. Hỏi: Sao gọi là đủ loại Bất cọng trụ không phải là thọ pháp? Đáp: Đó là Bất kiến tẫn, ác tà bất trừ tẫn… Hỏi: Có trường hợp Bất cọng trụ liền có đủ loại Bất cọng trụ hay không? Đáp: Có bốn câu, có đủ loại Bất cọng trụ nhưng không phải là Bất cọng trụ như ác tà bất trừ tẫn. Hỏi: Có tẫn yết ma liền có đọa yết ma phải không? Đáp: Có. Hỏi: Thế nào là yết ma, thế nào là yết ma sự? Đáp: Tội đã khởi là yết ma, sám hối tội là yết ma sự. Hỏi: Sao gọi là y Ca-hi-na, sao gọi là thọ y Ca-hi-na, sao gọi là xả y Ca-hi-na? Đáp: Tên gọi là y Ca-hi-na, có thể khởi 9 tâm gọi là thọ y Ca-hi- na, có tám việc nên gọi là xả y Ca-hi-na. Hỏi: Có trường hợp lấy ba tiền mà phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Ca-lê-tiên trị giá mười hai tiền. Hỏi: Có trường hợp lấy mười tiền hoặc năm tiền liền phạm Ba-la- di hay không? Đáp: Có, nếu Ca-lê-tiên trị giá bốn mươi tiền hoặc trị giá hai mươi tiền. Hỏi: Có trường hợp giảm thì phạm và giảm mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu giảm điều thiện thì phạm Ba-dật-đề, giảm điều ác thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp tăng thì phạm và tăng mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu tăng điều ác thì phạm Ba-dật-đề, tăng điều thiện thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp bằng kích lượng thì phạm và bằng kích lượng thì không phạm hay không? Đáp: Có, nếu may y bằng kích lượng y của Phật thì phạm Ba-dật- đề, may y bằng kích lượng của thân mình thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp không làm thì phạm và làm mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo được vải mới, khi nhuộm không dùng ba màu làm cho hoại sắc thì phạm, nếu dùng ba màu làm cho hoại sắc thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà người chưa nhập Sơ thiền (cho đến nhị, tam, tứ thiền) liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa và nhập Sơ thiền (cho đến nhị, tam, tứ thiền) lại phạm Tăng-già-bà-thi-sa? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo làm phòng xá, sau đó nhập Sơ thiền (cho đến nhị, tam, tứ thiền), trong thời gian nhập thiền, người kia làm xong phòng xá thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Hỏi: Có trường hợp phi Tỳ-kheo (Tỳ-kheo-ni) phạm mà Tỳ-kheo được thanh tịnh và Tỳ-kheo phạm mà phi Tỳ-kheo được thanh tịnh hay không? Đáp: Trường hợp phi Tỳ-kheo phạm mà Tỳ-kheo được thanh tịnh là nếu Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa không đồng (bất cọng) mà chuyển căn làm Tỳ-kheo thì tội này được diệt. Trường hợp Tỳ-kheo phạm mà phi Tỳ-kheo được thoát là nếu Tỳ-kheo phạm tội Tăng-già- bà-thi-sa không đồng (bất cọng) mà chuyển căn làm Tỳ-kheo-ni thì tội này được diệt. Hỏi: Có trường hợp khi không biết thì phạm tội và khi biết thì thanh tịnh hay không? Đáp: Trường hợp không biết thì phạm là như Tỳ-kheo lúc ngủ bị người khác khiêng để trên giường cao rộng lớn… khi thức dậy liền hối lỗi. Hỏi: Có trường hợp khi biết thì phạm tội và khi không biết thì thanh tịnh hay không? Đáp: Trường hợp khi biết thì phạm là như Tỳ-kheo phạm Tăng- già-bà-thi-sa, lúc đang tác pháp yết ma cho xuất tội, vừa nghe bạch liền ngủ cho đến khi yết ma xong. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói một phương tiện mà phạm ba tội Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác rằng: “Thầy thấy tôi trộm vật quý trọng , giết người và biết tôi đã nói đắc quả A- la-hán”, đây gọi là nói một phương tiện mà phạm ba tội Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni nói một phương tiện mà phạm bốn tội Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni nói với Tỳ-kheo-ni khác rằng: “Cô thấy tôi trộm vật quý trọng , giết người , biết tôi đã nói đắc quả A- la-hán và biết tôi tùy thuận trợ giúp Tỳ-kheo bị tẫn”, đây gọi là nói một phương tiện mà phạm bốn tội Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngồi một chỗ mà phạm các giới trong năm thiên hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo đọa vào việc ăn uống thì phạm Đột-kiết- la, trong nhà học gia tự tay thọ lấy năm loại thức ăn Khư-đà-ni hay năm loại Bồ-xà-ni thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni, không có tịnh nhơn bên cạnh mà thuyết pháp cho người nữ quá năm, sáu lời thì phạm Ba-dật-đề; nói lời thô với người nữ thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, thật không có mà nói là được pháp hơn người thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng một phương tiện mà phạm trăm ngàn tội hoặc hơn nữa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo sân hận dùng một nắm đậu hay một nắm cát rãi lên đại chúng, tùy cát này rơi trúng người khác bao nhiêu thì theo đó phạm tội Ba-dật-đề bấy nhiêu. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy trộm vật quý trọng rời khỏi chỗ cũ mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu vật quý trọng đó là của phi nhân. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chưa từng phạm giới dù là Đột-kiết- la, nhưng người này không phải là Tỳ-kheo hay không? Đáp: Có, đó là người mất căn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni chưa từng phạm giới dù là Đột- kiết-la, nhưng người này không phải là Tỳ-kheo-ni hay không?, đáp có, đó là người mất căn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một mình ở trong phòng lại phạm bốn Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo có nam căn dài từ hạ bộ của mình hành dâm, trước đó làm phương tiện trộm cắp, sát sanh và nói dối tôi là A- la-hán. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở trong phòng lại bị mất y và phá an cư hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo đã kiết hạ an cư, chưa tự tứ, chưa thọ pháp xuất giới bảy đêm lại để y trên giường mà ở trên hư không cho đến khi trời sáng thì gọi là phá an cư và mất y. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết Tỳ-kheo không phải là cha, cũng không phải A-la-hán mà lại phạm Ba-la-di thuộc tội nghịch hay không? Đáp: Có, đó là người mẹ xuất gia thọ giới cụ túc chuyển căn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni giết Tỳ-kheo-ni không phải là mẹ, cũng không phải A-la-hán mà lại phạm Ba-la-di thuộc tội nghịch hay không? Đáp: Có, đó là người cha xuất gia thọ giới cụ túc chuyển căn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm việc phi phạm hạnh liền phạm Ba-la-di và cũng làm việc phi phạm hạnh mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu hành dâm với người nữ còn sống, nữ căn không hư hoại liền phạm Ba-la-di; nếu nữ căn đã hư hoại thì không phạm Ba-la- di. Hỏi: Có trường hợp trộm cắp liền phạm Ba-la-di và cũng trộm cắp mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu trộm cắp vật quý trọng của người khác liền phạm Ba-la-di, nếu trộm cắp vật quý trọng của phi nhân thì không phạm Ba- la-di. Hỏi: Có trường hợp giết người liền phạm Ba-la-di và cũng giết người mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có. Nếu là người khởi tưởng là người mà giết thì phạm Ba- la-di; nếu tưởng là loài khác mà giết thì không phạm, nếu muốn giết phi nhân mà lại giết lầm người thì không phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp nói có pháp hơn người liền phạm Ba-la-di và cũng nói có pháp hơn người mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu không có khởi tưởng khác mà nói có pháp hơn người thì phạm Ba-la-di; nếu là Tăng thượng mạn mà nói thì không phạm Ba- la-di. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-di và cũng từ việc này lại không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni thân xúc chạm nam tử thì phạm Ba-la- di, Tỳ-kheo thân xúc chạm người nữ lại không phạm Ba-la-di; Tỳ-kheo- ni che giấu tội trọng của tỳ-kheo-ni khác thì phạm Ba-la-di, Tỳ-kheo che giấu tội trọng của tỳ-kheo khác lại không phạm Ba-la-di; Tỳ-kheo- ni tùy thuận Tỳ-kheo bị tẫn thì phạm Ba-la-di, Tỳ-kheo tùy thuận lại không phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Tăng-già-bà-thi-sa và cũng từ việc này lại không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo thân xúc chạm thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa, Tỳ-kheo-ni lại không phạm Tăng-già-bà-thi-sa; Tỳ-kheo cố ý làm xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Tỳ-kheo-ni lại không phạm Tăng-già-bà-thi-sa; Tỳ-kheo-ni thọ y thực từ người nam có tâm nhiễm ô thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Tỳ-kheo lại không phạm Tăng-già-bà- thi-sa. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-dật-đề và cũng từ việc này lại không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo-ni cố ý làm xuất tinh thì phạm Ba-dật-đề, Tỳ- kheo lại không phạm Ba-dật-đề; Tỳ-kheo đòi thức ăn ngon thì phạm Ba-dật-đề, Tỳ-kheo-ni lại không phạm Ba-dật-đề; Tỳ-kheo-ni đại tiểu tiện trên cỏ tươi thì phạm Ba-dật-đề, Tỳ-kheo lại không phạm Ba-dật- đề. Hỏi: Có trường hợp từ việc này thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni và cũng từ việc này lại không phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni không bịnh mà đòi hỏi thức ăn ngon thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni, Tỳ-kheo không phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni . Hỏi: Có trường hợp từ việc này thì phạm Đột-kiết-la và cũng từ việc này lại không phạm Đột-kiết-la hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo đại tiểu tiện trên cỏ tươi thì phạm Đột- kiết-la, Tỳ-kheo-ni không phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo-ni mặc y quá cao thì phạm Đột-kiết-la, Tỳ-kheo không phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo khi phạm giới lại thanh tịnh và khi thanh tịnh lại phạm giới hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo nói lời thô với người nữ mà chuyển căn thì gọi là khi phạm giới lại thanh tịnh; nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi- sa khi đang được cho yết ma Xuất tội lại không chắp tay, thân không tề chỉnh, trùm đầu… thì gọi là khi thanh tịnh lại phạm giới. Hỏi: Có trường hợp xả giới khác liền được giới tự nhiên hay không? Đáp: Có, nếu xả giới yết ma thì được giới tụ lạc. Hỏi: Có trường hợp người khác nói với người khác thì phạm Ba- la-di và người khác nói với người khác lại phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo làm phương tiện phá Tăng hoặc Ô-tha-gia cho đến can ngăn ba lần mà không chịu bỏ thì phạm Tăng-già-bà-thi- sa. Hỏi: Có trường hợp người khác nói với người khác lại phạm Ba- dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ác tà kiến cho đến can ngăn ba lần mà không chịu bỏ thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp người khác nói với người khác lại phạm Ba- la-đề-đề-xá-ni hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo-ni xin thức ăn cho Tỳ-kheo thì phạm Ba-la-đề- đề-xá-ni. Hỏi: Có trường hợp người khác nói với người khác lại phạm Đột- kiết-la hay không? Đáp: Có, như Phật dạy Tỳ-kheo khi nghe thuyết Ba-la-đề-mộc- xoa mỗi nữa tháng, nhớ mình có tội mà không phát lồ thì phạm Đột- kiết-la. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo-ni xả giới không được xuất gia thọ giới cụ túc trở lại, có trường hợp Tỳ-kheo-ni xả giới mà được xuất gia thọ giới cụ túc hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni sau khi xả giới chuyển căn thành nam thì được xuất gia thọ giới cụ túc. Hỏi: Như Phật dạy người phạm biên tội không được xuất gia thọ giới cụ túc, có trường hợp người phạm biên tội được xuất gia thọ giới cụ túc hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni phạm Ba-la-di Bất cọng trụ, xả giới rồi chuyển căn thành nam thì được xuất gia thọ giới cụ túc. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Thế tôn, có mấy loại yết ma?”, Phật nói: “Có một trăm lẻ một pháp yết ma”. Lại hỏi: Có mấy loại đơn bạch yết ma, mấy loại bạch nhị yết ma, mấy loại bạch tứ yết ma? Đáp: Có hai mươi bốn pháp đơn bạch yết ma, bốn mươi bảy pháp bạch nhị yết ma, và ba mươi pháp bạch tứ yết ma. Hỏi: Một trăm lẻ một pháp yết ma này có mấy loại được gởi dục, có mấy loại không được gởi dục? Đáp: Trừ kiết giới yết ma, tất cả yết ma khác đều được gởi dục. Hỏi: Có mấy loại yết ma nhiếp tất cả các yết ma? Đáp: Có ba loại yết ma nhiếp hết tất cả các yết ma. Đó là đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma. Hỏi: Có trường hợp người khác không nói cũng không dùng thân làm phương tiện mà lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác phạm trọng mà che giấu không phát lồ thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo phạm bốn thiên giới không phát lồ sám hối mà lại được thanh tịnh hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo phạm giới bất cọng trong bốn thiên, sau đó chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni thì được thanh tịnh. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni phạm năm thiên giới không phát lồ sám hối mà lại được thanh tịnh hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni phạm giới bất cọng trong năm thiên, sau đó chuyển căn thành Tỳ-kheo thì được thanh tịnh. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết người mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu hai người ở cùng một chỗ, muốn giết người này lại giết lầm người kia. Hỏi: Có trường hợp người khác hành dâm nhưng người khác nữa lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác hành dâm nhưng che giấu không phát lồ cho đến khi mặt trời mọc thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo khi đi lại phạm năm thiên giới hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo đi đến nhà học gia tự tay thọ lấy thức ăn thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni, không có tịnh nhơn bên cạnh mà thuyết pháp cho người nữ quá năm, sáu lời thì phạm Ba-dật-đề; nói lời thô với người nữ thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, thật không có mà nói là được pháp hơn người thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu có người phi luật nói là luật thì tìm cầu giới tướng ở đâu? Đáp: Nên tìm trong mười bảy pháp của hai loại Ba-la-đề-mộc- xoa, trong việc Tỳ-ni, trong Mục đa dà của phần Tăng nhất, trong Cộng và bất côïng của phần Nhân duyên, phần Kiết trong Tỳ-ni, phần Kiết trong Giới, trong ở trên mặt đất và ở trong hư không và ở trong chuyển căn. Hỏi: Có ai không lìa tất cả cõi lại bị các cõi trói buộc hay không, có ai xuất gia trong thắng pháp, không diệt hết lậu hoặc mà được Vô dư niết bàn hay không? Đáp: Đó là hóa nhơn. Lại hỏi giết hóa nhơn phạm tội gì, đáp là Thâu-lan-giá. Hỏi về giới Dâm Ba-la-di Phật tại nước Xá-vệ trong Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, lúc đó tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nếu Tỳ-kheo dùng chú thuật và thuốc tiên hóa làm súc sanh để hành dâm thì có phạm Ba-la-di hay không?”, Phật bảo: “Nếu tự nhớ nghó mình là Tỳ-kheo, tự biết tôi là Tỳ-kheo mà làm việc không nên làm thì phạm Ba-la-di; nếu không nhớ biết thì phạm Thâu-lan-giá”. Lại hỏi: “Thế tôn, nếu Hai Tỳ-kheo dùng chú thuật và thuốc tiên hóa làm súc sanh để cùng hành dâm thì có phạm Ba-la-di hay không?”, Phật bảo: “Nếu tự nhớ nghó mình là Tỳ-kheo thì phạm Ba-la-di, nếu không nhớ thì phạm Thâu-lan-giá; đối với nữ phi nhân cũng vậy”. Lại hỏi: Như Phật đã dạy hành dâm với nữ phi nhơn thì phạm Ba- la-di, sao gọi là nữ phi nhơn? Đáp: Nếu có thể nắm bắt được thì gọi là phi nhơn, đối với súc sanh cái cũng vậy. Nếu không thể nắm giữ mà cùng hành dâm, xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất tinh thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Hành dâm trong miệng tới mức độ nào thì phạm Ba-la- di? Đáp: Nếu vào quá một lóng tay thì phạm Ba-la-di, không quá thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu bên trong nứt tét mà ba sản môn không hoại cũng phạm Ba-la-di; nếu đầu bị chặt mà hành dâm vào nơi yết hầu thì phạm Thâu-lan-giá, xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Hỏi: Như thế nào là sản môn hư hoại? Đáp: Nếu chung quanh sản môn bị hư hoại mà hành dâm thì phạm Thâu-lan-giá, xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Hỏi: Hành dâm nơi đường đại tiện như thế nào thì phạm Ba-la- di? Đáp: Nếu qua khỏi da cho đến một lóng tay thì phạm; nơi đường tiểu tiện cũng vậy, hành dâm mà không chạm vào trong ba sản môn thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như thế nào là sản môn của người nữ bị hư hoại? Đáp: Nếu sản môn bị hoại hết hoặc hoại phân nữa mà hành dâm thì phạm Thâu-lan-giá, xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu nữ căn bị cắt, trùng không ăn, không bị thiêu đốt, ba sản môn không hoại mà hành dâm thì phạm Ba-la-di; nếu bị nhiều trùng ăn, bị thiêu đốt mà hành dâm thì phạm Thâu-lan-giá, xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi- sa. Người nữ còn sống cũng vậy, nếu nữ căn của người nữ còn sống bị hoại một nữa mà hành dâm cũng phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một mình ở trong phòng mà phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo có nam căn dài tự đưa vào hai đường hành dâm thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hành dâm nơi đường tiểu tiện mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo nam căn bị cắt hoặc người nữ nữ căn bị cắt hoặc cả hai đều bị cắt mà cùng hành dâm thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nơi đường tiểu tiện vào chỗ tiểu tiện mà không phạm hay không? Đáp: Có, đó vào trong bô tiểu tiện. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hành dâm với người nữ mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu ban đầu hành dâm với người có hai căn thì phạm Ba-la-di, nếu hành dâm với thạch nữ do căn nhỏ nên không thể hành dâm được thì phạm Thâu-lan-giá, nếu xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa. Hỏi: Sao gọi là thọ lạc, thọ lạc có nghóa gì? Đáp: Nếu cả thân tâm đều thọ lạc thì đó là nghóa của thọ lạc. Người vốn đã phạm giới mà hành dâm thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi về giới Trộm Ba-la-di: Phật tại thành Vương xá, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Thế tôn, nếu Tỳ-kheo tính số người để lấy phần cho tám người, mười người rồi lấy hết thì thế nào là như pháp, thế nào là phi pháp?”, Phật nói: “Trước là như pháp, sau là phi pháp “. Hỏi: Như vậy thì phạm tội gì? Đáp: Nếu việc xong, tính đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nghe người khác bảo dời vật đem để nơi khác mà phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu thương buôn bảo Tỳ-kheo: “Thầy không bị thu thuế, hãy mang vật có đóng thuế này qua ải giúp tôi”, nếu Tỳ-kheo mang vật này qua khỏi chỗ thu thuế thì phạm Ba-la-di; chưa qua khỏi chỗ thu thuế thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo chỉ các thương nhơn đi đường khác để khỏi bị thu thuế, họ nghe theo và trốn được thuế thì Tỳ- kheo phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo trước không biết trong đãy y của tỳ-kheo khác có vật phải đóng thuế mà mang giúp qua thì không phạm, nhưng người để vật trong đãy trốn được thuế nếu đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di; nếu không đủ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo bảo Tỳ-kheo không tuổi hạ mang vật có đóng thuế đi thì phạm Thâu-lan- giá, qua khỏi chỗ thu thuế nếu đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di; Tỳ-kheo không tuổi hạ do không hỏi rõ mà mang đi nên phạm Đột-kiết-la. Nếu nương hư không để mang vật phải đóng thuế qua khỏi chỗ thu thuế thì phạm Thâu-lan-giá, qua các chỗ khác thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo mang vật vô giá qua khỏi chỗ thu thuế, việc xong thì phạm Ba-la-di; nếu mang vật của mình qua khỏi chỗ thu thuế đủ số năm tiền thì phạm Ba-la-di. Nếu khi chưa thọ giới phương tiện lấy trộm, khi chưa thọ giới cụ túc trộm được thì phạm Đột-kiết-la; khi đã thọ giới cụ túc rồi mà trộm được thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy trộm tóc vàng mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu đó là tóc của trời, rồng, quỷ thần. Nếu Tỳ-kheo lấy trộm giá y gồm cả y mang đi, tính đủ số năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá; nếu trừ y ra, giá y tính đủ năm tiền cũng phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu- lan-giá. Nếu Tỳ-kheo bảo Tỳ-kheo khác lấy trộm vật cho người khác, Tỳ-kheo kia có tâm trộm cắp mà lấy thì cả hai đều phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo, người khác không bảo trộm cắp mà lại tự trộm cắp cho họ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo muốn lấy cắp y Kiếp bối mà lấy nhầm y Sô-ma… thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo bảo Tỳ-kheo khác lấy trộm mỗi loại trong bảy loại y, Tỳ-kheo kia có tâm trộm tự lấy thì phạm Ba-la-di, Tỳ-kheo bảo lấy thì phạm Thâu-lan-giá, nếu khởi tâm nghi mà lấy thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm năm tiền thì phạm Ba-la-di, vậy lấy những gì bằng năm tiền thì phạm Ba-la-di? Đáp: Nếu lấy vật trị giá hai mươi tiền gọi là Ca-ha-na, một Ca-lê tiên trị giá bằng bốn Ca-ha-na. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy trộm vật không rời khỏi chỗ mà lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, như lấy ruộng đất nhà cửa hoặc Tỳ-kheo hái quả trên cây tính đủ số năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan- giá. Nếu Tỳ-kheo phá bồ lúa để trộm lấy lúa, ngay ở phương tiện ban đầu nếu tính đủ số thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá; nếu trộm lấy nhiều loại đồ vật cũng phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trộm cắp tiền đồng mà phạm Ba-la- di hay không? Đáp: Có, nếu Ca-lê-tiên trị giá hai mươi tiền đồng. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trộm tượng bằng vàng mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu tượng trị giá không đủ năm tiền thì phạm Thâu-lan- giá, trộm tóc vàng cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trộm lấy vật đựng nước mà phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu vật ấy trị giá đủ năm tiền. Nếu Tỳ-kheo lấy trộm vàng hoặc vàng chưa hoại tướng, tính đủ số năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo vay mượn vật của người khác mà nói là không có thì phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề, nếu không trả lại thì phạm Thâu-lan-giá; nếu Tỳ-kheo nhận vật của người gởi mà nói là không nhận cũng vậy. Nếu là tặc trụ trộm cắp thì phạm Đột-kiết- la, người vốn đã phạm giới lại trộm cắp thì phạm Đột-kiết-la, người học giới (Sa-di học hối) trộm cắp thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Sao gọi là rời khỏi chỗ? Đáp: Vật đang ở chỗ cũ mà đem dời đến chỗ khác. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đã bạch tứ yết ma thọ giới cụ túc, trong bốn Ba-la-di không phạm một giới nào mà không phải là Tỳ-kheo hay không? Đáp: Đó là người hai căn. Hỏi về giới Sát Ba-la-di: Hỏi: Nếu Tỳ-kheo dùng chú thuật, thuốc tiên biến người khác thành súc sanh rồi giết thì có phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Là có. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết mẹ mà không phạm Ba-la-di và tội nghịch hay không? Đáp: Có, nếu muốn giết người khác mà giết lầm mẹ thì phạm Thâu-lan-giá, muốn giết mẹ mà giết lầm người khác cũng phạm Thâu- lan-giá. hai người chìm trong nước, muốn giết người này lại giết lầm người kia thì phạm Thâu-lan-giá; muốn giết phàm phu mà giết lầm A- la-hán thì phạm Thâu-lan-giá, không phạm nghịch; muốn giết A-la-hán mà giết lầm phàm phu cũng phạm Thâu-lan-giá; muốn giết A-la-hán và giết đúng A-la-hán thì phạm Ba-la-di và tội nghịch. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm cho người sảy thai thì phạm Ba-la-di; nếu người mẹ này muốn phá thai, người nữ khác cho uống thuốc giữ thai đợi thời gian sau sanh ra liền nuôi dưỡng, Tỳ-kheo giết người mẹ nào thì phạm Ba-la-di và tội nghịch? Đáp: Đó là người mẹ muốn phá thai . Hỏi: Nếu muốn xuất gia nên hỏi người mẹ nào? Đáp: Nên hỏi người mẹ nuôi dưỡng. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm cho người sảy thai mà không phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu người đó mang thai súc sanh. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm cho súc sanh sảy thai mà lại phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu súc sanh đó mang thai người. Nếu bảo người khác rằng từ trên cao nhảy xuống hoặc nhảy vào nước, lửa sẽ được an ổn; người đó nghe lời làm theo mà chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di. Nếu muốn giết mẹ mà giết lầm cha thì phạm Thâu-lan-giá, nếu muốn giết cha mà giết lầm mẹ cũng phạm Thâu-lan-giá. Hỏi về giới Vọng Ba-la-di: Nếu Tỳ-kheo nói tôi thối thất bốn Quả Sa-môn thì phạm Ba-la-di; nếu nói tôi đã chứng đắc mà bị thối thất, không nói rõ quả vị thì phạm Thâu-lan-giá, nếu nói rõ quả vị thì phạm Ba-la-di. Nếu nói tôi là Học nhân thì phạm Thâu-lan-giá, nếu nói rõ quả vị trong ba quả Sa-môn thì phạm Ba-la-di. Nếu nói tôi là vô sở hữu, không còn tham dục, sân nhuế thì phạm Ba-la-di; nếu nói đời này là đời cuối cùng thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo nói với cư só: “Ai nói với ông tôi là A-la-hán”, do nói không thật nên phạm Thâu-lan-giá; nếu Tỳ-kheo nói với cư só: “Ông được lợi ích lớn nên tôi mới vào nhà ông”, hỏi lợi ích gì, nếu tự nói có Thánh pháp thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo nói với thí chủ: “Người thọ dụng phòng của ông là A-la-hán nhưng tôi không phải là A-la-hán”, thì phạm Thâu-lan-giá; cho đến nói thọ dụng các vật như y bát, ngọa cụ… cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo nói: “ở chỗ kia trải đủ loại ngọa cụ cho bậc Tu- đà-hoàn…, tôi cũng đã ở chỗ ấy”, thì phạm Ba-la-di; nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi không còn đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”, thì phạm Thâu-lan- giá. Nếu nói chứng đắc bốn Quả Sa-môn thì phạm Ba-la-di; nếu nói đã lìa kiết sử thì phạm Ba-la-di; nếu Tỳ-kheo nói: “Những pháp mà Thanh văn đạt được, tôi cũng đạt được”, thì phạm Ba-la-di; nếu nói được năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo cũng vậy; nếu nói tôi thối thất Sơ thiền cho đến nói tu thiền thuận nghịch theo thứ lớp cũng Ba- la-di. Nếu nói tôi đối với bố thí là vô sở hữu thì phạm Thâu-lan-giá; nói tôi là Phật cũng phạm Thâu-lan-giá; nói tôi là thầy của trời người cũng phạm Thâu-lan-giá. Nói tôi là đệ tử của Phật Tỳ bà thi thì phạm Ba- la-di, nói tôi đắc quả cũng phạm Ba-la-di. Nếu nói tôi được pháp hơn người với người điếc, người câm, người câm điếc, người nhập định đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu nói tôi được pháp hơn người với người trước đã phạm giới, người học giới (Sa-di học hối), tặc trụ… đều phạm Đột- kiết-la. Nếu nói tôi tu từ bi hỉ xả là vọng ngữ thì phạm Ba-la-di; ra dấu tay nêu tướng thì phạm Thâu-lan-giá.  TÁT BÀ ĐA BỘ TỲ NI MA ĐẮC LẶC GIÀ <卷>QUYỂN 2 Hỏi Về Mười Ba Pháp Tăng-Già-Bà-Thi-Sa: Trong lúc ngủ làm phương tiện, trong lúc ngủ xuất tinh thì không phạm; lúc thức làm phương tiện, trong lúc ngủ xuất tinh thì phạm Thâu- lan-giá; khi chưa thọ giới làm phương tiện, thọ giới cụ túc xong mà xuất tịnh thì phạm Thâu-lan-giá; khi thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi thọ giới cụ túc xong mà xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; khi thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi bạch xong xuất tinh thì phạm Thâu-lan- giá. Hỏi: Nếu vậy từ chỗ nào cho Biệt trụ? Đáp: Nên từ căn bản ban đầu đã phạm. Hỏi: Như thế nào là xuất tịnh? Đáp: Tinh xuất ra cho đến một lóng tay. Hỏi: Như thế nào là biết khởi tâm xuất tinh theo thứ lớp? Đáp: Đây gọi là biết: Khi là Tỳ-kheo phạm thì khi là phi Tỳ-kheo thanh tịnh; khi là phi Tỳ-kheo phạm thì khi là Tỳ-kheo thanh tịnh; khi là Tỳ-kheo phạm cũng khi là Tỳ-kheo thanh tịnh; khi là phi Tỳ-kheo phạm cũng là khi phi Tỳ-kheo thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là khi phi Tỳ-kheo (Tỳ-kheo-ni) phạm mà khi là Tỳ-kheo thanh tịnh? Đáp: Trường hợp khi là phi Tỳ-kheo phạm mà khi là Tỳ-kheo thì thanh tịnh là nếu Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa bất cọng mà chuyển căn làm Tỳ-kheo thì tội này được diệt. Hỏi: Thế nào là khi Tỳ-kheo phạm mà khi là phi Tỳ-kheo thanh tịnh? Đáp: Trường hợp khi là Tỳ-kheo phạm mà khi là phi Tỳ-kheo thì thanh tịnh là nếu Tỳ-kheo phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa bất cọng mà chuyển căn làm Tỳ-kheo-ni thì tội này được diệt. Hỏi: Thế nào là khi Tỳ-kheo phạm cũng khi là Tỳ-kheo thanh tịnh? Đáp: Trường hợp khi là Tỳ-kheo (ni) phạm cũng khi là Tỳ-kheo (ni) thì thanh tịnh là nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa mà như pháp trị thì được diệt tội, Tỳ-kheo-ni phạm Tăng-già-bà-thi-sa mà như pháp trị thì được diệt tội. Lúc ngủ làm phương tiện, lúc thức xuất tinh, nếu biết thì phạm Thâu-lan-giá, không biết thì không phạm. Nếu nam căn khởi mà nghịch nước cầm nắm thì phạm Thâu-lan-giá, xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa. Nếu xúc chạm người nữ mà nghi thì phạm Thâu-lan-giá, xúc chạm nơi răng, nơi chỉ toàn xương thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo yêu thương người nữ này mà xúc chạm người nữ khác thì phạm Thâu-lan- giá, nếu xúc chạm thân người nữ có hai căn thì phạm Thâu-lan-giá, nếu xúc chạm huỳnh môn cũng phạm Thâu-lan-giá; xúc chạm thân người nam thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu xúc chạm người nữ vì nhân duyên mịn màng ấm áp thì phạm Thâu-lan-giá; xúc chạm thân mẹ vì yêu quý mẹ thì không phạm, nếu vì mịn màng ấm áp thì phạm Thâu-lan-giá; cho đến xúc chạm chị em cũng vậy. Cố ý nói lời thô với người khác thì phạm Thâu-lan-giá, bảo người khác nói cũng phạm Thâu-lan-giá… Tự khen ngợi mình cũng vậy. Nếu làm mai mối, đem lời nói của người tự tại đến nói với người không tự tại thì phạm Thâu-lan-giá; tự tại là lúc ngủ, lúc ăn, lúc chơi đùa đều tự tại. Nếu mai mối tự trong thai cũng phạm Thâu-lan-giá; khi đánh nhau thắng chiếm đoạt người nữ thì phạm Thâu-lan-giá; làm mai mối cho người không con thì phạm Thâu-lan-giá; làm mai mối cho huỳnh môn, cho phi nhân nam, phi nhân nữ, người phạm hạnh hoặc người nam chuyển căn thành nữ, hoặc người nữ chuyển căn thành nam cho đến người vốn đã phạm giới, người gọc giới… đều phạm Thâu-lan-giá. Xin làm phòng rồi mà không làm thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự làm phòng không xin Tăng mà không phạm hay không? Đáp: Có nếu bị muỗi mòng. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự xin vật dụng làm phòng mà không phạm hay không? Đáp: Có, làm phòng cho người khác, người khác làm thành thì phạm Thâu-lan-giá; hai người cùng làm cũng phạm Thâu-lan-giá. Nếu mười xin vật làm một phòng cho mười người thì mỗi người đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa; vật không hiện tiện mà làm phong, không xả phòng mà làm cho đến làm phòng ở nơi xa đều phạm Thâu-lan-giá; lấy vật dụng của mình để làm phòng cũng phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Sao gọi là tự xin phòng? Đáp là nếu có được vật dụng hoặc chưa có giá tiền. Làm phòng lớn cũng vậy. Hỏi: Sao gọi là xin phòng? Đáp: là khi Tăng hòa hợp tác pháp yết ma. Dùng tay ra dấu hay sai bảo người khác vu báng Tỳ-kheo khác đều phạm Thâu-lan-giá; vu báng người vốn đã phạm giới, người học giới (Sa-di học hối) đều phạm Thâu-lan-giá; vu báng Sa-di thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo ở trong Tăng nói lời bất định rằng: “Tỳ-kheo kia hành dâm, lấy trộm năm tiền, giết người, nói pháp hơn người”, mà không nói rõ tên thì phạm Thâu-lan-giá; dùng tay ra dấu cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy nói rằng: “Điều mà tôi nói là không có nhân duyên gì”, thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo đem việc này vu báng Tỳ-kheo-ni thì phạm Thâu-lan-giá; Tỳ-kheo-ni đem việc này vu báng Tỳ-kheo cũng phạm Thâu-lan-giá vì là cọng giới; nếu vu báng ba chúng dưới thì phạm Đột-kiết-la. Nếu vu báng nói rằng: “Thầy không phải là Tỳ-kheo, không phải Sa-môn, không phải Thích tử; thầy là Sa- môn xấu ác…” đều phạm Thâu-lan-giá. Đem các nạn sự để vu báng Tỳ-kheo thì phạm Đột-kiết-la, trừ bốn Ba-la-di, đem những việc khác vu báng đều phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo không được chấp thuận mà tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn hay không? Đáp: Không thành tẫn, các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo không được chấp thuận mà tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn hay không? Đáp: Có, nếu chúng tăng đồng thời tác pháp tẫn. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo không được chấp thuận mà ở trong Tăng tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn hay không? Đáp: Có, nếu trước đã được chấp thuận. Hỏi: Không bạch Tăng lại để cho người không hiểu tác pháp yết ma thì có thành yết ma hay không? Đáp: Thành nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la . Hỏi: Không khiến cho nhớ nghó mà tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn hay không? Đáp: Thành nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Không tác bạch yết ma mà tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn hay không? Đáp: Thành nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; không hiện tiền cũng vậy. Hỏi: Tỳ-kheo không thọ pháp tẫn Tỳ-kheo tẫn Tỳ-kheo không thọ pháp thì có thành tẫn hay không? Đáp: Thành tẫn nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo thọ pháp tẫn Tỳ-kheo không thọ pháp và Tỳ-kheo không thọ pháp tẫn Tỳ-kheo thọ pháp cũng như vậy. Hỏi: Nếu có Tỳ-kheo hỏi các Tỳ-kheo: “Tôi là Tỳ-kheo thọ pháp tẫn Tỳ-kheo này thì có thành tẫn hay không?” Đáp: Nếu phi pháp tự nói thì không thành tẫn, nếu như pháp tự nói thì thành tẫn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tác pháp yết ma cho bốn người mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu ngồi trên giường lớn, giường nhỏ tác pháp cho bốn người… đều không phạm. Hỏi: Như Phật dạy là chúng thì không được yết ma cho chúng, có trường hợp là chúng yết ma cho chúng mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu ngồi trên giường lớn, giường nhỏ tác pháp thì không phạm. Hỏi: Người ở trên hư không tác pháp yết ma cho người ở dưới mặt đất thì có thành yết ma hay không? Đáp: Không thành, các Tỳ-kheo phạm tội đáng quở trách. Trường hợp người ở dưới mặt đất tác pháp yết ma cho người ở trên hư không, người ở trong giới tác pháp yết ma cho người ở ngoài giới… cũng như vậy. Hỏi: Thế nào là người không thanh tịnh nhưng tướng thanh tịnh? Đáp: Đó là Tỳ-kheo phạm Ba-la-di mà oai nghi thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là người thanh tịnh mà tướng không thanh tịnh? Đáp: Đó là người trì giới không phạm nhưng oai nghi không thanh tịnh. tịnh? Hỏi: Thế nào là người thanh tịnh mà tướng cũng thanh tịnh? Đáp: Đó là người không phạm giới và oai nghi thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là người không thanh tịnh, tướng cũng không thanh Đáp: Đó là Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa và oai nghi không thanh tịnh. Hỏi Về Hai Pháp Bất Định: Hỏi: Như Phật dạy là nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo, có phải là tin vào lời của tất cả Ưu-bà-di đáng tin hay không? Đáp: Nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này rằng: “Cô có thấy Tỳ-kheo này ở chỗ đó không?”, nếu đáp là có thì nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo này. Nếu Ưu-bà-di đáng tin nói rằng: “Tôi thấy vị này ăn phi thời”, Tỳ-kheo lại nói là tôi ăn tô, mật thì nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo này, cũng nên khiến cho Tỳ-kheo tự nói. Nếu Ưu-bà-di đáng tin nói rằng: “Tôi thấy vị này uống rượu”, Tỳ-kheo lại nói là tôi uống nước mật, nước Tô-tỳ-la thì nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo này, cũng nên khiến cho Tỳ-kheo tự nói. Nếu Ưu-bà-di đáng tin nói rằng: “Tôi thấy vị này hành dâm”, Tỳ-kheo lại nói là tôi hành dâm ở đùi thì nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo này, cũng nên khiến cho Tỳ-kheo tự nói. Nếu Ưu-bà-di đáng tin nói rằng: “Tôi thấy vị này hành dâm với súc sanh”, Tỳ-kheo lại nói là tôi chỉ hành dâm bên ngoài thân phần thì nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo này, cũng nên khiến cho Tỳ-kheo tự nói. Cho đến thấy với long nữ, thiên nữ, Dạ-xoa nữ cũng như vậy. Nếu Ưu-bà-di đáng tin nói rằng: “Tôi thấy vị này cùng người nữ ở chỗ kia hành dâm”, Tỳ-kheo lại nói là tôi vì nhân duyên khác nên đến chỗ đó thì không nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo này. Nếu Ưu-bà-di đáng tin nói rằng: “Tôi thấy vị này cùng người nữ đó hành dâm, người nữ đứng còn Tỳ-kheo ngồi”thì không nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo này; cho đến bốn oai nghi cũng như vậy. Trong Bất định thứ hai, nếu Tỳ-kheo trong hai việc, mỗi mỗi việc đều không tự nói ra thì không nên tin vào lời của Ưu-bà-di đáng tin nói mà trị tội Tỳ-kheo này. Hỏi Về Ba Mươi Pháp Ni-Tát-Kỳ Ba-Dật-Đề: Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cất chứa y quá mười đêm mà không phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu y bị cháy, bị mất; nếu là thủy y, y đang may, y bằng lông, y bất tịnh cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cất chứa y dư trọn đời mà không phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, trong mười đêm thì gặp vô thường (chết). Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cất chứa y dư hai mươi năm mà không phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu bị điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cất chứa y quá mười đêm, ngay nơi y này lại phạm lìa y ngủ đêm hay không? Đáp: Có, nếu qua mười đêm may thành y thọ trì lại ra ngoài giới cho đến khi mặt trời mọc. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngay trong ngày được y liền phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu liền ngày được y mà ngày trước phạm Xả đọa chưa sám hối, lìa y ngủ mà không thọ ba y lại cất chứa y quá mười đêm nên phạm Xả đọa. Hỏi: Lìa Ni-sư-đàn ngủ đêm có phạm Xả đọa hay không? Đáp: Phật dạy không được lìa ba y ngủ đêm, Ni-sư-đàn hoặc được lìa hoặc không được lìa vì Ni-sư-đàn không phải là loại y lìa ngủ đêm. Nếu nuôi bịnh mà cất giữ y quá mười thì phạm Xả đọa; cất chứa khăn tay, đãy lượt nước, mền nệm thọ trì không phạm; nếu không thọ trì hoặc xả rồi thọ lại tùy ý dùng. Hỏi: Sao gọi là đập y? Đáp: Nếu là y mới chưa trải qua bốn tháng thọ dụng thì y này không được đập; nếu là Thời y, trong bốn tháng thọ dụng y này thì gọi là được đập y. Hỏi: Giới của Tăng và giới của ngoại đạo cùng trong một giới, cùng chung một cửa nếu lìa y ngủ đêm thì có phạm hay không?, đáp là nếu ngủ đêm ngay nơi cửa thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo để y ở chỗ ngoại đạo, ngủ đêm trong giới của Tăng mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu giới của ngoại đạo và giới của Tăng cùng trong một giới; giới cây cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo để y ở bốn chỗ, ngủ đêm ở chỗ khác mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu để trên giường nằm ngồi, nếu không đem ba y theo thì nên thọ y khác. Hỏi: Như Phật dạy được cất chứa vải trong một tháng thì thọ như thế nào? Đáp: Đây là trường hợp ba y không đủ, nếu ba y đã đủ thì không được cất chứa vải trong một tháng; vì không đủ ba y mong cầu trong một tháng sẽ được đủ thì nên cất chứa; nếu không được thì nên cắt rọc may thành y thọ trì, nếu không cắt rọc may thành y thọ trì thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, giống như trường hợp liền ngày có được y. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt y mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu nhờ giặt y mới. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không phải cha nhờ Tỳ-kheo-ni giặt y mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni là mẹ; nếu giặt rồi bảo giặt nữa thì phạm Đột-kiết-la; nếu sai sứ, làm tướng nhờ giặt thì phạm Ni-tát-kỳ; nếu nhờ tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, hai chúng ni dưới giặt y của Tăng hoặc y bất tịnh thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ y từ Tỳ-kheo-ni không phải mẹ mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu thọ y từ mẹ là tặc trụ thì phạm Đột-kiết-la; nếu Tỳ- kheo-ni để y dưới đất rồi nói: “Đại đức, y này gởi cho đại đức tùy ý thọ dụng, tôi sẽ được công đức”, Tỳ-kheo lấy thọ dụng thì không phạm; nếu bảo người khác lấy thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni để y dưới đất rồi im lặng bỏ đi, Tỳ- kheo đồng ý thọ dụng thì không phạm; nếu nói: “Thọ dụng rồi đưa tiền cho tôi”thì không phạm; tạm mượn thọ dụng cũng không phạm. Thức- xoa-ma-na, Sa-di-ni để y cho cũng vậy. Nếu nói: “Trong tụ lạc đó có y cho đại đức”, Tỳ-kheo đến đó lấy thì phạm Đột-kiết-la, nếu im lăng tâm thọ, sau đó đồng ý thọ dụng thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi không được thọ y từ Tỳ-kheo-ni không phải bà con”, người kia im lặng để y dưới đất rồi bỏ đi, sau đó Tỳ-kheo đồng ý thọ dụng thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ y từ Tỳ-kheo-ni là mẹ mà phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu thọ lấy vật khác. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo vào nhà bạch y, y không rời thân mà lại phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu y bị bùn đất làm dơ, Tỳ-kheo-ni phủi giũ; nếu Tỳ- kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt Ni-sư-đàn thì phạm Xả đọa, giặt mền nệm gối đều phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Sao gọi là giặt? Đáp: Nhúng vào nước cho đến ba lần thì gọi là giặt. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xin y từ cư só, vợ cư só không phải bà con mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu xin cho Tăng hoặc xin từ người hai căn thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xin y từ cư só, vợ cư só mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu đó là cha mẹ hoặc xin vải may màn, y tắm mưa thì không phạm; nếu xin từ người học giới thì phạm Đột-kiết-la; xin y bất tịnh cũng phạm Đột-kiết-la; xin y Kiếp bối, Đầu sa thì phạm Đột-kiết- la. Khi thọ giới cụ túc xin, khi thọ giới cụ túc được y có bốn câu; nếu cư só chuyển căn thành nữ hoặc Tỳ-kheo chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni đều không phạm. Sai sứ, dùng tay ra dấu đều phạm Đột-kiết-la. Xin y từ phi nhân, súc sanh, chư thiên thì không phạm. Nếu vì Sa-di may y mà Tỳ-kheo đến xin thì phạm Đột-kiết-la; vì nhiều Tỳ-kheo may y mà một Tỳ-kheo đến xin cũng phạm Đột-kiết-la; vì may y khi còn là bạch y, sau khi xuất gia rồi đến đòi thì phạm Đột- kiết-la; vì may y khi thọ giới cụ túc, thọ giới cụ túc xong đến đòicũng phạm Đột-kiết-la, y này nên xả; nếu xin y từ trời rồng, Dạ-xoa và tất cả ngoại đạo đều không phạm; sai sứ, dùng tay ra dấu đều phạm Đột- kiết-la. Nếu phi nhân đưa giá tiền, phi nhân làm sứ, phi nhân là đàn việt thì không phạm; người đưa giá tiền, phi nhân làm sứ, phi nhân là đàn việt cũng không phạm; phi nhân đưa giá tiền, người làm sứ, người là đàn việt cũng không phạm; nếu người đưa giá tiền, người làm sứ, người là đàn việt thì phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng Kiều xa da mới làm Ni-sư-đàn mà không phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu làm xen tạp với Cù na, hoặc với Kiếp bối, Đầu cưu la hoặc với tóc, lông… đều phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu đều phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng Kiều xa da mới xen tạp làm phu cụ mà không phạm Xả đọa hay không? Đáp: Nếu không tự làm hoặc làm thuần đen; tự làm cũng vậy. Nếu làm xong trải ngủ liền phạm tội. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm phu cụ mà phạm bốn Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu làm bằng kích lương của Phật, chưa đủ sáu năm, nhờ Tỳ-kheo-ni không phải là bà con giặt và cất chứa quá mười đêm; nếu làm thuần trắng hoặc bất tịnh thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm phu cụ chưa đủ sáu năm mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu trong sáu năm bỏ đạo, sau đó xuất gia thọ giới trở lại; bị cuồng si hoặc chuyển căn thành nữ cũng vậy; hoặc Tăng yết ma cho làm; đối với phu cụ bằng Kiều xa da cũng vậy; nếu làm cho người khác thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ y Tăng-già-lê mà phạm Đột- kiết-la hay không? Đáp: Có, nếu y làm xen tạp bằng chỉ sợi vàng hoặc bạc, hoặc loại chỉ sợi quý báu; dù để dưới đất cho cũng không thọ dụng; nếu khi thọ tưởng là vàng thì phạm Xả đọa; nếu ở chỗ xa nhờ người lấy thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy vật từ mẹ mà phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu trao đổi vật khác thì phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo mua bán đủ các loại mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu sai bảo người chưa thọ giới cụ túc mua bán thì không phạm, nếu mua bán không như pháp thì phạm Đột-kiết-la. Mua bán với trời rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma- hầu-la-già… tất cả phi nhân thì phạm Đột-kiết-la; mua bán với bà con cũng phạm Đột-kiết-la. Mua bán với người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, huỳnh môn… đều phạm Đột-kiết-la. Người học giới mua bán cũng phạm Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc mua bán, khi chưa thọ giới cụ túc được lợi thì phạm Đột-kiết-la… có tất cả bảy câu; người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại mua bán thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cất chứa bát quá mười đêm mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu trong mười đêm bị điên cuồng Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cất chứa bát dư trọn đời mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu đã ở trong Tăng xả và sám hối. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo có một bát, ngay nơi bát này lại phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu không thọ trì. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo có bát rồi lại xin bát khác, trọn đời không tịnh thí mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu là bát nhỏ. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo liền ngày xin được bát mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu bát dễ có được trong mười đêm Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo có bát chưa tới năm đường răng nứt, xin bát mới mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu hai hoặc ba người xin một bát thì phạm Đột-kiết- la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự xin chỉ sợi bảo thợ dệt dệt y mà không phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, nếu xin cho Tăng thì không phạm; hoặc xin chỉ sợi bất tịnh rồi bảo thợ dệt dệt y thì phạm Đột-kiết-la; hoặc xin chỉ sợi từ người điên cuồng thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu xin đều phạm Đột-kiết-la. Nếu bảo thợ dệt dệt y cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đến chỗ thợ dệt mà không nói thì phạm Đột-kiết-la; nếu nói là dùng loại chỉ sợi xen tạp để dệt thì phạm Đột-kiết-la; nếu thợ dệt là huỳnh môn hay người hai căn, Tỳ-kheo đến nói với họ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo có tâm sân hận đoạt lấy y của tỳ- kheo khác mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu đoạt y bất tịnh hoặc đoạt y của người học giới, tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, Sa-di thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu bảo đoạt thì phạm Đột-kiết-la; nếu đoạt y chưa đủ lượng cũng phạm Đột-kiết-la; nếu người đoạt y chuyển căn thành nữ hay người bị đoạt y chuyển căn đều phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lìa y quá sáu đêm, không thọ y khác mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu một trong tám nạn khởi lên; hoặc trong ba y không có y dư khác mà an cư, trong một tháng Thời y được lìa y ngủ đêm, nếu quá hạn này thì phạm Xả đọa. Nếu dùng y bất tịnh hoặc y Kiếp-ba-đồ-sa để may y tắm mưa thì phạm Đột-kiết-la; nếu Tỳ-kheo tự tứ xong đến trú xứ khác, nơi này chưa tự tứ mà tùy ở chỗ đó cất chứa y tắm mưa thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy y từ mẹ mà phạm Ni-tát-kỳ Ba- dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu là y của Tăng mà hồi chuyển về cho mình thì phạm Xả đọa; thời dược và thất nhật dược cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy y của Tăng hồi chuyển về cho mình mà không phạm hay không? Đáp: Nếu ở ngoài giới thì phạm Đột-kiết-la. Nếu ở trong giới của Tăng, không hòa hợp mà chia y thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo được dùng thời dược làm phi thời dược, thất nhật dược và tận hình dược hay không? Đáp: Có, như mía là Thời dược, ép lấy nước làm Phi thời dược; đường là Thất nhật dược, đốt thành tro làm Chung thân dược, Hồ-ma cũng vậy; thịt là Thời dược, chiên lấy mỡ làm Thất nhật dược, đốt thành tro làm Chung thân dược . Hỏi: Nếu Thất nhật dược để ở chỗ bất tịnh không trải qua đêm, không thọ trì thì có được trong bảy ngày thọ hay không? Đáp: Được, Chung thân dược cũng vậy. Nếu mỡ đã được lượt rồi, nấu với dầu thì được dùng trong bảy ngày, Tỳ-kheo khác cũng được dùng trong bảy ngày, nếu dùng để nhỏ mũi, nhỏ lỗ tai hay thoa chân đều không phạm. Hỏi Về Chín Mươi Pháp Ba-Dật-Đề: Hỏi: Có cư só hỏi Tỳ-kheo: “Thầy là ai?” Đáp: là ngoại đạo thì Tỳ-kheo này có xả giới hay không? Đáp: Không xả giới nhưng phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề. Hỏi: Có cư só hỏi Tỳ-kheo: “Thầy là ai?”, đáp là cư só thì Tỳ-kheo này có xả giới hay không? Đáp: Không xả giới nhưng phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề. Nếu đáp là Hòa thượng cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo nói điên đảo là xin cho Hòa thượng hoặc A- xà-lê , người kia nghe theo lời đã nói mà cho đồ vật thì Tỳ-kheo phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề; thường xưng tên để xin cũng phạm Ba- dật-đề. Không nghe mà nói là nghe, nghe mà nói là không nghe… đều phạm Ba-dật-đề. Nếu nói người kia mù lòa mà người đó thật không mù lòa thì phạm hai tội Ba-dật-đề là cố ý vọng ngữ và khinh chê; nói điếc, câm ngọng cũng vậy, cho đến nói các nghề công xảo khác cũng vậy, như nói thầy là dòng Bà-la-môn xuất gia hoặc thầy là thợ hớt tóc xuất gia… đều phạm. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo khi đi dùng thiên nhãn để xuất tội (cử tội) Tỳ- kheo thì có thành xuất tội hay không? Đáp: Không thành xuất tội vì thiên nhãn không phải là sự, khi ngồi cũng vậy. Hỏi: Tỳ-kheo ở trong Tăng xuất tội Tỳ-kheo thì có thành xuất tội hay không? Đáp: Không thành xuất tội, Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Nếu cố ý khinh chê tặc trụ, người học giới, người vốn không hòa hợp đều phạm Đột-kiết-la; khinh chê ba chúng dưới cũng phạm Đột- kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu khinh chê cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu dùng thiên nhó để nghe lời ly gián thì phạm Đột-kiết-la; ly gián tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp đề phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu ly gián đều phạm Đột-kiết-la; ly gián Tỳ-kheo-ni và ba chúng dưới đều phạm Đột-kiết-la. Nếu đã diệt tội cho tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp mà phát khởi trở lại thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu để phát khởi lại cũng phạm Đột-kiết-la. Đã diệt tội cho Tỳ- kheo-ni và ba chúng dưới rồi mà còn phát khởi trở lại thì phạm Đột- kiết-la. Thuyết pháp cho người nữ đang ngủ thì phạm Đột-kiết-la; thuyết pháp cho tịnh nhân đang ngủ, tịnh nhân là người cõi Uất-đơn-việt hoặc là người ngu si, hoặc là người điếc, câm hoặc là người biên địa đều phạm Đột-kiết-la; thuyết pháp cho huỳnh môn, người hai căn đều phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu tịnh nhân bên cạnh là người không thanh tịnh thì có được thuyết pháp cho người nữ hay không? Đáp: Không được, vì sao, vì Phật có dạy chú nguyện cho tịnh nhân thì không phạm; nếu tịnh nhân bên cạnh là người mù, câm mà thuyết pháp cho người nữ thì phạm Đột-kiết-la; nếu tịnh nhân là người không diên cuồng hoặc là năm chúng thì thuyết pháp không phạm. Nếu không có tịnh nhân, thuyết pháp cho người thọ tám trai giới thì không phạm; hoặc dạy kinh hay hỏi đáp thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng người chưa thọ giới cụ túc đọc tụng cú pháp mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu cùng tụng với súc sanh; nếu cùng tụng với trời rồng quỷ thần… thì phạm Đột-kiết-la; cùng tụng với Sa-di, Sa-di-ni cũng phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu cùng tụng thì phạm Đột-kiết- la. Hỏi: Vì sao nói tội Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa của tỳ-kheo cho người chưa thọ giới cụ túc nghe thì phạm Ba-dật-đề? Đáp: Vì hai tụ giới này nhiếp hết các tội thô ác. Hỏi: Có trường hợp nói được pháp hơn người cho người chưa thọ giới cụ túc nghe mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu nói cho ba chúng dưới nghe thì phạm Đột-kiết-la; nói cho bậc chánh kiến hoặc bậc Kiến đế nghe thì không phạm; nói cho người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại nghe đều phạm Đột-kiết-la; nói cho tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới nghe đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo hồi chuyển Tăng vật cho Tỳ-kheo-ni tăng thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu hồi chuyển thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chê trách mỗi nữa tháng thuyết giới vụn vặt này mà không phạm hay không? Đáp: Không có, trừ hai mươi mốt trường hợp không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhổ cỏ mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, đó là cạo tóc; nếu Tỳ-kheo dùng tro đất phủ lên cỏ tươi thì phạm Đột-kiết-la. Nếu bảo người hái trái cho mình ăn thì phạm Đột- kiết-la; hái nấm mèo cũng phạm Đột-kiết-la; người học giới (Sa-di học hối) hái thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo vì người khác mà mắng thì phạm Đột-kiết-la; mắng súc sanh cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu hỏi việc này mà trả lời việc khác thì phạm Đột-kiết-la; im lặng xúc não người khác cũng phạm Đột-kiết- la; nghe nói rồi mà không ghi nhớ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trải ngọa cụ nơi đất trống, khi đi không tự thu dọn cũng không bảo người thu dọn mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu là giường báu hoặc ở chỗ khuất do có cư só nhiếp thủ nên khi đi không thu dọn thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo là tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới khi đi không thu dọn thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo trải ngọa cụ của mình khi đi không thu dọn cũng không bảo người thu dọn thì phạm Đột-kiết-la; năm chúng cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trải ngọa cụ của Tăng không tự thu cất cũng không bảo người thu cất mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu ngồi ở nhà cư só hoặc ngọa cụ bị người chiếm đoạt thì không phạm, hoặc gần chỗ kinh hành cũng không phạm. Nếu tạm thời đứng dậy đi, không tự cất cũng không bảo người cất thì phạm Đột- kiết-la; trừ ngọa cụ, các vật khác như ván cây, khúc cây thì tùy ý ngồi không phạm. Nếu Tỳ-kheo không dặn trao lại ngọa cụ mà đi, khi đến giữa đường gặp Tỳ-kheo khác nên dặn thu dọn giùm; nếu vị kia nhận lời mà không thu cất thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo muốn cất ngọa cụ vào trong phòng, cửa phòng đóng thì làm thế nào? Đáp: Nên để bên vách hoặc dưới gốc cây hoặc ở chỗ không bị mưa làm hư. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xua đuổi Tỳ-kheo mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Nếu chúng tăng là tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới, Sa-di… cùng xua đuổi một Tỳ-kheo thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu xua đuổi hoặc ở trong phòng riêng đuổi ra thì phạm Đột-kiết-la; ở nơi đất trống xua đuổi cũng phạm Đột-kiết-la; xua đuổi ngạ quỷ cũng phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác đến trước đã trải ngọa cụ rồi, mình đến sau gắng gượng tự trải hay bảo người trải ngọa cụ mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu đó là tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới, Sa-di thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không chống đỡ giường sút chân, ngồi nằm trên đó mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu ở trong chùa của tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp hoặc chùa của tỳ-kheo-ni hoặc chùa của ngoại đạo thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy nước có trùng tưới lên cỏ, đất mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu sai sứ, dùng tay ra dấu thì phạm Đột-kiết-la; dùng tô, lạc, sữa tưới lên trùng trong cỏ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: có trường hợp Tỳ-kheo lợp nhà quá hai, ba lớp mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu sai sứ, dùng tay ra dấu hoặc bảo huỳnh môn làm thì phạm Đột-kiết-la. Phòng lớn tức là phòng riêng hoặc phòng có chủ. Hỏi: Sao gọi là giáo giới Tỳ-kheo-ni? Đáp: Nếu nói về tám giới trọng gọi là giáo giới Tỳ-kheo-ni. Tỳ- kheo thọ pháp giáo giới cho Tỳ-kheo-ni không thọ pháp thì phạm Đột- kiết-la; ngược lại cũng vậy. Giáo giới cho Tỳ-kheo-ni tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Giáo giới cho Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo nơi khác cũng được giáo giới thì có cần tác yết ma nữa hay là không làm? Đáp: Trước đã tác yết ma rồi thì không cần tác nữa. Hỏi: Có trường hợp Tăng không sai, Tỳ-kheo giáo giới Tỳ-kheo- ni mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu trước đã được sai rồi. Hỏi: Nếu trú xứ chỉ có một Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo-ni có nên đến cầu giáo giới hay không? Đáp: Nên đến, trường hợp hai, ba vị cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giáo giới Tỳ-kheo-ni đến mặt trời lặn mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu ở trong chùa tỳ-kheo-ni trong tụ lạc hoặc trong chùa gần tụ lạc, gần nhà cư só thì không phạm; nếu ở ngoài tụ lạc thì phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đem y cho người không phải là mẹ mà không phạm hay không? Đáp: Có, về mẹ có tất cả hai mươi mốt trường hợp; nếu đem y cho Tỳ-kheo-ni tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Như Phật dạy nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác rằng: “Vì lợi cúng dường nên giáo giới Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật-đề”, có trường hợp Tỳ-kheo nói như thế mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu các phi nhân như trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… xuất gia làm Tỳ-kheo- ni. Nếu Tỳ-kheo hẹn với Tỳ-kheo-ni đi trong hư không thì phạm Đột- kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc cùng hẹn, thọ giới cụ túc xong cùng đi thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo đi trên hư không, Tỳ-kheo-ni đi dưới đất thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo cùng ngồi ở chỗ khuất với thiên nữ có thể nắm giữ được thì phạm Đột-kiết-la; ngồi với Tỳ-kheo-ni cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni khen ngợi mà được thức ăn lại không phạm hay không? Đáp: Có, nếu khen ngợi người khác, người khác ăn thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo trước đã thọ cư só thỉnh, sau đó Tỳ-kheo-ni khan ngợi bảo cư só thỉnh Tỳ-kheo đó, cư só nói là đã thỉnh rồi thì Tỳ-kheo không phạm; tịnh thí thức ăn cho Tỳ-kheo-ni và ba chúng dưới đều không phạm; không biết Tỳ-kheo-ni khen ngợi mà ăn thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ thỉnh thực ở nhiều nơi mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu trước đã tịnh cho người khác hoặc vì bịnh hoặc ở nhiều nơi thọ bà con thỉnh thực thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo thọ thỉnh thực rồi ngay nơi chỗ ngồi hoặc chỗ khác đem thức ăn đến, tác ý không thọ thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo thọ thỉnh, có người nói: “Đại đức, còn có thức ăn nhưng tôi không thỉnh đại đức lần nữa”thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo thọ hai loại thức ăn là Khư-đà-ni và Bồ-xà-ni, không tác tịnh mà ăn cũng không phạm. Tỳ-kheo trước đã thọ thỉnh thực, có người nói: “Đại đức nhớ tôi thỉnh thực, tôi không thỉnh đại đức lần nữa”thì không phạm. Tỳ-kheo trước đã thọ thỉnh thực, có người nói: “Đại đức, tôi còn có thức ăn tùy theo bịnh, tôi không thỉnh đại đức lần nữa”thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ thỉnh hai nơi, không cho người khác một nơi mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu đó không phải là chánh thực; nếu Tỳ-kheo thọ thỉnh thực rồi, có người nói rằng: “Đại đức tự đến nhà tôi, tôi không thỉnh đại đức lần nữa”thì không phạm. Lúc đang ngồi có người thỉnh thực, nếu trước chưa thọ thỉnh thực thì không phạm; ngay nơi chỗ nhất tọa thực, có người khác thỉnh thực thì không phạm; thường thỉnh thực cũng không phạm, vì thương xót nên thọ thỉnh thực cũng không phạm; thọ thức ăn do cư só để dành cho (trường thực) cũng không phạm; một người lấy phần cho hai người cũng không phạm. Thức ăn bất tịnh, dùng tay ra dấu thọ thì phạm Đột-kiết-la; người điên cuồng thỉnh thực, nghi nên thọ chỗ khác thỉnh thực thì không phạm; Tỳ-kheo thọ thỉnh thực rồi cho lại cho Tỳ-kheo thọ pháp thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp ở một nơi thọ hai nhà thỉnh thực mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu thọ thỉnh thực ở Long cung, miếu thờ trời và nhà của ngoại đạo. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ hai, ba bát thức ăn mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu ở nhà ngoại đạo, miếu thờ trời, thờ Dạ-xoa thì không phạm; nếu dùng tay ra dấu để thọ thì phạm Đột-kiết-la; trừ bánh, thọ các loại thức ăn khác đều không phạm. Nếu thọ hai, ba bát rồi sai người khác mang đi thì phạm Đột-kiết-la . Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ăn rồi, tùy ý không thọ pháp dư thực lại ăn nữa mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu bịnh, ăn tô, mật cũng vậy; ăn thức ăn bất tịnh (chánh thực) rồi tùy ý thọ pháp dư thực thì không gọi là thọ thực, phạm Ba-dật- đề. Nếu Tỳ-kheo này là tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới thì phạm Đột-kiết-la . Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ăn biệt chúng mà không phạm Ba- dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu đi quá nữa do tuần hoặc ra khỏi giới hoặc ở trên hư không ăn thì không phạm, như Phật đã dạy trừ khi có nhân duyên, ăn biệt chúng không phạm. Hỏi: Vì tất cả nhân duyên hiện tại tiền hay là mỗi mỗi nhân duyên hiện tại tiền? Đáp: Vì mỗi mỗi nhân duyên hiện tại tiền được ăn biệt chúng không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo phi thời ăn loại thức ăn Khư-đà-ni và Bồ-xà-ni mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu đến cõi Uất đơn việt, theo giờ ăn ở cõi đó thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngồi một chỗ ăn mà phạm bốn tội Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu không thọ thực mà ăn, thức ăn không thanh tịnh, ăn phi thời và thức ăn để cách đêm thì khi vừa ăn liền phạm bốn tội Ba- dật-đề. Hỏi: Thức ăn cách đêm ở cõi Uất đơn việt có được ăn không? Đáp: Được ăn, các cõi khác cũng vậy. Có ba hạng người được ăn cách đêm, đó là tặc trụ, người học giới, người vốn không hòa hợp; Tỳ- kheo không được ăn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ăn thức ăn cách đêm mà không phạm hay không? Đáp: Có, thức ăn cách đêm của tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo được ăn; thức ăn cách đêm của tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni được ăn. Nếu miệng bát bị mẻ, thức ăn còn dính trong bát phải hết sức chú ý, rửa ba lần cho sạch rồi mới dùng thọ thực thì không phạm. Nếu đem cho Sa-di, Sa-di trả lại, Tỳ-kheo dùng thọ thực không phạm; đem thức ăn cách đêm cho người khác, người khác trả lại, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la, nếu tự không thọ thực thì không phạm. Ở cõi Uất đơn việt không thọ thức ăn mà ăn thì không phạm; các cõi khác thì không được. Hỏi: Khi Tỳ-kheo ăn, tịnh nhân sớt loại thức ăn Khư-đà-ni, Bồ- xà-ni vào bát thì có thành thọ hay không? Đáp: Nếu từ khước được thì từ khước, nếu không từ khước được thì được ăn; nếu là nước đục, nước muối, nước tro thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp tự xin thức ăn ngon mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu xin từ rồng, Dạ-xoa… các phi nhân hoặc xin từ bà con thì không phạm. Nước có trùng nên lượt. Nếu cùng huỳnh môn ngồi ở chỗ khuất hoặc ngồi trong nhà hoặc trong nhà không tự tại thì phạm Đột-kiết-la. Nhà không tự tại là nếu trong nhà có cha mẹ, bà con, trong đó tự tại ngồi thì không phạm; nếu nhà có nhiều con và dâu, chưa phân chia tài sản thì gọi là nhà không tự tại; dù đã phân chia tài sản, nếu ngồi trong nhà của người lấy vợ thì phạm Ba-dật-đề; ngồi trong chùa đã bị chủ đoạt hoặc trong chùa của ngoại đạo thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng ngồi mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu cùng ngồi trên hư không. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng ngồi ở chỗ khuất mà không phạm hay không? Đáp: Nếu ngồi ở trong đại chúng. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngồi ăn ở chỗ khuất mà phạm Ba-la- di hay không? Đáp: Có, nếu ăn dục (người nữ là thức ăn của người nam nên gọi là ăn dục) Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngồi ở chỗ khuất ăn mà phạm Ba- dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu ngồi ở chỗ khuất ăn tô, dầu, mật, đường và uống nước có trùng. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng nước có trùng mà không phạm hay không? Đáp: Nếu trong nước có trùng lớn, tắm rửa thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu cũng phạm Đột-kiết-la . Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự tay đưa thức ăn cho ngoại đạo mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu ngoại đạo là bà con hoặc bị bịnh hoặc họ muốn xuất gia hoặc dùng tay ra dấu cho thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đến xem quân trận xuất hành mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu đó là quân của trời, rồng, A-tu-la thì phạm Đột-kiết- la; nếu bị bốn binh bao vây hoặc vua cho gọi hoặc gặp một nạn trong tám nạn thì không phạm; ở trong chùa hay trong nhà cũng không phạm. Ở trong quân trận hai đêm xem diễn tập cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo đánh ba hạng người tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp thì phạm Đột-kiết-la; dùng vật ném nhiều Tỳ- kheo, tùy trúng bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; không trúng thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm một phương tiện mà phạm trăm ngàn tội Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo nắm cát hay đậu ném vào các Tỳ-kheo, tùy trúng hay không trúng như trên đã nói. Nếu Tỳ-kheo cầm dao chỉa vào chúng Tỳ-kheo thì phạm nhiều tội Ba-dật-đề; nếu chỉa vào bốn hạng người tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Che giấu tội trọng của phi Tỳ-kheo có thành tội che giấu hay không? Đáp: Không thành tội che giấu, đối với ba hạng người tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp cũng không gọi là che giấu. Nếu Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo khác phạm tội trọng, Tỳ-kheo ấy nói là tôi không có phạm, Tỳ-kheo này không nói với người khác thì không gọi là che giấu. Nếu Tỳ-kheo che giấu tội trọng của tỳ-kheo thì phạm Ba-dật-đề; che giấu tội trọng của tỳ-kheo-ni và ba chúng dưới thì phạm Đột-kiết-la; che giấu tội trọng của người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm. Hỏi: Nếu ở bên người điên cuồng sám hối thì có thành sám hối hay không?, đáp là không thành sám hối. Hỏi: Diệt tẫn Sa-di rồi nên xả hay không nên xả? Đáp: Nên xả, nếu Sa-di đến trong Tăng xin sám hối hoặc khi bố tát sám hối thì nên nhiếp thủ. Tỳ-kheo khi bố tát, nhớ mình có tội khởi tâm phát lồ sám hối thì không gọi là che giấu. Nếu Tỳ-kheo xua đuổi Tỳ-kheo-ni và ba chúng dưới thì phạm Đột-kiết-la; ở trong nhà ngoại đạo mà xua đuổi Tỳ-kheo hoặc sai sứ đuổi Sa-di thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo bỏ tô, dầu, mật vào trong lửa thì phạm Đột-kiết-la; nếu đốt xương, y vật cũ thì phạm Đột-kiết-la; bỏ củi vào trong lửa cũng phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ quá hai đêm mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu cùng ngủ nơi bờ rào, bên vách tường, dưới gốc cây thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ quá hai đêm mà phạm hai tội Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu cùng ngủ với Sa-di hai đêm, đêm thứ ba cùng ngủ với người nữ. Trường hợp Sa-di nói rằng: “Tôi biết lời Phật dạy là dâm dục không chướng ngại đạo”, nếu Sa-di ở trong Tăng hòa hợp sám hối thì nên nhiếp thọ. Nếu Tỳ-kheo gởi dục cho Tỳ-kheo không thọ pháp rồi sau đó quở trách thì phạm Đột-kiết-la, trường hợp ngược lại cũng vậy. Nếu tác pháp yết ma cho tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, cho ba chúng dưới, đã gởi dục rồi sau đó quở trách thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo mặc y không hoại sắc mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu mặc y bất tịnh như y Kiếp ba đầu sa thì phạm Đột- kiết-la; y bất tịnh hoại sắc tác tịnh rồi mặc thì phạm Đột-kiết-la. Nếu là y hoại sắc của tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni được mặc cho đến Sa-di-ni cũng được mặc; y tịnh của tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo được mặc cho đến Sa-di cũng được mặc. Khăn lau chân, khăn tay, đãy lượt nước, túi đựng bát… đều nên tác tịnh. Hỏi: Nếu y của tỳ-kheo bị quốc vương, trưởng giả đoạt lấy, sau đó trả lại thì có nên tác tịnh lại hay không? Đáp: Không, vì trước đã tác tịnh rồi. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy vật báu hay vật tợ báu mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu lấy vật báu của trời, rồng, quỷ thần thì phạm Đột- kiết-la; nếu sai sứ lấy vật báu ở chỗ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy ngọc châu Ma ni mà không phạm hay không? Đáp: Nếu lấy Ma ni thủy tinh thì phạm Đột-kiết-la; nếu khởi niệm là lấy cất giùm người khác, sau sẽ đưa trả lại cho họ thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngồi nằm trên giường vàng, giường báu mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu ở các chỗ của trời, rồng, quỷ thần thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo được dao nên hoại tướng của dao rồi mới thọ dụng. Nếu Tỳ-kheo ngồi trên chỗ ngồi bằng vàng bạc thì phạm Đột- kiết-la; xúc chạm vàng bạc cũng phạm Đột-kiết-la.  <卷>QUYỂN 3 Hỏi Về Chín Mươi Pháp Ba-Dật-Đề (Tiếp Theo): Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trong nữa tháng tắm, trừ nhân duyên mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu mặc y tắm mưa tắm hoặc vào nước vác cây, nhân đó tắm thì không phạm; hoặc ở trong nước có chút nhân duyên, nhân đó tắm cũng không phạm; hoặc lội qua sông hoặc học bơi, nhân đó tắm thì không phạm; hoặc kiết hạ an cư xong trong một tháng là Thời, được thường thường tắm không phạm. Qua một tháng này thì nữa tháng mới được tắm, nếu trong hạ an cư có tháng nhuần thì nên tính cho đủ số ngày. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm một phương tiện mà phạm mười tội Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu giết trùng cực nhỏ thì tùy trùng chết bao nhiêu, phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; muốn chặt sợi dây mà giết nhầm rắn thì không phạm; muốn giết rắn mà chặt nhầm sợi dây thì phạm Đột-kiết-la; muốn giết trùng này lại giết nhầm trùng kia, hoặc muốn giết trùng mà chặt xuống đất, hoặc muốn túm bắt trùng mà túm phải đất đều phạm Đột-kiết-la; sai sứ, dùng tay ra dấu cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu khiến cho tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới sanh nghi hối thì phạm Đột-kiết-la; khiến ba chúng dưới sanh nghi hối cũng phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo khiến Tỳ- kheo-ni sanh nghi hối thì phạm Ba-dật-đề , Tỳ-kheo-ni khiến Tỳ-kheo sanh nghi hối cũng phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng ngón tay chọc lét thân căn của tỳ-kheo khác mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu dùng ngón tay chọc lét thân căn hư hoại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo dùng bình nược tạt các Tỳ-kheo, tùy trúng ướt bao nhiêu Tỳ-kheo thì phạm Bấy nhiêu Ba-dật-đề, không trúng thì phạm Đột-kiết-la; nếu Tỳ-kheo ngồi rót nước xuống đất thì phạm Đột-kiết- la. đề. Nếu Tỳ-kheo-ni tự làm cho nước sữa chảy ra thì phạm Ba-dật- Nếu Tỳ-kheo tắm ở trong nước mà đùa giỡn hoặc vỗ nước, lặn xuống rồi nổi lên… đều phạm Ba-dật-đề; khi tắm dùng tô, dầu. Đường, mật rưới lên người để đùa giỡn thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng ngủ với người nữ mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu cùng ngủ bên vách tường, dưới gốc cây hay trong nhà lớn trống không thì phạm Đột-kiết-la; người nữ trong đây là người có thể sờ nắm được. Nếu phòng thông với nhà ăn có chung một cửa, cùng ngủ trong đây thì phạm Ba-dật-đề; nếu không biết là người chưa thọ giới cụ túc mà cùng ngủ thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm cho Tỳ-kheo khác sợ mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu đó là tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới và ba chúng dưới thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giấu y bát… các vật cần dùng của tỳ- kheo mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu giấu bát vàng, bát bạc thì phạm Đột-kiết-la; giấu y bất tịnh, tọa cụ, túi đựng bát bất tịnh… cũng phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Tịnh thí y cho năm hạng người, như thế nào là phạm? Đáp: Quá mười đêm và khi mặt trời mọc thì phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo biết đây là chúng giặc, biết người nữ này là giặc mà cùng đi chung đường thì phạm Ba-dật-đề, nữa đường quay trở về thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đi cùng với giặc mà không phạm Ba- dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu bị giặc bắt đem đi hoặc đi qua đường hiểm hoặc đi qua đường có Dạ-xoa hút tinh khí của người thì cùng đi không phạm. Nếu được thỉnh trong bốn tháng dù thỉnh Tăng hay thỉnh riêng, nếu thỉnh cúng y thực đều nên thọ, thọ quá bốn tháng thì phạm Ba-dật- đề; nếu thỉnh thường thường thì không phạm. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo được đàn việt thỉnh là thầy cần gì cứ đến lấy, Tỳ-kheo này sau đó bỏ đạo, thời gian sau lại xuất gia thọ giới cụ túc nếu muốn đến nhà đàn việt trước kia thọ thỉnh thì có cần được thỉnh lại hay không? Đáp: Cần được thỉnh lại. Hỏi: Nếu cư só bị vô thường mà có con cái thì có cần được thỉnh lại hay không? Đáp: Cần được thỉnh lại. Hỏi: Cư só trước đã thỉnh Tỳ-kheo, Tỳ-kheo lại tác yết ma phú bát cho cư só này thì có được thọ thỉnh hay không? Đáp: Không được thọ, nếu thọ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu cư só nói: “Thầy không thọ thì tôi sẽ không tín kính”, thì có được thọ thỉnh hay không? Đáp: Không được thọ, nên bảo cư só sám hối được thanh tịnh rồi mới thọ thỉnh. Hỏi: Sa-di chưa đủ hai mươi tuổi, Tỳ-kheo nghi mà lại cho thọ giới cụ túc thì Sa-di có đắc giới hay không? Đáp: Không đắc giới và Tăng phạm Đột-kiết-la. Nếu người thọ giới tự biết mình không đủ hai mươi tuổi, khi thọ giới lại nói là đủ hai mươi, Tỳ-kheo cùng làm việc không phạm; về sau biết là chưa đủ hai mươi thì Tỳ-kheo không nên cùng làm việc, vì ban đầu không đắc giới. Nếu tự biết mình không đủ hai mươi tuổi, thời gian sau mới biết mà trải qua Tăng bố tát yết ma và làm mười hai hạng người thì gọi là Tặc trụ. Nên tính tuổi từ đâu, ên tính từ trong thai mẹ và tính cả tháng nhuần. Nếu đào đất chết tức là đất đã lìa tự tánh thì không phạm; đất sống là đất đã trải qua bốn tháng hạ có mưa thấm nhuần, nếu sai sứ hay dùng tay ra dấu bảo đào đất thì phạm Đột-kiết-la. Nếu khi tác bạch, từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi thì phạm Đột-kiết- la; tác bạch rồi, chưa tác yết ma mà đứng dậy bỏ đi thì phạm Ba-dật-đề. Nếu tác yết ma phi pháp, đứng dậy bỏ đi thì phạm Đột-kiết-la; Tăng tác pháp yết ma cho tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới và ba chúng dưới mà đứng dậy bỏ đi thì phạm Đột- kiết-la; bảo người không có tuổi hạ đứng dậy bỏ đi thì cả hai đều phạm Đột-kiết-la, người kia đi rồi trở lại thì phạm Đột-kiết-la; dùng chú thuật sai khiến người gỗ thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo vì người khác lén nghe việc tranh cãi thì phạm Đột- kiết-la. Hỏi: Nếu dùng rượu để nấu làm Thời dược, Phi thời dược, Thất nhật dược thì có được dùng hay không? Đáp: Nếu không còn tánh rượu thì được dùng. Hỏi: Tất cả các loại trái cây và bánh có được dùng hay không?, đáp là được dùng. Nếu Tỳ-kheo dạy kinh luật luận cho Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni nói là không học được; sau đó đến nói với Tỳ-kheo khác là trừ kinh luật luận ra, tôi không học gì hết thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo vì việc Tăng hay vì việc riêng mà đến ba nơi ở trong tụ lạc, không bạch Tăng cũng không phạm; khi đến nhà cư só, nơi A-lan-nhã và nơi gần tụ lạc, không có Tỳ-kheo không bạch thì không phạm; nhiều người cùng làm, không bạch mà vào tụ lạc cũng không phạm. Hỏi: Người ở trên đất tự tại bạch với người ở trong hư không thì có thành bạch hay không? Đáp: Thành bạch; ngược lại cũng vậy. Nếu trong một giới muốn xuất giới đi đến nơi khác, không có Tỳ-kheo để bạch thì khi đi đến ngã tư đường gặp Tỳ-kheo nên bạch, nếu không gặp ai thì nên khởi tâm bạch rồi đi, cũng nên bạch với Tỳ-kheo-ni cho đến Sa-di-ni. Nếu Tỳ-kheo đã thọ thỉnh thực ở một nơi, sau đó thọ thỉnh thực một nơi khác nữa thì nên tịnh thí nơi thỉnh thực trước. Nếu thọ thực rồi tùy ý không thọ pháp dư thực mà vào tụ lạc thì phạm hai tội Ba-dật-đề là không thọ pháp dư thực và không bạch mà vào tụ lạc. Hỏi: Có trường hợp khi mặt trời chưa mọc, vua chưa ra, chưa cất của báu, Tỳ-kheo vào cửa cung vua mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu đó là cung của vua trời, rồng, quỷ thần… Nếu có việc gấp hoặc vua đã cất của báu rồi mới vào thì không phạm. Nếu khi nghe thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, Tỳ-kheo nói là tôi mới biết tội này thì phạm Ba-dật-đề; trừ Tỳ-ni, khi nghe thuyết pháp khác mà nói là tôi nay mới biết pháp này mỗi nữa tháng nói thì phạm Đột- kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm chân giường cao quá tám ngón tay của Phật mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu là giường báu, làm chân giường bằng vàng bạc, lưu ly… thì phạm Đột-kiết-la; vì người khác mà làm chân giường cao quá tám ngón tay của Phật thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng cỏ May dồn làm nệm ngồi, nệm nằm mà không phạm hay không? Đáp: Trừ nệm dồn bông, dùng các loại cỏ khác dồn làm nệm thì phạm Đột-kiết-la; dồn làm nệm cho người khác cũng phạm Đột-kiết-la; bảo người khác dồn làm nệm cũng phạm Đột-kiết-la; dồn làm nệm bất tịnh cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu dùng vải bất tịnh để may y tắm mưa thì phạm Đột-kiết-la; dùng vải bất tịnh may y bằng kích lượng y của Phật thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi Về Bốn Pháp Ba-La-Đề-Đề-Xá-Ni: Nếu đến nhà bạch y thọ thức ăn từ ba hạng người tặc trụ, người học giới, người vốn không hòa hợp thì phạm Đột-kiết-la; nếu Tỳ-kheo ở trong hư không thọ thức ăn từ Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ thức ăn từ Tỳ-kheo không phải bà con mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ở trong chùa còn Tỳ-kheo-ni ở trong nhà cư só. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ thức ăn từ Tỳ-kheo-ni không phải là mẹ mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu người mẹ ở bên Tỳ-kheo không phải bà con trong nhà cư só đồng ý thì Tỳ-kheo thọ thức ăn không phạm; dùng tay ra dấu thọ thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo đến nhà cư só khất thực, trong nhà có Tỳ-kheo-ni bảo cư só đem thức ăn cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thọ thức ăn này thì phạm Đột-kiết-la; nếu khác nhà mà cùng một cửa, ở nơi đó thọ thức ăn hoặc thọ cho người khác thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ thức ăn từ Tỳ-kheo-ni không phải bà con mà phạm bốn thiên giới hay không? Đáp: Có, nếu dùng y gói thức ăn, cầm lấy y và thức ăn, ở trước người nữ nói lời thô, sờ chạm thân phần, Tỳ-kheo-ni bảo người cho cơm canh mà Tỳ-kheo không ngăn thì phạm Đột-kiết-la; nếu thọ thức ăn ngay nơi ngạch cửa thì không phạm; thọ thức ăn từ bà con thì không phạm. Nếu ở A-lan-nhã có sợ hãi, Tỳ-kheo không bịnh mà thọ thức ăn thì phạm Đột-kiết-la , bịnh thì không phạm, nên nói cho cư só biết là nơi đây có nạn sợ. Nếu vua hỏi Tỳ-kheo là nơi đây có giặc hay không, đáp là không thì thọ thức ăn không phạm; nếu ra ngoài giới thọ thức ăn cũng không phạm. Nếu trên đường đi gặp cư só đưa thức ăn đến, Tỳ-kheo nên bảo đừng vào, cư só tự vào thì Tỳ-kheo không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở trong nhà Học gia tự thay thọ thức ăn mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu được thỉnh trước hoặc bịnh. Hỏi Về Bảy Pháp Diệt Tránh: Nếu Tỳ-kheo điên cuồng mà phạm giới, sau đó nhớ là mình có tội thì nên như pháp trừ diệt, nếu không nhớ thì không phạm. Nếu muốn cử tội người tranh cãi nên khiến cho Tỳ-kheo này tự nói trước rồi mới cử tội; nếu là hai bộ chúng tranh cãi thì trước nên cầu Thác lại tra, người làm Thác lại tra đối với hai bộ nên không có phân biệt kia đây, nếu bộ kia không đồng ý thì không nên cử tội, nếu cử tội thì không gọi là Thác lại tra. Thác lại tra nên để hai bên biết thọ thẻ, nếu đã thọ rồi mà nói là không thọ thì phạm tội cố ý vọng ngữ; như Bất si Tỳ-ni, Thật mích Tỳ-ni, Hiện tiền Tỳ-ni, Ức niệm Tỳ-ni, Đa mích Tỳ-ni, Bố thảo Tỳ-ni, tùy nghóa của sự việc nên biết. Hỏi Về Việc Thọ Giới: Hỏi: Không tác Bạch tứ yết ma thọ giới cụ túc thì có thọ đắc giới hay không? Đáp: là không đắc giới. Hỏi: Nếu khi thọ giới cụ túc mà xả Hòa thượng thì có đắc giới hay không? Đáp: là không đắc giới. Hỏi: Khi thọ giới cụ túc mà không hiện tiền thì có đắc giới hay không? Đáp: là không đắc giới. Hỏi: Khi thọ giới cụ túc, người tác yết ma không xưng tên Hòa thượng, chúng tăng và người thọ giới thì có đắc giới không? Đáp: là không đắc giới. Hỏi: Nếu tác bạch rồi mà tác yết ma không đủ thì có đắc giới không? Đáp: là không đắc giới. Hỏi: Khi thọ giới cụ túc, không cầu Hòa thượng thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Khi thọ giới cụ túc, không hỏi các già nạn mà cho thọ giới thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Cho người ngu si thọ giới thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Hai người cùng một yết ma ở hai nơi thọ giới thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới, nếu yết ma ở giữa hai giới. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo tác pháp yết ma cho người ở bốn nơi thọ giới cụ túc thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới, nếu Tỳ-kheo ngồi trên giường ngồi, giường nằm tác pháp yết ma cho bốn nơi; hoặc năm nơi cho đến tám người, mười hai người… cũng vậy. Hỏi: Nếu các Tỳ-kheo ở trong giới không hòa hợp mà cho người thọ giới cụ túc thì có đắc giới không? Đáp: Không đắc giới. Hỏi: Làm nhiễm ô Tỳ-kheo-ni tức là làm việc phi phạm hạnh, nếu một người làm đủ tám việc làm nhiễm ô Tỳ-kheo-ni thì có thành làm nhiễm ô không? Đáp: là thành. Hỏi: Nếu tám người mỗi người làm một việc làm nhiễm ô Tỳ- kheo-ni thì có thành làm nhiễm ô không? Đáp: Không thành làm nhiễm ô. Hỏi: Tặc trụ là người không được Bạch tứ yết ma thọ giới cụ túc mà trải qua bố tát, tự tứ, đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ cho đến vào trong số chúng mười hai người. Nếu người thọ giới không biết Hòa thượng là tặc trụ mà nương vị ấy để xuất gia thọ giới cụ túc thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; người vôn phạm giới, người không hòa hợp cũng vậy. Hỏi: Nếu cư só làm Hòa thượng cho cư só thọ giới cụ túc thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Sao gọi là người việt tế? Đáp: Đó là người không xả giới mà bỏ y phục Sa-môn, đến chỗ ngoại đạo mặc y phục của họ vì ưa thích kiến chấp của họ. Hỏi: Người giết mẹ có được cho xuất gia thọ giới cụ túc hay là không được? Đáp: Có khi được, có khi không được. Nếu muốn giết mẹ của người khác mà giết lầm mẹ mình thì người này được xuất gia thọ giới cụ túc; nếu cố ý giết mẹ mình thì không được cho; giết cha, giết A-la- hán cũng vậy. Hỏi: Người có ác tâm làm Phật bị thương chảy máu được cho xuất gia thọ giới cụ túc hay là không được? Đáp: Nếu không cố ý làm Phật bị thương chảy máu thì được cho xuất gia thọ giới cụ túc; nếu có ác tâm thì không được. Hỏi: Người phá Tăng có được cho xuất gia thọ giới cụ túc hay là không được? Đáp: Nếu khởi tưởng là pháp là thọ thẻ, do thọ thẻ mà Tăng bị phá thì người này được cho xuất gia thọ giới cụ túc; nếu khởi tưởng là phi pháp mà thọ thẻ thì không được cho. Hỏi: Nếu cho người si độn thọ giới cụ túc thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới nhưng các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; cho người không thanh tịnh cũng vậy. Hỏi: Cho người điếc thọ giới cụ túc thì có đắc giới không? Đáp: Nếu nghe yết ma thì đắc giới, không nghe thì không đắc giới; người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại cũng vậy. Người không thọ pháp cho người thọ pháp thọ giới cụ túc dù đủ số chúng cũng không đắc giới; ngược lại cũng vậy. Hỏi: Tỳ-kheo bị yết ma Bất kiến tẫn cho người bị bất kiến tẫn thọ giới thì có đắc giới không? Đáp: Nếu người kia thấy tội thì đắc giới, người bị ác tà kiến bất trừ tẫn cũng vậy. Hỏi: Người thọ giới cụ túc nếu nghe yết ma rồi mà chuyển căn thì có đắc giới không? Đáp: là đắc giới. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo-ni nên đến trong Tỳ-kheo tăng thọ đại giới, nếu Hòa thượng chuyển căn thì có đắc giới không? Đáp: Nếu nghe yết ma rồi Hòa thượng mới chuyển căn thì đắc giới. Hỏi: Người thọ giới ở dưới đất, người làm yết ma ở trên không thì có đắc giới không? Đáp: Không đắc giới, ngược lại cũng vậy. Bạch tứ yết ma gọi là đắc giới cụ túc. Hỏi Về Việc Bố Tát: Khi kết giới không mất y thì nên nói trừ tụ lạc và giới tụ lạc, vì tụ lạc và giới tụ lạc không phải là giới y; đại chúng ngồi ở dưới đất mà người kết giới ở trên không thì không thành kết giới, ngược lại cũng vậy. Nếu ở nơi A-lan-nhã nên kết giới trong phạm vi một Câu-lô-xá và ở trong đây làm bố tát. Hỏi: Trong phạm vi một Câu-lô-xá nếu có Tỳ-kheo mà không nhìn thấy thì làm sao bố tát? Đáp: Nếu Tỳ-kheo ở nơi mà mắt có thể thấy thì nên cùng bố tát, cũng nên khởi tâm tìm. Phật tại nước Xá-vệ, trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nếu Tỳ-kheo ở dưới đất gởi dục thanh tịnh cho Tỳ-kheo ở trên không thì có thành gởi dục thanh tịnh không?” Đáp: Không thành gởi dục thanh tịnh, nếu thọ dục thanh tịnh rồi mà xuất giới thì mất dục thanh tịnh này. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở hai nơi thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa mà thành thuyết hay không? Đáp: Thành, nếu ở giữa hai giới. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo gởi dục thanh tịnh ở hai nơi, bố tát ở hai nơi mà thành gởi dục hay không? Đáp: Thành, nếu ở giữa hai giới. Hỏi: Nếu thuyết giới với người điên cuồng, người điếc, người biên địa, người si độn mà đủ số chúng thì có thành thuyết giới hay không?, đáp là thành. Hỏi: Khi Tỳ-kheo cựu trụ bố tát, Tỳ-kheo bị tẫn và Tỳ-kheo khách đến thì có được cùng đồng yết ma không? Đáp: Nếu như pháp tác pháp yết ma thì được cùng đồng. Hỏi: Như thế nào là đứng dậy rời khỏi chúng? Đáp: Nếu một Tỳ-kheo đứng dậy đi tiểu tiện ở nơi chỗ có thể nghe được thì không gọi là lìa chúng, nếu lìa nghe thì gọi là lìa chúng. Hỏi: Khi bố tát mà Tăng bị phá thì các Tỳ-kheo nên bố tát như thế nào? Đáp: Mỗi người tự cùng với bạn đảng của mình bố tát. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngồi thuyết giới cho bốn nơi mà thành thuyết hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ngồi trên giường ngồi, giường nằm. Hỏi Về Việc Tự Tứ: Nếu người ở dưới đất tự tứ với người ở trên không thì không thành tự tứ, ngược lại cũng vậy. Hỏi: Tỳ-kheo tự tứ ở hai nơi có thành tự tứ không? Đáp: Thành, nếu ở giữa hai giới; tự tứ ở bốn nơi cũng vậy. Hỏi: Như Phật dạy là thanh tịnh đồng kiến mới xuất tội, sao gọi là thanh tịnh đồng kiến? Đáp: Đối với Ba-la-đề-mộc-xoa là đồng kiến. Hỏi: Như Phật dạy là trừ nạn nước lửa, nếu có các nạn khác khởi lên thì có được nói một lần tự tứ không? Đáp: Tùy có nạn nào khởi lên đều được nói một lần tự tứ. Hỏi: Như Phật dạy là trừ việc này, các việc khác nên tự tứ nghóa là trừ người ra, các việc khác nên tự tứ; như thế nào là việc, như thế nào là người? Đáp: Nếu người nào phạm tội thì trừ người ấy ra, như Phật dạy khi tự tứ nên xuất tội của tỳ-kheo, có người nói phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni, có người nói phạm tâm niệm sám hối, có người nói phạm Ba-dật-đề, có người nói phạm Đột-kiết-la, đó là người; việc là Ba-la-đề-mộc-xoa . Hỏi: Nếu Tăng cựu trụ tự tứ vào ngày thứ mười lăm, khách Tăng đến tự tứ vào ngày thứ mười bốn, như Phật dạy Tỳ-kheo cựu trú nên ra ngoài giới tự tứ là một Tỳ-kheo hay tất cả Tỳ-kheo ra ngoài giới? Đáp: là tất cả Tỳ-kheo . Hỏi: Khi tự tứ xong, Tỳ-kheo bị tẫn có được ở chung không? Đáp: là không được ở chung. Tự tứ với người điếc, người si độn, người biên địa mà đủ số chúng thì thành tự tứ; Tỳ-kheo thọ pháp mà đủ số chúng cũng không thành tự tứ, người tự tứ mà chuyển căn cũng không thành tự tứ. Hỏi Về Việc An Cư: Hỏi: Trong an cư Tỳ-kheo bị tẫn có được ở chung không? Đáp: Trong ba tháng được ở chung. Hỏi: Trong an cư, Tỳ-kheo ở trên không thì khi mặt trời mọc có mất an cư không? Đáp là mất an cư. Hỏi: Nếu chúng tăng an cư trong tụ lạc xong rời khỏi giới, Tỳ- kheo khác đến kết giới lại; nếu đàn việt ở trong đây cúng y cho Tăng thì y này thuộc về ai? Đáp: Y thuộc Tăng đã an cư trong tụ lạc này trước, vì như Phật dạy đó là công đức lợi của giới. Hỏi: Nếu trong an cư Tăng bị phá thì y cúng thí thuộc về bên nào? Đáp: là thuộc bên Tăng có nhiều người hơn. An cư nương vào bốn điều: Một là hạ, hai là thời, ba là thức ăn, bốn là tự tứ. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo an ở bốn nơi và tự tứ bốn nơi hay không? Đáp: Có, nếu ngồi trên giường ngồi, giường nằm. Hỏi Về Dược: Hỏi: Chung thân dược để ở chỗ bất tịnh và cách đêm thì có được dùng hay không? Đáp: là không được dùng. Hỏi: Có được dùng sữa người hay không? Đáp: Không được dùng, chỉ được dùng thoa thân. Hỏi: Mỡ bất tịnh nấu với muối thì có được dùng hay không? Đáp: là được dùng nếu bị bịnh, thịt cũng vậy. Hỏi: Lửa ở chỗ đất bất tịnh, người ở chỗ đất tịnh tác tịnh thức ăn thì có được ăn hay không? Đáp: là được ăn. Hỏi: Lửa ở chỗ đất bất tịnh, thịt ở gần bên lửa, không có người tác tịnh thì có thành tác tịnh và được ăn hay không? Đáp: Thành tác tịnh và được ăn. Hỏi: Như Phật dạy là không được dùng mỡ có trùng, vậy có được dùng vào việc khác không? Đáp: Không được, nếu được ăn thì mới được dùng để thoa. Hỏi: Lửa ở chỗ đất bất tịnh, tịnh nhân ở chỗ đất tịnh tác tịnh tô, dầu thì có được ăn không? Đáp: là được ăn. Hỏi: Trừ tám loại nước ép, các loại nước ép khác có được uống hay không? Đáp: Nếu lắng trong thì được uống. Hỏi Về Y: Trong an cư Tỳ-kheo bị tẫn không được chia vải may màn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xin y từ cư só, vợ cư só không phải bà con mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu xin vải may màn hoặc xin cho Tăng; nếu người học giới xin hay sai sứ xin thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Sao gọi là được y? Đáp: Nếu để trên đầu gối hay để ở trong tay hoặc để trên vai thì gọi là được y. Nếu xin y từ cư só, vợ cư só không phải bà con mà không được y thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có Tỳ-kheo ở bốn chỗ thọ y mà không phạm hay không? Đáp: là có, nếu ngồi trên giường ngồi, giường nằm. Hỏi Về Việc Thọ y Ca-Hi-Na: Hỏi: Ở chỗ này tự tứ rồi đi đến chỗ khác có được thọ y Ca-hi-na không? Đáp: là được thọ. Hỏi: Như Phật dạy là không được vì lợi ích của trú xứ mà lấy y không đúng lượng làm y Ca-hi-na, nếu thọ y này thì có thành thọ hay không? Đáp: là không thành thọ. Hỏi: Như Phật dạy là chỗ mà Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na được hành sự là xả giới hay là khai thông? Đáp: Là khai thông không phải xả giới. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo trong an cư ở chỗ chăn trâu kết làm nội giới, tự tứ xong xả giới, có đàn việt cúng y trong đây thì y này thuộc về ai? Đáp: Thuộc về các Tỳ-kheo an cư trước, vì như Phật dạy đó là lợi ích của an cư. Hỏi: Có trường hợp lấy một y của tỳ-kheo thọ làm y Ca-hi-na, ngay nơi y này mà không thành thọ hay không? Đáp: Có, tùy vào tháng có nhuần hay không nhuần. Nếu an cư nương vào tháng nhuần tự tứ thì trong vòng chín ngày được y nên thọ; nếu may y Ca-hi-na không nương vào tháng nhuần thì thành thọ y Ca- hi-na; nếu nương vào tháng nhuần thì không thành thọ, vì nếu vua tính tháng nhuần thì số ngày an cư đã đủ. Tự tứ xong thọ y Ca-hi-na thì thành thọ đến ngày mười lăm tháng mười hai thì nên xả. Nếu trong an cư mà Tăng bị phá, nếu như pháp thọ y Ca-hi-na mà cùng thọ thì được lợi ích về trú xứ. Hỏi: Khi thọ y Ca-hi-na, sao gọi là tùy hỉ? Đáp: Tức là hiện tiền tùy hỉ. Hỏi: Như thế nào là nghe xả y Ca-hi-na? Đáp: Nếu ra khỏi giới mà nghe được tin từ người khác là Tăng đã xả y Ca-hi-na. Hỏi: Sao gọi là mất y? Đáp: Tức là mất y đã may thành Hỏi: Nếu Tỳ-kheo tánh trụ thọ y Ca-hi-na thì ai nên tùy hỉ? Đáp: Là Tỳ-kheo tánh trụ và Tỳ-kheo bị tẫn, nếu Tỳ-kheo bị tẫn mà tùy hỉ thì cũng thành thọ y Ca-hi-na. Hỏi Về Việc Câu-Xá-Di: Hỏi: Nếu tác pháp yết ma tẫn Tỳ-kheo mà người bị tẫn ngủ thì có thành tẫn hay không? Đáp: Nếu nghe tác bạch rồi thì thành tẫn. Hỏi: Nếu các Tỳ-kheo ngủ thì có thành tẫn không? Đáp nếu nghe tác bạch rồi thì thành tẫn. Hỏi: Có đông nhiều Tỳ-kheo tác pháp yết ma tẫn Tỳ-kheo , trong đó chỉ có hai vị nghe thì có thành tẫn hay không? Đáp: Cho đến chỉ có một người nghe cũng thành tẫn. Hỏi: Các Tỳ-kheo ở Câu-xá-di thành lập hai bộ chúng là phá Tăng hay không phải là phá Tăng? Đáp: Không phải phá Tăng, vì sao, vì không khởi tưởng phá tăng mà tác pháp yết ma. Các Tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly đưa ra mười việc phi pháp, các Tỳ-kheo Thượng tòa không ủng hộ bên này cũng không ủng hộ bên kia thì gọi là Thác lại tra. Hỏi Về Việc Yết Ma: Hỏi: Người điếc đủ túc số tác pháp yết ma thì có thành yết ma không? Đáp: Nếu nghe thì thành yết ma, người si độn, người biên địa cũng vậy; Tỳ-kheo thọ pháp yết ma với Tỳ-kheo không thọ pháp dù đủ số chúng cũng không thành yết ma; người ở dưới đất yết ma với người ở trên không cũng không thành; ngược lại cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp ở hai nơi tác pháp yết ma mà thành hay không? Đáp: Có, nếu ở giữa hai giới Hỏi: Có trường hợp ở bốn nơi với bốn người tác pháp yết ma mà thành hay không? Đáp: Có, nếu ngồi trên giường ngồi, giường nằm. Nếu tác yết ma Khu xuất, yết ma Khổ thiết, yết ma chiết phục cho Sa-di thì không thành yết ma. Sa-di ở dưới đất, người tác yết ma ở trên không thì không thành yết ma; ngược lại cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp một lần tác pháp yết ma tẫn bốn Sa-di mà thành tẫn hay không? Đáp: Có, nếu ở giữa hai giới. Hỏi: Có trường hợp ở bốn nơi tẫn bốn Sa-di mà thành tẫn hay không? Đáp: Có, nếu ngồi trên giường ngồi, giường nằm. Hỏi Về Việc Che Giấu Tội Tăng Tàn: Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo phạm mười ba việc, trọn đời không phát lồ mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu ban ngày ở chỗ có Tỳ-kheo, ban đêm ở chỗ không có Tỳ-kheo thì không thành che giấu; phát lồ với người điếc thì thành phát lồ nhưng phạm Đột-kiết-la, với người si độn, người biên địa cũng vậy; Tỳ-kheo thọ pháp phát lồ với Tỳ-kheo không thọ pháp thì thành phát lồ, ngược lại cũng vậy. Hỏi: Ở bên ai che giấu thì thành che giấu? Đáp: Ở bên Tỳ-kheo tánh trụ mà không phát lồ thì gọi là che giấu; bên người điếc, người si độn, người biên địa che giấu thì không gọi là che giấu; người dưới đất ở bên người ở trên không che giấu thì không gọi là che giấu; ngược lại cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở hai nơi phát lồ mà thành phát lồ hay không? Đáp: Có, nếu ở giữa hai giới. Tỳ-kheo thọ pháp ở bên Tỳ-kheo không thọ pháp che giấu thì không thành che giấu; ngược lại cũng vậy; ở bên Tỳ-kheo bị tẫn, người hành Biệt trú, người hành Biệt trú xong, người hành Ma-na-đỏa, người hành Ma-na-đỏa xong, người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại cho đến ở bên cư só che giấu đều không gọi là che giấu. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo được ở bốn nơi tác Yết ma A-phù- ha-na cho bốn Tỳ-kheo hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ngồi trên giường ngồi, giường nằm. Hỏi: Cho hành pháp Biệt trụ ở đâu? Đáp: Ở trong giới, trú xứ có Tỳ-kheo . Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trọn đời che giấu tội Tăng tàn, không phát lồ mà không phạm hay không? Đáp: Có, đó là người vốn đã phạm Ba-la-di Hỏi Về Việc Ngăn Bố Tát: Hỏi: Như Phật dạy là Tỳ-kheo ngăn bố tát thì nên ngăn vào lúc nào? Đáp: Nên ngăn vào lúc bố tát, không phải lúc không bố tát. Dùng thiên nhãn để ngăn bố tát thì không thành ngăn, phạm Đột-kiết-la; dùng thiên nhó nghe rồi ngăn cũng không thành ngăn; người điếc, người si độn, người biên địa ngăn bố tát đều không thành ngăn; người thọ pháp ngăn người không thọ pháp bố tát, người ở dưới đất ngăn người ở trên không bố tát đều không thành ngăn, phạm Đột-kiết-la; ngược lại cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở hai nơi thuyết giới mà thành thuyết giới không? Đáp: Có, nếu ở giữa hai giới. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở bốn nơi với bốn Tỳ-kheo ở bốn nơi được nói một lần bố tát hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ngồi trên giường ngồi, giường nằm; ngăn tự tứ cũng vậy. Hỏi Về Việc Phân Chia Ngọa Cụ: Hỏi: Nếu Hai Tỳ-kheo được chia ngọa cụ, Thượng tòa nên thọ dùng trước rồi trao lại cho Tỳ-kheo thứ hai ; nếu trải đệm ở dưới đất thì có được ngồi cùng người chưa thọ giới hay không? Đáp: là được . Hỏi: Như Phật dạy là khách Tỳ-kheo đến Tăng phường phải như pháp hành sự, tức là đảnh lễ Thượng tòa, nếu Thượng tòa ở đó là người hành Biệt trú thì có nên đảnh lễ hay không? Đáp: Không nên, Tỳ-kheo khách không nên đảnh lễ hai hạng người, đó là người hành Biệt trú và hạ tòa. Hỏi Về Pháp Diệt Tránh: Nếu Tỳ-kheo có việc tranh cãi, Tỳ-kheo-ni không được diệt tránh; Tỳ-kheo nên diệt tránh. Tỳ-kheo-ni có việc tranh cãi cho đến Sa-di-ni có việc tranh cãi thì Tỳ-kheo nên diệt tránh. Hỏi: Người hành Biệt trú, người hành Biệt trú xong, người hành Ma-na-đỏa, người hành Ma-na-đỏa xong đều nên ngồi dưới các Tỳ- kheo, vậy ngọa cụ cũng chia cho người ngồi dưới hay sao? Đáp: Không phải, nên theo thứ lớp chia cho người không có tuổi hạ trước rồi mới đến người phi pháp, nếu ngọa cụ dư cũng nên chia cho người bị tẫn. Hỏi: Sao gọi là diệt tránh? Đáp: Nếu Tăng như pháp thọ thẻ để diệt tránh mà không hiện tiền thọ thẻ thì không gọi là diệt tránh. Hỏi Về Việc Phá Tăng: Như Phật dã dạy có hai nhân duyên phá Tăng, đó là chấp thuận và thọ thẻ, không có việc thứ 3; nếu người thứ chín là người bị tẫn thì không gọi là phá Tăng, là tặc trú hay người hai căn cũng vậy. Hỏi Về Việc Úp Bát: Cư só có hai pháp thành tựu thì Tăng nên làm yết ma phú bát, đó là mắng Tỳ-kheo và đem tội Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ-kheo thanh tịnh. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở hai nơi làm yết ma phú bát cho cư só mà thành úp bát hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ở giữa hai giới; Tỳ-kheo không thọ pháp, Tỳ-kheo thanh tịnh, cho đến Tỳ-kheo bị tẫn hay tặc trụ ở nhà đàn việt mà làm yết ma phú bát thì không thành úp bát. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở bốn nơi làm yết ma phú bát cho bốn cư só mà thành ýp bát hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ngồi trên giường ngồi, giường nằm. Nếu ở bên tặc trụ, người vốn đã phạm giới, người vốn không hòa hợp, người học giới, Tỳ-kheo bị tẫn, Sa-di mà sám hối đều phạm Đột- kiết-la. Phần Tạp Sự: Về việc dâm: Phật tại giảng đường bên ao Di-hầu nước Tỳ-da-ly vì Tu-đề-na Ca-lan-đà tử mà kết giới, lúc đó Tu-đề-na ưu sầu nghi hối suy nghó: “Phật đã dạy là người phạm giới trước thì không phạm. Lúc Phật chưa kết giới, ta đã làm nhiều việc dâm, không biết việc nào là trước, việc nào là không trước”, nghó rồi liền đến hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy nên biết khi ta chưa chế giới, Tu-đề-na đã phạm tội nên tất cả thời đều không phạm”. Lại có Tỳ-kheo Bạt-kỳ tử không xả giới, giới suy kém mà không nói ra liền đổi y phục làm việc dâm, sau đó suy nghó: “Ta sẽ đến hỏi các Tỳ-kheo, nếu được xuất gia lại thì ta sẽ xuất gia, nếu không được thì thôi”, nghó rồi liền đến hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nếu Tỳ-kheo xả giới, giới suy kém, đổi y phục làm việc dâm thì đựoc cho xuất gia thọ giới lại. Từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo không xả giới, giới suy kém mà không nói ra lại làm việc dâm thì Tỳ-kheo này phạm Ba-la-di, không được ở chung”. Có một Tỳ-kheo ơ nơi A-lan-nhã, cách đó không xa có một voi mẹ sanh một voi cái; khi voi mẹ đi tìm thức ăn, voi cái con này đến gần chỗ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo lấy cỏ nước cho nó, khi nó ngồi ăn, nữ căn lộ ra nên Tỳ-kheo sanh tâm tham dục liền cùng nó hành dâm. Việc xong hổ thẹn nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Do ở bên voi kia không xúc chạm nên Tỳ-kheo kia không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Thời gian sau, voi cái con lớn dần, nữ căn lớn lộ ra khiến Tỳ-kheo sanh tâm tham dục, dùng tay sờ nữ căn của nó và muốn hành dâm, voi dùng chân đạp Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sợ hãi, hổ thẹn và nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Do sợ hãi hổ thẹn nên không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Hỏi: Như Phật dạy là người điên cuồng thì không phạm, như thế nào gọi là điên cuồng? Đáp: Có năm nhân duyên nên điên cuồng: Một là mất bà con, hai là mất tài sản, ba là bốn đại không điều hòa, bốn là bị phi nhân quấy nhiễu và năm là do nghiệp báo đời trước. Nếu người điên cuồng khi làm các việc phạm giới mà tự biết mình là Tỳ-kheo thì tùy việc kết phạm, nếu không biết mình là Tỳ-kheo thì không phạm. Hỏi: Như Phật dạy người tâm loạn thì không phạm, như thế nào gọi là tâm loạn? Đáp: Có năm nhân duyên nên tâm loạn: Một là bị phi nhân khủng bố, hai là bị phi nhân đánh, ba là bị phi nhân đoạt tinh khí, bốn là bốn đại không điều hòa và năm là do nghiệp báo đời trước. Trường hợp kết phạm và không phạm như trên. Hỏi: Như Phật dạy người bịnh khổ thì không phạm, như thế nào gọi là bịnh khổ? Đáp: Có năm nhân duyên bị bịnh khổ: Một là trúng gió, hai là cảm lạnh, ba là nóng sốt, bốn là lạnh nóng hòa hợp cùng phát và năm là bịnh phát theo thời. Trường hợp kết phạm và không phạm như trên. Lại có Tỳ-kheo hành dâm dục trong đường hành dâm mà tưởng là không phải đường hành dâm, sanh tâm nghi hối cho là đã phạm Ba- la-di nên đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo liền bạch Phật, Phật bảo: “Trong đường hành dâm tưởng là đường hành dâm mà làm việc dâm thì phạm Ba-la-di; trong đường hành dâm tưởng không phải là đường hành dâm cũng phạm Ba-la-di; trong đường hành dâm mà sanh nghi cũng phạm Ba-la-di. Trong đường không phải đường hành dâm tưởng không phải đường hành dâm thì phạm Thâu-lan-giá; không phải đường hành dâm tưởng là đường hành dâm cũng phạm Thâu-lan-giá; không phải đường hành dâm mà sanh nghi cũng phạm Thâu-lan-giá”. Đạo là chỉ cho đường hành dâm có ba là đường tiểu tiện, đường đại tiện và trong miệng. Nếu Tỳ-kheo hành dâm ở đường đại tiện qua khỏi da thì phạm Ba-la-di; vào đường tiểu tiện qua một lóng tay thì phạm Ba-la-di; vào đường miệng qua khỏi răng thì phạm Ba-la-di… ngoài ra đều như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Trường hợp Tỳ-kheo Nan-đề học giới (học hối Ba-la- di) như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Có Tỳ-kheo lỏa hình tắm ở chỗ đất trống, bốn Tỳ-kheo chà thân cho Tỳ-kheo này, do xúc chạm nhau nên khởi tâm nhiễm ô, đưa nam căn của tỳ-kheo này vào trong miệng, sau đó nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá, từ nay không được tắm ở chỗ đất trống và bảo người khác chà thân; ngồi nằm cũng vậy”. Có Tỳ-kheo do tâm dâm hừng thạnh nên đến nói với Tỳ-kheo mà mình yêu mến, Tỳ-kheo kia nghe rồi liền bảo hãy hành dâm, Tỳ- kheo này liền đến cùng hành dâm, Tỳ-kheo kia sanh nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Sám tội Thâu-lan-giá như thế nào?”, Phật bảo: “Có bốn loại Thâu-lan-giá: Một là tội Thâu-lan-giá từ Ba-la- di sanh là trọng, hai là tội Thâu-lan-giá từ Ba-la-di sanh là khinh, ba là tội Thâu-lan-giá từ Tăng-già-bà-thi-sa sanh là trọng, bốn là tội Thâu- lan-giá từ Tăng-già-bà-thi-sa sanh là khinh. Trọng Thâu-lan-giá sanh từ Ba-la-di nên sám hối trước tất cả Tăng ở trong giới; khinh Thâu-lan-giá từ Ba-la-di sanh nên ra ngoài giới đối trước bốn Tỳ-kheo sám. Trọng Thâu-lan-giá từ Tăng-già-bà-thi-sa sanh cũng phải ra ngoài giới đối trước bốn Tỳ-kheo sám; Khinh Thâu-lan-giá từ Tăng-già-bà-thi-sa sanh thì đối trước một Tỳ-kheo sám”. Có Tỳ-kheo khi ngáp không che miệng, Tỳ-kheo khác do tâm dâm hừng thạnh nên đưa nam căn của mình vào miệng của tỳ-kheo kia, sau đó nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, từ nay khi ngáp nên che miệng, nếu không che miệng thì phạm Đột-kiết-la” Có Tỳ-kheo do nam căn thường khởi lên nên suy nghó: “Nếu đưa vào nữ căn thì không phạm”, đưa vào nữ căn rồi sanh nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Hễ vào liền phạm Ba-la-di”. Có Tỳ-kheo khởi tâm nhiễm ô với mẹ nên nói với mẹ là muốn hành dâm, người mẹ nói muốn làm gì tùy ý, Tỳ-kheo này khi sắp hành dâm liền hổ thẹn, sanh nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Khi hổ thẹn thì tâm dâm biến mất, không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Có Tỳ-kheo ở trong đồng hoang quán sát tử thi, thấy một tử thi nữ với y phục đẹp đẽ liền khởi tâm nhiễm ô muốn hành dâm, nhưng bên trong nữ căn đầy trùng liền sanh nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Có hai loại hư hoại là bên trong và bên ngoài, thầy không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Có Ưu-bà-di tên Thiện quang qua đời vào lúc mặt trời sắp lặn, thân quyến trang điểm cho cô xong liền đem thi thể cô bỏ trong đồng hoang. Có Tỳ-kheo quán sát tử thi ở đó, vừa nhìn thấy thi thể của cô liền khởi tâm nhiễm ô muốn hành dâm, cô liền đứng dậy. Tỳ-kheo sợ hãi sanh nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Khi sợ hãi thì tâm dâm biến mất, thầy không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu- lan-giá”. Lại có Ưu-bà-di tên là Thiện sanh, một Tỳ-kheo thường hay ra vào nhà bà, nói với cô là mình bị dâm dục trói buộc, cô nói: “Thầy làm phương tiện ở dưới, ở trên xuất tinh; ở trên làm phương tiện, ở dưới xuất tinh, như vậy há không thọ lạc hay sao?”, Tỳ-kheo quở trách rồi cùng cô hành dâm, Phật nói: “Hễ vào liền phạm Ba-la-di”. Có vợ của một cư só, Tỳ-kheo thường ra vào nhà này và nói với vợ cư só là mình bị dâm dục trói buộc… cho đến Phật nói: “Hễ vào liền phạm Ba-la-di”. Nhân duyên về Tỳ-kheo Tôn đà A-Nan-đà như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Có một Tỳ-kheo ở một mình nơi A-lan-nhã, cách đó không xa có thửa ruộng của một Bà-la-môn, Bà-la-môn này thường đến thăm ruộng của mình, vừa thấy Tỳ-kheo liền sanh tâm hoan hỉ nên thỉnh Tỳ-kheo thọ thực. Sau khi làm xong thức ăn, Bà-la-môn sai tiểu nữ lỏa hình đến thỉnh Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thấy tiểu nữ lỏa hình liền khởi tâm nhiễm ô và hành dâm, sau đó sanh nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu thọ lạc thì phạm Ba-la-di, không thọ lạc thì phạm Thâu-lan-giá”. Có Tỳ-kheo do nam căn thường không khởi lên nên suy nghó: “Nam căn khởi mà hành dâm thì phạm Ba-la-di; không khởi mà hành dâm thì không phạm”, nghó rồi liền hành dâm… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo đang ngủ, người nữ đến hành dâm, Tỳ-kheo sanh nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu tay nắm tay, chân đạp chân, đùi chạm đùi thì phạm Ba-la-di; không xúc chạm thì phạm Thâu-lan-giá”. Giống như trường hợp Tỳ-kheo ngủ, Tỳ-kheo cuồng si cũng vậy; người nữ có bốn trường hợp, người nam và phi nam cũng vậy. Lại có Tỳ-kheo đang ngủ, người nữ đến hành dâm, Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy có hay biết không?”, đáp: “Con không hay biết nhưng khi tỉnh thì thân động”, Phật nói: “Nếu tỉnh mà thân động thì phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo đang ngủ, người nữ đến hành dâm, Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy có hay biết không, có thọ lạc không?”, đáp là không thọ lạc, Phật nói: “Không thọ lạc thì không phạm”. Lại có Tỳ- kheo đang ngủ, người nữ đến hành dâm, Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật hỏi: “Thầy có hay biết không, có thọ lạc không?”, đáp: “Con không hay biết, không thọ lạc nhưng khi tỉnh thì thân động”, Phật nói: “Phạm Thâu-lan-giá”. Giống như trường hợp Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và ba chúng dưới cũng vậy. Có Sa-di xấu ác nói với người nữ: “Vào trong ba đường hành dâm không phạm”, sau khi hành dâm rồi sanh nghi hối… Phật nói: “Hễ vào liền phạm Ba-la-di”. Giống như với người nữ, trường hợp với người nam cũng vậy. Lại có Tỳ-kheo đang ngủ, người nữ đến hành dâm, Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật hỏi: “Thầy có hay biết không?”, đáp là không hay biết, Phật nói: “Không hay biết thì không phạm”. Giống như trường hợp người nữ, người nam và phi nam cũng vậy. Có Tỳ-kheo xấu ác nói với Thức-xoa-ma-na: “Cô chưa thọ giới cụ túc cùng tôi hành dâm không phạm”, Thức-xoa-ma-na chấp thuận rồi hối, Tỳ-kheo liền cưỡng bức, Thức-xoa-ma-na sanh nghi hối: “Ta không phải là Thức-xoa-ma-na”… Phật nói: “Phạm Đột-kiết-la, mất giới Thức-xoa-ma-na nên thọ giới lại”. Có Tỳ-kheo xấu ác ở nơi A-lan-nhã nói với Sa-di: “Chú chưa thọ giới cụ túc cùng ta hành dâm không phạm”… Sa-di phạm Đột-kiết-la; Sa-di-ni cũng vậy. Lại có Tỳ-kheo ở nơi A-lan-nhã nói với Tỳ-kheo mới thọ giới: “Thầy mới thọ giới cùng ta hành dâm không phạm”, Tỳ-kheo mới thọ giới chấp thuận rồi hối, Tỳ-kheo kia cưỡng ép, Tỳ-kheo mới thọ giới sanh nghi hối… Phật nói: “Không thọ lạc thì không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Có Tỳ-kheo đang ngủ, Tỳ-kheo khác đến hành dâm, nếu trong ba thời: Ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều không hay biết thì không phạm; Tỳ-kheo đến hành dâm nên bị diệt tẫn như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Có Tỳ-kheo thấy tượng gỗ người nữ xinh đẹp liền khởi tâm tham đắm nên hành dâm tượng gỗ, nữ căn liền mở ra, Tỳ-kheo sợ hãi sanh nghi hối cho là đã phạm Ba-la-di nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu toàn thân thọ lạc thì phạm Ba-la-di, nếu nữ căn không mở ra thì phạm Thâu- lan-giá”. Giống như tượng gỗ người nữ, tượng vàng, tượng bạc, bảy báu… cho đến tượng đất người nữ cũng vậy. Có rồng cái đến chỗ Tỳ-kheo yêu cầu cùng hành dâm, Tỳ-kheo chấp thuận, khi sắp hành dâm thấy thân hình rồng dài lớn liền sợ hãi nghi hối… Phật nói: “Nếu có tâm sợ hãi thì không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Trường hợp đối với Dạ-xoa nữ, Tỳ-kheo bỗng thấy không hiện hình… Phật nói: “Không hiện hình thì phạm Thâu-lan- giá”; đối với thiên nữ, Cán thát bà nữ cũng vậy. Lại có A-tu-la nữ đến chỗ Tỳ-kheo yêu cầu cùng hành dâm, Tỳ-kheo chấp thuận nhưng nữ căn của A-tu-la nữ quá lớn nên Tỳ-kheo đưa chân vào… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”, đối với thiên nữ cũng vậy. Có một Tỳ-kheo ở một mình nơi A-lan-nhã, một phi nhân nữ đến nói với Tỳ-kheo: “Hãy cùng làm việc dâm dục”, Tỳ-kheo nói: “Chớ nói lời này, tôi là người đoạn dâm dục”, nữ phi nhân nói: “Nếu không cùng làm, ta sẽ quấy nhiễu làm cho thầy suy não”, Tỳ-kheo cương quyết không chịu, trong đêm đó lúc Tỳ-kheo đang ngủ, nữ phi nhân bọc Tỳ- kheo trong nội y mang đến trong cung vua để nằm bên cạnh phu nhân của vua, khi vua thức dậy thấy liền hỏi là ai, vì sao đến trong đây. Tỳ- kheo liền đem việc trên kể lại cho vua nghe, vua nói: “Thầy hãy đi đi, tại sao lại ở một mình nơi A-lan-nhã như thế”… Phật bảo: “Từ nay, chỗ không người đáng sợ như thế thì không nên ở”. Nhân duyên về Tỳ xá xà nữ cũng vậy. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni Hoa sắc sáng sớm đắp y vào thành khất thực, thọ thực xong vào trong phòng tọa thiền, do trời nóng nên không đóng cửa. Lúc cô ngủ thiếp thì có kẻ xấu ác đến hành dâm rồi đi, cô tỉnh dậy sanh nghi hối… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, từ nay khi ngủ nên đóng cửa, nếu ngủ không đóng cửa thì phạm Đột- kiết-la”. Có Tỳ-kheo vào thành Xá-vệ khất thực đến nhà một trưởng giả, thấy một con heo nái bị cột trong nhà đang loay hoay muốn thoát ra. Tỳ-kheo khởi tâm thương xót liền cởi trói cho nó và chủ nhà nhìn thấy, Tỳ-kheo cho là mình đã phạm tội trộm, là Sa-môn xấu ác nên hành dâm với heo cái. Sau đó suy nghó: “Ta sẽ hỏi các Tỳ-kheo, nếu được xuất gia lại thì ta sẽ xuất gia, nếu không được thì thôi”… Phật nói: “Ban đầu không phạm nhưng sau thì phạm”.  TÁT BÀ ĐA BỘ TỲ NI MA ĐẮC LẶC GIÀ <卷>QUYỂN 4 23.Phần Tạp Sự (Tiếp Theo): Có cư só gánh thịt đi, một con qua bay đến cắp lấy một miếng, miếng thịt này lại rớt xuống trong bát của một Tỳ-kheo đang đi khất thực. Cư só thấy miếng thịt này ở trong bát Tỳ-kheo liền quở mắng là Sa-môn xấu ác, Tỳ-kheo cho là mình xấu ác nên đi hành dâm, sau đó nghi hối… Phật nói: “Trước không phạm nhưng sau thì phạm”. Có Tỳ-kheo tiểu tiện trước con chó cái, nó liền tới ngậm lấy nam căn của tỳ-kheo, Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật nói: “Không phạm Ba- la-di, từ nay không nên tiểu tiện trước chó cái, nếu muốn tiểu tiện nên đuổi nó đi, nếu không đuổi được thì nên đi đến chỗ khác”. Lại có Tỳ- kheo đang kinh hành thấy có một con dã can cái đến gần liền khởi ý dâm dục, dùng y trùm bắt và bị nó cắn, Tỳ-kheo sợ hãi nghi hối… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo một mình ở nơi A-lan-nhã bị một Khẩn-na-la nữ bắt đưa vào trong rừng sâu, Tỳ-kheo mê man đến khi tỉnh dậy tìm cách ra khỏi nơi ấy… Phật nói: “Những nơi đáng sợ như vậy, Tỳ-kheo không nên ở”. Có một Tỳ-kheo lỏa hình lội qua sông, một con cá lội đến ngậm lấy nam căn, Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật nói: “Tỳ-kheo không được lỏa hình qua sông”. Có một người nữ lỏa hình tiểu tiện trong màn ngăn, Tỳ-kheo khởi tâm nhiễm ô liền đưa nam căn dí sát vào trong màn rồi sanh nghi hối… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan- giá”. Phật tại nước Xá-vệ, có một Tỳ-kheo thọ thực xong đi kinh hành trước phòng, sau đó trải tọa cụ ngồi thiền, do khí trời nóng bức nên ngủ thiếp đi, khi ngủ Nê-hoàn-tăng tuột xuống để lộ nam căn. một người nữ lượm củi đi đến chỗ đó nhìn thấy liền khởi tâm nhiễm ô và đến hành dâm, Tỳ-kheo tỉnh giấc, người nữ nói: “Nhà tôi ở tại , nếu Tỳ-kheo muốn được nữa thì hãy đến đó”, Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật nói: “Từ nay không được một mình nằm ngủ ở nơi vắng vẻ, nếu ngủ thì phạm Đột-kiết-la”. Nhân duyên về người nữ cắt cỏ cũng vậy. Có năm nhân duyên làm cho nam căn khởi lên: Một là dâm dục, hai là bị phong, ba là đại tiện, bốn là tiểu tiện và năm là bị trùng cắn. Phàm phu và người chưa lìa dục thì có đủ năm nhân duyên này, còn người lìa dục chỉ có bốn. Phật tại thành Xá-vệ, có một Tỳ-kheo mắc bịnh ở nam căn, nghe Kỳ-bà nói nếu có người nữ ngậm nam căn thì hết bịnh, liền suy nghó: “Phật cho người bịnh được uống thuốc”, nghó rồi liền bảo người nữ ngậm nam căn và bịnh được lành… Phật nói: “Hễ vào liền phạm Ba-la- di”. Tại nước Bà-lâu, trong nhà một dâm nữ có tên giặc ở thường quấy nhiễu dân chúng, dân chúng tâu lên vua, vua cho gọi dâm nữ đến hỏi nhưng dâm nữ chối là không có, vua cho người rình bên nhà dâm nữ và bắt được tên giặc; Vua nổi giận ra lịnh cắt hết gân chân và đem bỏ ở ngoài đồng hoang. Tỳ-kheo đi đến đó thấy dâm nữ này sanh tâm nhiễm ô muốn cùng hành dâm, dâm nữ đòi uống nước rồi nói: “Thân bất tịnh này đâu đáng tham nhiễm”. Sáng hôm sau, thân quyến của dâm nữ tìm đến, Tỳ-kheo thấy họ đến liền đứng qua một bên, dâm nữ nói với thân quyến: “Tôi không chết là nhờ có Tỳ-kheo này”, thân quyến kia liền nói với Tỳ-kheo: “Nếu cần gì cứ đến lấy”, Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo đi giữa bầy bò dữ, bò dữ chạy tới muốn húc Tỳ- kheo, Tỳ-kheo té ngã lên một người nữ … Phật nói: “Không phạm, khi đi phải tự đề phòng”. Có một Tỳ-kheo không may rớt xuống giếng, trong giếng đã có một người rớt xuống trước rồi, thấy Tỳ-kheo rớt xuống liền ôm cổ Tỳ-kheo. Người trên miệng giếng thả dây xuống kéo lên thì thấy có người nữ ôm cổ Tỳ-kheo cùng lên, liền hỏi: “Người nữ này từ đâu đến?”… Phật nói: “Không phạm, phải khéo tác ý khi thấy giếng”. Lại có Tỳ-kheo đi khất thực vào trong một ngỏ hẽm, đụng phải một người nữ đi ra… Phật nói: “Không phạm, phải tác ý rồi mới vào tụ lạc khất thực”. Có một Tỳ-kheo đi chung thuyền với một người nữ qua sông, thuyền bị chìm, người nữ ôm cổ Tỳ-kheo… Phật bảo: “Không phạm, nên xét kỹ trước rồi mới qua sông”. Có một người nam giả làm người nữ đến chỗ các Tỳ-kheo-ni xin xuất gia, các Tỳ-kheo-ni không xét kỹ liền độ cho xuất gia. Người nam này ban đêm đến sờ mó các ni, các ni sanh nghi hối bạch Phật, Phật bảo: “Không phạm, từ nay nên suy xét kỹ rồi mới độ cho xuất gia”. Trường hợp Thâu-la-nan-đàøø đem bỏ thai nhi chết giùm người… như trong Tỳ- ni đã nói rõ, Phật nói: “Tỳ-kheo-ni không nên đem bỏ thai chết giùm người, nếu làm thế thì phạm Thâu-lan-giá”. Trường hợp Tỳ-kheo-ni Bạt-đàø la như trong Tỳ-ni đã nói rõ, Phật hỏi Bạt-nan-đà có thọ lạc không, liền đáp: “Con không thọ lạc, con cảm thấy như bị lửa đốt, như kiếm bén”, Phật nói: “Tỳ-kheo-ni này do quả báo đời trước… bị cưỡng bức không thọ lạc thì không phạm”. Lại có Tỳ-kheo-ni Tu-xà-đa bị kẻ xấu bắt dẫn vào trong đồng hoang cưỡng bức hành dâm rồi thả về. Các Tỳ-kheo-ni biết chuyện liền đuổi đi, Tỳ- kheo-ni này nói: “Tôi không có thọ lạc”, các Tỳ-kheo-ni nói: “Cô bị kẻ xấu bắt vào trong rừng cưỡng bức hành dâm, sao nói là không có thọ lạc”, Tỳ-kheo-ni này không biết làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật hỏi: “Cô thật có thọ lạc hay không?, đáp: “Thế tôn, con không có thọ xúc lạc dục, con đã dùng tay chân xô đạp nhưng không thoát được”, Phật bảo: “Nếu không có thọ lạc thì không phạm, Tỳ-kheo-ni này do nhân duyên nghiệp báo nên thọ thân nữ và bị người khác cưỡng bức làm việc dâm, bị cưỡng bức mà không thọ lạc thì không phạm”. Trường hợp Tỳ-kheo-ni Đàn ni cũng vậy. Lại có Tỳ-kheo-ni La tra vào thành khất thực… Các Tỳ-kheo-ni liền đuổi đi, Tỳ-kheo-ni này nói: “Tôi không có thọ lạc”, các Tỳ-kheo- ni nói: “Cô bị kẻ xấu bắt dẫn vào trong rừng cưỡng bức hành dâm, sao nói là không thọ lạc”. Vừa lúc đó có trưởng lão A-nan đến, các Tỳ- kheo-ni nói: “Nay có trưởng lão A-nan ở đây”, A-nan liền hỏi nguyên do sự việc, Tỳ-kheo-ni này vì kính sợ A-nan nên không trả lời, A-nan bực tức vì cô không chịu trả lời. Tỳ-kheo-ni suy nghó: “Các Tỳ-kheo-ni đuổi ta, trưởng lão A-nan giận ta, ta sống làm chi nữa”, nghó rồi liền dùng cái bình cột vào cổ nhảy xuống sông tự vẫn. Bình đứt dây, thân cô nổi chìm trong nước, những người đứng trên bờ nhìn thấy liền vớt lên, xốc nước cho tỉnh lại rồi cưỡng bức hành dâm rồi thả về. Các Tỳ-kheo- ni đi tìm đến chỗ đó nhìn thấy liền nói: “Trước cô nói là không thọ lạc, sao nay lại cùng họ hành dâm”… Phật nói: “Bị cưỡng bức làm việc dâm, không thọ lạc thì không phạm”. Về việc trộm: Phật tại thành Vương xá, do nhân duyên Tỳ-kheo Đạt-ni-ca con của người thợ gốm nên Phật kết giới trộm, lúc đó Đạt-ni-ca ưu sầu nghi hối: “Ta nhiều lần trộm lấy cây gỗ, không biết lần nào là trước, lần nào không phải là trước”, bạch Phật, Phật nói: “Trước khi kết giới thì tất cả thời lấy cây gỗ đều không phạm”. Có một Tỳ-kheo ở chỗ trống, vật thuộc có chủ mà tưởng là không chủ nên lấy, Phật nói: “Nếu biết vật này là có chủ khởi tưởng là có chủ mà lấy thì phạm Ba-la-di; nếu vật có chủ khởi tưởng là không chủ mà lấy cũng phạm Ba-la-di; nếu vật có chủ sanh nghi mà lấy cũng phạm Ba-la-di. Nếu vật vô chủ khởi tưởng là có chủ mà lấy thì phạm Thâu- lan-giá; nếu vật không chủ sanh nghi mà lấy cũng phạm Thâu-lan-giá; nếu vật vô chủ khởi tưởng là vô chủ mà lấy thì không phạm”. Có Tỳ-kheo xin cơm mà lấy vật khác… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Trường hợp xin bún, miến, mì, cá thịt… mà lấy vật khác cũng như vậy. Có Tỳ-kheo trước không có thọ thỉnh thực… như trong Tỳ-ni, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Đột-kiết-la ”. Ở nước Câu-tát-la chúng tăng chia thức ăn, có một Tỳ-kheo đến tụ lạc, Tỳ-kheo này có hai đệ tử cọng hành đều cùng lấy phần cơm cho thầy, sau đó mới biết nên nói với nhau: “Thầy đã lấy một phần, tôi lại lấy thêm một phần, không biết chúng ta có phạm Ba-la-di không”, liền bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay lấy phần cơm nên nói với nhau”. Lại có Tỳ-kheo cựu trụ đến tụ lạc, Tỳ-kheo bạn lấy giùm phần ăn, khi trở về, Tỳ-kheo bạn đưa phần thức ăn này và nói: “Tôi lấy gi- ùm phần thức ăn cho thầy”, Tỳ-kheo này nói: “Tôi không bảo thầy lấy giùm, cớ sao thầy lại lấy”, Tỳ-kheo bạn nghi hối… Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu người khác không nhờ lấy giùm thì không nên lấy giùm phần thức ăn”. Lại có một Tỳ-kheo bịnh, khi Tăng chia cơm, Tỳ-kheo khán bịnh lấy phần cơm cho Tỳ-kheo bịnh, Tỳ-kheo bịnh chết, Tỳ-kheo khán bịnh không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu người bịnh chết trước, lấy phần cơm sau thì nên trả lại phần cơm; nếu lấy phần cơm rồi Tỳ-kheo binh mới chết thì phần cơm này giống như phần vật khác của tỳ-kheo chết để lại”. Có Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Chúng ta hãy cùng đi ăn trộm”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, đi đến giữa đường Tỳ-kheo kia liền hối hận, nghó rằng: “Chúng ta do lòng tin xuất gia trong Phật pháp mà lại làm việc không nên làm hay sao”, nghó rồi không đi nữa… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Đột-kiết-la”. Lại có Tỳ-kheo rủ Tỳ-kheo khác cùng đi ăn trộm, Tỳ-kheo kia cùng đi rồi suy nghó: “Nếu ta không đi, họ sẽ giết ta, ta tuy cùng đi nhưng không lấy trộm vật cũng không lấy phần”, nghó rồi cùng đi, không lấy trộm vật cũng không nhận lấy phần… Phật nói: “Không phạm”. Lại các Tỳ-kheo nói với nhau: “Chúng ta hãy cùng đi làm giặc”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, đi đến nơi, phân nữa Tỳ-kheo canh chừng, phân nữa tỳ-kheo đi lấy trộm vật. Số Tỳ-kheo canh chừng nói với nhau: “Chúng ta không lấy trộm vật thì không phạm”… Phật nói: “Nếu việc xong, đủ thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá”. Lại các Tỳ-kheo nói với nhau: “Chúng ta hãy cùng đi làm giặc”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, khi đến nơi lấy thì phân nữa tỳ-kheo lấy được vật, phân nữa-tỳ-kheo không lấy được vật. Số người không lấy được vật sanh nghi hối… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có bọn giặc cướp cúng y cho Tỳ- kheo, Tỳ-kheo nghi không dám lấy… như trong Tỳ-ni, Phật nói: “Hãy nghó họ là thí chủ mà thọ nhận”. Có giặc bắt đệ tử cọng hành của một Tỳ-kheo mang đi, Tỳ-kheo cứu về rồi sanh nghi hối… Phật nói: “Nếu quyết định là thuộc về giặc thì phạm Ba-la-di, nếu không quyết định thì không phạm”. Lại có Tỳ-kheo bị giặc bắt giữ, tự trốn về… Phật nói: “Tự trốn thì không phạm”. Có Tỳ-kheo mang vật đáng đóng thuế đi qua ải thuế quan, nghó rằng: “Nếu ta mang vật này qua thì phạm Ba-la-di, nhưng tiền đóng thuế vật này thà mang cho Phật pháp tăng hay cho Hòa thượng, A-xà- lê hay cho cha mẹ”, nghó rồi liền dùng lời dịu dàng nói với người thuế quan: “Tôi mang vật này là để cúng dường cho Phật pháp tăng hoặc cho Hòa thượng, A-xà-lê hoặc cho cha mẹ”, do lực của lời nói này mà được đi qua không phải đóng thuế thì không lỗi, hoặc bay qua thì không phạm. Có Tỳ-kheo đến mượn giường ngồi của tỳ-kheo khác, nghó là không trả lại, chủ đến đòi, muốn không trả… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo đến mượn Tỳ-kheo khác quyển kinh… như trong Tỳ-ni; lại có Tỳ-kheo lấy trộm đãy y, khi mở ra thấy trong đãy có y quý giá… Phật nói: “Tính theo giá của y mà kết phạm”. Có đám giặc lấy trộm rượu mang đến chỗ A-lan-nhã, uống một nữa còn một nữa đem giấu cất, lúc đó có Tỳ-kheo du hành đến thấy rượu này liền nói với đệ tử: “Hãy mang rượu này về trú xứ dùng làm rượu thuốc”, đệ tử vâng lời thầy lấy mang về chùa. Đám giặc trở về, tìm không thấy rượu liền đến hỏi các Tỳ-kheo: “Rượu để chỗ kia, các thầy có lấy mang đi không?”, đáp là có mang đi, đám giặc tức giận nói: “Các thầy là giặc của giặc vì trộm lấy rượu của tôi”. Tỳ-kheo sanh nghi hối… Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Trường hợp lấy thịt cũng vậy. Có đám giặc cướp phá thành ấp cướp lấy được tài vật rồi mang đến chỗ A-lan-nhã định chia, quan binh đến bao vây, đám giặc hoảng sợ nên đem tài vật này bố thí hết cho các Tỳ-kheo rồi bỏ chạy. Khi các bạch y đến nhìn thấy tài vật này ở chỗ Tỳ-kheo liền hỏi: “Tài vật này vì sao ở chỗ các thầy?”, đáp là bọn giặc cho chúng tôi… Phật nói: “Từ nay không được lấy vật từ bọn giặc, nếu chủ giặc cho thì được thọ, thọ rồi nên nhuộm cho hoại sắc rồi mặc, nếu đã nhuộm hoại sắc mà chủ vẫn đòi thì nên trả lại”. Có người nhuộm y xong quên không đem cất lại đi vào tụ lạc, có Tỳ-kheo đi kiếm y phấn tảo đi đến thấy y này liền lấy, người chủ y trở lại thấy liền nói: “Đừng lấy y của tôi”, đáp: “Tôi tưởng là y phấn tảo nên lấy”… Phật nói: “Tưởng là vô chủ mà lấy thì không phạm, từ nay hãy xem xét kỹ rồi mới lấy”. Có cư só treo áo bên ngoài nhà xí để đại tiểu tiện, có Tỳ-kheo tìm y phấn tảo đi đến đó thấy liền cầm lấy đi, cư só trở ra thấy liền nói là y của tôi… Phật nói: “Không phạm, từ nay nên xem xét kỹ rồi mới lấy”. Cách tinh xá Kỳ-hoàn không xa có một nông dân cởi áo để trên bờ ruộng để làm ruộng, có Tỳ-kheo tìm y phấn tảo đi đến đó thấy liền cầm lấy đi, nông dân thấy liền nói: “Đừng lấy y của tôi”, Tỳ-kheo không nghe vẫn cứ cầm đi, nông dân chạy theo đòi… Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Có cư só nghe Sa-môn Thích tử được lấy y bỏ dưới đất, liền lấy tám Ca-lê-tiên bỏ trong gói y rồi để trong chỗ rác rến, cố ý lộ ra cho dễ thấy rồi núp gần đó. Tỳ-kheo tìm y phấn tảo đi đến đó thấy liền cầm lấy đi… như trong Tỳ-ni cho đến câu Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Lại có nhiều đứa trẻ cởi áo để dưới đất để đùa giỡn, khi về nhà quên lấy áo; có Tỳ-kheo kiếm y phấn tảo đi đến đó thấy liền cầm lấy đi. Mẹ của các đứa trẻ đến tìm áo thấy liền nói: “Xin chớ lấy áo của con tôi”… như trong Tỳ-ni cho đến câu Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Có Tỳ-kheo cất giấu y phấn tảo một chỗ rồi vào thành Xá-vệ khất thực, lúc đó có một Tỳ-kheo tìm y phấn tảo đi đến chỗ này thấy y liền lấy mang đi, sau đó đem xuống sông giặt sạch. Tỳ-kheo chủ y khất thực trở về tìm không thấy y, khi thấy Tỳ-kheo phơi y liền nói: “Trưởng lão đã phạm Ba-la-di”, Tỳ-kheo hỏi tại sao, liền nói: “Thầy đã lấy y của tôi”… như trong Tỳ-ni cho đến câu Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Có Tỳ-kheo mặc y phấn tảo dơ bẩn bị các thần kim cang và thiên thần quở trách… Phật nói: “Nạp y bất tịnh thì không nên mặc, nếu mặc thì phạm Đột-kiết-la. Nếu được y phấn tảo nên giặt sạch rồi may, nhuộm rồi thọ trì”. Lại có Tỳ-kheo lấy y phấn tảo trong gò mã có người giữ nên bị Chiên-đà-la quở trách… Phật nói: “Nếu trong gò mã có người coi giữ thì không nên lấy y, nếu lấy thì phạm Thâu-lan-giá”. Cách gò mã không xa có một miếu thờ trời có người coi giữ, gió thổi y của người giữ miếu bay rớt xuống gò mã. Tỳ-kheo kiếm y phấn tảo đi đến đó thấy liền lấy mang đi, người giữ miếu đi tìm y thấy liền nói: “Xin đừng lấy y của tôi, do bị gió thổi nên bay đến nơi đây”, Tỳ-kheo nói: “Nếu là của ông thì ông cứ lấy lại”… Phật nói: “Nên xem kỹ rồi mới lấy”. Có cư só thỉnh Phật và Tăng ngày mai đến nhà thọ thực, lúc đó con của trưởng giả Cấp-cô-độc đang chơi trong tinh xá Kỳ-hoàn bị tên giặc đột nhập vào trong tinh xá bắt mang đi. Tỳ-kheo thấy rồi liền dùng chú thuật khởi bốn binh đuổi theo, giặc hoảng sợ bỏ đứa bé lại để chạy trốn. Sau đó các Tỳ-kheo nghe biết việc này liền nói với Tỳ-kheo này: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, Tỳ-kheo này nghi hối nên bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy dùng tâm gì đoạt lấy lại”, đáp: “Con dùng chú thuật”, Phật nói: “Không phạm”. Ở nước Câu-tát-la chúng tăng chia y, có một Tỳ-kheo đến tụ lạc, Tỳ-kheo này có hai đệ tử cọng hành đều cùng lấy phần y cho thầy, sau đó mới biết nên nói với nhau: “Thầy đã lấy một phần, tôi lại lấy thêm một phần, không biết chúng ta có phạm Ba-la-di không”, liền bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay khi lấy phần y nên nói với nhau”. Lại có Tỳ-kheo cựu trụ đến tụ lạc, Tỳ-kheo bạn lấy giùm phần y, khi trở về, Tỳ-kheo bạn nói: “Tôi lấy giùm phần y cho thầy”, Tỳ-kheo này nói: “Tôi không bảo thầy lấy giùm, cớ sao thầy lại lấy”, Tỳ-kheo bạn nghi hối… Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu người khác không nhờ lấy giùm thì không nên lấy giùm phần y”. Lại có một Tỳ-kheo bịnh, khi Tăng chia y, Tỳ-kheo khán bịnh lấy phần y cho Tỳ-kheo bịnh, Tỳ-kheo bịnh chết, Tỳ-kheo khán bịnh không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu người bịnh chết trước, lấy phần y sau thì nên trả lại; nếu lấy phần y rồi Tỳ-kheo bịnh mới chết thì phần y này giống như phần y vật khác của tỳ-kheo chết để lại”. Có cư só cày ruộng của tỳ-kheo, Tỳ-kheo đến nói với cư só: “Hãy chia phần cho tội, nếu không chia thì không được cày nữa”, cư só không chịu chia phần và vẫn cày như cũ, Tỳ-kheo liền nằm trên chiếc cày, cư só buông chiếc cày rồi quở trách… Phật nói: “Không phạm nhưng Tỳ- kheo không nên tự làm khổ thân như vậy”. Lại có Tỳ-kheo rủ Tỳ-kheo khác cùng đi lấy trộm vật trong tháp… Phật nói: “Nếu có người giữ tháp thì vật đã lấy đủ năm tiền liền phạm Ba-la-di”. Cựu Tỳ-kheo sai người cày trên ruộng của Tăng, ruộng của Tăng gần sát ruộng của một cư só, Tỳ-kheo cũng bảo người cày luôn trên ruộng của cư só, cư só thấy liền nói: “Không được cày trên ruộng của tôi, đây không phải là ruộng của Tăng”, Tỳ-kheo nói: “Có ai làm chứng?”, cư só nói: “Có phi nhân làm chứng”, Tỳ-kheo nói: “Vậy hãy bảo phi nhân nói đi”. Cư só cầu cúng quỷ thần xong, tự nhiên trong đất xuất hiện vật làm chứng, Tỳ-kheo liền bỏ không cày nữa. Sau khi cư só về, Tỳ- kheo giấu vật làm chứng và cho cày tiếp… Phật nói: “Nếu tính giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di”. Lại có Tỳ-kheo hái trái cây mà cư só chưa cho… Phật nói: “Nếu tính giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di”. Có một Tỳ-kheo kinh hành ở chỗ có cây xanh thấy quạ và chim thước làm tổ trên cây, liền lấy tổ của chim nấu để làm củi nên chim đến bay lượn trên tinh xá kêu thảm thiết, Phật hỏi A-nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không được lấy tổ của quạ và chim thước, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la; lấy để nấu nhuộm cũng vậy”. Phật tại nước Xá-vệ, có Tỳ-kheo đến vườn rau cải của một cư só xin, cư só bảo đưa tiền, Tỳ-kheo nói: “Không có tiền thì không cho phải không?”, cư só nói: “Không đưa tiền thì làm sao tôi sinh sống được”, Tỳ- kheo nói: “Không cho một chút nào sao?”, cư só nói không cho, Tỳ-kheo liền dùng chú thuật làm cho rau cải khô héo… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Giống như trường hợp vườn rau; vườn cây thuốc thơm, vườn hoa, vườn cây ăn trái cũng vậy. Có một con ngựa đang ăn cỏ, Tỳ-kheo dùng một bó cỏ đi qua trước mặt con ngựa, con ngựa liền đi theo Tỳ-kheo… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo tháp tùng theo đoàn thương buôn đi đến nước Câu-bà-la, đến chỗ hiểm nạn các thương nhơn cưỡi ngựa, thấy Tỳ-kheo đi bộ liền bảo Tỳ-kheo cưỡi ngựa để qua chỗ hiểm nạn, Tỳ-kheo cưỡi rồi khởi tâm muốn lấy ngựa… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo đi nhờ thuyền qua sông, thấy trên thuyền có vàng liền khởi tâm muốn lấy trộm… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Có thương buôn chở vật báu qua sông, thuyền bị chìm nên vật báu cũng chìm theo, chỉ có rương vàng là trôi theo dòng nước. Có các Tỳ-kheo đang tắm ở dưới nguồn của sông, thấy rương vàng trôi đến liền vớt lấy mang đi. Thương nhân thấy rồi liền nói với Tỳ-kheo: “Chớ lấy rương đó của tôi”, Tỳ-kheo nói: “Tôi vớt được trên sông đâu can gì đến ông”, thương nhân nói: “Thuyền của tôi bị chìm, vật báu của tôi cũng chìm theo, chỉ có rương này nổi trôi theo dòng”… Phật nói không phạm. Có một Tỳ-kheo mang vật của Tăng bốn phương dời để một chỗ khác… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Đột-kiết-la”. Lại có đám giặc trộm bò đem cột vào một gốc cây nơi A-lan-nhã rồi đi, các Tỳ-kheo đi đến đó thấy bò bị cột ở gốc cây liền mở dây thả cho bò đi… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Đột-kiết-la”. Có cư só ở nước Xá-vệ thường đến miếu thờ trời cầu nguyện, khi được toại nguyện liền đem tấm bạch điệp cúng cho miếu. Tỳ-kheo Ca- la-Nan-đà nhân đến đó thấy bạch điệp này liền lấy mang đi… như trong Tỳ-ni cho đến câu Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan- giá”. Trường hợp lấy tóc vàng trong miếu thờ trời cũng vậy. Có nhiều người nữ lội qua sông hoặc có người tắm nên để y phục và chuỗi ngọc bên bờ này; có một con khỉ ở trên cây leo xuống lấy chuỗi ngọc nên sau khi đem đồ vật qua bờ kia, các người nữ này trở qua lại bờ này thì không thấy chuỗi ngọc đâu nữa. Lúc đó con khỉ ném chuỗi ngọc xuống đất, các Tỳ-kheo kinh hành ở cách đó không xa thấy liền cầm lấy chuỗi ngọc này đưa lại cho các người nữ… như trong Tỳ-ni cho đến câu Phật nói không phạm. Có nhiều Tỳ-kheo ở trong một trú xứ, có con chuột trong hang chạy ra tha thức ăn và trái cây vào hang, các Tỳ-kheo thấy liền biết là chuột tha thức ăn nên một Tỳ-kheo phá hang chuột lấy các loại thức ăn trong hang chuột ra; các Tỳ-kheo nói Tỳ-kheo này phạm Ba-la-di… Phật nói: “Không phạm nhưng Tỳ-kheo không nên lấy các loại thức ăn trong hang chuột”. Lại có con chuột tha các loại thức ăn để dưới giường của một Tỳ-kheo, sáng dậy súc miệng xong, Tỳ-kheo này lấy thức ăn này ăn, các Tỳ-kheo hỏi: “Thầy không đi khất thực, từ đâu có thức ăn này mà ăn?”, đáp là do chuột tha để dưới giường, các Tỳ-kheo nói Tỳ-kheo này phạm Ba-la-di… Phật nói: “Tỳ-kheo này không phạm, vì sao, vì con chuột kia đời trước là cha của tỳ-kheo này, vì thương con nên mang thức ăn bỏ ở dưới giường cho Tỳ-kheo ”. Có một người thợ săn đuổi theo một con nai chạy vào trong Tăng phường và bảo các Tỳ-kheo trả lại nai, Tỳ-kheo nói: “Nai đã vào trong chùa, làm sao trả cho ông được”, thợ săn đòi không được liền bỏ đi… Phật nói không phạm. Lại có thợ săn dùng mũi tên độc bắn một con nai, nai chạy vào trong Tăng phường, thợ săn muốn tìm nai nhưng các Tỳ-kheo không cho, thợ săn nói: “Nai này đã trúng độc ắt sẽ chết”, Tỳ- kheo nói: “Dù có chết cũng không cho”, thợ săn năn nỉ không được nên phải quay về, không bao lâu sau nai chết, lúc đó các Tỳ-kheo không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Nên trả lại cho người thợ săn”. Các Tỳ-kheo phá lưới bẫy của thợ săn thì phạm Thâu-lan-giá, nếu phá vì tâm thương xót thì phạm Đột-kiết-la. Có Tỳ-kheo lấy y của người điên cuồng, người kia thấy liền nói là đừng lấy, Tỳ-kheo nói: “Sau này sẽ trả lại cho ông”, sau đó nghi hối… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ- kheo mượn tài vật ở một tiệm, chủ tiệm đến đòi, Tỳ-kheo có ý không muốn trả… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Có Tỳ-kheo bịnh muốn uống nước ép trái cây và cũng muốn cúng tăng nên đưa tiền bảo đệ tử mua thức uống này, các đệ tử nói với nhau: “Chúng ta chỉ nên làm một ít nước cho người bịnh ăn thôi, tiền còn dư chúng ta sẽ cùng chia”, bàn xong liền làm như đã bàn tính… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo có nhiều vật bất tịnh (tiền bạc vật báu) nói với đệ tử: “Sau khi thầy qua đời, Tăng sẽ chia tài vật của thầy”, sau đó bảo đệ tử làm bánh; các đệ tử lo lắng vội làm bánh cho thầy ăn, ăn xong thân nặng nề nên qua đời. Sau khi tống táng xong, Tăng bảo các đệ tử: “Các thầy hãy mang tài vật đến cho Tăng chia”, các đệ tử tìm tài vật không thấy nên Tăng đứng dậy bỏ đi. Có một Tỳ-kheo sống ở trong gò mả, đến chỗ người chết để quán vô thường, thấy thây của tỳ-kheo kia bị dã can cắn phanh bụng ra khiến các vật bất tịnh này lộ bày ra, Tỳ-kheo mang tài vật này đến cho Tăng rồi nghi hối, Phật nói: “Không phạm”. Có một Tỳ-kheo bịnh có nhiều ruộng đất, nói với đệ tử: “Hãy mời các Tỳ-kheo đến, tôi muốn đem ruộng đất này cúng cho Tăng hoặc cho người giữ tháp”, Tỳ-kheo khán bịnh suy nghó: “Nếu Tỳ-kheo bịnh đem ruộng đất cúng cho Tăng hay cho người giữ tháp thì ta sẽ không được gì”, nghó rồi liền không mời các Tỳ-kheo đến, sau khi Tỳ-kheo bịnh chết, Tỳ-kheo khán bịnh nghi hối, Phật nói: “Không phạm nhưng người khán bịnh không nên làm trái ý người bịnh, nên làm theo ý muốn của người sắp qua đời”. Ở thành Xá-vệ, có một thương buôn trang bị thuyền bè để vào biển cả, khi vào trong biển có rồng đến nắm lấy thuyền, mọi người trên thuyền đều cầu khẩn thiên thần mong được thoát nạn. Có một Ưu-bà- tắc khuyên họ: “Chúng ta nên niệm danh hiệu của thánh giả Đại Mục- kiền-liên ắt sẽ được cứu thoát”, họ nghe rồi liền nhất tâm niệm danh hiệu thánh giả Mục-liên. Lúc đó trưởng lão Mục-liên dùng thiên nhãn thấy liền nhập định, dùng thần thông lực hóa thành chim chúa Kim súy đậu trên đầu thuyền, rồng thấy chim chúa Kim súy hoảng sợ buông thuyền rồi lặn mất. Các thương nhơn được an ổn trở về, hết lờùi ca ngợi trưởng lão Đại Mục-kiền-liên: “Chúng ta được thoát chết từ biển trở về đều nhờ ân lực của trưởng lão Mục-liên”. Các Tỳ-kheo biết chuyện liền đến nói với trưởng lão Mục-liên: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi vì sao, đáp: “Thuyền đã thuộc về rồng, thầy đã lấy lại từ nó”, Mục-liên nghe rồi sanh nghi hối, Phật hỏi: “Thầy cứu họ như thế nào?”, đáp là dùng thần thông lực, Phật nói: “Nếu dùng thần thông lực cứu thì không phạm”. Ở nước Xá-vệ, các thương nhơn đi vào tụ lạc thành ấp buôn bán, khi đi qua đường hiểm gặp giặc cướp bao vây đánh cướp, mọi người đều cầu khẩn thiên thần mong được thoát nạn. Có Ưu-bà-tắc khuyên họ: “Chúng ta niệm danh hiệu của thánh giả Đại Mục-kiền-liên ắt sẽ được cứu thoát”, nghó rồi liền nhất tâm niệm danh hiệu thánh giả Mục-liên. Lúc đó trưởng lão Mục-liên dùng thiên nhãn thấy liền nhập định, dùng thần thông lực hóa hiện bốn binh; giặc cướp thấy bốn binh hoảng sợ bỏ chạy nên các thương nhơn đến nước Xá-vệ được an toàn… như trong Tỳ-ni. Bạt-nan-đà tự tứ xong liền đi đến các tinh xá để dò xét xem chỗ nào được cúng dường nhiều y vật. Từ xa các Tỳ-kheo thấy Bạt-nan-đà đi đến liền đứng dậy nghinh đón, mời ngồi rồi thăm hỏi có an lạc hay không. Im lặng một lát, Bạt-nan-đà liền hỏi các Tỳ-kheo: “Trú xứ này an cư có được cúng dường y vật không?”, đáp là được, lại hỏi chia chưa, đáp là chưa chia, liền bảo mang đến để chia, các Tỳ-kheo liền mang đến cho Bạt-nan-đà chia. Sau khi chia xong, vị thượng tòa nhận phần của mình rồi đi, Bạt-nan-đà bảo chờ một chút, thượng tòa hỏi có việc gì, đáp là cứ đợi. Do Bạt-nan-đà có biện tài thuyết pháp với đủ ngôn từ khiến cho vị thượng tòa này nghe pháp xong rất hoan hỉ, vì ái pháp nên nói với Bạt-nan-đà: “Phần y này của tôi xin cúng cho thầy”, cứ như thế các Tỳ-kheo trong trú xứ này đều đem phần y của mình cúng dường hết cho Bạt-nan-đà, Bạt-nan-đà được rất nhiều y vật gánh về tinh xá Kỳ- hoàn… như trong Tỳ-ni cho đến câu Phật nói: “Nếu Tỳ-kheo an cư nơi này mà đến chỗ khác lấy y thì phạm Đột-kiết-la”. Trưởng lão A-nan có một đệ tử cọng hành, đàn việt của người đệ tử này bịnh lại có hai đứa con, trước khi chết có dặn dò lại cho người đệ tử của trưởng lão A-nan. Người đệ tử này nghe theo lời dặn dò, quán sát thấy một trong hai đứa trẻ là người tốt hiền lành liền giao chìa khóa nhà cho nó. Đứa trẻ không được chia phần liền đến chỗ trưởng lão A-nan kể lại việc trên, trưởng lão A-nan nghe rồi liền quở trách đệ tử, người đệ tử này đến nói với năm trăm Thích tử: “Xin thỉnh cầu Hòa thượng giúp tôi cho tôi sám hối”, liền hỏi giúp như thế nào, người đệ tử nói: “Các vị dẫn hai đứa trẻ này đến chỗ Hòa thượng đảnh lễ rồi ngồi một bên, Hòa thượng ắt sẽ thuyết pháp cho các vị, các vị nghe pháp xong khi ra về nên để lại hai đứa trẻ, Hòa thượng ắt sẽ bảo các vị dẫn chúng đi, các vị nói: Hãy cho Tỳ-kheo trực tín sám hối thì sẽ dẫn hai đứa trẻ đi”, các Thích tử nhận lời làm y theo lời Trực tín nói, lúc đó trưởng lão A-nan suy nghó rồi bằng lòng cho người đệ tử sám tội Đột-kiết-la. Có một Tỳ-kheo nhiều phước đức, một thương buôn nói với Tỳ- kheo: “Thầy cần gì cứ đến lấy”, đệ tử của vị Tỳ-kheo này suy nghó: “Người này nhiều lần thỉnh cúng, ta nên đến thử xem người này nói thật hay không thật”, nghó rồi liền đến nói với thương buôn: “Hòa thượng cần tô”, thương buôn đưa tô rồi nói: “Nếu cần canh thì đến lấy”, ít lâu sau, người đệ tử lại đến lấy canh… Thời gian sau, thương nhơn gặp Tỳ- kheo hỏi: “Trước kia thầy có sai người đến lấy tô…, sao nay không đến lấy nữa?”, Tỳ-kheo này liền hỏi đệ tử có đến lấy tô không, đáp là có, Tỳ-kheo nói đệ tử phạm Ba-la-di, người đệ tử nói: “Thương buôn thỉnh cúng cho Hòa thượng, con vì thử người đó nên đến lấy về cho Hòa thượng dùng”… Phật nói: “Nên bạch Hòa thượng rồi mới đến lấy”. Về việc giết người: Phật tại rừng Sa-la bên bờ sông Bà cầu nước Bạt-kỳ, các Tỳ-kheo ở bên sông Bà cầu suy nghó: “Ta đã vì nhiều Tỳ-kheo khen ngợi cái chết khiến họ phát tâm muốn chết, không biết lúc đó là trước hay không phải trước”, liền bạch Phật, Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời đã làm đều không phạm”. Có Tỳ-kheo, người mà tưởng là phi nhân nên giết liền sanh nghi hối… Phật nói: “Nếu người tưởng là người mà giết thì phạm Ba-la-di; người tưởng là phi nhân mà giết cũng phạm Ba- la-di; người sanh nghi mà giết cũng phạm Ba-la-di. Nếu phi nhân tưởng là phi nhân mà giết thì phạm Thâu-lan-giá; phi nhân tưởng là người mà giết cũng phạm Thâu-lan-giá; phi nhân sanh nghi mà giết cũng phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo mắc bịnh lâu ngày, một Tỳ-kheo quen biết đến thăm, người bịnh nói: Hãy mang dao đến cho tôi”, hỏi là muốn làm gì, đáp là cứ mang đến, Tỳ-kheo liền mang dao đến, Tỳ-kheo bịnh liền cầm dao vào phòng cắt cổ tự sát mà chết. Tỳ-kheo kia đưa dao cho rồi thấy Tỳ-kheo kia hai, ba ngày không ra, sanh nghi vào phòng xem thì thấy Tỳ-kheo đã chết liền suy nghó: “Người bịnh này chết là do mình, nếu mình không đưa dao thì người bịnh không chết”… Phật nói: “Không nên không suy xét kỹ mà đưa dao cho người bịnh”. Có Tỳ-kheo đến nhà đàn việt, vợ của đàn việt yêu cầu Tỳ-kheo cùng hành dâm, Tỳ-kheo nói: “Chồng cô không ghen hay sao?”, đáp: “Tôi có thể khiến ông ấy không ghen”, sau đó cho chồng uống thuốc độc mà chết. Tỳ-kheo này lại đến nhà cư só, vợ cư só yêu cầu cùng hành dâm, Tỳ-kheo nói: “Chớ nói lời này, tôi là người đã đoạn dục”, vợ cư só nói: “Sao trước đây thầy không nói là người đã đoạn dục, tôi vì thầy mà giết chết chồng”, Tỳ-kheo nói: “Tôi không bảo cô giết chết chồng cô”, nói rồi sanh nghi hối, Phật nói không phạm. Nếu Tỳ-kheo có tâm sát đánh người, người này chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, người này không chết thì phạm Thâu-lan-giá; nếu đánh gãy xương hay cụp lưng thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có Tỳ-kheo phương tiện muốn giết người nữ đang mang thai, nếu người mẹ chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, thai nhi chết thì phạm Thâu-lan-giá, cả hai mẹ con đều chết thì phạm Ba-la-di, cả hai không chết thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo phương tiện làm cho người mẹ hư thai, thai nhi chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, người mẹ chết thì phạm Thâu-lan-giá, cả hai mẹ con đều chết thì phạm Ba-la-di, cả hai không chết thì phạm Thâu-lan-giá. Người đã chết, chú thuật làm cho sống lại để giết thì phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo làm nước Tô-tỳ-la cho Tăng uống, nhiều Tỳ-kheo uống xong liền chết, Tỳ-kheo nghi hối… Phật nói không phạm. Lại có Hai Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo bịnh nói với Tỳ-kheo bạn: “Hãy cho tôi uống nước Tô-tỳ-la, tôi sẽ được lành bịnh”… như trong Tỳ-ni. Có một Bà-la-môn mắc bịnh ung thư, đến nói với Tỳ-kheo: “Nếu tôi uống nước Tô-tỳ-la thì sẽ hết bịnh”, Tỳ-kheo nói: “Vì sao lại đòi uống nước này?”, Bà-la-môn nói: “Tôi đã từng mắc bịnh này, trước đây khi bịnh phát, tôi uống nước này liền khỏi bịnh”, Tỳ-kheo liền đưa cho uống, Bà-la-môn uống xong liền chết, Tỳ-kheo nghi hối, Phật nói không phạm. Có một Tỳ-kheo đến trong gò mã quán tử thi, thấy có người bị xuyên qua ngọn cây đau đớn vô cùng, người này nói với Tỳ-kheo: “Hãy cho tôi uống nước Tô-tỳ-la, tôi sẽ bớt đau đớn”, Tỳ-kheo liền cho uống, người này uống xong liền chết, Tỳ-kheo nghi hối, Phật nói không phạm. Lại có Tỳ-kheo-ni cho năm trăm giặc cướp uống nước Tô-tỳ-la như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Có Tỳ-kheo làm Tăng phường, khi chuyền đưa gạch làm rơi trúng đầu một Tỳ-kheo khác khiến vị này chết, Tỳ-kheo này nghi hối, Phật nói: “Không phạm, phải khéo dụng ý khi chuyền đưa gạch”. Trường hợp làm nhà tắm, làm thềm nhà, tu sữa Tăng phường khiên đất… như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Phật tại nước Xá-vệ, có một Tỳ-kheo ngồi thiền dưới chân núi, lại có một Tỳ-kheo đang đẩy đá trên núi, đá rơi xuống trúng đầu Tỳ-kheo ngồi thiền liền chết, Tỳ-kheo đẩy đá sanh nghi hối, Phật nói: “Không phạm, phải khéo dụng ý khi đẩy đá”. Có một Tỳ-kheo đi giữa bầy bò, có con bò đực hung dữ muốn húc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo bỏ chạy té đè trên mình một đứa bé làm cho đứa bé chết. Tỳ-kheo sanh nghi hối, Phật nói: “Không phạm, từ nay nên cẩn thận khi đi giữa bầy bò”. Có một Tỳ-kheo bịnh lâu ngày gầy ốm lưng còng, không muốn sống nữa nên tự gieo mình xuống hố để tự sát. Trong hố này có một con dã can đang ăn thịt người chết, Tỳ-kheo rơi trên mình của con dã can này và đè nó chết, Tỳ-kheo lưng còng bỗng được thẳng… Phật nói: “Không phạm, từ nay không được vì chút nhân duyên mà tự sát”. Có một Tỳ-kheo ngồi trên giường, một Tỳ-kheo khác gọi đứng dậy, liền đáp: “Chớ gọi tôi đứng dậy, nếu tôi đúng dậy sẽ chết”, một Tỳ-kheo khác lại gọi đứng dậy, khi đứng dậy Tỳ-kheo này liền chết… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có Tỳ-kheo muốn đoạn mạng sống giúp cho người điên cuồng nên đánh, người này chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, không chết thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có một Tỳ-kheo bịnh lâu ngày, Tỳ-kheo khán bịnh suy nghó: “Ta nuôi bịnh đã lâu, người bịnh này không chết cũng không lành, nay ta không nuôi bịnh nữa, bỏ mặc cho chết”, nghó rồi liền không nuôi bịnh nữa nên người bịnh qua đời. Tỳ-kheo nuôi bịnh sanh nghi hối, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo bịnh có nhiều y bát và tài vật, Tỳ-kheo khán bịnh suy nghó: “Ta nuôi bịnh đã lâu, nếu chết tài vật cũng nhập vào Tăng, nay ta không nuôi bịnh nữa, để mặc cho cho chết”, nghó rồi liền không nuôi bịnh nữa nên người bịnh qua đời. Tỳ-kheo này sanh nghi hối, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có Tỳ-kheo do ăn không tiêu nên sình bụng phải nằm co lại, Tỳ- kheo khác bảo nằm duỗi ra, Tỳ-kheo này nói: “Đừng bảo tôi duỗi ra, duỗi ra tôi sẽ chết”, lại bắt nằm duỗi ra, khi nằm duỗi ra Tỳ-kheo này liền chết… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di mà phạm Thâu-lan-giá”. Trường hợp mụt nhọt chưa muồi lại phá vỡ khiến cho người chết thì phạm Thâu-lan-giá, nếu mụt nhọt đã muồi thì không phạm. Lại có Tỳ-kheo bịnh cần ăn thức ăn tùy theo bịnh, Tỳ-kheo khán bịnh lại cho không ăn thức ăn tùy theo bịnh nên Tỳ-kheo này chết thì phạm Thâu- lan-giá, nếu cho ăn thức ăn tùy theo bịnh mà Tỳ-kheo bịnh chết thì không phạm. Trường hợp cho uống thuốc cũng như vậy. Lại có Tỳ-kheo bịnh yêu cầu Tỳ-kheo khán bịnh đưa ra ngoài phòng, cho tắm rửa rồi trở vào phòng lại, Tỳ-kheo khán làm theo lời người bịnh, làm xong thì Tỳ- kheo bịnh chết… đều không phạm. Lại có Tỳ-kheo ngủ gật trên giường, Tỳ-kheo khác thấy đến lay gọi thì vị này chết, Phật nói không phạm. Trường hợp bị gió đao khởi, dùng thiền trấn đánh, dùng nước tạt… như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Có một cư só làm thức ăn xong, cúng cho Tăng trước rồi mới ăn. Hôm đó có một Tỳ-kheo A-lan-nhã đến nhà, cư só nói: “Ta nay cúng cho Tỳ-kheo A-lan-nhã này, khỏi phải đem cúng cho Tăng”, nghó rồi liền đem cúng cho Tỳ-kheo A-lan-nhã. Lúc đó Tỳ-kheo tăng không thấy cư só đem thức ăn tới cúng như thường lệ liền nói với nhau: “Vì sao cư só không cúng thức ăn như thường lệ, không biết có Tỳ-kheo nào ra vào nhà đó?”, một Tỳ-kheo nói: “Có Tỳ-kheo A-lan-nhã tới nhà đó”, các Tỳ-kheo liền cho gọi Tỳ-kheo A-lan-nhã đến hỏi: “Cư só tên thường cúng thức ăn cho Tăng trước rồi sau mới ăn, lần này không cúng có phải thầy đã ngăn hay không?”, đáp là không có, các Tỳ-kheo muốn Tỳ-kheo này nói ra sự thật nên ném Tỳ-kheo này xuống hố, không ngờ làm cho Tỳ-kheo này chết… Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Trường hợp cúng y như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Có Tỳ-kheo khất thực đứng bên ngạch cửa, cạnh đó có một cây gỗ dựng vào vách, y của tỳ-kheo chạm vào cây gỗ, cây gỗ rớt xuống trúng một đứa bé làm cho nó chết… Phật nói: “Không phạm, khi khất thực nên cẩn thận xem ngó trước sau”. Có Bà-la-môn sáng sớm ngồi giữa sân để cúng tế, thấy Tỳ-kheo vào khất thực liền nổi giận, thắp đèn xong liền bỏ đi không ngờ vấp ngã xuống đất mà chết … Phật nói không phạm. Có một Tỳ-kheo bảo Tỳ-kheo khác đi đến chỗ hiểm nạn, khi đến đó liền bị chết… Phật nói: “Phạm Ba-la-di, nếu không chết thì phạm Thâu-lan-giá”. Phật tại Tỳ-da-ly, các Tỳ-kheo tọa thiền trong rừng, lúc đó có một Tỳ-kheo giết con khỉ, các Tỳ-kheo nói là đã phạm Ba-la-di vì khỉ là loài giống người… Phật nói là phạm Ba-dật-đề. Tại nước Xá-vệ có một cư só, khi con khôn lớn liền xuất gia học đạo, vì chút nhân duyên nên vào tụ lạc; lúc đó có một người nữ bế con vào nhà, thấy Tỳ-kheo theo vào liền cho là Tỳ-kheo muốn trêu chọc nên lấy cây đánh Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tránh cây nên ngã lên người đứa bé khiến đứa bé chết… Phật nói: “Không phạm, khi đi nên nhất tâm”. Có một thầy thuốc xuất gia, Tỳ-kheo bịnh đến yêu cầu Tỳ-kheo thầy thuốc mổ trán, Tỳ-kheo thầy thuốc cầm dao đến định mổ, không ngờ làm cho Tỳ-kheo bịnh kinh sợ mà chết… Phật nói: “Không phạm, Tỳ-kheo không nên mổ trên trán”. Lại có một Tỳ-kheo mắc bịnh lâu ngày suy nghó: “Ta bịnh như vậy sống làm chi, ta nên tự sát”, nghó rồi liền bảo Tỳ-kheo khán bịnh đưa sợi dây đến, sau đó thắt cổ mà chết… Phật nói: “Không nên đưa dây cho người bịnh”. Có Tỳ-kheo vì chút nhân duyên nên vào tụ lạc, rủ một Tỳ-kheo bịnh mới bớt làm bạn cùng đi, Tỳ-kheo bịnh nói: “tôi không đi được”, Tỳ-kheo kia nói: “Nếu thầy không cùng đi, tôi sợ giữa đường bị giặc cướp”, Tỳ-kheo bịnh gắng gượng cùng đi, khi đến tụ lạc liền chết, Tỳ- kheo kia suy nghó: “Tỳ-kheo bịnh chết là do ta, nếu ta không rủ đi cùng thì vị ấy không chết”… Phật nói: “Không phạm nhưng không nên rủ Tỳ- kheo bịnh làm bạn đi cùng”. Về việc vọng ngữ: Phật ở trong Trúc lâm bên sông Bà-cầu nước Bạt-kỳ, Các Tỳ- kheo bên sông Bà-cầu suy nghó: “Chúng ta đã nhiều lần nói dối là được pháp hơn người, không biết lần nào là trước và lần nào không phải trước”… Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời nói đều không phạm”. Có Tỳ-kheo đối trước người tưởng là phi nhân mà nói được pháp hơn người… Phật nói: “Người tưởng là người mà nói được pháp hơn người thì phạm Ba-la-di; người tưởng là phi nhân mà nói cũng phạm Ba- la-di; người mà sanh tâm nghi cũng phạm Ba-la-di. Phi nhân tưởng là phi nhân mà nói được pháp hơn người thì phạm Thâu-lan-giá; phi nhân tưởng là người mà nói cũng phạm Thâu-lan-giá; phi nhân mà sanh tâm nghi cũng phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo nói với cư só mình được pháp hơn người, cư só không nhớ nên hỏi lại: “Thầy nói được đạo gì”, đáp là muốn thức ăn… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có cư só nói với Tỳ-kheo: “Nếu thầy là A-la-hán thì hãy thọ tứ sự cúng dường này”, nếu im lặng thọ thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có người hỏi Tỳ-kheo: “Nếu thầy là Bà-la- môn đã diệt trừ được pháp ác thì hãy thọ tôi cúng dường?”, nếu im lặng thọ nhận thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có người hỏi Tỳ-kheo: “Nếu thầy là A-la-hán thì đến thọ y phục, cho đến các thức ăn thức uống, thuốc thang”, nếu Tỳ-kheo im lặng thọ nhận thì phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ-kheo sáng sớm đắp y mang bát đến nhà cư só, cư só nói: “Nếu đại đức là A-la-hán thì vào nhà”, nếu Tỳ-kheo im lặng vào nhà thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có cư só nói: “Nếu thầy là A-la-hán thì hãy ngồi thọ thức ăn thức uống, thọ Khư-đà-ni, nếu không phải thì đi ra”, nếu Tỳ-kheo im lặng ngồi thọ thức ăn uống thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có một Tỳ-kheo sáng sớm đắp y mang bát đến nhà cư só, cư só nói: “Nếu thầy là A-la-hán thì vào”, Tỳ-kheo nói: “Tôi không phải là A-la-hán, nếu cho thì tôi vào”, nếu cư só nói: “Nếu thầy được các căn tịch tónh, khéo điều phục thì vào”, nếu Tỳ-kheo im lặng vào thì phạm Thâu-lan- giá; nếu nói: “Tôi đang tu tập để điều phục” thì không phạm. <篇> <卷>QUYỂN 5 23.Phần Tạp Sự (Tiếp Theo): Về mười ba việc Tăng tàn: Phật ở trong Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, lúc đó Ưu-đà-di suy nghó: “Ta đã nhiều lần cố ý làm xuất tinh, không biết lúc nào là trước và lúc nào không phải là trước”… Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời cố ý làm xuất tinh đều không phạm”. Tỳ-kheo xuất tinh trong cọng cây hay ở trong hư không làm phương tiện để xuất tinh mà tinh không xuất thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có Tỳ-kheo khi đi thì tinh xuất… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có người nữ đến đảnh lễ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo liền xuất tinh … Phật nói là không phạm; như trường hợp Tỳ-xá-khư lộc tử mẫu vì kính tín Tăng nên khi đảnh lễ hai tay chạm chân, khi đảnh lễ hai tay chạm vào chân của trưởng lão Nan-đà, Nan-đà liền xuất tinh rơi trên đầu bà. Ưu- bà-di này đưa tay sờ trên đầu nói kệ: “Nay con được lợi lớn, Đồng phạm hạnh như vậy, Phiền não rất hừng thạnh, Mà ở trong Phật pháp, Nhẫn tu đạo Niết bàn”. Nan-đà nghi hối… Phật nói: “Không phạm, từ nay nên mặc quần lót”. Lại có Tỳ-kheo do gãi nam căn nên tinh xuất hoặc khi tắm do xoa chà thân nên tinh xuất… Phật nói là không phạm. Lại có Tỳ-kheo từ chỗ này đến chỗ khác đều xuất bất tịnh, Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Lại có Tỳ-kheo ở trong nạn nước, lửa, trong hầm hố, nạn thú dữ như cọp beo, nạn phi nhân và nạn người nữ mà xuất tinh… Phật nói là không phạm. Có Tỳ-kheo khi bị người nữ nắm tay, nắm chân hoặc đầu gối, bắp vế liền xuất tinh… Phật nói là không phạm. Có Tỳ-kheo ở trước người nữ mới chết hay người nữ chết đã sình trướng cho đến thối rửa, bị chim thú ăn dư, khi khô teo hay chỉ còn là bộ xương trắng mà xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Lại có Tỳ-kheo khi bị phong, khi rửa chân mà tinh xuất… Phật nói là không phạm. Lại có Tỳ-kheo tắm trong dòng nước chảy mạnh, do nam căn ngược với dòng nước nên tinh xuất… Phật nói là phạm Thâu- lan-giá. Có Tỳ-kheo do chạm trên đầu hay trong lỗ tai, cho đến ngực, dưới nách, đùi, bắp đùi… mà tinh xuất thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; tinh không xuất thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có Tỳ-kheo do ngồi nằm trên giường dây, giường cây… mà tinh xuất thì phạm Thâu-lan-giá. Lúc đó Ưu-đà-di suy nghó: “Ta đã nhiều lần xúc chạm thân người nữ, không biết lúc nào là trước, lúc nào không phải là trước”… Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời xúc chạm thân người nữ đều không phạm”. Có Tỳ-kheo, người nữ tưởng là phi nhơn nữ mà xúc chạm, sanh nghi hối… Có một Tỳ-kheo đối trước người nữ khởi tưởng không phải nữ mà xúc chạm, sau đó sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu là người nữ khởi tưởng là người nữ mà xúc chạm thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu là người nữ khởi tưởng là nữ phi nhơn cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu là người nữ mà sanh nghi cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa”. Trường hợp nữ phi nhơn cũng có ba câu như vậy đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo dùng chân chạm vào thân người nữ thì phạm Đột-kiết-la, nếu người nữ dùng chân chạm vào thân Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo không phạm; Tỳ-kheo chạm vai người nữ thì phạm Đột-kiết-la, người nữ chạm vai Tỳ-kheo thì không phạm. Trường hợp Tỳ-kheo ôm mẹ, người nữ nắm tay hoặc cánh tay Tỳ-kheo , Tỳ-kheo cứu người nữ ra khỏi nạn nước lửa… mà xúc chạm, Phật nói đều không phạm. Nếu Tỳ-kheo xúc chạm người nữ chết đã sình trướng, hư hoại, thối rửa… cho đến là bộ xương trắng thì phạm Thâu-lan-giá. Người nữ ngã xuống đất, Tỳ-kheo đỡ lên thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo ngã xuống đất, người nữ đỡ lên thì không phạm. Có Tỳ-kheo trong đêm tôi ra ngoài tiểu tiện, có Tỳ-kheo-ni đi ngược hướng đụng phải ngã lên người Tỳ-kheo… Phật nói là không phạm. Có Tỳ-kheo thuyết pháp cho người nữ, người nữ chạm vào đầu gối, đùi, hông, cánh tay, vai của tỳ-kheo thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Lúc đó Ưu-đà-di suy nghó: “Ta đã nhiều lần nói lời thô với người nữ, không biết lúc nào là trước, lúc nào không phải là trước”… Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời nói lời thô với người nữ đều không phạm”. Có Tỳ-kheo đối trước người nữ tưởng là phi nhân nữ mà nói lời thô nên nghi hối… Có một Tỳ-kheo đối trước người nữ khởi tưởng không phải nữ mà xúc chạm, sau đó sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu là người nữ khởi tưởng là người nữ mà nói lời thô thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu là người nữ khởi tưởng là nữ phi nhơn cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu là người nữ mà sanh nghi cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Sai hóa nhân nói lời thô thì phạm Thâu-lan-giá, tự nói thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa”. Có Tỳ-kheo nói với người nữ: “Cô có gì cho tôi”, người nữ nói: “Tôi đâu có gì cho thầy”, Tỳ-kheo nói: “Cô nên tự biết”, người nữ hiểu ý nói xong rồi, Tỳ-kheo nghi hối… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Lại có Tỳ-kheo vào tụ lạc khất thực thấy người nữ ngồi gát chân lên và yêu cấu Tỳ-kheo cùng hành dâm, Tỳ-kheo nói: “Nữ căn của cô tốt như vậy, có thể làm việc như vậy như vậy”… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Lại có Tỳ-kheo tánh ưa nói lời thô nên đã nói lời thô với người nữ… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo-ni sáng sớm tắm rửa xong, đắp y mới vào thành khất thực, cũng có một Tỳ-kheo vào thành khất thực nói với Tỳ-kheo-ni: “Sao cô lại đi khất thực với người nam vậy”… Phật nói là phạm Thâu- lan-giá. Có Tỳ-kheo đi cùng với người nữ, biết người nữ này làm hạnh xấu nên Tỳ-kheo nói với người nữ: “Đừng làm hạnh xấu nữa”, người nữ nói: “Vậy tôi nên làm việc gì”, Tỳ-kheo nói: “Đừng làm những việc như vậy như vậy”… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo sáng sớm đắp y đến nhà nữ cư só nói rằng: “Hãy cho tôi”, liền hỏi cho vật gì, đáp là cho vật này, người nữ hiểu ý nói là xong rồi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo sáng sớm đắp y đến nhà nữ cư só nói rằng: “Hãy cho tôi vật mà tôi thấy”, liền hỏi cho vật gì, đáp là cho vật mà tôi thấy, người nữ hiểu ý nói là xong rồi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo sáng sớm đắp y đến nhà nữ cư só nói rằng: “Hãy cho tôi sự thích thú”, liền hỏi thích cái gì, đáp là thích vật này, người nữ hiểu ý nói là xong rồi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo sáng sớm đắp y đến nhà nữ cư só nói rằng: “Hãy cho tôi vật mà tôi yêu”, liền hỏi vật gì, đáp là vật này, người nữ hiểu ý nói là xong rồi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo sáng sớm đắp y đến nhà nữ cư só nói rằng: “Hãy cho tôi nuớc uống”, người nữ nói: “Hãy đợi tôi đi lấy”, Tỳ-kheo nói: “Cô chính là nước đó”, người nữ hiểu ý nói là xong rồi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo sáng sớm đắp y đến nhà nữ cư só nói rằng: “Hãy cho tôi Khư-đà-ni ”, người nữ nói: “Hãy đợi tôi lấy cho thầy”, Tỳ- kheo nói: “Cô chính là Khư-đà-ni đó”, người nữ hiểu ý nói là xong rồi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo sáng sớm đắp y đến nhà nữ cư só nói rằng: “Hãy cho tôi cháo”, người nữ nói: “Hãy đợi tôi lấy cho thầy”, Tỳ-kheo nói: “Cô chính là cháo đó”, người nữ hiểu ý nói là xong rồi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo sáng sớm đắp y đến nhà nữ cư só nói rằng: “Hãy cho tôi Bồ-xà-ni ”, người nữ nói: “Hãy đợi tôi lấy cho thầy”, Tỳ-kheo nói: “Cô chính là Bồ-xà-ni đó”, người nữ hiểu ý nói là xong rồi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo nói lời thô với người nữ xong, người nữ không nhớ nên hỏi lại: “Thầy vừa nói gì?”, Tỳ-kheo im lặng… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Phật tại nước Xá-vệ trong Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, Tỳ-kheo Lộc tử suy nghó: “Ta đã nhiều lần làm mai mối, không biết lúc nào là trước, lúc nào không phải là trước”, liền bạch Phật, Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời làm mai mối đều không phạm”. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só, cư só nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nhà người nữ nói lời như vầy giùm tôi được không?, đáp: “Tôi có thể đến nói nhưng không thể trở lại trả lời cho ông”, cư só hỏi: “Làm sao biết được là thanh hay không thành?”, đáp: “Nếu thành thì tôi sẽ bảo một Tỳ-kheo đứng ở chỗ ”. Tỳ-kheo nói rồi ra về, sau đó gặp một Tỳ-kheo nói rằng: “Thầy đứng ở đây một lát”, hỏi: “Đứng đây làm gì?”, đáp: “Cứ đứng một lát, đừng hỏi”, Tỳ-kheo này đứng đó, Tỳ-kheo kia liền bỏ đi, cư só đi ra thấy Tỳ-kheo này đứng ở chỗ đó liền nói: “Lành thay, việc đã thành”, Tỳ-kheo này liền hỏi: “Việc gì đã thành”, đáp là việc hẹn hò, Tỳ-kheo này nghi hối… Phật nói là không phạm. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só, cư só nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nhà người nữ nói những lời này giùm tôi được không?”, đáp là được. Khi đến nói thì người nữ kia nói là không tin, Tỳ-kheo này nghi hối… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só thấy hai vợ chồng tranh cãi, người chồng đánh vợ và đuổi đi, Tỳ-kheo làm cho hòa hợp lại rồi sanh nghi hối… Phật nói: “Nếu ý của cư só đã đoạn tuyệt và đuổi đi, nói là không phải vợ tôi nữa mà Tỳ-kheo mai mối làm cho họ hòa hợp lại thì phạm Thâu-lan-giá”. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só, cư só nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nhà dâm nữ nói lời này giùm tôi được không?, đáp là được, liền đến nói, dâm nữ chấp thuận, Tỳ-kheo trở lại báo nhưng cư só ngủ chưa thức dậy… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só, cư só nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể nói với dâm nữ đến chỗ tôi được không?, đáp là được, liền đến nói, dâm nữ nhận lời nhưng đi đến giữa đường thì gặp người khác dẫn đi… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só, cư só nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể nói với người nữ đến chỗ tôi được không?, đáp là được, liền đến chỗ người nữ nhưng người nữ ngủ chưa thức dậy… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só, cư só nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể nói với người nữ đến chỗ tôi được không?, đáp là được, liền đến nói, người nữ nhận lời trang điểm định đi thì người chồng trở về nên việc không thành… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có hai cư só là bạn thân cùng bàn với nhau: “Khi nào anh lấy vợ sanh được con trai, vợ tôi sanh con gái thì tôi sẽ gả con gái cho con trai của anh; ngược lại nếu vợ anh sanh con gái, vợ tôi sanh trai thì anh gả con gái cho con trai của tôi”. Thời gian sau, một người sanh con trai, một người sanh con gái; người có con trai mắc bịnh chết nên người có con gái không chịu gả con. Người con trai liền nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với người con gái đó giùm tôi rằng: ‘lúc chúng ta chưa sanh ra, hai bên cha mẹ có hôn ước gả nàng cho ta. Sau khi cha ta mất, gia sản cũng không còn, xin nàng đừng bỏ ta”, Tỳ-kheo nhận lời đến nói với người con gái, người con gái này nghe rồi liền bỏ nhà đến với người con trai… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có cư só hỏi người nữ rảnh rỗi không, người nữ nói không rảnh, cư só nói lúc nào rảnh thì báo cho biết, người nữ nói: “Có một Tỳ-kheo thường ra vào nhà tôi, khi nào tôi rảnh tôi sẽ nhờ Tỳ-kheo đánh vào lưng ông, lúc đó ông biết là tôi rảnh”. Thời gian sau, Tỳ-kheo đó tới nhà cô gái này, cô gái nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến chỗ cư só rồi đánh vào lưng ông ta được không”, hỏi vì sao lại đánh, đáp: “Thầy cứ đánh, đừng hỏi”, Tỳ-kheo đến chỗ cư só và đánh vào lưng, cư só liền nói: “Việc đã thành”, hỏi là thành việc gì, đáp: “Là việc hẹn hò”… Phật nói là phạm Đột-kiết-la. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só nữ, người nữ này nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể gọi giúp cư só đến đây đươc không?”, đáp: “Nếu cô thỉnh Tăng thọ thực thì tôi sẽ gọi giúp cho cô”, người nữ liền cúng Tăng và Tỳ-kheo đến gọi cư só kia, cư só kia liền đến chỗ người nữ này… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Lại có người vợ mới cưới của một cư só rất xinh đẹp, có một người nam muốn cùng cô tư thông nên nhiều lần sai sứ đến gặp nhưng cô không chấp thuận. Thời gian sau chồng cô chết, cô muốn quan hệ với người nam đó, mẹ cô gái hỏi: “Có phương tiện gì khiến cho người nam đó tới lui nhà mình không?”, cô gái nói: “Cư só đó thường đưa tin đến cho con nói là muốn cùng con tư thông nhưng con không đồng ý”, người mẹ nói: “Con nên chìu ý ông ta để mọi người được vui”, cô gái nói: “Nên nhờ ai nói”, người mẹ nói: “Nên nhờ Tỳ- kheo thường lui tới nhà mình nói giùm”. Sáng hôm đó Tỳ-kheo đến nhà, cô gái nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với cư só việc như vậy như vậy không?”, đáp là được, liền đến nói, cư só đến nhà cô gái… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Có người mẹ của một cư só tạo dựng tinh xá và cúng dường tứ sự cho Tăng, khi mẹ của cư só qua đời thì không có ai cung cấp cho Tăng nữa. Tỳ-kheo đến gặp cư só này nói: “Vì sao ông không cung cấp thức ăn uống và những vật cần dùng cho Tăng như mẹ của ông trước kia nữa?”, cư só nói: “Có vợ của một cư só nhiều phước đức có thể cung cấp cho Tăng, thầy hãy đến nói với vợ cư só đó đến đây cùng xử phân công việc thì các thầy sẽ được cung cấp đầy đủ như trước kia”, Tỳ-kheo liền đến chỗ vợ cư só đó nói, vợ cư só nói: “Nhà tôi nhiều việc không thể đến được”, Tỳ-kheo nói: “Cô hãy vì tinh xá chúng tôi mà đến đó”, vợ cư só nói: “Nếu vì tinh xá thì tôi đến”… Phật nói không phạm. Có Tỳ-kheo đến nhà cư só, cư só nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với người nữ đến chỗ tôi được không?, đáp là được, liền đến nói, không ngờ cư só và người nữ này đều bị bịnh không thể hòa hợp được… Phật nói là phạm Thâu-lan-giá. Lại có Tỳ-kheo đến nhà cư só nữ, người nữ nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với cư só đến chỗ tôi được không?”, đáp là được, liền đến nói, không ngờ cả hai người này đều bị bịnh không thể cùng hòa hợp được… Phật nói là phạm Thâu-lan- giá. Lại có Tỳ-kheo đến nhà cư só, cư só nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với cư só gả chị em hoặc con gái cho tôi được không?”, đáp là được, liền đến nói, không ngờ người con gái đó hoặc chết hoặc cuồng si hoặc đã gả sang xứ khác… Phật nói là phạm Đột-kiết-la. Kế giải thích về nên cho hay không nên cho thọ giới cụ túc, thọ đắc hay không thọ đắc giới cụ túc; giải thích về yết ma, việc yết ma, xứ yết ma, phi xứ yết ma, yết ma tẫn, xả yết ma tẫn, yết ma Khổ thiết, yết ma Xuất tội, việc không phải Xa-ma-tha, việc Xa-ma-tha, việc đã làm, học, việc xả giới, không phải xả giới, giới suy kém, giới không suy kém, tránh, nhiếp tránh, tránh sự, việc tranh cãi không diệt được, việc tranh cãi đã diệt được, thuyết, bất thuyết, thọ, yết ma cho người cuồng, yết ma cho người không phải cuồng, đọa tín thí, không hiện tiền yết ma, yết ma sám hối, đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, yết ma Khổ thiết, yết ma Khu xuất, yết ma chiết phục, yết ma Bất kiến tẫn, yết ma xả tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, yết ma Biệt trụ, yết ma Bổn nhật trị, yết ma Ma-na-đỏa, yết ma A-phù-ha-na. Biệt trụ có lợi ích gì; Bổn nhật trị, Ma-na-đỏa có lợi ích gì, vì sao làm A-phù-ha- na , tìm tội. Giới tụ, phạm tụ, bất phạm tụ, tội trọng, tội khinh, hữu tàn, vô tàn, biên tội, thô tội, tội tụ, xuất tội (cử tội), ức tội (nhớ nghó tội đã làm), đấu tránh, dứt đấu tranh, cầu xuất tội, ngăn thuyết giới, ngăn tự tứ. Nội túc thực, nội thục, tự thục, tróc thực, thọ thực, ác tróc, thọ, không thọ, không xả, thủy thực, xả (tám việc trên). Thọ, xả và không xả y Ca- hi-na; khinh vật, trọng vật, vật có thể chia, vật không thể chia, vật của người, vật là phi nhân, nhiếp vật, không phải nhiếp vật, không thọ từ người khác, y vật của người chết, thành y, y phấn tảo, quán tỷ trị, quán hạ bộ trị, dao trị, cạo lông, cạo tóc, tịnh thực, may y, ăn trái cây, ăn thức ăn của phi nhân. Ngũ bách tập Tỳ-ni, thất bách kết tập diệt. các nhân duyên về Ma-ha Ưu-ba-đề-xáù, Ca-lô Ưu-ba-đề-xá…; nhân, thời, tạp, trong vườn rừng tịnh, trong núi rừng tịnh, giảng đường tịnh, biên phương tịnh, phương tịnh, quốc độ tịnh, y tịnh, tạc tương tịnh. Tự tứ, gởi dụctự tứ, lấy dục tự tứ, thuyết dục tự tứ; gởi dục, lấy dục và thuyết dục bố tát; gợi dục thanh tịnh, lấy dục thanh tịnh và thuyết dục thanh tịnh. Tháp, vật của tháp, nhà nơi tháp; vô tận, công đức tận, cúng dường, trang nghiêm tháp, hoa hương chuỗi ngọc cúng dường tháp. Thức ăn, cháo, Khư-đà-ni, hàm tiêu, Bồ-xà-ni. Y, bát, Ni-sư-đàn, ống đồng, ống tre. Y chỉ, thọ y chỉ, cho y chỉ, xả y chỉ. Hòa thượng, đệ tử, pháp cúng dường; Hòa thượng, A-xà-lê, đệ tử cận trụ; Hòa thượng, A-xà-lê, đệ tử cọng hành và đệ tử cận trụ, Sa-di. Tri sự, ngọa cụ, thứ lớp lễ bái; nước Tô-tỳ- la, tiết, dược, tương. Mang giày da, khăn lau chân, túi đựng bát, tỏi, dao cạo, chìa khóa phòng, cửa, then cửa, quạt, dù, xe, phất trần, gương soi, ca múa, hương hoa, chuỗi ngọc. An thiền na, ngủ, ngồi, nằm, kinh hành, dây thiền, nút áo, dây lưng; mặc y lật ngược, đất, cây, vật trên đất, rừng cây. Hoại cung kính, hạ ý, các loại Bất cọng trụ, Thác lại tra, thật mích tội, học hối Ba-la-di, Tăng thượng tòa, núi rừng, phòng, ngọa cụ, gò mã, đồng nội. Bát, y, Ni-sư-đàn, kim, bình đựng nước, bình nước tắm, nắp bình, bình nước uống. Ăn, chánh thực, thời thực, thọ thực, khất thực, thỉnh thực. Tỳ-kheo A-lan-nhã, Thượng tòa A-lan-nhã, tụ lạc, Thượng tòa trong tụ lạc, Tỳ-kheo khách, Thượng tòa Tỳ-kheo khách. Thượng tòa đi, Thượng tòa rửa chân, Thượng tòa nhóm họp, thuyết pháp, phi thời, nhóm Tăng phi thời. A-nan cư, cầu an cư, Thượng tòa an cư, theo chúng, đến trong chúng. Trong an cư, Thượng tòa trong an cư; thuyết giới bố tát, người thuyết giới, Thượng tòa thuyết giới. Thượng trung hạ tòa vào nhà tắm. Vào nhà cư só, Thượng tòa vào nhà cư só… , đãy lượt nước, hạ phong, vào nhà xí, bên nhà xí, dép vào nhà xí, Thượng tòa vào nhà xí. Đại tiện, nơi đại tiện, tiểu tiện, nơi tiểu tiện, rửa tay. Tăm xỉa răng, đồ cạo lưỡi, đồ ráy tai, oai nghi, hoại oai nghi, ba tụ. Hỏi: Sao gọi là thọ giới cụ túc? Nghóa là thọ yết ma, cùng yết ma mà trụ. Có mười loại thọ đắc giới cụ túc: Vô sư đắc: Trường hợp của Như lai vô thượng chánh đẳng giác. Kiến đế đắc: Trường hợp năm Tỳ-kheo. Vấn đáp đắc: Trường hợp Tu đà di. Quy y đắc: Nói pháp tam quy ba lần. Tự thệ đắc: Trường hợp tôn giả Đại Ca-diếp. Biên địa năm luật sư , trong nước mười luật sư. Thiện lai đắc giới. Bát trọng đắc: Trường hợp Ma-ha-ba-xà-ba-đề. Khiển sứ đắc: Trường hợp Pháp dự. Trong hai bộ tăng thọ đắc giới. Sau khi Phật chế bạch tứ yết ma thọ đắc giới thì người thọ tam quy sẽ không đắc giới cụ túc nữa, trước kia Phật chế bạch tứ yết ma thì thọ pháp tam quy được đắc giới cụ túc. Trường hợp Thiện lai đắc giới thì dù trước hay sau khi Phật chế bạch tứ yết ma đều được đắc giới. Tỳ-kheo thiện lai là người được Như lai cho thọ đắc giới thì thân này là thân sau cùng, không còn làm thân Hữu học, vô thường nữa, nên gọi là khéo thọ đắc giới. Tỳ-kheo-ni thọ đắc giới cụ túc có ba: Thọ bát kỉnh pháp, khiển sứ và trong hai bộ tăng bạch tứ yết ma thọ đắc giới. Trường hợp khiển sứ như Đạt-ma đề bà hoặc người tương tợ như vậy, hoặc có nạn không đi được nên phải tác pháp yết ma cho người đi thay, người đi thay này được yết ma rồi trở về nói lại thì cũng được gọi là khéo thọ đắc giới cụ túc. Sau khi Phật chế trong hai bộ tăng thọ đắc giới cụ túc thì hai trường hợp thọ bát kỉnh pháp và khiển sứ sẽ thọ không đắc giới nữa. Hỏi: Sao gọi là thọ giới cụ túc? Đáp: Chí thành thọ yết ma, được xác chứng gọi là thọ giới cụ túc; trái với trên thì không gọi là thọ giới cụ túc. Hỏi: Trường hợp nào nên cho thọ giới cụ túc? Đáp: Đó là người nam hay nữ không có các nạn sự. Hỏi: Trường hợp nào không nên cho thọ giới cụ túc? Đáp: Đó là người không có Hòa thượng, không có y bát, người tự nói không phải Tỳ-kheo; người phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế (tặc trụ); người chưa đủ hai mươi tuổi, phi nhân, người giết cha mẹ, A-la-hán; người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương… đều không nên cho thọ giới cụ túc; nếu cho thọ giới cụ túc thì Tăng đều có tội, vì những người kể trên đều là người ô nhiễm. Hỏi: như thế nào là người thọ đắc giới cụ túc? Đáp: Khi cho người thọ giới cụ túc phải xưng tên họ, Tăng như pháp hòa hợp hỏi các giá nạn rồi mới như pháp bạch tứ yết ma, không động không chuyển mà thọ đắc giới cụ túc; ngược với trên thì không gọi là thọ đắc giới cụ túc. Hỏi: Như thế nào là người không thọ đắc giới cụ túc? Đáp: Đó là người không được xác chứng, người có mười ba trọng nạn như phạm biên tội, phạm ngũ nghịch, người việt tế, không phải nam, người làm ô nhục Tỳ-kheo-ni, tặc trụ… như trên đều không đắc giới cụ túc. Hỏi: Sao gọi là yết ma? có mấy loại, có mấy nhân duyên? Đáp: Có ba loại là đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma; có ba nhân duyên là yết ma Chiết phục và yết ma sám hối. Lại nữa, có thể được pháp thanh bạch gọi là yết ma; nếu bị chiết phục như tẫn xuất hoặc sám hối tội, bị trị tội như hành Biệt trụ, hành Ma-na-đỏa, hành Bổn nhật trị đều gọi là yết ma Chiết phục và sám tội. Hỏi: Như thế nào là được pháp thanh bạch gọi là yết ma? Đáp: Như thọ giới cụ túc, bố tát, tự tứ, yết ma Xuất tội… và các yết ma như pháp khác. Hỏi: Sao gọi là yết ma sự ? Đáp: Do có nhân duyên, sự việc mà tác pháp yết ma thì gọi là yết ma sự. Hỏi: Sao gọi là xứ yết ma? Đáp: Nếu bạch yết ma thành tựu, nghe thành tựu, Tăng như pháp hòa hợp tác pháp yết ma, không thể chuyển đổi thì gọi là xứ yết ma. Hỏi: Sao gọi là phi xứ yết ma? Đáp: nếu bạch yết ma không thành tựu, nghe không thành tựu, Tăng phi pháp hòa hợp tác pháp yết ma, có thể chuyển đổi thì gọi là phi xứ yết ma. Hỏi: Sao gọi là yết ma tẫn? Đáp: Nếu Tỳ-kheo có tội bị tẫn thì không được cùng yết ma Bố tát, không được ở chung, ăn chung. Đó gọi là yết ma tẫn. Hỏi: Sao gọi là xả yết ma? Đáp: Nếu Tỳ-kheo như pháp sám hối thì được cùng Tăng ở chung, ăn chung. Đó gọi là xả yết ma. Hỏi: Sao gọi là yết ma Khổ thiết? Đáp: Nếu Tỳ-kheo tranh cãi, sau khi Tăng cho yết ma Khổ thiết rồi mà còn tái phạm thì sẽ bị Tăng khổ trị, nên gọi là yết ma Khổ thiết. Hỏi: Sao gọi là việc của yết ma Xuất tội? Đáp: Nếu thấy, nghe hoặc nghi phạm tội, chân thật không hư dối, đúng thời không phải phi thời, vì làm lợi ích không phải không vì làm lợi ích, nói lời êm dịu không phải nói lời thô sẳn, với tâm từ bi không phải với tâm sân hận. Đó gọi là việc của yết ma Xuất tội. Hỏi: Sao gọi là việc không phải Xa-ma-tha? Đáp: Đó là các loại yết ma Khổ thiết. yết ma Khu xuất, yết ma Chiết phục, yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, Ma-na-đỏa, Biệt trụ, Bổn nhật trị. Hỏi: Sao gọi là yết ma Chỉ? Đáp: Nếu có tội liền phát lồ sám hối, hạ ý điều phục thì gọi là yết ma Chỉ. Hỏi: Sao gọi là việc đã làm? Tức là do nhân duyên này nên tác pháp. Hỏi: Sao gọi là Học? Đáp: Học có ba là tăng thượng Giới học, tăng thượng Tâm học, tăng thượng Huệ học. Lại có ba loại học là học oai nghi, học Tỳ-ni, học Ba-la-đề-mộc-xoa. Hỏi: Như thế nào là không phải xả giới? Đáp: Nếu bị điên cuồng hoặc tự nói ở chỗ khuất, hoặc nói với Sa- di, ngoại đạo, cư só, không nói với Tỳ-kheo thanh tịnh thì không gọi là xả giới. Hỏi: Như thế nào là xả giới? Đáp: Nếu nói rằng: “xuất gia khổ khắc, làm Sa-môn rất khó, không thích làm Tỳ-kheo, nhớ cha mẹ muốn về nhà…; hoặc nói tôi bỏ Phật… cho đến nói tôi nhàm chán việc của tỳ-kheo”thì gọi là xả giới. Hỏi: Như thế nào là giới suy kém? Đáp: Nếu Tỳ-kheo nhớ nhà, không thích làm Tỳ-kheo… như trên thì gọi là giới suy kém. Hỏi: Như thế nào là giới suy kém mà không xả giới? Đáp: Nếu nói như trên thì gọi là xả giới; nếu nói không thích làm Tỳ-kheo thì gọi là giới suy kém không phải là xả giới. Hỏi: Như thế nào là tranh cãi? Đáp: Về tranh cãi phân biệt có bốn là ngôn tránh, đấu tránh, phạm tội tránh và thường sở hành tránh; do nhân duyên sanh tranh cãi thì gọi là Tránh. Hỏi: Như thế nào là nhiếp tránh? Đáp: Tức là chỉ cho bảy pháp diệt tránh như Hiện tiền Tỳ-ni…; dùng bảy pháp diệt tránh này để dứt diệt bốn loại tránh kể trên, khiến cho người tranh cãi được điều phục, được tịch tónh. Hỏi: Như thế nào là việc tranh cãi không diệt được? Đáp: nếu có năm pháp thành tựu thì việc tranh cãi không diệt được: Một là không bạch Tăng, hai là không phải lời Phật dạy, ba là không bạch hai chúng, bốn là Tỳ-kheo phạm tội chưa thú tội, năm là nhiều tội đã phạm chưa sám hối. Hỏi: Thế nào là việc tranh cãi dược diệt trừ? Đáp: Ngược với năm pháp trên thì việc tranh cãi được diệt trừ: Một là đã bạch Tăng, hai là như lời Phật dạy, ba là bạch với hai chúng, bốn là Tỳ-kheo phạm tội như pháp thú tội, năm là các tội đã phạm như pháp sám hối. Hỏi: Thế nào là thuyết? Đáp: Thuyết giới có năm loại: Một là thuyết Tựa giới, hai là thuyết đến bốn Ba-la-di, ba là thuyết đến mười ba Tăng tàn, bốn là thuyết đến hai pháp Bất định, năm là thuyết đầy đủ. Hỏi: Thế nào là không thuyết? Đáp: Khi Tăng thuyết giới, người thuyết giới không thông lợi thì người thông lợi nên theo thứ lớp thuyết tiếp; hoặc người không thông lợi nên bảo người thông lợi thuyết tiếp theo thứ lớp, cho đến người cuối cùng cũng thuyết tiếp theo thứ lớp như thế; mỗi người thuyết 1 ít như vậy thì gọi là không thuyết. Hỏi: Thế nào là thọ? Đáp: Nếu Tỳ-kheo ở một mình, đến ngày bố tát nên quét dọn tháp, phòng nhà nơi bố tát, trải tòa rồi chờ có Tỳ-kheo nào đến mà chưa bố tát thì cùng bố tát; nếu không có ai đến thì đứng trên chỗ cao nhìn xem, nếu thấy có Tỳ-kheo đi tới thì kêu gọi: “Hãy mau đến cùng bố tát”. Nếu cuối cùng cũng không có ai thì Tỳ-kheo nên trở về trú xứ, tâm niệm miệng nói: “Hôm nay là ngày bố tát, con cũng bố tát; nếu được Tăng hòa hợp sẽ bố tát đầy đủ”. Đây gọi là thọ. Hỏi: Thế nào là yết ma cho người cuồng? Đáp: Nếu Tỳ-kheo bị tâm cuồng tán loạn, Tăng nên bạch nhị yết ma cho yết ma cuồng si, như trường hợp trưởng lão Bà-già-đà. Hỏi: Thế nào là yết ma cho người không cuồng? Đáp: Trừ yết ma cuồng si, tất cả các yết ma khác đều cho người không bị cuồng. Hỏi: Thế nào là đọa tín thí? Đáp: Nếu cúng cho người trì giới rồi lại xoay về cúng cho người không trì giới; cúng cho người chánh kiến rồi lại xoay về cúng cho người tà kiến thì thức ăn đã ăn hay vật đã lấy dù chỉ là một nắm đều gọi là đọa tín thí. Hỏi: Thế nào là yết ma không hiện tiền? Đáp: Có mười loại yết ma, người được yết ma không hiện tiền, đó là yết ma phú bát, yết ma xả phú bát, yết ma Học gia, yết ma xả Học gia, yết ma xây phòng, yết ma cho Sa-di, yết ma cho người cuồng và Ni tăng tác ba pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường. Hỏi: thế nào là yết ma? Đáp: Nếu dưới bốn người mà tác pháp yết ma thì yết ma không thành; yết ma cần năm người thì phải năm người làm; yết ma cần mười người thì phải mười người làm; yết ma cần hai mươi người thì phải hai mươi người làm; yết ma cần bốn mươi người thì phải bốn mươi người làm. Hỏi: Thế nào là sám hối? Đáp: Có năm như pháp và năm phi pháp; năm như pháp là không phải chỗ biệt trụ, không phải chỗ Bất cọng trụ, không phải chỗ của người chưa thọ giới cụ túc, tất cả chúng đều phát lồ. Ngược với trên là năm phi pháp. Hỏi: Thế nào là Bạch? Đáp: Nghóa là chỉ bạch mà không tác yết ma, như Tăng tác bạch cho người cuồng. Hỏi: Thế nào là đơn bạch yết ma? - Tức là bạch Tăng như trường hợp bố tát, tự tứ, xuất tội (nêu ra tội, cử tội), xả bát nhỏ, bố thảo diệt tránh… Hỏi: Thế nào là bạch nhị yết ma? - Tức là tác bạch rồi yết ma một lần nữa. Hỏi: Thế nào là bạch tứ yết ma? - Tức là tác bạch rồi yết ma ba lần nữa. Nếu là đơn bạch yết ma mà không tác bạch thì không thành đơn bạch; nếu là bạch nhị yết ma mà không tác bạch cũng không thành bạch nhị; nếu là bạch tứ mà không tác bạch cũng không thành bạch tứ; nếu là nhiều yết ma mà không tác bạch thì không thành nhiều yết ma. Lúc đang yết ma, nếu trong chúng người nào có chút duyên sự đứng dậy đi thì phải không rời xa chỗ nghe và nhớ bạch; nếu rời chỗ nghe và không nhớ bạch thì khi trở vào phải bạch Tăng tác bạch lại. Hỏi: Thế nào là yết ma Khổ thiết? - Tức là Tăng bạch tứ yết ma trị Tỳ-kheo tranh cãi. Hỏi: Thế nào là yết ma Khu xuất? - Tức là Tăng bạch tứ yết ma đuổi Tỳ-kheo làm hạnh xấu, Ô-tha-gia. Hỏi: Thế nào là yết ma Chiết phục? - Tức là Tăng bạch tứ yết ma cho Tỳ-kheo mắng đàn việt yết ma Chiết phục, buộc Tỳ-kheo này đến tạ lỗi đàn việt. Hỏi: Thế nào là yết ma Bất kiến tẫn? - Tức là Tăng bạch tứ yết ma tẫn Tỳ-kheo không tự thấy tội. Hỏi: Thế nào là yết ma xả tẫn? - Tức là Tăng bạch tứ yết ma giải tẫn cho Tỳ-kheo phạm tội đã như pháp sám hối. Hỏi: Thế nào là yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn? - Tức là Tăng bạch tứ yết ma tẫn Tỳ-kheo khởi ác tà kiến mà không chịu bỏ. Hỏi: Thế nào là Biệt trụ? Đáp: Nếu có ngoại đạo muốn xuất gia thọ giới cụ túc trong chánh pháp, Tăng nên bạch tứ yết ma cho họ ở chỗ Hòa thượng bốn tháng, nhưng ở riêng; hoặc có Tỳ-kheo phạm một trong mười ba Tăng tàn mà che giấu, Tăng nên tùy theo số ngày che giấu mà bạch tứ yết ma cho hành biệt trụ. Hỏi: Thế nào là Bổn nhật trị? Đáp: Nếu Tỳ-kheo đang hành biệt trũ mà phạm lại tội Tăng tàn thì tăng bạch tứ yết ma cho hành Bổn nhật trị. Hỏi: Thế nào là Ma-na-đỏa? Đáp: Nếu Tỳ-kheo hành biệt trụ xong thì Tăng bạch tứ yết ma cho hành Ma-na-đỏa, Tỳ-kheo này phải hạ ý đối với tất cả Tỳ-kheo nên gọi là Ma-na-đỏa. Hỏi: Thế nào là A-phù-ha-na? - Tức là từ chỗ bất thiện được đưa lên chỗ thiện. Hỏi: Tội che giấu cho hành biệt trụ có lợi ích gì? hành Bổn nhật trị, hành Ma-na-đỏa có lợi ích gì, vì sao lại cho A-phù-ha-na? Đáp: Người che giấu tội cho hành biệt trụ để hạ ý điều phục, hành biệt trụ xong mới cho hành Ma-na-đỏa, nên Ma-na-đỏa là công đức lợi ích của Biệt trụ. Người phạm lại tội Tăng tàn cho hành Bổn nhật trị để điều phục, muốn khiến cho người phạm tội hổ thẹn không tái phạm nữa. Người đã được điều phục muốn cầu thanh tịnh thì phải cầu xuất tội, các Tỳ-kheo sẽ cho Tỳ-kheo hiền thiện này được xuất tội nên A-phù-ha-na là công đức lợi của Ma-na-đỏa. Vì sao, vì A-phù-ha-na là pháp thanh tịnh làm cho người được thanh tịnh, không còn tội nữa. Như Phật đã nói có hai hạng người thanh tịnh: Một là người không phạm tội, hai là người phạm tội mà đã như pháp sám hối. Hỏi: Thế nào là mích tội? - Tức là Tăng bạch tứ yết ma tìm tội cho Tỳ-kheo phạm tội trước nói có phạm, sau lại nói là không phạm. Hỏi: Thế nào là Giới tụ? - Tức là Giới thân. Hỏi: Thế nào là Phạm tụ? - Tức là phạm năm thiên giới. Hỏi: Thế nào là không phạm tụ? - Tức là không làm hoặc đã phạm mà như pháp sám hối. Hỏi: Thế nào là tội khinh? - Tức là tội có thể sám hối. Hỏi: Thế nào là tội trọng? - Tức là tội không thể sám hối. Hỏi: Thế nào là tội hữu dư? - Tức là tội thuộc trong bốn thiên giới sau. Hỏi: Thế nào là tội vô dư? - Tức là tội thuộc trong thiên đầu. Hỏi: Thế nào là biên tội? - Tức là bốn Ba-la-di. Hỏi: Thế nào là tội thô? - Tức là tôi Ba-la-di và tội Tăng-già-bà- thi-sa. Hỏi: Thế nào là tội tụ? - Tức là nhiếp tất cả tội bất thiện. Hỏi: Thế nào là xuất tội (cử tội)? - Như nói: “Trưởng lão phạm tội như vậy như vậy, nên phát lồ sám hối chớ có che giấu”. Hỏi: Thế nào là ức tội (nhớ nghó có tội)? - Như nói: “Trưởng lão phạm tội như vậy như vậy nên nhớ nghó”. Hỏi: Thế nào là đấu tránh? - Tức là thấy nghe nghi tội và không cùng nói chuyện. Hỏi: Thế nào là chỉ tránh (dứt tranh)? Đáp: Có năm nhân duyên có thể dứt tranh cãi, đó là nói tôi bàn với thầy hoặc tôi nói với thầy, hoặc tôi xuất tội thầy, hoặc tôi khiến thầy nhớ nghó, hoặc thầy hãy nghe tôi nói. Hỏi: Thế nào là cầu xuất tội? - Như trước đã nói. Hỏi: Thế nào là ngăn bố tát? - Như trong Tỳ-ni. Hỏi: Thế nào là ngăn tự tứ? Đáp: Có bốn phi pháp và bốn như pháp. Bốn phi pháp là không có căn cứ, người phạm giới, người không thanh tịnh, người hoại oai nghi và người tà mạng. Ngược với trên là năm như pháp. Hỏi: Thế nào là nội túc thực? Đáp: Nếu ở trong giới không kết tịnh địa và thức ăn thì Tỳ-kheo ở trong giới này không được ăn; nếu có kết tịnh địa và thức ăn thì ở trong tịnh địa được ăn. Hỏi: Thế nào là nội thục? Đáp: Nếu ở trong giới không kết tịnh địa mà ở trong giới này nấu thức ăn thì Tỳ-kheo không được ăn. Hỏi: Thế nào là tự thục? Đáp: Do lúc đó ở nước Tỳ-da-ly thời thế mất mùa đói kém, thấy các Tỳ-kheo thiếu ăn không thành tựu được đạo nghiệp nên các cư só làm thức ăn cúng Tăng. Thức ăn cúng Tăng do có các Tỳ-kheo khách đến cũng phải chia phần nên các Tỳ-kheo vẩn ốm gầy như trước. Các cư só suy nghó: “Nếu chúng ta sai người làm thức ăn thì nhiều bà con sẽ đến xin” nên bạch Phật, Phật nói: “Cho Tỳ-kheo ở trong giới kết tịnh địa để nấu thức ăn”. Các Tỳ-kheo kết tịnh địa rồi bảo tịnh nhân nấu thức ăn, tịnh nhân và Sa-di nấu thức ăn xong lại chia phần cho Tỳ-kheo ít nên các Tỳ-kheo vẫn ốm gầy như trước. Phật nói: “Gặp thời thế mất mùa đói kém, khai cho các Tỳ-kheo tự nấu thức ăn, xả hai việc nội túc và nội thục, cho đến thời mất mùa đói kém chưa qua hết thì các Tỳ-kheo vẫn được tự nấu thức ăn”. Hỏi: Thế nào là tróc thực? - Tức là Tỳ-kheo không hổ thẹn tự cầm lấy thức ăn. Hỏi: Thế nào là thọ thức ăn? - Tức là Tỳ-kheo thọ thức ăn từ người nam, nữ, huỳnh môn và người hai căn. Hỏi: Thế nào là ác tróc? - Tức là tự tay cầm lấy thức ăn trước rồi mới thọ lại từ người khác. Hỏi: Thế nào là thọ? - Tức là các Tỳ-kheo ăn rồi tùy ý thọ pháp tàn thực để sau đó được ăn nữa. Hỏi: Thế nào là không thọ? - Tức là vào thời mất mùa đói kém, các Tỳ-kheo đã ăn rồi, chưa tùy ý, không thọ pháp tàn thực vẫn được mang thức ăn ra ngoài để sau đó ăn nữa; hoặc không thọ pháp tàn thực vẫn được ăn trái cây như bồ đào. Hỏi: Thế nào là không xả? - Tức là vào thời mất mùa đói kém như ở Tỳ-da-ly thì khai mà không xả. Hỏi: Thế nào là thủy thực (thức ăn dưới nước)? Đáp: Như trường hợp trưởng lão Xá-lợi-phất bị bịnh xuất huyết, thầy thuốc bảo nên dùng ngó sen thì bịnh đươc lành. Lúc đó trưởng lão Đại Mục-kiền-liên đến trong ao Mạn-đà-la hái ngó sen về cho Xá-lợi- phất dùng, trưởng lão Xá-lợi-phất dùng một phần, phần còn lại cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không ăn nói là đã tùy ý rồi … Phật nói: “Gặp lúc mất mùa đói kém, đã ăn xong, tùy ý rồi, khai cho không thọ pháp tàn thực vẫn được ăn ngó sen”. Hỏi: Thế nào là xả? - Tức là thời mất mùa đói kém đã qua, những việc đã khai trước đó nay xả. Lúc đó Phật từ Tỳ-da-ly du hành đến các nước, dần dần đến nước Xá-vệ; Phật hỏi A-nan: “Trước đó Như lai khai cho các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly được làm tám việc là nội thục… cho đến ăn ngó sen, đến nay còn làm nữa không?”, đáp là có người còn làm, có người không còn làm. Phật bèn nhóm Tăng rồi bảo các Tỳ-kheo rằng: “Trước đây ở Tỳ-da-ly do gặp thời mất mùa đói kém nên Như lai đã khai cho làm tám việc, nay thời thế được mùa sung túc thì không khai cho làm nữa; từ nay xả tám việc trước kia, nếu ai còn làm nữa thì phạm tội”. Hỏi: Thế nào là thọ y Ca-hi-na? Đáp: Nếu trú xứ này thọ y Ca-hi-na thì tất cả Tăng trong giới đều phải nhóm họp, đồng giới, đồng kiến thanh tịnh. Nếu Tỳ-kheo ở trú xứ khác nghe trú xứ này thọ y Ca-hi-na mà khởi tâm tùy hỉ thì cũng gọi là thọ. Ngược với trên thì gọi là không thọ y Ca-hi-na. Hỏi: Thế nào là xả y Ca-hi-na? - Có tám việc như trong Tỳ-ni. Ngược với tám việc đó thì gọi là không xả y Ca-hi-na. Hỏi: Thế nào là vật trọng? - Tức là các vật dụng như giường cây… làm bằng gỗ, tre, gốm sứ. Hỏi: Thế nào là vật khinh? - Tức là các vật dụng làm bằng vàng bạc, đồng sắt… Hỏi: Thế nào là vật có thể chia? - Tức là vật dụng của tỳ-kheo qua đời để lại, trừ vật trọng, các vật khinh khác như ba y thì đem cho người khán bịnh, các vật dụng khác như bát, đãy lượt nước, ống kim, khóa cửa, dao cắt móng tay… đều có thể chia. Vật không thể chia tức là các vật trọng như giường cây, bồn, chậu bằng đá hay gốm sứ… đều thuộc về Tăng bốn phương dùng chung, không được đem chia, trừ năm loại giường bằng vàng bạc… có thể chuyển đổi được thì được chia. Lại có năm thứ Tỳ-kheo không được bán, cũng không được chia và đem cho người khác, đó là vườn rừng của chùa, phòng xá, ngọa cụ và đất của chùa. Hỏi: thế nào là vật của người? - Tức là vườn rừng, Phật cho các Tỳ-kheo vì Tăng được thọ, không phải vì một người. Hỏi: Thế nào là vật không phải người? - Tức là các loài vật như voi, ngựa, lạc đà, trâu bò… Phật cho các Tỳ-kheo vì Tháp và Tăng được thọ. Hỏi: Thế nào là nhiếp vật? - Tức là vật có người coi giữ, như tụ lạc hay A-lan-nhã thuộc của nam hay nữ hay phi nhân đều gọi là nhiếp vật. Ngược với trên gọi là không phải nhiếp vật. Hỏi: Thế nào là Tỳ-kheo không thọ từ người khác mà vẫn được thọ dụng? - Tức là trừ tăm và nước ra, các thứ ăn được đều phải thọ từ người khác mới được ăn. Hỏi: Y của tỳ-kheo qua đời thì như thế nào? - Năm chúng được chia để thọ dụng. Hỏi: Thế nào là thành y? - Tức là y có được trong đại hội năm năm một lần. Hỏi: Thế nào là y phấn tảo? - Tức là năm loại y: Y hỏa thiêu, y bò nhai, y chuột gặm, y bị nước cuốn trôi và năm là y của sản phụ bỏ. Hỏi: Thế nào là quán tỉ trị? - Như trường hợp trưởng lão Tất-lân- già-bà-ta bịnh mũi, Phật cho dùng thuốc nhỏ mũi. Hỏi: Thế nào là quán hạ bộ trị? - Phật không cho Tỳ-kheo nhỏ thuốc ở hạ bộ, nếu nhỏ thì phạm Thâu-lan-giá; trừ bịnh phải nhỏ thuốc, bịnh mới lành. Hỏi: Thế nào là đao trị? - Phật không cho Tỳ-kheo dùng dao chữa trị, nếu dùng dao chữa trị thì phạm Thâu-lan-giá; trừ bịnh mà thuốc không trị lành được, phải dùng dao chữa trị thì bịnh mới lành. Hỏi: Thế nào là cạo lông? - Trừ cạo râu tóc, cạo lông trên thân phần khác thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Thế nào là cạo tóc? - Các Tỳ-kheo nên theo thứ lớp cạo tóc, nếu thứ lớp tới Hạ tòa cạo tóc, vừa hạ dao xuống cạo thì Thượng tòa không được bảo đứng dậy, nếu bảo đứng dậy thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Thế nào là ăn? - Tức là được ăn năm loại giống từ rễ (củ), thân cành, lá, hoa và quả. Hỏi: Thế nào là tịnh? - Tức là năm loại tác tịnh. Hỏi: Thế nào là thực? - Tức là năm loại giống tác tịnh rồi được ăn và tám loại nước uống lắng trong không đục. Hỏi: Thế nào là làm y? - Tức là mười loại y phải dùng ba màu làm cho hoại sắc. Hỏi: Ăn trái cây như thế nào? - Do ở Tỳ-da-ly có nhiều trái cây, các Tỳ-kheo lấy riêng để ăn, Phật bảo nên chia phần đồng đều. Khi chia, một người lấy phần của hai, ba người nên sanh tranh cãi; Phật nói: “Không được chia trái cây, nếu có tịnh nhơn làm năm việc tác tịnh rồi Tỳ-kheo từ tịnh nhơn này thọ lấy ăn”. Hỏi: Thế nào là ăn của phi nhân? - Phật cho các Tỳ-kheo được ngồi nằm trên giường bằng vàng bạc… của trời, phi nhân; cũng cho các Tỳ-kheo được ăn thức ăn đựng trong các vật dụng bằng vàng bạc… của trời, phi nhân. Hỏi: Thế nào là ngũ bách kết tập Tỳ-ni? Đáp: Phật nhập niết bàn không lâu, năm trăm Tỳ-kheo liền nhóm họp ở thành Vương xá để kết tập tất cả kinh, luật và luận. Hỏi: Thế nào là thất bách kết tập diệt? Đáp: Sau khi Phật nhập niết bàn một trăm mười năm năm, các Tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly khởi mười việc phi pháp, phi Tỳ-ni không phải lời Phật dạy, xa rời Phật pháp mà cho là thanh tịnh. Mười phi pháp đó là diêm tịnh, nhị chỉ tịnh, tụ lạc tịnh, toản lạc tịnh, như thị tịnh, tùy hỉ tịnh, sanh tửu tịnh, tu tập tịnh, lũ Ni-sư-đàn tịnh và thọ kim ngân tịnh. Diêm tịnh là suốt đời được thọ dụng thức ăn ướp với muối; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói ăn thì phạm Đột-kiết-la. Phật tại nước Xá-vệ, trong pháp Dược đã chế tội này. Nhị chỉ tịnh là ăn xong, tùy ý rồi, nếu bóng mặt trời xế hai ngón tay vẫn được ăn nữa; nhưng trong Tỳ-ni Phật nói ăn thì phạm Ba-dật-đề. Phật tại nước Tỳ-da-ly, trong pháp Thực đã chế tội này. Tụ lạc tịnh là ở trong một tụ lạc thọ thỉnh thực rồi, tùy ý rồi vẫn được đến tụ lạc khác thọ thỉnh thực nữa; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói ăn thì phạm Ba-dật-đề. Phật tại nước Tỳ-da-ly, trong pháp Thực đã chế tội này. Toản lạc tịnh là ăn xong, tùy ý rồi vẫn được uống sữa nữa; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói ăn thì phạm Ba-dật-đề. Phật tại nước Tỳ-da-ly, trong pháp Thực đã chế tội này. Như thị tịnh là ở ngoài giới thành chúng tác yết ma thì ở trong giới nên tùy hỷ; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói là phạm Đột-kiết-la. Phật tại nước Chiêm-ba, trong yết ma sự đã chế tội này. Tùy hỉ tịnh là ở ngoài giới không nói trước mà tác pháp yết ma, tác pháp xong đến nói thì trong giới phải tùy hỷ; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói là phạm Đột-kiết-la. Cũng tại nước Chiêm-ba, Phật đã chế tội này. Sanh tửu tịnh là gạo nếp ủ làm rượu, lúc chưa thành rượu được uống; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói uống thì phạm Ba-dật-đề. Phật tại nước Chi-đề, do nhân duyên Tỳ-kheo Sa-già-đà mà chế tội này. Tu tập tịnh là tu tập mà sát sanh, không tu tập cũng sát sanh nên sát sanh không tội; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói tùy việc mà kết phạm. Lũ Ni-sư-đàn tịnh là ngoài biên của Ni-sư-đàn không may viền thêm; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói không may viền thêm thì phạm Ba-dật-đề. Phật vì Ca-lưu-đà-di mà chế tội này. Kim ngân tịnh là các Tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly tự tay thọ vàng bạc; nhưng trong Tỳ-ni, Phật nói tự tay thọ thì phạm Ba-dật-đề. Phật tại thành Vương xá đã chế tội này. Do các Tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly hành mười việc phi pháp này nên bảy trăm Tỳ-kheo kết tập Tỳ-ni để diệt trừ ác pháp này. Hỏi: Thế nào là Tỳ-ni nhân duyên? - Tức là hai loại Ba-la-đề- mộc-xoa, 1bảy việc Tỳ-ni Tỳ băng già, bảy pháp, tám pháp, Thiện tụng, Tỳ-ni tăng nhất, cộng giới và bất cọng giới.  TÁT BÀ ĐA BỘ TỲ NI MA ĐẮC LẶC GIÀ <卷>QUYỂN 6 23.Phần Tạp Sự (Tiếp Theo): Hỏi: Thế nào là Ma ha Ưu-ba-đề-xá? Đáp: Có bốn. Nếu có một Tỳ-kheo đến nói rằng: “Kinh luật luận này, tôi thọ được từ kim khẩu của Phật”, các Tỳ-kheo nghe rồi không nên liền bàn luận đúng sai, nên tìm trong kinh luật luận nếu thấy tương ưng thì nên khen ngời Tỳ-kheo này rằng: “Lành thay trưởng lão, đã khéo thọ trì”; nếu thấy không tương ưng thì nên nói rằng: “Đây không phải là lời Phật dạy, không phải kinh luật luận, thầy đã không hiểu rõ”. Trường hợp hai người, ba người và đại chúng đến nói cũng vậy. Hỏi: vì sao gọi là Ma-ha Ưu-ba-đề-xá? Đáp: Thanh tịnh nói về Thánh nhân, nương theo pháp mà Thánh nhân đã thuyết, không trái pháp tướng, đệ tử không sợ hãi, đoạn trừ và điều phục phi pháp để hộ trì chánh pháp. Hỏi: Vì sao gọi là Ca lô Ưu-ba-đề-xá? Đáp: Vì đệ tử hiểu rõ nên không sợ hãi để hộ trì chánh pháp, vì trong thời mạt pháp sau này, các Tỳ-kheo ác tăng nhiều cho rằng: Đây mới là lời Phật nói, kia không phải là lời Phật nói. Hỏi: Thế nào là đẳng nhân? - Tức là loại dược từ rễ (củ), thân cành, lá, hoa và quả, nhân tương ưng với người bịnh nên gọi là đẳng nhân. Hỏi: Thế nào là thời tạp? - Tức là ngay ngày được thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược; nếu thời tạp là đúng thời thì dùng thời dược nhiếp. Hỏi: Thế nào là trong vườn rừng tịnh? - Tức là Tỳ-kheo ở trong vườn rừng thấy có vàng bạc, muốn lấy cất nên nghó rằng: “Sẽ có chủ của nó đến nhận lấy”. Hỏi: Thế nào là trong núi rừng tịnh? - Tức là trong núi rừng, cây cối cành lá giáo tiếp nhau, hoa trái giáo tiếp nhau trong phạm vi một Câu-lô-xá, Tỳ-kheo được để y trong đó đến hôm sau, qua lúc mặt trời mọc. Hỏi: Thế nào là điện đường tịnh? - Tức là ở trong Tăng-già-lam, Thượng tòa ngồi theo thứ lớp. Hỏi: Thế nào là quốc độ tịnh? - Như ở cõi Uất đơn việt mà theo thời giờ của cõi Diêm phù đề để ăn, đúng thời ở cõi Diêm phù đề là nữa đêm ở cõi Uất đơn việt; như ở các phương khác mà theo thời giờ của cõi Diêm phù đề để ăn cũng vậy. Hỏi: Thế nào là biên phương tịnh? Đáp: Ở nước Câu kỳ không biết thọ thực nên các Tỳ-kheo có thần thông đến nước ấy khất thực, dân chúng nước này để thức ăn dưới đất chứ không trao đưa cho Tỳ-kheo … Phật nói: “Cho các Tỳ-kheo thọ theo năm cách: Một là đưa qua tay để thọ, hai là đồ đựng đưa qua đồ đựng để thọ, ba là y đưa qua y để thọ, bốn là từ thân phần khác đưa qua thân phần khác để thọ, năm là để xuống đất được thọ”. Hỏi: Thế nào là phương tịnh? Đáp: Nếu ở xứ lạnh vào mùa đông có tuyết, cho các Tỳ-kheo được mang giày ủng, ở các nước khác thì không được mang; cũng cho mặc áo kép, ở nước khác thì không được mặc. Ở nước A-thấp-bàn-đề cho các Tỳ-kheo thường tắm rửa, ở nước khác thì không được; cũng cho túc số năm luật sư được truyền thọ giới cụ túc, ở nơi khác thì không được. Hỏi: Thế nào là y tịnh? Đáp: Phật cho các Tỳ-kheo thọ dụng mười loại y, đó là y lông dê, y vải gai, y Sô-ma, y Đầu-cưu-la, y Kiếp bối, y Câu-đà-diệm, y Ba-đâu-na-kiếm, y Câu-đan-bà-kiếm, y Câu-chỉ-la-kiếm, y A-bà-la-sỉ- kiếm; nên dùng ba màu làm cho hoại sắc rồi mới thọ trì. Hỏi: Thế nào là tạc tương tịnh? Đáp: Thầy thuốc bảo các Tỳ-kheo bịnh nên uống nước ép trái cây thì sẽ lành bịnh, Phật nói: “Pháp làm nước này là nước ép trái cây hòa với nước ấm rồi để yên cho lắng trong không dục, khi cần thì lấy dùng”. Nước này từ khi mặt trời mọc thọ rồi cho đến mặt trời lặn được uống, không phải là đầu đêm thọ đầu đêm uống… cho đến cuối đêm thọ cuối đêm uống. Hỏi: Thế nào là tự tứ? Đáp: Vào ngày tự tứ, các Tỳ-kheo nhóm một chỗ, ở trong Tăng nói ba việc tự tứ là thấy nghe nghi. Vì sao Phật bảo các Tỳ-kheo tự tứ, vì muốn cho các Tỳ-kheo không cô độc, khiến mỗi người nhớ tội của mình, nhớ tội rồi nên phát lồ sám hối, nhờ lời chỉ tội để điều phục mà được thanh tịnh, không bịnh nữa, được an ổn, tâm ý vui mừng là ta thanh tịnh không tội. Hỏi: Thế nào là gởi dục tự tứ? Đáp: Nếu Tỳ-kheo bịnh không đến được trong Tăng thì nên gởi dục tự tứ, nếu không bịnh mà không đến lại gởi dục thì phạm Đột-kiết- la. Nếu có nạn khủng bố hoặc mạng nạn, phạm hạnh nạn hoặc tám nạn, chín nạn mỗi mỗi nạn khởi lên, không đến được chỗ tự tứ thì nên gởi dục tự tứ; gặp những nạn khác cũng được gởi dục tự tứ. Hỏi: Thế nào là lấy dục tự tứ? Đáp: Nếu có người đến chỗ Tỳ-kheo lấy dục tự tứ thì nên lấy ở trong giới, không phải ở ngoài giới; Nếu trong giới có nạn khủng bố hoặc mạng nạn, phạm hạnh nạn hoặc tám nạn, chín nạn mỗi mỗi nạn khởi lên, lúc đó ra ngoài giới vẫn không mất dục. Hỏi: Thế nào là thuyết dục tự tứ? Đáp: Là đến trong chúng thuyết dục tự tứ cho Tỳ-kheo kia; nếu nói thì tốt, không nói thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Thế nào là bố tát? Đáp: Mỗi nữa tháng các Tỳ-kheo đều quán lại mình, từ nữa tháng trước đến nữa tháng này có phạm giới hay không; nếu nhớ có phạm nên đến chỗ Tỳ-kheo đồng ý để phát lồ sám hối. Nếu không được Tỳ-kheo đồng ý thì nên khởi niệm khi nào gặp được Tỳ-kheo đồng ý sẽ phát lồ sám hối để trừ diệt tội này, khởi niệm này rối thì được thanh tịnh cùng Tăng bố tát. Hỏi: Vì sao gọi là bố tát? - Tức là bỏ pháp ác bất thiện, bỏ phiền não hữu ái để được pháp thanh bạch, được phạm hạnh cứu cánh. Hỏi: Thế nào là gởi dục bố tát? - Tức là khi bố tát, nếu Tỳ-kheo bịnh không đến được trong Tăng thì nên gởi dục bố tát, nếu không bịnh mà gởi dục thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Thế nào là thọ dục? - Giống như lấy dục ở trên, dục nghóa là mọi việc Tăng làm đều ưa thích tùy hỉ cùng đống việc tăng như pháp. Hỏi: Thế nào là gởi dục? Đáp: Nếu Tỳ-kheo bịnh không đến được trong Tăng thì nên gởi dục, nếu không bịnh mà gởi dục thì phạm Đột-kiết-la; nếu có nạn khởi cũng được gởi dục. Người gởi dục nói gởi dục mới thành gởi dục, Tỳ- kheo thọ dục nói vâng thì mới thành gởi dục. Người gởi dục nên nói: “Hãy thuyết dục giùm tôi”, hoặc nói: “Tôi gởi dục cho thầy”, thân động hoặc miệng động mới thành gởi dục; nếu thân và miệng không động thì nên đưa đến trong Tăng, nếu không đưa đến được thì tất cả Tăng nên đến chỗ người bịnh. Không nên riêng làm Tăng sự, nếu riêng làm tăng sự thì tùy việc mà phạm tội. Thọ dục và thuyết dục giống như trong tự tứ ở trên. Hỏi: Thế nào là thanh tịnh? - Thanh tịnh là không tội. Hỏi: Thế nào là gởi dục thanh tịnh? - gởi dục, lấy dục, thuyết dục thanh tịnh đều giống như trong tự tứ ở trên. Hỏi: Thế nào là dục thanh tịnh? - Nếu khi Tăng bố tát yết ma thì gởi dục và thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là gởi dục thanh tịnh? Đáp: Khi bố tát, nếu Tỳ-kheo bịnh không đến được trong Tăng thì nên gởi dục thanh tịnh, nếu không bịnh mà gởi dục thanh tịnh thì phạm Đột-kiết-la. Nếu có nạn khủng bố hoặc mạng nạn, phạm hạnh nạn hoặc tám nạn, chín nạn mỗi mỗi nạn khởi lên cũng được gởi dục thanh tịnh. Người gởi dục nói gởi dục mới thành gởi dục, Tỳ-kheo thọ dục nói vâng thì mới thành gởi dục. Người gởi dục thanh tịnh nên nói: “Hãy thuyết dục thanh tịnh giùm tôi”, hoặc nói: “Tôi gởi dục thanh tịnh cho thầy”, thân động hoặc miệng động mới thành gởi dục thanh tịnh; nếu thân và miệng không động thì nên đưa đến trong Tăng, nếu không đưa đến được thì tất cả Tăng nên đến chỗ người bịnh, không được riêng bố tát yết ma. Hỏi: Thế nào là thọ dục thanh tịnh? Đáp: Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh từ Tỳ-kheo khác, nên thọ ở trong giới, không phải ở ngoài giới. Nếu có nạn khủng bố hoặc mạng nạn, phạm hạnh nạn hoặc tám nạn, chín nạn mỗi mỗi nạn khởi lên, ra ngoài giới cũng không mất dục thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là thuyết dục thanh tịnh? Đáp: Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh rồi nên đến trong chúng thuyết dục thanh tịnh cho Tỳ-kheo kia; nếu nói thì tốt, không nói thì phạm Đột- kiết-la, vì không cung kính hào hợp. Hỏi: Thế nào là Thâu bà? - Như Phật đưa tóc, móng tay cho trưởng giả Cấp-cô-độc xây tháp để thờ gọi là Thâu bà. Hỏi: Thế nào là vật của tháp? - Tức là ở trên đất ruộng, đất nhà xây tháp. Hỏi: Thế nào là nhà của tháp? - Tức là điện đường lầu gác hoặc bằng gỗ, đá, vàng, bạch lạp… Hỏi: Thế nào công đức vô tận của tháp? Đáp: Ở Tỳ-da-ly, các thương nhơn vì Phật xây tháp rồi cúng nhiều vật dụng cho tháp, các Tỳ-kheo không thọ vật vô tận này, bạch Phật, Phật nói: “Nên thọ rồi bảo Ưu-bà-tắc, tịnh nhân trông giữ, nếu được lợi thì dùng để tu sửa tháp”. Hỏi: Thế nào là cúng dường tháp? - Tức là dùng đất tô hoặc dùng vôi trắng quét… Hỏi: Thế nào là trang nghiêm tháp? - Tức là dùng tơ lụa, Án-mục- ca, Đầu-cưu-la, Câu-chỉ-bà-kiếm, tràng phan, hoặc dùng vàng bạc, trân châu… bảy báu, hoặc dùng chiên đàn trầm thủy, hoa hương… các vật vi diệu để trang nghiêm tháp. Hỏi: Thế nào là cúng dường tháp? - Tức là dùng hương hoa, âm nhạc, hương đốt, lễ bái để cúng dường tháp. Hỏi: Thế nào là có thức ăn? - Tức là các Tỳ-kheo ở trong chùa thì được thọ dụng. Hỏi: Thế nào là cháo? - Phật cho các Tỳ-kheo được dùng tám loại cháo nhưng không được húp cháo ra tiếng. Hỏi: Thế nào là Khư-đà-ni? - Phật cho các Tỳ-kheo được dùng chín loại Khư-đà-ni, đó là thức ăn làm từ lá, hoa, quả, hồ ma, dầu, mì, đường, rễ (củ), đường phèn nhưng không được ăn ra tiếng. Hỏi: Thế nào là hàm tiêu? - Phật cho các Tỳ-kheo được dùng năm loại dược hàm tiêu là tô, dầu, mật, thạch mật và đề hồ. Khi dùng loại dược hàm tiêu này nên khởi tưởng là trị bịnh, là uống thuốc, là phân dơ, là tủy não. Hỏi: Thế nào là Bồ-xà-ni? - Phật cho các Tỳ-kheo được dùng năm loại Bồ-xà-ni, đó là Ô-đà-na, Quý-ma-sa, Mạn-đà, cá, thịt. Khi dùng Bồ-xà-ni nên khởi tưởng là trị bịnh, là uống thuốc, là phân dơ. Hỏi: Thế nào là bát? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa hai loại bát bằng sắt và bằng gốm sứ, không được cất chứa tám loại bát vàng bạc… Hỏi: Thế nào là y? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa bảy loại y không được tịnh thí, đó là y Tăng-già-lê, y Uất-đa-la-tăng, y A-nan đát-bà-sa, y tắm mưa, y phủ ghẻ, Ni-sư-đàn, y dưỡng mạng. Hỏi: Thế nào là Ni-sư-đàn? - Phật cho các Tỳ-kheo cất chứa Ni- sư-đàn để hộ ngọa cụ của Tăng, nếu không có Ni-sư-đàn thì không được ngồi nằm trên ngọa cụ của Tăng. Hỏi: Thế nào là kim? - Phật cho các Tỳ-kheo cất chứa hai loại kim bằng sắt và bằng đồng. Hỏi: Thế nào là ống kim? - Phật cho các Tỳ-kheo cất chứa ống kim để cất kim, không được đem cho người không có hổ thẹn và Sa-di. Hỏi: Thế nào là y chỉ? Đáp: Do Phật chế Tỳ-kheo khách đến nên cầu y chỉ trước, không được rửa chân và nghỉ ngơi trước nên một Tỳ-kheo khách mới đến liền cầu y chỉ trước, do mệt nhọc vì đi đường nên đã ngã bất tỉnh và qua đời. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay Tỳ-kheo khách nên cởi y bát, rửa chân rồi nghỉ ngơi hai, ba ngày sau mới đến cầu y chỉ”. Lúc đó có khách Tỳ-kheo vì cốt cầu y chỉ, không xét kỹ nên bị thối chuyển nơi thiện pháp, Phật nói: “Không được cốt cầu y chỉ mà không xét kỹ như vậy; nên xét kỹ vị ấy có thể làm cho mình tăng trưởng thiện pháp hay không rồi mới cầu y chỉ. Nên hỏi Tỳ- kheo khác là vị ấy có giới đức không, có thể gáo giới không, quyến thuộc của vị ấy như thế nào, có tranh cãi hay không… hỏi như vậy rồi mới đến cầu y chỉ, người cho y chỉ cũng vậy” Hỏi: Thế nào là thọ y chỉ? Đáp: Tỳ-kheo thọ y chỉ nên trịch bày vai phải, quỳ gối chắp tay bạch rằng: “Con tên là nay theo đại đức cầu y chỉ, xin đại đức cho con y chỉ, con nương theo đại đức mà ở” (3 lần), vị kia nên đáp lành thay. Hỏi: Thế nào là cho y chỉ? Đáp: Tỳ-kheo không đủ mười tuổi hạ thì không được cho y chỉ, dù đủ mười tuổi hạ mà ngu si không biết gì thì cũng không được cho y chỉ. Nếu thành tựu năm pháp thì được cho y chỉ, đó là biết phạm hay không phạm, biết là trọng hay khinh, thông lợi Ba-la-đề-mộc-xoa… như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Hỏi: Thế nào là xả y chỉ? có năm nhân duyên mất y chỉ, phải y chỉ lại, đó là bỏ đi, xả giới, từ chúng này đến chúng khác, gặp lại Hòa thượng trước kia. Hỏi: Thế nào là Hòa thượng? Đáp: Các Tỳ-kheo không có Hòa thượng, sau khi xuất gia thọ giới cụ túc, tâm ý không điều phục, oai nghi không tề chỉnh, đau ốm không ai chăm sóc. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay cho nương Hòa thượng được xuất gia thọ giới cụ túc. Hòa thượng nên giáo giới đệ tử khiến cho tâm điều phục, khi bịnh được chăm sóc”. Sau đó các Tỳ-kheo đệ tử bịnh không được chăm sóc, Phật nói: “Nên chăm sóc người bịnh, nếu không chăm sóc thì phạm Đột-kiết-la”. Hỏi: Thế nào là đệ tử? Đáp: Do các Tỳ-kheo nương Hòa thượng được xuất gia thọ giới cụ túc mà không thân gần Hòa thượng nên các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Đệ tử nên thân gần Hòa thượng để thừa sự, thăm hỏi; đi đâu hay làm việc gì đều phải bạch Hòa thượng, Hòa thượng làm việc gì nên làm thay, trừ bốn việc là đại tiểu tiện, xỉa răng và lễ bái tháp ở trong giới”. Hỏi: Thế nào là cúng dường Hòa thượng? Đáp: Nên thừa sự cúng dường, thăm hỏi lễ bái. Hòa thượng muốn làm việc gì , đệ tử nên làm ngay không được biếng trễ, phải hổ thẹn với Hòa thượng, cung kính Hòa thượng, hạ ý cầu thiện pháp, không được tìm lỗi của Hòa thượng; Hòa thượng có lỗi nên can ngăn, Hòa thượng có bịnh nên chăm sóc và việc của mình cũng không nên bỏ phế. Hỏi: Thế nào là A-xà-lê? Đáp: Các Tỳ-kheo xuất gia thọ giới cụ túc không có A-xà-lê, tâm ý không điều phục, oai nghi không tề chỉnh, đau ốm không ai chăm sóc. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay cho Tỳ-kheo làm A-xà-lê, nên giáo giới và chăm sóc đệ tử bịnh”. Lúc đó các Tỳ-kheo không cho đệ tử thọ giới cụ túc, Phật bảo nên cho. Hỏi: Thế nào là đệ tử cận trụ? Đáp: Do đệ tử cận trụ không thân gần A-xà-lê nên các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay đệ tử cận trụ nên thân gần A-xà-lê, tùy thời thăm hỏi, làm việc gì cũng bạch A-xà-lê, trừ bốn việc…” như đối với Hòa thượng ở trên. Hỏi: Thế nào là Hòa thượng, A-xà-lê và đệ tử cộng hành? đệ tử cận trụ là đệ tử cộng hành nên đối với Hòa thượng và A-xà-lê tưởng như cha mẹ; Hòa thượng và A-xà-lê đối với đệ tử tưởng như con cái. Hỏi: Thế nào là Sa-di? - Phật không cho nuôi Sa-di quá nhỏ tuổi, nhỏ nhất là bảy tuổi. Nếu tạo tội nên bảo sám hối, nếu ở trần nên cho mặc áo. Hỏi: Thế nào là trù lượng (suy tính)? Đáp: Ban đầu xây cất chùa hay phòng xá ở đâu, trước phải suy tính chỗ ấy nơi đi lại có thuận tiện không, có chướng ngại không, có nạn sự không, có ồn ào hay không… xét kỹ rồi mới xây cất, nếu không xét kỹ mà xây cất thì phạm tội. Hỏi: Thế nào là ngọa cụ? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa nệm bằng giạ, đồn lông thú… hoặc là của Tăng hoặc của mình có. Hỏi: Thế nào là doanh tri sự (coi ngó việc tu sửa)? Đáp: Thế tôn ở tại chùa thuộc nước A-đồ-tỳ thấy phòng xá hư hoại, Phật hỏi A-nan vì sao không tu sửa, A-nan bạch Phật: “Vì Lục quần Tỳ-kheo coi giữ mà không chịu tu sửa”, Phật bảo: “Nếu tháp và Tăng phường hư hoại, Lục quần Tỳ-kheo không tu sửa thì chúng tăng nên làm yết ma sai người khác tu sửa”. Lúc đó người được yết ma sai tu sửa chỉ làm chút ít việc như lợp ngói, nhổ cỏ… rồi không làm nữa, Phật bảo: “Người làm chút ít như vậy, Tăng không nên làm yết ma sai, nên sai người có khả năng tu sửa nhiều, mới làm yết ma sai tu sửa tháp và tăng phường”. Tỳ-kheo muốn xây tháp và Tăng phường mới, làm ngọa cụ mới thì Tăng nên làm yết ma sai trong thời gian mười hai năm, không được si làm suốt đời; nếu tu sửa lại tháp và tăng phưởng cũ hư hoại thì Tăng nên làm yết ma sai tu sửa trong gian gian là sáu năm, bỏ hết các việc khác để tu sửa. Hỏi: Thế nào là theo thứ lớp? - Phật cho các Tỳ-kheo theo thứ lớp từ bậc Thượng tòa mà đảnh lễ, chắp tay vấn an, nghinh đón. Hỏi: Thế nào là nước uống Tô-tỳ-la? - Như trường hợp Tỳ-kheo Xá-lợi-phất bị bịnh lạnh, Phật cho dùng nước uống Tô-tỳ-la. Cách làm là lấy rễ, thân cành, lá, hoa, quả nấu với nước rồi để trong cái hũ cho lắng trong không đục, sáng sớm thọ cho đến đầu đêm được uống. Hỏi: Thế nào là mạt vụn (tiết)? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa đậu vụn như đậu đỏ, ma-tu-la… nhưng không được cất chứa các loại hương tạp, có màu tạp sắc; nếu bịnh thì được xen tạp các loại hương khác. Hỏi: Thế nào là dược? - Phật cho các Tỳ-kheo bịnh được cất chứa rễ, thân cành, lá, hoa, quả để làm bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và chung thân dược tùy thời thọ dụng, hoặc của chúng hoặc của riêng mình. Hỏi: Thế nào là nước ép trái cây (tương)? - Phật cho các Tỳ-kheo bịnh được uống tám loại nước ép trái cây, lượt cho trong rồi uống. Hỏi: Thế nào là da (bì): - Phật không cho các Tỳ-kheo cất chứa da, không được thọ và dùng để ngồi, trừ giày da; nếu đến nhà cư só thì được ngồi, không được nằm. Hỏi: Thế nào là giày da? - Phật cho các Tỳ-kheo cất chứa hai loại giày da là giày da một lớp và giày da phá mạn tịnh. Không được dùng giày da có trang hoàng tạp sắc. Hỏi: Thế nào là vật chà chân? - Phật không cho Tỳ-kheo cất chứa đá bọt (phù thạch) để chà chân. Hỏi: Thế nào là trượng? - Do trong rừng Thi đà thuộc thành Vương xá có nhiều trùng độc làm hại các Tỳ-kheo, nên Phật cho cất chứa trượng, nên bạch yết ma. Hỏi: Thế nào là trượng lạc nang? - Phật cho Tỳ-kheo bịnh đến trong Tăng xin, Tăng bạch nhị yết ma cho cất chứa. Hỏi: Thế nào là tỏi? như trường hợp trưởng lão Xá-lợi-phất bị bịnh lạnh, Phật cho Tỳ-kheo bịnh được dùng tỏi nhưng phải như pháp mà làm; nếu không bịnh thì không được ăn. Hỏi: Thế nào là dao cạo? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa dao cạo tóc. Hỏi: Thế nào là hộp dao cạo? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa hộp đựng dao cạo tóc. Hỏi: Thế nào là ống khóa cửa? - Phật cho dùng ống khóa để giữ gìn phòng xá và ngọa cụ, hoặc của chúng tăng hoặc của riêng mình. Chìa khóa cửa cũng vậy. Hỏi: Thế nào là cây quạt, cán quạt bằng ma ni? - Tỳ-kheo không được cất chứa quạt có cán bằng ma ni, nếu thọ thì nên cúng dường tháp Phật và tháp Thanh văn. Hỏi: Thế nào là dù? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa dù để phòng mưa nắng. Hỏi: Thế nào là xe? - Phật cho các Tỳ-kheo bịnh được đi xe. Hỏi: Thế nào là quạt? - Phật cho các Tỳ-kheo cất chứa quạt, hoặc của chúng tăng hoặc của riêng mình. Hỏi: Thế nào là phất? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa phất trần. Hỏi: Thế nào là gương? - Phật không cho các Tỳ-kheo soi gương cho đến soi mặt trong bát nước, trừ trên mặt có bịnh. Hỏi: Thế nào là ca múa hát xướng? - Tỳ-kheo không được tự ca múa hát xướng, cũng không được bảo người làm. Hỏi: Thế nào là hương hoa anh lạc? - Tỳ-kheo không được đeo tràng hoa chuỗi anh lạc, nếu được thì nên cúng dường tháp Phật và tháp A-la-hán. Hỏi: Thế nào là thuốc nhỏ mắt (nhãn A-nan thiền na)? - Phật cho các Tỳ-kheo bịnh mắt được cất chứa An-thiền-na để nhỏ mắt, không được vì đẹp mà nhỏ mắt. Hỏi: Thế nào là vật đựng thuốc nhỏ mắt? - có hai loại đựng thuốc nhỏ mắt là bằng đồng và bằng sắt. Hỏi: Thế nào là nằm? - Tỳ-kheo không bịnh thì ban ngày không nên nằm, nếu trong đêm có đốt đuốc sáng cũng không nên nằm. Nếu quá mõi mệt thì nên đứng dậy đi, không được làm xúc não người thứ hai . Hỏi: Thế nào là ngủ? - Tỳ-kheo ban ngày nên ngồi thiền hoặc kinh hành để ngăn thùy miên cái, qua đầu đêm nên trải y Uất-đa-la- tăng bốn lớp, cuộn y Tăng-già-lê làm gối, nằm nghiêng bên hông phải, chồng gót chân, không được nằm ngữa giăng tay chân, tâm không tán loạn, y không xốc xếch, khởi chánh niệm quán tướng sáng hiện tiền, nhớ nghó thức dậy. Cuối đêm thức dậy ngồi thiền hay kinh hành để trừ thùy miên cái. Hỏi: Thế nào là thiền đới? - Phật cho Tỳ-kheo bịnh đau lưng được cất chứa dây thiền, như trường hợp trưởng lão Xá-lợi-phất. Hỏi: Thế nào là nút cột y? - Phật cho làm nút hay dùng dây cột y để giữ y vì sợ gió. Hỏi: Thế nào là dây lưng? - Phật cho dùng ba loại dây lưng, đó là dây dệt thành, dây bện đan thành và dây bện bằng chỉ sợi. Hỏi: Thế nào là bắn đạn? - Phật cho các Tỳ-kheo cất chứa đạn để bắn làm cho giặc sợ, không có nhân duyên thì không được bắn đạn. Hỏi: Thế nào là vén ngược y? - Tỳ-kheo không được vén ngược y, trừ khi làm việc ở trên cao. Hỏi: Thế nào là đất? - Có hai loại là đất kinh hành và đất của tinh xá. Hỏi: Thế nào là cây? - Ở núi Kỳ-xà-quật, hai bên đường không có cây nên Phật cho các Tỳ-kheo trồng cây để có bóng mát và hoa, nên trồng theo thứ lớp. Hỏi: Vật là đất như thế nào? - Tức là đất ruộng, Phật cho các Tỳ- kheo thọ nhận đất ruộng để làm vườn, làm tinh xá. Hỏi: Thế nào là cây rừng? - Tỳ-kheo nên theo thứ lớp thọ gốc cây trong rừng để nghỉ. Hỏi: Thế nào là tránh, là tướng ngôn tránh? - Tức là tranh cãi bằng lời nói hoặc nói lời ly gián khiến cho không hòa hợp như nước hòa với sữa nữa, tự tách riêng ra. Cho nên những việc phi thời, phi pháp, vô nghóa, tự mình phiền não và làm cho người phiền não… tất cả đều không nên làm. Hỏi: Thế nào là tránh hoại? - Tức là Tăng hoại và Luân hoại. Nếu khởi mười bốn việc để phá tăng hoặc dùng một việc trong mười bốn việc để phá Tăng, dù như pháp như luật hay phi pháp phi luật; cho đến ở trong giới mỗi bên tự làm yết ma bố tát thì gọi là Tăng hoại không phải Luân hoại. Tám Thánh đạo gọi là Luân, nếu bỏ tám Thánh đạo mà nói đạo khác thì gọi là Luân hoại không phải Tăng hoại. Nếu gồm cả hai thì gọi là Tăng và Luân đều hoại. Hỏi: Thế nào là cung kính? - Tức là cung kính Hòa thượng, A-xà- lê cho đến Thượng trung hạ tòa đều phải nên cung kính. Hỏi: Thế nào là hạ ý? - Tức là Tỳ-kheo bị tẫn không được độ người, không được truyền đại giới cho người, không được thọ người khác y chỉ, không được nuôi Sa-di; không được thọ Tăng sai giáo giới Tỳ-kheo-ni, nếu đã được Tăng sai cũng không được thọ; không được tái phạm tội đã phạm, không được phạm tội tương tợ, không được phạm tội nặng hơn tội này; không được quở trách các yết ma, không được ngăn Tăng bố tát; không được xuất tội Tỳ-kheo thanh tịnh, không được bảo Tỳ-kheo thanh tịnh nhớ nghó tội, không được cùng ngồi chung, nói chuyện, cùng làm việc với Tỳ-kheo thanh tịnh, phải khiêm nhường cung kính; nên biết mình là người bị tẫn. Có mười hai hạng người như vậy. Hỏi: Thế nào đủ các loại Bất cọng trụ? Đáp: Có hai việc không chung là pháp và thực, mọi việc nên làm cũng giống như Tỳ-kheo bị tẫn, chỉ khác là tất cả yết ma của Tăng đều không được thọ, dù Tăng sai cũng không được thọ. Có tất cả mười hai hạng người như thế, nếu đối với vị đồng phạm hạnh có tội, Tăng nên nói với Tỳ-kheo này: “Trưởng lão nên dừng lại, điều phục tâm ác, đừng để Tăng họp các tội Bất cọng trụ. Nếu Tăng tẫn xuất thầy thì thầy nên ở trong Tăng sám hối tội này, Tăng sẽ giải tội tẫn cho thầy, không phải là Tăng ở ngoài giới”. Nếu người này nghe rồi mà tâm không chiết phục thì nên tẫn xuất, cũng như điều phục ngựa dữ, phải dùng dây cương chế ngự. Hỏi: Thế nào là Thác lại tra? Đáp: Tỳ-kheo làm Thác lại tra thành tựu hai mươi hai pháp: Một là tinh tấn, hai là căn bản thành tựu hổ thẹn, ba là đầy đủ oai nghi, bốn là ưa thích trì giới, năm là hiểu rõ Tỳ-ni, sáu là nghe rồi thọ trì, bảy là đa văn, tám là thông suốt A-hàm, chín là khéo biết giải quyết việc tranh cãi, mười là khéo biết nguồn gốc phát khởi của sự việc, mười một là hiểu rõ tướng của việc tranh cãi, mười hai là khéo biết diệt tránh rồi sẽ không phát khởi lại nữa, mười ba là có tài biện luận, mười bốn là không sợ hãi, mười lăm là thân khẩu nghiệp đều thiện, mười sáu là có thể sai, mười bảy là có thể thọ, mười tám là có thể hành, mười chín là thọ yết ma không tùy ái hành, hai mươi là không tùy sân hành, hai mươi mốt là không tùy bố hành, hai mươi hai là không tùy si hành. Tỳ-kheo làm Thác lại tra thành tựu hai mươi hai pháp này thì có thể diệt tránh, không trợ giúp hai bên bạn đảng để cầu pháp và cầu tài thực. Hỏi: Thế nào là Thật mích tội tướng? Đáp: Nếu Tỳ-kheo trước tự nói là tôi có tội này, sau đó lại nói là không có, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho Thật mích tội tướng. Hỏi: Thế nào là Ba-la-di học giới? Đáp: Tỳ-kheo phạm dâm rồi cho đến trong phút chốc không che giấu, Tăng nên bạch tứ yết ma cho học giới, như trường hợp Tỳ-kheo Nan-đề. Hành pháp của người học giới là nên ngồi ở dưới các Tỳ-kheo, nên trao thức ăn uống và thuốc thang cho các Tỳ-kheo, tự theo Sa-di và bạch y thọ thức ăn uống; không được cùng đại Tỳ-kheo ở chung phòng quá hai đêm, cũng không được cùng Sa-di và bạch y ở chung quá hai đêm; không được cùng Tỳ-kheo thọ cụ túc giới làm hai pháp bố tát và tự tứ, vì cho học hành pháp của Sa-di thì không được vào trong Túc số tăng làm yết ma bố tát và tự tứ, tất cả yết ma đều không được làm. Hỏi: Thế nào là Thượng tòa của chúng tăng? Đáp: Thượng tòa ở trong giới nên giáo giới cho Tỳ-kheo trẻ tuổi, an ủi, giảng kinh, dạy tọa thiền khiến cho pháp lành được tăng trưởng. Khi chia thức ăn nên chia đều đầy đủ khiến Tăng được lợi ích, cũng nên khuyến hóa cho Tăng được lợi ích. Nên thăm nom Tỳ-kheo bịnh, nên sai nguời khán bịnh, nên xin thuốc và thuyết pháp cho người bịnh, không được bỏ không ngó ngàng… tất cả Thượng tòa nên coi ngó. Hỏi: Thế nào là Thượng tòa trong Tăng-già-lam? Đáp: Khi thọ Khư-đà-ni hay Bồ-xà-ni nên đánh kiền chùy, Thượng tòa nên đến trước, ngồi trước để nhìn ngó thượng, trung, hạ tòa có ai ngồi không như pháp không, chớ để mất thứ lớp. Nếu có ai ngồi không như pháp thì Thượng tòa nên chỉ bảo ngồi như pháp và theo thứ lớp, nên hiện tướng cho biết, nếu hiện tướng mà cũng không biết thì nên nói với người ngồi gần bên, nếu người gần bên không nói thì Thượng tòa nên đi đến nói để oai nghi của họ được trang nghiêm tề chỉnh. Khi Tăng thọ thực, Thượng tòa nên bảo sớt thức ăn bình đẳng, phải đợi xướng Tăng bạt; nếu có cư só Thượng tòa nên thuyết pháp cho họ. Hỏi: Thế nào là giới cây? - Tức là rừng có nhiều cây cành lá nối tiếp nhau, trong phạm vi một Câu-lô-xá được tùy ý để y cho đến hôm sau, khi mặt trời mọc. Hỏi: Thế nào là phía trước điện đường? - Tức là Tỳ-kheo nên theo thứ lớp chia, nếu tự mịnh phiền não hay làm cho người khác phiền não thì nên tránh đi; nếu phía trước điện đường có hư hoại thì nên tu sửa. Hỏi: Thế nào là phòng? - Trong phòng xá của mình ở, Tỳ-kheo nên tưới quét, tô trét cho bằng phẳng, sắp xếp lại ngọa cụ, nếu dơ thì đem giặt. Hỏi: Thế nào là ngọa cụ? - Nếu dùng ngọa cụ của Tăng thì được mang ra ngoài cửa Tăng phường trong khoảng năm mươi tầm, không được quá, nếu quá cho đến sáng hôm sau thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Thế nào là cài đóng cửa? - Cửa là chỗ ra vào, khi đóng cửa không được đóng mạnh ra tiếng, khi mở cửa nên nhẹ nhàng, khi đi vào chớ bước chân kéo ra tiếng; cửa có hai cánh không được làm đụng ra tiếng. Lại nữa nên cài đóng cửa cả trên lẫn dưới cho chắc chắn rồi mới đi, để phòng hộ cho mình và giữ gìn ngọa cụ. Hỏi: Thế nào là Tăng phường trống? - Khi Tỳ-kheo vào trong Tăng phường trống không, nên tưới quét cho sạch, nếu trong đó có khí cụ cần dùng thì nên rửa sạch đem cất. Nếu có tịnh nhân thì nên bảo họ nhổ sạch cỏ, nếu có cư só thì nên thuyết pháp cho họ. Hỏi: Thế nào là bát? - Bát không được để trên đá, gò đất và gần hầm hố; khi ăn xong xỉa răng súc miệng không được nhổ vào trong bát, cũng không được rửa tay trong bát; không được để bát ở chỗ đất không sạch. Khi rửa không được để ướt quá hay phơi khô quá, cẩn thận để dùng được lâu vì nếu bể thì xin lại rất khó. Hỏi: Thế nào là y? - Phải ái hộ y như da của mình, không được mặc Tăng-già-lê đi gánh vác cỏ cây đất, tưới quét, tô trét…; không được ngồi trên Tăng-già-lê, không được trùm che thân. Tăng-già-lê nên dùng đúng với việc của y Tăng-già-lê, y Uất-đa-la-tăng nên dùng đúng với việc của Uất-đa-la-tăng, y An-đà-hội nên dùng đúng với việc của An-đà-hội, không được để y ở chỗ không sạch; y Tăng-già-lê và y Uất-đa-la-tăng nên cắt rọc, y An-đà-hội có thể không cắt rọc. Nếu Tỳ- kheo không có y mới mà có y cũ hoặc y dư thì nên cắt may thành y năm điều, bảy điều, chín điều… cho đến hai mươi lăm lăm điều, không được nhuộm màu có sắc đẹp, nên nhuộm màu hoại sắc, nhuộm rồi thọ trì. Hỏi: Thế nào là Ni-sư-đàn? Đáp: Phật cho các Tỳ-kheo cất chứa Ni-sư-đàn, không được dùng miếng vải nhỏ làm Ni-sư-đàn, thọ trì rồi không được lìa ngủ đêm. Hỏi: Thế nào là kim? - Phật cho cất chứa hai loại kim bằng đồng và bằng sắt, nên cất kỹ chớ để hư hoại, nếu hư hoại thì xin lại rất khó. Hỏi: Thế nào là hộp kim? - Để đựng cất kim. Hỏi: Thế nào là cháo? - Phật cho dùng cháo vì có năm lợi ích, đó là trừ đói, trừ khát, hạ khí, trừ lạnh dưới rốn và tiêu hóa thức ăn. Húp cháo không được ra tiếng. Hỏi: Thế nào là bình nước? - Phật cho cất chứa bình đựng nước, nên giữ sạch sẽ, không được đựng thức ăn, chỉ để đựng nước. Hỏi: Thế nào là chậu rửa? - Phật cho cất chứa chậu nhỏ đựng nước rửa, nên giữ sạch sẽ. Hỏi: Thế nào là nắp bình? - Phật cho cất chứa nắp bình để đậy miệng bình. Hỏi: Thế nào là nước? - Tỳ-kheo nên giữ nước cho sạch, nên cẩn thận lượt nước, xem kỹ đừng để có trùng. Nên rửa tay sạch và dùng vải sạch để lượt nước, không được dùng tay dơ, vải dơ để lượt nước. Hỏi: Thế nào là bình nước uống? - Phật cho cất chứa bình đựng nước uống, nên giữ sạch sẽ. Hỏi: Thế nào là ăn loại thức ăn Bồ-xà-ni? Đáp: Khi ăn một trong năm loại Bồ-xà-ni nên quán thức ăn này từ đâu mang đến, từ kho lẫm mang đến; kho lẫm có từ đâu, có từ đất; đất có từ đâu, từ phân bón và hạt giống mà sanh, trở lại nuôi dưỡng thân nhơ uế này. Khi vắt cơm ăn nên khởi tưởng là phân dơ, nên chánh niệm tại tiền, tâm không tán loạn, nên quán vì trị bịnh… rồi mới ăn; không nên ăn riêng chúng, lại quán là tùy ý hay không tùy ý… Hỏi: Khi ăn như thế nào? - Khi chánh thực nghe tiếng kiền chùy nên sửa sang y phục, oai nghi tề chỉnh vào trong chúng ăn không được nói ra tiếng. Hỏi: Cho thức ăn như thế nào? - Tỳ-kheo không được tự tay đưa thức ăn cho người khác, trừ cha mẹ, huynh đệ; nếu đưa thức ăn cho khách hay người bịnh hoặc phụ nữ đang mang thai thì nên chánh niệm rồi mới đưa; cũng nên cho súc sanh một phần ít. Có người muốn xuất gia, thấy có ích cho chúng thì nên cho. Hỏi: thọ thực như thế nào? - Nên nhất tâm chánh niệm thọ thực, tâm không tán loạn. Hỏi: Khất thực như thế nào? - Như trong Tỳ-ni. Hỏi: Thọ thỉnh thực như thế nào? - Khi thọ thỉnh thực không nên trộn cơm phủ lên thức ăn ngon, không thọ thức ăn bất tịnh, nên biết thời. Hỏi: Thế nào là Tỳ-kheo A-lan-nhã? - Tỳ-kheo ở A-lan-nhã nên nói lời ôn hòa, miệng móm cười, không được cau mày, nên cất chứa bình đựng nược đựng đầy nước, được cất chứa hỏa châu, nguyệt châu. Hỏi: Thế nào là Thượng tòa ở A-lan-nhã? - Thượng tòa ở A-lan- nhã nên giáo giới Tỳ-kheo trẻ, nên nói pháp A-lan-nhã khiến cho pháp A-lan-nhã được tăng trưởng. Hỏi: Thế nào là tụ lạc? - Tỳ-kheo ở trong tụ lạc, nếu có cư só đến nên thuyết pháp cho họ, tùy sức mà làm. Hỏi: Thế nào là Thượng tòa ở tụ lạc? - Như trên. Hỏi: Thế nào là khách Tỳ-kheo? - Khách Tỳ-kheo mới đến nên đứng yên lặng một chỗ với oai nghi tề chỉnh… Hỏi: Thế nào là khách Thượng tòa? - Khách Thượng tòa nên bảo Tỳ-kheo khách bạch với Tỳ-kheo cựu trụ để xin phòng và ngọa cụ. Hỏi: Đi như thế nào? - Nếu Tỳ-kheo muốn vào sáng ngày mai đi thì ngày nay nên đến từ biệt Hòa thượng, A-xà-lê. Hòa thượng, A-xà-lê cho đi thì mới được đi, nếu không cho đi thì đừng miễn cưỡng đi. Nên tưới quét và thu xếp ngọa cụ trong phòng đã ở rồi mới đi. Hỏi: Thượng tòa đi như thế nào? - Thượng tòa khi đi nên đi sau để xem ngó Tỳ-kheo trẻ tuổi, nhắc nhở họ chớ có tung tăng đùa giỡn. Nên tìm thương buôn tháp tùng làm bạn, đi đến đâu nên xem ngó phương xứ của nước đó, đến trú xứ nào nên xem ngó ngọa cụ, nên quán sát Tỳ- kheo bạn có đồng hay không đồng; nếu giữa đường bị bịnh mà bỏ đi, không chăm sóc thì tùy việc kết phạm. Hỏi: rửa chân như thế nào? - Nếu rửa chân xong thấy hết nước nên đi lấy nước đổ đầy. Hỏi: Thượng tòa rửa chân như thế nào? - Nếu Tỳ-kheo trẻ rửa chân xong nên đưa nước cho Thượng tòa rửa, không nên đứng dậy bỏ đi liền, nên xối nước lên chân cho Thượng tòa rửa. Hỏi: Nhóm họp như thế nào? - Vào ngàu mồng tám, mười bốn, mười lăm Tỳ-kheo không bịnh nên nhóm họp một chỗ để nghe thuyết pháp. Hỏi: Thượng tòa nhóm họp như thế nào? - Khi nghe tiếng kiền chùy, Thượng tòa nên đi trước ngồi trước, im lạêng trong chốc lát rồi nói pháp, nếu tự thân không thể thuyết pháp thì nên bảo Tỳ-kheo khác nói; nếu có cư só đến cũng nên thuyết pháp cho họ, nếu có ngoại đạo đến cũng nên thuyết pháp để nhiếp thủ họ; nên chí tâm thuyết pháp, không được tự cao tự đại. Hỏi: Thuyết pháp như thế nào? - Tỳ-kheo khi thuyết pháp nên cung kính chúng, mến yêu chúng; nên khiêm tốn và chí tâm thuyết pháp, đầy đủ nghóa vị, tâm không tán loạn, tự bi hoan hỉ mà thuyết pháp, nên thuyết theo thứ lớp; không phải vì y thực, tài lợi mà vì pháp, vì kính pháp nên thuyết pháp. Hỏi: Thượng tòa nghe thuyết pháp như thế nào? - Nên quán nghe pháp mà người thuyết pháp đang thuyết là như pháp hay phi pháp; nếu là phi pháp thì nên ngăn, nếu thuyết nhầm lẫn thì nên đính chính, nếu là như pháp thì nên khen ngợi. Hỏi: Đi phi thời như thế nào? - Khi sắp đi nên đến bạch với Hòa thượng, A-xà-lê là con muốn đi đến , bạch rồi mới được đi. Hỏi: Nhóm họp Tăng phi thời như thế nào? - Trừ ngày mồng tám, mười bốn và mười lăm, vào những ngày khác nhóm họp Tăng để làm việc gì hay chia vật gì thì khi nghe tiếng kiền chùy phải mau đến nhóm họp. Thượng tòa nên đến trước, ngồi trước… như trong Tỳ-ni. Hỏi: Tán tụng như thế nào? Đáp: Ở thành Vương xá, các ngoại đạo vào sáu ngày trai hòa hợp một chỗ tán tụng, được nhiều lợi dưỡng và tăng thêm đồ chúng. Vua Bình sa vốn tín kính Phật pháp, liền đến bạch Phật: “Thế tôn, các ngoại đạo vào các ngày mồng tám, mười bốn và mười lăm nhóm họp một chỗ để tán tụng nên được nhiều lợi dưỡng và đồ chúng tăng thêm. Cúi xin Thế tôn cho các Tỳ-kheo vào sáu ngày trai hòa hợp một chỗ thuyết pháp, tán tụng để được nhiều lợi dưỡng và tăng thêm đồ chúng; đàn việt được phước, các Tỳ-kheo thành tựu được Phật pháp và làm cho chánh pháp được tồn tại lâu dài”, Phật chấp thuận cho các Tỳ-kheo vào sáu ngày trai hòa hợp một chỗ thuyết pháp. Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy thuyết pháp, tán tụng giọng không hay nên mọi người không vừa ý, Phật bảo Tỳ-kheo có giọng hay nên tán tụng, vì ngồi ở chỗ thấp tán tụng nên tiếng không vang xa, liền suy nghó: “Nếu Phật cho đứng tán tụng thì tốt”, bạch Phật, Phật cho đứng tán tụng. Lúc đó các Tỳ-kheo tụng kinh quá dài… Phật nói nên lược tụng yếu nghóa; các Tỳ-kheo lại tụng một nữa, Phật nói không được tụng một nữa, nếu tụng một nữa thì phạm Đột-kiết-la. Lúc đó Hai Tỳ-kheo cùng tán tụng làm xúc não chúng, Phật nói không được hai người cùng tán tụng, nếu cùng tán tụng thì phạm Đột-kiết-la. Lúc đó các Tỳ-kheo mỗi người đều dẫn chúng đi, Phật nói không được dẫn đi, nếu dẫn đi thì tùy việc kết phạm… Nếu trong chúng không ai tán tụng được thì nên theo thứ lớp sai, nếu tất cả đều không thể tán tụng được thì mỗi người nên tụng một bài kệ. Hỏi: Thế nào là không bái thỉnh? - Nếu trong chúng thấy ai có thể thuyết pháp thì nên thỉnh thuyết, nếu thỉnh mà không thuyết thì phạm Thâu-lan-giá . Hỏi: Cầu an cư như thế nào? - Khi định an cư nên xem xét trú xứ an cư này có được đồng ý không, có được an lạc trụ không, có cùng nói chuyện cùng ngồi không, thức ăn uống tùy bịnh có dễ được không, nếu bịnh có được thầy thuốc không và có người khán bịnh không. Tỳ-kheo trong đây có thọ trì kinh luật luận không, có tranh cãi không, Tăng có bị phá không… xét kỹ như vậy rồi mới cầu an cư. Hỏi: Trong an cư như thế nào? - Trong an cư, nếu không có nhân duyên thì không được xuất giới ngủ đêm. Nếu có việc thì nên thọ pháp bảy ngày xuất giới; việc là vì tháp, vì Hòa thượng hay A-xà-lê bịnh, vì pháp… mới được xuất giới. Hỏi: Thượng tòa an cư như thế nào? - Thượng tòa an cư nên coi ngó Tăng phường, hang ngồi thiền có hư hoại không, nếu có nên bào tu sửa hoặc khuyến hóa để liệu lý. Hỏi: An cư xong như thế nào? - An cư xong có ba việc nên làm là y, bát, và y Ca-hi-na, trong an cư có được y hay không được y để thọ làm y Ca-hi-na. Hỏi: Quán chúng như thế nào? - Tỳ-kheo nên quán trong chúng ai có oai nghi tốt, ai có oai nghi không tốt; người có oai nghi không tốt thì nên chiết phục, từ chúng Sát-đế-lî cho đến chúng cư só. Hỏi: Vào trong chúng như thế nào? - Vào trong chúng Sát-đế-lî thì nên như thế, như thế; nếu đến trong chúng Bà-la-môn thì nên như thế như thế; đến trong chúng cư só thì nên như thế như thế; đi như thế, đứng như thế, ngồi như thế, nói như thế và im lặng như thế. Hỏi: Trong an cư nên như thế nào? - Trong an cư, các Tỳ-kheo không nên bàn luận về thế sự, quốc sự cho đến chiến đấu thắng hay bại; cũng không nói về việc súc sanh, ngạ quỷ, nam nữ dâm dục và việc ăn uống . Hỏi: Thượng tòa trong an cư như thế nào? - Trong an cư, Thượng tòa nên quán sát chúng có được an lạc không, nếu an lạc thì im lặng; nếu không an lạc thì nên tùy thuận thuyết pháp. Hỏi: Bố tát thuyết giới như thế nào? - Có năm loại như trước đã nói. Hỏi: Người thuyết giới nên như thế nào? - Tỳ-kheo thuyết giới nên sai người thông thuộc giới theo thứ lớp thuyết giới, đừng sai người quên sót văn cú. Nên quán chiếu lại tự thân từ mười lăm ngày trước đến nay có phạm giới không; nếu có mà được Tỳ-kheo đồng ý thì nên sám hối, không được Tỳ-kheo đồng ý thì nên tâm niệm nghó rằng nếu sau được Tỳ-kheo đồng ý sẽ sám hối, như Ba-la-đề-mộc-xoa mà hành trì. Thượng tòa thuyết giới cũng như vậy. Hỏi: Thế nào là Thượng tòa? - Thượng tòa nên xem ngó Tỳ-kheo trẻ đừng để họ phạm giới, khi nghe đánh kiền chùy nên đến ngồi ở tòa trên trong chúng. Hỏi: Thế nào là trung tòa? - Nếu theo Thượng tòa vào tụ lạc, Thượng tòa tiểu tiện chưa xong thì nên đứng ở chỗ hơi xa đợi để cùng đi. Hỏi: Thế nào là hạ tòa? - Khi thọ thực, hạ tòa nên dọn đưa thức ăn và nước, phải quán sớm hay muộn để đợi Hòa thượng; nên tưới quét, trải ngọa cụ…, khi ăn Đát-bát-na cũng nên đưa nước và thỉnh thực. Trong nhà tắm nên đốt lửa và lấy nước, để củi, nên lấy dầu…; nên giúp kỳ cọ và cũng thọ kỳ cọ… tất cả việc đều nên làm. Hỏi: Thế nào là trong nhà tắm nói nhỏ tiếng? - Tức là vào nhà tắm, oai nghi phải tề chỉnh. Hỏi: Tắm rửa như thế nào? - Phật cho các Tỳ-kheo tắm rửa, vì tắm rửa có năm công đức là trừ bịnh phong, trừ lạnh, trừ nóng, trừ dơ và nên khởi tưởng nhàm chán. Khi tắm nên bạch Hòa thượng, A-xà-lê; nên ngồi sau không được ngồi trước, nên canh chừng lửa để nước vừa ấm, nếu lạnh hay nóng nên nói cho người khác biết. Không bạch Hòa thượng thì không được kỳ cọ thân cho người khác, cũng không thọ người khác kỳ cọ cho mình. Nếu Hòa thượng và A-xà-lê hiềm khích nhau thì không nên thân gần, tắm xong nên để các vật dụng tắm lại chỗ cũ. Hỏi: Thượng tòa trong nhà tắm như thế nào? - nếu hạ tòa vào tắm trước thì Thượng tòa không được bảo đứng dậy. Hỏi: Thế nào là Hòa thượng? - Hòa thượng nên dạy đệ tử tụng kinh, dạy nghóa nhiếp, dạy tọa thiền, dạy tránh xa ác tri thức, gần thiện tri thức. Nên cho y bát ngọa cụ thuốc men… , nếu có phạm giới nên dạy bảo sám hối. Hỏi: Thế nào là đệ tử? - Đệ tử nên biết hổ thẹn với Hòa thượng, nên thừa sự chăm sóc, muốn làm việc gì nên bạch, nên đứng trước Hòa thượng chỗ có thể thấy Hòa thượng hiện tướng; khi đi thì nên đi sau… Nếu ở chỗ Hòa thượng không tăng trưởng thiện pháp thì nên bạch Hòa thượng gởi đến chỗ Tỳ-kheo ; Hòa thượng nên quán sát Tỳ-kheo kia dạy bảo pháp gì, quyến thuộc như thế nào… , quán sát rồi mới gởi đệ tử đến đó nương ở; nếu đệ tử ở nơi đó không tăng trưởng thiện pháp thì cũng nên đi. Sa-di, đệ tử cận trụ và đệ tử cộng hạnh cũng vậy, chỉ khác là Sa-di nên tác tịnh hoa quả, tăm, cỏ hoặc bảo tịnh nhân tác tịnh. Hỏi: Trị tội như thế nào? - Tỳ-kheo phạm tội nên làm phương tiện gạn hỏi khiến cho tự nói tội ra, nếu không tự nói tội thì không được xuất tội (cử tội); trước nên tìm cầu bạn hoặc vua, vương tử, đại thần có thế lực rồi mới xuất tội vị ấy, Hỏi: Tỳ-kheo đi sau như thế nào? - Tức là không được đi trước, ngồi trước; không bạch Thượng tòa thì không được nói, khi hỏi cũng phải bạch, Thượng tòa đang nói không được nói xen. Nếu Thượng tòa thuyết phi pháp nên can ngăn, thuyết như pháp nên tùy hỷ, nếu được lợi dưỡn như pháp thì được thọ. Hỏi: Vào nhà như thế nào? - Khi vào nhà cư só, Tỳ-kheo không được đùa giỡn và ngước nhìn xung quanh. Hỏi: Vào nhà bạch y như thế nào? - Nếu Tỳ-kheo mất chánh niệm khi vào nhà bạch y thì có năm lỗi: Một là không nói trước mà vào ngồi, hai là ngồi trong nhà ăn (nhà có nam nữ), ba là ngồi ở chỗ khuất, bốn là ăn biệt chúng, năm là không có tịnh nhân mà thuyết pháp cho người nữ. Nếu chánh niệm thì không có các lỗi này. Hỏi: Vào nhà ngồi như thế nào? - Tỳ-kheo vào nhà bạch y ngồi, không được bàn nói về súc sanh, quốc sự, việc ăn uống…; nên thuyết pháp khiến cho họ được sanh chánh kiến, thực hành bố thí, điều phục các căn, thọ pháp tam quy. Hỏi: Thượng tòa ở trong nhà bạch y như thế nào? - Trong nhà bạch y, Thượng tòa nên nhắc chừng Tỳ-kheo trẻ chớ đùa giỡn mất oai nghi. Hỏi: Tỳ-kheo cựu trụ cùng nói chuyện như thế nào? - Tỳ-kheo cựu trụ thấy khách Tỳ-kheo đến nên chào hỏi thiện lai với lời hòa dịu và miệng móm cười, không được cau mày nhăn mặt. Nên thăm hỏi đi đường có mệt nhọc không, ăn uống có đúng thời không; nên hỏi tuổi hạ lạp, nếu là Thượng tòa thì nên đảnh lễ, cất giúp y bát, trải tòa, lấy nước rửa chân, tùy sức cúng dường, nên đưa ngọa cụ tốt. Hỏi: Nghỉ ngơi như thế nào? - Tỳ-kheo khách mới đến không nên xin phòng xá ngọa cụ liền, nên ngồi yên một chỗ với oai nghi tề chỉnh. Hỏi: Trong hư không như thế nào? - Trong hư không, tất cả yết ma đều không được làm; Tỳ-kheo không được đi trong hư không trừ khi mặt trời mọc; nếu trong an cư thì trừ thọ pháp bảy đêm. Hỏi: Thọ y Ca-hi-na như thế nào? - Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na được năm lợi ích là chứa y dư, thường thường ăn, ăn biệt chúng, không bạch mà vào tụ lạc, không mặc Tăng-già-lê mà vào tụ lạc, cũng được mặc Mạn y vào tụ lạc. Hỏi: Kinh hành như thế nào? - Khi Tỳ-kheo kinh hành thấy có Thượng tòa ở phía trước thì nên bạch, không được đi uốn éo, không được đi quá nhanh cũng không được cúi đầu quá thấp; nên thu nhiếp các căn, tâm không theo ngoại duyên, nên đi thẳng, nếu đi không thể thẳng thì nên men theo dây mà đi. Hỏi: Đãy lượt nước như thế nào? - Tỳ-kheo không có đãy lượt nước thì không nên đi xa, trừ đi đến chỗ có nước sạch, hay nước sông nước suối hoặc trong khoảng nữa do tuần có trú xứ liên tiếp nhau, không mang theo đãy lượt nước không phạm. Hỏi: Hạ phong như thế nào? - Khi hạ phong không nên phát ra tiếng. Hỏi: Vào nhà xí như thế nào? - Tỳ-kheo vào nhà xí nên khảy móng tay trước cho người bên trong biết, khi vào nên chánh niệm, khéo nhiếp y, thân ngồi an rồi từ từ đi, không được cố rặn. Hỏi: Bên nhà xí như thế nào? - Bên nhà xí không được giặt y, cắt rọc, may vá và nhuộm y; không được tụng kinh, tác bạch, kinh hành… tất cả việc đều không được làm trừ nhà xí liên tiếp nhau. Hỏi: Dép đi nhà xí như thế nào? - Mang dép lên nhà xí không được làm dính dơ. Hỏi: Thượng tòa vào nhà xí như thế nào? - Nếu thấy hạ tòa vào trước, Thượng tòa không được bảo ra. Hỏi: Rửa như thế nào? - Tỳ-kheo đại tiểu tiện xong mà không rửa sạch thì không được lễ bái và thọ lễ bái, không được ngồi nằm trên ngọa cụ của Tăng; trừ chỗ không có nước hoặc vì phi nhân, thần nước giận. Đại hành (đại tiện) xong cũng rửa tay sạch như vậy. Bên chỗ rửa tay không được giặt y… như trên. Hỏi: Ở chỗ rửa tay như thế nào? - Nên rửa từ từ, không được làm dép bị dính dơ và bị ướt. Hỏi: Tiểu tiện như thế nào? - Tỳ-kheo không được tiểu tiện khắp nơi, nên đào hố ở một chỗ nhất định. Bên chỗ tiểu tiện không được giặt y… như trên; mang dép tiểu tiện cũng không được làm dính dơ. Nếu thấy hạ tòa tiểu tiện trước, Thượng tòa không được bảo đứng dậy. Hỏi: Vót cỏ làm thẻ như thế nào? - Không được vót nhọn hoặc dùng vật trơn láng như đá, gỗ mà làm thẻ. Hỏi: Khạc nhổ như thế nào? - Không được khạc nhổ ra tiếng, không được khạc nhổ nơi đất sạch, chỗ ăn uống. Nếu không nhịn được thì đứng dậy tránh ra chỗ xa, không làm xúc não người khác. Hỏi: Khí vật như thế nào? - Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa hai loại khí vật là bát và ống nhổ, nên giữ cẩn thận đừng cho bể, nếu bể xin lại rất khó. Hỏi: Tăm xỉa răng như thế nào? - Cây tăm không được làm quá lớn, quá nhỏ, quá dài hay quá ngắn. Loại dài nhất là mười hai ngón tay, ngắn nhất là sáu ngón tay. Có ba việc nên làm ở chỗ khuất là đại tiểu tiện và xỉa răng, không được xỉa răn ở trước Thượng tòa, cũng không được xỉa răng dưới gốc cây sạch, bên vách tường sạch. Hỏi: xỉa răng như thế nào? - Không nên xỉa quá nhanh, nên xỉa từ từ, đừng xỉa vào nứu làm nứu bị thương. Hỏi: Nạo lưỡi như thế nào? - Không được dùng vật bén nạo lưỡi, không được nạo quá nhanh làm lưỡi bị thương. Hỏi: Ngoái tai như thế nào? - Không được dùng vật nhọn ngoái tai, không được ngoái quá mạnh làm hư màng nhó. Hỏi: Thế nào là oai nghi? - Tất cả công đức của Sa-môn được phát sanh đều nhờ nơi oai nghi, ngược với trên gọi là không có oai nghi. Hỏi: Thế nào là tam tụ? - Tức là tụ thọ giới, tụ tương ưng và tụ oai nghi. <篇> <卷>QUYỂN 7 Phần Tạp Sự (Tiếp Theo): Hỏi: Như Phật dạy nơi biên địa đủ năm luật sư được truyền giới cụ túc cho người, nếu có đủ mười luật sư mà chỉ lấy năm vị để tác pháp truyền thọ giới thì có đắc giới không? Đáp: Đắc giới nhưng các Tỳ-kheo phạm tội. Hỏi: Như Phật dạy cất chứa y quá mười đêm thì phạm Xả đọa, thế nào là y dư? Đáp: Nếu nhận vào tay, hoặc để trên đầu gối, trên vai và nghó đây là y của tôi thì gọi là y dư. Hỏi: Tỳ-kheo được ngồi nằm trên giường của Thượng tòa không? - Trải ngọa cụ rồi ngồi nằm thì không phạm. Hỏi: Như Phật dạy không được nắm đuôi bò qua sông, có được nắm đuôi các loài khác không? - trừ đuôi cọp, đuôi voi, đuôi ngựa và đuôi sư tử ra nắm đuôi các loài khác lội qua sông thì không phạm. Hỏi: Nước đường có được thọ dùng trong bảy ngày không? - Được Mấy thời được dùng? - Cho đến chưa xả tự tánh Hòa nấu với loại dược bất tịnh thì được ăn hay không? - không được, chỉ dùng thoa thân, thoa ghẻ hoặc nhỏ mũi. Hỏi: Mỡ bất tịnh nấu với muối thì được ăn hay không? - không được, nếu nấu với mỡ heo thì không phạm. Hỏi: Tỳ-kheo tự tay tác tịnh năm loại giống hoặc dùng dao tịnh, hoặc dùng trảo tịnh thì có thành tịnh hay không? - Thành tịnh. Được ăn hay không? - Được ăn, trừ dùng hỏa tịnh; nếu hỏa tịnh thì giết chết cỏ, phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Cây ở đất bất tịnh, quả rơi xuống đất tịnh thì có được ăn không? - Không được ăn. Hỏi: Tịnh nhân ở đất bất tịnh, tác tịnh trên đất bất tịnh thì có thành tịnh hay không? - Thành tịnh Được ăn hay không? - Được ăn, trừ dùng hỏa tịnh. Hỏi: Tịnh nhân ở đất bất tịnh, tác tịnh trên đất tịnh thì có thành tịnh hay không? - Thành tịnh Được ăn hay không? - Được ăn, trừ dùng hỏa tịnh. Hỏi: Thịt lươn được ăn hay không? - Không được. Hỏi: Sữa người được uống hay không? - Không được, chỉ được nhỏ mắt. uống. Hỏi: Nước Tô-tỳ-la được uống phi thời hay không? - Bịnh thì được Hỏi: Tất cả các loại thịt bất tịnh đều không được ăn, thịt người được ăn hay không? - Không được Nếu ăn thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá, trừ thịt người, các loại thịt bất tịnh khác có được ăn hay không? - Không được. Hỏi: Thế nào là bất tịnh nhục? - Các loại thịt như thịt lươn, thịt rắn, ễnh ương, quạ… đều không được ăn. Hỏi: Ngay ngày thọ Thời dược, Thất nhật dược, Chung thân dược hòa lẫn nhau thì được dùng hay không? - Như đã nói ở trước. Hỏi: Không tự tay thọ dược, miệng không nói thọ, không bịnh có được dùng hay không? - Không được. Hỏi: Thời dược, Phi thời dược, Thất nhật dược, Chung thân dược không tự tay thọ, miệng không nói thọ, để cách đêm có được dùng hay không? - Không được - Tự tay thọ, nói thọ, nội túc thì được dùng hay không? - Không được nhưng nếu bịnh thì được dùng. Hỏi: Thế nào là dưỡng bịnh? - Trừ tánh tội, còn lại đều là dưỡng bịnh. Hỏi: Phật cho uống tám loại nước ép trái cây, mấy thời được dùng? - Cho đến chưa xả tự tánh đều được uống. Hỏi: Bên người cuồng có được lấy y hay không? - Hoặc được hoặc không được. Nếu người cuồng không biết cha mẹ, huynh đệ, chị em ở đâu lại tự tay mang vật đến thí thì được thọ lấy; ngược lại nếu không biết cha mẹ… ở đâu và cũng không tự tay thí thì không được lấy. Hỏi: Bên người cuồng nói thọ trì y thì có thành thọ trì không? - Nếu bỏ tự tánh thì thành thọ trì. Hỏi: Tỳ-kheo ở một mình nếu có người cúng y, Tăng hiện tiền nên chia, lại không có Tỳ-kheo nào khác thì y này phải làm sao? - Tỳ- kheo này khi thọ y nên tâm niệm miệng nói: “Tôi ở trú xứ này được y, hiện tiền Tăng nên chia, trong đây không có Tăng, y này thuộc về tôi, của tôi, tôi thọ y này sẽ cắt rọc, may, nhuộm rồi thọ trì”, làm yết ma như vậy rồi nếu có Tỳ-kheo khác đến thì không nên chia; nếu chưa làm yết ma như trên thì nên chia, nếu không chia thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo được y cúng cho Tăng, ở ngoài giới tự lấy thì phạm Đột-kiết-la; nếu lấy với tâm trộm cắp thì tùy việc kết phạm; hai hay nhiều người cũng vậy. Hỏi: Con của trưởng giả bị đuổi cúng y, có được thọ không? - Không được. Nếu y cúng cho Tăng tự tự thì Tăng tự tứ nên chia; nếu cúng cho Tăng hiện tiền thì Tăng hiện tiền nên chia. Hỏi: Trong an cư, Tỳ-kheo vì việc Tăng mà xuất giới nếu được y vật thì nên chia cho vị này, người phá an cư có được chia hay không? - Hoặc được hoặc không. Nếu có tiền hay hậu an cư rồi mà phá thì được chia; nếu đều không tiền hay hậu an cư thì không được chia. Hỏi: Tỳ-kheo khán bịnh ra ngoài giới, sau đó Tỳ-kheo bịnh chết, có nên đem y của người bịnh cho người khán bịnh không? - Hoặc cho hoặc không cho. Nếu nguời khán bịnh vì người bịnh mà đi thì nên cho; nếu vì việc riêng của mình mà đi thì không nên cho. Hỏi: Bạch y nuôi bịnh có nên cho hay không? - Nên cho phần ít; cho đến Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni cũng vậy. Hỏi: An cư ở chỗ này mà khán bịnh ở chỗ khác, nếu người bịnh chết thì có nên cho y không? - Nên cho Hỏi: Sa-di nuôi bịnh nên cho hết hay chỉ cho phần ít? - Hoặc cho hết hoặc chia đều. Nếu không có người khán bịnh, Tăng phải thứ lớp chăm sóc, nếu không chăm sóc thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người được Tăng sai khán bịnh mà không khán bịnh thì phạm Đột-kiết-la; người bịnh nếu không nghe theo lời của người khán bịnh thì phạm Đột-kiết-la; người khán bịnh không thuận theo lời của người bịnh cũng phạm Đột- kiết-la. Nếu có người cúng thí vật bất tịnh (tiền bạc vật báu), Tỳ-kheo nên nói: “Chúng tôi không được thọ vật bất tịnh này”, nên bảo họ đưa cho tịnh nhân, nếu được tịnh thì sẽ thọ. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở bốn nơi an cư mà thành an cư không? - Có, nếu an cư trên giường cây đặt ở giữa bốn giới. - Ở đâu được y an cư? - Bốn nơi cùng cho một phần. Nếu vải không đủ lượng mà may y tắm thọ trì thì phạm Đột-kiết- la, y phủ ghẻ cũng vậy. Nếu cất chứa ba loại y của ngoại đạo là y may bằng da, y dệt bằng lông và y kết bằng tóc thì phạm Thâu-lan-giá; trừ ba loại y trên, cất chứa các loại y khác thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Như Phật dạy y cũ không được thọ làm y Ca-hi-na, thế nào là y cũ? - Tức là y đã thọ làm y Ca-hi-na trước đó rồi. Hỏi: Như Phật dạy y mới được thọ làm y Ca-hi-na, thế nào là y mới? - Tức là y lần đầu thọ làm y Ca-hi-na. Hỏi: Như Phật dạy nên khởi ba tâm thọ y Ca-hi-na, thế nào là ba tâm? - Thọ vải mới rồi khi giặt, khi cắt rọc và khi nhuộm nên khởi ba tâm: “Y này Tăng sẽ thọ, nay thọ, đã thọ làm y Ca-hi-na”; nếu không khởi ba tâm này thì thọ không thành thọ, phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Như Phật dạy y để cách đêm thọ làm y Ca-hi-na thì thọ không thành thọ, thế nào là y để cách đêm? - Tức là y để quá mười đêm hoặc chỉ trải qua một đêm. Hỏi: Như Phật dạy y bất tịnh thọ làm y Ca-hi-na thì không thành thọ, thế nào là y bất tịnh? - Tức là y mà liên tiếp ngày có được. Hỏi: Như Phật dạy y cũ thọ làm y Ca-hi-na thì không thành thọ, thế nào là y cũ? - Tức là y mà Tỳ-kheo đã thọ làm ba y. Hỏi: Như Phật dạy y được đập thọ làm y Ca-hi-na thì thành thọ, thế nào là y được đập? - Tức là y mới. - Thế nào là y đả tịnh (được đập sạch)? - Tức là y hoại sắc khi chưa thọ làm y Ca-hi-na. Hỏi: Tăng chia làm hai chúng, một chúng thọ, một chúng không thọ thì hai chúng có thành thọ không? - Chúng nào thọ thì thành thọ, chúng nào không thọ thì không thành thọ. Hỏi: Tăng chia làm hai chúng, một chúng xả, một chúng không xả thì hai chúng có thành xả không? - Chúng nào xả thì thành xả, chúng nào không xả thì không thành xả. Hỏi: Khi Tăng bị phá thì ai nên thọ? - Ai như pháp thì nên thọ. Nếu y chưa thành mà thọ làm y Ca-hi-na thì không thành thọ; y thành thì thọ thành thọ. Trú xứ thọ y Ca-hi-na có mười lợi ích như trong Tỳ-ni, mặc y Tăng-già-lê vào tụ lạc có năm công đức, y tắm mưa cũng vậy. Hỏi: Như Phật dạy trú xứ thọ y Ca-hi-na được lợi ích, thế nào là trú xứ được lợi ích? - Tức là được lợi ích của y Ca-hi-na. Hỏi: Như Phật dạy y cấp thí được thọ làm y Ca-hi-na, thế nào là y cấp thí? - Còn mười ngày nữa mới đến tự tứ, nếu được cúng y thì y này gọi là y cấp thí, thọ làm y Ca-hi-na thì thành thọ. Hỏi: Như Phật dạy y được trong ba tháng đều được thọ làm y Ca- hi-na, thế nào là y được trong ba tháng? - Tăng cựu trụ tự tứ vào ngày mười lăm, Tỳ-kheo khách đến đông hơn là đồng kiến đồng trụ mà tự tứ vào ngày mười bốn ; nếu Tăng cựu trú tùy thuận theo Tỳ-kheo khách để tự tứ thì y có được trong ngày này gọi là y được trong ba tháng, thọ làm y Ca-hi-na thì thành thọ. Hỏi: Như Phật dạy Thời y được thọ làm y Ca-hi-na, thế nào là Thời y? - Tự tứ xong, trong một tháng sau được y thì gọi là Thời y. Hỏi: Như Phật dạy y bất tịnh không được thọ làm y Ca-hi-na, thế nào là y bất tịnh? - Tức là y của tỳ-kheo chết để lại. Hỏi: Có năm hạng người thọ y Ca-hi-na không gọi là thọ, đó là năm hạng người nào? - Đó là người không có tuổi hạ, người phá an cư, người hậu an cư, người an cư ở trú xứ khác và người bị tẫn. Hỏi: Trong tám trường hợp xả y Ca-hi-na có mấy trường hợp cùng xả, mấy trường hợp không cùng xả? - Trừ hai trường hợp sau, các trường hợp khác đều là cùng xả. Hỏi: Có trường hợp ngay ngày thọ y Ca-hi-na, ngay ngày đó liền xả mà không tác pháp yết ma hay không? - Có, nếu Tăng cựu trụ thọ y vào ngày mười sáu, Tỳ-kheo khách đến đông hơn cùng nói với nhau xả thì thành xả. Hỏi: Thế nào là phá Tăng? - Là phi pháp tưởng là phi pháp mà phá Tăng thì bị đọa vào địa ngục Vô gián, có bốn câu: Một là phá Tăng không phải là thọ pháp, tức là phá tăng mà không thọ mười bốn việc. Hai là thọ pháp không phải là phá Tăng, tức là thọ mười bốn việc mà không phá Tăng. Ba là cũng thọ pháp cũng phá Tăng, tức là thọ mười bốn việc để phá Tăng. Bốn là không thọ pháp cũng không phá Tăng, tức là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Khi Tăng hoại, xả giới có thành xả không? - Nếu như pháp thì thành xả. Hỏi: Khi Tăng hoại, Tỳ-kheo-ni được bố tát không? - Được. Hỏi: Khi Tăng bị phá, Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên làm gì? - Nên ở trong chúng như pháp, không được đưa tin. Hỏi: Khi Tăng hoại, có nên giáo giới cho Tỳ-kheo-ni không? - Nếu có người nói pháp ngữ thì nên giáo giới, nếu không có thì không nên giáo giới, Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên ra ngoài giới để giáo giới. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo tùy thuận Tỳ-kheo bị tẫn thì phạm Đột-kiết-la, vậy người bị tẫn ở một mình hay là có bạn? - Phải ở một mình không có bạn, không được cùng ăn với người bị tẫn, nếu không biết là bị tẫn nên cùng ăn thì không phạm. Tỳ-kheo thọ pháp cùng ăn với Tỳ-kheo không thọ pháp thì không phạm, Tỳ-kheo không thọ pháp cùng ăn với Tỳ-kheo thọ pháp thì phạm Đột-kiết-la. Có bốn người tùy thuận phá Tăng thì gọi là phá Tăng. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo như vậy thì không được tẫn, thế nào là Tỳ-kheo như vậy? Đáp: Nếu Tỳ-kheo có oai đức lớn, trì kinh luật luận, đa văn, có nhiều tri thức, nhiều quyến thuộc… tẫn người như vậy thì phạm Thâu- lan-giá. Hỏi: Có Tỳ-kheo tin ưa thì nên xuất tội, thế nào là Tỳ-kheo tin ưa? - Là nghe theo hay tin lời, nếu bảo sám hối mà không sám hối thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu Tăng hoại, ai nên xả y Ca-hi-na? - Người nói pháp ngữ nên xả. Hỏi: Người bị tẫn hạ ý tùy thuận chiết phục, có nên xả yết ma không? - Nên xả yết ma. Hỏi: Nếu các Tỳ-kheo đồng ý thì nên cho ngọa cụ, thế nào là đồng ý? - Là tịch tónh không xúc não nhau. Hỏi: Các Tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly và Câu-xá-di nhóm họp một chỗ thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên làm thế nào? - Nên ra ngoài giới bố tát. Hỏi: Các Tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly và Câu-xá-di bố tát chung thì có thành bố tát không? - Không thành bố tát. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm Thác lại tra bố tát chung với các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly thì có thành bố tát không? - Thành bố tát. Hỏi: Tỳ-kheo nên gởi dục cho Tỳ-kheo-ni cầu giáo giới, thế nào là gởi dục cầu giáo giới? - Tỳ-kheo nên nói: “Các cô hãy hòa hợp làm bố tát”. Hỏi: Khi làm bố tát, Tăng bị phá làm hai bộ, có nên giáo giới cho Tỳ-kheo-ni không? - nên giáo giới. - Giáo giới ở đâu? - Nên ra ngoài giới để giáo giới. Hỏi: Như Phật dạy phi pháp không hòa hợp, phi pháp hòa hợp, như pháp không hòa hợp và như pháp hòa hợp, nghóa như thế nào? - Trường hợp phi pháp không hòa hợp là đáng nên cho yết ma Khổ thiết thì lại cho yết ma tẫn và Tăng không hòa hợp. Trường hợp phi pháp hòa hợp là đáng nên cho yết ma Khổ thiết thì lại cho yết ma tẫn và Tăng hòa hợp. Trường hợp như pháp hòa hợp là trước tác bạch sau yết ma, Tăng cùng hòa hợp. Trái với điều này là như pháp không hòa hợp. Một Tỳ-kheo tẫn một Tỳ-kheo, nhiều người tẫn bốn Tỳ-kheo thì phạm Đột- kiết-la; bốn người tẫn bốn người thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Khi tẫn Tỳ-kheo mà ngủ thì có thành tẫn hay không? - Nếu nghe tác bạch rồi ngủ thì thành tẫn, ngủ trước khi tác bạch thì không thành tẫn. Nếu khi Tăng tẫn Tỳ-kheo mà không đến thì nên lấy dục. Hỏi: Thế nào là đến yết ma? - Tức là bốn Tỳ-kheo thanh tịnh cùng ở cho đến hai mươi người cũng vậy. Hỏi: Nếu khi Sa-di muốn thọ giới cụ túc mà không nói cho con thọ giới thì có đắc giới không? - Đắc giới. Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni khi thọ giới cụ túc cũng vậy; người hành Biệt trú, người hành Bổn nhật trị, người hành Ma-na-đỏa cho đến người cầu xuất tội… mười hai hạng người cũng vậy. Hỏi: Khi Tăng tác pháp tẫn, người bị tẫn ngủ thì có thành tẫn không? - Nếu nghe tác bạch thì thành tẫn, không nghe thì không thành tẫn; người nhập Diệt tận định cũng vậy. Khi Tăng bị phá thì tất cả yết ma tẫn đều không thành tẫn. Hỏi: Nếu yết ma phi pháp thì tất cả yết ma là không hòa hợp hay là yết ma không hòa hợp thì tất cả yết ma là phi pháp? - Nếu Tỳ-kheo bị tẫn không hiện tiền, không tự nói tội, Tăng không bảo tự nói tội, không bảo nhớ nghó, không ở trong giới thì gọi là phi pháp; tất cả Tăng nhóm họp, người không đến gởi dục thì gọi là hòa hợp. Ngược với trường hợp trên thì gọi là yết ma như pháp không hòa hợp. Hỏi: Khi bố tát, trong Tăng hỏi ba lần, tự nhớ mình có tội mà không phát lồ thì tất cả đều phạm tội phải không? - Nếu trong Tăng hỏi ba lần, nhớ có tội mà không phát lồ thì tất cả đều phạm tội; nếu tự nói tôi không phải là Tỳ-kheo cũng vậy. Hỏi: Người biệt trụ tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn không? - Thành tẫn, chỉ trừ yết ma thọ giới, các yết ma khác đều được làm. Hỏi: Trước đã bạch Tăng rồi tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn không? Thành tẫn, có có một vị hoặc Tăng không biết mà tẫn Tỳ-kheo thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Tỳ-kheo bị phạt nếu hạ ý điều phục thì nên cho xả không? Nên cho xả. Hỏi: Một lần nói cho hai người thọ giới cụ túc thì có đắc giới không? - Không đắc giới. Hỏi: Một lần nói cho bốn người thọ giới cụ túc thì có đắc giới không? - Không đắc giới. Hỏi: Thọ dục đủ túc số bốn người để tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn không? - Không thành tẫn, trường hợp tặc trú đủ túc số cũng vậy. Hỏi: Đáng cho xả yết ma Khổ thiết mà lại cho xả yết ma Khu xuất thì có thành xả yết ma không? - Thành, vì xả yết ma Khổ thiết tức là xả yết ma Khu xuất . Hỏi: Tác yết ma Khổ thiết để tẫn Tỳ-kheo thì có thành tẫn không? - Thành tẫn. Hỏi: Yết ma Khu xuất có nghóa gì? - Nghóa là Tỳ-kheo thường phạm giới nếu không ngừng lại thì không cho y chỉ. Hỏi: Yết ma Khổ thiết có nghóa gì? - Nếu Tỳ-kheo không dứt tranh cãi, Tăng nên nói: “Nếu thầy không dứt tranh cãi thì Tăng sẽ gia tội cho thầy”. Hỏi: Yết ma tẫn có nghóa gì? - Nếu Tỳ-kheo Ô-tha-gia thì không được ở nơi ấy nữa. Hỏi: Phát hỉ sám hối có nghóa gì? - Nếu Tỳ-kheo làm mất lòng đàn việt, Tăng nên nói: “Nếu thầy không đến sám tạ đàn việt thì Tăng sẽ gia tội cho thầy”. Có một việc nhiếp tất cả Tỳ-ni, đó là luật nghi; có một việc không nhiếp tất cả Tỳ-ni, đó là phi luật nghi; có một việc nhiếp tất cả tội phạm giới, đó là phi luật nghi; có một việc không nhiếp tất cả tội phạm giới, đó là luật nghi. Có người làm một việc mà phạm đại tội, đó là phá Tăng; lại có người làm một việc mà phạm đại tội, đó là tâm ác làm Phật bị thương chảy máu; lại có người làm một việc mà phạm đại tội, đó là phỉ báng Hiền thánh; lại có người làm một việc mà phạm đại tội, đó là tùy thuận phá Tăng; lại có người làm một việc mà phạm đại tội, đó là phỉ báng Như lai và chúng Hiền thánh. Có một việc phi pháp ngăn thuyết giới phạm đại tội, đó là không căn cứ; có một việc sát sanh phạm đại tội, đó là giết Phật Bích chi. Có người làm một việc mà phạm đại tội, đó là lấy trộm Tăng vật; lại có người làm một việc mà phạm đại tội, đó là hành dâm Tỳ-kheo-ni A-la-hán. Có một việc vọng ngữ phạm đại tội, đó là rỗng không mà nói là được pháp hơn người. Có hai loại phạm tội, đó là bất thiện và vô ký; lại có hai loại phạm tội, đó là hữu dư và vô dư; lại có hai loại phạm tội ở miệng, đó là bất thiện và vô ký; lại có hai loại phạm tội ở thân, đó là bất thiện và vô ký; lại có hai loại phạm tội hữu dư, đó là bất thiện và vô ký; lại có hai loại phạm tội vô dư, đó là bất thiện và vô ký; lại có hai loại phạm tội, đó là vô ký ẩn mất và vô ký không ẩn mất; lại có hai loại phạm tội, đó là chướng ngại và không chướng ngại; lại có hai loại phạm tội, đó là cộng và bất cộng; lại có hai loại phạm tội, đó là Tỳ-kheo cùng Tỳ-kheo-ni và Tỳ-kheo-ni cùng Tỳ-kheo; Tỳ-kheo cùng Thức-xoa-ma-na và Thức- xoa-ma-na cùng Tỳ-kheo; Sa-di và Sa-di-ni cũng như vậy. Có hai loại phạm tội, đó là Tỳ-kheo cùng Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-tắc cùng Tỳ-kheo; Ưu-bà-di cũng vậy. Có hai loại mà tất cả thời đều phạm, đó là Phật tại thế và sau khi Phật diệt độ. Có hai loại phạm tội, đó là quốc độ nhiếp và phương xứ nhiếp; lại có hai loại phạm tội, đó là trọng và khinh; lại có hai loại phạm tội, đó là nên xuất tội và không nên xuất tội; lại có hai loại phạm tội, đó là xuất gia và nhập gia; lại có hai loại phạm tội, đó là có thể sám hối và không thể sám hội; lại có hai loại phạm tội, đó là chế và khai; lại có hai loại phạm tội, đó là khởi và không khởi; lại có hai loại phạm tội, đó là trọn đời và tạm thời; lại có hai loại phạm tội, đó là hoại và không hoại; Có hai loại phạm tội khinh, đó là hữu dư và vô dư; lại có hai loại phạm tội trọng, đó là hữu dư và vô dư; lại có hai loại phạm tội, đó là sám trọng khinh Thâu-lan-giá. Bạch y có hai loại phạm tội là sám hối và tâm sám hối. Có hai loại phạm tội, đó là có quả báo và không có quả báo; lại có hai loại phạm tội, đó là vào trong chúng và đối trước một người; Có hai loại phạm tội, đó là khéo dùng phương tiện không phạm tội và không khéo dùng phương tiện phạm tội. Có hai loại hổ thẹn, đó là có mong cầu gì và không có mong cầu gì. Có hai loại Tăng đoán sự, đó là tác pháp yết ma và không tác pháp yết ma; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là Tăng sai và không sai; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là nói lời dịu hòa và nói lời thô sẳn; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là người nói và người nghe; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là thời nói đúng thời và phi thời nói phi thời; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là rõ ràng và không rõ ràng; quyết đoán và không quyết đoán. Có hai loại Tăng đoán sự, đó là có ân huệ và không có ân huệ; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là như dê bị thiến ác khẩu và không như dê bị thiến ác khẩu; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là đa văn và không đa văn; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là thông lợi A-hàm và không thông lợi A-hàm; Có hai loại Tăng đoán sự, đó là hiểu rõ và không hiểu rõ. Có hai loại Tăng đoán sự, đó là như pháp và không như pháp; đúng thời và phi thời; biết suy xét và không biết suy xét. Có hai loại phỉ báng Như lai: Phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; có hai loại phạm tội, đó là tác và vô tác; có hai loại điều phục: tẫn và chê trách. Có hai loại phỉ báng Như lai: Có lòng tin mà hiểu sai lạc và không có lòng tin lại sân hận; ngược với hai pháp trên là bạch pháp. Có hai loại tội là ác giới và ác kiến; có hai loại khổ thiết là phạt ở trong chúng và phạt riêng; có hai loại khu xuất là phạt và Tăng hòa hợp; có hai loại biệt trụ là người phạm giới biệt trụ và ngoài đạo biệt trụ. Có hai loại Bổn nhật trị là phạt và khiến cho giới đầy đủ; có hai loại Ma- na-đỏa là phạt và điều phục. Có hai loại quét dọn là phạt và tâm thiện; có hai loại thanh tịnh là tác thanh tịnh và vô tác thanh tịnh. Có hai loại Tỳ-kheo tranh cãi là Tỳ-kheo tranh cãi với Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni tranh cãi với Tỳ-kheo-ni… cho đến Sa-di-ni cũng vậy. Có ba loại phạm tội, đó là do tham, sân và si sanh; có ba loại phạm tội về thân, đó là do tham, sân, si sanh; có ba loại phạm tội về miệng, đó là do tham, sân và si sanh. Có ba loại phi Tỳ-ni do tham, sân và si sanh; có ba loại Tỳ-ni về tham, sân và si. Có ba pháp nhiếp tất cả tội: Nhân duyên, chế và phân biệt. Có ba loại yết ma nhiếp tất cả yết ma: Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma. Có ba loại yết ma: Tăng yết ma, Thác-lại-tra yết ma và bố tát yết ma. Có ba loại học: Tăng thượng giới học, tăng thượng định học và tăng thượng huệ học; lại có ba loại học là oai nghi, Tỳ-ni và Ba-la-đề- mộc-xoa. Có ba loại phạm tội, đó là thân khẩu và ý. Có ba loại tranh cãi là thiện, bất thiện và vô ký. Có ba nghiệp là pháp, phi pháp và tợ pháp. Có ba nhân duyên phá Tăng là nghe, thọ lấy thẻ và kiến lập hai bộ. hạnh. Có ba loại nên diệt là phạm, phạm rồi tự nói và tự nói đã phạm. Có ba bậc thọ cúng dường là Như lai, Thượng tòa và đồng phạm Có ba bậc nên đứng dậy nghinh đón là Như lai, Thượng tòa và đồng phạm hạnh. Có ba hạng người nên lễ bái, nếu không lễ bái thì phạm tội, đó là Hòa thượng, A-xà-lê và vị pháp ngữ cho biệt trụ. Có ba hạng người không lễ bái không có phạm tội, đó là người Bất cọng trụ, người hành Biệt trú và hạ tòa. Có ba loại sai là Tăng sai, riêng tư sai và Ba-la-đề-mộc-xoa sai; lại có ba loại sai là tăng sai, năm chúng sai và vua sai; lại có ba loại sai là Hòa thượng sai, A-xà-lê sai và Ưu-bà-tắc sai; lại có ba loại sai là Hòa thượng sai, A-xà-lê sai và Thượng tòa sai. Có ba loại tự tứ là thỉnh tự tứ, thường thường tự tứ và thường tự tứ; lại có ba loại tự tứ là gởi dục tự tứ, thanh tịnh tự tứ và tâm tự tứ; lại có ba loại tự tứ là y tự tứ, thực tự tứ và dược tự tứ. Có ba loại chế là nhân duyên khởi tội mà chế, giáo giới tội mà chế và do chiết phục mà chế. Có ba loại yết ma là Tăng yết ma, vì thí chủ yết ma, và vì tài vật yết ma. Có ba loại kiến lập là tài lợi, người và cương giới. Có bốn loại biết là phạm, không phạm, thanh tịnh và không thanh tịnh. Có bốn loại thanh tịnh là thấy, sám hối, giáo giới và xuất tội. Có bốn loại không dừng là tham, sân, si và cả tham sân si; ngược với trên là bốn loại dừng. Có bốn chúng là chúng cạo bỏ râu tóc, chúng ô uế, chúng trí huệ và chúng tranh cãi. Có bốn nhân duyên nên Phật cho các Tỳ-kheo được uống thuốc, đó là vì duyên sự, tùy quốc độ, tùy thời và vì người. Có bốn loại dược là bất tịnh và tịnh thọ dùng, tịnh và bất tịnh thọ dùng, bất tịnh và bất tịnh thọ dùng, tịnh và tịnh thọ dùng. Có bốn việc Như lai chế phục đệ tử, đó là chớ làm, chế phục, cầu xuất tội và vì pháp trụ lâu. Có bốn cảnh giới của Như lai, đó là trí, pháp, người và thần túc. Ở trong bốn cảnh giới này mà Như lai chế giới, chế Tỳ-ni, chế Ba-la-đề- mộc-xoa, Tu-đa-la, A-tỳ-đàm, chú thuật cứu cánh, Tỳ-ni tập, Tỳ-ni phát lồ tội, nhớ nghó tội, cơ hiềm tội, quốc độ tội; thanh tịnh, thọ thanh tịnh, thuyết thanh tịnh; tự tứ, người tự tứ, yết ma tự tứ, gởi dục tự tứ, thọ dục tự tứ, thuyết dục tự tứ, ngăn tự tứ; yết ma Khổ thiết, yết ma Khu xuất, yết ma tẫn, yết ma sám hối; cho thọ giới cụ túc, không cho thọ giới cụ túc, thọ đắc giới cụ túc, không thọ đắc giới cụ túc; y chỉ, cho y chỉ, nói y chỉ, thọ y chỉ; yết ma phi pháp, yết ma như pháp, yết ma tợ pháp, yết mA-tỳ-ni, yết ma phi Tỳ-ni, yết ma hòa hợp, yết ma không hòa hợp, yết ma có thể chuyển đổi, yết ma không thể chuyển đổi; Hòa thượng, A-xà- lê và đệ tử, đồng ý, nhẫn nhục, sám hối, bảo sám hối, chánh thuận xả tất cả yết ma… tất cả các việc trên đều ở trong bốn cảnh giới của Như lai là trí, pháp, người và thần túc. Có năm nhân duyên để thọ yết ma, đó là tự tác yết ma, người khác tác yết ma, hiện tiền tùy hỉ , gởi dục và xuất tội. Có năm việc khổ thiết: Hoặc nói tôi sẽ đến trong Tăng này nói tội của thầy, hoặc nói tôi sẽ đến trong Tăng khác nói tội của thầy, hoặc nói tôi sẽ nói tội của thầy, hoặc nói tôi sẽ dẫn thầy đến trong Tăng, hoặc nói tôi nhất định sẽ cử tội thầy. Có năm pháp cử tội thành tựu, đó là chân thật không hư dối, đúng thời không phải phi thời, tâm từ không phải sân hận, nói lời hòa dịu không phải lời thô sẳn, vì làm lợi ích không phải không làm lợi ích. Có năm việc thành tựu thì Tỳ-kheo không làm cho Ưu-bà-tắc khởi tín kính, đó là chê bai Phật pháp Tăng, không có oai nghi, không học giới Tỳ-kheo. Tỳ-kheo trì luật thọ việc tranh cãi trước nên nội quán năm pháp, suy xét kỹ rồi mới thọ việc tranh cãi, đó là quán ta có tinh tấn không, ta có phạm giới không, ta có thanh tịnh không, ta có đa văn không, ta có hiểu rõ Tỳ-ni không, có nhiễm theo đồ chúng xấu ác không, có như Tỳ-ni như lời Phật dạy không. Có năm việc Tỳ-kheo trì luật không nên ở trong Tăng thọ việc tranh cãi, đó là nói lời khủng bố, xúc não người khác, nói quá lâu, nói nặng lời, nói lời không làm chúng vừa ý; ngược với trên thì nên thọ việc tranh cãi. Có năm việc Tỳ-kheo trì luật không nên ở trong Tăng thọ việc tranh cãi, đó là nghe lời Tỳ-kheo xấu ác, nghe lời sai lầm, không hỏi Tỳ-kheo xấu ác ba lần; ngược với trên thì nên thọ việc tranh cãi. Có năm việc Tỳ-kheo trì luật không nên ở trong Tăng thọ việc tranh cãi, đó là không hiểu lời nói của mình, không hiểu lời nói của người khác, không thích lời người khác nói, không thích lời mình nói, không đa văn; ngược với trên thì nên thọ việc tranh cãi. Có năm việc Tỳ-kheo trì luật không nên ở trong Tăng thọ việc tranh cãi, đó là không cầu thỉnh, cố chấp, không hiểu rõ việc tranh cãi, không biết việc tranh cãi, không biết diệt tránh; ngược với trên thì nên thọ việc tranh cãi. Có năm việc Tỳ-kheo trì luật không nên ở trong Tăng thọ việc tranh cãi, đó là không cầu thỉnh Thượng tòa, không đa văn, không biết Tỳ-ni, không có quyến thuộc, không cung kính Thượng trung hạ tòa và Tỳ-kheo làm Thác lại tra. Có năm việc đối với Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên tẫn, nên khu xuất, nên chê trách hoặc khiến cho sanh ư não chế phục, đó là nếu Tỳ-kheo làm Thác lại tra trì ác giới, phạm giới, tà kiến; không đa văn; không biết Tỳ-ni; không hổ thẹn; không biết chúng tăng là quyến thuộc lại trợ giúp Tỳ-kheo xấu ác. Có năm việc Tỳ-kheo đoán sự nên biết: Một là kính Tăng, hai là tâm từ nói lời hòa dịu, ba là biết chỗ nào nên ngồi, khi xử đoán việc biết chỗ ngồi của mình, bốn là nên thuyết pháp cho người, nếu tự mình không thuyết được thì nên thỉnh người thuyết, năm là nghe người thuyết pháp hy thì nên khen ngợi. Có năm việc Tỳ-kheo nên hành: Một là tâm như chổi quét, hai là trong Tăng tâm bình đẳng, không kiêu mạn; ba là trong Tăng không bàn nói quốc độ, không nói lời ác; bốn là trong Tăng như pháp tùy thuận, có tội thì sám hối, không tội thì im lặng; năm là đừng làm chúng khác với Tăng. Có năm loại đại tặc: Một là loại đại tặc có một trăm người vây quanh, hai là loại đại tặc đem vật của Tăng bốn phương cho người khác, ba là loại đại tặc tự nói ta là A-la-hán, bốn là loại đại tặc đối với nghóa không mà Như lai giảng nói lại nói là ta nói, năm là loại đại tặc Tỳ-kheo phạm giới, không tinh tấn lại làm ác pháp, bên trong thối nát rỗng không, không phải Sa-môn mà tự nói là Sa-môn, không phải phạm hạnh mà tự nói là phạm hạnh, dẫn cả một trăm… cho đến năm trăm đồ chúng đi vào tụ lạc thành ấp thọ cúng dường. Có năm cách trộm cắp, đó là cưỡng đoạt lấy, nói lời dịu ngọt để lấy, lấy một cách cựïc khổ, nhận người gỡi rồi lấy và cho rồi lấy lại. Có năm loại không nên khai thông, đó là không hổ thẹn, không nói lời dịu hòa, không đa văn, muốn cử tội người khác và không cầu thanh tịnh. Có năm việc khi thí không nên tưởng là có phước, đó là thí cho người nữ, thí cho trâu đánh nhau, thí rượu, thì hình vẽ nam nữ và thí kỹ nhạc. Có năm nhân duyên không được đến trước khi bố tát, đó là nạn vua, nạn giặc, nạn lửa, nạn nước, nạn trùng bò đi bằng bụng (rắn). Tỳ-kheo đến nhà bạch y có năm việc không chánh niệm, đó là không bạch mà vào tụ lạc, không xem chỗ ngồi mà ngồi, cùng người nữ ngồi ở chỗ khuất, không có tịnh nhân mà vì thuyết pháp quá năm, sáu lời và không lấy tay đè xuống mà ngồi. Lại có năm lỗi: Một là gặp người nữ rồi cùng nói chuyện, hai là cùng nói chuyện rồi gần gũi, ba là gần gũi rồi khởi niệm xấu ác, bốn là khổi niệm xấu ác rồi phạm trọng giới, năm là phạm mà không biết phạm giới trước hay sau, không ưa thích tu phạm hạnh. Có năm pháp thành tựu thì nên bảo đệ tử sám hối Hòa thượng: Một là không thân gần Hòa thượng, hai là không hổ thẹn, không nghó đến Hòa thượng; ba là tranh cãi với Hòa thượng, bốn là không cung kính, năm là không dùng pháp nhiếp Hòa thượng mà dùng tài nhiếp Hòa thượng. Nếu sám hối thì tốt, nếu không sám hối thì tùy việc kết phạm. Ngược với năm pháp trên thì nên thọ sám, nếu Hòa thượng không thọ sám thì tùy việc kết phạm. Đệ tử cận trụ của A-xà-lê cũng như vậy. Có năm loại sai biệt, đó là Phật sai biệt, Pháp và Tăng sai biệt, yết ma sai biệt và đạo sai biệt. Ngược với trên là không sai biệt. Lại có năm loại sai biệt, đó là Phật sai biệt, Hòa thượng sai biệt, A-xà-lê sai biệt, yết ma sai biệt và Pháp sai biệt. Có sáu nguồn gốc của của việc tranh cãi như trong Tăng nhât đã nói. Có sáu loại sai bảo: Tăng sai bảo, các bộ sai bảo, Hòa thượng và A-xà-lê sai bảo, Thượng tòa sai bảo và vua sai. Có sáu việc Ưu-bà-tắc không nên làm, đó là ép dầu, nuôi Đười ươi, nhuộm bằng máu, mua bán rượu và bán dao trượng… các loại khí giới. Có sáu loại tự tứ, đó là Tỳ-kheo tự tứ, Tỳ-kheo-ni tự tứ, hai bộ tăng tự tứ, Thực tự tứ, thanh tịnh tự tứ và tự tứ. Có sáu loại hoại, đó là tự hoại, người khác hoại, giới hoại, kiến hoại, oai nghi hoại và mạng hoại. Ngược với trên là sáu việc thành tựu. Có sáu lại ái kính, đó là thân nghiệp tự, khẩu nghiệp từ, ý nghiệp từ, Hiền thánh cộng giới, Hiền thánh đồng kiến và y bát dư được như pháp đều thí cho đồng phạm hạnh. Có sáu cách trộm cắp gồm có năm cách như đã nói ở trước và thứ sáu là trộm pháp. Có sáu pháp hiện tiền gọi là đắc giới cụ túc, đó là Phật hiện tiền, Pháp và Tăng hiện tiền, Hòa thượng và A-xà-lê hiện tiền, thứ sáu là người thọ giới hiện tiền. Có sáu việc ở trong Pháp khó được đầy đủ, đó là nhiều tham dục, khó vừa ý, khó nuôi dưỡng, không biết đủ, không hiếu thuận, nhiều nghi, không cầu cứu cánh. Ngược với trên thì dễ đầy đủ. Có bảy loại tài, đó là tín, giới, thí, văn, huệ, tàm và quí. Có bảy lực, đó là tín, giới, thí, văn, huệ, tàm và quí. Có bảy pháp: Một là như thật biết Sắc là khổ, hai là như thật biết Sắc là tập, ba là như thật biết Sắc là diệt, bốn là như thật biết Sắc là đạo, năm là như thật biết Sắc là ái, sáu là như thật biết Sắc là lỗi, bảy là như thật biết Sắc để lìa; Thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Có bảy phương tiện, đó là quán bất tịnh, quán hơi thở, bốn niệm xứ, noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất pháp. Có bảy báu, đó là: Bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần chỉ huy quân đội báu và ngọc ma ni báu. Có bảy Giác báu, đó là: Niệm giác báu, Trạch pháp giác báu, Tinh tấn giác báu, Hỷ giác báu, Ỷ giác báu, Định giác báu và Xả giác báu. Có bảy pháp diệt tránh, đó là Hiện tiền Tỳ-ni, Ức niệm Tỳ-ni, Bất si Tỳ-ni, Tự ngôn Tỳ-ni, Thật mích Tỳ-ni, Đa mích Tỳ-ni và Bố thảo Tỳ-ni. Có bảy loại y, đó là y bằng giạ, y bằng vải gai, y dệt bằng sợi gai mặc vào mùa hè, y Câu-chi, y Câu-xá-da, y Kiếp-bối và y Sô-ma. Có bảy pháp thối chuyển, đó là không kính Phật, pháp, Tăng và giới, phóng dật, không kính thiền định. Ngược với trên là bảy pháp tăng tấn. Có bảy loại chế phục: Một là nơi như vậy thì không nên ở, hai là người như vậy thì chớ gần gũi, ba là chỗ như vậy chớ nương tựa, bốn là tụ lạc như vậy chớ nên đến, năm là đường như vậy chớ nên đi, sáu là nhà như thế thì không nên đến, bảy là người như vậy chớ cùng nói chuyện. Có bảy loại bất tín như trong Khế kinh. Tỳ-kheo trì luật có bảy công đức: Một là được Tỳ-kheo tôn kính, hai là được Tỳ-kheo-ni tôn kính, ba là người không tùy thuận khiến cho tùy thuận, bốn là thủ hộ bí tàng của Phật, năm là ca ngợi Phật pháp, sáu là hiểu rõ pháp tướng, bảy là khéo hay giáo giới. Do trì luật nên tất cà Sa-môn, Bà-la-môn đều đảnh lễ cúng dường. Có bảy bậc trì luật, đó là Phật Tỳ bà thi, Phật Thi khi, Phật Tùy diếp, Phật Câu lưu tôn, Phật Câu nA-hàm Mâu ni , Phật Ca-diếp. Có tám loại công đức, đó là công đức của cương giới, công đức về Sự, công đức y chỉ, công đức của Tăng chế, công đức của Tăng thí, công đức an cư, công đức cúng cho Tăng bốn phương và công đức dạy bảo. Có tám loại xả y Ca-hi-na như trong Tỳ-ni. Có tám loại giày không được mang, đó là: Giày cỏ, giày cỏ gai, giày Ca-ni-ca, giày đan chỉ sợi, guốc gỗ, guốc tre và giày đan bằng dây mây. Hỏi: Thế nào là phá Tăng? - Có mười bốn việc phá Tăng như phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp… như trong Tỳ-ni. Không phải một Tỳ-kheo cho đến tám, chín người có thể phá Tăng; mà do hai nhân duyên khiến Tăng bị phá, đó là nói và đồng thọ thẻ. Có tám pháp đem tội Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ-kheo khác, phạm Tăng-già-bà-thi-sa: Một là vì sân giận không vui, hai là muốn khiến người khác thành không phải Tỳ-kheo, ba là muốn diệt pháp Sa-môn, bốn là tự mình không thanh tịnh, năm là nghi việc của người kia là hư nên quán sát người kia, sáu là như pháp cử tội này, bảy là nhất định sanh tranh cãi, tám là tranh cãi rồi chia rẽ thành chúng khác, không phải nhân giải thoát. Ngược với trên thì nên cử tội. Có tám pháp diệt tham sân si tức là tám Thánh đạo Có tám cấu uế, đó là nội cấu, y cấu, tài cấu, thực cấu, tịnh cấu, bất tịnh cấu, nhiếp thọ cấu và không nhiếp thọ cấu. Có tám không căn cứ ngăn thuyết giới như trong Tỳ-ni. Có chín pháp nương, đó là nương Phật, pháp, Tăng; nương Hòa thượng và A-xà-lê; nương chủng tộc, nương trú xứ, nương người và nương giới cụ túc . Có chín pháp diệt sân hận như trong Khế kinh. Tỳ-kheo A-la-hán Lậu tận việc nên làm đã làm cong, phạm hạnh đã lập thì không phạm các việc như: Tùy ái, tùy sân, tùy sợ, tùy si; không cố ý sát sanh, trộm cắp, dâm dục và vọng ngữ. Sát sanh Có mười lỗi như trong Khế kinh, mười nghiệp đạo bất thiện cũng như trong Khế kinh và mười thiện nghiệp cũng vậy. Có mười loại nhiếp thọ, đó là y, thực, ngọa cụ và dược nhiếp thọ; kinh luật và luận nhiếp thọ; phạm tội, thanh tịnh và xuất tội nhiếp thọ. Ngược với trên là không phải nhiếp thọ. Có mười chướng nạn khi thọ giới cụ túc, đó là phi nhân, không xin, không bạch, yết ma không đầy đủ, tuổi không đủ hai mươi, giết hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá Tăng, ác tâm làm Phật bị thương chảy máu. Ngược với trên là không chướng nạn. Lại Có mười chướng nạn khi thọ giới cụ túc, đó là vốn đã phạm giới, tặc trú, không phải nam, hai căn, việt tế, vốn không hòa hợp, giết hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá Tăng, ác tâm làm Phật bị thương chảy máu. Có mười nạn, đó là nạn vua, nạn giặc, nạn lửa, nạn nước, nạn trùng bò đi bằng bụng (rắn), nạn người, nạn về mạng sống và nạn phạm hạnh. Có mười loại Tỳ-ni, đó là Tỳ-kheo Tỳ-ni, Tỳ-kheo-ni Tỳ-ni, Cụ Tỳ-ni, thiểu phần xứ Tỳ-ni, nhất thiết xứ Tỳ-ni, diệt tham sân si Tỳ-ni, diệt tội Tỳ-ni và diệt tránh Tỳ-ni. Có đầy đủ mười pháp xuất tội người khác được nhiều công đức, đó là chân thật không hư dối, đúng thời không phải phi thời, tâm từ không phải sân hận, nói lời hòa dịu không phải lời thô sẳn, vì làm lợi ích không phải không làm lợi ích, tinh tấn, đa văn, trì giới, chánh niệm và trí huệ. Có mười pháp thành tựu được nhiều công đức, đó là ý hoan hỉ, tôn trọng, cung kính, cúng dường, khen ngợi bậc vô học; giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến thành tựu. Có đầy đủ mười pháp thì nên cho xuất gia như trong Tăng nhất. Có mười lợi, đó là y lợi, pháp lợi, Tăng lợi, Hòa thượng lợi, A-xà-lê lợi; giới, định, huệ, giải thoát, và giải thoát tri kiến lợi. Có mười loại nhất vị, đó là giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến của bậc Hữu học; giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến của bậc Vô học. Nếu có đàn việc xây phòng xá hay chùa cho Tăng, sau đó hồi thí cho một người thì gọi là phi pháp thí và phi pháp thọ dụng, như trong Tăng nhất. Có mười lợi công đức nên Phật chế giới: Một là nhiếp thủ Tăng, Hai là khéo nhiếp phục, Ba là khiến Tăng được an lạc trụ, Bốn là chiết phục người có tâm cống cao, Năm là khiến người tàm quý được an lạc, Sáu là khiến người không tin được tịnh tín, Bảy là khiến người đã tin được tăng trưởng, Tám là ngăn phiền não lậu hoặc đời này, Chín là đoạn nghiệp ác đời sau, Mười là khiến phạm hạnh trụ lâu. Luật sư có mười công đức lợi: Một là biết có tội hay không tội, hai là biết tu hay không tu, ba là biết làm hay không làm, bốn là biết thanh tịnh hay không thanh tịnh, năm là tâm ý thường sáng suốt, sáu là được bốn chúng cúng dường, mười là không thọ giáo giới từ người khác. Sở dó được như vậy là vì người trì luật thủ hộ bí tàng tối thắng nên tất cả Sa-môn, Bà-la-môn đều đảnh lễ cúng dường, vì làm lợi ích cho nhiều chúng sanh, gieo trồng căn lành cho vô lượng chúng sanh, làm cho chánh pháp được trụ lâu. Hỏi: Tất cả Tỳ-ni nhiếp trong mấy pháp? Đáp: Lược nhiếp trong ba pháp là đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma. Lại hỏi: Một trăm lẻ một pháp yết ma có mấy loại đơn bạch yết ma, mấy loại bạch nhị yết ma, mấy loại bạch tứ yết ma? Đáp: Có hai mươi bốn pháp đơn bạch yết ma, bốn mươi bảy pháp bạch nhị yết ma, và ba mươi pháp bạch tứ yết ma Hỏi: Hai mươi bốn pháp Đơn bạch yết ma gồm có những pháp nào? - Một là Oai nghi A-xà-lê đơn bạch, hai là đơn bạch hỏi pháp chướng đạo, ba là đơn bạch bố tát, bốn là khi bố tát, tất cả Tăng đều phạm tội đơn bạch, năm là khi bố tát tất cả Tăng nghi có tội đơn bạch, sáu là khi sắp tự tứ đơn bạch, bảy là khi tự tứ Tăng phạm tội đơn bạch, tám là khi tự tứ tất cả Tăng nghi có tội đơn bạch, chín là khi tự tứ ở trong Tăng phạm tội đơn bạch, mười là khi tranh cãi đơn bạch, mười một là khi tự tứ, tội tướng chưa định đơn bạch, mười hai là khi an cư đơn bạch, mười ba là một mình thọ y của tỳ-kheo chết đơn bạch, mười bốn là chia vật của tỳ-kheo chết đơn bạch, mười lăm là xả y Ca-hi-na đơn bạch, mười sáu là nói tội thô đơn bạch, mười bảy là tôn giả Đà-phiêu chia y cho Tỳ-kheo đơn bạch, mười tám hiện tiền chê trách đơn bạch, mười chín im lặng xúc não người khác đơn bạch, hai mươi là yết ma Học gia đơn bạch, hai mươi mốt là xả yết ma Học gia đơn bạch, hai mươi hai là yết ma phú bát đơn bạch, hai mươi ba là yết ma ngữa bát đơn bạch, hai mươi bốn là bố thảo đơn bạch. Hỏi: Bốn mươi bảy pháp Bạch nhị yết ma gồm có những pháp nào? - Một là hiện tiền bố tát bạch nhị, hai là kết đại giới bạch nhị, ba là kết giới y bạch nhị, bốn là kết tiểu giới bạch nhị, năm là yết ma cuồng si bạch nhị, sáu là sai nguời tự tứ bạch nhị, bảy là sai người chia ngọa cụ bạch nhị, tám là kết tịnh địa bạch nhị, chín là may y Ca-hi-na bạch nhị, mười là thọ y Ca-hi-na bạch nhị, mười một là giữ y Ca-hi-na bạch nhị, mười hai là sám hối bạch y bạch nhị, mười ba là sai mười hai hạng người bạch nhị, hai mươi bốn là củ Thác lại tra bạch nhị, hai mươi lăm lăm là Tỳ do trà bạch nhị, hai mươi sáu là diệt tránh bạch nhị, hai mươi bảy là hành pháp xá la bạch nhị, hai mươi tám là xin làm phòng bạch nhị, hai mươi chín là làm phòng lớn bạch nhị, ba mươi là cử tội Tỳ- kheo bạch nhị, ba mươi mốt là Thượng tòa bạch nhị, ba mươi hai là xả bát bạch nhị, ba mươi ba là khiến bạch y không sanh tâm tín kính bạch nhị, ba mươi bốn là sai giáo giới Tỳ-kheo-ni bạch nhị, ba mươi lăm là Tân ba lê tỳ bạch nhị, ba mươi sáu, ba mươi tám là Ni tăng bạch nhị tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường; ba mươi chín là mắng chúng bạch nhị, bốn mươi là cất chứa trượng bạch nhị, bốn mươi mốt là cất chứa trượng lạc nang bạch nhị, bốn mươi hai là năm năm được lợi bạch nhị, bốn mươi ba là ngăn bố tát bạch nhị, bốn mươi bốn là bổn sự bạch nhị, bốn mươi năm là cho Tỳ-kheo-ni có con ngủ chung phòng bạch nhị, bốn mươi sáu là nối liền phòng bạch nhị, bốn mươi bảy là xuất giới ba mươi chín đêm bạch nhị. Có thuyết nói tất cả việc tác pháp yết ma đều nên bạch nhị; cũng có thuyết nói trừ thọ giới cụ túc và A-phù-ha-na, tất cả các việc khác đều nên bạch nhị. Hỏi: Ba mươi pháp Bạch tứ yết ma gồm có những pháp nào? - Một là thọ giới cụ túc bạch tứ, hai là cho ngoại đạo bốn tháng biệt trú bạch tứ, ba là chúng tăng hòa hợp bố tát bạch tứ, bốn là cho khổ thiết bạch tứ, năm là cho y chỉ bạch tứ, sáu là cho khu xuất bạch tứ, bảy là cho bất kiến tẫn bạch tứ, tám là cho Bất tác tẫn bạch tứ, chín là cho ác tà bất trừ tẫn bạch tứ, mười là cho biệt trụ bạch tứ, mười một là cho biệt trụ Bổn nhật trị bạch tứ, mười hai là cho Ma-na-đỏa bạch tứ, mười ba là cho Ma-na-đỏa Bổn nhật trị bạch tứ, mười bốn là cho A-phù-ha-na bạch tứ, mười lăm là cho Ức niệm bạch tứ, mười sáu là cho Bất si bạch tứ, mười bảy là cho Thật mích bạch tứ, mười tám là phá tăng bạch tứ, mười chín là trợ giúp phá tăng bạch tứ, hai mươi là du hành bạch tứ, hai mươi mốt là tùy ái, sân sợ si bạch tứ, hai mươi hai là ác khẩu bạch tứ, hai mươi ba là ác tà bạch tứ, hai mươi bốn là Tỳ-kheo-ni tùy thuận Tỳ-kheo bị tẫn bạch tứ, hai mươi lăm lăm là Tỳ-kheo-ni nhiễm ô trụ bạch tứ, hai mươi sáu là cho Thức-xoa-ma-na học sáu pháp bạch tứ, hai mươi bảy là cho Sa-di học hối bạch tứ, bốn mươi tám, ba mươi là xả ba loại giới bạch tứ. Có thuyết nói tất cả yết ma đều nên bạch tứ . Hỏi: Một trăm lẻ một pháp yết ma này có mấy loại được gởi dục, có mấy loại không được gởi dục? Đáp: Trừ kiết giới yết ma, tất cả yết ma khác đều được gởi dục. Hỏi: Một trăm lẻ một pháp yết ma này có bao nhiêu loại bốn người tác pháp, bao nhiêu loại năm người tác pháp, bao nhiêu loại mười người tác pháp, bao nhiêu loại hai mươi người tác pháp và bao nhiêu loại bốn mươi người tác pháp? Đáp: Trừ tự tứ năm người, thọ cụ giới mười người, A-phù-ha-na hai mươi người, A-phù-ha-na cho Tỳ-kheo-ni phải đủ hai bộ tăng gồm bốn mươi người; tất cả các yết ma khác đều được làm với túc số bốn người. Hỏi: Yết ma có nghóa gì? - Nương vào việc đã làm gọi là yết ma. Hỏi: Chữ thuyết trong đây có nghóa gì? - Nương vào sự việc thì gọi là Sự, tùy nói yết ma gọi là thuyết. Hỏi: Khổ thiết có nghóa gì? - Do Tỳ-kheo tranh cãi nên cho khổ thiết. y chỉ. Hỏi: Y chỉ có nghóa gì? - Do Tỳ-kheo thường phạm giới nên cho Hỏi: Khu xuất có nghóa gì? - Do Tỳ-kheo Ô-tha-gia nên cho khu xuất. Các yết ma khác tùy theo nghóa nên biết.  <卷>QUYỂN 8 Ưu-Ba-Ly Vấn Pháp: Hỏi về bốn Ba-la-di: Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nếu Tỳ-kheo dùng lực chú thuật hóa làm người nữ để cùng hành dâm súc sanh đực thì phạm tội gì?”, Phật bảo: “Nếu tự nhớ nghó mình là Tỳ-kheo, tự biết tôi là Tỳ-kheo mà làm việc không nên làm thì phạm Ba-la-di; nếu không nhớ biết thì phạm Thâu-lan-giá”. Lại hỏi: “Thế tôn, nếu Tỳ-kheo dùng lực chú thuật hóa làm súc sanh đực để cùng hành dâm với người nữ thì phạm tội gì?”, Phật bảo: “Nếu tự nhớ nghó mình là Tỳ-kheo thì phạm Ba-la-di, nếu không nhớ thì phạm Thâu-lan-giá”. Trường hợp Hai Tỳ-kheo dùng lực chú thuật hóa làm súc sanh để cùng hành dâm cũng như vậy. Hỏi: Cùng hành dâm với người nữ như thế nào thì phạm Ba-la- di? Đáp: Nếu hành dâm với tất cả người nữ mà có thể nắm bắt được thì đều phạm Ba-la-di, nếu không thể nắm bắt được thì phạm Thâu-lan- giá. di? Lại hỏi: Hành dâm trong miệng tới mức độ nào thì phạm Ba-la- Đáp: Nếu qua khỏi răng một lóng tay thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Hành dâm nơi hai đường như thế nào thì phạm Ba-la-di? Đáp: Nếu qua khỏi da cho đến một lóng tay thì phạm. Hỏi: Thân người nữ chết đã bị phá hoại, nếu họp lại để cùng hành dâm thì phạm tội gì? - Nếu hành dâm nơi hai đường thì phạm Ba-la-di, nơi miệng thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Hành dâm với xác người nữ bị mất đầu thì phạm tội gì? - nếu hành dâm nơi hai đường thì phạm Ba-la-di, nơi miệng thì phạm Thâu- lan-giá; làm lỗ trên thân để hành dâm thì phạm Thâu-lan-giá; hành dâm với tử thi nữ đã thối rửa thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy hành dâm nơi ba sản môn thì phạm Ba-la-di, có trường hợp hành dâm nơi ba sản môn mà không phạm Ba-la-di hay không? - Có, nếu hai bên sản môn đã hoại thì phạm Thâu-lan-giá, sản môn khép kín cũng phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy hành dâm nơi ba sản môn không hư hoại của người nữ còn sống thì phạm Ba-la-di, thế nào là sản môn không hư hoại? - Nếu hai bên không hư hoại. Hỏi: Thế nào là sản môn hư hoại? - Tức là hai bên đã hư hoại hay thối rửa. Giống như người nữ còn sống, người nữ đã chết cũng vậy; giống như người nữ, nữ phi nhân cũng vậy; hành dâm với người nam, huỳnh môn cho đến với súc sanh cái hay đực cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một mình ở trong phòng mà phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo có nam căn dài. Hỏi: Nếu thân người nữ chết bị chặt đôi, Tỳ-kheo họp nối lại để cùng hành dâm thì phạm tội gì? - Nếu chỗ họp nối lại hiện rõ thì phạm Thâu-lan-giá, nếu không hiện rõ thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo hành dâm với người có nữ căn đã bị diệt thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá . Hỏi: Như Phật dạy có gián cách hành dâm với có gián cách thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo hành dâm với có gián cách mà không phạm hay không? - Có, nếu bọc nhiều lớp y thì phạm Thâu-lan- giá. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hành dâm mà không phạm Ba- la-di hay không? Đáp: Có, nếu người này vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp, Tặc trụï, ô nhiễm Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Tỳ-kheo hành dâm với người nữ trong lúc ngủ thì phạm tội gì? - Nếu biết mình là Tỳ-kheo thì phạm Ba-la-di, nếu không biết thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo ở trong hai người, tám người, mười người lấy phần thì phạm tội gì? - Nếu nói dối để lấy thì phạm Ba-dật-đề; nếu Tăng chia vật xong, lấy đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy lấy rời khỏi chỗ cũ thì phạm Ba-la-di, có trường hợp lấy rời khỏi chỗ cũ mà không phạm hay không? - Có, nếu đó là khinh vật không đáng giá. Hỏi: Nếu có thương buôn nói với Tỳ-kheo: “Các thầy xuất gia khỏi phải đóng thuế, cho tôi gởi vật này qua chỗ thu thuế”, thì phạm tội gì? Đáp: Nếu nhận lời mà chưa mang qua được thì phạm Thâu-lan- giá; nếu làm phương tiện thì phạm Đột-kiết-la. Nếu thương buôn chưa đến chỗ thu thuế, mà Tỳ-kheo chỉ đường khác cho đi, thương buôn nghe theo đi thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá. Nếu thương nhân chưa đến chỗ thu thuế nói với Tỳ-kheo: “Cho tôi gởi vật này qua, tiền phải đóng thuế sẽ cho Tỳ-kheo một nữa”, nếu nhận lời mà chưa mang qua được thì phạm Đột-kiết-la, nếu qua được chỗ thu thuế mà đủ năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu thương nhân chưa đến chỗ thu thuế nói với Tỳ-kheo: “Cho tôi gởi vật này qua, tiền phải đóng thuế sẽ cho thầy hết”, nếu mang qua được mà đủ năm tiền thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá. Khi đã đến chỗ thu thuế, nếu thương nhân nói với Tỳ-kheo: “Cho tôi gởi vật này qua”, Tỳ-kheo mang qua được mà đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di; nếu thương nhân nói với Tỳ-kheo: “Cho tôi gởi vật này qua, tiền phải đóng thuế sẽ cho Tỳ-kheo một nữa”, Tỳ-kheo mang qua được mà đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di; nếu thương nhân nói với Tỳ-kheo: “Cho tôi gởi vật này qua, tiền phải đóng thuế sẽ cho thầy hết”, Tỳ-kheo mang qua được mà đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Như Phật dạy lấy vật quý trọng rời khỏi chỗ cũ thì phạm Ba- la-di, có trường hợp lấy vật quý trọng rời khỏi chỗ cũ mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu thương buôn lén để vật phải đóng thuế vào trong đãy y, túi bát của tỳ-kheo; Tỳ-kheo không biết nên mang qua khỏi chỗ thu thuế thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo để vật phải đóng thuế trong miệng mà mang qua thì phạm Thâu-lan-giá; nếu vật phải đóng thuế này la vô giá thì phạm Ba-la-di, nếu có thể tính lường được thì phạm Thâu- lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy có năm cách trậm cắp là cưỡng đoạt lấy, nói lời dịu ngọt để lấy, lấy một cách cựïc khổ, nhận người gởi rồi lấy và trộm pháp; trong năm cách lấy trộm này, cách nào phạm Ba-la-di? Đáp: Trừ trộm pháp, bốn cách trộm cắp kia đều phạm Ba-la-di. Nếu xá lợi Phật có người giữ, vì mình mà lấy trộm, tính giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá; nếu vì giận ghét muốn cho không ai có được mà lấy trộm thì phạm Thâu-lan-giá; nếu vì tôn kính cúng dường, nói Phật là thầy tôi, thì dù tính giá đủ năm tiền cũng chỉ phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Tỳ-kheo lấy trộm kinh thì phạm tội gì? - Nếu tính giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá; nếu lấy để viết chép, đọc tụng thì không phạm. Hỏi: Tỳ-kheo lấy trộm vật trong miếu, trong tháp hay vật trang nghiêm trong nhà bạch y thì phạm tội gì? - Nếu có người coi giữ, lấy tính giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá; nếu là của phi nhân, lấy tính giá đủ năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá, không đủ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo đến nhà bạch y nói với vợ cư só: “Cô hãy đưa cho tội vật”. - Được thì phạm tội gì? - Nếu lấy tính giá đủ năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá, không đủ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu trong đêm tối ở chỗ để y, bốn Tỳ-kheo cùng lấy trộm thì phạm tội gì? - Nếu vật chưa được chia thì phạm Thâu-lan-giá, chia xong tính lấy đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Hỏi: Vật của người treo trên giá y, Tỳ-kheo lấy trộm thì phạm tội gì? - Lúc đang chọn lựa để lấy thì phạm Thâu-lan-giá, chọn lựa xong lấy tính giá được năm tiền thì phạm Ba-la-di. Nếu mang cả giá y đi thì phạm Thâu-lan-giá, khi lấy y vật rời khỏi giá y tính đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá. Vật trong đãy y cũng vậy. Hỏi: Tỳ-kheo lấy trộm giùm người khác thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm năm tiền thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo lấy năm tiền mà không phạm hay không? - Có, nếu tiền Ca-lê-tiên giá thấp. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy trộm y mà không phạm Ba-la-di hay không? - Có, nếu giá y không đủ năm tiền. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo lấy vật quý trọng dời để chỗ khác thì phạm Ba-la-di, có trường hợp dời để chỗ khác mà không phạm hay không? - Có, nếu đệ tử cộng hành và đệ tử cận trụ có tâm lấy trộm vật của Hòa thượng, A-xà-lê chuyển từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nghi vật của người kia không biết phải hay không phải của người kia mà lấy, nếu vật thật là của người kia thì phạm tội gì? -Phạm Thâu-lan-giá, nếu vật không phải của người kia cũng phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm năm tiền thì phạm Ba-la-di, thế nào là năm tiền? - Bốn Ca-ha-na bằng một Ca-lê-tiên, một Ca-lê-tiên trị giá hai mươi tiền, lấy trộm năm tiền thì phạm Ba-la-di. Khi chưa thọ giới cụ túc phương tiện trộm, khi chưa thọ giới cụ túc lấy được thì phạm Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc phương tiện trộm, khi thọ giới cụ túc lấy được cũng Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc phương tiện trộm, khi thọ giới cụ túc rồi lấy được thì phạm Thâu- lan-giá; khi thọ giới cụ túc phương tiện trộm, khi thọ giới cụ túc rồi lấy được cũng Thâu-lan-giá; khi thọ giới cụ túc rồi phương tiện trộm, khi thọ giới cụ túc rồi lấy được vật rời khỏi chỗ cũ thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo đoạt lấy chùa, nhà, đất đai có mấy việc phạm Ba-la-di? - Có hai việc là đấu tránh và tướng ngôn đấu tránh (tranh cãi và kiện cáo) để đoạt lấy, nếu không thắng kiện còn đang tranh cãi thì phạm Thâu-lan-giá, nếu được thắng kiện tính đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di. Trường hợp ruộng vườn phòng xá… cũng vậy; lấy trộm trái cây, phá kho lẫm lấy trộm nếu làm một phương tiện mà lấy, tính đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá; nếu làm nhiều phương tiện, mỗi phương tiện lấy tính đủ năm tiền thì phạm Thâu-lan- giá. Ở cõi Phất vu đãi phương tiện lấy trộm, lấy tiền Ca-lê-tiên tính đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá; ở cõi Câu-da-ni cũng vậy, cõi Uất-đơn-việt thì không phạm vì ở cõi này không có sở hữu, không có nhiếp thọ. Hỏi: Tỳ-kheo lấy trộm tiền đồng có phạm Ba-la-di không? - Nếu tính giá đủ năm tiền thì phạm. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm năm tiền thì phạm Ba-la-di, có trường hợp lấy trộm dưới năm tiền mà phạm Ba-la-di hay không? - Có, nếu tiền Ca-lê-tiên đắc giá. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm năm tiền thì phạm Ba-la-di, có trường hợp lấy trộm năm tiền mà không phạm Ba-la-di không? - Có, nếu tiền Ca-lê-tiên thấp giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo trước có tâm trộm muốn lấy y, lấy rồi khởi tưởng là của mình thì phạm tội gì? - Trước phạm Thâu-lan-giá nhưng sau không phạm - Nếu trước khởi tưởng là của mình rồi mới lấy trộm thì trước không phạm nhưng sau nếu lấy đủ thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm năm tiền thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo lấy tiền của nhiều người mà không pạhm hay không? - có, nếu lấy chung của đại chúng thì phạm Thâu-lan-giá; nếu nhiều người cùng lấy cũng phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm vật liệu bằng gỗ trị giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo lấy trộm vật liệu bằng gỗ trị giá đủ năm tiền mà không phạm hay không? - Có, nếu lấy trộm cho người khác. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm tóc vàng trị giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo lấy trộm tóc bằng vàng trị giá đủ năm tiền mà không phạm hay không? - Có, nếu lấy trộm tóc vàng của phi nhân thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Tỳ-kheo lấy trộm nước thì phạm tội gì? - Nếu lượng nước lấy tính giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá; lấy trộm nước đê cũng vậy. Hỏi: Như Phật dạy lấy trộm năm tiền thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo lấy trộm trăm ngàn Ca-lê-tiên mà không phạm hay không? Có, nếu tưởng là của mình hoặc tưởng đồng ý nên lấy, hoặc lấy tạm dùng hoặc bảo người khác lấy, hoặc tưởng là không có chủ nên lấy hoặc lấy mà không có tâm trộm. Lại có trường hợp lấy nhiều lần, mỗi lần lấy bốn tiền thì phạm một Thâu-lan-giá; nếu Tỳ-kheo trước có tâm trộm cắp, khởi tưởng là của mình nên lấy cất thì trước phạm Thâu-lan-giá nhưng sau không phạm; ngược lại nếu tưởng là của mình rồi khởi tâm trộm lấy cất thì trước không phạm, nhưng sau nếu lấy đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Nếu dùng tay ra dấu lấy cắp, lấy đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo lấy vật quý trọng dời để các chỗ khác thì phạm Ba-la-di, có trường hợp dời để chỗ khác mà không phạm hay không? - Có, nếu một Tỳ-kheo gánh mang đến để một chỗ xa, sau đó một Tỳ-kheo khác dời để các chỗ khác thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo lấy trộm y của cư só đồng ý thì phạm tội gì? Phạm Thâu-lan-giá, nếu cư só nói: “Y này con nay cúng cho thầy”, Tỳ-kheo nghe lời này rồi nhận lấy thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Tỳ-kheo biến vàng thành đồng để qua chỗ thu thuế thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Tỳ-kheo lấy trộm vật báu, vàng bạc làm cho hoại sắc thì phạm tội gì? - Nếu tính giá vật đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nhận vật của người gởi rồi sau không đưa lại thì phạm tội gì? - Nếu vật đó tính giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Lấy cất vật của người khác sau không đưa lại cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo trước quyết định không đưa lại rồi mới lấy vật rời khỏi chỗ cũ mà không có tâm trộm thì phạm Thâu-lan-giá; nếu trước có tâm trộm lấy vật rời khỏi chỗ, sau đó mới quyết định không trả lại, vật đó tính giá đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu- lan-giá. Hỏi: Tỳ-kheo lấy vật tợ Ca-lê-tiên thì phạm tội gì? - Tùy giá kết phạm. Hỏi: Tỳ-kheo lấy trộm đồ gốm sứ thì phạm tội gì? - Tùy giá kết phạm, dưới năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá. Khi chưa thọ giới cụ túc phương tiện trộm, khi chưa thọ giới cụ túc lấy được thì phạm Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc phương tiện trộm, khi thọ giới cụ túc lấy được cũng Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc phương tiện trộm, khi thọ giới cụ túc rồi lấy được thì phạm Thâu- lan-giá; khi thọ giới cụ túc phương tiện trộm, khi thọ giới cụ túc rồi lấy được cũng Thâu-lan-giá; khi thọ giới cụ túc rồi phương tiện trộm, khi thọ giới cụ túc rồi lấy được vật rời khỏi chỗ cũ thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo trộm voi ngựa lạc đà… thì phạm tội gì? - Nếu tự lấy trộm đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Nếu vì ganh ghét mà lấy thì phạm Thâu-lan-giá, giết chết để lấy thịt cũng vậy; nếu trộm để thả làm cho người khác sanh phiền não thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Khi là Tỳ-kheo phương tiện trộm, sau chuyển căn thành Tỳ- kheo-ni lấy được thì phạm tội gì? - lấy đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Trường hợp Tỳ-kheo-ni chuyển căn thành Tỳ-kheo cũng vậy. Lại hỏi: Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo trộm cắp thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo trộm cắp mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu người này vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp hoặc là Tặc trụ hoặc làm ô nhục Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc trộm cắp mà lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối) Hỏi: Tỳ-kheo biến người thành súc sanh để giết thì phạm tội gì? - nếu tự nhớ nghó mình là Tỳ-kheo thì phạm Ba-la-di, nếu không nhớ nghó thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo giết mẹ thì phạm Ba-la-di và tội ng- hịch, có trường hợp Tỳ-kheo giết mẹ mà không phạm Ba-la-di và tội nghịch hay không? - Có, nếu giết mẹ là ái mạn. Nếu Tỳ-kheo nếu muốn giết người khác mà giết lầm mẹ thì phạm Thâu-lan-giá; nếu Tỳ-kheo chặt cây mà chặt trúng mẹ, mẹ chết thì không phạm. Trường hợp giết lầm cha và A-la-hán cũng vậy. hai người cùng ngồi, Tỳ-kheo muốn giết người này lại giết lầm người kia thì phạm Thâu-lan-giá; muốn giết A-la-hán mà giết lầm người không phải là A-la-hán thì phạm Thâu- lan-giá, không phạm tội nghịch; muốn giết người không phải A-la-hán mà giết nhầm A-la-hán thì phạm Thâu-lan-giá; nếu tưởng là A-la-hán muốn giết nhưng lại không phải thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo có hai người mẹ, một người sanh, một người nuôi, giết người mẹ nào thì phạm Ba-la-di và tội nghịch? - Giết người mẹ thân sanh. Hỏi: Nếu muốn xuất gia nên hỏi người mẹ nào? Đáp: Nên hỏi người mẹ nuôi. Nếu là súc sanh, Tỳ-kheo tưởng là người mà giết thì phạm Thâu- lan-giá; nếu là người, tưởng là súc sanh mà giết thì phạm Đột-kiết-la . Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo làm cho người khác sẩy thai thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo làm cho người sảy thai mà không phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu người đó mang thai súc sanh; ngược lại nếu là súc sanh mang thai người mà làm cho sẩy thai thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo đẩy mẹ từ trên cao xuống, mẹ chết thì phạm Ba-la-di và tội nghịch, có trường hợp Tỳ-kheo làm thế mà không phạm hay không? - Có, nếu người mẹ chết trước khi té xuống thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá, không phạm nghịch; giết cha và A-la-hán cũng vậy. Nếu trước làm phương tiện giết mẹ rồi tự sát, nếu người mẹ chết trước Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di và tội nghịch; nếu Tỳ-kheo chết trước người mẹ thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá; giết cha và A-la- hán cũng vậy. Nếu là người, Tỳ-kheo nghi là phi nhân mà giết thì phạm Thâu- lan-giá; nếu là mẹ, Tỳ-kheo nghi không phải là mẹ mà giết thì phạm Thâu-lan-giá, không phạm nghịch; giết cha và A-la-hán cũng vậy. Nếu là người này, Tỳ-kheo nghi không biết có phải là người này hay không mà giết thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo thấy người dẫn giặc sắp bị giết đi, giặc chạy thoát, người kia đuổi theo và hỏi Tỳ-kheo có thấy tên giặc chạy qua đây không, đáp là có thấy; nếu Tỳ-kheo nghó giặc là kẻ ác, có tâm muốn giết nên chỉ chỗ giặc trốn, giặc nhân đây bị bắt giết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, giặc không bị bắt giết thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá; nếu là vô tâm chỉ chỗ, giặc bị bắt giết thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la, giặc không bị bắt giết, Tỳ-kheo cũng phạm Đột-kiết-la. Trường hợp nhiều tên giặc cũng vậy. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm cho cha mẹ chết mà không phạm Ba-la-di và tội nghịch không? - Có, nếu cha mẹ bịnh nặng, Tỳ- kheo dìu đỡ đứng dậy đi, cha mẹ nhân đây chết thì Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di và tội nghịch. Là mẹ, Tỳ-kheo tưởng không phải là mẹ mà giết thì phạm Thâu- lan-giá; không phải là mẹ, Tỳ-kheo tưởng là mẹ mà giết thì phạm Thâu- lan-giá; tưởng là phi nhân mà giết cũng Thâu-lan-giá. Hỏi: Là người, Tỳ-kheo tưởng là người mà giết thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo tưởng là người giết chết mà không phạm Ba-la- di không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo tự sát thì phạm Thâu-lan-giá; muốn giết người khác mà tự giết chết mình cũng phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo vì đùa giỡn mà đánh cha, nhân đây cha chết thì phạm tội gì? - Phạm Đột-kiết-la. Khi chưa thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi chưa thọ giới cụ túc cha chết thì phạm Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi thọ giới cụ túc cha chết cũng Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi thọ giới cụ túc rồi cha chết thì phạm Thâu-lan-giá; khi thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi thọ giới cụ túc rồi cha chết cũng Thâu-lan-giá; khi thọ giới cụ túc rồi làm phương tiện, khi thọ giới cụ túc rồi cha chết thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Như Phật dạy người tưởng là người mà giết thì phạm Ba-la-di, có trường hợp Tỳ-kheo giết người như thế mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu người này vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp hoặc là Tặc trụ hoặc làm ô nhục Tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc giết người mà lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối) Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi thối thất bốn Quả Sa-môn thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi chứng được bốn Quả Sa-môn thì phạm tội gì? - Không được mà nói là được thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi thối thất quả A-la-hán, A-na-hàm, Tư- đà-hàm thì phạm tội gì? - Không phạm (thối thất có hai: Được rồi thối thất và chưa được mà thối thất, ở đây nói thối thất là ý nói chưa được mà thối thất nên không phạm; nếu thật không được mà thối thất lại nói là được rồi thối thất thì phạm Ba-la-di; nếu thật được mà thối thất thì không phạm). Nếu Tỳ-kheo nói tôi là Học nhân hoặc nói tôi học Ba-la-đề-mộc- xoa thì phạm Thâu-lan-giá; nếu nó tôi học các Thánh pháp như không, vô sở hữu… thì phạm Ba-la-di; nếu nói tôi học kinh luật luận cũng vậy. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Thân của tôi là thân sau cùng” thì phạm tội gì? - Nếu muốn nói về pháp quá khứ đã diệt thì phạm Thâu-lan-giá; nếu nói sanh thật đã tận thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo đáng lẽ nói thầy là Tu-đà-hoàn… A-la-hán, mà lại nói tôi là Tu-đà-hoàn… A-la-hán thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan- giá. Nếu Tỳ-kheo nói với bạch y: “Ai nói với ông tôi là Tu-đà-hoàn, không phải là Tư-đà-hàm… A-la-hán?”, sau đó lại nói tôi không phải là Tu-đà-hoàn… A-la-hán thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo muốn nói về quả Tu-đà-hoàn mà lại nói về quả Tư-đà-hàm… A-la-hán thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi đắc quả Tu-đà-hoàn ở núi Kỳ-lê- tiên, đắc quả Tư-đà-hàm ở núi Thất diệp, đắc quả A-na-hàm ở tinh xá Trúc lâm, đắc quả A-la-hán ở núi Kỳ-xà-quật” thì phạm tội gì? - Nếu ý muốn nói tôi ở những nơi ấy đọc tụng Tu-đa-la, tinh tấn không giãi đãi thì phạm Thâu-lan-giá; nếu cố ý vọng ngữ thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Nếu có người hỏi Tỳ-kheo đắc quả chưa, nếu đáp là đắc quả mà chỉ trái cây ở trong tay thì phạm tội gì? - Nếu ý ở nơi trái cây này thì phạm Thâu-lan-giá; nếu ý nói quả Sa-môn thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tỳ-kheo khất thực ở nhà là bậc Tu- đà-hoàn… A-la-hán, nhưng tôi không phải là Tu-đà-hoàn… A-la-hán” thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói người thọ dụng y thực ngọa cụ thuốc men của cư só đều là bậc Tu-đà-hoàn… A-la-hán; tôi cũng thọ dụng nhưng tôi không phải là Tu-đà-hoàn… A-la-hán, thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Cư só thỉnh nhiều Tỳ-kheo và trải đủ loại ngọa cụ, những vị đó đều là bậc Tu-đà-hoàn… A-la-hán; không có ai là phàm phu. Tôi cũng được thỉnh, cũng trải tòa cho tôi” thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Có người hỏi Tỳ-kheo: “Những vật cần dùng hằng ngày như y phục, ẩm thực, thuốc thang, ngọa cụ… thầy có được từ đâu? Đáp: “Tôi thọ từ nhà đàn việt , vì đàn việt này nói rằng ai đắc quả Tu-đà-hoàn… A-la-hán thì đến thọ lấy, tôi tuy đến lấy nhưng tôi không phải là Tu-đà-hoàn… A-la-hán”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi không sợ hãi, không sợ chết, không sợ ác đạo thì phạm tội gì? - Nếu nhân thân này để nói quá khứ của thân này đã biến hoại thì phạm Thâu-lan-giá; nếu cố ý vọng ngữ nói được Thánh pháp thì phạm Ba-la-di, nói không sợ ác đạo cũng vậy. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi đã giải thoát tất cả các kiết sử triền phược thì phạm tội gì? - Nếu nói các triền phược của quá khứ đã diệt thì phạm Thâu-lan-giá; nếu cố ý nói đã giải thoát tất cả triền phược thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói điều mà bậc Hiền thánh biết, tôi cũng được thì phạm tội gì? - Nếu ý nói tôi liễu đạt được kinh thì phạm Thâu-lan- giá; nếu cố ý nói được pháp Hiền thánh thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi tu các pháp Căn, Lực, Giác, Đạo thì phạm tội gì? - Nếu ý muốn nói tôi đọc tụng thọ trì kinh ấy thì phạm Thâu-lan-giá; nếu cố ý vọng ngữ nói tu các pháp ấy thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi sẽ giảng về quả Tu-đà-hoàn nhưng tôi không phải là Tu-đà-hoàn thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá, cho đến nói quả A-la-hán cũng vậy. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi nhập thiền định thế tục nhưng không được trí thế tục thì phạm tội gì?- Phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi là Thế tôn thì phạm tội gì? - Nếu ý ở nơi thuyết pháp giáo giới thì phạm Thâu-lan-giá; nếu cố ý vọng ngữ nói mình là Thế tôn thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi là Phật thì phạm tội gì? - Nếu ý muốn nói tôi hiểu rõ pháp ác bất thiện thì phạm Thâu-lan-giá; nếu cố ý vọng ngữ nó mình là Phật thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi là đệ tử của Phật Tỳ bà thi thì phạm tội gì? - Nếu ý muốn nói quy y Phật Thích-ca-mâu-ni cũng là quy y cả bảy Phật thì không phạm; nếu muốn nói mình có Túc mạng thông thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói có đắc quả, nhưng không được quả Tu-đà- hoàn nên tôi không phải là Tu-đà-hoàn thì phạm tội gì? - Phạm Thâu- lan-giá. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi đắc quả, người khác hỏi đắc quả gì, liền chỉ quả Xoài, quả Diêm phù trên tay thì phạm tội gì? - Phạm Thâu- lan-giá, nếu cố ý vọng ngữ nói mình chứng bốn Quả Sa-môn thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo viết sách nói mình chứng quả Tu-đà-hoàn thì phạm tội gì? - Phạm Thâu-lan-giá, cho đến quả A-la-hán cũng vậy. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hư dối nói là được Thánh pháp mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu người này vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp hoặc là Tặc trụ hoặc làm ô nhục Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc hư dối nói là được Thánh pháp, lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là người học giới ( Sa-di học hối) Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một mình vào trong phòng mà phạm bốn tội Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu trước đó Tỳ-kheo đã trộm cắp, phương tiện sát sanh, biết khi mình vào phòng ự nói là A-la-hán và có nam căn dài tự hành dâm. Hỏi về mười ba Tăng-già-bà-thi-sa: Hỏi: Nếu Tỳ-kheo khi đi tinh xuất thì phạm tội gì? - Không phạm, nếu khi thức làm phương tiện, khi ngủ tinh xuất thì phạm Thâu-lan- giá; nếu khi thức làm phương tiện, khi thức tinh xuất, biết là tinh xuất thì phạm Tăng tàn; làm phương tiện khác thì phạm Thâu-lan-giá; nếu phương tiện làm cho thọ lạc thì phạm Thâu-lan-giá; nếu ngưng làm mà tinh đột nhiên xuất thì không phạm. Nếu nắn bóp mà tinh không xuất thì phạm Thâu-lan-giá; nếu khi chưa thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi chưa thọ giới cụ túc xuất tinh thì phạm Đột-kiết-la… có tất cả chín trường hợp. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo đã phạm Tăng tàn mà không biết ngày giờ thì lúc nào cho biệt trụ? - Nên tính từ ngày mới thọ giới. Nếu Tỳ-kheo đè xoa để thọ lạc thì phạm Thâu-lan-giá, lúc tự xuất tinh thọ lạc thì phạm Thâu-lan-giá, chạm nam căn để thọ lạc cũng phạm Thâu-lan-giá. Trong hư không động, tinh xuất cũng Thâu-lan-giá; khi đi động, tinh xuất cũng Thâu-lan-giá. Hỏi: Có trường hợp khi là Tỳ-kheo phạm, khi là phi Tỳ-kheo thanh tịnh; khi là phi Tỳ-kheo phạm, khi là Tỳ-kheo thanh tịnh; khi là Tỳ-kheo phạm cũng khi là Tỳ-kheo thanh tịnh; khi là phi Tỳ-kheo phạm cũng là khi phi Tỳ-kheo thanh tịnh hay không? Hỏi: Thế nào là khi Tỳ-kheo phạm mà khi là phi Tỳ-kheo thanh tịnh? Đáp: Nếu Tỳ-kheo phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa bất cọng mà chuyển căn làm Tỳ-kheo-ni thì được thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là khi phi Tỳ-kheo (Tỳ-kheo-ni) phạm mà khi là Tỳ-kheo thanh tịnh? Đáp: nếu Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa bất cọng mà chuyển căn làm Tỳ-kheo thì được thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là khi là Tỳ-kheo (ni) phạm cũng khi là Tỳ-kheo (ni) thì thanh tịnh là nếu Tỳ-kheo (ni) phạm Tăng-già-bà-thi-sa mà đã như pháp sám hối. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo khi ngủ thì phạm, khi thức thì thanh tịnh; khi thức thì phạm, khi ngủ thì thanh tịnh hay không? - Có, khi ngủ phạm, khi thức thanh tịnh là nếu Tỳ-kheo khi ngủ bị nhấc để lên giường cao, sau đó có người nữ vào ngủ đêm; Tỳ-kheo khi thức dậy biết liền như pháp sám hối. Khi thức phạm, khi ngủ thanh tịnh là nếu Tỳ-kheo phạm Tăng tàn, lúc Tăng cho yết ma A-phù-ha-na, Tỳ-kheo nghe bạch xong liền ngủ, trong lúc ngủ Tăng yết ma xong. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo xuất tinh phạm Tăng tàn, trừ trong mộng. Có trường hợp Tỳ-kheo cố ý xuất tinh mà không phạm hay không? - Có, nếu làm trước (Phật chưa chế giới). Hỏi: Có trường hợp không phải làm trước, Tỳ-kheo cố ý xuất tinh mà không phạm hay không? - Có, nếu làm cho người khác xuất tinh hoặc tạo cảnh giới cho người khác. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cố ý xuất tinh mà không phạm hay không? - Có, nếu người này vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp hoặc là Tặc trụ hoặc làm ô nhục Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc cố ý xuất tinh mà lại phạm Tăng tàn hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối). Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo xúc chạm người nữ thì phạm Tăng tàn, có trường hợp Tỳ-kheo xúc chạm người nữ mà không phạm hay không? - Có, nếu xúc chạm người nữ thân căn hư hoại thì phạm Thâu- lan-giá; nếu xúc chạm người nữ bịnh ghẻ lở… cũng Thâu-lan-giá; nếu Tỳ-kheo thân căn hư hoại cũng vậy, cả hai thân căn đều hư hoại thì pha- ïm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo nghi không biết là nữ hay không phải nữ mà xúc chạm thì phạm Thâu-lan-giá; nếu yêu thương người này mà xúc chạm người kia thì phạm Thâu-lan-giá; xúc chạm răng, tóc… chân đều phạm Thâu-lan-giá. Người nữ xúc chạm răng, tóc… chân của tỳ-kheo thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo xúc chạm Tỳ-kheo cho đến người nam, huỳnh môn, người hai căn và bất nam đều phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo khi xúc chạm người nữ bỗng chuyển căn thành Tỳ-kheo- ni thì phạm Thâu-lan-giá; nếu xúc chạm người nam mà người nam bỗng chuyển căn thành nữ thì Tỳ-kheo phạm Tăng tàn; nếu xúc chạm người nam mà Tỳ-kheo chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-la-di; nếu xúc chạm người nam mà cả hai đều chuyển căn thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo-ni khi xúc chạm người nam, người nam bỗng chuyển căn thành nữ thì Tỳ-kheo-ni phạm Thâu-lan-giá; nếu xúc chạm người nam mà Tỳ-kheo-ni chuyển căn thành Tỳ-kheo thì phạm Thâu-lan- giá; nếu xúc chạm người nữ mà cả hai đều chuyển căn thì Tỳ-kheo-ni phạm Thâu-lan-giá; nếu xúc chạm Tỳ-kheo mà Tỳ-kheo-ni chuyển căn thành Tỳ-kheo thì phạm Thâu-lan-giá; Tỳ-kheo xúc chạm Tỳ-kheo-ni bỗng chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni thì phạm Thâu-lan-giá, xúc chạm Tỳ-kheo-ni đang nhập Diệt tận định thì phạm Thâu-lan-giá; xúc chạm người nữ không có tâm nhiễm ô thì phạm Đột-kiết-la, nếu tưởng là mẹ, là chị em, là con gái mà xúc chạm thì không phạm; nếu là vợ cũ, Tỳ- kheo không có tâm nhiễm ô mà xúc chạm thì phạm Đột-kiết-la. Nếu nắm tay hay bồng, cõng để cứu người nữ ra khỏi các nạn lửa, nước, sư tử… thì không phạm. Hỏi: Tỳ-kheo ở bên người nữ nói lời thô thì phạm Tăng tàn, có trường hợp Tỳ-kheo nói như vậy mà không phạm hay không? - Có, nếu vì người khác mà nói thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá; nếu ở bên huỳnh môn, người hai căn nói lời thô thì phạm Thâu-lan-giá; bên Tỳ-kheo-ni nhập Diệt tận định nói lời thô cũng Thâu-lan-giá. Trường hợp khen ngợi thân mình cũng vậy. Hỏi: Có pháp nào không phải quá khứ, không phải hiện tại cũng không phải vị lai hay không? - Có, đó là mai mối, nếu nhận lời đi mai mối thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Nếu trở về báo lại thì phạm tội gì? - Phạm Tăng tàn. Nếu một nam và một nữ trước đã ước hẹn với nhau, Tỳ-kheo hỏi có hợp không thì phạm Đột-kiết-la; trường hợp tự tại và không tự tại cũng vậy. Tự tại là giàu có được vua quan, các trưởng giả tin tưởng; ngược lại là không tự tại, nếu Tỳ-kheo nhận lời của người không tự tại đến mai mối cho người tự tại thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo nói mua người nữ thì phạm Đột-kiết-la, nói mua người nữ tên thì phạm Thâu-lan- giá, ở chỗ mua người nữ làm mai mối thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu một nữ nhớ một nam, một nam nhớ một nữ, Tỳ-kheo làm mai mối cho họ thì phạm Thâu-lan-giá, mai mối không thành cũng Thâu-lan- giá. Nếu Tỳ-kheo cứ làm mai mối qua lại thì phạm Tăng tàn, nếu làm mai mối sau khi họ đã qua lại với nhau thì phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo làm mai mối cho huỳnh môn, người hai căn thì phạm Thâu-lan-giá; làm mai mối cho người điên cuồng tâm loạn với người điên cuồng tâm loạn thì phạm Thâu-lan-giá; làm mai mối cho người điên cuồng tâm loạn với người không điên cuồng tâm loạn cũng Thâu-lan-giá; làm mai mối cho người không điên cuồng tâm loạn với người điên cuồng tâm loạn cũng Thâu-lan-giá; nếu cà đều không điên cuồng tâm loạn mà làm mai mối rồi trở về báo lại thì Tỳ-kheo phạm Tăng tàn. Nếu cư só nói với chúng tăng: “Các thầy có thể đến nhà cư só nói giúp họ gả con gái cho con trai tôi hoặc tôi muốn gả con gái cho con trai của họ, được không?”, các Tỳ-kheo nhận lời đến nói rồi báo lại cho cư só thì các Tỳ-kheo đều phạm Tăng tàn; nếu chúng tăng đồng ý sai một Tỳ-kheo đến nói rồi báo lại cho cư só thì các Tỳ-kheo cũng phạm Tăng tàn; nếu một Tỳ-kheo tự ý đến đó nói rồi báo lại cho cư só thì Tỳ-kheo này phạm Tăng tàn, chúng tăng không sai thì không phạm. Tỳ-kheo mai mối cho đồng nữ thì phạm Thâu-lan-giá, nếu nhận lời rồi mà chuyển căn thì phạm Thâu-lan-giá, hoặc khi trở về báo lại mà chuyển căn cũng Thâu-lan-giá; hoặc khi nhận lời rồi mà chuyển căn, đến nói rồi về báo lại cũng Thâu-lan-giá. Khi chưa thọ giới cụ túc nhận lời, khi chưa thọ giới cụ túc đến nói rồi về báo lại thì phạm Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc nhận lời đến nói, khi thọ giới cụ túc về báo lại cũng Đột-kiết-la; khi chưa thọ giới cụ túc nhận lời đến nói, khi thọ giới cụ túc rồi về báo lại thì phạm Thâu-lan-giá; khi thọ giới cụ túc nhận lời đến nói, khi thọ giới cụ túc rồi về báo lại cũng Thâu-lan-giá; khi thọ giới cụ túc rồi nhận lời đến nói, khi thọ giới cụ túc rồi về báo lại thì phạm Tăng tàn. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm mai mối mà không phạm Tăng tàn hay không? Đáp: Có, nếu người này vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp hoặc là Tặc trụ hoặc làm ô nhục Tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc làm mai mối, lại phạm Tăng tàn hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối). Tỳ-kheo làm mai mối cho người nam với phi nhân nữ hoặc người nữ với phi nhân nam, hoặc cả hai đều là phi nhân thì phạm Thâu-lan- giá. Có người hỏi Tỳ-kheo có thấy người nữ ở đâu không, nếu đáp là thấy ở chỗ thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hành biệt trụ liền hành biệt trụ xong, hành Ma-na-đỏa liền hành Ma-na-đỏa xong hay không? - Có, nếu Tỳ- kheo phạm Tăng tàn không che giấu, Tăng cho hành Ma-na-đỏa, Tỳ- kheo hành Ma-na-đỏa xong lại phạm hai tội Tăng tàn, một tôi che giấu một đêm, một tội che giấu hai đêm; Tăng cho hành biệt trụ, Tỳ-kheo hành biệt trụ cho tội che giấu một đêm xong, kế hành biệt trụ cho tội che giấu hai đêm, qua đêm thứ ba , Tăng cho hành Ma-na-đỏa, Tỳ-kheo liền hành Ma-na-đỏa xong. Nếu Tỳ-kheo tự xin vật liệu làm phòng mà không theo Tăng xin thì phạm Tăng tàn; xin vật liệu rồi mà không làm phòng thì phạm Thâu- lan-giá; theo Tăng xin rồi mà không làm cũng phạm Thâu-lan-giá; làm phòng nữa chừng không làm xong cũng Thâu-lan-giá; làm phòng cho người khác rồi tự ở cũng phạm Thâu-lan-giá; phòng người khác chưa lợp mà lợp giùm cũng phạm Thâu-lan-giá. Nếu làm phòng chưa xong mà nói tôi là Sa-di, huỳnh môn, người hai căn… nói giống như xả giới thì phạm Thâu-lan-giá. Trường hợp làm phòng lớn cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ-kheo khác mà không phạm Tăng tàn hay không? - có, nếu dùng tay ấn dấu hoặc sai sứ hoặc nghe từ người khác mà vu báng thì phạm Thâu-lan-giá; cho đến viết thư nói Tỳ-kheo phạm Ba-la-di cũng phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo vu báng người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, người mù, điếc, câm, người đang ngủ, đang nhập định đều phạm Thâu-lan-giá. Vì sao, vì những người này tâm không trụ tự tánh; vu báng huỳnh môn cũng phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng người khác mà không phạm Tăng tàn hay không? - Có, nếu người này vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp hoặc là Tặc trụ hoặc làm ô nhục Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc vu báng người khác mà lại phạm Tăng tàn hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối). Hỏi: Nếu Tỳ-kheo tự nói tôi làm việc phi phạm hạnh là đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng người khác thì phạm tội gì? - Phạm Tăng tàn. Hỏi: Tỳ-kheo nếu đem việc Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ- kheo-ni thì phạm tội gì? - Phạm Tăng tàn; ấn dấu tay hay sai sứ thì phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo-ni đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ-kheo- ni khác thì phạm Tăng tàn; vu báng Tỳ-kheo cũng phạm Tăng tàn; vu báng ba chúng dưới thì phạm Thâu-lan-giá; Tỳ-kheo vu báng ba chúng dưới cũng phạm Thâu-lan-giá; Thức-xoa-ma-na vu báng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo đem tội nghịch không căn cứ vu báng Tỳ-kheo khác thì phạm tội gì? phạm Tăng tàn; vu báng Tỳ-kheo khác phạm Tăng tàn thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo nói giết hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá Tăng, ác tâm làm Phật bị thương chảy máu thì phạm Đột-kiết-la thì Tỳ-kheo này phạm Tăng tàn; vì sao, vì vu báng những tội vô gián thì không phải là Tỳ-kheo; ngoài tội vô gián ra, đem những tội khác vu báng thì phạm Thâu-lan-giá hoặc Đột-kiết-la; nếu ấn dấu tay hay sai sứ hay chuyền nói vu báng người khác tạo tội ngũ nghịch không căn cứ, đều phạm Thâu-lan-giá; nếu viết thư nói Tỳ-kheo phạm ngũ nghịch thì phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại… như trên, đều phạm Thâu-lan-giá, vì họ tâm không trụ tự tánh. Đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho người vốn đã phạm giới… như trên, đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo tự nói mình đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho người khác… như trên thì phạm Tăng tàn. Trường hợp vu báng Tỳ-kheo-ni và ba chúng dưới cũng như trên; Tỳ-kheo-ni vu báng Tỳ-kheo và ba chúng dưới cũng như trên; Thức-xoa-ma-na vu báng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la.  TÁT BÀ ĐA TỲ NI TỲ BÀ SA <卷>QUYỂN 9 24.Ưu-Ba-Ly Vấn Pháp: c . Hỏi về hai pháp Bất định: Nếu có Ưu-bà-di đáng tin nói với Tỳ-kheo: “Tôi thấy Tỳ-kheo phạm bốn Ba-la-di”, thì có nên tin theo lời nói đó để trị Tỳ-kheo hay không? - Nên tin. Nếu có Ưu-bà-di đáng tin nói với Tỳ-kheo: “Tôi thấy Tỳ-kheo ở trên thân phần hành dâm”, thì có nên tin theo lời nói đó để trị Tỳ-kheo hay không? - Không nên tin. Nếu có Ưu-bà-di đáng tin nói với Tỳ-kheo: “Tôi thấy Tỳ-kheo hành dâm với người nữ dòng Sát-đế-lî” thì có nên tin theo lời đó để trị Tỳ-kheo hay không? - Không nên tin, vì sao, vì Tỳ-kheo không tự nói. Nếu có hai người cùng thấy thì nên hỏi cả hai người, nếu cả hai cùng nói giống như lời Tỳ-kheo nói thì nên tin theo lời nói này để trị Tỳ-kheo. Trường hợp nói hành dâm với Bà-la-môn nữ, Tỳ xá nữ hay Thủ-đà-la nữ cũng vậy. Nếu có Ưu-bà-di đáng tin nói với Tỳ-kheo: “Tôi thấy Tỳ-kheo khi đi, hành dâm nơi đường tiểu tiện”, thì có nên tin theo hay không? - Nếu có hai người cùng thấy thì nên hỏi cả hai người, nếu cả hai cùng nói giống như lời Tỳ-kheo nói thì nên tin theo lời nói này để trị. Trường hợp nói hành dâm nơi miệng và đường đại tiện cũng vậy. Nếu có Ưu-bà-di đáng tin nói với Tỳ-kheo: “Tôi thấy Tỳ-kheo ăn Đát-bát-na phi thời” thì nên hỏi Tỳ-kheo đó, nếu Tỳ-kheo nói tôi ăn đường thì nên tin theo lời này để trị. Trường hợp nói ăn đường phèn, mật… cũng vậy. Nếu có Tỳ-kheo ăn đường phi thời, có Ưu-bà-di đáng tin nói với Tỳ-kheo: “Tôi thấy Tỳ-kheo ăn thịt phi thời”thì cũng nên bảo Tỳ-kheo tự nói, sau đó theo lời nói này để trị. Trường hợp nói ăn tô cũng vậy. Có Tỳ-kheo xuất bất tịnh ở ngoài răng, có Ưu-bà-di đáng tin nói với Tỳ-kheo: “Tôi thấy Tỳ-kheo hành dâm nơi miệng”, cũng nên bảo Tỳ-kheo tự nói rồi theo lời nói này để trị. Trường hợp xuất tinh nơi đùi cũng vậy. Có hai Ưu-bà-di đáng tin cùng đi trên đường thấy có hai Tỳ-kheo cũng cùng đi trên đường, một người thấy Tỳ-kheo làm xuất tinh, một người thấy Tỳ-kheo kia xúc chạm với người nữ liền đến nói với các Tỳ- kheo; Tăng cũng nên bảo hai Tỳ-kheo tự nói rồi theo lời nói này để trị. Trường hợp nhiều Tỳ-kheo cũng vậy, nằm ngồi cũng vậy. Nếu Ưu-bà- di thấy Tỳ-kheo phạm tội rõ ràng thì Tăng nên tin theo lời của họ để trị Tỳ-kheo. Nếu có Ưu-bà-di đáng tin nói với Tỳ-kheo: “Tôi thấy Tỳ-kheo phạm bốn thiên tội sau”, Tăng cũng nên bảo Tỳ-kheo tự nói rồi theo lời nói này để trị. Nếu nói thấy phạm mười ba tội Tàn hoặc ba thiên tội sau cũng vậy. Hỏi về ba mươi pháp Xả đọa: Hỏi: Nếu Tỳ-kheo được một miếng vải, không thọ trì thì có nên xả hay không? - Không nên xả - Nên thọ trì không? - Không nên thọ trì. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo mất y Ni-tát-kỳ thì làm sám hối gì? - Sám hối Ni-tát-kỳ. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa y dư quá mười ngày đêm mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu y này dùng vật bất tịnh xen tạp để may như lông lạc đà, lông dê… thì phạm Đột-kiết-la; lại có trường hợp trong mười ngày này Tỳ-kheo qua đời. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo được y rồi cất chứa năm ngày thì bịnh điên, đến lúc nào mới kết phạm? - khi nào được bổn tâm. Hỏi: Y cất chứa quá mười ngày có được lìa ngủ đêm không? - Được, nếu liên tiếp ngày được y. Hỏi: Có được dùng y của Tăng làm ba y để thọ trì hay không? Được thọ trì Nếu đã thọ trì, lìa y ngủ đêm thì có nên xả hay không? - Không được xả, chỉ nên sám tội Ba-dật-đề. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo để y trong giới lại ra ngoài giới, hoặc để y ngoài giới lại vào trong giới thì có được lìa y ngủ đêm cho đến khi mặt trời mọc hay không? - Được. Hỏi: Nếu y để trên đất, mặt trời mọc trên không; hoặc để y trên không, ánh mặt trời chiếu xuống đất thì ở trong giới khác không được lìa y ngủ đêm hay là ở chỗ không có kết giới, cách y bao xa thì gọi là lìa y ngủ đêm? Tùy theo tường rào của chùa (giới) rộng hay hẹp hoặc có hào hố hay không thì Tỳ-kheo được để y bên trong đó tùy ý cho đến khi mặt trời mọc. Trường hợp ba y của người học giới và năm y của tỳ-kheo-ni cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cất chứa vải hơn một tháng mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu là vải bất tịnh như trên, cất chứa quá một tháng thì phạm Đột-kiết-la; chứa y không đúng kích lượng quá một tháng cũng phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo được cất chứa y một tháng là vải như thế nào? - Đó là tịnh y. Thế nào là tịnh y? - Đó là loại vải mà Phật không chế ngăn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt y cũ cho đến nhuộm, đập mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu đã giặt rồi mà bảo giặt lại thì phạm Đột-kiết-la; ra dấu tay, đưa thư, sai sứ bảo giặt thì phạm Đột-kiết-la; bảo giặt y chưa nên giặt hoặc bảo giặt y của Tăng hoặc y Ni-tát-kỳ, y tịnh thí… đều phạm Đột-kiết-la; nhuộm đập cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo mặc tịnh y vào tụ lạc, y không rời thân mà phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo vào nhà bạch y, khi đi đại tiểu tiện bị dính bùn dơ, Tỳ-kheo-ni không phải bà con làm sạch lại giùm thì Tỳ-kheo phạm Xả đọa. Khi Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni giặt y cũ, Tỳ-kheo-ni chuyển căn thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la, bảo nhuộm đập cũng vậy; trường hợp Tỳ-kheo tự chuyển căn cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni vốn đã phạm giới… giặt, nhuộm đập y cũ đều phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xin y từ cư só và vợ cư só không phải bà con mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo vừa định đi xin liền được cúng y thì phạm Đột-kiết-la. Xin y từ huỳnh môn, người hai căn, người vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp hoặc là Tặc trụ hoặc làm ô nhục Tỳ-kheo-ni đều phạm Đột-kiết-la. Không phải bà con mà tưởng là bà con nên đến xin thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; nghi không biết là bà con hay không phải bà con mà đến xin thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; bà con mà tưởng không phải bà con và nghi, đến xin đều phạm Đột-kiết-la. Khi chưa thọ giới cụ túc đến xin, khi chưa thọ giới cụ túc được y thì phạm Đột-kiết-la… có bảy trường hợp. Khi xin y, Tỳ-kheo chuyển căn thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo-ni khi xin y chuyển căn cũng vậy. Nếu đến xin y cho người khác, được y thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; vì bốn chúng kia xin y, được thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; vì nhiều Tỳ-kheo đến xin, được thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Xin y từ huỳnh môn cũng vậy; xin y từ các phi nhân như rồng, Dạ-xoa, Càn- thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… cũng vậy; xin y từ người vốn đã phạm giới… cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo quá sáu lần đến đòi y mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu theo đòi y từ phi nhân, hoặc giá tiền y để ở chỗ Sa-môn, Bà-la-môn; Tỳ-kheo quá sáu lần đến đòi thì phạm Đột-kiết-la, cho đến giá tiền y để ở chỗ người vốn đã phạm giới… cũng vậy. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc đến đòi y quá sáu lần đến đòi y mà lại phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối). Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng Câu-xá-da mới làm phu cụ mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu làm cho người khác thì phạm Đột-kiết-la; hoặc người khác làm chưa xong, Tỳ-kheo làm tiếp giùm cho xong thì phạm Đột-kiết-la; hoặc dùng vật bất tịnh xen tạp để làm thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng lông dê thuần đen để làm phu cụ mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, giống như trên. Khi chưa thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi chưa thọ giới cụ túc làm xong thì phạm Đột-kiết-la… có bảy trường hợp. Trường hợp Tỳ-kheo đã phạm giới… cũng phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc dùng lông dê thuần đen làm phu cụ mà lại phạm Xả đọa hay không? - Có, đó là người học giới (Sa-di học hối). Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng phu cụ chưa tới sáu năm liền may phu cụ mới mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo bịnh điên thì không phạm; hoặc làm cho người khác thì phạm Đột-kiết- la; hoặc người khác làm chưa xong, Tỳ-kheo làm tiếp giùm cho xong thì phạm Đột-kiết-la. Khi đang làm chuyển căn thành nữ, sau đó lại chuyển căn thành nam mới làm xong thì phạm Đột-kiết-la; cho đến trường hợp người vốn đã phạm giới… cũng đều phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc dùng phu cụ chưa tới sáu năm liền may phu cụ mới mà lại phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối). Khi chưa thọ giới cụ túc làm phương tiện, khi chưa thọ giới cụ túc làm xong thì phạm Đột-kiết-la… có bảy trường hợp. Tỳ-kheo mang lông dê đi trên không thì phạm Đột-kiết-la, đưa cho hoa nhân mang đi cũng phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc mang lông dê đi mà lại phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối). Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt, nhuộm, đập lông dê mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu đã giặt rồi mà bảo giặt lại thì phạm Đột-kiết-la; ra dấu tay, đưa thư, sai sứ bảo giặt thì phạm Đột-kiết-la; hoặc bảo giặt cho Tăng hoặc bảo giặt nhiều loại lông như lông lạc đà, lông nai, lông dê… đã làm thành thì đều phạm Đột-kiết-la; nhuộm đập cũng vậy. Trường hợp Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc nhờ giặt nhuộm đập lông dê mà lại phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối). Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự tay lấy vàng bạc hoặc sai bảo người khác lấy mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu lấy không đúng, hoặc lấy thứ vụn hoặc nguyên khối hoặc đoạn hoại… thì phạm Đột-kiết-la; lấy loại tợ vàng bạc cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu lấy loại vàng bạc mà người trong nước cơ hiềm thì phạm Đột-kiết-la; nếu không cơ hiềm thì không phạm. Trường hợp Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… cầm lấy vàng bạc đều phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc tự tay cầm lấy vàng bạc mà lại phạm Xả đọa hay không? Đáp: Có, đó là người học giới (Sa-di học hối) Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo mua bán vàng bạc vật báu mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu là vật tợ báu thì phạm Đột-kiết-la; mua bán vật báu với các phi nhân như rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A- tu-la, Ca-lầu-la, Khần-na-la, Ma-hầu-la-già thì phạm Đột-kiết-la; đổi chác với bà con hoặc với người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người vốn đã phá giới… mua bán đổi chác đều phạm Đột-kiết-la; nếu là người học giới mua bán đổi chác thì phạm Xả đọa. Khi mua bán đổi chác Tỳ-kheo chuyển căn thì phạm Đột-kiết-la, Tỳ-kheo-ni khi mua bán đổi chác chuyển căn cũng vậy. Khi chưa thọ giới cụ túc mua bán đổi chác, khi chưa thọ giới cụ túc được vào tay thì phạm Đột-kiết-la… có bảy trường hợp. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa bát dư quá mười đêm mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… thì phạm Đột-kiết-la; nếu là người học giới chứa bát dư quá mười đêm thì phạm Xả đọa; nếu chứa bát bể hay bát chưa nung thì phạm Đột-kiết- la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa bát dư trọn đời mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo được bát, trong mười ngày thì qua đời; nếu bị điên cuồng tâm loạn thì chứa quá mười ngày không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa bát dư lâu ngày mà không phạm hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo gởi bát cho mà bát chưa được gởi đến hoặc giữ giùm người khác. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa bát dư một đêm mà lại phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo-ni chứa bát dư một đêm thì phạm Xả đọa, có trường hợp Tỳ-kheo-ni chứa bát dư mười ngày mà không phạm hay không? - Có nếu Tỳ-kheo-ni chuyển căn thành Tỳ-kheo. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo có bát rồi nếu xin nữa thì phạm Xả đọa, bát này nên ở trong Tăng xả; nếu Tỳ-kheo một lần xin được nhiều bát, có phải tất cả bát dư này đều nên ở trong Tăng xả phải không? Không phải xả hết, chỉ xả một bát, tất cả bát kia nên đem cho người đồng ý. Hỏi: Tất cả bát đều ở trong Tăng đưa đổi phải không? - Không phải tất cả đều đưa đổi, chỉ đưa đổi một bát. Bát nào nên đưa đổi? - Là bát mà Tỳ-kheo phạm ưa thích nhất. Nếu hai Tỳ-kheo cùng xin được một bát nữa thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ hoặc ra dấu tay xin bát thì phạm Đột-kiết-la; mỗi người xin giùm cho nhau thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo lấy vật của mình để đổi bát thì phạm Đột-kiết-la; đến chỗ ngoại đạo xin bát thì phạm Đột-kiết-la; đến chỗ Sa-môn , Bà-la-môn xin bát cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo là người vốn đã phạm giới… xin bát nữa thì phạm Đột-kiết-la; nếu là người học giới xin bát nữa thì phạm Xả đọa. Khi chưa thọ giới cụ túc xin bát, khi chưa thọ giới cụ túc được bát thì phạm Đột-kiết-la… có bảy trường hợp. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cho Tỳ-kheo khác y rồi, sau đó đoạt lấy lại mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo thọ pháp cho Tỳ-kheo không thọ pháp y, sau đó đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo thọ y là người vốn đã phạm giới…, đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la; nếu y đoạt lại là y không đúng kích lượng thì phạm Đột- kiết-la. Nếu người cho chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la; người thọ y chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni, đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Tỳ-kheo A-lan-nhã ở chỗ có sợ hãi, chỉ mặc một y đến nhà bạch y do có chút nhân duyên, nghó là sẽ trở về nhưng khi trở về có nạn khởi lên, không thể đến được chỗ để y thì Tỳ-kheo này có phạm lìa y ngủ đêm không? - Không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lìa y sáu đêm mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu đó là y bất tịnh thì phạm Đột-kiết-la; nếu là y Tăng-già-lê đã xin yết ma lìa y thì không phạm. Hỏi: Như Phật dạy trước mùa mưa một tháng được xin y tắm mưa, trong nữa tháng nên may và cất chứa; có trường hợp Tỳ-kheo trước mùa mưa chưa tới một tháng đã xin y tắm mưa và cất chứa quá nữa tháng mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu đó là y bất tịnh thì phạm Đột-kiết-la, hoặc y tắm mưa này không đúng kích lượng thì phạm Đột- kiết-la; hoặc Hai Tỳ-kheo cùng xin y tắm mưa thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu tự tứ rồi, vua tính tháng nhuần, Tỳ-kheo được y cấp thí phải làm thế nào? - Nên tính số ngày, trong tháng an cư quá mười ngày thì phạm Xả đọa, vì y cấp thí không được làm y phi thời. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo được y cấp thí, cất chứa quá mười ngày mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu đó là y bất tịnh thì phạm Đột-kiết-la; nếu cất chỉ sợi bất tịnh để dệt y thì phạm Đột-kiết-la; hoặc y này không đúng kích lượng thì phạm Đột-kiết-la. Trường hợp Tỳ-kheo là người vốn đã phạm giới… cất chứa y cấp thí quá mười ngày thì phạm Đột-kiết-la; người học giới cất chứa y cấp thí quá mười ngày thì phạm Xả đọa. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hồi chuyển y cúng cho Tăng về cho mình mà không phạm Xả đọa hay không? - Có, nếu đó là y của cha mẹ cúng cho Tăng, hồi chuyển về cho mình thì phạm Đột-kiết-la. Nếu thí chú cúng y cho Tăng chưa vào trong giới, Tỳ-kheo hồi chuyển về cho mình thì phạm Đột-kiết-la; nếu thí cho hai, bA-tỳ-kheo mà hồi chuyển về cho mình thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo phi thời được mía, phi thời ép lấy nước, phi thời lượt, phi thời nấu, phi thời thọ thì có được uống hay không? - Không được. Trường hợp tám loại nước uống, năm loại mỡ, sữa, dầu, thịt… cũng vậy. Hỏi: Đối với Thời dược, Phi thời dược, Thất nhật dược, Chung thân dược nếu không tự tay thọ, không nói thọ thì có được dùng hay không? - Không được dùng. Nếu tự tay thọ mà không nói thọ thì có được dùng hay không? - Nếu không trải qua đêm thì người bịnh được dùng, không bịnh thì không được dùng. Hỏi: Ngay nơi loại dược này xen tạp với loại dược kia thì được dùng không? - Không được Thời dược… cho đến Chung thân dược xen tạp nhau phi thời được dùng không? - Không được vì do hiệu lực của Thời dược; Thất nhật dược chỉ được dùng trong bảy ngày, quá bảy ngày thì không được dùng; Chung thân dược xen tạp với Thất nhật dược chỉ được dùng trong bảy ngày; Thời được phải dùng đúng thời, Phi thời dược phải dùng theo Phi thời dược, Thất nhật dược phải dùng theo Thất nhật dược và Chung thân dược dùng theo Chung thân dược; nếu thí hợp thí thì nên phân biệt. Hỏi về Ba-dật-đề: Hỏi: Nếu Tỳ-kheo mặc y phục ngoại đạo thì có thành xả giới không? - Không xả giới nhưng phạm Thâu-lan-giá; nếu có người hỏi thầy là ai, đáp là ngoại đạo thì Tỳ-kheo này phạm cố ý vọng ngữ Ba- dật-đề. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo mang hình dáng cư só thì có thành xả giới không? - Không xả giới nhưng phạm Đột-kiết-la; nếu có người hỏi thầy là ai, đáp là cư só thì Tỳ-kheo này phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề. Những việc khác tùy nghóa nên hiểu. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Thầy là người dòng Sát-đế- lî xuất gia… cho đến dòng Thủ-đà-la xuất gia”hoặc nói thầy là thợ hớt tóc thì phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo dùng thiên nhãn để cử tội Tỳ-kheo khác thì phạm Đột-kiết-la, dùng thiên nhó cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo xướng lên rằng: “Trong Tăng có người phạm giới”, thì phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề; nếu Tỳ-kheo nói: “Thầy là người khuyết giới, giới rạn nứt, giới suy kém, giới nhơ”thì phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề. Nếu nói để giáo giới thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo dòng Bà-la-môn xuất gia: “Thầy là thợ hớt tóc”thì phạm Đột-kiết-la; nếu có người hỏi thầy là ai, đáp là Tỳ-kheo-ni thì phạm cố ý vọng ngữ Ba-dật-đề; nếu đáp là Sa-di thì có thành xả giới không? - Không xả giới nhưng phạm cố ý vọng ngữ Ba- dật-đề. Cho đến nói là Sa-di-ni, ngoại đạo, phi nhân… cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói chê bai mà không phạm Ba-dật- đề hay không? - Có, nếu là người vốn đã phạm giới … chê bai thì phạm Đột-kiết-la; chê bai phi nhân xuất gia cũng Đột-kiết-la; chê bai các loài rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khần-na-la, Ma-hầu-la- già… xuất gia đều phạm Đột-kiết-la. Chê bai người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, người điếc, câm đều Đột-kiết-la; người ở trong nước chê bai người biên địa, người biên địa chê bai người ở trong nước… đều Đột-kiết-la. Sai sứ, ra dấu tay chê bai cũng Đột-kiết-la. Tỳ-kheo chê bai Tỳ-kheo thanh tịnh thì phạm Ba-dật-đề, chê bai bốn chúng kia thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni chê bai Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật- đề, chê bai bốn chúng kia cũng Đột-kiết-la; Thức-xoa-ma-na chê bai Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la; Sa-di, Sa-di-ni cũng vậy. Tỳ-kheo ở bên Tỳ-kheo thanh tịnh nói hai lưỡi thì phạm Ba-dật- đề, bên bốn chúng kia nói hai lưỡi thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni bên Tỳ-kheo-ni nói hai lưỡi thì phạm Ba-dật-đề; bên bốn chúng kia nói hai lưỡi thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo ở bên người vốn đã phạm giới… cho đến ở bên người mù, điếc câm nói hai lưỡi đều phạm Đột-kiết-la; ở bên các loài phi nhân xuất gia nói hai lưỡi đều phạm Đột-kiết-la; Tỳ- kheo ở dưới đất nóily gián Tỳ-kheo ở trên không hoặc người ở trên hư nói ly gián Tỳ-kheo ở dưới đất… cho đến người ở trong nước nói ly gián người biên địa, hoặc người biên địa nói ly gián người ở trong nước mà họ không hiểu thì đều phạm Đột-kiết-la. Người học giới ở bên Tỳ-kheo thanh tịnh nói hai lưỡi thì phạm Ba-dật-đề; sai sứ, ra dấu nói thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo, Tăng đã như pháp diệt tránh rồi, phát khởi trở lại mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, đó là người vốn đã phạm giới… phát khởi trở lại thì phạm Đột-kiết-la. Người học giới phát khởi trở lại thì phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo khơi lại việc tranh cãi của người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại… người mù, câm điếc… cho đến các loài phi nhân xuất gia thì đều phạm Đột-kiết- la. Người ở trong nuớc khơi lại việc tranh cãi của người biên địa… cũng vậy; sai sứ, ra dấu cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo nói với người học giới: “Thầy không phải là người học giới” thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo khơi lại việc tranh cãi của bốn chúng kia thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo-ni khơi lại việc tranh cãi của bốn chúng kia cũng vậy. Hỏi: Như Phật dạy không có tịnh nhân thì Tỳ-kheo không được thuyết pháp cho người nữ, thế nào là không phải tịnh nhơn? - Tức là người ngu si, người điên, người biên địa, người ngủ, người say, người buông lung, người nhập định không nghi không hiểu. Nếu không phải tịnh nhân mà cho là tịnh nhân, thuyết pháp cho người nữ thì phạm Đột- kiết-la; người nữ thanh tịnh nhưng tinh nhân không thanh tịnh, hoặc người nữ không thanh tịnh nhưng tịnh nhân thanh tịnh mà Tỳ-kheo thuyết pháp cho người nữ thì phạm Đột-kiết-la. Nếu tịnh nhân là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, người điếc… phi nhân… làm tịnh nhân, Tỳ-kheo thuyết pháp cho người nữ thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ- kheo vốn là người phạm giới… không có tịnh nhân mà thuyết pháp cho người nữ thì phạm Đột-kiết-la. Người học giới không có tịnh nhân mà thuyết pháp cho người nữ thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng dọc tụng kinh với người chưa thọ giới cụ túc mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đọc tụng với súc sanh thì phạm Đột-kiết-la; đọc tụng với người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, người điếc câm… cho đến các phi nhân… đều phạm Đột-kiết-la.Tỳ-kheo là người vốn đã phạm giới… đọc tụng với ngưới chưa thọ giới cụ túc thì phạm Đột-kiết-la. Người học giới đọc tụng với người chưa thọ giới cụ túc thì phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo đọc tụng với bốn chúng kia đều phạm Đột-kiết-la, Tỳ-kheo-ni cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói tội thô của tỳ-kheo cho người chưa thọ giới cụ túc nghe mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo tự nói tội thô của mình thì phạm Đột-kiết-la; nói tội thô của bốn chúng kia thì phạm Đột-kiết-la; các loài phi nhân xuất gia tự nói tội thô của mình với người chưa thọ giới cụ túc thì phạm Đột-kiết- la, nói tội thô của tỳ-kheo cũng phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo nói tội thô của người vốn đã phạm giới… cho đến người học giới cho người chưa thọ giới cụ túc nghe đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo ở dưới đất nói tội thô của tỳ-kheo ở trên không hoặc ngược lại; người ở trong giới nói tội thô của người ở ngoài giới hoặc ngược lại. Cho đến người ở trong nước nói tội thô của người biên địa hoặc ngược lại, đều phạm Ba-dật-đề. Sai sứ ra dấu thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo đã được lậu tận, có người chưa thọ giới cụ túc hỏi thầy được lậu tận phải không; trong tay đang cầm quả liền đáp là được thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tăng đã chấp thuận đem vật đó cho người này, Tỳ-kheo hồi chuyển đem cho người khác mà không phạm Ba-dật- đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo hồi chuyển vật của Ni tăng đem cho người khác thì phạm Đột-kiết-la; hồi chuyển vật của Tăng cho phi nhân xuất gia đem cho người khác thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Phi nhân xuất gia hồi chuyển vật của tỳ-kheo… Sa-di-ni đem cho người khác cũng phạm Đột-kiết-la; hồi chuyển vật đã cho người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại đem cho người khác thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; hồi chuyển vật đã cho người vốn đã phạm giới… đem cho người khác thì Tỳ-kheo cũng phạm Đột-kiết-la; ngược lại cũng vậy. Nếu người học giới hồi chuyển vật của Tăng đã cho người này đem cho người khác thì phạm Ba-dật-đề; người ở trong nước hồi chuyển vật đã cho người biên địa và ngược lại đều phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo lấy cát đất phủ lên cỏ tươi thì phạm Đột-kiết-la; rung cây làm cho quả chín rụng thì phạm Đột-kiết-la; làm cho quả sống rụng thì phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo tự chặt gãy cây thì phạm Ba-dật-đề; sai sứ, ra dấu tay bảo người khác chặt cây thì phạm Đột-kiết-la. Người học giới rung cây làm cho quả chín rụng thì phạm Đột-kiết-la, quả sống rụng thì phạm Ba-dật-đề; Tỳ-kheo dùng thần thông lực làm gãy cây thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo nói: “Ông hãy đến đó chặt gãy cây như thế như thế” thì phạm Đột-kiết-la; tưới nước nóng lên cỏ, cỏ chết thì phạm Ba-dật-đề, cỏ không chết thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo làm chết năm loại giống thì phạm năm Ba-dật-đề; để năm loại giống ở chỗ gió thổi nắng nung hoặc để gần lửa, nếu năm loại giống không bị hư thì phạm Đột-kiết-la, giống bị hư thì phạm năm Ba-dật-đề. Người vốn đã phạm giới… làm chết năm loại giống thì phạm Đột-kiết-la; người học giới làm chết cây cỏ thì phạm Ba-dật-đề, ném đồ vật làm chết cây cỏ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hiềm trách Tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo là phi nhân xuất gia hiềm trách Tỳ-kheo thanh tịnh thì phạm Đột-kiết-la; ngược lại cũng Đột-kiết-la. Tỳ-kheo hiềm trách người vốn đã phạm giới… cũng phạm Đột-kiết-la; hiềm trách người mù, điếc… người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại cũng phạm Đột-kiết-la. Người học giới hiềm trách Tỳ- kheo thì phạm Ba-dật-đề; người ở trong nước hiềm trách người biên địa và ngược lại đều phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo một mình tưởng không phải một mình, hoặc không phải một mình mà tưởng là một mình, hoặc một mình tưởng là một mình lẩm bẩm hiềm trách thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo hiềm trách Tỳ-kheo khác, Tỳ-kheo đó không nghe thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xúc não Tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, ngoài việc phạm tội ra, đem việc khác để xúc não Tỳ-kheo khác thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, mù, điếc… xúc não người khác thì phạm Đột-kiết-la; phi nhân xuất gia xúc não người khác thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… xúc não người khác cũng Đột-kiết-la; ngược lại Tỳ-kheo xúc não người vốn đã phạm giới… cũng Đột-kiết-la. Người học giới xúc não người khác thì phạm Ba-dật- đề. Người ở trong nước xúc não người biên địa và ngước lại đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo xúc não bốn chúng kia thì phạm Đột-kiết-la; sai sứ, ra dấu tay để xúc não người khác thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trải ngọa cụ của Tăng ở nơi đất trống hoặc bảo người khác trải,không tự cất cũng không bảo người cất mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu ngọa cụ đó bất tịnh, Tỳ-kheo không tự cất cũng không bảo người cất thì phạm Đột-kiết-la. Ngọa cụ bất tịnh là ngọa cụ được làm bằng nhiều loại lông xen tạp như lông lạc đà, lông dê, lông nai… Hoặc ngọa cụ có kích lương cao đến tám ngón tay hoặc hơn, Tỳ-kheo không cất và không bảo người cất thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo là người vốn đã phạm giới… ở trong chùa hoặc đến chùa khác, trải ngọa cụ không cất và không bảo người cất thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo trải ngọa cụ của bạch y, sau đó không cất thì phạm Đột-kiết-la; trải ngọa cụ của mình mà không dọn cất cũng Đột-kiết-la. Tỳ-kheo đến chùa của tỳ-kheo-ni trải ngọa cụ, sau đó bỏ đi mà không thu dọn thì phạm Đột-kiết-la; ở trong chùa của Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng vậy. <篇> TÁT BÀ ĐA BỘ TỲ NI MA ĐẮC LẶC GIÀ <卷>QUYỂN 10 24.Ưu-Ba-Ly Vấn Pháp (Tiếp Theo): e. Hỏi về Ba-dật-đề (Tiếp Theo): Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trải cỏ và lá cây trong phòng của tỳ-kheo, khi đi không thu dọn cũng không bảo người thu dọn mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… thì phạm Đột-kiết-la; hoặc ở trong phòng của chùa Ni hoặc của ngoại đạo cũng phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo biết trong chùa tăng đã có Tỳ-kheo đến ở trước liền gượng chen vào nằm ngồi để xúc não Tỳ-kheo đó mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… thì phạm Đột-kiết-la; hoặc đó là phi nhân xuất gia; hoặc Tỳ-kheo gượng chen vào ngồi nằm để xúc não phi nhân xuất gia thì phạm Đột-kiết-la. Trừ ở trong phòng, chùa của đệ tử Như lai, ở trong phòng nhà của người khác thì phạm Đột-kiết-la; trong phòng riêng của mình xúc não người khác cũng Đột-kiết-la. Hỏi: Có tường hợp Tỳ-kheo vì sân giận tự kéo người khác hoặc bảo người kéo mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu kéo đuổi phi nhân xuất gia hoặc người vốn đã phạm giới… thì phạm Đột- kiết-la; kéo lôi người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, người mù, điếc… đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo quăng bỏ y bát của tỳ-kheo ác ra ngoài cũng phạm Đột-kiết-la; trừ ở trong phòng, chùa của đệ tử Như lai, ở trong phòng nhà của người khác mà kéo lôi ra thì phạm Đột-kiết-la . Nếu Tỳ-kheo dùng nước có trùng tưới lên cỏ, đất hay Cù-ma-da thì phạm Ba-dật-đề; trong cỏ đất có trùng cũng vậy. Hỏi: có trường hợp Tỳ-kheo ở trên lầu gác, nằm ngồi trên giường có chân nhọn mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là phi nhân xuất gia hoặc Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… đều phạm Đột- kiết-la. Người học giới nằm ngồi trên giường như vậy thì phạm Ba-dật- đề; người mù, điếc, câm thì phạm Đột-kiết-la; người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm. Tỳ-kheo nằm ngồi trên lầu gác của mình, trên giường có chân nhọn cũng không phạm; hoặc ngồi dưới gác trên giường không có chân nhọn thì không phạm. Trừ ở trong phòng, chùa của đệ tử Như lai, nằm ngồi trên lầu gác của người khác thì phạm Đột-kiết-la . Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lợp quá hai, ba lớp mà không phạm hay không? - Có, nếu dùng cỏ ván lợp thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không được Tăng sai, đến giáo giới Tỳ-kheo-ni mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ- kheo vốn đã phạm giới… hoặc người mù, điếc câm hoặc đó là phi nhân xuất gia… Tăng không sai mà đến giáo giới Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột- kiết-la. Người học giới nếu Tăng không sai mà đến giáo giới Tỳ-kheo- ni thì phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo ở trong nước, Tăng không sai mà đến giáo giới cho ni ở biên địa; hoặc Tỳ-kheo ở biên địa, Tăng không sai mà đến giáo giới cho Tỳ-kheo-ni ở trong nước thì phạm Đột-kiết-la. Trường hợp giáo giới Ni đén lúc mặt trời lặn cũng vậy. Tỳ-kheo thành tựu năm đức, Tăng mới sai đi giáo giới Tỳ-kheo-ni. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói các Tỳ-kheo vì lợi dưỡng nên đi giáo giới Tỳ-kheo-ni mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là phi nhân xuất gia hoặc là người vốn đã phạm giới…, hoặc là người mù, điếc câm thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo ở trong nước nói Tỳ-kheo ở biên địa hoặc Tỳ-kheo ở biên địa nói Tỳ-kheo ở trong nước thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo thọ pháp nói Tỳ-kheo không thọ pháp thì phạm Đột-kiết-la. Nếu là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm. Người học giới nói các Tỳ-kheo như vậy thì phạm Ba-dật-đề. Hỉ: Có trường hợp Tỳ-kheo may y giùm cho Tỳ-kheo-ni không phải bà con mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc Tỳ-kheo may y giùm cho Tỳ-kheo- ni vốn đã phạm giới… thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo may giùm y cho Tỳ-kheo-ni là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm. Tỳ-kheo may giùm y cho Tỳ-kheo-ni là phi nhân xuất gia, hoặc Tỳ-kheo là phi nhân xuất gia may y giùm cho Tỳ-kheo-ni không phải bà con thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo thọ pháp may giùm y cho Tỳ-kheo- ni không thọ pháp và ngược lại thì phạm Đột-kiết-la. Giới cho y cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đi chung đường với Tỳ-kheo-ni mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là phi nhân xuất gia hoặc Tỳ-kheo đi chung đướng với Tỳ-kheo-ni là phi nhân xuất gia thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc là người mù, điếc câm đi cùng với Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la; ngược lại cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại đi cùng Tỳ-kheo-ni thì không phạm; ngược lại cũng vậy. Tỳ-kheo thọ pháp đi chung đường với Tỳ-kheo-ni không thọ pháp thì phạm Đột-kiết-la, ngược lại cũng vậy. Người học giới đi chung đường với Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật-đề. Giới đi chung thuyền cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng ngồi với người nữ ở chỗ khuất mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc là phi nhân xuất gia, hoặc là người mù, điêc câm cùng ngồi thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại cùng ngồi với người nữ ở chỗ khuất thì không phạm. Người học giới cùng ngòi với người nữ ở chỗ khuất thì phạm Ba-dật-đề. Giới cùng ngồi với Tỳ-kheo-ni ở chỗ khuất cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni khen ngợi mà thọ được thức ăn lại không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc là người mù, điếc câm; hoặc đó là phi nhân xuất gia thì phạm Đột-kiết-la; trường hợp ngược lại cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm. Người học giới thọ được thức ăn từ Tỳ-kheo-ni khen ngợi thì phạm Ba- dật-đề. Tỳ-kheo thọ pháp thọ được thức ăn từ Tỳ-kheo-ni không thọ pháp khen ngợi hoặc ngược lại thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo nếu biết thức ăn làm cho người khác mà xin và được thì phạm Đột-kiết-la; không biết thì không phạm. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo ăn nhiều nơi thì phạm Ba-dật-đề, trừ nhân duyên, có trường hợp Tỳ-kheo thọ thỉnh hai nơi mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo đã thọ thỉnh thực nơi chỗ không có y, sau đó thọ thỉnh thực nơi chỗ có y thì không phạm lỗi thọ thực hai nơi; thọ thỉnh thực nơi chỗ có y thì không phạm. một chỗ được y, một chỗ tìm y thọ thỉnh thực thì không phạm. Có người nói với Tỳ-kheo: “Thầy hãy thọ thực nơi đây, tôi sẽ tìm y cho thầy”, Tỳ-kheo thọ thỉnh thực thì không phạm. Lại có người nói: “Thọ thực nơi đây rồi, tùy ý thọ nơi nào khác cũng được”, Tỳ-kheo thọ thực thì không phạm. Ngoài năm loại thức ăn, tùy ý ăn các loại thức ăn khác thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở hai nơi thọ thỉnh thực không có y mà không phạm hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc Tỳ-kheo mù, điếc câm hoặc là phi nhân xuất gia thọ thỉnh hai nơi thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở nơi chỗ thí chủ cúng dường một bữa ăn, không bịnh mà ăn quá một bữa lại không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu ở chỗ của phi nhân thì không phạm, hoặc Tỳ-kheo làm chỗ ngủ qua đêm, ăn quá một bữa không phạm; nếu ở chỗ Sa- môn, Bà-la-môn khác ăn quá một bữa thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; ở nhà bà con ăn quá một bữa không phạm. Ở nhà huỳnh môn, người hai căn, người mùa điếc câm… ăn quá một bữa thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, ăn quá một bữa không phạm. Người học giới ăn quá một bữa thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo vào nhà bạch y khất thực, có cư só Bà-la-môn tùy ý cúng nhiều bánh và thức ăn, thọ quá hai, ba bát mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu vào nhà của phi nhân như trời rồng…, nhà ngoại đạo thọ quá hai, ba bát thì phạm Đột-kiết-la hoặc ngồi ăn tại đó thì không phạm; nếu thọ hai, ba bát rồi mà còn đi khất thực nữa thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo thọ pháp đến nhà thí chủ của tỳ-kheo không thọ pháp, thọ quá hai, ba bát thì phạm Đột-kiết-la; trường hợp ngược lại cũng vậy, cho đến Tỳ-kheo là phi nhân xuất gia hoặc là người vốn đã phạm giới… hoặc là người mù điếc câm… cũng vậy. Người học giới thọ quá hai, ba bát thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ăn xong tùy ý rồi, không thọ pháp dư thực lại ăn nữa mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ- kheo bị bịnh, ăn chưa no, ăn tô mật cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo ăn thức ăn bất tịnh xong tùy ý rồi, thọ pháp dư thực thì không thành thọ thực, phạm Ba-dật-đề; thức ăn bất tịnh là năm loại chánh thực. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ăn xong tùy ý rồi, thọ pháp dư thực, trong thức ăn đó thường thường ăn, tùy ý ăn mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… thì phạm Đột- kiết-la; người học giới ăn như vậy thì phạm Ba-dật-đề . Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ăn biệt chúng mà không phạm Ba- dật-đề hay không? - Có, trừ sáu nhân duyên được ăn biệt chúng không phạm; trự loại chánh thực, ăn loại thức ăn khác thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ăn phi thời mà không phạm Ba-dật- đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo ở ba cõi kia mà tính theo giời ăn của cõi Diêm phù đề thì không phạm. Hỏi: ỡ cõi Phất vu đãi và cõi Câu-da-ni có được ăn thức ăn cách đêm hay không? - Không được ăn. - Ở cõi Uất đơn việt được ăn thức ăn cách đêm hay không? - Được. Hỏi: Có mấy loại thức ăn để cách đêm mà Tỳ-kheo không được ăn? - Có ba loại, đó là thức ăn cách đêm của Tăng, của tỳ-kheo và của người học giới. Có bốn loại thức ăn cách đêm mà Tỳ-kheo được ăn, đó là thức ăn cách đêm của tỳ-kheo-ni, của Thức-xoa-ma-na, của Sa-di và của Sa-di-ni. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Hỏi: Nếu bát dính dầu mỡ dơ, dùng tro, đất, mạt vụn chà rửa ba lần mà vẫn không sạch hết chất dầu mỡ thì có được dùng bát đó để ăn hay không? - Được, vì sao, vì chẳng phải ăn chất dầu mỡ dính dơ. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo tay cầm bình đựng dầu, tô nên bỏ thì không được thọ thức ăn để ăn phải không (ác tróc)? - Hoặc được hoặc không được, nếu là người không biết xấu hổ cầm rồi liền thọ thức ăn mà ăn; nếu là người biết xấu hổ thì lở cầm hay cầm lộn, mới được thọ thức ăn ăn. Hỏi: Nếu Tỳ-kheo lấy thức ăn muốn đưa cho Sa-di, Sa-di đưa lại cho Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo có được ăn không? - Được - nếu Sa-di không đưa lại cho thì Tỳ-kheo có được đòi hỏi không? Không được đòi hỏi. Hỏi: Nước muối mặn có được thọ không? Nếu để thêm muối thì được thọ, không để thêm muối thì không đuợc thọ. Nước đục soi thấy mặt thì không nên thọ, không thấy mặt thì nên thọ. Hỏi: Người học giới có thọ pháp cho Tỳ-kheo không thọ pháp thức ăn thì có được ăn hay không? - Không được ăn. Trường hợp ngược lại cũng vậy. Tỳ-kheo thọ pháp và Tỳ-kheo không thọ pháp cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không bịnh, đòi hỏi thức ăn ngon mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo ở bên bà con đòi hỏi thức ăn ngon thì không phạm. Tỳ-kheo uống nước có trùng, tùy làm trùng chết bao nhiêu thì phạm bấy nhiêu Ba-dật-đề . Hỏi: Có Tỳ-kheo ngồi ăn trong nhà ăn mà phạm biên tội hay không? - Có, nếu ăn thức ăn dâm dục thì phạm Ba-la-di . Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo gượng ngồi trong nhà ăn có vật báu mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu gượng ngồi trong nhà ăn của các phi nhân như trời rồng… thì phạm Đột-kiết-la; hoặc gượng ngồi tong nhà ăn của đồng nữm huỳnh môn, người hai căn, người căn bị hoại thì phạm Đột-kiết-la; ngồi trong nhà ăn của ba hạng người người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo là phi nhân xuất gia hoặc là người mù, điếc câm… cũng không phạm. Trường hợp đứng cũng vậy, trừ thỉnh thực thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự tay cho nữ ngoại đạo lỏa hình thức ăn mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu cho thức ăn cách đêm thì phạm Đột-kiết-la, bảo người khác cho cũng Đột-kiết-la; nếu cho để giáo hóa thì không phạm; cho bà con cũng Đột-kiết-la; để trên đất cho cũng Đột-kiết-la; chia phần xong để trên đất bảo tùy ý ăn thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đến xem quân trận mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu có nhiều giặc cướp bị bắt, Tỳ-kheo vì nhàm lìa nên đến xem thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo đi xem quân trận của phi nhân thì phạm Đột-kiết-la. Giới ở trong quân trận quá hai đêm và xem quân đánh nhau cũng như vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo vì sân giận đánh Tỳ-kheo khac mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đánh Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc người mù, điếc… thì phạm Đột-kiết-la; ngược lại cũng vậy; đánh Tỳ-kheo là phi nhân xuất gia cũng Đột-kiết-la; ngược lại cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đánh Tỳ-kheo khác mà phạm trăm ngàn tội Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo vì sân giận ở trong chúng đại Tỳ-kheo quăng ném cát, tùy trúng bao nhiêu thì phạm Ba- dật-đề bấy nhiêu, nếu quăng ném không trúng ai thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo che giấu tội thô của tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo che giấu tội nặng của tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc của phi nhân xuất gia thì phạm Đột-kiết-la; ngược lại cũng vậy. Người học giới che giấu tội thô của tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác hãy cùng đi đến đó, sẽ bảo cúng thức ăn ngon cho thầy, sau đó lại bảo đi đi mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc là phi nhân xuất gia thì Tỳ-kheo nói và đuổi về phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo ở trong nước nói và đuổi Tỳ-kheo biên địa như vậy cũng Đột-kiết-la; ngược lại cũng vậy, ra dấu tay đuổi về cũng Đột-kiết-la; đuổi Sa-môn, Bà-la-môn khác về cũng Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không bịnh, đốt lửa nơi đất trống mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc là phi nhân xuất gia, hoặc là Tỳ-kheo mù điếc câm… thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại đốt lửa thì không phạm. Người ở trong nước đốt lửa cho người biên địa và ngược lại thì phạm Đột-kiết-la; ra dấu bảo đốt lửa cũng Đột-kiết- la. Nếu bị kẻ giặc hoặc phi nhân bảo đốt thì không phạm, đốt lửa cho Tăng hoặc cho Tỳ-kheo thanh tịnh thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngủ chung với người chưa thọ giới cụ túc mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có nếu Tỳ-kheo ngủ chung với huỳnh môn, người hai căn quá hai đêm thì phạm Đột-kiết-la; ngủ với hóa nhân cũng Đột-kiết-la. Tỳ-kheo vốn đã phạm giới…, Tỳ-kheo mù điếc câm… ngủ với người chưa thọ giới cụ túc quá hai đêm thì phạm Đột-kiết-la. Người học giới ngủ chung với người chưa thọ giới cụ túc quá hai đêm thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo như pháp Tăng sự gởi dục xong, sau đó lại nói không gởi dục mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo thọ pháp gởi dục cho Tỳ-kheo không thọ pháp, sau đó nói không gởi dục thì phạm Đột-kiết-la; trường hợp ngược lại cũng vậy. Hoặc đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc là phi nhân xuất gia, hoặc là người mù điếc câm…, sau đó nói không gởi dục đều phạm Đột-kiết-la. Người học giới gởi dục rồi, sau đó nói không gởi thì phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo ở bên Tỳ-kheo bị tẫn, bị xuất tội (cử tội) cùng đồng pháp thực thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Nếu Sa-di khởi ác tà kiến nói pháp mà Như lai nói chướng đạo không phải là chướng đạo, các Tỳ-kheo đã cho yết ma tẫn, sau đó Sa-di sám hối từ bỏ thì các Tỳ-kheo có nên cho xả yết ma hay không? - Nên cho xả yết ma. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo được y mới nên làm cho hoại sắc mà không làm cho hoại sắc lại mặc, nhưng không phạm Ba-dật-đề hay không? - có nếu đó là y bất tịnh. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo tự tay lấy vật báu thì phạm Ba-dật- đề, có trường hợp Tỳ-kheo tự tay lấy vật báu mà phạm Tăng tàn hay không? - Nó, nếu vật báu đó là nữ báu hay tợ nữ báu thì phạm Tăng tàn; nếu có tâm trộm nữ báu này thì phạm Ba-la-di; trộm luân báu, ma ni báu thì phạm Đột-kiết-la; trộm voi báu, ngựa báu không phạm. Tỳ-kheo được nằm ngồi trên ngọa cụ bằng vàng bạc của phi nhân, cũng được thọ thức ăn đựng trong các vật dụng bằng vàng bạc của phi nhân. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chưa tới nữa tháng mà tắm lại không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu bị mưa ướt… các nhân duyên như trong Tỳ-ni thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cố ý giết súc sanh mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo đó là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm; nếu là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… thì phạm Đột-kiết-la. Người học giới cố ý giết súc sanh thì phạm Ba-dật-đề; Sa-di cố ý giết súc sanh thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cố ý làm cho Tỳ-kheo khác sanh nghi hối mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, trừ trường hợp thọ giới cụ túc, đem những việc khác nói làm cho Tỳ-kheo khác sanh nghi hối thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… làm cho Tỳ-kheo thanh tịnh sanh nghi hối thì phạm Đột-kiết-la; ra dấu tay làm cho người khác sanh nghi hối cũng Đột-kiết-la; Tỳ-kheo ở trong nước làm cho Tỳ- kheo biên địa sanh nghi hối và ngược lại đều phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chọc lét Tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu chọc lét Tỳ-kheo thân căn bị hoại thì phạm Đột-kiết-la, hoặc cả hai đều thân căn bị hoại thì phạm Đột-kiết-la; chọc lét người chưa thọ giới cụ túc thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… chọc lét Tỳ-kheo khác và trường hợp nguợc lại đều phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đùa giỡn trong nước mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc là phi nhân xuất gia, giỡn trong nước thì phạm Đột-kiết-la. Trừ việc đùa giỡn trong nước, đùa giỡn những việc khác đều phạm Đột-kiết-la. Người học giới đùa giỡn trong nước thì phạm Ba-dật-đề. Đùa giỡn có năm cách là đùa giỡn, cười, vui thích, uốn mình như cá và lặn hụp. Tỳ-kheo ngủ chung phòng nhà với người nữ thì phạm Ba-dật-đề. Người nữ là người có thể nắm bắt được; ngủ chung phòng với thiên nữ, long nữ… hoặc với súc sanh cái đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo ngủ chung với người nữ dưới gốc cây, hốc cây, rừng cây, bụi cỏ… đều phạm Đột-kiết-la. Người học giới ngủ chung phòng với người nữ thì phạm Ba- dật-đề; Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… ngủ chung phòng với người nữ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo khủng bố, dọa làm cho Tỳ-kheo khác sợ mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo dọa là phi nhân xuất gia hoặc người bị dọa là phi nhân xuất gia thì phạm Đột-kiết- la; Tỳ-kheo ở trong nước dọA-tỳ-kheo biên địa hoặc ngược lại thì phạm Đột-kiết-la; ra dấu tay dọa cũng Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giấu y bát… của tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo giấu y bát là phi nhân xuất gia hoặc người bị giấu y bát là phi nhân xuất gia thì phạm Đột-kiết-la; ra dấu tay bảo người khác giấu cũng Đột-kiết-la; nếu giấu y bát phạm Xả đọa thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; giấu y bát của tỳ- kheo là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì phạm Đột-kiết- la. Tỳ-kheo thọ pháp giấu y bát của tỳ-kheo không thọ pháp hoặc ngược lại thì phạm Đột-kiết-la; giấu y bát của Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng Đột-kiết-la. Tỳ-kheo thọ pháp cho Tỳ-kheo không thọ pháp y, sau đó tự ý lấy dùng thì phạm Đột-kiết-la; trường hợp ngược lại cũng vậy. Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… hoặc là phi nhân xuất gia cho Tỳ-kheo khác y rồi, sau đó tự ý lấy dùng cũng phạm Đột-kiết-la; trường hợp ngược lại cũng vậy. Người học giới cho Tỳ-kheo khác y rồi, sau đó tự ý lấy dùng thì phạm Ba-dật-đề. Thọ trì y có năm hạng người, tịnh thí y có bảy hạng người. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đem pháp Tăng-già-bà-thi-sa vu báng cho Tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là phi nhân xuất gia hoặc Tỳ-kheo vu báng phi nhân xuất gia đều phạm Đột-kiết-la. Người học giới vu báng Tỳ-kheo khác như vậy thì phạm Ba-dật-đề; Tỳ-kheo vu báng người học giới như vậy thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo ở trong nước vu báng Tỳ-kheo biên địa như vậy cũng phạm Đột-kiết-la, ngược lại cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đi chung với người nữ, không có người nam bên cạnh mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo đi chung với nữ hóa nhân, hoặc thiên nữ, long nữ… đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo là phi nhân xuất gia hoặc là người vốn đã phạm giới…, hoặc là người mùa điếc câm… đi chung với người nũ thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đi chung đường với giặc mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là Tỳ-kheo vốn đã phạm giới…, hoặc là phi nhân xuất gia, hoặc là người mù điếc câm… đi chung đường với giặc thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cho người chưa đủ hai mươi tuổi thọ giới cụ túc mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu người chưa đủ hai mươi tuổi mà Tỳ-kheo tưởng là đã đủ hai mươi tuổi thì không phạm - trong trường hợp này, được cùng ở chung bao lâu? - được cùng ở chung cho đến khi nào chưa biết chắc chắn, khi đã biết chắc chắn rồi thì không nên cho ở chỗ Tỳ-kheo mà nên cho thọ giới lại. Nếu không cho thọ giới lại, còn ở trong Tăng trải qua hai, ba kỳ bố tát hoặc bạch tứ yết ma thì người này gọi là tặc trụ, nên diệt tẫn. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo tự tay đào đất hay bảo người khác đào đều phạm Ba-dật-đề, đó là đào loại đất gì? - Đó là đào loại đất không bị đốt, không bị phá; nếu đất đã bị đốt, bị phá thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Như Phật dạy Tỳ-kheo đã thọ thỉnh bốn tháng xong, quá bốn tháng đòi hỏi nữa thì phạm Ba-dật-đề, có trường hợp Tỳ-kheo quá bốn tháng đến đòi hỏi nữa mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu bịnh thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác tôi không học pháp này mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo thọ pháp bảo Tỳ-kheo không thọ pháp học năm pháp, Tỳ-kheo không thọ pháp nói không học thì không phạm. Trường hợp Tỳ-kheo nói với phi nhân xuất gia hoặc phi nhân xuất gia nói với Tỳ-kheo, hoặc Tỳ-kheo ở trong nước nói với Tỳ-kheo biên địa, Tỳ-kheo biên địa nói với Tỳ-kheo ở trong nước không hiểu nhau thì phạm Đột-kiết-la. Người học giới nói với Tỳ-kheo khác như vậy thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đến rình nghe lén Tỳ-kheo khác tra- nh cãi mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu rình nghe lén Tỳ-kheo-ni tranh cãi cho đến Sa-di-ni tranh cãi thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo vốn đã phạm giới… đến rình nghe lén thì phạm Đột-kiết-la. Người học giới đến rình nghe lén thì phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo im lặng đứng dậy bỏ đi trong khi Tăng đang đoán sự mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu Tăng chưa tác bạch, Tỳ-kheo đứng dậy đi tiểu tiện rồi quay trở lại, hoặc đợi bạch rồi mới đi thì không phạm, hoặc đi đến chỗ vẫn còn nghe được tăng tác pháp thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không cung kính Thượng tòa mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu khi Thượng tòa đoán sự mà nói phi pháp, Tỳ-kheo trẻ tuổi nói như pháp thì không phạm. Hỏi: Nếu rượu thuốc làm từ gạo, nếp được lắng trong không đục, Tỳ-kheo có được uống phi thời không? - không được uống - nếu nước xay ép từ rễ, củ, quả…, Tỳ-kheo có được uống phi thời không? - Được - Được uống trong bao lâu? - Cho đến khi chưa xả tự tánh, quá thời thì không được uống. Hỏi: Tỳ-kheo ở mấy nơi không bạch đi vào tụ lạc mà không phạm tội? - Có ba nơi, đó là A-lan-nhã, tụ lạc gần A-lan-nhã và thần túc đi trong hư không. Bạn cùng đi không hiểu lời nói của tỳ-kheo thanh tịnh, không bạch mà vào tụ lạc thì không phạm. Người ở dưới đất không bạch người ở trên hư không và ngược lại thì không phạm. Người ở ngoài giới không bạch người ở trong giới và ngược lại đều không phạm. Nếu có Tỳ-kheo ở đó, không bạch mà vào tụ lạc thì phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo không bạch Tỳ-kheo là phi nhân xuất gia hoặc là người vốn đã phạm giới… hoặc là Sa-môn , Bà-la-môn khác thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ thỉnh thực rồi, trước giờ ăn và sau giờ ăn không bạch mà đi đến hai, ba nhà khác lại không phạm Ba- dật-đề hay không? - Có, nếu chỗ thọ thỉnh khác có y thực thì không phạm, hoặc chỗ thọ thỉnh thực này không phải là năm loại chánh thực thì không phạm. Nếu trời chưa sáng tỏ, vua chưa cất vật báu, Tỳ-kheo đến cửa thành thì phạm Đột-kiết-la, đến cửa thành của vua cõi trời Tứ thiên vương, Dạ-xoa… cũng phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo khi đang nghe thuyết giới nói là tôi nay mới biết giới này mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu đó là giới bất cọng thì không phạm, nếu đó là cọng giới thì phạm Ba- dật-đề; trường hợp Tỳ-kheo-ni cũng vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng ngà, sừng, xương làm ống đựng kim mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu làm cho người khác thì phạm Đột-kiết-la, người khác làm cho mình thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm chân giường cao quá tám ngón tay Như lai mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu chân giường làm bằng ngà, ma ni thì phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự dùng chỉ sợi Đâu-la để khâu lại giường ngồi, giường nằm đã sút chỉ của tăng mà không phạm Ba-dật-đề hay không? - Có, nếu dùng vật khác vá vào thì phạm Đột-kiết-la . Các giới như y phủ che ghẻ, y tắm mưa, ngọa cụ, may y bằng lượng y của Phật, y bất tịnh… cũng đều như vậy. f. Hỏi về pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni: Ở nhà bạch y, nếu Tỳ-kheo thọ thức ăn từ ba hạng người vốn đã phạm giới, vốn không hòa hợp hoặc là Tặc trụ thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo ở trên hư không hoặc ở trong giới thọ thức ăn của tỳ-kheo-ni ở ngoài giới thì không phạm; thọ thức ăn từ bà con thì không phạm; thọ thức ăn từ người không phải bà con nhưng đồng ý cũng không phạm; sai sứ hay ra dấu để thọ thức ăn cũng không phạm. Nếu Tỳ-kheo vào nhà bạch y khất thực, Tỳ-kheo-ni bảo cư só cúng dường cho Tỳ-kheo thức ăn này, Tỳ-kheo thọ thì phạm Đột-kiết-la; thọ giùm cho người khác cũng Đột-kiết-la; ra dấu để thọ cũng Đột-kiết-la; nếu thọ từ bà con thì không phạm. Nếu ở chỗ A-lan-nhã có khủng bố, Tỳ-kheo không bịnh mà ở trong đó thọ thức ăn thì phạm Đột-kiết-la. Như Phật dạy Tỳ-kheo nên nói với cư só là nơi đây có khủng bố, cư só hỏi Tỳ-kheo trong đây có giặc không, nếu có thì tôi sẽ báo vua, Tỳ-kheo nói không có thì ở ngoài giới thọ thức ăn không phạm; thọ thức ăn ở giữa đường cũng không phạm. Nếu Tỳ-kheo bảo cư só đừng vào trong đó, cư só tự ý vào thì Tỳ-kheo không phạm. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ thức ăn trong nhà Học gia mà không phạm hay không? - Có, nếu Tỳ-kheo đã thọ thỉnh trước hoặc bịnh thì không phạm. Tỳ-ni-ma-đắc lặc già lược có bảy ngàn bài kệ, mỗi bài kệ có ba mươi hai chữ, tổng cộng có ba mươi hai vạn bốn ngàn lời gồm mười quyển. <篇>