<經 id="n1435a">LUẬT THẬP TỤNG HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1435 LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 41 TẠP TỤNG (Tiếp Theo) 4.Pháp Tạp Liên Quan Tới Tỳ Kheo Ni (Tiếp Theo): Hai Mươi Pháp Tạp Kế: Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có Tỳ-kheo không mất nam can lại hiện thêm nữ căn, các Tỳ-kheo không biết làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật bảo nên diệt tẫn. Lại có trường hợp Tỳ-kheo-ni không mất nữ căn lại hiện thêm nam căn, Phật bảo cũng nên diệt tẫn. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ở nước Ca thi có một người con gái của một Bà-la-môn, nhan sắc tuyệt trần, được mệnh danh là Bán-ca-thi (đáng giá nữa nước Ca thi). Cô được gả cho một Bà-la-môn, không bao lâu sau người chồng qua đời, lúc đó có nhiều người bao gồm đại thần, quan viên, cư só, thương chủ đến cầu hôn nhưng cô lại muốn xuất gia làm Tỳ-kheo-ni, không thích đời sống thế tục. Khi cô đến trong Vương viên cầu xuất gia, những người xấu nghe tin này liền nói với nhau: “Chúng ta sẽ đón đường bắt cóc cô gái này, nhưng các Tỳ-kheo-ni được vua bảo hộ, nếu ai cưỡng đoạt sẽ phạm tội nặng, chi bằng đợi lúc cô ấy đi thọ giới chúng ta đón đường bắt cóc”, các Tỳ-kheo-ni nghe được tin này, không biết làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Cho Bán- ca-thi được sai sứ đến thọ giới cụ túc, nếu có người nào đoan chánh như thế cũng cho sai sứ đến thọ giới cụ túc”. Pháp sứ giả thọ giới như sau: Tăng nhất tâm hòa hợp, sứ giả từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Tăng: Đại đức tăng nhớ nghó, ni Bán-ca-thi tên , Hòa thượng ni , ni Bán-ca-thi nhờ con đến trong Tăng cầu thọ giới cụ túc, xin Tăng thương xót tế độ cho ni Bán-ca-thi được thọ giới cụ túc, Hòa thượng ni (3 lần). một Tỳ-kheo trong Tăng tác bạch yết ma như sau: Đại đức tăng lắng nghe, ni Bán-ca-thi tên , Hòa thượng ni , ni Bán-ca-thi nay nhờ sứ giả đến trong Tăng cầu thọ giới cụ túc, Hòa thượng ni . Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, tôi nay ở trong Tăng hỏi sứ giả của ni Bán-ca-thi về sáu pháp. Bạch như vậy. Này sứ giả của ni Bán-ca-thi lắng nghe, nay chính là lúc nói thật, tôi ở trong Tăng hỏi cô về sáu pháp, nếu thật thì cô nói thật, nếu không thật thì nói không thật. Này sứ giả, từ trước đến nay ni Bán- ca-thi có thanh tịnh không, đã đủ hai năm học sáu pháp chưa, Tỳ-kheo- ni tăng đã tác yết ma bổn pháp chưa, Tỳ-kheo-ni Tăng nhất tâm hòa hợp tác pháp cho yết ma thuộc Hòa thượng ni chưa, ni Bán-ca-thi có đủ năm y và bát chưa, ni Bán-ca-thi tên gì, Hòa thượng ni hiệu là gì? Đại đức tăng lắng nghe, ni Bán-ca-thi tên , Hòa thượng ni , ni Bán-ca-thi này nhờ sứ giả đến trong Tăng cầu thọ giới cụ túc, Hòa thượng ni . Sứ giả đã nói rằng ni Bán-ca-thi này từ trước đến nay thanh tịnh, đã đủ hai năm học sáu pháp, Tỳ-kheo-ni tăng đã tác bổn pháp yết ma xong rồi, Tỳ-kheo-ni Tăng nhất tâm hòa hợp tác pháp cho yết ma thuộc Hòa thượng ni, ni Bán-ca-thi đã đủ năm y và bát, ni Bán-ca-thi tên là , Hòa thượng ni hiệu là . Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay cho ni Bán-ca-thi được thọ giới cụ túc, Hòa thượng ni hiệu . Bạch như vậy. Đại đức tăng lắng nghe, ni Bán-ca-thi tên , Hòa thượng ni , ni Bán-ca-thi nhờ sứ giả đến trong Tăng cầu thọ giới cụ túc, Hòa thượng ni . Sứ giả đã nói rằng ni Bán-ca-thi này từ trước đến nay thanh tịnh, đã đủ hai năm học sáu pháp, Tỳ-kheo-ni tăng đã tác bổn pháp yết ma rồi, Tỳ-kheo-ni Tăng nhất tâm hòa hợp tác pháp cho yết ma thuộc Hòa thượng ni, ni Bán-ca-thi đã đủ năm y và bát, ni Bán-ca- thi tên là , Hòa thượng ni hiệu là . Các trưởng lão nào chấp thuận cho ni Bán-ca-thi được thọ giới cụ túc thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Đây là yết ma lần thứ nhất. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận cho ni Bán-ca-thi được thọ giới cụ túc, Hòa thượng ni xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni làm việc có lỗi với trưởng lão Ca-lưu-đà-di, Ca-lưu-đà-di ngăn không cho ni này vào chùa, các Tỳ-kheo-ni nói với ni này: “Sao cô không đến sám hối trưởng lão Ca-lưu-đà-di?”, đáp: “Thầy ấy ngăn không cho tôi vào chùa thì làm sao sám hối được”. Các Tỳ-kheo-ni đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Tỳ-kheo không nên ngăn Tỳ-kheo-ni vào chùa, chỉ ngăn không cho vào phòng của mình mà thôi”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo-ni phạm lỗi với Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không vui đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nếu Tỳ- kheo-ni phạm lỗi với Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo nên ngăn Tỳ-kheo-ni thuyết giới, tự tứ và thọ pháp giáo giới”. Lúc đó Tỳ-kheo này ngăn Tỳ-kheo- ni thuyết giới…, còn các Tỳ-kheo khác lại cho thuyết giới… nên xảy ra tranh cải, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Tỳ-kheo nào ngăn thì Tỳ-kheo đó cho phép lại, các Tỳ-kheo khác không được cho phép”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo phạm lỗi với Tỳ-kheo-ni, các Tỳ-kheo-ni không vui nghó rằng: “Tỳ-kheo-ni phạm lỗi thì Tỳ-kheo ngăn không cho thuyết giới…; còn Tỳ-kheo phạm lỗi với Tỳ-kheo-ni thì như thế nào đây”, nghó rồi đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Tỳ-kheo nên đến chỗ Tỳ-kheo-ni sám hối”. Khi Tỳ-kheo đến chỗ Tỳ-kheo-ni sám hối thì Tỳ-kheo-ni không thọ, Phật bảo: “Tỳ-kheo đến sám hối thì Tỳ-kheo-ni nên thọ”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni phạm lỗi với trưởng lão Ca-lưu-đà-di, Ca-lưu-đà-di ngăn không cho thọ pháp giáo giới rồi xuất giới đi. Các Tỳ-kheo-ni bảo ni này đến sám hối, ni này đáp: “Thầy ấy ngăn không cho tôi thọ pháp giáo giới rôi xuất giới đi, làm sao tôi đến sám hối được”, các Tỳ-kheo-ni đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo nào ngăn Tỳ-kheo-ni thì không được xuất giới đi, nếu xuất giới đi thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni trong Vương viên có thợ cạo tóc đến cạo tóc liền dụ gạt một Thức-xoa-ma-na khiến cho thối tâm xuất gia, như thế đến hai, ba người khiến cho số ni giảm bớt. Các Tỳ- kheo-ni đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Khi thợ đang cạo tóc cho ni, ni tăng nên cử một thiện Tỳ-kheo-ni đứng một bên xem xét”. Phật tại thành Vương xá, lúc đó một Tỳ-kheo-ni trợ giúp Đề-bà- đạt-đa thuê phòng ở, sau vì trả tiền thuê phòng nên khổ não, các cư só trách: “Cô là người xuất gia sao lại thuê phòng ở”, các Tỳ-kheo-ni đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo-ni không được thuê phòng ở, nếu thuê phòng thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Đề-bà-đạt-đa dùng các vật dụng kỳ cọ thân để kỳ cọ, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại dùng các vật dùng kỳ cọ thân để kỳ cọ, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo-ni không được dùng vật dụng kỳ cọ thân để tự kỳ cọ, nếu dùng thì phạm Đột-kiết-la”. Sau đó Tỳ-kheo-ni lại dùng ngói đá, nắm tay để tự kỳ cọ thân, Phật bảo: “Không được dùng ngói đá, nắm tay để tự kỳ cọ thân, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la. Nói tóm lại, Tỳ-kheo-ni không được tất cả vật dụng kỳ cọ thân để kỳ cọ, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó hai bộ Tăng tập họp tác pháp Tự tứ nên đuổi Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni ra ngoài. Các vị này bị đuổi ra nói với nhau rằng: “Có biết tại sao chúng ta bị đuổi ra ngoài không, đó là vì tối nay họ tập trung một chỗ, mỗi người tùy theo sở thích cùng hòa hợp”, các Tỳ-kheo nghe biết liền đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo-ni không được ban đêm đến cầu tự tứ, Tỳ-kheo- ni nên sáng sớm đến trong Tỳ-kheo tăng tác pháp tự tứ”. Lúc đó do ni tăng quá đông, từng người tự tứ nên kéo dài qua giờ ngọ, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo-ni không nên từng người tự tứ, Tỳ-kheo-ni nên cử một người đại diện cho ni tăng đến trong Tăng tự tứ”. Pháp đại diện cho ni tăng đến trong Tăng tự tứ như sau: Ni đại diện từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Tăng: “Tỳ- kheo-ni tăng hòa hợp đảnh lễ Đại đức tăng, thăm hỏi các vị có được ít bịnh, ít não, sở hành có khinh an không?”, thăm hỏi rồi bạch Tăng: Đại đức tăng nhớ nghó, Ni tăng đã an cư ba tháng xong, nay đến trong Tăng ba việc tự tứ thấy nghe nghi, xin Đại đức tăng nói ba việc thấy nghe nghi để chúng con được tăng trưởng thiện pháp (3 lần). Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có cư só thỉnh Phật và hai bộ Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, cư só biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Phật và hai bộ Tăng đi đến nhà cư só theo thứ lớp ngồi xong, cư só tự tay rót nước rồi dâng thức ăn lên cúng dường, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni nói với cư só: “Tỳ- kheo-ni này là đệ nhất Thượng tòa, vị này là đệ nhị Thượng tòa, vị kia là người trì luật, vị kia là người trì luận…”, cư só nói: “Chúng tôi không biết ai là đệ nhất Thượng tòa, ai là đệ nhị Thượng tòa…. Hôm nay có rất nhiều thức ăn, bình đẳng dâng cúng cho tất cả đều được no đủ, cô đừng nói gì cả, nếu cô nói nữa thì tôi để cho cô dọn đưa thức ăn, còn tôi ngồi không”. Phật nghe thấy việc này rồi nên sau khi thọ thực xong trở về,vì việc này nhóm họp Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo ni: “Từ nay cho các Tỳ-kheo-ni ngồi theo thứ lớp từ bậc Thượng tòa”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có cư só thỉnh Phật và hai bộ Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, cư só biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Phật và hai bộ Tăng đi đến nhà cư só, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni hỏi một ni khác được mấy tuổi hạ, ni này đáp: “Hãy đợi một chút để tôi hỏi Hòa thượng ni, A-xà-lê ni và các ni sống chung”, nói rồi liền đến hỏi, Hòa thượng ni nói là nghi quên không nhớ rõ, các Tỳ-kheo-ni đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Bậc Thượng tòa nên hỏi để ngồi theo thứ lớp, còn các ni khác không nhớ thì cứ nhường nhau ngồi là được”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni lên núi đến chỗ A-lan-nhã để thọ giáo giới, giữa đường gặp giặc cướp lột hết quần áo, các Tỳ-kheo-ni đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Các Tỳ-kheo nên ở trong tụ lạc đợi Tỳ-kheo”. Khi các Tỳ-kheo-ni đứng ở tụ lạc đợi thì Tỳ-kheo sau khi vào tụ lạc khất thực rồi lại đi theo đường khác trở về A-lan-nhã ở trên núi, khiến cho các Tỳ-kheo-ni hôm đó suýt bị đoạn thực vì chờ đến sắp qua ngọ. Phật bảo: “Muốn lên núi đến chỗ A-lan- nhã thì nên hai người cùng đi”, hai người đi cầu thọ giáo giới lại không biết pháp, Phật bảo nên sai hai người biết pháp đi, khi sai hai người biết pháp, hai ni này lại muốn tất cả tăng hòa hợp mới cầu giáo giới, Phật bảo: “Không cần tất cả tăng hòa hợp, tùy gặp Tỳ-kheo nào thì cầu giáo giới nơi vị ấy”. Vào một thời khác khi các Tỳ-kheo-ni đến chỗ Tỳ-kheo cầu giáo giới, có vị muốn giáo giới, có vị không muốn giáo giới; vị không muốn giáo giới liền đứng dậy bỏ đi, các cư só trong Tăng phường thấy liền nói: “Các Tỳ-kheo-ni muốn cùng hành dâm, Tỳ-kheo không muốn nên đứng dậy bỏ đi”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Tỳ-kheo không nên đứng dậy bỏ đi, nếu không muốn giáo giới thì nói là tôi không thể giáo giới cho Tỳ-kheo-ni”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo-ni thọ giáo giới xong trở về thuyết giới, sáng hôm sau đến trong Tăng phường không biết nên báo với ai, Phật bảo: “Từ Tỳ-kheo nào cầu thọ giáo giới thì nên trở lại báo cho người ấy”. Khi Tỳ-kheo-ni đến trong Tăng phường hỏi về Tỳ- kheo giáo giới nhưng không biết tên nên việc không thành, Phật bảo: “Nên hỏi Tỳ-kheo giáo giới tên gì, là Hòa thượng hay Thượng tòa…” Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni khất thực xong, trên tay cầm bát thức ăn khi đi ngàng nhà người, trên nóc nhà có con rắn độc, phân độc của nó rớt xuống rơi vào trong bát thức ăn, Tỳ-kheo- ni sau khi thọ thực xong trúng độc suýt chết, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật, Phật bảo: “Nên làm nắp đậy đậy trên bát thức ăn”. Phật tại thành Vương xá, lúc đó một Tỳ-kheo trợ giúp Đề-bà-đạt- đa mang vác nặng trên lưng bị chê trách, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo-ni không được mang vác nặng trên lưng, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết- la”. Lại có Tỳ-kheo-ni thuê người làm tràng hoa, khi trả tiền khổ não, các cư só trách: “Cô là người xuất gia sao lại thuê người làm tràng hoa”, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo-ni không được thuê người làm tràng hoa, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la”. Tỳ-kheo-ni trợ giúp Đề-bà-đạt-đa lại chứa bô đại tiện bằng đồng, mâm đồng, chậu tắm dồng, thìa đồng…, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại chứa bô đại tiện bằng đồng… giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”, Phật bảo: “Từ nay không cho Tỳ-kheo-ni chứa những vật dụng bằng đồng như bô đại tiện, chậu tắm…, nếu chứa thì phạm Đột-kiết-la; không phạm là chứa bình đựng nước, gàu tắm, nắp bằng đồng”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni làm rượu, các cư só trách: “Cô là người xuất gia sao lại làm rượu”, có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc nghe biết liền bạch Phật, Phật do việc này nhòm Tỳ-kheo tăng rồi bảo: “Từ nay Tỳ-kheo-ni không được làm rượu, nếu làm thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một phụ nữ lấy chồng chưa bao lâu thì chồng chết, người vợ bỏ nhà cửa xuất gia làm Tỳ-kheo-ni, làm Tỳ- kheo-ni rồi lại đem nhà ở trước kia cho người thuê mướn, khi đòi tiền thuê chịu khổ não, các cư só trách: “Cô là người xuất gia sao lại cho thuê nhà”, Phật bảo: “Từ nay không cho Tỳ-kheo-ni cho người khác thuê nhà, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà mặc y mới thưa mỏng khiến trong thân lộ ra rồi đi vào trong chợ, nơi chỗ đông người. Các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại mặc y thưa mỏng như phu nhân của vua, vợ của đại thần”, Phật bảo: “Từ nay không cho Tỳ-kheo-ni mặc y thưa mỏng, nếu mặc thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Đề-bà-đạt- đa tắm nơi các người nữ tắm (chỗ tắm công cộng), các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại tắm nơi các người nữ tắm như phu nhân của vua, vợ của đại thần”, Phật bảo: “Từ nay không cho Tỳ-kheo-ni tắm nơi các người nữ tắm, nếu tắm thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà dùng tháo đậu (xà bông) tắm, nước tháo đậu chảy vào nữ căn, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay không cho Tỳ-kheo-ni dùng tháo đậu tắm, nếu dùng thì phạm Đột-kiết-la “. Lúc đó ni Thâu-la-nan-đà lại lội ngược dòng nước tắm, các Tỳ-kheo-ni hỏi nguyên do, đáp là vì muốn thọ xúc lạc, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay không cho Tỳ-kheo-ni lội ngược dòng nước tắm, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết- la”. Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Đề-bà-đạt-đa chứa Bát chi tạp sắc trang nghiêm, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại chứa Bát chi tạp sắc giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”, Phật bảo: “Từ nay không cho Tỳ-kheo-ni chứa Bát chi tạp sắc, nếu chứa thì phạm Đột-kiết-la “. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Ni tăng được người bố thí đồ dùng bằng thủy tinh, không chịu nhận vì không biết dùng để làm gì, Phật bảo nên thọ để làm bình đựng nước cho Tăng. Hai Mươi Pháp Tạp Sau: Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có Tỳ-kheo trước ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực, đến trước một nhà vào cửa ngoài, cửa trong khi trở ra lại đi vào một cửa phòng khác mà cho là cửa ra. Khi vừa bước vào liền thấy một người nữ đang nằm ngủ, do nằm mộng nên chất bất tịnh chảy ra; Tỳ-kheo thấy rồi hổ thẹn vội trở ra, liền gặp người chồng vừa trở về nhà; người chồng thấy vợ nằm ngữa lộ thân và chảy ra chất bất tịnh liền cho là Tỳ-kheo đã cùng vợ mình làm việc phi phạm hạnh, bèn nắm cổ Tỳ-kheo nói: “Vì sao thầy lại cùng vợ tôi làm hạnh bất tịnh?”, Tỳ-kheo nói là không có làm, người chồng lại hỏi vì sao lại vào trong phòng, Tỳ-kheo giải thích: “Tôi cho cửa phòng này là cửa ra nên…”, người chồng mắng: “Tại sao vào cửa phòng tôi lại nói cho cửa phòng này là cửa ra nên…”, nói rồi liền dùng tay chân đánh đá Tỳ-kheo, nghe tiếng đánh đá này người vợ liền thức giấc, thấy người chồng đang đánh Tỳ-kheo liền hỏi vì sao đánh, người chồng nói: “Vì cô nên tôi mới đánh”, người vợ nói: “Tỳ-kheo này không có làm gì cả”, người chồng mắng: “Cô đã cùng nó làm việc bất tịnh tại sao không chịu nhận”, vừa đánh vừa mắng đến khi mệt lã mới bỏ đi, Tỳ-kheo lê thân trở về tinh xá, đem việc trên kể lại cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Khất thực có hai: Một là thọ thỉnh, hai là không thọ thỉnh. Nếu thọ thỉnh rồi mà muốn thọ phần Tăng vật thì nên xả pháp khất thực mới được thọ phần Tăng vật; nếu không xả pháp khất thực mà thọ phần Tăng vật thì phạm Đột-kiết-la; nếu thọ phần Tăng vật rồi mới nói là khất thực thì phạm tội vọng ngữ Ba-dật-đề. Nếu không thọ thỉnh hoặc muốn thọ thỉnh hoặc muốn thọ phần Tăng vật thì nên xả pháp khất thực đã thọ thỉnh mới được thọ phần Tăng vật; nếu không xả pháp khất thực mà thọ thỉnh hay thọ phần Tăng vật thì phạm Đột-kiết-la; nếu thọ thỉnh và thọ phần Tăng vật rồi mới nói là khất thực thì phạm tội vọng ngữ Ba-dật-đề. Từ nay các thầy nên thọ hành pháp khất thực như sau: Khi sắp bước xuống giường nên từ từ bỏ một chân xuống trước, kế bỏ chân thứ hai rồi mới đứng dậy; từ từ đến chỗ giá y lấy y An-đà-hội rồi mặc từ từ, mặc xong nhìn ngó trước sau xem có ngay ngắn chưa, nếu chưa ngay ngắn thì nên mặc lại, nếu ngay ngắn rồi thì thôi. Kế lấy Nê-hoàn-tăng mặc từ từ, mặc xong nhìn ngó hai bên xem có ngay ngắn chưa, nếu chưa thì nên mặc lại, nếu ngay ngắn rồi thì thôi. Kế lấy y Uất-đa-la-tăng mặc từ từ, mặc xong nhìn ngó hai bên xem có ngay ngắn chưa, nếu chưa thì nên mặc lại, nếu ngay ngắn rồi thì thôi. Kế lấy y Tăng-già-lê đặt lên vai trái, nhẹ nhàng cầm lấy bát và tích trượng, không được kéo lê trên đất. Ra đến cửa, kéo then mở ra khoan thai bước ra, chớ để chéo y vướng vào hai bên, Nếu cánh cửa ở bên tay trái thì tay trái kéo cánh cửa, tay phải cài then lại; nếu cánh cửa ở bên tay phải thì tay phải kéo cánh cửa, tay trái cài then lại. Cài xong nên xem lại đã cài kỹ chưa, nếu chưa thì nên cài kỹ lại, nếu đã cài kỹ rồi thì thôi. Nếu đi cùng Phật thì nên đi sau, nên bạch Hòa thượng, hữu nhiễu tháp Phật, tháp Thanh văn rồi rót nước tráng bát, chớ để bình và bát chạm vào nhau ra tiếng. Ra đến cửa cổng của Tăng phường, nếu cửa đóng thì từ từ mở cửa đi ra, chớ để chéo y vướng vào hai bên. Kế để bát và tích trượng xuống để mang giày da một lớp rồi cầm bát và tích trượng lên từ từ đi khất thực, khi đi không được kéo lê giày. Khi đến gần tụ lạc nên để bát và tích trượng xuống, lấy y Tăng-già-lê ra mặc, mặc xong nhìn ngó hai bên xem có ngay ngắn chưa, nếu chưa thì nên mặc lại, nếu ngay ngắn rồi thì thôi. Kế cầm bát và trượng lên để vào trong tụ lạc, khi vào không được nhìn ngó hai bên, nên nhìn thẳng phía trước. Nếu từ xa thấy có voi điên, chó điên, người lỏa hình… thì nên tránh qua một bên. Khi đến trước nhà người nên biết rõ cửa ngoài, cửa giữa, cửa trong; khi vào trong sân nên khảy móng tay, nếu thấy không có ai thì nên khảy lại lần thứ hai, lần thứ ba, nếu có ai bước ra thì hai tay cầm bát khom người xuống để thọ thức ăn cúng. Khi đi đến nhà khác khất thực nên ngó xem giờ, nếu sắp qua ngọ thì nên dừng lại; nếu còn sớm thì nên tiếp tục khất thực. Khất thực xong ra khỏi tụ lạc nên bỏ bát và trượng xuống, cởi y Tăng-già-lê xuống đập giũ rồi xếp lại, đặt lên vai trái, cầm bát và trượng lên trở về trú xứ thọ thực. Đến nơi nên trải giường tòa, lấy bàn chải chà chân và khăn lau chân, kế lấy nước tưới rưới quét dọn chỗ thọ thực cho sạch sẽ. Nếu nơi đây có Hòa thượng, A-xà-lê thì nên lấy thức ăn ngon dâng cho Hòa thượng trước, khi dâng nước không được để ngón tay chạm vào trong nước. Nếu đi sau nên thâu cất giường tòa, cất bàn chải chà chân, khăn lau chân rồi mới vào phòng, vào rồi từ từ cài then đóng cửa lại, ngồi lên giường xếp một chân lên trước rồi mới xếp chân thứ hai để ngồi kiết già tư duy hành pháp”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một trưởng giả có nhiều củ Lư-bặc nên đến thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai đến nhà thọ thực, Phật im lặng nhận lời. Trưởng giả biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về, về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Phật và Tăng đi đến nhà trưởng giả theo thứ lớp ngồi xong, trưởng giả liền rót nước và dâng củ Lư-bặc để dùng trước. Các Tỳ-kheo nhai ra tiếng, lúc đó có một Tỳ-kheo trước kia là kép hát, nghe tiếng nhai này liền đứng dậy múa khiến các Tỳ-kheo bật cười ra tiếng, thức ăn trong miệng liền văng ra ngoài, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích tử tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại chọc cho người khác cười giống như kép hề”. Phật nghe thấy việc này rồi nên sau khi thọ thực xong trở về, liền do việc này nhóm Tỳ-kheo tăng rồi hỏi Tỳ-kheo múa hồi nãy rằng: “Thầy dùng tâm gì đứng dậy múa?”, đáp: “Thế tôn, con vì nhìn thấy người khác và muốn chọc cho họ cười”, Phật nói: “Nếu vì nhìn thấy người khác thì không có tội, còn muốn chọc cho người khác cười thì phạm Đột-kiết-la. Từ nay trước khi chưa ăn món ăn chánh thì không được ăn rau trái trước, nếu ăn trước thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Kỳ-hoàn vừa mới xây xong, các cư só sắm sửa rất nhiều đồ cúng dường vì có đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo tụ hội. Các Tỳ-kheo này khi vào, ngồi, ăn, đứng, đi không theo thứ lớp nên bị các cư só quở trách: “Sa-môn, Bà-la-môn khác còn biết vào, ngồi, ăn, đứng, đi theo thứ lớp; Sa-môn Thích tử tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại vào, ngồi, ăn, đứng, đi không theo thứ lớp gì cả. Chúng ta không biết ai đã được, ai chưa được”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay nên theo thứ lớp đi vào, ngồi, ăn, đứng, đi…”. Lúc đó các Tỳ-kheo im lặng theo thứ lớp đi vào, ngồi, ăn, đứng dậy ra về; các cư só quở trách: “Sa-môn, Bà-la-môn khác ăn xong còn biết chú nguyện tán thán; Sa-môn Thích tử tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại theo thứ lớp im lặng đi vào, ngồi, ăn, đứng dậy ra về. Chúng ta không biết các vị ăn có ngon hay không”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay khi ăn xong nên chú nguyện tán thán”, các Tỳ-kheo không biết cử ai làm, Phật bảo nên cử Thượng tòa làm. Lúc đó phíA-tỳ-kheo-ni, ni Thâu-la-nan-đà là bậc Thượng tòa lại ít học ít nghe nên không biết chú nguyện, Phật bảo: “Nếu Thượng tòa thứ nhất không làm được thì Thượng tòa thứ hai nên làm, theo thứ lớp như thế nếu ai làm được thì nên làm”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có nhiều người nữ thỉnh Phật và Tăng cúng dường thức ăn thức uống, các Tỳ-kheo ăn xong không chú nguyện tán tụng liền bỏ đi. Các người nữ nói: “Chúng ta bạc phước, cúng dường mà không được chú nguyện”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay cũng nên chú nguyện tán tụng cho người nữ; nếu người không thanh tịnh thì nên cử bốn Thượng tòa ở lại”, lúc đó các Thượng tòa ở lại trong lòng buồn bực, Phật bảo nên nói cáo từ rồi đi. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một Tỳ-kheo thuộc dòng Bà-la- môn xuất gia làm Tỳ-kheo tên là Mạn-nhan-la, mắc bịnh tiêu chảy nghó rằng: “Tại sao phải thường dùng nước rửa”, bạch Phật, Phật nói: “Nên dùng vật lau chùi như lá cây, nếu một chiếc lá chùi không sạch thì nên dùng hai lớp lá, nếu lá rách làm cho đường đại tiện bị thương thì nên dùng lá sạch nguyên”, lúc đó lau chùi xong bỏ đầy lá trong nhà xí, Phật bảo nên bỏ một chỗ; lúc đó lá sạch và lá dơ để cùng một chỗ khi lấy bị dơ tay, Phật bảo nên để lá sạch bên phải, bỏ lá dơ bên trái; lúc đó bỏ lá dơ thành đống lớn, Phật bảo nên đem đổ bỏ, khi đem đổ bỏ ói mữa, Phật bảo nên bỏ lá dơ trong thùng rác, khi thùng rác đầy mới mang đi đổ bỏ chỗ khác. Phật tại thành Vương xá, lúc đó Lục quần Tỳ-kheo đứng xỉa răng (nhăn nhành dương) ở chỗ rửa chân, Tỳ-kheo khác đến rửa chân thấy bất tịnh nên ói mửa, đem việc này bạch Phật, Phật do việc này nhóm Tỳ-kheo tăng rồi hỏi Lục quần Tỳ-kheo: “Các thầy thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo lại đừng xỉa răng nơi chỗ rửa chân của Tăng”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay không được xỉa răng ở trước Phật; trước Hòa thượng, A-xà-lê, các Thượng tòa; không được xỉa răng trước tháp Phật, tháp Thanh văn, nơi giảng đường… của Tăng và ở trước đông người; nếu xỉa như thế thì phạm Đột-kiết-la, không phạm là ở trước Tỳ-kheo đồng tuổi hạ”. Phật tại thành Vương xá, có ngoại đạo lỏa hình mắc bịnh ghẻ lở đến xin thầy thuốc Kỳ-bà chữa bịnh, Kỳ-bà nói: “Chỉ cần vào nhà tắm tắm rửa thì sẽ lành bịnh”, ngoại đạo nói: “Tôi là ngoại đạo lỏa hình, làm sao có nhà tắm để tắm”, Kỳ-bà nói: “Thầy có quen biết với Tỳ- kheo nào không?”, đáp là không, Kỳ-bà nói: “Bịnh của thầy chỉ có thể vào nhà tắm tắm rửa mới hết”. Ngoại đạo này đến hỏi các tân Tỳ-kheo và Sa-di: “Khi nào các vị vào nhà tắm để tắm?”, đáp là vào ngày , ngoại đạo liền co tay đếm ngày, đến ngày đó đi vào trong Trúc viên đứng một chỗ nhìn xem các Tỳ-kheo vào nhà tắm tắm rửa như thế nào. Có Tỳ-kheo mặc y đi vào, có người lấy bùn bôi lên mình rồi vào, ngoại đạo thấy rồi liền lấy bùn bôi trên người rồi vào. Các Tỳ-kheo cho là Thượng tòa nên đưa cho giường ngồi và bưng nước nóng đến cho tắm, khi ra mồ hôi, các Tỳ-kheo chà giúp chân tay khắp thân, khi thân sạch thì ghẻ lở cũng hết. Lúc đó các Tỳ-kheo gọi người mang y đến, ngoại đạo không chịu mặc, các Tỳ-kheo mới biết là ngoại đạo lỏa hình, đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay người lộ thân không được chà, người khác không được chà giúp, hai thân lộ không được chà cho nhau. Tỳ-kheo trong tối không được làm lễ, cũng không được làm lễ người che mặt; không được làm lễ người đang ngủ, người đang nhập định, người đang xỉa răng; mình đang xỉa răng, đang rửa mặt cũng không được làm lễ, cũng không được làm lễ người đang rửa mặt; mình đang ăn không được làm lễ, cũng không được làm lễ người đang ăn; mình đang cạo tóc không được làm lễ, cũng không được làm lễ người đang cạo tóc. Ở trước Phật, trước tháp Phật, tháp Thanh văn không được làm lễ người khác. Ở chỗ đại tiểu tiện, chỗ lấy nước, nhà tắm cho đến chỗ không an ổn đều không được làm lễ người khác. Đang đi trên đường cũng không được làm lễ, nếu gặp Thượng tòa trên đường muốn làm lễ nên nói với Thượng tòa: “Xin hãy dừng bước, con muốn làm lễ”, nếu Thượng tòa dừng lại thì nên làm lễ, nếu không dừng lại thì không nên làm lễ”. Phật tại nước Xá-vệ, có một Tỳ-kheo khách chiều tối đến trong Tăng phường được chia cho một phòng trống, trong phòng có một con rắn độc nằm khoanh tròn trên giường, Tỳ-kheo không nhìn kỹ liền ngồi lên mình nó, bị nó cắn và cả hai cùng chết. Trải qua năm, sáu ngày sau, các Tỳ-kheo thấy ruồi xanh từ trong phòng bay ra nên vào phòng xem thử, mới phát hiện Tỳ-kheo và con rắn cùng chết trên giường, liền đem việc này bạch Phật. Phật do việc này nhóm Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay Tỳ-kheo khách nên học nghi pháp như sau: Nếu Tỳ-kheo khách đến trong Tăng phường nên đắp y trịch bày vai hữu, mặc Nê-hoàn-tăng trên dưới tương xứng nhau, túi đựng y bên vai phải nên chuyển qua bên vai trái; tích trượng, túi dầu, túi giày da, ống kim ở trong tay phải nên chuyển qua trong tay trái. Nếu muốn đại tiểu tiện thì nên đi ở ngoài trước rồi mới vào trong Tăng phường, nếu không có nước rửa chân thì dùng cỏ lá lau chân, nếu cửa đóng thì kêu gọi, nếu cửa mở thì cứ vào. Nếu thấy cựu Tỳ-kheo thì nên hỏi: “Trong Tăng phường có phòng dành cho khách Tỳ-kheo tuổi hạ hay không?”, nếu nói có thì nên xin phép cho vào; Lại hỏi trong Tăng phường có người không, nếu nói không thì nên hỏi dùng nước gì, nếu nói là nước giếng thì nên xin dây gàu để múc lấy nước; khi mở cửa phòng nên khảy móng tay, nếu có rắn rít nên gây ra tiếng để nó bò đi chỗ khác, sau đó đập giũ mền chiếu, quét dọn sạch sẽ trong phòng. Chậu nước rửa chân và bình nước dùng để sẵn, nếu chậu nước bên tay trái thì tay trái múc nước, tay phải rửa chân; nếu chậu nước bên tay phải thì tay phải múc nước, tay trái rửa chân. Rửa chân xong mang giày da vào phòng, đóng cửa rồi lên giường ngồi kiết già tư duy quán chiếu các pháp. Sáng hôm sau hỏi cựu Tỳ- kheo: “Trong Tăng có ăn sáng, ăn trưa hay không, trong thôn chỗ nào có chó dữ, nhà nào có đồng nữ, quả phụ, nhà nào Tăng đã yết ma Học gia, nhà nào Tăng đã yết ma phú bát, chỗ nào nên đi, chỗ nào không nên đi”, hỏi xong rồi mới đi khất thực. Khi đi Tỳ-kheo khách nên đưa trả lại dây gàu, chổi, thu xếp cất ngọa cụ, đóng cửa phòng rồi mới đi”. Phật tại nước A-la-tỳ, lúc đó đang xây cất Tăng-già-lam nên có Tỳ-kheo khi khiêng đá, cỏ, bùn, dùng tay lấy bùn trét tô vách… đều mặc y Tăng-già-lê nên làm dơ y; đến giờ vào thôn khất thực vẫn mặc y dơ này nên bị các cư só quở trách: “Sa-môn, Bà-la-môn khác khi vào thôn khất thực còn mặc y sạch, Sa-môn Thích tử tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại mặc y dơ như thế giống như kẻ ép dầu”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay không được mặc y Tăng-già-lê khiêng đá cỏ bùn, dùng tay lấy bùn tô trét vách…; không được giẫm chân trên Tăng-già-lê, không được trải Tăng-già-lê ngồi, nằm; không được lấy Tăng-già-lê mặc làm áo trong. Tỳ-kheo nên mặc y Tăng-già-lê như pháp, mặc y Uất-đa-la-tăng như pháp, mặc y An-đà-hội như pháp; nên dùng ba màu làm cho hoại sắc để tác tịnh, không được mặc y có năm màu thuần sắc, trừ nạp y. Nếu Tỳ-kheo nghèo thiếu vải may y thì trên y nên điệp điều lá hoặc năm điều, bảy điều, chín điều…; nếu đủ vải thì nên cắt rọc may thành y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội gọi là y như pháp”. Phật tại thành Vương xá, có Tăng phường rộng lớn vào đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều có khách Tỳ-kheo đến xin ngủ đêm, sáng ra liền bỏ đi. Lúc đó Thượng tòa hỏi Hạ tòa là có khách Tỳ-kheo đến không, đáp là có, liền nói: “Vì sao không đến chào hỏi Thượng tòa, chúng tôi không biết họ đến lúc nò và đi lúc nào”, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Nếu khách Tỳ-kheo đến nên chào hỏi Thượng tòa trước”. Lúc đó trong Tăng phường có đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo Thượng tòa, khách Tỳ-kheo phải đi chào hỏi từng người, do đi đường xa mõi mết, không thể đi chào hỏi hết nên đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Chỉ nên chào hỏi bốn Thượng tòa thôi”. Lúc đó khách Tỳ-kheo hỏi đệ nhất Thượng tòa ở đâu, đáp là ở trong tăng phường trên núi Kỳ-xà-quật; lại hỏi đệ nhị Thượng tòa ở đâu, đáp là ở trong Tăng phường tại Tỳ già la; lại hỏi đệ tam Thượng tòa ở đâu, đáp là ở trong Tăng phường tại Quý thủ-đà-la; lại hỏi đệ tứ Thượng tòa ở đâu, đáp là ở trong Tăng phường tại Tát-đa-ha-cầu. Trên đường đi đến chào hỏi gặp phải Sư tử, cọp, sói khủng bố nên bạch Phật, Phật bảo: “Vào trong Tăng phường nào thì chào hỏi bốn Thượng tòa ở trong Tăng phường đó”. Lúc đó khách Tỳ-kheo đứng ngoài cửa chờ đợi lâu nên ngất xỉu, Phật bảo: “Nếu đúng thời gặp thì nên chào hỏi, nếu phi thời không gặp được thì thôi”. Phật tại nước Xá-vệ, ở nước Kiều-tát-la nơi A-lan-nhã có một Tỳ-kheo ở, lúc đó có đám giặc cướp đến chỗ A-lan-nhã hỏi Tỳ-kheo có lửa, có đồ dùi lửa, có thức ăn, có đồ nấu thức ăn, có nước, có đồ lấy nước, đồ đựng nước… Tỳ-kheo đều đáp là không có. Lại hỏi: “Chúng tôi muốn đến trong tụ lạc kia, thầy có thể chỉ đường giùm không”, đáp là không biết đường; lại hỏi bây giờ là giờ nào, cũng đáp là không biết; lại hỏi là ngày gì, cũng đáp là không biết; lại hỏi: “Thầy có thể tán tụng chú nguyện không?”, đáp là không thể. Bọn giặc cướp nói với nhau: “Tỳ-kheo này không có được một pháp nào nào cả, chắc là ở đời vì không thể tự nuôi sống nên mới xuất gia”, nói rồi liền dùng tay chân đánh đá Tỳ-kheo một trận rồi bỏ đi, Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo A-lan-nhã nên học nghi pháp như sau: Khi thấy có người đến chỗ A-lan-nhã, Tỳ-kheo ở đó nên cùng thăm hỏi, nhớ nghó chơn chánh, sắc mặt vui vẻ, không được cúi đầu, nên chào hỏi thiện lai. Nơi A-lan-nhã nên chứa củi lửa, đồ dùi lửa, thức ăn, đồ đựng thức ăn, nước, đồ lấy nước, đồ đựng nước; chậu nước rửa chân và bình nước thường dùng nên thường đầy nước. Tỳ-kheo nên biết rõ ngày giờ, thời tiết, xem sao; nên biết tụng Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm; nên biết Sơ thiền… Tứ thiền; Sơ quả cho đến Tứ quả, nếu chưa biết thì nên học cho biết. Không được chứa nhật châu, nguyệt châu, được chứa thiền trượng… như trong Tu-đa-la Cù-sa-ni có nói rõ”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Bà-la-môn A-kỳ-Đạt-mang bánh Thích câu lê đến dâng cúng Phật, Phật bảo nên chia cho Tăng. A-kỳ- đạt chia bánh cho Tăng xong ở trước Phật nghe thuyết pháp, lúc đó các Tỳ-kheo ăn bánh cắn nhai ra tiếng, A-kỳ-đạt bạch Phật: “ Sa-môn Cù- đàm giáo hóa, tất cả đệ tử đều lãnh thọ hết hay không?”, Phật nói: “Có người thọ, có người không thọ”, A-kỳ-đạt nói: “Thưa Cù-đàm, quả thật như vậy, có người vì pháp, có người vì ăn uống”. Phật thuyết pháp cho A-kỳ-đạt được lợi hỉ rồi im lặng, A-kỳ-đạt đảnh lễ hữu nhiễu Phật rồi ra về. Không bao lâu sau, Phật vì việc này nhóm Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay khi thuyết pháp, khi chú nguyện, tán pháp không được ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại nước Ba-la-nại, lúc đó trước ngọ Phật đắp y mang bát vào thành khất thực gặp một Tỳ-kheo cũng đắp y mang bát vào thành khất thực, từ xa Phật thấy Tỳ-kheo này đứng trước cửa nhà người, Tỳ-kheo này cũng trông thấy Phật, hổ thẹn cúi đầu. Khất thực xong trở về, Phật do việc này nhóm Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo: “Sáng nay ta đắp y vào thành khất thực… Tỳ-kheo này cũng trông thấy ta, hổ thẹn cúi đầu. Vậy sáng nay ai đã đắp y vào thành khất thực thấy ta?”, Tỳ-kheo này bước ra quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Người hồi sáng gặp Phật chính là con”, Phật nói: “Lành thay, thấy ta nên sanh tâm hổ thẹn. Nếu thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các ngoại đạo, Bà-la- môn cũng nên nhiếp ý cúi đầu thì được an lạc lâu dài”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trưởng lão Uất-đề có đệ tử cọng hành (xuất gia ở chung) không có tâm cung kính, vào trong Tăng phường cũng không có tâm cung kính. Trưởng lão đến đảnh lễ Phật rồi đứng một bên bạch Phật: “Thế tôn, con có đệ tử cọng hành (xuất gia ở chung) không có tâm cung kính, vào trong Tăng phường cũng không có tâm cung kính. Đệ tử đối với Hòa thượng nên có tâm cung kính như thế nào?”, Phật bảo: “Hãy đợi một lát sẽ hỏi việc này”. Phật do việc này nhóm Tỳ-kheo tăng rồi hỏi trưởng lão Uất-đề: “Thầy muốn hỏi việc gì?”, Uất-đề bạch Phật: “Thế tôn, con có đệ tử cọng hành (xuất gia ở chung) không có tâm cung kính, vào trong Tăng phường cũng không có tâm cung kính. Đệ tử đối với Hòa thượng nên có tâm cung kính như thế nào?”, Phật bảo: “Này Uất-đề, đệ tử đối với Hòa thượng nên sanh tâm cung kính, vào trong Tăng phường cũng nên sanh tâm cung kính như sau: Nên cung cấp cho Hòa thượng y bát, bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược. Khi Hòa thượng làm y, giặt y, nhuộm y, cắt may y, căng y đệ tử đều nên làm thay; nếu tự không làm được thì nên nhờ người khác làm giúp, nếu cũng không làm hết được thì nên thuê người làm; nếu tự làm được thì nên làm thay, không được nhàn rỗi ở không. Này Uất-đề, khi Hòa thượng muốn vào nhà tắm tắm, đệ tử nên lo liệu đầy đủ các vật dụng để tắm, nên bỏ củi vào bếp lò; khi Hòa thượng vào nhà tắm, đệ tử nên đưa y tắm cho Hòa thượng, lấy y đã mặc xếp để trên giường; nếu Hòa thượng sức yếu nên dìu đỡ, nếu quá yếu thì nên cõng vào nhà tắm đặt ngồi trên giường, để y một bên, để chậu nước phía trước mặt. Nếu đệ tử muốn tắm thì bạch Hòa thượng rồi xoay vào vách tắm, khởi tưởng như bịnh, như uống thuốc. Khi Hòa thượng ra mồ hôi, đệ tử nên lau chân, bắp chân…, tắm xong nên đưa y; nếu Hòa thượng sức yếu nên dìu đỡ, nếu quá yếu thì cõng trở về phòng, lấy y tắm cất, đưa y ngủ, kế để bô đại tiểu tiện và ống nhổ bên giường cho Hòa thượng. Nếu đệ tử muốn tắm nên bạch Hòa thượng rồi đi tắm, người tắm sau nên dọn cất các vật dụng tắm, lấy tro lấp lửa trong bếp lò, đóng cửa cài then nhà tắm rồi mới đi. Nếu muốn đọc tụng kinh nên tùy sức mình theo Hòa thượng thọ trì, thọ rồi nên ở một chỗ tư duy, nếu đọc tụng được thì đọc tụng, nếu không được thì nên hỏi lại. Sáng hôm sau đến phòng Hòa thượng đem bô đại tiểu tiện và ống nhổ đi đổ, kế hỏi Hòa thượng muốn ăn gì, nếu muốn ăn cháo thì nấu cháo, nếu muốn ăn cơm thì nấu cơm. Khi Hòa thượng bịnh nên thường thăm nom xem Hòa thượng sống hay chết, nên tìm thức ăn và thuốc ứng theo bịnh; nên lấy vật của Hòa thượng đi cúng dường, nếu Hòa thượng không có thì lấy của mình, nếu tự mình không có thì nên đi xin người khác, nếu không có ai quen biết không thể xin được thì khi khất thực được thức ăn ngon nên dâng cho Hòa thượng. Nếu Tăng tác pháp yết ma Ức niệm, yết ma Bất si cho Hòa thượng thì đệ tử nên đi thay, bạch rằng: “Tăng cho Hòa thượng của con yết ma Ức niệm, yết ma Bất si”. Khi Tăng tác pháp yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý cho Hòa thượng thì đệ tử nên dùng pháp trợ giúp Hòa thượng, bạch Tăng rằng: “Xin Tăng chớ cho Hòa thượng của con yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý”. Nếu Tăng đã cho Hòa thượng yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý xong rồi; đệ tử nên bạch Tăng rằng: “Xin Tăng cho Hòa thượng của con yết ma trị phạt nhẹ đừng nặng quá”. Này Uất-đề, nếu Tăng cho Hòa thượng yết ma Mích tội tướng, đệ tử nên đến trong Tăng bạch: “Xin Tăng như pháp chớ cho Hòa thượng của con yết ma Mích tội tướng”. Nếu Tăng đã cho Hòa thượng yết ma Mích tội tướng xong rồi, đệ tử nên bạch Tăng: “Xin Tăng trị phạt nhẹ chớ nặng quá”. Nếu Tăng cho Hòa thượng yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn; đệ tử nên bạch Tăng: “Không thấy tội nên dạy cho thấy tội, không sám tội nên dạy sám tội, không xả ác tà kiến nên dạy xả ác tà kiến”. Này Uất-đề, nếu Hòa thượng phạm tội Tăng tàn đáng cho yết ma Biệt trụ, Ma-na-đỏa, yết ma Bổn nhật trị, yết ma Xuất tội; đệ tử nên bạch Tăng: “Xin tăng như pháp cho Hòa thượng của con yết ma Biệt trụ, Ma-na-đỏa, yết ma Bổn nhật trị, yết ma Xuất tội”. Này Uất-đề, đệ tử không bạch Hòa thượng thì không được dạy người khác đọc tụng kinh, không được tán tụng kinh, không được khiến người khác nhớ nghó, không được cùng tụng. Không bạch Hòa thượng thì không được theo người khác thọ học pháp, không được dạy pháp cho người khác, không được đến người khác thọ nhớ nghó, không được cùng tụng. Không được cho người khác y bát, bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược. Không được cùng người khác làm y, không được sai người khác làm y; không được cạo tóc cho người khác, không được sai người khác cạo tóc. Không bạch Hòa thượng thì không được làm những việc trên, trừ đại tiểu tiện, xỉa răng và lễ Phật. Này Uất-đề, nếu Hòa thượng muốn vào tụ lạc, đệ tử nên đi theo cầm y bát và trượng cho Hòa thượng, không được đi trước, hoặc đi gần quá, không được đi ngang hàng. Nếu Hòa thượng nói phi pháp thì nên can ngăn, nếu thuyết pháp thì nên tùy hỷ. Khi Hòa thượng thuyết pháp được bố thì thì nên lấy cất; khi vào tụ lạc, đệ tử nên trao y bát và trượng cho Hòa thượng. Khi ra khỏi tụ lạc thì đệ tử đi trước, không được đi quá xa và nên cầm y bát và trượng cho Hòa thượng. Đệ tử nên mỗi ngày ba thời đến bên Hòa thượng: Sáng sớm, sau giờ thọ thực và lúc mặt trời lặn. Sáng sớm đến nên đem bô đại tiểu tiện và ống nhổ đi đổ, sau giờ thọ thực nên đến quét dọn, mặt trời lặn nên đến để bô đại tiểu tiện và ống nhổ bên giường cho Hòa thượng”. Trưởng lão Uất dề bạch Phật: “Thế tôn, đệ tử đối với Hòa thượng phải hành những pháp như thế, còn Hòa thượng đối với đệ tử phải như thế nào?”, Phật nói: “Này Uất-đề, Hòa thượng nên dạy cho đệ tử đọc tụng Tu-đa-la, Tỳ-ni và A-tỳ-đàm; nên cung cấp cho đệ tử y bát, bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược. Nếu đệ tử làm y, giặt y, nhuộm y, cắt may y, căng y thì Hòa thượng đều nên trợ giúp; nếu tự không làm được thì nên nhờ người khác làm giúp, tùy sức mình giúp đỡ cho đệ tử không được nhàn rỗi ở không. Khi đệ tử bịnh, Hòa thượng nên thường thăm nom xem đệ tử sống hay chết, nên tìm thức ăn và thuốc ứng theo bịnh; nên lấy vật của đệ tử đi cúng dường, nếu đệ tử không có thì lấy của mình, nếu tự mình không có thì nên đi xin người khác, nếu không có ai quen biết không thể xin được thì khi khất thực được thức ăn ngon nên cho đệ tử. Nếu Tăng tác pháp yết ma Ức niệm, yết ma Bất si cho đệ tử, Hòa thượng nên bạch Tăng rằng: “Xin Tăng như pháp cho đệ tử của tôi yết ma Ức niệm, yết ma Bất si”. Khi Tăng tác pháp yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý cho đệ tử, Hòa thượng nên dùng pháp trợ giúp, bạch Tăng rằng: “Xin Tăng chớ cho đệ tử của tôi yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý”. Nếu Tăng đã cho Hòa thượng yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý xong rồi; Hòa thượng nên bạch Tăng rằng: “Xin Tăng cho đệ tử của tôi yết ma trị phạt nhẹ đừng nặng quá”. Này Uất-đề, nếu Tăng cho đệ tử yết ma Mích tội tướng, Hòa thượng nên đến trong Tăng bạch: “Xin Tăng như pháp chớ cho đệ tử của tôi yết ma Mích tội tướng”. Nếu Tăng đã cho đệ tử yết ma Mích tội tướng xong rồi, Hòa thượng nên bạch Tăng: “Xin Tăng trị phạt nhẹ chớ nặng quá”. Nếu Tăng cho đệ tử yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn; Hòa thượng nên bạch Tăng: “Không thấy tội nên dạy cho thấy tội, không sám tội nên dạy sám tội, không xả ác tà kiến nên dạy xả ác tà kiến”. Này Uất-đề, nếu đệ tử phạm tội Tăng tàn đáng cho yết ma Biệt trụ, Ma-na-đỏa, yết ma Bổn nhật trị, yết ma Xuất tội; Hòa thượng nên bạch Tăng: “Xin tăng như pháp cho đệ tử của tôi yết ma Biệt trụ, Ma- na-đỏa, yết ma Bổn nhật trị, yết ma Xuất tội”. Hòa thượng nên mỗi ngày ba thời: Sáng sớm, sau giờ thọ thực và lúc mặt trời lặn dạy bảo đệ tử rằng: “Không được gần gủi tri thức ác, bạn ác và người ác. Nếu đệ tử nói lời phi pháp nên quở trách can ngăn ba cách như sau: Một là không bảo làm việc, hai là không cùng nói chuyện, ba là đệ tử muốn làm việc gì cũng không cho làm”.  LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 42 TỤNG THỨ 7 LUẬT NI TÁM PHÁP BA LA DI: (BỐN PHÁP BẤT CỌNG) Pháp Thứ Năm: Xúc chạm Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trong tinh xá Tỳ-kheo-ni Vương viên có một Tỳ-kheo-ni tên là Châu-na-nan-đàø trẻ tuổi đoan chánh, lại có con trai của cư só tên Lộc tử cũng trẻ tuổi đoan chánh, cả hai người trẻ tuổi này sanh tâm ái trước nhau. Lộc tử suy nghó: “Nếu ta nói với Tỳ-kheo-ni này là muốn làm việc đó thì bản thân ta phạm tội, vua sẽ trừng trị ta và tiếng xấu lan truyền khắp nơi, sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục”; Châu-na-nan-đà cũng suy nghó: “Nếu ta nói với người nam này là muốn làm việc đó thì bản thân ta phạm tội, cũng làm cho người kia phạm tội, tiếng xấu sẽ lan truyền khắp nơi. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sẽ dùng pháp trị ta; các thiện thần cũng sẽ không thủ hộ ta nữa, sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục”. Do Châu-na-nan-đà thường nhớ thương Lộc tử, không được toại ý nên sanh bịnh, ốm gầy nằm trên giường không thể đi lại được. Lộc tử hay tin này rồi liền suy nghó: “Tỳ-kheo-ni vốn không có bịnh, vì nhớ thương ta nên sanh bịnh, khổ não nằm trên giường không thể đi lại được. Sao ta không đến thăm, không chừng nói rõ việc này có thể trừ được bịnh cho cô ấy”, nghó rồi liền đến trong Vương viên hỏi thăm các Tỳ-kheo-ni: “Tỳ-kheo-ni Châu-na-nan-đà hiện đang ở đâu?”, đáp là đang nằm trong phòng. Lộc tử vào phòng đến bên giường Châu-na-nan-đà vuốt ve thăm hỏi: “Bịnh của cô có đỡ được chút nào không, có nhẫn chịu được không, khổ não có giảm bớt không?”, đáp: “Bịnh không lành, không thể nhẫn chịu được, khổ não ngày càng tăng”, kế buông lời trách móc Lộc tử rằng: “Đây là phần số của tôi, người ta không nhớ thương tội, chỉ có tôi thương nhớ người ta”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Châu-na-nan-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại có lậu tâm (tâm dục) thuận cho người nam cũng có lậu tâm xúc chạm vuốt ve”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni: Một là, vì nhiếp Tăng, Hai là, vì nhiếp thủ thật tốt, Ba là, vì Tăng được an lạc trụ, Bốn là, vì nhiếp phục người có tâm cao ngạo, Năm là, khiến cho người có lòng hổ thẹn được an lạc, Sáu là, khiến cho người chưa tin được tịnh tín, Bảy là, khiến cho người đã tin được tăng trưởng lòng tin, Tám là, ngăn được phiền não lậu hoặc trong đời này, Chín là dứt hẳn ác đạo ở đời sau, Mười là, khiến cho phạm hạnh được trụ lâu. Từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm xúc chạm vuốt ve thuận hay nghịch từ đầu tóc trở xuống, từ đầu gối trở lên, từ cổ tay trở ra, bỏ y, hoặc kéo hoặc đẩy hoặc đè hoặc bóp, hoặc nâng lên hoặc để xuống, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di, không được ở chung. Lậu tâm là đối với người này sanh ái kết sâu nặng, người nam có lậu tâm cũng như vậy. Người nam là người có thể làm việc dâm. Ba- la-di là tội xấu xa cực trọng, thối đọa không như ý. Tỳ-kheo-ni phạm tội này không còn gọi là Sa-môn ni, không phải là Thích chủng nữ, mất pháp Tỳ-kheo-ni. Không cùng ở chung là các Tỳ-kheo-ni không cùng Tỳ-kheo-ni chung làm pháp sự như Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, bố tát, tự tứ, yết ma cử mười ba hạng người… Tướng phạm trong giới này: Có tám trường hợp Một là nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm, bỏ y, thuận xúc chạm vuốt ve từ trên mặt, cổ, ngực… xuống cho đến đầu gối; hoặc theo chiều ngược lại, hoặc kéo lôi, đè bóp đều phạm Ba-la-di. Nếu vuốt ve từ đầu tóc trở lên hoặc từ đầu gối trở xuống, bỏ y, thì phạm Thâu-lan-giá . Hai là Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm, bỏ y, ôm nâng từ dưới đất đặt lên ghế, hoặc từ ghế đặt xuống giường độc tọa, hoặc từ giường độc tọa đặt lên giường lớn, hoặc từ giường lớn đặt lên kiệu, hoặc từ kiệu lên xe, hoặc từ xe đặt lên mình ngựa… đều phạm Ba-la-di . Ba là Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm, bỏ y, ôm nâng từ lưng voi đặt lên mình ngựa, hoặc từ mình ngựa đặt lên xe, hoặc từ trên xe đặt lên kiệu, hoặc từ trên kiệu đặt trên giường lớn, hoặc tự giường lớn đặt trên giường độc tọa, hoặc từ giường độc tọa đặt trên ghế, hoặc từ trên ghế ôm để xuống đất đều phạm Ba-la-di. Nếu xúc chạm vuốt ve từ đầu tóc trở lên, từ đầu gối trở xuống, từ cổ tay trở ra, bỏ y thì phạm Thâu-lan-giá. Bốn là nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm, với y, thuận xúc chạm vuốt ve từ trên mặt, cổ, ngực… xuống cho đến đầu gối; hoặc theo chiều ngược lại, hoặc kéo lôi, đè bóp đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu vuốt ve từ đầu tóc trở lên hoặc từ đầu gối trở xuống, với y, thì phạm Đột-kiết-la . Năm là Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm, với y, ôm nâng từ dưới đất đặt lên ghế, hoặc từ ghế đặt xuống giường độc tọa, hoặc từ giường độc tọa đặt lên giường lớn, hoặc từ giường lớn đặt lên kiệu, hoặc từ kiệu lên xe, hoặc từ xe đặt lên mình ngựa… đều phạm Thâu-lan-giá . Sáu là Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm, với y, ôm nâng từ lưng voi đặt lên mình ngựa, hoặc từ mình ngựa đặt lên xe, hoặc từ trên xe đặt lên kiệu, hoặc từ trên kiệu đặt trên giường lớn, hoặc tự giường lớn đặt trên giường độc tọa, hoặc từ giường độc tọa đặt trên ghế, hoặc từ trên ghế ôm để xuống đất đều phạm Thâu- lan-giá. Nếu xúc chạm vuốt ve từ đầu tóc trở lên, từ đầu gối trở xuống, từ cổ tay trở ra, với y thì phạm Đột-kiết-la. Không phạm là tưởng cha, tưởng anh em, tưởng trẻ con, hoặc bị nước cuốn trôi, lửa cháy, nạn dao kiếm giáo cung, hoặc sắp rơi xuống hầm hố, hoặc nạn thú dữ, quỷ dữ. Tất cả không có tâm tham nhiễm thì không phạm. Pháp Thứ Sáu: Phạm Tám Việc Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt thuận cho Lục quần Tỳ-kheo nắm tay, nắm y, cùng đứng, cùng nói chuyện, cùng hẹn hò, vào chỗ khuất, đợi người nam đến, tất cả giống như người nữ bạch y. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm nắm tay, nắm y, cùng đứng, cùng nói chuyện, cùng hẹn hò, vào chỗ khuất, đợi người nam đến, tất cả giống như người nữ bạch y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm nắm tay, nắm y, cùng đứng, cùng nói chuyện, cùng hẹn hò, vào chỗ khuất, đợi người nam đến, tất cả giống như người nữ bạch y. Do đủ tám việc này hiển lộ tướng tham nhiễm nên Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di, không được ở chung. Lậu tâm là đối với người này sanh ái kết sâu nặng, người nam có lậu tâm cũng như vậy. Người nAm-là người có thể làm việc dâm. Nắm tay là nắm từ cổ tay trở ra. Nắm y là nắm y đang mặc trên người. Cùng đứng là đứng ở chỗ có thể nói lời bất tịnh. Cùng nói chuyện là nói những lời bất tịnh. Cùng hẹn hò là hẹn ở chỗ có thể làm việc xấu. Vào chỗ khuất là chỗ có che ngăn như vải màn ngăn. Đợi người nam đến là đến chỗ có thể cùng làm việc xấu. Tất cả giống như người nữ bạch y là những việc như nắm tay… đều thuận theo ý của người nam. Ba-la-di là tội xấu xa cực trọng, thối đọa không như ý. Tỳ-kheo-ni phạm tội này không còn gọi là Sa-môn ni, không phải là Thích chủng nữ, mất pháp Tỳ-kheo-ni. Không cùng ở chung là các Tỳ-kheo-ni không cùng Tỳ- kheo-ni chung làm pháp sự như Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, bố tát, tự tứ, yết ma cử mười ba hạng người… Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm nắm tay thì phạm Thâu-lan-giá, nắm y cũng phạm Thâu-lan-giá, cùng đứng cũng phạm Thâu-lan-giá, cùng nói chuyện cũng phạm Thâu-lan-giá, cùng hẹn hò cũng phạm Thâu-lan- giá, vào chỗ khuất cũng phạm Thâu-lan-giá, đợi người nam đến cũng phạm Thâu-lan-giá, đủ tám việc trên thì phạm Ba-la-di. Pháp Thứ Bảy: Che Giấu Tội Thô Phật tại thành Vương xá, lúc đó có hai Tỳ-kheo-ni vốn là chị em, người chị tên là Di-đa-la, người em tên là Di-đế-lệ. Di-đa-la làm hạnh bất tịnh phạm dâm dục, còn Di-đế-lệ thì trong sạch không phạm. Thời gian sau Di-đa-la phản giới hoàn tục làm bạch y, các Tỳ-kheo-ni đến nói với Di-đế-lệ: “Chị cô phản giới hoàn tục làm bạch y, điều này có tốt không?”, đáp: “Trước đây tôi cũng biết Tỳ-kheo-ni này phạm hạnh bất tịnh như thế như thế, nhưng tôi không muốn nêu ra, cũng không muốn bạch cho Tăng biết. Vì sợ có người nói rằng em bêu xấu chị”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Di-đế-lệ: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo-ni khác phạm tội Thô lại che giấu”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo khác phạm tội Thô mà che giấu cho đến một đêm. Tỳ-kheo-ni này biết Tỳ-kheo-ni kia hoặc đã thối thất, hoặc đang trụ, hoặc bị tẫn, hoặc bỏ đi; sau đó mới nói rằng: “Trước đây tôi cũng biết Tỳ-kheo-ni này phạm hạnh bất tịnh như thế như thế, nhưng tôi không muốn nêu ra, cũng không muốn bạch cho Tăng biết. Vì sợ có người nói rằng em bêu xấu chị”, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di, không được ở chung. Biết là tự biết hay nghe từ người khác, hoặc Tỳ-kheo-ni phạm tội tự nói. Tội Thô là tôi Ba-la-di hoặc Tăng-già-bà-thi-sa. Tất cả tội gọi chung là tội Thô nhưngchỉ có hai loại tội trên mới gọi là tội Thô.Một đêm là từ lúc mặt trời lặn cho đến sáng hôm sau. Thối thất là thối thất pháp Tỳ-kheo-ni. Đang trụ là đang trụ trong pháp bạch y. Bị tẫn là Tăng như pháp như luật, như lời Phật dạy cho yết ma Khu xuất. Bỏ đi là đi vào ngoại đạo. Sau đó nói rằng: “Trước đây tôi cũng biết Tỳ-kheo-ni này phạm hạnh bất tịnh như thế như thế, nhưng tôi không muốn nêu ra, cũng không muốn bạch cho Tăng biết. Vì sợ có người nói rằng em bêu xấu chị”, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di, không được ở chung. Ba- la-di là tội xấu xa cực trọng, thối đọa không như ý. Tỳ-kheo-ni phạm tội này không còn gọi là Sa-môn ni, không phải là Thích chủng nữ, mất pháp Tỳ-kheo-ni. Không cùng ở chung là các Tỳ-kheo-ni không cùng Tỳ-kheo-ni chung làm pháp sự như Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, bố tát, tự tứ, yết ma cử mười ba hạng người… Tướng phạm trong giới này là Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm phạm Ba-la- di, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-la-di, che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm, mặt trời vừa mọc phạm Ba-la-di, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-la-di, che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm phạm Ba-la- di, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-la-di, hoặc tưởng là Tăng-già-bà- thi-sa, hoặc tưởng là Ba-dật-đề, hoặc tưởng là Ba-la-đề-đề-xá-ni, hoặc tưởng là Đột-kiết-la. Trong tội Ba-la-di này tưởng là tội Tăng-già-bà- thi-sa che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm, mặt trời vừa mọc phạm Ba-la-di, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-la-di, hoặc tưởng là Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc tưởng là Ba-dật-đề, hoặc tưởng là Ba-la-đề-đề-xá-ni, hoặc tưởng là Đột-kiết-la. Trong tội Ba-la-di tưởng là tội Tăng-già-bà-thi-sa mà che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Tưởng là tội Ba-dật-đề, Ba-la-đề- đề-xá-ni, Đột-kiết-la cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo-ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm phạm Ba- la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay không phải Ba-la-di, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di khởi tưởng là Ba-la-di, che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm, mặt trời vừa mọc phạm Ba-la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay không phải Ba-la-di, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-la-di, che giấu đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm phạm Ba- la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng- già-bà-thi-sa, là Ba-la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề- đề-xá-ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-la-di, che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm, mặt trời vừa mọc phạm Ba-la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng-già-bà-thi-sa, là Ba- la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề-đề-xá-ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba- la-di, che giấu cho đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo- ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm phạm Ba-la- di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng-già- bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong Ba-la-di khởi tưởng là Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu cho đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm, mặt trời vừa mọc phạm Ba-la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng-già-bà-thi- sa, là Ba-la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề-đề-xá-ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu đến sáng hôm sau thì phạm Ba- la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di . Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm phạm Ba- la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng- già-bà-thi-sa, là Ba-la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề- đề-xá-ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-dật-đề, che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm, mặt trời vừa mọc phạm Ba-la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng-già-bà-thi-sa, là Ba- la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề-đề-xá-ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba- dật-đề, che giấu đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm phạm Ba- la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng- già-bà-thi-sa, là Ba-la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề- đề-xá-ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-la-đề-đề-xá-ni, che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm, mặt trời vừa mọc phạm Ba-la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng-già-bà- thi-sa, là Ba-la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề-đề-xá- ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Ba-la-đề-đề-xá-ni, che giấu đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la- di. Nếu Tỳ-kheo-ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác vào sáng sớm phạm Ba- la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng- già-bà-thi-sa, là Ba-la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề- đề-xá-ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Đột-kiết-la, che giấu đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm, mặt trời vừa mọc phạm Ba-la-di, ở trong pháp Ba-la-di nghi không biết là Ba-la-di hay là Tăng-già-bà-thi-sa, là Ba- la-di hay là Ba-dật-đề, là Ba-la-di hay là Ba-la-đề-đề-xá-ni, là Ba-la-di hay là Đột-kiết-la, sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di tưởng là Đột- kiết-la, che giấu đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni này Tăng đã cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, lúc đó che giấu thì không phạm. Nhưng khi Tăng đã giải các yết ma trên, bịnh thống khổ đã dứt, trở lại được bổn tâm mà che giấu tội cho Tỳ-kheo-ni kia đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di . Pháp Thứ Tám: Tùy Cử Phật tại nước Câu-xá-di, lúc đó Tăng nhất tâm hòa hợp như pháp cho Tỳ-kheo Ca-lưu-la-đề-xáù yết ma Bất kiến tẫn, Tỳ-kheo này có bảy chị em là Tỳ-kheo-ni là Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà, Châu-na-nan-đà, Đề xá, Ưu-ba-đề-xáù, Thành-đa-đề-xáù. Ba-la-na-đề-xá và Lặc-xoa-đa đề-xá. Các Tỳ-kheo-ni này nghe tin liền đến chỗ Ca-lưu-la-đề-xáù hỏi rằng: “Tăng thật đã cho thầy yết ma Bất kiến tẫn phải không?”, đáp là đã cho, các Tỳ-kheo-ni này nói: “Thầy chớ hạ ý nhún nhường chiết phục, chúng tôi sẽ cúng dường cho thầy tài vật, y bát, bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược. Nếu muốn đọc tụng kinh hay hỏi nghi, chúng tôi sẽ chỉ dạy cho thầy, thầy cần gì phải chiết phục”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo này, Tăng nhất tâm hòa hợp đã như pháp tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt mà còn làm hạnh tùy thuận”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo này, Tăng nhất tâm hòa hợp đã như pháp tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt mà còn làm hạnh tùy thuận. Các Tỳ-kheo-ni nên can ngăn Tỳ-kheo-ni này rằng: “Tỳ-kheo này, Tăng nhất tâm hòa hợp đã như pháp tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt. Cô không được làm hạnh tùy thuận”. Khi các Tỳ- kheo-ni can ngăn như vậy mà Tỳ-kheo-ni này vẫn chấp chặt không chịu bỏ việc làm này thì các Tỳ-kheo-ni nên can ngăn đến lần thứ ba, nếu chịu bỏ thì tốt; nếu không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la-di, không được ở chung. Biết là tự biết hay nghe từ người khác, hoặc Tỳ-kheo-ni phạm tội tự nói. Như pháp là như pháp như luật, như lời Phật dạy tẫn xuất. một mình không có hai, không bè bạn là bị tẫn, tất cả chúng tăng đều đuổi. Không thôi dứt là không hạ ý chiết phục, không bỏ ác tà kiến. Tùy thuận có hai là cho tài và cho pháp. Các Tỳ-kheo-ni kia nên nói với Tỳ-kheo này rằng: “Thầy nên đến trong Tăng hạ ý chiết phục, nếu thầy không hạ ý chiết phục thì Ni tăng sẽ tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường”. Nếu Tỳ-kheo này nghe rồi chịu hạ ý chiết phục thì tốt, nếu không chịu thì Ni tăng nên nhất tâm hòa hợp tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường cho Tỳ-kheo này. Tác pháp yết ma như sau: Ni tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ- kheo-ni trong Tăng xướng rằng: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo tên , Tăng nhất tâm hòa hợp đã tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Ni tăng nay tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường cho Tỳ-kheo tên . Bạch như vậy. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Ni tăng đã tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường cho Tỳ-kheo tên xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Tỳ-kheo-ni tăng cũng nên nói với các Tỳ-kheo-ni tùy thuận trợ giúp này rằng: “Các cô nên biết Tỳ-kheo này, Tăng nhất tâm hòa hợp đã tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt. Các cô không được làm hạnh tùy thuận”. Khi các Tỳ- kheo-ni can ngăn như vậy mà Tỳ-kheo-ni này vẫn chấp chặt không chịu bỏ việc làm này thì các Tỳ-kheo-ni nên can ngăn đến lần thứ ba, nếu chịu bỏ thì tốt; nếu không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ba-la- di, không được ở chung. Ba-la-di là tội xấu xa cực trọng, thối đọa không như ý. Tỳ-kheo-ni phạm tội này không còn gọi là Sa-môn ni, không phải là Thích chủng nữ, mất pháp Tỳ-kheo-ni. Không cùng ở chung là các Tỳ-kheo-ni không cùng Tỳ-kheo-ni chung làm pháp sự như Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, bố tát, tự tứ, yết ma cử mười ba hạng người… Tướng phạm trong giới này là nếu Ni tăng chưa tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường; các Tỳ-kheo- ni tùy thuận dạy kinh cho Tỳ-kheo bị tẫn này thì khi nói mỗi câu kệ đều phạm Đột-kiết-la, khi nói mỗi chương cú đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo bị tẫn dạy cho các Tỳ-kheo-ni tùy thuận đọc tụng kinh, nếu Tỳ-kheo-ni lãnh thọ thì mỗi câu kệ đều phạm Đột-kiết-la, mỗi chương cú đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni cúng dường tài vật như y bát, bốn loại dược thì mỗi mỗi đều phạm Đột-kiết-la; nếu Tỳ-kheo bị tẫn cung cấp tài vật cho các Tỳ-kheo-ni tùy thuận mà thọ nhận thì mỗi mỗi đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Ni tăng đã tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường; các Tỳ-kheo-ni tùy thuận dạy kinh cho Tỳ- kheo bị tẫn này thì khi nói mỗi câu kệ đều phạm Thâu-lan-giá, khi nói mỗi chương cú đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo bị tẫn dạy cho các Tỳ-kheo-ni tùy thuận đọc tụng kinh, nếu Tỳ-kheo-ni lãnh thọ thì mỗi câu kệ đều phạm Thâu-lan-giá, mỗi chương cú đều phạm Thâu- lan-giá. Nếu Tỳ-kheo-ni cúng dường tài vật như y bát, bốn loại dược thì mỗi mỗi đều phạm Thâu-lan-giá; nếu Tỳ-kheo bị tẫn cung cấp tài vật cho các Tỳ-kheo-ni tùy thuận mà thọ nhận thì mỗi mỗi đều phạm Thâu-lan-giá. Các Tỳ-kheo-ni trước nên dùng lời dịu dàng can ngăn các ni tùy thuận trợ giúp này rằng: “Các cô chớ tùy thuận trợ giúp Tỳ-kheo bị tẫn này, chớ làm hạnh tùy thuận”, nếu lúc này chịu bỏ thì Ni tăng nên bảo sám hối các tội Đột-kiết-la và các tội Thâu-lan-giá. Nếu dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ, Ni tăng nên bạch tứ yết ma can ngăn như sau: Ni tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ-kheo-ni trong Tăng xướng rằng: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Tỳ-kheo tên , Tăng nhất tâm hòa hợp đã tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt. Các Tỳ-kheo-ni tên làm hạnh tùy thuận trợ giúp Tỳ-kheo bị tẫn này. Ni tăng đã dùng lời dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay yết ma can ngăn các Tỳ-kheo-ni tên rằng: “Tỳ-kheo tên , Tăng nhất tâm hòa hợp đã tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt. Các cô không được làm hạnh tùy thuận”. Bạch như vậy. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng nay đã yết ma can ngăn các Tỳ-kheo-ni làm hạnh tùy thuận này rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Như trước Phật đã dạy các Tỳ-kheo-ni nên dịu dàng can ngăn cho đến ba lần, đây gọi là ước sắc, cũng gọi là giáo, cũng gọi là ước sắc giáo. Khi dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ cũng chưa phạm, yết ma can lần thứ nhất chưa xong hoặc xong, can lần thứ hai chưa xong hoặc xong, can lần thứ ba chưa xong mà phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, tợ pháp biệt chúng, tợ pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng, khác pháp khác luật, khác lời Phật dạy thì vẫn chưa phạm. Nếu như pháp như luật, như lời Phật dạy tác yết ma can ngăn ba lần rồi mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này mới phạm Ba-la-di . MƯỜI BẢY PHÁP TĂNG TÀN (Mười Pháp Bất Cọng) Pháp Thứ Tư: Tự Tay Thọ Thức Ăn. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni tên là Thi-việt trẻ tuổi đoan chánh, một thương nhân vừa nhìn thấy liền sanh lậu tâm (tâm ái nhiễm) nên suy nghó: “Tỳ-kheo-ni được vua bảo hộ, không thể cưỡng bức làm việc bất tịnh, ta nên thỉnh cúng dường những vật cô ấy cần dùng”, nghó rồi liền đến nói với ni Thi-việt: “Nếu cô có cần gì những thứ cần dùng như y thực, thuốc thang, ngọa cụ… tôi đều sẽ cung cấp cho cô”, Thi-việt nói: “Tôi sẽ thọ ông thỉnh”. Sau đó ni Thi-việt theo lời thỉnh đến lấy dùng những vật cần dùng kể trên, khi thương nhân biết ni này tâm chuyển (xiêu lòng) liền nói với ni: “Hãy đến làm việc dâm dục”, ni nói: “Chớ nói lời này vì tôi là người trì giới đoạn dục”, thương nhân tức giận nói: “Này cô, nếu cô là người trì giới đoạn dục, tại sao lại thọ y thực của tôi cúng dường”, nói rồi liền muốn cưỡng bức Thi- việt, Thi-việt lớn tiếng kêu la. Lúc đó nhiều người tụ đến hỏi nguyên do, thương nhân nói: “Cô ấy thọ y thực của tôi lại không chìu theo ý tôi”, các cư só hỏi ni: “Cô đã thọ y thực của người, vì sao lại không chìu theo ý người”, Thi-việt nói: “Tôi không vì việc dâm mà thọ y thực của người ấy, ông đến nói với tôi: “Nếu cô có cần gì những vật cần dùng như y thực, thuốc thang, ngọa cụ, tôi đều sẽ cung cấp cho cô”. Vì thế tôi thọ mà không biết ông ấy cho với dụng ý này”, các cư só hỏi: “Thương nhân này có phải là bà con bên cha hay bên mẹ của cô không?”, đáp là không phải, các cư só nói: “Nếu không phải là bà con bên cha bên mẹ của cô, lại không phải là bậc hiền thiện cầu phước đức thì tại sao cô nói là không biết ông cho y thực là với dụng ý này. Cho cô như thế tức là muốn làm việc dâm rồi”, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại thọ tài vật của người khác như pháp của dâm nữ”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Thi-việt: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại có lậu tâm đến thọ y thực của người có lậu tâm”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm đến nười nam có lậu tâm tự tay thọ thức ăn thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Lậu tâm là đối với người này sanh ái kết sâu nặng, người nam có lậu tâm cũng như vậy. Người nAm-là người có thể làm việc dâm. Thức ăn bao gồm năm loại thức ăn Khư-đà-ni (củ, thân, hoa, lá, quả), năm loại thức ăn Bồ-xà-ni (cơm, bún, miến, cá và thịt) và năm loại thức ăn tương tợ (lúa tẻ, lúa nếp, lúa mạch, bo bo và thức ăn Ca sư). Tăng-già- bà-thi-Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm đến người nam có lậu tâm tự tay thọ các loại thức ăn kể trên thì đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu có cư só vì Tỳ-kheo-ni nên cúng dường thức ăn cho các Tỳ-kheo-ni, nhưng riêng tư cúng nhiều cho cô ni mà mình yêu mến, nếu cô ni này thọ thì phạm Thâu-lan-giá. Pháp Thứ Năm: Khuyên Đến Thọ Thức Ăn Phật tại thành Vương xá, lúc đó có một ni đến nói với ni Thi-việt: “Nếu cô không có lậu tâm, chỉ riêng người nam có lậu tâm thì đến tự tay thọ thức ăn hoặc tùy ý lấy dùng thì đâu có việc gì”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni kia: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đến khuyên ni khác rằng: “Nếu cô không có lậu tâm, chỉ riêng người nam có lậu tâm thì đến tự tay thọ thức ăn hoặc tùy ý lấy dùng thì đâu có việc gì”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nói với Tỳ-kheo-ni khác rằng: “Nếu cô không có lậu tâm, chỉ riêng người nam có lậu tâm thì đến tự tay thọ thức ăn hoặc tùy ý lấy dùng thì đâu có việc gì”, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Tăng-già- bà-thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Tăng-già-bà-thi-Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nói với ni khác rằng: “Nếu cô không có lậu tâm, chỉ riêng người nam có lậu tâm thì đến tự tay thọ thức ăn hoặc tùy ý lấy dùng thì đâu có việc gì” thì Tỳ-kheo- ni này phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo-ni nói với ni khác rằng: “Nếu cô không có lậu tâm, chỉ riêng người nam có lậu tâm cho cô thức ăn, cô chỉ lấy ăn và tùy ý thọ dụng thì đâu có việc gì”, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo-ni nói với ni khác rằng: “Cô không có lậu tâm, dù người nam có lậu tâm cũng đâu có việc gì, cô chớ đến tự tay thọ thức ăn và chớ tùy ý thọ dụng”, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo-ni nói với ni khác rằng: “Cô không có lậu tâm, dù người nam có lậu tâm cũng đâu có việc gì, chỉ cần cô không tự tay thọ thức ăn và không tùy ý thọ dụng”, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Thâu-lan-giá. Pháp Thứ Sáu: Một Mình Ngủ Lại Đêm Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có Tỳ-kheo-ni tên là Bạt-đà là con gái của Bà-la-môn Ca-tỳ-la, chị của cô chết nên cô đến nhà chị, nhân đó thuyết pháp cho người chồng của chị nghe đến lúc mặt trời lặn. Lúc đó cô nghó: “Nếu giờ này trở về tinh xá thì sợ trên đường đi gặp giặc cướp”, nghó rồi bèn ở lại nhà, người anh rễ này suy nghó: “Tỳ-kheo-ni này không trở về tinh xá chắc là muốn phản giới hoàn tục. Ta nên cầu hôn để cô ấy thay vào chỗ chị”, nghó rồi liền nói với ni rằng: “Tôi có rất nhiều tài bảo, những đồ nữ trang mà chị cô đã trang sức đều vẫn còn đây. Nếu tôi lấy người khác làm vợ thì sợ người đó sẽ không chăm sóc con tôi tốt, con của tôi cũng không thích người lạ. Nếu cô muốn phản giới hoàn tục thì hãy làm mẹ của con tôi, cô xem nó như con ruột, nó cũng xem cô như mẹ ruột”, ni Bạt-đà liền suy nghó: “Nếu ta trái lời thì sợ người này cưỡng bức, ta nên im lặng cho yên”, nghó rồi liền im lặng. Người anh rễ này cho là cô đồng ý nhưng vì người chị vừa mới chết nên im lặng, vì thế đến nữa đêm nói lời cầu hôn lại lần thứ hai, cuối đêm nói lại lần thứ ba. Đến trời sáng Bạt-đà vội thoát khỏi chỗ xúc não này trở về tinh xá và kể lại cho các Tỳ-kheo-ni nghe. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni Bạt-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại một mình ngủ qua đêm ở chỗ khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni một mình ngủ lại đêm ở chỗ khác, cho đến một đêm thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Đêm là từ khi mặt trời lặn cho đến hôm sau lúc trời chưa sáng, trong khoảng giữa này gọi là đêm. Tăng-già-bà-thi-Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni từ lúc mặt trời lặn một mình ngủ lại đêm ở chỗ khác thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Mặt trời đã lặn, phần đầu của đầu đêm, phần giữa của đầu đêm, phần sau của đầu đêm, phần đầu của giữa đêm, phần giữa của giữa đêm, phần sau của giữa đêm, phần đầu của cuối đêm, phần giữa của cuối đêm, phần sau của cuối đêm cũng như vậy. Lại nữA-tỳ-kheo-ni từ lúc mặt trời vừa mọc một mình ở lại chỗ khác ngủ qua đêm cho đến sáng hôm sau thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu có Tỳ-kheo-ni đi cùng hoặc phản giới hoàn tục, hoặc chết hoặc vào ngoại đạo hoặc có một trong tám nạn xảy ra thì không phạm. Pháp Thứ Bảy: Đi Một Mình Đến Nhà Cư Só Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà quen biết nhiều nên thường ra vào các nhà ấy. Sáng hôm đó, cô đắp y mang bát đi đến một nhà, ra khỏi nhà này lại đi đến nhà khác… cứ như vậy cho đến xế trưa mới trở về, bơ phờ mệt mõi nằm trong phòng tự nói: “Bàn chân, gót chân, đầu gối, lưng đều đau nhức”, nói rồi bảo các ni: “Các cô hãy đấm bóp cho tôi”, các ni hỏi: “Cô đi đâu giờ này mới trở về?”, đáp: “Tôi đến một nhà, sau đó lại đến nhà khác… cứ như vậy đến giờ này mới trở về”, lại hỏi: “Cô đi như vậy là vì Phật sự hay Tăng sự?”, đáp là không vì việc gì cả, các ni nói: “Nếu cô không vì Phật sự cũng không vì Tăng sự thì đi như vậy làm chi, đến nỗi bơ phờ mệt mõi”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại vào ban ngày một mình đi đến các nhà bạch y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni vào ban đêm hay ban ngày một mình đi đến các nhà bạch ythì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Ban ngày là từ trời sáng cho đến lúa mặt trời chưa lặn, trong khoảng thời gian này gọi là ban ngày. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni một mình đi đến nhà bạch y từ lúc trời vừa sáng cho đến khi mặt trời vừa lặn mới trở về thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Vào sáng sớm, mặt trời đã mọc, trong buổi sáng, vào giờ ngọ, xế trưa, trong buổi chiều, mặt trời lặn mới trở về đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu có Tỳ-kheo-ni đi cùng hoặc phản giới hoàn tục, hoặc chết hoặc vào ngoại đạo hoặc có một trong tám nạn xảy ra thì không phạm. Pháp Thứ Tám: Một Mình Đến Các Tụ Lạc Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà thích nhìn người nam nên mới sáng sớm ra đứng ở cửa thành nhìn ngắm nam tử ra vào ai đẹp ai xấu, bỗng thấy có một người nam từ trong thành đi ra dung mạo đoan chánh liền sanh tâm ái nhiễm, đến hỏi người nAm-là muốn đi đâu, đáp là muốn đến tụ lạc , liền nói: “Ông cho tôi đi cùng”, đáp là tùy ý. Trên đường đi, Thâu-la-nan-đà nói cười với người nam rất vui vẻ, người này có việc nên đi vào trong tụ lạc , Thâu-la-nan- đà không có việc nên đứng bên ngoài chờ, người nAm-lại đi vào tụ lạc khác, Thâu-la-nan-đà lại đứng bên ngoài chờ… cứ như thế cho đến xế trưa mới trở về, bơ phờ mệt mõi nằm trong phòng tự nói: “Bàn chân, gót chân, đầu gối, lưng đều đau nhức”, nói rồi bảo các ni: “Các cô hãy đấm bóp cho tôi”, các ni hỏi: “Cô đi đâu giờ này mới trở về?”, đáp: “Tôi đến một tụ lạc, sau đó lại đến một tụ lạc khác… cứ như vậy đến giờ này mới trở về”, lại hỏi: “Cô đi như vậy là vì Phật sự hay Tăng sự?”, đáp là không vì việc gì cả, các ni nói: “Nếu cô không vì Phật sự cũng không vì Tăng sự thì đi như vậy làm chi, đến nỗi bơ phờ mệt mõi”. Có Tỳ-kheo- ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại một mình đi đến các tụ lạc”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni vào ban ngày hay ban đêm một mình đi đến các tụ lạc thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Đi có hai: Đi đường bộ và đi đường thủy. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni một mình đi đường bộ đến các tụ lạc thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, giữa đường trở về thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu không có tụ lạc, đi đến chỗ đồng trống cho đến một Câu-lô-xá thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, giữa đường trở về thì phạm Thâu-lan-giá. Đi đường thủy cũng như vậy. Nếu có Tỳ-kheo-ni đi cùng hoặc phản giới hoàn tục, hoặc chết hoặc vào ngoại đạo hoặc có một trong tám nạn xảy ra thì không phạm. Pháp Thứ Chín: Một Mình Lội Qua Bờ Kia Ngủ Đêm Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có các Tỳ-kheo-ni từ nước Kiều-tát- la du hành đến nước Xá-vệ, khi đi đến bên bờ sông đứng nói với nhau: “Ai có thể lội vào nước trước, xem thử sâu cạn thế nào”. Trong số ni có ni tên Tu-mục-khư, người khỏe mạnh thuộc dòng Bà-la-môn nói: “Để tôi lội vào nước trước”, nói rồi xuống nước, lội qua bờ kia nhưng lúc đó nước thủy triều dâng cao nên không thể lội trở qua được, phải một mình ở bên bờ kia ngủ lại đêm, ban đêm gặp giặc cướp lột hết y phục. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Tu-mục-khư: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại một mình ngủ đêm bên bờ kia”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ- kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni vào ban đêm hay ban ngày ở tụ lạc khác, giới khác mà lội qua bờ kia, một mình ngủ lại đêm thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Sông có hai: Một là cởi y lội qua được, hai là không cởi y lội qua được. Có hai bên bờ, ở giữa hai bên bờ có nước chảy tới lui theo dòng, gọi là sông. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni một mình cởi y lội qua sông thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, giữa đường trở lại thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng lội qua sông, một người lội qua bờ kia, một người quay trở lại bờ này thì người lội qua phạm Tăng- già-bà-thi-sa, người quay lại phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo-ni một mình cởi y lội qua ao nước thì phạm Thâu-lan-giá, giữa đường quay trở lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng lội qua ao nước, người lội qua bờ ao kia thì phạm Thâu-lan-giá, người quay trở lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni một mình vén y lội qua sông thì phạm Thâu-lan-giá, giữa đường trở lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng lội qua sông, một người lội qua bờ kia, một người quay trở lại bờ này thì người lội qua phạm Thâu-lan-giá, người quay lại phạm Đột-kiết-la . Nếu Tỳ-kheo-ni một mình vén y lội qua ao nước thì phạm Đột-kiết-la, giữa đường quay trở lại thì cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng lội qua ao nước, người lội qua bờ ao kia thì phạm Đột-kiết-la, người quay trở lại thì cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu đi qua cầu hoặc đi thuyền qua thì không phạm. Nếu có Tỳ-kheo-ni cùng lội qua hoặc phản giới hoàn tục, hoặc chết hoặc vào ngoại đạo hoặc có một trong tám nạn xảy ra thì không phạm. Pháp Thứ Mười: Thưa Kiện Cư Só Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo cất Tăng phường ở gần thành Bà Kỳ-đà, thành dần dần đông đúc với nhiều nhà cư só xung quanh, các Tỳ-kheo bị tiếng voi ngựa, tiếng nói cười của nam nữ làm trở ngại việc tụng kinh ngồi thiền. Trong thành có một cư só tên là An-xà-na có oai đức, nhiều của báu, đầy đủ tướng giàu sang thành tựu nên các Tỳ-kheo bảo ông xây cất Tăng phường ở chỗ khác. Cư só này bèn cất Tăng phường khác ở trong rừng An-xà-na cho các Tỳ-kheo rời bỏ Tăng phường gần thành đến ở. Lúc đó có các Tỳ-kheo-ni từ nước Kiều-tát-la du hành đến nước Xá-vệ, khi đến thành Bà Kỳ-đà ghé lại Tăng phường gần thành ngủ qua đêm, thấy trong Tăng phường này có đầy đủ vật dụng cần dùng như giường chõng, ngọa cụ… nên muốn dừng lại đây ở, liền đến nói với các Tỳ-kheo: “Các đại đức bỏ Tăng phường đó, chúng tôi muốn dừng lại ở trong đó, có được không?”, đáp tùy ý. Thời gian sau người chủ của Tăng phường này qua đời, các con của ông phân chia tài sản, trong đó có Tăng phường. Người con được chia phần Tăng phường liền đến bảo các Tỳ-kheo-ni ra đi, các ni hỏi vì sao, đáp: “Tăng phường này là phần tài sản được chia của tôi”, các ni nói: “Tăng phường này chúng tôi không phải nhận được từ ông mà là nhận được từ các Tỳ-kheo, nếu các Tỳ-kheo bảo chúng tôi đi thì chúng tôi sẽ đi, ông bảo thì chúng tôi không đi đâu”. Trong số ni có ni Tu mục khư thuộc dòng Bà-la-môn là người khỏe mạnh liền cùng người con của cư só này tranh cải, người này tức giận đánh ni, ni này liền đến quan xử đoán kiện người con của cư só đã đánh mình, quan xử đoán hỏi nguyên do, Tu mục khư kể lại sự việc trên, quan xử đoán nói: “Sa-môn Thích nữ không nên để mất Tăng phường này, vì sao, vì cha cho mà con đoạt, con cho mà cha đoạt thì không thể được”. Nói rồi liền cho gọi người con đó đến hỏi là có đánh Tỳ-kheo không, đáp là có đánh, quan xử đoán liền hỏi quan pháp chế: “Người đánh Tỳ-kheo-ni phạm tội gì?”, đáp: “Pháp quy định nếu dùng chi phần nào đánh thì chặt bỏ chi phần đó”, quan xử đoán hỏi người con đó đã dùng chi phần nào đánh, đáp là dùng tay phải, quan xử đoán liền chặt bỏ tay phải của người con cư só. Lúc đó dân chúng trong thành đều nghe biết việc Sa-môn Thích nữ thưa kiện khiến người con của cư só bị chặt tay, tiếng xấu lan ra khắp thành Xá- vệ. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Tu-mục-khư: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đi kiện thưa khiến người khác bị chặt tay”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đến chỗ vua, quan, Bà-la-môn và cư só, dựa vào thế lực để thưa kiện người khác thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Vua dòng Sát-đế-lî thọ vương vị làm pháp quán đảnh rưới nước trên đảnh đầu được gọi là vua; Bà-la-môn, cư só hay người nữ nếu thọ vương vị được làm lễ quán đảnh cũng được gọi là vua. Quan là người hưởng lộc quan. Bà-la-môn là người thuộc dòng Bà-la-môn. Cư só là trừ vua, Bà-la-môn và những người xuất gia khác. Dựa vào thế lực là dựa vào thế lực người khác thích đấu tranh để thưa kiện. Tăng-già-bà-thi- Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni đến chỗ vua quan, Bà-la-môn, cư só, dựa vào thế lực của người xửa đoàn để thưa kiện thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu sự việc đã được xử đoán xong, ở trước người xử đoán tức giận chửi mắng người đã đánh mình thì phạm Tăng- già-bà-thi-sa. Nếu đến người khác tức giận chửi mắng người đã đánh mình thì phạm Thâu-lan-giá; ở chỗ khuất chửi mắng hoặc không thưa kiện thì không phạm. <篇> LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 43 LUẬT NI (Tiếp Theo) II - MƯỜI BẢY PHÁP TĂNG TÀN (Tiếp Theo) Pháp Mười Một: Độ Tặc Nữ Xuất Gia Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó vua Ba-tư-nặc có ngàn tướng quân chiến đấu, một nữa là dòng Sát-đế-lî, một nữa là dòng Bà-la-môn; một bộ tên là Y-xá-la, một bộ tên là Đạt-đa-ma-na. Do ở biên cương có một nước nhỏ phản loạn nên vua sai ngàn tướng quân này đem binh đi đánh dẹp, dẹp loạn xong trở về bạch vua: “Chúng thần đã thắng lợi, nguyện cho vua thường thắng lợi”, vua vui mừng nói: “Các tướng quân có nguyện gì, ta sẽ cho được như nguyện”, một tướng quân nói: “Đại vương, vợ thần có tội tư thông, không theo ý thần, xin cho thần trị tội cô ta sáu ngày tử ẩm, đến ngày thứ bảy dùng dao lưỡi bò xẻ thân”, vua nói: “Cho khanh được như nguyện”. Lúc đó người vợ của vị tướng quân này tuy có nhiều người thân có thế lực đến ngăn cản pháp trị sáu ngày tử ẩm, nhưng pháp của các tướng quân là một người gặp việc thì tất cả đều ủng hộ trợ giúp nên người vợ phạm tội tư thông này phải chịu trị phạt đủ sáu ngày tử ẩm, ngày mai là ngày thứ bảy sẽ bị xẻ thân bằng dao lưỡi bò. Sáng sớm hôm đó Tỳ-kheo-ni tên là Tư-na là con gái của cư só Ma-na thường ra vào nhà tướng quân này, khi vào nhà thấy những người vợ khác đều mặc y phục đẹp, trên thân trang sức chuỗi anh lạc trang nghiêm; còn người vợ này thì ngồi rầu ró liền đến hỏi nguyên do, người vợ này kể rõ nguyên do rồi nói: “Ngày mai là ngày thứ bảy tôi sẽ bị xẻ thân bằng dao lưỡi bò, cô có thể dẫn tôi đi được không?”, đáp là được, liền lấy ca sa khoát lên người của người vợ này rồi đưa đến trong Tăng phường cho xuất gia. Sáng hôm sau các tướng quân dòng Sát-đế-lî đến định dùng dao lưỡi bò xẻ thân người vợ tư thông này thì tìm không thấy đâu, liền hỏi gia nhân: “Ai đã ra vào nhà này”, đáp là Tỳ-kheo-ni Tư-na, các tướng dòng Sát-đế-lî đến bao vây Tăng phường của tỳ-kheo-ni, có một vị tướng tuổi trẻ không biết tội phước liền nói: “Tất cả Tỳ-kheo-ni này đều nên dùng dao lưỡi bò xẻ thân ra làm hai”, vị trưởng lão dòng Sát-đế-lî nói: “Tỳ-kheo-ni được vua thủ hộ, không nên tự tiện làm nghiệp ác. Hãy đợi một lát, ta vào tâu vua, vua bảo thế nào chúng ta sẽ hành theo như thế ấy”. Lúc đó các Tỳ-kheo-ni đến chỗ phu nhân Mạt-lợi kể rõ sự việc, phu nhân tâu lại nhà vua, khi các tướng dòng Sát-đế-lî đến trước vua tâu rõ sự việc, vua liền nói: “Trước đây ta đã cho các tướng được nguyện, nay các tướng hãy cho ta được nguyện”, các tướng tâu: “Chúng thần sẽ làm theo nguyện của vua”, vua nói: “Người vợ tư thông kia nay đã xuất gia giống như được sống lại, không còn là vợ của tướng quân dòng Sát-đế-lî nữa”, các tướng nói: “Chúng thần sẽ thả cho cô ấy đi”. Sau đó vua sai sứ giả đến nói với các Tỳ-kheo-ni rằng: “Việc các cô làm là không đúng, tội tặc nữ này đáng chết, các cô biết vua không cho, các tướng dòng Sát-đế-lî không cho thì không nên cho xuất gia, nếu các tướng dòng Sát-đế-lî dùng dao lưỡi bò xẻ thân các cô ra làm hai thì làm sao. Phật nghe biết việc này sẽ kết giới, nếu Tỳ-kheo-ni biết tội của tặc nữ đáng phải chết, mọi người đều biết, vua và các tướng dòng Sát-đế-lî không cho thì không nên cho xuất gia”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Tư-na: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni biết tặc nữ tội đáng chết mà lại độ cho xuất gia”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni biết tặc nữ tội đáng chết, mọi người đều biết, vua và các tướng dòng Sát-đế-lî không cho mà độ cho xuất gia thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Biết là tự biết hay nghe từ người khác, hoặc Tặc nữ có tội tự nói. Tặc có hai loại: Một là trộm cướp tài vật, hai là trộm thân tức là tư thông vụng trộm. Đọa tử là phạm tội đáng xử chém. Mọi người đều biết là nhiều người thấy, biết, nghe. Không cho là không tha cho được sống. Tăng-già-bà-thi-Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu Hòa thượng ni biết, A-xà-lê ni biết, Tỳ-kheo-ni tăng biết thì Hòa thượng ni phạm Tăng-già-bà-thi- sa, A-xà-lê ni phạm Thâu-lan-giá, Ni tăng phạm Đột-kiết-la. Nếu Hòa thượng ni biết, A-xà-lê ni biết, Ni tăng không biết thì Hòa thượng ni phạm Tăng-già-bà-thi-sa, A-xà-lê ni phạm Thâu-lan-giá, Ni tăng không phạm. Nếu Hòa thượng ni biết, A-xà-lê ni không biết, Ni tăng không biết thì Hòa thượng ni phạm Tăng-già-bà-thi-sa, A-xà-lê ni và Ni tăng không phạm. Nếu tất cả đều không biết thì đều không phạm. Pháp Mười Hai: Xuất Giới Giải Yết Ma Tẫn Phật tại nước Câu-xá-di, lúc đó mẹ của trưởng lão Xa-nặc tên Ưu- bà-hòa có người em tên Xiển-đề đều xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Xiển-đề là người có tánh xấu thường làm hạnh bất thiện, xúc não các Tỳ-kheo- ni nên Ni tăng muốn tác pháp yết ma tẫn, nhưng Ưu-bà-hòa là người đoán sự trong Tăng đã ngăn không cho làm yết ma này. Thời gian sau nhân lúc Ưu-bà-hòa đi đến nơi khác, các Tỳ-kheo-ni liền đánh kiền chùy tác pháp yết ma tẫn ni Xiển-đề, khi Ưu-bà-hòa trở về đến viếng thăm thì Xiển-đề nói: “Chớ nói chuyện với tôi”, hỏi vì sao, đáp là đã bị Ni tăng làm yết ma tẫn, Ưu-bà-hòa suy nghó: “Ta là người đoán sự trong Tăng đi vắng nên họ mới gượng ép làm yết ma tẫn cho em ta. Nay ta không hỏi các Tỳ-kheo-ni, không lấy dục, xuất giới làm yết ma giải tẫn”, nghó rồi liền không hỏi các Tỳ-kheo-ni, không lấy dục, xuất giới làm yết ma giải tẫn cho Xiển-đề. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo- ni Ưu-bà-hòa: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni biết Ni tăng đã như pháp làm yết ma tẫn, không hỏi Ni tăng, không lấy dục, xuất giới làm yết ma giải tẫn cho Tỳ-kheo-ni kia”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni biết Ni tăng đã như pháp làm yết ma Bất kiến tẫn cho Tỳ-kheo-ni kia, không hỏi Ni tăng, không lấy dục mà xuất giới làm yết ma giải tẫn cho Tỳ-kheo-ni kia, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Tăng-già- bà-thi-sa. Pháp này vừa làm liền phạm và được sám hối. Biết là tự biết hay nghe từ người khác, hoặc Tỳ-kheo-ni phạm tội tự nói. Như pháp là như pháp như luật, như lời Phật dạy làm yết ma tẫn. Không hỏi Ni tăng là không đem việc này bạch với Ni tăng. Không lấy dục là cho đến không lấy dục của bốn người. Xuất giới là ra ngoài hàng rào hay tường vách ngăn của Tăng phường. Giải yết ma tẫn là tự làm hay bảo người làm. Tăng-già-bà-thi-Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu Hòa thượng ni biết, người tác yết ma biết, Tỳ-kheo-ni tăng biết thì Hòa thượng ni phạm Tăng-già-bà- thi-sa, người tác yết ma phạm Thâu-lan-giá, Ni tăng phạm Đột-kiết-la. Nếu Hòa thượng ni biết, người tác yết ma biết, Ni tăng không biết thì Hòa thượng ni phạm Tăng-già-bà-thi-sa, người tác yết ma phạm Thâu- lan-giá, Ni tăng không phạm. Nếu Hòa thượng ni biết, người tác yết ma không biết, Ni tăng không biết thì Hòa thượng ni phạm Tăng-già-bà- thi-sa, người tác yết ma và Ni tăng không phạm. Nếu tất cả đều không biết thì đều không phạm. Pháp Mười Bốn: Tự Nói Xả Phật Pháp… Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni tên Ca-la vốn là ngoại đạo xuất gia, tánh ưa thích tranh cải, khi cùng các Tỳ-kheo-ni khác tranh cải liền nói rằng: “Tôi xả Phật, xả pháp, xả Tăng và xả giới. Không phải chỉ có một mình Sa-môn Thích tử mới tu phạm hạnh, các Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có hổ thẹn, lành tốt, ưa thích trì giới. Tôi sẽ theo họ tu phạm hạnh”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Ca-la: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi cùng các Tỳ-kheo-ni khác tranh cải lại nói rằng: “Tôi xả Phật, xả pháp, xả Tăng và xả giới. Không phải chỉ có một mình Sa-môn Thích tử mới tu phạm hạnh, các Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có hổ thẹn, lành tốt, ưa thích trì giới. Tôi sẽ theo họ tu phạm hạnh”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi cùng các Tỳ-kheo-ni khác tranh cải mà nói rằng: “Tôi xả Phật, xả pháp, xả Tăng và xả giới. Không phải chỉ có một mình Sa-môn Thích tử mới tu phạm hạnh, các Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có hổ thẹn, lành tốt, ưa thích trì giới. Tôi sẽ theo họ tu phạm hạnh”. Các Tỳ-kheo-ni nên can ngăn Tỳ-kheo-ni này rằng: “Cô không được khi cùng với các Tỳ-kheo-ni tranh cải lại nói rằng: Tôi xả Phật, xả pháp, xả Tăng và xả giới. Không phải chỉ có một mình Sa-môn Thích tử mới tu phạm hạnh, các Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có hổ thẹn, lành tốt, ưa thích trì giới. Tôi sẽ theo họ tu phạm hạnh. Cô nên ở trong Phật pháp ưa thích tu phạm hạnh, hãy xả bỏ tâm không vui này đi”. Khi các Tỳ-kheo-ni khuyên can như vậy mà Tỳ-kheo-ni này vẫn chấp chặt không bỏ thì nên khuyên can đến lần thứ ba cho bỏ việc này. Nếu Tỳ- kheo-ni này chịu bỏ thì tốt, nếu khuyên can đến lần thứ ba mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này can ba lần mới phạm và được sám hối. Tăng-già-bà-thi-Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nói tôi xả Phật thì phạm Thâu-lan-giá, nói tôi xả pháp cũng phạm Thâu-lan-giá, nói tôi xả Tăng cũng phạm Thâu-lan-giá, nói tôi xả giới cũng phạm Thâu-lan- giá. Nếu nói không phải chỉ có một mình Sa-môn Thích tử mới tu phạm hạnh, các Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có hổ thẹn, lành tốt, ưa thích trì giới. Tôi sẽ theo họ tu phạm hạnh thì phạm Ba-dật-đề vì quở trách Tăng. Các Tỳ-kheo-ni trước nên dịu dàng khuyên can cho bỏ việc này, nếu chịu bỏ thì nên bảo sám hối bốn tội Thâu-lan-giá và một tội Ba-dật- đề. Nếu dịu dàng khuyên can mà không chịu bỏ thì Ni tăng nên bạch tứ yết ma can ngăn như sau: Tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ-kheo-ni trong Tăng nên xướng như sau: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Tỳ-kheo-ni Ca-la này là ngoại đạo xuất gia, khi cùng các Tỳ-kheo-ni tranh cải nói rằng: “Tôi xả Phật, xả pháp, xả Tăng và xả giới. Không phải chỉ có một mình Sa-môn Thích tử mới tu phạm hạnh, các Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có hổ thẹn, lành tốt, ưa thích trì giới. Tôi sẽ theo họ tu phạm hạnh”. Các Tỳ-kheo-ni đã dịu dàng can ngăn nhưng không chịu bỏ ác tà kiến. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay yết ma can ngăn Tỳ-kheo- ni Ca-la: “Khi cùng các Tỳ-kheo-ni tranh cải, cô chớ nói rằng: Tôi xả Phật, xả pháp, xả Tăng và xả giới. Không phải chỉ có một mình Sa-môn Thích tử mới tu phạm hạnh, các Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có hổ thẹn, lành tốt, ưa thích trì giới. Tôi sẽ theo họ tu phạm hạnh”. Bạch như vậy. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận yết ma can ngăn Tỳ-kheo-ni Ca-la xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lạêng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Như trước Phật đã dạy các Tỳ-kheo-ni nên dịu dàng can ngăn cho đến ba lần, đây gọi là ước sắc, cũng gọi là giáo, cũng gọi là ước sắc giáo. Khi dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ cũng chưa phạm, yết ma can lần thứ nhất chưa xong hoặc xong, can lần thứ hai chưa xong hoặc xong, can lần thứ ba chưa xong mà phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, tợ pháp biệt chúng, tợ pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng, khác pháp khác luật, khác lời Phật dạy thì vẫn chưa phạm. Nếu như pháp như luật, như lời Phật dạy tác yết ma can ngăn ba lần rồi mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này mới phạm Tăng-già-bà-thi-sa . Pháp Mười Lăm: Quở Trách Tăng Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Ca-la ưa thích tranh cải, sau khi tranh cải bị Ni tăng yết ma can ngăn liền nói rằng: “Ni tăng tùy ái hành, tùy sân hành, tùy bố hành, tùy si hành”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ- kheo-ni Ca-la: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại ưa thích tranh cải, sau khi tranh cải bị Ni tăng yết ma can ngăn liền nói rằng: “Ni tăng tùy ái hành, tùy sân hành, tùy bố hành, tùy si hành”. quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni ưa thích tranh cải, sau khi tranh cải bị Ni tăng yết ma can ngăn liền nói rằng: “Ni tăng tùy ái hành, tùy sân hành, tùy bố hành, tùy si hành”. Các Tỳ-kheo-ni nên can ngăn Tỳ-kheo-ni này rằng: “Cô chớ nói: Ni tăng tùy ái hành, tùy sân hành, tùy bố hành, tùy si hành. Vì sao, vì Ni tăng không tùy ái hành, không tùy sân hành, không tùy bố hành, không tùy si hành”. Khi các Tỳ-kheo-ni khuyên can như vậy mà Tỳ-kheo-ni này vẫn chấp chặt không bỏ thì nên khuyên can đến lần thứ ba cho bỏ việc này. Nếu Tỳ-kheo-ni này chịu bỏ thì tốt, nếu khuyên can đến lần thứ ba mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này phạm Tăng-già- bà-thi-sa. Pháp này can ba lần mới phạm và được sám hối. Tăng-già-bà-thi-Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nói Ni tăng tùy ái hành thì phạm Thâu-lan-giá, nói tùy sân hành thì phạm Thâu-lan-giá, nói tùy bố hành thì phạm Thâu-lan-giá, nói tùy si hành thì phạm Thâu- lan-giá. Các Tỳ-kheo-ni trước nên dịu dàng khuyên can cho bỏ việc này, nếu chịu bỏ thì nên bảo sám hối bốn tội Thâu-lan-giá. Nếu dịu dàng khuyên can mà không chịu bỏ thì Ni tăng nên bạch tứ yết ma can ngăn như sau: Tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ-kheo-ni trong Tăng nên xướng như sau: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Tỳ-kheo-ni Ca-la là ngoại đạo xuất gia, ưa thích tranh cải, sau khi tranh cải bị Ni tăng yết ma can ngăn liền nói rằng: “Ni tăng tùy ái hành, tùy sân hành, tùy bố hành, tùy si hành”. Ni tăng đã dịu dàng can ngăn nhưng không chịu bỏ. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay yết ma can ngăn Tỳ-kheo-ni Ca-la rằng: “Cô chớ ưa thích tranh cải, sau khi tranh cải bị Ni tăng yết ma can ngăn liền nói rằng: Ni tăng tùy ái hành, tùy sân hành, tùy bố hành, tùy si hành.”. Bạch như vậy. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận yết ma can ngăn Tỳ-kheo-ni Ca-la xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lạêng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Như trước Phật đã dạy các Tỳ-kheo-ni nên dịu dàng can ngăn cho đến ba lần, đây gọi là ước sắc, cũng gọi là giáo, cũng gọi là ước sắc giáo. Khi dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ cũng chưa phạm, yết ma can lần thứ nhất chưa xong hoặc xong, can lần thứ hai chưa xong hoặc xong, can lần thứ ba chưa xong mà phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, tợ pháp biệt chúng, tợ pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng, khác pháp khác luật, khác lời Phật dạy thì vẫn chưa phạm. Nếu như pháp như luật, như lời Phật dạy tác yết ma can ngăn ba lần rồi mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này mới phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp Mười Sáu: Làm Ác Hạnh Che Giấu Cho Nhau Phật tại nước Xá-vệ, có hai Tỳ-kheo-ni tên là Đạt-ma và Đàm-di đồng tâm cùng làm ác hạnh, mang tiếng xấu, làm xúc não Ni tăng và che giấu tội cho nhau. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi hai Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đồng tâm cùng làm ác hạnh, mang tiếng xấu, làm xúc não Ni tăng và che giấu tội cho nhau”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu có hai Tỳ-kheo- ni đồng tâm cùng làm ác hạnh, mang tiếng xấu, làm xúc não Ni tăng và che giấu tội cho nhau. Ni tăng nên can ngăn hai Tỳ-kheo-ni này rằng: “Các cô chớ đồng tâm cùng làm ác hạnh, mang tiếng xấu, làm xúc não Ni tăng và che giấu tội cho nhau. Các cô hãy bỏ việc làm này, nếu các cô bỏ việc làm này thì ở trong Phật pháp được tăng trưởng”. Khi các Tỳ- kheo-ni khuyên can như vậy mà Tỳ-kheo-ni này vẫn chấp chặt không bỏ thì nên khuyên can đến lần thứ ba cho bỏ việc này. Nếu Tỳ-kheo-ni này chịu bỏ thì tốt, nếu khuyên can đến lần thứ ba mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này can ba lần mới phạm và được sám hối. Hai Tỳ-kheo-ni cùng làm ác hạnh là thân khẩu ý cúng làm ác hạnh. Mang tiếng xấu là khắp nơi đều biết. Xúc não Ni tăng là cho đến xúc não bốn Tỳ-kheo-ni. Che giấu tội cho nhau là cùng làm việc xấu che giấu cho nhau, không cho người khác biết. Tăng-già-bà-thi-Sa-là tội này thuộc Tăng, ở trong Tăng có dư tàn nên phải sám hối trước Tăng thì tội mới dứt trừ. Tướng phạm trong giới này là nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng làm nhân duyên bất thiện thì phạm Thâu-lan-giá, mang tiếng xấu thì phạm Thâu- lan-giá, xúc não Ni tăng thì phạm Thâu-lan-giá, che giấu tội cho nhau thì phạm Thâu-lan-giá. Các Tỳ-kheo-ni trước nên dịu dàng khuyên can cho bỏ việc này, nếu chịu bỏ thì nên bảo sám hối bốn tội Thâu-lan-giá. Nếu dịu dàng khuyên can mà không chịu bỏ thì Ni tăng nên bạch tứ yết ma can ngăn như sau: Tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ-kheo-ni trong Tăng nên xướng như sau: Đại đức Ni tăng lắng nghe, hai Tỳ-kheo-ni tên Đạt-ma và Đàm-di này đồng tâm cùng làm ác hạnh, mang tiếng xấu, làm xúc não Ni tăng và che giấu tội cho nhau. Ni tăng đã dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ việc làm này. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay yết ma can ngăn hai Tỳ-kheo-ni này rằng: “Các cô chớ đồng tâm cùng làm ác hạnh, mang tiếng xấu, làm xúc não Ni tăng và che giấu tội cho nhau”. Bạch như vậy. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng nay đã chấp thuận yết ma can ngăn hai Tỳ-kheo-ni này xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lạêng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Như trước Phật đã dạy các Tỳ-kheo-ni nên dịu dàng can ngăn cho đến ba lần, đây gọi là ước sắc, cũng gọi là giáo, cũng gọi là ước sắc giáo. Khi dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ cũng chưa phạm, yết ma can lần thứ nhất chưa xong hoặc xong, can lần thứ hai chưa xong hoặc xong, can lần thứ ba chưa xong mà phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, tợ pháp biệt chúng, tợ pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng, khác pháp khác luật, khác lời Phật dạy thì vẫn chưa phạm. Nếu như pháp như luật, như lời Phật dạy tác yết ma can ngăn ba lần rồi mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này mới phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp Mười Bảy: Khuyên Cùng Đồng Tâm Phật tại thành Vương xá, lúc đó các Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt đến nói với hai Tỳ-kheo-ni Đạt-ma và Đàm-di rằng: “Các cô chớ làm hạnh biệt ly, hãy làm hạnh đồng tâm. Các cô bỏ làm hạnh biệt ly thì không được tăng trưởng, làm hạnh đồng tâm thì được tăng trưởng. Trong Ni tăng cũng có những người như các cô, chỉ vì Ni tăng tức giận nên mới bảo các cô chớ đồng tâm làm ác hạnh”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đến nói với hai Tỳ-kheo-ni Đạt-ma và Đàm- di rằng: “Các cô chớ làm hạnh biệt ly, hãy làm hạnh đồng tâm. Các cô bỏ làm hạnh biệt ly thì không được tăng trưởng, làm hạnh đồng tâm thì được tăng trưởng. Trong Ni tăng cũng có những người như các cô, chỉ vì Ni tăng tức giận nên mới bảo các cô chớ đồng tâm làm ác hạnh”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đến khuyên bảo hai Tỳ-kheo-ni: “Các cô chớ làm hạnh biệt ly, hãy làm hạnh đồng tâm. Các cô bỏ làm hạnh biệt ly thì không được tăng trưởng, làm hạnh đồng tâm thì được tăng trưởng. Trong Ni tăng cũng có những người như các cô, chỉ vì Ni tăng tức giận nên mới bảo các cô chớ đồng tâm làm ác hạnh”. Các Tỳ-kheo-ni nên can ngăn Tỳ-kheo-ni này rằng: “Cô không được khuyên can hai Tỳ- kheo-ni này rằng: Các cô chớ làm hạnh biệt ly, hãy làm hạnh đồng tâm. Các cô bỏ làm hạnh biệt ly thì không được tăng trưởng, làm hạnh đồng tâm thì được tăng trưởng. Trong Ni tăng cũng có những người như các cô, chỉ vì Ni tăng tức giận nên mới bảo các cô chớ đồng tâm làm ác hạnh. Cô hãy bỏ việc khuyên người khác cùng làm ác hạnh này đi”. Khi các Tỳ-kheo-ni khuyên can như vậy mà Tỳ-kheo-ni này vẫn chấp chặt không bỏ thì nên khuyên can đến lần thứ ba cho bỏ việc này. Nếu Tỳ-kheo-ni này chịu bỏ thì tốt, nếu khuyên can đến lần thứ ba mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Pháp này can ba lần mới phạm và được sám hối. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni khuyên can hai Tỳ- kheo-ni rằng: Các cô chớ làm hạnh biệt ly thì phạm Thâu-lan-giá, hãy làm hạnh đồng tâm cũng phạm Thâu-lan-giá. Các cô bỏ làm hạnh biệt ly thì không được tăng trưởng cũng phạm Thâu-lan-giá, làm hạnh đồng tâm thì được tăng trưởng cũng phạm Thâu-lan-giá. Trong Ni tăng cũng có những người như các cô, chỉ vì Ni tăng tức giận nên mới bảo các cô chớ đồng tâm làm ác hạnh thì phạm Ba-dật-đề vì quở trách Ni tăng. Các Tỳ-kheo-ni trước nên dịu dàng khuyên can cho bỏ việc này, nếu chịu bỏ thì nên bảo sám hối bốn tội Thâu-lan-giá và một tội Ba-dật-đề. Nếu dịu dàng khuyên can mà không chịu bỏ thì Ni tăng nên bạch tứ yết ma can ngăn như sau: Tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ-kheo-ni trong Tăng nên xướng như sau: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Tỳ-kheo-ni tên đến khuyên bảo hai Tỳ-kheo-ni rằng: “Các cô chớ làm hạnh biệt ly, hãy làm hạnh đồng tâm. Các cô bỏ làm hạnh biệt ly thì không được tăng trưởng, làm hạnh đồng tâm thì được tăng trưởng. Trong Ni tăng cũng có những người như các cô, chỉ vì Ni tăng tức giận nên mới bảo các cô chớ đồng tâm làm ác hạnh”. Các Tỳ-kheo-ni đã dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ việc làm này. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay yết ma can ngăn Tỳ-kheo-ni này rằng: “Cô đừng đến khuyên can hai Tỳ-kheo-ni: Các cô chớ làm hạnh biệt ly, hãy làm hạnh đồng tâm. Các cô bỏ làm hạnh biệt ly thì không được tăng trưởng, làm hạnh đồng tâm thì được tăng trưởng. Trong Ni tăng cũng có những người như các cô, chỉ vì Ni tăng tức giận nên mới bảo các cô chớ đồng tâm làm ác hạnh.”. Bạch như vậy. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng nay đã chấp thuận yết ma can ngăn Tỳ-kheo-ni này xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lạêng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Như trước Phật đã dạy các Tỳ-kheo-ni nên dịu dàng can ngăn cho đến ba lần, đây gọi là ước sắc, cũng gọi là giáo, cũng gọi là ước sắc giáo. Khi dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ cũng chưa phạm, yết ma can lần thứ nhất chưa xong hoặc xong, can lần thứ hai chưa xong hoặc xong, can lần thứ ba chưa xong mà phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, tợ pháp biệt chúng, tợ pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng, khác pháp khác luật, khác lời Phật dạy thì vẫn chưa phạm. Nếu như pháp như luật, như lời Phật dạy tác yết ma can ngăn ba lần rồi mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni này mới phạm Tăng-già-bà-thi-sa . BA MƯƠI PHÁP XẢ ĐỌA (Những pháp bất cọng) Pháp Mười Chín: Chứa bát dư Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt chứa nhiều bát dư để hư hoại không dùng. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại chứa nhiều bát dư để hư hoại không dùng”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni chứa bát dư cho đến một đêm, chứa quá thời hạn này thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Một đêm là từ khi mặt trời lặn cho đến hôm sau khi trời chưa sáng, trong khoảng thời gian này gọi là một đêm. Bát có ba loại là thượng trung và hạ. Bát thượng là bát thọ được ba bát cơm và một bát canh của người khác cúng, ngoài ra có thể thọ thêm vật thực và nữa bát canh. Bát hạ là bát thọ được một bát cơm và một bát canh của người khác cúng, ngoài ra có thể thọ thêm vật thực à nữa bát canh. Ở giữa hai loại bát trên gọi là bát trung, nếu lớn hơn bát thượng và nhỏ hơn bát hạ thì không gọi là bát. Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là bát này nên xả, tội này nên sám. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni chứa bát dư quá một đêm thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Pháp Hai Mươi: Lấy Thời Y Làm Phi Thời Y Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó cựu Tỳ-kheo-ni là thiện, khách Tỳ- kheo-ni thì trợ giúp Điều đạt, khi trú xứ này được y thí, Tăng an cư nên chia, cựu Tỳ-kheo-ni nói rằng: “Váo tháng cuối hạ, trong trú xứ này thọ y Ca-hi-na, đây là thời y, Tăng an cư nên chia”, Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt nói: “Các cô không biết rõ, tuy là vào tháng cuối hạ, trong trú xứ này thọ y Ca-hi-na, nhưng đây là phi thời y, Hiện tiền tăng nên chia”, nói rồi liền lấy Thời y này làm Phi thời y để chia. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các khách Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại lấy Thời y làm Phi thời y để chia”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni lấy Thời y làm Phi thời y để chia thì phạm Ni-tát- kỳ Ba-dật-đề. Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là y này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám hối. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni lấy Thời y làm Phi thời y để chia thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, tùy khi chia được bao nhiêu thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề bấy nhiêu. 3. Pháp Hai Mươi Mốt: Lấy Phi Thời Y Làm Thời Y Phật tại thành Vương xá, lúc đó cựu Tỳ-kheo-ni thì trợ giúp Điều đạt cón khách Tỳ-kheo-ni là thiện, trú xứ này được y thí, Hiện tiền tăng nên chia, khách Tỳ-kheo-ni nói: “Đây không phải là tháng cuối hạ, trong trú xứ này không có thọ y Ca-hi-na, y này Hiện tiền tăng nên chia”, cựu Tỳ-kheo-ni nói: “Tuy không phải là tháng cuối hạ, trong trú xứ này không có thọ y Ca-hi-na, nhưng đây là Thời y, Tăng an cư nên chia”, nói rồi liền lấy Phi thời y làm Thời y để chia. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các cựu Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại lấy Phi thời y làm Thời y để chia”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni lấy Phi thời y làm Thời y để chia thì phạm Ni-tát- kỳ Ba-dật-đề . Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là y này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám hối. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni lấy Phi thời y làm Thời y để chia thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, tùy khi chia được bao nhiêu thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Hai Mươi Hai: Đổi Y Rồi Đòi Lại Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà có đệ tử tên là Thi- việt sa, tốt lành có công đức. Thâu-la-nan-đà may cho đệ tử này một y cắt rọc quý giá, cô này liền mặc đi đến trong Kỳ-hoàn. Ni này với Bạt-nan-đà đã quen biết lâu, khi Bạt-nan-đà thấy cô mặc chiếc y này liền sanh tâm ưa thích nên khi ni này đến đảnh lễ, liền khen là y rất đẹp rồi hỏi: “Cô có thể thí cho tôi được không?”, đáp là không thể được, lại nói: “Tôi đem y khác đổi cho cô”, cũng đáp là không được. Bạt-nan-đà là đại pháp sư có biện tài, thuyết pháp lại hay nên sau khi nghe thuyết các pháp vi diệu, ni này sanh tâm hoan hỉ liền đem y cắt rọc quý giá này đổi cho Bạt-nan-đà để lấy y khác ít quý giá hơn rồi mặc trở về tinh xá. Thâu-la-nan-đà thấy liền hỏi y đâu, đáp là đã đổi, lại hỏi đổi cho ai, đáp là đổi cho Bạt-nan-đà, Thâu-la-nan-đàøø nói: “Bạt-nan-đà dối gạt cô rồi”, đáp: “Dù có dối gạt thì cũng đã đổi rồi”, Thâu-la-nan-đàøø nói: “Y kia rất quý giá, còn y này ít quý giá hơn”, đáp: “Dù quý giá hay ít quý giá hơn thì cũng đã đổi rồi”, Thâu-la-nan-đà nói: “Hãy đến đòi lại, nếu không đòi lại được thì suốt đời ta đuổi cô đi”. Đệ tử này sợ bị đuổi đi nên đến chỗ Bạt-nan-đà đòi lại y, Bạt-nan-đà nói: “Ta đã đổi rồi”, ni nói: “Thầy đã dối gạt tôi”, đáp: “Dù có dối gạt thì cũng đã đổi rồi, không thể đưa trả lại”, ni nói: “Nếu thầy không đưa trả lại thì Hòa thượng ni của tôi sẽ đuổi tôi đi”, đáp: “Dù có đuổi cô hay không đuổi thì y cũng đã đổi rồi”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Thi viêït sa: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni đã đổi y cho Tỳ- kheo rồi, sau hối đến nói rằng: “Tôi trả lại y cho thầy, thầy trả lại y cho tôi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đã đổi y cho Tỳ-kheo, sau đến nói rằng: “Tôi trả y lại cho thầy, thầy trả lại y cho tôi”, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề . Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là y này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám hối. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni đã đổi y cho Tỳ-kheo, sau đó đến nói rằng: “Tôi trả y lại cho thầy, thầy trả y lại cho tôi”, thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; nếu đến nói rằng: “Y của thầy trả lại cho thầy, y của tôi tuy thầy chẳng chịu đổi, nhưng hãy cho tôi được lấy lại”, thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Hai Mươi Ba: Khuyên Cư Só Hùn Mua Y Tốt Cúng Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có nhiều cư só và vợ cư só vì ni Thâu- la-nan-đà nên mỗi người lo liệu giá tiền y và nói rằng: “Chúng tôi sẽ đem số tiền này mua y như thế như thế cúng cho ni Thâu-la-nan-đà”, ni Thâu-la-nan-đà nghe tin này liền đến hỏi là có thật như vậy không, đáp là có thật như vậy, ni nói: “Tỳ-kheo-ni chúng tôi nghèo khổ, các vị lại không thể có tâm thường thí, các vị chớ từng người cúng riêng, hãy hùn chung lại mua y tốt như thế như thế cúng cho tôi”. Các cư só này liền làm theo lời, không ngờ số tiền mà họ đã lo liệu trước đó để mua y, phải bỏ ra thêm gấp ba lần mới đủ mua y quý giá theo ý của Thâu-la-nan-đà. Sau khi mua y cúng xong, họ liền chê trách: “Các Tỳ-kheo-ni không biết thời, không biết lượng, nếu người thí không biết lượng thì người thọ nên biết lượng. Số tiền mà chúng tôi lo liệu trước đấy nay phải bỏ ra thêm gấp ba lần mới đủ, thật là mất lợi khi cúng cho người không biết đủ, khó nuôi này”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Thâu-la- nan-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại khuyên số đông cư só, vợ cư só không phải là bà con, đồng tâm hùn chung mua y tốt cúng cho mình”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu vì Tỳ-kheo-ni nên số đông cư só, vợ cư só không phải là bà con, mỗi người lo liệu giá tiền y và nói rằng: “Mỗi người chúng tôi sẽ đem số tiền này mua y như thế như thế cúng cho Tỳ-kheo-ni tên ”. Tỳ-kheo-ni này trước chưa được thỉnh liền đến chỗ họ nói rằng: “Các vị hãy đem số tiền này hùn chung lại mua y quý giá như thế như thế cúng cho tôi”, thì Tỳ-kheo-ni này phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề . Tỳ-kheo-ni là chỉ cho Thâu-la-nan-đà. Không phải bà con là ngoại trừ cha mẹ, anh em cho đến nhân duyên trong bảy đời. Cư só là bạch y nam, vợ cư só là bạch y nữ. Y bao gồm các loại vải gai trắng, vải gai đỏ, Sô-ma, Súy-di-la, Khâm-bà-la, Kiếp-bối, Kiều-thi-da. Giá tiền y là vàng, bạc, tiền… cho đến gạo thóc. Y như vậy, như vậy là giá như vậy, sắc như vậy, lượng như vậy. Cho Tỳ-kheo-ni tên là cho Thâu-la- nan-đà. Trước chưa được thỉnh là các cư só, vợ cư só chưa nói với ni là cô cần gì thì cứ đến nhà tôi lấy dùng. Đồng tâm là tin các cư só này chiều theo yêu cầu của mình mà không tức giận. Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là y này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám. Tướng phạm trong giới này là y có ba loại: Giá tiền, sắc, lượng. Giá tiền là nếu Tỳ-kheo-ni đến chỗ các cư só nói: “Các vị hãy hùn chung lại mua y giá một tiền (hoặc hai tiền, ba tiền cho đến một trăm tiền) cúng cho tôi”, nếu được y do đủ ba điều kể trên nên phạm Ni- tát-kỳ Ba-dật-đề, ba điều tức là nói cúng cho tôi y giá một tiền (hoặc hai tiền, ba tiền cho đến một trăm tiền), hãy hùn chung lại, hùn chung lại mua một y; nếu không được y thì phạm Đột-kiết-la. Sắc y là nếu Tỳ-kheo-ni nói với các cư só rằng: “Hãy cúng y màu xanh (hoặc vàng, đỏ, trắng đen…; hoặc là loại vải gai trắng, vải gai đỏ, Sô-ma, Súy-di-la, Khâm-bà-la, Kiếp-bối, Kiều-thi-da)”, nếu được y và đủ ba điều: Hãy cúng y màu xanh (hoặc vàng đỏ… như trên), hãy cùng hùn chung lại, hãy hùn chung mua một y như thế, thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; nếu không được y thì phạm Đột-kiết-la. Lượng y là nếu Tỳ-kheo-ni nói với các cư só rằng: “Hãy cúng y dài bốn khuỷu tay (hoặc năm, sáu cho đến mười tám khuỷu tay)”, nếu được y và đủ ba điều: Hãy cúng y dài bốn khuỷu tay (hoặc năm, sáu cho đến mười tám khuỷu tay), hãy hùn chung lại, hãy hùn chung mua một y như thế, thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; nếu không được y thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni xin loại y này mà được loại y khác, xin y màu xanh lại được y màu vàng…, xin y vải gai mà được Kiếp bối… thì phạm Đột-kiết-la. Nếu xin từ người thân, bà con hoặc không xin mà tự cho, hoặc được thỉnh tùy ý thì không phạm. Pháp Hai Mươi Bốn: Tự Xin Vàng Bạc Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt tự xin vàng bạc cho mình, các cư só hỏi: “Cô là người xuất gia xin vàng bạc làm gì, pháp Tỳ-kheo-ni là xin cơm canh… “, ni nói: “Các vị không biết, nếu xin cơm canh… thì trên danh nghóa tuy nhiều nhưng lại được lợi ít; nếu xin vàng bạc thì trên danh nghóa tuy ít nhưng lại được lợi nhiều”, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại tự xin vàng bạc, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại tự xin vàng bạc cho mình”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni tự xin vàng bạc cho mình thì phạm Ni-tát-kỳ Ba- dật-đề . Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là vàng bạc này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni tự xin vàng bạc cho mình thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, tùy xin được bao nhiêu thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu vì làm tượng Phật hay vì Tăng mà xin thì không phạm. Pháp Hai Mươi Lăm: Xin Được Thứ Này Lại Đòi Thứ Khác Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni tên Thi-việt có quen biết nhiều nên được cúng nhiều tô, dầu, mật, đường phèn. Có một thương nhân thỉnh ni Thi-việt: “Nếu cô cần tô, dầu, mật, đường phèn thì cứ đến nhà tôi lấy dùng”, ni liền thọ thỉnh. Sau đó Thi-việt đến nhà thương nhân nói là cần tô, cho tô rồi lại nói là cần dầu, cho dầu rồi lại nói là cần mật… khiến thương nhân này bực mình nói rằng: “Này cô, cô muốn tìm lỗi gì ở tôi, cô xin thứ này, tôi vừa cho thì cô lại đòi thứ khác. Cô cho là tôi chỉ thí một mình cô hay sao, nhiều người đang đợi tôi, vì cô mà làm trở ngại những người đang đợi đó”, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà vừa xin được thứ này lại đòi thứ khác, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Thi-việt: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni vừa xin được thứ này lại đòi thứ khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni vừa xin được thứ này lại đòi thứ khác thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề . Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là vật này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni xin tô được tô, lại nói là không cần tô mà cần dầu (hoặc mật, đường phèn) thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Hoặc xin mật được mật lại nói là không cần mật mà cần đường phèn (hoặc tô, dầu) thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Dù xin rồi chưa thọ lại đòi thứ khác cũng phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề . Pháp Hai Mươi Sáu: Xin Để Làm Tăng Phường Lại Làm Việc Khác. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có các Tỳ-kheo-ni xin tài vật muốn làm Tăng phường, các cư só hỏi là muốn làm gì, đáp là muốn làm Tăng phường. Các cư só, Bà-la-môn tín tâm cúng rất nhiều tài vật, các Tỳ- kheo-ni này nhận tài vật rồi, do lúc đó thời thế mất mùa đói kém nên tự nghó: “Nay thời buổi khó khăn, ai cũng lo cho mạng sống của mình, ta cũng phải lo mạng sống của mình trước rồi sau hãy làm Tăng phường”, nghó rồi liền ăn dùng hết số tài vật này. Thời gian sau được mùa, thời thế thịnh vượng, các Tỳ-kheo-ni này lại xin tài vật làm Tăng phường, các cư só hỏi; “Những tài vật mà chúng tôi cúng trước đây đâu rồi”, các Tỳ-kheo-ni liền nói rõ nguyên do kể trên, các cư só nghe rồi liền quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà xin được tài vật để làm việc này lại đem dùng vào việc khác, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ- kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm việc này lại dùng làm việc khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm việc Tăng lại đem dùng làm việc khác thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là tài vật này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm việc Tăng lại dùng vào việc khác; tùy xin được bao nhiêu, tùy dùng bao nhiêu thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Hai Mươi Bảy: Xin Để Làm Phòng Cho Mình Lại Dùng Làm Việc Khác Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có các Tỳ-kheo-ni xin tài vật muốn làm phòng cho mình, các cư só hỏi là muốn làm gì, đáp là muốn làm phòng cho mình. Các cư só, Bà-la-môn tín tâm cúng rất nhiều tài vật, các Tỳ-kheo-ni này nhận tài vật rồi, do lúc đó thời thế mất mùa đói kém nên tự nghó: “Nay thời buổi khó khăn, ai cũng lo cho mạng sống của mình, ta cũng phải lo mạng sống của mình trước rồi sau hãy làm phòng cho mình”, nghó rồi liền ăn dùng hết số tài vật này. Thời gian sau được mùa, thời thế thịnh vượng, các Tỳ-kheo-ni này lại xin tài vật làm phòng cho mình, các cư só hỏi; “Những tài vật mà chúng tôi cúng trước đây đâu rồi”, các Tỳ-kheo-ni liền nói rõ nguyên do kể trên, các cư só nghe rồi liền quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà xin được tài vật để làm việc này lại đem dùng vào việc khác, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm phòng cho mình lại đem dùng vào việc khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm việc này lại đem dùng làm việc khác thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là tài vật này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm việc này lại đem dùng vào việc khác; tùy xin được bao nhiêu, tùy dùng bao nhiêu thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề bấy nhiêu. LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 44 LUẬT NI (Tiếp Theo) BA MƯƠI PHÁP XẢ ĐỌA (Tiếp Theo) Pháp Hai Mươi Tám: Xin Làm Phòng Xá Cho Nhiều Người Lại Dùng Làm Việc Khác. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có các Tỳ-kheo-ni xin tài vật muốn làm phòng xá cho nhiều người, các cư só hỏi là muốn làm gì, đáp là muốn làm phòng xá cho nhiều người. Các cư só, Bà-la-môn tín tâm cúng rất nhiều tài vật, các Tỳ-kheo-ni này nhận tài vật rồi, do lúc đó thời thế mất mùa đói kém nên tự nghó: “Nay thời buổi khó khăn, ai cũng lo cho mạng sống của mình, ta cũng phải lo mạng sống của mình trước rồi sau hãy làm phòng xá cho nhiều người”, nghó rồi liền ăn dùng hết số tài vật này. Thời gian sau được mùa, thời thế thịnh vượng, các Tỳ-kheo-ni này lại xin tài vật làm phòng xá cho nhiều người, các cư só hỏi; “Những tài vật mà chúng tôi cúng trước đây đâu rồi”, các Tỳ-kheo-ni liền nói rõ nguyên do kể trên, các cư só nghe rồi liền quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà xin được tài vật để làm việc này lại đem dùng vào việc khác, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm việc này lại dùng làm việc khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm việc này lại đem dùng làm việc khác thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là tài vật này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni xin tài vật để làm việc Tăng lại dùng vào việc khác; tùy xin được bao nhiêu, tùy dùng bao nhiêu thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Hai Mươi Chín: Xin Y Giầy Quý Giá Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có Tỳ-kheo-ni tên Đạt-ma đề na vào những đêm mùa đông giá lạnh chỉ mặc chiếc đơn y để đi khất thực. một thương nhân thấy vậy liền đến nói với các tướng quân: “Các ông giàu có được ấm no là nhờ nhân duyên của ni Đạt-ma-đề-na, mỗi người các ông không thể mua cho cô ấy y dầy hay sao, lúc này là mùa đông giá lạnh mà cô ấy chỉ mặc đơn y để đi khất thực, nếu các ông không thể mỗi người mua y dầy cho thì nên hùn chung lại mua”, thương nhân này vì muốn họ khởi tâm kiêu mạn nên nói như thế. Các tương quân liền nói: “Chúng tôi sẽ hùn chung mua y dầy cho cô ấy”, nói rồi liền kêu ni tới nói rằng: “Cô cần loại y gì, chúng tôi sẽ mua cúng theo ý cô”, đáp: “Tôi cần loại y dầy giá năm trăm tiền”, các tướng quân này liền mua loại y dầy quý giá này cúng cho ni. Tỳ-kheo-ni này mặc y quý giá này đi khất thực, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại mặc y dầy quý giá đi khất thực, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại mặc y dầy quý giá đi khất thực”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni muốn xin y dầy quý giá thì được xin y trị giá cho đến bốn tiền, nếu xin quá giá tiền này thì phãm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề . Tiền là chỉ cho đại tiền, một đại tiền là mười sáu tiểu tiền. Ni-tát- kỳ Ba-dật-đề là y này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni xin y dầy quý giá quá bốn tiền, tùy xin được bao nhiêu thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Ba Mươi: Xin Y Mỏng Quý Giá Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó mùa đông đã qua, mùa nóng lại đến, Tỳ-kheo-ni Đạt-ma-đề-na mặc y dầy quý giá đi khất thực nên đầu mặt đều ra mồ hôi, mắt lòa vì nóng. Một thương nhân thấy vậy liền đến nói với các tướng quân: “Các ông giàu có được no ấm đều là nhờ nhân duyên của ni Đạt-ma-đề-na, mỗi người các ông không thể mua cúng cho cô ấy y mỏng hay sao. Nay trời nóng bức mà cô ấy mặc y dầy nên đầu mặt đều chảy mồ hôi, mắt lòa vì nóng. Nếu mỗi người các ông không thể mua y mỏng cho thì nên hùn chung lại mua”, thương nhân này vì muốn khiến cho các tướng quân sanh kiêu mạn nên nói như thế. Các tướng quân liền nói: “Chúng tôi sẽ hùn mua y mỏng cho cô ấy”, nói rồi kêu ni đến nói rằng: “Cô cần loại y mỏng như thế nào, chúng tôi sẽ cúng theo y cô”, ni nói: “Tôi cần loại y mỏng trị giá hai trăm năm mươi tiền”, các tướng quân liền mua loại y mỏng quý giá này cúng cho ni. Tỳ-kheo-ni này mặc y mỏng quý giá này đi khất thực, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại mặc y mỏng quý gia đi khất thực, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại mặc y mỏng quý giá đi khất thực”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ- kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni muốn xin y mỏng quý giá thì được xin y trị giá cho đến hai tiền rưỡi, nếu xin quá giá tiền này thì phạm Ni-tát-kỳ Ba- dật-đề . Tiền là chỉ cho đại tiền, một đại tiền là mười sáu tiểu tiền. Ni-tát- kỳ Ba-dật-đề là y này nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni xin y mỏng quý giá trị giá quá hai tiền rưỡi thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, tùy xin được bao nhiêu thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề bấy nhiêu. MỘT TRĂM BẢY MƯƠI TÁM PHÁP BA DẬT ĐỀ (Những Pháp Bất Cọng) Pháp Bảy Hai: Ăn Tỏi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có người giữ vườn tỏi tên là A-kỳ-đạt đa, tỏi của ông trồng rất tươi ngon nên đến thỉnh các Tỳ-kheo-ni: “Nếu các cô cần tỏi thì đến lấy dùng”. Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni suốt năm cứ đến nhổ tỏi khiến cho vườn tỏi chỉ trong hai, ba năm trở nên tiêu điều, chủ vườn tỏi liền bỏ vườn tỏi ra đi, không trồng lại nữa. Thời gian sau, có một cư só khác lại đến trong vườn này trồng tỏi, các Thức-xoa- ma-na và Sa-di-ni cho là giống như trước kia liền đến nhổ tỏi, chủ vườn suy nghó: “Ai đã ăn trộm tỏi, ta phải rình bắt”, nghó rồi liền rình xem thì thấy các Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni đến nhổ tỏi. Ông bước ra nói: “Không được nhổ tỏi của tôi”, đáp: “Chủ vườn tỏi là A-kỳ-đạt-đa đã thỉnh chúng tôi, can dự gì đến ông”, chủ vườn nói: “Chủ vườn tỏi trước kia vì nhân duyên các cô mà phải bỏ vườn tỏi ra đi, nay chủ vườn tỏi là tôi thì các cô không được lấy”, các ni nghe rồi xấu hổ nói: “Chúng tôi không biết, từ nay về sau sẽ không đến nhổ tỏi nữa”. Các cư só nghe biết việc này liền quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại ăn tỏi giống như nữ bạch y”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các ni: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại ăn tỏi giống như nữ bạch y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni ăn tỏi sống hay tỏi chín đều phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni ăn tỏi sống phạm Ba-dật-đề, ăn tỏi chín cũng phạm Ba-dật-đề, cho đến ăn hạt tỏi, cọng lá tỏi đều phạm Ba-dật-đề; nếu ăn vỏ và râu tỏi thì phạm Đột-kiết-la. Nếu trị bịnh và dùng bôi trên vết thương thì không phạm. Pháp Bảy Ba: Cạo Lông Hai Chỗ Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà sai người cạo lông nơi chỗ đại tiểu tiện, các ni hỏi là muốn làm gì, đáp là muốn cho đẹp. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại sai người cạo lông nơi chỗ đại tiểu tiện”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cạo lông nơi chỗ đại tiểu tiện thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni cạo lông nơi chỗ đại tiểu tiện thì phạm Ba-dật-đề, cạo lông nơi chỗ đại tiện cũng phạm Ba-dật-đề, cạo lông nơi chỗ tiểu tiện cũng phạm Ba-dật-đề, cạo lông các chỗ khác thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Bảy Bốn: Vệ Sinh Chỗ Kín Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà dùng ngón tay đưa vào trong nữ căn, các ni hỏi muốn làm gì, đáp là muốn thọ lạc. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại dùng ngón tay đưa vào trong nữ căn để thọ lạc”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni dùng ngón tay đưa vào trong nữ căn thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni dùng ngón tay đưa vào trong nữ căn thì phạm Ba-dật-đề, tùy đưa vào bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Sau đó do các Tỳ-kheo-ni không dám vệ sinh tẩy rửa, để lâu ngày nên thân hôi thối, bạch Phật, Phật khen ngợi giới và người trì giới rồi bảo: “Từ nay giới này nên nói lại như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni dùng ngón tay đưa vào trong nữ căn thì phạm Ba- dật-đề, trừ khi vệ sinh tẩy rửa. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni không có vệ sinh tẩy rửa mà dùng ngón tay đưa vào trong nữ căn thì phạm Ba-dật-đề, tùy đưa vào bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Sau đó lại có ni khi vệ sinh tẩy rửa dùng ngón tay đưa sâu vào trong nữ căn, các ni bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay giới này nên nói lại như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni dùng ngón tay đưa vào trong nữ căn quá hai lóng tay thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni khi tẩy rửa đưa ngón tay vào trong nữ căn quá hai lóng tay thì phạm Ba-dật-đề, tùy đưa vào bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Bảy Mươi Lăm: Vỗ Chỗ Kín Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà dùng bàn tay vỗ vào nữ căn, các ni hỏi muốn làm gì, đáp là muốn cho mập đẹp. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại dùng bàn tay vỗ vào nữ căn muốn cho mập đẹp”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni dùng bàn tay vỗ vào nữ căn thì phạm Ba-dật- đề. Chưởng là lòng bàn tay, lòng bàn chân. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni dùng lòng bàn tay hay dùng bàn chânvỗ vào nữ căn đều phạm Ba-dật-đề, nếu dùng vật khác để vỗ thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Bảy Mươi Sáu: Làm Thức Ăn Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có hai Tỳ-kheo-ni tên là La-trá và Ba- la-tra vốn là con nhà giàu có xuất gia. hai ni này vào sáng sớm đến các nhà đàn việt quen biết thọ được thức ăn ngon, ăn rồi liền nói là không ngon và hỏi là ai đã nấu, chủ nhà đáp là người đầu bếp đã nấu, liền nói: “Người ấy vì sao lại làm thức ăn không có mùi vị gì cả”, chủ nhà hỏi: “Vậy cô có thể làm thức ăn được không?”, đáp: “Được, nếu gặp ngày tốt mở tiệc, thiết hội thì hãy đến nói cho tôi biết”. Sau đó đến ngày tốt mở tiệc, chủ nhà liền mời hai Tỳ-kheo-ni đến trong vườn để làm thức ăn, người thợ nấu ăn thuê cho nhà này đứng bên cửa thấy các món ăn này liền hỏi là ai đã nấu, đáp: “Có hai Tỳ-kheo-ni tên là La-trá và Ba- la-tra đã nấu các món ăn này”, người thợ nấu ăn này tức giận quở trách: “Họ làm mất pháp Tỳ-kheo-ni, thiêu đốt pháp Tỳ-kheo-ni, đã cướp đoạt nghề kiếm sống của tôi”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi hai Tỳ- kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nấu vật sống làm thức ăn”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nấu vật sống làm thức ăn thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nấu vật sống làm thức ăn thì phạm Ba-dật-đề, tùy nấu bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu dùng hỏa tịnh rồi nấu thì không phạm. Pháp Bảy Mươi Bảy: Đứng Hầu Tỳ-Kheo Ăn Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một cư só do vô thường nên bị phá sản, người trong nhà mất hết, chỉ còn lại hai vợ chồng, liền suy nghó: “Trong số những người có phước lạc, không bị suy não thì không ai bằng Sa-môn Thích tử, tại sao ta không đến đó cầu xuất gia”, nghó rồi người chồng đến trong Kỳ-hoàn cầu xuất gia làm Tỳ-kheo, người vợ đến trong Vương viên cầu xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Tỳ-kheo này hễ khất thực được thức ăn thì mang đến trong tinh xá để ăn cùng Tỳ-kheo- ni này, Tỳ-kheo-ni này trước cũng đã chuẩn bị tương và rau quả đợi. Khi cả hai ngồi ăn, Tỳ-kheo-ni này đứng dậy dâng tương rau cho Tỳ-kheo rồi cùng nói chuyện giống như lúc còn tại gia. Tỳ-kheo tức giận cầm cơm trên tay hất vào mặt Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni cũng tức giận đổ canh nóng lên đầu Tỳ-kheo, cả hai cùng làm việc bất tịnh đáng hổ thẹn. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi Tỳ-kheo đang thọ thực lại đứng hầu phía trước”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi Tỳ-kheo đang thọ thực mà đứng hầu ở phía trước thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni khi Tỳ-kheo đang thọ thực lại đứng hầu ở phía trước thì phạm Ba-dật-đề, tùy đứng hầu bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu đưa thức ăn rồi trở về chỗ ngồi hay đi chỗ khác thì không phạm. Pháp Bảy Mươi Tám: Đổ Đồ Đại Tiểu Tiện Ra Ngoài Tường Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà đổ đồ đại tiểu tiện ra ngoài tường, do Tăng phường này gần sát ngõ hẽm lớn nên khi vị đại thần của vua Ba-tư-nặc tên là ma-ni với y phục sạch sẽ vừa đi ngang qua đó liền bị đồ phẩn tiểu này rơi trúng trên đầu làm dơ. Một Bà-la- môn là thầy tướng đi phía sau đại thần này liền đoán rằng: “Đại quan mau trở về tắm gội sạch sẽ rồi đến chỗ vua, đây là điềm tốt ắt sẽ được lợi lớn”, do trước đó đại thần này bị vua trách và truất chức, nghe được lời này liền tắm gội sạch sẽ rồi đến chỗ vua, quả là được vua cho phục hồi lại chức vị. Lúc đó các ni nghe biết việc làm của ni Thâu-la-nan-đà rồi liền suy nghó: “Đại thần ma-ni này tánh vốn hung ác, không có lòng từ, không biết chừng ông ta sẽ làm việc khổ não gì cho chúng ta “, nghó rồi nên sợ hãi đều bỏ đi hết, chỉ còn lại Tỳ-kheo-ni già bịnh. Sau đó đại thần ma-ni suy nghó: “Ta sở dó được vua cho phục chức là nhờ nhân duyên từ Tăng phường Tỳ-kheo-ni, ta nên đến an úy họ”, nghó rồi liền đến trong Tăng phường, thấy ít Tỳ-kheo-ni liền hỏi Tỳ-kheo-ni già bịnh nguyên do, liền kể rõ nguyên do sự việc cho đại thần nghe, đại thần nghe rồi liền nói: “Đại thần Ma-ni chính là tôi đây, nhưng các cô chớ sợ hãi, tôi sẽ cung cấp thức ăn vật thực và ban cho vô úy thí”. Có Tỳ-kheo- ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đổ đồ đại tiểu tiện ra ngoài tường”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đổ đồ đại tiểu tiện ra ngoài tường thì phạm Ba- dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni đổ đồ đại tiểu tiện ra ngoài tường thì phạm Ba-dật-đề, tùy đổ bao nhiêu phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng đại tiểu tiện trong cái bô, người này đưa cho người kia đổ ra ngoài tường, người đưa thì phạm Đột-kiết- la, người đổ ra ngoài thì phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo dùng tay đổ ra thì phạm Ba-dật-đề, nếu dùng cỏ đất bao bọc lại rồi quăng bỏ ra ngoài tường thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Bảy Mươi Chín: Đổ Đại Tiểu Tiện Trên Cỏ Tươi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trước cửa Tăng phường của tỳ-kheo- ni có cỏ xanh tươi tốt nên nhiều người thường đến tụ tập ngồi trên đó để ngắm nhìn các Tỳ-kheo-ni ra vào trong tinh xá Vương viên, có người đùa cợt nói rằng: “Hãy nhìn xem Tỳ-kheo-ni này mắt lé, người này mũi tẹt, người này da trắng, người này đẹp… ”. Các Tỳ-kheo-ni nghe những lời phê bình này trong lòng không vui liền suy nghó: “Họ tụ tập đến đây cười nói là vì có cỏ xanh tươi, nếu không có cỏ xanh tươi này thì họ sẽ không đến nữa”, nghó rồi liền đem phân và nước tiểu rãi lên cỏ khiến cho cỏ úng thúi và chết khô. Các cư só trách: “Các Tỳ-kheo- ni này không tốt, không có nhà xí ở chỗ khuất khác hay sao mà lại đổ đại tiểu tiện trên cỏ xanh tươi như thế”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đổ phân và nước tiểu trên cỏ xanh tươi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đổ phân và nước tiểu trên cỏ xanh tươi thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni đổ phân và nước tiểu trên cỏ xanh tươi thì phạm Ba-dật-đề, tùy đổ bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Tám Mươi: Cùng Tỳ-Kheo Đứng Ở Chỗ Khuất Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều-đạt một mình cùng Lục quần Tỳ-kheo đứng ở chỗ khuất cùng nói chuyện. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại một mình cùng Tỳ-kheo đứng ở chỗ khuất cùng nói chuyện”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng với Tỳ-kheo đứng ở chỗ khuất cùng nói chuyện thì phạm Ba-dật-đề. Một mình là một Tỳ-kheo-ni với một Tỳ-kheo không có người thứ ba. Chỗ khuất là chỗ có che ngăn như vách màn, hàng rào. Cùng đứng cùng nói chuyện là ở chỗ đáng nghi. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng Tỳ- kheo đứng ở chỗ khuất cùng nói chuyện thì phạm Ba-dật-đề, tùy cùng đứng cùng nói chuyện bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Tám Mươi Mốt: Cùng Tỳ-Kheo Đứng Nơi Đồng Trống Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều-đạt một mình cùng Lục quần Tỳ-kheo đứng nơi đồng trống cùng nói chuyện. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại một mình cùng Tỳ-kheo đứng nơi đồng trống cùng nói chuyện”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng với Tỳ-kheo đứng nơi đồng trống cùng nói chuyện thì phạm Ba-dật-đề . Một mình là một Tỳ-kheo-ni với một Tỳ-kheo không có người thứ ba. Đồng trống vắng vẻ là chỗ không có che ngăn như vách màn, hàng rào. Cùng đứng cùng nói chuyện là ở chỗ đáng nghi. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng Tỳ-kheo đứng nơi đồng trống vắng vẻ, cùng nói chuyện thì phạm Ba- dật-đề; tùy cùng đứng cùng nói chuyện bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Tám Mươi Hai: Cùng Bạch Y Đứng Ở Chỗ Khuất Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều-đạt một mình cùng nam bạch y đứng ở chỗ khuất cùng nói chuyện. Có Tỳ-kheo- ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại một mình cùng nam bạch y đứng ở chỗ khuất cùng nói chuyện”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng với nam bạch y đứng ở chỗ khuất cùng nói chuyện thì phạm Ba-dật-đề . Một mình là một Tỳ-kheo-ni với một nam bạch y không có người thứ ba. Chỗ khuất là chỗ có che ngăn như vách màn, hàng rào. Cùng đứng cùng nói chuyện là ở chỗ đáng nghi. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng nam bạch y đứng ở chỗ khuất cùng nói chuyện thì phạm Ba-dật-đề, tùy cùng đứng cùng nói chuyện bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Tám Mươi Ba: Cùng Nam Bạch Y Đứng Nơi Đồng Trống Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt một mình cùng nam bạch y đứng nơi đồng trống vằng vẻ cùng nói chuyện, các cư só chê trách: “Hãy nhìn xem, Tỳ-kheo-ni kia là vợ hay là người cùng tư thông”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại một mình cùng nam bạch y đứng nơi đồng trống cùng nói chuyện”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng với nam bạch y đứng nơi đồng trống, cùng nói chuyện thì phạm Ba-dật-đề. Một mình là một Tỳ-kheo-ni với một nam bạch y không có người thứ ba. Đồng trống vắng vẻ là chỗ không có che ngăn như vách màn, hàng rào. Cùng đứng cùng nói chuyện là ở chỗ đáng nghi. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng nam bạch y đứng nơi đồng trống vắng vẻ, cùng nói chuyện thì phạm Ba-dật- đề; tùy cùng đứng cùng nói chuyện bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Tám Mươi Bốn: Cùng Người Nam Ngồi Trong Chỗ Tối Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trong tinh xá Vương viên của tỳ-kheo- ni có một người làm thuê, vì trời tối có mưa nên ông vào trong phòng của tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều-đạt. Trong phòng có một Thức-xoa-ma-na, người làm thuê này trong tối chạm phải Thức-xoa-ma-na này nên Thức- xoa-ma-na này la lớn lên, các Tỳ-kheo-ni nghe tiếng la nên cùng tụ tập đến hỏi có việc gì, Thức-xoa-ma-na bảo đốt đèn lên, các Tỳ-kheo-ni đốt đèn lên liền thấy Thâu-la-nan-đà cùng người nam ngồi trong chỗ tối. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại một mình cùng người nam ngồi trong chỗ tối không có đèn”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng người nam đứng hay ngồi trong chỗ tối, không có đèn thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni một mình cùng người nam đứng hay ngồi trong chỗ tối, không có đèn thì phạm Ba-dật- đề; tùy cùng đứng cùng ngồi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Tám Mươi Lăm: Lấy Nhựa Cây Làm Nam Căn Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà lấy nhựa cây làm nam căn buộc nơi gót chân rồi đưa vào trong nữ căn, phòng bỗâng nhiên phát hỏa, Thâu-la-nan-đà quên cởi bỏ vật này mà vội chạy ra ngoài kêu cứu lửa. Có cư só thấy bộ dạng của Thâu-la-nan-đà liền nói rằng: “Hãy nhìn xem Tỳ-kheo-ni này có vật trang nghiêm như thế”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại làm nam căn đưa vào trong nữ căn”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni làm nam căn đưa vào trong nữ căn thì phạm Ba- dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni dùng nhựa cây làm nam căn đưa vào trong nữ căn thì phạm Ba-dật-đề; nếu dùng túi da hoặc ngón chân, ngó sen, củ La bặc, củ Vu thanh, hoặc dưa, bầu lê đưa vào trong nữ căn đều phạm Ba-dật-đề; khi làm nam căn thì phạm Đột-kiết- la; đưa vào nữ căn của tỳ-kheo-ni khác thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Tám Mươi Sáu: Giận Kéo Ni Khác Ra Khỏi Phòng Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà do có tánh xấu hay giận nên các thiện Tỳ-kheo-ni khác không thích cùng ở chung. Thâu-la- nan-đà nói gạt một Tỳ-kheo-ni vô trí: “Cô hãy đến ở chung với tôi, tôi sẽ cung cấp cho cô những vật cần dùng”, ni này nghe rồi liền đến cùng ở chung. Thâu-la-nan-đà ưa thích ra vào nhà người, lại quen biết nhiều nên sáng hôm đó trời mưa, cô đi đến nhà người này lại đến nhà người kia, cứ như thế đến mặt trời lặn mới trở về với y phục ướt trên người, giống như chim A-la. Vào trong phòng than thở là chân cẳng lưng đều đau nhức, Tỳ-kheo-ni vô trí liền hỏi là đi đâu, đáp là đi đến nhà người này lại đến nhà người khác…, lại hỏi: “Cô đi như vậy là vì Phật sự, Pháp sự hay Tăng sự?”, đáp là không phải vì việc gì hết, Tỳ-kheo-ni vô trí nói: “Nếu cô không phải vì việc gì hết thì tại sao lại dầm mưa đi như thế. Bạch y nhiều việc còn không dầm mưa đi, cô tại sao lại dầm mưa đi”, Thâu-la-nan-đàøø nổi giận nói: “Cô là Hòa thượng, A-xà-lê của tôi hả, sao cô lại dạy bảo tôi, trước đây tôi kêu cô đến ở chung là để cô dạy bảo tôi sao, cô hãy đi cho mau”, nói rồi liền cưỡng bức kéo ra ngoài, Tỳ-kheo-ni này già bịnh không có sức bị kéo như vậy nên suýt chết. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đàøø: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni tự gọi Tỳ-kheo-ni khác đến cùng ở chung, sau đó vì tức giận lại lôi kéo đuổi ra ngoài”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nói với Tỳ-kheo-ni khác rằng: “Cô hãy đến đây cùng ở chung trong phòng tôi”, sau đó vì tức giận không vui lại tự lôi kéo ra hoặc bảo người khác lôi kéo ra, nói rằng: “Hãy cút đi, không được ở trong đây nữa”. Chỉ vì nhân duyên này, không vì nhân duyên nào khác thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni tức giận không vui, tự tay lôi kéo ra hay bảo người khác lôi kéo ra đều phạm Ba-dật-đề; kéo ra không được thì phạm Đột-kiết-la; tùy lôi kéo ra bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Tám Mươi Bảy: Cùng Nằm Chung Giường Phật tại thành Vương xá, lúc đó hai Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt cùng nằm chung một giường và làm việc bất tịnh. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi hai Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại hai người cùng nằm chung một giường”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni hai người nằm chung một giường thì phạm Ba- dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng nằm chung một giường thì phạm Ba-dật-đề, tùy nằm chung bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu một người nằm, một người ngồi thì không phạm. Pháp Tám Mươi Tám: Cùng Nằm Chung Một Phu Cụ Phật tại thành Vương xá, lúc đó hai Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt cùng nằm chung một phu cụ và làm việc bất tịnh. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi hai Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại hai người cùng nằm chung một phu cụ”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni hai người nằm chung một phu cụ thì phạm Ba- dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng nằm chung một phu cụ thì phạm Ba-dật-đề, tùy nằm chung bao nhiêu thì phạm Ba- dật-đề bấy nhiêu; nếu mỗi người nằm riêng phu cụ thì không phạm. Pháp Tám Mươi Chín: Cùng Đắp Chung Một Y Phật tại thành Vương xá, lúc đó hai Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt cùng đắp chung một y và làm việc bất tịnh. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi hai Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại hai người cùng đắp chung một y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni hai người đắp chung một y thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng đắp chung một y thì phạm Ba-dật-đề, tùy cùng nằm cùng đắp chung bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu mỗi ngưới có mặc áo trong thì không phạm. Pháp Chín Mươi: Cùng Tỳ-Kheo Đứng Nói Chuyện Riêng Trong Nhà Bạch Y Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt vào nhà đàn việt cùng Lục quần Tỳ-kheo đứng nói chuyện riêng, bảo Tỳ- kheo-ni cùng đi đi chỗ khác để được thuận tiện. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni vào nhà bạch y lại một mình cùng Tỳ-kheo đứng nói chuyện riêng”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ- kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni vào nhà bạch y một mình cùng Tỳ-kheo đứng nói chuyện riêng, bảo Tỳ-kheo-ni cùng đi đi chỗ khác để được thuận tiện thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni vào nhà bạch y một mình cùng Tỳ-kheo đứng thì phạm Đột-kiết-la, cùng nói chuyện riêng cũng phạm Đột-kiết-la, vì muốn được thuận tiện nên bảo Tỳ-kheo-ni cùng đi đi chỗ khác thì phạm Ba-dật-đề, đi đến chỗ không lìa nghe thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Chín Mươi Mốt: Cùng Nam Bạch Y Nói Chuyện Riêng Trong Nhà Bạch Y Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt vào nhà bạch y cùng nam bạch y đứng nói chuyện riêng, bảo Tỳ-kheo-ni cùng đi đi chỗ khác để được thuận tiện. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni vào nhà bạch y lại một mình cùng nam bạch y đứng nói chuyện riêng”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni vào nhà bạch y một mình cùng nam bạch y đứng nói chuyện riêng, bảo Tỳ-kheo-ni cùng đi đi chỗ khác để được thuận tiện thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni vào nhà bạch y một mình cùng nam bạch y đứng thì phạm Đột-kiết-la, cùng nói chuyện riêng cũng phạm Đột-kiết-la, vì muốn được thuận tiện nên bảo Tỳ- kheo-ni cùng đi đi chỗ khác thì phạm Ba-dật-đề, đi đến chỗ không lìa nghe thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Chín Mươi Hai: Giận Tự Đấm Kêu Khóc Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni Ca-la vốn là ngoại đạo xuất gia, khi cùng các Tỳ-kheo-ni tranh cải liền nổi giận tự đấm vào thân rồi kêu khóc. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi cùng Tỳ-kheo-ni tranh cải lại nổi giận tự đấm vào thân rồi kêu khóc”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi cùng các Tỳ-kheo-ni tranh cải liền nổi giận tự đấm vào thân rồi kêu khóc thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni cùng các Tỳ-kheo- ni tranh cải, nổi giận tự đấm vào thân thì phạm Đột-kiết-la; kêu khóc thì phạm Ba-dật-đề; tùy kêu khóc bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Chín Mươi Ba: Trù Rủa Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni Ca-la vốn là ngoại đạo xuất gia, khi cùng các Tỳ-kheo-ni tranh cải tự trù rủa và trù rủa đọa địa ngục, nói rằng: “Nếu cô vu báng tôi làm việc đó thì khiến cho cô không được Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo; khiến cho cô đời đời đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu tôi có làm việc này thì cũng khiến cho tôi không được Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo; khiến cho tôi cũng đời đời đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi cùng các Tỳ- kheo-ni tranh cải lại trù rủa”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi cùng Tỳ-kheo-ni tranh cải liền trù rủa thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni cùng Tỳ-kheo-ni tranh cải trù rủa rằng: Nếu cô vu báng tôi làm việc đó thì khiến cho cô không được Tứ niệm xứ thì phạm Ba-dật-đề, cho đến nói không được Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo; khiến cho cô đời đời đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều phạm Ba-dật-đề. Nếu nói: Nếu tôi có làm việc này thì cũng khiến cho tôi không được Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo đều phạm Ba-dật-đề; nếu nói: Khiến cho tôi đời đời cụng đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng phạm Ba-dật-đề; tùy trù rủa bao nhiêu phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Chín Mươi Tư: Hay Quên Mà Còn Giận Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đàøø có đệ tử cọng hành tên là Thi-việt sa tuy lành tốt, ưa thích trì giới nhưng hay quên lời thầy dạy, khi thầy sai cất đồ vật, đem cất chỗ này lại quên, tìm ở chỗ khác, khi thầy cần lấy thì tìm không ra. Một hôm Thâu-la-nan-đà từ tụ lạc trở về, Thi-việt sa ra đón muốn cầm y bát giúp thì thầy không cho cầm, Thi-việt sa tức giận nói với các ni: “Tôi đâu phải kẻ trộm cướp, sao ht không tin tôi”, các ni hỏi rõ nguyên nhân rồi đến nói với Thâu-la-nan- đà: “Đệ tử của cô lành tốt, ưa thích trì giới vì sao cô lại không tin”, Thâu-la-nan-đà hỏi: “Vì sao nói là tôi không tin?”, đáp: “Cô ấy muốn cầm giúp y bát sao cô không cho cầm?”, Thâu-la-nan-đà nói: “Không phải là tôi không tin, chỉ là cô ấy hay quên, cất đồ vật ở chỗ này lại đi tìm ở chỗ khác, lúc tôi cần lấy thì lại tìm không ra, cho nên tôi không cho cầm giúp”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại không xem xét nhớ kỹ mà còn tức giận”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni không xem xét nhớ kỹ mà còn tức giận thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni không xem xét nhớ kỹ mà còn tức giận thì phạm Ba-dật-đề, tùy tức giận bao nhiêu phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Chín Mươi Lăm: Trong Hạ Du Hành Phật tại thành Vương xá an cư cùng các Tỳ-kheo, các đại đệ tử như trưởng lão Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, A-na-luật… đều cùng an cư với Phật. Lúc đó các Tỳ-kheo-ni lại ở trong hạ du hành các nước, dẫm đạp côn trùng và cỏ xanh tươi nên bị các cư só quở trách: “Phật và các đại đệ tử như trưởng lão Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên … còn an cư; Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại trong hạ du hành các nước dẫm đạp côn trùng và cỏ xanh tươi”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại trong hạ du hành”, quở trách rồi bảo các Tỳ- kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni trong hạ an cư, không có nhân duyên mà du hành các nước thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni trong hạ không có nhân duyên mà du hành các nước thì phạm Ba-dật-đề, tùy du hành bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Chín Mươi Sáu: Tự Tứ Xong Không Du Hành Phật tại thành Vương xá, tự tứ xong Phật cùng các đệ tử du hành các nước trong hai tháng, các đại đệ tử như trưởng lão Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, A-na-luật… đều đi theo, nhưng các Tỳ-kheo-ni lại không đi nên bị các cư só quở trách: “Tự tứ xong, Phật cùng các đệ tử đều du hành, Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại không chịu du hành”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni sau khi tự tứ xong lại không du hành”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni sau khi tự tứ xong lại không du hành đến chỗ khác một đêm thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni tự tứ xong không du hành đến chỗ khác một đêm thì phạm Ba-dật-đề, tùy không đi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu.  <卷>QUYỂN 45 LUẬT NI (Tiếp Theo) IV. MỘT TRĂM BẢY MƯƠI TÁM PHÁP BA DẬT ĐỀ (Tiếp Theo) Pháp Chín Mươi Bảy: Trong Nước Du Hành Đến Chỗ Có Nghi Sợ Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó tại nước Kiều-tát-la vua Ba-tư-nặc có nước nhỏ phản loạn nên vua ra lịnh tập họp bốn binh là tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh rồi thân chinh đi đánh dẹp. Lúc đó các Tỳ- kheo-ni đang du hành từ nước Kiều-tát-la đến nước Xá-vệ, giữa đường gặp đoàn quân, trưởng lão Tỳ-kheo-ni nói: “Chúng ta hãy tránh và đi theo đường nhỏ”, các ni trẻ tuổi liền nói: “Tại sao phải tránh, vua Ba- tư-nặc tín kính Phật pháp, vương tử Kỳ-đà, cư só Cấp-cô-độc… đều tin Phật. Ai ngăn được chúng ta, cứ đi thẳng”, nói rồi liền đi thẳng và bị đoàn quân đi trước lột hết y phục. Các ni liền tâu vua, vua nói: “Quân binh này ta đã phải cung cấp tụ lạc, vàng bạc, kho lẫm, lương bổng, họ mới đi chiến đấu; nếu họ đoạt hết y phục của các vị thì ta không thể trả lại được. Hôm nay trong nước động binh tại sao các cô lại du hành đến chỗ có nghi sợ. Nếu Phật nghe biết việc này sẽ kết giới không cho các cô du hành đến chỗ có nghi sợ trong nước”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ- kheo-ni, ở trong nước ở chỗ có nghi sợ lại du hành”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni, ở trong nước nơi chỗ có nghi sợ mà du hành thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni ở trong nước, nơi chỗ có nghi sợ mà du hành thì phạm Ba-dật-đề; tùy du hành bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Chín Mươi Tám: Ngoài Nước Du Hành Đến Chỗ Có Nghi Sợ Phật tại thành Vương xá, lúc đó có một nước nhỏ ở ngoài biên cương nước Ma-kiệt-đà của vua A-xà-thế làm phản, vua liền ra lịnh tập họp bốn bịnh là tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh rồi thân chinh đi đánh dẹp. Lúc đó các Tỳ-kheo-ni đang du hành từ nước Bạt-kỳ đến thành Vương xá, giữa đường gặp đoàn quân, trưởng lão Tỳ-kheo-ni nói: “Chúng ta nên tránh đi đường khác”, các ni trẻ tuổi liền nói: “Tại sao phải tránh, vua A-xà-thế tín kính Phật pháp, đồng tử Kỳ-bà… cũng đều tin Phật, cứ đi thẳng”, nói rồi liền đi thẳng và bị đoàn quân đi trước lột hết y phục. Các ni liền tâu vua, vua nói: “Quân binh này ta đã phải cung cấp tụ lạc, vàng bạc, kho lẫm, lương bổng, họ mới đi chiến đấu; nếu họ đoạt hết y phục của các vị thì ta không thể trả lại được. Hôm nay ngoài biên nước động binh, tại sao các cô lại du hành đến chỗ có nghi sợ. Nếu Phật nghe biết việc này sẽ kết giới không cho các cô du hành đến chỗ có nghi sợ ở ngoài biên nước”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ- kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại ở ngoài biên nước nơi chỗ có nghi sợ lại du hành”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni, ở ngoài biên cương nước nơi chỗ có nghi sợ mà du hành thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni ở ngoài biên cương nước, nơi chỗ có nghi sợ mà du hành thì phạm Ba-dật-đề; tùy du hành bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Chín Mươi Chín: Tham Quan Nhà Vẽ Tranh Phật tại nước Xá-vệ, Tỳ-kheo-ni Ca-la vốn là ngoại đạo xuất gia thích đi tham quan, sáng sốm cô đi đến các miếu thờ trời, nhà ca nhạc, nhà luận pháp, nhà xuất gia và nhà vẽ tranh nên bị các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại đến tham quan nhà vẽ tranh, giống như nữ ngoại đạo”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đến tham quan nhà vẽ tranh”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cố ý đến tham quan nhà vẽ tranh thì phạm Ba- dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni cố ý đến tham quan nhà vẽ tranh, nhìn thấy thì phạm Ba-dật-đề; không nhìn thấy thì phạm Đột-kiết-la. Từ dưới thấp nhìn lên cao thấy được thì phạm Ba-dật-đề, không thấy được thì phạm Đột-kiết-la; từ trên cao nhìn xuống dưới nếu thấy được thì phạm Ba-dật-đề, không thấy đuợc thì phạm Đột-kiết-la; nếu không cố ý đến hoặc trên đường đi ngang qua thì không phạm. Pháp Một Trăm: Xúc Não Khách Tỳ-Kheo-Ni Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt là cựu trụ, còn các thiện Tỳ-kheo-ni là khách. Khi khách Tỳ-kheo-ni đến cựu Tỳ-kheo-ni ra đón tiếp, cầm giúp y bát, thăm hỏi rồi đưa nước rửa chân, dầu bôi chân, giường tốt cho khách Tỳ-kheo-ni. Lúc đó khách ni yêu cầu đốt đèn, cựu ni hỏi đốt để làm gì, đáp là để đầu đêm tụng kinh, ngồi thiền và chú nguyện, cựu ni nói: “Các cô đi đường mệt mõi nên nằm ngủ”, nói rồi liền đi ngủ. Khách ni nghó: “Tại sao đầu đêm không tụng kinh, ngồi thiền mà lại đi ngủ”, nghó rồi liền đốt đèn để tụng kinh… rồi mới đi ngủ, cựu ni nghe tiếng liền thức dậy hỏi muốn làm gì, đáp là tụng kinh chú nguyện xong muốn ngủ, cựu ni nói: “Ngủ không có quả báo, Phật khen ngợi không ngủ, chê trách ngủ nghỉ. Chúng tôi thức không nằm ngủ”, nói rồi liền tréo chân ngồi, khách ni nghó: “Làm sao chúng ta ngủ được trong chỗ có đèn sáng”. Như vậy khách ni vào đầu đêm tụng kinh đến nữa đêm muốn ngủ lại không ngủ được, đến cuối đêm lại không thể ngủ, suốt đêm không ngủ và mệt mõi vì đi đường nên thân không an. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các cựu Tỳ-kheo-ni: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là cựu Tỳ-kheo-ni lại xúc não khách Tỳ-kheo-ni”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cựu trụ xúc não khách Tỳ-kheo-ni đến ở thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni cựu trụ xúc não khách Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật-đề, tùy xúc não bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Một: Xúc Não Cựu Tỳ-Kheo-Ni Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các thiện Tỳ-kheo-ni là cựu trụ, các Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt là khách. Khi khách Tỳ-kheo-ni đến các cựu ni ra đón tiếp, cầm giúp y bát rôi đưa nước rửa chân, dầu bôi chân và giường tốt cho các khách ni rồi nói: “Đốt đèn lên nhé”, khách ni nói: “Đừng đốt đèn, chúng tôi đi đường mõi mệt không thể tụng kinh, ngồi thiền chú nguyện, chúng tôi muốn nằm nghỉ”. Cựu ni vào đầu đêm đốt đèn tụng kinh… rồi đi ngủ thì khách ni thức dậy nói rằng: “Ngủ không có quả báo, Phật khen ngợi pháp không ngủ, chê trách ngủ, nay chúng tôi thức không ngủ”, nói rồi thức dậy đốt đèn ngồi thiền… khiến các cựu ni không ngủ được, khách ni tọa thiền đến cuối đêm lại đi ngủ, cựu ni vào cuối đêm không thể ngủ nên suốt đêm không ngủ, thân không được an. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các khách Tỳ-kheo-ni: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là khách Tỳ-kheo-ni lại xúc não cựu trụ Tỳ-kheo-ni”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu khách Tỳ-kheo-ni xúc não cựu trụ Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba- dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu khách ni xúc não cựu ni thì phạm Ba-dật-đề, tùy xúc não bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Hai: Không Chăm Sóc Người Bịnh Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà có Tỳ-kheo-ni ở chung bị bịnh, Thâu-la-nan-đà liền bỏ đi đến tụ lạc khác vì sợ phải cung cấp và chăm sóc người bịnh. Các ni khác đến thăm người bịnh liền hỏi: “Thâu-la-nan-đà có việc gì, cô đều trợ giúp, nay cô bị bịnh sao cô ấy không chăm sóc?”, đáp: “Cô ấy có thể chăm sóc cho tôi sao, vì sợ phải chăm sóc tôi nên cô ấy mới bỏ đi”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Thâu-la-nan-đàøø: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại không chăm sóc Tỳ-kheo-ni ở chung với mình”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni có Tỳ-kheo-ni ở chung bị bịnh mà không cung cấp chăm sóc thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni có Tỳ-kheo-ni ở chung bị bịnh mà không cung cấp chăm sóc thì phạm Ba-dật-đề, tùy không chăm sóc bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Ba: Thấy Trưởng Lão Tỳ-Kheo Đến Mà Không Đứng Dậy Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trưởng lão Đại Ca-diếp trước ngọ đắp y mang bát đến một nhà cư só khất thực, vợ cư só trông thấy trưởng lão liền đứng dậy bước ra nghinh đón, ni Thâu-la-nan-đà có mặt trong nhà này từ trước tuy thấy trưởng lão Đại Ca-diếp nhưng không đứng dậy ra nghinh đón. Vợ cư só đảnh lễ trưởng lão Đại Ca-diếp rồi tiếp lấy bát đựng đầy cơm và thức ăn rồi dâng cho trưởng lão, sau đó nói với Thâu- la-nan-đà: “Cô biết trưởng lão Đại Ca-diếp là đại đệ tử của Phật, là ruộng phước tốt đáng được trời người cung kính, cô đứng dậy ra nghinh đón thì có việc gì là xấu”, Thâu-la-nan-đà nói: “Đại Ca-diếp vốn là ngoại đạo xuất gia, được cô cung kính chứ không được tôi cung kính”, vợ cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức tuy thấy trưởng lão Tỳ-kheo đến mà lại không đứng dậy ra nghinh đón, giống như nữ ngoại đạo”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Thâu-la-nan-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni tuy thấy trưởng lão Tỳ-kheo đến lại không đứng dậy ra nghinh đón”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni thấy trưởng lão Tỳ-kheo đến mà không đứng dậy thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni thấy trưởng lão Tỳ- kheo đến mà không đứng dậy thì phạm Ba-dật-đề, tùy không đứng dậy bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Bốn: Không Chào Hỏi Tỳ-Kheo Mà Liền Ngồi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trưởng lão Ca-lưu-đà-di thường ra vào một nhà, vào trước ngọ đắp y mang bát đến nhà đó, trong nhà đã có ni tên Sấu Cù-Đàm-di đến trước, thấy Ca-lưu-đà-di đến liền đứng dậy ra nghinh đón, mời ngồi. Ni đứng nghe Ca-lưu-đà-di thuyết pháp quá lâu nên ngã xỉu xuống đất, vợ cư só rưới nước cho tỉnh lại rồi hỏi: “Cô có bịnh gì, có lo buồn gì?”, đáp: “Tôi không bịnh, cũng không có lo buồn, chỉ là đứng quá lâu nên ngất xỉu”. Các ni đem việc này bạch Phật, Phật do việc này nhóm hai bộ Tăng đủ lời khen ngợi giới và người trì giới rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni không chào hỏi Tỳ-kheo mà liền ngồi thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni không chào hỏi Tỳ- kheo mà liền ngồi thì phạm Ba-dật-đề, tùy không chào hỏi và ngồi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Năm: Không Hỏi Chủ Nhà Liền Trải Ngọa Cụ Nằm Ngồi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo-ni muốn du hành các nước nên tâu vua rằng: “Chúng tôi muốn du hành, xin vua ra lịnh cho dân chúng các nơi không được trên đường đi xúc não chúng tôi”, vua liền ra lịnh dân chúng các nơi không được xúc não và nên cung cấp nhưng vật cần dùng như thức ăn uống và đèn đuốc cho các ni. Các ni này du hành đến một nơi không có Tăng phường, đến nhà một cư só muốn ngủ lại đêm nên bảo chủ nhà ra ngoài, chủ nhà nói: “Đây là nhà tôi, các cô bảo tôi đi đâu”, các ni nói: “Ông nên ra ngoài, ông muốn xúc não chúng tôi hay sao. Nếu ông không ra ngoài, chúng tôi có thế lực của quan sẽ khiến cho ông phiền não”, cư só suy nghó: “Các Tỳ-kheo-ni được vua thủ hộ, thế lực của quan sẽ khiến cho ta phiền não”, nghó rồi nên sợ hãi bỏ ra ngoài. Cư só này vì già bịnh không sức lực nên ra ngoài giữa đêm đông giá lạnh suýt bị chết, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại không hỏi chủ nhà, tự tiện trải ngọa cụ nằm ngồi, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại không hỏi chủ nhà mà liền trải ngọa cụ nằm ngồi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni không hỏi chủ nhà liền tự tiện trải ngọa cụ hoặc bảo người trải thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni không hỏi chủ nhà lại tự trải ngọa cụ thì phạm Ba-dật-đề, bảo người trải cũng phạm Ba- dật-đề; tùy không hỏi mà tự trải hay bảo người trải bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Sáu: Không Đủ Mười Hai Hạ Mà Nuôi Chúng Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo-ni muốn bằng Tỳ-kheo nên nói: “Các thầy năm tuổi hạ thì không cần y chỉ, chúng tôi cũng vậy; các thầy mười tuổi hạ được nuôi chúng, chúng tôi cũng vậy, không có khác biệt”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại khinh thường đại chúng”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay cho các Tỳ-kheo-ni thọ đại giới đủ sáu tuổi hạ thì không cần y chỉ, chưa đủ sáu tuổi hạ phải cầu y chỉ; mười hai tuổi hạ mới được nuôi chúng. Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni không đủ mười hai tuổi hạ mà nuôi chúng thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni không đủ mười hai tuổi hạ mà nuôi chúng thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Bảy: Chưa Được Tác Yết Ma Nuôi Chúng Mà Nuôi Chúng Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà đủ mười hai tuổi hạ muốn nuôi chúng nên nói với các ni: “Tôi thọ đại giới đã đủ mười hai hạ, nay muốn nuôi chúng phải làm thế nào?”, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật, Phật bảo: “Các cô nên tác yết ma nuôi chúng cho Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà, nếu có Tỳ-kheo-ni nào giống như thế cũng nên tác yết ma cho”. Tác pháp yết ma như sau: Ni tăng nhất tâm hòa hợp, ni Thâu- la-nan-đà nên từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Tăng: Đại đức Ni tăng nhớ nghó, con Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà thọ đại giới đã đủ mười hai tuổi hạ, nay muốn nuôi chúng. Con theo Tăng xin yết ma nuôi chúng, Tăng cho con Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà yết ma nuôi chúng, xin thương xót (3 lần). Một Tỳ-kheo-ni trong Tăng tác bạch yết ma như sau: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà này thọ đại giới đã đủ mười hai tuổi hạ nay muốn nuôi chúng nên theo Tăng xin yết ma nuôi chúng. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay cho Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đàøø yết ma nuôi chúng. Bạch như vậy. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận cho Tỳ- kheo-ni Thâu-la-nan-đà yết ma nuôi chúng xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lạêng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Phật bảo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni tuy đủ mười hai tuổi hạ nhưng chưa tác pháp yết ma nuôi chúng cho nuôi, mà nuôi chúng thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni chưa đủ mười hai hạ, chưa tác yết ma cho nuôi chúng mà nuôi thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Tám: Nuôi Người Nữ Đã Gả Chưa Đủ Mười Hai Tuổi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là người nữ đã gả chưa đủ mười hai tuổi. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ- kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuôi chúng là người nữ đã gả chưa đủ mười hai tuổi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ đã gả chưa đủ mười hai tuổi thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ đã gả chưa đủ mười hai tuổi thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Lẻ Chín: Tuy Đủ Mười Hai Tuổi Nhưng Chưa Làm Yết Ma Thuộc Hòa Thượng Ni Phật tại nước Xá-vệ, ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là người nữ đã gả đủ mười hai tuổi nhưng chưa làm yết ma thuộc Hòa thượng ni. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ đã gả đủ mười hai tuổi mà không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ đã gả đủ mười hai tuổi nhưng chưa làm yết ma thuộc Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ đã gả đủ mười hai tuổi nhưng chưa xin yết ma nuôi chúng làm Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề; tù nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười: Nuôi Chúng Mà Không Dạy Bảo Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng mà không giáo giới, không thuyết pháp cho nghe. Đệ tử hỏi: “Vì sao thầy không giáo giới, không thuyết pháp cho con nghe”, đáp: “Ta không giáo giới, không thuyết pháp cho nghe”, đệ tử đem việc này bạch các Tỳ-kheo-ni, các ni bạch Phật, Phật do việc này nhóm hai bộ Tăng rồi hỏi Thâu-la-nan-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuôi chúng mà không giáo giới, không thuyết pháp cho nghe”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo-ni: “Các cô nên tác pháp yết ma dừng nuôi chúng cho Thâu-la-nan-đà”. Tác yết ma dừng nuôi chúng như sau: Ni tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ-kheo-ni trong Tăng xướng rằng: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng mà không giáo giới, không thuyết pháp cho nghe. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay tác yết ma dừng nuôi chúng cho Thâu-la-nan-đàøø, từ nay không được nuôi chúng nữa. Bạch như vậy. Như thế bạch nhị yết ma cho đến câu Tăng nay đã chấp thuận tác yết ma dừng nuôi chúng cho Thâu-la-nan-đà, từ nay không được nuôi chúng nữa xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lạêng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Phật bảo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni, Tăng đã cho yết ma dừng nuôi chúng mà còn nuôi chúng nữa thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni, Tăng đã cho yết ma dừng nuôi chúng mà còn nuôi chúng nữa thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Một: Không Cho Hai Năm Học Sáu Pháp Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trong thành có vợ một cư só tên là Hòa la ha, nhà giàu có với nhiều tài sản, ruộng vườn… đầy đủ các tướng giàu sang. Người này vì vô thường nên bị phá sản, người nhà đều phân tán, chỉ còn một mình lại có thai, vì đau buồn trước sự mất mát này nên thân ốm gầy, thai nhi không lớn. Cô suy nghó: “Những người có phước đức không ai hơn Sa-môn Thích tử, ta nên đến cầu xuất gia làm Tỳ-kheo- ni”, nghó rồi liền đến trong tinh xá Vương viên cầu xuất gia, sau khi xuất gia được hoan lạc nên thân mập mạp, thai nhi cũng lớn nên bụng dần dần to ra. Các Tỳ-kheo-ni đuổi ra khỏi Tăng phường, nói rằng: “Cô là người phạm dâm dục, không được ở trong đây”, liền đáp: “Từ khi xuất gia đến nay tôi không làm việc dâm dục, trước khi xuất gia tôi đã mang thai”, các ni đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Các cô chớ nói cô này như vậy, Tỳ-kheo-ni này không phá phạm hạnh vì khi còn là bạch y đã mang thai rồi. Từ nay cho Sa-di-ni trong hai năm học sáu pháp để nghiệm biết là có thai hay không”. Văn đăng đàn thọ sáu pháp Sa-di-ni mới đến, giới sư nên bảo theo thứ lớp đảnh lễ Ni tăng, kế dạy cầu Hòa thượng ni như sau: Con là Sa-di-ni tên nay cầu đại đức ni làm Hòa thượng ni. Xin đại đức ni làm Hòa thượng ni để con theo Tăng xin hai năm học giới (3 lần). Một Tỳ-kheo-ni trong Tăng nên hỏi vị này có thể làm Hòa thượng ni cho Sa-di-ni này không, nếu nói là được thì giới sư nên dẫn Sa-di-ni đến chỗ mắt thấy tai không nghe ở ngoài giới tràng, rồi trở vào trong Tăng hỏi: “Tăng hòa hợp không?”, đáp là hòa hợp, liền bạch: Tăng nhất tâm hòa hợp nên làm Tăng sự, Sa-di-ni tên , Hòa thượng ni là , Tăng nên cho hai năm học giới (3 lần). Kế gọi Sa-di-ni đến, giới sư bảo đảnh lễ Ni tăng rồi dạy theo Tăng xin hai năm học giới như sau: Con Sa-di-ni tên , Hòa thượng ni là , nay theo Tăng xin hai năm học giới. Xin Tăng cho con Sa-di-ni , Hòa thượng ni là được hai năm học giới. Xin thương xót (3 lần). Giới sư ở trong Tăng tác bạch yết ma như sau: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Sa-di-ni tên , Hòa thượng ni là nay theo Tăng xin hai năm học giới. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay cho Sa-di-ni , Hòa thượng ni là được hai năm học giới. Bạch như vậy. Đại đức Ni tăng lắng nghe, Sa-di-ni tên , Hòa thượng ni là theo Tăng xin hai năm học giới. Tăng nay cho Sa-di-ni , Hòa thượng ni là được hai năm học giới, trưởng lão ni nào chấp thuận cho Sa-di-ni , Hòa thượng ni là được hai năm học giới thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Đây là yết ma lần thứ nhất. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận cho Sa- di-ni , Hòa thượng ni là được hai năm học giới xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Kế nên nói sáu pháp như sau: Này Thức-xoa-ma-na, hãy lắng nghe, Phật Thế tôn Đa-đà-a-già- độä A-la-ha-tam-miệu-tam Phật đà là bậc Tri giả, bậc kiến giả đã nói sáu pháp của Thức-xoa-ma-na, suốt đời nên thọ trì. Một là Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách Dục, dục tưởng, dục dục, dục giác, dục nhiệt; Phật dạy nên đoạn dục, trừ dục tưởng và diệt dục nhiệt. Nếu Thức-xoa-ma-na đã vào trong pháp Thức-xoa-ma-na, không xả giới, giới suy kém, không nói ra, mà theo tâm tưởng thọ việc dâm dục cho đến cùng với súc sanh thì chẳng phải là Thức-xoa-ma-na, chẳng phải là Thích nữ, mất pháp Thức-xoa-ma-na. Việc này suốt đời không được làm, nếu cô thọ trì được thì nên nói là được. Hai là Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách trộm cắp, khen ngợi không trộm cắp cho đến một sợi chỉ, một tấc vải, một giọt dầu, nếu không cho thì không được lấy. Trong giới này Phật chế ít nhất là cho đến năm tiền hoặc vật trị giá năm tiền, tùy theo vật mà Thức-xoa- ma-na trộm cắp nếu bị vua bắt hoặc đánh, hoặc trói hoặc đuổi đi, mắng là kẻ giặc, kẻ ngu si… thì chẳng phải là Thức-xoa-ma-na, chẳng phải là Thích nữ, mất pháp Thức-xoa-ma-na. Việc này suốt đời không được làm, nếu cô thọ trì được thì nên nói là được. Ba là Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách sát sanh, khen ngợi không sát sanh, không giất hại cho đến một con kiến huống chi là giết người. Nếu Thức-xoa-ma-na tự tay giết người hoặc cầm dao đưa cho người, chỉ bảo chết, khen ngợi chết, nói rằng: “Sống nếp sống xấu xa như thế làm gì, thà chết còn hơn”. Thuận theo tâm ý người này mà dùng đủ cách khuyên dạy chết, khen ngợi chết hoặc làm Ưu đa, Đầu đa hoặc giăng lưới bẫy… để giết; hoặc làm Tỳ-đà-la, tợ Tỳ-đà-la, hoặc làm cho đứt hơi, hoặc làm cho đọa thai, hoặc đè bụng cho chết; hoặc xô vào lửa, đẩy xuống nước, xô từ trên cao xuống, hoặc sai người đón đường giết chết, hoặc thai nhi mới thọ hai căn là thân căn và mạng căn, trong Ca-la la lại sanh tâm ác phương tiên giết chết… thì chẳng phải là Thức-xoa- ma-na, chẳng phải là Thích nữ, mất pháp Thức-xoa-ma-na. Việc này suốt đời không được làm, nếu cô thọ trì được thì nên nói là được. Bốn là Phật Thế tôn đủ nhân duyên chê trách vọng ngữ, khen ngợi không vọng ngữ, cho đến đùa giỡn còn không nói dối huống chi là cố ý. Nếu Thức-xoa-ma-na không biết, không thấy pháp hơn người mà tự nói: “Tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy, tôi là A-la-hán, A- la-hán hướng; tôi là A-na-hàm, A-na-hàm hướng; Tư-đà-hàm, Tư-đà- hàm hướng; Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hoàn hướng; hoặc tôi được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; hoặc tôi được vô lương tâm từ bi, hỷ xả; hoặc tôi được Không vô sắc xứ định, thức xứ định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng xứ định; hoặc tôi được pháp quán bất tịnh, A-na- bát-na; các trời, rồng, Dạ-xoa… đến chỗ tôi, họ hỏi, tôi trả lời; tôi hỏi, họ trả lời… thì chẳng phải là Thức-xoa-ma-na, chẳng phải là Thích nữ, mất pháp Thức-xoa-ma-na. Việc này suốt đời không được làm, nếu cô thọ trì được thì nên nói là được. Năm là Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách Dục, dục tưởng, dục dục, dục giác, dục nhiệt; Phật dạy nên đoạn dục, trừ dục tưởng và diệt dục nhiệt. Nếu Thức-xoa-ma-na có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm xúc chạm vuốt ve thuận hay nghịch từ đầu tóc trở xuống, từ đầu gối trở lên, từ cổ tay trở ra, bỏ y, hoặc kéo hoặc đẩy hoặc đè hoặc bóp, hoặc nâng lên hoặc để xuống… thì chẳng phải là Thức-xoa-ma-na, chẳng phải là Thích nữ, mất pháp Thức-xoa-ma-na. Việc này suốt đời không được làm, nếu cô thọ trì được thì nên nói là được. Sáu là Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách Dục, dục tưởng, dục dục, dục giác, dục nhiệt; Phật dạy nên đoạn dục, trừ dục tưởng và diệt dục nhiệt. Nếu Thức-xoa-ma-na có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm nắm tay, nắm y, cùng đứng, cùng nói chuyện, cùng hẹn hò, vào chỗ khuất, đợi người nam đến, tất cả giống như người nữ bạch y, tự thân làm tám việc này thì chẳng phải là Thức-xoa-ma-na, chẳng phải là Thích nữ, mất pháp Thức-xoa-ma-na. Việc này suốt đời không được làm, nếu cô thọ trì được thì nên nói là được. Này Thức-xoa-ma-na hãy lắng nghe, Tăng đã trao cho cô sáu học pháp, người thọ trì sáu pháp này mới gọi là Thức-xoa-ma-na. Cô có đủ Hòa thượng ni, A-xà-lê ni, đầy đủ Ni tăng, đủ hành xứ, quốc độ, đủ nguyện của Chuyển luân thánh vương…, từ nay nên cung kính Tam bảo Phật pháp tăng; nên cung kính Hòa thượng, A-xà-lê và các bậc thượng trung hạ tòa. Nên siêng học ba môn học là thiện giới học, thiện định học và thiện huệ học. Nên tu ba môn giải thoát là không vô tướng, vô tác. Nên siêng tu ba nghiệp, tọa thiền, tụng kinh và khuyến hóa làm phước hạnh. Đây là pháp mở cửa Niết bàn để được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà- hàm, A-na-hàm, A-la-hán; giống như hoa sen trong nước ngày càng tươi tốt được nở hoa, cô cũng sẽ tăng trưởng đạo pháp giống như vậy, sau sẽ được thọ giới cụ túc . Trong pháp Thích sư tử, Đã được giới khó được, Thời không khó, khó được, Được rồi chớ để mất. Cúi đầu đảnh lễ Tăng, Hữu nhiễu vui vẻ đi. Phật bảo: Do mười lợi nên kết giới cho Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng mà không cho hai năm học sáu pháp thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng không cho hai năm học sáu pháp thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Hai: Tuy Đủ Hai Năm Học Sáu Pháp Nhưng Chưa Tác Yết Ma Thuộc Hòa Thượng Ni Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là đệ tử đủ hai năm học sáu pháp, nhưng chưa làm yết ma thuộc Hòa thượng ni. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuôi chúng là đệ tử đã đủ hai năm học sáu pháp mà không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đệ tử đủ hai năm học sáu pháp, nhưng chưa làm yết ma thuộc Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đệ tử đủ hai năm học sáu pháp, nhưng chưa làm yết ma thuộc Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề; tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Ba: Không Hai Năm Theo Hòa Thượng Ni Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo-ni vì nuôi chúng nên chịu cực khổ giặt nhuộm cắt may y cho đệ tử, không ngờ đệ tử thọ đại giới xong liền bỏ Hòa thượng ni đi, liền quở trách rằng: “Người nữ xấu xa này, ta chịu cực khổ giặt nhuộm cắt may y cho, không ngờ thọ đại giới xong lại bỏ ta mà đi”, quở trách rồi đem việc này bạch Phật, Phật do việc này nhóm hai bộ Tăng bảo rằng: “Từ nay cho Tỳ-kheo-ni hai năm theo Hòa thượng ni. Do 1o lợi nên kết giới cho Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni thọ đại giới rồi mà không hai năm theo Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni thọ đại giới rồi mà không hai năm theo Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề, tùy không theo Hòa thượng ni bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Bốn: Nuôi Chúng Mà Không Cho Tài Pháp Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng mà không cho tài pháp, các đệ tử hỏi: “Vì sao thầy không cho tài pháp?”, đáp: “Ta không muốn cho tài pháp”, các đệ tử nói: “Nếu thầy không cho tài pháp thì chúng con sẽ đi chỗ khác”, Thâu-la-nan-đà nói: “Phật kết giới nếu các cô không theo ta hai năm mà đi chỗ khác thì phạm Ba-dật-đề”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni nuôi đệ tử mà không cho tài pháp”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi đệ tử mà không cho tài pháp thì phạm Ba- dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi đệ tử mà không cho tài pháp thì phạm Ba-dật-đề, tùy không cho bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Lăm: Nuôi Chúng Là Dâm Nữ Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là dâm nữ, ni dâm nữ này sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, có cư só gặp nói rằng: “Tôi đã từng cùng Tỳ-kheo-ni này làm việc như vậy như vậy”, ni này nghe rồi trong lòng không vui, bạch các ni, các ni bạch Phật, Phật do việc này nhóm hai bộ Tăng rồi hỏi Thâu-la-nan-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuôi chúng là dâm nữ. Từ nay không cho nuôi chúng là dâm nữ, nếu có nhân duyên nuôi thì nên đưa đi đến chỗ cách xa chỗ cũ năm, sáu do tuần”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là dâm nữ mà không dẫn đi đến chỗ cách xa chỗ cũ năm, sáu do tuần thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là dâm nữ mà không dẫn đi đến chỗ cách xa chỗ cũ năm, sáu do tuần thì phạm Ba-dật-đề; tùy không đưa đi xa bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Sáu: Nuôi Chúng Là Đồng Nữ Chưa Đủ Hai Mươi Tuổi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là đồng nữ chưa đủ hai mươi tuổi. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuôi chúng là đồng nữ chưa đủ hai mươi tuổi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ chưa đủ hai mươi tuổi thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ chưa đủ hai mươi tuổi thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Bảy: Tuy Đủ Hai Mươi Tuổi Nhưng Chưa Làm Yết Ma Thuộc Hòa Thượng Ni Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là đồng nữ đủ hai mươi tuổi, nhưng chưa làm yết ma thuộc Hòa thượng ni. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ đủ hai mươi tuổi mà không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni”, quở trách rồi bảo các Tỳ- kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ đủ hai mươi tuổi mà không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ đủ hai mươi tuổi mà không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Tám: Nuôi Chúng Là Hiếu Nữ Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là hiếu nữ; người này không tụng kinh, không hỏi đáp cũng không tọa thiền nên các ni hỏi: “Vì sao cô không tụng kinh, ngồi thiền?”, đáp: “Cha mẹ anh em… của tôi chết, tôi đau buồn làm sao có thể đọc kinh, hỏi đáp, ngồi thiền”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuôi chúng là hiếu nữ”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là hiếu nữ thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là hiếu nữ thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Mười Chín: Nuôi Chúng Là Người Có Con Cái Tự Theo Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là người nữ có con trai, con gái tự theo. Người nữ sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực thì có con trai con gái trước sau vây quanh, các cư só nói với nhau: “Các vị biết không, Sa-môn Thích tử là người dâm dục cùng với Tỳ-kheo-ni nên ở trong Tăng phường sanh con đẻ cái”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuôi chúng là người nữ có con trai, con gái tự theo”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ có con trai, con gái tự theo thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ có con trai, con gái tự theo thì phạm Ba-dật-đề; tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Hai Mươi: Nuôi Chúng Là Người Nữ Tánh Ác Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là người nữ tánh ác. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuôi chúng là người nữ tánh ác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ tánh ác thì phạm Ba-dật- đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ tánh ác thì phạm Ba-dật-đề; tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Hai Mươi Mốt: Nuôi Đồng Nữ Hai Mươi Tuổi Không Cho Hai Năm Học Sáu Pháp Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là đồng nữ hai mươi tuổi mà không cho hai năm học sáu pháp. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ hai mươi tuổi mà không cho hai năm học sáu pháp”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ hai mươi tuổi mà không cho hai năm học sáu pháp thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ hai mươi tuổi mà không cho hai năm học sáu pháp thì phạm Ba-dật- đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Lúc đó các Tỳ- kheo-ni không biết sáu pháp là gì, Phật nói: “Đó là bốn pháp Ba-la-di và hai pháp bất cọng Ba-la-di là lậu tâm xúc chạm và lậu tâm làm đủ tám việc”. Pháp Một Trăm Hai Mươi Hai: Tuy Cho Hai Năm Học Sáu Pháp Nhưng Không Làm Yết Ma Thuộc Hòa Thượng Ni Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà nuôi chúng là đồng nữ hai mươi tuổi tuy cho hai năm học sáu pháp, nhưng không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ hai mươi tuổi tuy cho hai năm học sáu pháp, lại không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ hai mươi tuổi tuy cho hai năm học sáu pháp, nhưng không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là đồng nữ hai mươi tuổi tuy cho hai năm học sáu pháp, nhưng không làm yết ma thuộc Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề; tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. <卷>QUYỂN 46 LUẬT NI (Tiếp Theo) IV. MỘT TRĂM BẢY MƯƠI TÁM PHÁP BA DẬT ĐỀ (Tiếp Theo) Pháp Một Trăm Hai Mươi Ba: Trả Công Mới Độ Cho Xuất Gia Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt thường ra vào nhà người, vợ của một cư só nói: “Cô hãy độ cho tôi xuất gia”, đáp: “Nếu bà cúng dường y bát, bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược thì tôi sẽ độ cho bà xuất gia”, vợ cư só nói: “Phải trả công, cô mới độ cho xuất gia hay sao”, đáp là đúng vậy. Sau đó có một thiện Tỳ-kheo-ni đến nhà này, vợ cư só hỏi: “Phải trả công, các cô mới độ cho xuất gia phải không?”, liền hỏi là ai nói lời này, đáp: “Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt nói với tôi rằng: “Nếu bà cúng dường y bát, bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược thì tôi sẽ độ cho bà xuất gia”. Có Tỳ-kheo- ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nói với vợ cư só rằng: “Bà cúng dường y bát, bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược thì tôi sẽ độ cho bà xuất gia”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nói rằng: “Nếu bà cúng dường y bát, bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược thì tôi sẽ độ cho bà xuất gia” thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nói rằng: “Nếu bà cúng dường y bát… thì tôi sẽ đô bà” thì phạm Ba-dật-đề, tùy nói và được vật thực bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Hai Mươi Bốn: Phu Chủ Không Cho Mà Độ Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có vợ của một cư só vì không nghe lời chồng nên bị đánh đuổi ra khỏi nhà, bà liền đến chỗ Tỳ-kheo-ni quen biết thường lui tới nhà bà, người chồng cũng có việc phải đi đến tụ lạc khác, nghó là vợ mình sẽ không bỏ đi luôn, không ngờ về nhà tìm không thấy. Người biết vợ mình sẽ tìm đến chỗ Tỳ-kheo-ni quen biết, nghó là chỉ ở đó một thời gian rồi sẽ trở về nhà, nên không tìm kiếm nữa. Người vợ ở được năm, sáu ngày liền nói với Tỳ-kheo-ni: “Cô hãy độ cho tôi xuất gia”, ni đáp: “Chồng bà còn đó, làm sao độ được”, người vợ nói: “Chồng tôi không cần tôi nữa, nếu cần tôi, ông đã đến đây tìm hoặc sai người đến tìm”, Tỳ-kheo-ni nghe rồi liền độ cho xuất gia. Người chồng nghe tin vợ mình đã xuất gia liền nổi giận đến nói với Tỳ-kheo-ni: “Cô là người xấu, đã phá gia đình tôi”, ni hỏi: “Vì sao ông nói tôi đã phá gia đình ông”, đáp: “Vì cô đã độ vợ tôi làm Tỳ-kheo-ni”, ni nói: “Nếu đây là vợ ông thì ông hãy dẫn về đi”, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại độ vợ người, khi người chồng chưa cho, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo- ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại độ vợ người, khi người chồng chưa thuận cho”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ mà chủ không thuận cho, thì phạm Ba-dật-đề . Chủ không thuận cho có ba: Một là nếu người nữ chưa gả thì chủ là cha mẹ không cho; hai là người nữ tuy được gả nhưng chưa về nhà chồng, thì chủ là hai bên không cho; ba là người nữ đã gả về nhà chồng, thì chủ là người chồng không cho. Trường hợp này phu chủ không cho mà độ cho xuất gia thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni nuôi chúng là người nữ mà phu chủ không cho thì phạm Ba-dật-đề, tùy nuôi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Hai Mươi Lăm: Hứa Thu Nhận Làm Chúng Mà Không Thu Nhận Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt có nuôi một Thức-xoa-ma-na đáng được thọ đại giới, ni Thi-việt-sa gặp Thức-xoa-ma-na này liền hỏi: “Vì sao cô không thọ đại giới?”, đáp: “Thầy con tánh ác, ưa thích tranh cải, con không muốn theo cầu thọ đại giới; nhưng nếu cô làm Hòa thượng ni thì con sẽ cầu thọ đại giới”, Thi-việt sa nói: “Nếu cô đủ hai năm học sáu pháp thì tôi sẽ thu nhận làm chúng”, liền đáp: “Như lời cô đã nói, nay con đã đủ hai năm học sáu pháp rồi, cô nên thu nhận con”, Thi-việt-sa nói: “Tôi không thể thu nhận cô, vì sao, vì thầy cô tánh ác, ưa thích tranh cải, có thể tự làm hại người khác hoặc bảo người khác làm hại”, Thức-xoa-ma-na nói: “Nếu cô không thể thu nhận con sao lại nói với con rằng: “Nếu cô đủ hai năm học sáu pháp thì tôi sẽ thu nhận làm chúng”. Nếu cô không hứa thì con đã không nói là con đã đủ hai năm học sáu pháp”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni hứa với ni khác: “Nếu cô đủ hai năm học sáu pháp thì tôi sẽ thu nhận làm chúng”, mà lại không thu nhận”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đã hứa với ni khác: “Nếu cô đủ hai năm học sáu pháp thì tôi sẽ thu nhận làm chúng”, mà lại không thu nhận thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni hứa với ni khác: “Nếu cô đủ hai năm học sáu pháp thì tôi sẽ thu nhận làm chúng”, mà lại không thu nhận thì phạm Ba-dật-đề; tùy hứa mà không thu nhận làm chúng bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Hai Mươi Sáu: Mỗi Năm Đều Độ Đệ Tử Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà mỗi năm đều độ đệ tử rồi nói với các đệ tử rằng: “Hễ ta vào nhà nào thì các cô đều cứ theo ta mà vào nhà đó; ta được gì thì các cô cũng được cái đó”. Sau đó Thâu-la-nan-đà đắp y mang bát vào một nhà khất thực, được đầy bát mang ra; các đệ tử liền lần lượt hết người này đến người khác mang bát vào nhà đó và được đầy bát mang ra. Chủ nhà đóng cửa không cho nữa và nói rằng: “Ai có thể cho các Tỳ-kheo-ni không tốt này thức ăn nữa chứ”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại mỗi năm đều độ đệ tử”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni mỗi năm đều độ đệ tử thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni mỗi năm đều độ đệ tử thì phạm Ba-dật-đề, tùy mỗi năm độ bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Không phạm là cách năm độ 1 hay hai người . Pháp Một Trăm Hai Mươi Bảy: Cách Đêm Tác Yết Ma Thuộc Hòa Thượng Ni Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có nữ Ca-tỳ-la tên là Bạt-đà xuất gia làm Tỳ-kheo-ni, nuôi một Thức-xoa-ma-na đáng được thọ đại giới. Trước nay trưởng lão A-nan thường giúp các Tỳ-kheo-ni thỉnh Thập sư truyền thọ đại giới, hôm đó A-nan trước ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực, ni Bạt-đà vừa nhìn thấy liền đến trước đảnh lễ rồi bạch rằng: “Trưởng lão A-nan, con có nuôi một Thức-xoa-ma-na đáng được thọ đại giới, xin trưởng lão giúp con thỉnh Thập sư”, A-nan hỏi: “Ni tăng đã tác yết ma thuộc Hòa thượng ni chưa?”, đáp là đã tác yết ma rồi, liền hỏi là tác lúc nào, đáp là hôm qua. A-nan im lặng nhận lời, ni Bạt-đà biết A-Nan-đã nhận lời liền đảnh lễ rồi đi. A-nan khất thực xong trở về, ăn xong liền cầm khóa cửa đi đến các phòng để thỉnh Thập sư. Phật từ xa nhìn thấy liền hỏi A-nan: “Thầy cầm khóa cửa đi đến các phòng làm gì?”, đáp: “Ni Bạt-đàø có nuôi một Thức-xoa-ma-na đáng được thọ đại giới nên đã nhờ con thỉnh giúp Thập sư, vì vậy con mới cầm khóa cửa đi đến các phòng”, Phật hỏi: “Ni tăng đã tác yết ma thuộc Hòa thượng ni chưa?”, đáp là đã tác hôm qua, Phật hỏi: “Ni tăng đã cách đêm tác yết ma thuộc Hòa thượng ni hay sao?”, đáp là phải. Phật vì việc này nhóm hai bộ Tăng rồi hỏi ni Bạt-đà: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp; “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại cách đêm tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cách đêm tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm trong giới này là tùy cách đêm tác pháp cho bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Văn đăng đàn thọ đại giới Lúc đó các Tỳ-kheo-ni không biết pháp đang đàn thọ đại giới như thế nào, Phật bảo: “Pháp đang đàn thọ đại giới như sau : Tỳ-kheo-ni dẫn Thức-xoa-ma-na vào trong Tăng bảo theo thứ lớp đảnh lễ Tăng, kế dạy pháp thọ y, nên hỏi: “Y này có phải là của con có hay không?”, đáp là của con có, nên nói: “Con hãy theo theo ta”: Con tên là y Tăng-già-lê này có chín điều là y cắt rọc (chưa cắt rọc), y này nay con xin thọ trì. (3 lần) Kế hỏi: “Y này có phải là của con có hay không?”, đáp là của con có, nên nói: “con hãy nói theo ta”: Con tên là y Uất-đa-la-tăng này có bảy điều là y cắt rọc (chưa cắt rọc), y này nay con xin thọ trì.(3 lần) Kế hỏi giống như trên và bảo: “con hãy nói theo ta”: Con tên là y An-đà-hội này có năm điều là y cắt rọc (chưa cắt rọc), y này nay con xin thọ trì. (3 lần) Nếu là mạn y Tăng-già-lê thì nên nói: “Mạn y Tăng-già-lê này, con xin thọ trì”; nếu là mạn y Uất-đa-la-tăng thì nên nói: “Mạn y Uất- đa-la-tăng này, con xin thọ trì”; nếu là mạn y An-đà-hội thì nên nói: “Mạn y An-đà-hội này, con xin thọ trì”. Kế hỏi: “Y phú kiên này có phải là của con có hay không?”, đáp là của con có, nên bảo: “Hãy nói theo ta”: Con tên là y phú kiên này dài bốn khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay rưỡi, con xin thọ trì (3 lần). Kế hỏi: “Y Quyết tu la này có phải là của con có hay không?”, đáp là của con có, nên bảo: “Hãy nói theo ta”; Con tên là y Quyết tu la này dài bốn khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay rưỡi, con xin thọ trì (3 lần) Kế hỏi: “Bát-đa-la này có phải là của con có hay không?”, đáp là của con có, nên bảo: “con hãy nói theo ta”: Con tên là Bát-đa-la ứng lượng khí này nay con xin thọ để dùng lâu dài. (3 lần). Dạy thọ y bát xong, kế dạy thỉnh Hòa thượng ni: Con Thức-xoa-ma-na tên cầu đại đức ni làm Hòa thượng ni, xin đại đức ni làm Hòa thượng ni cho con, con nương theo Hòa thượng ni để theo Tăng xin tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni. Xin thương xót (3 lần). Giới sư nên hỏi Hòa thượng ni: “Đại đức ni có thể làm Hòa thượng cho giới tử này không?”, đáp là có thể, giới sư nên dẫn người thọ giới đến chỗ chỉ thấy mà không nghe ở trong giới tràng, rồi trở lại trong Tăng xướng: “Chúng tăng hòa hợp nhóm, ai có thể là giáo thọ sư cho giới tử này?”, nếu trong Tăng có người đáp là có thể thì Tăng nên xét người này nếu có đủ năm pháp thì không nên cử làm giáo thọ sư, đó là vì yêu mà dạy, vì sân mà dạy, vì sợ mà dạy, vì si mà dạy và không biết dạy hay không dạy. Ngược lại nếu có năm pháp thành tựu thì nên cử làm giáo thọ sư, đó là không vì yêu mà dạy, không vì sân mà dạy, không vì sợ mà dạy, không vì si mà dạy và biết dạy hay không dạy. Kế xướng rằng: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Thức-xoa-ma-na này tên theo Hòa thượng ni cầu thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo-ni làm giáo thọ sư. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay cử Tỳ-kheo-ni làm giáo thọ sư để dạy giới tử tên . Bạch như thế. Như thế bạch nhị yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận cử Tỳ- kheo-ni làm giáo thọ sư để dạy cho giới tử xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Lúc đó Giáo thọ sư đến chỗ giới tử bảo quỳ gối chắp tay rồi nói: “Giới tử tên lắng nghe, nay là giờ phút chí thành, là giờ phút nói thật, lát nữa ở trong Tăng cũng sẽ hỏi như thế, nếu thật thì con nên nói là thật, nếu không thật thì nên nói là không thật. Ta nay hỏi con: Con có phải là người nữ không, có phải là người không, không phải là phi nhân phải không, không phải là súc sanh biến hình phải không? Nếu là người nữ thì trên nữ căn có lông không, có khô hoại không, không có mắc bịnh lậu phải không, không có hai đường hợp một phải không, không phải là người nữ không thể sinh sản được phải không, không phải là không có vú phải không, thủy nguyệt có thường ra hay không, không phải là không có nguyệt kî phải không? Con không phải là nô tỳ phải không? Con không phải là người làm thuê cho người phải không? Con không phải do mua mà được phải không? Con không phải do quân binh đánh phá mà bắt được phải không? Con không phải là vợ của quan nhân phải không? Con không phạm tội quan phải không? Con không có mắc nợ người phải không? Người nữ có những bịnh như bịnh lại, bịnh lậu, ung thư, càn tiêu, điên cuồng…, gần đây con có mắc những bịnh như thế không? Cha mẹ, phu chủ của con còn không, họ có cho phép con xuất gia không? Năm y và bát có đủ không? Tên của con là gì? Hòa thượng ni của con hiệu là gì? Giáo thọ sư hỏi xong nên trở vào trong Tăng bạch rằng: “Thức- xoa-ma-na tên . Tôi đã hỏi xong các giá nạn”, yết ma sư nói: “Nên thanh tịnh thì dẫn vào”, Giáo thọ sư dẫn vào rồi bảo đảnh lễ Ni tăng, kế dạy theo Tăng xin tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni như sau: Con Thức-xoa-ma-na tên theo Hòa thượng ni muốn cầu thọ giới cụ túc, nay con theo Tăng xin tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni. Xin Tăng thương xót tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni cho con, con tên nương Hòa thượng ni cầu thọ giới cụ túc. Xin thương xót (3 lần). Yết ma sư ở trong Tăng tác bạch như sau: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Thức-xoa-ma-na tên theo Hòa thượng ni muốn cầu thọ giới cụ túc, theo Tăng xin tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tôi nay ở trong Tăng hỏi Thức-xoa-ma-na tên các pháp chướng đạo.Bạch như vậy. Tác bạch rồi hỏi: “Giới tử tên lắng nghe, nay là giờ phút chí thành, là giờ phút nói thật, nay ta ở trong Tăng hỏi con các pháp chướng đạo, nếu thật thì con nên nói là thật, nếu không thật thì nên nói là không thật. Ta nay hỏi con: Con có phải là người nữ không, có phải là người không, không phải là phi nhân phải không, không phải là súc sanh biến hình phải không? Nếu là người nữ thì trên nữ căn có lông không, có khô hoại không, không có mắc bịnh lậu phải không, không có hai đường hợp một phải không, không phải là người nữ không thể sinh sản được phải không, không phải là không có vú phải không, thủy nguyệt có thường ra hay không, không phải là không có nguyệt kî phải không? Con không phải là nô tỳ phải không? Con không phải là người làm thuê cho người phải không? Con không phải do mua mà được phải không? Con không phải do quân binh đánh phá mà bắt được phải không? Con không phải là vợ của quan nhân phải không? Con không phạm tội quan phải không? Con không có mắc nợ người phải không? Người nữ có những bịnh như bịnh lại, bịnh lậu, ung thư, càn tiêu, điên cuồng…, gần đây con có mắc những bịnh như thế không? Cha mẹ, phu chủ của con còn không, họ có cho phép con xuất gia không? năm y và bát có đủ không? Tên của con là gì? Hòa thượng ni của con hiệu là gì?”, đợi đáp đầy đủ rồi bảo giới tử im lặng, yết ma sư tác bạch yết ma: Đại đức Ni tăng lắng nghe, Thức-xoa-ma-na này tên theo Hòa thượng ni muốn cầu thọ giới cụ túc, đã theo Tăng xin tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni, Hòa thượng ni là . Thức-xoa- ma-na này tự nói thanh tịnh, không có các pháp chướng đạo, năm y và bát đầy đủ. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni cho Thức-xoa-ma-na tên , Hòa thượng ni là . Bạch như vậy. Đại đức Ni tăng lắng nghe, Thức-xoa-ma-na này tên theo Hòa thượng ni muốn cầu thọ giới cụ túc, đã theo Tăng xin tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni, Hòa thượng ni là . Thức-xoa- ma-na này tự nói thanh tịnh, không có các pháp chướng đạo, năm y và bát đầy đủ. Trưởng lão ni nào chấp thuận tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni cho Thức-xoa-ma-na tên , Hòa thượng ni là thì im lặng; ai không chấp thuận thì nói. Đây là yêt ma lần thứ nhất. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận tác pháp yết ma thuộc Hòa thượng ni cho Thức-xoa-ma-na tên , Hòa thượng ni là xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lạêng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Yết ma sư bảo giới tử: Này giới tử, nếu có ai hỏi cô được mấy tuổi hạ, nên đáp là chưa có tuổi hạ; nếu hỏi thọ giới vào lúc nào, nên đáp là mùa đông hoặc mùa xuân, mùa hạ, có nhuần hay không nhuần. Đây là thời tiết, giới tử nên trọn đời ghi nhớ. Kế nói về ba pháp y: Giới tử tên lắng nghe, đây là tri kiến của Phật Bà-già-bà, Thích-ca-mâu-ni Đa-đà-a-già-độ A-la-ha-tam-miệu-tam Phật đà nói ra ba pháp y cho người thọ giới cụ túc. Tỳ-kheo-ni nương theo ba pháp y này được xuất gia thọ giới cụ túc thành pháp Tỳ-kheo-ni: Một là nương y phấn tảo, Tỳ-kheo-ni được xuất gia thọ giới cụ túc thành pháp Tỳ-kheo-ni. Nếu thọ thêm y bằng vải gai trắng, hoặc gai đỏ hoặc y Kiều-thi-na, Súy-di-la, Khâm-bạt-la, Kiếp-bối… các loại y thanh tịnh khác thì con có thể nương y phấn tảo thọ dụng trọn đời hay không?. Nếu được thì đáp là được. Hai là nương pháp khất thực, Tỳ-kheo-ni được xuất gia thọ giới cụ túc thành pháp Tỳ-kheo-ni. Nếu thọ thêm thức ăn đã nấu chín hoặc thức ăn ngon vào những ngày trai như mồng tám, hai mươi ba, mười bốn, mười lăm, hai mươi chín, ba mươi, mồng một, hoặc thức ăn của tăng, hoặc ăn trong phòng riêng hoặc thọ người thỉnh thực… những thức ăn thanh tịnh như thế thì con có thể nương pháp khất thực thọ dụng trọn đời hay không?. Nếu được thì đáp là được. Ba là nương loại dược cũ bỏ (Trần khí dược), Tỳ-kheo-ni được xuất gia thọ giới cụ túc thành pháp Tỳ-kheo-ni. Nếu thọ thêm bốn loại dược hàm tiêu là tô, dầu, mật, thạch mật; bốn loại mỡ tịnh là mỡ gấu, mỡ lừa, mỡ heo, mỡ cá; năm loại dược từ củ như củ gừng, xích phu tử, ba-đề, bệ-sa, xương-bồ; năm loại dược từ quả như Ha-lê-lặc, Tỳ-diêm- lặc, A-ma-lặc, hồ-tiêu, Tất-bạt-la; năm loại muối là muối đen, muối trắng, muối tía, muối đỏ, muối đất; năm loại thuốc thang nấu từ củ, cọng, lá, hoa, quả; năm loại thuốc từ nhựa cây là hưng cừ, tát-xà-la-tát- đế, dịch-đế, dịch-đề-đế, dịch-bà-na… các loại dược thanh tịnh như thế thì con có thể nương loại dược cũ bỏ thọ dụng trọn đời hay không?. Nếu được thì đáp là được. Giới tử tên lắng nghe, đây là tri kiến của Phật Bà-già-bà, Thích-ca-mâu-ni Đa-đà-a-già-độ A-la-ha-tam-miệu-tam Phật đà nói ra tám pháp Đọa cho Tỳ-kheo-ni thọ giới cụ túc. Tỳ-kheo-ni đối với tám pháp Đọa này nếu phạm một pháp nào thì không phải là Tỳ-kheo-ni, không phải là Sa-môn ni, không phải là Thích nữ mất pháp Tỳ-kheo-ni. Như cây Đa-la bị chặt ngọn thì không thể sanh trưởng, không tươi tốt, không cao lớn, không rộng mát. Tỳ-kheo-ni cũng như thế, đối với tám pháp Đọa này nếu phạm một pháp nào thì không phải là Tỳ-kheo-ni… mất pháp Tỳ-kheo-ni. tám pháp đọa là: Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách Dục, dục tưởng, dục dục, dục giác, dục nhiệt; Phật dạy nên đoạn dục, trừ dục tưởng và diệt dục nhiệt. Nếu Tỳ-kheo-ni đã thọ giới pháp rồi, không xả giới, giới suy kém, không phát lồ mà làm pháp dâm dục cho đến cùng với súc sanh thì người này không phải là Tỳ-kheo-ni… mất pháp Tỳ-kheo-ni. Đối với pháp Đọa thứ nhất này trọn đời không được làm, con có thể giữ được không?. Nếu được thì đáp là được. Phật dùng đủ cách quở trách không cho mà lấy, khen ngợi không trộm cắp từ một sợi chỉ, một cây kim… cho đến năm tiền hoặc vật trị giá năm tiền. Tỳ-kheo-ni nếu không cho mà lấy, vì việc này hoặc bị bắt, bị trói hoặc bị đuổi ra khỏi nước và bị mắng là kẻ giặc thì người này không phải là Tỳ-kheo-ni… mất pháp Tỳ-kheo-ni. Đối với pháp Đọa thứ hai này trọn đời không được làm, con có thể giữ được không?. Nếu được thì đáp là được. Phật dùng đủ cách quở trách đoạn mạng người, khen ngợi không đoạn mạng cho đến một con kiến cũng không cố ý đoạn mạng huống chi là người. Nếu Tỳ-kheo-ni tự tay cố ý đoạn mạng người, hoặc sai người cầm dao giết, hoặc khuyên chết, khen chết nói rằng: “chao ôi trượng phu, sống tồi tệ như thế thì sống làm gì, thá chết còn hơn”, tùy tâm suy nghó mà dùng đủ cách khuyến khích xúi giục hoặc khen ngợi cái chết hoặc đào hầm, đặt bẩy… làm cho chết; hoặc dùng cách Tỳ-đà- la, bán Tỳ-đà-la để giết; hoặc làm đọa thai, hoặc đẩy vào lửa, hoặc xô xuống nước hoặc đẩy từ trên cao xuống cho chết… cho đến thai trong bụng mẹ mới được hai căn là thân căn và mạng căn cũng muốn làm cho chết thì người này không phải là Tỳ-kheo-ni… mất pháp Tỳ-kheo-ni. Đối với pháp Đọa thứ ba này trọn đời không được làm, con có thể giữ được không?. Nếu được thì đáp là được. Phật đủ cách quở trách vọng ngữ, khen ngợi không vọng ngữ, cho đến đùa giỡn cũng không được vọng ngữ huống chi là cố ý vọng ngữ. Nếu Tỳ-kheo-ni tự biết mình không có pháp hơn người mà tự khen mình là được quả A-la-hán, A-la-hán hướng… Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hoàn hướng; hoặc tự khen mình chứng được Sơ thiền… tứ thiền; hoặc tự khen mình đã được pháp Từ bi hỷ xả, được định Không vô biên xứ…; được pháp quán bất tịnh, A-na-ban-na niệm; chư thiên đến chỗ tôi, trời rồng… đến chỗ tôi, tôi nói chuyện với họ… những việc như thế vốn không có mà cố ý vọng ngữ thì người này không phải là Tỳ-kheo-ni… mất pháp Tỳ-kheo-ni. Đối với pháp Đọa thứ tư này trọn đời không được làm, con có thể giữ được không? Nếu được thì đáp là được. Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách Dục, dục tưởng, dục dục, dục giác, dục nhiệt; Phật dạy nên đoạn dục, trừ dục tưởng và diệt dục nhiệt. Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm xúc chạm vuốt ve thuận hay nghịch từ đầu tóc trở xuống, từ đầu gối trở lên, từ cổ tay trở ra, bỏ y, hoặc kéo hoặc đẩy hoặc đè hoặc bóp, hoặc nâng lên hoặc để xuống thì Tỳ-kheo-ni phạm tội này không còn gọi là Tỳ- kheo-ni, chẳng phải là Sa-môn ni, không phải là Thích chủng nữ, mất pháp Tỳ-kheo-ni. Đối với pháp đọa thứ năm này reọn đời không được làm, con có thể giữ được không?. Nếu được thì đáp là được. Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách Dục, dục tưởng, dục dục, dục giác, dục nhiệt; Phật dạy nên đoạn dục, trừ dục tưởng và diệt dục nhiệt. Nếu Tỳ-kheo-ni có lậu tâm thuận cho người nam có lậu tâm nắm tay, nắm y, cùng đứng, cùng nói chuyện, cùng hẹn hò, vào chỗ khuất, đời người nam đến, tất cả giống như người nữ bạch y, đủ tám việc này biểu hiện tướng tham ái thì Tỳ-kheo-ni phạm tội này không còn gọi là Tỳ-kheo-ni, chẳng phải là Sa-môn ni, không phải là Thích chủng nữ, mất pháp Tỳ-kheo-ni. Đối với pháp Đọa thứ sáu này trọn đời không được làm, con có thể giữ được không?. Nếu được thì đáp là được. Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách tri thức ác, bạn đảng ác; khen ngợi thiện tri thức, thiện hữu. Nếu Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo khác phạm tội Thô mà che giấu cho đến một đêm. Tỳ-kheo-ni này biết Tỳ- kheo-ni kia hoặc đã thối thất, hoặc đang trụ, hoặc bị tẫn, hoặc bỏ đi; sau đó mới nói rằng: “Trước đây tôi cũng biết Tỳ-kheo-ni này phạm hạnh bất tịnh như thế như thế, nhưng tôi không muốn nêu ra, cũng không muốn bạch cho Tăng biết. Vì sợ có người nói rằng em bêu xấu chị”thì Tỳ-kheo-ni phạm tội này không còn gọi là Tỳ-kheo-ni, chẳng phải là Sa-môn ni, không phải là Thích chủng nữ, mất pháp Tỳ-kheo-ni. Đối với pháp Đọa thứ bảy này trọn đời không được làm, con có thể giữ được không?. Nếu được thì nói là được. Phật Thế tôn đủ nhân duyên quở trách ác tri thức, bạn đảng ác; khen ngợi thiện hữu tri thức. Nếu Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo này, Tăng nhất tâm hòa hợp đã như pháp tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt mà còn làm hạnh tùy thuận. Các Tỳ-kheo-ni nên can ngăn Tỳ-kheo-ni này rằng: “Tỳ-kheo này, Tăng nhất tâm hòa hợp đã như pháp tác yết ma Bất kiến tẫn, một mình không có hai, không bè bạn, không thôi dứt. Cô không được làm hạnh tùy thuận”. Khi các Tỳ-kheo-ni can ngăn như vậy mà Tỳ-kheo-ni này vẫn chấp chặt không chịu bỏ việc làm này thì các Tỳ-kheo-ni nên can ngăn đến lần thứ ba, nếu chịu bỏ thì tốt; nếu không chịu bỏ thì Tỳ-kheo-ni phạm tội này không còn gọi là Tỳ-kheo-ni, chẳng phải là Sa-môn ni, không phải là Thích chủng nữ, mất pháp Tỳ-kheo-ni. Đối với pháp Đọa thứ tám này trọn đời không được làm, con có thể giữ được không?. Nếu được thì nói là được. Giới tử lắng nghe, từ nay trở đi con nên dùng tâm nhu hòa dễ dạy, tùy thuận lợi dạy bảo của Giáo thọ sư. Nay con đã thọ giới xong, Con đã có đủ Hòa thượng ni, A-xà-lê ni, đầy đủ Ni tăng, đủ hành xứ, quốc độ, đủ nguyện của Chuyển luân thánh vương…, từ nay con nên cung kính Tam bảo Phật pháp tăng; nên cung kính Hòa thượng, A-xà-lê và các bậc thượng trung hạ tòa. Nên siêng học ba môn học là thiện giới học, thiện định học và thiện huệ học. Nên tu ba môn giải thoát là không vô tướng, vô tác. Nên siêng tu ba nghiệp, tọa thiền, tụng kinh và khuyến hóa làm phước hạnh. Đây là pháp mở cửa Niết bàn để được quả Tu-đà- hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán; giống như hoa sen trong nước ngày càng tươi tốt được nở hoa, con cũng sẽ tăng trưởng đạo pháp giống như vậy. Những giới pháp còn lại Hòa thượng ni, A-xà-lê ni sẽ từ từ giảng rộng cho con. Yết ma sư nói kệ: “Thọ dắc giới cụ túc, Hiểu sâu pháp Phật dạy, Đống châu báu to lớn, Đều thiện, chân, vi diệu. Như nguyện của Thiên vương, Như nguyện của Luân vương, Như nguyện của Diêm vương, Con nay đều đầy đủ, Hãy luôn luôn tinh tấn, Tu tập các pháp lành, Siêng tu hành ba nghiệp, Sẽ mở cửa Cam lồ, Ở trong tất cả pháp, Được trí huệ vô ngại, Như sen ngày tăng trưởng, Thiện căn con cũng vậy. Còn các giới pháp khác, Phật Thế tôn đã chế, Hòa thượng, A-xà-lê, Sẽ rông nói cho con. Đầu mặt đảnh lễ Tăng, Hữu nhiễu vui vẻ đi”. Pháp Một Trăm Hai Mươi Tám: May Áo Tắm Quá Lượng Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó vợ của các cư só trong thành Xá-vệ đến trong sông A-kỳ-la để tắm, thấy có một Tỳ-kheo-ni lỏa thân đã tắm trong đó từ trước liền quở trách: “Người nữ không tốt này thân thô xấu, bụng lớn, vú xệ, cần gì làm Tỳ-kheo-ni, sao không phản giới hoàn tục để làm vợ người”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại lỏa hình tắm trong sông, chỗ đông người tắm. Từ nay cho Tỳ-kheo-ni mặc áo tắm để tắm trong sông”. Lúc đó các Tỳ-kheo-ni liền may sắm áo tắm rộng dài, Phật bảo: “Do mười lợi nên kết giới cho Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni muốn may áo tắm thì nên may đúng kích lượng: Chiều dài năm gang tay của Phật, chiều rộng hai gang ruỡi của Phật. Nếu may quá kích lượng này thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni may áo tắm chiều dài quá kích lượng thì phạm Ba-dật-đề; chiều rộng quá kích lượng cũng phạm Ba-dật-đề; tùy chiều dài hay chiều rộng qua kích lượng bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Hai Mươi Chín: Thường Trao Đổi Y Phục Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt thường trao đổi y phục. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại thường trao đổi y phục”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni thường trao đổi y phục thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy trao đổi bao nhiêu thì phạm Ba- dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi: May Y Quá Năm Đêm Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà có đệ tử tên Thi- việt Sa-lành tốt, ưa thích trì giới nhưng hay quên. Cô chọn được một tấm vải cắt rồi không tự may cũng không nhờ người may, lại bỏ rải rác ở chỗ khác. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni chọn được vải cắt rồi lại không may cũng không nhờ người may mà bỏ rải rác ỏ chỗ khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni may y lâu nhất cho đến năm đêm, quá năm đêm mới may xong thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy quá năm đêm bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi Mốt: Không Xem Lại Năm Y Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt cất chứa nhiều y nên không phân biệt được y nào là y Tăng-già-lê đã thọ trì, y Uất-đa-la-tăng nào đã thọ trì, y An-đà-hội nào đã thọ trì, y phú kiên nào đã thọ trì, y Quyết tu la nào đã thọ trì. Khi có ni hỏi: “Y Tăng- già-lê, Uất-đa-la-tăng… nào của cô đã thọ trì?”, liền đáp: “Chờ một chút để tôi hỏi Hòa thượng ni, A-xà-lê ni và các ni cùng ở chung”, nói rồi liền đến hỏi thì các vị ấy đáp: “Chúng tôi không biết, không nhớ, nghi y nào là của cô đã thọ trì, y nào không phải của cô đã thọ trì”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại chứa nhiều y, không phân biệt được y Tăng- già-lê… nào đã thọ trì”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni chừng năm đêm không xem lại năm y thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không xem lại bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi Hai: Đem Y Cho Bạch Y Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt thường lui tới nhà các cư só, vợ của họ nói với ni rằng: “Hãy cho tôi một đoạn y để thủ hộ cho con tôi”, ni này nghe rồi liền cởi y đưa cho. Thời gian sau có thiện Tỳ-kheo-ni đến nhà, họ cũng xin một đoạn y như lần trước, ni này nói: “Bạch y đáng lẽ phải cho chúng tôi, sao lại bảo chúng tôi cho. Chúng tôi thọ y từ người khác, nếu đem cho lại bạch y là hoại sự cúng dường”, vợ các cư só nói: “Cô thật xẻn tiếc, Tỳ-kheo-ni trước, tôi chỉ xin một đoạn y mà cởi y đưa cho”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đem y của mình đưa cho bạch y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đem y cho bạch y thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy cho bao nhiêu thì phạm Ba-dật- đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi Ba: Nguyệt Bịnh Dứt Mà Không Bỏ Bịnh Y Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Thâu-la-nan-đà nguyệt bịnh đã dứt, giặt bịnh y sạch rồi lại không muốn bỏ cho người khác. Tỳ-kheo-ni khác có nguyệt bịnh, không có bịnh y nên khổ não. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni nguyệt bịnh đã dứt, giặt bịnh y sạch rồi lại không muốn bỏ cho người khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nguyệt bịnh đã dứt, giặt bịnh y sạch rồi lại không muốn bỏ cho người khác thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không bỏ cho người khác bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Tăng Pháp Một Trăm Ba Mươi Bốn: Ngăn Cúng Dường Y Cho Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một cư só muốn cúng dường y cho Ni tăng, ni Thâu-la-nan-đà thường lui tới nhà này nghe biết được, liền đến hỏi cư só: “Ông thật muốn cúng dường y cho Ni tăng phải không?”, đáp là thật vậy, liền nói: “Ni tăng đã có nhiều y, cất để mục nát mà không thọ dụng”. Cư só này có việc tạm ra ngoài thành, khi trở về tự nghó lại rồi không cúng dường y cho Ni tăng nữa. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ- kheo-ni lại ngăn cư só cúng dường y cho Ni tăng”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni ngăn cư só cúng dường y cho Ni tăng thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy ngăn bao nhiêu thì phạm Ba- dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi Lăm: Hy Vọng Được Y Mong Manh Mà Thọ Y Ca-Hi-Na Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà hy vọng được y mong manh mà lại thọ y Ca-hi-na. Thời gian sau, chúng đánh kiền chùy tập họp để xả y Ca-hi-na thì Thâu-la-nan-đà không đến, Ni tăng sai người đến kêu, liền đáp là không đi, hỏi vì sao không đi, liền đáp: “Y mà tôi mong được lại chưa được”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo- ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni, hy vọng được y mong manh mà lại thọ y Ca-hi-na”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni hy vọng được y mong manh mà lại thọ y Ca-hi-na thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy hy vọng mong manh bao nhiêu mà thọ y Ca-hi-na thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi Sáu: Tăng Xả Y Ca-Hi-Na Mà Không Tùy Thuận Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Ni tăng đánh kiền chùy để xả y Ca- hi-na, ni Ưu-bà-hòa là người đoán sự của tăng lại không đến. Ni tăng sai người đến kêu, bà nói: “Tôi là người đoán sự của Tăng, tại sao không hỏi tôi trước mà liền đánh kiền chùy, vì vậy tôi không đi”, do nhân duyên này nên việc xả y không thành. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi Tăng muốn xả y Ca-hi-na lại không tùy thuận”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi Tăng muốn xả y Ca-hi-na mà không tùy thuận thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không tùy thuận bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi Bảy: Tăng Chia Y Mà Không Tùy Thuận Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Ni tăng đánh kiền chùy để chia y, ni Ưu-bà-hòa là người đoán sự của tăng lại không đến, Ni tăng sai người đến kêu, bà liền nói: “Tôi không đến, cô hãy đi mau, việc làm này là phi pháp, bất chánh, là là, là tùy dục, tùy sân, tùy sợ, tùy si. Tôi là người đoán sự của Tăng, tại sao không có tôi mà lại chia y, vì vậy tôi không đi”, do nhân duyên này việc chia y không thành. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi Tăng chia y lại không tùy thuận”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi Tăng chia y mà không tùy thuận thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không tùy thuận bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi Tám: Tăng Đoán Sự Mà Không Tùy Thuận Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Ni tăng đánh kiền chùy để đoán sự, ni Ưu-bà-hòa là người đoán sự của tăng lại không đến, Ni tăng sai nguời đến kêu, bà liền nói: “Tôi không đến, cô hãy đi mau, việc làm này là phi pháp, bất chánh, là là, là tùy dục, tùy sân, tùy sợ, tùy si. Tôi là người đoán sự của Tăng, tại sao không có tôi mà lại xử đoán, vì vậy tôi không đi”, do nhân duyên này việc xử đoán không thành. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi Tăng đoán sự lại không tùy thuận”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi Tăng đoán sự mà không tùy thuận thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không tùy thuận bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Ba Mươi Chín: Không Dặn Gởi Mà Vào Tụ Lạc Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà không dặn gời người ở phòng khác mà đi vào tụ lạc, sau đó Tăng phường bỗng phát hỏa, các ni ai nấy đều mang y bát của mình ra, có người nói: “Hay mang y bát của Thâu-la-nan-đà ra”, lại có người nói: “Cô ấy tánh xấu, ưa nổi sân, mất thì nói là không mất, cháy thì nói là không cháy”, vì vậy không ai mang ra giúp khiến y bát đều bị cháy hết. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi đi vào tụ lạc lại không nhắn gởi người khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi đi vào tụ lạc mà không nhắn gởi người khác thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không nhắn gởi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bốn Mươi: Tụng Đọc Chú Thuật Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Ca-la vốn là ngoại đạo xuất gia nên bỏ việc đọc tụng kinh, luật, luận mà đọc tụng các chú thuật. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại bỏ việc đọc tụng kinh, luật, luận mà đọc tụng các chú thuật”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni bỏ việc đọc tụng kinh, luật, luận mà đọc tụng các chú thuật thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni đọc tụng chú thuật cho đến một câu kệ thì phạm Ba-dật-đề, một chương cũng phạm Ba- dật-đề, một câu cũng phạm Ba-dật-đề. Không phạm là đọc chú để chữa răng, chú trị đau bụng, chú trị độc hoặc chú để thủ hộ cho được an ổn. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Mốt: Dạy Bạch Y Đọc Tụng Chú Thuật Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Ca-la vốn là ngoại đạo xuất gia bỏ việc đọc tụng kinh, luật, luận mà dạy cho trẻ con bạch y đọc tụng các chú thuật. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại bỏ việc đọc tụng kinh, luật, luận mà dạy cho trẻ con bạch y đọc tụng các chú thuật”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni bỏ việc đọc tụng kinh, luật, luận mà dạy cho trẻ con bạch y đọc tụng các chú thuật thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni đọc tụng chú thuật cho đến một câu kệ thì phạm Ba-dật-đề, một chương cũng phạm Ba- dật-đề, một câu cũng phạm Ba-dật-đề. Không phạm là đọc chú để chữa răng, chú trị đau bụng, chú trị độc hoặc chú để thủ hộ cho được an ổn. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Hai: Làm Việc Nhà Cho Bạch Y Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt thường lui tới nhà người, khi đến, vợ của cư só nhờ cô quét nhà, tưới nước, trải giường tòa, nấu ăn… các việc, ni này đều làm theo lời. Thời gian sau có một thiện Tỳ-kheo-ni đến, vợ cư só cũng nhờ làm giúp các việc như thế, ni này nói: “Tôi đâu phải là nô tỳ mà phục dịch cho cô”, vợ cư só nói: “Cô là người xấu, kiêu mạn, vị ni đến trước đây đều làm giúp cho tôi”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại làm việc nhà cho bạch y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni làm các việc nhà cho bạch y thì phạm Ba-dật- đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni quét nhà cho bạch y thì phạm Ba-dật-đề, tưới rưới… nấu ăn đều phạm Ba-dật-đề, tùy làm bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu nghe theo lời đóng cửa thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Ba: Không Nhắn Gởi Chủ Nhà Mà Bỏ Đi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trong nước nhằm ngày lễ hội, các cư só làm đủ các món ăn ngon thức uống mang đến trong vườn ở ngoài thành để vui chơi ăn uống, chỉ có những người vợ mới cuới ở lại nhà. Những người vợ mới cưới này sợ chồng về hoặc cha mẹ chồng đến nên ở trong ngoài nhà ngoài cửa đều trải giường tòa đẹp chờ đợi họ. Lúc đó ni Thâu-la-nan-đà sáng sớm đắp y mang bát đến trong nhà này, những người vợ mới cưới này thấy ni đến liền đảnh lễ mời ngồi rồi ngồi phía trước nghe thuyết pháp, Thâu-la-nan-đà nói pháp xong rồi nhắm mắt chú nguyện thật lâu, những người này đều đứng dậy bỏ đi, khi ni mở mắt ra thì thấy không còn ai nên hổ thẹn đứng dậy bỏ đi. Gần nhà này có một ngõ hẽm, kẻ xấu rình rập thấy cửa mở liền vào nhà lấy cắp giường tòa đã trải mang đi nên khi những người vợ mới cưới này trở ra thì không thấy giường tòa, cho là Tỳ-kheo-ni đã mang về tinh xá nên sai người đến đòi lại, Tỳ-kheo-ni giận dữ và xấu hổ nên không lui tới nhà này nữa. Sau đó cư só đi chợ thấy người bán giường tòa kia liền đoạt lấy lại rồi sai người đến nói với Tỳ-kheo-ni: “Chúng tôi đã tìm được giường tòa đã mất trước đó, mong cô hãy lui tới nhà”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni vào nhà bạch y ngồi trên giường, không nhắn gởi chủ nhà mà liền bỏ đi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni váo nhà bạch y ngồi trên giường, không nói chủ nhà mà liền bỏ đi thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không nói chủ nhà bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Bốn: Không Hỏi Chủ Nhà Liền Ngồi Trên Giường Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có một đại thần tánh ưa sạch sẽ, thích chỉ trích lỗi của người, khi đi ông dặn vợ: “Các Tỳ-kheo-ni không sạch, mặc y cũ rách nếu vào nhà, chớ cho họ ngồi trên giường của tôi”. Vì thế khi thấy ni Thâu-la-nan-đà đến, người vợ liền nói y lại lời của người chồng cho Thâu-la-nan-đà nghe, ni này nghe rồi liền nổi giận nói: “Dòng họ các ngươi có hơn ta không, nhà các ngươi có hơn ta không, nếu ta không làm Tỳ-kheo-ni thì các ngươi sẽ phải cung cấp hầu hạ ta”, nói rồi liền vén y ngồi lên giường, các cư só quở trách: “Sa- môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức, khi vào nhà không hỏi chủ mà liền ngồi lên giường, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni, khi vào nhà bạch y không hỏi chủ nhà mà liền ngồi lên giường”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni, khi vào nhà bạch y không hỏi chủ nhà mà liền ngồi lên giường thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy ngồi bao nhiêu thì phạm Ba- dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Lăm: Không Bịnh Mà Đi Xe Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trong nước nhằm ngày lễ hội, các cư só làm đủ các món ăn ngon thức uống mang đến trong vườn ở ngoài thành để vui chơi ăn uống. Vợ của các cư só này tắm rửa sạch sẽ, hương thơm thoa thân, trang điểm đẹp đẽ, mặc y phục mới đẹp, trong ngoài đều trang nghiêm. Khi Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt đến nhà này thấy vậy liền là muốn đi đâu, đáp: “Chúng tôi muốn đến trong vường thưởng ngoạn, cô muốn đi theo không?”, đáp là muốn đi, lại hỏi: “Cô muốn đi xe hay đi bộ ?”, đáp: “Tôi là nô tỳ của các bà hay sao mà đi bộ”, vợ cư só nói: “Cô có thể đi xe không?”, đáp: “Các bà đi được, sao tôi lại không đi được”, nói rồi liền cùng đi xe. Trong số các người nữ này, người có chồng vì sợ chồng và cha mẹ chồng nên khi lên xe đều đóng cửa trước cửa sau, còn người chưa có chồng thì để cửa mở; Tỳ-kheo-ni này không có sợ gì nên cũng để cửa mở và nói cười lớn tiếng. Các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại đi xe, giống như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đi xe”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni không bịnh mà đi xe thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không bịnh mà đi xe bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Sáu: Se Kéo Tơ Sợi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo-ni trong tinh xá Vương viên hoặc ở giữa sân, trong giảng đường, trên gò đất đều có người làm việc, hoặc se kéo tơ, hoặc tháo tơ ra để cuộn lại, hoặc đập giũ, hoặc đang quấn cuốn lại thành cuộn tơ. Lúc đó nhiều tướng quân đến trong tinh xá Vương viên thấy rồi liền nói: “Nếu nhà vua nghe thấy việc này thì những y Khâm-bà-la bằng lông thô, lông mịn, lông tạp sắc… cùng một lúc làm đượcc nhiều”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại se kéo tơ”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni se kéo tơ sợi thì phạm Ba-dật-đề Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni se kéo tơ hay quấn cuộn lại đều phạm Ba-dật-đề, tùy se kéo tơ bao nhiêu thì phạm Ba-dật- đề bấy nhiêu; phương tiện muốn làm thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Bảy: Cột Dây Thắt Lưng Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà được chất tiền của người khác, nhét vào trong thắt lưng rồi đi vào trong chợ, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại nhét tiền vào trong thắ lưng, đi vào trong chợ như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại cột dây thắt lưng”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cột dây thắt lưng thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni cột dây thắt lưng thì phạm Ba-dật-đề, nếu làm dây thắt lưng thì phạm Đột-kiết-la, làm cho người khác cột cũng Đột-kiết-la. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Tám: Cầm Dù Vào Nhà Bạch Y Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt cầm dù đi vào nhà người, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại cầm dù đi vào nhà người, như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại cầm dù vào nhà bạch y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cầm dù vào nhà bạch y thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy cầm dù vào nhà ạch y bao nhiêu thi phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bốn Mươi Chín: Rời Trú Xứ Tỳ-Kheo Đi An Cư Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Tu-xà-đa trẻ tuổi đoan chánh, ai cũng muốn nhìn, quen biết lâu với con trai của một trưởng giả tên là Uất đa la, cả hai thường cùng nói chuyện và cùng làm việc. Uất đa la đang ở tụ lạc Bát-đa-la thuộc nước Kiều-tát-la nên Tu-xà-đa rời khỏi trú xứ có Tỳ-kheo để đến nước đó an cư. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo- ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại rời khỏi trú xứ có Tỳ-kheo mà an cư”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni rời khỏi trú xứ có Tỳ-kheo mà an cư thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy rời khỏi bao nhiêu thì phạm Ba- dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi: Không Cầu Ba Việc Tự Tứ Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt an cư xong, không đến trong hai bộ đại tăng cầu ba việc tự tứ nói thấy nghe nghi. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni an cư xong, không đến trong hai bộ đại tăng cầu ba việc tự tứ nói thấy nghe nghi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni an cư xong, không đến trong hai bộ đại tăng cầu ba việc tự tứ nói thấy nghe nghi thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không đến cầu tự tứ bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi Mốt: Không Cầu Giáo Giới Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt mỗi nữa tháng không đến trong Tăng cầu giáo giới. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại mỗi nữa tháng không đến trong Tăng cầu giáo giới”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni mỗi nữa tháng không đến trong Tăng cầu giáo giới thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không cầu bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi Hai: Không Đến Thọ Giáo Giới Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt không bịnh mà không đến thọ giáo giới. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ- kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni không bịnh mà không đến thọ giáo giới”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni không bịnh mà không đến thọ giáo giới thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không đến bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Nếu bịnh thì không phạm.  <卷>QUYỂN 47 LUẬT NI (Tiếp Theo) theo) MỘT TRĂM BẢY MƯƠI TÁM PHÁP BA DẬT ĐỀ (Tiếp Pháp Một Trăm Năm Mươi Ba: Không Hỏi Mà Liền Vào Trong Trú Xứ Tỳ-Kheo Phật tại nước Câu-xá-di, lúc đó Tỳ-kheo Ca-lưu-la-đề-xá qua đời, bảy chị em của thầy đều là Tỳ-kheo-ni tên Thâu-la-nan-đà, Châu-na- nan-đà, Đề xá, Ưu-ba-đề-xá, Thành-đa-đề-xá. Hòa-lê-đề-xá và Lặc- xoa-đa-đề-xá cùng nhau gom củi gỗ hỏa thiêu thân Tỳ-kheo này rồi thu lấy xương cốt xây tháp thờ. Sau đó có Tỳ-kheo tên Ca-đà từ nước Hòa kỳ du hành đến nước Duy-da-ly, giữa đường gặp tháp này liền hỏi là tháp của ai, đáp là tháp của tỳ-kheo Ca-lưu-la-đề-xáù, Tỳ-kheo này liền nói: “Kẻ phàm phu này cần gì xây tháp”, nói rồi liền phá hoại tháp, phá xong trải giường dây ngồi trên đó. Thâu-la-nan-đà nghe Tỳ-kheo Ca đà phá tháp rồi trải giường ngồi trên đó liền nổi giận bảo các em: “Hãy mang dây sắt đến cột Tỳ-kheo dính vào giường”. Tăng phường này gần đường đi, lúc đó trưởng lão Ưu-ba-ly đi ngang qua nghe được lời này liền đến nói với Ca-đà: “Thầy ngồi ở đây, các Tỳ-kheo-ni sẽ đến cột thầy dính vào giường đấy”, đáp: “Nếu họ cột tôi dính vào giường thì từ thân hôi thối này tôi được giải thoát”, Ưu-ba-ly nói: “Thầy tuy được giải thoát nhưng các Tỳ-kheo-ni này sẽ phạm đại tội”, Ca-đà nghe rồi liền nhập định ẩn thân ngay nơi chỗ ngồi, Ưu-ba-ly liền bỏ đi. Khi các Tỳ-kheo-ni này vào đến thì không thấy Tỳ-kheo Ca-đà đâu, sờ vào giường thì cảm thấy còn hơi ấm liền nói với nhau: “Chắc là thợ hớt tóc Ưu-ba-ly thông báo nên thầy ấy bỏ đi rồi”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni này: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ- kheo-ni nơi trú xứ có Tỳ-kheo, ở ngoài cửa không hỏi mà liền vào”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nơi trú xứ có Tỳ-kheo, ở ngoài cửa không hỏi mà liền vào thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy không hỏi mà liền vào bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi Bốn: Ấm Ớ Trả Lời Tỳ-Kheo Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Phật không ở trước Tỳ-kheo-ni kết đồng giới mà ở trước Tỳ-kheo tăng kết đồng giới rồi bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy hãy đến nói lại cho Ni tăng”, nói rồi vào trong thất tọa thiền. Các Tỳ-kheo nói với nhau: “Phật kết đồng giới rồi bảo chúng ta đến nói lại cho Ni tăng, vậy ai có thể đến nói lại cho ni tăng”, lại nói: “Trưởng lão Bạt-đềà có phước đức, có oai lực, danh tiếng vang khắp có thể đến nói lại cho Ni tăng”, nói rồi liền cùng nhau đến chỗ trưởng lão Bạt-đềà nói rằng: “Phật kết đồng giới rồi bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy hãy đến nói lại cho Ni tăng”, nói rồi vào trong thất tọa thiền. Các Tỳ-kheo nói với nhau: “Phật kết đồng giới rồi bảo chúng ta đến nói lại cho Ni tăng, vậy ai có thể đến nói lại cho ni tăng”, lại nói: “Trưởng lão Bạt-đề có phước đức, có oai lực, danh tiếng vang khắp có thể đến nói lại cho Ni tăng”. Vậy nay trưởng lão nên đến trong tinh xá Vương viên nói lại cho các Tỳ-kheo-ni biết”, trưởng lão Bạt-đề im lặng nhận lời, các Tỳ- kheo đảnh lễ hữu nhiễu rồi đi. Sáng hôm sau trưởng lão đắp y mang bát vào thành khất thực, thọ thực xong đến trong tinh xá Vương viên, các Tỳ-kheo-ni thấy trưởng lão từ xa liền đứng dậy nghinh đón mời ngồi. Trưởng lão ngồi rồi bảo tập họp Ni tăng đến nói rằng: “Phật kết đồng giới, nay tôi và các cô cùng thọ trì”, các trưởng lão Tỳ-kheo-ni đều tùy thuận thọ trì, chỉ có Thâu-la-nan-đà ấm ớ không tùy thuận thọ trì. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại ấm ớ trả lời Tỳ-kheo”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni ấm ớ trả lời Tỳ-kheo thì phạm Ba- dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy ấm ớ trả lời bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi Năm: Nói Lời Thô Khủng Bố Người Khác Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Ca-la vốn là ngoại đạo xuất gia hay sân, thích tranh cải. Khi cùng các Tỳ-kheo-ni khác tranh cải, miệng nói ra lời thô để khủng bố người khác như sau: “Vua là người tôi quen biết, là đàn việt của tôi; đại thần , cư só đều là người tôi quen biết, đều là đàn việt của tôi. Tôi đựa vào thế lực của họ để trị cô”, các ni nghe rồi liền sợ hãi. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni khi cùng các Tỳ-kheo- ni khác tranh cải, miệng nói ra lời thô để khủng bố người khác như sau: “Vua là người tôi quen biết, là đàn việt của tôi; đại thần , cư só đều là người tôi quen biết, đều là đàn việt của tôi. Tôi đựa vào thế lực của họ để trị cô”, khiến các ni nghe rồi liền sợ hãi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni khi cùng các Tỳ-kheo-ni khác tranh cải nói lời thô để khủng bố người khác thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy nói lời thô khủng bố người khác bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi Sáu: Hộ Tiếc Cho Nhà Bạch Y Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Thâu-la-nan-đà ưa thích lui tới nhà người, sáng sớm cô đã đến trước nhà họ hoặc đứng trong sân, hoặc đứng nơi cửa lớn, nếu thấy có Sa-môn, Bà-la-môn nào đến khất thực đều nói với họ rằng: “Thức ăn chưa làm xong” hoặc nói “Không có chủ ở nhà”, nói như vậy để ngăn họ khất thực. Những người này do không khất thực được nên quở trách: “Người nữ xấu xa không tốt này hộ tiếc cho nhà người, khiến chúng ta không khất thực được”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại hộ tiếc cho nhà bạch y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni hộ tiếc cho nhà bạch y thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy hộ tiếc cho nhà bạch y bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi Bảy: Thọ Thỉnh Mà Không Ăn Phật tại nước Ca-tỳ-la vệ, lúc đó có Thích Ma-ha-nam thỉnh Phật và hai bộ Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, Thích Ma-ha-nam biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Phật cùng hai bộ Tăng đến nhà ngồi vào chỗ ngồi, Thích Ma-ha-nam tự tay dâng các món ăn ngon ra cúng dường khiến cho tất cả đều được no đủ. Lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt thọ cơm đầy bát rồi chan canh lên nhưng lại không ăn mà ngồi nhìn ngó bốn phía. Thích Ma-ha-nam đi tới lui xem ai ăn, ai không ăn thì thấy Tỳ-kheo-ni này ngồi nhìn bốn phía mà không ăn liền hỏi vì sao không ăn, đáp là đã ăn trước rồi, lại hỏi: “Sao lại còn thọ thức ăn”, liền nói: “Vậy ông hãy mang đi”. Thích Ma-ha-nAm-là người tốt nên không quở trách, nhưng các cư só khác nghe thấy rồi liền quở trách: “Thích Ma-ha-nam cúng dường chúng Tăng như phụng sự Đại gia, Tỳ-kheo-ni sao lại hiện tiền hủy nhục”. Phật từ xa nghe thấy việc này rồi nên sau khi thọ thực xong trở về liền vì việc này nhóm hai bộ Tăng quở trách Tỳ-kheo-ni này: “Thích Ma-ha-nam cúng dường chúng Tăng như phụng sự Đại gia, Tỳ- kheo-ni sao lại hiện tiền hủy nhục”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay cho các Tỳ-kheo-ni được thường thường ăn, vì sao, vì người nữ thích được ăn thường thường. Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đã thọ thỉnh mà không ăn thì phạm Ba-dật-đề Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy đã thọ thỉnh mà không ăn bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi Tám: Chưa Cho Hỏi Mà Hỏi Phật tại nước Thích thị, lúc đó có Tỳ-kheo-ni tên Kiết phát làm pháp sư thuyết pháp hay, khi gặp một Tỳ-kheo nhỏ tuổi không có trí huệ sâu, liền hỏi những việc trong tạng luận. Tỳ-kheo này không thể tùy thuận hỏi đáp, Tỳ-kheo-ni này bỏ đi và tự cao nói với các Tỳ-kheo- ni rằng: “Hôm nay tôi đem những việc trong tạng luận ra hỏi một Tỳ- kheo khiến vị ấy không đáp được”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ- kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo chưa cho hỏi mà liền hỏi những việc trong kinh luật luận”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo chưa cho hỏi những việc trong Kinh luật luận mà liền hỏi thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy hỏi bao nhiêu thì phạm Ba-dật- đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Năm Mươi Chín: Tắm Nơi Chỗ Đất Trống Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt lỏa hình tắm nơi đất trống, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại lỏa hình tắm nơi đất trống, giống như dâm nữ”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại lỏa hình tắm nơi đất trống”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni lỏa hình tắm nơi đất trống thì phạm Ba-dật-đề . Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy lỏa hình tắm bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Sáu Mươi: Đeo Đồ Trang Sức Của Bạch Y Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt đeo đồ trang sức của bạch y, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại đeo đồ trang sức của bạch y như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo- ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đeo đồ trang sức của bạch y”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đeo đồ trang sức của bạch y thì phạm Ba-dật- đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là tùy đeo bao nhiêu thì phạm Ba-dật- đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Sáu Mươi Mốt: Xem Nghe Kỹ Nhạc Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt cố ý đến xem ca múa, nghe kỹ nhạc, xem đào hát trang điểm, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại cố ý đến xem ca múa, nghe kỹ nhạc, xem đào hát trang điểm, như phu nhân của vua, vợ của đại thần”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại cố ý đến xem ca múa, nghe kỹ nhạc, xem đào hát trang điểm”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cố ý đến xem ca múa, nghe kỹ nhạc, xem đào hát trang điểm thì phạm Ba-dật-đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni cố ý đến xem ca múa, nghe kỹ nhạc, xem đào hát trang điểm, nhìn thấy thì phạm Ba- dật-đề; không nhìn thấy thì phạm Đột-kiết-la. Từ dưới thấp nhìn lên cao thấy được thì phạm Ba-dật-đề, không thấy được thì phạm Đột-kiết-la; từ trên cao nhìn xuống dưới nếu thấy được thì phạm Ba-dật-đề, không thấy đuợc thì phạm Đột-kiết-la; nếu không cố ý đến hoặc trên đường đi ngang qua thì không phạm. Pháp Một Trăm Sáu Mươi Hai: Nhờ Bạch Y Mổ Băng Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà trong hai đường đại tiểu tiện sanh ung nhọt, liền nhờ bạch y mổ rồi băng… Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni có ung nhọt nơi chỗ kín lại nhờ bạch y mổ rồi băng”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni có ung nhọt nơi chỗ kín lại nhờ bạch y mổ rồi băng thì phạm Ba-dật-đề . Ung nhọt có ba: Một là ung nhọt tự sanh, hai là do vật làm bị thương thành ung nhọt, ba là do bị gió thành ung nhọt cứng. Lại có ba loại: ung lạnh (lành), ung nóng (độc), ung cứng (khối u). Nếu Tỳ-kheo- ni tự băng được mà không mổ được thì nhờ người khác mổ; nếu tự mổ được mà không băng lại được thì nhờ người khác băng. Tướng phạm trong giới này là tùy nhờ bạch y mổ và băng lại bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Sáu Mươi Ba: Cùng Đi Cùng Đứng Cùng Nói Chuyện Với Người Nam Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Tu-xà-đa trẻ tuổi đoan chánh, ai cũng muốn nhìn, quen biết lâu với con trai của một trưởng giả tên là Uất đa la, cả hai thường cùng đi, cùng đứng, cùng ngồi, cùng nói chuyện thế gian. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại cùng đi, cùng đứng, cùng ngồi, cùng nói chuyện thế gian với người nam”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cùng đi, cùng đứng, cùng ngồi, cùng nói chuyện thế gian với người nam thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là tùy cùng đi, cùng đứng, cùng ngồi, cùng nói chuyện thế gian với người nam bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Sáu Mươi Bốn: Tự Thoa Chà Thân Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt tự dùng hương thơm, hương bột, vụn hồ ma, cặn hồ ma để thoa chà thân. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại tự dùng hương thơm, hương bột, vụn hồ ma, cặn hồ ma để thoa chà thân”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni tự dùng hương thơm, hương bột, vụn hồ ma, cặn hồ ma để thoa chà thân thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm trong giới này là tùy tự dùng hương thơm, hương bột, vụn hồ ma, cặn hồ ma để thoa chà thân bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Sáu Mươi Lăm: Nhờ Người Khác Thoa Chà Thân Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt không tự dùng hương thơm, hương bột, vụn hồ ma, cặn hồ ma để thoa chà thân; mà sai Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, nữ bạch y thoa chà thân. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại sai Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, nữ bạch y dùng hương thơm, hương bột, vụn hồ ma, cặn hồ ma để thoa chà thân ”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni sai người khác dùng hương thơm, hương bột, vụn hồ ma, cặn hồ ma để thoa chà thân thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là tùy sai người khác thoa chà cho mình bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Sáu Mươi Sáu: Đội Tóc Giả Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà đội tóc giả đứng nơi của nhà của dâm nữ; khi thấy các cư só, Bà-la-môn đến gần liền giẫm lên chân họ, nói rằng: “Ông muốn cùng tôi làm việc dâm dục phải không?”, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại đứng nơi cửa nhà dâm nữ, thấy mọi người đến liền giẫm lên chân họ và nói lời này”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo- ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đội tóc giả đưng nơi cửa nhà dâm nữ”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đội tóc giả thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là tùy đội tóc giả bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Phương tiện làm thì phạm Đột-kiết-la, làm cho nguời khác đội cũng Đột-kiết-la . Pháp Một Trăm Sáu Mươi Bảy: Đi Xa Mà Không Nói Với Tỳ- Kheo-Ni Khác Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt có nuôi một Thức-xoa-ma-na trẻ tuổi, đoan chánh sắp thọ đại giới; nhưng có người nam xấu xa thấy cô sanh tâm tham dục, nghó rằng: “Tỳ-kheo- ni được vua thủ hộ, không thể cưỡng đoạt được. Pháp của tỳ-kheo-ni là phải đến trong Tỳ-kheo thọ đại giới, Ta đợi khi nào Thức-xoa-ma-na này đi thọ đại giới, ta sẽ bắt cóc mang đi”. Vì thế khi Thức-xoa-ma- na này vừa ra khỏi trú xứ đến trong Tỳ-kheo tăng thọ đại giới, liền bị người nam xấu xa này bắt cóc mang đi. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni đi xa mà không nói với Tỳ-kheo-ni trong Tăng phường”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni ra khỏi cửa đi xa mà không nói với Tỳ-kheo-ni khác thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là tùy đi xa mà không nói với Tỳ- kheo-ni khác bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Sáu Mươi Tám: Dùng Bàn Chải Chải Đầu Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt dùng bàn chải chải đầu, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại dùng bàn chải chải đầu, giống như nữ bạch y”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại dùng bàn chải chải đầu”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni dùng bàn chải chải đầu thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là tùy dùng bàn chải chải đầu bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Sáu Mươi Chín: Nhờ Người Khác Chải Đầu Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt nhờ người khác chải đầu, các cư só trách: “Cô là người xuất gia, chải đầu làm chi”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nhờ người khác chải đầu”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo- ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nhờ người khác chải đầu thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là tùy nhờ người khác chải đầu bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bảy Mươi: Dùng Lược Chải Đầu Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt tự dùng lược chải đầu. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại tự dùng lược chải đầu”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni tự dùng lược chải đầu thì phạm Ba-dật-đề Tướng phạm trong giới này là tùy dùng lược chải đầu bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bảy Mươi Mốt: Nhờ Người Khác Chải Đầu Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt nhờ người khác chải đầu. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nhờ người khác chải đầu”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nhờ người khác chải đầu thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là tùy nhờ người khác chải đầu bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bảy Mươi Hai: Búi Đầu Tóc Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt búi đầu tóc, các cư só trách: “Cô là người xuất gia sao lại búi đầu tóc”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại búi đầu tóc”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni búi đầu tóc thì phạm Ba-dật-đề Tướng phạm trong giới này là tùy búi đầu tóc bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bảy Mươi Ba: Nhờ Người Búi Đầu Tóc Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt nhờ người khác búi đầu tóc. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nhờ người khác búi đầu tóc”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nhờ người khác búi đầu tóc thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm trong giới này là tùy nhờ người khác búi đầu tóc bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bảy Mươi Bốn: Đại Tiểu Tiện Trên Cỏ Tươi Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trước cửa Tăng phường của tỳ-kheo- ni có cỏ xanh tươi tốt nên nhiều người thường đến tụ tập ngồi trên đó để ngắm nhìn các Tỳ-kheo-ni ra vào trong tinh xá Vương viên, có người đùa cợt nói rằng: “Hãy nhìn xem Tỳ-kheo-ni này mắt lé, người này mũi tẹt, người này da trắng, người này đẹp, người này có oai nghi, người này không có oai nghi…”. Các Tỳ-kheo-ni nghe những lời phê bình này trong lòng không vui liền suy nghó: “Họ tụ tập đến đây cười nói là vì có cỏ xanh tươi, nếu không có cỏ xanh tươi này thì họ sẽ không đến nữa”, nghó rồi liền đại tiểu tiện lên cỏ xanh tươi khiến cho cỏ úng thúi và chết khô. Các cư só trách: “Các Tỳ-kheo-ni này không tốt, không có nhà xí ở chỗ khuất khác hay sao mà lại đi đại tiểu tiện trên cỏ xanh tươi như thế”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi các Tỳ-kheo-ni: “Các cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đại tiểu tiện trên cỏ xanh tươi”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ- kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đại tiểu tiện trên cỏ xanh tươi thì phạm Ba-dật- đề. Ba-dật-đề là thiêu đốt che ngăn, nếu không sám hối tội này có thể chướng ngại thấy đạo. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo-ni đại tiểu tiện trên cỏ xanh tươi thì phạm Ba-dật-đề, tùy đại tiểu tiện trên cỏ tươi bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Pháp Một Trăm Bảy Mươi Lăm: Cố ý làm xuất tinh Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó ni Thâu-la-nan-đà cố ý làm xuất tinh. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại cố ý làm xuất tinh”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cố ý làm xuất tinh thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm trong giới này là tùy cố ý làm xuất tinh bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó các Tỳ-kheo-ni ở trong mộng xuất tinh, khi tỉnh dậy suy nghó: “Phật kết giới không được cố ý làm xuất tinh, nay ở trong mộng xuất tinh, chúng ta phải làm sao”, liền đem việc này bạch Phật, Phật do việc này nhóm hai bộ Tăng đủ lời khen ngợi giới và người trì giới rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay giới này nên nói lại như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni cố ý làm xuất tinh thì phạm Ba-dật-đề, trừ trong mộng. Pháp Một Trăm Bảy Mươi Sáu: Nuốt Tinh Của Người Nam Phật tại nước Xá-vệ, trưởng lão Ca-lưu-đà-di vốn có quen biết với Tỳ-kheo-ni Quật-đa từ trước nên thường qua lại chuyện trò. Lúc đó Tỳ-kheo-ni Quật-đa nghe Ca-lưu-đà-di du hành hai tháng vửa trở về liền tắm rửa sạch sẽ, thoa dầu thơm, mặc y mỏng đến chỗ Ca-lưu-đà-di, đảnh lễ rồi ngồi đối diện. Ca-lưu-đà-di sanh tâm đắm trước nên nhìn chăm chăm Quật-đa, Quật-đa cũng sanh tâm dắm trước nên nhìn chăm chăm Ca-lưu-đà-di, Quật-đa suy nghó: “Thầy ấy nhìn ta chăm chăm như vậy ắt cũng sanh đắm trước, sao ta không ở trước mặt đứng đi”. Lúc đó Ca-lưu-đà-di chỉ mặc có Nê-hoàn-tăng, cùng đi qua lại nên dục tâm phát động, sợ phạm giới nên không dám xúc chạm nhau, vì cứ nhìn chăm chăm nhau nên chảy ra chất bất tịnh, do chất bất tịnh chảy ra nên lửa dục liền tắt, vội trở về chỗ ngồi. Quật-đa suy nghó: “Thầy ấy trở về chỗ ngồi ắt là đã chảy ra chất bất tịnh”, nghó rồi liền đến gần Ca-lưu- đà-di nói rằng: “Hãy đưa y này cho tôi đem về giặt”, Ca-lưu-đà-di liền đổi mặc y khác rồi đưa y này cho Quật-đa mang về giặt. Tỳ-kheo-ni nay mang về mở y ra lấy chất bất tịnh dính trên y để vào trong nữ căn, phần còn lại để vào trong miệng, liền thọ thai có con phước đức, bụng càng ngày càng lớn. Các Tỳ-kheo-ni đuổi ra khỏi chùa và mắng: “Cô là Tỳ-kheo-ni xấu xa, vì sao xuất gia lại làm việc dâm dục”, Quật-đa nói: “Tôi không có làm việc dâm”, liền đem sự việc trên kể lại. Các Tỳ-kheo-ni không biết làm sao nên đem việc này bạch Phật, Phật do việc này nhóm hai bộ Tăng rồi hỏi Quật-đa: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại nuốt tinh của người nam”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo-ni: “Các cô chớ nên quở trách Tỳ-kheo-ni này, đây không phải là phá phạm hạnh vì không có phạm dâm, do nhân duyên như thế mới có thai. Do mười lợi nên kết giới cho Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni nuốt tinh của người nam thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm trong giới này là tùy nuốt bao nhiêu thì phạm Ba- dật-đề bấy nhiêu. Một trăm lẻ bảy: Pháp một trăm bảy mươi bảy: Tắm nơi chỗ người nam tắm Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt đến tắm nơi chỗ người nam tắm, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại đến tắm nơi chỗ người nam tắm, giống như dâm nữ”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đến tắm nơi chỗ người nam tắm”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đến tắm nơi chỗ người nam tắm thì phạm Ba-dật-đề . Tướng phạm trong giới này là tùy đến tắm chỗ người nam tắm bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. 108. Pháp Một Trăm Bảy Mươi Tám: Đứng Ngay Cửa Phật tại thành Vương xá, lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt ưa đứng ngay cửa, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích nữ tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại đứng ngay nơi cửa, giống như dâm nữ”. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đứng ngay nơi cửa”, quở trách rồi bảo các Tỳ- kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni đứng ngay nơi cửa thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm trong giới này là tùy đứng ngay cửa bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. TÁM PHÁP BA LA ĐỀ ĐỀ XÁ NI Không Bịnh Mà Tự Đòi Sữa Phật tại nước Ca-tỳ-la vệ, lúc đó có Thích Ma-ha-nam thỉnh Phật và hai bộ Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, Thích Ma-ha-nam biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Phật cùng hai bộ Tăng đến nhà ngồi vào chỗ ngồi, Thích Ma-ha-nam tự tay dâng các món ăn ngon với nước sữa dược thảo ra cúng dường, khiến cho tất cả đều được no đủ. Lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt thọ cơm đầy bát rồi chan nước sữa thảo dược lên, nhưng lại không ăn mà ngồi nhìn ngó bốn phía. Thích Ma-ha-nam đi tới lui xem ai ăn, ai không ăn thì thấy Tỳ-kheo-ni này ngồi nhìn bốn phía mà không ăn liền hỏi vì sao không ăn, đáp: “Ông có sữa chưa nấu với thảo dược không, nếu có tôi sẽ ăn”, liền nói: “Nước sữa thảo dược này rất bổ dưỡng, cô nên ăn; nếu có sữa chưa nấu vối thảo dược tôi sẽ mang ra dâng cúng”, lại hỏi: “Vậy ông có tô, sanh tô, thục tô, dầu, cá, thịt, nem không, nếu có tôi sẽ ăn”, liền nói: “Nước sữa thảo dược này rất bổ dưỡng, cô nên ăn; nếu có tô, sanh tô… tôi sẽ mang ra cúng dường”, liền nói: “Ông nếu không đủ sức và có thể tùy ý cúng dường thì sao lại thỉnh Phật và Tăng. Nếu người khác thỉnh thì họ đã tùy ý cúng dường rồi, loại sữa chín này ở đâu mà không có”. Thích Ma-ha-nam-là người tốt nên không quở trách, nhưng các tùy tùng của Thích Ma-ha-nam nghe thấy rồi liền quở trách: “Thích Ma-ha-nam cúng dường chúng Tăng như phụng sự Đại gia, Tỳ-kheo-ni sao lại hiện tiền hủy nhục”. Phật từ xa nghe thấy việc này rồi nên sau khi thọ thực xong trở về liền vì việc này nhóm hai bộ Tăng quở trách Tỳ-kheo-ni này: “Thích Ma-ha-nam cúng dường chúng Tăng như phụng sự Đại gia, Tỳ-kheo-ni sao lại hiện tiền hủy nhục”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ-kheo, từ nay giới này nên nói như sau: Nếu Tỳ-kheo-ni không bịnh mà tự đòi sữa cho mình, Tỳ-kheo-ni này nên đối trước các Tỳ-kheo-ni nói việc này, nói rằng: “Tôi đã phạm pháp đáng quở trách, không phải đạo tùy thuận, đáng hối lỗi, tôi nay xin hối lỗi”. Đây là pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni thứ nhất. Tướng phạm trong giới này là nếu không bịnh mà đòi xin sữa, được thì phạm Ba-dật-đề, không được thì phạm Đột-kiết-la. Nếu xin cho người bịnh thì không phạm, hoặc bên bà con đòi xin, hoặc trước đã được thỉnh hoặc không đòi hỏi mà tự được thì không phạm. - Bảy pháp sau là đòi lạc, sanh tô, thục tô, dầu, cá, thịt và nem cũng giống như pháp thứ nhất. BÁT KỈNH PHÁP Vào ngày bố tát, Tỳ-kheo-ni nên đến trong Tăng tùy ý thỉnh một Tỳ-kheo để thọ pháp giáo giới, Tỳ-kheo-ni tăng phải hòa hợp, Ni tăng sai một Tỳ-kheo-ni cùng một bạn ni đến chỗ Tỳ-kheo giáo giới, đảnh lễ rồi bạch: “Tỳ-kheo-ni tăng hòa hợp xin đảnh lễ Tỳ-kheo tăng hòa hợp cầu giáo giới mỗi nữa tháng, nếu có giáo giới gì, chúng con sẽ thọ trì”, Tỳ-kheo nói: “Phật Bà-già-bà, Thích-ca-mâu-ni Đa-đà-a-già-độ A-la- ha-tam-miệu-tam Phật đà là bậc tri giả, kiến giả đã nói bát kỉnh pháp cho Tỳ-kheo-ni. tám pháp này là: Tỳ-kheo-ni dù một trăm tuổi hạ, gặp Tỳ-kheo mới thọ giới cụ túc phải kính nhường đảnh lễ. Tỳ-kheo-ni nên đến Tỳ-kheo tăng cầu thọ giới cụ túc . Nếu Tỳ-kheo-ni phạm Tăng tàn phải ở trong hai bộ Tăng xin pháp nữa tháng Ma-na-đỏa. nơi trú xứ không có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không được an cư. Tỳ-kheo-ni an cư xong nên đến trong Tỳ-kheo tăng cầu ba việc tự tứ nói tội thấy nghe nghi. Tỳ-kheo-ni mỗi nữa tháng nên đến Tỳ-kheo tăng thọ bát kỉnh pháp. Nếu Tỳ-kheo-ni muốn hỏi Tỳ-kheo nên hỏi trước: Xin phép được hỏi về Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm”, nếu Tỳ-kheo cho hỏi mới được hỏi, nếu không cho thì không được hỏi. Tỳ-kheo-ni không được nói tội thấy nghe nghi của tỳ-kheo. Tỳ-kheo-ni sau khi thọ tám pháp này, vào lúc bố tát nên ở trong Ni tăng nói lại tám pháp này. Bố tát xong, hôm sau Tỳ-kheo-ni thọ tám pháp này hôm trước nên trở lại chỗ Tỳ-kheo giáo giới, đảnh lễ rồi bạch rằng: “Tỳ-kheo-ni tăng hòa hợp đảnh lễ Tỳ-kheo tăng hòa hợp, Tỳ- kheo-ni tăng đã bố tát xong”. Tỳ-kheo giáo giới này vào lúc Tăng hòa hợp thuyết giới khi nghe Tỳ-kheo thuyết giới hỏi: “Tăng nay hòa hợp để làm gì?”, nên ở trong Tăng bạch: “Tỳ-kheo-ni tăng hòa hợp đảnh lễ Tỳ-kheo tăng hòa hợp cầu giáo giới mỗi nữa tháng, nếu có giáo giới gì đều sẽ thọ trì”, Thượng tòa nên nói: “Nếu Tỳ-kheo-ni tăng đã hòa hợp thì không cần tác pháp yết ma giáo giới”, Tỳ-kheo này nên trở ra nói với Tỳ-kheo-ni: “Tăng bảo Tỳ-kheo-ni tăng đã hòa hợp thì không cần tác pháp yết ma giáo giới”. Tỳ-kheo giáo giới Tỳ-kheo-ni không được xuất giới, nếu xuất giới thì phạm Đột-kiết-la.  LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 48 TỤNG THỨ 8 PHÁP TĂNG NHẤT Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nếu có người nam giả hình dạng người nữ như tướng người nữ, mặc y phục người nữ lại theo pháp nam tử cầu thọ giới thì có đắc giới không?”, Phật nói: “Đắc giới nhưng chúng tăng mắc tội”, lại hỏi: “Nếu có người nữ giả hình dạng người nam như tướng người nam, mặc y phục người nAm- lại theo pháp người nữ cầu thọ giới thì có đắc giới không?”, Phật nói: “Đắc giới nhưng chúng tăng mắc tội”, lại hỏi: “Nếu chưa cho xuất gia mà liền cho thọ giới cụ túc thì có đắc giới không?”, Phật nói: “Đắc giới nhưng chúng tăng mắc tội”. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo dụ đệ tử của người khác rồi cho pháp và y thực, các Thượng tòa quở trách: “Làm sao giáo hóa được đệ tử như pháp khi mà Lục quần Tỳ-kheo dụ dẫn đi rồi cho pháp và y thực”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay không được dụ đệ tử của người khác rồi cho pháp và y thực, nếu dụ thì phạm Đột-kiết-la ” Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nếu Tỳ-kheo không muốn phản giới hoàn tục liền nói với người: “Thầy hãy vì tôi làm Hòa thượng”, nếu kia vì làm Hòa thượng thì có phản giới không?”, Phật nói: “Không phản giới vì là lời nói đùa”. Lúc đó Phật hỏi A-nan: “Những đứa trẻ này trên bữa ăn có thể đuổi được chim quạ hay không?”, đáp là được, Phật nói: “Từ nay cho những đứa trẻ cho đến bảy tuổi đuổi được chim qua, ï được làm Sa-di gọi là Khu ô Sa-di”. Lúc đó vua Bình sa dùng pháp sáu năm nhuần một lần, các Tỳ- kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nên theo pháp của vua”. Vua Bình-Sa-lại dùng pháp một năm có sáu tháng thiếu, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Nên theo pháp của vua, tháng đầu của mùa Xuân đủ thì tháng thứ hai thiếu, tháng thứ ba đủ thì tháng thứ bốn thiếu; tháng đầu của mùa Hạ đủ thì tháng thứ hai thiếu, tháng thứ ba đủ thì tháng thứ bốn thiếu; tháng đầu của mùa Đông đủ thì tháng thứ hai thiếu, tháng thứ ba đủ thì tháng thứ bốn thiếu”. Trưởng lão Ưu-ba-ly lại hỏi: “Nơi không phải là trú xứ của tỳ- kheo mà thuyết giới thì có gọi là thuyết giới không?”, Phật nói: “Nếu Tỳ-kheo-ni thuyết giới thì gọi là thuyết giới”, lại hỏi: “Sa-di thuyết giới có gọi là thuyết giới không?”, Phật nói: “Không gọi là thuyết giới, chỉ được nghe thuyết giới và thọ tuế (tự tứ), không được xếp vào túc số để thuyết giới, thọ tuế và làm các yết ma khác”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo trên mặt đất có được gởi thanh tịnh cho Tỳ-kheo ở trên không trung không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trên không trung có được gởi thanh tịnh cho Tỳ-kheo ở trên mặt đất không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Cả hai đều ở trên không trung có được gởi thanh tịnh không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trong giới có được gởi thanh tịnh cho Tỳ-kheo ở ngoài giới không?”, Phật bảo: “Không được, nếu hiệp giới hay cùng trong giới thì được”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo trên mặt đất có được gởi dục thanh tịnh cho Tỳ-kheo ở trên không trung không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trên không trung có được gởi dục thanh tịnh cho Tỳ-kheo ở trên mặt đất không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Cả hai đều ở trên không trung có được gởi dục thanh tịnh không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trong giới có được gởi dục thanh tịnh cho Tỳ-kheo ở ngoài giới không?”, Phật bảo: “Không được, nếu hiệp giới hay cùng trong giới thì được”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo trên mặt đất có được gởi dục cho Tỳ-kheo ở trên không trung không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trên không trung có được gởi dục cho Tỳ-kheo ở trên mặt đất không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Cả hai đều ở trên không trung có được gởi dục không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trong giới có được gởi dục cho Tỳ-kheo ở ngoài giới không?”, Phật bảo: “Không được, nếu hiệp giới hay cùng trong giới thì được”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo trên mặt đất có được gởi dục yết ma cho Tỳ-kheo ở trên không trung không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trên không trung có được gởi dục yết ma cho Tỳ-kheo ở trên mặt đất không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Cả hai đều ở trên không trung có được gởi dục yết ma không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trong giới có được gởi dục yết ma cho Tỳ-kheo ở ngoài giới không?”, Phật bảo: “Không được, nếu hiệp giới hay cùng trong giới thì được”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo trên mặt đất có được gởi dục kiết giới cho Tỳ-kheo ở trên không trung không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trên không trung có được gởi dục kiết giới cho Tỳ-kheo ở trên mặt đất không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Cả hai đều ở trên không trung có được gởi dục kiết giới không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trong giới có được gởi dục kiết giới cho Tỳ-kheo ở ngoài giới không?”, Phật bảo: “Không được, nếu hiệp giới hay cùng trong giới thì được”. Lại hỏi: “Nếu không xả giới trước thì có được kết giới mới rộng hay hẹp hơn hay không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được đều cùng kết giới hay không?”, Phật bảo: “Nếu nói chu vi tướng ngoài và tướng trong thì được”, lại hỏi: “Có khi nào kiết giới rồi không theo yết ma mà xả hay không?”, Phật bảo: “Có, nếu ở bên trong tường, hào”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trên cây có được kết giới không?”, Phật bảo: “Nếu khi yết ma, số chúng đủ thì được”, lại hỏi: “Nếu Tăng bị phá có được kết giới không?”, Phật bảo: “Nếu như pháp kết giới thì được”. Lại hỏi: “Phật pháp thời quá khứ trụ ở đời bao lâu?”, Phật bảo: “Tùy thuộc Tỳ-kheo thanh tịnh, không hoại pháp thuyết giới thì gọi là chánh pháp trụ ở đời”, lại hỏi: “Phật pháp đời vị lại trụ ở đời bao lâu”, Phật bảo: “Tùy thuộc Tỳ-kheo thanh tịnh, không hoại pháp thuyết giới thì gọi là chánh pháp trụ ở đời”, lại hỏi: “Chánh pháp hiện tại của Thế tôn trụ ở đời bao lâu?”, Phật bảo: “Cũng tùy thuộc Tỳ-kheo thanh tịnh, không hoại pháp thuyết giới thì gọi là chánh pháp trụ ở đời”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo ở trong tụ lạc ban đầu xây cất Tăng phường được kiết giới phạm vi là bao nhiêu?”, Phật bảo: “Tùy thuộc vào tụ lạc và giới tụ lạc, phạm vi bao nhiêu là chỗ quay lại của họ”, lại hỏi: “Tỳ- kheo ở A-lan-nhã ban đầu xây cất Tăng phường được kết giới phạm vi là bao nhiêu?”, Phật bảo: “Phạm vi các phía là một Câu-lô-xá, các Tỳ- kheo chỉ được trong phạm vi một Câu-lô-xá này cùncg ở một chỗ làm yết ma bố tát, không được biệt chúng làm yết ma thuyết giới, nếu biệt chúng làm thì mắc tội”. Lại hỏi: “Khi pháp diệt thì kết giới có gọi là kết giới không?”, Phật bảo: “Không gọi là kết giới, vì khi pháp diệt thì tất cả kết giới, tất cả thọ giới, tất cả giới pháp, tất cả yết ma đều diệt”. Lại hỏi: “Nếu Tỳ-kheo làm yết ma mạng chung, các Tỳ-kheo khác không biết giới tướng thì có được xả giới không?”, Phật bảo: “Được xả”, lại hỏi: “Tỳ-kheo cất Tăng phường trên núi, có được an cư dưới núi cách khoảng mười Câu-lô-xá hay không?”, Phật bảo được, lại hỏi: “Ở nơi nào cho vật an cư?”, Phật bảo: “Nên cho ở chỗ an cư”; lại hỏi: “Tỳ- kheo cất Tăng phường dưới núi, có được an cư trên núi cách khoảng mười Câu-lô-xá hay không?”, Phật bảo được, lại hỏi: “Ở nơi nào cho vật an cư?”, Phật bảo: “Nên cho ở chỗ an cư”. Lại hỏi: “Nếu Tăng bị phá làm hai bộ, trong một bộ có Tỳ-kheo xuất giới cho đến trời sáng thì có gọi là phá an cư không, có mât y và có mắc tội trái lời không?”, Phật bảo: “Không phá an cư, không mất y, chỉ mắc tội trái lời”. Lại hỏi: “Nên ở đâu thọ pháp xuất giới bảy ngày?”, Phật bảo: “Nên ở trong giới thọ”, lại hỏi: “Theo ai thọ?”, Phật bảo: “Nên theo năm chúng là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni mà thọ”, lại hỏi: “Có được tâm niệm thọ pháp xuất giới bảy ngày không?”, Phật bảo: “Không được, trừ năm hạng người: Người ở A-lan-nhã, người ở một mình, người đi xa, người bịnh lâu dài, người ở bên bà con vào thời thế mất mùa đói kém”. Lại hỏi: “Nếu Tỳ-kheo có bà con là ngoại đạo thỉnh mời đến dự lễ tế trời Ma hê thủ la, trời Kiền đà, trời ma ni Bạt-đàø; Tỳ-kheo có được phá an cư để đi hay không?”, Phật bảo: “Được đi, vì việc làm kia thanh tịnh”, lại hỏi: “Nếu Tỳ-kheo tụng A-hàm không thông lợi muốn được thông lợi hoặc muốn hỏi nghi nên muốn theo người khác thọ học thì có được phá an cư để đi hay không?”, Phật bảo được, lại hỏi: “Nếu Tỳ- kheo chưa được muốn cầu cho được, chưa hiểu muốn cầu cho hiểu, chưa chứng miốn cầu cho chứng thì có được phá an cư để đi hay không?”, Phật bảo được. Có Tỳ-kheo bạch Phật: “Nên dùng loại da nào để làm giày da?”, Phật đáp như trong pháp Tạp đã nói. Lại hỏi: “Sao gọi là ngồi trên da?”, Phật bảo: “Mặc trên thân gọi là ngồi trên da”, lại hỏi: “Sao gọi là nằm trên da?”, Phật bảo: “Hông chạm dính gọi là nằm”, lại hỏi: “Sao gọi là mặc?”, Phật bảo: “Từ dưới chân lên đến rốn thì gọi là mặc”. Lại hỏi: “Da, thịt, máu, gân của Sư tử có được ăn không?”, Phật bảo: “Tất cả không được ăn”, lại hỏi: “Da, thịt, máu, gân của Nai đen có được ăn không?”, Phật bảo: “Trừ da, tất cả thứ khác được ăn”, lại hỏi: “Trước đây Phật có dạy là không được ăn thịt sống, máu tươi; nhưng nếu bị bịnh mà không có thuốc khác chữa trị thì được dùng phải không?”, Phật bảo: “Nếu không có thuốc khác chữa trị thì được dùng, nếu có thuốc khác thì không được dùng, nếu dùng thì phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo mắc bịnh tró, thầy thuốc Kỳ vực bảo nên dùng dao cắt, Tỳ-kheo nói: “Phật không cho dùng dao cắt”, liền bạch Phật, Phật bảo nên dùng móng tay bấm, bấm không đứt, Phật bảo nên dùng tre lau cắt, cũng không đứt, Phật bảo: “Nên đến chỗ khuất dùng dao cắt”. Khi vua Bình sa mạng chung, các Tỳ-kheo nói với nhau: “Vua Bình sa mất, chúng ta không phạm nội túc phải không?”, Phật bảo: “Không phạm nội túc vì vua A-xà-thế đã thay chỗ”. Có Tỳ-kheo cùng đi đường, gánh giùm thức ăn cho Sa-di, tịnh nhơn. Đến giờ ăn, tịnh nhơn trao thức ăn cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không thọ vì sợ phạm tàn túc thực, Phật bảo: “Nếu gánh giùm thức ăn cho người khác thì ăn không phạm”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Y không cắt rọc có được thọ trì không?”, Phật bảo được, lại hỏi: “Có được mặc vào tụ lạc không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Nên cắt rọc như thế nào?”, Phật bảo: “Nên dài năm khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay. Nếu vải không đủ thì được cất chứa ba loại y cắt rọc là thượng, trung và hạ. Y bậc thượng chiều dài năm khuỷu tay, chiều rộng ba khuỷu tay; y bậc hạ chiều dài bốn khuỷu tay, chiều rộng hai khuỷu tay rưỡi; y bậc trung ở khoảng giữa hai loại y trên”. Có Tỳ-kheo dùng dây cột Nê-hoàn-tăng nên bị rách, Phật bảo: “Nên làm y Câu-tu-la để mặc”, lại hỏi: “Tỳ-kheo có được thọ y Câu- tu-la không?”, Phật bảo: “Không nên thọ, khi nào Nê-hoàn-tăng bị rách mới được làm y Câu-tu-la để mặc”. Nước Kiều-tát-la có người cúng dường y cho Tăng, các Tỳ-kheo không biết chia y như thế nào, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nên chia làm bốn phần, ba phần cho Tỳ-kheo, một phần cho Sa-di”. Nước Kiều-tát-la có một Tỳ-kheo chết, các Tỳ-kheo không biết chia y bát như thế nào, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nên chia làm bốn phần, ba phần cho Tỳ-kheo, một phần cho Sa-di”. Lúc đó tinh xá Kỳ-hoàn mới làm xong, một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đều nhóm họp lại, các cư só thấy đại chúng tụ họp nên cúng y cho Tỳ-kheo tăng, các Tỳ-kheo không thọ, nói là Phật chưa cho thọ y cúng cho Tăng, liền bạch Phật, Phật bảo cho thọ. Lại có người cúng y cho Tỳ-kheo-ni tăng, các Tỳ-kheo-ni không thọ, nói là Phật chưa cho thọ y cúng cho ni tăng, liền bạch Phật, Phật bảo cho thọ. Lại có người cúng y cho hai bộ Tăng, hai bộ Tăng không thọ, nói là Phật chưa cho thọ y cúng cho hai bộ Tăng, liền bạch Phật, Phật bảo cho thọ. Sau khi thọ y xong, hai bộ Tăng không biết chia y như thế nào, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nên chia làm bốn phần, ba phần cho Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, một phần cho Thức-xoa-ma-na, Sa-di và Sa-di-ni”. Lại có cư só thấy đại chúng nhóm họp nên cúng y cho Tỳ-kheo tăng, tâm mong muốn một Tỳ-kheo nói là tốt lắm, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Cho nói tốt lắm, người nói phải ở trên mặt đất, không được ở chỗ xa nghe; cho ở trên gò đất nhưng cũng không được ở chỗ xa nghe”. Lại có cư só thấy đại chúng nhóm họp nên cúng y cho Tỳ-kheo tăng, tâm mong muốn để y trên giá y rồi mang vào trong Tăng thì tốt, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo cho. Lại có cư só thấy đại chúng nhóm họp nên cúng y cho Tỳ-kheo tăng, tâm mong muốn cho một người khen ngợi Tăng thì tốt, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Cho khen ngợi, người khen ngợi Tăng nên nói: “Tăng trì giới đầy đủ, niệm đầy đủ, tam muội đầy đủ, trí huệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, độ tri kiến đầy đủ, Học, Vô học, Câu giải thoát, hướng quả, đắc quả”. Trong Tăng có vị chưa đắc đạo, nghi không dám thọ phần y, nói rằng: “Tôi không phải là bậc Học, Vô học, Câu giải thoát, cũng không phải là bậc hướng quả, đắc quả nên không dám thọ phần”, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Nên thọ, nếu bản thân trì giới cùng Tăng hòa hợp, cấu thoát ly sanh tử, hướng đến Niết-bàn, không cầu thọ thân sau, tu hành ba nghiệp, tọa thiền, tụng kinh, trợ giúp việc tăng. Hành giả như thế thì được thanh tịnh thọ phần”. Lúc đó Phật cùng năm trăm A-la-hán vào thành Thủ ba, đến nhà trưởng giả Thư tỳ kiền noa thọ phần thức ăn rồi đến bên ao A-nậu-đạt thọ thực. Lộc tử mẫu nghe tin này rồi sanh tâm tín kính bền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật rằng: “Thế tôn, con nay đến chỗ Phật xin biệt thỉnh năm trăm vị A-la-hán ngày mai đến nhà con thọ thực”, Phật im lặng nhận lời. Lộc tử mẫu biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ, hữu nhiều rồi đi. Về nhà, ngay trong đêm đó lo sửa soạn các món ăn ngon, sáng hôm sau trải tòa rồi đến bạch Phật biết thời, trưởng lão A-nan đến nhận lấy phần thức ăn của Phật mang về. Lúc đó năm trăm vị A-la-hán mỗi người tự dùng thần túc đi đến nhà của Lộc tử mẫu, có người vào từ cửa sổ, có người từ trên hư không hiện xuống, có người từ dưới mặt đất hiện lên, có người hiện ra ngay trên chỗ ngồi… Lộc tử mẫu thấy chúng tăng ngồi xong liền tự tay dâng thức ăn cúng dường. Lúc đó A-nan mang thức ăn về, rót nước rồi trao thức ăn cho Phật, Phật thọ thực xong, A-nan thu bát rồi bạch Phật: “Thế tôn, hôm nay Lộc tử mẫu biệt thỉnh năm trăm A-la-hán thọ thực”, Phật hỏi: “Trong Tăng có thỉnh một Tỳ- kheo nào không?”, đáp là không có, Phật nói: “Nếu Lộc tử mẫu ở trong Tăng có thỉnh một Tỳ-kheo nào thì thân sau sẽ được đại công đức, đại quả báo và được đại lợi ích”. Lúc đó tất cả khắp nơi xa gần đều nghe biết Phật nói là nếu ở trong Tăng có thỉnh một người nào thì sẽ được đại phước đức hơn là biệt thỉnh năm trăm vị A-la-hán. Có cư só Bà-la-môn tín tâm cúng dường cho Tăng bữa tiểu thực, bữa ngọ thực và thức ăn Đát-bát-na, tâm mong muốn Phật cho một người khen ngợi Tăng thì tốt, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Cho khen ngợi, người khen ngợi Tăng nên nói: “Tăng trì giới đầy đủ, niệm đầy đủ, tam muội đầy đủ, trí huệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, độ tri kiến đầy đủ, Học, Vô học, Câu giải thoát, hướng quả, đắc quả”. Trong Tăng có vị chưa đắc đạo, nghi không dám thọ thực, nói rằng: “Tôi không phải là bậc Học, Vô học, Câu giải thoát, cũng không phải là bậc hướng quả, đắc quả nên không dám thọ thực”, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Nên thọ, nếu bản thân trì giới cùng Tăng hòa hợp, cấu thoát ly sanh tử, hướng đến Niết bàn, không cầu thọ thân sau, tu hành ba nghiệp, tọa thiền, tụng kinh, trợ giúp việc tăng. Hành giả như thế thì được thanh tịnh thọ thực”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Khi Tăng thọ y Ca-hi-na, có Tỳ-kheo ở trong đó mà không gọi là thọ không?”, lại hỏi: “Khi Tăng thọ y Ca-hi-na, cmột Tỳ-kheo không có ở trong đó mà được gọi là thọ không?”, lại hỏi: “Khi Tăng xả y Ca-hi-na, có Tỳ-kheo ở trong đó mà không gọi là xả không?”, lại hỏi: “Lại có Tỳ-kheo không có ở trong đó mà được gọi là xả không?”, Phật đáp như trong pháp Tạp đã nói. Lại hỏi: “Sa-di đắc giới có được ngăn người khác không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được thọ lời người khác bảo mà ngăn không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được ngăn yết ma không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Bạch y có được ngăn không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Sa-di, dị đạo, không phải Tỳ-kheo; người bị tẫn về không thấy tội, không sám tội, không bỏ ác tà kiến và tội bất cọng trụ; người phạm các tội bất cọng trụ, phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế (tặc trụ); người giết cha mẹ, A-la-hán, người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương, những người như thế có được ngăn không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Người ở trên mặt đất có đuợc ngăn người ở trên hư không, người ở trên hư không có được ngăn người ở trên mặt đất, người ở trong giới có được ngăn người ở ngoài giới, người ở ngoài giới có được ngăn người ở trong giới, người không đến trong Tăng, người không bạch chúng tăng, người phá giới và tâm niệm muốn ngăn thì có được ngăn không?”, Phật bảo đều không được ngăn, lại hỏi: “Sa-di đắc giới có được làm yết ma không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Người mà trước kia đã phạm trọng tội, giặc giả làm Tỳ-kheo, người mà khi còn bạch y đã phá giới; hoặc người trước nói là tôi phá giới, sau đó mới làm yết ma thì có được gọi là yết ma không?”, Phật bảo đều không được, lại hỏi: “Nếu người làm yết ma trước rồi mới nói là tôi phá giới thì có được gọi là yết ma không?”, Phật bảo được, lại hỏi: “Nếu lúc thọ giới, kết giới để làm yết ma thọ giới, làm xong có xả yết ma không?”, Phật bảo có, lại hỏi: “Nên xả loại yết ma nào?”, Phật bảo: “Nên xả yết ma kết giới”, lại hỏi: “Nếu có người thọ giới, người làm yết ma chưa thọ đại giới thì có xả yết ma không?”, Phật bảo có, hỏi là vì sao, Phật bảo: “Vì người làm yết ma là bạch y thì xả tất cả các yết ma”, lại hỏi: “Nếu có người bị tẫn, tâm hối, hạ ý mà ở ngoài giới làm yết ma xả tẫn cho thì có gọi là được xả không?”, Phật bảo: “Được xả nhưng các Tỳ-kheo mắc tội”, lại hỏi: “Phạm tội gì nên cho yết ma Khổ thiết?”, Phật bảo là đấu tranh, lại hỏi: “Phạm tội gì nên cho yết ma y chỉ?”, Phật bảo là thường thường phạm giới, lại hỏi: “Phạm tội gì nên cho yết ma Khu xuất?”, Phật bảo là làm nhơ nhà người (Ô-tha-gia), lại hỏi: “Phạm tội gì nên cho yết ma Hạ ý?”, Phật bảo là mắng bạch y, lại hỏi: “Nếu Tỳ-kheo mắng Tỳ-kheo có nên cho yết ma Hạ ý không?”, Phật bảo nên cho, lại hỏi: “Nếu Tỳ- kheo mắng Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni có nên cho yết ma Hạ ý không?”, Phật bảo nên cho, lại hỏi: “Nếu Tỳ-kheo-ni mắng Tỳ-kheo-ni có nên cho yết ma Hạ ý không?”, Phật bảo nên cho, lại hỏi: “Nếu Tỳ-kheo-ni mắng Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo có nên cho yết ma Hạ ý không?”, Phật bảo nên cho, lại hỏi: “Nếu Thức- xoa-ma-na mắng Thức-xoa-ma-na có nên cho yết ma Hạ ý không?”, Phật bảo nên cho, lại hỏi: “Nếu Thức-xoa-ma-na mắng Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có nên cho yết ma Hạ ý không?”, Phật bảo nên cho, lại hỏi: “Nếu Sa-di mắng Sa-di cho đến Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có nên cho yết ma Hạ ý không?”, Phật bảo nên cho, lại hỏi: “Nếu Sa-di-ni mắng Sa-di-ni cho đến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo- ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di có nên cho yết ma Hạ ý không?”, Phật bảo nên cho, lại hỏi: “Sa-di tự nói là đã làm việc dâm thì có nên diệt tẫn không?”, Phật bảo nên diệt tẫn, lại hỏi: “Tỳ-kheo dưới năm tuổi hạ, suốt đời không y chỉ người khác thì có mắc tội không?”, Phật bảo: “Có, nếu Tỳ-kheo dưới năm tuổi hạ chết hoặc suốt đời ở bên Hòa thượng thì không tội”, lại hỏi: “Nếu Tỳ-kheo phạm các tội Tăng-già-bà-thi-sa, không phạm tội tương tợ như tội cố y xuất tinh, che giấu một đêm; tội xúc chạm thân người nữ, che dấu hai đêm; tội nói lời thô tục với người nữ, che giấu ba đêm; tội khen ngợi bản thân để được người nữ cúng dường, che dấu bốn đêm; tội mai mối, che giấu năm đêm. Người này hành biệt trú năm đêm, kế hành sáu đêm Ma-na-đỏa thì có được cho yết ma Xuất tội không?”, Phật bảo được, lại hỏi: “Như Phật đã dạy có phạm tội tương tợ và tội không tương tợ. Sao gọi là tội tương tợ?”, Phật bảo: “Như phạm Ba-la-di thì tương tợ Ba-la-di, phạm Tăng-già-bà-thi- sa thì tương tợ Tăng-già-bà-thi-sa, phạm Ba-dật-đề thì tương tợ Ba-dật- đề, phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni thì tương tợ Ba-la-đề-đề-xá-ni, phạm Đột- kiết-la thì tương tợ Đột-kiết-la. Đó gọi là phạm tội tương tợ”, lại hỏi: “Sao gọi là phạm tội không tương tợ?”, Phật bảo: “Như phạm Ba-la-di thì không tương tợ với Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá- ni hay Đột-kiết-la; như Tăng-già-bà-thi-sa thì không tương tợ với Ba- dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la hay Ba-la-di; như Ba-dật-đề thì không tương tợ với Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la, Ba-la-di hay Tăng- già-bà-thi-sa; như Ba-la-đề-đề-xá-ni thì không tương tợ với Đột-kiết-la, Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa hay Ba-dật-đề; như Đột-kiết-la thì không tương tợ với Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề hay Ba-la-đề-đề- xá-ni. Đó gọi là phạm tội không tương tợ”, lại hỏi: “Như Phật đã dạy có hai loại phạm là hữu lượng và bất khả lượng. Sao gọi là phạm hữu lượng?”, Phật bảo: “Loại phạm này nói được số”, lại hỏi: “Sao gọi là phạm bất khả lượng?”, Phật bảo: “Loại phạm này không thể nói được số”, lại hỏi: “Như Phật đã dạy có hai loại phạm là che giấu và không che giấu. Sao gọi là phạm che giấu?”, Phật bảo: “Loại phạm này là không phát lồ dù chỉ trong chốc lát”, lại hỏi: “Sao gọi là phạm không che giấu?”, Phật bảo: “Loại phạm này là không che giấu dù chỉ trong chốc lát. Này Ưu-ba-ly, có một loại phạm, tánh của mỗi mỗi tội khác nhau. Như tánh Ba-la-di, mỗi mỗi tội khác nhau; tánh Tăng-già-bà-thi- sa, mỗi mỗi tội khác nhau; tánh Ba-dật-đề, mỗi mỗi tội khác nhau; tánh Ba-la-đề-đề-xá-ni, mỗi mỗi tội khác nhau; tánh Đột-kiết-la, mỗi mỗi tội khác nhau”. Các Tỳ-kheo sau khi tác pháp Biệt trú cho người phạm rồi, liền sai họ quét dọn phòng xá nơi khác, khắp nơi ra vào nên nhiều người gặp. Phật bảo: “Cho người phạm pháp Biệt trú rồi, nên sai họ quét dọn phòng xá trong trú xứ, không được sai quét dọn phòng xá nơi khác”. Lúc đó người hành Biệt trú ở chỗ khuất nên Tỳ-kheo khách đến không thấy, Phật bảo: “Không nên cho người hành Biệt trú ở chỗ khuất, nên cho ở chỗ mà khách Tỳ-kheo đến gặp được”. Lúc đó người hành Biệt trú tự kêu khách Tỳ-kheo nên làm náo loạn, Phật bảo: “Không được kêu người khác, chỉ nói cho họ biết là mình đang hành Biệt trú”. Lúc đó khách Tỳ-kheo đi, người hành Biệt trú liền chạy theo, Phật bảo: “Không nên chạy theo, nên đi như thường”. Lúc đó người hành Biệt trú chạy theo ra khỏi giới, Phật bảo: “Không được ra khỏi giới. Từ nay hành pháp của người hành Biệt trú là nên tưới quét bụi đất nơi tháp Phật, nơi bố tát, nơi Tăng ăn, nên trải tòa ngồi theo thứ lớp, đổ đầy chậu nước rửa chân, bình nước sạch, bình nước thường dùng; khi có khác Tỳ-kheo đến nên nói cho họ biết mình là người hành Biệt trú; nên lau giày phú la, lau chân… nên hành tất cả hành pháp. Phải ở chỗ khuất, không nên xuất hiện ỡ chỗ đông người”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Người hành Biệt trú có được làm yết ma Biệt trụ, Ma-na-đỏa, Bổn nhật trị và Xuất tội cho người khác không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Sa-di đắc giới có được làm yết ma Biệt trụ, Ma-na-đỏa, Bổn nhật trị và Xuất tội cho người khác không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được đến bên người hành Biệt trú để hành Biệt trú không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được đến bên Sa-di đắc giới để hành Biệt trụ và Ma- na-đỏa không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được gởi dục thanh tịnh, thọ tuế và xuất tội cho người hành Biệt trú không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được gởi dục thanh tịnh, thọ tuế và xuất tội cho Sa-di đắc giới không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được nhận dục thanh tịnh, thọ tuế và xuất tội của người hành Biệt trú không?”, Phật bảo không được, lại hỏi: “Có được nhận dục thanh tịnh, thọ tuế và xuất tội của Sa-di đắc giới không?”, Phật bảo: “Chỉ được thọ dục của vị đại Tỳ-kheo”. Lại hỏi: “Dùng vật gì để làm quai nắm của cửa?”, Phật bảo: “Nên dùng đồng, sắc, gỗ, hoặc dùng lông chiên, cỏ Sô ma, Kiếp bối, cỏ Văn xà, cỏ Bà sa để làm”, lại hỏi: “Nên dùng vật gì làm dây đan?”, Phật bảo: “Dùng lông chiên, cỏ Sô ma, Kiếp bối, cỏ Văn xà, cỏ Bà sa để làm”, lại hỏi: “Nên dùng vật gì làm dây thiền?”, Phật bảo: “Dùng lông chiên, cỏ Sô ma, Kiếp bối, cỏ Văn xà, cỏ Bà sa để làm”. Lúc đó vua Bình sa thỉnh Phật và Tăng cúng dường để cầu sống lâu trăm tuổi, những người được cung cấp cho Tăng ít lòng tin nên làm thức ăn cho Tăng không như pháp, làm não loạn các Tỳ-kheo, nhiều người nhìn thấy. Vua vốn có lòng tin nên hỏi các Tỳ-kheo: “Các thầy bị não loạn phải không?”, đáp là phải, vua nói: “Tôi cũng biết các thầy bị não loạn, tôi sẽ cung cấp ruộng nhà đầy đủ”, các Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho chúng tôi thọ ruộng nhà”, liền bạch Phật, Phật bảo được thọ. Lại có cư só làm phòng xá trong tinh xá Kỳ-hoàn xong liền cúng dường cho Tăng y thực, ngọc cụ và thuốc men. Tỳ-kheo chủ tăng phường sáng hôm sau đến nhà cư só đòi hỏi những vật cần dùng, vợ cư só mời ngồi rồi ngồi phía trước muốn nghe pháp, Tỳ-kheo này liền uyển chuyển nói pháp vi diệu, nhờ biện tài thuyết pháp khiến cho vợ cư só được tín tâm thanh tịnh, bạch rằng: “Chúng tôi là vợ cư só cùng con trai con gái vì đại đức nên cúng dường số y này cho Tăng trong Tăng phường”, Tỳ-kheo suy nghó: “Ta chỉ cần một y mà số vải này lại nhiều”, liền đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nếu cư só làm Tăng phường vì một Tỳ-kheo mà cúng dường cho Tăng trong Tăng phường thì Tăng nên cùng chia”. Lúc đó Tăng phường ở nước A-la-tỳ bị hư hoại, Phật hỏi A-nan nguyên do, A-nan bạch: “Do Lục quần Tỳ-kheo thủ hộ nên không ai chịu tu sửa”, Phật bảo: “Nếu Lục quần Tỳ-kheo không tu sửa thì nên giao lại cho người khác tu sửa”. Khi giao cho người khác tu sửa thì người này chỉ làm ít việc như trộn ít bùn với ít cỏ để tô trét một vài chỗ trên đất hoặc trên vách tường. Phật bảo: “Không nên giao cho người làm chút ít việc, nên giao cho người làm nhiều việc”. Tăng lại giao việc này làm trọn đời, Phật bảo: “Không nên giao việc này làm trọn đời, cũng không nên giao việc này làm trong một thời gian ngắn. Nếu phòng xá hư hoại thì nên giao việc trong vòng sáu năm; nếu phòng xá còn mới thì nên giao việc trong vòng mười hai năm”. Có Tỳ-kheo nước A-la-tỳ vốn là thợ khéo, ngày nào cũng theo người khác mượn đồ nghề, các cư só nói: “Vì sao thầy không tự cất chứa đồ nghề”, Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho cất chứa đồ nghề”, bạch Phật, Phật bảo cho cất chứa. Lúc đó ở nước A-la-tỳ làm Tăng phường mới, có thợ làm công nữa tháng, có thợ làm công một tháng, có thợ làm công một năm. Gặp lúc trời mưa, họ đòi thức ăn, củi đốt và đèn; Tỳ-kheo khi cho tâm nghi, sợ tội nên không muốn cho, nhưng nếu không cho thì họ không chịu làm, liền bạch Phật, Phật bảo: “Nếu biết được sớm tối, kêu họ đến làm thì nên cho”. Có Tỳ-kheo mặc y mới nhuộm, lúc trời đang mưa đứng nơi đất trống rửa chân, y bị ướt mất màu, loang lỗ như bịnh bạch lại, Phật bảo nên làm phòng nhà, làm nhà xong chưa lợp lại gặp mưa liền bị dột, Phật bảo nên lợp, lợp rồi trên nóc vẫn bị dột, Phật bảo nên lợp dầy trên nóc. Tăng phường ở thành Vương xá rộng lớn nên thường có khách tăng lui tới hoặc đầu đêm, hoặc giữa đêm, cuối đêm. Khi đến các thượng tòa liền đánh thức vị hạ tòa đuổi ra khiến sanh não loạn, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nếu khi đánh kiền chùy báo giờ rồi, đã thắp đèn, chia ngọa cụ, trải ngọa cụ xong, sao mọc, thiền trấn đã đặt trên đầu. Lúc đó Thượng tòa đến không được đánh thức hạ tòa đuổi ra, nếu đánh thức đuổi ra thì phạm Đột-kiết-la”. Có Hạ tòa ngồi trên chỗ Thượng tòa, Thượng tòa quở trách: “Tại sao hạ tòa lại ngồi trên chỗ Thượng tòa”, bạch Phật, Phật bảo: “Hạ tòa không được ngồi trên chỗ Thượng tòa, nếu ngồi thì phạm Đột-kiết-la. Hạ tòa nên xem chỗ ngồi, xét tuổi hạ rồi ngồi vào chỗ ngồi của mình”. Lúc đó Thượng tòa nước A-la-tỳ đầu đêm ngồi thiền, giữa đêm trở về phòng, đệ tử tiễn Thượng tòa đi. Hạ tòa và Sa-di liền từ chỗ ngồi đứng dậy lên giường nằm, không ngờ Thượng tòa quay trở lại, theo thứ lớp đánh thức họ đuổi ra, họ không chịu đi nên sanh náo loạn, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nếu giữa đêm họ đã trải ngọa cụ rồi thì không được theo thứ lớp đánh thức họ dậy đuổi ra, nếu đánh thức đuổi ra thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó ở những chỗ như chỗ đại tiểu tiện, chỗ lấy nước, chỗ rửa chân… Lục quần Tỳ-kheo đều theo thứ lớp Thượng tòa mà bảo họ đứng dậy đuổi đi để giành chỗ khiến sanh náo loạn, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay ở những chỗ như chỗ đại tiểu tiện… không được theo thứ lớp bảo đứng dậy đuổi đi, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la”. Những vật của Tăng như giẻ lau chân, nồi, muỗng, chậu, bồn, bình cho đến dao cạo tóc, nhíp, dao cắt móng tay, vải trải giường, kim khâu, lư hương, ống kim… Lục quần Tỳ-kheo đều theo thứ lớp bậc Thượng tòa mà đoạt lấy để dùng trước khiến sanh tranh cải náo loạn, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Vật của Tăng nếu có người lấy dùng trước rồi thì người đến sau phải đợi họ dùng xong mới được lấy, không được đoạt lấy từ người khác, nếu đoạt lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó trưởng lão Tất-lân-già-bà-ta bịnh đau mũi, thầy thuốc bảo dùng thuốc nhỏ vào mũi, trưởng lão dùng ngón tay hoặc dùng cọng lông chấm thuốc để nhỏ, không vào trong được nên bịnh nặng thêm, bạch Phật, Phật bảo nên dùng ống tre, ống tre lớn nên làm nhỏ lại, khi nhỏ thuốc đều đổ ra ngoài, không vào trong mũi được, Phật bảo: “Không nên lớn quá, cũng không nên nhỏ quá, nên làm khoảng chừng một ba la hoặc nữa Ba-la”. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo vào nhà tắm nói với nhau: “Người này lau cho người kia…”, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Vào trong nhà tắm không được nói người này lau cho người kia…, nếu nói như thế thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó có Tỳ-kheo cùng bạch y rửa trong nhà tắm, thấy Tỳ-kheo hạ tòa và Sa-di đang lau cho Thượng tòa, bạch y liền nói: “Chỉ lau chỗ đó thôi ư, nên lau thêm những chỗ như vậy, như vậy”, các Tỳ-kheo nghe rồi trong lòng không vui, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay không được cùng bạch y rửa trong nhà tắm, ai như thế thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó có một Ưu-bà-tắc bịnh, muốn vào nhà tắm rửa, Phật bảo nên bạch Tỳ-kheo, đến bạch thì Tỳ-kheo không cho, Phật bảo: “Nếu Tỳ-kheo biết Ưu-bà-tắc này tốt, miệng không nói lỗi thì cho vào”. Lúc đó có Tỳ-kheo lau cho bạch y trong nhà tắm, Phật bảo: “Không được làm thế, nếu làm thì phạm Đột-kiết-la”. Ở nước A-la-tỳ khi chia ngọa cụ, có nhiều khách Tỳ-kheo đến trễ, vì ngọa cụ ít nên không được chia, Phật bảo: “Nên theo thứ lớp từ bậc Thượng tòa mà cho, ai không được thì cho lá cỏ để tự trải, mỗi người nên mặc áo lót thân”. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo dùng đá bọt kỳ cọ làm rụng lông, Phật bảo: “Không được dùng, nếu dùng thì phạm Đột-kiết- la”. Lúc đó ở nước Tỳ-da-ly trong vườn cây trái Am-la, trái chín vàng rụng đầy trên đất, Phật hỏi A-nan: “Vì sao các Tỳ-kheo không ăn trái này”, A-nan bạch Phật: “Trước đây Phật có chế, bốn loại vật Tăng cho đến ba, hai, một người đều không được chia, đó là đất của Tăng, nhà của Tăng, vườn cây của Tăng và ngọa cụ của Tăng”, Phật bảo: “Nhưng trái cây thì được chia”. Khi chia trái cây, có người lấy phần của hai, ba người nên có người được nhiều, có người không được nên sanh tranh cãi, Phật bảo: “Từ nay trái cây không được chia, nên bảo tịnh nhơn làm năm loại tịnh rồi thọ lấy ăn”. Có Tỳ-kheo tranh cãi với một Tỳ-kheo, sau đó lại tranh cãi với Tỳ-kheo khác rồi nắm lỗ tai của người này để đối chứng, người này la lên, các Tỳ-kheo đến hỏi nguyên do, đáp là Tỳ-kheo này đánh tôi, liền hỏi có đánh không, đáp: “Tôi không có đánh, chỉ là nắm lấy lỗ tai để đối chứng mà thôi, Tỳ-kheo này muốn vu báng nên mới la lên như vậy”, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay không được nắm lỗ tai của người để đối chứng, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la. Nếu có việc gì thì nên nói với người bên cạnh là Tỳ-kheo này mắng tôi, đánh tôi”. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo dụ đệ tử của người khác, các Thượng tòa quở trách: “Làm sao giáo hóa được đệ tử như pháp khi mà Lục quần Tỳ-kheo dụ dẫn đi”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay không được dụ đệ tử của người khác, nếu dụ thì phạm Đột-kiết-la ”. Lúc đó có Tỳ-kheo bỏ Tăng phường đi và nói là không trở lại nữa, trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Như vậy có gọi là xả cương giới không?”, Phật bảo có, lại hỏi: “Dùng vật gì làm dùi, dao?”, Phật bảo dùng đồng sắt làm, lại hỏi: “Dùng vật gì làm cái đấu, cái hũ, cái nồi?”, Phật bảo dùng đồng sắt bùn đất để làm, lại hỏi: “Dùng vật gì làm tháo đậu?”, Phật đáp như trong pháp Tạp đã nói. Tại nước Kiều-tát-la có hai cha con cùng xuất gia, người cha đòi con cho y thực, người con nói: “Đầu cùng xuất gia nên không có y thực để cho”, Phật bảo: “Nếu có thì nên cho, không có thì không nên cưỡng đòi”. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo có nuôi một Sa-di ở chỗ kín mọc lông, vì hơi trái nghịch với thầy nên bị lột truồng sanh hổ thẹn, các Tỳ-kheo nghe rồi trong lòng không vui, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Không nên vì một việc nhỏ mà chiết phục Sa-di, nếu muốn chiết phục nên giữ lại y, không được lột truồng”. Lúc đó các Tỳ-kheo không có vật sàng thuốc, Phật bảo nên làm. Lúc đó cư só Cấp-cô-độc cúng nệm cho Tăng, các Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho chúng tôi thọ”, bạch Phật, Phật bảo: “Nên thọ, Tăng được thọ, một người cũng được thọ”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Trước đây Phật có chế dưới chân giường cao tám ngón tay, sao gọi là dưới chân giường cao tám ngón tay?”, Phật bảo: “Nếu chân giường cao chưa tới tám ngón tay thì nên kê bục cây”. Lúc đó có Tỳ-kheo đòi giá rồi mới sắc thuốc cho người uống, người này uống xong ói mữa mà chết, các Tỳ-kheo nói: “Thầy đã phạm Ba-la-di, vì sao, vì thầy đòi giá rồi mới sắc thuốc cho người uống”, Tỳ-kheo này sanh nghi không biết mình có phạm Ba-la-di không, đem việc này bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy dùng tâm gì sắc thuốc cho uống?”, đáp: “Vì thương xót mà sắc thuốc cho uống”, Phật bảo: “Không phạm, nhưng từ nay không được đòi giá trước rồi mới sắc thuốc cho người khác uống, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la”. Lại có Tỳ-kheo tháp tùng với đoàn thương nhân du hành từ nước Kiều-tát-la đến nước Xá-vệ, giữa đường gặp giặc cướp đánh cướp nhưng không giết người, Tỳ-kheo lấy y phục của họ bỏ lại, sanh nghi không biết mình có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật bảo không phạm. Tại nước Kiều-tát-la có cái gò mã cao, bên cạnh có miếu thờ trời mỗi khi cúng tế, người ta thường dùng máu rưới lên gò mã này. Lúc đó các Tỳ-kheo du hành từ nước Kiều-tát-la đến nước Xá-vệ ngang qua đây liền hữu nhiễu gò mã và tả nhiễu miếu thờ trời, người chủ đền thờ liền hỏi nguyên do, đáp: “Tôi cho là tháp Phật hay tháp Thanh văn”, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Không cần hữu nhiễu và tả nhiễu, chỉ nên theo đường mà đi”. Lại có Tỳ-kheo vào lúc thời thế mất mùa đói kém đến nhà bà con ở lại bốn, năm ngày rồi muốn trở về … như trong pháp Tạp đã nói. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo cho người không bát thọ giới cụ túc, trước đó Lục quần Tỳ-kheo cùng Thập thất quần Tỳ-kheo đã tranh cải nhau, Lục quần Tỳ-kheo tới phiên giữ Tăng phường, còn Thập thất quần Tỳ-kheo tới phiên đưa thức ăn tới nên đến chỗ họ đòi lấy bát, Tỳ-kheo không bát này liền hỏi: “Lấy bát để làm gì?”, đáp là để lấy thức ăn của thí chủ cúng đưa đến, Tỳ-kheo này đáp là không có bát, liền hỏi: “Thầy không có bát mà được xuất gia sao?”, đáp là đúng vậy, Thập thất quần Tỳ-kheo nói: “Thầy quả là người đại trí đức, không có bát mà được xuất gia”, Tỳ-kheo này nghe rồi trong lòng không vui, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay người không có bát không được cho xuất gia thọ giới cụ túc, nếu cho thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó có hai Tỳ-kheo tranh cãi nhau, người này viết tên của người kia trên bát rồi đem để trước cửa nhà dâm nữ, cư só ra vào nhà này nhìn thấy bát này liền nói: “Tỳ-kheo cũng ra vào nhà này”, các Tỳ- kheo nghe rồi trong lòng không vui, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay không được viết tên trên bát, nếu viết thì phạm Đột-kiết-la; tất cả các vật khác cũng vậy, làm dấu thì không phạm”. Lúc đó có ngoại đạo tín tâm đến chỗ Tỳ-kheo cầu xuất gia, Tỳ- kheo hỏi có bát không, đáp là không có, Tỳ-kheo nói: “Phật không cho độ người không có bát xuất gia”, người này nghe rồi liền bỏ đi, do duyên này nên không xuất gia nữa, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Không nên hỏi bát trước, nên độ xuất gia rồi mới hỏi bát”. Lúc đó cư só Cấp-cô-độc cúng mền cho Tăng, các Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho chúng tôi thọ”, bạch Phật, Phật bảo: “Nên thọ, Tăng được thọ, một người cũng được thọ”. Lúc đó có con trai của một cư só xuất gia, cư só này bịnh trước khi mất có nói với bà con rằng: “Sau khi tôi mất, tài sản đã có sẽ cho con trai tôi”. Khi người con trai là Tỳ-kheo trở về thăm nhà, bà con tới nói rõ nguyên do, Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho tôi thọ vật bố thí của người sau khi chết”, liền đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nếu vì bạch y thì được tùy ý thọ”. Lúc đó các Tỳ-kheo du hành trong vòng hai tháng, một Tỳ-kheo quen biết với Lục quần Tỳ-kheo liền đem y gởi cho Lục quần Tỳ-kheo để đi du hành… như trong pháp Tạp đã nói. Lúc đó Tỳ-kheo-ni trợ giúp Điều đạt nói với bạch y: Tôi cùng ông tác hợp hôn nhân, các cư só trách: “Cô là người xuất gia sao lại nói cùng tôi tác hợp hôn nhân”, bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay Tỳ-kheo-ni không đuợc nói với bạch y là cùng tác hợp hôn nhân, nếu nói thế thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó có một Tỳ-kheo trước có hứa đưa cho cư só tiền y, chưa kịp đưa thì qua đời, cư só này đến đòi, Phật bảo: “Nếu đòi thì lấy của tăng đưa cho họ”. Lại có Tỳ-kheo lấy vải của người mà chưa đưa tiền thì qua đời, cư só này đến đòi, các Tỳ-kheo nói: “Sao lúc còn sống không đến đòi”, Phật bảo: “Nếu vải còn thì đưa trả vải lại, nếu không còn thì bán y bát của người chết mà trả lại tiền vải”. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo cắt tóc, lấy hoa làm lễ kết bái với ba- ïch y bị các cư só chê trách, Phật bảo: “Từ nay không được cắt tóc, lấy hoa làm lễ kết bái với bạch y, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó có một Tỳ-kheo quen biết với Lục quần Tỳ-kheo, đem bát của một Tỳ-kheo khác gởi cho Lục quần Tỳ-kheo, giữa đường làm bể bát này. Tỳ-kheo chủ của bát đó gặp Lục quần Tỳ-kheo suy nghó: “Ta không nên tự nói hay là nên đòi đền tiền nhiều”, nghó rồi nó rằng: “Tỳ-kheo tên đã gởi bát của tôi cho thầy, giữa đường thầy đã làm bể bát”, Lục quần Tỳ-kheo liền nói: “Bát của thầy không bể mà là bể bát của tôi, giờ thầy phải đền lại cho tôi”, Tỳ-kheo này không biết làm sao liền bạch Phật, Phật bảo: “Nếu vì lòng tốt mang giúp, lỡ bị bể thì không nên đòi bồi thường”. Lúc đó có Tỳ-kheo dùng bát chưa nung thọ thực, khi bát rớt xuống nhơ nhớp phát sanh, Phật bảo nên nung bát. Có Tỳ-kheo để bát trên đất, chung quanh để phân bò đốt để nung, bát liền bể, Phật bảo nên làm lò nung bát, làm lò xong, khi nung bát liền bể nát, Phật bảo nên để bát trong tro, bát bị phủ tro nên dơ, Phật bảo nên dùng đá chêm ở dưới, khi chêm đá không che ngăn chung quanh nên gió luồn vào, trên bát hiện những lằn nhăn, Phật bảo nên che kín chung quanh. Lúc đó Cấp-cô-độc đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, trong thời gian Phật du hành giáo hóa, con muốn thấy Phật hiện tiền nên xin Phật lưu lại ít vật để con được cúng dường”, Phật liền đưa cho ít tóc và móng tay, Cấp-cô-độc lại bạch: “Xin cho con xây tháp thờ tóc và móng tay”, Phật cho xây, lại bạch: “Xin cho con được họa vẽ lên tháp”, Phật bảo: “Trừ vẽ hình tượng nam nữ giao hợp, các hình tượng đều được vẽ”. Lúc đó có người làm lọng cúng dường tháp nhưng không có chỗ để, Phật bảo nên đóng cọc trụ. Lúc đó cửa tháp không có cánh cửa nên bò nai, khỉ… vào trong tháp, Phật bảo nên làm cánh cửa. Lại xin Phật cho làm lan can trước cửa tháp, Phật cho làm; lại xin Phật cho làm chỗ để hoa, Phật cho làm, lại cho làm dây treo hoa chung quanh tháp. Lại có cư só xin Phật cho làm vòng châu ma ni hay tràng hoa cúng dường tháp, Phật cho làm; lại xin Phật cho làm hầm trong tháp, Phật cho làm; lại xin Phật cho làm cột trụ, cho đến dùng đất đỏ với vôi trắng và họa vẽ để trang nghiêm trên cột trụ, Phật đều cho làm. Lúc đó Cấp-cô-độc bạch Phật: “Thế tôn, nếu hình tượng thân Phật không cho làm thì xin cho con làm hình tượng Bồ tát”, Phật cho làm; lại xin cho làm cờ phướn dẫn đi trước, Phật cho làm; lại xin Phật cho xây ụ đất để tượng sư tử trước tháp và làm lan can chung quanh tượng, Phật đều cho làm; lại xin Phật cho đúc tượng sư tử bằng đồng và cột cờ phướn trên tượng, Phật đều cho làm. Lại xin Phật cho dùng hương hoa kỹ nhác cúng dường, Phật cũng cho làm. Lại xin Phật cho dùng nước thơm dầu thơm rưới lên đất tháp, Phật cho dùng. Lại xin Phật cho làm chỗ để đèn, để hoa… Phật đều cho làm. Lúc đó bà con của Cấp-cô-độc sai người mang mâm hương hoa, anh lạc đến, cư só suy nghó: “Nếu Phật cho mang hương hoa anh lạc này dẫn đi trước thì tốt”, bạch Phật, Phật cho, như thế cho đến xin Phật cho bưng lư hương, tấu kỹ nhạc dẫn đi trước Phật đều cho làm. Lại xin Phật cho tập họp đại chúng để cúng dường y thực, như thế cho đến xin Phật cho mở hội Ban xà vu sắt, mở hội sáu năm, mở hội từ ngày 1sáu tháng giêng cho đến ngày mười lăm tháng hai và mở hội trong chùa để cúng dường, Phật đều cho làm. Lúc đó các Tỳ-kheo không theo thứ lớp vào, ngồi, ăn, đứng dậy và đi ra, có vị vào trước, có vị đang lúc dọn đưa thức ăn mới vào, có vị vào lúc đang ăn, lại có vị vào lúc đã ăn xong, Phật bảo nên báo giờ. Khi báo giờ, ở xa không nghe được, Phật bảo nên đánh kiền chùy; ở xa cũng không nghe được, Phật bảo nên đánh trống; trống để dưới đất đánh, ở xa cũng không nghe được, Phật bảo nên để trống trên giá đánh; vẫn không nghe xa được, Phật bảo nên đễ trên chỗ cao. Khi để trên chỗ cao đánh, khắp nơi đều được nghe nên khi đại chúng nhóm họp, mọi người đều tụ đến cúng dường rất nhiều tài vật cho tháp, cho Tăng tứ phương, vật thực và y vật nên chia. Lúc đó các Tỳ-kheo không phân biệt được vật nào là của tháp, vật nào là của tăng bốn phương, vật nào để ăn, vật nào nên chia. Phật bảo nên sai một Tỳ-kheo đứng nơi đó xem xét để phân biệt được, không có lẫn lộn. Lúc đó trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Thế tôn, bốn loại vật của tháp, vật của Tăng bốn phương, vật để ăn, vật nên chia có được dùng lẫn lộn nhau hay không?”, Phật bảo: “Không được, vật của tháp không được dùng cho tăng bốn phương, dùng để ăn và chia; vật của Tăng bốn phương cũng không được dùng để ăn, chia và dùng cho tháp; vật để ăn cũng không được chia, dùng cho tháp và cho Tăng bốn phương; vật nên chia thì tùy Tăng thọ dụng”. Một Pháp: Khi nói một lời xong liền gọi là xả giới. Sao gọi là nói một lời xong liền gọi là xả giới?: Như nói xả Phật, hoặc nói xả Pháp, xả tăng cho đến nói xả Hòa thượng, A-xà-lê, đồng Hòa thượng, đồng A-xà- lê, xả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni cũng như vậy. Khi nói tôi là bạch y, là Sa-di, không phải Tỳ-kheo…, khi nói một lời này liền gọi là xả giới. Nếu Tỳ-kheo quen biết nhiều, có thế lực lớn, nói ra lời gì mọi người đều tín thọ, được nhiều người biết đến, có thể cung cấp cho Tăng. Nếu người này phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi luật nói là luật, luật nói là phi luật; không phạm nói là phạm, phạm nói là không phạm; khinh nói là trọng, trọng nói là khinh; hữu tàn nói là vô tàn, vô tàn nói là hữu tàn; pháp thường làm nói là không phải pháp thường làm; phi thuyết nói là thuyết, thuyết nói là phi thuyết thì người này mắc tội lớn. Nếu Tỳ-kheo quen biết nhiều, có thế lực lớn, nói ra lời gì mọi người đều tín thọ, được nhiều người biết đến, có thể cung cấp cho Tăng. Tỳ-kheo này phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp, phi luật nói là phi luật, luật nói là luật, phạm nói là phạm, không phạm nói là không phạm, tội khinh nói là khinh, tội trọng nói là trọng, tội vô tàn nói là vô tàn, tội hữu tàn nói là hữu tàn, pháp thường sở hành nói là pháp thường sở hành, pháp không phải thường sở hành nói không phải là pháp thường sở hành, thuyết nói là thuyết, phi thuyết nói là phi thuyết thì sẽ được công đức lớn. Nếu Tỳ-kheo quen biết nhiều, có thế lực lớn, nói ra lời gì mọi người đều tín thọ, được nhiều người biết đến, có thể cung cấp cho Tăng. Nếu người này phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp… cho đến thuyết nói là phi thuyết, thì người này không thể tự lợi lợi tha, không thể làm lợi ích cho nhiều người, không thể thương xót chúng sanh, không thể làm lợi ích an lạc cho trời người. Nếu Tỳ-kheo quen biết nhiều, có thế lực lớn, nói ra lời gì mọi người đều tín thọ, được nhiều người biết đến, có thể cung cấp cho Tăng. Nếu người này phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp… cho đến thuyết nói là thuyết, thì người này có thể tự lợi lợi tha, có thể làm lợi ích cho nhiều người, có thể thương xót chúng sanh, có thể làm lợi ích an lạc cho trời người. Nếu Tỳ-kheo quen biết nhiều, có thế lực lớn, nói ra lời gì mọi người đều tín thọ, được nhiều người biết đến, có thể cung cấp cho Tăng. Nếu người này phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp… cho đến thuyết nói là phi thuyết, thì người này có tội, có phạm, có hối, những việc đã làm do tâm phiền não nên sanh tâm hối là không thanh tịnh, không giải thoát, làm tổn giảm không có tăng trưởng, tự hổ thẹn, thối thất, bị mọi người khinh chê vì người này tạo các tội nghiệp. Nếu Tỳ-kheo quen biết nhiều, có thế lực lớn, nói ra lời gì mọi người đều tín thọ, được nhiều người biết đến, có thể cung cấp cho Tăng. Nếu người này phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp… cho đến thuyết nói là thuyết, thì người này không có tội, không có phạm, không có hối, những việc đã làm không do tâm phiền não nên không sanh tâm hối là thanh tịnh, giải thoát, không làm tổn giảm, được tăng trưởng, được mọi người khen ngợi vì người này tạo các thiện nghiệp. Như lai ra đời, hiện pháp Tỳ-ni không phải nói giới một lần, mà là nói dần dần. Như lai ra đời, hiện pháp Tỳ-ni không phải phá một lần, mà là phá dần dần. Nếu Tỳ-kheo quen biết nhiều, có thế lực lớn, nói ra lời gì mọi người đều tín thọ, được nhiều người biết đến, có thể cung cấp cho Tăng. Nếu ở trong hiện pháp Tỳ-ni của Như lai, khởi tưởng khác; ở trong văn tự lại làm câu văn tương tợ, ngăn che pháp, không tùy thuận pháp, lời họ nói ra không rõ ràng, thì đây là hạng người biên địa thấp hèn, không có ích cho đời, không có hạnh nam tử. Nếu Tỳ-kheo quen biết nhiều, có thế lực lớn, nói ra lời gì mọi người đều tín thọ, được nhiều người biết đến, có thể cung cấp cho Tăng. Nếu ở trong hiện pháp Tỳ-ni của Như lai, không khởi tưởng khác; ở trong văn tự lại không làm câu văn tương tợ, không ngăn che pháp, tùy thuận pháp, lời họ nói ra rõ ràng, thì đây không phải là hạng người biên địa thấp hèn, có ích cho đời, có hạnh nam tử. Phật tại nước Thích-ca, Bà-đại ái đạo đến chỗ Phật bạch rằng: “Thế tôn, xin trụ ở đời một kiếp”, Phật nói: “Bà không nên tán thán Như lai như vậy, lời tán thán này không phải là lời tốt lành. Bà không nên dùng lời này tán thán Như lai, vì đây không phải là pháp tán thán Như lai”. Có một pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một; đó là phá Tăng. Có một pháp khiến chánh pháp không bị diệt vong, mai một; đó là hòa hợp Tăng. Có một pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một; đó là đấu tranh. Như thế tranh cải, mắng chửi nhau, nói xấu lẫn nhau đều khiến cho chánh pháp diệt vong, mai một. Có một pháp khiến chánh pháp không bị diệt vong, mai một; đó là không đấu tranh. Như thế không tranh cải, không mắng chửi nhau, không nói xấu lẫn nhau đều khiến cho chánh pháp không bị diệt vong, mai một. Có một pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một; đó là tham. Như thế đa dục, không biết đủ, ác dục, ác kiến đều khiến cho chánh pháp bị diệt vong, mai một. Có một pháp khiến chánh pháp không bị diệt vong, mai một; đó là không tham. Như thế thiểu dục, tri túc, không ác dục, không ác kiến đều khiến cho chánh pháp không bị diệt vong, mai một. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo đấu tranh, tranh cãi, mắng chửi nhau, nói xấu lẫn nhau thì địa phương đó không nên nghe nói đến huống chi là nhớ nghó. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo đấu tranh, tranh cãi, mắng chửi nhau, nói xấu lẫn nhau thì địa phương đó không nên nhớ nghó huống chi là đi đến. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo không đấu tranh, không tranh cãi, không mắng chửi nhau, không nói xấu lẫn nhau thì địa phương đó nên nghe nói đến; không những nên nghe nói đến mà còn nhớ nghó đến; không những nhớ nghó đến mà còn đi đến đó. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo đấu tranh, tranh cãi, mắng chửi nhau, nói xấu lẫn nhau thì thật biết địa phương đó đã xả ba pháp và thọ ba pháp. Xả ba pháp là xả ngăn dục giác, xả ngăn sân giác, xả ngăn tật đố giác. Thọ ba pháp là thọ dục giác, thọ sân giác, thọ tật đố giác. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo không đấu tranh, không tranh cãi, không mắng chửi nhau, không nói xấu lẫn nhau thì thật biết địa phương đó đã xả ba pháp và thọ ba pháp. Xả ba pháp là xả dục giác, xả sân giác, xả tật đố giác. Thọ ba pháp là thọ ngăn dục giác, thọ ngăn sân giác, thọ ngăn tật đố giác. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo đấu tranh, tranh cãi, mắng chửi nhau, nói xấu lẫn nhau thì thật biết địa phương đó đã xả ba pháp và thọ ba pháp. Xả ba pháp là xả ngăn dục tưởng, xả ngăn sân tưởng, xả ngăn tật đố tưởng. Thọ ba pháp là thọ dục tưởng, thọ sân tưởng, thọ tật đố tưởng. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo không đấu tranh, không tranh cãi, không mắng chửi nhau, không nói xấu lẫn nhau thì thật biết địa phương đó đã xả ba pháp và thọ ba pháp. Xả ba pháp là xả dục tưởng, xả sân tưởng, xả tật đố tưởng. Thọ ba pháp là thọ ngăn dục tưởng, thọ ngăn sân tưởng, thọ ngăn tật đố tưởng. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo đấu tranh, tranh cãi, mắng chửi nhau, nói xấu lẫn nhau thì thật biết địa phương đó đã xả ba pháp và thọ ba pháp. Xả ba pháp là xả ngăn dục giới (cõi), xả ngăn sân giới, xả ngăn tật đố giới. Thọ ba pháp là thọ dục giới, thọ sân giới, thọ tật đố giới. Tùy địa phương nào có Tỳ-kheo không đấu tranh, không tranh cãi, không mắng chửi nhau, không nói xấu lẫn nhau thì thật biết địa phương đó đã xả ba pháp và thọ ba pháp. Xả ba pháp là xả dục giới, xả sân giới, xả tật đố giới. Thọ ba pháp là thọ ngăn dục giới, thọ ngăn sân giới, thọ ngăn tật đố giới. Hai Pháp: Có hai pháp mà kẻ vô trí phạm tội, đó là không tự thấy lỗi mình và không sám hối tội này. Có hai pháp mà người có trí phạm tội, đó là tự thấy tội và có thể như pháp sám hối tội này. Có hai loại phạm là phạm khinh và phạm trọng. Có hai loại phạm là phạm tội Hữu tàn và phạm tội Vô tàn. Có hai loại phạm là phạm tội có thể đối trước người khác sám hối và phạm tội có thể tâm niệm sám hối. Có hai loại chúng là chúng như pháp và chúng phi pháp. Lại có hai loại chúng là chúng trược (đục, dơ không thanh tịnh) và chúng thanh tịnh. Có hai loại Tăng là Tăng khổ trụ, không phải lạc trụ, thường phạm tội, không tùy thuận giáo mà tùy thuận ác pháp; và Tăng lạc trụ, không phải khổ trụ, không thường phạm tội, tùy thuận giáo, không tùy thuận ác pháp. Có hai hạng người vô trí là nên hối lỗi mà không hối lỗi và không nên hối lỗi lại hối lỗi. Có hai hạng người có trí là nên hối lỗi liền hối lỗi và không nên hối lỗi thì không hối. Có hai hạng người vô trí là có phạm và có che giấu. Có hai hạng người có trí là không phạm và không che giấu. Người vô trí che giấu thì có hai quả báo là địa ngục và ngạ quỷ; người có trí không che giấu thì có hai quả báo là cõi trời, người. Phật bảo; “Lời ta nói ra vì không tín thọ nên che giấu; nếu che giấu thì không lìa sanh, già, bịnh, chết, ưu bi khổ não. Ngược lại, lời ta nói ra nếu tín thọ thì không che giấu; nếu không che giấu thì sẽ lìa sanh, già, bịnh, chết, ưu bi khổ não”. Có hai loại thiện là biết phạm và biết sám hối. Có hai loại thanh tịnh là giới thanh tịnh và kiến thanh tịnh. Có hai loại thấy phi pháp: Phi pháp thấy là pháp và pháp thấy là phi pháp. Có hai loại thấy như pháp: Phi pháp thấy là phi pháp và pháp thấy là pháp. Có hai loại Tỳ-ni là Tỳ-ni tham dục và Tỳ-ni sân nhuế; lại có hai loại Tỳ-ni là Tỳ-ni Tỳ-kheo và Tỳ-ni Tỳ-kheo-ni; lại có hai loại Tỳ-ni là Tỳ-ni phổ biến và Tỳ-ni không phổ biến. Có hai pháp mà người quen biết nhiều có lỗi, đó là phi pháp cho là pháp và pháp cho là phi pháp. Có hai pháp mà người quen biết nhiều không có lỗi, đó là phi pháp cho là pháp và pháp cho là pháp. Có hai pháp mà người đoán sự (xử đoán sự việc) có lỗi, đó là phi pháp xử đoán là pháp, pháp xử đoán là phi pháp. Có hai pháp mà người đoán sự không có lỗi, đó là phi pháp xử đoán là phi pháp và pháp xử đoán là pháp. Có hai loại nói có lỗi, đó là phi pháp nói là pháp và pháp nói là phi pháp. Có hai loại nói không có lỗi, đó là phi pháp nói là phi pháp và pháp nói là pháp. Có hai loại người giáo hóa có lỗi, đó là phi pháp dạy là pháp và pháp dạy là phi pháp. Có hai loại người giáo hóa không có lỗi, đó là phi pháp dạy là phi pháp và pháp dạy là pháp. Có hai pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một; đó là Tỳ-kheo nghi pháp và nghi Tỳ-ni. Có hai pháp khiến chánh pháp không bị diệt vong, mai một; đó là Tỳ-kheo không nghi pháp và không nghi Tỳ-ni. Lại có hai pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một; đó là Tỳ-kheo dạy phi pháp cho người khác và dạy phi Tỳ-ni cho người khác. Lại có hai pháp khiến chánh pháp không bị diệt vong, mai một; đó là Tỳ-kheo dạy người khác như pháp và dạy người khác như Tỳ-ni. Có hai việc mà Phật ngăn dứt việc ăn biệt chúng, đó là làm lợi ích cho đàn việt, không để cho các ác Tỳ-kheo được thế lực và chúng tăng được thanh tịnh an lạc. Có hai việc mà Phật cho làm yết ma Khổ thiết, đó là khiến kẻ ác không được thế lực và người thanh tịnh được thế lực. Như thế cho làm các loại yết ma như yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý, yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, yết ma Biệt trụ, Ma-na-đỏa, Bổn nhật trị, yết ma Xuất tội đều là khiến cho kẻ ác không được thế lực và người thanh tịnh được thế lực. Có hai pháp đấu tranh: Phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp. Như thế tranh cãi, mắng chửi, nói xấu nhau; nếu không dùng pháp và Tỳ-ni để trừ diệt thì Tăng sẽ bị phá, Tăng phiền não, Tăng chia rẽ, Tăng khác biệt. Có hai pháp không đấu tranh: Phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp. Như thế không tranh cãi, không mắng chửi, không nói xấu nhau; nếu dùng pháp và Tỳ-ni thì Tăng sẽ không bị phá, Tăng không phiền não, Tăng không chia rẽ, Tăng khác biệt. Có hai việc nên Phật dạy làm Hòa thượng, đó là hiện tại được thanh tịnh giới và vị lai được phạm hạnh lâu dài. Cũng như vậy A-xà-lê giáo giới Tỳ-ni, nói hoặc ngăn Ba-la-đề-mộc-xoa, Tự tứ hoặc ngăn Tự tứ, làm chứng tội của người, khiến người nhớ tội… làm các loại yết ma cho đệ tử cọng hành, đệ tử cận hành và Sa-di, trong hiện tại được thanh tịnh giới và vị lai được phạm hạnh lâu dài. Có hai việc nên Phật nói Hiện tiền Tỳ-ni, đó là hiện tại được thanh tịnh giới và vị lai được phạm hạnh lâu dài. Cũng như vậy nói Ức niệm Tỳ-ni, Bất si Tỳ-ni, Tự ngôn Tỳ-ni, Thật mích Tỳ-ni, Đa mích Tỳ-ni, Bố thảo Tỳ-ni, trong hiện tại được thanh tịnh giới và vị lai được phạm hạnh lâu dài. Có hai loại hủy báng Phật, đó là phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp. Có hai loại không hủy báng Phật, đó là phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp. Có hai loại nêu ra lỗi Phật, đó là phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp. Có hai loại không nêu ra lỗi Phật, đó là phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp. Có hai loại không theo lời Phật dạy, đó là phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp. Có hai loại thuận theo lời Phật dạy, đó là phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp. Có hai loại không theo Tỳ-ni, đó là phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp. Có hai loại thuận theo Tỳ-ni: Phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp. Có hai loại tội: Phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp. Có hai loại không tội: Phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp. Có hai loại vứt bỏ (khí): Tự mình bỏ những vật cần dùng và chúng Tăng như pháp hòa hợp tác pháp bảo vứt bỏ. Có hai loại không vứt bỏ: Tự mình không vứt bỏ và Tăng như pháp hòa hợp tác pháp bảo vứt bỏ mà không vứt bỏ. Có hai loại không ở chung: Tự mình phạm tội Bất cọng trụ và Tăng như pháp hòa hợp tác pháp không cho ở chung. Có hai loại ở chung: Tự mình làm hạnh ở chung và Tăng như pháp hòa hợp tác pháp cho ở chung. Có hai loại ở chung có lỗi: Tự mình phạm tội Bất cọng trụ mà ở chung và Tăng như pháp hòa hợp tác pháp không cho ở chung mà ở chung. Có hai loại ở chung không có lỗi: Tự mình làm hạnh ở chung và Tăng như pháp hòa hợp tác pháp cho ở chung. Có hai loại tổn: Tự mình làm tổn và Tăng như pháp hòa hợp tác pháp làm cho tổn. Có hai loại không tổn: Tự không làm tổn mình và Tăng như pháp hòa hợp tác pháp làm cho không tổn . Có hai loại người cuồng nên cho yết ma si, đó là người có nhớ nghó và người lúc nhớ nghó, lúc không nhớ nghó. Có hai loại cuồng từ căn bản, có hai loại cuồng do chú thuật, có hai loại cuồng do uống thuốc, có hai loại cuồng do tâm, có hai loại cuồng do thống khổ. Có hai loại bạch pháp hộ trì thế gian là có hổ và thẹn. Nếu hai bạch pháp này không hộ trì thế gian thì không phân biệt cha mẹ, anh em, chị em…, tức là phá pháp làm người giống như bò dê gà chó…. Nếu hai bạch pháp này hộ trì thế gian thì phân biệt được cha mẹ, anh em, chị em…, tức là không phá pháp làm người, không phải là bò dê gà chó…. Người không có hổ thẹn mà có bạch pháp nơi tâm thì không có lý đó; tâm không có bạch pháp thì chỉ có sanh tử, không có giải thoát. Người có hổ thẹn thì có bạch pháp nơi tâm; tâm có bạch pháp thì tâm thanh tịnh, không có sanh tử, được giải thoát, không thọ thân sau (hậu hữu). <篇> <卷>QUYỂN 49 TỲ NI TĂNG NHẤT Ba Pháp Có ba loại yết ma nhiếp hết các yết ma: Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma. Có ba hạng người nhất định đọa vào địa ngục: Một là người dùng pháp Ba-la-di không căn cứ vu bàng Tỳ-kheo phạm hạnh thanh tịnh . Hai là người sanh ác tà kiến nói rằng: “Ở trong các dục không tội”, nên người này dấn sâu vào phóng dật, buông lung theo ba dục. Ba là người xuất gia làm Tỳ-kheo lại phạm giới phá giới, bên trong thối nát hiển hiện ra bên ngoài; không phải Sa-môn mà tự nói là Sa-môn, không phải phạm hạnh mà nói là phạm hạnh. Lúc đó Phật muốn làm rõ nghóa này nên nói kệ: “Nói dối đọa địa ngục, Và phạm tội trọng khác, Người này ác, không thiện, Đời sau thọ tội báo. Luận về người thế gian, Búa sanh từ trong miệng, Trở lại tự chém thân, Đều do lời nói ác. Đáng chê lại khen ngợi, Đáng khen ngợi lại chê, Lỗi từ miệng nên suy, Bị suy, không thọ lạc. Như bị mất tài vật, Suy này vẫn còn ít, Ác khẩu nói người thiện, Suy này lại nặng hơn. Địa ngục Ni-phù-la, Kiếp số có mười vạn, Địa ngục A-phù-đà, Ba mươi sáu và năm. Tâm ác nói lời ác, Khinh chê bậc Thánh nhân, Mạng chung ắt phải đọa, Trong địa ngục như vậy”. Có ba loại làm chứng tội, đó là thấy, nghe và nghi làm chứng tội. Có ba pháp: Một là ca hát trong Tỳ-ni như pháp khóc, hai là cười hở răng trong Tỳ-ni như pháp cuồng, ba là lắc cánh tay múa trong Tỳ-ni như pháp con nít. Như lai có ba loại không cần thủ hộ, không thể biết, không thể thấy, đó là thân hành, khẩu hành và ý hành của Như lai thanh tịnh. Thế gian có ba loại giặc lớn (đại tặc) không ai bằng được, sống lâu càng tạo tội lớn, người không thể bắt được: Một là loại giặc trụ nơi hoang dã, nơi rừng cây rậm rạp. Hai là loại giặc trụ nơi hiểm trở có sông nước quanh co. Ba là loại giặc dựa vào sức mạnh. Tỳ-kheo xấu ác cũng có ba loại như vậy, sống lâu tuổi cao càng tạo tội lớn mà Tăng không thể diệt tẫn được: Một là loại giặc trụ nơi hoang dã, tức là người xuất gia làm Tỳ- kheo lại phám giới phá giới, bên trong thối nát hiển hiện ra bên ngoài; không phải Sa-môn mà tự nói là Sa-môn, không phải phạm hạnh mà nói là phạm hạnh. Hai là loại giặc trụ nơi hiểm trở, tức là người sanh tà kiến, nói không thật, thấy và nói rằng: “Không có bố thí, không tin nhân quả, không tin thiện ác, không có cha mẹ ở thế gian, không có A-la-hán, không có Tu-đà-hoàn, không có Tư-đà-hàm, không có A-na-hàm, không có đời này, không có đời sau, không có pháp chứng đắc”. Ba là loại giặc dực vào sức mạnh, tức là người dực vào thế lực và sự hiểu biết mà nói. Thế gian lại có ba loại giặc lớn (đại tặc) không ai bằng được, sống lâu càng tạo tội lớn, người không thể bắt được: hai loại giặc đầu giống như trên, loại giặc thứ ba là loại giặc dựa vào tài vật, tức là người có nhiều tài vật, ruộng vườn, nhà cửa, tôi tớ… . Người này nghó rằng: “Nếu ai thuận theo ta thì ta sẽ cho tài vật”. Tỳ-kheo xấu ác cũng có ba loại như vậy, sống lâu tuổi cao càng tạo tội lớn mà Tăng không thễ diệt tẫn được: Hai loại Tỳ-kheo xấu ác thứ nhất và thứ hai giống như trên, loại thứ ba dựa vào tài vật, tức là Tỳ-kheo có được nhiều bố thí về y thực, ngọa cụ và các vật cần dùng khác. Người này nghó rằng: “Nếu ai thuận theo ta thì ta sẽ cho tài vật”. Thế gian có lại ba loại giặc lớn (đại tặc) không ai bằng được, sống lâu càng tạo tội lớn, người không thể bắt được: Hai loại giặc đầu giống như trên, loại giặc thứ ba là loại giặc dựa vào thế lực, tức là dực vào thế lực của vua quan. Người này nghó rằng: “Nếu ai thuận theo ta thì ta sẽ trợ giúp”. Tỳ-kheo xấu ác cũng có ba loại như vậy, sống lâu tuổi cao càng tạo tội lớn mà Tăng không thễ diệt tẫn được: Hai loại Tỳ-kheo xấu ác thứ nhất và thứ hai giống như trên, loại thứ ba là loại Tỳ-kheo xấu ác dựa vào thế lực, tức là Tỳ-kheo sống dựa vào việc tụng kinh, luật, luận. Người này nghó rằng: “Nếu ai thuận theo ta thì ta sẽ trợ giúp”. Thế gian lại có ba loại đại tặc: Một là loại đại tặc làm chủ một trăm người, ở trước một trăm người, được một trăm người cung kính vây quanh… cho đến được năm trăm người cung kính vây quanh, mà còn vào trong thành ấp tụ lạc leo tường khoét vách, chặn đường cướp của giết người. Hai là loại đại tặc trong Tăng như Tỳ-kheo lấy thức ăn uống, tài vật cho đến hoa quả trong vườn rừng của Tứ phương Tăng đem bán để tự sống hoặc đem cho bạch y quen biết. Ba là loại đại tặc trong Tăng như Tỳ-kheo vì chút ăn uống, lợi dưỡng cúng dường, tự thân không chứng được Thánh pháp hơn người mà cố ý vọng ngữ, tự nói là đã chứng. Trong ba loại đại tặc này thì hai loại trên chỉ gọi là tiểu giặc, loại thứ ba mới là đại tặc nguy hiểm nhất đối với trời người, ma Phạm, Sa- môn, Bà-la-môn trong thế gian. Vì sao, vì chút ăn uống, tự thân không có chứng Thánh pháp hơn người mà cố ý vọng ngữ tự nói là đã chứng. Nếu đem so với hai loại giặc trên thì gọi là đại giặc nguy hiểm nhất. Phật liền nói kệ: “Tỳ-kheo chưa đắc đạo, Tự nói là đắc đạo, Đại tặc trong trời người Người phá giới cực ác, Người si này thân hoại, Sẽ đọa vào địa ngục”. Bốn Pháp Có Bốn hạng Hòa thượng: Một là Hòa thượng cho pháp mà không cho y thực: Đệ tử nên ở bên cạnh hạng Hòa thượng này. Hai là Hòa thượng cho y thực mà không cho pháp: Đệ tử không nên nương ở chung với hạng Hòa thượng này. Ba là Hòa thượng vừa cho pháp, vừa cho y thực: Đệ tử nên suốt đời nương ở. Bốn là Hòa thượng không cho pháp cũng không cho y thực: Đệ tử không nên nương ở, ngay trong đêm tối cũng nên bỏ đi. Đối với A- xà-lê cũng giống như vậy. Có bốn hạng người thường thường phạm tội và thường thường sám hối, đó là người không hổ thẹn, người khinh giới, người không có tâm sợ hãi và người ngu si. Thế gian có bốn hạng người thấy phạm tội sanh tâm sợ hãi: Một là hạng người mặc áo đen chạy vội đến chỗ mọi người nói rằng: “Tôi đã phạm tội ác, không tốt, đáng hổ thẹn, tùy mọi người thích gì, tôi sẽ làm theo điều đó”, mọi người liền quở trách đuổi ra, một người có trí thấy vậy liền nói rằng: “Người này đã phạm tội ác, không tốt. Ta nên răn lấy mình và dạy bảo người khác chớ làm nghiệp ác như vậy nữa”. Như thế nếu Tỳ-kheo ở trong Ba-la-đề-đề-xá-ni sanh lòng sợ hãi thì nên biết rằng: “Điều chưa phạm thì không nên phạm, nếu đã phạm thì nên mau như pháp sám hối tội”. Đây là hạng người thứ nhất thấy tội sanh sợ hãi. Hai là hạng người mặc áo đen cầm gậy để trên vai, chạy vội đến chỗ mọi người nói rằng: “Tôi đã phạm tội ác, không tốt, đáng hổ thẹn, tùy mọi người thích gì, tôi sẽ làm theo điều đó”, mọi người liền lấy cây gậy đó đánh đuổi ra, một người có trí thấy vậy liền nói rằng: “Người này đã phạm tội ác, không tốt. Ta nên răn lấy mình và dạy bảo người khác chớ làm nghiệp ác như vậy nữa”. Như thế nếu Tỳ-kheo ở trong Ba-dật-đề sanh lòng sợ hãi thì nên biết rằng: “Điều chưa phạm thì không nên phạm, nếu đã phạm thì nên mau như pháp sám hối tội”. Đây là hạng người thứ hai thấy tội sanh sợ hãi . Ba là hạng người mặc áo đen cầm cái chày sắt để trên vai, chạy vội đến chỗ mọi người nói rằng: “Tôi đã phạm tội ác, không tốt, đáng hổ thẹn, tùy mọi người thích gì, tôi sẽ làm theo điều đó”, mọi người liền cầm cái chày đó đánh và cầm dao đe dọa đuổi ra ngoài cửa thành phía Tây, một người có trí thấy vậy liền nói rằng: “Người này đã phạm tội ác, không tốt. Ta nên răn lấy mình và dạy bảo người khác chớ làm nghiệp ác như vậy nữa”. Như thế nếu Tỳ-kheo ở trong Tăng-già-bà-thi- sa sanh lòng sợ hãi thì nên biết rằng: “Điều chưa phạm thì không nên phạm, nếu đã phạm thì nên mau như pháp sám hối tội”. Đây là hạng người thứ ba thấy tội sanh sợ hãi . Bốn là cũng như người chuyên bắt giặc, bắt được tên giặc thật, trói ngược hai tay lại rồi đánh trống dẫn đi tuần hành ra cửa thành phía Nam, cho ngồi dưới cây nêu rồi chặt đầu người này. Một người có trí thấy vậy liền nói rằng: “Người này đã phạm đại tội vì làm nghiệp ác, không tốt. Ta nên răn lấy mình và dạy bảo người khác chớ làm nghiệp ác như vậy nữa”. Như thế nếu Tỳ-kheo ở trong Ba-la-di sanh lòng sợ hãi thì nên biết rằng: “Điều chưa phạm thì không nên phạm, nếu đã phạm thì nên mau như pháp sám hối tội”. Đây là hạng người thứ tư thấy tội sanh sợ hãi . Có bốn loại yết ma: Một là phi pháp biệt chúng yết ma: Loại này không gọi là tác yết ma, chớ làm, nếu làm cũng không gọi là làm, nên ngăn, nên bỏ. Hai là phi pháp hòa hợp chúng yết ma: Loại này cũng không gọi là tác yết ma, chớ làm, nếu làm cũng không gọi là làm, nên ngăn, nên bỏ. Ba là như pháp biệt chúng yết ma: Loại này tuy như pháp nhưng biệt chúng làm nên cũng không gọi là làm, nên ngăn, nên bỏ. Bốn là như pháp hòa hợp chúng yết ma: Loại này mới gọi là tác yết ma, nên làm, không nên ngăn, không nên bỏ. Có bốn hạng người là người thô, người dơ bẩn (trược), người ở giữa (trung gian) và người thượng thượng. Trong Tăng cũng có bốn hạng người xử đoán việc: Một là người xử đoán việc không có hổ thẹn, không giỏi luận nghị, không khéo dùng câu văn. Đây là hạng người thô thứ nhất, hạng người này không có người thân cận, không nên cùng nói chuyện. Đối với người xử đoán việc như vậy nên chê trách, nên diệt tẫn, vì đây là hạng người không tốt, có thể làm cho người khác mê loạn ưu sầu, sanh tâm hối. Vì sao, vì người xử đoán này ở trong Tăng xử đoán việc thì sẽ khiến cho trong Tăng chưa khởi việc tranh cải liền sanh khởi; việc tranh cải đã khởi sẽ không thể dứt diệt được. Hai là người xử đoán việc không có hổ thẹn nhưng giỏi nghị luận và khéo dùng câu văn. Đây là hạng người dơ bẩn (trược) thứ hai, hạng người này có người thân cận, có thể cùng nói chuyện. Nhưng đối với người xử đoán việc như vậy nên chê trách, nên diệt tẫn, vì đây cũng là hạng người không tốt, có thể làm cho người khác mê loạn ưu sầu, sanh tâm hối. Vì sao, vì người xử đoán này ở trong Tăng xử đoán việc thì sẽ khiến cho trong Tăng chưa khởi việc tranh cải liền sanh khởi; việc tranh cải đã khởi sẽ không thể dứt diệt được. Ba là người xử đoán việc có hổ thẹn nhưng không giỏi nghị luận, không khéo dùng câu văn. Đây là hạng người ở giữa (trung gian), hạng người này không có người thân cận, khó thể cùng nói chuyện. Đối với người xử đoán việc như vậy nên dạy họ về nghị luận và văn chương. Bốn là người xử đoán việc có hổ thẹn, giỏi nghị luận và khéo dùng câu văn. Đây là hạng người thượng thượng thứ tư, hạng người này có người thân cận, nên cùng nói chuyện. Đối với nười xử đoán việc như vậy nên khen ngợi ca tụng, vì sao, vì người này ở trong Tăng xử đoán việc thì sẽ khiến cho trong Tăng chưa khởi việc tranh cãi sẽ không khởi lên, nếu đã khởi lên thì sẽ được dứt diệt. Có bốn loại nghóa: Một là loại nghóa phi pháp, phân biệt người khác, không có tra cứu, khi tra cứu thì không thọ nhận. Loại nghóa này có ba lỗi, trong đây phi pháp là có lỗi; phân biệt người khác là có lỗi; không có tra cứu, khi tra cứu thì không thọ nhận là có lỗi. Hai là loại nghóa phi pháp, không phân biệt người khác, có tra cứu, khi tra cứu thì thọ nhận. Loại nghóa này chỉ có một lỗi, trong đây phi pháp là có lỗi, không phân biệt… khi tra cứu thì thọ nhận là không lỗi. Ba là loại nghóa như pháp, phân biệt người khác, không có tra cứu, khi tra cứu không thọ nhận. Loại nghóa này có hai lỗi, trong đây như pháp là không lỗi; phân biệt người khác… khi tra cứu không thọ nhân có hai lỗi như trên. Bốn là loại nghóa như pháp, không phân biệt người khác, có tra cứu, khi tra cứu thì thọ nhận. Loại nghóa này đều không có lỗi, giải thích như trên. Có bốn hạnh mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là ái, sân, sợ và si. Có bốn hạnh mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh, đó là không ái, không sân, không sợ, không si. Có bốn hạnh mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không khéo quán nghóa, không khéo thọ lấy nghóa. Hai là không nên khen ngợi mà lại khen ngợi; nên khen ngợi mà lại không khen ngợi. Ba là không nên làm cho thanh tịnh mà lại làm cho thanh tịnh; nên làm cho thanh tịnh mà lại không làm cho thanh tịnh. Bốn là không nên cung kính mà lại cung kính; nên cung kính mà lại không cung kính. Có bốn hạnh mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh: Một là khéo quán nghóa, khéo thọ lấy nghóa. Hai là không nên khen ngợi thì không khen ngợi; nên khen ngợi thì khen ngợi. Ba là không nên làm cho thanh tịnh thì không làm cho thanh tịnh; nên làm cho thanh tịnh thì làm cho thanh tịnh. Bốn là không nên cung kính thì không cung kính; nên cung kính thì cung kính. Có bốn hạnh mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không khéo quán nghóa, không khéo thọ lấy nghóa. Hai là dựa vào thế lực mà nói. Ba là không xin phép người mà liền nêu ra tội của người. Bốn là trước đã có tâm hiềm trách, tâm hối hận, có thấy hiềm trách, có thấy hối hận. Có bốn hạnh mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh: Một là khéo quán nghóa, khéo thọ lấy nghóa. Hai sai là dựa vào thế lực mà nói. Ba là xin phép người cho rồi mới nêu ra tội của người. Bốn là trước không có tâm hiềm trách, tâm hối hận, không có thấy hiềm trách, không có thấy hối hận. Có bốn hạnh Tỳ-kheo làm Thác lại tra có tội, đó là ái, sân, sợ và si. Có bốn hạnh Tỳ-kheo làm Thác lại tra không có tội, đó là không ái, không sân, không sợ và không si. Có bốn hạnh Tỳ-kheo làm Thác lại tra có tội: Một là không khéo quán nghóa. Hai là không khéo thọ lấy nghóa. Ba là không nên khen ngợi mà lại khen ngợi; nên khen ngợi mà lại không khen ngợi. Bốn là không nên làm cho thanh tịnh mà lại làm cho thanh tịnh; nên làm cho thanh tịnh mà lại không làm cho thanh tịnh. Có bốn hạnh Tỳ-kheo làm Thác lại tra không có tội: Một là khéo quán nghóa. Hai là khéo thọ lấy nghóa. Ba là không nên khen ngợi thì không khen ngợi; nên khen ngợi thì khen ngợi. Bốn là không nên làm cho thanh tịnh thì không làm cho thanh tịnh; nên làm cho thanh tịnh thì làm cho thanh tịnh. Có bốn hạnh Tỳ-kheo làm Thác lại tra có tội: Một là không khéo quán nghóa, không khéo thọ lấy nghóa. Hai là dựa vào thế lực mà nói. Ba là không xin phép người mà liền nêu ra tội của người. Bốn là trước đã có tâm hiềm trách, tâm hối hận, có thấy hiềm trách, có thấy hối hận. Có bốn hạnh Tỳ-kheo làm Thác lại tra không có tội: Một là khéo quán nghóa, khéo thọ lấy nghóa. Hai là không dựa vào thế lực mà nói. Ba là xin phép người cho rồi mới nêu ra tội của người. Bốn là trước không có tâm hiềm trách, không có tâm hối hận, không có thấy hiềm trách, không có thấy hối hận. Năm Pháp Phật Bà-già-bà tại nước Thích ca, Tỳ-kheo-ni Đại ái đạo đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, xin nói sơ lược về pháp, phi pháp; Tỳ-ni, phi Tỳ-ni để tôi biết được là pháp, là Tỳ-ni, là Phật pháp”, Phật bảo: “Cù-Đàm-di, nếu biết pháp này tùy thuận dục, không tùy thuận vô dục; tùy thuận lỗi, không tùy thuận không lỗi; tùy thuận tăng trưởng, không tùy thuận không tăng trưởng, một mực không chuyển; tùy thu- ận phiền não không lìa thì bà nhất định phải biết đây là phi pháp, phi Tỳ-ni, phi Phật pháp. Cù-Đàm-di, nếu biết pháp này không tùy thuận dục mà tùy thuận vô dục; không tùy thuận lỗi mà tùy thuận không lỗi; không tùy thuận tăng trưởng mà tùy thuận không tăng trưởng; không tùy thuận phiền não thì bà nhất định phải biết đây là pháp, là Tỳ-ni, là Phật pháp. Lại nữa Cù-Đàm-di, nếu biết pháp này tùy thuận tham, không tùy thuận không tham; tùy thuận không nhàm lìa, không tùy thuận nhàm lìa; tùy thuận đa dục, không tùy thuận thiểu dục; tùy thuận không biết đủ, không tùy thuận biết đủ; tùy thuận khó nuôi dưỡng, không tùy thu- ận dễ nuôi dưỡng thì bà nhất định biết đây là phi pháp, phi Tỳ-ni, phi Phật pháp. Cù-Đàm-di, nếu biết pháp này không tùy thuận tham mà tùy thuận không tham; không tùy thuận không nhàm lìa mà tùy thuận nhàm lìa; không tùy thuận đa dục mà tùy thuận thiểu dục; không tùy thuận không biết đủ mà tùy thuận biết đủ; không tùy thuận khó nuôi dưỡng mà tùy thuận dễ nuôi dưỡng thì bà nhất định biết đây là pháp, là Tỳ-ni, là Phật pháp ”. Lúc đó trưởng lão Ưu-ba-ly đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, có mấy pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một?”, Phật bảo: Có năm pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một: Một là Tỳ-kheo không mong muốn. Hai là độn căn, dù có đọc tụng nghóa câu cũng không thể thọ trì, cũng không thể giải cho nguời hiểu. Ba là không thể khiến cho người thọ học có oai nghi cung kính. Bốn là dù có nói pháp cũng không thể dạy như pháp. Năm là cãi cọ với nhau, không ở nơi A-lan-nhã cũng không yêu thích nơi này. Này Ưu-ba-ly, lại có năm pháp khiến chánh pháp không bị diệt vong, mai một: Một là Tỳ-kheo có mong muốn. Hai là lợi căn, có thể đọc tụng nghóa câu, có thể thọ trì, có thể giải cho nguời hiểu. Ba là có thể khiến cho người thọ học có oai nghi cung kính. Bốn là nói pháp và có thể dạy như pháp. Năm là không cãi cọ với nhau, ở nơi A-lan-nhã và yêu thích nơi này”. Lại có năm pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một: Một là Tỳ-kheo không dạy theo pháp mà dạy theo phi pháp. Hai là không theo pháp nhẫn mà theo pháp không nhẫn. Ba là không kính Thượng tòa, không có oai nghi. Bốn là Thượng tòa không dùng pháp để dạy bảo. Năm là khi Thượng tòa nói pháp lại sầu não khiến cho người học sau không được thọ học kinh, luật, luận. Sau khi Thượng tòa qua đời, Tỳ-kheo buông lung tập nhiễm phi pháp, mất pháp lành. Lại có năm pháp khiến chánh pháp không bị diệt vong, mai một: Một là Tỳ-kheo dạy theo pháp, không dạy theo phi pháp. Hai là theo pháp nhẫn, không theo pháp không nhẫn. Ba là tôn kính Thượng tòa và có oai nghi. Bốn là Thượng tòa dùng pháp để dạy bảo. Năm là khi Thượng tòa nói pháp không có sầu não khiến cho người học sau được thọ học kinh, luật, luận. Sau khi Thượng tòa qua đời, Tỳ-kheo không buông lung, tu tập pháp lành. Lúc đó trưởng lão Nan-đề đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, khi chánh pháp diệt vào thời Tượng pháp có mấy phi pháp hiện hữu ở đời?”, Phật bảo: Có năm phi pháp hiện hữu ở đời: Một là có Tỳ-kheo được chút pháp Chỉ nơi tâm liền cho là đã được Thánh pháp. Hai là có bạch y sanh lên cõi trời còn người xuất gia lại đọa vào ác đạo. Ba là có người bỏ gia nghiệp thế gian xuất gia lại phá giới. Bốn là có kẻ phá giới lại được nhiều người trợ giúp, còn người trì giới lại không có người trợ giúp. Năm là chúng xuất gia không ai là không bị mắng, cho đến A- la-hán cũng bị mắng. Đây là năm phi pháp hiện hữu ở đời vào thời Tượng pháp, khi chánh pháp diệt. Sau đó có Tỳ-kheo hỏi lại việc này, Phật bảo Ưu-ba-ly: “Vị lai sẽ có năm hạng người đáng sợ hãi mà hiện tại chưa có, nên biết rõ để tìm cách trừ diệt: Một là sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu trí lại độ cho người khác xuất gia thọ giới; nên không thể dạy họ tu thân, tu giới, tu tâm, tu trí. Bản thân chưa điều phục lại độ người khác cho xuất gia thọ giới, nên không thể dạy cho họ tu thân, tu giới, tu tâm, tu trí. Người này ở trong Phật pháp có lỗi, ở trong Tỳ-ni có lỗi. Hai và Ba là sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu trí lại cho người khác y chỉ và nuôi Sa-di; nên không thể dạy họ tu thân, tu giới, tu tâm, tu trí. Bản thân chưa điều phục lại cho người khác y chỉ và nuôi Sa-di, nên không thể dạy cho họ tu thân, tu giới, tu tâm, tu trí. Người này ở trong Phật pháp có lỗi, ở trong Tỳ-ni có lỗi. Bốn là sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu trí lại cho Sa-di và tịnh nhơn ở gần. Không biết ba tướng: Đào đất, chặt cây và dùng nước tưới; người này ở trong Phật pháp là có lỗi, ở trong Tỳ-ni là có lỗi. Năm là sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu trí lại cùng đọc tụng kinh, luật, luận; đem phần trước, phần sau để vào giữa, đem phần giữa để ở trước hoặc ở sau; hiện tiền không thấy được bạch pháp, không biết phạm hay không phạm. Người này ở trong Phật pháp có lỗi, ở trong Tỳ-ni có lỗi”. Lại nữa, vị lai sẽ có năm hạng người đáng sợ hãi mà hiện tại chưa có, nên biết rõ để tìm cách trừ diệt: Một là sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu trí lại không mong muốn, độn căn, dù có đọc tụng nghóa câu cũng không thể chánh thọ (trọ trì đúng). Hai là sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu trí lại gần gũi Tỳ-kheo-ni, phạm vào tội trọng, xả giới hoàn tục. Ba là sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu trí lại không tín thọ những lời Phật dạy trong kinh như ba môn giải thoát là không vô tướng, vô nguyện; cho đến các pháp thâm yếu như mười hai nhân duyên…; dù có tín thọ cũng không thông suốt. Cho nên khi nói về Phật pháp thì họ không có tâm yêu thích, mà lại thích pháp thế tục, thích làm văn thơ trau chuốt, tin theo điều mà thế gian ưa thích. Vì vậy những lời Phật dạy trong kinh như ba môn giải thoát là không vô tướng, vô nguyện; cho đến các pháp thâm yếu như mười hai nhân duyên… sẽ bị diệt. Bốn và năm là sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu trí lại vì y thực mà bỏ nơi A-lan-nhã, đi tìm cầu khắp nơi, do tìm cầu nên bị nhiễu loạn. Lúc đó Tỳ-kheo Ca-la ưa đến những nơi không nên đến, cùng nói chuyện với đồng nữ lớn tuổi, quả phụ, người nữ có chồng, dâm nữ và Tỳ-kheo-ni. Phật bảo: “Tỳ-kheo có năm chỗ không nên đến, đó là chỗ đồng nữ lớn tuổi, chỗ quả phụ, chỗ người nữ có chồng, chỗ dâm nữ và chỗ Tỳ-kheo-ni. Nếu Tỳ-kheo nên năm chỗ này sẽ khiến mọi người nghi là làm việc phi phạm hạnh. Lại có năm chỗ không nên đến, đó là nhà của giặc, nhà của Chiên-đà-la, nhà đồ tễ, nhà dâm nữ và nhà bán rượu. Nếu Tỳ-kheo đến năm chỗ này sẽ khiến mọi người nghi là làm việc ác”. Tỳ-kheo có năm pháp nên biết là Tỳ-kheo xấu ác, như đứa trẻ không thể nói lời hay, không có hạnh nam tử; đó là dục, sân, sợ, si và không tiêu hóa sự cúng dường. Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa- di-ni xấu ác cũng có năm pháp như thế. Tỳ-kheo có năm pháp nên biết là Tỳ-kheo có tội, có lỗi; đó là dục, sân, sợ, si và không tiêu hóa sự cúng dường. Tỳ-kheo-ni, Thức- xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni cũng có năm pháp như trên nên biết là có tội, có lỗi. Có năm loại phi Tỳ-ni, đó là phạm Ba-la-di, phạm Tăng-già-bà- thi-sa, phạm Ba-dật-đề, phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni, phạm Đột-kiết-la. Ngược với trên thì gọi là năm loại Tỳ-ni. Có năm loại trần không thọ mà được ăn, đó là thực trần (thức ăn), cốc trần (ngũ cốc), thủy trần (nước), y trần (y phục) và nhất thiết trần (các loại vật thực khác). Có năm cách thọ nhận, đó là thọ nhận từ tay đưa trao, thọ nhận từ trên y, thọ nhận từ rương tráp, thọ nhận từ vật đựng, thọ nhận từ trên đất. Có năm cách tự ngôn (tự thú) phi pháp: Một là, do vua khủng bố mà tự nói (tự thú). Hai là, do giặc khủng bố mà tự nói. Ba là, do người xử đoán khủng bố mà tự nói . Bốn là, do ác thú khủng bố mà tự nói. Năm là, tự dối mình mà nói. Có năm cách thấy lỗi hối lỗi phi pháp: Một là, đối trước người hành Biệt trụ mà hối lỗi. Hai là, đối trước người phạm Bất cọng trụ mà hối lỗi. Ba là, đối trước người chưa thọ đại giới mà hối lỗi. Bốn là, phạm tội Vô tàn mà hối lỗi. Năm là, thấy tội Vô tàn này mà hối lỗi. Ngược với năm cách trên là năm cách thấy lỗi hối lỗi như pháp. Có năm hạng A-xà-lê, đó là A-xà-lê xuất gia, A-xà-lê giáo thọ, A-xà-lê yết ma, A-xà-lê y chỉ và A-xà-lê thọ pháp. Có năm hạng đệ tử, đó là đệ tử xuất gia, đệ tử giáo thọ, đệ tử yết ma, đệ tử y chỉ, đệ tử thọ pháp. Năm hạng đệ tử này nên khéo cung kính năm hạng A-xà-lê trên, nếukhông cung kính thì phạm lỗi. Có năm cách bố tát, đó là nói Giới kinh bố tát, tâm niệm bố tát, một mình tại trú xứ bố tát, thanh tịnh bố tát và tự tứ bố tát. Lúc đó có Tỳ-kheo không xin phép người cho mà liền cử tội người khiến nhớ nghó, Tỳ-kheo bị cử hiềm trách, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay không xin phép người trước thì không được cử tội người khiến nhớ nghó. Nếu cử tội khiến nhớ nghó thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó người có tội ở trong Tăng không có cung kính, không nói lời cung kính, Phật bảo: “Các Tỳ-kheo nên bảo người này trụ trong năm pháp là từ chỗ đứng dậy, trịch bày vai hữu, cởi giày dép, quỳ gối, chắp tay trước Tăng”. Nếu người cử tội không cung kính cũng nên trụ trong năm pháp kể trên. Lúc đó các Tỳ-kheo không biết xin phép người cho cử tội như thế nào, bạch Phật, Phật bảo: “Có năm cách, nên nói với người kia rằng: Nay tôi nói tội của thầy, hoặc tôi chỉ tội của thầy, hoặc tôi cử tội thầy, hoặc tôi khiến cho thầy nhớ nghó, xin thầy cho phép tôi”. Các Tỳ-kheo lại không biết cho phép cử tội như thế nào, Phật bảo: “Có năm cách, nên trả lời rằng: Thầy hãy nói tội tôi, hoặc thầy hãy chỉ tội tôi, hoặc thầy hãy cử tội tôi, hoặc hãy khiến cho tôi nhớ nghó, tôi cho phép thầy”. Các Tỳ-kheo lại không biết hiện tiền cho phép cử tội như thế nào, Phật bảo: “Có năm cách, nên hỏi lại rằng: Tại sao thầy cử tội tôi, dựa trên thấy hay nghe hay nghi, hoặc là thân phạm hay khẩu phạm?. Lại có năm cách: Thầy cử tội tôi về tội Ba-la-di hay Tăng-già-bà-thi-sa hay Ba-dật- đề hay Ba-la-đề-đề-xá-ni hay Đột-kiết-la?. Lại có năm cách: Thầy cử tội tôi về tội ác khẩu Đột-kiết-la hay Thâu-lan-giá Đột-kiết-la hay Tỳ- ni Đột-kiết-la hay thuộc về Chúng học pháp hay thuộc về oai nghi?. Lại có năm cách: Thầy cử tội tôi về việc gì, thuộc Hữu tàn hay Vô tàn, hay Hữu tàn Vô tàn, phạm trong tụ lạc hay phạm nơi A-lan-nhã”. Lúc đó người bị cử tội hiện tiền sanh sợ hãi, Tăng nên hiện tiền an ủi có năm cách: Hoặc nói chớ sợ, hoặc nói chớ kinh hãi, hoặc nói chớ che giấu, hoặc nói chớ tránh né, hoặc nói chớ theo phe đảng mà không phạm nói là phạm, hoặc nói chớ theo phe đảng mà phạm nói là không phạm. Lại có năm cách an ủi: Hoặc nói tôi không nói hung dữ, hoặc nói nếu tôi không nghe thọ việc không đầy đủ thì cũng không trực tiếp cử tội, hoặc nói tôi không nghe thọ lời bất định, hoặc nói tôi sẽ hỏi thầy ba lần. Khi an ủi như vậy mà người bị cử tội trả lời khác thì như Phật dạy nên dùng năm cách gạn hỏi: Một là nếu trả lời khác hay im lặng đều nên ghi nhớ. Hai là nói tôi có phạm tội gì để xúc não người khác Ba là nếu không thấy tội thì nên cho yết ma Bất kiến tẫn. Bốn là nếu thấy tội mà không chịu sám tội thì nên cho yết ma Bất tác tẫn . Năm là nếu không xả ác tà kiến thì nên cho yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn. Lại có năm pháp nên cứu xét: Một là đáng cho khổ thiết thì nên cho yết ma Khổ thiết . Hai là đáng cho y chỉ thì nên cho yết ma Y chỉ . Ba là đáng đuổi ra thì nên cho yết ma Khu xuất . Bốn là đáng cho hạ ý thì nên cho yết ma Hạ ý . Năm là đáng cho tìm tướng tội thì nên cho yết ma Mích tội tướng. Phật bảo Ưu-ba-ly: “Trên là cách xin phép cử tội và an ủi người có hổ thẹn; nếu là người không hổ thẹn cũng nên biết cách xin phép cử tội và nên biết cách cho phép người cử tội mình. Lại nữa, không nên trợ giúp cho người phi pháp mà nên trợ giúp cho người như pháp ”. Tỳ-kheo cử tội người khác phi pháp có năm: Một là dựa vào việc không thật, không dựa vào sự thật. Hai là phi thời cử tội, không phải đúng thời. Ba là dùng lời thô ác, không dùng lời mềm mỏng. Bốn là có tâm sân hận, không phải tâm từ. Năm là vì không lợi ích, không vì làm lợi ích. Nếu phi pháp cử tội với năm việc trên thì sẽ sanh tâm hối, nên đoạn trừ; ngược lại nếu như pháp cử tội thì không sanh tâm hối, cũng có năm: Một là dựa vào sự thật, không dựa vào việc không thật. Hai là đúng thời cử tội, không phải phi thời. Ba là dùng lời thiện, không dùng lời bất thiện. Bốn là với tâm từ, không phải tâm sân hận. Năm là vì làm lợi ích, không phải không lợi ích. Có năm cách quở trách, đó là trách, không trách, hỏi, răn nhắc (ước sắc) và dạy bảo (giáo). Trách là như nói chớ dâm, chớ trộm, chớ sát sanh…; không trách là như nói không dâm, không trộm, không sát sanh…; hỏi là như hỏi có làm việc dâm không, có trộm cắp không…; răn nhắc là như nói nếu dâm dục (trộm cắp, sát sanh…) sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; dạy bảo là như nói không nên dâm dục, không nên trộm cắp… Lại có năm cách quở trách, đó là trách, không trách, hỏi, hiển lỗi của người khác và kích lệ người khác. Ba cách quở trách đầu giống như trên, hiển lỗi của người khác là như người phạm tội nói tôi không làm việc dâm (trộm cắp, sát sanh…) mà là người khác, tùy nói bao nhiêu thì phạm Đột-kiết-la bấy nhiêu. Khích lệ người khác là như nói tôi không có làm việc dâm, không có trộm cắp, không có sát sanh… Có năm cách điều phục, đó là cho khổ thiết, cho y chỉ, cho khu xuất, cho hạ ý và cho bất kiến tẫn. Có năm việc cử tội, đó là kiến cử (dựa trên thấy), văn cử (dựa trên nghe), nghi cử (dựa trên nghi), dựa trên thân phạm cử, dựa trên khẩu phạm cử tội. Lại có năm việc cử tội: Thuộc tội Ba-la-di, thuộc tội Tăng-già- bà-thi-sa, thuộc tội Ba-dật-đề, thuộc tội Ba-la-đề-đề-xá-ni và thuộc tội Đột-kiết-la. Lại có năm việc cử tội: Thuộc tội ác khẩu Đột-kiết-la, thuộc tội Thâu-lan-giá Đột-kiết-la, thuộc tội Tỳ-ni Đột-kiết-la, thuộc tội Chúng học pháp Đột-kiết-la và thuộc tội oai nghi Đột-kiết-la. Người trì luật có năm lợi ích: Một là giới thân kiên cố. Hai là người khác không thể dạy bảo mình. Ba là lúc nói Giới kinh không có nạn sợ gì. Bốn là có thể trừ nghi cho người khác. Năm là có thể kiến lập chánh pháp. Người trì luật lại có năm lợi ích, đó là biết phạm, biết không phạm, biết tội khinh, biết tội trọng và giỏi tụng giới. Người trì luật lại có năm lợi ích, đó là biết pháp xuất gia, biết yết ma, biết oai nghi, biết y chỉ, biết pháp chướng đạo và pháp không chướng đạo. Có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp, phi Tỳ-ni nói là Tỳ-ni, Tỳ-ni nói là phi Tỳ-ni và phạm nói là không phạm. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là không phạm nói là phạm, phạm nói là không phạm, phạm khinh nói là trọng, phạm trọng nói là khinh và phạm Hữu tàn nói là Vô tàn. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là phạm Hữu tàn nói là Vô tàn, phạm Vô tàn nói la Hữu tàn, Thượng sở hành nói là không phải Thường sở hành, không phải Thường sở hành nói là thường sở hành và năm là đấu tranh nói xấu lẫn nhau. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là không thông suốt Tỳ-ni, không phân biệt được nghóa câu tương tợ, không khéo nói giới, không thể làm cho người có nghi gần gũi và năm là không thể kiến lập chánh pháp. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là phá giới, phá kiến, không thể như pháp cầu diệt việc tranh cãi, không thể thông đạt kinh và luận tương ưng, và năm là không phân biệt đuợc nghóa câu tương ưng. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không thể hòa hợp chúng. Hai là không thể thọ lấy ý của hai chúng. Ba là không thể ngăn dứt việc tranh cãi của hai bên. Bốn là không thể quyết đoán tội. Năm là pháp đã thọ không thể nói theo thứ lớp. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không khéo thọ lấy việc tranh cãi. Hai là không biết rõ được nhân duyên phát sanh tranh cãi. Ba là không khéo hòa giải việc tranh cãi. Bốn là không khéo diệt trừ việc tranh cãi. Năm là việc tranh cãi đã dứt diệt lại không thể khiến chúng không phát khởi trở lại. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là ái, sân, sợ, si và năm là không khéo diệt tránh. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không phân biệt được nghóa câu tương tợ. Hai là không nên khen ngợi mà lại khen ngợi . Ba là nên khen ngợi mà lại không khen ngợi. Bốn là không nên làm cho thanh tịnh mà lại làm cho thanh tịnh; nên làm cho thanh tịnh mà lại không làm cho thanh tịnh. Năm là không nên cung kính mà lại cung kính; nên cung kính mà lại không cung kính. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm việc mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không khéo phân biệt nghóa câu. Hai là ở trong Tăng dựa vào thế lực mà nói. Ba là không xin phép người mà liền cử tội người. Bốn là đối với người khác có chê trách, dù sám hối rồi vẫn chê trách. Năm là do có chê trách mà nói tội của người nên không thể ngăn dứt việc tranh cãi. Ngược với năm việc trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Người trông coi việc phân chia thức ăn (tri thực) có năm việc, nếu trước chưa sai thì không nên sai, nếu đã sai rồi thì nên để đó. Năm việc đó là ái, sân, sợ, si và không biết là được hay không được. Ngược với năm việc trên thì người Tri thực này, nếu Tăng chưa sai thì nên sai, nếu đã sai rồi thì không nên để đó. Người trông coi việc phân chia thức ăn (tri thực) lại có năm việc, nếu trước chưa sai thì không nên sai, nếu đã sai rồi thì không nên răn nhắc. Năm việc đó là ái, sân, sợ, si và không biết là được hay không được. Ngược với năm việc trên thì người Tri thực này, nếu Tăng chưa sai thì nên sai, nếu đã sai rồi thì nên răn nhắc. Người trông coi việc phân chia thức ăn (tri thực) lại có năm việc, nếu trước chưa sai thì không nên sai, nếu đã sai rồi thì nên bỏ. Năm việc đó là ái, sân, sợ, si và không biết là được hay không được. Ngược với năm việc trên thì người Tri thực này, nếu Tăng chưa sai thì nên sai, nếu đã sai rồi thì không nên bỏ. Như thế nên bỏ hay không nên bỏ, nên quở trách hay không nên quở trách, nên cử tội hay không nên cử tội, nên hủy hay không nên hủy, sanh nghi hối hay không sanh nghi hối, có phạm hay không phạm, có việc hay không có việc, có phiền não hay không phiền não, xúc não người hay không xúc não người, đổi khác hay không đổi khác, nóng hay không nóng, ái ngữ hay không ái ngữ, có tổn hay không tổn, thẹn với Hiền thánh hay được Hiền thánh khen, hướng đến ác đạo hay không hướng đến ác đạo, xuống địa ngục hay lên cõi trời, sanh tử lâu xa hay không lâu xa, trụ sanh tử hay vào Niết bàn đều giống như Tăng sai người tri thực, Tăng sai mười ba hạng người cũng như vậy. Có năm việc khó diệt tránh: Một là không cầu Tăng xử đoán. Hai là không thuận theo lời Phật dạy. Ba là không bạch như pháp . Bốn là tâm tranh cãi của hai bên không dứt. Năm là đã phạm lại không cầu thanh tịnh. Ngược với năm việc trên thì việc tranh cãi dễ dứt diệt. Có năm việc không nên thọ lấy việc tranh cãi: Một là tâm tranh cãi không dứt. Hai là dựa vào thế lực của quan. Ba là dựa vào thế lực của bạch y. đoán. Bốn là không nương theo Tăng. Năm là không nương theo Tỳ-kheo làm Thác lại tra . Ngược với năm việc trên thì nên thọ lấy việc tranh cãi để xử Tỳ-kheo làm Thác lại tra thọ lấy việc tranh cãi để xử đoán có năm việc nên tự quán sát mình và người rồi mới thọ lấy việc tranh cãi này để xử đoán: Một là giới thanh tịnh. Hai là nghe nhiều biết rộng kinh pháp. Ba là quán sát trong Tăng có nhiều người trì kinh, luật, luận; hoặc trong Tăng có nhiều Thượng tòa, Tỳ-kheo làm Thác lại tra, trung hạ tòa, hai chúng như pháp hòa hợp; hoặc trong Tăng có nhiều người trì giới cho đến không phá giới nhỏ. Bốn là nương vào kinh để tìm cách dứt trừ việc tranh cãi. Năm là vì làm lợi ích cho chúng sanh được an lạc, thương xót thế gian làm nhân duyên sanh cõi trời người. Có năm việc mà Tỳ-kheo cùng tranh cãi khó dứt tranh cãi: Một là dựa vào quan. Hai là dựa vào bạch y. Ba là cố ý xúc não Thượng tòa . Bốn là cho bạch y y thực chứ không cho pháp. Năm là không cầu như pháp dứt tranh cãi. Ngược với năm việc trên thì dễ dứt tranh cãi. Lại có năm pháp khó dứt tranh cãi: Một là hai bên đều dùng sức mạnh thọ lấy việc tranh cãi. Hai là không khéo thọ lấy việc tranh cãi. Ba là không khéo thọ lấy việc dứt tranh cãi. Bốn là không khéo thọ lấy nghóa của việc tranh cãi. Năm là Tỳ-kheo tranh cãi không kính Tỳ-kheo làm Thác lại tra và Tỳ-kheo thượng, trung hạ tòa. Ngược với năm pháp trên thì dễ dứt tranh cãi. Lại có năm pháp không nên thọ lấy việc tranh cãi: Một là dựa vào quan. Hai là dựa vào bạch y. Ba là cố ý xúc não Thượng tòa . Bốn là cho bạch y y thực chứ không cho pháp. Năm là không cầu như pháp dứt tranh cãi. Ngược với năm pháp trên thì nên thọ lấy việc tranh cãi. Lại có năm pháp không nên thọ lấy việc tranh cãi: Một là hai bên đều dùng sức mạnh thọ lấy việc tranh cãi. Hai là không khéo thọ lấy việc tranh cãi. Ba là không khéo thọ lấy việc dứt tranh cãi. Bốn là không khéo thọ lấy nghóa của việc tranh cãi. Năm là Tỳ-kheo tranh cãi không kính Tỳ-kheo làm Thác lại tra và Tỳ-kheo thượng, trung hạ tòa. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không giỏi tụng luật. Hai là không nói được nghóa câu tương tợ. Ba là Tỳ-kheo tranh cãi chấp chặt việc đã phạm, giống như vòng móc xích. Bốn là chưa đủ năm tuổi hạ cần y chỉ người khác. Năm là không hiểu rõ mười trực. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Tỳ-kheo làm Thác lại tra khi thọ lấy việc tranh cãi để xử đoán, nên quán năm việc: Một là trong đây ai thanh tịnh trì giới đến trước. Hai là ai có trí huệ nghe nhiều, giỏi tụng A-hàm. Ba là ai đối với thầy như pháp. Bốn là ai tin Phật Pháp Tăng. Năm là ai không khinh giới Phật đã chế. Lại nữa khi Tỳ-kheo tranh cãi đến chỗ Tỳ-kheo làm Thác lại tra cầu xử đoán việc tranh cãi, Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên quán năm việc rồi mới thọ lấy việc tranh cãi này để xử đoán. Năm việc đó là: Một và hai giống như trên. Ba là ai có việc nên quở trách. Bốn là người tranh cãi đối với Tỳ-kheo làm Thác lại tra trước đó có chê trách gì không. Năm là có thể thọ lấy việc tranh cãi này rồi như pháp như Tỳ-ni diệt tránh không.  LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 50 PHÁP TĂNG NHẤT Năm Pháp (Tiếp Theo) Có năm pháp mà phe đảng có thể phát khởi việc tranh cãi trong Tăng, khi phát khởi việc tranh cãi sẽ gây nhiều não loạn, làm giảm tổn trời người: Một là Tỳ-kheo tranh cãi dùng phi pháp răn dạy. Hai là có học thuyết của phe đảng. Ba là khinh thường Tỳ-kheo đọc tụng kinh. Bốn là ngăn người thuyết giới. Năm là trợ giúp tranh cãi, nói xấu lẫn nhau. Ngược với năm pháp trên thì phe đảng không thể phát khởi việc tranh cãi trong Tăng, do không thể phát khởi việc tranh cãi nên không gây não loạn và làm lợi ích cho trời người. Có năm pháp của người cử tội có hổ thẹn, không thể trả lời theo thứ lớp: Một là có hổ thẹn, không thể trả lời theo thứ lớp. Hai là khi Thượng tòa hỏi, không thể trả lời theo thứ lớp. Ba là khi bị hỏi sanh sợ nên nghe hỏi việc này lại đáp việc khác. Bốn là dựa vào phe đảng mà khinh thường Thượng tòa . Năm là phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp. Lại có năm pháp của người cử tội dù bị nạn vấn vẫn có thể trả lời theo thứ lớp: Một là bị nạn vấn, có thể trả lời theo thứ lớp. Hai là khi Thượng tòa hỏi có thể trả lời theo thứ lớp. Ba là lúc bị hỏi không sợ, hỏi và đáp không khác nhau. Bốn là không dựa vào phe đảng mà khinh Thượng tòa . Năm là phi pháp nói là phi pháp, pháp nói là pháp. Lại có năm pháp của người cử tội, không thể đáp thứ lớp: Một là không biết rõ nghóa câu. Hai là trước đã có chê trách người thọ nhận xử đoán nguồn gốc tranh cãi của hai bên, hoặc nguồn gốc tranh cãi của Sa-di và bạch y. Ba là nhờ người khác cử tội mà không biết nghóa câu. Bốn là nói không nhất định. Năm là không biết chỗ trụ của ba việc thấy nghe nghi . Ngược với năm điều trên thì người cử tội dù bị nạn vấn, vẫn có thể trả lời theo thứ lớp. Có năm pháp thành tựu yết ma, đó là hiện tiền thành, gởi dục thành, đồng kiến thành, từ Ưu-bà-tắc tín tâm nghe thành và năm là tác yết ma xong, im lặng thành. Có năm pháp cọng yếu: Một là xin phép cho cử tội rồi mà không cử. Hai là việc này nên từ chỗ này mà nói cọng yêu. Ba là việc này nên từ chỗ kia mà nói cọng yêu. Bốn là việc này nên tùy theo chỗ mà nói cọng yếu. Năm là tùy việc đã phạm mà vui vẻ chỉ tội cho người, nói tội rồi như ngựa dữ khó điều phục, nhổ cọc mang theo dây cương chạy đi. Có năm pháp mà Tỳ-kheo muốn cầu nghóa, khi nghe nghóa từ người khác nên khéo phân biệt nghóa: Một là thật hay không phải là thật. Hai là đúng thời hay không đúng thời. Ba là tợ nghóa hay không tợ nghóa. Bốn là ở trong nghóa này có phát khởi đấu tranh, nói xấu nhau khiến Tăng bị phá, Tăng bị xúc não, Tăng chia rẽ, Tăng biến khác không. Năm là ở trong nghóa này không có phát khởi đấu tranh, nói xấu nhau, Tăng không bị phá, Tăng không bị xúc não, Tăng không chia rẽ, Tăng không biến khác. Tỳ-kheo có năm pháp khiến Tăng không thanh tịnh, đó là nói lỗi của Phật, Pháp, Tăng và giới; năm là không theo oai nghi. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo khiến Tăng thanh tịnh. Có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không nói đúng như nguồn gốc của sự việc. Hai là nói theo hứng thú. Ba là nói theo người khác. Bốn là lời nói ra không tương ưng nghóa câu. Năm là dùng nghóa câu không tương ưng mà nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không cân nhắc mà nghe thọ lời người nói. Hai là nghe thọ lời người khác nói không đầy đủ. Ba là nghe thọ lời người khác nói theo hứng thú. Bốn là nghe thọ lời người khác nói bất định. Năm là không hỏi lại ba lần. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là lời mình nói mà không hiểu nghóa. Hai là lời người khác nói cũng không hiểu nghóa. Ba là không thể khiến người khác hiểu điều mình đã nói. Bốn là nói lặp lại làm nhiễu loạn và quên mất nghóa câu. Năm là không biết nghóa câu của kinh. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không được sai mà tự nói. Hai là việc chưa thành mà nói trước. Ba là không biết được điều mà chúng hò hợp đã nói. Bốn là xúc não người khác. Năm là nói lặp lại làm nhiễu loạn người nghe. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Có năm pháp thành tựu mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra trì luật không được sai mà được tự nói: Một là bậc Thượng tòa hay đồng bậc Thượng tòa. Hai là người thuyết giới hay đồng bậc người thuyết giới. Ba là quán thấy phe đảng có thế lực. Bốn là bạch Tăng. Năm là muốn quở trách Thượng tòa. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra trì luật không được sai mà được tự nói: Một là Tỳ-kheo tranh cãi phá giới, khinh giới. Hai là Tỳ-kheo tranh cãi không có oai nghi như trè con vô trí. Ba là Tỳ-kheo tranh cãi không biết rộng về luật. Bốn là Tỳ-kheo tranh cãi thích làm việc phi pháp, không có hổ thẹn. Năm là Tỳ-kheo tranh cãi kết phe đảng không có hổ thẹn. Tỳ-kheo Thượng tòa có năm pháp nên quở trách: Một là phá giới, khinh giới. Hai là không có oai nghi như trẻ con vô trí. Ba là không biết rộng về luật. Bốn là thích làm việc phi pháp. Năm là kết phe đảng phi pháp. Tỳ-kheo Thượng tòa lại có năm pháp nên quở trách: Một là sanh ác tà kiến. Hai là do sanh ác kiến nên sanh tà kiến điên đảo. Ba là thích nói phi pháp, phi thời và không thật. Bốn là ở trong chánh pháp tùy hứng mà nói. Năm là không có hổ thẹn, kết phe đảng không có hổ thẹn. Tỳ-kheo xử đoán việc trong Tăng, khi đến trong Tăng xử đoán, trước phải trụ năm pháp mới đến trong Tăng: Một là cung kính, cởi giày dép đi vào. Hai là trịch bày vai hữu, không che đầu, cung kính, cởi giày dép đi vào. Ba là trịch bày vai hữu, không hở ngực, cung kính, cởi giày dép đi vào. Bốn là trịch bày vai hữu, không lật ngược y sang hai bên, cung kính, cởi giày dép đi vào. Năm là trịch bày vai hữu, không được quấn y phủ hai bên, cung kính đi vào, biết hổ thẹn, khen chê không biến sắc, khởi tâm từ, tâm thiện, không nói chuyện thế gian. Khi tới tòa ngồi nên sanh tâm thiện, tâm cung kính. Có năm loại đại tặc, đó là giặc cướp lấy, giặc trộm lấy, giặc gạt lấy, giặc vu khống lấy và giặc nhận của người gởi rồi lấy luôn. Có năm cách lấy vật của người, đó là cướp lấy, trộm lấy, gạt lấy, vu khống lấy, dựa vào pháp mà lấy. Có năm hạng người không nên cho phép cử tội: Một là người không biết hổ thẹn. Hai là người không biết sợ. Ba là người trước đã có chê trách. Bốn là người ít trí. Năm là người muốn bỏ pháp Tỳ-kheo . Có năm loại thí không có phước, đó là cho người nữ, cho đồ chơi (hí cụ), cho hình tượng nam nữ giao hội và năm là cho lời phi pháp. Lại có năm loại thí không có phước, đó là cho binh khí, cho dao, cho thuốc độc, cho bò dữ và năm là cho bằng cách bảo người làm việc gì đó. Có năm trường hợp tự nói là A-la-hán thì mắc tội: Một là tâm không cuồng mà nói. Hai là tâm không loạn mà nói. Ba là không bị đau đớn mà nói. Bốn là không thật chứng mà nói với người chưa thọ đại giới. Năm là không phải là kẻ Tăng thương mạn mà nói. Ngược với năm trường hợp trên thì tự nói là A-la-hán không có mắc tội. Lại có năm trường hợp tự nói là A-la-hán thì mắc tội: Bốn trường hợp đầu giống như trên, năm là không sợ mà nói. Ngược với năm trường hợp này thì tự nói là A-la-hán không có mắc tội. Lại có năm trường hợp không tự nói là A-la-hán mà mắc tội: một là làm hình tướng, hai là làm tướng khác lạ, ba là oai nghi khác lạ, bốn là trước đã bảo người khác nói và năm là lấy tên người khác nói. Ngược với năm trường hợp này thì không mắc tội không tự nói là A-la-hán . Lại có năm trường hợp không tự nói là A-la-hán mà mắc tội: Bốn trường hợp đầu giống như trên, năm là trước đã bảo người ở chỗ khuất nói. Ngược với năm trường hợp này thì không mắc tội không tự nói là A-la-hán . Tỳ-kheo Hỷ vọng đến nhà bạch y thường thường phạm năm việc: Một là phạm phi thời vào nhà. Hai là phạm một mình cùng người nữ ở chỗ khuất. Ba là phạm ngồi cùng người nữ nơi nhà ăn (tức là nhà mà người nữ này có chồng yêu thương) Bốn là phạm ăn nhiều lần (thường thường ăn) Năm là phạm nói pháp cho người nữ, không có tịnh nhơn bên cạnh. Có năm cách chiết phục, đó là không sai làm, không nói chuyện, không ngó ngàng đến, không dạy bảo và năm là không cho có việc gì để làm. Có năm loại tương tợ, đó là tương tợ Thế tôn, tương tợ Pháp, tương tợ Tăng, tương tợ Giới và năm là tương tợ Tỳ-kheo làm Thác lại tra. Ngược với năm loại trên là năm loại không tương tợ. Có năm việc phạm Tăng-già-bà-thi-sa: Một là người nữ có mạng căn. Hai là thọ lấy tướng người nữ. Ba là sanh tâm dục. Bốn là muốn làm việc phi phạm hạnh. Năm là xúc chạm chỗ kín. Lại có năm việc phạm Tăng-già-bà-thi-sa: Một là người nữ khởi tưởng người nữ. Hai là khởi tưởng sanh tâm dục. Ba là muốn làm việc phi phạm hạnh. Bốn là xúc chạm chỗ kín. Năm là hai thân xúc chạm nhau. Có năm loại đại tặc hiếm có trên thế gian: Ba loại đại tặc đầu giống như trong ba pháp đã nói. Bốn là người xuất gia làm Tỳ-kheo lại phạm giới phá giới, bên trong thối nát hiển hiện ra bên ngoài; không phải Sa-môn mà tự nói là Sa-môn, không phải phạm hạnh mà nói là phạm hạnh. Đây là loại đại tặc thứ tư. Năm là hạng người đối với những lời Phật đã nói hoặc Thanh văn nói, hoặc tiên nhơn nói, hoặc chư thiên nói, hoặc hóa nhơn nói, sau khi nghe được từ người khác liền nói là tôi nói. Nếu có ai hỏi người trì giới này đắc quả Tu-đà-hoàn phải không, thì đáp là đúng như vậy, hoặc im lặng chấp nhận. Đây là loại đại tặc thứ năm. Có năm loại do ăn mà sanh tội: Như ăn, nuốt, đòi, lấy và mang ra khỏi giới. Lại có năm loại do oai nghi mà sanh tội: Như đến, đi, đứng, ngồi, đại tiểu tiện. Lại có năm loại do người mà sanh tội: Như người nữ, bất năng nam, người có hai căn, người thuộc ngoại đạo, người chưa thọ đại giới. Lại có năm loại do người mà sanh tội: Như người bị khổ thiết (trị phạt), người đang hành y chỉ, người bị tẫn, người đang hành Hạ ý, người bị tóm tướng tội . Lại có năm loại do người mà sanh tội: Như người bị Bất kiến tẫn, người bị Bất tác tẫn, người bị Ác tà bất trừ tẫn, người bị Biệt trụ và năm là người phạm Bất cọng trụ. Lại có năm loại do người mà sanh tội: Như người bị Biệt trụ, người hành Biệt trụ xong, người bị tẫn, người là Tặc trụ xen lẫn trong Tăng và năm là người làm ô nhục Tỳ-kheo-ni. Có năm hạng người không nên cho phép cử tội: Một là người đang hành Biệt trụ. Hai là người đã hành Biệt trụ xong. Ba là người đang hành Ma-na-đỏa . Bốn là người đã hành Ma-na-đỏa xong. Năm là người bị tẫn. Lại có năm hạng người không nên cho phép cử tội, đó là người bị khổ thiết (trị phạt), người đang hành y chỉ, người bị tẫn, người đang hành Hạ ý và năm là người bị tìm tướng tội. Lại có năm hạng người không nên cho phép cử tội, đó là như người bị Bất kiến tẫn, người bị Bất tác tẫn, người bị Ác tà bất trừ tẫn, người bị Biệt trụ và năm là người phạm Bất cọng trụ. Lại có năm hạng người không nên cho phép cử tội, đó là người không có hổ thẹn, người không biết sợ, người trước đó có chê trách, người ít trí, người khủng bố. Năm hạng người không nên cho phép cử tội kể trên cũng không nên cọng yếu, không nên cho phép ngăn thuyết giới, không nên cho phép ngăn Tự tứ, không nên cho phép ngăn giáo giới. Nếu cho phép cử tội, cọng yếu, cho phép ngăn thuyết giới, tự tứ và giáo giới thì mắc tội. Tỳ-kheo muốn cử tội người khác phải tự trụ trong năm pháp mới được cử tội người khác: Một là thân thanh tịnh. Hai là khẩu thanh tịnh. Ba là từ trước đến nay thanh tịnh. Bốn là nghe nhiều biết rộng, thông suốt A-hàm. Năm là không đến trong tụ lạc xấu ác. Phật bảo Ưu-ba-ly: “Vì sao Tỳ-kheo phải tự trụ trong năm pháp này trước rồi mới cử tội người khác, vì nếu sau này có Tỳ-kheo nói rằng: “Thân thầy không thanh tịnh sao lại cử tội người khác”, vì thế thân phải thanh tịnh trước mới được cử tội người khác. Bốn pháp sau cũng giống như vậy”. Tỳ-kheo có năm pháp không nên sai giữ vật: Một là không biết chỗ, hai là không biết giá, ba là không biết thọ nhận, bốn là không biết số, năm là hay quên. Ngược với năm pháp trên thì nên sai giữ vật. Tỳ-kheo có năm pháp không nên sai giữ y: Một là không biết chỗ, hai là không biết giá, ba là không biết thọ nhận, bốn là không biết số, năm là hay quên. Ngược với năm pháp trên thì nên sai giữ y. Tỳ-kheo có năm pháp không nên sai chia y: Một là không biết y, hai là không biết màu sắc y, ba là không biết giá y, bốn là không biết số, năm là không biết là cho hay không cho. Ngược với năm pháp trên thì nên sai chia y. Lại có năm pháp không nên sai chia y, đó là ái, sân, sợ, si và không biết đã chia hay chưa chia. Ngược với năm pháp này thì nên sai chia y. Có năm nạn bố tát, đó là nạn vua, nạn giặc, nạn đồng bậc vua, nạn người, nạn thú dữ. Có năm trường hợp dời ngày bố tát: Một là chuyển dời từ A-lan-nhã đến Tăng phường. Hai là chuyển dời từ Tăng phường đến A-lan-nhã. Ba là vua ra lịnh. Bốn là giặc ra lịnh. Năm là Tăng bị phá vì làm hòa hợp. Tỳ-kheo phá giới thường đến nhà người có năm lỗi đó là dạy người khác phi pháp, phi Tỳ-ni, dạy người có oai nghi xấu, sanh tà kiến và dạy người khác nghe điều phi pháp. Ngược lại Tỳ-kheo không phá giới khi đến nhà người có năm lợi ích đó là dạy người khác như pháp, như Tỳ-ni, dạy người có oai nghi tốt, sanh chánh kiến và dạy người khác nghe chánh pháp. Tỳ-kheo phá giới đến nhà người lại có năm lỗi: Một là dạy người thân nghiệp bất thiện. Hai là dạy người khẩu nghiệp bất thiện. Ba là dạy người gần ác tri thức. Bốn là dạy người sanh tà kiến. Năm là dạy nghe điều phi pháp. Tỳ-kheo không phá giới đến nhà người có năm lợi ích ngược với năm lỗi kể trên. Tỳ-kheo có năm chỗ không nên đi đến, đó là chỗ đồng nữ, chỗ quả phụ, chỗ người nữ có chồng, chỗ dâm nữ và chỗ Tỳ-kheo-ni. Nếu đi đến năm chỗ này thì Tăng có thể cho yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý, yết ma Mích tội tướng; hoặc Tăng không cho xả yết ma Khổ thiết… cho đến không cho xả yết ma Mích tội tướng . Lại có năm chỗ Tỳ-kheo không nên đi đến, đó là chỗ đồng nữ, chỗ quả phụ, chỗ dâm nữ, chỗ ngoại đạo, chỗ huỳnh môn. Nếu đi đến năm chỗ này Tăng có thể cho yết ma Khổ thiết… cho đến yết ma Mích tội tướng; hoặc Tăng không cho xả yết ma Khổ thiết… cho đến không cho xả yết ma Mích tội tướng cũng giống như vậy. Đệ tử cọng hành có năm pháp, Hòa thượng nên chiết phục, đó là đối với Hòa thượng không thương, không kính, không biết hổ, không biết thẹn và thích đến chỗ không nên đến. Nếu đệ tử cọng hành có năm pháp ngược với năm pháp trên thì Hòa thượng không nên chiết phục, nếu chiết phục thì mắc tội. Đệ tử cọng hành có năm pháp, Hòa thượng không nên thọ đệ tử hối lỗi, đó là đối với Hòa thượng không thương, không kính, không biết hổ, không biết thẹn và năm là không cho Hòa thượng pháp và y thực. Nếu đệ tử cọng hành có năm pháp ngược với năm pháp trên thì Hòa thượng nên thọ đệ tử cọng hành hối lỗi, nếu không thọ thì mắc tội. Có năm hạng người không nên vì nói Tỳ-ni: Một là hỏi để thử, hai là không nghi mà hỏi, ba là không phải vì hối lỗi đã phạm mà hỏi, bốn là gạn hỏi, năm là không lãnh thọ mà hỏi. Ngược với năm pháp trên thì nên vì nói Tỳ-ni. Có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là dựa vào thế lực mà nói, hai là không sợ khó nói, ba là sợ mà nói, bốn là kinh hãi mà nói, năm là không lợi căn mà nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là nói lớn, nói không thân thiện, nói hay thay đổi, nói không tương ưng với pháp. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là nói hay quên, không xét kỹ mà nói, tánh ác mà nói, nói lúc sân, nói để thử. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là nói lời chê bai, nói lời cấm tiệt, nói lời châm chích, không nói ra lời thiện, nói ra lời lầm lỗi. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là nói lời không đầy đủ, nói lời che giấu, nói lén, nói lời xen tạp, bị mắng nói lời chiết phục. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là nói lời không chân thật, nói lời hư dối, nói lời hay thay đổi, nói không đúng lúc, nói mà không giữ lời. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là nói lời muốn cử tội người khác. Hai là nói lời cử tội người khác. Ba là nói lời khinh chê người khác. Bốn là nói lời quở trách. Năm là nói lời hiềm trách. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là nói lời phá chúng, hai là nói lời muốn phá chúng, ba là nói lời phá nghóa, bốn là nói lời ưa thích phá, năm là nói lời cầu danh. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là nói lời ái, nói lời sân, nói lời sợ, nói lời si và năm là nói lời mà người nghe không tín thọ. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là nói lời không cung kính. Hai là đi vào không cung kính mà nói. Ba là mang giày dép không cung kính mà nói. Bốn là phủ vai hữu không cung kính mà nói. Năm là che phủ đầu không cung kính mà nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không thông suốt kinh mà nói. Hai là không thông suốt luật mà nói. Ba là không khéo biết nghóa tranh cãi mà nói. Bốn là không khéo biết nhân duyên phát khởi tranh cải mà nói. Năm là không khéo biết nghóa của diệt tránh mà nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là dựa vào sức của thân mà nói. Hai là dựa vào sức của miệng mà nói. Ba là nói lới không phải là Kinh. Bốn là nó lời phi pháp. Năm là nói lời phi luật. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không được khuyên mà nói. Hai là không được sai mà nói. Ba là không bạch chúng mà nói. Bốn là không quán sát mà nói. Năm là không sợ khó nói mà nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là nói lời an ủi thương xót. Hai là thọ sự an ủi thương xót mà nói. Ba là có tính toán mà nói. Bốn là vì lợi mà nói. Năm là nói dựa theo ý người. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ- kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là dùng nghóa bất thiện mà nói. Hai là dùng câu bất thiện mà nói. Ba là nên nói trước mà lại nói sau. Bốn là nên nói sau mà lại nói trước. Năm là nên nói lời này lại nói lời kia. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là ít trí huệ, ít tụng A-hàm. Không thông suốt A-hàm, không thọ học A-hàm và năm là không biết nghóa câu của A-hàm. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là vì tranh chấp mà nói, vì phá hoại mà nói, vì chấp thủ mà nói, vì nói xấu nhau mà nói và vì tranh cãi mà nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là nói lời trái với thề nguyền. Hai là không hỏi mà nói. Ba là không hỏi ba lần mà nói. Bốn là người không biết nói mà nói. Năm là người không biết tranh luận mà nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là quên A-hàm mà nói. Hai là nói không đúng câu văn. Ba là bỏ sót mất A-hàm mà nói. Bốn là không thông suốt A-hàm mà nói. Năm là không cung kính lãnh thọ A-hàm mà nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là nói lặp lại lời của chúng. Hai là đem lời của chúng ra nói. Ba là nói khác lạ Bốn là vì lợi mà nói. Năm là cầu người khác nói. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ- kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là chúng nói hối lỗi liền nói tội của họ ra. Hai là khiến người không sân liền nổi sân. Ba là khiến người đã sân không dừng lại sân. Bốn là lời nói ra như gió thoảng khiến người không tín thọ. Năm là ý nghóa của lời nói ra không hợp với kinh Tỳ-sa-da. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Phật bảo Ưu-ba-ly: “Tỳ-kheo hạ tòa muốn đến trước Thượng tòa hối lỗi thì nên trụ trong năm pháp rồi mới hối lỗi, đó là từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu, cởi giày dép, quỳ gối, chắp tay bạch Thượng tòa ba lần: “Xin như pháp sám hối”. Như thế gởi dục thanh tịnh, thọ Tự tứ hay xuất tội cũng giống như vậy”. Có năm pháp mà người cử tội không được cử tội người khác: Một là thân không thanh tịnh Hai là khẩu không thanh tịnh. Ba là ít trí huệ. Bốn là không thông suốt A-hàm. Năm là thích đến chỗ không nên đến. Ngược với năm pháp trên thì người cử tội được cử tội người khác. Có năm pháp mà Tỳ-kheo đủ mười tuổi hạ được nuôi đệ tử và cho thọ đại giới: Một là đã thọ đại giới đủ mười hạ. Hai là hoặc hơn mười tuổi hạ. Ba là trì giới có trí huệ. Bốn là có thể dứt nghi cho đệ tử. Năm là có thể phá ác tà kiến cho đệ tử. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo đủ mười tuổi hạ được nuôi đệ tử và cho thọ đại giới: Một là có thể dạy trì giới. Hai là có thể dạy Tỳ-ni. Ba là có thể dạy A-tỳ-đàm. Bốn là nếu đệ tử ở phương khác không thích, có thể tự dẫn về hay nhờ người khác dẫn về. Năm là đệ tử bị bịnh có thể chăm sóc hay nhờ người khác chăm sóc. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo đủ mười tuổi hạ được nuôi đệ tử và cho thọ đại giới là tự mình có đủ tín, giới, thí, huệ và đa văn; lại có thể khiến đệ tử tùy nhập trụ trong tín, giới, thí, huệ và đa văn. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo đủ mười tuổi hạ được nuôi đệ tử và cho thọ đại giới là tự mình có thể trụ trong giới vô học, định vô học, huệ vô học, giải thoát và giải thoát tri kiến vô học; lại có thể khiến cho đệ tử cũng trụ trong giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến vô học. Nếu Tỳ-kheo đủ mười tuổi hạ không có đủ năm pháp kể trên mà nuôi đệ tử và cho thọ đại giới thì mắc tội; nếu đủ năm pháp kể trên cũng được cho người y chỉ và chứa nuôi Sa-di; nếu không đủ năm pháp kể trên mà cho người y chỉ và chứa nuôi Sa-di thì mắc tội. Sáu Pháp Có sáu nguồn gốc tranh cãi, đó là sân hận không nói, tánh ác muốn hại, thAm-lam ganh ghét, dua nịnh quanh co, không biết hổ thẹn và sáu là ác dục tà kiến. Có sáu hạng người dạy bảo nên tùy thuận, không nên trái nghịch, đó là Hòa thượng, A-xà-lê, chúng Tăng, vua, đồng bậc vua và sáu là Tỳ-kheo làm Thác lại tra. Có sáu loại yết ma, đó là đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, Tăng yết ma, Tỳ-kheo làm Thác lại tra yết ma và sáu là thuyết giới yết ma. Có sáu pháp học, đó là Tăng thượng giới, tăng thượng ý, tăng thượng trí, tăng thượng oai nghi, tăng thượng Tỳ-ni và sáu là tăng thượng Ba-la-đề-mộc-xoa. Có sáu loại thỉnh, đó là thỉnh Tăng, thỉnh chúng nhơn, thỉnh người, thỉnh bát, thỉnh y và sáu là thỉnh thực. Có sáu pháp không đầy đủ, đó là giới, kiến, mạng, oai nghi không đầy đủ, tự mình không đầy dủ và sáu là người khác không đầy đủ. Ngược với trên thì gọi là sáu pháp đầy đủ. Lúc đó trưởng lão Ưu-ba-ly đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, xin nói sơ lược pháp yếu cho con biết thế nào là pháp, là luật là lời Phật dạy”, Phật bảo: “Này Ưu-ba-ly, nếu biết pháp này tùy thu- ận dục, không tùy thuận vô dục; tùy thuận không hòa hợp, không tùy thuận hòa hợp, tùy thuận lỗi, không tùy thuận không lỗi; tùy thuận tăng trưởng, không tùy thuận không tăng trưởng, một mực không chuyển; tùy thuận phiền não không lìa thì thầy nhất định phải biết đây là phi pháp, phi Tỳ-ni, phi Phật pháp. Nếu biết pháp này không tùy thuận dục mà tùy thuận vô dục; tùy thuận hòa hợp, không tùy thuận lỗi mà tùy thuận không lỗi; không tùy thuận tăng trưởng mà tùy thuận không tăng trưởng; không tùy thuận phiền não thì thầy nhất định phải biết đây là pháp, là Tỳ-ni, là Phật pháp. Lại nữa, nếu biết pháp này tùy thuận tham, không tùy thuận không tham; tùy thuận không nhàm lìa, không tùy thuận nhàm lìa; tùy thuận đa dục, không tùy thuận thiểu dục; tùy thuận không biết đủ, không tùy thuận biết đủ; tùy thuận ác tà kiến, không tùy thuận ác tà kiến thì thầy nhất định biết đây là phi pháp, phi Tỳ-ni, phi Phật pháp. Nếu biết pháp này không tùy thuận tham mà tùy thuận không tham; không tùy thuận không nhàm lìa mà tùy thuận nhàm lìa; không tùy thuận đa dục mà tùy thuận thiểu dục; không tùy thuận không biết đủ mà tùy thuận biết đủ; không tùy thuận ác tà kiến mà tùy thuận không ác tà kiến thì thầy nhất định biết đây là pháp, là Tỳ-ni, là Phật pháp ”. Giống như trưởng lão Ưu-ba-ly, trưởng lão A-na-luật, Tỳ- kheo-ni Đại ái đạo, Kế xá Cù-Đàm-di… cũng đã hỏi Phật như vậy. Có sáu pháp hiện tiền, đó là Tăng, chúng nhơn, nhơn, Hòa thượng, A-xà-lê và giới hiện tiền. Có sáu cách lấy, đó là cướp lấy, trộm lấy, gạt lấy, vu khống lấy, nhận của người gởi rồi lấy luôn, như pháp mà lấy. Có sáu pháp hòa nhiếp: Một là dựa trên tu thân từ để khuyên các vị phạm hạnh với lòng tôn trọng, kính yêu, tư duy, nhiếp thủ, phát khởi tinh tấn và hướng đến Niết bàn. Hai là dựa trên tu khẩu từ… như trên. Ba là dựa trên tu ý từ… như trên. Bốn là như pháp được bố thí y bát và các vật khác, đem bố thí cho các vị phạm hạnh với lòng tôn trọng, kính yêu… như trên. Năm là hộ giới không cho thiếu sót, không phạm, không thối thất, thanh tịnh đầy đủ được Phật khen ngợi, có thể thọ trì hết và khuyên các vị phạm hạnh… như trên. sáu là với chánh kiến đã được có thể hiển bày pháp yếu để khuyên các vị phạm hạnh… như trên. Bảy Pháp Có bảy tài, đó là tín, giới, văn, thí, huệ, tàm và quý. Có bảy lực, đó là tín, tinh tấn, tàm, quý, niệm, định và huệ lực. Có bảy pháp chỉ tránh, đó là hiện tiền, tự ngôn, ức niệm, bất si, mích tội tướng, đa mích và bố thảo chỉ tránh. Có bảy loại y, đó là y gai, y Sô ma, y Sa noa, y Kiều thi da, y Súy di la, y Khâm bà la và y kiếp bối. Có bảy nội chúng, đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Có bảy pháp khiến chánh pháp diệt vong, mai một, đó là không có lòng tin, lười biếng, không biết hổ, không biết thẹn, hay quên, không có định và ít trí huệ. Có bảy pháp không phải là chánh pháp, đó là không kính pháp, không kính nghóa, không kính thời, không biết đủ, không tự kính mình, không kính chúng, không phân biệt người. Ngược với bảy pháp này thì gọi là bảy chánh pháp. Trì luật có bảy đức: Một là có thể trì nội Tạng của Phật. Hai là có thể đoạn trừ tranh cãi (diệt tránh). Ba là do trì giới nên ở vị trí trên các ngoại đạo. Bốn là do trì luật nên không ai có thể gạn hỏi. Năm là do trì luật nên không gạn hỏi người khác. Sáu là ở trong chúng nói giới không có sợ gì. Bảy là có thể đoạn nghi khiến chánh pháp trụ lâu. Có bảy Phật đại trì luật: Một là Phật Tỳ-bà-thi, hai là Phật Thi- khí, ba là Phật Tùy-diếp, bốn là Phật Câu-lưu-tôn, năm là Phật Câu-na- hàm-Mâu-ni, sáu là Phật Ca-diếp, bảy là Phật Thích-ca-mâu-ni . Tám Pháp Có tám chúng đó là Sát-đế-lî, Bà-la-môn, cư só, Sa-môn, Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc và chúng Ưu-bà-di. Có tám pháp có thể chứng quả Niết bàn, đó là chánh kiến, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm và chánh định. Có tám pháp được thí, đó là giới (cõi) được thí, y chỉ được thí, chế hạn được thí, nhân duyên được thí, Tăng được thí, Hiện tiền được thí, an cư được thí và tám là chỉ thị (chỉ định) được thí. Do tám việc nên xả y Ca-hi-na, đó là khi ba y đã đủ, khi y may thành, khi đi, khi nghe, khi mất y, khi khởi tâm không trở về, khi quá thời hạn, khi cùng Tăng xả. Có tám loại guốc không nên cất chứa, đó là guốc gỗ, guốc Đa-la, guốc Ba-la-xá, guốc tre, guốc lá cây, guốc Văn-nhã, guốc ba-ba, guốc Khâm-bà-la. Có tám loại theo thế pháp, đó là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ và lạc. Có tám nạn, đó là nạn vua, nạn giặc, nạn lửa, nạn nước, nạn thú dữ, nạn rồng, nạn người, nạn phi nhơn. Có Tỳ-kheo khi đang hành Biệt trụ thì xả giới, sau đó xin thọ giới lại, thọ giới rồi bạch các Tỳ-kheo: “Trong khi con đang hành Biệt trụ, xả giới rồi xin thọ giới lại, nay con phải làm sao”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Vốn đang hành Biệt trụ thì nên cho hành Biệt trụ, không nên tác pháp cho lại nữa. Giống như trường hợp xả giới, các trường hợp khác như nói tôi là Sa-di … cho đến người bị Bất kiến tẫn, người bị Bất tác tẫn, người bị Ác tà bất trừ tẫn cũng như vậy”. Có Tỳ-kheo hành Biệt trụ xong liền xả giới, sau đó xin thọ giới lại, thọ giới rồi bạch các Tỳ-kheo: “Con hành Biệt trụ xong liền xả giới, nay xin thọ giới lại, con phài làm thế nào”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nếu đã hành Biệt trụ xong thì nên bảo theo tăng xin cho pháp hành Ma-na-đỏa. Giống như trường hợp xả giới, các trường hợp khác như nói tôi là Sa-di… cho đến người bị Bất kiến tẫn, người bị Bất tác tẫn, người bị Ác tà bất trừ tẫn cũng như vậy”. Có Tỳ-kheo đang hành Ma-na-đỏa thì xả giới, sau đó xin thọ giới lại, thọ giới rồi bách các Tỳ-kheo: “Trong khi con đang hành Ma-na- đỏa thì xả giới, nay xin thọ giới lại, con phải làm sao”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Vốn đang hành Ma-na-đỏa thì nên hành Ma-na-đỏa, không nên tác pháp cho lại nữa. Giống như trường hợp xả giới, các trường hợp khác như nói tôi là Sa-di… cho đến người bị Bất kiến tẫn, người bị Bất tác tẫn, người bị Ác tà bất trừ tẫn cũng như vậy”. Có Tỳ-kheo hành Ma-na-đỏa xong liền xả giới, sau đó xin thọ giới lại, thọ giới rồi bạch các Tỳ-kheo: “Con hành Ma-na-đỏa xong liền xả giới, nay xin thọ giới lại, con phải làm thế nào”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nếu đã hành Ma-na-đỏa cong thì nên bảo theo Tăng xin cho xuất tội. Giống như trường hợp xả giới, các trường hợp khác như nói tôi là Sa-di … cho đến người bị Bất kiến tẫn, người bị Bất tác tẫn, người bị Ác tà bất trừ tẫn cũng như vậy”. Chín Pháp Có chín loại não hại: Một là người này đã xâm hại, tổn hại tôi. Hai là người này sẽ xâm hại, tổn hại tôi. Ba là người này đang xâm hại, tổn hại tôi. Bốn là người này đã làm lợi ích cho oan gia của tôi. Năm là người này sẽ làm lợi ích cho oan gia của tôi. Sáu là người này đang làm lợi ích cho oan gia của tôi. Bảy là người này đã xâm hại, tổn hại đến bà con tôi. Tám là người này sẽ xâm hại, tổn hại đến bà con tôi. Chín là người này đang xâm hại, tổn hại đến bà con tôi. Chín pháp này khiến họ sanh não nên gọi là cửu não. Ngược lại, nếu nghó rằng: “Tại sao không khiến cho người này không xâm hại, tổn hại đến tôi mà làm lợi ích cho tôi”, nghó như thế thì xả được phiền não; hoặc nghó rằng: “Tại sao không khiến cho người này làm lợi ích cho oan gia của tôi”, nghó như thế thì xả được phiền não; hoặc nghó rằng: “Tại sao không khiến cho người này không xâm hại, tổn hại đến bà con tôi”, nghó như thế thì xả được phiền não. Đó gọi là chín pháp xả não. Mười Pháp Có mười pháp khiến chánh pháp diệt vong mai một, đó là phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp, phi Tỳ-ni nói là Tỳ-ni, Tỳ-ni nói là phi Tỳ-ni, không phạm nói là phạm, phạm nói là không phạm, khinh mà nói là trọng, trọng mà nói là khinh, Vô tàn mà nói là Hữu tàn, Hữu tàn mà nói là Vô tàn. Ngược với mười pháp trên thì gọi là mười pháp không khiến cho chánh pháp diệt vong, mai một. Có mười pháp gọi là Thượng tòa: Một là người có chỗ ở, không sợ, không ai có thể ngăn. Hai là người đã dứt phiền não, quen biết nhiều, có tiếng tăm, có thể khiến người khác sanh tâm tịnh. Ba là người có biện tài đầy đủ, không ai thắng được. Bốn là người có thể nói pháp không trệ ngại, nghóa thú rõ ràng khiến người nghe tín thọ. Năm là người khéo hay thư thả khi đi vào nhà người. Sáu là người có thể nói pháp thâm diệu cho bạch y. Bảy là người khéo phân biệt các đạo. Tám là người khéo khuyên người khác hành bố thí, trai giới. Chín là người có thể khuyên người khác bỏ ác theo thiện. Mười là người tự có đủ bốn đế, được hiện pháp an lạc, không có gì thiếu sót. Tỳ-kheo làm Ô-hồi-cưu-la có mười pháp này thì Tăng không nên sai: đầu. Một là không biết nguồn gốc việc tranh cãi và chỗ qua lại ban Hai là không biết tranh cãi. Ba là không khéo phân biệt việc tranh cãi. Bốn là không biết được nhân duyên phát sanh tranh cãi. Năm là không biết nghóa của việc tranh cãi. Sáu là không khéo diệt tránh. Bảy là không thể làm cho việc tranh cãi đã dứt diệt không phát khởi trở lại. Tám là giới không thanh tịnh. Chín là không có đa văn. Mười là ít trí huệ. Ngược với mười pháp trên thì Tăng nên sai làm Ô-hồi-cưu-la. Phật tại nước Bà-già, trong tụ lạc Na-lệ-bàn có một Ưu-bà-tắc với tâm tin ưa thanh tịnh xây cất một phòng xá cúng riêng cho trưởng lão La-vân. La-vân thọ rồi liền đi du hành hai tháng, Ưu-bà-tắc này thấy vậy liền đem phòng xá này cúng cho Tăng bốn phương. Du hành hai tháng xong trở về, La-vân mới biết Ưu-bà-tắc đã đem phòng xá này cúng cho Tăng bốn phương, liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi đem việc trên bạch Phật rồi nói: “Thế tôn, nay con phải làm sao”, Phật bảo: “Thầy nên đến hỏi Ưu-bà-tắc đó rằng: “Tôi không có điều gì xúc phạm ông chứ, hay là ông thấy tôi làm điều không phải hạnh Sa-môn, hay là thân khẩu tôi đã tạo tội lỗi gì?”. La-vân vâng lời Phật dạy đến hỏi Ưu-bà- tắc y như vậy, Ưu-bà-tắc nói: “Đại đức không có điều gì xúc phạm tôi, tôi cũng không thấy đại đức làm điều gì không phải hạnh Sa-môn, thân khẩu cũng không tạo tội lỗi gì”, lúc đó La-vân nói pháp chỉ dạy cho Ưu-bà-tắc được lợi hỉ rồi ra về, đến chỗ Phật bạch lại đầy đủ việc trên. Phaật do việc này nhóm Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo: Có mười cách thí phi pháp, mười cách thọ phi pháp và mười cách dùng phi pháp, đó là: Một là đã cúng thí cho Tăng này rồi lại chuyển qua cúng thí cho Tăng khác, đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Hai là đã cúng thí cho Ni tăng này rồi lại chuyển qua cúng thí cho Ni tăng khác, đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Ba là đã cúng thí cho ba hoặc hai, một Tỳ-kheo này lại chuyển qua cúng thí cho ba hoặc hai, một Tỳ-kheo khác; hoặc chuyển qua cúng thí cho Tăng. Đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Bốn là đã cúng thí cho ba hoặc hai, một Sa-di này lại chuyển qua cúng thí cho ba hoặc hai, một Sa-di khác; hoặc chuyển qua cúng thí cho Tăng. Đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Năm là đã cúng thí cho ba hoặc hai, một Tỳ-kheo-ni này lại chuyển qua cúng thí cho ba hoặc hai, một Tỳ-kheo-ni khác; hoặc chuyển qua cúng thí cho Tăng. Đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Sáu là đã cúng thí cho ba hoặc hai, một Thức-xoa-ma-na này lại chuyển qua cúng thí cho ba hoặc hai, một Thức-xoa-ma-na khác; hoặc chuyển qua cúng thí cho Tăng. Đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Bảy là đã cúng thí cho ba hoặc hai, một Sa-di-ni này lại chuyển qua cúng thí cho ba hoặc hai, một Sa-di-ni khác; hoặc chuyển qua cúng thí cho Tăng. Đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Tám là đã thí cho ba hoặc hai, một súc sanh này lại chuyển qua thí cho ba hoặc hai, một súc sanh khác; đây gọi là thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Chín là đã cúng thí cho Tỳ-kheo tăng lại chuyển qua cúng thí cho Tỳ-kheo-ni tăng; hoặc đã cúng thí cho Tỳ-kheo-ni tăng lại chuyển qua cúng thí cho Tỳ-kheo tăng. Đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Mười là nếu Tăng bị phá làm hai bộ, đã cúng thí cho bộ tăng này lại chuyển qua cúng thí cho bộ Tăng khác; đây gọi là cúng thí phi pháp, thọ phi pháp và dùng phi pháp. Cúng thí trước thì gọi là cúng thí như pháp, cúng thí sau là cúng thí phi pháp. Như vua là đàn việt chủ đất, chủ phòng xá chỉ được trông coi gìn giữ, không được đoạt của nơi này đem thí cho một nơi khác”. -------------------- THÊM MƯỜI PHÁP TĂNG NHẤT Một Pháp: Có một pháp Phá sẽ đọa trong ác đạo, đó là Phá tăng. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo do thân nghiệp làm, đó là làm thân Phật bị thương chảy máu. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo do khẩu nghiệp làm, đó là hủy báng Phật. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo, đó là ý niệm làm biệt chúng. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo, đó là nói hai lưỡi xúi giục người khác phá Tăng. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo, đó là gạn hỏi Tăng. Phi pháp khởi tưởng là phi pháp, do thấy phi pháp nên phá Tăng; phi pháp khởi tưởng là pháp, do thấy phi pháp nên phá Tăng; phi pháp khởi tưởng là pháp và nghi nên phá Tăng. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo do sát sanh khởi, đó là giết A-la-hán. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo do trộm cắp khởi, đó là trộm vật của Phật và Tăng. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo do dâm dục khởi, đó là phạm bất tịnh đối với Tỳ-kheo-ni và A-la-hán. Có một pháp Phạm sẽ đọa trong ác đạo từ vọng ngữ khởi, đó là tự nói mình được pháp hơn người. Hai Pháp Có hai loại phạm là bất thiện và vô ký. Lại có hai loại phạm là thân và khẩu. Lại có hai loại phạm là phương tiện và phi phương tiện. Lại có hai loại phạm là đùa cợt và không đùa cợt. Lại có hai loại phạm là đồng và không đồng. Có hai pháp đồng phạm là khinh và trọng. Có hai pháp đồng phạm là Hữu tàn và Vô tàn. Có hai pháp không đồng phạm là khinh và trọng. Có hai pháp không đồng phạm là Hữu tàn và Vô tàn. Có hai pháp sám không đồng là đối thú sám và tâm niệm sám. Có hai loại phạm là hữu hạn và vô hạn. Có hai loại phạm là xứ và phương hướng. Có hai loại phạm là có thể đếm số và không thể đếm số. Có hai loại phạm là lúc ra và lúc sắp ra. Có hai loại phạm là lúc vào và lúc sắp vào. Có hai loại phạm là lúc khởi và lúc sắp khởi. Có hai loại phạm là đúng thời và phi thời. Có hai loại phạm là đọa và không đọa. Có hai loại phạm là Thâu-lan-giá và tương ưng với bạch y. Có hai loại phạm là trọng phá và trọng không phá. Có hai loại phạm là Hữu tàn và Vô tàn. Có hai loại phạm là khinh và trọng. Có hai loại phạm là người bị cử tội có phạm và người cử tội có phạm. Có hai loại phạm là phạm thuộc về đối thú sám và phạm thuộc về tâm niệm sám. Có hai loại phạm là phạm thuộc về trọng giới và phạm không thuộc về trọng giới. Có hai loại phạm là phạm về bạch và phạm về không bạch. Có hai loại phạm là tạm thời và trọn đời. Có hai loại phạm là phạm về có tội và phạm về không có tội. Tỳ-kheo-ni có hai loại đồng phạm là trọng và khinh. Lại có hai loại đồng phạm là Hữu tàn và Vô tàn. Lại có hai loại không đồng phạm là khinh và trọng. Lại có hai loại không đồng phạm là Hữ tàn và Vô tàn. Lại có hai loại sám không đồng là đối thú sám và tâm niệm sám. Lại có hai loại phạm là ra khỏi giới và sắp ra khỏi giới. Lại có hai loại phạm là tự khen ngợi và không tự khen ngợi. Lại có hai loại phạm là lúc đứng dạây và lúc ngồi. Lại có hai loại phạm là lúc ngủ và lúc không ngủ. Lại có hai loại phạm là phạm về nói và phạm về im lặng. Lại có hai loại phạm là cố ý và không cố ý. Có hai loại si là si vô tri và si phóng dật. Có hai loại che giấu là che giấu vô tri và che giấu phóng dật. Có hai hạng người nên cho Biệt trú, có hai hạng người nên cho Ma-na-đỏa, có hai hạng người nên cho Bổn nhật trị, có hai hạng người nên cho xuất tội. Đó là Tỳ-kheo và không phải Tỳ-kheo . Có hai hạng người đoán sự trong Tăng là được Tăng sai và không được Tăng sai. Có hai loại đoán sự là được yết ma và không được yết ma. Người đoán sự có hai công đức là được ý chúng và có thể không sợ xử đoán việc. Có hai hạng người đoán sự là có hổ thẹn và không hổ thẹn. Có hai hạng người đoán sự là có riêng tư và không riêng tư, nếu xử phi pháp thì có riêng tư, nếu xử như pháp thì không có riêng tư. Có hai hạng người đoán sự là tự trực tiếp nghe được hay nghe qua từ người khác. Có hai hạng người đoán sự là tự đuổi hay bảo người đuổi. Có hai hạng người đoán sự là tranh cãi hay không tranh cãi. Có hai hạng người đoán sự là thông suốt A-hàm hay không thông suốt A-hàm. Có hai hạng người đoán sự là khéo phân biệt A-hàm hay không khéo phân biệt A-hàm. Có hai hạng người đoán sự là nói lời rõ ràng và nói lời không rõ ràng. vội. nhắc. Có hai hạng người đoán sự là khéo nói và không khéo nói. Có hai hạng người đoán sự là gạn hỏi và không gạn hỏi. Có hai hạng người đoán sự là tanh nóng vội và tánh không nóng Có hai hạng người đoán sự là tự biết và không tự biết. Có hai hạng người đoán sự là biết cân nhắc và không biết cân Có hai hạng người đoán sự là theo chúng và không theo chúng. Có hai hạng người đoán sự là tự khen và không tự khen. Có hai hạng người đoán sự là có thể diệt tránh và không thể diệt tránh. Có hai hạng người đoán sự là người nói lời mềm mỏng và người nói lời thô sẵn. Có hai hạng người đoán sự là người trì giới và người không trì giới, cho đến nên quở trách và không nên quở trách, nên cử và không nên cử, nên cung kính và không nên cung kính cũng như vậy. Có hai hạng người vô trí là phá giới và phá kiến; ngược lại thì gọi là hai hạng người có trí. Có hai loại phạm là phạm về giới và phạm về kiến. Nếu giới và kiến đầy đủ thì gọi là không phạm. Có hai loại Khổ thiết là bị yết ma phạt hành khổ thiết hay Tăng hòa hợp cho yết ma Khổ thiết. hai loại Y chỉ, hai loại Khu xuất, hai loại Hạ ý cũng giống như vậy. Có hai hạng người thanh tịnh là có bạch và không bạch sám hối hay phát lồ. Nếu Tăng tranh cãi thì việc tranh cãi nên giao lại cho Tăng xử đoán hoặc giao lại cho ba, hai, một người xử đoán; Tăng nên nhận để xử đoán và diệt tránh, cho đến ba, hai, một người cũng nên nhận để xử đoán và diệt tránh. Có hai cách tra xét phi pháp là phi pháp cho là pháp, pháp cho là phi pháp. Ngược lại thì gọi là tra xét như pháp. Có hai cách phạt là không sai làm và không dạy bảo. Ba Pháp Có ba loại yết ma nhiếp hết tất cả yết ma, đó là đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma. Có ba loại Tỳ-ni là tham dục, sân hận và ngu si. Ngược lại thì gọi là không phải Tỳ-ni. Có ba việc nên làm ở chỗ khuất là đại, tiểu tiện và xỉa răng. Có ba loại phạm là tham dục, sân hận và ngu si. Có ba hạng người ở riêng là người phạm, người không phạm và người tự nói. Có ba bậc được thế gian cúng dường và tôn kính là Như lai chí chơn đẳng chánh giác, Lậu tận A-la-hán và Chuyển luân thánh vương. Có ba loại hoa, ba loại hương, ba loại kỹ nhạc, ba loại phướn lọng, ba loại lụa để cúng dường. Có ba loại đồng ý của bậc thượng, trung và hạ: Một là bậc thượng đồng ý thì đáng được cả ba bậc thượng trung hạ đồng ý; nếu được cả ba sự đồng ý này thì tốt và nên lấy cả ba sự đồng ý này. Hai là bậc trung dồng ý thì đáng được hai bậc trung hạ đồng ý, nếu được hai sự đồng ý này thì tốt và nên lấy hai sự đồng ý này; không nên đòi hỏi sự đồng ý của bậc thượng, nếu đòi hỏi là không tốt. Ba là bậc hạ đồng ý thì đáng được sự đồng ý của bậc hạ, nếu được sự đồng ý này thì tốt và nên lấy sự đồng ý này; không nên đói hỏi sự đồng ý của hai bậc trên, nếu đòi hỏi là không tốt. Có ba pháp biết là biết phạm, biết không phạm và biết giới đã chế. Bốn Pháp Có bốn loại tránh là đấu tránh, vô căn tránh, phạm tránh và thường sở hành tránh. Có bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược Có bốn chúng là Sát-đế-lî, Bà-la-môn, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di. Có bốn chúng trời là Tứ thiên vương, chúng Ma, Đao lợi thiên và Phạm thiên vương. Có bốn loại chúng là chúng được dạy bảo, chúng không được dạy bảo, chúng ô trược và chúng thanh tịnh. Có bốn loại bi là thương xót làm lợi ích, không não hại và trụ trong chánh pháp. Có bốn pháp nên dứt là tham dục, sân hận, ngu si và tà kiến. Có bốn việc nên Như lai thiết lập giáo pháp là vì lợi ích, vì nơi chốn, vì thời đại và vì người. Có bốn việc nên Như lai chế giới là phạm, không phạm, trọng và khinh. Có bốn loại điều phục là cho khổ thiết, cho y chỉ, cho khu xuất và cho hạ ý. Có bốn loại dược nên quan sát là loại dược tịnh lẫn với loại dược bất tịnh, loại dược bất tịnh lẫn với loại dược tịnh, loại dược tịnh lẫn với loại dược tịnh và loại dược bất tịnh lẫn với loại dược bất tịnh. Có bốn việc tranh cãi là việc đấu tranh, việc tranh cãi do không căn cứ, việc tranh cãi về phạm tội và việc tranh cãi về việc nên làm thường ngày. Có bốn việc hoặc quở trách hoặc mắng hoặc nói khác lạ hoặc im lặng. Như lại dựa trên bốn cảnh giới mà chế giới, đó là cảnh giới thần túc, cảnh giới trí, cảnh giới pháp và cảnh giới người. <卷>QUYỂN 51 THÊM MƯỜI PHÁP TĂNG NHẤT (Tiếp Theo) Năm Pháp Có năm việc Tăng nên cho yết ma Hạ ý, đó là nói lỗi của Phật, Pháp, Tăng, giới và làm việc không đúng oai nghi. Lại có năm việc Tăng nên cho yết ma Hạ ý, đó là mắng Tỳ-kheo, nói xấu Tỳ-kheo, nêu ra lỗi của tỳ-kheo, khắp nơi nói lỗi của tỳ-kheo và năm là khiến cho Tỳ-kheo không được cúng thí và mất chỗ ở. Lại có năm việc Tăng nên cho yết ma Hạ ý, đó là mắng bạch y, nói xấu bạch y, nếu ra lỗi của bạch y, khắp nơi nói lỗi của bạch y và năm là khiến cho bạch y không được lợi và mất chỗ ở. Lại có năm việc Tăng nên cho yết ma Hạ ý: Một là Tỳ-kheo dùng lời nói hai lưỡi để tranh cãi, đem việc của tỳ-kheo này đến nói với Tỳ-kheo khác. Hai là Tỳ-kheo dùng lời nói hai lưỡi, đem việc của bạch y này đến nói với bạch y khác. Ba là Tỳ-kheo dùng lời nói hai lưỡi đem việc của tỳ-kheo đến nói với bạch y. Bốn là Tỳ-kheo dùng lời nói hai lưỡi đem việc của bạch y đến nói với Tỳ-kheo . Năm là dùng lời thế tục để mắng. Có năm việc, đó là hình tướng, sanh chủng, làm, phạm và năm là bịnh. Lại có năm việc, đó là hình tướng, sanh tướng, tạo nhiều phiền não, làm pháp thế gian và năm là mắng. Có năm loại da không nên chứa, đó là da Sư tử, da hổ, da báo, da rái cá và năm là da chồn. Lại có năm loại da không nên chứa, đó là da voi, da ngựa, da chó, da dã can và năm là da nai đen. Có năm loại y phấn tảo không nên chứa cất, đó là y hỏa thiêu, y bò nhai, y chuột gặm, y của người nữ mới lấy chồng và năm là y của sản phụ. Có năm việc Tỳ-kheo không nên thọ, đó là nói lời vô nghóa, nói lời phi pháp, nói lời phi luật, nói lời không thương xót và năm là nói lời không phải răn dạy. Có năm loại xử phân, đó là xử phân giới (cõi), xử phân thí, xử phân đạo kính hành, xử phân giới (cõi), xử phân kiến. Có năm loại thần sắc không được cất chứa, đó là thuần đỏ, thuần xanh, thuần sắc uất kim, thuần vàng lam, thuần sắc Mạn đề tra. Có năm loại đại sắc không nên cất chứa, đó là sắc Khung già, sắc Kiềm-xà, sắc-lô-da-na, sắc Tha-lệ-đa, sắc Ha-lê-đà-la. Có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không thấy nói thấy, hai là không nghe nói nghe, ba là không nhớ nói nhớ, bốn là không biết nói biết, năm là phi pháp nói là pháp. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh, đó là tùy ái, tùy sân, tùy si, tùy sợ và phi pháp nói là pháp. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra có phạm: Một là không thấy nói thấy, hai là không nghe nói nghe, ba là không nhớ nói nhớ, bốn là không biết nói biết, năm là phi pháp nói là pháp. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra không có phạm. Lại có năm pháp Tỳ-kheo làm Thác lại tra có phạm, đó là tùy ái, tùy sân, tùy si, tùy sợ và phi pháp nói là pháp. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra không phạm. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không khéo biết tranh cãi. Hai là không khéo biết trú xứ của tranh cãi. Ba là không khéo phân biệt việc tranh cãi. Bốn là không biết nhân duyên để diệt tránh. Năm là không biết phát khởi trở lại sau khi diệt tránh xong. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Lại có năm pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra không thể diệt tránh: Một là không khéo biết kinh. Hai là không khéo biết luật. Ba là không khéo biết tranh cãi. Bốn là không khéo biết trú xứ của tranh cãi. Năm là không khéo phân biệt việc tranh cãi. Ngược với năm pháp trên thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra có thể diệt tránh. Có năm pháp mà Tỳ-kheo đủ năm tuổi hạ không y chỉ người khác, đó là biết phạm, biết không phạm, biết khinh, biết trọng và thông suốt giới luật. Có năm pháp cho là đồng ý mà lấy: Một là thân thiết, hai là còn sống, ba là hiện tiền, bốn là lấy rồi sau sẽ nói cho biết, năm là lấy rồi nghó họ sẽ hoan hỉ. Có năm nhân duyên nên Phật đi xem xét phòng xá: Một là vì muốn đoạn dứt Tỳ-kheo nói việc thế tục. Hai là vì muốn liệu lý ngọa cụ mà không có người liệu lý. Ba là liệu lý xong xuôi thì được an ổn. Bốn là vì thăm bịnh Tỳ-kheo bịnh. Năm là vì muốn chế giới. Có năm việc nên Như lai tuy biết mà vẫn hỏi: Một là vì muốn làm duyên khởi. Hai là vì muốn chế giới. Ba là vì phân biệt nghóa và câu. Bốn là vì tương tợ với câu văn trong kinh Năm là vì muốn chúng sanh đời sau tự hiểu. Kinh hành có năm điều lợi ích, đó là mạnh khỏe, có sức, không bịnh, tiêu hóa thức ăn và ý được kiên cố. Kinh hành lại có năm điều lợi, đó là đi được (luyện bắp chân), giải lao, trừ gió, trừ nóng lạnh và ý được kiên cố. Có năm việc phát lồ phi pháp: Một là đối trước người Biệt trụ. Hai là đối trước người phạm bất cọng trụ. Ba là đối trước chúng chưa thọ đại giới. Bốn là phạm tội Vô tàn. Năm là không thấy tội này mà phát lồ. Ngược với năm pháp trên gọi là phát lồ như pháp. Có năm việc làm yết ma Khổ thiết phi pháp: Một là phi pháp phi luật. Hai là nên ngăn, nên bỏ đó. Ba là không có việc, không hiện tiền mà làm. Bốn là không có người cử tội, không khiến người kia nhớ nghó. pháp. Năm là không hỏi ba lần mà làm. Ngược với năm việc trên thì gọi là làm yết ma Khổ thiết như Có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt, đó là thấy nói thấy, nghe nói nghe, nhớ nói nhớ, biết nói biết và năm là pháp nói là pháp. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt, đó là không tùy ái, không tùy sân, không tùy si, không tùy sợ và năm là pháp nói là pháp. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt: Một là khéo phân biệt thọ lấy sự việc. Hai là người không lỗi thì không nói là có lỗi. Ba là người có lỗi thì nói là có lỗi. Bốn là bên người không thanh tịnh thì sanh không thanh tịnh, bên người thanh tịnh thì sanh thanh tịnh. Năm là pháp nói là pháp. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt: Một là khéo phân biệt sự việc, không dựa vào thế lực. Hai là khi đoán sự trong Tăng, xin phép cho rồi mới cử tội người khác. Ba là không có riêng tư thọ sự hối lỗi. Bốn là không có riêng tư thấy lỗi của người, cũng không riêng tư nói lỗi của người. Năm là pháp nói là pháp. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt: Một là khéo thọ lấy việc tranh cãi. Hai là khéo biết trú xứ của tranh cãi. Ba là khéo phân biệt việc tranh cãi. Bốn là khéo biết diệt tránh rồi sẽ không phát khởi trở lại. Năm là pháp nói là pháp. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt: Một là khéo biết kinh. Hai là khéo biết luật. Ba là khéo biết tranh cãi. Bốn là khéo biết trú xứ của tranh cãi. Năm là pháp nói là pháp. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt: Một là thọ đại giới đủ mười hạ hay hơn mười hạ. Hai là trì giới. Ba là đa văn. Bốn là như pháp đoạn nghi cho chính mình và cho người khác. Năm là khéo đoạn trừ tà kiến cho mình và cho người khác. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt: Một là có thể dạy trì giới. Hai là có thể dạy Tỳ-ni. Ba là có thể dạy A-tỳ-đàm. Bốn là nếu đệ tử ở phương khác không thích, có thể tự dẫn về hay nhờ người khác dẫn về. Năm là đệ tử bị bịnh có thể chăm sóc hay nhờ người khác chăm sóc. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt, đó là tự mình có đủ tín, giới, thí, huệ và đa văn; lại có thể khiến người khác tùy nhập trụ trong tín, giới, thí, huệ và đa văn. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt, đó là tự mình có thể trụ trong giới vô học, định vô học, huệ vô học, giải thoát và giải thoát tri kiến vô học; lại có thể khiến cho người khác cũng trụ trong giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến vô học. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt, đó là biết phạm, biết không phạm, biết khinh, biết trọng và thông suốt giới luật. Lại có năm pháp gọi là Tỳ-kheo làm Thác lại tra tốt, đó là biết xuất gia, biết yết ma, biết giáo thọ, biết y chỉ và biết chướng đạo hay không chướng đạo. Sáu pháp và bảy pháp giống như trên đã nói. Tám Pháp Có tám loại bát không được cất chứa, đó là bát vàng, bát bạc, bát lưu ly, bát pha lê, bát đồng, bát bạch lạp, bát gỗ và bát đá. Chín Pháp Phật bảo Ưu-ba-ly: “Một Tỳ-kheo không thể phá Tăng, hai, ba, bốn cho đến chín Tỳ-kheo thanh tịnh đồng kiến mới có thể phá Tăng. Một Tỳ-kheo-ni, một Thức-xoa-ma-na, một Sa-di, một Sa-di-ni, một Xuất gia, một Xuất gia ni cho đến chín đều không thể phá Tăng. Phải có chín Tỳ-kheo thanh tịnh đồng kiến mới có thể phá Tăng”. Có chín loại phạm, đó là phạm tội Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la, ác khẩu Đột-kiết-la, Thâu- lan-giá Đột-kiết-la, Tỳ-ni Đột-kiết-la và phạm oai nghi Đột-kiết-la . Có chín pháp thối thất, đó là giới, kiến, mạng, oai nghi, tự mình, người khác, tri thức (bạn quen biết), vật tư sanh thối thất và sanh tử thối thất. Ngược với chín pháp trên thì gọi là chín pháp không thối thất. Có chín pháp mà Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên quán sát khi xử đoán, đó là người nói, người tranh cãi, oai nghi, chỗ qua lại, bà con, bạn quen biết, thân khẩu hành, quán sát từ trước đến nay và chín là quán sát nói xấu nhau như thế nào, nên nghe họ nói và nghe từ người khác nói. Có chín pháp quán sát lời của người kia nói: Một là xét xem có đấu tranh hay không đấu tranh. Hai là xét xem có tranh cãi hay không tranh cãi. Ba là xét xem có giữ cho nhau hay không. Bốn là xét xem có nói xấu nhau hay không. Năm là xét xem có phạm giới hay không. Sáu là xét xem có phạm kiến hay không. Bảy là xét xem có phạm mạng hay không. Tám là xét về lời nói Chín là xét lại những lời người khác nói. Lúc đó trưởng lão Ưu-ba-ly, trưởng lão A-na-luật đến hỏi Phật về pháp yếu để biết thế nào là Pháp, là luật, là lời Phật dạy. Phật trả lời như trước đã nói. Có chín pháp y chỉ: Nếu thiện nam tử y chỉ vào lòng tin, bỏ pháp bất thiện, chọn lấy pháp thiện. Đó gọi là bỏ bất thiện lấy thiện; giới, văn, thí và trí cũng giống như vậy. Khi đã trụ trong năm pháp này thì sẽ chứng được bốn pháp là pháp nhẫn, tùy nhẫn, lạc nhẫn và khí xả nhẫn. Có ngoại đạo tên là Bà-ha-thọ-hòa đến chỗ Phật thăm hỏi rồi bạch Phật: “Sa-môn Cù-đàm, trước kia Ngài ở dưới gốc cây Ca-hòa-la bên sông Ni-liên thiền tại nước Ưu-lâu-tần-loa, chứng được quả A-nậu- đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Sau đó không lâu, tôi nghe Ngài nói rằng: Bậc Lậu tận A-la-hán không trở lại sanh tử và không làm năm việc là không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không cố ý nói dối và không uống rượu. Tôi nghe rồi liền tín thọ”, Phật bảo: “Trước đây ta đã nói và nay cũng nói như vậy, bậc Lậu tận A-la-hán không trở lại sanh tử và không làm chín việc là không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không cố ý nói dối, không uống rượu, không tùy ái, không tùy sân, không tùy si, và không tùy sợ”. Lại có ngoại đạo tên là Sa-đà đến chỗ Phật thăm hỏi rồi cũng nói giống như ngoại đạo Bà-ha-thọ-hòa và Phật cũng đáp giống như trên. Mười Pháp Có mười loại ngữ, đó là Kinh ngữ, Luật ngữ, Luận ngữ, Hòa thượng ngữ, A-xà-lê ngữ, Giới ngữ, Y ngữ, Bát ngữ, Thực ngữ và Dược ngữ. Có mười nguyện, đó là Kinh nguyện, Luật nguyện, Luận nguyện, Hòa thượng nguyện, A-xà-lê nguyện, Giới nguyện, Y nguyện, Bát nguyện, Thực nguyện và Dược nguyện. Có mười pháp yết ma, đó là đó là đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, Tăng yết ma, Tỳ-kheo làm Thác lại tra yết ma, thuyết giới yết ma, yết ma phi pháp, yết ma như pháp, biệt chúng yết ma và mười là hòa hợp chúng yết ma. Có mười pháp trị, đó là cho khổ thiết, cho y chỉ, cho khu xuất và cho hạ ý, cho Bất kiến tẫn, cho Bất tác tẫn, cho Ác tà bất trừ tẫn, cho Biệt trụ, cho Ma-na-đỏa và mười là cho Bổn nhật trị. Lại có mười pháp quở mắng, đó là cho khổ thiết, cho y chỉ, cho khu xuất và cho hạ ý, cho Bất kiến tẫn, cho Bất tác tẫn, cho Ác tà bất trừ tẫn, cho Biệt trụ, cho Ma-na-đỏa và mười là cho Bổn nhật trị. Có mười pháp ngăn thọ giới, đó là phạm biên tội, vốn là bạch y, bất năng nam, ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế, tặc trụ, người giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, người ác tâm làm cho Phật bị thương. Có mười nạn, đó là nạn vua, nạn giặc, nạn lửa, nạn nước, nạn thú dữ, nạn rồng, nạn người, nạn phi nhơn, nạn liên quan tới mạng sống và nạn phạm hạnh. Có mười loại phi Tỳ-ni, đó là mười bất thiện nghiệp. Có mười loại Tỳ-ni, đó là mười thiện nghiệp. Lại Có mười phi Tỳ-ni, đó là mười tà. Lại Có mười Tỳ-ni, đó là mười trực của bậc Vô học. Có mười hạng người không có chí, đó là người hành Biệt trụ, người hành Biệt trụ xong, người hành Ma-na-đỏa, người hành Ma-na- đỏa xong, người bị khổ thiết (trị phạt), người đang hành y chỉ, người bị tẫn xuất, người đang hành Hạ ý, người bị Bất kiến tẫn, người bị Bất tác tẫn. Có mười loại ngăn thuyết giới phi pháp: Một là không phạm Ba-la-di, không nêu ra việc Ba-la-di . Hai là không khinh trách Tăng, không nêu ra việc khinh trách Tăng. Ba là không xả giới, không nêu ra việc xả giới. Bốn là tùy thuận việc Tăng như pháp. Năm là không phá giới. Sáu là không phá kiến. Bảy là không thấy. Tám là không nghe. Mười là không nghi. Ngược với mười việc trên thì gọi là ngăn thuyết giới như pháp. Có mười lợi nên Như lai kết giới: Một là nhiếp thủ Tăng, Hai là khéo nhiếp phục, Ba là khiến Tăng được an lạc trụ, Bốn là chiết phục người có tâm cống cao, Năm là khiến người tàm quý được an lạc, Sáu là khiến người không tin được tịnh tín, Bảy là khiến người đã tin được tăng trưởng, Tám là ngăn phiền não lậu hoặc đời này, Chín là đoạn nghiệp ác đời sau, Mười là khiến phạm hạnh trụ lâu Do mười lợi này nên Như lai chế giới, nói kinh, nói luận; nói tụng kinh, luật, luận; nói trì kinh, luật, luận; nói nhiếp kinh, luật, luận; bảo Hòa thượng và A-xà-lê nên dạy oai nghi cho đệ tử cọng hành và đệ tử cận hành; nói Tỳ-ni, nói Ba-la-đề-mộc-xoa, nói thuyết Ba-la-đề-mộc- xoa, nói ngăn thuyết giới, nói thọ tứ tứ, nói ngăn tự tứ, nói gởi dục, nói thọ dục, nói trì dục, nói thuyết dục, nói lấy dục; nói gởi thanh tịnh, nói thọ thanh tịnh, nói trì thanh tịnh, nói thuyết thanh tịnh, nói lấy thanh tịnh; nói gởi dục thanh tịnh, nói thọ dục thanh tịnh, nói nói trì dục thanh tịnh, nói thuyết dục thanh tịnh, nói lấy dục thanh tịnh; nói y chỉ, nói cho y chỉ, nói thọ y chỉ, nói xả y chỉ; nói chiết phục, nói khu xuất, nói hối lỗi, nói thọ hối lỗi; nói các pháp yết ma như đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý, yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến, yết ma Biệt trụ, yết ma Ma-na-đỏa, yết ma Bổn nhật trị, yết ma Xuất tội, yết ma Mích tội tướng… khiến cho người chưa điều phục được điều phục đều là vì mười lợi ích kể trên. --------------------- TƯỚNG TĂNG NHẤT Hỏi: Việc đã phạm nên nói bạch hay không nên nói bạch? Đáp: Phạm thì nên nói bạch. Hỏi: Phạm nên nói là Sắc hay là Phi sắc? Đáp: Phạm thì nên nói là Sắc. Hỏi: Phạm nên nói là Khả kiến hay là Bất khả kiến? Ấm? Giới? Đáp: Phạm thì nên nói là Khả kiến. Hỏi: Phạm nên nói là Căn số hay là Phi căn số? Đáp: Phạm nên nói là Căn số. Hỏi: Phạm nên nói là Hữu lậu hay là Vô lậu? Đáp: Phạm nên nói là Hữu lậu. Hỏi: Phạm nên nói là Hữu vi hay là Vô vi? Đáp: Phạm nên nói là Hữu vi. Hỏi: Phạm nên nói là thế gian hay là xuất thế gian? Đáp: Phạm nên nói là thế gian. Hỏi: Phạm nên nói là nhiếp thuộc Ấm hay không nhiếp thuộc Đáp: Phạm nên nói là nhiếp thuộc Ấm. Hỏi: Phạm nên nói là nhiếp thuộc Giới hay không nhiếp thuộc Đáp là nhiếp thuộc Giới. Hỏi: Phạm nên nói là thọ hay không thọ? Đáp: Nên nói là thọ. Hỏi: Phạm nên nói là bốn đại tạo hay không phải bốn đại tạo?, đáp là bốn đại tạo. Hỏi: Phạm nên nói là Tương hay Phi tưởng? Đáp: Nên nói là Tưởng. Hỏi: Phạm nên nói là tâm loạn hay không phải tâm loạn? Đáp là tâm loạn. Hỏi: Phạm nên nói là nhiễm hay không nhiễm. Đáp: Có cả nhiễm và không nhiễm. Nhiễm là cố ý phạm giới Phật đã chế; Không nhiễm là không cố ý phạm giới. Hỏi: Phạm nên nói là Tạp hay là Phi tạp? Đáp: Nên nói là Tạp. Hỏi: Phạm nên nói là Hữu dục hay là Vô dục? Đáp: Nên nói là Hữu dục. Hỏi: Phạm nên nói là có dính mắc hay không có dính mắc? Đáp là có dính mắc. Hỏi: Phạm nên nói là Hữu đối hay là Vô đối? Đáp: Nên nói là Hữu đối. Hỏi: Phạm nên nói là Hữu tâm hay là Vô tâm? Đáp: Nên nói là Hữu tâm. Hỏi: Phạm nên nói là Hữu báo hay là Vô báo? Đáp: Nên nó là Hữu báo. Hỏi: Phạm nên nói là nghiệp hay không phải nghiệp? Đáp: Nên nói là nghiệp. Hỏi: Phạm nên nói là từ ngoài vào hay là từ trong vào? Đáp là từ trong vào. Hỏi: Phạm nên nói là quá khứ, vị lai hay hiện tại? Đáp: Có cả ba, quá khứ là việc đã phạm rồi nên đối trước người khác phát lồ sám hối; vị lai là việc chưa phạm, ắt sẽ phạm; hiện tại là hiện tiền phạm. Hỏi: Phạm nên nói là thiện, bất thiện hay vô ký? Đáp: Nên nói là bất thiện và vô ký, bất thiện là cố ý phạm giới Phật đã chế; vô ký là không cố ý phạm giới. Hỏi: Phạm nên nói là Dục giới, Sắc giới hay Vô sắc giới? Đáp là Dục giới. Hỏi: Phạm nên nó là Học hay là Vô học? Đáp: Không phải Học, cũng không phải Vô học. Hỏi: Phạm nên nói là Kiến đế đoạn hay là Tư duy đoạn? Đáp là tư duy đoạn. Hỏi: Có trường hợp làm việc này thì phạm và làm việc này mà không phạm không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo không thọ y Ca-hi-na mà chứa y dư, thường thường ăn, ăn biệt chúng, không bạch mà vào tụ lạc, không mặc Tăng- già-lê mà vào tụ lạc, thì gọi là phạm. Ngược lại nếu Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na thì được chứa y dư, thường thường ăn, ăn biệt chúng, không bạch mà vào tụ lạc, không mặc Tăng-già-lê mà vào tụ lạc, đều không phạm. Hỏi: Có trường hợp người làm yết ma có phạm và có người làm mà không phạm không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo cho một Tỳ-kheo yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn hoặc yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn. Tỳ-kheo này tự thấy tội, đến xin xả yết ma liền ở ngoài giới cho xả yết ma; sau đó cùng Tỳ-kheo này cọng sự, cùng ở chung và giáo thọ. Tỳ-kheo khác thấy nói rằng: “Tăng đã cho Tỳ-kheo này yết ma Bất kiến tẫn…, thầy chớ nên cùng cọng sự…”, đáp là người này đã thấy tội và đã cho xả yết ma, liền hỏi là xả yết ma ở đâu, đáp là ở ngoài giới. Trường hợp cho xả yết ma này là bất thiện xả, là phi pháp xả nên người làm yết ma có phạm. Ngược lại nếu ở trong giới cho xả yết ma tẫn thì gọi là thiện xả, là như pháp xả và người làm yết ma không phạm. Hỏi: Có trường hợp phạm mà biết phạm và phạm mà không biết phạm không? Đáp: Có, biết phạm là biết thể của năm loại phạm; không biết phạm là không biết thể của năm loại phạm, tuy không biết vẫn gọi là phạm. Hỏi: Có trường hợp tự biết phạm có tội và người khác biết phạm có tội không? Đáp: Có, tự biết phạm có tội là biết thể của năm loại phạm; người khác biết phạm có tội là Ưu-bà-tắc đáng tin chứng biết . Hỏi: Có trường hợp phạm mà nhớ phạm và phạm mà không nhớ phạm không? Đáp: Có, nhớ phạm là nhớ được thể của năm loại phạm; không nhớ phạm là không nhớ được thể của năm loại phạm. Hỏi: Có trường hợp phạm mà hiện tiền phạm và không hiện tiền phạm không? Đáp: Có, hiện tiền phạm là hiện có tội đã phạm; không hiện tiền phạm là hiện chưa phạm nhưng ắt sẽ phạm. Có loại phạm Bất cọng trụ, phạm đủ loại Bất cọng trụ, phạm đủ loại Bất cọng trụ và không phải Bất cọng trụ; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại tác yết ma cho không được ở chung, đủ loại tác yết ma cho không được ở chung, đủ loại tác yết ma cho không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp tác yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại biết phạm không được ở chung, đủ loại biết phạm không được ở chung, đủ loại biết phạm không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại không biết phạm không được ở chung, đủ loại không biết phạm không được ở chung, đủ loại không biết phạm không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại tự nói phạm không được ở chung, đủ loại tự nói phạm không được ở chung, đủ loại tự nói phạm không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại người khác nói phạm không được ở chung, đủ loại người khác nói phạm không được ở chung, đủ loại người khác nói phạm không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại nhớ phạm không được ở chung, đủ loại nhớ phạm không được ở chung, đủ loại nhớ phạm không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại không nhớ phạm không được ở chung, đủ loại không nhớ phạm không được ở chung, đủ loại không nhớ phạm không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại hiện tiền phạm không được ở chung, đủ loại hiện tiền phạm không được ở chung, đủ loại hiện tiền phạm không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại không hiện tiền phạm không được ở chung, đủ loại không hiện tiền phạm không được ở chung, đủ loại không hiện tiền phạm không được ở chung và không phải không được ở chung; đó là trường hợp bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có loại phạm thuộc Tăng làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có trường hợp người biết Tăng làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có trường hợp người không biết Tăng làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có trường hợp tự nói Tăng làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có trường hợp không tự nói Tăng làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có trường hợp người nhớ Tăng làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có trường hợp người không nhớ Tăng làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có trường hợp hiện tiền Tăng làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có trường hợp không hiện tiền T8ang làm yết ma chỉ có ba, hai, một người; đó là trường hợp Tăng làm yết ma cho bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ. Có bốn loại yết ma điều phục là cho khổ thiết, cho y chỉ, cho khu xuất và cho hạ ý. Hỏi: Có trường hợp từ việc này tự nói phá Tăng thì người chưa thọ giới không được thọ giới, nếu đã thọ rồi thì nên diệt tẫn; và tự nói phá Tăng mà người chưa thọ giới vẫn được thọ giới; người đã thọ rồi vẫn không diệt tẫn hay không? Đáp: Có, nếu phi pháp khởi tưởng là phi pháp khi tác pháp thấy phá Tăng, thì người chưa thọ giới không được thọ; người đã thọ rồi nên diệt tẫn. Ngược lại nếu khởi tưởng là pháp thì người thọ giới vẫn được thọ, người đã thọ rồi vẫn không diệt tẫn. Hỏi: Có trường hợp từ việc này tự nói là Tặc trụ thì người chưa thọ giới không được thọ giới, nếu đã thọ rồi thì nên diệt tẫn và tự nói là Tặc trụ mà người chưa thọ giới vẫn được thọ giới, nếu đã thọ rồi vẫn không diệt tẫn hay không? Đáp: Có, nếu đã hai, ba lần nghe bố tát thì người này, nếu chưa thọ giới thì không được thọ giới, nếu đã thọ rồi thì nên diệt tẫn; nếu một lần bố tát có nghe hay không nghe thì người này, nếu chưa thọ giới vẫn được thọ giới, nếu đã thọ rồi vẫn không diệt tẫn. Hỏi: Có trường hợp từ việc này tự nói là làm ô nhục Tỳ-kheo-ni thì người chưa thọ giới không được thọ giới, nếu đã thọ rồi thì nên diệt tẫn và tự nói là làm ô nhục Tỳ-kheo-ni mà người chưa thọ giới vẫn được thọ giới, nếu đã thọ rồi vẫn không diệt tẫn hay không? Đáp: Có, nếu vì dâm dục mà làm ô nhục Tỳ-kheo-ni thì người này, nếu chưa thọ giới không được thọ giới, nếu đã thọ rồi thì nên diệt tẫn. Nếu là dùng thân xúc chạm làm ô nhục Tỳ-kheo-ni thì người này, nếu chưa thọ giới vẫn được thọ giới, nếu đã thọ rồi vẫn không diệt tẫn. Hỏi: Có trường hợp từ việc này tự nói là tôi giết cha mẹ thì người chưa thọ giới không được thọ giới, nếu đã thọ rồi thì nên diệt tẫn và tự nói là tôi giết cha mẹ mà người chưa thọ giới vẫn được thọ giới, nếu đã thọ rồi vẫn không diệt tẫn hay không? Đáp: Có, nếu biết đây là cha mẹ, không có tưởng người khác, không phải ngộ sát thì người này, nếu chưa thọ giới thì không được thọ giới, nếu đã thọ rồi thì nên diệt tẫn. Ngược lại nếu không biết, tưởng là người khác mà ngộ sát thì người này, nếu chưa thọ giới vẫn được thọ giới, nếu đã thọ rồi vẫn không diệt tẫn. Hỏi: Có phải tâm thiện, tâm bất thiện và tâm vô ký giết cha mẹ đều phạm Ba-la-di và tội nghịch hay không? Đáp: Phải, nếu cha mẹ bị bịnh chịu khổ não nên khởi tâm giết để được lìa khổ não, đây gọi là tâm thiện giết cha mẹ mà phạm Ba-la-di và tội nghịch. Nếu vì tài lợi mà khởi tâm giết cha mẹ thì đây là tâm bất thiện giết cha mẹ phạm Ba-la-di và tội nghịch. Nếu làm phương tiện để giết rồi đi ngủ, khi ngủ cha mẹ chết thì đây là tâm vô ký giết cha mẹ phạm Ba-la-di và tội nghịch. Hỏi: Có trường hợp dùng tâm thiện, tâm bất thiện và tâm vô ký giết cha mẹ mà không phạm Ba-la-di và tội nghịch hay không? Đáp: Có, nếu cha mẹ bị bịnh nặng, cung dưỡng cơm cháo… các món ăn ngon, cha mẹ ăn xong liền mạng chung. Đây là tâm thiện giết cha mẹ mà không phạm Ba-la-di, cũng không phạm tội nghịch. Trường hợp đặt bẫy để giết súc vật nhưng cha mẹ lại sa bẫy, nhân đây mà chết; đây là tâm bất thiện giết cha mẹ mà không phạm Ba-la-di cũng không phạm tội nghịch. Trường hợp bắn vào cây, vào vách, vào bia mà lại trúng nhằm cha mẹ, nhân đây mà chết; đây là tâm vô ký giết cha mẹ không phạm Ba-la-di cũng không phạm tội nghịch. Giống như trường hợp giết cha mẹ, giết A-la-hán cũng như vậy. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cọng sự không vào trong Tăng cũng không gởi dục mà ở trong giới làm tất cả các yết ma mà không phạm hay không? Đáp: Có, Như lai chí chơn đẳng chánh giác trước đây có nói với Mục-liên rằng: “Từ nay các thầy tự nói Ba-la-đề-mộc-xoa, ta sẽ không đến nói Ba-la-đề-mộc-xoa nữa”. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không nghe năm loại thuyết giới mà được bố tát hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ở một mình thì được Hỏi: Như lời Phật dạy là ở trước người chưa thọ đại giới thì không được thuyết giới, có trường hợp ở trước người chưa thọ đại giới mà được thuyết giới hay không? Đáp: Có, như trước đây ta có nói trừ các quyến thuộc của vua Ba- tư-nặc, được ở trước vua thuyết giới để khiến cho tâm vua thanh tịnh. Hỏi: đối với phàm phu, trong ba tâm là tâm thiện phạm hay tâm bất thiện phạm hay tâm vô ký phạm? Đáp: Cả ba tâm, tâm thiện phạm là như Tỳ-kheo mới thọ giới chưa biết giới tướng nên tự tay nhổ cỏ trước tháp, tự làm sạch cỏ chỗ kinh hành, tự hái hoa…; tâm bất thiện phạm là như Tỳ-kheo cố ý phạm giới mà Phật đã kết; tâm vô ký phạm là nếu không cố ý phạm giới. Hỏi: Đối với A-la-hán, trong ba tâm là tâm thiện phạm, hay tâm bất thiện phạm hay tâm vô ký phạm? Đáp: Bậc A-la-hán nếu có phạm lỗi gì đều là do tâm vô ký. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì bậc A-la-hán lúc không nhớ có chứa y dư, thường thường ăn, ăn biệt chúng, không bạch mà vào tụ lạc, không mặc Tăng-già-lê mà vào tụ lạc; hoặc lúc ngủ bị người khác khiêng để trên giường cao rộng lớn, hoặc khiêng để trên giường có người nữ; hoặc lúc chưa ngủ thì người chưa thọ đại giới ra khỏi phòng, nhưng khi đang ngủ thì trở lại vào trong phòng nên khi thức dậy liền hối lỗi. Vì thế nên nói bậc A-la-hán phạm lỗi gì đều là do tâm vô ký. Hỏi: Có trường hợp Tăng bị phá vì Tăng phiền não và Tăng phiền não vì Tăng bị phá không? Đáp: Có bốn trường hợp, Tăng bị phá không phải vì Tăng phiền não là nếu Tăng bị phá mà không thủ (thọ lấy), không quán mười bốn việc phá Tăng; Tăng phiền não không phải vì tăng bị phá là Tăng tuy thủ và quán mười bốn việc phá Tăng mà Tăng không bị phá; Tăng bị phá vì Tăng phiền não là Tăng bị phá do thủ và quán mười bốn việc phá Tăng; không phải vì Tăng bị phá cũng không phải vì Tăng phiền não là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Tăng bị phá vì Tăng tranh cãi và Tăng tranh cãi vì Tăng bị phá không? Đáp: Có bốn trường hợp, Tăng bị phá không phải vì Tăng tranh cãi là nếu Tăng bị phá mà việc Tăng không khác, được cúng thí không khác, giới không khác; Tăng tranh cãi không phải vì Tăng bị phá là tuy việc Tăng khác, được cúng thí khác, giới khác nhưng Tăng không bị phá; Tăng bị phá vì Tăng tranh cãi là nếu tăng bị phá mà việc Tăng khác, được cúng thí khác và giới cũng khác; không phải vì Tăng bị phá cũng không phải vì Tăng tranh cãi là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Tăng bị phá vì Tăng chia rẽ và Tăng chia rẽ vì Tăng bị phá không? Đáp: Có bốn trường hợp, Tăng bị phá không phải vì Tăng chia rẽ là nếu Tăng bị phá mà việc Tăng không khác, được cúng thí không khác, giới không khác; Tăng chia rẽ không phải vì Tăng bị phá là tuy việc Tăng khác, được cúng thí khác, giới khác nhưng Tăng không bị phá; Tăng bị phá vì Tăng chia rẽ là nếu Tăng bị phá mà việc Tăng khác, được cúng thí khác, giới cũng khác; không phải vì Tăng bị phá cũng không phải vì Tăng chia rẽ là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Phá tăng thì thọ mạng một kiếp và thọ mạng một kiếp là do phá Tăng không? Đáp: Có bốn trường hợp, không phải Phá tăng thì thọ mạng một kiếp là nếu khởi tưởng là pháp mà Phá tăng; Thọ mạng một kiếp không phải do Phá tăng là như các long vương Y-la, Ma-na-tư, Ca-lưu-già-la, Nan-đà, Bạt-nan-đà, Ca-tỳ-la, A-nhiếp-ba-la, Diêm-la-vương tuy thọ mạng một kiếp nhưng không phải do Phá tăng; Phá tăng thì thọ mạng một kiếp là như Điều đạt phá Tăng; không phải do phá Tăng cũng không phải thọ mạng một kiếp là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Phá tăng thì thọ báo một kiếp và thọ báo một kiếp là do Phá tăng không? Đáp: Có bốn trường hợp, không phải Phá tăng thì thọ báo một kiếp là nếu khởi tưởng là pháp mà Phá tăng; Thọ báo một kiếp không phải do Phá tăng là như các long vương Y-la, Ma-na-tư, Ca-lưu-già-la, Nan-đà, Bạt-nan-đà, Ca-tỳ-la, A-nhiếp-ba-la, Diêm-la-vương tuy thọ báo một kiếp nhưng không phải do Phá tăng; Phá tăng thì thọ báo một kiếp là như Điều đạt phá Tăng; không phải do phá Tăng cũng không phải thọ báo một kiếp là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Phá tăng là vì tà kiến và hễ tà kiến là Phá tăng không? Đáp: Có bốn trường hợp, Phá tăng không phải vì tà kiến như khởi tưởng là pháp mà Phá tăng; không phải hễ tà kiến là Phá tăng như Lục sư ngoại đạo tuy tà kiến nhưng không Phá tăng; Phá tăng là vì tà kiến như Điều đạt khởi tà kiến mà Phá tăng; không phải Phá tăng vì tà kiến cũng không phải hễ tà kiến là Phá tăng là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Có trường hợp Phá tăng là vì vô minh và hễ vô minh là Phá tăng không? Đáp: Có bốn trường hợp, Phá tăng không phải vì vô minh như khởi tưởng là pháp mà Phá tăng; không phải hễ vô minh là Phá tăng như người giết cha me, giết A-la-hán, làm thân Phật bị thương chảy máu tuy vô minh nhưng không Phá tăng; Phá tăng là vì vô minh như Điều đạt; không phải Phá tăng là vì vô minh cũng không phải hễ vô minh là Phá tăng là trừ ba trường hợp trên. Hỏi: Tỳ-kheo có thể khởi việc phá Tăng hay Tỳ-kheo-ni… có thể khởi việc phá Tăng? Đáp: Tỳ-kheo có thể khởi việc phá Tăng, không phải Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na… có thể khởi việc phá Tăng. Hỏi: Phá tăng phạm tội gì? Đáp: Phạm tội Thâu-lan-giá . Hỏi: Tội Phá tăng nên sám như thế nào? Đáp: Nên sám tội Thâu-lan-giá Hỏi: Có trường hợp người thọ việc (như tri sự) là người phạm Bất cọng trụ và người phạm Bất cọng trụ là người thọ việc không? Đáp: Có bốn trường hợp, người thọ việc không phải là người phạm Bất cọng trụ là nếu thọ việc và có năm pháp thì không phạm Bất cọng trụ; người phạm Bất cọng trụ không phải là người thọ việc là trong bốn Ba-la-di có tùy phạm một việc, nhưng không thọ việc, không có năm pháp; người thọ việc là người phạm Bất cọng trụ là người thọ việc và có năm pháp mà tùy phạm một việc trong bốn Ba-la-di; không phải người thọ việc là người phạm Bất cọng trụ cũng không phải người phạm Bất cọng trụ là người thọ việc là trừ ba trường hợp trên. Trường hợp người bị Bất cọng trụ là người phạm đủ loại Bất cọng trụ và người phạm đủ loại Bất cọng trụ không phải là người bị Bất cọng trụ, đó là trường hợp người bị bất kiến tẫn, bất tác tẫn, ác tà bất trừ tẫn, tâm cuồng, tâm loạn, tâm thống khổ; hoặc quở trách chính là chiết phục, chiết phục cũng là quở trách. Hỏi: Sao gọi là yết ma, sao gọi là việc yết ma? Đáp: Phạm là nhân của yết ma, chỗ phát khởi sự việc cũng là yết ma; hối lỗi là việc yết ma. Hỏi: Sao gọi là y Ca-hi-na, sao gọi là thọ y Ca-hi-na, sao gọi là xả y Ca-hi-na? Đáp: Tên gọi là y Ca-hi-na, có thể khởi chín tâm gọi là thọ y Ca- hi-na, có tám việc nên gọi là xả y Ca-hi-na . Hỏi: Có trường hợp phi Tỳ-kheo (Tỳ-kheo-ni) phạm mà Tỳ-kheo được thoát và Tỳ-kheo phạm mà phi Tỳ-kheo được thoát không? Đáp: Trường hợp phi Tỳ-kheo phạm mà Tỳ-kheo được thoát là nếu Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa không đồng (bất cọng) mà chuyển căn làm Tỳ-kheo thì tội này được diệt. Trường hợp Tỳ-kheo phạm mà phi Tỳ-kheo được thoát là nếu Tỳ-kheo phạm tội Tăng-già- bà-thi-sa không đồng (bất cọng) mà chuyển căn làm Tỳ-kheo-ni thì tội này được diệt. Hỏi: Có trường hợp không biết phạm mà hối lỗi và biết phạm mà không hối lỗi không? Đáp: Trường hợp không biết phạm mà hối lỗi là như Tỳ-kheo lúc ngủ bị người khác khiêng để trên giường cao rộng lớn, hoặc khiêng để trên giường có người nữ; hoặc lúc chưa ngủ thì người chưa thọ đại giới ra khỏi phòng, nhưng khi đang ngủ thì trở lại vào trong phòng nên khi thức dậy liền hối lỗi. Trường hợp biết phạm mà không hối lỗi là như Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, lúc đáng tác pháp yết ma cho xuất tội, vừa nghe bạch liền ngủ cho đến khi yết ma xong. Hỏi: Có trường hợp khi ngủ phạm, khi thức dậy hối và khi thức phạm, khi ngủ hối không. Đáp: Trường hợp khi ngủ phạm, khi thức dậy hối giống như trường hợp không biết phạm mà hối lỗi; trường hợp khi thức phạm, khi ngủ hối cũng giống như trên. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói một phương tiện mà phạm ba tội Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo cọng yếu rằng: “Thầy thấy tôi trộm vật quý trọng , giết người và biết tôi đã nói đắc quả A-la-hán”, đây gọi là nói một phương tiện mà phạm ba tội Ba-la- di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni nói một phương tiện mà phạm bốn tội Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni nói với Tỳ-kheo-ni cọng yếu rằng: “Cô thấy tôi trộm vật quý trọng , giết người , biết tôi đã nói đắc quả A-la-hán và biết tôi tùy thuận trợ giúp Tỳ-kheo bị tẫn”, đây gọi là nói một phương tiện mà phạm bốn tội Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngồi một chỗ mà phạm năm loại giới thể không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo đọa vào việc ăn uống thì phạm Đột-kiết- la, trong nhà học gia tự tay thọ lấy thức ăn thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni, không có tịnh nhơn bên cạnh mà thuết pháp cho người nữ quá năm, sáu lời thì phạm Ba-dật-đề; nói lời thô với người nữ thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa, nói được pháp hơn người thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng một phương tiện mà phạm trăm ngàn tội hoặc hơn nữa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ngồi trong đại chúng, dùng một nắm đậu hay một nắm cát rãi lên đại chúng, tùy cát này rơi trúng người khác bao nhiêu thì theo đó phạm tội bấy nhiêu. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng tâm trộm lấy cắp vật quý trọng của người mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu y bát ở trên đất kéo đi chưa rời khỏi chỗ cũ thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Có trường hợp trộm lấy ba tiền vàng mà phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là lúc tiền vàng đắc giá (lên giá cao) Hỏi: Có trường hợp trộm lấy năm tiền vàng mà không phạm Ba- la-di hay không? Đáp: Có, đó là lúc tiền vàng mất giá (hạ giá) Hỏi: Có trường hợp lấy ít liền phạm và lấy ít mà không phạm không? Đáp: Có, nếu lấy ít lông dê đen thì phạm còn lấy ít lông dê xấu thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp lấy nhiều liền phạm và lấy nhiều mà không phạm không? Đáp: Có, nếu lấy nhiều lông dê đen quá lượng liền phạm, còn lấy nhiều lông dê xấu lại không phạm. Hỏi: Có trường hợp may y đúng lượng lại phạm và may y đúng lượng thì không phạm hay không? Đáp: Có, nếu may y theo kích lượng của Phật thì phạm, còn may y theo kích lượng của mình thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp nhuộm y thì phạm và nhuộm y không phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo được vải mới, khi nhuộm không dùng ba màu làm cho hoại sắc thì phạm, nếu dùng ba màu làm cho hoại sắc thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà người chưa nhập Sơ thiền (cho đến nhị, tam, tứ thiền) liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa và nhập Sơ thiền (cho đến nhị, tam, tứ thiền) lại phạm Tăng-già-bà-thi-sa? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo làm phòng xá, sau đó nhập Sơ thiền (cho đến nhị, tam, tứ thiền), trong thới gian nhập thiền, người kia làm xong phòng xá thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa . Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni không phạm tội gì cho đến Đột- kiết-la mà không phải là Tỳ-kheo-ni hay không? Đáp: Có, đó là người chuyển căn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không phạm tội gì cho đến Đột-kiết- la mà không phải là Tỳ-kheo hay không? Đáp: Có, đó là người chuyển căn Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở bên y ngay trong phòng mà lại phá an cư, mất y và tự trái lời hay không? Đáp: Có, như trước đã nói. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết Tỳ-kheo không phải là cha, cũng không phải A-la-hán mà lại phạm Ba-la-di thuộc tội nghịch hay không? Đáp: Có, đó là người mẹ xuất gia thọ giới chuyển căn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni giết Tỳ-kheo-ni không phải là mẹ, cũng không phải A-la-hán mà lại phạm Ba-la-di thuộc tội nghịch hay không? Đáp: Có, đó là người cha xuất gia thọ giới chuyển căn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni do người khác nói mà phạm Ba- la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni tùy thuận Tỳ-kheo bị tẫn, ni Tăng can ba lần mà không chịu bỏ. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo do người khác nói mà phạm Tăng- già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo muốn phá Tăng, tùy thuận việc phá Tăng, Ô-tha-gia và nói lời chống trái, Tăng can ba lần mà không chịu bỏ. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo do người khác nói mà phạm Ba-dật- đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ác tà kiến, Tăng can ba lần mà không chịu bỏ. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo do người khác nói mà phạm Ba-la- đề-đề-xá-ni hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni ở trong nhà bạch y chỉ vẻ cho Tỳ-kheo được thức ăn, Tỳ-kheo không quở mà ăn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo do người khác nói mà phạm Đột- kiết-la hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo trong lúc nghe thuyết giới, nghe hỏi thanh tịnh ba lần mà không phát lồ với người khác. Hỏi: Như Phật đã dạy là Tỳ-kheo-ni nếu xả giới thì không được thọ giới trở lại, có trường hợp Tỳ-kheo-ni xả giới rồi cho thọ giới trở lại mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni xả giới rồi chuyển căn làm người nam, cho thọ giới trở lại thì không phạm. Hỏi: Có trường hợp thân khẩu không phạm mà không phải là Tỳ- kheo-ni hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác phạm tội trọng, che giấu cho đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo phạm bốn loại tội, không phát lồ sám hối mà lại không phạm hay không? Đáp: Có, đó là người chuyển căn. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết người mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là ngộ sát. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni không hành dâm mà lại phạm tội hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác phạm việc dâm, che giấu cho đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-di và cũng từ việc này lại phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni phạm thân xúc chạm nhau là Ba-la-di, Tỳ-kheo phạm thân xúc chạm nhau lại là Tăng-già-bà-thi-sa . Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-di và cũng từ việc này lại phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni thấy Tỳ-kheo-ni khác phạm tội trọng, che giấu cho đến sáng hôm sau thì phạm Ba-la-di; Tỳ-kheo che giấu lại phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-di và cũng từ việc này lại phạm Đột-kiết-la hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni tùy thuận Tỳ-kheo bị tẫn, ni Tăng can ba lần mà không chịu bỏ thì phạm Ba-la-di; Tỳ-kheo tùy thuận lại phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Tăng-già-bà-thi-sa và cũng từ việc này lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo phạm thân xúc chạm nhau là Tăng-già-bà- thi-sa; Tỳ-kheo-ni thân xúc chạm nhau lại là Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Tăng-già-bà-thi-sa và cũng từ việc này lại phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo cố ý làm xuất tịnh thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa; Tỳ-kheo-ni cố ý xuất tinh lại phạm Ba-dật-đề. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-dật-đề và cũng từ việc này lại phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo đòi thức ăn ngon thì phạm Ba-dật-đề; Tỳ- kheo-ni đòi thức ăn ngon lại phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-dật-đề và cũng từ việc này lại phạm Đột-kiết-la hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni đại tiểu tiện trên cỏ tươi thì phạm Ba- dật-đề; Tỳ-kheo lại phạm Đột-kiết-la. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni và cũng từ việc này lại phạm Đột-kiết-la hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ở trong nhà học gia tự tay thọ lấy thức ăn thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni; Tỳ-kheo-ni lại phạm Đột-kiết-la . Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Vô tàn và cũng từ việc này lại phạm Hữu tàn hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni phạm bốn Ba-la-di không đồng (bất cọng) là Vô tàn, Tỳ-kheo lại là Hữu tàn. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-la-di và cũng từ việc này lại không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni thân xúc chạm nam tử thì phạm Ba-la- di, Tỳ-kheo thân xúc chạm người nữ lại không phạm Ba-la-di; Tỳ-kheo- ni che giấu tội trọng của tỳ-kheo-ni khác thì phạm Ba-la-di, Tỳ-kheo che giấu tội trọng của tỳ-kheo khác lại không phạm Ba-la-di; Tỳ-kheo- ni tùy thuận Tỳ-kheo bị tẫn thì phạm Ba-la-di, Tỳ-kheo tùy thuận lại không phạm Ba-la-di. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Tăng-già-bà-thi-sa và cũng từ việc này lại không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo thân xúc chạm thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa, Tỳ-kheo-ni lại không phạm Tăng-già-bà-thi-sa; Tỳ-kheo cố ý làm xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Tỳ-kheo-ni lại không phạm Tăng-già-bà-thi-sa; Tỳ-kheo-ni dựa vào thế lực mà nói người thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Tỳ-kheo lại không phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Hỏi: Có trường hợp từ việc này mà phạm Ba-dật-đề và cũng từ việc này lại không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, Tỳ-kheo-ni cố ý làm xuất tinh thì phạm Ba-dật-đề, Tỳ- kheo lại không phạm Ba-dật-đề; Tỳ-kheo đòi thức ăn ngon thì phạm Ba-dật-đề, Tỳ-kheo-ni lại không phạm Ba-dật-đề; Tỳ-kheo-ni đại tiểu tiện trên cỏ tươi thì phạm Ba-dật-đề, Tỳ-kheo lại không phạm Ba-dật- đề. Hỏi: Có trường hợp khi được thoát tội lại phạm và khi phạm tội lại được thoát tội hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, khi được cho yết ma Xuất tội là được thoát tội lại phạm tội mang giày da, phủ hai vai, bịt đầu, chặt cỏ cây… Nếu Tỳ-kheo khi phạm tội Ô-tha-gia mà chuyển căn thì được thoát tội. Hỏi: Có trường hợp vừa có xả vừa có kết hay không? Đáp: Có, nếu xả giới để kết giới tụ lạc. Lại hỏi: Nếu đi thì đi đâu?, đáp là đi trong giới. Hỏi: Nếu muốn luận bàn Tỳ-ni thì nên cầu từ chỗ nào? Đáp: Nên cầu từ trong giới pháp của tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni; hoặc cầu từ trong bảy pháp, tám pháp tăng nhất; hoặc cầu từ trong đồng và không đồng. Hỏi: Trường hợp vô căn có thể chuyển, không vào Phật pháp, không thủ diệt, rốt cuộc không thủ diệt là ai? Đáp: Đó là hóa nhơn. Lại hỏi giết hóa nhơn phạm tội gì, đáp là Thâu-lan-giá, lại hỏi sám tội gì, đáp là sám tội Thâu-lan-giá.  LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 52 TỤNG THỨ CHÍN ƯU BA LY VẤN PHÁP Hỏi Việc Dâm Trong Bốn Ba-La-Di: Phật tại nước Tỳ-da-ly, trưởng lão Ưu-ba-ly đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, nếu Tỳ-kheo dùng chú thuật tự tạo ra hình súc sanh để hành dâm thì có phạm Ba-la-di hay không?”, Phật bảo: “Nếu tự nhớ nghó mình là Tỳ-kheo thì phạm Ba-la-di, nếu không nhớ thì phạm Thâu-lan-giá”. Lại hỏi: “Thế tôn, nếu hai Tỳ-kheo dùng chú thuật tự tạo ra hình súc sanh để cùng hành dâm thì có phạm Ba-la-di hay không?”, Phật bảo: “Nếu tự nhớ nghó mình là Tỳ-kheo thì phạm Ba-la- di, nếu không nhớ thì phạm Thâu-lan-giá”. Lại hỏi: Như Phật đã dạy hành dâm với nữ phi nhơn thì phạm Ba- la-di, sao gọi là nữ phi nhơn? Đáp: Nếu có thể nắm bắt được thì gọi là phi nhơn. Lại hỏi: Hành dâm trong miệng tới mức độ nào thì phạm Ba-la- di? Đáp: Vào quá răng thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu thân người nữ bị chặt làm hai, Tỳ-kheo nối lại rồi cùng hành dâm thì có phạm Ba-la-di không? Đáp: Phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu người nữ bị chặt đầu, Tỳ-kheo hành dâm trong miệng, có phạm Ba-la-di không? Đáp: là phạm. Lại hỏi: Nếu người nữ bị chặt đầu, Tỳ-kheo hành dâm ở đường tiểu tiện, có phạm Ba-la-di không? Đáp: là phạm. Lại hỏi: Nếu hành dâm ở nơi thân phần khác, có phạm Ba-la-di không? Đáp: Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá; nếu xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Lại hỏi: Nếu hành dâm ở nơi môi ngoài răng thì phạm tội gì?. Đáp: Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá; nếu xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người nữ mới chết thân chưa hoại mà cùng hành dâm thì phạm Ba-la-di, sao gọi là thân đã bị hoại? Đáp: Nếu nữ căn thối rửa hoặc khô hoặc bị côn trùng đục khoét, Tỳ-kheo hành dâm thì không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá; nếu xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Ngược với trên thì gọi là chưa hoại, Tỳ-kheo hành dâm thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Tỳ-kheo hành dâm trong thịt chín, có phạm Ba-la-di không? Đáp: Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá; nếu xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một mình vào trong nhà trống mà phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, như Tỳ-kheo Lam bà na và Tỳ-kheo Nhược tích. Lại hỏi: Nếu người nữ thân bị tét nút, Tỳ-kheo làm cho dính lại rồi cùng hành dâm, có phạm Ba-la-di không? Đáp: Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá; nếu xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa . Lại hỏi: Như Phật đã dạy, Tỳ-kheo bọc nam căn rồi hành dâm vào trong ba đường cũng phạm Ba-la-di, có trường hợp bọc nam căn khi vào mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu dùng vải dày, da dày, bao cao su bọc nam căn, khi vào không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá; nếu xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hành dâm mà không phạm Ba- la-di hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc hành dâm mà lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối) Hỏi Việc Trộm Cắp Trong Bốn Ba-La-Di Phật tại thành Vương xá, trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Thế tôn, nếu Tỳ-kheo đối với hai bộ chúng tám mươi người, thân ở trong số chúng nói hay lấy thẻ thì phạm tội gì?”, Phật bảo: “Lấy thẻ thì phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi ở trong số chúng thì phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ”. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo đối với vật không phải tiền cũng không phải là y vật, dùng tâm trộm cắp đem dời chỗ khác, có phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, như trường hợp đánh xu bồ chơi quay số mà dùng tâm trộm quay chuyển răng. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo đến nói với giặc cướp: “Hãy đến lấy, tôi biết chỗ cất vật”, nhưng Tỳ-kheo thật không biết chỗ cất vật thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ, nếu biết giặc không thể lấy được vật mà nói như thế thì phạm Đột-kiết-la. Nếu chỉ cho giặc lấy được năm tiền hay vật trị giá năm tiền vào tay thì phạm Ba-la-di . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo qua cửa ải có vật đáng đóng thuế mà không đóng thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Ba-la-di, nếu thương nhân nói với Tỳ-kheo: “Cho tôi gởi vật này qua”, nếu Tỳ-kheo cho gởi, qua được cửa ải, vật này phải đóng thuế năm tiền hay vật trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di. Nếu thương nhân nói với Tỳ-kheo: “Cho tôi gởi vật này qua, tiền phải đóng thuế sẽ cho Tỳ-kheo một nữa”, Tỳ-kheo cho gởi vật qua, vật này phải đóng thuế năm tiền hay vật trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di. Nếu thương nhân nói với Tỳ-kheo: “Cho tôi gởi vật này qua, tiền phải đóng thuế sẽ cho thầy hết”, Tỳ-kheo cho gởi vật qua, vật này phải đóng thuế năm tiền hay vật trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di. Nếu thương nhân đến cửa ải phải đóng thuế, Tỳ-kheo lại chỉ đường khác cho đi qua mà không phải đóng thuế, vật này phải đóng thuế năm tiền hay vật trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di; nếu chưa đến của ải mà chỉ đường khác cho đi thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá, vì đã đoạn mất tiền thu thuế của quan. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo qua cửa ải có vật phải đóng thuế cho đến năm tiền mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu người khác lén bỏ vào trong túi y, Tỳ-kheo không biết thì không phạm; nếu biết mà vẫn mang qua, vật này khó đếm được thì phạm Thâu-lan-giá, nếu không thể đếm được thì phạm Ba-la-di, nếu qua chỗ không phải là chỗ quan thuế thì phạm Thâu-lan-giá, nếu là chỗ quan thuế thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Có sáu cách lấy vật của người khác, đó là khổ thiết lấy, khinh mạn lấy, dùng tên người khác để lấy, xúc phạm mà lấy, nhận người gởi rồi lấy luôn và lấy lợi tức. Trong sáu cách lấy này, cách nào phạm Ba-la-di? Đáp: Trừ lợi tức, năm cách lấy kia đều phạm Ba-la-di, nếu lấy đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, không đủ thì Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Lấy trộm xá lợi Phật thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu với tâm cung kính nghó rằng: “Xá lợi Phật cũng là thầy ta”, do tâm thanh tịnh lấy nên không phạm. Lại hỏi: Lấy trộm kinh thì phạm tội gì? Đáp: Tùy trị giá bao nhiêu mà kết phạm, nếu trị giá chưa tới năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu trộm lấy vật cúng dường trong chùa, tháp thì phạm tội gì? Đáp: Nếu vật cúng dường này có người giữ thì tùy trị giá bao nhiêu mà kết phạm, nếu trị giá chưa tới năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo thường ra vào nhà đàn việt, nói với vợ cư só rằng: “Chồng cô đã hứa cho tôi vật như vậy, như vậy” thì phạm tội gì? Đáp: Nếu dối nói là người chồng nói thì phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ, nếu được vật trị giá năm tiền vào tay thì phạm Ba-la-di; chưa tới năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu bốn Tỳ-kheo dùng tâm trộm cắp đến chỗ tối có y cùng lấy trộm, có phạm Ba-la-di không? Đáp: Chỉ phạm Thâu-lan-giá, nếu cùng chia thì tùy trị giá bao nhiêu mà kết phạm, nếu trị giá chưa tới năm tiền thì phạm Thâu-lan- giá. Nếu trên cây cọc có y vật, dùng tâm trộm cắp lấy rời khỏi chỗ ban đầu thì phạm Ba-la-di, lúc đang chọn lựa để lấy thì phạm Thâu-lan-giá, chọn lựa xong lấy được năm tiền hay vật trị giá năm tiền vào tay thì phạm Ba-la-di. Nếu mang cả cây cọc đi thì phạm Thâu-lan-giá, khi lấy y vật rời khỏi cây cọc thì phạm Ba-la-di. Trên giá y có y vật cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác rằng: “Thầy có biết cư só có vật quý trọng như vậy như vậy không?”, đáp là biết, Tỳ-kheo này bảo đến lấy trộm mang về, Tỳ-kheo kia nghe lời đến lấy trộm vật rời khỏi chỗ ban đầu thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Có trường hợp lấy những vật không quý trọng mà phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu những vật không quý trọng này họp lại trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo với tâm trộm cắp mang vật quý trọng di chuyển nhiều nơi mà lại không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo với tâm trộm cắp mang vật quý trọng của Hòa thượng, A-xà-lê mà sanh tâm nghi không biết vật này là của kia có hay không phải là của kia có; nếu vật này là thật của kia có thì Tỳ-kheo lấy trộm phạm Ba-la-di, nếu không phải là của kia có thì Tỳ-kheo lấy trộm phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Như Phật đã dạy dùng tâm trộm cắp lấy năm tiền hay vật trị giá năm tiền vào tay thì phạm Ba-la-di, sao gọi là năm tiền?. Đáp: năm tiền tức là năm đại tiền, một đại tiền trị giá mười sáu tiểu tiền. Nếu là người chưa thọ giới cụ túc khởi tâm trộm cắp mà lấy năm tiền, lấy rời khỏi chỗ cũ thì phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc chưa xong mà lấy rời khỏi chỗ cũ cũng phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc xong mà lấy rời khỏi chỗ cũ thì phạm Ba-la-di; nếu người thọ giới cụ túc khởi tâm trộm cắp lấy nhưng lấy rời khỏi chỗ cũ không đủ năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá. Hỏi: Như Phật đã dạy có hai truờng hợp trộm lấy đất: Một là nói với nhau mà lấy, hai là nêu tướng mà lấy. Nếu nói với nhau được thắng mà lấy thì có phạm Ba-la-di không? Đáp: Không được thắng mà lấy thì phạm Thâu-lan-giá, nếu không được thắng mà lại làm tướng để được đất, đất này trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di; phòng nhà cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo lay cây cho rụng quả, trái cây rụng tùy trị giá bao nhiêu mà kết phạm. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo lấy vật của người ở cõi Câu-da-ni chừng bao nhiêu thì phạm Ba-la-di? Đáp: Nếu vật trị giá năm tiền trở lên thì phạm Ba-la-di, ở cõi Phất vu đãi cũng như vậy. Lại hỏi: Nếu lấy vật ở cõi Uất đơn việt chừng bao nhiêu thì phạm Ba-la-di? Đáp: Vì người ở cõi kia vô ngã, không có sở thuộc nên không phạm. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo lấy đồ sắt đồ đồng tùy tính giá mà kết phạm, có trường hợp lấy trộm ba tiền đồng mà phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu lúc đó tiền đồng đắc giá Lại hỏi: Có trường hợp trộm năm tiền đồng mà không phạm Ba- la-di không? Đáp: Có, nếu lúc đó tiền đồng mất giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo phá kho thóc để lấy thóc thì phạm tội gì? Đáp: Tùy tính theo thời giá mà kết phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy nhiều vật mà không phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu lấy vật của chúng chưa chia, nếu trộm đồ gỗ thì tùy tính giá mà kết phạm. Tỳ-kheo trộm lấy nước cũng vậy, nếu khơi nguồn nước để lấy trộm nước cũng tính theo giá mà kết phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trì giới thanh tịnh sợ tội, không cho mà lấy ngàn tiền mà không phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo khởi tưởng là vật của mình, hoặc cho là đồng ý mà lấy, hoặc lấy dùng tạm, hoặc biết vật không có sở thuộc, hoặc điên cuồng tâm loạn và mắc bịnh hoang tưởng sai lầm thì không phạm. Nếu cư só để ngàn tiền ở một chỗ, Tỳ-kheo có tâm trộm phương tiện muốn lấy, cư só nói: “Tiền này con mang đến cúng cho thầy”, Tỳ- kheo nghe lời này rồi nhận lấy thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Có trường hợp lấy năm tiền rời khỏi chỗ cũ mà không phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu một lần lấy một tiền rời khỏi chỗ cũ, không phải một lần lấy đủ năm tiền thì không phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu số đông người có năm loại vật báu hoặc tợ vật báu chôn giấu trong đất, Tỳ-kheo dùng sức chú thuật hoặc dùng cỏ thuốc để phá hoại hoặc làm cho biến sắc, phá hoại lợi ích của người khác như vậy thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá Nếu đàn việt thỉnh Tăng thọ thực, Tỳ-kheo theo thứ lớp chưa tới mình mà nói là tới phiên tôi nên đi, thì phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ, nếu sai sứ hay đưa tin, đưa thư thì phạm Đột-kiết-la, được thức ăn tùy tính theo giá mà kết phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dời vật quý trọng của người khác rời khỏi chỗ cũ mà không phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu y vật của người khác để trên đất, kéo dời đi chưa ra khỏi giới thì không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Áo của cư só ở chỗ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo có tâm trộm phương tiện làm tướng nói là y của tôi thì phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ. Nếu cư só nói: “Y này của tôi, nếu thầy muốn thì tôi sẽ cho”, Tỳ-kheo nhận lấy thì phạm Thâu- lan-giá. Nếu Tỳ-kheo xi đồng thành sắc vàng để qua cửa ải thì phạm Thâu-lan-giá, nếu quan thuế hỏi có vật gì không, tuy có vật mà nói là không thì phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ. Nếu Tỳ-kheo vay mượn vật của người khác, sau đó lại nói là không có thì phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ. Nếu Tỳ-kheo nhận vật của người gởi, sau đó lại nói là không có nhận thì phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ, tùy theo tiền đã lấy hay vật đã lấy đều tính theo thời giá mà kết phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy nhiều vật mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu vật tuy nhiều nhưng trị giá chưa tới năm tiền thì không phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu số đông người nuôi voi ngựa trâu dê…, những con vật này đem lại lợi ích cho họ, nếu Tỳ-kheo thả cho chúng đi thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo có tâm trộm cắp biến hình làm Tỳ-kheo-ni lấy rời khỏi chỗ cũ thì phạm Ba-la-di; nếu Tỳ-kheo-ni có tâm trộm cắp biến hình làm Tỳ-kheo lấy rời khỏi chỗ cũ cũng phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trộm lấy vật quý trọng của người khác mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc trộm vật quý trọng của người mà lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối) Hỏi Việc Giết Hại Trong Bốn Ba-La-Di Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo dùng chú thuật biến hình làm súc sanh để giết người, có phạm Ba-la-di không? Đáp: Nếu tự nhớ nghó mình là Tỳ-kheo thì phạm Ba-la-di, nếu không nhớ nghó thì phạm Thâu-lan-giá . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết mẹ mà được đại phước, không phạm tội hay không? Đáp: Có, Ái gọi là mẹ, nếu Tỳ-kheo giết thì được đại phước, không phạm tội. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết cha mà được đại phước, không phạm tội hay không? Đáp: Có, Hữu lậu gọi là cha, nếu Tỳ-kheo giết thì được đại phước, không phạm tội Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm phương tiện để giết mẹ nhưng lại giết chết người không phải là mẹ, Tỳ-kheo này có phạm Ba-la-di và tội nghịch không? Đáp: Không phạm, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm phương tiện để giết người nhưng lại giết chết người mẹ mình, Tỳ-kheo này có phạm Ba-la-di và tội nghịch không? Đáp: Không phạm, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo làm phương tiện để giết người nhưng lại giết chết phi nhân thì phạm Thâu- lan-giá; nếu làm phương tiện giết phi nhân mà lại giết chết người thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm phương tiện để giết A-la-hán nhưng lại giết chết người không phải là A-la-hán, Tỳ-kheo này có phạm Ba-la-di và tội nghịch không? Đáp: Không phạm, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm phương tiện để giết người thường nhưng lại giết chết vị A-la-hán, Tỳ-kheo này có phạm Ba-la-di và tội nghịch không? Đáp: Không phạm, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo đối với vị thật là A-la-hán khởi tưởng không phải là A-la-hán mà sanh tâm giết, Tỳ-kheo này có phạm Ba-la-di và tội nghịch không? Đáp: Có, phạm Ba-la-di và tội nghịch. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo đối với vị không phải thật là A-la-hán khởi tưởng là A-la-hán mà sanh tâm giết, Tỳ-kheo này có phạm Ba-la-di và tội nghịch không? Đáp: Chỉ phạm Ba-la-di, không phạm tội nghịch. Lại hỏi: Có người nữ bỏ Gia-la lạ, người nữ khác lấy lại để dùng, sau đó sanh con thì người nào là mẹ? Đáp: Người nữ trước là mẹ. Lại hỏi: Nếu người con này sau muốn xuất gia nên xin phép người mẹ nào? Đáp: Nên xin phép người mẹ sau. Lại hỏi: Nếu người con Tỳ-kheo này giết mẹ, giết người mẹ nào thì phạm Ba-la-di và tội nghịch? Đáp: Giết người mẹ trước thì phạm Ba-la-di và tội nghịch. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm cho người sảy thai mà không phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu người đó mang thai súc sanh. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm cho súc sanh sảy thai mà lại phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu súc sanh đó mang thai người. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo muốn giết cha me, làm phương tiện để giết rồi tự gieo mình xuống hầm sâu, Tỳ-kheo này có phạm Ba-la-di và tội nghịch hay không? Đáp: Nếu cha mẹ chết trước, Tỳ-kheo chết sau thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di và tội nghịch; nếu Tỳ-kheo chết trước, cha mẹ chết sau thì Tỳ- kheo phạm Thâu-lan-giá. Trường hợp làm phương tiện để giết rồi cầm dao tự sát cũng như vậy. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm cho cha mẹ chết mà không phạm Ba-la-di và tội nghịch không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo bịnh, cha mẹ đến thăm, Tỳ-kheo đi kinh hành té ngã trên mình cha mẹ làm cho cha mẹ chết, trường hợp này thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo bịnh, cha mẹ đến dìu đỡ về nhà, Tỳ-kheo đi khập khểnh nên té ngã trên mình cha mẹ làm cho cha mẹ chết, trường hợp này cũng không phạm. Nếu Tỳ-kheo muốn giết cha mẹ, sanh tâm nghi không biết có phải là cha mẹ hay không, khi tâm định biết rõ là cha mẹ mà giết thì phạm Ba-la-di và tội nghịch. Nếu Tỳ-kheo muốn giết người, sanh tâm nghi không biết là người hay phi nhân, khi tâm định biết rõ là người mà giết thì phạm Ba-la-di. Có người bắt được giặc, dẫn đi giết, giặc bỏ chạy. Người này dùng thế lực của quan hay của tụ lạc truy tìm đuổi bắt, lúc đó Tỳ-kheo ngược đường đi đến, người đuổi bắt hỏi Tỳ-kheo có thấy giặc không, nếu Tỳ- kheo đối với tên giặc này trước đây có oán hận mà chỉ chỗ giặc trốn, do nguyên nhân này giặc bị bắtt và bị giết chết thì Tỳ-kheo phạm Ba- la-di. Nếu là một đám giặc chạy trốn, Tỳ-kheo chỉ chỗ, tên giặc bị bắt và bị giết không phải là người mà Tỳ-kheo oán hận thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu thật là mẹ, Tỳ-kheo khởi tưởng không phải là mẹ để giết thì có phạm Ba-la-di và tôïi nghịch không? Đáp: Phạm Ba-la-di và tội nghịch. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết người mà không phạm Ba- la-di không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo tự sát thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo vì đùa giỡn mà làm cho người khác chết thì phạm Đột-kiết-la. Nếu là người chưa thọ giới cụ túc khởi phương tiện muốn giết người mà giết người thì phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc chưa xong mà giết người cũng phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc xong mà giết người thì phạm Ba-la-di; nếu người thọ giới cụ túc khởi tâm muốn giết người thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo giết người mà không phạm Ba- la-di hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc giết người mà lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối) Hỏi Việc Vọng Ngữ Trong Bốn Ba-La-Di Lại hỏi: Bên đại vọng ngữ, phạm khinh trọng như thế nào? Đáp: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi thối thất quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na- hàm, A-la-hán”, do chưa được mà nói là thối thất nên phạm Thâu-lan- giá, nếu nói là tôi đắc quả thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi đắc quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán”, có người gạn hỏi, liến nói là tôi không đắc thì Tỳ-kheo phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói là tôi thối thất quả A-la-hán hay quả A-na-hàm thì phạm tội gì? Đáp: Nếu không đắc quả mà nói thối thất thì phạm Thâu-lan-giá, nếu nói là tôi đắc quả dưới, thối thất quả trên thì phạm Ba-la-di . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi là Học nhân (bậc Hữu học)”, có người gạn hỏi: “Học nhân như thế nào?”, đáp rằng: “Tôi đa văn, lợi căn, đọc tụng thông suốt, ngồi thiền không ai hơn. Pháp của tỳ-kheo là nên học tất cả thiện pháp nên gọi là Học nhân”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi đắc pháp Vô lâu học nên gọi là Học nhân thì phạm Ba-la-di . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi là Vô học nhân (bậc vô học)”, có người hỏi: “Vô học như thế nào?”, đáp rằng: “Tôi không còn học nữa, tôi đa văn lợi căn, đọc tụng thông suốt và ngồi thiền nên gọi là Vô học nhân”, Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi không học pháp Vô lậu học nữa nên gọi là Vô học nhân thì phạm Ba-la-di . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi không sở hữu”, nếu có nguời hỏi: “Vô sở hữu như thế nào?”, đáp: “Tôi không có y bát, thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược… nên gọi là vô sở hữu”, Tỳ- kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi không tham dục, sân hận và ngu si nên gọi là vô sở hữu thì phạm Ba-la-di . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Thân của tôi là thân sau cùng”, có nguời hỏi: “Sao gọi là thân sau cùng”, đáp: “Thân của tôi trong quá khứ đã trải qua vô số sanh tử, đây là thân sau cùng nên nói là thân sau cùng”, Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói thân phần này hết thì không còn thọ thân sau nữa nên gọi là thân sau cùng thì phạm Ba-la-di . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo: “Thầy nên gọi tôi là Tu- đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán”, bị gạn hỏi liền nói là tôi không phải thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá . Lại hỏi: Nếu có người nói với Tỳ-kheo: “Có nười nói thầy là Tu- đà-hoàn… A-la-hán”, đáp: “Ai nói lời đó, tôi không phải Tu-đà-hoàn… A-la-hán”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi chứng quả Tu-đà-hoàn trong núi Kỳ-xà-quật, chứng quả Tư-đà-hàm ở núi Tỳ bà La-bà, chứng quả A- na-hàm ở núi Tát-bà-Sa-la và chứng quả A-la-hán ở núi Tát-bát-na- cầu-ha”, có người gạn hỏi: “Vì nhân duyên gì thầy nói chứng quả Tu- đà-hoàn trong núi Kỳ-xà-quật…?”, đáp: “Do tôi ở trong núi đọc tụng tư duy, tinh tấn tu tập cầu quả Tu-đà-hoàn… nên nói như vậy”, Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi ở trong núi Kỳ-xà-quật tu tập chứng được quả Tu-đà-hoàn… nên nói như vậy, thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Có người hỏi Tỳ-kheo: “Thầy có đắc quả không?”, lúc đó Tỳ-kheo trong tay đang cầm quả Am-bà, Chiêm-bà, Bà-la-đầu… nên nói là tôi được quả, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Nhà đàn việt thỉnh Tỳ-kheo tùy ý thọ thực phải là bậc Tu-đà-hoàn… A-la-hán”, có người hỏi Tỳ-kheo đó là ai, đáp: “Là tôi, nhưng tôi không phải Tu-đà-hoàn… A-la-hán”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Nhà đàn việt trải tòa ngồi trang nghiêm chỉ dành cho bậc Tu-đà-hoàn… A-la-hán đến ngồi, tôi theo thứ lớp cũng đã ngồi trên tòa ấy, nhưng tôi không phải là Tu-đà-hoàn… A- la-hán”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì?, đáp là phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Có người hỏi Tỳ-kheo: “Những vật cần dùng hằng ngày như y phục, ẩm thực, thuốc thang, ngọa cụ… thầy có được từ đâu?, đáp: “Tôi thọ từ nhà đàn việt , vì đàn việt này nói rằng ai đắc quả Tu- đà-hoàn… A-la-hán thì đến thọ lấy, tôi tuy đến lấy nhưng tôi không phải là Tu-đà-hoàn… A-la-hán”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi không sợ không sống, không sợ tiếng xấu, không sợ chết, không sợ cõi ác, không sợ đại chúng năm loại sợ này”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi đã đoạn dứt năm loại sợ này thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi đã đoạn hết kiết sử, dục phược và cái triền”, có người hỏi: “Đoạn dứt như thế nào?”, đáp: “Trong quá khứ, tôi đã làm cho kiết sử, dục phược và cái triền bại hoại hết rồi”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi đã đoạn dứt hết kiết sử, dục phược và cái triền không còn nữa, thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Điều mà vị Thánh đệ tử đạt được, tôi cũng đạt được”, có người hỏi: “Thầy đạt được gì?”, đáp: “Tôi đọc tụng thông suốt, vấn nạn, ngồi thiền tư duy không lười biếng, đây là điều mà tôi đạt được”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi đã đắc pháp mà vị Thánh đệ tử đã đắc thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi tu tập năm căn, năm lực và bảy giác ý”, có người hỏi tu tập như thế nào, đáp: “Tôi đọc tụng thông suốt, vấn nạn, ngồi thiền tư duy không lười biếng, đây là điều mà tôi tu tập”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói tôi đã được năm căn, năm lực và bảy giác ý thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hư dối nói đã được Thánh pháp mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo muốn nói quả Tu-đà-hoàn mà nói lộn quả Tư-đà-hàm… muốn nói quả A-na-hàm mà nói lộn quả A-la-hán thì không phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Hôm nay tôi không nhập định thế gian”, có người hỏi hôm qua thì thế nào, đáp là hôm qua cũng không nhập, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi là đại sư, có người hỏi đại sư như thế nào, đáp: “Tôi vì người thuyết pháp giáo hóa, làm việc của bậc đại sư nên gọi là đại sư”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói vì tôi nói pháp của đại sư nên gọi là đại sư thì phạm Ba-la-di Lại hỏi: Có Tỳ-kheo nói tôi là Phật, có người hỏi Phật như thế nào, đáp: “Vì tôi biết ba bất thiện căn, mười bất thiện đạo là không nên làm, nên gọi là Phật”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói là vì biết Phật pháp nên gọi là Phật thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói tôi là đệ tử của Phật Tỳ bà thi, có người hỏi như thế nào là đệ tử của Phật Tỳ-bà-thi, đáp: “Nếu ai quy y Phật Thích-ca-mâu-ni tức là quy y Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi khi, Phật Tùy diếp, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu ni, và Phật Ca-diếp”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói do có túc mạng thần thông biết được thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Có người hỏi Tỳ-kheo: “Thầy đắc được quả gì?”, lúc đó trong tay Tỳ-kheo đang cầm quả Am-la, Ba-na-tát, Diêm phù… liền nói là được quả, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nói rõ việc của quả chứng thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo viết thư nói tôi là Tu-đà-hoàn… A-la-hán rồi đến nói với Tỳ-kheo: “Tuy trong thư tôi nói đã đắc quả, nhưng tôi thật chưa chứng quả”, thì Tỳ-kheo này phạm tội gì?, đáp là phạm Thâu- lan-giá. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hư dối nói là được Thánh pháp mà không phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc hư dối nói là được Thánh pháp, lại phạm Ba-la-di hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối) Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một mình vào trong nhà trống mà phạm bốn tội Ba-la-di hay không? Đáp: Có, như Tỳ-kheo Lam-bà-na và Tỳ-kheo Nhược-tích làm việc dâm dục phạm dâm, ăn trộm thì trước đã làm phương tiện rồi mới vào nhà lấy trộm, giết người thì trước cũng đã làm nhân duyên rôi mới vào phòng giết và nói dối thì tự nói mình là A-la-hán, phạm tất cả bốn tội đều ở trong phòng này. Hỏi Mười Ba Việc Của Tăng-Già-Bà-Thi-Sa Phật tại nước Xá-vệ, trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật Hỏi: Như Phật đã dạy cố ý xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, nếu Tỳ-kheo trong khi ngủ, tay vọc nam căn, tỉnh dậy xuất tinh thì phạm tội gì? Đáp: Nếu tỉnh dậy không động tay vọc nữa thì không phạm, nếu còn động tay thì phạm Thâu-lan-giá; nếu lúc thức động tay vọc nam căn, khi ngủ mới xuất tinh thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo động tay nắm bóp nam căn cố ý làm xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu giữa chừng sanh tâm hối ngừng lại thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu là người chưa thọ giới cụ túc động tay vọc nam căn, xuất tinh thì phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc chưa xong mà xuất tinh cũng phạm Đột- kiết-la; khi thọ giới cụ túc xong mà xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi- sa. Lại hỏi: Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa không nhớ ngày tháng thì nên tính từ ngày nào để trị tội? Đáp: Nên tính từ ngày thọ giới cụ túc để trị. Hỏi: Có trường hợp phi Tỳ-kheo (Tỳ-kheo-ni) phạm mà Tỳ-kheo được thoát, Tỳ-kheo phạm mà phi Tỳ-kheo được thoát không và người nào phạm tội thì người đó được thoát tội hay không? Đáp: Có, trường hợp phi Tỳ-kheo phạm mà Tỳ-kheo được thoát là nếu Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa không đồng (bất cọng) mà chuyển căn làm Tỳ-kheo thì tội này được diệt. Trường hợp Tỳ-kheo phạm mà phi Tỳ-kheo được thoát là nếu Tỳ-kheo phạm tội Tăng-già- bà-thi-sa không đồng (bất cọng) mà chuyển căn làm Tỳ-kheo-ni thì tội này được diệt. Trường hợp người nào phạm tội thì người đó được thoát tội là nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa mà như pháp trị thì được diệt tội, Tỳ-kheo-ni phạm Tăng-già-bà-thi-sa mà như pháp trị thì được diệt tội. Hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cố ý xuất tinh mà không phạm Tăng- già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu chưa kết giới mà làm việc này. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cố ý xuất tinh mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc cố ý xuất tinh mà lại phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối) Lại hỏi: Như Phật đã dạy xúc phạm hân nữ thì phạm Tăng-già- bà-thi-sa, có trường hợp Tỳ-kheo xúc chạm thân nữ mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu người nữ đó thân căn hư hoại, Tỳ-kheo xúc chạm thì phạm Thâu-lan-giá, hoặc Tỳ-kheo thân căn hư hoại mà xúc chạm thân nữ thì phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo hẹn với người nữ, nghi không biết có phải là người nữ không, nếu thật là nữ mà xúc chạm thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; hoặc nghi không biết là người hay phi nhơn, nếu thật là người nữ mà xúc chạm thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ- kheo dùng móng tay, răng, lông, chỗ không có thịt để xúc chạm thân nữ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo yêu thương người nữ này mà xúc chạm người nữ khác thì phạm Thâu-lan-giá, nếu xúc chạm thân người nữ có hai căn thì phạm Thâu-lan-giá, nếu xúc chạm người nữ bất năng cũng phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo xúc chạm thân người nam thì phạm Thâu-lan-giá, nếu Tỳ-kheo vừa xúc chạm người nữ mà người nữ chuyển căn thành người nam thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo vừa xúc chạm người nữ liền chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni xúc chạm thân nữ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo vừa xúc chạm người nam mà người nam chuyển căn thành nữ, Tỳ-kheo xúc chạm thân nữ thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo vừa xúc chạm người nam liền chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni xúc chạm thân người nam thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni vừa xúc chạm người nam mà người nam chuyển căn thành người nữ, Tỳ-kheo-ni xúc chạm người nữ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo-ni vừa xúc chạm người nam liền chuyển căn thành Tỳ-kheo, Tỳ-kheo xúc chạm thân nam thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo-ni xúc chạm thân nữ mà người nữ lại chuyển căn thành nam, Tỳ-kheo-ni xúc chạm thân nam thì phạm Ba- la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni xúc chạm thân người nữ liền chuyển căn thành Tỳ-kheo, Tỳ-kheo xúc chạm thân nữ thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xúc chạm thân người nữ mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu vì lạnh, vì nóng, vì ấm, không có tâm nhiễm thì không phạm. Nếu xúc chạm người nữ bất năng thì phạm Thâu-lan-giá, xúc chạm người nữ nhập diệt tận định thì phạm Thâu-lan-giá. Lại nữ, nếu vì cứu nạn như cứu lửa, cứu nước, cứu đao binh, cứu ác thú… thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói lời thô với người nữ mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu vì người khác mà nói lời thô, hoặc sai người, hoặc bản tánh nói thô hoặc viết thư hoặc hiện tướng thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu nói lời thô với người nữ bất năng, người nữ có hai đường hợp một, người nữ nhập diệt tận định thì phạm Thâu-lan-giá . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đối trước người nữ tự khen ngợi để được cúng dường thân mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu vì người khác mà tự khen mình, hoặc sai người, hoặc viết thư hoặc hiện tướng thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu tự khen ngợi mình với người nữ bất năng, người nữ có hai đường hợp một, người nữ nhập diệt tận định để mong được cúng dường thân thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu mai mối việc nam nữ phối hợp rồi, khi thành Tỳ- kheo lại đến trợ giúp thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá. Nếu cư só muốn hẹn với người nữ nên nhờ Tỳ-kheo nói giúp, Tỳ-kheo đến nói với người nữ, người nữ không nhân lời, Tỳ-kheo trở lại nói cho cư só biết thì Tỳ-kheo phạm Thâu-lan- giá. Nếu Tỳ-kheo nhận lời của người giàu sang đến nói với người nghèo hèn, hoặc nhận lời của người nghèo hèn đến nói với người giàu sang thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu nhận lời của người giàu sang đến nói với người giàu sang, hoặc nhận lời của người nghèo hèn đến nói với người nghèo hèn thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Lại hỏi: Chừng mức độ nào thì gọi là người giàu sang? Đáp: Cho đến nói ba lần khiến quan thọ dụng thì gọi là giàu sang. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Thầy mua người nữ, hoặc nói hãy mua người này” thì phạm Thâu-lan-giá, nếu mua rồi, việc hợp ngẫu thành thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu người nữ này mang thai nam, người nữ kia mang thai nữ, Tỳ-kheo mai mối cho họ đính ước nhau thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo đem lời của chủ nhân chuyển nói cho người khác, cho đến ba người thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo từ bên sứ giả nhận lời rồi chuyển nói cho người khác, sau đó trở lại nói cho chủ nhân biết thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo mai mối cho người nam bất năng, người nữ bất năng, người nữ có hai đường hợp một và thạch nữ thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm mai mối mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu nữ là người, nam-là phi nhân hoặc nam-là người, nữ là phi nhân, hoặc cả hai đều là phi nhân, Tỳ-kheo làm mai mối cho họ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu cư só hẹn với nguời nữ rồi hỏi Tỳ-kheo là người nữ đang ở đâu, đáp là ở bên ngoài tường thì Tỳ-kheo phạm Thâu- lan-giá. Nếu Tỳ-kheo với tâm tỉnh táo nhận lời, khi đến người kia nói với tâm cuồng loạn thì phạm Thâu-lan-giá; nếu tâm cuồng loạn nhận lời, đến người kia nói với tâm tỉnh táo thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Có cư só đến trong chúng tăng nói rằng: “Các thầy nói với cư só để họ gả con gái hoặc chị em gái cho con tôi”, một Tỳ-kheo nhận lời đến nói với cư só kia thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu chúng tăng sai một Tỳ-kheo đến nói giúp cho cư só thì chúng tăng phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Có hai cư só là bạn thâm giao, vợ của hai người đều mang thai, người này nói với người kia: “Nếu vợ tôi sanh trai, vợ anh sanh gái thì anh gả con gái cho con trai tôi; ngược lại nếu vợ tôi sanh gái, vợ anh sanh trai thì tôi sẽ gả con gái cho con trai của anh”. Vợ người này sanh con trai, người con trai này lớn lên cha mẹ đều qua đời, gia đình trở nên nghèo khó; vợ của người bạn sanh con gái, gia đình giàu có thấy vậy liền bội ước không chịu gả con gái cho. Người con trai này đến nói với Tỳ-kheo thường lui tới nhà rằng: “Xin thầy đến nói với người con gái kia rằng: Khi cô chưa sanh ra, hai bên cha mẹ đã đính ước, nay thấy tôi gia cảnh sa sút nghèo khó nên bội ước không chịu gả cô cho tôi, nhưng cô không nên như vậy, cô hãy đến với tôi”, nếu Tỳ-kheo nhận lời đến nói, người nữ này nghe rồi liền đến hòa hợp với người nam này. Lúc đó Tỳ-kheo sanh nghi không biết mình có phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không, đem việc này bạch Phật, Phật bảo không phạm, chỉ phạm Thâu-lan- giá. Nếu Tỳ-kheo nhận lời người nam dến nói với người nữ mà người nAm-lại chuyển căn thành nữ, Tỳ-kheo mai mối cho hai người nữ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo nhận lời người nữ đến nói với người nam mà người nữ lại chuyền căn thành nam, Tỳ-kheo mai mối cho hai người nam thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo nhận lời mai mối rồi lại chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo-ni nhận lời người nam dến nói với người nữ mà người nAm-lại chuyển căn thành nữ, Tỳ-kheo-ni mai mối cho hai người nữ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo-ni nhận lời người nữ đến nói với người nam mà người nữ lại chuyền căn thành nam, Tỳ-kheo-ni mai mối cho hai người nam thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo-ni nhận lời mai mối rồi lại chuyển căn thành Tỳ-kheo cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu là người chưa thọ giới cụ túc nhận lời mai mối, rồi đến nói với người kia thì phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc chưa xong mà đến nói với người kia cũng phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc xong mà đến nói với người kia thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu Tỳ-kheo làm cho cha mẹ hòa hợp lại thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm mai mối mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc làm mai mối mà lại phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối) Lại hỏi: Như Phật đã dạy, nếu Tỳ-kheo xin làm phòng xá cho mình thì nên làm đúng lượng, có trường hợp Tỳ-kheo xin làm phòng xá cho mình mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu theo chúng tăng xin đất, không xin làm phòng mà lại làm phòng trên đất đó thì phạm Thâu-lan-giá; nếu xin làm phòng mà không xin đất thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự xin làm phòng mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu người khác làm chưa xong, sau đó Tỳ-kheo làm tiếp cho xong thì phạm Thâu-lan-giá, hoặc Tỳ-kheo làm phòng chưa xong mà xả giới thì phạm Thâu-lan-giá . Lại hỏi: Khoảng chừng bao nhiêu thì gọi là phòng? Đáp: Trong phòng chứa đủ bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi của một người thì gọi là phòng, giới nhà lớn cũng vậy. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, Tỳ-kheo dùng pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ-kheo thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, có trường hợp Tỳ- kheo dùng pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng mà không phạm Tăng- già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu viết thư hay sai sứ hay hiện tướng, hoặc vu báng người trước đã phá giới, tặc trụ, người trước nay vốn là bạch y, người bị tẫn, người phạm Bất cọng trụ hay đủ loại Bất cọng trụ, người điên cuồng, tâm loạn, người tâm bịnh hoại. Vì sao, vì những người này tâm không an ổn. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo là tôi phạm dâm, Tỳ-kheo này nghe rồi liền đem việc không căn cứ vu báng là phạm sát, trộm cắp, nói dối thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo là tôi phạm trộm, Tỳ-kheo này nghe rồi liền đem việc không căn cứ vu báng là phạm dâm, sát, vọng thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ- kheo nói với Tỳ-kheo là tôi phạm tội giết người, Tỳ-kheo này nghe rồi liền đem việc không căn cứ vu báng là phạm dâm, trộm, vọng thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo là tôi phạm đại vọng ngữ, Tỳ-kheo này nghe rồi liền đem việc không căn cứ vu báng là phạm dâm, sát, trộm thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ-kheo-ni cũng phạm Tăng-già-bà- thi-sa. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng cho Tỳ-kheo-ni mà không phạm Tăng-già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, giống như trường hợp của tỳ-kheo ở trên, cho đến câu nếu Tỳ-kheo-ni đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng cho Tỳ-kheo cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa; Tỳ-kheo (Tỳ-kheo-ni) đem pháp Ba- la-di không căn cứ vu báng cho Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni đều phạm Đột-kiết-la; Thức-xoa-ma-na đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đều phạm Đột-kiết-la; Sa-di đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng cho Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na đều phạm Đột-kiết-la; Sa-di-ni đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng cho Sa-di-ni, Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho Tỳ-kheo như pháp thì phạm tội; nếu vu báng tội giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu vu báng tội ác tâm làm Phật bị thương chảy máu thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng Tỳ-kheo không như pháp thì có phạm tội không? Đáp: Có, nếu vu báng người trước đã phá giới, hoặc tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y hoặc viết thư hay sai sứ hay hiện tướng, hoặc vu báng người bị tẫn, người phạm Bất cọng trụ hay đủ loại Bất cọng trụ, người điên cuồng, tâm loạn, người tâm bịnh hoại. Vì sao, vì những người này tâm không an ổn. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo là tôi giết mẹ, Tỳ- kheo này nghe rồi liền đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng là giết cha, giết A-la-hán thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu vu báng tội ác tâm làm Phật bị thương chảy máu, phá Tăng thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo là tôi giết cha, Tỳ-kheo này nghe rồi liền đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng là giết mẹ, giết A-la-hán thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu vu báng tội ác tâm làm Phật bị thương chảy máu, phá Tăng thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ- kheo là tôi giết A-la-hán, Tỳ-kheo này nghe rồi liền đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng là giết cha, giết mẹ thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu vu báng tội ác tâm làm Phật bị thương chảy máu, phá Tăng thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo là tôi phá Tăng, Tỳ-kheo này nghe rồi liền đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu vu báng tội ác tâm làm Phật bị thương chảy máu thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo là tôi với ác tâm làm Phật bị thương chảy máu, Tỳ-kheo này nghe rồi liền đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu vu báng tội phá Tăng thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo-ni đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng Tỳ-kheo-ni như pháp thì phạm tội; nếu vu báng tội giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán thì phạm Tăng-già-bà- thi-sa; nếu vu báng tội ác tâm làm Phật bị thương chảy máu, phá Tăng thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo-ni đem tôi ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho Tỳ-kheo-ni không như pháp thì có phạm tội không? Đáp: Có, giống như trường hợp của tỳ-kheo ở trên cho đến câu nếu Tỳ-kheo đem tôi ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni đều phạm Đột-kiết-la; Thức-xoa-ma-na đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni đều phạm Đột-kiết-la; Sa-di đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na đều phạm Đột-kiết-la; Sa-di-ni đem tội ngũ nghịch không căn cứ vu báng cho Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo đem việc không căn cứ vu báng lá phá hết giới thì phạm Thâu-lan-giá; nếu vu báng là phá bốn giới trọng thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Lấy chút tội thuộc trong Ba-la-di không căn cứ vu báng cũng giống như vậy. Lại hỏi: Như Phật đã dạy các Tỳ-kheo nên dịu dàng khuyên can trước, nếu các Tỳ-kheo không dịu dàng khuyên can trước mà liền bạch tứ yết ma can ngăn thì có như pháp hay không? Đáp: Nếu liền tác pháp can ngăn như vậy thì người tác pháp yết ma phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Nếu chưa bạch tứ yết ma mà đuổi đi ra thì có được gọi là đuổi hay không? Đáp: Được gọi là đuổi nhưng người tác pháp yết ma phạm Đột- kiết-la . Lại hỏi: Nếu chưa dịu dàng khuyên can ba lần, liền ở trong giới biệt thỉnh người làm yết ma thì có đắc yết ma không? Đáp: Đắc yết ma nhưng người tác pháp yết ma phạm Thâu-lan- giá vì làm nhân duyên phá Tăng; nếu chúng tăng biết thì chúng tăng phạm tội. Nếu chưa làm yết ma Xuất tội mà Tỳ-kheo phạm tội lại nêu tội của các Tỳ-kheo, nói là tùy ái, tùy sân, tùy sợ, tùy si thì Tỳ-kheo này phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Người này có nên can ngăn không? Đáp: Không nên can. Lại hỏi: Nếu can thì có như pháp không? Đáp: Không như pháp. Nếu được làm yết ma Xuất tội rồi, Tỳ-kheo này nêu tội của các Tỳ-kheo, nói là tùy ái, tùy sân, tùy sợ, tùy si thì Tỳ-kheo này phạm Thâu-lan-giá . Lại hỏi: Người này có nên can ngăn không? Đáp: nên can. Lại hỏi: Nếu can thì có như pháp không? Đáp: như pháp. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, nếu các Tỳ-kheo không cử tội, không khiến nhớ nghó mà Tỳ-kheo phạm tội tự thân làm việc không cùng nói chuyện thì phạm Đột-kiết-la, Tỳ-kheo này có nên khuyên can không? Đáp: Không nên can. Lại hỏi: Nếu can thì có thành khuyên can không? Đáp: Không thành. Lại hỏi: Nếu các Tỳ-kheo cử tội, khiến nhớ nghó, Tỳ-kheo phạm tội tự thân làm việc không cùng nói chuyện thì phạm Thâu-lan-giá, Tỳ- kheo này có nên khuyên can không? Đáp: nên can. Lại hỏi: Nếu can thì có thành khuyên can không? Đáp: Thành. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo phạm tội ở dưới đất, người tác pháp yết ma ở trên cao thì có được yết ma can ngăn không? Đáp: Không được Lại hỏi: Tỳ-kheo phạm tội ở trên cao, người tác pháp yết ma ở dưới đất thì có được yết ma can ngăn không? Đáp: Không được Lại hỏi: Tỳ-kheo phạm tội ở trong giới, người tác pháp yết ma ở ngoài giới thì có được yết ma can ngăn không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo phạm tội ở ngoài giới, người tác pháp yết ma ở trong giới thì có được yết ma can ngăn không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Nếu cả hai đều ở trong giới thì có được yết ma can ngăn không? Đáp: là được. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở trong bốn trú xứ can ngăn, được can ngăn mà không phạm hay không? Đáp: Có, nếu có cây gỗ hay giường chõng nối liền bốn giới lại, Tỳ-kheo ngồi trên đó yết ma can ngăn thì được can ngăn cả bốn nơi. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo ở một nơi mà can ngăn đủ bốn nơi thì có được như pháp không? Đáp: Nếu có cây gỗ hay giường chõng nối liền bốn giới lại, Tỳ- kheo ngồi trên đó yết ma can ngăn đủ bốn nơi được như pháp. Lại hỏi: Có trường hợp một người ở một nơi yết ma can ngăn bốn người ở bốn nơi, mỗi mỗi người đều được can ngăn mà lại không phạm hay không? Đáp: Có, nếu có cây gỗ hay giường chõng nối liền bốn giới lại, Tỳ- kheo ngồi trên đó một lúc có thể dùng một yết ma như pháp can ngăn bốn người ở bốn nơi, khiến cho mỗi mỗi người đều được can ngăn. <篇> <卷>QUYỂN 53 ƯU BA LY VẤN PHÁP (Tiếp Theo) Hỏi Về Hai Pháp Bất Định Hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo phạm việc dâm, tùy giới đã phá liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên cho Lại hỏi: Nếu có hai Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ), một người thấy Tỳ-kheo phạm việc dâm, một người thấy Tỳ-kheo trộm cắp, tùy giới đã phá liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời hai Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Nên theo lời hai Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên cho Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo khi đi đường cùng người nữ làm việc dâm, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy đứng ngồi làm việc dâm chứ không thấy đi”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo cùng người nữ Sát-đế-lî làm việc dâm, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy Tỳ-kheo làm việc dâm với người nữ Bà-la-môn, người nữ Tỳ xá, Thủ-đà-la; chứ không thấy với người nử Sát-đế-lî”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo cùng người nữ sắc da trắng làm việc dâm, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy Tỳ-kheo cùng người nữ sắc da đen, sắc da vàng làm việc dâm, chứ không thấy cùng người nữ sắc da trắng”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo cùng người nữ cao lớn làm việc dâm, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy Tỳ-kheo cùng người nữ lùn thấp, trung bình làm việc dâm, chứ không thấy cùng người nữ cao lớn”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo cùng người nữ hành dâm nơi đường tiểu tiện, liền đến bạch các Tỳ- kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ- kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy Tỳ-kheo cùng người nữ hành dâm nơi đường đại tiện và trong miệng, chứ không thấy cùng hành dâm nơi đường tiểu tiện”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo cùng người nữ hành dâm nơi miệng, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy Tỳ-kheo cùng người nữ hành dâm nơi đường đại tiểu tiện, chứ không thấy cùng người nữ hành dâm nơi miệng”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di đáng tin thấy Tỳ-kheo phi thời ăn thạch mật, cho là ăn thịt, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời của Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó không? Đáp: Không nên Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo này, nếu Tỳ-kheo nói là tôi không ăn thịt, mà là ăn thạch mật, thì nên nghe theo lời Tỳ-kheo này nói. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di đáng tin thấy Tỳ-kheo phi thời ăn tô, cho là ăn cháo lúa mạch, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời của Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó không? Đáp: Không nên Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo này, nếu Tỳ-kheo nói là tôi không ăn cháo lúa mạch, mà là ăn tô, thì nên nghe theo lời Tỳ-kheo này nói. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di đáng tin thấy Tỳ-kheo phi thời uống nước thạch mật, cho là ăn cháo, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời của Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó không? Đáp: Không nên Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo này, nếu Tỳ-kheo nói là tôi không ăn cháo, mà là uống nước thạch mật, thì nên nghe theo lời Tỳ-kheo này nói. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di đáng tin thấy Tỳ-kheo xuất tinh ở giữa đùi với người nữ, cho là đang hành dâm dục, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời của Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ- kheo đó không? Đáp: Không nên Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo này, nếu Tỳ-kheo nói là tôi không phạm chánh dâm, mà là xuất tinh ở giữa đùi, thì nên nghe theo lời Tỳ- kheo này nói. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo cùng người nữ đi đường, có hai Ưu-bà-di đáng tin đi phía sau, một người thấy Tỳ-kheo xúc chạm thân người nữ, cho là hành dâm, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời của Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó không? Đáp: Không nên, nên hỏi lại người thứ hai, nếu nói trái ngược nhau thì không nên tin theo lời kia nói Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo này và nghe theo lời Tỳ-kheo này tự thú. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo phạm giới nào trong bốn phẩm giới sau, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên cho. Lại hỏi: Nếu hai Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ), một người thấy Tỳ-kheo xuất tinh, một người thấy Tỳ-kheo xúc chạm thân người nữ, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Nên cho. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo khi đi cố ý xuất tinh, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy khi đứng ngồi xuất tinh, chứ không thấy khi đi”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo xúc chạm thân người nữ Sát-đế-lî, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ- kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ- kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy Tỳ-kheo xúc chạm người nữ Bà-la-môn, Tỳ xá, Thủ-đà-la, chứ không thấy xúc chạm người nữ Sát-đế-lî”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo xúc chạm người nữ da trắng, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị. Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy Tỳ-kheo xúc chạm người nữ da đen, da vàng; chứ không thấy xúc chạm người nữ da trắng”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di nói lời đáng tin (tín ngữ) thấy Tỳ-kheo xúc chạm thân người nữ cao lớn, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên hỏi Ưu-bà-di đáng tin này: “Lúc đó còn có Ưu-bà-di đáng tin nào cùng thấy hay không?”, nếu đáp có thì nên hỏi người kia, nếu người kia cũng nói giống như lời Ưu-bà-di đáng tin thứ nhất thì nên theo như lời hai Ưu-bà-di này mà trị tội và cho Tỳ-kheo đó yết ma Thật tội tướng. Nếu người thứ hai nói không giống như lời của người thứ nhất, như nói: “Tôi chỉ thấy Tỳ-kheo xúc chạm người nữ lùn thấp, trung bình; chứ không thấy xúc chạm người nữ cao lớn”, lúc đó các Tỳ-kheo nên gạn hỏi lại Tỳ-kheo đó rồi như lời Tỳ-kheo đó nói mà trị tội. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo cùng người nữ đi trên đường, có hai Ưu-bà- di đi phía sau, một người thấy Tỳ-kheo khi đi xúc chạm thân người nữ, liền đến bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có nên theo lời Ưu-bà-di đáng tin này mà trị tội Tỳ-kheo đó hay không? Đáp: Không nên tin theo lời người này, nên hỏi lại người thứ hai, nếu nói trái ngược nhau thì không nên nghe theo Lại hỏi: Có nên cho yết ma Thật tội tướng không? Đáp: Không nên cho, nên gạn hỏi Tỳ-kheo rồi theo lời Tỳ-kheo đó tự nói mà trị. Hỏi Về Ba Mươi Pháp Xả Đọa Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo có nhiều y phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hoặc bị cháy, bị mục nát, hư hoại hoặc bị trùng cắn, thì nên xả hay không? Đáp: Không nên xả, Tỳ-kheo này chỉ nên như pháp diệt tội. Lại hỏi: Nếu có đoạn vải dư rách thì nên xả hay không? Đáp: Không nên xả, chỉ nên như pháp diệt tội. Lại hỏi: Nếu y có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp; y như vậy có nên xả hay không? Đáp: Không nên xả. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo được y dư năm ngày thì bị điên cuồng, tâm loạn, tâm bịnh hoại thì nên tính số mười ngày như thế nào?, đáp là tính từ ngày được tự tâm (hết bịnh) Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa y dư trọn đời mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu được y dư chưa đủ mười ngày liền qua đời. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa y dư quá mười ngày một đêm hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo vẫn còn hy vọng được y, ngày thứ mười được y mà không đem cho người, không tác tịnh và không thọ trì, qua đến ngày thứ mười một, khi trời sáng là quá mười ngày một đêm. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo thọ y của chúng tăng mà lìa y ngủ đêm thì nên xả hay không? Đáp: Không nên xả, chỉ nên như pháp diệt tội. Lại hỏi: Nếu y ở trong giới, Tỳ-kheo ở ngoài giới đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo này có phạm lìa y ngủ đêm hay không?, đáp là phạm lìa y ngủ đêm. Lại hỏi: Nếu y ở dưới đất, Tỳ-kheo ở trên cao đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo này có phạm lìa y ngủ đêm hay không? Đáp là phạm lìa y ngủ đêm. Lại hỏi: Nếu y ở trên cao, Tỳ-kheo ở dưới đất đến sáng hôm sau thì Tỳ-kheo này có phạm lìa y ngủ đêm hay không?, đáp là phạm lìa y ngủ đêm. Lại hỏi: Nếu chưa tác pháp yết ma không lìa y thì cách gần xa khoảng bao nhiêu thì gọi là không lìa y? Đáp: Từ tường vách, hàng rào trở lại là Tỳ-kheo không lìa ba y, dữ học Sa-di (học hối Sa-di) không lìa ba y; Tỳ-kheo-ni không lìa năm y và dữ học Sa-di-ni (học hối Sa-di-ni) không lìa năm y. Lại hỏi: Được một tháng để cắt may y, sao gọi là được một tháng để cắt may y cho đến một tháng được chứa? Đáp: Tác tịnh y Lại hỏi: Lượng y lớn nhỏ là bao nhiêu? Đáp: Cho đến che được ba phần thân. Nếu y có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh thì gọi là y bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp. Y như vậy không được chứa cho đến một tháng. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt nhuộm đập y cũ mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo tự có giặt trước một ít rồi nhờ giặt lại, tự có nhuộm trước một ít rồi nhờ nhuộm lại, tự có đập trước một ít rồi nhờ đập lại. Nếu giặt không gọi là giặt thì bằng với không giặt, phạm Đột-kiết- la; nếu nhuộm không gọi là nhuộm thì bằng với không nhuộm, phạm Đột-kiết-la; nếu đập không gọi là đập thì bằng với không đập, phạm Đột-kiết-la. Nếu lần lượt nhờ giặt, hoặc sai sứ, viết thư, hiện tướng hoặc vì người khác, hoặc y của chúng tăng hoặc y phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, hoặc y tác tịnh thì đều phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo mặc y sạch vào nhà bạch y mà lại phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo mặc y sạch vào nhà bạch y mà dính phải phân bò hay bùn rồi nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt giùm thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu y có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp, thì Tỳ- kheo này phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt y cũ mà Tỳ-kheo-ni lại chuyển căn thành Tỳ-kheo thì phạm Đột-kiết-la; nếu Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt y cũ mà Tỳ-kheo chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt nhuộm đập y cũ mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc nhờ Tỳ-kheo- ni không phải bà con giặt nhuộm đập y cũ mà lại phạm Ni-tát-kỳ Ba- dật-đề hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối) Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đến cư só, vợ cư só không phài bà con xin y mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu cư só là bất năng nam, vợ cư só là bất năng nữ hoặc cư só là người có hai căn, vợ cư só là người có hai đường hợp một; Tỳ-kheo đến những người này xin y thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc đến cư só, vợ cư só không phải bà con xin y mà lại phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, đó là dữ học Sa-di (học hối Sa-di). Nếu y có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp; Tỳ-kheo xin những y này thì phạm Đột-kiết-la, xin lông mịn cũng Đột-kiết-la, xin tơ sợi cũng Đột-kiết-la. Nếu là người chưa thọ giới cụ túc đến cư só không phải bà con xin, được y thì phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc chưa xong xin mà được y cũng phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc xong xin mà được y thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo đến cư só, vợ cư só không phải bà con xin y mà chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni được y thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo-ni đến cư só, vợ cư só không phải bà con xin y mà chuyển căn thành Tỳ-kheo, Tỳ-kheo được y thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đối với người không phải bà con mà khởi tưởng là bà con để xin mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo vì lo liệu giá tiền y, Tỳ-kheo khởi tưởng là bà con để xin, được y thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni, Thức- xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni vì lo liệu giá tiền y; Tỳ-kheo khởi tưởng là bà con để xin, được y thì phạm Đột-kiết-la. Nếu nhiều cư só vì lo liệu giá tiền y, Tỳ-kheo khởi tưởng là bà con để xin, được y thì phạm Đột-kiết-la. Nếu là người chưa thọ giới cụ túc đến cư só không phải bà con để xin, được y thì phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc chưa xong mà được y cũng phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc xong đến cư só không phải bà con để xin, được y thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; nếu khởi tưởng là bà con để xin, được y thì phạm Đột-kiết-la. Nếu giá tiền y thuộc về phi nhân như trời rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca- lầu-la…; hoặc thuộc người trước đã phá giới, tặc trụ, người trước nay vốn là bạch y, người bị tẫn, người phạm Bất cọng trụ, người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại và các ngoại đạo khởi tưởng là bà con để xin thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xin y hoài cho đến quá sáu lần mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu giá tiền y thuộc về người mà gởi ở bên các phi nhân như trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la…, đến xin hoài cho đến quá sáu lần thì phạm Đột-kiết-la. Nếu giá tiền y thuộc về phi nhân như trời rồng, Dạ-xoa… mà gởi ở bên người, đến xin hoài cho đến quá sáu lần thì phạm Đột-kiết-la. Nếu giá tiền y thuộc ngoại đạo mà gởi ở bên người, đến xin hoài quá sáu lần cũng phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng Kiều thi da làm phu cụ mới mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Kiều thi da mục hoặc là Kiếp bối, hoặc là Bát thạch lộ mộ, hoặc là Đột đột lộ, hoặc chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp, thì phạm Đột-kiết- la. Nếu phu cụ làm giảm bớt kích lượng thì phạm Đột-kiết-la; nếu làm bằng lượng y của Phật thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng lông dê thuần đen làm phu cụ mới mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu lông dê mục hoặc chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp, thì phạm Đột-kiết-la. Nếu phu cụ làm giảm bớt kích lượng thì phạm Đột- kiết-la; nếu làm bằng lượng y của Phật thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng hai phần lông dê thuần đen, ba phần lông dê trắng và bốn phần lông dê xấu để làm phu cụ mới mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp thì phạm Đột-kiết- la. Nếu phu cụ làm giảm bớt kích lượng thì phạm Đột-kiết-la; nếu làm bằng lượng y của Phật thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trong sáu năm xả phu cụ cũ hoặc không xả mà làm phu cụ mới, lại không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu có người làm trước nhưng chưa thành, Tỳ-kheo làm tiếp cho thành thì phạm Đột-kiết-la; nếu làm chưa xong liền phản giới hoàn tục thì phạm Đột-kiết-la. Nếu chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo mang lông dê đen đi quá ba do tuần mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu mang bay qua thì không phạm, hoặc cho hóa nhân mang qua thì phạm Đột-kiết-la, nếu Tỳ-kheo biết là hóa nhân thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt nhuộm và đập lông dê mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo tự có giặt trước một ít rồi nhờ giặt lại, tự có nhuộm trước một ít rồi nhờ nhuộm lại, tự có đập trước một ít rồi nhờ đập lại. Nếu giặt không gọi là giặt thì bằng với không giặt, phạm Đột-kiết- la; nếu nhuộm không gọi là nhuộm thì bằng với không nhuộm, phạm Đột-kiết-la; nếu đập không gọi là đập thì bằng với không đập, phạm Đột-kiết-la. Nếu lần lượt nhờ giặt, hoặc sai sứ, viết thư, hiện tướng hoặc vì người khác, hoặc là lông dê của chúng tăng hoặc là lông dê phạm Ni- tát-kỳ Ba-dật-đề, hoặc là lông dê đã tác tịnh thì đều phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự tay lấy tiền mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu lấy tợ tiền thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự tay lấy tiền mua bán đủ thứ mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu lấy tợ tiền mua bán thì phạm Đột-kiết-la; cùng các phi nhân như trời rồng, Dạ-xoa… mua bán thì phạm Đột-kiết-la; cùng người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại hoặc bà con mua bán thì phạm Đột-kiết-la. Nếu là người chưa thọ giới cụ túc mua bán và được thì phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc chưa xong mà được cũng phạm Đột-kiết-la; khi thọ giới cụ túc xong mà được thì phạm Ni-tát-kỳ Ba- dật-đề; nếu người thọ giới cụ túc mua bán và được thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, tất cả trường hợp mua bán khác cũng như vậy. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa bát dư trọn đời mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu được bát dư chưa đủ mười ngày liền qua đời. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo được bát dư năm ngày thì bị điên cuồng, tâm loạn, tâm bịnh hoại thì nên tính số mười ngày như thế nào? Đáp là tính từ ngày được tự tâm (hết bịnh). Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa lâu bát dư mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người khác mang bát đến cho, nhưng đã rất lâu mới đến được. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chứa bát dư quá một đêm mà phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ngay ngày được bát dư liền chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni chứa bát dư mười đêm mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni ngay ngày được bát dư liền chuyển căn thành Tỳ-kheo. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo có nhiều bát phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, tất cả bát này nên ở trong Tăng hành bát phải không? Đáp: Không nên, chỉ một bát ở trong Tăng hành bát mà thôi, những bát còn lại tùy ý cho người quen biết. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo có bát chưa tới năm lằn răng nứt, cầu xin bát mới mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu xin bát mới là bát sành, bát sắt trắng hoặc sai sứ, viết thư, hiện tướng, hoặc xin bát cho người khác thì phạm Đột-kiết-la. Nếu theo ngoại đạo xin bát cũng phạm Đột-kiết-la; nếu bát chưa tới năm lằn răng nứt mà dùng vật của mình để mua đổi bát khác thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo xin tơ mịn, lông mịn thì phạm tội gì?, đáp là Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xin tơ rồi bảo thợ dệt không phải bà con dệt thành y mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu y có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp, thì phạm Đột-kiết- la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nơi người không phải bà con khởi tưởng là đồng ý mà khuyên hùn tiền mua y, lại không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu cư só là bất năng nam hoặc người có hai căn và vợ cư só là bất năng nữ hoặc là người có hai đường hợp một, khởi tưởng là đồng ý mà khuyên hùn tiền mua y thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cho Tỳ-kheo khác y rồi, sau vì tức giận đoạt lấy lại mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo thọ pháp đem y cho Tỳ-kheo không thọ pháp hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp đem y cho Tỳ-kheo thọ pháp, sau đó vì tức giận đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu y có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp, đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu đem y cho người trước đã phá giới hoặc tặc trụ hoặc ngướn trước nay vốn là bạch y, sau tức giận đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu y này làm giảm bớt kích lượng, tức giận đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la; nếu làm bằng lượng y của Phật, tức giận đoạt lấy lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo đem y cho Tỳ-kheo mà Tỳ-kheo này chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni, đoạt lấy y lại thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo đem y cho Tỳ-kheo rồi chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni này đoạt lấy y lại từ Tỳ-kheo thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Thọ y Ca-hi-na xong, nhằm vào tháng thuần thì người thọ y Ca-hi-na nên làm gì? Đáp: Nên theo số an cư. Lại hỏi: Thọ y Ca-hi-na có nên như bố tát mà làm yết ma không? Đáp là nên làm. Lại hỏi: Thọ y Ca-hi-na xong có nên làm yết ma xả không? Đáp là nên làm. Lại hỏi: Khi nào thọ y Ca-hi-na? Đáp: Vào cuối tháng của tháng cuối hạ. Lại hỏi: Khi nào nên xả? Đáp: Từ cuối tháng của tháng cuối hạ cho đến hết bốn tháng đông nên xả. Lại hỏi: Y cấp thí có được làm thời y hay không? Đáp: Được, nếu y có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp, thì không nên đình lại để làm thời y. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trong ba y lìa một y ngủ đêm mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu hậu an cư chưa đủ (ba tháng hậu an cư) hoặc Tỳ- kheo A-lan-nhã, trong ba y nếu để lại một y trong phòng thuộc nội giới, có chút nhân duyên ra ngoài giới nói rằng sẽ trở về đây ngủ; nhưng lại có nhân duyên khác không thể trở về kịp, nên ngủ lại đêm ở ngoài giới cho đến sáng hôm sau thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: qua hết mùa xuân một tháng, có trường hợp Tỳ-kheo xin áo tắm mưa chứa quá nữa tháng mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu y có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp, thì phạm Đột-kiết- la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xin y hoặc vật từ mẹ mà phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu mẹ làm y hoặc vật cúng cho chúng Tăng, Tỳ-kheo hồi chuyển đem về cho mình thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; nếu lấy vật này từ ngoài giới thì phạm Đột-kiết-la; nếu hai, ba, bốn lần lấy với tâm trộm cắp thì theo như pháp mà kết phạm. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo phi thời thọ mía, phi thời ép, phi thời lượt, phi thời thọ thì phi thời được dùng không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo trong thời thọ mía, phi thời ép, phi thời lượt, phi thời thọ thì phi thời được dùng không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo trong thời thọ mía, trong thời ép, phi thời lượt, phi thời thọ thì phi thời được dùng không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo trong thời thọ mía, trong thời ép, trong thời lượt, phi thời thọ thì phi thời được dùng không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo trong thời thọ mía, trong thời ép, trong thời lượt, trong thời thọ thì phi thời được dùng không? Đáp: Được, nếu tất cả thời đều tịnh thì được dùng. Lạc và hồ ma cũng như vậy. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo phi thời thọ thịt, phi thời nấu, phi thời ép, phi thời lượt, phi thời thọ thì phi thời được dùng không? Đáp: Không được, nếu tất cả thời đều tịnh thì được dùng. Lại hỏi: Ngay ngày thọ thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược, để hòa hợp cùng một chỗ thì có được dùng không? Đáp: Vì hiệu lực của thời dược là chỉ được dùng trong thời, phi thời không được dùng. Lại hỏi: Ngay ngày thọ thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược, để hòa hợp cùng một chỗ thì có được dùng không? Đáp: Vì hiệu lực của thời phần dược là chỉ được dùng trong thời phần, qua thời phần thì không được dùng. Lại hỏi: Ngay ngày thọ thất nhật dược và tận hình dược, để hòa hợp cùng một chỗ thì có được dùng không? Đáp: Vì hiệu lực của thất nhật dược là chỉ được dùng trong vòng bảy ngày, qua bảy ngày thì không được dùng. Tận hình dược thì trọn đời được tùy ý dùng. Lại hỏi: Hôm qua thọ thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược, để hòa hợp cùng một chỗ có được lấy dùng không?, đáp là không được. Lại hỏi: Hôm qua thọ thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược, để hòa hợp cùng một chỗ có được lấy dùng không? Đáp là không được. Lại hỏi: Hôm qua thọ thất nhật dược và tận hình dược, để hòa hợp cùng một chỗ có được lấy dùng không?, đáp là không được. Lại hỏi: Bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược để cách đêm có được lấy dùng không?, đáp là không được. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo tự lấy trước rồi mới thọ từ tịnh nhân thì có được dùng không? Đáp là không được. Lại hỏi: Bốn loại dược trên từ tay thọ, miệng thọ, Tỳ-kheo không bịnh có được dùng không? Đáp: Không được, nếu là Tỳ-kheo bịnh thì được dùng. Hỏi Về Việc Trong Ba-Dật-Đề Hỏi: Nếu Tỳ-kheo mặc hình phục của Phạm chí đi trên đường thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu mặc hình phục của đại Tần, An tức bạc, đại hình phục của Khư lợi ba la thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Đột-kiết-la, mặc những hình phục như thế đều phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có người hỏi Tỳ-kheo có thấy người cầm dù di không, Tỳ-kheo đáp là không thấy, vì duyên nhìn nơi chân nên nói không thấy, thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Đột-kiết-la, cho đến cầm quạt, đi giày da, đeo xuyến ngọc, đeo anh lạc, đi xe, đi kiệu… cũng đều như vậy. Lại hỏi: Có người hỏi Tỳ-kheo: “Thầy là ai”, đáp là Tỳ-kheo-ni thì có phản giới không? Đáp; không có phản giới nhưng phạm Ba-dật-đề cố ý vọng ngữ. Nếu nói tôi là Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, bạch y, ngoại đạo… cho đến nói là trời, rồng, Dạ-xoa… cũng không phản giới, nhưng phạm Ba-dật-đề . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo dùng thiên nhãn thấy, dùng thiên nhó nghe biết tội của tỳ-kheo khác, không xin phép cử tội mà liền nói tội ra thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Đột-kiết-la Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo ở trước chúng tăng phá giới thì có nên cử tội không? Đáp: Tùy cử tội được thì cử. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo chê bai chỉ trích Tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc chê bai chỉ trích Tỳ-kheo khác mà lại phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối). Nếu viết thư, sai sứ hay hiện tướng hay lần lượt chê bai chỉ trích thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo chê bai chỉ trích Tỳ-kheo thì phạm Ba-dật-đề; chê bai chỉ trích Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni chê bai chỉ trích Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật-đề; chê bai chỉ trích Tỳ-kheo, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni thì phạm Đột- kiết-la. Nếu Thức-xoa-ma-na chê bai chỉ trích Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Sa-di chê bai chỉ trích Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Sa-di-ni chê bai chỉ trích Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di đều phạm Đột-kiết-la. Lại nữa, nếu Tỳ-kheo nói lưỡi hai chiều gièm phA-tỳ-kheo thì phạm Ba-dật-đề; nói lưỡi hai chiều gièm phA-tỳ-kheo-ni, Thức-xoa- ma-na, Sa-di, Sa-di-ni thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni nói lưỡi hai chiều gièm phA-tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật-đề; nói lưỡi hai chiều gièm phA-tỳ-kheo, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni thì phạm Đột-kiết- la. Nếu Thức-xoa-ma-na nói lưỡi hai chiều gièm pha Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Sa-di nói lưỡi hai chiều gièm pha Sa-di, Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức- xoa-ma-na đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Sa-di-ni nói lưỡi hai chiều gièm pha Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo ở trong giới nói hai lưỡi gièm phA-tỳ-kheo ở ngoài giới thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo ở ngoài giới nói hai lưỡi gièm phA-tỳ-kheo ở trong giới, hoặc ở dưới đất nói hai lưỡi gièm phA- tỳ-kheo ở trên, hoặc ở trên nói hai lưỡi gièm phA-tỳ-kheo ở dưới đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo ở trong giới hoặc đứng, ngồi, nằm nói hai lưỡi gièm phA-tỳ-kheo ở trong giới thì phạm Ba-dật-đề. Nếu viết thư, sai sứ hay hiện tướng hay lần lượt nói hai lưỡi gièm pha thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Nếu sự việc đã được như pháp diệt tránh rồi, có trường hợp Tỳ-kheo phát khởi trở lại mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu việc của tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, hoặc việc của tỳ- kheo và Thức-xoa-ma-na, hoặc việc của tỳ-kheo và Sa-di, hoặc việc của tỳ-kheo và Sa-di-ni đã được như pháp diệt tránh rồi, Tỳ-kheo phát khởi trở lại thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp việc đã như pháp diệt tránh rồi, Tỳ-kheo phát khởi trở lại mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp việc đã như pháp diệt tránh rồi, người không thọ giới cụ túc phát khởi trở lại mà phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, đó là Dữ học Sa-di (tức là Sa-di học hối). Nếu viết thư, sai sứ hay hiện tướng hay lần lượt phát khởi trở lại sự việc đã như pháp diệt tránh rồi, thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, Tỳ-kheo ở trước tịnh nhân bất năng nam nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la. Sao gọi là tịnh nhân bất năng nam? Đáp: Đó là người bất động, nếu ở trước tịnh nhân vô tri hay đang ngủ, nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la. Nếu viết thư, sai sứ hay hiện tướng hay lần lượt nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người nữ tịnh, người nam bất tịnh hoặc người nam tịnh, người nữ bất tịnh, hoặc cả hai đều bất tịnh; nếu không có người làm tịnh (tịnh nhân)mà Tỳ-kheo nói pháp cho người nữ nghe quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la; nếu có bất năng nam-làm tịnh, Tỳ-kheo nói pháp cho người nữ nghe quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la; nếu có bất năng nữ làm tịnh, Tỳ-kheo nói pháp cho người nữ nghe quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la; nếu không có người làm tịnh (tịnh nhân)mà Tỳ-kheo nói pháp cho người nữ có hai căn, hoặc có hai đường hợp một, nghe quá năm, sáu lời thì phạm Đột- kiết-la. Tỳ-kheo ở trước tịnh nhân câm hoặc điếc hoặc câm ngọng; hoặc là trời, rồng, Dạ-xoa… nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dạy cho người chưa thọ giới cụ túc tán tụng mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu dạy cho trời rồng, Dạ-xoa… các phi nhân tán tụng thì phạm Đột-kiết-la; nếu dạy cho người nói cà lăm thì phạm Đột-kiết-la; ở chỗ một mình tụng thì phạm Đột-kiết-la. một mình tưởng không phải là một mình, không phải một mình tưởng là một mình, hoặc dùng ngôn ngữ ở trong nước dạy cho người ở nơi biên địa tán tụng mà người ở biên địa không hiểu được; hoặc dùng ngôn ngữ của người ở biên địa dạy cho người ở trong nước tán tụng mà người ở trong nước không hiểu được; hoặc dạy cho người câm, người điếc, hoặc người câm điếc; hoặc viết thư, sai sứ, hiện tướng, hoặc dạy cho người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại tán tụng thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc dạy cho người chưa thọ cụ túc tán tụng mà phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, đó là dữ học Sa-di (Sa-di học hối), nếu Sa-di học hối dạy cho người câm, người điếc, hoặc người câm điếc tán tụng thì phạm Đột-kiết-la; hoặc dạy cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tán tụng thì phạm Đột- kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở trước người chưa thọ giới cụ túc nói được pháp hơn người, nói là tôi biết như vậy, thấy như vậy, mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu ở trước trời, rồng, Dạ-xoa… các phi nhân nói được pháp hơn người thì phạm Đột-kiết-la. Nếu ở chỗ một mình nói thật được pháp hơn người thì phạm Đột-kiết-la. một mình tưởng không phải là một mình, không phải một mình tưởng là một mình, hoặc dùng ngôn ngữ ở trong nước nói cho người ở nơi biên địa mà người ở biên địa không hiểu được; hoặc dùng ngôn ngữ của người ở biên địa nói cho người ở trong nước mà người ở trong nước không hiểu được; hoặc ở trước người câm, người điếc, hoặc người câm điếc; hoặc viết thư, sai sứ, hiện tướng, hoặc ở trước người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, nói thật được pháp hơn người thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đem tội thô của tỳ-kheo khác nói cho người chưa thọ giới cụ túc nghe mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo đem tội thô của tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma- na, Sa-di, Sa-di-ni, nói cho người chưa thọ giới cụ túc nghe thì phạm Đột-kiết-la. Nếu đem tội thô của tỳ-kheo nói cho các phi nhân như trời, rồng, Dạ-xoa… nghe thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc đem tội thô của tỳ-kheo nói cho người chưa thọ giới cụ túc mà phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, đó là dữ học Sa-di (Sa-di học hối). Nếu ở trong giới nói cho người ở ngoài giới thì phạm Đột-kiết-la; hoặc ở ngoài giới nói cho người ở trong giới, hoặc ở dưới đất nói cho người ở trên, hoặc ở trên nói cho người ở dưới đều phạm Đột-kiết-la. Nếu ở trong giới hoặc đứng, ngồi, nằm nói cho người ở trong giới thì phạm Ba-dật-đề . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trước đã đồng tâm cho, sau lại nói rằng: “Các thầy tùy người quen biết, hồi chuyển vật Tăng đem cho”, mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu vật thí này thuộc Tỳ-kheo-ni tăng, mà nói lời này thì phạm Đột-kiết-la. Nếu viết thư, sai sứ hay hiện tướng hay lần lượt nói lời này thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo khi nghe thuyết giới nói rằng: “Cần gì nói những giới vụn vặt này, khiến cho các Tỳ-kheo sanh tâm nghi hối, phiền não ưu sầu không vui rồi phản giới”, nói lời khinh chê giới như vậy mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu ở chỗ một mình khinh chê giới thì phạm Đột-kiết-la. một mình tưởng không phải là một mình, không phải một mình tưởng là một mình, hoặc dùng ngôn ngữ ở trong nước ở trước người ở nơi biên địa khinh chê giới mà người ở biên địa không hiểu được; hoặc dùng ngôn ngữ của người ở biên địa ở trước người ở trong nước khinh chê giới mà người ở trong nước không hiểu được; hoặc ở người câm, người điếc, hoặc người câm điếc; hoặc viết thư, sai sứ, hiện tướng, hoặc ở người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại khinh chê giới thì phạm Đột-kiết- la. Nếu viết thư, sai sứ hay hiện tướng hay lần lượt khinh chê giới thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo lấy đất phủ lên rau cỏ tươi làm cho cỏ chết thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Ba-dật-đề, nếu ăn quả nuốt hột thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói với người khác rằng: “Hãy lay cây cho rụng trái xuống”, thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Ba-dật-đề Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói với người khác rằng: “Hãy lay cây cho rụng trái xuống”, mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu viết thư, sai sứ hay hiện tướng hay lần lượt nói thì phạm Đột-kiết-la; nếu hái nấm trên đất thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc nói với người khác rằng: “Hãy lay cây cho rụng trái xuống”, mà phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, đó là dữ học Sa-di (Sa-di học hối) Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm chết cỏ cây mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu hiện tướng thì phạm Đột-kiết-la, nếu khi bay qua làm chúng chết thì không phạm. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói: “Hãy chặt phá cây này”, thì phạm tội gì?, đáp là phạm Ba-dật-đề Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo đem bỏ hạt giống trong nước sôi hay dưới ánh mặt trời hay trong lửa thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Đột-kiết-la Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm chết cỏ cây mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc làm chết cỏ cây mà phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, đó là dữ học Sa-di (Sa-di học hối), nếu vớt lấy bèo nổi trên mặt nước thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tức giận khinh trách mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu tức giận khinh trách các phi nhân như trời, rồng, Dạ- xoa… thì phạm Đột-kiết-la; hoặc người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y thì phạm Đột-kiết-la. Nếu ở chỗ một mình tức giận khinh trách thì phạm Đột-kiết-la. một mình tưởng không phải là một mình, không phải một mình tưởng là một mình, hoặc dùng ngôn ngữ ở trong nước khinh trách người ở nơi biên địa mà người ở biên địa không hiểu được; hoặc dùng ngôn ngữ của người ở biên địa khinh trách người ở trong nước mà người ở trong nước không hiểu được; hoặc khinh trách người câm, người điếc, hoặc người câm điếc; hoặc viết thư, sai sứ, hiện tướng, hoặc khinh trách người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì phạm Đột-kiết-la; hoặc tức giận khinh trách người tánh thiện thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không theo lời hỏi mà đáp, làm xúc não người khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu không theo lời hỏi mà đáp, làm xúc não người câm, người điếc, hoặc người câm điếc thì phạm Đột-kiết-la. Trừ trường hợp trong duyên khởi của giới, những trường hợp khác không theo lời hỏi mà đáp, làm xúc não người khác thì phạm Đột-kiết-la. Nếu ở chỗ một mình, một mình tưởng không phải là một mình, không phải một mình tưởng là một mình, hoặc dùng ngôn ngữ ở trong nước không theo lời hỏi mà đáp, làm xúc não người ở nơi biên địa, mà người ở biên địa không hiểu được; hoặc dùng ngôn ngữ của người ở biên địa không theo lời hỏi mà đáp, làm xúc não người ở trong nước, mà người ở trong nước không hiểu được; hoặc viết thư, sai sứ, hiện tướng, hoặc làm xúc não người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, hoặc các phi nhân như trời, rồng…; hoặc làm xúc não người mà trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy ngọa cụ của tăng hợac giường dây có lỗ bệ to, hoặc lỗ bệ nhỏ hoặc mền nệm, ở trên đất trống tự trải hay bảo người trải để ngồi nằm; khi đi không tự cất, không bảo người cất mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu ngọa cụ này có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp; hoặc giường dây này có chân giường cao quá tám ngón tay của Phật, trải ở đất trống; khi đi không tự cất, không bảo người cất thì phạm Đột-kiết- la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lấy ngọa cụ trong phòng Tỳ-kheo tự trải hay bảo người trải để ngồi nằm; khi đi không tự cất, không bảo người cất mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu phòng này của các phi nhân như trời, rồng…; hoặc của người mà trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y; hoặc của tỳ-kheo-ni; hoặc của ngoại đạo xuất gia. Tỳ-kheo lấy ngọa cụ trong phòng tự trải hay bảo người trải để ngồi nằm; khi đi không tự cất, không bảo người cất thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo vì tức giận không vui ở trong phòng Tăng, tự kéo lôi ra hay bảo người khác kéo lôi ra và nói: “Hãy đi ra”, vì nhân duyên này chứ không vì duyên gì khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người bị kéo lôi ra là các phi nhân như trời, rồng…; hoặc là Tỳ-kheo xấu ác; hoặc là ngoại đạo xuất gia thì phạm Đột-kiết- la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác đã trải ngọa cụ trước ở trong phòng Tăng, mình đến sau lại gượng giành trải, nghó rằng: “Nếu người kia không vui sẽ tự bỏ đi”, vì nhân duyên này chứ không vì duyên gì khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu phòng này của các phi nhân như trời, rồng…; hoặc của người mà trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y; hoặc của tỳ-kheo-ni; hoặc của ngoại đạo xuất gia. Tỳ-kheo ở trong đó gượng giành trải ngọa cụ thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo lợp nhà quá hai, ba lớp mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu dùng ván lợp, hoặc dùng cỏ Ưu thi la, lông cánh chim lợp thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tăng không sai, Tỳ-kheo liền đi giáo giới Tỳ-kheo-ni mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y, hoặc người phạm Bất cọng trụ, hoặc người phạm đủ loại Bất cọng trụ. Tăng không sai, liền đi giáo giới Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp được Tăng sai, Tỳ-kheo đi giáo giới Tỳ- kheo-ni cho đến mặt trời lặn mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni này là người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y, hoặc người phạm Bất cọng trụ thì chỉ phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo: “Thầy vì nhân duyên cúng dường tài lợi nên đi giáo giới Tỳ-kheo-ni”, mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu là Tỳ-kheo thọ pháp nói với Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp nói với Tỳ-kheo thọ pháp thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đi cùng đường với Tỳ-kheo-ni cho đến một tụ lạc mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni này là người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y, hoặc là bất năng nữ, hoặc là người bị tẫn, người phạm Bất cọng trụ, cùng đi với người như thế thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hẹn với Tỳ-kheo-ni đi cùng thuyền xuôi dòng hay ngược dòng mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, trường hợp giống như trên. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đem y cho Tỳ-kheo-ni không phải bà con mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo thọ pháp đem y cho Tỳ-kheo-ni không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp đem y cho Tỳ-kheo-ni thọ pháp, Hoặc đem y cho người mà trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y, hoặc người phạm Bất cọng trụ, người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một mình ngồi ở chỗ khuất với Tỳ-kheo-ni mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y, hoặc người bị tẫn, người phạm Bất cọng trụ, người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại. Ngồi ở chỗ khuất với người như thế thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một mình ngồi ở chỗ đất trống với người nữ mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người nữ này là phi nhân như trời, rồng…, hoặc là bất năng nữ … thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo biết do nhân duyên Tỳ-kheo-ni khen ngợi mà được thức ăn, lại không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni là người mà trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y, hoặc là người bị tẫn, người phạm Bất cọng trụ; hoặc Nếu viết thư, sai sứ hay hiện tướng hay lần lượt khen ngợi để Tỳ-kheo được thức ăn, Tỳ-kheo nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo thọ pháp biết do nhân duyên Tỳ-kheo-ni không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp biết do nhân duyên Tỳ-kheo-ni thọ pháp khen ngợi mà được thức ăn, Tỳ-kheo ăn thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thường thường ăn mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu đàn việt thỉnh ngày mai thọ thực, khi Tỳ-kheo đến, đàn việt nói hãy chờ một chút đợi thức ăn đến; hoặc thường được thỉnh tùy ý ăn. Trừ năm loại thức ăn, thỉnh cho thức ăn khác là tịnh hay bất tịnh hay tinh bất tịnh lẫn lộn thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không bịnh ở trong nhà phước đức, ăn quá một bữa ăn mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu nhà phước đức này thuộc của phi nhân như trời, rồng…; hoặc của tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni; hoặc của bà con quen biết; hoặc Tỳ-kheo tự làm nhà phước đức thì ở trong đó ăn quá một bữa ăn không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo được nhà khác thỉnh tùy ý cho thức ăn, thọ lấy quá hai, ba bát mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu ở trong miếu thờ trời, hoặc là nhà của phi nhân như trời, rồng…; hoặc ở nhà đàn việt của tỳ-kheo thọ pháp, Tỳ-kheo không thọ pháp đến thọ lấy thức ăn; hoặc ở nhà đàn việt của tỳ-kheo không thọ pháp, Tỳ-kheo thọ pháp đến thọ lấy thức ăn, quá hai, ba bát thì phạm Đột-kiết-la; nếu vào trong ngồi tùy ý ăn thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni đến nhà đàn việt thọ lấy thức ăn, quá hai, ba bát mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, trường hợp giống như trên. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác đã ăn xong, không thọ pháp tàn thực, từ chỗ ngồi đứng dậy mà nói rằng: “Thầy tùy ý ăn”, mục đích khuyên ăn là muốn làm xúc não khiến cho nghi hối, mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, trừ năm loại thức ăn, khuyên ăn thức ăn khác là tịnh hay bất tịnh hay tinh bất tịnh lẫn lộn thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ăn biệt chúng mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu thọ tất cả thời thì không phạm. Lại hỏi: Ở cõi Câu-da-ni nên ăn theo thời nào? Đáp: Nếu ở trong cõi này ngủ đêm thì nên ăn theo thời của cõi này; nếu ở cõi kia ngủ đêm thì nên ăn theo thời của cõi kia; ở các phương khác cũng như vậy. Lại hỏi: Thức ăn cách đêm ở cõi Câu-da-ni có được ăn không? Đáp: Không được ăn, ở cõi Phất đề bà cũng vậy. Lại hỏi: Thức ăn cách đêm ở cõi Uất đơn việt có được ăn không? Đáp: Ở cõi đó không có ngã sở và sở thuộc thì được tùy ý ăn, không tội. Lại hỏi: Tay và bát rửa hai, ba lần tháo đậu (xà bông) mà vẫn không hết mùi, thì có gọi là rửa hay không? Đáp: Nếu dụng tâm rửa hai, ba lần thì gọi là rửa. Có ba hạng Tỳ-kheo nếu cùng thức ăn nội túc (ở chỗ ngủ, bên trong có cất chứa thức ăn), đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tăng và dữ học Sa-di (Sa-di học hối); và bốn hạng Tỳ-kheo-ni: Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni tăng, dữ học Sa-di-ni (Sa-di-ni học hối) và Thức-xoa-ma-na, nếu cùng thức ăn nội túc thì không nên ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo xin bình nước lấy nhầm bình tô hoặc dầu thì có nên phá bỏ hay không? Đáp: Không nên, có hai loại xúc thực, nếu ăn thì không tội, đó là Tỳ-kheo thanh tịnh trì giới lở xúc chạm và Tỳ-kheo phá giới không biết hổ thẹn đã xúc chạm, vì hai loại xúc chạm này đều tịnh. Nếu Tỳ-kheo đi trên đường gánh mang giúp thức ăn cho Sa-di và bạch y rồi đưa lại, Sa-di và bạch y lại mang thức ăn trao cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo cho là đã cùng thức ăn ngủ đêm nên không thọ ăn. Phật bảo: “Nếu Tỳ-kheo trước không có tâm vì mình thì được ăn”. Lại hỏi: Nếu nước đục có nên uống không? Đáp: Nếu trước có nghi thì không nên uống, nếu trước không nghi thì được uống. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp thọ lấy thức ăn từ Tỳ-kheo không thọ pháp thì có được ăn không? Đáp: Được ăn, Tỳ-kheo không thọ pháp thọ lấy thức ăn từ Tỳ- kheo thọ pháp cũng được ăn. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xin thức ăn ngon mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu xin từ bà con quen biết thì không phạm. Lại hỏi: Trừ nước, nếu dùng các loại nước ép khác có trùng thì có phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, tùy trùng bị chết bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Lại hỏi: Tỳ-kheo ăn thức ăn nào thì phạm vào đại tội? Đáp: Người nữ gọi người nAm-là thức ăn, nếu Tỳ-kheo ăn thức ăn này thì phạm vào đại tội. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngồi trong nhà có thức ăn (nữ lấy nam làm thức ăn), mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu đồng nữ là chủ nhân của nhà này. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo gượng ngồi trong nhà có thức ăn (nữ lấy nam làm thức ăn), mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, giống như trường hợp trên. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự tay đưa thức ăn cho Phạm chí lỏa hình mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu cho thức ăn tịnh hay bất tịnh hay tịnh bất tịnh lẫn lộn thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo xem quân trận xuất hành mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu trong quân trận có tù nhân đáng chết bị giết, vì quán vô thường nên đến xem thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo một lúc tạo trăm ngàn tội hoặc hơn nữa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo tâm tức giận, tay nắm cát hay các loại đâu rải lên đại chúng, tùy cát đính bao nhiêu người thì phạm bấy nhiêu tội Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo phạm tội thô, che giấu đến sáng hôm sau mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu che giấu tội của người mà trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y, hoặc người bị tẫn, người phạm Bất cọng trụ thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác rằng: “Hãy cùng đi đến các nhà, tôi sẽ bảo họ cúng dường thức ăn ngon”, nhưng khi đến nơi lại nói rằng: “Thầy hãy về đi, tôi cùng thầy ngồi nói chuyện không vui, tôi ngồi một mình, nói chuyện một mình vui hơn”. Mục đích đuổi về là muốn làm cho phiền não cho đến trong chốc lát, vì nhân duyên này không vì gì khác, lại không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo bị đuổi về là phi nhân như trời, rồng… biến hình xuất gia làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đuổi về thì phạm Đột-kiết-la; nếu đuổi người xuất gia phái khác cũng phạm Đột-kiết-la Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở nơi đất trống đốt vật trong lửa mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu để tô, dầu, hồ ma, các loại đậu vào trong lửa thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo việc Tăng như pháp gởi dục rồi, sau đó nói lỗi mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo thọ pháp gởi dục cho Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp gởi dục cho Tỳ-kheo thọ pháp, sau đó nói lỗi thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ hai đêm, đêm thứ ba cùng ngủ với người nữ thì có được gọi là chuyển đêm hay không? Đáp: Không được, ngủ bên người nữ thì phạm Ba-dật-đề. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ hai đêm, đêm thứ ba cùng ngủ với người bất năng nam thì có được gọi là chuyển đêm hay không? Đáp: Không được, ngủ bên người bất năng nam thì phạm Đột- kiết-la. Như thế ngủ bên người huỳnh môn, người có hai căn, người bị tẫn đều phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ hai đêm, đêm thứ ba cùng ngủ với Sa-di bị tẫn thì có được gọi là chuyển đêm hay không? Đáp: Không được, ngủ bên Sa-di bị tẫn thì phạm Ba-dật-đề. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ hai đêm, đêm thứ ba cùng ngủ với người nam biến hóa thì có được gọi là chuyển đêm hay không? Đáp: Được, nếu không biết là hóa nhân thì phạm Đột-kiết-la, nếu biết là hóa nhân thì không phạm. Lại hỏi: Tỳ-kheo có được ngồi trên tòa ngồi bằng vàng, bạc của người và thọ dụng đồ đựng thức ăn bằng vàng, bạc, lưu ly của người hay không? Đáp: Không nên ngồi, không nên thọ dụng. Lại hỏi: Tỳ-kheo có được ngồi trên tòa ngồi bằng vàng, bạc của trời và thọ dụng đồ đựng thức ăn bằng vàng, bạc, lưu ly của trời hay không? Đáp là được. Lại hỏi: Trời rải vàng, bạc, lưu ly… trên đất, Tỳ-kheo có được đi trên đó không? Đáp là được. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cầm của báu mà lại phạm Tăng- già-bà-thi-sa hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo cầm nữ báu thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; cầm luân báu, châu ngọc báu thì phạm Ba-dật-đề; cầm biến hóa báu thì phạm Đột-kiết-la, nếu biết là biến hóa báu thi không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo mặc y nhuộm không tác tịnh mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu y này có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp. Tỳ-kheo mặc y bất tịnh này, nhuộm mà không tác tịnh thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thường tắm rửa mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu khi trời mưa, Tỳ-kheo đứng nơi đất trống tắm thì không phạm. Lại hỏi: Tỳ-kheo nếu giết thú dữ, rắn độc có phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Phạm Ba-dật-đề, giết các loại thú hiền cũng phạm Ba-dật- đề. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cố ý làm cho người khác nghi hối, phiền não cho đến trong chốc lát mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Trừ việc khi sanh, khi thọ giới cụ túc; nếu đem việc khác ra hỏi làm cho người sanh nghi hối thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng ngón tay chọc lét người khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người bị chọc lét đó là phi nhân như trời, rồng… thì phạm Đột-kiết-la; nếu chọc lét người có thân căn hư hoại thì phạm Đột- kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cùng ngủ đêm với người nữ mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu cùng người nữ ngủ đêm dưới cây hoặc trong rứng trúc thì phạm Đột-kiết-la; nếu ngủ cùng nữ phi nhân như trời, rồng… thì phạm Đột-kiết-la; nếu cùng ngủ với súc sanh cái to lớn thì phạm Ba- dật-đề; nếu ngủ cùng súc sanh cái nhỏ thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự khủng bố hay bảo người khác khủng bố Tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người bị khủng bố này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Trừ sáu việc trong duyên khởi của giới, dùng việc khác để khủng bố Tỳ-kheo khác thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo thọ pháp khủng bố Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ- kheo không thọ pháp khủng bố Tỳ-kheo thọ pháp thì phạm Đột-kiết- la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo tự giấu hay bảo người khác giấu y bát, giày da, ống kim… của tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu giấu y bát bị cấm thì phạm Đột-kiết-la; hoặc giấu y bát của người mà trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cho Tỳ-kheo khác y rồi, sau đó không hỏi chủ mà lấy dùng lại không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Tỳ-kheo cho rồi, sau không hỏi chủ mà lấy dùng thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Tỳ-kheo nên đưa y cho ai để làm tịnh? Đáp: Nên đưa cho năm chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa- ma-na, Sa-di, Sa-di-ni. Lại hỏi: Nên đến bên ai thọ y? Đáp: Nên đến bên năm chúng thọ y. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đem tội Tăng-già-bà-thi-sa không căn cứ vu báng cho Tỳ-kheo khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hẹn với người nữ đi chung đường mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu hẹn đi chung đường với nữ phi nhân như trời, rồng…; hoặc hẹn với bất năng nữ thì phạm Đột-kiết-la; nếu hẹn với người nữ biến hóa thì phạm Đột-kiết-la, nếu biết là nữ biến hóa thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo hẹn với giặc đi chung đường mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu giặc là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo hẹn cùng đi chung đường thì phạm Đột-kiết-la; nếu hẹn với phi nhân như trời, rồng… đi chung đường thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cho người chưa đủ hai mươi tuổi thọ giới cụ túc mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu cho Thức-xoa-ma-na đã từng gả. Lại hỏi: Sao gọi là đào đất? Đáp: Là đào đất sống chưa từng bị hủy hoại. Lại nữa, nếu bốn tháng hạ đã trôi qua, Tỳ-kheo không bịnh đến đàn việt xin tô, được thì phạm Ba-dật-đề, không được thì phạm Đột- kiết-la. Nếu xin dầu, mật, đường phèn, gừng, muối đen mà được thì phạm Ba-dật-đề; không được thì phạm Đột-kiết-la. Nếu xin Ha lê lặc, A ma lặc, Tỳ ê lặc … mà được thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo khi nghe thuyết giới nói rằng: “Tôi chưa học giới này, tôi sẽ hỏi các Tỳ-kheo trì luật, trì luận”, mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu dạy pháp bất tịnh, liền nói: “Tôi không học giới này…” thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo thọ pháp sai sứ nói với Tỳ-kheo không thọ pháp rằng: “Thầy hãy đến thọ năm pháp”, Tỳ-kheo không thọ pháp nói: “Tôi không thể học pháp này”thì không phạm. Nếu Tỳ- kheo không thọ pháp sai sứ nói với Tỳ-kheo thọ pháp: “Thầy hãy đến học với tôi để xa lìa năm pháp”, Tỳ-kheo thọ pháp nói: “Tôi không thể học pháp này” thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo nghe trộm các Tỳ-kheo đấu tranh tránh tụng, nghó rằng: “Các Tỳ-kheo này nói điều gì, tôi sẽ ghi nhớ”, mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu việc này là việc của tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, hoặc việc của tỳ-kheo và Thức-xoa-ma-na, hoặc việc của tỳ-kheo và Sa-di, hoặc việc của tỳ-kheo và Sa-di-ni mà trộm nghe thì phạm Đột-kiết-la; nếu sai Tỳ-kheo khác đến nghe thì phạm Đột-kiết-la; nếu sai Tỳ-kheo khác đến nghe rồi về báo lại thì phạm Ba-dật-đề. Lại hỏi: Có trường hợp việc tăng vừa mới phát, Tỳ-kheo im lặng đứng dậy bỏ đi mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu việc Tăng vừa phát thì đứng dậy đi; ngay khi phát liền quay trở lại thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo không kính sợ người khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Thượng tòa nói phi pháp, phi thiện, không như lời Phật dạy; Hạ tòa nói: “Đây là phi pháp, phi thiện, không như lời Phật dạy”, thì không phạm. Nếu Hạ tòa nói là pháp, là thiện, như lời Phật dạy; Thượng tòa nói: “Đây là phi pháp, phi thiện, không như lời Phật dạy”, thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Tỳ-kheo quá ngọ có được uống rượu đắng không? Đáp: Nếu rượu không có mùi, không men, thanh tịnh thì được uống. Lại hỏi: Các loại nước ép từ củ, cánh, thân, lá, hoa, quả, Tỳ-kheo lúc nào được uống dùng? Đáp: Tùy thế lực của loại nước ép mà uống dùng. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo quá ngọ không bạch Tỳ-kheo khác mà vào tụ lạc, lại không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo cùng ở chung với Tỳ-kheo bị tẫn, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp ở chung với Tỳ-kheo thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo thọ pháp ở chung với Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc ở chung với người câm, người điếc, hoặc người câm điếc. Tỳ-kheo ở chung với những người như vậy, không bạch mà vào tụ lạc thì phạm Đột-kiết-la. Nếu bịnh hoặc bay đi thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo ở trong giới không ba- ïch Tỳ-kheo ở ngoài giới mà vào tụ lạc thì phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo ở ngoài giới không bạch Tỳ-kheo ở trong giới, hoặc ở dưới đất không bạch Tỳ-kheo ở trên, hoặc ở trên không bạch Tỳ-kheo ở dưới mà vào tụ lạc thì đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo ở trong giới hoặc đứng, ngồi, nằm không bạch Tỳ-kheo ở trong giới mà vào tụ lạc thì phạm Ba- dật-đề. Lại hỏi: Vào chỗ nào không bạch Tỳ-kheo khác thì không phạm Ba-dật-đề? Đáp: Nếu vào ba chỗ, đó là trú xứ Tăng, A-lan-nhã và Tăng phường ở gần tụ lạc thì không cần bạch. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ người thỉnh thực rồi, sau bữa ăn trước đi đến nhà khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, Trừ năm loại thức ăn, thọ thỉnh thức ăn khác là tịnh hay bất tịnh hay tinh bất tịnh lẫn lộn thì không phạm. Hoặc chỗ thỉnh thực không đủ thức ăn, đi đến nhà khác thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp vua dòng Sát-đế-lî quán đảnh, trời chưa sáng, chưa cất của bàu; Tỳ-kheo vào quá ngạch cửa cung mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo vào quá ngạch cửa cung của vua phi nhân như vua trời, vua rồng… thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo khi nghe thuyết giới nói rằng: “Nay tôi mới biết pháp này mỗi nữa tháng từ trong Giới kinh rút ra”, mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu khi Tỳ-kheo-ni tăng thuyết giơi, Tỳ-kheo nói lời này thì phạm Đột-kiết-la; ngược lại khi Tỳ-kheo tăng thuyết giới, Tỳ- kheo-ni nói lời này thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dùng xương, ngà, sừng làm ống kim mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu nhờ người làm cho người khác thì phạm Đột-kiết-la, nếu nhờ làm cho người khác mà cố ý lấy tự dùng thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo dồn Đâu la miên làm nệm, tự chứa hay bảo người chứa mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu nệm được dồn Đâu la miên này có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm y tắm mưa quá lượng mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu y tắm mưa này có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp mà quá lượng thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm y che phủ ghẻ quá lượng mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu y che phủ ghẻ này có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp mà quá lượng thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm Ni-sư-đàn quá lượng mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Nếu Ni-sư-đàn này có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp mà quá lượng thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo làm y bằng lượng y của Phật mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu y này có chiều dọc tịnh, chiều ngang bất tịnh hoặc chiều ngang tịnh, chiều dọc bất tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực và dệt tạp thì phạm Đột- kiết-la. Hỏi Về Pháp Diệt Tránh Lại hỏi: Nếu có tranh cãi xảy ra, Tỳ-kheo không tù dùng một trong bảy pháp diệt tránh để diệt tránh thì có được gọi là diệt tránh không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo muốn đến diệt tránh, việc chưa được quyết đoán liền qua đời thì việc này được gọi là diệt. Hoặc tự nói: “Tôi là Sa- di, dị đạo, không phải Tỳ-kheo; người bị tẫn về không thấy tội, không sám tội, không bỏ ác tà kiến và tội bất cọng trụ; người phạm các tội bất cọng trụ, phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế (người phá nội ngoại đạo), tặc trụ; người giết cha mẹ, A-la-hán, người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương” thì việc này được gọi là diệt. Hoặc Tỳ-kheo này siêng đọc tụng kinh, siêng làm việc phước, hoặc siêng xử đoán việc khác, hoặc đi xa, hoặc bịnh triền miên, hoặc đến nước khác không trở về thì việc này được gọi là diệt. Hoặc Tỳ-kheo khi mới bắt đầu diệt tránh liền qua đời, hoặc tự nói tôi là bạch y… cho đến câu đến nước khác không trở về thì việc này đều được gọi là diệt.  <卷>QUYỂN 54 ƯU BA LY VẤN PHÁP (Tiếp Theo) Hỏi Về Pháp Thọ Giới Lại hỏi: Khi Bạch tứ yết ma thọ giới, Tỳ-kheo không nói tên mấy việc thì không được gọi là thọ giới cụ túc? Đáp: Nếu không nói tên của bốn việc, đó là Hòa thượng, chúng tăng, người cầu thọ giới và yết ma thì không gọi là thọ giới cụ túc. Lại nữa, nếu không nói tên của ba việc, đó là chúng tăng, người cầu thọ giới và yết ma thì không gọi là thọ giới cụ túc. Lại nữa, nếu không nói tên của hai việc, đó là người cầu thọ giới và yết ma thì không gọi là thọ giới cụ túc. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo cho bốn người ở trong giới, cùng một lúc thọ giới cụ túc mà được gọi là thọ giới không? Đáp: Có, nếu ở bốn chỗ lần lượt dởi dục thì được Lại hỏi: Tỳ-kheo cho người ở cõi Câu-da-ni thọ giới, người này có được gọi là thọ giới không? Đáp: Được gọi là thọ giới, nhưng người cho thọ giới cụ túc thì phạm tội; cho người ở cõi Phất Bà-đề cũng vậy. Lại hỏi: Tỳ-kheo cho người ở cõi Uất đơn việt thọ giới, người này có được gọi là thọ giới không? Đáp: Không được, vì người ở cõi đó không có sở thuộc. Lại hỏi: Tỳ-kheo cho người trước đã phá giới thọ giới thì người này có đắc giới không? Đáp: Không đắcgiới. Cho người Tặc trụ thọ giới cũng không đắc giới. Lại hỏi: Tỳ-kheo cho người câm, người điếc, hoặc người câm điếc thọ giới thì người này có được gọi là thọ giới không? Đáp là không được. Lại hỏi: Nếu xếp đặt cho người câm, người điếc, hoặc người câm điếc vào trong túc số thọ giới thì có được gọi là thọ giới không?, đáp là không được. Lại hỏi: Nếu nuôi trẻ muốn cho xuất gia thì nên hỏi người mẹ nào? Đáp: Nên hỏi người mẹ nuôi dưỡng. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, nếu cha mẹ không cho phép thì không được độ cho xuất gia thọ giới, có trường hợp cha mẹ không cho phép mà vẫn được độ cho xuất gia thọ giới hay không? Đáp; có, nếu cha mẹ là súc sanh. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người giết cha mẹ không được cho xuất gia thọ giới, nếu đã cho xuất gia thọ giới thì nên diệt tẫn. Nếu người giết cha mẹ, Tỳ-kheo cho xuất gia thọ giới, người này có được gọi là thọ giới hay không? Đáp: Có, nếu cha mẹ là súc sanh. Lại nữa, nếu tưởng khác, nhân duyên khác mà giết cha mẹ thì người này được gọi là thọ giới, không nên tẫn. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, nếu cho người xuất gia phải hai lần bạch Tăng, đó là khi cạo tóc và khi xuất gia. Có trường hợp không có hai lần bạch Tăng mà vẫn cho xuất gia không? Đáp: Có, nếu người này có cha mẹ là súc sanh. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người làm ô nhục Tỳ-kheo-ni thì không được cho xuất gia thọ giới, nếu đã cho xuất gia thọ giới thì nên diệt tẫn. Nếu Tỳ-kheo cho người làm ô nhục Tỳ-kheo-ni xuất gia thọ giới thì người này có được thọ giới không? Đáp: Có, nếu tám người dùng tám việc làm ô nhục Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo gọi là bị làm ô nhục, nhưng tám người này không gọi là làm ô nhục Tỳ-kheo-ni. Lại nữa một người dùng tám việc làm ô nhục Tỳ- kheo-ni, Tỳ-kheo-ni gọi là bị làm ô nhục, nhưng người này không gọi là làm ô nhục Tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người Tặc trụ không được cho xuất gia thọ giới, nếu đã cho xuất gia thọ giới thì nên diệt tẫn. Sao gọi là Tặc trụ? Đáp: Nếu Tỳ-kheo ở trong bốn pháp Ba-la-di tùy phá một pháp nào, sau đó vào trong Tăng nghe Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, bố tát, tự tứ, yết ma cử mười bốn hạng người… thì gọi là Tặc trụ. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người việt tế (người phá nội ngoại đạo) không được cho xuất gia thọ giới, nếu đã cho xuất gia thọ giới thì nên diệt tẫn. Sao gọi là người việt tế? Đáp: Nếu Tỳ-kheo không xả giới của ngoại đạo, mang hình tướng ngoại đạo, nói pháp của ngoại đạo và thọ nghiệp của ngoại đạo. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người giết A-la-hán không được cho xuất gia thọ giới, nếu đã cho xuất gia thọ giới thì nên diệt tẫn. Nếu Tỳ- kheo cho người giết A-la-hán xuất gia thọ giới thì người này có được thọ giới không? Đáp: Có nếu người giết A-la-hán mà không phạm tội nghịch. Lại hỏi: Nếu người cầu thọ giới ở trong giới, người cho thọ giới ở ngoài giới; hoặc người cầu thọ giới ở ngoài giới, người cho thọ giới ở trong giới, hoặc người cầu thọ giới ở dưới đất, người cho thọ giới ở trên, hoặc người cầu thọ giới ở trên, người cho thọ giới ở dưới thì có được gọi là thọ giới không?, đáp là không được. Lại hỏi: Nếu người cầu thọ giới và người cho thọ giới đều ở trong giới thì có được gọi là thọ giới không? Đáp: Cả hai đều ở trong giới đứng hay ngồi đều được gọi là thọ giới. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ở dưới đất, một người trong túc số ở trên cao; hoặc các Tỳ-kheo ở trên cao, một người trong túc số ở dưới đất; hoặc các Tỳ-kheo ở trong giới, một người trong túc số ở ngoài giới; hoặc các Tỳ-kheo ở ngoài giới, một người trong túc số ở trong giới thì có được gọi là cho thọ giới hay không? Đáp: Không được, nếu các Tỳ-kheo và người trong túc số đều ở trong giới đứng hay ngồi cho thọ giới đều được gọi là cho thọ giới. Lại hỏi: Có một người ở trong bốn trú xứ, các Tỳ-kheo cho thọ giới có được gọi là thọ giới không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại, các Tỳ- kheo ở trong đó cho thọ giới thì được gọi là thọ giới. Lại hỏi: Có một người trong túc số ở trong bốn trú xứ cho thọ giới thì được gọi là cho thọ giới không? Đáp: Nếu để giường hay ván cây nối liền bốn giới lại, người trong túc số ở trong đó cho thọ giới thì được gọi là cho thọ giới. nói? Hỏi Về Pháp Bố Tát Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo ở trước chúng tăng gởi dục, ai nên cho Đáp: Các Tỳ-kheo tùy ý cho nói. Lại hỏi: Nếu Tăng phường ở gần tụ lạc thì phạm vi bao nhiêu gọi là không mất y? Đáp: Phạm vi bằng bên ngoài giới tụ lạc. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ở trong tụ lạc, trước không có Tăng phường, cất Tăng phường chưa kết giới thì phạm vi bao nhiêu gọi là giới? Đáp: Phạm vi bằng chỗ thông hành của giới tụ lạc. Lại hỏi: Ở nơi A-lan-nhã không có tụ lạc, Tỳ-kheo cất Tăng phường chưa có kết giới thì phạm vi bao nhiêu gọi là giới? Đáp: Phạm vi chừng một Câu-lô-xá, ở trong phạm vi này, các Tỳ-kheo nên ở một chỗ hòa hợp thuyết giới và tác pháp yết ma, không được bố tát riêng, yết ma riêng; nếu bố tát riêng, yết ma riêng thì tất cả Tỳ-kheo đều phạm tội. Lại hỏi: Người thuyết giới ở dưới đất, các Tỳ-kheo ở trên cao; hoặc người thuyết giới ở trên cao, các Tỳ-kheo ở dưới đất; hoặc người thuyết giới ở trong giới, các Tỳ-kheo ở ngoài giới; hoặc người thuyết giới ở ngoài giới, các Tỳ-kheo ở trong giới thì có được gọi là bố tát không? Đáp: Không được, nếu người thuyết giới và các Tỳ-kheo đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được gọi là bố tát. Lại hỏi: nếu đêm sắp qua hết, các Tỳ-kheo mới nhớ hôm nay là ngày bố tát thì các Tỳ-kheo có nên thuyết giới không? Đáp: Không nên, vì nếu có thuyết giới xong cũng không thành bố tát. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo thọ thanh tịnh của nguời khác rồi xuất giới thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: ai nên giáo thọ Tỳ-kheo-ni? Đáp: Cựu Tỳ-kheo. Lại hỏi: Nếu tăng bị phá làm hai bộ, Tỳ-kheo-ni nên đến bộ nào thỉnh giáo thọ? Đáp: Nên theo bộ nào nói như pháp, nếu không có người nói như pháp thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên ra ngoài giới giáo thọ Tỳ-kheo- ni. Lại hỏi: Khi các Tỳ-kheo xả giới thì giới không lìa y cũng xả hay không? Đáp là cũng xả. Lại hỏi: Nếu xả giới không lìa y thì đại giới cũng xả hay không?, đáp là không xả. Lại hỏi: Nếu giới trước không xả thì có được kết lại giới lớn hay nhỏ không? Đáp là không được. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo khi bố tát, nói Tựa giới, bốn pháp Ba-la-di cho đến bảy pháp diệt tránh thì tất cả Tăng có được gọi là thuyết giới bố tát không?, đáp là được. Lại hỏi: Như Phật dạy, có một trú xứ khi thuyết giới bố tát, các Tỳ-kheo, phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng, như pháp hòa hợp chúng. Sao gọi là phi pháp biệt chúng thuyết giới? Đáp: Các Tỳ-kheo chia làm hai bộ, không như pháp thuyết giới, việc nên nói thì không nói, người nên nói lại không nói. Đây gọi là phi pháp biệt chúng thuyết giới. Lại hỏi: Sao gọi là như pháp biệt chúng thuyết giới? Đáp: Các Tỳ-kheo chia làm hai bộ, như pháp thuyết giới, việc nên nói thì nói, người nên nói thì nói. Đây gọi là như pháp biệt chúng thuyết giới. Lại hỏi: Sao gọi là phi pháp hòa hợp chúng thuyết giới? Đáp: Các Tỳ-kheo nhất tâm hòa hợp nhưng không như pháp thuyết giới, việc nên nói thì không nói, người nên nói lại không nói. Đây gọi là phi pháp hòa hợp chúng thuyết giới. Lại hỏi: Sao gọi là như pháp hòa hợp chúng thuyết giới? Đáp: Các Tỳ-kheo nhất tâm hòa hợp ở một chỗ như pháp thuyết giới, việc nên nói thì nói. Người nên nói thì nói. Đây gọi là như pháp hòa hợp chúng thuyết giới. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, có một trú xứ các Tỳ-kheo không hiểu biết chút gì, giống như dê câm (nhu dương). Sao gọi là không hiểu biết chút gì giống như dê câm? Đáp: Các Tỳ-kheo không biết bố tát, không biết yết ma bố tát, không biết thuyết giới, không biết yết ma thuyết giới và không biết nhóm họp. Lại hỏi: Có trường hợp Tăng sự chưa xong, Tỳ-kheo đứng dậy bỏ đi mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu bỏ đi đại tiểu tiện hoặc không rời chỗ nghe. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người thọ dục qua đêm không nên cùng thuyết giới bố tát, trừ tăng chưa đứng dậy. Sao gọi là Tăng chưa đứng dậy? Đáp: Cho đến bốn người còn ngồi, chưa đứng dậy; ngược lại thì gọi là đứng dậy. Lại hỏi: Người điên cuồng, tâm loạn, tâm bịnh hoại ở trong túc số thuyết giới có được gọi là thuyết giới không? Đáp: Không được, nếu tăng chưa cho Tỳ-kheo yết ma cuồng si thì không nên lìA-tỳ-kheo này mà thuyết giới; nếu đã cho yết ma cuồng si rồi thì Tỳ-kheo này có mặt hay không có mặt, các Tỳ-kheo được tùy ý thuyết giới bố tát và tác pháp yết ma . Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ngồi dưới đất, người ở trong túc số ngồi trên cao thuyết giới; hoặc các Tỳ-kheo ngồi trên cao, người trong túc số thuyết giới ở dưới đất; hoặc các Tỳ-kheo ở trong giới, người trong túc số thuyết giới ở ngoài giới; hoặc các Tỳ-kheo ở ngoài giới, người trong túc số thuyết giới ở trong giới thì có được gọi là thuyết giới không? Đáp: không được, nếu các Tỳ-kheo và người trong túc số thuyết giới đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được gọi là thuyết giới. Lại hỏi: Người câm, người điếc, hoặc người câm điếc ở trong túc số thuyết giới có được gọi là thuyết giới không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp thuyết giới cho Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp thuyết giới cho Tỳ-kheo thọ pháp; hoặc Tỳ-kheo thọ pháp lấy túc số Tỳ-kheo không thọ pháp để thuyết giới, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp lấy túc số Tỳ-kheo thọ pháp để thuyết giới thì có được gọi là thuyết giới không?, đáp là không được. Lại hỏi: Có trường hợp một Tỳ-kheo thuyết giới cho bốn chỗ, được gọi là thuyết giới mà không phạm tội không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại, Tỳ-kheo ở trong đó đứng hay ngồi thuyết giới đều được. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo trong túc số ở bốn trú xứ thuyết giới, được gọi là thuyết giới mà không phạm tội không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại, Tỳ-kheo trong túc số ở trong đó đứng hay ngồi thuyết giới đều được gọi là thuyết giới mà không phạm. Hỏi Về Pháp Tự Tứ Hỏi: Có trường hợp còn mười ngày nữa mới đến tự tứ, Tỳ-kheo tự tứ được gọi là tự tứ mà không phạm tội không? Đáp: Có, nếu còn hai, ba, bốn ngày thúc ngày làm bố tát, Tỳ-kheo xuất giới đi, trong thời gian đó tự tứ thì không phạm. Lại hỏi: Có trường hợp chưa đến hậu tự tứ, Tỳ-kheo tự tứ mà không phạm tội không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo hậu an cư thọ pháp bảy ngày xuất giới, trong thời gian đó tự tứ; hoặc trong thời gian đó cựu Tỳ-kheo ít nên theo khách Tỳ-kheo tự tứ thì không phạm. Lại hỏi: Người tự tứ ở dưới đất, các Tỳ-kheo ở trên cao; hoặc người tự tứ ở trên cao, các Tỳ-kheo ở dưới đất; hoặc người tự tứ ở trong giới, các Tỳ-kheo ở ngoài giới; hoặc người tự tứ ở ngoài giới, các Tỳ- kheo ở trong giới thì có được gọi là tự tứ không? Đáp: Không được, nếu người tự tứ và các Tỳ-kheo đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được gọi là tự tứ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ngồi dưới đất, người ở trong túc số ngồi trên cao tự tứ; hoặc các Tỳ-kheo ngồi trên cao, người trong túc số tự tứ ở dưới đất; hoặc các Tỳ-kheo ở trong giới, người trong túc số tự tứ ở ngoài giới; hoặc các Tỳ-kheo ở ngoài giới, người trong túc số tự tứ ở trong giới thì có được gọi là tự tứ không? Đáp: không được, nếu các Tỳ-kheo và người trong túc số tự tứ đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được gọi là tự tứ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ngăn Tỳ-kheo câm, người điếc, hoặc người câm điếc tự tứ thì có được ngăn không? Đáp: Không được ngăn. Lại hỏi: Người câm, người điếc, hoặc người câm điếc ngăn các Tỳ-kheo tự tứ thì có được ngăn không? Đáp: Không được ngăn. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, khi tự tứ không nên đi, có Tỳ-kheo có trú xứ, có Tỳ-kheo không có trú xứ, có Tỳ-kheo có trú xứ và không có trú xứ. Có trường hợp Tỳ-kheo khi tự tứ đi đến 3 chỗ này mà không phạm tội không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo an cư nghe tin Tỳ-kheo kia sắp đến đấu tranh tránh loạn Tỳ-kheo nơi này tự tứ, liền nghó: “Ta không muốn nghe biết đến việc đấu tranh tránh loạn này”, nghó rồi liền đi đến chỗ có Tỳ- kheo có trú xứ, có Tỳ-kheo không có trú xứ, có Tỳ-kheo có trú xứ và không có trú xứ thì không phạm. Nếu có Tỳ-kheo bịnh ngăn Tỳ-kheo không bịnh tứ tứ, Tăng nên nói với Tỳ-kheo bịnh: “Trưởng lão bịnh chớ ngăn Tỳ-kheo không bịh tự tứ, vì sao, vì người bịnh ít an ổn”. Nếu có Tỳ-kheo không bịnh ngăn Tỳ-kheo bịnh tự tứ thì Tăng nên nói với Tỳ-kheo không bịnh: “Trưởng lão chớ ngăn Tỳ-kheo bịnh tự tứ, vì sao, vì người bịnh ít an ổn”. Nếu có Tỳ-kheo bịnh sai sứ ngăn Tỳ-kheo không bịnh tự tứ, Tăng nên nói với sứ rằng: “Trưởng lão chớ nghe lời của tỳ-kheo bịnh ngăn Tỳ-kheo không bịnh tự tứ, vì sao, vì người bịnh ít an ổn”, sứ giả này nên đến bên người bịnh nói: “Trưởng lão, Tăng dạy bảo thầy bịnh chớ ngăn Tỳ-kheo không bịnh tự tứ, vì sao, vì người bịnh ít an ổn”, nếu người bịnh nói hãy ngăn giùm thì Tỳ-kheo bịnh này phạm Đột-kiết-la, nếu sứ giả nghe lời người bịnh ngăn Tỳ-kheo không bịnh tự tứ thì sứ giả này phạm Đột- kiết-la. Tỳ-kheo không bịnh sai sứ ngăn Tỳ-kheo bịnh tự tứ cũng giống như vậy. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, có một trú xứ khi tự tứ biết việc mà không biết người. Sao gọi là việc, sao gọi là người? Đáp: Việc là chỉ cho tội, tội nhân nơi duyên mà khởi; người là chỉ cho người phạm tội. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, Tỳ-kheo thanh tịnh được ở chung với Tỳ-kheo đồng kiến. Sao gọi là đồng kiến? Đáp: Các Tỳ-kheo thấy tội Ba-la-di rồi, như điều đã thấy mà nói; cho đến thấy tội Tăng-già-bà-thi-sa, tội Ba-dật-đề, tội Ba-la-đề-đề-xá- ni, tội Đột-kiết-la đều như điều đã thấy mà nói. Đó gọi là đồng kiến. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ngăn Tỳ-kheo khác tự tứ hoặc Tỳ-kheo-ni ngăn Tỳ-kheo-ni khác tự tứ mà không thành ngăn không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ngăn Tỳ-kheo khác tự tứ, Tỳ-kheo kia chuyển căn thì ngăn Tỳ-kheo-ni tự tứ không thành ngăn; Tỳ-kheo ngăn Tỳ-kheo khác tự tứ mà tự mình chuyển căn, thì Tỳ-kheo-ni ngăn Tỳ- kheo tự tứ không thành ngăn. Nếu Tỳ-kheo-ni ngăn Tỳ-kheo-ni khác tự tứ, Tỳ-kheo-ni kia chuyển căn thì ngăn Tỳ-kheo tự tứ không thành ngăn; Tỳ-kheo-ni ngăn Tỳ-kheo-ni khác tự tứ mà tự mình chuyển căn, thì Tỳ-kheo ngăn Tỳ-kheo-ni tự tứ không thành ngăn. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp cùng tự tứ với Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp cùng tự tứ với Tỳ-kheo thọ pháp thì được gọi là tự tứ không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp lấy túc số Tỳ-kheo không thọ pháp để tự tứ, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp lấy túc số Tỳ-kheo thọ pháp để tự tứ, thì có được tự tứ không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo lấy túc số người câm, người điếc, hoặc người câm điếc để tự tứ thì có được tự tứ không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Có bốn trú xứ ở trong giới cùng một lúc tự tứ thì được gọi là tự tứ không? Đáp: Nếu lần lượt gởi dục thì được. Lại hỏi: Một Tỳ-kheo ở bốn trú xứ tự tứ, được gọi là tự tứ mà không phạm tội không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại thì được . Hỏi Về Pháp An Cư Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo an cư, sanh tâm nghi hối không biết có đắc an cư không thì người này có được gọi là an cư không? Đáp là được. Lại hỏi: Người này được chia y an cư không? Đáp: Được chia. Lại hỏi: Nếu Ưu-bà-di muốn xuất gia, sai sứ đến bạch Tỳ-kheo: “Đại đức hãy đến, tôi muốn xuất gia”, Tỳ-kheo này có nên phá an cư đi đến không?, đáp là nên đi Lại hỏi: Có Tỳ-kheo-ni trong hạ an cư nên cho Ức niệm Tỳ-ni, Bất si Tỳ-ni, sai sứ đến bạch Tỳ-kheo: “Đại đức hãy đến để Tăng cho con Ức niệm Tỳ-ni, Bất si Tỳ-ni”, Tỳ-kheo này có nên phá an cư đi đến không? Đáp là nên đi. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo ở giữa đường nghe tin Tỳ-kheo-ni này qua đời hoặc phản giới hoàn tục, hoặc vào ngoại đạo, hoặc một trong tám nạn xảy ra thì có nên đi đến đó không? Đáp: Không nên đi. Lại hỏi: Nếu đi đến đó thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Đột-kiết-la Lại hỏi: Ba tháng hạ chưa hết, các Tỳ-kheo tẫn Tỳ-kheo thì người này có nên tẫn không? Đáp là nên tẫn. Lại hỏi: Có nên chia cho y an cư không? Đáp: Không nên chia. Lại nữa, nếu Tỳ-kheo còn bảy ngày nữa tự tứ, thọ pháp đêm xuất giới đi thì không tội; hoặc còn sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày nữa tự tứ, thọ pháp đêm xuất giới đi thì không tội. Lại hỏi: Tỳ-kheo an cư có mấy tự thệ? Đáp: Có năm, đó là bất tự thệ, y tự thệ, thời tự thệ, an cư tự thệ và ngữ tự thệ. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo ở trong phòng kia, y cũng ở trong phòng kia mà gọi là phá an cư, cũng gọi là lìa y ngủ đêm và cũng gọi là hoại tự thệ hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo hậu an cư, một mình vào phòng để ba y trên giường hoặc trên giá y, không thọ pháp bảy ngày mà bay lên ở trên cao cho đến sáng. Đó gọi là phá an cư, cũng gọi là lìa y ngủ đêm, cũng gọi là trái tự thệ, Lại hỏi: Các Tỳ-kheo của nhiều trú xứ cùng an cư trong một giới, tự tứ xong liền xả đại giới này, mỗi nơi kết lại lấy vách chùa mình làm giới. Đàn việt thí y vật an cư, Hiện tiền tăng nên chia thì y vật thí này nên thuộc về ai? Đáp: Tuy xả đại giới nhưng y vật vẫn thuộc về Tăng an cư trong đại giới cũ. Lại hỏi: Nên chia như thế nào? Đáp: Nên theo thứ lớp chia đều, phần thứ tư nên chia cho Sa-di . Lại hỏi: Có trường hợp một Tỳ-kheo an cư trong bốn trú xứ cũng được gọi là an cư không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại, Tỳ-kheo ở trong đó an cư thì được gọi là an cư Lại hỏi: Chỗ nào nên cho Tỳ-kheo này y vật thí an cư ? Đáp: Cả bốn chỗ họp lại chia cho một phần. Lại hỏi: Tỳ-kheo ở giữa hư không an cư, có được gọi là an cư không? Đáp: Không được, vì hư không không có giới nên tất cả Tăng sự và các pháp yết ma làm đều không thành. Lại hỏi: Tỳ-kheo an cư trên thuyền bè có được gọi là an cư không? Đáp: Nếu thuyền bè ở trên nước hay dưới nước thì không được, phải neo thuyền lại một chỗ mới được an cư. Lại hỏi: Tỳ-kheo này nên ở chỗ nào chia cho phần y vật an cư? Đáp: Tùy an cư ở trên thuyền bè nào thì chỗ đó nên chia y vật an cư. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo không tiền an cư, không hậu an cư thì gọi là người thế nào? Đáp: Là người phá an cư, không có sở đắc gì. Hỏi Về Pháp Dược Lại hỏi: Tỳ-kheo để tô, dầu trong rượu thì có được uống dùng không? Đáp: Nếu bịnh thì được uống, không bịnh thì không được uống. Lại nữa, ngay ngày nay thọ bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trước giờ ngọ nên dùng, vì hiệu lực của thời dược là quá ngọ không được dùng. Nếu ngay ngày nay thọ thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trong thời phần nên dùng, vì hiệu lực của thời phần dược là quá thời phần thì không được dùng. Nếu ngay ngày nay thọ thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trong vòng bảy ngày nên dùng, vì hiệu lực của thất nhật dược là quá bảy ngày thì không được dùng. Nếu là tận hình dược thì trọn đời được tùy ý lấy dùng. Lại hỏi: Bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược để cách đêm có được thọ dùng không?, đáp là không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo nếu tự lấy trước rồi mới theo tịnh nhân thọ thì có được dùng không?, đáp là không được. Lại hỏi: Bốn loại dược này nếu tay thọ, miệng thọ, Tỳ-kheo không bịnh có được dùng không? Đáp: Không được dùng, nếu bịnh thì được dùng. Lại hỏi: Nếu lửa ở tịnh địa, người tác tịnh ở bất tịnh địa; hoặc lửa ở bất tịnh địa, người tác tịnh ở bất tịnh địa; hoặc lửa ở bất tịnh địa, người tác tịnh ở tịnh địa lấy lửa hay ngọn lửa hay than hay tro than tác tịnh thì có được tịnh không và được ăn không? Đáp: Được tịnh nhưng không được ăn. Lại hỏi: Nếu lửa ở bất tịnh địa, người tác tịnh ở trên cao lấy lửa hay ngọn lửa hay tro than tác tịnh thì có được tịnh và được ăn không? Đáp: Được tịnh nhưng không được ăn; nếu lấy tro nóng rưới lên hoặc lấy ngọn lửa ném để làm tịnh thì được tịnh và được ăn. Lại hỏi: Nếu lửa ở tịnh địa, người tác tịnh ở tịnh địa lấy ngọn lửa hay than hay tro than làm tịnh thì có được tịnh và được ăn không? Đáp: Được tịnh nhưng không được ăn, nếu lấy tắt lửa làm tịnh thì được tịnh và được ăn. Lại hỏi: Nếu lửa ở tịnh địa, người tác tịnh ở trên cao lấy lửa hay tro than làm tịnh thì có được tịnh và được ăn không? Đáp: Được tịnh nhưng không được ăn, nếu lấy ngọn lửa ném hay tắt ngọn lửa hay rưới tro nóng lên để làm tịnh thì được tịnh và được ăn. Lại hỏi: Nếu lửa ở tịnh địa, ba hòn đá ở bất tịnh địa; hoặc môt hòn đá ở tịnh địa, hai hòn đá kia ở bất tịnh địa; hoặc hai hòn đá ở tịnh địa, môt hòn đá kia ở bất tịnh địa thì ở trong đó nấu thức ăn, có được ăn không? Đáp: Không được ăn, nếu lửa ở bất tịnh địa, ba hòn đá ở tịnh địa, ở trong đó nấu và lấy tắt lửa làm tịnh thì được ăn. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo tự lấy lửa hay dao hay móng tay làm tịnh thì có được tịnh và được ăn không? Đáp: Được tịnh, trừ lấy lửa làm tịnh, các cách làm tịnh khác đều được ăn. Nếu Tỳ-kheo lấy lửa làm tịnh thì người này không được ăn, các Tỳ-kheo khác cũng không được ăn. Lại hỏi: Trái cây ở bất tịnh địa, người tác tịnh ở tịnh địa; hoặc trái cây ở tịnh địa, người tác tịnh ở bất tịnh địa; nếu dùng dao, lửa hay móng tay làm tịnh thì có được tịnh và được ăn không? Đáp: Được tịnh nhưng không được ăn . Lại hỏi: Nếu để tô, dầu vào trong rượu nấu thì có được thọ dùng không? Đáp: Nếu lìa mùi rượu thì được thọ dùng. Lại hỏi: Sữa voi, lạc, tô có được uống không? Đáp: Được uống. Lại hỏi: Tám loại nước uống phi thời có được uống không? Đáp: Nếu không có mùi vị rượu, không có thức ăn, thanh tịnh thì được uống. Lại hỏi: Thức ăn của trời quá ngọ có được ăn và có được thọ pháp bảy ngày không? Đáp: Được ăn và được thọ pháp bảy ngày. Hỏi Về Pháp Y Lại hỏi: Người bị tẫn có được yết ma chia y không? Đáp: Người không bị tẫn được chia. Lại hỏi: Nên chia y như thế nào? Đáp: Nên chia làm ba, đó là phần tự thọ, phần triển chuyển chia và phần bỏ thẻ để rút thăm. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo đến cư só, vợ cư só không phải bà con xin y mà không phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề không? Đáp: Trừ y ở phòng riêng, y thí trong nhà bạch y và y an cư; nếu đến người xuất gia không phải bà con xin y thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Đưa y cho một người mà bốn người đồng ý lấy thì có được lấy không? Đáp: Không được lấy; nhưng nếu đưa y cho bốn người, một người đồng ý lấy thì được lấy. Lại hỏi: Giá tiền y có được lấy không? Đáp: Không được lấy. Lại hỏi: Nếu chuyển tiền này để làm y bát và những tịnh vật khác thì có được thọ không? Đáp: Được thọ. Lại hỏi: Có trường hợp y thí cho Tăng, Tỳ-kheo tự lấy đem về cho mình lại được phước mà không tội không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo ở một mình một chỗ, trong đó được y thí Tăng, Tỳ-kheo khác không đến, mình tự lấy dùng thì được phước mà không tội. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác là thí y vật cho Tăng, nói xong liền qua đời thì vật thí cho tăng này có nên dùng yết ma để chia không?, đáp là không nên. Lại hỏi: Nên chia y như thế nào? Đáp: Nên chia làm ba, đó là phần tự thọ, phần triển chuyển chia và phần bỏ thẻ để rút thăm, vì sao, vì y vật thí này không thuộc Hiện tiền tăng. Lại hỏi: Tỳ-kheo an cư bị tẫn có được chia y không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo bị điếc như thế nào gọi là được y? Đáp: Nếu khi thấy cho y mà tôi cũng được phần. Lại hỏi: Tỳ-kheo mù như thế nào gọi là được y? Đáp: Để y vào tay hay để trên đầu gối, tâm nghó là tôi được y. Lại hỏi: Nên chia y cho Sa-di như thế nào? Đáp: Cho một phần trong các phần của tỳ-kheo . Hỏi Về Pháp Y Ca-Hi-Na Lại hỏi: Tỳ-kheo không tuổi hạ cho đến dữ học Sa-di (Sa-di học hối), người bị tẫn, người hành Biệt trụ làm y thọ làm y Ca-hi-na có được gọi là thọ không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo như pháp làm y hoặc nạp y đúng lượng thì có được thọ làm y Ca-hi-na không? Đáp: Được. Lại hỏi: Thọ y Ca-hi-na có mấy lợi ích? Đáp: Có chín lợi ích, đó là được đến mười đêm, sáu đêm, một đêm không có nhân duyên được cất giữ y Tăng-già-lê, không Có năm nhân duyên được cất giữ y tắm mưa, được thường thường ăn, đươc ăn biệt chúng và hai thời không bạch được vào tụ lạc. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thuộc nhiều Tăng phường cùng kết chung một giới để an cư, thì đều được an cư không? Đáp: Được an cư. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo nên ở chỗ nào? Đáp: Tùy ý ở Lại hỏi: Nên ở đâu tự tứ? Đáp: Tùy ý tự tứ. Lại hỏi: Ở chỗ nào gọi là an cư xong? Đáp: Tùy ý ở chỗ nào cho đến sáng. Lại hỏi: Ở chỗ nào nên cho y vật an cư? Đáp: Tùy ở chỗ nào tự tứ thì ở chỗ đó cho y vật an cư. Lại nữa, tùy chỗ nào an cư nhiều ngày thì ở chỗ đó nên cho. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thuộc nhiều Tăng phường cùng an cư trong một giới, sau khi tự tứ xong liền thọ y Ca-hi-na, thì các Tỳ-kheo này đều được thọ y Ca-hi-na không? Đáp; đều được thọ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thuộc nhiều Tăng phường cùng an cư trong một giới, sau khi tự tứ xong liền thọ y Ca-hi-na, thọ rồi liền xả đại giới này, thì các Tỳ-kheo này đều được thọ y Ca-hi-na không?, đáp là đều được thọ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thuộc nhiều Tăng phường cùng an cư trong một giới, sau khi tự tứ xong liền thọ y Ca-hi-na, thọ rồi liền xả đại giới, xả đại giới rồi sau đó xả y Ca-hi-na, thì các Tỳ-kheo này đều được xả y Ca-hi-na không? Đáp: Tùy người nào xả thì xả, người nào không xả thì không xả. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo an cư xong, cùng nhiều Tăng phường kết chung một giới để thọ y Ca-hi-na, thì các Tỳ-kheo này đều được thọ y Ca-hi-na không? Đáp: Đều được thọ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo an cư xong, cùng nhiều Tăng phường kết chung một giới để thọ y Ca-hi-na, thọ rồi sau đó xả đại giới này, thì các Tỳ-kheo này đều được thọ y Ca-hi-na không?, đáp là đều được thọ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo an cư xong, cùng nhiều Tăng phường kết chung một giới để thọ y Ca-hi-na, thọ rồi sau đó xả đại giới, xả giới rồi sau đó xả y Ca-hi-na, thì các Tỳ-kheo này đều được xả y Ca-hi-na không? Đáp: Tùy người nào xả thì xả, người nào không xả thì không xả. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo thọ đàn việt thỉnh thực, sau bữa ăn trước đi đến nhà khác mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu chỗ thỉnh thực này ở bên ngõ hẽm, chợ búa. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thuộc bến bên Tăng phường, hoặc tám, chín, mười hoặc nhiều hơn cùng kết chung một giới để an cư, thì các Tỳ-kheo này đều được an cư không? Đáp: Được an cư. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo nên ở chỗ nào? Đáp: Tùy ý ở Lại hỏi: Nên ở đâu tự tứ? Đáp: Tùy ý tự tứ. Lại hỏi: Ở chỗ nào gọi là an cư xong? Đáp: Tùy ý ở chỗ nào cho đến sáng. Lại hỏi: Ở chỗ nào nên cho y vật an cư? Đáp: Tùy ở chỗ nào tự tứ thì ở chỗ đó cho y vật an cư. Lại nữa, tùy chỗ nào an cư nhiều ngày thì ở chỗ đó nên cho. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thuộc bến bên Tăng phường, hoặc tám, chín, mười hoặc nhiều hơn, cùng kết chung một giới an cư, sau khi tự tứ xong liền thọ y Ca-hi-na, thì các Tỳ-kheo này đều được thọ y Ca-hi-na không?, đáp là được thọ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thuộc bến bên Tăng phường, hoặc tám, chín, mười hoặc nhiều hơn, cùng kết chung một giới an cư, sau khi tự tứ xong liền thọ y Ca-hi-na, thọ xong liền xả đại giới này, sau đó lại xả y Ca-hi-na, thì các Tỳ-kheo này đều được xả không? Đáp: Tùy người nào xả thì xả, người nào không xả thì không xả. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo an cư xong, cùng bến bên Tăng phường hoặc tám, chín, mười hoặc nhiều hơn, kết chung một giới để thọ y Ca- hi-na, thì các Tỳ-kheo này đều được thọ y Ca-hi-na không? Đáp là đều được thọ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo an cư xong, cùng bến bên Tăng phường hoặc tám, chín, mười hoặc nhiều hơn, kết chung một giới để thọ y Ca- hi-na, thọ rồi liền xả đại giới này, thì các Tỳ-kheo này đều được thọ y Ca-hi-na không?, đáp là đều được thọ. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo an cư xong, cùng bến bên Tăng phường hoặc tám, chín, mười hoặc nhiều hơn, kết chung một giới để thọ y Ca- hi-na, thọ rồi liền xả đại giới này, sau đó xả y Ca-hi-na, thì các Tỳ-kheo này đều được thọ y Ca-hi-na không? Đáp: Tùy người nào xả thì xả, người nào không xả thì không xả. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na nhằm tháng nhuần, khi nào xả y Ca-hi-na? Đáp: Tính theo số ngày an cư. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na đã làm vào ngày mười bốn, các khách Tỳ-kheo đến làm ngày mười năm. Nếu cựu Tỳ-kheo thao khách Tỳ-kheo lấy ngày này làm bố tát, ngày đó được y vật thí thì nên thuộc về ai? Đáp: Thuộc về tất cả. Lại hỏi: Nên chia như thế nào? Đáp: Nên chia đồng đều, phần thứ tư cho Sa-di. Lại hỏi: Cựu Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na rồi xuất giới, Tỳ-kheo khách đến xả y Ca-hi-na, nếu ngày nay được vật thì thì nên thuộc về ai? Đáp: Thuộc về Tỳ-kheo an cư hoặc thuộc về Tỳ-kheo hiện tiền. Lại hỏi: Người nào thuộc về Tỳ-kheo an cư, người nào thuộc về Tỳ- kheo hiện tiền? Đáp: Nếu vào tháng cuối mùa hạ được vật thí thì thuộc về Tỳ- kheo an cư, nếu vào thời khác thì thuộc về Tỳ-kheo hiện tiền. Lại hỏi: Sau khi thọ y Ca-hi-na,Tăng chia làm hai bộ thì tất cả chúng tăng này có được gọi là thọ y Ca-hi-na không? Đáp: Tất cả được thọ. Lại hỏi: Sau khi thọ y Ca-hi-na, Tăng chia làm hai bộ, một bộ xả y Ca-hi-na thì y Ca-hi-na này có được gọi là xả không? Đáp: Nếu xả như pháp thì gọi là xả, xả không như pháp thì không gọi là xả. Lại hỏi: Y bất tịnh thọ làm y Ca-hi-na có được gọi là thọ không?, đáp là không được. Lại hỏi: Người hậu an cư có được thọ y Ca-hi-na không? Đáp là không được. Lại hỏi: Trú xứ thọ y Ca-hi-na được vật thì, có trường hợp Tỳ- kheo ở một chỗ này tự tứ được chia không? Đáp: Có, nếu vào tháng cuối mùa hạ thọ y Ca-hi-na, ngay tháng cuối hạ này xả, Tỳ-kheo ở trong đó được vật thí thì được chia. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, cho đến ở chỗ nghe được cũng gọi là xả y Ca-hi-na, sao gọi là chỗ nghe được? Đáp: Nếu Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na ở ngoài giới, nghe tiếng Tăng xả y Ca-hi-na thì củng gọi là xả y Ca-hi-na. Hỏi Về Pháp Câu-Xá-Di Lại hỏi: Nếu tăng bị phá làm hai bộ, Tỳ-kheo-ni nên đến bộ nào thỉnh giáo thọ? Đáp: Nên theo bộ nào nói như pháp, nếu không có người nói như pháp thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên ra ngoài giới giáo thọ Tỳ-kheo- ni. Lại hỏi: Tỳ-kheo Câu-xá-di và Tỳ-kheo Tỳ-da-ly xả giới, có được gọi là xả không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo Tỳ-da-ly và Tỳ-kheo Câu-xá-di xả giới, có đuợc gọi là xả không?, đáp là không được. Lại hỏi: Chỗ Tỳ-kheo Câu-xá-di bố tát, hai bộ họp chung một chỗ, Tỳ-kheo làm Thác lại tra làm sao bố tát? Đáp: Nên xuất giới làm bố tát. Lại hỏi: Nếu đàn việt nắm tay Thượng tòa nói là thí vật cho Tăng, thì vật thì này nên thuộc về ai? Đáp: Bộ nào làm Thượng tòa thì bộ đó được vật thí. Lại hỏi: Nếu đàn việt nắm tay đệ nhất Thượng tòa, đệ nhị Thượng tòa nói là thí vật cho Tăng, thì vật thì này nên thuộc về ai? Đáp: Nếu hai Thượng tòa này ở chung trong một bộ thì vật thí thuộc về một bộ; nếu hai Thượng tòa ở trong hai bộ thì vật thí thuộc về cả hai bộ. Lại hỏi: Nên chia như thế nào? Đáp: Nên chia đồng đều, phần thứ tư cho Sa-di. Lại hỏi: Nếu Tăng sắp bị phá, người biết pháp theo thứ lớp trải giường độc tọa, ở giữa chừa một chỗ ngồi, Tỳ-kheo ngồi trong đó nên tác tăng pháp yết ma, cũng nên giáo thọ Tỳ-kheo-ni, trong đây như thế nào gọi là thành pháp? Đáp: Nếu hai bộ tùy thuận, Tỳ-kheo làm Thác lại tra cùng hòa hợp. Hỏi Về Pháp Chiêm-Ba Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo ngủ, Tăng làm pháp tẫn, có được gọi là tẫn không? Đáp: Nếu nghe bạch rồi ngủ thì được gọi là tẫn. Lại hỏi: Nếu chúng tăng ngủ khi tác pháp tẫn một Tỳ-kheo thì Tỳ- kheo này có được gọi là tẫn không? Đáp: Nếu nghe bạch rồi ngủ thì được gọi là tẫn. Lại hỏi: Nếu khi nói lộn xộn ồn ào mà tác pháp tẫn, thì Tỳ-kheo này có được gọi là tẫn không? Đáp: Cho đến có bốn Tỳ-kheo nghe tiếng bạch, thì được gọi là tẫn. Lại hỏi: Tỳ-kheo tặc trụ tác pháp tẫn Tỳ-kheo, người phạm Bất cọng trụ, người hành Biệt trú, người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại xếp vào trong Túc số để tác pháp tẫn Tỳ-kheo thì có được gọi là tẫn không? Đáp: Không được, nếu tăng chưa cho Tỳ-kheo yết ma cuồng si thì không nên lìA-tỳ-kheo này mà làm bố tát và các pháp yết ma; nếu đã cho yết ma cuồng si rồi thì Tỳ-kheo này có mặt hay không có mặt, các Tỳ-kheo được tùy ý làm bố tát và tác pháp yết ma. Lại hỏi: Có trường hợp Tăng sự chưa xong, Tỳ-kheo đứng dậy bỏ đi mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu bỏ đi đại tiểu tiện hoặc không rời chỗ nghe. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, Tỳ-kheo không hiện tiền thì không nên tác pháp yết ma, nếu tác pháp yết ma thì các Tỳ-kheo phạm tội. Có trường hợp Tỳ-kheo không hiện tiền tác pháp yết ma mà không phạm không? Đáp: Có, nếu Ni tăng vì Tỳ-kheo không hiện tiền tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, không tự thú thì không nên tác pháp yết ma, có trường hợp Tỳ-kheo không tự thú, tác pháp yết ma mà không phạm không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo không tự thú, Ni tăng sẽ tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường. Lại hỏi: Người tác pháp ở dưới đất, các Tỳ-kheo ở trên cao; hoặc người tác pháp ở trên cao, các Tỳ-kheo ở dưới đất; hoặc người tác pháp ở trong giới, các Tỳ-kheo ở ngoài giới; hoặc người tác pháp ở ngoài giới, các Tỳ-kheo ở trong giới thì có được gọi là tác pháp yết ma không? Đáp: Không được, nếu người tác pháp và các Tỳ-kheo đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được gọi là tác pháp yết ma. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp tác pháp cho Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp tác pháp cho Tỳ-kheo thọ pháp thì có được gọi là tác pháp yết ma không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp lấy túc số Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp lấy túc số Tỳ-kheo thọ pháp để tác pháp yết ma thì có được gọi là tác pháp yết ma không?, đáp là không được. Lại hỏi: Có trường hợp ở trong giới của bốn trú xứ cùng một lúc tác pháp yết ma mà không phạm không? Đáp: Có, nếu ở bốn chỗ lần lượt gởi dục thì được. Lại hỏi: Có trường hợp một Tỳ-kheo ở trong bốn trú xứ tác pháp yết ma mà không phạm không? Đáp: Có, nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại. Lại hỏi: Có trường hợp một Tỳ-kheo xếp trong Túc số ở trong bốn trú xứ tác pháp yết ma mà không phạm không? Đáp: Có, nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại. Hỏi Về Các Pháp Yết Ma Trị Phạt Lại hỏi: Các Tỳ-kheo tác pháp yết ma tẫn một Tỳ-kheo, các Tỳ- kheo lại xả yết ma này, thì có được gọi là xả không? Đáp: Được xả, nhưng các Tỳ-kheo phạm tội. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ở dưới đất, Tỳ-kheo bị tẫn ở trên cao; hoặc các Tỳ-kheo ở trên cao, Tỳ-kheo bị tẫn ở dưới đất; hoặc các Tỳ-kheo ở trong giới, Tỳ-kheo bị tẫn ở ngoài giới; hoặc các Tỳ-kheo ở ngoài giới, Tỳ-kheo bị tẫn ở trong giới thì có được gọi là giải yết ma bị tẫn không? Đáp: Không được, nếu các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo bị tẫn đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được gọi là giải yết ma bị tẫn, nhưng các Tỳ- kheo phạm tội. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo ở trong trú xứ không có Tỳ-kheo phạm Tăng- già-bà-thi-sa, không được phát lồ thì có gọi là che giấu tội không? Đáp: Không gọi là che giấu. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, trải qua một ngày không phát lồ với Tỳ-kheo cùng ở chung, xuất giới đi cho đến sáng hôm sau thì có phạm tội phú tàng không? Đáp: Không gọi là che giấu. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không đến nói với Tỳ-kheo tặc trụ, Tỳ-kheo bị tẫn, người hành Biệt trú, người phạm Bất cọng trụ, người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì có gọi là che giấu không? Đáp: Không gọi là che giấu. Lại hỏi: Nếu không đến nói với người cùng ở chung là người câm, người điếc, hoặc người câm điếc hoặc người biên địa thì có gọi là che giấu không? Đáp: Không gọi là che giấu vì người câm không nói được, người điếc không nghe được, người câm điếc thì không hiểu được, người biên địa không hiểu ngôn ngữ trong nước. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo đến nói với Tỳ-kheo-ni, cho đến Thức-xoa- ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thì có được gọi là phát lồ không? Đáp: Không gọi là phát lồ. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo đến hỏi Tỳ-kheo khác: “Nếu làm tội như vậy như vậy thì phạm tội gì, trị như thế nào”, không tự nói tội đã làm thì có gọi là phát lồ không? Đáp: Không gọi là phát lồ Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo tùy che giấu tội, không hành biệt trụ, không hành Ma-na-đỏa; các Tỳ-kheo lại cho yết ma Xuất tội thì Tỳ-kheo này có được gọi là xuất tội hay không? Đáp: Được gọi là xuất tội, nhưng các Tỳ-kheo phạm tội. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo tùy che giấu tội, hành biệt trụ, không hành Ma-na-đỏa; các Tỳ-kheo lại cho yết ma Xuất tội thì Tỳ-kheo này có được gọi là xuất tội hay không? Đáp: Được gọi là xuất tội, nhưng các Tỳ-kheo phạm tội. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo tùy che giấu tội, hành biệt trụ, hành Ma-na- đỏa; các Tỳ-kheo liền cho yết ma Xuất tội thì Tỳ-kheo này có được gọi là xuất tội hay không? Đáp: Được gọi là xuất tội, các Tỳ-kheo không phạm. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo tùy che giấu tội, hành sáu đêm Ma-na-đỏa; các Tỳ-kheo lại cho yết ma Xuất tội thì Tỳ-kheo này có được gọi là xuất tội hay không? Đáp: Được gọi là xuất tội, nhưng các Tỳ-kheo phạm tội. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo không che giấu tội, hành sáu đêm Ma-na- đỏa; các Tỳ-kheo liền cho yết ma Xuất tội thì Tỳ-kheo này có được gọi là xuất tội hay không? Đáp: Được gọi là xuất tội, các Tỳ-kheo không phạm. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ở dưới đất, Tỳ-kheo phạm tội ở trên cao; hoặc các Tỳ-kheo ở trên cao, Tỳ-kheo phạm tội ở dưới đất; hoặc các Tỳ-kheo ở trong giới, Tỳ-kheo phạm tội ở ngoài giới; hoặc các Tỳ-kheo ở ngoài giới, Tỳ-kheo phạm tội ở trong giới thì có được gọi là xuất tội không? Đáp: Không được, nếu các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo phạm tội đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được gọi là xuất tội.  <卷>QUYỂN 55 ƯU BA LY VẤN PHÁP (Tiếp Theo) Hỏi Về Pháp Thuận Hành Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo là người hành Biệt trú, cũng là người hành Biệt trú xong, cũng là người hành Ma-na-đỏa, cũng là người hành Ma-na-đỏa xong hay không? Đáp: Có, như Tỳ-kheo xuất tinh phạm Tăng-già-bà-thi-sa không che giấu, theo Tăng xin hành sáu đêm Ma-na-đỏa, Tăng cho hành sáu đêm Ma-na-đỏa. Sau khi hành sáu đêm Ma-na-đỏa xong, lại xuất tinh và không che giấu nên theo Tăng xin hành sáu đêm Ma-na-đỏa, Tăng cho hành sáu đêm Ma-na-đỏa. Sau khi hành sáu đêm Ma-na-đỏa xong lại xuất tinh và che giấu, tùy số ngày che giấu đến trong Tăng xin Biệt trụ; hành Biệt trụ xong lại xuất tinh và cũng che giấu, tội trước che giấu một đêm, tội sau che giấu hai đêm, tội trước đã hành biệt trụ nên gọi là người hành Biệt trú xong, tội sau đang hành nên gọi là người hành Biệt trú; vì một tội nên gọi là hành Ma-na-đỏa, vì một tội nên gọi là hành Ma-na-đỏa xong. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người hành Biệt trú không được cùng người hành Biệt trú; có trú xứ không cùng một mái che, không có trú xứ không cùng một mái che, chỗ có Tăng phường, chỗ không có Tăng phường. Có trường hợp người hành Biệt trú cùng người hành Biệt trú có trú xứ không cùng một mái che, không có trú xứ không cùng một mái che, chỗ có Tăng phường, chỗ không có Tăng phường mà không phạm không? Đáp: Có, nếu người này vốn là ngoại đạo. Lại hỏi: Có người không tội cũng gọi là biệt trụ không? Đáp: Nếu người này vốn là ngoại đạo. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không theo số ngày che giấu để theo Tăng xin biệt trụ, Tăng cũng không cho người này hành biệt trụ tùy số ngày che giấu; người này cũng không theo Tăng xin hành sáu đêm Ma-na-đỏa, cũng không theo Tăng xin xuất tội, Tăng cũng không cho người này xuất tội, mà người này vẫn được gọi là thanh tịnh hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo này chuyển căn thành Tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Có trường hợp Tỳ-kheo-ni phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không theo hai bộ Tăng xin nữa tháng hành Ma-na-đỏa, hai bộ Tăng cũng không cho hành nữa tháng Ma-na-đỏa, cũng không theo hai bộ Tăng xin xuất tội, hai bộ Tăng cũng không cho yết ma Xuất tội, mà người này vẫn được gọi là thanh tịnh hay không? Đáp: Có nếu Tỳ-kheo-ni này chuyển căn thành Tỳ-kheo . Lại hỏi: Người xin xuất tội ở dưới đất, các Tỳ-kheo ở trên cao; hoặc người xin xuất tội ở trên cao, các Tỳ-kheo ở dưới đất; hoặc người xin xuất tội ở trong giới, các Tỳ-kheo ở ngoài giới; hoặc người xin xuất tội ở ngoài giới, các Tỳ-kheo ở trong giới thì có được gọi là xuất tội không? Đáp: Không được, nếu người xin xuất tội và các Tỳ-kheo đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được gọi là xuất tội. Lại hỏi: Có trường hợp người hành Biệt trú cùng người hành Biệt trú, người hành Biệt trú cùng người hành Biệt trú xong, người hành Biệt trú cùng người hành Ma-na-đỏa, người hành Biệt trú cùng người hành Ma-na-đỏa xong, người hành Biệt trú cùng người phạm Bất cọng trụ có trú xứ không cùng một mái che, không có trú xứ không cùng một mái che, nếu người hành Biệt trú xuất giới mà không có Tỳ-kheo trú xứ cùng đi thì sẽ mất một đêm hành Biệt trụ; hoặc nói: “Tôi không thể hành Biệt trụ, cũng không thể hành Ma-na-đỏa”, liền đến bạch Tăng xin ngưng hành, chúng tăng cho ngưng hành để lại đó chừng bao nhiêu ngày? Đáp: Nên cho ngưng hành khoảng hai mươi lăm ngày. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo không phạm lại theo Tăng xin biệt trụ, Tăng cho biệt trụ thì có gọi là khéo cho không? Đáp: Nếu người này vốn là ngoại đạo. Lại hỏi: Có trường hợp người không thọ giới cụ túc phạm Tăng- già-bà-thi-sa, tùy số ngày che giấu theo Tăng xin biệt trụ, Tăng cho biệt trụ thì có gọi là khéo cho không. Sau đó theo Tăng xin hành sáu đêm Ma-na-đỏa, Tăng cho hành Ma-na-đỏa thì có được gọi là khéo cho không. Sau đó theo Tăng xin xuất tội, Tăng cho xuất tội thì có gọi là khéo cho hay không? Đáp: Đó là dữ học Sa-di (Sa-di học hối) Hỏi Về Pháp Ngăn Lại hỏi: Tỳ-kheo có được cách đêm cho phép người khác cử tội không?, đáp là không được. Lại hỏi: Có được cách đêm ngăn thuyết giới, ngăn tự tứ và ngăn giáo giới Tỳ-kheo-ni không?, đáp là không được. Lại hỏi: Người ở dưới đất có được làm yết ma phú bát cho người ở trên cao; hoặc người ở trên cao có được làm yết ma phú bát cho người ở dưới đất; hoặc người ở trong giới có được làm yết ma phú bát cho người ở ngoài giới; hoặc người ở ngoài giới làm yết ma phú bát cho người ở trong giới không? Đáp: Không được, nếu người làm yết ma phú bát và người được cho đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được làm yết ma phú bát. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ngồi dưới đất, người ở trong túc số ngồi trên cao; hoặc các Tỳ-kheo ngồi trên cao, người trong túc số ở dưới đất; hoặc các Tỳ-kheo ở trong giới, người trong túc số ở ngoài giới; hoặc các Tỳ- kheo ở ngoài giới, người trong túc số ở trong giới thì có được làm yết ma phú bát hay không? Đáp; không được, nếu các Tỳ-kheo và người trong túc số đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được làm yết ma phú bát. Lại hỏi: Người ở dưới đất có được làm yết ma ngưỡng bát cho người ở trên cao; hoặc người ở trên cao có được làm yết ma ngưỡng bát cho người ở dưới đất; hoặc người ở trong giới có được làm yết ma ngưỡng bát cho người ở ngoài giới; hoặc người ở ngoài giới làm yết ma ngưỡng bát cho người ở trong giới không? Đáp: Không được, nếu người làm yết ma ngưỡng bát và người được cho đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được làm yết ma ngưỡng bát. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ngồi dưới đất, người ở trong túc số ngồi trên cao; hoặc các Tỳ-kheo ngồi trên cao, người trong túc số ở dưới đất; hoặc các Tỳ-kheo ở trong giới, người trong túc số ở ngoài giới; hoặc các Tỳ- kheo ở ngoài giới, người trong túc số ở trong giới thì có được làm yết ma ngưỡng bát hay không? Đáp; không được, nếu các Tỳ-kheo và người trong túc số đều ở trong giới, đứng hay ngồi đều được làm yết ma ngưỡng bát. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, không được cách đêm cho phép xuất tội người khác, có Tỳ-kheo cách đêm cho phép xuất tội người khác mà không phạm không? Đáp: Có, nếu khi thọ tự tứ thì được, còn các thời khác thì không được. Lại hỏi: Nên từ chỗ nào cầu thính (xin cho phép xuất tội)? Đáp là ở trong Tăng. Lại hỏi: Nên từ chỗ nào cho phép? Đáp: Ở trong chúng tăng. Lại hỏi: Nên từ chỗ nào ngăn thuyết giới? Đáp: Ở trong chúng tăng. Lại hỏi: Nên từ chỗ nào ngăn tự tứ? Đáp: Ở trong chúng tăng. Lại hỏi: Nên từ chỗ nào nói như pháp? Đáp: Ở trong chúng tăng Lại hỏi: Nên từ chỗ nào như pháp đoán sự? Đáp: Ở trong chúng tăng. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo ngăn người câm, người điếc, hoặc người câm điếc; người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thuyết giới, thì có được gọi là ngăn không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Nếu các Tỳ-kheo lấy túc số người câm, người điếc, hoặc người câm điếc; người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại để ngăn thuyết giới thì có được gọi là ngăn không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp ngăn Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp ngăn Tỳ-kheo thọ pháp thuyết giới thì có được gọi là ngăn không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp lấy túc số Tỳ-kheo không thọ pháp, hoặc Tỳ-kheo không thọ pháp lấy túc số Tỳ-kheo thọ pháp để ngăn thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa thì có được gọi là ngăn không? Đáp: là không được. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo ngăn bốn trú xứ thuyết giới, có được gọi là ngăn không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại thì được gọi là ngăn. Lại hỏi: Có một người trong túc số ngăn bốn trú xứ thuyết giới, có được gọi là ngăn không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại thì được gọi là ngăn. Hỏi Về Pháp Ngọa Cụ Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người thọ pháp dù là trưởng lão cũng không được gọi là tôn trưởng, người nói phi pháp dù là Thượng tòa cũng không được gọi là tôn trưởng. Sao gọi là tôn trưởng và không phải tôn trưởng? Đáp: Tỳ-kheo thọ pháp nên kính lễ Tỳ-kheo không thọ pháp; Tỳ- kheo không thọ pháp không nên kính lễ Tỳ-kheo thọ pháp, đó gọi là tôn trưởng và không phải tôn trưởng. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, Tỳ-kheo an cư nơi này không nên lấy ngọa cụ ở chỗ kia. Có trường hợp Tỳ-kheo an cư nơi này lại lấy ngọa cụ chỗ kia mà không phạm không? Đáp: Có, Tỳ-kheo hậu an cư hay A-lan-nhã, an cư nơi này nhưng lấy ngọa cụ ở chỗ kia, vì muốn đến thọ tuổi an cư thì không phạm. Lại hỏi: Như Phật dã bảo trưởng lão Xá-lợi-phất: “Các thầy trước nên trù lượng người, sau đó mới phân chia cho lấy ngọa cụ”, sao gọi là trù lượng người? Đáp: Thượng tòa ở mỗi bộ thanh tịnh hòa hợp, đó gọi là trù lượng người. Lại hỏi: Sa-di ở trong Tăng phường có được lấy ngọa cụ không?, đáp là được lấy. Lại hỏi: Tỳ-kheo một mình ở trong Tăng phường có được lấy ngọa cụ không? Đáp là được lấy. Lại hỏi: Hai Tỳ-kheo ở trong Tăng phường có được lấy ngọa cụ không? Đáp là được lấy. Lại hỏi: bA-tỳ-kheo ở trong Tăng phường có được lấy ngọa cụ không? Đáp là được lấy. Lại hỏi: Nếu bốn Tỳ-kheo ở trong Tăng phường có nên xướng để chia ngọa cụ không?, đáp là nên xướng Lại hỏi: Một Tỳ-kheo ở bốn trú xứ có được lấy ngọa cụ không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại thì được lấy ngọa cụ. Lại hỏi: Tỳ-kheo không hiện tiền có được cho ngọa cụ không? Đáp: Hoặc cho hoặc không cho, vị nào nên cho thì biết sẽ đến, vị nào không nên cho thì biết sẽ không đến; lại nữa không dặn dò thì không nên cho, nếu dặn dò thì nên cho, cho rồi nên bảo làm thay các công việc. Hỏi Về Pháp Diệt Tránh Lại hỏi: Có trường hợp lấy một việc dùng pháp đa mích để diệt tránh, được gọi là diệt mà không phạm không? Đáp: Có, khi xướng chia ngọa cụ thì sự việc xảy ra. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, có hai nguyên nhân nên phá Tăng: Một là xướng nói, hai là lấy thẻ. Trong đây nếu Tỳ-kheo tặc trụ, người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại xướng nói và phát thẻ thì có gọi là phá Tăng không? Đáp: Không gọi là phá Tăng. Hỏi Về Pháp Tạp Lại hỏi: Như Phật đã dạy, ở biên địa người trì luật thứ năm được truyền thọ giới cụ túc. Có trường hợp mười người chỉ lấy năm người thì được gọi là thọ giới cụ túc không? Đáp: Được thọ giới cụ túc, nhưng người cho thọ giới cụ túc phạm tội. Lại hỏi: Người điếc được vật thí như thế nào? Đáp: nếu người mắt thấy hay bị mù thì nên để trong tay hay để trên đầu gối, tâm nghó là ta được vật thí. Lại hỏi: Nếu trên ngọa cụ có thêu hay vẽ hình tượng người nữ, hoặc nữa có nữa không thì có được ngồi nằm không? Đáp: Không được, không phạm là trừ khi bị hư hoại nhiều hoặc trải Ni-sư-đàn ngồi. Lại hỏi: Có được nắm đuôi trâu cái để lội qua sông không? Đáp là không được. Lại hỏi: Trừ trâu cái, có được nắm đuôi các súc sanh khác để lội qua sông không? Đáp: Nếu nắm đuôi sư tử, cọp, lang, voi, trâu đực, lừa, ngựa thì được. Lại hỏi: Nếu thọ nước thạch mật để cách đêm qua bảy ngày, xen tạp thứ khác thì có được dùng không? Đáp: Nếu xen tạp thứ khác thì không được dùng. Lại hỏi: Có thuốc bất tịnh để trong dầu nấu thì có được dùng không? Đáp: Không được, nếu người bịnh thoa trên thân hay trên tay, trên chân hay nhỏ vào mũi thì không phạm. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo dùng lửa, dao, móng tay để làm tịnh trái cây thì có được ăn không?, đáp là không được. Lại hỏi: Nếu cây ở trên đất tịnh, cành nhánh ở bên đất bất tịnh, quả rơi trong đó có được ăn không? Đáp: Không được ăn Lại hỏi: Nếu cây ở trên đất tịnh, cánh nhánh cũng ở bên đất tịnh, quả rơi trong đây có được ăn không? Đáp: Được ăn. Từ nay các Tỳ-kheo không nên làm yết ma kết tịnh địa, nếu làm thì phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Sữa người có được uống không? Đáp: Không được, nếu người bịnh dùng để rửa vết thương hay bôi trên mắt thì được. Lại hỏi: Thịt người có được ăn không? Đáp: Không được ăn, nếu ăn thì phạm Thâu-lan-giá. Lại hỏi: Nếu cố giết lấy thịt súc sanh thì có được ăn không? Đáp: Không được ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la. Thịt chim chóc bất tịnh cũng không được ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la. Thịt chim ưng cũng không được ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la. Thịt chim cú mèo, thịt ểnh ương cho đến đỉa nước đều không được ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết- la. Ngay ngày nay thọ bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trước giờ ngọ nên dùng, vì hiệu lực của thời dược là quá ngọ không được dùng. Nếu ngay ngày nay thọ thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trong thời phần nên dùng, vì hiệu lực của thời phần dược là quá thời phần thì không được dùng. Nếu ngay ngày nay thọ thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trong vòng bảy ngày nên dùng, vì hiệu lực của thất nhật dược là quá bảy ngày thì không được dùng. Nếu là tận hình dược thì trọn đời được tùy ý lấy dùng. Lại hỏi: Có loại từ bên một vật làm bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược không? Đáp: Có, Cam giá, là thời dược, nước ép trong là thời phần dược, làm thạch mật là thất nhật dược, đốt thành tro là tận hình dược. Lạc là thời dược, nước ép trong là thời phần dược, làm tô là thất nhật dược, đốt thành tro là tận hình dược. Hồ ma là thời dược, ép làm dầu là thất nhật dược, đốt thành tro là tận hình dược. Thịt là thời dược, chiên lấy mở là thất nhật dược, đốt thành tro là tận hình dược. Lại hỏi: Bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược nếu để cách đêm thì có dược dùng không?, đáp là không được Lại hỏi: Tỳ-kheo nếu tự lấy trước rồi mới theo tịnh nhân thọ thì có được dùng không? Đáp là không được. Lại hỏi: Bốn loại dược này nếu tay thọ, miệng thọ, Tỳ-kheo không bịnh có được dùng không? Đáp: Không được dùng, nếu bịnh thì được dùng. Lại hỏi: tám loại nước uống phi thời có được uống không? Đáp: nếu không có mùi vị rượu, thanh tịnh thì được uống. Lại hỏi: Có được thọ y từ người điên cuồng không? Đáp: Nên thọ hoặc không nên thọ. Nếu biết người này có cha mẹ, anh em, gia đình cho thì nên thọ; nếu biết người này không có cha mẹ, anh em, gia đình cho thì không nên thọ. Lại hỏi: Đối với người điên cuồng khi nào được thọ y? Đáp: Khi trở lại được bổn tâm. Nếu Tỳ-kheo một mình ở một trú xứ, trong đây đàn việt bố thí y vật, Hiện tiền tăng nên chia. Tỳ-kheo này nên tâm niệm miệng nói: “Y vật này Hiện tiền tăng nên chia, nay y vật này thuộc về tôi, tôi được tự thọ dùng”, nếu nói như vậy rồi thì gọi là làm yết ma, sau đó có Tỳ-kheo khác đến muốn lấy thì không nên cho. Nếu không nói như vậy thì không nên lấy vật này, lấy thì phạm Đột-kiết-la, nên chia cho Tỳ-kheo khác, nếu không làm như thế thì ra khỏi giới liền phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Nếu hiền giả trách phạt trẻ, đứa trẻ này mang vật đến cho Tỳ-kheo thì có được thọ không? Đáp: Không được thọ. Lại hỏi: Đàn việt trước đó khi thí y vật cho Tăng nói rằng: “Y vật này thí cho Tăng an cư trong đây”, lúc này không phải là tháng cuối hạ, các Tỳ-kheo cũng không thọ y Ca-hi-na thì y vật này nên thuộc về ai? Đáp: Lúc đó không phải tháng cuối hạ, các Tỳ-kheo không thọ y Ca-hi-na thì y vật này thuộc về Tăng an cư trong đây nên chia. Lại hỏi: Khi đàn việt thí y nói rằng: “Y này thí cho Hiện tiền tăng trong đây”, lúc này là tháng cuối hạ, các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na thì y này nên thuộc về ai? Đáp: Tuy là tháng cuối hạ, các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na nhưng y này vẫn thuộc về Hiện tiền tăng trong đây nên chia. Lại hỏi: Khi đàn việt thí y nói rằng: “Y này thí cho Tăng an cư trong đây từ năm ngoái cho đến mười năm”, lúc này không phải là tháng cuối hạ, các Tỳ-kheo cũng không thọ y Ca-hi-na thì y này nên thuộc về ai? Đáp: Lúc đó không phải tháng cuối hạ, các Tỳ-kheo không thọ y Ca-hi-na thì y vật này thuộc về Tăng an cư trong đây từ năm ngoái cho đến mười năm nên chia. Lại hỏi: Khi đàn việt mang y vào trong Tăng phường nói rằng: “Y này thí cho Tăng an cư trong đây, tương lai một năm, hai năm cho đến mười năm”, lúc này là tháng cuối hạ, các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na thì y này nên thuộc về ai? Đáp: Tuy là tháng cuối hạ, các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na nhưng y này vẫn thuộc về Tăng an cư trong đây, tương lai một năm cho đến mười năm. Lại hỏi: Chủ khuyến hóa vì Tăng sự xuất giới đi thì ai sẽ cho phần an cư? Đáp: Xuất giới ở chỗ nào thì chỗ đó nên cho phần an cư. Lại nữa, tùy chỗ nào an cư nhiều ngày nhất thì nên cho phần an cư. Lại hỏi: Tỳ-kheo phá an cư có nên cho phần y không? Đáp: Hoặc cho hoặc không nên cho. Nên cho là nếu biết tiền an cư hay hậu an cư hoặc ở nhiều ngày hoặc ở nữa hạ thì nên cho; ngược lại thì không nên cho. Lại hỏi: Người khán bịnh xuất giới đi vì người bịnh, khi người bịnh qua đời có nên chia y vật cho người khán bịnh không? Đáp: Nên cho hoặc không nên cho. Nếu người khán bịnh thật vì người bịnh mà xuất giới đi thì nên cho, nếu vì việc khác mà xuất giới đi thì không nên cho. Lại hỏi: Như thế nào gọi là người khán bịnh? Đáp: Nếu người có thể chăm sóc cho người bịnh đến khi lành bịnh hay qua đời, cho uống thuốc và ăn thức ăn tùy theo bịnh, cung cấp đầy đủ cho người bịnh, thân gần giúp cho người bịnh được lợi ích, có thể lìa đau đớn, suy tổn, thì người này gọi là người khán bịnh. Lại hỏi: Nếu bạch y làm người khán bịnh thì có nên chia vật cho người khán bịnh không?, đáp là không nên. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo-ni làm người khán bịnh thì có nên chia vật cho người khán bịnh không? Đáp: Không nên chia. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo khán bịnh an cư ở chỗ khác thì có nên chia vật cho người khán bịnh không?, đáp là nên cho. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo khán bịnh hậu an cư, Tỳ-kheo bịnh tiền an cư thì có nên chia vật cho người khán bịnh không? Đáp: Nên cho. Lại hỏi: Nếu Sa-di làm người khán bịnh thì có nên chia vật cho người khán bịnh không?, đáp là nên cho. Lại hỏi: Nên chia cho như thế nào? Đáp: Cho bằng phần của đại Tỳ-kheo Lại hỏi: dữ học Sa-di (Sa-di học hối) lúc nào thì làm tịnh thí? Đáp: Tùy lúc nào được thì làm tịnh thí lúc đó. Lại hỏi: Tiền nên tịnh thí như thế nào? Đáp: Nên nói: “Đây là vật bất tịnh, nếu tịnh sẽ thọ”. Lại hỏi: Một Tỳ-kheo ở bốn trú xứ cùng một lúc an cư, được gọi là an cư mà không phạm không? Đáp: Nếu để giường hoặc ván cây nối liền bốn giới lại thì được gọi là an cư. Lại hỏi: Chỗ nào nên chia phần an cư? Đáp: Cả bốn chỗ, mỗi chỗ cho một phần trong bốn phần, nếu Tỳ- kheo được ít y tắm mưa, y che phủ ghẻ thì phạm Đột-kiết-la, nếu chia y dư thừa cho Tỳ-kheo cũng phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm ba tướng: Một là xích lỏa, hai là mặc y giác chí súy, ba là búi tóc Khâm bà la thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá . Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo trừ ba tướng này, làm các tướng khác thì phạm tội gì?, đáp là Đột-kiết-la . Lại hỏi: Như Phật đã dạy, y cũ không được thọ làm y Ca-hi-na, nếu thọ thì không gọi là thọ, sao gọi là y cũ? Đáp: Đã từng thọ làm y Ca-hi-na thì gọi là y cũ. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, y mới nên thọ làm y Ca-hi-na, sao gọi là y mới? Đáp: Chưa từng thọ làm y Ca-hi-na thì gọi là y mới. Tỳ-kheo được Tăng sai làm y Ca-hi-na nên theo thứ lớp giặt nhuộm cắt may. Tỳ-kheo này khi giặt vải nên khởi niệm: “Ta dùng vải này may y Ca-hi-na để thọ trì”, khi nhuộm, đo, tính toán kích lượng, cắt may cũng khởi niệm giống như trên, tổng cộng là sáu niệm, khởi đủ sáu niệm này mới gọi là khéo may y Ca-hi-na; nếu không khởi đủ sáu niệm này thì không gọi là khéo may y Ca-hi-na. Lại nữa người làm y Ca-hi-na nên khởi ba tâm: Một là ta dùng vải này sẽ may thành y Ca-hi-na để thọ. Hai là ta dùng vải này nay may thành y Ca-hi-na để thọ. Ba là ta dùng vải này may thành y Ca-hi-na để thọ xong rồi. Nếu khởi đủ ba tâm này mới gọi là khéo may y Ca-hi-na, nếu không khởi đủ ba tâm này thì không gọi là khéo may y Ca-hi-na. Lại nữa nên khởi hai tâm: Một là ta dùng vải này nay may thành y Ca-hi-na để thọ. Hai là ta dùng vải này may thành y Ca-hi-na để thọ xong rồi. Nếu khởi hai tâm này mới gọi là khéo may y Ca-hi-na, nếu không khởi hai tâm này thì người may y Ca-hi-na phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Nếu thọ y cất cách đêm rồi mới thọ y Ca-hi-na thì không được gọi là thọ y Ca-hi-na. Sao gọi là y cất cách đêm? Đáp: Y dư chứa quá mười đêm, hoặc thọ y bất tịnh thì không gọi là thọ y Ca-hi-na . Lại hỏi: Sao gọi là y bất tịnh? Đáp: Là y có được do mong cầu. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, y Khứ lai không được thọ làm y Ca-hi- na. Sao gọi là y khứ lai? Đáp: Y phủ trên mình người chết, sau khi để người chết trong gò mã liền lấy lại y này mang về, nên gọi là y khư lai. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, dùng tịnh y thọ làm y Ca-hi-na, sao gọi là tịnh y? Đáp: Là y được Phật cho thọ và khen ngợi thì gọi là tịnh y. Lại hỏi: Nếu khi chưa thọ y Ca-hi-na, Tăng chia làm hai bộ thì bộ nào nên thọ y Ca-hi-na? Đáp: Bộ nào như pháp thì nên thọ. Lại hỏi: Nếu các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na xong, Tăng chia làm hai bộ thì các Tỳ-kheo có được gọi là thọ y Ca-hi-na không? Đáp: Đều được gọi là thọ. Lại hỏi: Nếu trú xứ thọ y Ca-hi-na xong, Tăng chia làm hai bộ, trong hai bộ này có các Tỳ-kheo xả y Ca-hi-na thì có được gọi là xả không? Đáp: Nếu như pháp xả thì gọi là xả. Người làm y Ca-hi-na nên khởi ba tâm: Một là ta dùng vải này sẽ may thành y Ca-hi-na để thọ. Hai là ta dùng vải này nay may thành y Ca-hi-na để thọ. Ba là ta dùng vải này may thành y Ca-hi-na để thọ xong rồi. Nếu khởi đủ ba tâm này mới gọi là khéo may y Ca-hi-na, nếu không khởi đủ ba tâm này thì không gọi là khéo may y Ca-hi-na. Lại nữa nên khởi hai tâm: Một là ta dùng vải này nay may thành y Ca-hi-na để thọ. Hai là ta dùng vải này may thành y Ca-hi-na để thọ xong rồi. Nếu khởi hai tâm này mới gọi là khéo may y Ca-hi-na, nếu không khởi hai tâm này thì người may y Ca-hi-na phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Y này có nghóa gì nên được gọi là y Ca-hi-na? Đáp: Nghóa của y gọi là Ca-hi-na, sanh khởi chín tâm nên gọi là thọ y Ca-hi-na, do tám nhân duyên nên gọi là xả y Ca-hi-na. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, trú xứ của y Ca-hi-na gọi là che phủ. Che phủ có nghóa như thế nào? Đáp: Trú xứ của y Ca-hi-na che phủ Tăng để được thọ các y vật bố thí. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, được dùng y cấp thí thọ làm y Ca-hi-na, sao gọi là y cấp thí? Đáp: Còn mười ngày nữa mới đến tự tứ liền được y vật, thì y này gọi là y cấp thí. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, được dùng thời y thọ làm y Ca-hi-na, sao gọi là thời y? Đáp: Vào tháng cuối hạ được y vật thì, thì y này gọi là thời y. Lại hỏi: Có năm hạng Tỳ-kheo không được làm người làm y Ca- hi-na: Một là người không có tuổi hạ, hai là người phá an cư, ba là người hậu an cư, bốn là người bị tẫn, năm là người hành Biệt trú. Nếu túc số chưa tới năm người thọ y Ca-hi-na thì không được gọi là thọ y Ca-hi-na; nếu bốn Tỳ-kheo và người thứ năm là bạch y cũng không được gọi là thọ y Ca-hi-na. Nếu Sa-di, dị đạo, không phải Tỳ-kheo; người bị tẫn về không thấy tội, không sám tội, không bỏ ác tà kiến và tội bất cọng trụ; người phạm các tội bất cọng trụ, phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế (phá nội, ngoại đạo), tặc trụ; người giết cha mẹ, A-la-hán, người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương chảy máu, những người này làm người thứ năm trong túc số năm người thì không được gọi là thọ y Ca-hi-na . Lại hỏi: Tùy ngày nào thọ y Ca-hi-na, ngày đó xả mà không làm yết ma lại không phạm không? Đáp: Có, các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na vào ngày mười bốn, khách Tỳ-kheo đến vào ngày mười năm, nếu cựu Tỳ-kheo vì khách Tỳ-kheo ngay ngày đó làm bố tát rồi xả y Ca-hi-na thì không phạm. Lại hỏi: Sao gọi là phạm tội phá Tăng? Đáp: Nếu phi pháp biết là phi pháp, vì tà kiến nên phá tăng thì gọi là phạm tội phá Tăng. Lại nữa phi pháp cho là pháp, tà kiến phá Tăng thì gọi là phá Tăng; hoặc trong phi pháp khởi nghi, tà kiến nên phá Tăng thì phạm tội phá Tăng. Lại hỏi: Việc phá tăng đã có đều là tiếng tranh cãi của Tăng hay tiếng tranh cãi của Tăng đã có đều là phá Tăng? Đáp: Có bốn trường hợp Một là có phá Tăng nhưng không có tiếng tranh cãi của Tăng, tức là nếu Tăng chia làm hai bộ, chưa thọ mười bốn việc phá Tăng. Hai là có tiếng tranh cãi của Tăng nhưng không phải phá Tăng, tức là các Tỳ-kheo đã chấp trì mười bốn việc phá Tăng, nhưng Tăng chưa chia làm hai bộ. Ba là có Phá Tăng cũng có tiếng tranh cãi của Tăng, tức là nếu Tăng chia làm hai bộ và thọ mười bốn việc phá Tăng. Bốn là không có phá Tăng cũng không có tiếng tranh cãi của tăng, tức là trừ ba trường hợp trên. Lại hỏi: Việc phá Tăng đã có đều là do Tăng biệt ly hay Tăng biẹt ly đều là phá Tăng? Đáp: Có bốn trường hợp: Một là có phá Tăng nhưng không phải do biệt ly, tức là phá Tăng trong cùng một trú xứ. Hai là có biệt ly nhưng không phải là phá Tăng, tức là hai chúng chia rẽ ở riêng, đất riêng, giới riêng, thí riêng và y riêng, tuy riêng nhưng chưa phải là phá Tăng. Ba là có phá Tăng cũng có biệt ly, tức là Tăng chia làm hai bộ chia rẽ ở riêng, đất riêng, giới riêng, thí riêng và y riêng. Bốn là không có phá Tăng cũng không có biệt ly, tức là trừ ba trường hợp trên. Lại hỏi: Có việc phá Tăng là do Tăng khác biệt hay Tăng khác biệt đều là phá tăng? Đáp: Có bốn trường hợp: Một là có phá Tăng nhưng không phải do Tăng khác biệt, tức là Tăng bị phá nhưng chưa khác biệt về nếp sinh hoạt, đất, giới, thí và y. Hai là có tăng khác biệt nhưng không phải là phá tăng, tức là tuy tăng có khác biệt về nếp sống sinh hoạt, đất, giới, thí và y nhưng Tăng chưa bị phá làm hai bộ. Ba là có phá Tăng cũng có Tăng khác biệt, tức là Tăng bị phá làm hai bộ và sống khác biệt về mọi phương diện như trên. Bốn là không có phá Tăng cũng không có Tăng khác biệt, tức là trừ ba trường hợp trên. Lại hỏi: Tăng chia làm hai bộ, nếu một bộ xả giới thì có được gọi là xả không? Đáp: Nếu như pháp xả thì được gọi là xả. Lại hỏi: Nếu tăng bị phá, Tỳ-kheo-ni có nên làm bố tát không? Đáp: Nên làm bố tát, vì Tỳ-kheo-ni không đồng sự việc. tát? Lại hỏi: Nếu Tăng bị phá, Tỳ-kheo làm Thác lại tra làm sao bố Đáp: Nên xuất giới làm bố tát. Lại hỏi: Nếu tăng bị phá làm hai bộ, Tỳ-kheo-ni nên đến bộ nào thỉnh giáo thọ? Đáp: Nên theo bộ nào nói như pháp, nếu không có người nói như pháp thì Tỳ-kheo làm Thác lại tra nên ra ngoài giới giáo thọ Tỳ-kheo- ni. Lại hỏi: BA-tỳ-kheo bị tẫn, một Tỳ-kheo tùy thuận cung cấp thì phạm tội gì? Đáp: Phạm hai tội Đột-kiết-la và một tội Ba-dật-đề . Lại hỏi: Tỳ-kheo bị tẫn gọi là một mình, có bạn đảng hay không?, đáp là một mình không có bạn đảng. Lại hỏi: Tỳ-kheo bị tẫn nhưng chưa quyết định thì có được ở chung và cùng làm việc chung hay không? Đáp: Cùng ở chung và cùng làm việc chung không phạm. Lại hỏi: Tỳ-kheo thọ pháp có được cùng Tỳ-kheo không thọ pháp tác pháp yết ma không?, đáp là không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo không thọ pháp có được cùng Tỳ-kheo thọ pháp tác pháp yết ma không? Đáp là không được. Lại hỏi: Nếu một Tỳ-kheo bị tẫn, bốn Tỳ-kheo tùy thuận thì có gọi là phá tăng không? Đáp: Phá tăng, vì sao, vì bốn Tỳ-kheo tùy thuận là đủ túc số tăng lại tùy thuận người mà Tăng đã tẫn. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người như vậy không nên làm yết ma Bất kiến tẫn, nếu làm thì phạm Thâu-lan-giá, vì sao, vì nhân duyên gần phá Tăng. Lại hỏi: Sao gọi là người như vậy? Đáp: Tức là người có oai đức lớn, quen biết nhiều, đa văn, nhiều trí huệ, hiểu nghóa kinh, luật và luận nên gọi là người như vậy. Đối với người như vậy thì không nên cho yết ma Bất kiến tẫn, nếu cho yết ma Bất kiến tẫn thì phạm Thâu-lan-giá, vì làm nhân duyên gần phá Tăng. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, dựa theo lời của tỳ-kheo đáng tin nên thấy tội. Sao gọi là Tỳ-kheo đáng tin? Đáp: Nghe từ bên Tỳ-kheo nói lời đáng tin và cũng tự tin có tội này. Lại hỏi: Nếu Tăng sắp bị phá, người biết pháp theo thứ lớp trải giường độc tọa, ở giữa chừa một chỗ ngồi, Tỳ-kheo ngồi trong đó nên tác tăng pháp yết ma, cũng nên giáo thọ Tỳ-kheo-ni, trong đây như thế nào gọi là thành pháp? Đáp: Nếu các Tỳ-kheo cùng có tâm hối biết tội, cung kính lễ bái chào hỏi nhau. Lại hỏi: Như Phật đã day, nên tha thiết cầu nhân duyên chúng tăng hòa hợp, chớ cầu nhân duyên phá Tăng. Sao gọi là tha thiết cầu? Đáp: Nếu cầu lời nói, cầu nghóa thú, phân biệt trù lượng, tha thiết cầu nhân duyên chúng tăng hòa hợp, chớ cầu nhân duyên phá Tăng. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo bị tẫn, tâm hối hận biết tội, cung kính đảnh lễ tăng, các Tỳ-kheo dẫn ra ngoài giới cho giải tẫn thì có được gọi là giải không? Đáp: Được giải, nhưng các Tỳ-kheo phạm tội. Lại hỏi: Khi nào ở Câu-xá-di gọi là Phá tăng? Đáp: Nếu Tỳ-kheo Câu-xá-di cùng một trú xứ ở trong giới riêng làm bố tát và các pháp yết ma thì lúc đó gọi là Phá tăng. Lại hỏi: Người nào ở Câu-xá-di gọi là phá Tăng? Đáp: Là Tỳ-kheo biết pháp cùng một trú xứ ở trong giới riêng làm bố tát và các pháp yết ma. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo-ni tăng bị phá làm hai bộ, Tỳ-kheo-ni đến các Tỳ-kheo cầu giáo pháp, các Tỳ-kheo có nên cho giáo pháp không? Đáp: Nên nói rằng: “Các vị hãy cùng nhau hòa hợp”. Lại hỏi: Có hai nhân duyên gọi là phá hòa hợp Tăng: Một là xướng nói, hai là lấy thẻ. Ngoài hai nhân duyên này còn có nhân duyên khác gọi là phá tăng không? Đáp: Không có Lại hỏi: Nếu tăng bị phá làm hai bộ, Tỳ-kheo-ni đến cầu giáo hóa thì có nên giáo hóa không? Đáp: Nên giáo hóa, vì sao, vì không muốn để cho Tỳ-kheo-ni tăng bị phá. Lại hỏi: Tỳ-kheo Tỳ-da-ly thọ Tỳ-kheo-ni thỉnh giáo hóa, nếu lúc đó Tỳ-kheo Câu-xá-di ở trong giới của tỳ-kheo Tỳ-da-ly thì làm sao giáo hóa? Đáp: Nên xuất giới để giáo hóa. Lại hỏi: Hai bộ bạn đảng ở Câu-xá-di tập họp một chỗ để bố tát, Tỳ-kheo làm Thác lại tra làm sao bố tát? Đáp: Nên xuất giới làm bố tát. Lại hỏi: Nếu đàn việt nắm tay Thượng tòa nói là thí vật cho Tăng, thì vật thì này nên thuộc về ai? Đáp: Bộ nào làm Thượng tòa thì bộ đó được vật thí. Lại hỏi: Nếu đàn việt nắm tay đệ nhất Thượng tòa, đệ nhị Thượng tòa nói là thí vật cho Tăng, thì vật thì này nên thuộc về ai? Đáp: Nếu hai Thượng tòa này ở chung trong một bộ thì vật thí thuộc về một bộ; nếu hai Thượng tòa ở trong hai bộ thì vật thí thuộc về cả hai bộ. Lại hỏi: Nên chia như thế nào? Đáp: Nên chia đồng đều, phần thứ tư cho Sa-di. Lại hỏi: Tỳ-kheo Tỳ-da-ly đến chỗ Tỳ-kheo làm Thác lại tra để cùng làm thuyết giới bố tát thì có được gọi là thuyết giới bố tát không? Đáp: Được, nên hiển tướng của Thác lại tra. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm Thác lại tra đến chỗ Tỳ-kheo Tỳ-da-ly làm thuyết giới bố tát thì có được gọi là thuyết giới bố tát không? Đáp: Được nhưng mất tướng của Thác lại tra. Lại hỏi: Tỳ-kheo Câu-xá-di đến chỗ Tỳ-kheo làm Thác lại tra để cùng làm thuyết giới bố tát thì có được gọi là thuyết giới bố tát không? Đáp: Được, nên hiển tướng của Thác lại tra. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo làm Thác lại tra đến chỗ Tỳ-kheo Câu-xá- di làm thuyết giới bố tát thì có được gọi là thuyết giới bố tát không? Đáp: Được nhưng mất tướng của Thác lại tra. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, có một trú xứ các Tỳ-kheo làm yết ma phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, tợ pháp biệt chúng, tợ pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng, như pháp hòa hợp chúng. Ý nghóa của các yết ma này như thế nào? Đáp: Phi pháp biệt chúng yết ma là như đáng cho yết ma Khổ thiết lại cho làm yết ma Khu xuất, Tăng lại không hòa hợp. Phi pháp hòa hợp chúng là như đáng cho yết ma Khổ thiết lại cho làm yết ma Khu xuất, nhưng Tăng hòa hợp làm. Tợ pháp biệt chúng là như khi cho làm yết ma Bất kiến tẫn lại xuớng trước bạch sau, Tăng cũng không hòa hợp. Tợ pháp hòa hợp chúng là như khi cho làm yết ma Bất kiến tẫn lại xướng trước bạch sau, nhưng Tăng hòa hợp làm. Như pháp biệt chúng là như đáng cho yết ma Khu xuất thì cho làm yết ma Khu xuất nhưng Tăng lại không hòa hợp làm. Như pháp hòa hợp chúng là như đáng cho yết ma Khu xuất thì cho làm yết ma Khu xuất và Tăng hòa hợp làm. Nếu một Tỳ-kheo tẫn một người thì phạm một tội Đột-kiết-la, một người tẫn hai người thì phạm hai Đột-kiết-la, một người tẫn ba người thì phạm ba Đột-kiết-la, một người tẫn bốn người thì phạm bốn Đột-kiết-la; hai người tẫn hai người thì phạm hai Đột-kiết-la… hai người tẫn bốn người thì phạm bốn Đột-kiết-la, hai người tẫn một người thì phạm một Đột- kiết-la; ba người tẫn ba người thì phạm ba Đột-kiết-la… ba người tẫn một người thì phạm một Đột-kiết-la . Lại hỏi: Nếu bốn Tỳ-kheo tẫn bốn Tỳ-kheo thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Thâu-lan-giá, vì nhân duyên phá Tăng. Lại hỏi: Nếu chúng tăng ngủ khi tác pháp tẫn một Tỳ-kheo thì Tỳ- kheo này có được gọi là tẫn không? Đáp: Nếu nghe bạch rồi ngủ thì được gọi là tẫn. Lại hỏi: Nếu tăng dùng nhân duyên khác hòa hợp để tẫn một Tỳ- kheo thì có được gọi là tẫn không? Đáp: Được gọi là tẫn, nhưng người nói yết ma phạm tội. Lại hỏi: Nếu chưa tới túc số bốn Tỳ-kheo mà tác pháp tẫn người thì có được gọi là tẫn không?, đáp là không được. Lại hỏi: Nếu bA-tỳ-kheo và người thứ bốn là bạch y, Sa-di, dị đạo, không phải Tỳ-kheo; người bị tẫn về không thấy tội, không sám tội, không bỏ ác tà kiến và tội bất cọng trụ; người phạm các tội bất cọng trụ, phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế (tặc trụ); người giết cha mẹ, A-la-hán, người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương, thì có được tác pháp tẫn người khác không?, đáp là không được. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, có một trú xứ, khi tác pháp yết ma các Tỳ-kheo không tập họp một chỗ, người nên gởi dục lại không gởi, Tỳ- kheo hiện hiền có thể ngăn, nếu ngăn thì thành ngăn. Lúc đó Tỳ-kheo tác pháp yết ma nên làm thế nào? Đáp: Loại yết ma nên làm với túc số bốn người thì bốn Tỳ-kheo nên làm, loại yết ma nên làm với túc số năm người thì năm Tỳ-kheo nên làm, loại yết ma nên làm với túc số mười người thì mười Tỳ-kheo nên làm, loại yết ma nên làm với túc số hai mươi người thì hai mươi Tỳ- kheo nên làm, phải là Tỳ-kheo thanh tịnh đồng kiến cùng ở chung. Đây là điều mà Tỳ-kheo tác pháp yết ma nên làm. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo ngủ, Tăng làm pháp tẫn, có được gọi là tẫn không? Đáp: Nếu nghe bạch rồi ngủ thì được gọi là tẫn. Lại hỏi: Nếu Tỳ-kheo nhập định, các Tỳ-kheo tác pháp tẫn thì có được gọi là tẫn không? Đáp: Nếu nghe bạch rồi nhập định thì được gọi là tẫn. Lại hỏi: Nếu Tăng bị phá làm hai bộ, tác pháp tẫn lẫn nhau thì có được gọi là tẫn không? Đáp: Nếu tẫn như pháp thì được gọi là tẫn. Lại hỏi: Nếu lấy túc số Tỳ-kheo làm Thác lại tra để tác pháp tẫn một Tỳ-kheo, thì có được gọi là tẫn không? Đáp: Được nhưng mất tướng của Thác lại tra . Lại hỏi: Yết ma phi pháp đã có đều là yết ma biệt chúng hay yết ma biệt chúng đều là yết ma phi pháp? Đáp: Có bốn trường hợp: Là yết ma phi pháp không phải là yết ma biệt chúng tức là các Tỳ-kheo khi tác pháp yết ma hòa họp một chỗ, người nên gởi dục thì gởi, Tỳ-kheo hiện hiền nếu ngăn thì thành ngăn mà không ngăn. Nếu người không hiện tiền, không nói trước việc đó mà cho làm yết ma. Là yết ma biệt chúng không phải là yết ma phi pháp, tức là các Tỳ-kheo khi tác pháp yết ma không tập họp một chỗ, người nên gởi dục lại không gởi, Tỳ-kheo hiện hiền có thể ngăn, nếu ngăn thì thành ngăn. Nếu người hiện tiền, nói trước việc đó rồi mới cho làm yết ma. Là yết ma phi pháp cũng là yết ma biệt chúng, tức là các Tỳ- kheo khi tác pháp yết ma không tập họp một chỗ, người nên gởi dục lại không gởi, Tỳ-kheo hiện tiền có thể ngăn, nếu ngăn thì thành ngăn. Nếu người không hiện tiền, không nói trước việc đó mà cho làm yết ma. Không phải yết ma phi pháp cũng không phải yết ma biệt chúng, tức là các Tỳ-kheo khi tác pháp yết ma hòa họp một chỗ, người nên gởi dục thì gởi, Tỳ-kheo hiện hiền nếu ngăn thì thành ngăn mà không ngăn. Nếu người hiện tiền, nói trước việc đó rồi mới cho làm yết ma. Lại hỏi: Yết ma như pháp đã có đều là yết ma hòa hợp hay yết ma hòa hợp đều là yết ma như pháp? Đáp: Có bốn trường hợp : Là yết ma như pháp không phải là yết ma hòa hợp tức là các Tỳ-kheo khi tác pháp yết ma không hòa họp một chỗ, người nên gởi dục thì không gởi dục đến, Tỳ-kheo hiện hiền có thể ngăn, nếu ngăn thì thành ngăn. Nếu người hiện tiền, nói trước việc đó rồi mới cho làm yết ma. Là yết ma hòa hợp không phải là yết ma như pháp, tức là các Tỳ-kheo khi tác pháp yết ma hòa họp một chỗ, người nên gởi dục thì gởi dục đến, Tỳ-kheo hiện hiền nếu ngăn thì thành ngăn mà không ngăn. Nếu người không hiện tiền, không nói trước việc đó mà cho làm yết ma. Là yết ma như pháp cũng là yết ma hòa hợp, tức là các Tỳ-kheo khi tác pháp yết ma hòa họp một chỗ, người nên gởi dục thì gởi dục đến, Tỳ-kheo hiện tiền nếu ngăn thì thành ngăn mà không ngăn. Nếu người hiện tiền, nói trước việc đó rồi mới cho làm yết ma. Không phải yết ma như pháp cũng không phải yết ma hòa hợp, tức là các Tỳ-kheo khi tác pháp yết ma không hòa họp một chỗ, người nên gởi dục thì không gởi, Tỳ-kheo hiện hiền có thể ngăn, nếu ngăn thì thành ngăn. Nếu người không hiện tiền, không nói trước việc đó mà cho làm yết ma. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, người đã có tội, Tăng nên can ngăn cho đến ba lần; nếu Tỳ-kheo không có tội thì Tăng có nên can cho đến ba lần hay không? Đáp: Trừ các tội, những việc khác đều là khuyên nhắc. Lại hỏi: Bạch cách đêm trong Tăng, có được tác yết ma không? Đáp: Trừ yết ma thuộc về Hòa thượng ni, nếu tăng chưa đứng dậy thì được làm tất cả các yết ma. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo xướng nói rồi mới nói cho Tỳ-kheo bị tẫn biết thì có được gọi là tẫn không? Đáp: Được gọi là tẫn nhưng người làm yết ma phạm Đột-kiết-la . Lại hỏi: Các Tỳ-kheo nhân nơi cách đêm gởi dục để làm các yết ma thì có được gọi là làm không? Đáp: Trừ yết ma thuộc về Hòa thượng ni, nếu tăng chưa đứng dậy thì được làm tất cả các yết ma. Lại hỏi: Tỳ-kheo tự làm yết ma, có được không? Đáp: Không được, nếu người này làm thì tăng nên nói rằng: “Thầy nên tự thuận theo và tự thọ trì”. Lại hỏi: Nếu người này trước kia đã phá giới hoặc là Tặc trụ hoặc trước nay vốn là bạch y… thì người này làm sao tự nói như pháp? Đáp: Người này nên ở trong Tăng tự nói cho đến ba lần. Lại hỏi: Một lúc có thể được xướng nói bốn người khiến cho đắc giới không? Đáp là không được. Lại hỏi: Một lúc có thể được xướng nói khiến cho bốn người được thọ giới cụ túc không?, đáp là không được. Lại hỏi: Túc số bốn Tỳ-kheo, người thứ bốn là bị tẫn hoặc là người hành Biệt trú tác pháp tẫn người khác thì có được gọi là tẫn không?, đáp là không được. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo chiết phục tẫn xuất thì có được gọi là tẫn không? Đáp: Được gọi là tẫn, nhưng yết ma chiết phục trước đã được bỏ rồi. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo bị tẫn nên y chỉ Tỳ-kheo, có thể tỏ bày sám hối nơi Tỳ-kheo không? Đáp: Yết ma Y chỉ này trước đã được bỏ rồi. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo làm yết ma chiết phục cho Trưởng lão đã bị tẫn thì có được gọi là làm không? Đáp: Không được, vì ở trong đây không đồng sự. Lại hỏi: Các Tỳ-kheo làm yết ma Y chỉ cho Tỳ-kheo đã bị tẫn khiến tỏ bày sám hối, có được gọi là làm không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Trừ Tỳ-kheo, nói gièm siểm người khác thì phạm tội gì?, đáp là Đột-kiết-la . Lại hỏi: Yết ma Chiết phục có ý nghóa gì? Đáp: Đây là tên của một pháp yết ma, xuất phát từ ngôn tránh, Tăng nên nói với người này: “Tăng sẽ trù lượng việc của thầy sau”. Lại hỏi: Yết ma Y chỉ có ý nghóa gì? Đáp: Đấy là tên của một pháp yết ma, xuất phát từ làm các tội, Tăng nên nói với người này: “Thầy nên y chỉ Tỳ-kheo kia”. Lại hỏi: Yết ma Khu xuất có ý nghóa gì? Đáp: Đấy là tên của một pháp yết ma, xuất phát từ Ô-tha-gia, Tăng nên nói với người này: “Thầy nên rời khỏi đây, chớ ở trong đây nữa”. Lại hỏi: Yết ma Hạ ý có ý nghóa gì? Đáp: Đấy là tên của một pháp yết ma, xuất phát từ khinh mắng bạch y, Tăng nên nói với người này: “Thầy nên đến cư só đó tạ lỗi” Lại hỏi: Như Phật đã dạy là thầy nên y chỉ Tỳ-kheo kia mà ở, câu này có nghóa gì? Đáp: Tùy Tỳ-kheo phạm tội gì đều thâm tâm ái niệm, nên bảo y chỉ Tỳ-kheo kia mà ở. Lại hỏi: Như Phật đã dạy là Tăng sẽ trù lượng, lời này có nghóa gì? Đáp: Nghóa là thấy có tội phải ở trong Tăng tự thú ba lần để Tăng tùy tội mà xử trị, đó gọi là trù lượng. Lại hỏi: Nếu đối với người có hai mắt, Tỳ-kheo nói là có một mắt thì phạm tội gì?, đáp là Ba-dật-đề cố vọng ngữ. Lại hỏi: Đối với người một mắt, Tỳ-kheo nói là một mắt thì phạm tội gì?, đáp là Ba-dật-đề khinh hủy xúc não. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, Tỳ-kheo ở trong hay ngoài khinh hủy xúc não người khác, thế nào là trong, thế nào là ngoài?, đáp: Trong là trong giới, ngoài là ngoài giới; lại nữa, trong nhà gọi là trong, ngoài đất trống gọi là ngoài. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, Tỳ-kheo A lợi tra, dòng Bà-la-môn Yết đà, vốn là đệ tử mà nói pháp ngăn đạo là không có ngăn đạo, thế nào là ngăn đạo? Đáp: Dục chính là ngăn đạo.  LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 56 TỤNG THỨ MƯỜI TỲ KHEO TỤNG Giới Cụ Túc Phật tại thành Vương xá, bảo các Tỳ-kheo: “Có mười trường hợp đắc giới cụ túc: Một là Phật Thế tôn không thầy, tự nhiên đắc giới cụ túc. Hai là năm Tỳ-kheo đắc đạo liền đắc giới cụ túc. Ba là trưởng lão Đại Ca-diếp tự thệ liền đắc giới cụ túc. Bốn là Tô-đà tùy thuận luận đáp lời Phật mà đắc giới cụ túc. Năm là Biên địa trì luật thứ năm được đắc giới cụ túc. Sáu là Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề thọ tám trọng pháp liền đắc giới cụ túc. Bảy là ni Bán-ca-thi sai sứ thọ giới cụ túc. Tám là Phật bảo thiện lai Tỳ-kheo liền đắc giới cụ túc. Chín là Quy mạng Tam bảo nói ba lần: Tôi theo Phật xuất gia, liền đắc giới cụ túc. Mười là Bạch tứ yết ma đắc giới cụ túc”. Trong đây, ba trường hợp thiện lai đắcgiới, quy mạng nói ba lần đắc giới và Bạch tứ yết ma đắc giới thì lúc Phật chưa kết Bạch tứ yết ma đắc giới thì người quy mạng Tam bảo, nói ba lần tôi theo Phật xuất gia, được gọi là khéo thọ giới cụ túc; nhưng sau khi Phật đã kết Bạch tứ yết ma thọ giới thì trường hợp quy mạng này không còn gọi là đắc giới cụ túc nữa. Trường hợp thiện lai đắc giới thì dù trước hay sau khi kết Bạch tứ yết ma vẫn gọi là đắc giới cụ túc, vì sao, vì Phật là Pháp vương đã tự cho thọ giới thì không có tại Học địa mà mạng chung. Tỳ-kheo-ni có ba trường hợp đắc giới cụ túc: Thọ tám trọng pháp, sai sứ thọ giới và Bạch tứ yết ma. Trong đây trường hợp thọ tám trọng pháp duy nhất chỉ có người thọ đầu tiên là đắc iới, người sau thì không có đắc giới. Trường hợp sai sứ thọ giới như ni Bán-ca-thi, nếu người nữ muốn xuất gia gặp chướng ngại tương tự cũng được đắc giới. Người sứ được sai đến trong Tăng thọ giùm không nhiều, không ít rồi mới trở về nói lại cho ni Bán-ca-thi ba pháp y chỉ, thời tiết năm tháng thọ giới và tám pháp Ba-la-di. Nếu được như thế thì gọi là đắc giới cụ túc, nếu không như thế thì không gọi là đắc giới cụ túc. Người được thọ giới cụ túc dù nam hay nữ, nếu không có các pháp ngăn (giá nạn) thì mới được thọ, nếu có các pháp ngăn thì không được thọ. Pháp ngăn đó là không có Hòa thượng, A-xà-lê, không có y bát, có phạm biên tội, vốn là bạch y, bất năng nam, ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế, tặc trụ, người giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, người ác tâm làm cho Phật bị thương. Nếu cho thọ sẽ làm hoen ố chúng tăng, người cho thọ thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người có các căn đầy đủ và không có các pháp ngăn, chủng tảnh, tên họ, sự nghiệp… Tăng nhất tâm hòa hợp nên như pháp hỏi xong rồi, đều không có pháp ngăn thọ giới mới được cho thọ giới. Đây gọi là khéo thọ giới cụ túc. Có mười ba hạng người không được thọ giới cụ túc, đó là Có mười pháp ngăn thọ giới, đó là phạm biên tội, vốn là bạch y, bất năng nam, ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế, tặc trụ, người giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, người ác tâm làm cho Phật bị thương, người phá Tăng, người bị yết ma tẫn và phi nhân. Có hai loại yết ma, đó là yết ma trị tội và yết ma thành thiện. Yết ma trị tội gồm có yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất, yết ma Hạ ý và yết ma diệt tẫn. Yết ma thành thiện gồm có yết ma thọ giới, yết ma bố tát, yết ma tự tứ, yết ma Xuất tội và yết ma Bố thảo, do có công năng thành tựu pháp thiện nên gọi là yết ma thành thiện. Việc yết ma là tùy chỗ, thuận theo nhân duyên mà làm yết ma. Ngăn yết ma là khi yết ma nếu tác bạch không như pháp hay xướng nói không như pháp hoặc phi pháp biệt chúng, nên hoại bỏ. Không ngăn yết ma là khi yết ma nếu tác bạch như pháp, xướng nói như pháp, như pháp hòa hợp chúng, không nên hoại bỏ. Yết ma diệt tẫn là các Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo bị tẫn rằng: “Thầy đã bị cử tội, hãy đi đi, Tăng không cùng thầy làm việc chung nữa, vì sao, vì Tăng đã làm yết ma, thầy hay đi đi”. Yết ma xả tẫn là Tăng cho giải yết ma tẫn, Tỳ-kheo bị tẫn được trở lại cùng tăng làm yết ma, cùng ở chung và cùng làm việc. Việc khổ thiết là nếu Tỳ-kheo ưa thích đấu tranh, Tăng nhân việc này cho yết ma Khổ thiết. Việc xuất tội tức là cử tội có ba là thấy nghe và nghi. Nếu muốn đem ba việc này cử tội người khác thì phải đúng thời không vì phi thời, việc cử tội là thật không vì hư dối, cử tội vì muốn làm lợi ích không vì vô ích, dùng lời dịu dàng cử tội không dùng lời thô sẳng, cử tội với tâm từ bi không vì sân giận. Việc nhân duyên là tùy nhân duyên của sự việc mà làm yết ma, như trong kinh Bạt-đàø bà la có nói rộng về năm Nhiếp. Việc trị tội bao gồm bốn loại yết ma trị là yết ma Khổ thiết, yết ma Y chỉ, yết ma Khu xuất và yết ma Hạ ý. Việc trừ diệt là tùy nhân duyên của sự việc mà diệt tránh, khiến cho người tranh cãi tâm hối hận chiết phục, cung kính, nói lời dịu dàng thăm hỏi và từ bỏ việc tranh cãi. Học có ba là thiện học Giới, thiện học Tâm, thiện học Huệ. Hoàn giới là nếu Tỳ-kheo nói tôi bỏ Phật tức là xả giới; hoặc nói tôi bỏ Pháp, bỏ Tăng, bỏ Giới, bỏ Hòa thượng, A-xà-lê, bỏ đồng Hòa thượng, đồng A-xà-lê, bỏ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, bỏ Thức-xoa-ma-na, bỏ Sa-di, bỏ Sa- di-ni. Hoặc nói các vị nên biết, tôi là bạch y, là Sa-di, không phải Tỳ- kheo, không phải Sa-môn Thích tử… cho đến nói không vui khi cùng học chung với các vị. Không xả giới là nếu Tỳ-kheo khi điên cuồng hay khi tâm loạn, tâm bịnh hoại mà nói xả giới thì không gọi là xả giới; hay nói với người điên cuồng, tâm loạn, tâm bịnh hoại; hoặc một mình xả giới; hoặc một mình tưởng không phải một mình, không phải một mình tưởng là một mình; hoặc người ở trong nước nói với người ở biên địa không hiểu nhau; hoặc người ở biên địa nói với người ở trong nước không hiểu nhau; hoặc nói với người câm, người điếc, người câm điếc, người không biết gì; hoặc nói với phi nhơn, người ngủ mê, người nhập định; hoặc cách vách hoặc mình đang sân hoặc nói với người đang sân; hoặc nói trong mộng hoặc nói lúc tâm mình không an định; hoặc nói với người tâm không an định… các trường hợp trên đều không gọi là xả giới. Giới suy kém nếu Tỳ-kheo ưu sầu không vui muốn bỏ giới, nhàm pháp Tỳ-kheo muốn bỏ pháp phục của bậc thánh để mặc y phục của bạch y; cần pháp bạch y không cần pháp Tỳ-kheo, cầu việc tại gia; lại nói: Tôi nhớ cha mẹ, anh chị em, họ sẽ dạy tôi nghề nghiệp sinh sống, sắp xếp cho tôi có chỗ ở tốt, xem tôi là thiện tri thức. Tỳ-kheo này ưu sầu không vui, không thích pháp Tỳ-kheo nữa, nhưng nếu nói ra lời thì cảm thấy hổ thẹn nên không nói rõ với ai là tôi phản giới hoàn tục, cho nên gọi là giới suy kém. Việc tranh cãi Có bốn, đó là ngôn tránh, vô sự tránh, phạm tránh và thường sở hành tránh. Nắm rõ sự việc là tùy nhân duyên của việc tranh cãi mà nắm rõ sự thật để diệt tránh. Diệt tránh có bảy pháp là Hiện tiền diệt sự pháp, Ức niệm diệt sự pháp, Bất si diệt sự pháp, Tự ngôn diệt sự pháp, Thật mích diệt sự pháp, Đa mích diệt sự pháp và Như thảo bố địa diệt sự pháp. Trừ diệt việc: Có năm nguyên nhân khiến sự việc dễ trừ diệt, đó là việc này bạch tăng, như lời Phật dạy diệt hai bộ bạn đảng, nói lời hòa nhã, dứt tâm sân hận của tỳ-kheo tranh cãi, Tỳ-kheo có tội có thể nói tội ra. Nói là khi thuyết giới bố tát hoặc nói bốn việc hoặc nói mười ba việc. Không nói là khi thuyết giới bố tát, Thượng tòa thứ một ở trong trú xứ không biết, không tụng được thì Thượng tòa thứ hai nên nói; nếu cũng không tụng được thì thứ lớp đến Thượng tòa thứ ba… cho đến hạ tòa, nếu tất cả đều không tụng được thì gọi là không nói. Pháp ở riêng một mình: Nếu Tỳ-kheo một mình ở nơi A-lan-nhã vào ngày bố tát, Tỳ-kheo này nên quét dọn chỗ bố tát, trải tòa ngồi… đầy đủ mọi thứ, nghó rằng: “Nếu có các Tỳ-kheo đến mà chưa làm bố tát thì sẽ cùng làm bố tát thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa”. Nếu không có ai đến thì nên lên trên tòa cao ngóng trông, khi thấy có Tỳ-kheo nào đến thì nên kêu đến để cùng làm bố tát; nếu đợi mãi không có ai đến thì nên trở về chỗ của mình, tâm niệm nghó rằng: “Hôm nay là ngày thứ mười bốn hoặc thứ mười lăm Tăng bố tát, con cũng ngày nay bố tát”. Như thế là một Tỳ-kheo đã làm bố tát xong. Yết ma si: Nếu Tỳ-kheo điên cuồng, tâm loạn lúc đến bố tát, lúc không đến; hoặc khi Tăng nhóm họp, Tăng yết ma… lúc đến lúc không đến. Đối với Tỳ-kheo này, Tăng nên dùng pháp bạch nhị tác pháp Yết ma si, như trường hợp của tỳ-kheo Thi-việt. Yết ma Bất si là trừ yết ma si, các pháp yết ma khác đều gọi là bất si. Không tiêu tín thí cúng dường: Nếu đàn việt bố thí cho người trì giới, người trì giới lại chuyển cho người phá giới; hoặc bố thí cho người chánh kiến, người chánh kiến lại chuyển cho người tà kiến nên gọi là không tiêu; nếu dùng quá lượng cũng gọi là không tiêu. Mười trường hợp yết ma không hiện tiền, đó là yết ma phú bát, yết ma ngưỡng bát, yết ma Học gia, xả yết ma Học gia, yết ma tu sửa Tăng-già-lam, yết ma giám sát dân trong Tăng-già-lam, yết ma sai Sa- di; Ni tăng tác pháp yết ma không lễ bái, không cùng nói chuyện, không cúng dường. Phi yết ma: Loại yết ma cần túc số bốn người, nếu dưới bốn người thì không gọi là làm yết ma. Nếu bạch y làm người thứ tư hoặc Sa-di, dị đạo, không phải Tỳ-kheo; người bị tẫn về không thấy tội, không sám tội, không bỏ ác tà kiến và tội bất cọng trụ; người phạm các tội bất cọng trụ, phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ- kheo-ni, người việt tế (tặc trụ); người giết cha mẹ, A-la-hán, người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương làm người thứ tư trong túc số bốn người, đều không gọi là làm yết ma. Loại yết ma cần túc số năm người nếu dưới năm người thì không gọi là làm yết ma. Nếu bạch y làm người thứ năm hoặc Sa-di, dị đạo, không phải Tỳ-kheo; người bị tẫn về không thấy tội, không sám tội, không bỏ ác tà kiến và tội bất cọng trụ; người phạm các tội bất cọng trụ, phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế (tặc trụ); người giết cha mẹ, A-la-hán, người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương, làm người thứ năm trong túc số năm người đều không gọi là làm yết ma. Loại yết ma cần túc số mười người, nếu dưới mười thì không gọi là làm yết ma. Nếu bạch y làm người thứ mười hoặc Sa-di, dị đạo, không phải Tỳ-kheo; người bị tẫn về không thấy tội, không sám tội, không bỏ ác tà kiến và tội bất cọng trụ; người phạm các tội bất cọng trụ, phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế (tặc trụ); người giết cha mẹ, A-la-hán, người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương, làm người thứ mười trong túc số mười người đều không gọi là làm yết ma. Loại yết ma cần túc số hai mươi người, nếu dưới hai mươi người thì không gọi là làm yết ma. Nếu bạch y làm người thứ hai mươi, hoặc Sa-di, dị đạo, không phải Tỳ-kheo; người bị tẫn về không thấy tội, không sám tội, không bỏ ác tà kiến và tội bất cọng trụ; người phạm các tội bất cọng trụ, phạm biên tội, người vốn là bạch y, bất năng nam, người ô nhục Tỳ-kheo-ni, người việt tế (tặc trụ); người giết cha mẹ, A-la-hán, người phá tăng, người ác tâm làm cho Phật bị thương, làm người thứ hai mươi trong túc số hai mươi người, đều không gọi là làm yết ma. Thiện là thiện pháp như trong Tỳ-ni đã nói rõ. Xuất tội: Có năm trường hợp xuất tội như pháp, đó là không đối trước người phạm Bất cọng trụ, người hành Biệt trú và người chưa thọ giới cụ túc để xuất tội; xuất tội Tàn và xuất tội thấy. Bạch là bạch tăng việc này, nếu có việc Tăng thì phải bạch trong tăng trước. Đơn bạch yết ma là nếu lìa tác bạch thì có thể hoại, nếu có tác bạch thì không thể hoại; Bạch nhị yết ma là nếu lìa tác bạch cũng không thành, hoặc xướng nói mà không bạch, hoặc bạch mà không xướng nói thì có thể hoại, tức là yết ma không thành. Nếu bạch trước rồi xướng yết ma sau thì không thể hoại. Bạch tứ yết ma là nếu lìa tác bạch hoặc bạch mà không xướng ba lần yết ma, hoặc xướng ba lần yết ma mà không bạch thì có thể hoại; nếu bạch trước rồi xướng ba lần yết ma sau thì không thể hoại. Tất cả các pháp yết ma đều căn cứ vào nghe biết này, nếu nói lại yết ma thì không có tội, nhưng nếu nói bớt không đủ số bạch nhị hay bạch tứ thì không gói là làm yết ma. Khi Tăng nhất tâm hòa hợp, nếu bạch mà chưa xướng yết ma hoặc xướng yết ma mà không bạch, Tăng liền đứng dậy đi thì người tác yết ma nên nói: “Các trưởng lão, xin các vị hòa hợp trở lại để tác bạch yết ma lại”. Nếu làm yết ma đầy đủ và như pháp thì yết ma thuộc loại không thể hoại. Yết ma Khổ thiết là do Tỳ-kheo tranh cãi về ngôn thuyết, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Khổ thiết. Yết ma Y chỉ là do Tỳ-kheo ưa tạo tội, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Y chỉ. Yết ma Khu xuất là do Tỳ-kheo làm hạnh xấu, Ô-tha-gia, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Khu xuất. Yết ma Hạ ý là do Tỳ-kheo quở mắng bạch y, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Hạ ý. Yết ma Bất kiến tẫn là do Tỳ-kheo tạo tội mà không như pháp thấy tội, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Bất kiến tẫn. Yết ma Bất tác tẫn là do Tỳ-kheo tuy thấy tội nhưng không chịu như pháp trừ tội, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Bất tác tẫn . Yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn là do Tỳ-kheo tham chấp ác tá kiến, không chịu bỏ, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn. Yết ma Biệt trụ là ở trong mười ba việc, Tỳ-kheo tùy phạm một việc nào mà che giấu, tùy theo số ngày che giấu, Tăng dùng pháp bạch tứ cho yết ma Biệt trụ. Yết ma Ma-na-đỏa là ở trong mười ba việc, Tỳ-kheo tùy phạm một việc nào mà không có che giấu, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma hành sáu đêm Ma-na-đỏa. Yết ma Bổn nhật trị là nếu Tỳ-kheo trong khi hành Ma-na-đỏa mà phạm lại tội Tăng-già-bà-thi-sa, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Bổn nhật trị, để hành lại từ đầu. Yết ma Xuất tội là nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, hành Ma-na-đỏa xong, chúng tăng tâm vui, nên dùng pháp bạch tứ cho yết ma Xuất tội, để đưA-tỳ-kheo phạm tội ra khỏi pháp bất thiện. Hỏi: Vì sao phải trụ trong pháp thiện? Đáp: Vì hành Ma-na-đỏa Hỏi: Vì sao phải hành Bổn nhật trị? Đáp: Vì để điều phục tâm Hỏi: Vì sao phải hành Ma-na-đỏa? Đáp: Để được xuất tội. Hỏi: Vì sao phải xuất tội? Đáp: Để giới được thanh tịnh. Hỏi: Vì sao biệt trú phải làm Ma-na-đỏa? Đáp: Khi Tỳ-kheo hành biệt trú khiến cho các Tỳ-kheo tâm vui, nên các Tỳ-kheo phát tâm muốn cho Ma-na-đỏa. Hỏi: Vì sao Bổn nhật trị là để chiết phục tâm? Đáp: Vì khi hành việc này trở lại từ đầu sẽ khiến tâm được chiết phục, các Tỳ-kheo nghó: “Người này kiết sử sâu nặng, cho hành Bổn nhật trị để sanh hổ thẹn không tái phạm nữa”, lúc đó các Tỳ-kheo phát tâm cho Ma-na-đỏa. Hỏi: Vì sao hành Ma-na-đỏa để xuất tội? Đáp: Khi Tỳ-kheo hành Ma-na-đỏa khiến các Tỳ-kheo tâm vui, nghó rằng: Người này nhất tâm khéo làm pháp thiện, muốn được xuất tội, không muốn trái nghịch, chúng ta nên cho xuất tội. Hỏi; vì sao xuất tội khiến cho giới thanh tịnh? Đáp: Tỳ-kheo nếu được xuất tội tức là lìa tội lỗi, nên giới thanh tịnh. Như trong luật nói có hai hạng người thanh tịnh, đó là người trước nay không tạo tội và người tạo tội rồi như pháp trừ diệt. Tỳ-kheo này nếu được xuất tội thì giới thanh tịnh trở lại. Yết ma Mích tội tướng là nếu Tỳ-kheo tự nói có phạm tội này, sau lại nói là không có. Tăng dùng pháp bạch tứ cho yết ma Mích tội tướng, như trường hợp Tỳ-kheo Tượng thủ. A-Bạt-đề: năm loại tội gọi là A-Bạt-đề, đó là Ba-la-di, Tăng-già- bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni và Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo làm năm loại tội này thì bị che ngăn không xa lìa nên gọi là A Bạt-đề. Không A-Bạt-đề: Tỳ-kheo đối với năm loại tội trên nếu không làm, không che giấu, xa lìa, tịnh hai nghiệp thân khẩu, tịnh thọ mạng; cho đến người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại tạo tội hoặc không phải trước đó có làm thì gọi là không A-Bạt-đề. Tội A-Bạt-đề khinh: Là tội có thể sám hối trừ diệt. Tội A-Bạt-đề trọng: Là tội có thể dùng yết ma cho xuất tội. Tội Tàn A-Bạt-đề: Trong năm loại tội thì bốn loại tội sau gọi là Tàn, có thể được trừ diệt. Tội Vô tàn A Bạt-đề: Loại tội thứ nhất gọi là Vô tàn. Tội ác: Chỉ cho tội Ba-la-di và Tăng-già-bà-thi-sa; tuy tất cả tội đều gọi là ác, nhưng hai tội này là ác trong ác nên gọi là tội ác. Tội không phải ác: Chỉ cho ba loại tội sau, so với hai loại tội đầu nên gọi là không phải ác. Tội có thể trị: Là tội có thể xuất, có thể diệt. Tội không thể trị: Là tội không thể xuất, không thể trừ diệt. Nhiếp tội: Là dùng một nhân duyên nhiếp hết tất cả tội đã phạm, cũng do một nhân duyên nên nói tất cả tội, tức là nhiếp ác luật nghi. Nhiếp không tội: Là dùng một nhân duyên nhiếp hết tất cả không phạm, cũng do một nhân duyên nên nói tất cả không tội, tức là nhiếp thiện luật nghi. Nói: Là Tỳ-kheo nên nói: “Trưởng lão đã phạm tội này, nên phát lồ chớ có che giấu, nên như pháp trừ diệt”. Nhớ nghó: Là Tỳ-kheo nên nói: “Trưởng lão hãy nhớ lại vào lúc nào, tại đâu đã phạm tội này”. Nói việc yết ma: Là Tỳ-kheo nên nói: “Trưởng lão ở trong đây không bạch với chúng tôi thì không được đi đến chỗ khác”. Yết ma Tát-da-la: Có năm loại, Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo khác: “Trưởng lão cho phép tôi nói việc này, nên ở chỗ này làm Tát-da-la, việc khác nên nên ở chỗ khác làm Tát-da-la, việc sẽ tùy chỗ mà làm Tát-da-la”. Tỳ-kheo nói việc phạm tội để chỉ lỗi của người khác, cũng như ngựa dữ bứt dây dàm cột ở trên đầu bỏ chạy đi. Vu báng: Là việc vu báng, phương tiện vu báng. Vu báng phát khởi: Là phát khởi việc vu báng. Vu báng chấm dứt: Là không tạo việc này nữa. Có năm cách cầu thính (xin cho phép cử tội), Tỳ-kheo đến nói với người khác: “Trưởng lão cho phép tôi nói việc của thầy, nói để thầy nhớ nghó, cho phép tôi nói ra việc này, xin cho phép tôi nói”. Có năm cách cho phép cử tội: Hoặc nói cứ nói, hãy nói, hãy nói ra, hãy làm cho tôi nhớ nghó, tôi cho phép thầy nói. Dụng thính: do được cho phép nói ra việc phạm tội của người khác nên nói, gọi là dụng thính. Ngăn Ba-la-đề-mộc-xoa: Có mười loại ngăn như pháp, đó là khi nói Ba-la-đề-mộc-xoa, nếu có Tỳ-kheo phạm Ba-la-di hoặc muốn nói ra việc Ba-la-di; hoặc có Tỳ-kheo khinh hủy Tăng, muốn nói ra việc khinh hủy Tăng; hoặc có người xả giới, muốn nói ra việc xả giới; hoặc Tỳ-kheo không tùy thuận việc Tăng như pháp; hoặc thấy, nghe, nghi người khác phá giới, phá kiến, phá oai nghi. Do việc này nên ngăn. Ngăn tự tứ: Có bốn loại như pháp ngăn tự tứ, đó là dùng phá giới có căn cứ, phá chánh kiến có căn cứ, phá chánh mạng có căn cứ và phá oai nghi có căn cứ để ngăn tự tứ. Nội túc (bên trong cùng ngủ đêm): Nếu tác pháp yết ma kết tịnh địa rồi, ở bên trong Tăng phường cùng với thức ăn ngủ chung một chỗ thì đại Tỳ-kheo không nên ăn. Nội chữ (ở bên trong nấu): Nếu ở bên trong Tăng phường nấu thức ăn thì đại Tỳ-kheo không nên ăn. Tự chử (tự nấu): Đại Tỳ-kheo tự làm thức ăn, tự nấu thức ăn thì không nên ăn. Như Phật tại Tỳ-da-ly, lúc đó thời thế mất mùa đói kém, các đàn việt muốn làm thức ăn cúng Tăng nghó rằng: “Nếu ta làm thức ăn ở nhà, bạn bè và người thân đến đều phải chia cho; nếu Phật cho chúng ta ở trong Tăng phường nấu thì tốt”, Phật do nhân duyên này cho ở bên ngoài gần Tăng phường nấu thức ăn, do thấy có khói lửa bay lên nên nhiều người tụ đến xin, nếu cho thì không còn thức ăn cúng cho Tăng, nếu không cho thì sợ họ tới làm hại nên bạch Phật, Phật cho ở bên trong Tăng phường nấu. Khi nấu ở bên trong Tăng phường, Sa-di và người giữ vườn tự lấy trước ăn no đủ, còn dư mới đem cho Tăng, Tăng ăn không no nên ốm gầy, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay, gặp lúc thời thế đói kém như vậy, dù kết tịnh địa hay chưa kết, cho các Tỳ-kheo được tự nấu thức ăn ăn. Từ nay, nếu không phải vào lúc mất mùa đói kém thì kết tịnh địa rồi có hai việc không nên dùng, đó là nội túc và nội chử, Tỳ-kheo không nên ăn. Dù kết tịnh địa hay không kết, đại Tỳ-kheo tự làm thức ăn thì không nên ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la”. Ác tróc: Nếu Tỳ-kheo thọ trì tịnh giới mà cố ý tự lấy thức ăn thì không được ăn, vì là ác tróc. Không thọ: Nếu không được nam nữ, huỳnh môn hay người hai căn trao đưa thức ăn thì Tỳ-kheo không được ăn, vì không thọ. Ác tróc thọ: Nếu Tỳ-kheo tự lấy thức ăn trước, sau đó mới thọ từ tịnh nhân thì không được ăn, vì là ác tróc thọ. Đầu giờ trong ngày thọ: Như Phật tại Tỳ-da-ly, lúc thời thế đói kém, Phật bảo các Tỳ- kheo: “Từ nay gặp lúc đói kém như thế, cho các thầy ăn xong, không thọ pháp tàn thực được ăn thức ăn đã thọ vào đầu giờ trong ngày”. Thức ăn thọ vào đầu giờ trong ngày: Tức là Tỳ-kheo vào sáng sớm đến nhà người được cúng thức ăn mà chưa ăn, để đó cho đến giờ ăn trưa. Từ đây mang ra: Như Phật tại Tỳ-da-ly, lúc thời thế đói kém, Phật cho các Tỳ- kheo đến nhà đàn việt thọ thực rồi, được mang thức ăn từ nhà này ra, không thọ pháp tàn thực mà được ăn nữa. Ăn trái cây: Như Phạm chí kết tóc Kê-ni-da mang nhiều trái cây đến dâng cúng Phật, Phật bảo đem chia cho chúng tăng, Phạm chí vâng lời Phật đem chia nhưng các Tỳ-kheo không thọ, nói rằng: “Chúng tôi ăn xong không thọ pháp dư thực nên không được thọ trái cây để ăn nữa”. Các Tỳ-kheo không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Từ nay gặp lúc mất mùa đói kém, cho các Tỳ-kheo ăn xong không thọ pháp dư thực, được thọ các loại trái cây để ăn nữa”. Lúc đó trưởng lão Xá-lợi-phất mắc bịnh máu nóng, thầy thuốc bảo nên ăn loại thực vật mọc ở trong ao, Xá-lợi-phất nói: “Phật chưa cho ăn các loại thực vật mọc trong ao”, liền bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho thọ các loại thực vật mọc trong ao để ăn”. Trưởng lão Đại Mục- kiền-liên dùng thần thông lực, đi đến trong ao Mạn-đà-kỳ-ni để hái củ sen, củ sen to như bắp vế của người và trắng trong như đường phèn, nhựa chảy ra giống như sữa. Hái xong liền mang về cho Xá-lợi-phất, Xá-lợi-phất hỏi từ đâu mà có, đáp: “Tôi hái từ trong ao Mạn đà kỳ ni”, lại hỏi: “Ao ấy là chỗ của phi nhơn, vậy ai đã trao nó cho thầy?”, đáp: “Phi nhơn trao”, Xá-lợi-phất nói: “Phật chưa cho ăn thức ăn do phi nhơn trao”, liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho thọ thức ăn do phi nhơn trao để ăn”. Lúc đó có người đem rất nhiều loại thực vật mọc ở trong ao đến cho các Trưởng lão, các Tỳ-kheo không thọ và nói: “Chúng tôi ăn rồi không thọ pháp dư thực nên không được thọ ăn nữa”. Các Tỳ-kheo không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Từ nay gặp lúc mất mùa đói kém, cho các Tỳ-kheo ăn rồi không thọ pháp dư thực được thọ các loại thực vật mọc trong ao để ăn nữa”. Loại thực vật mọc trong ao như củ sen, ngó sen, củ ấu, củ súng và Kê đầu tử. Thọ y Ca-hi-na được bảy lợi ích: Tùy ý chứa y dư, được lìa y ngủ đêm mà không mất y, thường thường ăn, ăn biệt chúng, quá ngọ không bạch thiện Tỳ-kheo mà vào tụ lạc; đàn việt thỉnh thọ thực, bữa ăn trước, bữa ăn sau tùy ý đến nhà khác, không mặc Tăng-già-lê mà vào tụ lạc. Có trú xứ hay không có trú xứ được vật thí y Ca-hi-na, nên thuộc về Tỳ-kheo an cư, không nên chia cho Tỳ-kheo khác. Ngược với trên gọi là không thọ. Xả y Ca-hi-na có tám: Lúc y đủ, lúc y thành, khi đi, khi nghe, khi mất, phát tâm, ra khỏi giới và khi xả. Ngược với trên gọi là không xả. Vật nên chia: Là vật thuộc Hiện tiền tăng nên chia. Trừ vật quý trọng của tỳ-kheo chết, các vật thường khác đều gọi là vật nên chia. Vật không nên chia: Là vật mà Hiện tiền tăng không nên chia. Trừ y bát … thuộc khinh vật của tỳ-kheo chết, các vật quý trọng khác bao gồm năm loại là đất của Tăng-già-lam, đất phòng xá, phòng xá của Tăng-già- lam, giường và ngọa cụ thì không nên chia, dù là Tăng hay ba, hai, một người đều không nên chia. Khinh vật: Là vật nên chia. Trọng vật: Là vật không nên chia. Vật thuộc về: Là vật thuộc về người khác ở trong tụ lạc, hay ở ngoài đất trống của nam, nữ hay huỳnh môn hay của người hai căn. Ngược với trên gọi là vật không thuộc về. Từ tay thọ vật: Thọ từ người khác đưa trao, bao gồm tất cả thức ăn từ miệng, trừ nước và tăm xỉa răng. Không phải từ tay thọ vật: Là vật không phải thọ từ người khác đưa trao, bao gồm những vật cần dùng như y bát… Vật là người: Như Phật cho Tăng phường, Phật điện sai bảo người (tịnh nhơn), những người này thuộc về Tăng trong tăng phường. Vật không phải người: Như Phật cho chứa nuôi voi, ngựa, lạc đà, bò, dê…, những vật này thuộc của Tăng trong Tăng phường. Y nhân duyên: Là y thọ được từ trong các đại hội như Ban-già- vu-sắt… Y chết: Nếu trong năm chúng có người chết, y vật để lại năm chúng nên chia. Y phấn tảo: Có năm loại y phấn tảo không nên chứa cất, đó là y hỏa thiêu, y bò nhai, y chuột gặm, y của người nữ mới lấy chồng và năm là y của sản phụ. Bốn loại y phấn tảo được chứa là y nơi gò mả, y lấy trở về, y không có chủ và nạp y cũ rách. Quán tỷ: Như Phật cho Tỳ-kheo Tất-lân-già-bà-ta bịnh mũi dùng ống nhỏ thuốc vào mũi. Đao trị: Có những căn bịnh dùng cách trị khác không được, phải dùng dao trị nên Phật cho dùng dao trị. Nếu có thể dùng cách trị khác trị được mà dùng dao trị thì phạm Thâu-lan-giá. Trị bằng hoạt đế: Giống như trường hợp dao trị, nếu có cách trị khác mà dùng cách hoạt đế trị thì phạm Thâu-lan-giá. Cạo lông: Trừ râu tóc ra, cạo lông trên thân phần khác thì phạm Đột-kiết-la. Cạo tóc: Khi cạo tóc không được dời chỗ, nên ngồi một chỗ mà cạo tóc. Nên dùng: Như Tỳ-kheo có năm loại hạt, năm loại tịnh nên dùng; tám loại nước ép nên dùng nước sạch, ba loại y hoại sắc trong mười loại y nên dùng. Quả trái: Các Tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly được nhiều trái cây mặc sức ăn, Phật bảo nên chia, khi chia có người lấy hai, ba phần khiến cho có người được nhiều, có người lại không được nên sanh tranh cãi. Phật bảo từ nay trái cây không nên chia, nên giao lại cho tịnh nhơn rồi dùng năm pháp tịnh của tỳ-kheo như lửa tịnh, dao tịnh, móng tay, chim anh vũ và nếu hạt không nẩy mầm thì được ăn. Vật của người dùng ở trong nhân gian như giường bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê thì Tỳ-kheo không nên ngồi nằm thọ dụng. Ngược lại nếu là của phi nhân như trời rồng thì được thọ dụng. Ngũ bách kiết tập Tỳ- ni: Sau khi Phật vừa diệt độ, năm trăm Tỳ-kheo tập họp lại một chỗ để kết tập tất cả kinh, luật, luận. Thất bách kiết tập Tỳ-ni: Sau khi Phật diệt độ khoảng một trăm mười năm, ở Tỳ-da-ly xảy ra mười việc phi pháp, phi luật trái lời Phật dạy. mười việc này không đưa vào trong kinh luật vì trái với pháp và oai nghi, nên bảy trăm Tỳ-kheo tập họp lại một chỗ để trừ diệt việc này. Nhiếp Tỳ-ni: Hai bộ Ba-la-đề-mộc-xoa và nghóa giải Tỳ-ni, tăng nhất, dư tàn tạp thuyết hoặc chung hoặc không chung đều gọi là Nhiếp Tỳ-ni. Mặc ấn: Có bốn mặc ấn và bốn đại ấn như trong kinh đã nói. Hỏi: Thế tôn vì sao nói bốn mặc ấn này? Đáp: Vì muốn nói tướng Phật pháp chân thật để các Tỳ-kheo đời sau hiểu rõ là Phật thuyết hay không phải là Phật thuyết, nên nói bốn mặc ấn. Hỏi: Thế tôn vì sao nói bốn đại ấn? Đáp: Vì thành tựu đại sự, không khiến cho các Tỳ-kheo lầm lộn nên nói bốn đại ấn. Hợp dược: Loại dược thuộc củ, thân, cành, lá hoa và quả, mỗi mỗi loại hòa hợp sai khác nhau. Ngay ngày nay thọ bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trước giờ ngọ nên dùng, vì hiệu lực của thời dược là quá ngọ không được dùng. Nếu ngay ngày nay thọ thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trong thời phần nên dùng, vì hiệu lực của thời phần dược là quá thời phần thì không được dùng. Nếu ngay ngày nay thọ thất nhật dược và tận hình dược hòa hợp lại một chỗ thì trong vòng bảy ngày nên dùng, vì hiệu lực của thất nhật dược là quá bảy ngày thì không được dùng. Nếu là tận hình dược thì trọn đời được tùy ý lấy dùng. Lại hỏi: Bốn loại dược: Thời dược, thời phần dược, thất nhật dược và tận hình dược để cách đêm có được thọ dùng không? Đáp là không được. Lại hỏi: Tỳ-kheo nếu tự lấy trước rồi mới theo tịnh nhân thọ thì có được dùng không? Đáp là không được. Lại hỏi: Bốn loại dược này nếu tay thọ, miệng thọ, Tỳ-kheo không bịnh có được dùng không? Đáp: Không được dùng, nếu bịnh thì được dùng. Pháp tịnh trong Tăng phường: Có năm loại vật báu hay tợ báu ở trong Tăng phường, Tỳ-kheo khi lấy cất nên suy nghó: “Đây là vật của ai, nếu người nào đến nhận thì sẽ trao trả lại cho họ”. Pháp tịnh trong rừng: Nhiều cây mọc tại một chỗ gọi là rừng, trong đây nên theo thứ lớp từ bậc Thượng tòa mà thọ gốc cây dừng nghỉ. Pháp tịnh về phòng xá: Trong Tăng phường có nhiều phòng xá riêng biệt, cũng nên theo thứ lớp từ bậc Thượng tòa mà thọ lấy phòng để ở. Trong đây tùy đàn việt phân xử cúng dường mà thọ. Pháp tịnh theo thời: Như lúc thời thế đói kém, lúc già bịnh, lúc có nhân duyên và lúc Phật khai cho. Pháp tịnh theo phương xứ: Như Tỳ-kheo ở cõi Diêm phù đề đến cõi Câu-da-ni thì nên theo thời ở cõi này mà thọ thực, ba phương kia cũng giống như vậy. Pháp tịnh theo quốc độ: Như các Tỳ-kheo đắc thần thông đến cõi nước xấu ác khất thực, họ để thức ăn trên đất trước mặt Tỳ-kheo rồi bỏ đi, các Tỳ-kheo không biết phải làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay khi đến quốc độ xấu ác, họ để thức ăn trên đất thì được thọ lấy ăn”, đó gọi là pháp tịnh theo quốc độ. Tùy pháp của quốc độ, như ở Biên địa năm người trì luật được truyền thọ giới cụ túc; ở quốc độ A-diệp-ba-già-a-bàn-đề được mang giày da một lớp, thường được tắm và trải nệm bằng da; ở quốc độ có tuyết lạnh được chứa mang giày ủng của thế tục. Pháp tịnh về y: Phật cho mặc mười loại y, đó là loại vải gai trắng, vải gai đỏ, Sô-ma, Súy-di-la, Khâm-bà-la, Kiếp-bối, Kiều-thi-da, y Bát-đầu-lộ, y Đầu-đầu-la, y Câu-già-la. Pháp Tự Tứ Tỳ-kheo an cư nên hòa hợp nhóm lại một chỗ, Tăng nên dùng ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi để hỏi. Vì sao Phật cho tự tứ, vì để nhiếp tăng tốt hay xấu để giáo hóa, lúc đó như pháp xuất tội để được thanh tịnh. Gởi tự tứ: Nếu Tỳ-kheo bịnh không đến được thì nên gởi tự tứ, nếu không bịnh mà khi tự tứ không đến thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ- kheo sợ gặp mạng nạn hay phá giới hoặc một trong tám nạn xảy ra không ngừng được thì nên gởi tự tứ. Pháp thọ tự tứ: Nếu Tỳ-kheo thọ tự tứ của tỳ-kheo khác thì nên thọ ở trong giới, nếu sợ gặp mạng nạn, phá giới hay một trong tám nạn sẽ xảy ra thì nên xuất giới đi. Pháp nói tự tứ: Tỳ-kheo thọ tự tứ của người khác rồi nên đến trong Tăng nói, nếu không nói thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người thọ tự tứ ngủ quên hay nhập định hay một trong tám nạn xảy ra không kịp nói thì không phạm. Pháp bố tát: Mỗi nữa tháng các Tỳ-kheo nên hòa hợp nhóm lại một chỗ, tự xét lại mình ban ngày đã phạm tội gì, ban đêm đã phạm tội gì, từ ngày thuyết giới của nữa tháng trước đến nay có phạm tội không, nếu có phạm tội thì nên đến trước Tỳ-kheo tịnh giới đồng tâm như pháp sám hối, nếu không có Tỳ-kheo tịnh giới đồng tâm thì nghó là sau này nếu gặp được, tôi sẽ như pháp sám hối. Hỏi: Vì sao Phật cho làm bố tát? Đáp: Vì muốn cho các Tỳ-kheo an trú trong thiện pháp, bỏ pháp bất thiện; nếu bỏ pháp bất thiện thì được thanh tịnh. Pháp gởi thanh tịnh: Nếu Tỳ-kheo bịnh không đến được thì nên gởi thanh tịnh, nếu không bịnh mà khi bố tát không đến thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo sợ gặp mạng nạn hay phá giới hoặc một trong tám nạn xảy ra không ngừng được thì nên gởi thanh tịnh. Pháp thọ thanh tịnh: Nếu Tỳ-kheo thọ thanh tịnh của tỳ-kheo khác thì nên thọ ở trong giới, nếu sợ gặp mạng nạn, phá giới hay một trong tám nạn sẽ xảy ra thì nên xuất giới đi. Pháp nói thanh tịnh: Tỳ-kheo thọ thanh tịnh của người khác rồi nên đến trong Tăng nói, nếu không nói thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người thọ thanh tịnh ngủ quên hay nhập định hay một trong tám nạn xảy ra không kịp nói thì không phạm. Pháp dục: dục tức là phát tâm, trong Tăng sự như pháp, tùy tăng pháp mà gởi dục. Pháp gởi dục: Nếu Tỳ-kheo bịnh không đến được thì nên gởi dục, nếu không bịnh mà khi có Tăng sự như pháp, không đến thì phạm Đột- kiết-la. Nếu Tỳ-kheo sợ gặp mạng nạn hay phá giới hoặc một trong tám nạn xảy ra không ngừng được thì nên gởi dục. Người gởi dục nên nói: “Gởi dục đến, hoặc nói gởi dục”, thì gọi là được dục; nếu gởi bằng thân nghiệp cũng gọi là được dục; nếu thân và khẩu nghiệp đều không gởi thì không gọi là được dục. Lúc đó nên dẫn Tỳ-kheo này đến trong Tăng, nếu Tỳ-kheo này không đến được thì tất cả Tăng nên đến chỗ Tỳ-kheo này. Các Tỳ-kheo không được riêng làm yết ma, nếu riêng làm yết ma thì các Tỳ-kheo phạm tội. Pháp thọ dục: Nếu Tỳ-kheo thọ dục của tỳ- kheo khác thì nên thọ ở trong giới, nếu sợ gặp mạng nạn, phá giới hay một trong tám nạn sẽ xảy ra thì nên xuất giới đi. Pháp nói dục: Tỳ-kheo thọ dục của người khác rồi nên đến trong Tăng nói, nếu không nói thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người thọ dục ngủ quên hay nhập định hay một trong tám nạn xảy ra không kịp nói thì không phạm . Pháp thanh tịnh: Là Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Tôi thanh tịnh không có tội”. Pháp gởi thanh tịnh: Nếu Tỳ-kheo bịnh không đến được thì nên gởi thanh tịnh, nếu không bịnh có thể đến đuợc mà không đến thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo sợ gặp mạng nạn hay phá giới hoặc một trong tám nạn xảy ra không ngừng được thì nên gởi thanh tịnh. Người gởi thanh tịnh nên nói: “Gởi thanh tịnh đến”, thì gọi là được thanh tịnh; nếu gởi bằng thân nghiệp cũng gọi là được thanh tịnh; nếu thân và khẩu nghiệp đều không gởi thì không gọi là được thanh tịnh. Lúc đó nên dẫn Tỳ-kheo này đến trong Tăng, nếu Tỳ-kheo này không đến được thì tất cả Tăng nên đến chỗ Tỳ-kheo này. Các Tỳ-kheo không được riêng làm bố tát, nếu riêng làm bố tát thì các Tỳ-kheo phạm tội. Pháp dục thanh tịnh: Nếu khi bố tát, Tăng muốn làm các loại yết ma, lúc đó nên cùng gởi dục và thanh tịnh. Pháp gởi dục thanh tịnh: Nếu Tỳ-kheo bịnh không thể đến được thì nên gởi dục thanh tịnh, nếu không bịnh có thể đến được mà không đến thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo sợ gặp mạng nạn hay phá giới hay một trong tám nạn xảy ra thì nên gởi dục thanh tịnh. Người gởi dục nên nói: “Gởi dục thanh tịnh đến”, thì gọi là được dục thanh tịnh; nếu gởi bằng thân nghiệp cũng gọi là được dục thanh tịnh; nếu thân và khẩu nghiệp đều không gởi thì không gọi là được dục thanh tịnh. Lúc đó nên dẫn Tỳ-kheo này đến trong Tăng, nếu Tỳ-kheo này không đến được thì tất cả Tăng nên đến chỗ Tỳ-kheo này. Các Tỳ-kheo không được riêng làm bố tát, riêng làm yết ma; nếu riêng làm bố tát, yết ma thì các Tỳ- kheo phạm tội Pháp thọ dục thanh tịnh: Nếu Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh của tỳ- kheo khác thì nên thọ ở trong giới, nếu sợ gặp mạng nạn, phá giới hay một trong tám nạn sẽ xảy ra thì nên xuất giới đi. Pháp nói dục thanh tịnh: Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh của người khác rồi nên đến trong Tăng nói, nếu không nói thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người thọ dục thanh tịnh ngủ quên hay nhập định hay một trong tám nạn xảy ra không kịp nói thì không phạm. Pháp xây tháp: Cư só Cấp-cô-độc tín kính Phật pháp nên đến chỗ Phật đảnh lễ và bạch rằng: “Khi Thế tôn đi du hành các nước, con không được diện kiến, cúi xin Thế tôn lưu lại vật gì để con cúng dường”, Phật đưa ít tóc và móng tay cho cư só và bảo nên cúng dường, cư só bạch Phật: “Thế tôn cho con được xây tháp cúng dường móng tay và tóc này”, Phật chấp thuận cho cư só xây tháp. Đất tháp: Là đất thuộc về tháp, đất ban đầu là đất vườn hay đất ruộng, nhưng khi xây tháp trên đó thì gọi là đất tháp. Pháp làm khám tháp: Phật cho làm khám tháp hay trụ tháp, cũng rộng cho làm tất cả pháp làm tháp. Vật tháp vô tận: Các thương nhơn ở Tỳ-da-ly đem vật tháp chuyển đổi sanh lợi, được lợi để cúng dường tháp, sau đó muốn đến xứ xa cầu lợi nên đem vật tháp này đến cho Tỳ-kheo và nói: “Trưởng lão, đây là vật tháp, thầy nên chuyển đổi sanh lợi, để được lợi cúng dường tháp”, Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho chúng tôi xuất vật tháp để sanh lợi, được lợi cúng dường tháp”, liền bạch Phật, Phật bảo: “Cho tịnh nhân hay Ưu-bà-tắc trong Tăng phường chuyển đổi vật tháp sanh lợi, để được lợi cúng dường tháp”. Pháp cúng dường tháp vô tận: Phật cho dùng các màu sắc như trắng, đỏ, xanh, vàng… và các món trang nghiêm để cúng dường tháp. Pháp trang nghiêm tháp: Bao gồm các tòa kim cang, lầu gác cao, linh báu, tràng phan, lọng cho đến dùng các vật báu để trang nghiêm tháp như vàng, bạc, trân châu, xa cừ… Pháp dùng hoa hương, chuỗi anh lạc: Phật cho dùng các loại hương thơm, hương bột, hương thoa, các loại hoa, chuỗi anh lạc cho đến trổi âm nhạc để cúng dường tháp. Pháp kiên: Tỳ-kheo tùy ở trong phòng nào, trong đó tùy đàn việt phân xử được thọ cúng dường. Pháp kiên kiên: Nếu đàn việt cho Tỳ-kheo thức ăn uống và y mền, vì nhân duyên này, Tỳ-kheo nên xa lìa hai việc, đó là thường thường ăn và ăn biệt chúng. Pháp cháo: Phật cho dùng tám món cháo như cháo tô, cháo hồ ma, cháo dầu, cháo sữa, cháo đậu nhỏ, cháo đầu ma sa, cháo lỏng… khi ăn không phát ra tiếng. Pháp ăn nhai: Phật cho ăn nhai chín loại thức ăn từ củ, thân, cành, lá, hoa, quả, thức ăn giã, mè, đường phèn và mật trắng, khi ăn không phát ra tiếng lớn. Pháp hàm tiêu: Phật cho dùng bốn loại dược hàm tiêu là tô, dầu, mật và thạch mật; Tỳ-kheo khi ăn nên suy nghó: “Tôi vì nhân duyên trị bịnh nên ăn, không vì ngon bổ”. Pháp ăn: Phật cho ăn năm loại thức ăn như cơm, bún, xôi nếp, thịt và cá; Tỳ-kheo khi ăn nên khởi tâm nhàm lìa vì để gìn thân mạng, nghó chớ nên thường thường ăn và ăn biệt chúng, lại tưởng như là thọ thức ăn dư. Pháp bát: Phật cho chứa hai loại bát gốm sứ và bát sắt; không cho chứa tám loại bát bằng vàng, bạc, lưu ly, ma ni, bát đồng, bát bạch lạp, bát cây và bát đá. Pháp y: Có bảy loại y không cần tác tịnh được tự ý cất dùng, đó là y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, y tắm mưa, y che phủ ghẻ, Ni-sư-đàn và các y vật cần dùng như pháp khác. Pháp Ni-sư-đàn: Phật cho cất chứa Ni-sư-đàn vì ái hộ ngọa cụ của tăng, nếu không có Ni-sư-đàn thì không được ngồi trên ngọa cụ của Tăng. Pháp kim: Phật cho cất chứa hai loại kim may là kim bằng đồng và sắt với mũi kim như hạt lúa, mũi như đậu nhỏ và mũi kim tròn. Pháp ống đựng kim: Phật cho cất chứa ống đựng kim vì ái hộ kim, không để kim rơi mất, nếu lo tìm kiếm thì trở ngại việc hành đạo. Pháp bình nước: Phật cho cất chứa bình đựng nước để giữ nước được sạch. Pháp bình nước thường dùng: Phật cũng cho cất chứa bình đựng nước thường dùng để giữ nước được sạch, nắp đậy cũng như vậy. Pháp Hòa thượng: Nếu các Tỳ-kheo không có Hòa thượng thì sẽ làm việc xấu hoặc có bịnh không ai chăm sóc, nên Phật cho được làm Hòa thượng. Hòa thượng nên dạy bảo, chăm sóc và thuyết pháp cho đệ tử, tuy Phật cho được làm Hòa thượng nhưng các Tỳ-kheo vẫn không muốn làm Hòa thượng, Phật bảo họ nên làm Hòa thượng. Pháp đệ tử cọng hành: Đệ tử muốn đi đâu nên bạch Hòa thượng, khi đi nên đi theo sau Hòa thượng để cung cấp những vật cần dùng, thường đi theo sau không xa lìa, như pháp phụng sự không có ý trái nghịch. Làm việc gì cũng phải bạch Hòa thượng, trừ đại tiểu tiện, xỉa răng và đảnh lễ Phật, pháp, tăng. Pháp A-xà-lê: Nếu các Tỳ-kheo không có A-xà-lê thì sẽ làm việc xấu hoặc có bịnh không ai chăm sóc, nên Phật cho được làm A-xà-lê. A-xà-lê nên dạy bảo, chăm sóc và thuyết pháp cho đệ tử, tuy Phật cho được làm A-xà-lê nhưng các Tỳ-kheo vẫn không muốn làm A-xà-lê, Phật bảo họ nên làm A-xà-lê. Pháp đệ tử cận hành: Đệ tử muốn đi đâu nên bạch A-xà-lê, khi đi nên đi theo sau A-xà-lê để cung cấp những vật cần dùng, thường đi theo sau không xa lìa, như pháp phụng sự không có ý trái nghịch. Làm việc gì cũng phải bạch A-xà-lê, trừ đại tiểu tiện, xỉa răng và đảnh lễ Phật, pháp, tăng. Hòa thượng và A-xà-lê đối với đệ tử cọng hành và đệ tử cận hành nên khởi tưởng như con; đệ tử cọng hành và đệ tử cận hành đối với Hòa thượng và A-xà-lê nên khởi tưởng như cha. Nếu các vị làm được như vậy thì ở trong Phật pháp mới tăng trưởng thiện pháp. Pháp Sa-di: Phật cho chứa nuôi Sa-di nhỏ nhất là bảy tuổi có thể đuổi được chim quạ trên các bữa ăn. Pháp y chỉ: Lúc đó có khách Tỳ-kheo chưa đủ năm tuổi hạ, trời sắp tối đến trong Tăng phường cầu y chỉ, đứng chờ lâu nên ngất xỉu xuống đất mà chết. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay, ngay ngay đó đến không nên gấp cầu y chỉ, nên ngủ qua đêm rồi mới cầu y chỉ”. Lúc đó các Tỳ-kheo không hỏi tốt xấu, chỉ cốt được cầu y chỉ nên không thể tăng trưởng thiện pháp, Phật bảo: “Chớ chỉ cốt cầu y chỉ, nên xem xét Tỳ-kheo này có thể giáo hóa đệ tử được tốt hay không, nếu xét thấy người này có đủ công đức thì cho cầu y chỉ; nếu người không có đủ công đức thì nên cầu y chỉ lại”. Pháp cho y chỉ: Nếu Tỳ-kheo đủ mười tuổi hạ thì được cho người khác y chỉ, nếu đủ mười tuổi hạ nhưng căn độn không có trí huệ thì không nên cho người y chỉ. Pháp thọ y chỉ: Tỳ-kheo cầu y chỉ nên từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu, cởi bỏ giày dép, quỳ gối chắp tay trước Thượng tòa nói ba lần cầu y chỉ. Pháp xả y chỉ: Có năm nguyên nhân xả y chỉ: Một là sư Ba-na-di, hai là tự bỏ trú xứ đi, ba là phản giới hoàn tục, bốn là bỏ bộ này đến trong bộ khác, năm là gặp lại Hòa thượng trước kia. Pháp đất: Tùy ở chỗ đất nào muốn xây tháp hay Tăng phường, trước hết phải xét xem chỗ đất này rồi mới được xây cất. Nếu chỗ đất này xây cất không có cản trở chỗ đi lại, nơi đây có đủ rừng cây và nước sạch, ngày đêm yên tónh, ít muỗi mòng, ít gió, ít nóng, ít các loại trùng độc… Nếu không xem xét như thế mà liền xây cất tháp hay Tăng phường thì Tỳ-kheo xây cất phạm tội Đột-kiết-la. Pháp Tăng phường: Phật cho ở trong Tăng phường được xây phòng xá, giảng đường, nhà ăn, nhà suởi ấm… cho đến lầu gác, nhà một tầng, nhà nóc nhọn… Phật cho chúng tăng coi giữ cũng cho một người coi giữ. Pháp ngọa cụ: Phật cho các Tỳ-kheo được cất chứa ngọa cụ như giường dây có lỗ bệ to, giường dây có lỗ bệ nhỏ, gối, mền, nệm… Phật cho chúng tăng coi giữ, cũng cho một người coi giữ. Pháp tu sửa tháp và tăng phường: Lúc đó tháp và Tăng phường ở nước A-la-tỳ hư hoại, Phật hỏi A-nan vì sao không ai tu sửa, A-nan bạch Phật: “Vì Lục quần Tỳ- kheo coi giữ nên không ai chịu tu sửa”, Phật bảo: “Nếu tháp và Tăng phường hư hoại, Lục quần Tỳ-kheo không tu sửa thì chúng tăng nên làm yết ma sai người khác tu sửa”. Lúc đó người được yết ma sai tu sửa chỉ làm chút ít việc như lợp ngói, nhổ cỏ, lấp lỗ hổng trên nền, trên vách rồi không muốn làm nữa, Phật bảo: “Người làm chút ít như vậy, Tăng không nên làm yết ma sai, nên sai người có khả năng tu sửa nhiều, mới làm yết ma sai tu sửa tháp và tăng phường”. Pháp của người tu sửa tháp và tăng phường: nếu Tỳ-kheo muốn xây tháp và Tăng phường mới, làm ngọa cụ mới thì Tăng nên làm yết ma sai trong thời gian mười hai năm, bỏ hết các việc khác để làm; nếu tu sửa lại tháp và tăng phưởng cũ hư hoại thì Tăng nên làm yết ma sai tu sửa trong gian gian là sáu năm, bỏ hết các việc khác để tu sửa. Pháp cung kính: Nên theo thứ lớp từ bậc Thượng tòa mà đảnh lễ, đón tiếp, đưa tiễn, chắp tay, cung kính. Pháp dùng tháo đậu: Phật cho dùng đậu nhỏ, đậu lớn, đậu ma-sa, Nhất-lê-tần-đà, càn thảo tiết, không được dùng ác loại hương tạp trừ người bịnh. Nếu không xin mà đàn việt tự cho thì được tùy ý dùng. Pháp nước ép trái cây: Phật cho Tỳ-kheo dùng tám loại nước ép trái cây, đó là nước trái Chiêu-lê, nước trái Mạc-lê, nước trái Câu-la, nước trái xá-lê, nước trái Xá-đa, nước trái Bồ-đào, nước trái phả-lâu-sa và nước trái lê. Tám loại nước ép trái cây này lấy nước làm tịnh nên uống. Pháp cỏ thuốc: Phật cho cất chứa các loại cỏ thuốc từ rễ, thân, cành, lá, hoa, quả. Tăng được cất chứa, một người cũng được cất chứa. Pháp nước uống Tô-tỳ-la: Như trường hợp Tỳ-kheo Xá-lợi-phất bị bịnh lạnh, Phật cho dùng nước uống Tô-tỳ-la. Pháp da thuộc: Các loại da thuộc Tỳ-kheo không nên cất chứa mặc, không nên dùng ngồi, trừ giày da, giày phú la. Pháp giày da: Phật cho hai loại giày da là giày da một lớp và giày da phá mạn tịnh. Không được dùng giày da có trang hoàng tạp sắc. Pháp chống chân: Phật cho dùng hai vật để chống chân, đó là chống chân nghiêng và chống chân giường, tám vật chống chân khác không nên dùng. Pháp ghế: Loại ghế khi ngồi dao động ra tiếng thì không nên dùng. Pháp trượng: Phật cho làm trượng, trên đầu trượng làm nhiều vòng khoan bằng sắt hay bằng đồng. Khi Phật ở trong Hàn viên lâm, có nhiều loại bò sát, côn trùng độc cắn Tỳ-kheo nên Phật bảo khua tích trượng ra tiếng để xua đuổi chúng đi. Pháp túi bọc tích trượng: Vì ái hộ tích trượng, không để cho mất, tìm cầu sẽ trở ngại cho việc hành đạo, Phật cho chứa túi bọc cất tích trượng. Pháp ăn tỏi: Như trường hợp trưởng lão Xá-lợi-phất bị bịnh lạnh, Phật cho dùng thuốc hòa với tỏi dùng để trị bịnh. Pháp dao cạo: Phật cho Tăng cất chứa dao cạo, một người cũng được cất chứa để cạo râu tóc. Pháp túi đựng dao cạo: Vì ái hộ dao cạo không để cho mất, tìm cầu sẽ trở ngại cho việc hành đạo nên Phật cho chứa túi đựng dao cạo. Pháp khóa cửa: Phật cho dùng móc khóa để giữ gìn phòng xá, giữ gìn phòng xá tức là giữ gìn tự thân, giữ gìn tự thân tức là giữ gìn ngọa cụ. Giống như móc khóa, ống khóa, chìa khóa cũng đều như vậy. Pháp đi xe: Phật cho Tỳ-kheo bịnh được đi xe như trường hợp trưởng lão Tất-lân-già-bà-ta. Pháp dù: Phật không cho cầm dù đi vào nhà bạch y, trừ khi xếp dù cầm đi vào. Pháp quạt: Phật cho chúng tăng cất chứa quạt, một người cũng được cất chứa. Pháp phất trần: Phật cho Tăng cất chứa cây phất, một người cũng được cất chứa. Pháp gương: Phật không cho các Tỳ-kheo soi gương, soi mặt trong bát nước, trừ trên mặt có mụn nhọt. Pháp trị mắt: Có năm vật dùng tô vẽ mắt, đó là vật đen, vật xanh trắng, mạt vụn của cỏ, mạt vụn của hoa, quả và nhựa cây. Phật bảo: “Không vì làm đẹp mà tô vẽ mắt, mà vì trị bịnh”. Pháp làm thẻ trị mắt: Thẻ này làm bằng sắt, đồng, vỏ ốc, ngà voi, sừng. Phật cho dùng vật đựng vì ái hộ, không để cho mất, tìm cầu sẽ trở ngại cho việc hành đạo. Pháp dùng hương hoa anh lạc: Tỳ-kheo không được đeo tràng hoa chuỗi anh lạc, nếu không xin mà được cho thì tùy ý nhận, sau đó mang đến cúng dường tháp Phật và tháp A-la-hán. Pháp ca múa âm nhạc: Phật không cho Tỳ-kheo đi xem nghe, cũng không được bảo người khác đi xem nghe. Pháp nằm: Tỳ-kheo không bịnh thì ban ngày không nên nằm, nếu trong đêm có đốt đuốc sáng cũng không nên nằm. Nếu ngủ thích ngáy thì nên thức dậy đi kinh hành, nếu không thể đi được thì nên đến chỗ khuất, không nên vì nhân duyên này làm não loạn ngừoi khác. Pháp ngồi: Tỳ-kheo ban ngày nên ngồi hoặc kinh hành để ngăn pháp phiền não che đậy, đầu đêm cũng nên ngồi hoặc kinh hành, đến giữa đếm mới vào phòng ngủ nghỉ. Nên trải bốn lớp Uất-đa-la-tăng, Tăng-già-lê gối dưới đầu, nằm nghiêng bên hông phải, chồng gót chân, tướng sáng hiện tiền, nhớ nghó thức dậy. Cuối đêm thức dậy ngồi hay kinh hành cũng để ngăn pháp phiền não che đậy. Pháp thiền trượng: Phật cho dùng pháp trượng và chỗ để pháp trượng, vì ái hộ không để cho mất, tìm cầu sẽ trở ngại cho việc hành đạo. Pháp thiền đới: Phật cho Tỳ-kheo bịnh đau lưng được cột dây thiền, như trường hợp trưởng lão Xá-lợi-phất. Phật cho dùng ba loại dây thiền, đó là dây dệt thành, dây bện đan thành và dây bện bằng lông thú. Pháp dây cột móc y: Phật cho dùng dây cột móc y để giữ y không rớt xuống, vì ái hộ không để cho mất, tìm cầu sẽ trở ngại cho việc hành đạo. Pháp vén cột y: Trừ khi làm ở trên cao mới vén cột y, những lúc khác thì không nên vén cột. Pháp quăng ném: Phật cho quăng ném để gây ra tiếng động vì sợ có giặc, những lúc khác không nên làm. Pháp đất: Phật cho thọ nhận đất để xây cất Tăng-già-lam và phòng xá. Sự việc là tranh cãi qua lại, vu báng nhau, xuất tội nhau, ghét nhau… Ngay nơi tự thân có làm ác như thế thì cũng khiến người khác làm ác, cả hai đều ác. Những việc lám suy não như vậy đều không nên làm, tất cả việc phá Tăng đều không nên làm. Có hai trường hợp phá Tăng là phá yết ma tăng và phá luân tăng. Phá yết ma tăng là nếu các Tỳ-kheo ở trong cùng một giới mà riêng lám bố tát, riêng làm yết ma. Phá pháp luân tăng là chỉ cho bát chánh đạo, khiến người khác bỏ đạo bát chánh vào trong tà đạo thì gọi là phá luân tăng. ni. Hành Pháp Của Tỳ-Kheo Hành pháp của tỳ-kheo bị tẫn: Tỳ-kheo bị tẫn không được truyền đại giới cho người. Không được thọ người khác y chỉ. Không được nuôi Sa-di. Không được thọ Tăng sai giáo giới Tỳ-kheo-ni. Nếu đã được Tăng sai cũng không được đến giáo giới Tỳ-kheo- Không được tái phạm tội đã phạm. Không được phạm tội tương tợ. Không được phạm tội nặng hơn tội này. Không được quở trách các yết ma. Không được quở trách người làm yết ma. Không được xuất tội Tỳ-kheo thanh tịnh. Không được thọ Tỳ-kheo thanh tịnh làm lễ, nghinh đón; cúng dường y bát, ngọa cụ… cho đến xoa bóp chân tay. Nếu không bịnh thì không được thọ người khác xoa bóp, tâm phải hối cải chiết phục. Không được cùng nói chuyện, cùng làm việc với Tỳ-kheo thanh tịnh, thường làm một mình để chiết phục tâm. Phải tùy thuận các Tỳ- kheo, nên đảnh lễ, đón tiếp và cúng dường các thứ. Những hành pháp trên nếu không tuân giữ thì suốt đời không được giải tẫn. Hành pháp của tỳ-kheo bị Bất cọng trụ: Có hai trường hợp bị Bất cọng trụ: Một là tự làm việc Bất cọng trụ; Hai là Tăng cho yết ma không cùng ở chung. Tỳ-kheo bị Bất cọng trụ: Không được truyền đại giới cho người. ni. Không được thọ người khác y chỉ. Không được nuôi Sa-di. Không được thọ Tăng sai giáo giới Tỳ-kheo-ni. Nếu đã được Tăng sai cũng không được đến giáo giới Tỳ-kheo- Không được tái phạm tội đã phạm. Không được phạm tội tương tợ. Không được phạm tội nặng hơn tội này. Không được quở trách các yết ma. Không được quở trách người làm yết ma. Không được xuất tội Tỳ-kheo thanh tịnh. Không được thọ Tỳ-kheo thanh tịnh làm lễ, nghinh đón; cúng dường y bát, ngọa cụ… cho đến xoa bóp chân tay. Nếu không bịnh thì không được thọ người khác xoa bóp, tâm phải hối cải chiết phục. Không được cùng nói chuyện, cùng làm việc với Tỳ-kheo thanh tịnh. Không được thọ Tăng sai làm người trải tọa cụ, làm người sai Sa-di, làm người sai người giữ vườn, làm người xử phân thọ thỉnh, cho đến sai làm người thọ sự việc Tăng cũng đều không được thọ. Chớ phạm các Tỳ-kheo, nếu phạm các Tỳ-kheo thì tăng thếm các loại Bất cọng trụ. Các Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo này: “Trưởng lão nên điều phục tâm ác, hạ mình trừ bỏ sân hận, kiêu mạn, đừng để Tăng họp các tội Bất cọng trụ. Nếu Tăng tẫn xuất thầy thì không có chỗ nào dung chứa thầy, thầy nên ở trong Tăng sám hối tội này, Tăng sẽ giải tội tẫn cho thầy, Tăng trú xứ khác không thể giải tẫn cho thầy được”. Nếu người này nghe rồi mà tâm không chiết phục thì nên tẫn xuất, cũng như ngựa dữ bứt dây dàm cột ở trên đầu mà bỏ chạy đi. Hành pháp của tỳ-kheo làm Thác lại tra: Có hai mươi hai pháp từ lợi căn đa văn: Một là khéo biết nguồn gốc phát khởi của sự việc. Hai là khéo phân biệt sự tướng. Ba là khéo biết việc sai khác. Bốn là khéo biết đầu đuôi ngọn ngành của sự việc. Năm là khéo biết trọng khinh của sự việc. Sáu là khéo biết trừ diệt việc tranh cãi. Bảy là khéo biết diệt tránh rồi sẽ không phát khởi lại nữa. Tám là khéo biết người làm việc, người có việc. nhận. Chín là có thể chỉ dạy và có năng lực làm cho người khác tiếp Mười là có thể phương tiện nói lời dịu dàng và có năng lực làm cho người khác tiếp nhận. Mười một và mười hai là có năng lực tự chiết phục và khiến người khác tiếp nhận. Mười ba là biết hổ thẹn Mười bốn là tâm không kiêu mạn Mười lăm là không nói những lời cao ngạo Mười sáu, mười bảy và mười tám là ba nghiệp thân khẩu ý không dính mắc một bên. Mười chín và hai mươi là không tùy ái hành, sân hành. Hai mươi và hai mươi hai là không tùy bố hành, si hành. Tỳ-kheo làm Thác lại tra thành tựu hai mươi hai pháp này thì có thể diệt tránh, không dựa vào hai bên bạn đảng để cầu pháp, cầu tài. Hành pháp của người bị Thật mích tội tướng: Nếu Tỳ-kheo trước tự nói là tôi có tội này, sau đó lại nói là không có, Tăng nên dùng pháp bạch tứ cho Thật mích tội tướng, như trường hợp Tỳ-kheo Tượng-thủ. Tỳ-kheo được cho yết ma Thật mích tội tướng là: ni. Không được truyền đại giới cho người. Không được thọ người khác y chỉ. Không được nuôi Sa-di. Không được thọ Tăng sai giáo giới Tỳ-kheo-ni. Nếu đã được Tăng sai cũng không được đến giáo giới Tỳ-kheo- Không được tái phạm tội đã phạm. Không được phạm tội tương tợ. Không được phạm tội nặng hơn tội này. Không được quở trách các yết ma. Không được quở trách người làm yết ma. Không được xuất tội Tỳ-kheo thanh tịnh. Không được thọ Tỳ-kheo thanh tịnh làm lễ, nghinh đón; cúng dường y bát, ngọa cụ… cho đến xoa bóp chân tay. Nếu không bịnh thì không được thọ người khác xoa bóp, tâm phải hối cải chiết phục. - Không được cùng nói chuyện với Tỳ-kheo thanh tịnh, phải tùy thuận các Tỳ-kheo, nên đảnh lễ đón đưa và cúng dường các thứ. Nếu không tuân theo những hành pháp trên thì suốt đời không được giải yết ma này. Hành pháp của Dữ học Sa-di (Sa-di học hối): Nếu Tỳ-kheo phạm dâm dục rồi, cho đến trong khoảnh khắc khảy móng tay mà không sanh tâm cho giấu, Tăng nên Bạch tứ yết ma cho học pháp Tỳ-kheo trở lại, như trường hợp của tỳ-kheo Nan-đề, đó gọi là Dữ học Sa-di. Hành pháp của Sa-di dữ học là tất cả giới của Đại Tỳ- kheo đều phải giữ, nên đi sau, ngồi sau các đại Tỳ-kheo, nên dâng thức ăn uống cho các đại Tỳ-kheo, còn mình tự đến người chưa thọ đại giới thọ lấy thức ăn; được cùng đại Tỳ-kheo ngủ chung một phòng hai đêm, còn mình không được cùng người chưa thọ đại giới ngủ quá hai đêm. Được cùng các đại Tỳ-kheo làm hai loại yết ma là yết ma bố tát và yết ma tự tứ, nhưng không được xếp vào trong túc số Tăng để làm bố tát và các yết ma. <篇> LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 57 TỲ KHEO TỤNG (Tiếp Theo) Hành Pháp Của Tỳ-Kheo (Tiếp Theo): Pháp Thượng tòa của Tăng: Khi Tăng xướng thời đáo hoặc đánh kiền chùy nên mau đến chỗ ngồi, nên nhìn ngó thượng, trung, hạ tòa có ai ngồi không như pháp không, chớ để mất thứ lớp. Nếu có ai ngồi không như pháp thì Thượng tòa nên chỉ bảo ngồi như pháp và theo thứ lớp, nên hiện tướng cho biết, nếu không biết thì khảy móng tay, nếu khảy móng tay mà cũng không biết thì nên nói với người ngồi gần bên, nên nói lời dịu dàng. Khi Tăng thọ thực, Thượng tòa nên bảo sớt thức ăn bình đẳng, phải đợi xướng Tăng bạt và tất cả Tăng phải thuận theo Thượng tòa. Pháp Thượng tòa trong Tăng phường: Nếu Tăng phường bị hư hoại, Thượng tòa nên tự tu sửa hay bảo người tu sửa. Nếu không thấy Tỳ-kheo thì nên tìm, có Tỳ-kheo binh nên thăm hỏi, nếu không có người khán bịnh thì nên cho người khán bịnh. Nếu Tăng sai khán bịnh mà không chịu làm thì nên theo thứ lớp trong Tăng cắt đặt người khán bịnh. Tăng ở trong Tăng phường này được lợi thí, Thượng tòa nên làm phương tiện chớ để cho mất; nếu được lợi thí nên cắt đặt Tỳ-kheo có khả năng để xử phân. Nếu trong Tăng phường có làm việc gì thì Thượng tòa nên tự thân làm trước. Pháp Thượng tòa ở trong phòng riêng: Nếu trong phòng riêng bị hư hoại, Thượng tòa nên tự tu sửa hay bảo người tu sửa. Nếu không thấy Tỳ-kheo thì nên tìm, có Tỳ-kheo binh nên thăm hỏi, nếu không có người khán bịnh thì nên cho người khán bịnh. Nếu Tăng sai khán bịnh mà không chịu làm thì nên theo thứ lớp trong Tăng cắt đặt người khán bịnh. Tăng ở trong Tăng phường này được lợi thí, Thượng tòa nên làm phương tiện chớ để cho mất; nếu được lợi thí nên cắt đặt Tỳ-kheo có khả năng để xử phân. Nếu trong Tăng phường có làm việc gì thì Thượng tòa nên tự thân làm trước. A-lam: Là Tăng-già-lam, trong Tăng-già-lam có quy định hay chế hạn gì, nếu tùy pháp không làm cho mình và người khác phiền não thì nên tiếp nhận chế hạn này. Ngược lại nếu chế hạn này mất lợi, làm cho mình và người phiền não thì không nên tiếp nhận, nên bỏ đi nơi khác. Nếu Tỳ-kheo tự biết có thế lực đồng kiến, có thể như pháp diệt trừ được chế hạn này thì nên bạch Tăng để diệt trừ. Pháp rừng cây: rừng có nhiều cây cành lá nối tiếp nhau, trong phạm vi một Câu-lô-xá được tùy ý không mất y. Pháp phòng riêng trong Tăng-già-lam: Trong Tăng-già-lam có nhiều phòng riêng biệt, trong đây có những quy định hay chế hạn gì, nếu tùy pháp không làm cho mình và người khác phiền não thì nên tiếp nhận chế hạn này. Ngược lại nếu chế hạn này mất lợi, làm cho mình và người phiền não thì không nên tiếp nhận, nên bỏ đi nơi khác. Nếu Tỳ-kheo tự biết có thế lực đồng kiến, có thể như pháp diệt trừ được chế hạn này thì nên bạch Tăng để diệt trừ. Pháp phòng xá: Trong phòng xá của mình ở, Tỳ-kheo nên tưới quét, tô trét cho bằng phẳng, sắp xếp lại ngọa cụ, nếu dơ thì đem giặt. Khi muốn đi ra ngoài thì nên giao trả ngọa cụ lại cho Tăng, đóng cửa phòng khóa lại rồi mới đi. Pháp ngọa cụ: Nếu dùng ngọa cụ của Tăng thì được mang ra ngoài cửa Tăng phường trong khoảng bốn mươi chín tầm, không được quá, nếu quá cho đến sáng hôm sau thì phạm Đột-kiết-la. Pháp cửa: Cửa là chỗ ra vào, khi đóng cửa không được đóng mạnh quá, khi mở cửa cũng không được đẩy mạnh quá. Lúc đóng cửa phải nhẹ nhàng, lúc ra vào cửa cũng phải thư thả, không được để y vướng vào hai bên cửa. Pháp cài đóng cửa: Khi đi ra nên cài đóng cửa lại để giữ gìn Tăng phường và cũng để giữ tự thân. Pháp Tăng phường trống: Khi Tỳ-kheo vào trong Tăng phường trống không, nên tưới quét cho sạch, nếu trong đó có khí cụ cần dùng thì nên rửa sạch đem cất. Nếu có tịnh nhân thì nên bảo họ nhổ sạch cỏ trong Tăng phường, nếu không có tịnh nhân thì Tỳ-kheo như pháp thấy có việc gì nên làm thì làm, không nên chỉ ra vào ở trong Tăng phường trống. Pháp bát: Tỳ-kheo nên xem bát như mắt của mình, không nên để trên đất, trên đá, ở chỗ cao, chỗ bị mưa dột hay ở đầu tường, cũng không được để ở chỗ đại tiểu tiện và chỗ rửa và trong nhà tắm. Nếu rửa bát, chưa khô thì không nên đem cất, cũng không được phơi quá khô, không được cố ý làm cho bể, nên khéo ái hộ chớ làm cho bể hay mất, vì nhân duyên tìm cầu sẽ trở ngại việc hành đạo. Pháp y: Phải ái hộ y như da của mình, khi mặc y Tăng-già-lê không được khiêng đá cỏ bùn, không được tưới quét và dùng tay lấy bùn tô trét vách…; không được giẫm chân trên Tăng-già-lê, không được trải Tăng-già-lê ngồi, nằm; không được lấy Tăng-già-lê mặc làm áo trong. Tỳ-kheo nên mặc y Tăng-già-lê như pháp, mặc y Uất-đa-la-tăng như pháp, mặc y An-đà-hội như pháp; nên dùng ba màu làm cho hoại sắc để tác tịnh, không được mặc y có năm màu thuần sắc, trừ nạp y. Nếu Tỳ- kheo nghèo, thiếu vải may y thì trên y nên điệp điều lá hoặc năm điều, bảy điều, chín điều…; nếu đủ vải thì nên cắt rọc may thành y Tăng-già- lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội gọi là y như pháp. Pháp Ni-sư-đàn: Tỳ-kheo không nên thọ Ni-sư-đàn đơn, Ni-sư- đàn đã thọ trước thì không nên xa lìa, nếu xả thì phạm Đột-kiết-la. Pháp cháo: Phật cho dùng cháo vì có năm lợi ích, đó là trừ đói, trừ khát, hạ khí, trừ lạnh dưới rốn và tiêu hóa thức ăn. Pháp ăn: Tỳ-kheo khi ăn năm loại thức ăn thuộc Thời nên quán là thức ăn này khó được, khó làm thành, khi ăn vào miệng thì nằm trong ruột già, ruột non; khi đi ra cũng quán như vậy. Do nhân duyên ăn nên khởi các phiền não, tội nghiệp phải chịu quả báo khổ. Pháp chỗ ăn: Tỳ-kheo khi đến chỗ ăn nên im lặng nhất tâm, nhiếp giữ oai nghi để người khác thấy sanh tâm thanh tịnh; khi vào ngồi đều phải thư thả từ tốn. Pháp cho thức ăn: Tỳ-kheo chưa thọ thực không nên đem cho người khác, trước thọ cho mình sau mới cho tới người. Những người nào nên cho, đó là cha, mẹ, người bị giam cầm, người cần ăn gấp và phụ nữ mang thai; nên xem xét thức ăn mà cho nhiều hay ít; nếu có nuôi súc sanh thì nên cho nó phần ăn. Pháp xin thức ăn: Tỳ-kheo khi đến chỗ đàn việt thọ lấy thức ăn nên nhất tâm, không để cho tâm tán loạn, không nghó đến thức ăn ngon hay dở, phải xem thời giờ sớm hay muộn để mang thức ăn đi. Pháp A-lan-nhã: Tỳ-kheo ở A-lan-nhã khi thấy có người đến chỗ A-lan-nhã, nên cùng thăm hỏi, nhớ nghó chơn chánh, sắc mặt vui vẻ, không được cúi đầu, nên chào hỏi thiện lai. Nơi A-lan-nhã nên chứa củi lửa, đồ dùi lửa, thức ăn, đồ đựng thức ăn, nước, đồ lấy nước, đồ đựng nước; chậu nước rửa chân và bình nước thường dùng nên thường đầy nước. Tỳ-kheo nên biết rõ ngày giờ, thời tiết, xem sao; nên biết tụng Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm; nên biết Sơ thiền… Tứ thiền; Sơ quả cho đến Tứ quả, nếu chưa biết thì nên học cho biết. Không được chứa nhật châu, nguyệt châu, được chứa thiền trượng… như trong Tu-đa-la Cù-sa ni có nói rõ. Pháp Thượng tòa nơi A-lan-nhã: Khi các Tỳ-kheo ra ngoài giới, Thượng tòa nơi A-lan-nhã nên chỉ bảo Tỳ-kheo hạ tòa, nên nói nghi pháp ở A-lan-nhã, chỉ dạy cho được lợi hỉ. Tỳ-kheo hạ tòa nên vâng theo lời Thượng tòa đã dạy bảo mà làm theo. Nếu có cư só đến A-lan- nhã, Thượng tòa nên thuyết pháp sâu xa, chỉ dạy cho họ phân biệt chánh đạo và tà đạo, nên nói về tri kiến. Nếu cư só ra về thì tốt, nếu không ra về thì nên cho họ thức ăn và nói rằng: Nơi đây chỉ có thức ăn này. Pháp ở gần tụ lạc: Tỳ-kheo ở gần tụ lạc nên nhất tâm, khi thấy có người đến, nên cùng nói chuyện thăm hỏi, nhớ nghó chơn chánh, sắc mặt vui vẻ, không được cúi đầu, nên chào hỏi thiện lai. Nơi A-lan-nhã nên chứa củi lửa, đồ dùi lửa, thức ăn, đồ đựng thức ăn, nước, đồ lấy nước, đồ đựng nước; chậu nước rửa chân và bình nước thường dùng nên thường đầy nước. Tỳ-kheo nên biết rõ ngày giờ, thời tiết, xem sao; nên biết tụng Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm; nên biết Sơ thiền… Tứ thiền; Sơ quả cho đến Tứ quả, nếu chưa biết thì nên học cho biết. Không được chứa nhật châu, nguyệt châu, được chứa thiền trượng… như trong Tu-đa- la Cù sa ni có nói rõ. Pháp Thượng tòa ở gần tụ lạc: Khi các Tỳ-kheo ra ngoài giới, Thượng tòa ở gần tụ lạc nên chỉ bảo Tỳ-kheo hạ tòa, nên nói nghi pháp ở gần tụ lạc, chỉ dạy cho được lợi hỉ. Tỳ-kheo hạ tòa nên vâng theo lời Thượng tòa đã dạy bảo mà làm theo. Nếu có cư só đến A-lan-nhã, Thượng tòa nên thuyết pháp sâu xa, chỉ dạy cho họ phân biệt chánh đạo và tà đạo, nên nói về tri kiến và dạy họ hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, khéo cho họ thọ tám giới. Pháp bồn nước rửa chân: Tỳ-kheo khi thấy nước trong bồn rửa chân hết, nên tự lấy nước đổ cho đầy hay bảo người đổ đầy. Pháp Thượng tòa rửa chân: Nếu Thượng tòa thấy hạ tòa rửa chân rồi thì không nên sai bảo, nếu sai bảo thì phạm Đột-kiết-la. Pháp khách: Nếu Tỳ-kheo khách đến trong Tăng phường nên đắp y trịch bày vai hữu, mặc Nê-hoàn-tăng trên dưới tương xứng nhau, túi đựng y bên vai phải nên chuyển qua bên vai trái; tích trượng, túi dầu, túi giày da, ống kim ở trong tay phải nên chuyển qua trong tay trái. Nếu muốn đại tiểu tiện thì nên đi ở ngoài trước rồi mới vào trong Tăng phường, nếu không có nước rửa chân thì dùng cỏ lá lau chân, nếu cửa đóng thì kêu gọi, nếu cửa mở thì cứ vào. Nếu thấy cựu Tỳ-kheo thì nên hỏi: “Trong Tăng phường có phòng dành cho khách Tỳ-kheo tuổi hạ hay không?”, nếu nói có thì nên xin phép cho vào; Lại hỏi trong Tăng phường có người không, nếu nói không thì nên hỏi dùng nước gì, nếu nói là nước giếng thì nên xin dây gàu để múc lấy nước; khi mở cửa phòng nên khảy móng tay, nếu có rắn rít nên gây ra tiếng để nó bò đi chỗ khác, sau đó đập giũ mền chiếu, quét dọn sạch sẽ trong phòng. Chậu nước rửa chân và bình nước dùng để sẵn, nếu chậu nước bên tay trái thì tay trái múc nước, tay phải rửa chân; nếu chậu nước bên tay phải thì tay phải múc nước, tay trái rửa chân. Rửa chân xong mang giày da vào phòng, đóng cửa rồi lên giường ngồi kiết già tư duy quán chiếu các pháp. Sáng hôm sau hỏi cựu Tỳ- kheo: “Trong Tăng có ăn sáng, ăn trưa hay không, trong thôn chỗ nào có chó dữ, nhà nào có đồng nữ, quả phụ, nhà nào Tăng đã yết ma Học gia, nhà nào Tăng đã yết ma phú bát, chỗ nào nên đi, chỗ nào không nên đi”, hỏi xong rồi mới đi khất thực. Khi đi Tỳ-kheo khách nên đưa trả lại dây gàu, chổi, thu xếp cất ngọa cụ, đóng cửa phòng rồi mới đi. Pháp Thượng tòa Tỳ-kheo khách: Thượng tòa Tỳ-kheo khách nên ước tính có bao nhiêu khách Tỳ-kheo để báo cho cựu Tỳ-kheo biết, cựu Tỳ-kheo tùy số khách Tỳ-kheo đến mà cung cấp ngọa cụ. Pháp Tỳ-kheo sắp đi: Nếu Tỳ-kheo muốn vào sáng ngày mai đi thì ngày nay nên đến từ biệt Hòa thượng, A-xà-lê. Hòa thượng, A-xà-lê cho đi thì mới được đi, nếu không cho đi thì đừng miễn cưỡng đi. Nếu Tỳ-kheo biết ở trong đây không thể tăng trưởng thiện pháp thì nên rời khỏi Tăng phường này. Khi đi nên xem xét các phương tìm bạn lành, nên xét người này có chân thật không, có đồng tâm không, trên đường đi nếu có bịnh đau thì sẽ không bỏ rơi mà đi trước. Xét lường như thế rồi mới nên đi, nếu không xét lường như thế mà đi thì phạm Đột-kiết-la. Pháp Thượng tòa Tỳ-kheo sắp đi: Khi sắp đi, Thượng tòa nên đi sau cùng để giao trả lại ngọa cụ cho Tăng. Khi ra khỏi Tăng phường nên nhắc nhở các bạn đồng hành là có quên vật gì không, nếu có quên thì nên đứng ở chỗ không xa trên đường để đợi; nên khuyên nhắc các bạn không được làm việc phi pháp, đùa giỡn mất chánh niệm. Pháp đi phi thời: Nếu Tỳ-kheo muốn đi phi thời, nên bạch Hòa thượng, A-xà-lê là con muốn đến nhà của tại tụ lạc thuộc thành ấp . Nếu Hòa thượng, A-xà-lê cho đi thì mới được đi, nếu không cho đi thì đừng miễn cưỡng đi. Pháp nhóm họp phi thời: Trừ sáu ngày trai, những ngày khác đều là phi thời nhóm họp, việc phi thời và ngồi phi thời. Nếu nghe xướng báo giờ hay đánh kiền chùy thì hãy mau đi đến và ngồi theo thứ lớp, như pháp, như luật, như lời Phật dạy mà làm, không được khinh mạn Thượng trung hạ tòa. Pháp Thượng tòa ngồi họp trong Tăng: sáu ngày trai trong tháng là ngày mồng tám, mười bốn, mười lăm, hai mươi ba, hai mươi chín và ba mươi; nếu Tỳ-kheo không bịnh nên hòa hợp một chỗ thuyết pháp. Nếu có luận sư ngoại đạo đến với tâm ghen tị để phá thuyết pháp thì Tỳ-kheo nên như pháp cật vấn để chiết phục họ, không được tức giận ác khẩu. Khi Thượng tòa đến chỗ ngồi họp thấy hạ tòa đã ngồi trước rồi thì không nên bảo đứng dậy, nếu bảo đứng dậy thì phạm Đột-kiết-la. Pháp của người thuyết pháp: Người thuyết pháp nên nhất tâm thuyết pháp, sanh tâm từ bi tạo lợi ích cho người nghe pháp. Nên nói lời rõ ràng trang nghiêm tao nhã, như pháp thuyết pháp theo thứ lớp, biện tài vô tận, thuyết pháp như thế mới tùy thuận thật tướng của các pháp, vì pháp mà nói, không vì lợi dưỡng. Pháp của Thượng tòa thuyết pháp: Nếu hạ tòa là pháp sư thuyết pháp, pháp sư Thượng tòa nên xem xét điều mà Hạ tòa nói là nói theo thứ lớp hay không theo thứ lớp, là nói như pháp hay nói phi pháp. Nếu thấy vị đó nói như pháp và nói theo thứ lớp thì nên khen ngợi ủng hộ; nếu nói phi pháp và không theo thứ lớp thì nên ngăn lại. Có các Phạm chí ngoại đạo vào sáu ngày trai hòa hợp một chỗ thuyết pháp, được nhiều lợi dưỡng và tăng thêm đồ chúng. Vua Bình sa vốn tín kính Phật pháp, lúc đó suy nghó: “Mong các Tỳ-kheo vào sáu ngày trai hòa hợp một chỗ thuyết pháp, ta sẽ dẫn đại chúng đến nghe pháp để các Tỳ-kheo nhờ nhân duyên này được nhiều lợi dưỡng và tăng thêm đồ chúng”, nghó rồi liền bạch Phật, Phật chấp thuận cho các Tỳ-kheo vào sáu ngày trai hòa hợp một chỗ thuyết pháp. Các Tỳ- kheo vâng lời Phật dạy thuyết pháp, quốc vương và quần thần đều đến nghe pháp, vì ngồi trên đất thuyết pháp nên tiếng không vang xa, liền suy nghó: “Nếu Phật cho đứng thuyết pháp thì tốt”, bạch Phật, Phật cho đứng thuyết pháp. Lúc đó các Tỳ-kheo rộng thuyết về đại kinh nên người nói mệt nhọc mà người nghe cũng mệt nhọc, Phật bảo: “Đến lúc nên nghỉ thì nên nghỉ”. Lúc đó các Tỳ-kheo lấy nghóa của kinh Phật, tự dùng tâm phân biệt rộng nói rồi liền sanh nghi không biết là có hoại pháp không, liền bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay cho được lấy nghóa của kinh Phật, dùng ngôn từ trang nghiêm để giải nói theo thứ lớp”. Kinh Phật vốn để trực tiếp đọc tụng, không nên bàn luận tạp, lúc đó các Tỳ- kheo ở khắp nơi loạn tụng, Phật bảo không nên; lúc đó có hai Tỳ-kheo ở một chỗ cùng hợp tán, Phật bảo không nên hợp tán, nếu hợp tán thì phạm Đột-kiết-la. Lúc đó các Tỳ-kheo thuyết pháp và tán tụng để được tài lợi, Phật bảo: “Không nên thuyết pháp vì tài lợi, nếu vì tài lợi thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó người thuyết pháp tán tụng ẫn đại chúng đến chỗ khác để thuyết pháp và tán tụng, tự bỏ đồ chúng, Phật bảo không nên. Lúc đó các Tỳ-kheo lại sai người một mắt, không mắt, không tay, kiễng chân, lưng gù lên thuyết pháp tán tụng. Ngoại đạo thấy người thuyết pháp như vậy liền chê cười và trêu chọc các Hiền giả rằng: “Đây là thầy thuyết pháp của các ông sao, là tháp của các ông, được các ông tôn kính thọ cúng dường trước, ăn trước và đi trước đây sao”, các Hiền giả nghe rồi sanh hổ thẹn, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ này không nên thỉnh những người như người một mắt, không mắt, không tay, kiễng chân, lưng gù lên thuyết pháp tán tụng; nếu thỉnh thì phạm Đột-kiết-la”. Các Tỳ-kheo lại sai những người phá giới, phá chánh kiến thuyết pháp, những người này do nhân duyên thuyết pháp nên được nhiều lợi dưỡng và thế lực đồ chúng ngày càng lớn mạnh, làm những việc phi pháp không thể ngăn cản được. Phật bảo: “Từ nay không nên thỉnh người phá giới, phá chánh kiến thuyết pháp, nếu thỉnh thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó các Tỳ-kheo không biết thỉnh ai thuyết pháp, Phật bảo: “Người được thỉnh phải tập thuyết pháp và tán tụng trước”, nếu không có người đã tập thuyết pháp trước thì nên theo thứ lớp trong Tăng lên thuyết pháp và tán tụng. Nếu trong Tăng không có người tập thuyết pháp trước, cũng không theo thứ lớp lên thuyết pháp thì các Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Pháp an cư: Tỳ-kheo muốn an cư, trước phải xem xét trú xứ, nếu chỗ ra vào an ổn, nơi đây có đủ rừng cây và nước sạch, ngày đêm yên tónh, ít muỗi mòng, ít gió, ít nóng, ít các loại trùng độc… Trong đó có Tỳ-kheo chân thật và Tỳ-kheo đồng ý để cùng ngồi thiền, thuyết pháp và nghe pháp; nếu có bịnh sẽ có được thuốc uống đúng bịnh, thức ăn uống đúng bịnh và có người khán bịnh. Xét lường như thế rồi mới nên an cư, nếu không xét lường như thế mà an cư thì phạm Đột-kiết-la. Pháp trong an cư: Tỳ-kheo trong an cư, nếu không có nhân duyên mà Phật khai cho thì không được xuất giới ngủ đêm bên ngoài cho đến một đêm. Như vương tử Ca-thi xuất gia làm Tỳ-kheo, vua cha muốn cất chùa nên sai sứ gọi Tỳ-kheo về lo việc xây cất, Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho vì việc xây cất chùa mà phá an cư”, đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay, nếu vì việc xây cất chùa thì được đi”. Pháp Thượng tòa an cư: Thượng tòa an cư nên xem xét các phòng xá, phòng nào đã tu sửa, phòng nào chưa tu sửa; nếu đã tu sửa tốt thì nên khen ngợi, nếu chưa thì nên đốc thúc tu sửa. Pháp an cư xong: Tỳ-kheo an cư xong nên làm ba việc: Xướng lại phần giới, nếu có thọ y Ca-hi-na thì tùy vật được thí đều nhiếp thuộc về y Ca-hi-na; tùy ở phòng nào nên tưới quét cho sạch, đập giũ ngọa cụ, nếu dơ thì nên giặt sạch rồi xếp để lại chỗ cũ, ra khỏi phòng khỏa cửa lại rồi tùy ý đi. Pháp thọ chúng: Tỳ-kheo nên tìm hiểu chúng thích thuyết pháp hay im lặng, nếu thích thuyết pháp thì nên thuyết pháp, nếu thích im lặng thì thôi. Pháp đến chúng hội: Tỳ-kheo nên phân biệt rõ nếu đến trong chúng Sát-đế-lî thì nên như thế, như thế; nếu đến trong chúng Bà-la- môn thì nên như thế như thế; đến trong chúng cư só thì nên như thế như thế; đến trong chúng Tỳ-kheo thì nên như thế như thế… ra vào ngồi đứng nên như thế như thế, hoặc nên thăm hỏi hoặc nên im lặng. Pháp thọ chúng: Tỳ-kheo thọ chúng nên xem xét chúng này là thiện hạnh hay là bất thiện hạnh. Nếu là thiện hạnh thì nên khéo xem xét rồi như pháp cung cấp cho họ y bát thuốc thang và những vật cần dùng, nếu họ có phạm tội nên giúp đỡ để họ được xuất tội. Nếu là bất thiện hạnh thì nên như pháp quở trách để tâm họ được chiết phục. Pháp Thượng tòa thọ chúng: Thượng tòa thọ chúng nên như pháp chỉ dạy chúng, không để cho chúng làm việc phi pháp, đùa cợt làm cho tán loạn. Pháp nói Ba-la-đề-mộc-xoa: Có năm cách Một là nói tựa giới, phần còn lại như Tăng thường nghe cho đến câu Tăng đã thuyết giới bố tát xong. Hai là nói tựa giới, bốn pháp Ba-la-di, phần còn lại như Tăng thường nghe cho đến câu Tăng đã thuyết giới bố tát xong. Ba là nói tựa giới, bốn pháp Ba-la-di, mười ba pháp Tăng-già- bà-thi-sa, phần còn lại như Tăng thường nghe cho đến câu Tăng đã thuyết giới bố tát xong. Bốn là nói tựa giới, bốn pháp Ba-la-di, mười ba pháp Tăng-già- bà-thi-sa, hai pháp bất định, phần còn lại như Tăng thường nghe cho đến câu Tăng đã thuyết giới bố tát xong. Năm là nói đầy đủ. Pháp của người nói Ba-la-đề-mộc-xoa: Tỳ-kheo nói Ba-la-đề- mộc-xoa nên tụng trước cho thông suốt, đừng để khi vào trong Tăng nói có sai sót. Pháp tăng hội họp: Trừ sáu ngày trai trong tháng, những lúc khác Tăng hội họp, Tăng hành sự, Tăng tọa xứ, Nếu nghe xướng báo giờ hay đánh kiền chùy thì Tỳ-kheo hãy mau đi đến và ngồi theo thứ lớp, như pháp, như luật, như lời Phật dạy, không được khinh mạn Thượng, trung, hạ tòa. Pháp Thượng tòa hội họp giống như pháp Thượng tòa phi thời hội họp. Pháp trung tòa: Tỳ-kheo trung hạ tòa khi vào nhà bạch y nên đi sau Thượng tòa và cung kính Thượng tòa; nếu Thượng tòa đi tiện lợi nên chờ đợi, không được bỏ đi xa. Nếu bạch y mời vào trước thì nên nói: “Hãy đợi một lát, Thượng tòa sẽ đến”; nếu bạch y đốc thúc vào trước thì nên chừa chỗ cho Thượng tòa rồi mới ngồi; nếu bạch y mời nước nên nói: “Chờ một chút, Thượng tòa sẽ vào “. Pháp hạ tòa: Tỳ-kheo hạ tòa nên tưới quét điện Phật, giảng đường, chỗ bố tát, tháp Phật, chỗ chúng tăng hội họp, nên theo thứ lớp trải tọa cụ, lo liệu đèm lửa, đổ đầy nước trong bồn nước rửa chân và trong bồn nước của nhà vệ sinh. Hạ tòa nên nên nhưng việc của tăng như thế. Pháp Thượng trung hạ tòa: Tỳ-kheo thượng trung hạ tòa nên thọ trì đầy đủ lời Phật dạy, như pháp hành trì. Pháp nhà tắm: Tỳ-kheo vào nhà tắmphải nhất tâm nói nhỏ, khéo giữ oai nghi và thu nhiếp các căn. Pháp rửa trong nhà tắm: rửa trong nhà tắm có năm lợi ích: Sạch sẽ, da trên thân được cùng một màu, phá trừ lạnh nóng, trừ khí gió và ít bịnh đau. Pháp Thượng tòa nơi nhà tắm: Khi Thượng tòa đến trong nhà tắm, thấy hạ tòa đã vào tắm trước rồi thì không nên bảo đứng dậy đi ra, nếu bảo đứng dậy đi rathì phạm Đột-kiết-la. Pháp Hòa thượng: Hòa thượng nên dạy bảo đệ tử cọng hành xa lìa ác tri thức, thân gần thiện tri thức; nên cung cấp cho đệ tử y bát, thuốc thang và vật cần dùng; nếu đệ tử có phạm tội nên giúp đỡ để được xuất tội. Pháp đệ tử cọng hành: Đệ tử không nên khinh mạn Hòa thượng, muốn đi đâu nên bạch Hòa thượng; khi đi nên đi theo sau Hòa thượng để cung cấp những vật cần dùng, thường đi theo sau không xa lìa, như pháp phụng sự không có ý trái nghịch. Làm việc gì cũng phải bạch Hòa thượng, trừ đại tiểu tiện, xỉa răng và đảnh lễ Phật, pháp, tăng. Nếu đệ tử cọng hành ở bên Hòa thượng biết không thể tăng trưởng thiện pháp thì nên bạch Hòa thượng: “Xin gởi con cho Tỳ-kheo ”, Hòa thượng nên suy xét Tỳ-kheo giáo hóa pháp gì, chúng đệ tử như thế nào; nếu thấy Tỳ-kheo đó có đầy đủ pháp thiện thì nên gởi đệ tử, nếu không đầy đủ pháp thiện thì nên gởi cho Tỳ-kheo khác. Nếu đệ tử cọng hành thấy Hòa thượng hạnh không tốt thì nên bỏ đi. Pháp A-xà-lê: A-xà-lê nên dạy bảo đệ tử cận hành xa lìa ác tri thức, thân gần thiện tri thức; nên cung cấp cho đệ tử y bát, thuốc thang và vật cần dùng; nếu đệ tử có phạm tội nên giúp đỡ để được xuất tội . Pháp đệ tử cận hành: Đệ tử cận hành không nên khinh mạn A- xà-lê, muốn đi đâu nên bạch A-xà-lê; khi đi nên đi theo sau A-xà-lê để cung cấp những vật cần dùng, thường đi theo sau không xa lìa, như pháp phụng sự không có ý trái nghịch. Làm việc gì cũng phải bạch A-xà-lê, trừ đại tiểu tiện, xỉa răng và đảnh lễ Phật, pháp, tăng. Nếu đệ tử cận hành ở bên A-xà-lê biết không thể tăng trưởng thiện pháp thì nên bạch rằng: “Xin gởi con cho Tỳ-kheo ”, A-xà-lê nên suy xét Tỳ-kheo giáo hóa pháp gì, chúng đệ tử như thế nào; nếu thấy Tỳ-kheo đó có đầy đủ pháp thiện thì nên gởi đệ tử, nếu không đầy đủ pháp thiện thì nên gởi cho Tỳ-kheo khác. Nếu đệ tử cận hành thấy A-xà-lê hạnh không tốt thì nên bỏ đi. Pháp Sa-di: Sa-di không nên khinh mạn Hòa thượng, muốn đi đâu nên bạch Hòa thượng, khi đi nên đi theo sau Hòa thượng để cung cấp những vật cần dùng, thường đi theo sau không xa lìa, như pháp phụng sự không có ý trái nghịch. Làm việc gì cũng phải bạch Hòa thượng, trừ đại tiểu tiện, xỉa răng và đảnh lễ Phật, pháp, tăng. Nếu Sa-di ở bên Hòa thượng biết không thể tăng trưởng thiện pháp thì nên bạch Hòa thượng: “Xin gởi con cho Tỳ-kheo “, Hòa thượng nên suy xét Tỳ-kheo giáo hóa pháp gì, chúng đệ tử như thế nào; nếu thấy Tỳ-kheo đó có đầy đủ pháp thiện thì nên gởi Sa-di, nếu không đầy đủ pháp thiện thì nên gởi cho Tỳ-kheo khác. Nếu Sa-di thấy Hòa thượng hạnh không tốt thì nên bỏ đi. Hòa thượng nên bảo Sa-di lấy đưa thức ăn, trái cây, thuốc thang và tăm xỉa răng, nên bảo Sa-di nhổ cỏ trong Tăng phường, quét dọn sạch sẽ. Pháp xuất lực (hiện oai lực): Nếu bạch y ở trong chùa muốn làm việc ác xâm não Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo nên dùng lời cứng rắn để chiết phục họ, nếu không chiết phục được thì không nên bạch vua, nên nói trước cho tri thức của người ác này biết, sau đó mới nói cho phu nhân của vua, vương tử hay đại thần; nếu người ác này chịu dừng lại thì thôi. Pháp Tỳ-kheo theo sau: Tỳ-kheo theo sau là không được đi trước, không được đi quá xa ở phía sau, không được đi ngang hàng, không nói trước cũng không nói nhiều, không hỏi thì không nói; nếu hỏi thì nên trả lới ngay. Nếu Tỳ-kheo đi trước nói phi pháp, Tỳ-kheo đi sau nên ngăn lại, nếu nói như pháp thì nên tùy hỉ, nếu như pháp được vật thí thì nên thọ lấy. Pháp Tỳ-kheo thường ra vào nhà: Tỳ-kheo khi ra vào nhà nên thu nhiếp các căn, không nên đúa cợt, nên giữ oai nghi thanh tịnh như pháp để đàn việt thấy sanh tâm thiện. Pháp đến nhà: Nếu Tỳ-kheo với tâm tán loạn, tâm không biết nhàm chán mà đến nhà đàn việt thì thường phạm năm lỗi: Một là không mời mà tự vào, hai là ngồi ở chỗ khuất, ba là gượng ngồi, bốn là thường thường ăn, năm là khi không có người nam bên cạnh lại nói chuyện với người nữ quá năm, sáu lời. Pháp ở nhà bạch y: Tỳ-kheo ở nhà bạch y nên khéo biết chỗ ngồi và pháp ngồi sai khác, nên nói pháp sâu xa, chỉ dạy cho bạch y biết chánh đạo và tà đạo, nên nói về tri kiến và dạy họ hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, khéo cho họ thọ tám giới. Pháp Thượng tòa ở nhà: Thượng tòa ở nhà bạch y nên xem xét đồ chúng của mình đừng làm việc phi pháp, các căn tán loạn, đùa giỡn buông lung, nên giữ oai nghi thanh tịnh để đàn việt thấy sanh tâm thiện. Pháp nói năng: Tỳ-kheo khách khi mới đến trong Tăng phường, cựu Tỳ-kheo không nên vội trao cho ngọa cụ, trước phải nói chuyện hỏi thăm, sau đó mới tùy khách Tỳ-kheo là thượng trung hay hạ tòa mà trao cho ngọa cụ. Pháp nghỉ ngơi: Tỳ-kheo khách khi mới đến, không nên vội tới chỗ cựu Tỳ-kheo hỏi xin ngọa cụ, trước nên đứng một chỗ nhiếp giữ oai nghi và các căn, sau đó mới đến cựu Tỳ-kheo hỏi xin phòng xá và ngọa cụ. Pháp đãy lượt nước: Tỳ-kheo không có đãy lượt nước thì không nên đi xa, nếu đi đến chỗ có nước sạch, hay nước sông nước suối hoặc cách khoảng hai mươi dặm có trú xứ thì không cần phải có đãy lượt nước. Pháp kinh hành: Tỳ-kheo khi kinh hành nên đi thẳng, không chậm không mau, nếu không đi thẳng được thì nên kẻ đường trên đất làm tướng để đi noi theo. Pháp ở trên hư không: Hư không không có ranh giới, người ở dưới đất hướng tới người ở trên hư không, hay người ở trên hư không hướng tới người ở dưới đất thì không đươc ngăn yết ma hay làm yết ma. Pháp tiện lợi: Tỳ-kheo sắp vào nhà xí nên khảy móng tay trước, nếu có người vào trước thì nên đợi họ ra; khi người kia ra rồi, mình nên cởi y phục để một bênrồi mới vào, nên ngôi chồm hổm từ từ tiện lợi, không nên cố rặn cho mau ra. Pháp gần nhà xí: Tỳ-kheo không nên ở gần nhà xí đọc tụng kinh, nghị luận và thuyết pháp; cũng không nên ở gần nhà xí cắt may, giặt nhuộm y. Tất cả mọi việc đều không nên làm, trừ tiện lợi. Pháp ván bệ cầu: Tỳ-kheo ở trên ván bệ cầu tiện lợi không nên làm dơ ván. Pháp Thượng tòa nơi nhà xí: Nếu thấy hạ tòa vào nhà xí trước rồi thì Thượng tòa không nên đuổi đi ra, nếu đuổi đi ra thì phạm Đột-kiết- la. Pháp lau: Không nên dùng vật bén để lau chùi. Pháp chỗ rửa: Tỳ-kheo đại tiểu tiện xong, nếu không rửa chỗ đại tiểu tiện thì không được ngồi nằm trên ngọa cụ của tăng, nếu ngồi nằm thì phạm Đột-kiết-la. Nếu không có nước hay bạch y thờ nước hay bỏ thuốc vào nước thì không được rửa. Những trường hợp như vậy không rửa thì không phạm. Pháp gần chỗ rửa: Tỳ-kheo không nên ở gần chỗ rửa đọc tụng kinh, nghị luận và thuyết pháp; cũng không nên ở gần chỗ rửa cắt may, giặt nhuộm y. Tất cả mọi việc đều không nên làm. Pháp ván chỗ rửa: Tỳ-kheo ở trên tấm ván chỗ rửa khi rửa chớ làm ướt ván. Pháp Thượng tòa ở chỗ rửa: Nếu thấy hạ tòa đến ngồi ở chỗ rửa trước rồi thì Thượng tòa không nên đuổi đi ra, nếu đuổi đi ra thì phạm Đột-kiết-la. Pháp chỗ tiểu tiện: Tỳ-kheo không được tiểu tiện lung tung, nên đi ở chỗ thường đi. Pháp gần chỗ tiểu tiện: Tỳ-kheo không nên ở gần chỗ tiểu tiện đọc tụng kinh, nghị luận và thuyết pháp; cũng không nên ở gần chỗ tiểu tiện cắt may, giặt nhuộm y. Tất cả mọi việc đều không nên làm, trừ tiểu tiện. Pháp ván chỗ tiểu tiện: Tỳ-kheo ở trên tấm ván chỗ tiểu tiện, khi tiểu tiện không nên làm ướt ván. Pháp Thượng tòa ở chỗ tiểu tiện: Nếu thấy hạ tòa vào tiểu tiện trước rồi thì Thượng tòa không nên đuổi đi ra, nếu đuổi đi ra thì phạm Đột-kiết-la. Pháp khạc nhổ: Tỳ-kheo không được khạc nhổ lớn tiếng, không được nhổ nơi đất sạch. Pháp dùng ống nhổ: Phật cho dùng hai loại ống nhổ bằng gốm sành hay đồng, nên khéo ái hộ chớ làm cho bể hay mất, vì nhân duyên tìm cầu sẽ trở ngại việc hành đạo. Pháp bát chi: Phật cho dùng du thạch, đồng, sắt, chì, thiếc… để kê đở bát, nên khéo ái hộ chớ làm cho bể hay mất, vì nhân duyên tìm cầu sẽ trở ngại việc hành đạo. Pháp tăm xỉa răng: Phật cho dùng ba loại tăm xỉa răng là thượng trung và hạ. Tăm thượng dài một thước hai, tăm hạ dài sáu tấc, ở giữa là tăm trung. Pháp nạo lưỡi: Không nên dùng vật bén để nạo lưỡi sẽ làm cho lưỡi bị thương. Pháp ngoái tai: Không nên dùng vật bén nhọn ngoái tai, không được ngoái mạnh sẽ làm trầy xước lỗ tai. Các hành pháp của tỳ-kheo như thế, Tỳ-kheo nên thọ trì, ngược với các hành pháp trên thì gọi là phi pháp. Hai Loại Tỳ-Ni Và Tạp Tụng Ba việc quyết định biết tướng Tỳ-ni, đó là bổn khởi, kết giới và tùy kết. Lại có hai loại Tỳ-ni, đó là Tránh Tỳ-ni và Phạm Tỳ-ni. Lại có hai loại Tỳ-ni, đó là Tỳ-ni thanh tịnh và Tỳ-ni phiền não. Lại có hai loại Tỳ-ni, đó là Tỳ-kheo Tỳ-ni và Tỳ-kheo-ni Tỳ-ni. Lại có hai loại Tỳ-ni, đó là Tỳ-ni phổ biến khắp và Tỳ-ni không phổ biến khắp. Tránh Tỳ-ni là tranh cãi chỉ trích nhau, đấu tranh chia rẽ nhau; các Tỳ-kheo nên xem xét việc tranh cãi này do nhân duyên gì sanh khởi và làm sao diệt được. Nhân duyên sanh khởi việc đấu tranh là do mười bốn việc phá Tăng, sáu nguồn gốc đấu tranh cũng là nhân duyên sanh khởi đấu tranh, nên dùng hai Tỳ-ni là Hiện tiền Tỳ-ni và Đa mích Tỳ-ni để diệt tránh. Phạm Tỳ-ni là năm chúng phạm, định phạm nhiếp thuộc về Phạm Tỳ-ni, tức là phạm Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni và Đột-kiết-la. Nên tìm cầu bổn khởi và nguồn gốc sanh khởi của năm loại tội này để trừ diệt. Bổn khởi là nhân duyên khởi ra các tội, hoặc do thân phạm, không phải do khẩu và ý; hoặc do khẩu phạm, không phải do thân và ý; hoặc do thân và ý phạm, không phải do khẩu; hoặc do khẩu và ý phạm, không phải do thân; hoặc do cả thân, khẩu, ý cùng phạm; hoặc không phải do thân, khẩu, chỉ do nơi ý. Nếu phạm tội nhẹ chỉ cần tâm niệm sám liền có thể trừ diệt; nếu phạm tội vừa thì phải đối thú sám mới được trừ diệt; nếu phạm tội trọng thì cần phải tác yết ma cho xuất tội, nhưng cũng có loại phạm tội không thể trừ diệt được. Loại phạm tội cần cho yết ma xuất tội có hai: Che giấu và không che giấu, nếu che giấu thì tùy che giấu bao nhiêu ngày thì cho hành biệt trụ bấy nhiêu ngày; nếu không che giấu thì cho hành sáu ngày sáu đêm Ma-na-đỏa. Nếu phạm tội không thể trừ diệt thì không thể sám hối trừ diệt. Tỳ-ni phiền não: Nên tìm nhân duyên sanh khởi và nhân duyên diệt. Nhân duyên sanh khởi là bị hệ phược ở trong pháp, sanh tâm tham đắm, thấy vị lợi nên sanh phiền não. Nhân duyên diệt là khi bị hệ phược ở trong pháp nên quán vô thường sanh diệt, nhàm lìa xả diệt, tâm khéo trụ trong các thiền định tam muội địa, hòa hợp các hạnh, hệ tâm trong duyên, thể nhập ba môn giải thoát, có thể đoạn trừ các kiết sử do kiến đế và tư duy (kiến hoặc và tư hoặc). Đoạn được hai kiết sử này thì chứng được quả Sa-môn, tùy theo quả đã chứng đắc nên có Thánh nhân sai khác. Tỳ-kheo Tỳ-ni có thanh tịnh hay không thanh tịnh, Tỳ-kheo-ni Tỳ- ni có thanh tịnh hay không thanh tịnh; phổ biến cùng khắp hay không phổ biến cùng khắp. Thời thanh tịnh là đầu đêm thọ nước ép trái cây uống. Hai sai thời thanh tịnh là phần đầu đêm và cuối đêm nên ngồi thiền tụng kinh. Một đêm thanh tịnh là Tỳ-kheo-ni được chứa bát dư một đêm. Hai đêm thanh tịnh là được cùng ngủ hai đêm với người chưa thọ giới cụ túc . Ba đêm thanh tịnh là đến đêm thứ ba thì người chưa thọ giới cụ túc nên chuyển qua chỗ khác ngủ đêm. Năm đêm thanh tịnh là Phật cho lâu nhất đến năm đêm không thọ y chỉ. Sáu đêm thanh tịnh là nơi A-lan-nhã chỗ có sợ hãi thì Tỳ-kheo được sáu đêm lìa y ngủ. Bảy đêm thanh tịnh là Phật cho Tỳ-kheo bịnh được chứa loại tàn dược lâu nhất đến bảy đêm để dùng. Mười đêm thanh tịnh là Tỳ-kheo được chứa bát dư lâu nhất đến mười ngày. Nữa tháng thanh tịnh là mỗi nữa tháng nên hòa hợp lại một chỗ để thuyết giới bố tát . Một tháng thanh tịnh là Tỳ-kheo được chứa y phi thời lâu nhất là một tháng. y chỉ. Hai tháng thanh tịnh là Phật cho Tỳ-kheo được hai tháng không Ba tháng thanh tịnh là Tỳ-kheo nên an cư ba tháng. Bốn tháng thanh tịnh là Tỳ-kheo tu hành đầu đà ngồi nơi đất trống ở đất nước có nhiều mưa, được bốn tháng ngồi nơi đất trống và tám tháng ở chỗ có che ngăn. Năm tháng thanh tịnh là Tỳ-kheo được năm tháng thọ y Ca-hi- na. Tám tháng thanh tịnh là Tỳ-kheo tu hạnh đầu đà ở quốc độ ít mưa thì nên tám tháng ở ngoài đất trống, bốn tháng ở trong chỗ có che ngăn. Chín tháng thanh tịnh: Tỳ-kheo có công việc chưa xử lý xong được lâu nhất là chín tháng. Một năm thanh tịnh là Tỳ-kheo được thọ y Ca-hi-na trong một năm. Hai năm thanh tịnh là Tỳ-kheo-ni nên hai năm thường theo Hòa thượng ni. Ba tuổi hạ thanh tịnh: Tỳ-kheo cách nhau ba tuổi hạ được cùng ngồi trên giường dây lớn, hai người được ngồi trên giường dây nhỏ, giường độc tọa thì chỉ được một người ngồi. Năm tuổi hạ thanh tịnh: Tỳ-kheo chưa đủ năm tuổi hạ nên y chỉ người khác, nếu đủ năm tuổi hạ thì được lìa y chỉ ngủ. Sáu tuổi hạ thanh tịnh: Tỳ-kheo-ni chưa đủ sáu tuổi hạ nên y chỉ người khác, nểu đủ sáu tuổi hạ thì được lìa y chỉ ngủ. Bảy tuổi thanh tịnh: Phật cho Sa-di nhỏ nhất là bảy tuổi. Chín tuổi hạ thanh tịnh: Tỳ-kheo chín tuổi hạ nên theo Tăng làm việc. Mười tuổi hạ thanh tịnh: Tỳ-kheo đủ mười tuổi hạ được nuôi đệ tử. Lại nữa Sa-di-ni đã từng gả ít nhất là mười tuổi được thọ sáu pháp. Mười hai tuổi thanh tịnh: Thức-xoa-ma-na đã từng gả đủ mười hai tuổi được thọ giới cụ túc. Lại nữA-tỳ-kheo-ni đủ mười hai tuổi hạ được nuôi đệ tử. Mười tám tuổi thanh tịnh: Sa-di đồng nữ mười tám tuổi được thọ sáu pháp. hai mươi tuổi thanh tịnh: Sa-di hai mươi tuổi được thọ giới cụ túc; đồng nữa Thức-xoa-ma-na đủ hai mươi tuổi được thọ giới cụ túc. Lại nữa Tỳ-kheo đủ hai mươi tuổi hạ nên sai giáo giới Tỳ-kheo-ni. Một người thanh tịnh: Một Tỳ-kheo làm A-địa-đàn để bố tát. Hai người thanh tịnh: Hai Tỳ-kheo nên cùng nhau chia vật, lần lượt chia. Ba người thanh tịnh: Nên nói ba lần bố tát. Bốn người thanh tịnh: Nên nói Ba-la-đề-mộc-xoa. Năm người thanh tịnh: Nên sai người tự tứ. Tám người thanh tịnh: Nên thọ pháp đại chúng nhóm họp. Mười người thanh tịnh: Được truyền thọ giới cụ túc. Hai mươi người thanh tịnh: Được làm yết ma Xuất tội. Bát thanh tịnh: Phật cho dùng hai loại bát bằng gốm sứ và bằng sắt, tám loại bát khác không nên dùng. Y thanh tịnh: Có bảy loại y không cần tác tịnh được dùng, đó là Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, y tắm mưa, y che phủ ghẻ, Ni- sư-đàn và các vật cần dùng khác. Dao thanh tịnh: Phật cho chứa loại dao nhỏ để cắt rọc y trong một tháng. Kim thanh tịnh: Phật cho chứa hai loại kim bằng đồng và bằng sắt, có mũi nhọn, tròn và như hạt đậu nhỏ. Nhuộm thanh tịnh: Có Tỳ-kheo bạch Phật nên dùng vật gì nhuộm y, Phật bảo nên dùng nhựa của rễ cây, thân cây, lá cây, hoa, quả và nước phân của con trâu đực mới sanh để nhuộm y. Hoại sắc thanh tịnh: Tỳ-kheo được vải mới nên dùng ba loại màu nhuộm cho hoại sắc, đó là màu xanh, bùn và cỏ thiến. Lượng thanh tịnh: May y không được bằng kích lương y của Phật, nên may theo kích lượng của thân mình. Những việc thanh tịnh trên, Tỳ-kheo nên hết sức suy tư quán sát, cho đến hai bộ Ba-la-đề-mộc-xoa, nghóa giải Tỳ-ni, Tăng nhất, không có nhân duyên bổn khởi, Tỳ-ni chung và không chung. Việc này thanh tịnh thì không nên ngăn, việc không thanh tịnh thì nên ngăn, như các màu thuần sắc xanh, vàng, đỏ trắng là bất tịnh thì nên ngăn; không phải thuần sắc là thanh tịnh thì không nên ngăn. Như rượu nếu sắc rượu, hương rượu và vị rượu, lực rượu là bất tịnh thì nên ngăn; ngược lại không có sắc, hương vị và lực rượu là thanh tịnh thì không nên ngăn. Lại nữa, nếu Tỳ-kheo đã tác tịnh rồi thì được dùng, năm loại hạt giống sống nếu Tỳ-kheo dùng năm loại tác tịnh thì được ăn. Như tám loại nước ép trái cây, nếu dùng nước tác tịnh thì được uống; như mười loại y nếu dùng ba màu làm cho hoại sắc thì được mặc. Việc này tịnh thì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni được dùng; nếu việc này bất tịnh thì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không nên dùng. Lại nữa việc này vào thời , nơi là thanh tịnh thì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nên dùng; nếu vào lúc , nơi là bất tịnh thì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không nên dùng. Nếu việc này vào thời như thời đói kém hay già bịnh thì Tỳ-kheo nên dùng; nếu vào thời sung túc được mùa hay trẻ tuổi không bịnh thì Tỳ-kheo không nên dùng. Những việc như thế, Tỳ-kheo nên suy xét khinh trọng, ngọn ngành rồi mới dùng. ------------------ TỲ NI TỤNG PHÁP BA LA DI Giới Dâm Thứ Nhất: Phật tại Tỳ-da-ly, lúc đó Tu-đề-na Ca-lan-đà tử suy nghó: “Phật kết giới đoạn dâm dục, nhưng nếu làm trước thì không tội. Ta đã làm nhiều việc dâm, không biết chỗ nào là trước hay không phải trước”, nghó rồi liền sanh nghi, bạch Phật, Phật bảo: “Tỳ-kheo Tu-đề-na này trước khi chưa kết giới, tất cả việc dâm đã làm đều không phạm”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Như Phật đã nói người điên cuồng không phạm, như thế nào gọi là điên cuồng?”, Phật bảo: “Có năm tướng gọi là người điên cuồng: Một là người thân chết hết nên điên cuồng, hai là tài sản mất hết nên điên cuồng, ba là ruộng vườn và nhân dân mất hết nên điên cuồng, bốn là bốn đại rối loạn nên điên cuồng, năm là đo nghiệp báo đời trước nên điên cuồng. Tỳ-kheo Có năm tướng điên cuồng này, nếu tự biết mình là Tỳ-kheo mà làm việc dâm thì phạm Ba-la-di; nếu không tự biết thì không phạm”. Lại hỏi: Như Phật đã nói người tâm tán loạn thì không phạm, như thế nào gọi là tâm tán loạn? Đáp: Có năm nguyên nhân làm cho tâm tán loạn: Một là bị phi nhân đánh nên tâm tán loạn, hai là phi nhân làm cho tâm tán loạn, ba là phi nhân ăn tinh khí nơi tâm nên tâm tán loạn, bốn là bốn đại rối loạn nên điên cuồng, năm là đo nghiệp báo đời trước nên điên cuồng. Tỳ- kheo Có năm tướng điên cuồng này, nếu tự biết mình là Tỳ-kheo mà làm việc dâm thì phạm Ba-la-di; nếu không tự biết thì không phạm. Lại hỏi: Như Phật đã nói người tâm bịnh hoại thì không phạm, như thế nào gọi là tâm bịnh hoại? Đáp: Có năm loại tâm bịnh hoại: Một là bị trúng gió nên tâm bịnh hoại, hai là bị nóng sốt nên tâm bịnh hoại, ba là bị cảm lạnh nên tâm bịnh hoại, bốn là ba trường hợp trên cùng phát nên tâm bịnh hoại, năm là khí trời, thời tiết phát khởi nên tâm bịnh hoại. Tỳ-kheo có năm loại tâm bịnh hoại này nếu tự biết mình là Tỳ-kheo thì phạm Ba-la-di, nếu không tự biết thì không phạm. Phật ở nước Xá-vệ, có một Tỳ-kheo tên là Bạt-kỳ tử không xả giới, giới suy kém, không nói ra mà về nhà hành pháp dâm, sau đó muốn xuất gia lại, tự nghó: “Ta nên đến hỏi các Tỳ-kheo trước, nếu được xuất gia thọ giới trở lại thì ta sẽ xuất gia làm Tỳ-kheo, nếu không được thì thôi”, nghó rồi đến hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu có người không xả giới, giới suy kém, không nói ra mà trở về nhà làm việc dâm thì không được cho xuất gia lại. Từ nay giới này nên nói lại như sau: Nếu Tỳ-kheo đã đồng vào pháp học của tỳ-kheo, không xả giới, giới suy kém, không nói ra mà về nhà làm việc dâm thì Tỳ-kheo này phạm Ba-la-di không được ở chung.” Lại có Tỳ-kheo hành dâm dục trong đường hành dâm mà tưởng là không phải đường hành dâm, sanh tâm nghi không biết có phạm Ba-la- di hay không, liền bạch Phật, Phật bảo: “Trong đường hành dâm tưởng là đường hành dâm mà làm việc dâm thì phạm Ba-la-di; trong đường hành dâm tưởng không phải là đường hành dâm cũng phạm Ba-la-di; trong đường hành dâm mà sanh nghi cũng phạm Ba-la-di. Trong đường không phải đường hành dâm tưởng không phải đường hành dâm thì phạm Thâu-lan-giá; không phải đường hành dâm tưởng là đường hành dâm cũng phạm Thâu-lan-giá; không phải đường hành dâm mà sanh nghi cũng phạm Thâu-lan-giá. Đạo là chỉ cho đường hành dâm có ba là đường tiểu tiện, đường đại tiện và trong miệng. Nếu Tỳ-kheo hành dâm với súc sanh như voi ngựa, bò dê… xúc chạm vào trong thịt thì phạm Ba- la-di; nếu không xúc chạm vào trong thịt thì phạm Thâu-lan-giá; nếu không xúc chạm mà xuất tịnh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa”. Có một Tỳ-kheo thường khởi tâm dâm, nói với thiện tri thức rằng: “Tôi thường khởi dâm nên rất phiền não, không thể tự chế, nếu cùng người nữ làm việc dâm mới hết được”, Tỳ-kheo tri thức nói: “Hãy làm đi”, Tỳ-kheo kia nghe theo lời của tri thức liền làm việc dâm, Tỳ-kheo tri thức sanh tâm nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch phật, Phật nói chỉ phạm Thâu-lan-giá. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Tội Thâu-lan-giá nên sám hối như thế nào để được trừ diêt?”, Phật bảo: “Có bốn loại Thâu-lan-giá: Một là tội Thâu-lan-giá từ Ba-la-di sanh là trọng, hai là tội Thâu-lan-giá từ Ba-la-di sanh là khinh, ba là tội Thâu- lan-giá từ Tăng-già-bà-thi-sa sanh là trọng, bốn là tội Thâu-lan-giá từ Tăng-già-bà-thi-sa sanh là khinh. Trọng Thâu-lan-giá sanh từ Ba-la-di nên sám hối trước tất cả Tăng, tội mới được trừ diệt; khinh Thâu-lan- giá từ Ba-la-di sanh nên ra ngoài giới đối trước bốn Tỳ-kheo sám, tội mới được trừ diệt. Trọng Thâu-lan-giá từ Tăng-già-bà-thi-sa sanh cũng phải ra ngoài giới đối trước bốn Tỳ-kheo sám, tội mới được trừ diệt; Kh- inh Thâu-lan-giá từ Tăng-già-bà-thi-sa sanh thì đối trước một Tỳ-kheo sám, tội liền được trừ diệt”. Phật ở nước Xá-vệ, có một Tỳ-kheo khất thực tên là Nan-đề sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, thọ thực xong vắt Ni-sư-đàn lên vai trái rồi đi vào rừng An-đà, ở dưới một gốc cây trải Ni-sư-đàn chánh thân đoan tọa. Lúc đó có thiên ma muốn phá Tam muội của tỳ- kheo này nên hóa làm người nữ đoan chánh đứng trước mặt Tỳ-kheo. Tỳ-kheo vừa xuất định, nhìn thấy người nữ liền sanh tâm đắm nhiễm, do thiền định của thế tục không thể kiên cố nên trong giây phút đó thối thất, muốn xúc chạm thân người nữ đó. Người nữ lùi dần ra xa, Tỳ-kheo liền đứng dậy đi theo muốn nắm lấy người nữ. Lúc đó trong rừng có một con ngựa chết, người nữ đi đến chỗ xác con ngựa liền biến mất, Tỳ-kheo do lửa dục hừng thạnh nên cùng xác con ngựa hành dâm. Hành dâm rồi lửa dục liền tắt, Tỳ-kheo sanh tâm hối hận nghó rằng: “Ta đã thối đọa, chẳng phải là Tỳ-kheo, chẳng phải là Thích tử, các Tỳ-kheo ắt sẽ xa lánh ta, không ở chung với ta nữa, ta không nên đem thân bất tịnh mà mặc pháp y này”, nghó rồi liền cởi ca sa xếp cất vào trong túi vải, vác lên vai đi đến chỗ Phật. Lúc đó Phật đang thuyết pháp cho trăm ngàn vạn chúng vây quanh, từ xa trông thấy Nan-đề đi đến liền suy nghó: “Nếu ta không dùng lời dịu dàng han hỏi, thầy ấy sẽ vỡ tim và hộc máu ra”. Khi Nan-đề vừa đến, Phật liền hỏi: “Lành thay Nan-đề, thầy có muốn học lại pháp Tỳ-kheo đã học hay không?”, Nan-đề nghe rồi liền sanh tâm hoan hỉ suy nghó: “Ta sẽ được cùng ở chung, các Tỳ-kheo sẽ không đuổi ta”, nghó rồi liền đáp: “Thế tôn, con muốn học lại pháp học Tỳ-kheo”. Phật liền bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy hãy tác pháp cho Nan-đề học lại pháp học Tỳ-kheo, nếu có ai khác giống như Nan-đề cũng nên tác pháp cho học lại như sau: Tăng nên nhất tâm hòa hợp, Tỳ- kheo Nan-đề trịch bày vai hữu quỳ gối chắp tay bạch rằng: Đại đức tăng lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo Nan-đề không xả giới, giới không suy kém, không nói ra mà hành pháp dâm, tôi nay theo Tăng xin học lại pháp học Tỳ-kheo, xin thương xót. (3 lần) Một Tỳ-kheo trong Tăng xướng rằng: Đại đức tăng lắng nghe, Tỳ-kheo Nan-đề không xả giới, giới không suy kém, không nói ra mà hành pháp dâm, nay theo Tăng xin học lại pháp học Tỳ-kheo, Tăng thương xót cho Tỳ-kheo Nan-đề học lại pháp học. Nếu Tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận cho Tỳ-kheo Nan-đề học lại pháp học Tỳ-kheo. Bạch như vậy. Như thế bạch tứ yết ma cho đến câu Tăng đã cho Tỳ-kheo Nan-đề học lại pháp học Tỳ-kheo xong, Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Hành pháp của Sa-di cho học lại pháp học Tỳ-kheo là đối với tất cả giới Tỳ-kheo mà Phật đã kết đều phải thọ hành lại hết, người này ngồi ở dưới các Tỳ-kheo, nên trao thức ăn uống và thuốc thang cho các Tỳ-kheo, tự theo Sa-di và bạch y thọ thức ăn uống; không được cùng đại Tỳ-kheo ở chung phòng quá hai đêm, cũng không được cùng Sa-di và bạch y ở chung quá hai đêm; được cùng Tỳ-kheo thọ cụ túc giới làm hai pháp bố tát và tự tứ, nhưng không được xếp vào trong Túc số tăng làm yết ma bố tát và tự tứ, tất cả yết ma đều không được làm. Lúc đó ở nước Kiều-tát-la, có một Tỳ-kheo ở một mình trong rừng núi sâu, một phi nhân nữ đến nói với Tỳ-kheo: “Hãy cùng làm việc dâm dục”, Tỳ-kheo nói: “Chớ nói lời này, tôi là người đoạn dâm dục”, nữ phi nhân nói: “Nếu không cùng làm, ta sẽ quấy nhiễu làm cho thầy suy não”, Tỳ-kheo nói: “Tùy ý cô, tôi sẽ không không cùng cô làm việc dâm”. Trong đêm đó, Tỳ-kheo đang ngủ, nữ phi nhân bọc Tỳ- kheo trong nội y mang đến trong cung vua để nằm bên cạnh phu nhân của vua, khi vua thức dậy thấy liền hỏi là ai, đáp là Sa-môn, lại hỏi là Sa-môn nào, đáp là Sa-môn Thích tử, vua hỏi vì sao đến trong đây, Tỳ- kheo liền đem việc trên kể lại cho vua nghe, vua nói: “Thầy hãy đi đi, ta biết Phật pháp nên không trách tội”. Tỳ-kheo được thoát tội liền đem việc trên kể lại cho các Tỳ-kheo nghe, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay, trong rừng núi sâu, chỗ không người đáng sợ như thế thì không nên ở”. Ở nước Kiều-tát-la, có một Tỳ-kheo ở nơi A-lan-nhã, một quỷ nữ Tỳ-xá-già đến nói với Tỳ-kheo: “Hãy cùng làm việc dâm dục”, Tỳ-kheo nói: “Chớ nói lời này, tôi là người đoạn dâm dục”, nữ quỷ nói: “Nếu không cùng làm, ta sẽ quấy nhiễu làm cho thầy suy não”, Tỳ-kheo nói: “Tùy ý cô, tôi nhất định không không cùng cô làm việc dâm”. Trong đêm đó, Tỳ-kheo đang ngủ, nữ quỷ bọc Tỳ-kheo trong nội y mang đến trong quán rượu bỏ trong một chum rượu, sáng hôm sau người trong quán rượu thấy liền hỏi là ai, đáp là Sa-môn, lại hỏi là Sa- môn nào, đáp là Sa-môn Thích tử, lại hỏi vì sao đến trong đây, Tỳ-kheo liền đem việc trên kể lại cho chủ quán nghe, chủ quán nói: “Thầy hãy đi đi”. Tỳ-kheo được thoát liền đem việc trên kể lại cho các Tỳ-kheo nghe, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay, trong rừng núi sâu, chỗ không người đáng sợ như thế thì không nên ở”. Có một Tỳ-kheo đi giữa bầy bò dữ, bò dữ chạy tới muốn húc Tỳ- kheo, kế chạy đến chỗ người nữ, người nữ ôm chầm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo dùng tay đẩy ra rồi sanh tâm nghi không biết có phạm Ba-la-di hay không, liền bạch Phật, Phật bảo: “Không phạm, từ nay ở giữa bầy bò thì nên đi thong thả”. Có một Tỳ-kheo nhìn xuống giếng, không may rớt xuống giếng, trong giếng đã có một người rớt xuống trước rồi, thấy Tỳ-kheo rớt xuống liền ôm chầm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo lấy tay đẩy ra. Sau đó có một cư só trong Tăng phường nhìn xuống giếng thấy Tỳ-kheo liền kéo lên, người nữ cũng theo lên. Cư só hỏi: “Tỳ-kheo và người nữ làm gì ở trong giếng?”, Tỳ-kheo nói: “Người nữ này rớt xuống trước, tội rớt xxuống sau”, nói rồi không biết có phạm Ba-la-di hay không, liền bạch Phật, Phật bảo: “Không phạm, từ nay khi nhìn xuống giếng nên nhất tâm đừng để cho rớt xuống”. Có một Tỳ-kheo khất thực, trước ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực, đến trước một cửa nhỏ muốn vào, vừa lúc đó có một người nữ muốn ra, vai của hai người chạm nhau, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di hay không, liền bạch Phật, Phật bảo: “Nếu vô tâm thì không phạm, từ nay khi khất thực nên đi thong thả”. Có một Tỳ-kheo đi chung thuyền với một người nữ qua sông, thuyền bị chìm, người nữ ôm chầm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đưa tay đẩy ra rồi sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di hay không, liền bạch Phật, Phật bảo: “Không phạm, từ nay ngồi trên thuyền nên thư thả”. Có một người nam tên là Ca-tỳ-la khẩn độ, dáng vẻ như người nữ, thích việc người nữ nên đến chỗ Tỳ-kheo-ni cầu xin xuất gia. Các Tỳ- kheo-ni không suy xét liền cho xuất gia, người này sờ mó Tỳ-kheo-ni bị Tỳ-kheo-ni đuổi ra, lại đến sờ mó Thức-xoa-ma-na bị txmn đuổi ra, lại đến sờ mó Sa-di-ni bị sd ni đuổi ra. Lúc đó Tỳ-kheo-ni không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật bảo: “Không phạm, từ nay nên suy xét kỹ rồi mới độ cho xuất gia”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trong thành có vợ của một thương nhân, người chồng đi xa buôn bán, người vợ ở nhà tư thông với người nam khác có thai, bụng càng ngày càng lớn, người vợ sợ chồng biết nên tự trục thai rồi suy nghó: “Không có ai đồng tình mang thai nhi này vứt bỏ giùm ta”. Lúc người vợ này đang lo buồn về thai nhi chết này thì có một Tỳ-kheo-ni đến nhà, ni này vốn thường qua lại nhà này và quen biết người vợ này nên khi thấy bà ta buồn rầu liền hỏi nguyên do, đáp: “Chồng tôi đi xa, tôi ở nhà tư thông với… nên tự trục thai ra, nhưng không tìm được ai đồng tình đem vứt bỏ thai nhi chết này giùm tôi. Cô có thể đem vứt nó giùm tôi không?”, ni đáp: “Được, nếu tôi đem vứt thì đâu ai biết”, nói rồi bỏ thai nhi chết vào trong cái chậu, đậy lên rồi đem đến chỗ khuất bỏ. Lúc đó có một đám trẻ đang chơi đùa ở gần đó, thấy Tỳ-kheo-ni bỏ cái chậu, muốn biết là vật gì trong đó nên đến giở xem, liền thấy một thai nhi đã chết, cùng nói kháo lên rằng: “Sa-môn Thích tử dâm dục, làm cho Tỳ-kheo-ni sanh con rồi giết bỏ”, một người nói cho hai người dần dần tiếng đồn vang khắp trong thành Xá-vệ. Có Tỳ-kheo-ni thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp hai bộ Tăng rồi hỏi Tỳ-kheo-ni này: “Cô thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni lại đi bỏ giùm thai chết cho người khác, từ nay Tỳ-kheo-ni nếu làm thế thì phạm tội”. Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la nghe tin Bạt-đà Ca-tỳ-la xuất gia liền thỉnh vào vuơng cung, trong bốn tháng ở cùng một chỗ. Sau đó vua có việc muốn đi nên bảo người giữ cửa cung chớ để Tỳ-kheo-ni ra ngoài, người giữ cửa vâng lời vua dặn, nhưng vì có việc nên để cho Tỳ-kheo-ni mặc đồ phu nhân đi ra ngoài, đến tinh xá Kỳ-hoàn. Lúc đó Phật đang thuyết pháp cho đại chúng, từ xa trông thấy Tỳ-kheo-ni này, Phật liền bảo: “Thiện lai Bạt-đà Ca-tỳ-la”, Phật vừa nói dứt, y phục phu nhân trên người liền biến mất, tóc trên đầu tự rụng, ca sa hiện trên thân liền trở thành Tỳ-kheo-ni. Tỳ-kheo-ni này liền đến đảnh lễ Phật, Phật vì nói đạo thần thông như ý túc, vừa nghe xong Tỳ-kheo-ni này liền chứng được thần thông lực. Lúc đó vua hay tin Bạt-đà Ca-tỳ-la bỏ đi liền dẫn bốn binh đến bao vây tinh xá Vương viên, Tỳ-kheo-ni này liền bay lên hư không, vua nhìn lên trông thấy liền sanh tâm hối hận: “Tại sao ta lại làm ô nhục Tỳ-kheo-ni A-la-hán này”, nghó rồi liền ngất xỉu ngã xuống đất, quần thần tưới nước cho tỉnh lại, vua liền đến trước Tỳ- kheo-ni sám hối. Lúc đó các Tỳ-kheo biết chuyện liền đuổi Tỳ-kheo-ni này và nói: “Cô đã làm việc dâm dục, cô hãy đi đi”, Tỳ-kheo-ni này nói: “Tôi không có thọ dâm dục”, các Tỳ-kheo-ni nói: “Cô đã ở cùng vua suốt trong bốn tháng, sao nói là không thọ dâm dục”, Tỳ-kheo-ni này không biết làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật hỏi: “Cô thật có thọ xúc lạc dục hay không?, đáp: “Thế tôn, con không có thọ xúc lạc dục, con cảm thấy như sắt nóng vào thân”, Phật bảo: “Nếu không có tâm thọ xúc lạc dục thì không phạm”, lúc đó Phật bảo các Tỳ-kheo-ni: “Các cô chớ nói Tỳ-kheo-ni làm việc dâm dục, người nữ này do nhân duyên nghiệp báo nên có nữ căn và bị người khác cưỡng bức làm việc dâm. Nếu có Tỳ-kheo-ni khác giống như vậy bị người khác cưỡng bức hành dâm mà tâm không thọ xúc lạc dục thì không phạm” Có một Tỳ-kheo-ni tên Thiện sanh, dung mạo đoan chánh đáng yêu, Ca-tỳ-la khẩn độ vừa thấy liền sanh tâm ái nhiễm sờ mó Tỳ-kheo- ni và bị đuổi ra, Tỳ-kheo-ni sanh tâm nghi không biết có phạm Ba-la-di không liền bạch Phật, Phật bảo: “Nếu không có tâm thọ dục thì không phạm”. Có Tỳ-kheo-ni tên là Đà-ni dung mạo đoan chánh đáng yêu, trước giờ ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực, giữa đường gặp kẻ xấu bắt dẫn vào trong rừng cưỡng bức hành dâm rồi thả về. Các Tỳ-kheo-ni biết chuyện liền đuổi ra và nói: “Cô đã làm việc dâm dục, hãy đi đi”, Tỳ-kheo-ni này nói: “Tôi không có thọ xúc lạc dục”, các Tỳ-kheo-ni nói: “Cô bị kẻ xấu bắt vào trong rừng cưỡng bức hành dâm, sao nói là không có thọ xúc lạc dục”, Tỳ-kheo-ni này không biết làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật hỏi: “Cô thật có thọ xúc lạc dục hay không?, đáp: “Thế tôn, con không có thọ xúc lạc dục, con đã dùng tay chân xô đạp nhưng không thoát được”, Phật bảo: “Nếu không có tậm thọ xúc lạc dục thì không phạm”, lúc đó Phật bảo các Tỳ-kheo-ni: “Các cô chớ nói Tỳ-kheo-ni làm việc dâm dục, người nữ này do nhân duyên nghiệp báo nên có nữ căn và bị người khác cưỡng bức làm việc dâm. Nếu có Tỳ-kheo-ni khác giống như vậy bị người khác cưỡng bức hành dâm mà tâm không thọ xúc lạc dục thì không phạm”. Có Tỳ-kheo-ni tên là Thủ viên trước giờ ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực, bị kẻ xấu bắt dẫn vào trong rừng cưỡng bức hành dâm rồi thả về. Các Tỳ-kheo-ni biết chuyện liền đuổi đi, Tỳ-kheo-ni này nói: “Tôi không có thọ xúc lạc dục”, các Tỳ-kheo-ni nói: “Cô bị kẻ xấu bắt dẫn vào trong rừng cưỡng bức hành dâm, sao nói là không thọ xúc lạc dục”. Vừa lúc đó có trưởng lão A-nan đến, các Tỳ-kheo-ni nói: “Nay có trưởng lão A-nan ở đây”, A-nan liền hỏi nguyên do sự việc, Tỳ-kheo-ni này vì kính sợ A-nan nên không trả lời, A-nan bực tức vì cô không chịu trả lời. Tỳ-kheo-ni suy nghó: “Các Tỳ-kheo-ni đuổi ta, trưởng lão A-nan giận ta, ta sống làm chi nữa”, nghó rồi liền đến trong sông A-kỳ-La-bà tự vẫn, khi thân nổi trên nước, những người đùa giỡn trên bờ nhìn thấy liền vớt lên, xốc nước cho tỉnh lại rồi dẫn vào trong rừng cưỡng bức hành dâm rồi thả về. Tỳ-kheo-ni này trở về chùa lại bị các Tỳ-kheo-ni đuổi ra và nói: “Trước cô nói là không thọ xúc lạc dục, sao nay lại cùng họ vào trong rừng hành dâm”, Tỳ-kheo-ni này không biết làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật hỏi: “Cô thật có thọ xúc lạc dục hay không?, đáp: “Thế tôn, con không có thọ xúc lạc dục, con đã kêu gào thảm thiết nhưng không thoát được”, Phật bảo: “Nếu không có tậm thọ xúc lạc dục thì không phạm”, lúc đó Phật bảo các Tỳ-kheo-ni: “Các cô chớ nói Tỳ-kheo-ni làm việc dâm dục, người nữ này do nhân duyên nghiệp báo nên có nữ căn và bị người khác cưỡng bức làm việc dâm. Nếu có Tỳ-kheo-ni khác giống như vậy bị người khác cưỡng bức hành dâm mà tâm không thọ xúc lạc dục thì không phạm”. Giới Trộm Thứ Hai: Phật tại thành Vương xá, do nhân duyên Tỳ-kheo Đạt-ni-ca con của người thợ gốm nên Phật kết giới trộm, nói là làm trước khi kết giới thì không phạm. Tỳ-kheo này sanh tâm nghi: “Ta nhiều lần trộm lấy cây gỗ, không biết lần nào là trước hay không phải là trước”, bạch Phật, Phật nói: “Trước khi kết giới thì tất cả thời lấy cây gỗ đều không phạm, đó gọi là làm trước thì không phạm”. Có một Tỳ-kheo ở chỗ trống lấy vật vô chủ mang đi, sau đó sanh tâm nghi không biết có phạm Ba-la-di không, liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu biết vật này là có chủ khởi tưởng là có chủ mà lấy thì phạm Ba-la- di; nếu vật có chủ khởi tưởng là không chủ mà lấy cũng phạm Ba-la-di; nếu vật có chủ sanh nghi mà lấy cũng phạm Ba-la-di. Nếu vật vô chủ khởi tưởng là có chủ mà lấy thì phạm Thâu-lan-giá; nếu vật không chủ sanh nghi mà lấy cũng phạm Thâu-lan-giá; nếu vật vô chủ khởi tưởng là vô chủ mà lấy thì không phạm”. Người khác không cho cơm ăn mà Tỳ-kheo tự lấy mang đi, sau đó sanh tâm nghi không biết có phạm Ba-la-di không, liền bạch Phật, Phật nói: “Nên tính theo giá tiền cơm đã ăn mà kết phạm. Các loại thức ăn khác như bún, mì, cá, thịt… cũng như vậy, tính theo giá mà kết phạm”. Có một Tỳ-kheo không được thỉnh mà đến thọ thực, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu không được thỉnh thì không nên đến thọ thực, nếu đến thọ thực thì phạm Đột-kiết-la”. Có Tỳ-kheo cựu trụ đến tụ lạc, Tỳ-kheo tri thức lấy giùm phần ăn, khi trở về, Tỳ-kheo tri thức đưa phần thức ăn này và nói: “Tôi lấy giùm phần thức ăn cho thầy”, Tỳ-kheo này nói: “Tôi không bảo thầy lấy giùm, cớ sao thầy lại lấy”, Tỳ-kheo tri thức sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, liền bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu người khác không nhờ lấy giùm thì không nên lấy giùm phần thức ăn, nếu lấy giùm thì phạm Đột-kiết-la”. Có một Tỳ-kheo đến tụ lạc, Tỳ-kheo này có hai đệ tử cọng hành khi Tăng chia cơm, cả hai đệ tử đều cùng lấy phần cơm cho thầy, sau đó mới biết nên nói với nhau: “Thầy đã lấy một phần, tôi lại lấy thêm một phần, không biết chúng ta có phạm Ba-la-di không”, liền bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nên nói với nhau để một người lấy, khi lấy nên nói là tôi lấy phần ăn này cho Tỳ-kheo tên ”. Có một Tỳ-kheo bịnh, khi Tăng chia cơm, Tỳ-kheo khán bịnh lấy phần cơm cho Tỳ-kheo bịnh, Tỳ-kheo binh chết, Tỳ-kheo khán bịnh không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu người bịnh chết trước, lấy phần cơm sau thì nên trả lại phần cơm; nếu lấy phần cơm rồi Tỳ-kheo bịnh mới chết thì phần cơm này giống như phần vật khác của tỳ-kheo chết để lại”. <篇> LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 58 TỲ NI TỤNG (Tiếp Theo) Giới Trộm (Tiếp Theo): Các Tỳ-kheo nói với nhau: “Chúng ta hãy cùng đi làm giặc”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, đi đến giữa đường liền sanh tâm hối hận, nghó rằng: “Chúng ta do lòng tin xuất gia trong Phật pháp thiện mà lại đi làm giặc hay sao”, nghó rồi không đi nữa, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Các Tỳ-kheo nói với nhau: “Chúng ta hãy cùng đi làm giặc”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, đi đến giữa đường, một người trong số đó suy nghó: “Ta do lòng tin xuất gia trong Phật pháp, sao lại đi làm giặc. Nhưng nếu ta không đi, họ sẽ giết ta, ta tuy cùng đi nhưng không đoạt lấy vật cũng không lấy phần”, nghó rồi cùng đi, không đoạt lấy vật cũng không nhận lấy phần, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Các Tỳ-kheo nói với nhau: “Chúng ta hãy cùng đi làm giặc”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, khi đi đến nơi không lấy được gì cả, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Các Tỳ-kheo nói với nhau: “Chúng ta hãy cùng đi làm giặc”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, đi đến nơi, phân nữa-tỳ-kheo canh chừng, phân nữa-tỳ-kheo lấy vật. Số Tỳ-kheo canh chừng nói với nhau: “Chúng ta không lấy vật nên không có tội”, sanh nghi không biết có phạm Ba-la- di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu- lan-giá”. Các Tỳ-kheo nói với nhau: “Chúng ta hãy cùng đi làm giặc”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, khi đến nơi lấy thì phân nữa-tỳ-kheo lấy được vật, phân nữa-tỳ-kheo không lấy được vật. Số người không lấy được vật nói với nhau: “Chúng ta không lấy vật cũng không lấy phần thì không có tội”, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Các Tỳ-kheo nói với nhau: “Chúng ta hãy cùng đi làm giặc”, đáp là tùy ý rồi cùng nhau đi, đến nơi nói với nhau là lấy ít chớ có lấy đủ năm tiền. Khi lấy xong gom lại để cùng chia thì thấy là đủ số năm tiền, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Tùy người lấy vật rời khỏi chỗ cũ trị giá bao nhiêu mà kết phạm”. Lúc đó người canh giữ cho Tỳ-kheo y, Tỳ-kheo không lấy nghó rằng: “Trong đây ai là đàn việt, ai là chủ”, liền bạch Phật, Phật nói: “Tùy người nào thí thì nhận”. Có giặc bắt đệ tử mang đi, Hòa thượng đoạt lại dẫn về, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu quyết định là thuộc về giặc thì phạm Ba-la-di, nếu không quyết định thì không phạm”. A-xà-lê có đệ tử cận hành bị giặc bắt cũng như vậy. Có giặc bắt Tỳ-kheo dẫn đi, sau đó bỏ trốn chạy thoát trở về, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật nói: “Tự thoát thân thì không phạm”. Có Tỳ-kheo mang vật đáng đóng thuế đi qua ải thuế quan, nghó rằng: “Nếu ta mang vật này qua thì phạm Ba-la-di, nhưng tiền đóng thuế vật này thà mang cho Phật pháp tăng hay cho Hòa thượng, A-xà- lê hay cho cha mẹ”, nghó rồi liền dùng lời dịu dàng nói với người thuế quan: “Tôi mang vật này là để cúng dường cho Phật pháp tăng hoặc cho Hòa thượng, A-xà-lê hoặc cho cha mẹ”, do lực của lời nói này mà được đi qua không phải đóng thuế thì không lỗi, hoặc bay qua thì không phạm. Có Tỳ-kheo đến mượn của tỳ-kheo khác chiếc giường độc tọa, nghó là không trả lại, chủ đến đòi, nói là không trả, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo đến mượn Tỳ-kheo khác quyển kinh, nghó là không trả lại, chủ đến đòi, nói là không trả, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá” Có Tỳ-kheo trộm lấy đãy y xấu rách nhưng trong đó lại có chiếc y quý giá, thấy y này rồi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật nói: “Tính giá đãy y này nếu đủ năm tiền thì phạm Ba-la-di, nếu không tới năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá”. Có đám giặc mang rượu đến chỗ A-lan-nhã, uống một nữa còn một nữa đem cất, lúc đó các Tỳ-kheo du hành đến thấy rượu này liền nói với đệ tử: “Hãy mang rượu này về trú xứ dùng làm rượu đắng”, đệ tử vâng lời thầy lấy mang về. Đám giặc trở về, tìm không thấy rượu liền đến hỏi các Tỳ-kheo: “Rượu để chỗ kia, các thầy có lấy mang đi không?”, đáp là có mang đi, đám giặc tức giận nói: “Các thầy là giặc của giặc”, Tỳ-kheo hỏi: “Sao lại nói là giặc của giặc?”, giặc nói: “Chúng tôi là giặc, các thầy trộm lấy của tôi nên là giặc của giặc”. Tỳ- kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy rượu với tâm gì”, đáp: “Con cho là rượu không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Lại có đám giặc mang thịt đến chỗ A-lan-nhã, ăn một nữa còn một nữa đem cất, lúc đó các Tỳ-kheo du hành đến thấy thịt này liền nói với đệ tử: “Hãy mang thịt này về trú xứ để ngày mai cúng dường”, đệ tử vâng lời thầy lấy mang về. Đám giặc trở về, tìm không thấy thịt liền đến hỏi các Tỳ-kheo: “Thịt để chỗ kia, các thầy có lấy mang đi không?”, đáp là có mang đi, đám giặc tức giận nói: “Các thầy là giặc của giặc”, Tỳ-kheo hỏi: “Sao lại nói là giặc của giặc?”, giặc nói: “Chúng tôi là giặc, các thầy trộm lấy của tôi nên là giặc của giặc”. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy thịt với tâm gì”, đáp: “Con cho là thịt không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Có đám giặc cướp phá thành ấp cướp lấy được tài vật rồi mang đến chỗ A-lan-nhã định chia, quan binh đến bao vây, đám giặc hoảng sợ nên đem tài vật này bố thí hết cho các Tỳ-kheo rồi bỏ chạy. Khi các bạch y đến nhìn thấy tài vật này ở chỗ Tỳ-kheo liền hỏi: “Tài vật này vì sao ở chỗ các thầy?”, đáp là bọn giặc cho chúng tôi, bạch y nói: “Ai tin lời của các thầy, hoặc là các thầy làm giặc hoặc là đồng đảng của giặc nên mới có được tài vật này”. Các Tỳ-kheo không biết làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không được lấy vật từ bọn giặc, nếu chủ giặc cho thì được thọ, thọ rồi nên nhuộm cho hoại sắc rồi mặc, nếu đã nhuộm hoại sắc mà chủ vẫn đòi thì nên trả lại”. Có cư só cởi áo để bên đường rồi đi tiện lợi, một Tỳ-kheo nạp y đi đến thấy y này, nhìn chung quanh thấy không có ai liền lấy y này mang đi, cư só chạy theo đòi y nói rằng: “Tỳ-kheo không được mang áo của tôi đi”, Tỳ-kheo không nghe thấy nên vẫn mang đi không dừng lại, cư só nói: “Pháp của tỳ-kheo là người khác không cho mà vẫn miễn cưỡng lấy đi hay sao?”, Tỳ-kheo nói: “Tôi cho là y này vô chủ”, cư só nói: “Đây là áo của tôi, nó là vật có chủ”, Tỳ-kheo nói: “Nếu là vật của ông thì ông cứ lấy”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy y với tâm gì”, đáp: “Con cho là y không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ vật này là có chủ hay không chủ rồi mới lấy”. Khi có người thân chết, người nhà liền mang người chết đến bỏ nơi rừng thây chết, pháp của người dân trong nước này là cởi lấy y sạch đẹp trên người của người chết rồi mới hỏa thiêu. Người nhà cởi lấy y sạch đẹp trên người chết để ở bìa rừng rồi làm lễ hỏa thiêu người chết, lúc đó Tỳ-kheo nạp y đi đến thấy y này, nhìn chung quanh thấy không có ai liền lấy y này mang đi, cư só chạy theo đòi y nói rằng: “Tỳ-kheo không được mang áo của tôi đi”, Tỳ-kheo không nghe thấy nên vẫn mang đi không dừng lại, cư só nói: “Pháp của tỳ-kheo là người khác không cho mà vẫn miễn cưỡng lấy đi hay sao?”, Tỳ-kheo nói: “Tôi cho là y này vô chủ”, cư só nói: “Đây là áo của tôi, nó là vật có chủ”, Tỳ-kheo nói: “Nếu là vật của ông thì ông cứ lấy”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy y với tâm gì”, đáp: “Con cho là y không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ là vật có chủ hay không có chủ rồi mới lấy”. Có người giặt y đem y ngâm trong nước rồi quên bỏ đi đến tụ lạc khác, sau mới nhớ lại không biết có mất số y này không liền trở về. Lúc đó có Tỳ-kheo nạp y tìm cầu nạp y cũ rách đi đến chỗ này thấy y, nhìn chung quanh thấy không có ai liền lấy y này mang đi, người giặt y thấy Tỳ-kheo lấy y liền chạy theo đòi y nói rằng: “Tỳ-kheo không được mang áo của tôi đi”, Tỳ-kheo không nghe thấy nên vẫn mang đi không dừng lại, người giặt y nói: “Pháp của tỳ-kheo là người khác không cho mà vẫn miễn cưỡng lấy đi hay sao?”, Tỳ-kheo nói: “Tôi cho là y này vô chủ”, cư só nói: “Đây là áo của tôi, nó là vật có chủ”, Tỳ-kheo nói: “Nếu là vật của ông thì ông cứ lấy”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy y với tâm gì”, đáp: “Con cho là y không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ vật là có chủ hay không có chủ rồi mới lấy”. Lại có người giặt y mang y đến bên bờ nước giặt, giặt xong vắt rồi đem phơi, ngồi một chỗ để canh chừng, lúc đó có một Tỳ-kheo nạp y tìm cầu y nạp cũ rách đi đến chỗ này thấy y, nhìn chung quanh thấy không có ai liền lấy y này mang đi, người giặt y thấy Tỳ-kheo lấy y mang đi liền chạy theo đòi y nói rằng: “Tỳ-kheo không được mang áo của tôi đi”, Tỳ-kheo không nghe thấy nên vẫn mang đi không dừng lại, người giặt y nói: “Pháp của tỳ-kheo là người khác không cho mà vẫn miễn cưỡng lấy đi hay sao?”, Tỳ-kheo nói: “Tôi cho là y này vô chủ”, cư só nói: “Đây là áo của tôi, nó là vật có chủ”, Tỳ-kheo nói: “Nếu là vật của ông thì ông cứ lấy”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba- la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy y với tâm gì”, đáp: “Con cho là y không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ là vật có chủ hay không có chủ rồi mới lấy”. Có một đứa trẻ mang xá lặc, rong chơi trên đường bỏ quên lại xá lặc mà trở về nhà, lúc đó có một Tỳ-kheo nạp y đi đến thấY-xá-lặc này, nhìn quanh thấy không có ai liền lấy mang đi. Người nhà của đứa bé từ xa nhìn thấy liền nói với Tỳ-kheo: “Không được lấY-xá-lặc đi”, Tỳ-kheo nói: “Tôi nhặt ở trên đường”, người nữ nói: “Con tôi mang xá lặc đi rong chơi bỏ quên trên đường, thầy không nên lấy”, Tỳ-kheo nói: “Nếu là của con cô thì cô cứ lấy lại”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy vật đó với tâm gì”, đáp: “Con cho là vật không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Lúc đó các Tỳ-kheo nạp y mặc nạp y dơ bẩn khiến các thần kim cang và thiên thần không vui, cũng tự mất oai đức, bạch Phật, Phật nói: “Nạp y bất tịnh thì không nên mặc, nếu mặc thì phạm Đột-kiết-la”. Có một cư só nghe nói Sa-môn Thích tử có người mặc nạp y liền đem điệp y quý giá gói tám văn tiền rồi bỏ trong đống phân, cố ý cho điệp y ló ra rồi đứng ở chỗ xa xem chừng. Lúc đó có một Tỳ-kheo nạp y tìm cầu nạp y cũ rách đi đến, thấy điệp y ló ra liền lấy, lấy rồi mới phát hiện ra là điệp y quý giá nên mang đi. Cư só từ xa nhìn thấy liền kêu lên: “Trưởng lão chớ lấy điệp y của tôi”, Tỳ-kheo nói: “Tôi nhặt trong đống phân, đâu can gì đến ông”, cư só nói: “Tôi nghe nói Sa-môn Thích tử có người mặc nạp y liền đem điệp y quý giá gói tám văn tiền rồi bỏ trong đống phân, cố ý cho điệp y ló ra rồi đứng ở chỗ xa xem chừng. Nếu thầy không tin thì hãy mở ra xem thử”, Tỳ-kheo mở ra xem thì thấy có tám văn tiền liền nói: “Nếu là của ông thì cứ lấy lại”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy vật đó với tâm gì”, đáp: “Con cho là vật không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Có Tỳ-kheo nạp y cất giấu nạp y một chỗ rồi vào thành Xá-vệ khất thực, lúc đó có một Tỳ-kheo nạp y khác đi đến chỗ này phát hiện nạp y, nhìn quanh thấy không có ai liền lấy mang đi, sau đó đem giặt sạch rồi phơi bên cửa tinh xá Kỳ-hoàn. Tỳ-kheo chủ y khất thực trở về tìm không thấy nạp y, khi đến tinh xá Kỳ-hoàn thấy y đang phơi bên cửa liền nói với Tỳ-kheo phơi y: “Trưởng lão đã phạm Ba-la-di”, Tỳ-kheo hỏi tại sao, liền nói: “Nạp y của tôi thầy đã lấy mang đi”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ- kheo: “Thầy khi lấy nạp y đó với tâm gì”, đáp: “Con cho là nạp y không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ là vật cất giấu hay là vật vô chủ rồi mới lấy”. Nước Kiều-tát-la gần chỗ rừng thây chết có miếu thờ trời, người giữ miếu giặt y vắt rồi phơi quên không cất, gió thổi y bay đến chỗ người chết, lúc đó có một Tỳ-kheo đang ở bên người chết quán tử thi, nhìn thấy y rơi xuống liền lấy mang đi. Người giữ miếu đi đến thấy liền nói: “Trưởng lão chớ lấy y của tôi”, Tỳ-kheo nói: “Tôi lấy y này ở bên người chết đâu can gì đến ông”, người giữ miếu nói: “Tôi phơi y quên cất, gió thổi bay đến chỗ người chết”, Tỳ-kheo nói: “Nếu là của ông thì ông cứ lấy lại”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi lấy y đó với tâm gì”, đáp: “Con cho là y không có chủ nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu thấy vật nên suy xét kỹ rồi mới lấy”. Các Tỳ-kheo lấy y ở trong chỗ bỏ người chết, các Chiên-đà-la thấy nói: “Trưởng lão không được lấy, đó là vật đóng thuế của chúng tôi”, các Tỳ-kheo không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Từ nay Tỳ-kheo không nên lấy y ở chỗ người chết, nếu lấy thì phạm tội”. Lại có các Tỳ-kheo lượm những đoạn nạp y ở bên ngoài chỗ bỏ người chết, các Chiên-đà-la cũng ngăn không cho lấy, Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Nếu ngăn không cho lấy thì đừng lấy, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó có cư só thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, cư só biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Khi Phật và Tăng đi đến nhà cư só, trưởng lão Da- xá ở lại giữ Tăng phường nên nhận lấy phần thức ăn, lúc đó có hai đứa con nhỏ của cư só Cấp-cô-độc đến chơi đùa trong sân của Tăng phường, giặc muốn đến xâm não và cướp đoạt của hai đứa bé. Trưởng lão Da-xá thấy rồi liền suy nghó: “Hai đứa trẻ này đáng thương, không biết giặc sắp làm hại”, nghó rồi liền nhập định dùng thần thông lực khởi bốn binh, giặc thấy bốn binh cho là bị quan binh bao vây hoảng sợ bỏ chạy. Sau đó các Tỳ-kheo biết chuyện nói với trưởng lão Da-xá: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi tại sao, liền nói: “Giặc xâm não cướp đoạt ật của hai đứa trẻ, thầy đã đoạt lấy lại”, Da-xá sanh nghi nên bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy dùng tâm gì đoạt lấy lại”, đáp: “Con dùng thần thông lực”, Phật nói: “Nếu dùng thần thông lực lấy lại thì không phạm”. Lúc đó có cư só thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, cư só biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Khi Phật và Tăng đến nhà cư só, một Tỳ-kheo ở lại giữ Tăng phường nên nhận lấy phần thức ăn. Tỳ-kheo đang tụng chú thuật, lúc đó có hai đứa con nhỏ của cư só Cấp-cô-độc đến chơi đùa trong sân của Tăng phường, giặc muốn đến xâm não và cướp đoạt của hai đứa bé. Tỳ-kheo thấy rồi liền suy nghó: “Hai đứa trẻ này đáng thương, không biết giặc sắp làm hại. Ta đang tụng chú thuật nên dùng thử xem có linh nghiệm không”, nghó rồi liền tụng chú thuật khởi bốn binh, giặc thấy bốn binh cho là bị quan binh bao vây hoảng sợ bỏ chạy. Sau đó các Tỳ- kheo biết chuyện nói với Tỳ-kheo này: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi tại sao, liền nói: “Giặc xâm não cướp đoạt vật của hai đứa trẻ, thầy đã đoạt lấy lại”, Tỳ-kheo này sanh nghi nên bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy dùng tâm gì đoạt lấy lại”, đáp: “Con dùng thử chú thuật”, Phật nói: “Nếu dùng lực của chú thuật lấy lại thì không phạm”. Có một cư só thường dùng ruộng của Tăng mà không đưa cho Tăng tiền thuế, sau đó lại muốn gieo trồng, cựu Tỳ-kheo đến nói với cư só: “Ông thường dùng ruộng của Tăng mà không đưa cho Tăng tiền thuế, nay ông không được gieo trồng nữa, nếu muốn gieo trồng thì phải đưa cho Tăng tiền thuế”, cư só nghe rồi nhưng vẫn cố gượng gieo trồng trên ruộng. Cựu Tỳ-kheo liền nằm trên ruộng ngăn không cho gieo trồng, cư só hổ thẹn nên không gieo trồng nữa, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không liền bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, nhưng từ nay không được đem thân mình ra làm việc đáng xấu hổ như thế”. Có một Tỳ-kheo trộm vật trong Phật điện, sau đó sanh nghi không biết c1 phạm Ba-la-di không liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu có người coi giữ thì tính theo giá của vật đã lấy, nếu đủ năm tiền thì phạm Ba- la-di”. Cựu Tỳ-kheo sai người gieo trồng trên ruộng của Tăng, ruộng của Tăng gần sát ruộng của một cư só, Tỳ-kheo cũng bảo người gieo trồng trên ruộng của cư só, cư só thấy liền nói: “Không được gieo trồng trên ruộng của tôi”, Tỳ-kheo nói: “Tôi gieo trồng trên ruộng của Tăng, đâu can gì đến ông”, cư só nói: “Ruộng này là của tôi có phi nhân làm chứng”. Theo pháp nước thì các thửa ruộng phân ranh giới lấy cọc có cột xương chân hay xương đầu của người chết cắm trong đất để biết ranh giới, sau khi cư só chỉ rõ tướng của ruộng mình, Tỳ-kheo xấu hổ bỏ bò cày mà đi, nhưng sau đó lại sai người vượt qua tướng ranh gieo trồng giống như trước. Cư liền nói với Tỳ-kheo: “Trước đây tôi có chỉ cho thầy thấy tướng ranh của thửa ruộng, sao nay thầy lại cho gieo trồng trên ruộng của tôi nữa”, Tỳ-kheo nghe nói rồi liền bỏ bò cày mà đi, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nên tính theo giá, đủ thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo người khác không cho mà lấy cây hoa, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nên tính theo giá của cây hoa, đủ thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá; cây quả cũng như vậy”. Có một Tỳ-kheo phá tổ của chim diều hâu nên chim diều hâu thường đến bay lượn trên tinh xá kêu thảm thiết, Phật hỏi A-nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không được phá tổ của chim diều hâu, nếu phá thì phạm Đột-kiết-la”. Lại có một Tỳ- kheo lấy tổ của chim diều hâu nấu để nhuộm nên chim diều hâu thường đến bay lượn trên tinh xá kêu thảm thiết, Phật hỏi A-nan nguyên do, A- nan đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không được lấy tổ của chim diều hâu nấu để nhuộm, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Có một cư só trồng La-bặc trong vườn rất tươi ngon, một Tỳ-kheo đến xin La bặc, cư só hỏi: “Thầy có tiền không?”, đáp là không có, cư só nói: “Nếu thầy cần La bặc thì hãy mang tiền đến, nếu cho không thì tôi làm sao sinh sống”, Tỳ-kheo nói: “Ông nhất định không cho phải không?”, đáp là không cho. Tỳ-kheo liền dùng năng lực của chú thuật chú nguyện cho cây khô héo, làm rồi sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nên tính theo giá của cây La bặc, đủ thì phạm Ba-la-di, không đủ thì phạm Thâu-lan-giá. Vườn cây, vườn hoa, vườn rau, vườn quả cũng như vậy”. Lúc đó có một con ngựa đang ăn, Tỳ-kheo dùng một bó cỏ dụ ngựa, con ngựa đi theo Tỳ-kheo, Tỳ-kheo lại chỉ cỏ khác, tâm nghó muốn nó ăn cỏ của người khác, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá” Các Tỳ-kheo từ nước Kiều-tát-la du hành đến nước Xá-vệ, tháp tùng theo đoàn thương buôn, khi đi ngang qua đường hiểm, các thương nhơn cởi ngựa tốt nói với các Tỳ-kheo: “Các thầy nên cởi ngựa tốt để đi mau qua con đường hiểm này”. Tỳ-kheo liền cởi ngựa tốt liền khởi phương tiện: “Ngựa này đáng được”, nghó rồi thân cũng hơi động liền sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá” Có thương buôn chở vật báu đầy thuyền, khi Tỳ-kheo đi nhờ qua sông thấy vật báu này liền khởi phương tiện: “Vật báu này đáng được”, nghó rồi thân cũng hơi động liên sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu- lan-giá” Có thương buôn chở vật báu qua sông, thuyền bị chìm nên vật báu cũng chìm theo, chỉ có rương quần áo là trôi theo dòng nước. Thương nhân vì hoảng sợ nên không thể vớt lấy rương quần áo, lúc đó một Tỳ- kheo đang tắm ở dưới nguồn của sông, thấy rương quần áo trôi đến liền vớt lấy mang đi. Thương nhân thấy rồi liền nói với Tỳ-kheo: “Chớ lấy rương quần áo của tôi”, Tỳ-kheo nói: “Tôi vớt được trên sông đâu can gì đến ông”, thương nhân nói: “Thuyền của tôi bị chìm, vật báu của tôi cũng chìm theo, chỉ có rương quần áo nổi trôi theo dòng, vì tôi hoảng sợ nên không thể vớt được”, Tỳ-kheo nói: “Nếu đúng như lời ông nói thì hãy lấy đi đi”, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Có một Tỳ-kheo mang vật của Tăng bốn phương dời để một chỗ khác, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Đột-kiết-la”. Có đám giặc dẫn bò cột vào một gốc cây nơi A-lan-nhã rồi đi, các Tỳ-kheo sau giờ ăn đi kinh hành thấy bò bị cột ở gốc cây, cảm thấy thương xót nên mở dây thả cho bò đi, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Đột-kiết-la”. Ở nước Xá-vệ có một tượng thiên thần có thể cho người ước nguyện một cư só đến đó cầu nguyện và như như nguyện nên rất vui mừng, liền đem tấm bạch điệp khoác lên tượng thiên thần. Lúc đó có Tỳ-kheo tên là Hắc-a-nan có sức mạnh, không sợ gì hết liền lấy tấm bạch điệp này của tượng thiên thần mang đi, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la- di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Lại có một tượng thiên thần có thể bảo hộ người, một cư só đến đó cầu nguyện và được như nguyện nên đem búi tóc bằng vàng kết trên đầu của tượng thiên thần. Tỳ-kheo Hắc-a-nan muốn đến lấy búi tóc bằng vàng này, khi sắp đến lấy, tượng thiên thần hiện tướng khủng bố khiến Tỳ-kheo dựng lông tóc, vậy mà vẫn không sợ lấy búi tóc bằng vàng mang đi. Sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Tại nước Xá-vệ, có vợ của các cư só đến tắm trong sông A-kỳ-La- bà, trước khi xuống sông tắm đã cởi bỏ y phục và đồ trang sức để trên bờ, bên bờ sông có một cây, trên cây có một con khỉ ở, thấy rồi liền leo xuống mang lấy chuỗi anh lạc và đồ trang sức lên cây. Vợ cư só tắm xong lên bờ mặc lại y phục rồi tìm khắp nơi không thấy chuỗi anh lạc và đồ trang sức đâu nên bỏ về. Lúc đó con khỉ lại mang chuỗi anh lạc và đồ trang sức trả lại chỗ cũ, một Tỳ-kheo sau giờ ăn đi kinh hành đến đó thấy chuỗi anh lạc và đồ trang sức này liền lấy đem đến đưa cho vợ cư só. Vợ cư só nói: “Thầy là kẻ giặc đã trộm lấy đồ trang sức của tôi, nay tâm hối nên đem trả lại phải không?”, Tỳ-kheo đáp là tôi không lấy, vợ cư só nói: “Nếu thầy không lấy tại sao thầy có được”, Tỳ-kheo đem việc trên kể lại rồi sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm”. Ở trên hang phía đầu đường kinh hành có chim Khang lang làm tổ nên nó thường tha xương và nạp y cũ rách về bỏ dưới đất, Tỳ-kheo kinh hành liền phá tổ của chim nên chim thường đến bay lượn trên tinh xá kêu thảm thiết, Phật hỏi A-nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không được phá tổ của chim Khang lang, nếu phá thì phạm Đột-kiết-la”. Ở một chỗ có kho chứa, các Tỳ-kheo thường đem thức ăn thức uống, tiền và vật dụng để trong đó. Có một hang chuột trong đó, mỗi khi ra khỏi hang chuột này liền tha thức ăn, tiền và vật dụng của các Tỳ-kheo mang vào trong hang, các Tỳ-kheo thấy mất nhưng không biết là ai lấy trộm. Lúc đó có một Tỳ-kheo khất thực về để thức ăn một bên, đợi đến giờ ngọ mới ăn, không ngờ chuột từ trong hang bò ra tha lấy thức ăn, Tỳ-kheo thấy rồi biết chính là chuột trộm liền phá hang chuột, không những lấy lại vật của mình mà còn lấy lại tất cả những gì chuột đã tha vào trước đó. Các Tỳ-kheo liền nói: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi vì sao, đáp là vì đã lấy vật của chuột, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, từ nay chỉ nên lấy lại vật của mình, không nên lấy vật của chuột”. Có một Tỳ-kheo nằm ngủ trên giường ở trong phòng, ban đêm thấy có chuột mang thức ăn đến bỏ dưới giường. Tỳ-kheo này sáng sớm thức dậy rửa tay rồi từ tịnh nhân thọ lấy thức ăn này ăn. Các Tỳ-kheo không thấy Tỳ-kheo này đi khất thực mà vẫn có thức ăn ăn nên hỏi nguyên do, sau khi biết rõ nguyên do liền nói: “Thầy đã phạm Ba-la- di”, hỏi vì sao, các Tỳ-kheo nói: “Chuột không cho mà thầy tự lấy ăn”, Tỳ-kheo nghe rồi sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo này không phạm, vì sao, vì con chuột kia đời trước là cha của tỳ-kheo này, vì thương con nên mang thức ăn bỏ ở dưới giường cho Tỳ-kheo”. Có một người thợ săn đuổi theo một con nai chạy vào trong Tăng phường, muốn tìm nai nhưng các Tỳ-kheo không cho nên phải quay về, lúc đó các Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm”. Có một người thợ săn dùng mũi tên độc bắn một con nai, nai chạy vào trong Tăng phường, thợ săn muốn tìm nai nhưng các Tỳ-kheo không cho nên phải quay về, lúc đó các Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm”. Có một người thợ săn dùng mũi tên độc bắn một con nai, nai chạy vào trong Tăng phường, thợ săn muốn tìm nai nhưng các Tỳ-kheo không cho, thợ săn nói: “Nai này đã trúng độc ắt sẽ chết”, Tỳ-kheo nói: “Dù có chết cũng không cho”, thợ săn năn nỉ không được nên phải quay về, không bao lâu sau nai chết, lúc đó các Tỳ-kheo không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Nên trả lại cho người thợ săn”. Có thợ săn làm dụng cụ bắt nai, nếu Tỳ-kheo với tâm vui thích phá bỏ dụng cụ này thì phạm Thâu-lan-giá, nếu phá vì tâm thương xót thì phạm Đột-kiết-la. Có người giăng bẫy lưới bắt chim, nếu Tỳ-kheo với tâm vui thích phá bỏ dụng cụ này thì phạm Thâu-lan-giá, nếu phá vì tâm thương xót thì phạm Đột-kiết-la. Có người bán y, Tỳ-kheo thấy rồi liền lấy mang đi, người bán y nói: “Không được lấy y của tôi”, Tỳ-kheo nói: “Tôi cầm y để chỉ cho người kia thấy rồi sẽ lại lại cho ông”, nhưng sau đó lại sanh tâm muốn không trả lại, nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có Tỳ-kheo sai thợ mộc làm mà không chịu trả tiền công, thợ mộc đòi tiền, Tỳ-kheo không đưa cho, sau đó sanh nghi hối, nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo lấy đồ gốm của người thợ gốm mà không trả tiền, thợ gốm đòi tiền, Tỳ-kheo không đưa, sau đó sanh nghi hối, nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Lại có Tỳ-kheo đến một cửa hiệu mua đồ mà không trả tiền, chủ cửa hiệu đòi tiền, Tỳ-kheo không đưa, sau đó sanh nghi hối, nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu- lan-giá”. Có một Tỳ-kheo bịnh muốn ăn bánh nên đưa tiền cho Tỳ-kheo khán bịnh nói rằng: “Thầy cầm tiền này làm bánh cho tôi, tôi ăn một ít và cúng cho Tăng”, các Tỳ-kheo khán bịnh nói với nhau: “Vì sao chúng ta lại đem tiền này làm bánh cho Tăng được, chúng ta chỉ nên làm một ít bánh cho người bịnh ăn thôi, tiền còn dư chúng ta sẽ cùng chia”, bàn xong liền làm một ít bánh cho người bịnh rồi cùng nhau chia tiền còn lại, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Đột-kiết-la “ Có một Tỳ-kheo bịnh đưa tiền cho Tỳ-kheo khán bịnh nói rằng: “Thầy cầm tiền này nấu cho tôi ba thời cháo mới, tôi ăn một ít và cúng cho Tăng”, các Tỳ-kheo khán bịnh nói với nhau: “Vì sao chúng ta lại đem tiền này nấu cháo cho Tăng được, chúng ta chỉ nên nấu một ít cháo cho người bịnh ăn thôi, tiền còn dư chúng ta sẽ cùng chia”, bàn xong liền nấu một ít cháo cho người bịnh rồi cùng nhau chia tiền còn lại, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Đột-kiết-la ”. Có một Tỳ-kheo bịnh có nhiều tiền nghó rằng: “Sau khi ta chết chắc chắn Tăng chia tiền của ta, nay ta sẽ làm cho Tăng không thể chia được”, nghó rồi liền nói với người khán bịnh: “Hãy nấu cho tôi canh đậu ma sa”. Người khán bịnh nấu canh này mang đến, vì có việc nên ra ngoài, người bịnh bỏ tiền vào trong canh và húp hết, do thức ăn này khó tiêu nên Tỳ-kheo bịnh chết, Tỳ-kheo khán bịnh đem thây bỏ trong rừng thây chết, chim đến rỉa bụng ăn nên tiền rớt ra ngoài đất. Lúc đó tăng đánh kiền chùy gọi người khán bịnh đến nói: “Tỳ-kheo qua đời để lại nhiều tiền, thầy hãy mang đến cho Tăng chia”, Tỳ-kheo khán bịnh tìm tiền không thấy. Có một Tỳ-kheo sống ở trong gò mả, đến chỗ người chết để quán vô thường, thấy tiền này nên mang đến cho Tăng, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm”. Có một Tỳ-kheo bịnh có nhiều ruộng đất, nói với Tỳ-kheo khán bịnh: “Hãy gọi các Tỳ-kheo đến, tôi muốn chia ruộng đất này cho Phật và Tăng hoặc cho người”, Tỳ-kheo khán bịnh suy nghó: “Nếu Tỳ-kheo bịnh đem ruộng đất chia cho Phật, Tăng hay cho người thì ta sẽ không được gì”, nghó rồi liền không gọi các Tỳ-kheo đến, sau khi Tỳ-kheo bịnh chết, Tỳ-kheo khán bịnh đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Không nên vì một việc nhỏ mà làm trái ý người bịnh, nên làm theo ý muốn của người sắp qua đời”. Có một Tỳ-kheo bịnh có nhiều y bát và các vật cần dùng trong sinh hoạt, nói với Tỳ-kheo khán bịnh: “Hãy gọi các Tỳ-kheo đến, tôi muốn chia các vật này cho Phật và Tăng hoặc cho người”, Tỳ-kheo khán bịnh suy nghó: “Nếu Tỳ-kheo bịnh đem các vật này chia cho Phật, Tăng hay cho người thì ta sẽ không được gì”, nghó rồi liền không gọi các Tỳ-kheo đến, sau khi Tỳ-kheo bịnh chết, Tỳ-kheo khán bịnh đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Không nên vì một việc nhỏ mà làm trái ý người bịnh, nên làm theo ý muốn của người sắp qua đời”. Có một Tỳ-kheo-ni ở Đông phương đi chung đường với Tỳ-kheo- ni tên Ba-lợi, Ba-lợi đi trước đánh rơi y, Đông phương đi sau nhặt lấy, về đến trú xứ liền hỏi là ai đã đánh rơi y, Ba-lợi nghe rồi liền hỏi: “Cô đã lấy y sao?”, đáp là đã nhặt lấy, Ba-lợi liền nói: “Cô đã phạm Ba-la- di”, Đông phương hỏi tại sao, Ba-lợi nói: “Vì cô dùng tâm trộm để lấy”, Đông phương nghe rồi sanh nghi không biết mình có phạm Ba-la-di hay không, liền đem việc này bạch Phật, Phật nói không phạm. Có Tỳ-kheo-ni tên Thi-việt quen biết rộng, là người có phước đức, thích được cúng dường tô, dầu, mật, thạch mật. Lúc đó có một thương buôn thấy vị ni này sanh tâm tín kính nói rằng: “Khi nào cô cần tô, dầu, mật, thạch mật cứ đến nhà con lấy về dùng”, ni liền nhận lời. Một Tỳ- kheo-ni khác nghe được, qua mấy ngày sau đến nhà thương buôn đó nói rằng: “Ni Thi-việt cần năm thăng dầu mè”, thương buôn liền cúng cho, vị ni này mang về tự dùng. Vài ngày sau, thương buôn này gặp ni Thi-việt liền nói: “Sao cô chỉ cần lấy dầu mè mà không lấy thứ khác”, ni liền hỏi nguyên do rồi nói: “Nếu có xin thứ khác, ông cũng nên cho”, nói rồi trở về quở trách vị ni kia: “Cô là Tỳ-kheo-ni xấu xa, hạ tiện, cô đã phạm Ba-la-di”, ni kia hỏi rõ nguyên do rồi nói: “Không phải chủ không cho mà tôi nhận lấy, mà là tôi mượn tên cô để nhận lấy”, nói rồi sanh nghi không biết mình có phạm Ba-la-di hay không liền đem việc này bạch Phật, Phật hỏi: “Cô dùng tâm gì để nhận lấy?”, đáp là mượn tên của Thi-việt để nhận lấy, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di nhưng phạm tội vọng ngữ Ba-dật-đề, từ nay không được dối mượn tên người khác để lấy, nếu lấy thì phạm tội”. Ở thành Xá-vệ, có một thương buôn trang bị thuyền bè để vào biển cả, khi vào trong biển có rồng đến nắm lấy thuyền, mọi người trên thuyền đều cầu khẩn thiên thần mong được thoát nạn. Trong số này có một thương buôn là đệ tử của trưởng lão Đại Mục-kiền-liên, trưởng lão thường lui tới nhà này, lúc đó người này suy nghó: “Nếu ta niệm thánh hiệu của thánh giả Đại Mục-kiền-liên ắt sẽ được cứu thoát”, nghó rồi liền nhất tâm niệm danh hiệu thánh giả Mục-liên. Lúc đó trưởng lão Mục-liên dùng thiên nhãn thấy liền nhập định, dùng thần thông lực hóa thành chim chúa Kim súy đậu trên đầu thuyền, rồng thấy chim chúa Kim súy hoảng sợ buông thuyền rồi lặn mất. Các thương nhơn được an ổn trở về, hết lờùi ca ngợi trưởng lão Đại Mục-kiền-liên: “Chúng ta được thoát chết từ biển trở về đều nhờ ân lực của trưởng lão Mục-liên”. Các Tỳ-kheo biết chuyện liền đến nói với trưởng lão Mục-liên: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi vì sao, đáp: “Thuyền đã thuộc về rồng, thầy đã lấy lại từ nó”, Mục-liên nghe rồi sanh nghi nên bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy cứu họ như thế nào?”, đáp là dùng thần thông lực, Phật nói: “Nếu dùng thần thông lực cứu thì không phạm”. Ở nước Xá-vệ, các thương nhơn đi vào tụ lạc thành ấp buôn bán, khi đi qua đường hiểm gặp giặc cướp bao vây đánh cướp, mọi người đều cầu khẩn thiên thần mong được thoát nạn. Trong số này có một thương buôn là đệ tử của trưởng lão Đại Mục-kiền-liên, trưởng lão thường lui tới nhà này, lúc đó người này suy nghó: “Nếu ta niệm thánh hiệu của thánh giả Đại Mục-kiền-liên ắt sẽ được cứu thoát”, nghó rồi liền nhất tâm niệm danh hiệu thánh giả Mục-liên. Lúc đó trưởng lão Mục-liên dùng thiên nhãn thấy liền nhập định, dùng thần thông lực hóa hiện bốn binh. Giặc cướp thấy bốn binh không biết là của vua quan hay của người trong tụ lạc nên hoảng sợ bỏ chạy. Các thương nhơn được an ổn trở về, hết lời ca ngợi trưởng lão Đại Mục-kiền-liên: “Chúng ta được thoát chết từ biển trở về đều nhờ ân lực của trưởng lão Mục-liên”. Các Tỳ-kheo biết chuyện liền đến nói với trưởng lão Mục-liên: “Thầy đã phạm Ba- la-di”, hỏi vì sao, đáp: “Các thương nhơn đã thuộc về giặc cướp, thầy đã đoạt lại từ họ”, Mục-liên nghe rồi sanh nghi nên bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy cứu họ như thế nào?”, đáp là dùng thần thông lực, Phật nói: “Nếu dùng thần thông lực cứu thì không phạm”. Trưởng lão Tất-lân-già-bà-ta thường ra vào nhà đàn việt, có đứa trẻ mỗi khi thấy Tỳ-kheo đến nhà liền đến đảnh lễ, hai tay chạm vào chân của tỳ-kheo rồi mới đứng dậy. Một hôm đứa trẻ đang đứng chơi trên bờ sông, có thuyền của giặc cướp đến dụ nó lên thuyền. Trưởng lão dùng thiên nhãn thấy rồi liền nhập định, dùng thần thông lực hiện đứng trên đầu thuyền, đứa trẻ này thấy trưởng lão liền đến đảnh lễ, hai tay chạm vào chân trưởng lão, trưởng lão liền bay đi, đứa trẻ cũng bay theo, trưởng lão đưa đứa trẻ trở về nhà. Các Tỳ-kheo biết chuyện liền đến nói với trưởng lão Tất-lân-già-bà-ta: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi vì sao, đáp: “Đứa trẻ đã thuộc về giặc cướp, thầy đã đoạt lại từ họ”, Tất-lân- già-bà-ta nghe rồi sanh nghi nên bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy cứu họ như thế nào?”, đáp là dùng thần thông lực, Phật nói: “Nếu dùng thần thông lực cứu thì không phạm”. Lúc đó vua Bình-sa cho Tăng trong Trúc viên năm trăm người giữ vườn để làm việc cho Tăng, năm trăm người này ở trong một thôn cách Trúc viên không xa, giặc cướp thường đến cướp đoạt tài vật của họ. Trưởng lão Tất-lân-già-bà-ta thấy việc này rồi suy nghó: “Không nên để cho những người này bị giặc cướp hại”, nghó rồi liền dùng thần thông lực hóa thành tường vách cao, khi giặc cướp đến đánh cướp phải làm thang cao để leo qua nhưng chưa làm xong thang thì trời sáng, giặc cướp hoảng sợ bỏ chạy. Các Tỳ-kheo biết chuyện liền đến nói với trưởng lão Tất-lân-già-bà-ta: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi vì sao, đáp: “Tài vật đã thuộc về giặc cướp, thầy đã đoạt lại từ họ”, Mục-liên nghe rồi sanh nghi nên bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy cứu họ như thế nào?”, đáp là dùng thần thông lực, Phật nói: “Nếu dùng thần thông lực cứu thì không phạm”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó vào tháng cuối hạ, Bạt-nan-đà đi đến các tinh xá để dò xét xem chỗ nào được cúng dường nhiều y vật. Từ xa các Tỳ-kheo thấy Bạt-nan-đà đi đến liền đứng dậy nghinh đón, mời ngồi rồi thăm hỏi có an lạc hay không. Im lặng một lát, Bạt-nan-đà liền hỏi các Tỳ-kheo: “Trú xứ này an cư có được cúng dường y vật không?”, đáp là được, lại hỏi chia chưa, đáp là chưa chia, liền bảo mang đến để chia, các Tỳ-kheo liền mang đến cho Bạt-nan-đà chia. Sau khi chia xong, vị thượng tòa nhận phần của mình rồi đi, Bạt-nan-đà bảo chờ một chút, thượng tòa hỏi có việc gì, đáp là cứ đợi. Do Bạt-nan-đà có biện tài thuyết pháp với đủ ngôn từ khiến cho vị thượng tòa này nghe pháp xong rất hoan hỉ, vì ái pháp nên nói với Bạt-nan-đà: “Phần y này của tôi xin cúng cho thầy”, cứ như thế các Tỳ-kheo trong trú xứ này đều đem phần y của mình cúng dường hết cho Bạt-nan-đà, không phải chỉ một trú xứ này mà các trú xứ khác cũng vậy nên Bạt-nan-đà được rất nhiều y vật gánh về Kỳ lâm. Lúc đó các Tỳ-kheo đang kinh hành ở chỗ đất trống bên ngoài cửa Kỳ-hoàn, từ xa thấy Bạt-nan-đà gánh y vật đi đến liền nói với nhau: “Bạt-nan-đà này là người không biết xấu hổ, có làm điều xấu thấy nghe nghi nên mới thọ được nhiều y vật như thế mang về”. Khi Bạt-nan-đà đến gần, các Tỳ-kheo hỏi: “Y vật này từ đâu có được?”, đáp: “Do tôi thuyết pháp cho các Tỳ-kheo hay nên được”. Có Tỳ-kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ- kheo tăng rồi hỏi Bạt-nan-đà: “ thầy thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo an cư ở chỗ này lại đi đến các chỗ khác thọ phần y”, nhưng lúc đó Phật chỉ quở trách chứ chưa kết giới. Phật tại nước Kiều-tát-la cùng đại chúng an cư tại một trú xứ, lúc đó các cư só trong nước này cúng dường rất nhiều y cho Tăng hoặc cúng ở trong phòng riêng, hoặc cúng sau hạ an cư. Năm sau Phật an cư trong Kỳ lâm, trong trú xứ này có hai Tỳ-kheo an cư, các cư só suy nghó: “Chúng ta nên cúng hạ an cư như xưa, không nên bỏ phế, các Tỳ-kheo được cúng dường còn chúng ta được phước”, nghó rồi liền mang nhiều y vật đến cúng cho Tăng an cư. hai Tỳ-kheo này suy nghó: “Y vật cúng dường quá nhiều, chúng ta chỉ có hai, nếu đem chia không biết sẽ mắc tội gì”, do tâm nghi nên không chia y vật. Lúc đó vào tháng sau hạ, Bạt-nan-đà đi đến các tinh xá để dò xét xem chỗ nào được cúng dường nhiều y vật. Bạt-nan-đà suy nghó: “Năm trước Phật an cư nơi đây, nhất định nơi đó được cúng nhiều y vật”, nghó rồi liền đi đến trú xứ này. Từ xa hai Tỳ-kheo thấy Bạt-nan-đà đi đến liền đứng dậy nghinh đón, mời ngồi rồi thăm hỏi có an lạc hay không. Im lăng một lát, Bạt-nan-đà liền hỏi hai Tỳ-kheo: “Trú xứ này an cư có được cúng dường y vật không?”, đáp là được, lại hỏi chia chưa, đáp là chưa chia, lại hỏi vì sao không chia, đáp: “Y vật quá nhiều, chúng tôi chỉ có hai, sợ chia không biết sẽ phạm tội gì, do tâm nghi nên không chia”, Bạt-nan-đà nói: “Hai thầy không chia là đúng, nếu chia rồi không biết sẽ phạm tội gì”, hai Tỳ-kheo hỏi: “Thầy có thể chia giúp được không?”, đáp: “Tất nhiên là được, chỉ cần làm yết ma”. Hai Tỳ-kheo này liền mang tất cả y vật đến cho Bạt-nan-đà chia, Bạt-nan-đà chia làm ba phần, một phần đưa cho hai Tỳ-kheo, còn hai phần cho mình và nói rằng: “Hai thầy hãy lắng nghe tác pháp yết ma”, liền nói kệ: “Hai thầy được một phần, Tổng cọng là ba phần. Hai phần này với tôi, Tôi cũng có ba phần”. Hai Tỳ-kheo hỏi: “Yết ma chia như vậy có ổn không?”, đáp là rất ổn, nói rồi liền gánh y đi. hai Tỳ-kheo nói: “Nhưng hai chúng tôi chưa được chia y”, Bạt-nan-đà nói: “Nếu tôi chia cho hai thầy thì người biết pháp phải được một cái y tốt”, đáp là được, Bạt-nan-đà liền chọn lấy một cái y quý giá để riêng ra rồi chia số y còn lại làm hai phần cho hai Tỳ-kheo, chia xong liền gánh y trở về Kỳ-hoàn. Lúc đó các Tỳ-kheo đang kinh hành ở chỗ đất trống bên ngoài cửa Kỳ-hoàn, từ xa thấy Bạt- nan-đà gánh y vật đi đến liền nói với nhau: “Bạt-nan-đà này là người không biết xấu hổ, có làm điều xấu thấy nghe nghi nên mới thọ được nhiều y vật như thế mang về”. Khi Bạt-nan-đà đến gần, các Tỳ-kheo hỏi: “Y vật này từ đâu có được?”, Bạt-nan-đà liền đem việc trên kể lại cho các Tỳ-kheo nghe. Có Tỳ-kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ-kheo tăng rồi hỏi Bạt-nan-đà: “Thầy thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo lại cố tình đoạt lấy y vật của tỳ-kheo khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Bạt-nan-đà này không phải chỉ đời này mà trong quá khứ cũng đã đoạt lấy vật thực của hai người này. Các thầy hãy lắng nghe: Thuở xưa trong một khúc sông có hai con rái cá bắt được một con cá chép lớn trong sông, do không biết nên chia như thế nào nên cả hai đứng đó để giữ con cá. Lúc đó có một con dã can muốn đến bờ sông để uống nước, thấy vậy liền hỏi nguyên do, rái cá nói: “chúng con bắt được một con cá chép lớn trong sông nhưng không biết nên chia như thế nào, cậu có thể chia giúp chúng con được không?”, dã can nói: “Tất nhiên là được, chỉ cần nói kệ”, dã can liền chia con cá ra làm ba phần rồi hỏi rái cá: “Ai thích sống ở chỗ cạn”, một con đáp là con, lại hỏi: “Ai thích sống ở chỗ sâu”, con còn lại đáp là con, dã can nói: Hãy nghe ta nói kệ: “Vào cạn được phần đuôi, Vào sâu được phần đầu, Phần thịt ở giữa thân, Chia cho người biết pháp”. Nói rồi liền ngậm phần thịt cá đi, một con dã can cái thấy liền nói kệ hỏi: “Anh từ chỗ nào về, Trong miệng lại ngậm đầy, Không đầu đuôi như thế, Thịt cá chép ăn ngon” Dã can nói kệ đáp: “Người biết cách ăn nói, Nhưng không biết phân chia, Người biết cách phân chia, Như quan được kho báu, Phần thịt cá chép này, Thuộc về tôi được ăn”. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Hai con rái cá thuở xưa chính là hai Tỳ- kheo kia ngày nay, dã can ngày xưa chính là Bạt-nan-đà ngày nay. Thuở xưa Bạt-nan-đà đã chiếm đoạt vật thực, nay lại chiếm đoạt y”, Phật quở trách Bạt-nan-đà rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay nếu an cư trong trú xứ này thì không được đến các trú xứ khác thọ phần y, nếu thọ thì phạm Đột-kiết-la”. Trưởng lão A-nan có đệ tử cọng hành tên là Trực tín là người nho nhã hiền lành, thường lui tới nhà một cư só. Cư só này bịnh nặng, Tỳ- kheo Trực tín đến thăm, sau khi thăm hỏi rồi, cư só nói với Tỳ-kheo Trực tín: “Tôi có hai đứa con, sau khi tôi chết, thầy quán xem đứa trẻ nào tốt thì giao chìa khóa nhà cho nó”, nói xong liền qua đời. Tỳ-kheo nhớ lời cư só, quán sát thấy một trong hai đứa trẻ là người tốt hiền lành liền giao chìa khóa nhà cho nó, đứa kia liền đòi chia phần, đứa được chìa khóa nhà không chia. Đứa trẻ không được chia phần liền đến chỗ trưởng lão A-nan kể lại việc trên, trưởng lão A-nan nghe rồi liền đuổi Tỳ-kheo Trực tín. Trực tín vốn thuộc dòng họ Thích nên đến nói với năm trăm Thích tử: “Xin thỉnh cầu Hòa thượng giúp tôi cho tôi sám hối”, liền hỏi giúp như thế nào, Trực tín nói: “Các vị dẫn hai đứa trẻ này đến chỗ Hòa thượng đảnh lễ rồi ngồi một bên, Hòa thượng ắt sẽ thuyết pháp cho các vị, các vị nghe pháp xong khi ra về nên để lại hai đứa trẻ, Hòa thượng ắt sẽ bảo các vị dẫn chúng đi, các vị nói: Hãy cho Tỳ-kheo Trực tín sám hối thì sẽ dẫn hai đứa trẻ đi”, các Thích tử nhận lời làm y theo lời Trực tín nói, lúc đó trưởng lão A-nan suy nghó rồi nói với các Thích tử: “Ta cho Trực tín sám hối”, sau đó bảo Trực tín rằng: “Thầy phạm tội Đột- kiết-la”. Có hai Tỳ-kheo quen thân nhau, một người tên là Chiên-đà-la, một người tên là Tô-đà-di. Chiên-đà-la có y Tăng-già-lê muốn đổi, Tô-đà-di lại cần y Tăng-già-lê; lúc đó Chiên-đà-la để y trong phòng, Tô-đà-di suy nghó: “Chiên-đà-la muốn đổi y, ta cũng cần có y, ta nên đắp thử xem nếu vừa thì ta sẽ đổi”, nghó rồi liền đắp y thử, Chiên-đà-la bước vào thấy rồi liền nói: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi vì sao, đáp: “Thầy có tâm trộm lấy y của tôi đắp”, Tô-đà-di nghe rồi sanh tâm nghi hối liền bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy dùng tâm gì khi lấy y?”, đáp: “Con cho là đồng ý nên lấy đắp thử”, Phật nói: “Nếu cho là đồng ý mà lấy đắp thử thì không phạm, từ nay vật của người không được đồng ý thì không nên lấy, nếu lấy thì phạm tội. Có năm trường hợp được đồng ý lấy: Một là thiện tri thức đáng tin cậy, hai là người hiện tiền, ba là vật hiện tiền, bốn là khi lấy nói trước với người chủ, năm là nếu lấy mà người kia hoan hỉ”. Có hai Tỳ-kheo quen thân nhau, một người tên là Tu-thi-ma, một người tên là Hòa-tu-đạt. Tu-thi-ma có thể cắt rọc may y nên Hòa-tu-đạt- mang vải đến chỗ Tu-thi-ma nói rằng: “Nếu thầy cắt rọc may y này thì tôi sẽ cho thầy bát”, Tu-thi-ma nhận lời nói rằng: “Nếu như lời thầy nói cho tôi bát thì hãy để vải lại đây”, Hòa-tu-đạt để vải lại rồi đi. Sau khi cắt rọc may thành y xong, Tu-thi-ma giao cho Hòa-tu-đạt rồi nói: “Tôi đã may thành y, thầy hãy mang bát đến cho tôi”, Hòa-tu-đạt rửa sạch bát rồi để trước mặt Tu-thi-ma không nói cho mà liền bỏ đi, Tu-thi-ma khởi tưởng là vật của mình nên lấy mang đi, Hòa-tu-đạt nói với Tu-thi- ma: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, hỏi vì sao, đáp: “Thầy có tâm trộm lấy bát của tôi”, Tu-thi-ma sanh nghi hối liền bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy dùng tâm gì khi lấy bát?”, đáp: “Con khởi tưởng là của mình nên lấy”, Phật nói: “Không phạm, từ nay không được vì lấy vật mà làm việc cho người khác, nếu vì lấy vật mà làm thì phạm Đột-kiết-la. Không phạm là nếu người kia nói: Khi thầy có việc tôi sẽ làm thay cho thầy, như khi tôi giữ Tăng phường thì thấy nhận lấy phần thức ăn giùm tôi”. Có hai Tỳ-kheo khách trời tối đến trong Tăng phường, một người tên là A-dật-đa, một người tên là Xá-ma-đạt-đa. Xá-ma-đạt-đa có y mới nhuộm rất đẹp, A-dật-đa vừa nhìn thấy liền sanh tâm tham. Hai người ngủ chung một phòng, mỗi người tự xếp y cất vào một chỗ, trời chưa sáng A-dật-đa đã thức dậy, cho gói y của mình là của Xá-ma-đạt- đa nên trộm lấy mang đi, đến khi trời sáng mở ra xem mới biết là gói y của mình, sanh tâm nghi hối liền bạch Phật, Phật hỏi: “Thầy dùng tâm gì khi lấy gói y đi?”, đáp là dùng tâm trộm lấy, Phật nói: “Làm trước khi kết giới thì không phạm, từ nay không nên dùng tâm trộm tự lấy y của mình, nếu dùng tâm trộm mà lấy y của mình thì phạm Thâu-lan-giá”. Có người chăn heo làm mất heo, tên trộm bắt heo này đem đến bên bờ hào của tinh xá Kỳ-hoàn giết heo rồi mang phần thịt đi, để lại phần ruột heo ở đó. Lúc đó các Tỳ-kheo vào trước ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực, thấy ruột heo này ở trên đất liền nói với nhau: “Thầy mang ruột heo này về nấu còn tôi vào thành khất thực”. Khi người mất heo vào thành kiếm heo, đến gần Kỳ-hoàn thấy có khói bay lên nên đến hỏi Tỳ-kheo làm gì, đáp là nấu ruột heo, người này nói: “Tôi bị mất heo, thầy nấu ruột heo như vậy là đã giết heo của tôi”, Tỳ- kheo nói là không có giết heo, người này nói: “Không giết thì làm sao có ruột heo nấu”, đáp là lượm ở bên bờ hào, hai bên cùng nhau tranh cải và đưa đến chỗ quan xử đoán, quan hỏi Tỳ-kheo: “Thầy thật có giết heo không?”, Tỳ-kheo đáp: “Tôi thật không có giết, mà là lượm ở bên bờ hào của tinh xá Kỳ-hoàn”. Quan xử đoán này tín kính Phật pháp nên tin lời Tỳ-kheo, thả cho ra về và nói với Tỳ-kheo rằng: “Từ nay không nên lượm lấy ruột heo ở chỗ đất trống nữa”. Tỳ-kheo này trở về kể lại cho các Tỳ-kheo khác nghe, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Từ nay không được lượm lấy vật bất tịnh đã bỏ, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Có người có bà con chết, dùng tấm bạch điệp liệm cho người chết rồi đem bỏ trong rừng thây chết, trưởng lão A-nan trên đường đi thấy tấm bạch điệp này rồi muốn đến lấy, người chết bỗng động đậy nói rằng: “Xin đừng lấy tấm bạch điệp của tôi”, A-nan liền để lại rồi bỏ đi, về đến tinh xá kể lại việc trên cho các Tỳ-kheo nghe. Có một Tỳ-kheo tên là Hắc A-nan nghe rồi liền hỏi người chết hiện giờ ở đâu, đáp là ở tại , Tỳ-kheo này liền đến đó lấy tấm bạch điệp của người chết, người chết động đậy nói: “Xin đừng lấy tấm bạch điệp của tôi”, Hắc A-nan liền nói: “Ngạ quỷ từ đâu đến mà tham muốn y này, đời trước ngươi keo kiệt nên mới đọa làm ngạ quỷ”, nói rồi liền lấy tấm bạch điệp đi, ngạ quỷ theo sau đòi, Hắc A-nan về đến tinh xá, thiện thần giữ cửa không cho ngạ quỷ vào, xô xuống hào trước tinh xá. Hắc A-nan cầm bạch điệp khoe và kể lại việc trên cho các Tỳ-kheo nghe, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay thi thể của người chết chưa hoại thì không được lấy vật của họ, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Phật bảo Hắc A-nan đem thi thể của người chết trở về chỗ cũ và trả lại tấm bạch điệp cho người chết. Hắc A-nan phải đi sau, không được đi phía trước; nên đứng bên trái, không được đứng bên phải; nên đứng gần đầu, không được đứng gần chân và chớ để cho ngạ quỷ này đánh. Có Tỳ-kheo là người có phước đức, thích được cúng dường tô, dầu, mật, thạch mật. Lúc đó có một thương buôn thấy Tỳ-kheo này sanh tâm tín kính nói rằng: “Khi nào thầy cần tô, dầu, mật, thạch mật cứ đến nhà con lấy về dùng”, Tỳ-kheo liền nhận lời. Tỳ-kheo này có một đệ tử cọng hành nghe rồi liền suy nghó: “Thương buôn này thỉnh thầy ta tùy ý đến lấy tô, ta nên đến lấy thử xem có thật như lời đã thỉnh hay không”, nghó rồi qua mấy ngày sau đến nhà thương buôn đó nói rằng: “Hòa thượng tôi cần năm thăng tô”, thương buôn liền cúng cho, đệ tử mang về để dần trong thức ăn cho thầy. Thời gian sau, thương buôn này gặp Tỳ-kheo liền nói: “Sao thầy chỉ cần lấy tô mà không lấy thứ khác”, Tỳ-kheo liền hỏi nguyên do rồi nói: “Nếu có xin thứ khác, ông cũng nên cho”, nói rồi trở về quở trách đệ tử: “Thầy đã phạm Ba-la-di”, đệ tử hỏi rõ nguyên do rồi nói: “Không phải chủ không cho mà con đến lấy, vì người ấy thỉnh thầy tùy ý đến lấy tô… nên con mới đến lấy xem thử có thật như lỡi đã thinh hay không, nhưng tô lấy về con không tự dùng mà để dần trong thức ăn của thầy”, nói rồi sanh nghi không biết mình có phạm Ba-la-di hay không liền đem việc này bạch Phật,, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di nhưng phạm tội vọng ngữ Ba-dật-đề”. Có một trú xứ, cọp giết nai rồi chọn lấy thịt ngon ăn trước rồi để lại thịt dư, các Tỳ-kheo qua giờ ngọ đi ngang qua chỗ này thấy thịt nai của cọp ăn dư này liền nói với nhau: “Chúng ta mang về để ngày mai ăn”, liền mang về trong Kỳ-hoàn. Lúc đó cọp đói tìm thịt nai dư để ăn nữa nên đi quanh quẩn bên Kỳ-hoàn cất tiếng rống lên, Phật nghe tiếng cọp rống liền hỏi A-nan nguyên do, A-Nan-đáp: “Vì các Tỳ-kheo mang thịt nai dư của cọp mang về”, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay không được lấy thịt dư của cọp mang về, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la, vì sao, vì cọp không có dứt mong cầu. Nếu lấy thịt dư của Sư tử thì không phạm, vì sao, vì Sư tử dứt mong cầu”. Giới Sát Thứ Ba: Lúc đó Phật vì các Tỳ-kheo ở bên bờ sông Bà-cầu-mạt kết giới bất sát và nói là làm trước khi kết giới thì không phạm, các Tỳ-kheo này khởi tâm nghi: “Ta đã vì nhiều Tỳ-kheo khen ngợi cái chết khiến họ phát tâm muốn chết, không biết lúc đó là trước hay không phải trước”, liền bạch Phật, Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời đã làm đều không phạm nên nói là làm trước thì không phạm”. Có một Tỳ-kheo tưởng người là phi nhân nên giết, sau đó sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu người tưởng là người mà giết thì phạm Ba-la-di; người tưởng là phi nhân mà giết cũng phạm Ba-la-di; người sanh nghi mà giết cũng phạm Ba-la- di. Nếu phi nhân tưởng là phi nhân mà giết thì phạm Thâu-lan-giá; phi nhân tưởng là người mà giết cũng phạm Thâu-lan-giá; phi nhân sanh nghi mà giết cũng phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo mắc bịnh lâu ngày, một Tỳ-kheo quen biết đến thăm, người bịnh nói: Hãy mang dao đến cho tôi”, hỏi là muốn làm gì, đáp là cứ mang đến, Tỳ-kheo liền mang dao đến, Tỳ-kheo bịnh liền cầm dao vào phòng cắt cổ tự sát mà chết. Tỳ-kheo kia đưa dao cho rồi sanh nghi vào phòng xem thì thấy Tỳ-kheo đã chết liền suy nghó: “Người bịnh này chết là do mình, nếu mình không đưa dao thì người bịnh không chết”, nghó rồi sanh nghi hối không biết có phạm Ba-la-di không, liền bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay không được đưa dao cho người bịnh, nếu đưa dao tạo điều kiện cho họ chết thì phạm Đột-kiết-la”. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà cư só, cư só đi vắng chỉ có vợ ở nhà, sau khi thăm hỏi, vợ cư só im lặng một lát rồi nói với Tỳ-kheo: “Hãy cùng tôi hành dâm”, Tỳ-kheo nói: “Đừng nói lời này, chồng cô rất hung dữ”, vợ cư só nói: “Tôi sẽ khéo xử sự”. Sau đó vợ cư só cho chồng uống thuốc độc mà chết, Tỳ-kheo này lại đến nhà cư só, vợ cư só yêu cầu cùng hành dâm, Tỳ-kheo nói: “Chớ nói lời này, tôi là người đã đoạn dục”, vợ cư só nói: “Sao trước đây thầy không nói là người đã đoạn dục, tôi vì thầy mà giết chết chồng”, Tỳ-kheo nói: “Tôi không bảo cô giết chết chồng cô”, nói rồi sanh nghi hối không biết có phạm Ba-la-di không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà cư só, cư só bịnh, vợ cư só sau khi thăm hỏi, rồi nói với Tỳ-kheo: “Hãy cùng tôi hành dâm”, Tỳ-kheo nói: “Đừng nói lời này, chồng cô đang bịnh”, vợ cư só nói: “Tôi sẽ khéo xử sự”. Sau đó vợ cư só cho chồng uống thuốc độc mà chết, Tỳ-kheo này lại đến nhà cư só, vợ cư só yêu cầu cùng hành dâm, Tỳ-kheo nói: “Chớ nói lời này, tôi là người đã đoạn dục”, vợ cư só nói: “Sao trước đây thầy không nói là người đã đoạn dục, tôi vì thầy mà giết chết chồng”, Tỳ-kheo nói: “Tôi không bảo cô giết chết chồng cô”, nói rồi sanh nghi hối không biết có phạm Ba-la-di không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Nếu Tỳ-kheo có tâm sát đánh người, người này chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, người này không chết thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ- kheo có tâm sát đánh người, trong khoảng thời gian người này chưa chết mà Tỳ-kheo điên hay phản giới hoàn tục thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo tức giận người mẹ mà làm cho người mẹ hư thai, người mẹ chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, thai nhi chết thì phạm Thâu-lan-giá, cả hai mẹ con đều chết thì phạm Ba-la-di, cả hai không chết thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo tức giận thai nhi mà làm cho người mẹ hư thai, thai nhi chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, người mẹ chết thì phạm Thâu-lan-giá, cả hai mẹ con đều chết thì phạm Ba-la-di, cả hai không chết thì phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ-kheo bịnh nói với người khán bịnh: “Tôi muốn uống nước Tô-tỳ-la”, người khán bịnh cho uống, người bịnh uống xong liền chết, Tỳ-kheo khán bịnh sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm”. Có một Phạm chí mắc bịnh ghẻ lở đến nói với Tỳ-kheo: “Nếu tôi uống nước Tô-tỳ-la thì sẽ hết bịnh”, Tỳ-kheo nói: “Vì sao lại đòi uống nước này?”, Phạm chí nói: “Tôi đã từng mắc bịnh này, trước đây khi bịnh phát, tôi uống nước này liền khỏi bịnh”, Tỳ-kheo liền đưa cho uống, Phạm chí cuồng xong liền chết, Tỳ- kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm”. Có một người bị xuyên qua ngọn cây đau đớn vô cùng, liền nói với một Tỳ-kheo ở trong gò mả bên người chết quán vô thường rằng: “Hãy cho tôi uống nước Tô-tỳ-la”, Tỳ-kheo liền cho uống, người này uống xong liền chết, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm”. Lại có một người bị chặt tay chân nằm trong hào của tinh xá Kỳ-hoàn, các Tỳ-kheo-ni đến trong đây nghe pháp thì nghe tiếng người này kêu khóc liền cùng đến xem, thấy người này rồi liền nói với nhau: “Nếu có thể cho người này uống thuốc mà chết thì sẽ không phải chịu đau khổ như thế nữa”, một Tỳ- kheo-ni ngu si nghe được lời này liền đưa nước Tô-tỳ-la cho người này uống, người này uống xong liền chết. Các Tỳ-kheo-ni nói: “Cô đã phạm Ba-la-di”, hỏi vì sao, đáp: “Nếu cô không đưa nước Tô-tỳ-la cho uống thì người này không chết”, Tỳ-kheo-ni sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo-ni: “Cô dùng tâm gì khi đưa nước cho người đó uống?”, đáp: “Con muốn người đó không phải chịu đau khổ nữa nên đưa cho uống”, Phật nói: “Ngay khi người đó chết thì cô phạm Ba-la-di”. Ở nước A-la-tỳ đang xây Tăng phường mới, Tỳ-kheo làm ở trên cao, trong tay cầm cái đục (cái búa) làm rơi xuống trúng vào đầu của người thợ mộc, người này liền chết. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nên nhất tâm nhìn xuống phía dưới”. Lại có trường hợp khi kéo cây gỗ lên phía trên, Tỳ-kheo ít người mà cây gỗ lại nặng nên kéo không nổi, làm cây gỗ rơi xuống đè chết người thợ mộc. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nên nhất tâm khi nhìn xuống phía dưới”. Ở nước A-la-tỳ đang làm nhà tắm, khi kéo cây đà lên phía trên, Tỳ-kheo ít người mà cây đà lại nặng nên kéo không nổi, làm cây đà rơi xuống đè chết người thợ mộc. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nên nhất tâm khi nhìn xuống phía dưới, đừng để hại người. Nếu người ít thì không nên kéo cây đà nặng”. Lại có trường hợp khiêng bùn lên để lợp mái của nhà tắm, làm đứt dây bùn rớt xuống làm chết người thợ mộc, các Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay khi làm việc nên cẩn thận, đừng để hại người ”. Có một Tỳ-kheo ngồi thiền trên núi, lại có một Tỳ-kheo đang đẩy đá đi tới, đá rơi xuống trúng đầu Tỳ-kheo ngồi thiền liền chết, Tỳ-kheo đẩy đá sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay khi đẩy đá nên kêu to là đẩy đá đến”. Có một Tỳ-kheo đi giữa bầy bò, có con bò đực hung dữ muốn húc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo bỏ chạy té đè trên mình một đứa bé làm cho đứa bé chết. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nên cẩn thận khi đi giữa bầy bò”. Có một Tỳ-kheo bịnh lâu ngày gầy ốm lưng còng, không muốn sống nữa nên tự gieo mình xuống hầm để tự sát. Trong hầm này có một con dã can đang ăn thít người chết, Tỳ-kheo rơi trên mình của con dã can này và đè nó chết, Tỳ-kheo lưng còng bỗng được thẳng, sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay không được vì chút nhân duyên mà tự sát”. Có một Tỳ-kheo ở chỗ nóng lấy y trùm lên người, một Tỳ-kheo khác gọi đứng dậy, liền đáp: “Chớ gọi tôi đứng dậy, nếu tôi đúng dậy sẽ chết”, một Tỳ-kheo khác lại gọi đứng dậy, Tỳ-kheo này liền chết, Tỳ-kheo kia sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá” Tỳ-kheo điên cuồng với tâm sát đánh người khiến người chết thì phạm Ba-la-di, người không chết thì phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ- kheo bịnh lâu ngày, Tỳ-kheo khán bịnh suy nghó: “Ta nuôi bịnh đã lâu, người bịnh này không chết cũng không lành, nay ta không nuôi bịnh nữa, bỏ mặc cho chết”, nghó rồi liền không nuôi bịnh nữa nên người bịnh qua đời. Tỳ-kheo nuôi bịnh sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu- lan-giá”. Có một Tỳ-kheo bịnh có nhiều y bát và tài vật, Tỳ-kheo khán bịnh suy nghó: “Ta nuôi bịnh đã lâu, nếu chết tài vật cũng nhập vào Tăng, nay ta không nuôi bịnh nữa, để mặc cho cho chết”, nghó rồi liền không nuôi bịnh nữa nên người bịnh qua đời. Tỳ-kheo này sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la- di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo có mụt nhọt chưa muồi, Tỳ-kheo khác giúp làm cho mụt nhọt vỡ ra khiến cho Tỳ-kheo này chết. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không liền bạch Phật, Phật nói: “Mụt nhọt chưa muồi lại phá vỡ khiến cho người chết thì phạm Thâu-lan-giá, nếu mụt nhọt đã muồi phá vỡ mà chết thì không phạm”. Có một Tỳ-kheo bịnh, người khán bịnh tìm thức ăn uống ứng với bịnh đã lâu mà không được, nay mới có được liền bảo người bịnh ăn, người bịnh ăn thức ăn này liền chết. Người khán bịnh sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba- la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Lại có một Tỳ-kheo bịnh, người khán bịnh tìm thuốc thang ứng bịnh đã lâu được, nay mới tìm được thuốc liền bảo người bịnh uống thuốc, người bịnh uống thuốc này xong liền chết. Người khạn bịnh sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo bịnh nói với Tỳ-kheo khán bịnh: “Thầy dìu tôi đứng dậy, dìu tôi ngồi, mặc y giúp cho tôi rồi dìu tôi ra ngoài, để tôi ngồi ở chỗ mát, sau đó dìu tôi trở vào phòng, dìu tôi ngồi nằm”, Tỳ- kheo khán bịnh làm theo lời, khi Tỳ-kheo bịnh nằm xuống thì chết, Tỳ-kheo khán bịnh sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm”. Có một Tỳ-kheo ngồi thiền ngủ gật, Tỳ-kheo kinh hành đi tuần thấy vậy liền dùng pháp trượng đánh để Tỳ-kheo kia tỉnh dậy, không ngờ Tỳ-kheo kia lại chết, Tỳ-kheo này sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo kia bị gió đao phát khởi, dù chạm hay không chạm cũng chết, thầy không phạm”. Lại có một Tỳ-kheo ngồi thiền ngủ gật, Tỳ-kheo kinh hành đi tuần thấy liền dùng gối bông ném để Tỳ-kheo kia tỉnh dậy, không ngờ Tỳ-kheo kia lại chết, Tỳ-kheo này sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo kia bị gió đao phát khởi, dù ném gối bông hay không ném cũng chết, thầy không phạm”. Lại có Tỳ-kheo ngồi thiền ngủ gật, Tỳ-kheo khác lấy nước tưới lên đầu để Tỳ-kheo kia tỉnh dậy, không ngờ Tỳ-kheo kia lại chết, Tỳ-kheo này sanh nghi không biết có phạm Ba-la- di không, bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo kia bị gió đao phát khởi, dù tưới nước hay không tưới cũng chết, thầy không phạm”. Trong nhóm Thập thất quần Tỳ-kheo có một Tỳ-kheo thích cười, các Tỳ-kheo kia liền chọc lét khiến cho cười, Tỳ-kheo này cười nhiều nên đứt hơi mà chết, các Tỳ-kheo kia sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Các thầy khi chọc lét với tâm gì”, đáp: “Chúng con đùa giỡn muốn chọc cho cười nên chọc lét”, Phật nói: “Không phạm, từ nay không nên chọc lét người khác, nếu làm thế thì phạm Ba-dật-đề”. Có một cư só vừa thu hoạch được lúa mới và rau cải tươi, thường lệ đem cúng cho Tăng trước rồi sau mới dùng để ăn. Có một Tỳ-kheo A-lan-nhã thường lui tới nhà này, hôm đó trước giờ ngọ đắp y mang bát đến nhà cư só, cư só sau khi cùng nhau thăm hỏi rồi suy nghó: “Lúa mới và rai cải này nay cúng cho Tỳ-kheo A-lan-nhã này, khỏi phải đem cúng cho Tăng”, nghó rồi liền đem cúng cho Tỳ-kheo A-lan-nhã. Lúc đó Tỳ-kheo tăng không thấy cư só đem lúa và rau cải tới cúng như thường lệ liền nói với nhau: “Vì sao cư só không cúng lúa và rau cải như thường lệ, không biết có Tỳ-kheo nào ra vào nhà đó?”, một Tỳ-kheo nói: “Có Tỳ-kheo A-lan-nhã thường lui tới nhà đó”, các Tỳ-kheo liền cho gọi Tỳ- kheo A-lan-nhã đến hỏi: “Cư só tên thường cúng lúa mới và rau cải tươi cho Tăng trước rồi sau mới dùng để ăn, lần này không cúng có phải thầy đã ngăn hay không?”, đáp là không có, các Tỳ-kheo liền dùng hai cây gỗ kẹp để hỏi cho ra sự thật không ngờ lại làm cho Tỳ-kheo kia chết, các Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá” Có một cư só thường cúng y an cư cho Tăng, có một Tỳ-kheo A- lan-nhã thường lui tới nhà này, hôm đó trước giờ ngọ đắp y mang bát đến nhà cư só, cư só sau khi cùng nhau thăm hỏi rồi suy nghó: “Y này nay cúng cho Tỳ-kheo A-lan-nhã này, khỏi phải đem cúng cho Tăng”, nghó rồi liền đem cúng cho Tỳ-kheo A-lan-nhã. Lúc đó Tỳ-kheo tăng không thấy cư só đem y an cư tới cúng như mọi năm liền nói với nhau: “Vì sao cư só không cúng y an cư như mọi năm, không biết có Tỳ-kheo nào ra vào nhà đó?”, một Tỳ-kheo nói: “Có Tỳ-kheo A-lan-nhã thường lui tới nhà đó”, các Tỳ-kheo liền cho gọi Tỳ-kheo A-lan-nhã đến hỏi: “Cư só tên thường cúng y an cư cho Tăng, hạ an cư năm nay không cúng có phải thầy đã ngăn hay không?”, đáp là không có, các Tỳ-kheo muốn Tỳ-kheo này nói ra sự thật nên ném Tỳ-kheo này xuống ao không ngờ làm cho Tỳ-kheo này chết. Các Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá” Có một Tỳ-kheo khất thực, trước giờ ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực, đi đến một cửa nhà có nhiều người tụ họp, khi vắt y lên, chéo y chạm vào cái chày gỗ, chày gỗ rớt xuống trúng một đứa bé làm cho nó chết. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay khất thực nên nhất tâm xem ngó trước sau”. Có một Tỳ-kheo khất thực, trước giờ ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực, đến nhà của một Bà-la-môn. Chủ nhà này sáng sớm tắm gội sạch sẽ mặc y tắng ngồi bên trong cửa, nhìn ra thấy Tỳ-kheo đang đứng bên cửa khảy móng tay liền sanh tâm ác suy nghó: “Ta chưa cúng trời, chưa cúng cho cha mẹ người thân mà Sa-môn trọc đầu mặc y hoại sắc này lại đến nhà ta khất thực”, với tâm tức giận người này liền dùng tay đẩy vào ngực Tỳ-kheo để xua đuổi, Tỳ-kheo ngã lăn ra đất đè trên mình một đứa bé làm cho nó chết. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay khi khất thực nên nhất tâm nhìn ngó trước sau”. Có một Tỳ-kheo dùng chú thuật chữa bịnh bằng cách vỗ vào má của người bịnh, không ngờ người bịnh này lại chết, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay muốn vỗ nên vỗ nhè nhẹ không nên vỗ mạnh làm cho người chết”. Có một Tỳ-kheo khi ăn bị mắc nghẹn, một Tỳ-kheo khác vỗ vào cổ cho thức ăn văng ra, không ngờ làm cho Tỳ-kheo ói máu mà chết. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nên vỗ nhè nhẹ để cho thức ăn văng ra, không nên vỗ mạnh làm cho người chết”. Trưởng lão Ca-lưu-đà-di thường lui tới một nhà cư só, vợ cư só vừa mới sanh con nhỏ, sáng sớm bồng con để trên giường, đắp chăn cho con rồi đi. Vừa lúc đó Ca-lưu-đà-di đến, đứng ngoài cửa khảy móng tay, vợ cư só mới vào nhà và mời ngồi, Ca-lưu-đà-di không xem kỹ liền ngồi lên mình đứa bé đang nằm trên giường, đứa bé kêu lớn, do thân của Ca- lưu-đà-di to lớn và nặng nên làm cho đứa bé lòi ruột ra mà chết. Ca-lưu- đà-di trở về chùa kể lại việc trên cho các Tỳ-kheo nghe, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật hỏi Ca-lưu-đà-di: “Thầy dùng tâm gì khi ngồi trên giường đó?”, đáp là do không xem xét kỹ mà ngồi lên, Phật nói: “Không phạm, từ nay khi ngồi nên xem kỹ rồi mới ngồi, nếu không xem xét kỹ mà ngồi thì phạm Đột-kiết-la”. Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đàøø cũng như vậy. Lại có hai cha con Tỳ-kheo cùng du hành từ nước Kiều-tát-la muốn đến nước Xá-vệ, khi đi ngang qua con đường hiểm thì trời sắp tối, người con nói: “Đây là đường hiểm nên đi mau qua”, người cha vội đi nhanh, vì đi nhanh nên mệt lã mà chết. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không nên bạch Phật, Phật hỏi Tỳ-kheo: “Thầy khi nói người cha đi nhanh với tâm gì”, đáp: “Con vì thấy trời sắp tôi nên nói đi nhanh để qua khỏi đường hiểm”, Phật nói: “Không phạm, từ nay nếu khi đi qua đường hiểm mà trời sắp tối thì Tỳ-kheo nhỏ nên mang giúp y vật cho Tỳ-kheo lớn tuổi và nói tôi đi trước, thầy đi sau”. Lúc đó các Tỳ-kheo sanh nghi không biết tại sao Tỳ-kheo này giết cha lại không phạm Ba-la-di và tội nghịch, Phật liền nói nhân duyên bổn sanh: Quá khứ, có một người cạo đầu mặc áo nhuộm dắt con đến bên bò nước giặt y, giặt xong vắt phơi, phơi khô rồi xếp bỏ vào trong túi mang về nhà. Trên đường đi trời nóng mắt mờ nên dừng lại nghỉ dưới một gốc cây, nguời cha lấy túi y gối đầu nằm ngủ. Lúc đó có một con muỗi bay tới căn người cha, người con tức giận cầm cây đập muỗi, muỗi bay đi, cây đập xuống làm bể đầu người cha, người cha liền chết. Thần cây thấy rồi liền nói kệ: “Thà thù với người trí, Không gần với người ngu, Ngu đập muỗi giúp cha, Muỗi bay, bể đầu cha”. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Người cha ngày xưa chính là Tỳ-kheo người cha ngày nay, đứa con ngày xưa chính là Tỳ-kheo người con ngày nay. Ngày xưa giết cha không phạm tội nghịch, ngày nay giết cha cũng không phạm Ba-la-di và tội nghịch”. <篇> <卷>QUYỂN 59 TỲ NI TỤNG (Tiếp Theo) Giới Sát Thứ Ba (Tiếp Theo): Có hai Tỳ-kheo là cha con du hành từ nước Kiều-tát-la đến nước Xá-vệ, khi đi đến một tụ lạc không có già lam thì trời tối, người con hỏi người cha nên ngủ đêm ở đâu, người cha đáp là ngủ đêm trong tụ lạc, người con nói: “Trong tụ lạc không có Tăng-già-lam, nếu ngủ đêm trong đó thì khác gì bạch y”, người cha nói: “Vậy chúng ta ngủ đêm ở đâu?”, người con nói là ngủ ngoài đất trống, người cha nói: “Sợ có cọp đến, nếu ta ngủ thì con không được ngủ”. Do người cha ngủ ngáy to tiếng nên cọp tìm đến và cắn vào đầu người cha, người cha la lớn rồi chết. Người con sanh nghi hối: “Cha ta vì ta mà chết, cha ta muốn ngủ đêm trong tụ lạc, nếu ta nghe lời cha thì cha ta không chết”, liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, từ nay nên đốt lửa và la to làm cho cọp sợ mà bỏ đi”. Nếu Tỳ-kheo có tâm sát sai bảo giết người, người kia chết thì Tỳ- kheo phạm Ba-la-di, nếu không chết thì phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ-kheo giết chết khỉ, các Tỳ-kheo nói là phạm Ba-la-di, hỏi vì sao, đáp: “Khỉ giống như người”, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Ba-dật-đề ”. Có các Tỳ-kheo du hành từ nước Kiều-tát-la đến nước Xá-vệ, giữa đường thấy có một ngôi chùa trống không, vào bên trong xem xét thì thấy có đầy đủ những vật cần dùng của tỳ-kheo liền nói với nhau: “Vì sao chúng ta không ở trong đây an cư”, đáp là tùy ý. Các Tỳ-kheo này khi an cư lập chế: “Chúng ta an cư ba tháng xong không tự tứ, để đến tháng tám mới tự tứ, vào tháng cuối hạ chúng ta sẽ được vật bố thí”. Vào tháng tám có giặc cướp xuất hiện, chúa giặc suy nghó: “Đánh cướp chỗ nào không cần dùng binh khí chiến đấu mà vẫn đánh cướp được nhiều tài vật”, nghó rồi liền kéo nhau tới đánh cướp trong chùa. Trong chùa này có Tỳ-kheo đã được thần thông, cũng có người trước kia vôn là đại lực só hoặc vốn là người có tài thiện xạ nhưng họ nghó: “Chúng ta do tâm tốt xuất gia, không nên cùng giặc cướp đánh nhau”, do nghó như vậy nên để yên cho giặc cướp lấy hết tài vật đến nỗi tất cả đều lỏa hình. Pháp thường của chư Phật là một năm có hai kỳ đại hội vào tháng sau của cuối mùa xuân và vào tháng sau của cuối mùa hạ. Vào tháng cuối của mùa xuân, Tỳ-kheo các nơi suy nghó: “Phật đã dạy chúng ta nên an cư, trong ba tháng an cư tu tập sẽ được an lạc trụ”, đây là đại hội thứ nhất. Vào tháng cuối của mùa hạ, các Tỳ-kheo an cư ba tháng đã xong nghó rằng: “Đã lâu chúng ta không gặp Phật”, nghó rồi liền đắp y mang bát đi đến chỗ Thế tôn, đây là đại hội thứ hai. Lúc đó các Tỳ- kheo bị giặc cướp này sau khi làm lễ tự tứ xong, đi đến nước Xá-vệ yết kiến Phật, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, pháp thường của Phật là khi có khách Tỳ-kheo đến đều hỏi thăm có nhẫn đủ không, khất thực có dễ không, đi đường có nhọc mệt không. Lúc đó các Tỳ-kheo đều đáp là nhẫn đủ, khất thực không khó, đi đường không nhọc mệt, rồi đem việc trên bạch Phật. Phật do việc này nhóm Tỳ-kheo tăng đủ lời khen ngợi giới và người trì giới rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay khi có giặc kéo đến, các thầy nên tạo ra âm thanh lớn, đánh chuông, đánh trống… để khủng bố chúng”. Nghe Phật nói rồi các Tỳ-kheo thấy được lỗi của mình, năn sau cũng trở lại chỗ cũ an cư và cũng quy định giống như năm trước đến tháng tám mới tự tứ vì tháng cuối hạ sẽ được vật thí an cư. Giặc cướp cũng như trước kéo đến chùa đánh cướp, nhưng lần này các Tỳ-kheo đã chuẩn bị trước phương pháp chống giặc. Các cửa phòng đều được đóng kín và các Tỳ-kheo ở trên lầu tạo ra các âm thanh như đánh chuông trống để khủng bố giặc. Lúc đó có hai Tỳ-kheo ở trong tối ném đá ra ngoài để khủng bố, không ngờ làm cho giặc cướp chết, hai Tỳ-kheo nói với nhau: “Tôi và thầy cùng ném đá, không biết ai đã ném trúng giặc”, nói rồi sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, nhưng khi ném đá nên là là đá rớt”. Giới Đại Vọng Ngữ: Phật vì các Tỳ-kheo bên bờ sông Bà-cầu-ma nước Tỳ-da-ly kết giới đại vọng ngữ và nói là làm trước thì không phạm. Các Tỳ-kheo này suy nghó: “Chúng ta đã nhiều lần nói dối là được pháp hơn người, không biết lần nào là trước và không phải trước”, liền bạch Phật, Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời nói đều không phạm nên nó là làm trước thì không phạm”. Có Tỳ-kheo ở trước người tưởng là phi nhân, tự nói mình được pháp hơn người, sau đó sanh nghi bạch Phật, Phật nói: “Người tưởng là người mà nói được pháp hơn người thì phạm Ba-la-di; người tưởng là phi nhân mà nói cũng phạm Ba-la-di; người mà sanh tâm nghi cũng phạm Ba-la-di. Phi nhân tưởng là phi nhân mà nói được pháp hơn người thì phạm Thâu-lan-giá; phi nhân tưởng là người mà nói cũng phạm Thâu- lan-giá; phi nhân mà sanh tâm nghi cũng phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo ở trước cư só nói mình được pháp hơn người, cư só không hiểu nên hỏi: “Đại đức nói gì?”, Tỳ-kheo nói: “Không có nói gì”, nói rồi sanh nghi không biết có phạm Ba-la-di không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có người hỏi Tỳ- kheo: “Thầy là A-la-hán phải không, thầy nên thọ sự cúng dường trước các vị Thượng tòa phải không?”, nếu im lặng thọ thì phạm Thâu-lan- giá. Lại có người hỏi Tỳ-kheo: “Thầy là Bà-la-môn đã diệt trừ được pháp ác phải không?”, nếu im lặng chấp nhận thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có người hỏi Tỳ-kheo: “Nếu thầy là A-la-hán thì đến thọ y phục, cho đến các thức ăn thức uống, thuốc thang”, nếu Tỳ-kheo im lặng chấp nhận thì phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà cư só, cư só đứng ở cửa nói: “Nếu đại đức là A-la-hán thì vào nhà tôi ngồi, thọ nước và thức ăn uống rồi chú nguyện cho tôi”, nếu Tỳ-kheo im lặng vào nhà ngồi thọ thức ăn uống, chú nguyện rồi đi thì phạm Thâu-lan-giá. Lại có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà cư só, cư só đứng ở cửa nói: “Nếu thầy là A-la-hán thì vào”, Tỳ-kheo nói: “Tôi không phải là A-la-hán, nếu cho thì tôi vào”, cư só cho vào thì không phạm, cho đến vào chỗ ngồi ngồi thọ thức ăn uống xong rồi chú nguyện cũng như vậy không phạm. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá, tôi có thể tự tại đi khắp nơi trong đó”, các Tỳ-kheo nói: “Đệ tử Thanh văn hiện thần thông lực đi cực xa cũng chỉ đến cõi trời Phạm thế. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì người nào nương nơi Sơ thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được thần thông lực, người ấy có thể tự tại đi khắp nơi từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Tỳ-kheo nương vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng đều như vậy. Mục-liên nương vào bốn thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được thần thông lực, nên có thể tự tại đi khắp nơi từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Tiếng nói của tất cả chúng sanh từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A- ca-ni-trá, tôi có thể dùng thiên nhó nghe được hết”, các Tỳ-kheo nói: “Đệ tử Thanh văn dùng thiên nhó thông, nghe cực xa cũng chỉ đến cõi trời Phạm thế. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì người nào nương nơi Sơ thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được thiên nhó thông, người ấy có thể nghe được âm thanh của tất cả chúng sanh từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Tỳ-kheo nương vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng đều như vậy. Mục-liên nương vào bốn thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được thiên nhó thông, có thể nghe được tất cả âm thanh của các chúng sanh từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Những ý nghó của tất cả từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá, tôi có thể biết được hết”, các Tỳ-kheo nói: “Đệ tử Thanh văn được Tha tâm thông, biết cực xa cũng chỉ đến cõi trời Phạm thế. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì người nào nương nơi Sơ thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được tha tâm thông, người ấy có thể biết được ý nghó của tất cả chúng sanh từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Tỳ-kheo nương vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng đều như vậy. Mục-liên nương vào bốn thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được tha tâm thông, có thể tự tại biết được ý nghó của tất cả chúng sanh từ địa ngục A- tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Túc mạng của tất cả chúng sanh từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A- ca-ni-trá, tôi có thể biết được hết”, các Tỳ-kheo nói: “Đệ tử Thanh văn được Túc mạng thông, biết cực xa cũng chỉ đến cõi trời Phạm thế. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì người nào nương nơi Sơ thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được Túc mạng thông, người ấy có thể biết được túc mạng của tất cả chúng sanh từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Tỳ-kheo nương vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng đều như vậy. Mục-liên nương vào bốn thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được túc mạng thông, có thể biết được túc mạng của tất cả chúng sanh từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Tất cả chúng sanh chết ở cõi này sanh ỡ cõi khác, từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá, tôi có thể dùng thiên nhãn biết được hết”, các Tỳ-kheo nói: “Đệ tử Thanh văn được thiên nhãn thông, thấy cực xa cũng chỉ đến cõi trời Phạm thế. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì người nào nương nơi Sơ thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được thiên nhãn thông, người ấy có thể tất cả chúng sanh chết ở đây sanh ở chỗ kia, từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Tỳ-kheo nương vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng đều như vậy. Mục-liên nương vào bốn thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được thiên nhãn thông, có thể tự tại biết được tất cả chúng sanh chết ở đây sanh ở chỗ kia, từ địa ngục A- tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Nếu nói người nào cầu đuợc Lậu tận A-la-hán, sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, trút bỏ gánh nặng, đoạn hết các hữu kiết sử, được Chánh trí giải thoát thì người đó chính là tôi. Vì sao, vì tôi là Lậu tận A-la-hán… cho đến được Chánh trí giải thoát”, các Tỳ-kheo nói: “Thầy thật sự đã được Lậu tận A-la-hán… cho đến được Chánh trí giải thoát hay sao, thầy còn đa sự đa dục, thầy không được pháp hơn người mà lại đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì người nào cầu đuợc Lậu tận A-la-hán, sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, trút bỏ gánh nặng, đoạn hết các hữu kiết sử, được Chánh trí giải thoát thì người đó chính là Đại Mục- kiền-liên. Mục-liên thật đã được lậu tận A-la-hán… được Chánh trí giải thoát, Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Tôi thấy có một chúng sanh cao lớn đến năm trăm do tuần với ngọn lửa lớn đốt thân, ở trong không trung bay đến kêu khóc đau khổ vô cùng”, các Tỳ-kheo nói: “Làm gì có chúng sanh này, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ta cũng thấy có một chúng sanh cao lớn đến năm trăm do tuần với ngọn lửa lớn đốt thân, ở trong không trung bay đến kêu khóc đau khổ vô cùng, nhưng ta không nói với người khác vì sợ họ không tin. Nếu người nào không tin lời Như lai nói sẽ chịu khổ não trong đêm dài sanh tử.Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Tôi thấy có một chúng sanh bị năm trăm quỷ Dạ-xoa cầm năm trăm chiếc búa, trải qua năm trăm ngày đêm mới chặt gẫy một chiếc xương sườn, xương sườn này rơi trong biển làm cho nước biển đục ngầu”, các Tỳ-kheo nói: “Làm gì có chúng sanh này, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ta cũng thấy có một chúng sanh bị năm trăm quỷ Dạ- xoa cầm năm trăm chiếc búa, trải qua năm trăm ngày đêm mới chặt gẫy một chiếc xương sườn, xương sườn này rơi trong biển làm cho nước biển đục ngầu, nhưng ta không nói với người khác vì sợ họ không tin. Nếu người nào không tin lời Như lai nói sẽ chịu khổ não trong đêm dài sanh tử. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Tôi thấy có một chúng sanh cao lớn như chiếc thuyền lớn, đầu như chum rượu, hơi thở như tiếng sấm, mắt to như chén đồng ở nước Kiều- tát-la, trong miêng lè lưỡi ra như mây đen phát ra tia chớp ”, các Tỳ- kheo nói: “Làm gì có chúng sanh này, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ta cũng thấy có một chúng sanh cao lớn như chiếc thuyền lớn, đầu như chum rượu, hơi thở như tiếng sấm, mắt to như chén đồng ở nước Kiều-tát-la, trong miệng lè lưỡi ra như mây đen phát ra tia chớp, nhưng ta không nói với người khác vì sợ họ không tin. Nếu người nào không tin lời Như lai nói sẽ chịu khổ não trong đêm dài sanh tử. Mục- liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Ở phương Bắc có một cái ao tên là Mạn-đà-khẩn-ni, dài rộng năm mươi do tuần, chu vi hai trăm do tuần, dưới đáy có cát vàng, nước có đủ tám công đức thường đầy ắp trong ao, vị ngon ngọt như mật nguyên chất, các loại hoa sen đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng xen lẫn nhau che kín cả mặt ao. Lại có các loài chim cất tiếng hót hòa lẫn nhau rất hay, xung quanh bờ ao có vô số cây hoa và cây trái”, các Tỳ-kheo nói: “Làm gì có ao như thế, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ở phương Bắc có một cái ao tên là Mạn-đà-khẩn-ni, dài rộng năm mươi do tuần, chu vi hai trăm do tuần, dưới đáy có cát vàng, nước có đủ tám công đức thường đầy ắp trong ao, vị ngon ngọt như mật nguyên chất, các loại hoa sen đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng xen lẫn nhau che kín cả mặt ao. Lại có các loài chim cất tiếng hót hòa lẫn nhau rất hay, xung quanh bờ ao có vô số cây hoa và cây trái. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên ở trong núi Kỳ-xà-quật nhập định Không xứ vô sắc, khéo giữ lấy tướng nhập định nhưng lại không khéo giữ tướng xuất định, từ tam muội dậy liền nghe tiếng voi rất lớn ở bên bờ ao Tát-Tỳ-ni, nghe rồi liền nhập tam muội, nghó rằng: “Ta nhập tam muội nghe được tiếng voi ấy”, sau khi xuất tam muội liền nói với Tỳ-kheo: “Tôi nhập định Không xứ vô sắc nghe được tiếng voi rất lớn ở bên bờ ao Tát-tỳ-ni”, các Tỳ-kheo nói: “Nhập định Không xứ vô sắc mà còn thấy nghe được là không có lý đó, vì sao, vì người nhập định Không xứ vô sắc là phá tướng sắc, lìa tướng âm thanh. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ- kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì Mục-liên thấy được việc trước mà không thấy được việc sau; Như lai thì trước sau đều thấy được. Mục-liên ở trong núi Kỳ-xà-quật nhập định Không xứ vô sắc, khéo giữ lấy tướng nhập định nhưng lại không khéo giữ tướng xuất định, từ tam muội dậy liền nghe tiếng voi rất lớn ở bên bờ ao Tát-tỳ-ni, nghe rồi liền nhập tam muội, nghó rằng: “Ta nhập tam muội nghe được tiếng voi ấy”. Người nhập định Không xứ vô sắc mà còn thấy nghe được là không có lý đó, vì sao, vì người nhập định vô sắc là phá tướng sắc, lìa tướng âm thanh. Nếu Mục-liên không được pháp hơn người mà lại đại vọng ngữ thì cũng không có lý đó, Mục-liên nói theo tâm tưởng nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên ở trong núi Kỳ-xà-quật nhập định Thức xứ vô sắc, khéo giữ tướng nhập định nhưng không khéo giữ tướng xuất định, từ tam muội dậy liền nghe được âm thanh ca hát của các vị trời trong thành Trời, nghe rồi liền nhập định trở lại, nghó rằng: “Ta ở trong tam muội nghe được tiếng ca hát của các vị trời”, sau khi xuất định liền nói với các Tỳ-kheo: “Tôi nhập định Thức xứ vô sắc nghe được tiếng ca hát của các vị trời”, các Tỳ-kheo nói: “Người nhập định Thức xứ vô sắc mà còn thấy nghe được là không có lý đó, vì sao, vì người nhập định vô sắc là phá tướng sắc, lìa tướng âm thanh. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì Mục-liên thấy được việc trước mà không thấy được việc sau; Như lai thì trước sau đều thấy được. Mục- liên ở trong núi Kỳ-xà-quật nhập định Thức xứ vô sắc, khéo giữ tướng nhập định nhưng không khéo giữ tướng xuất định, từ tam muội dậy liền nghe được âm thanh ca hát của các vị trời trong thành Trời, nghe rồi liền nhập định trở lại, nghó rằng: “Ta ở trong tam muội nghe được tiếng ca hát của các vị trời”. Nếu người nhập định Thức xứ vô sắc mà còn thấy nghe được là không có lý đó, vì sao, vì người nhập định vô sắc là phá tướng sắc, lìa tướng âm thanh. Nếu Mục-liên không được pháp hơn người mà lại đại vọng ngữ thì cũng không có lý đó, Mục-liên nói theo tâm tưởng nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên ở trong núi Kỳ-xà-quật nhập định Vô sở hữu xứ vô sắc, khéo giữ tướng nhập định nhưng khéo giữ tướng xuất định, từ tam muội dậy liền nghe được tiếng kỹ nhạc của các A-tu-la trong thành A-tu-la, nghe rồi liền nhập định trở lại, nghó rằng: “Ta ở trong tam muội nghe được tiếng kỹ nhạc của các A-tu-la trong thành A-tu-la”. Sau khi xuất định liền nói với các Tỳ-kheo: “Tôi nhập định Vô sở hữu xứ nghe được tiếng kỹ nhạc của các A-tu-la trong thành A-tu-la”, các Tỳ-kheo nói: “Người nhập định Vô sở hữu xứ vô sắc mà còn thấy nghe được là không có lý đó, vì sao, vì người nhập định vô sắc là phá tướng sắc, lìa tướng âm thanh. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì Mục-liên thấy được việc trước mà không thấy được việc sau; Như lai thì trước sau đều thấy được. Mục-liên ở trong núi Kỳ-xà-quật nhập định Vô sở hữu xứ vô sắc, khéo giữ tướng nhập định nhưng khéo giữ tướng xuất định, từ tam muội dậy liền nghe được tiếng kỹ nhạc của các A-tu-la trong thành A-tu-la, nghe rồi liền nhập định trở lại, nghó rằng: “Ta ở trong tam muội nghe được tiếng kỹ nhạc của các A-tu-la trong thành A-tu-la”. Nếu người nhập định Vô sở hữu xứ vô sắc mà còn thấy nghe được là không có lý đó, vì sao, vì người nhập định vô sắc là phá tướng sắc, lìa tướng âm thanh. Nếu Mục-liên không được pháp hơn người mà lại đại vọng ngữ thì cũng không có lý đó, Mục-liên nói theo tâm tưởng nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Ở phương Bắc có một cái ao A-nậu-đạt, dài rộng năm mươi do tuần, chu vi một trăm năm mươi mươi do tuần, dưới đáy có cát vàng, nước có đủ tám công đức thường đầy ắp trong ao, vị ngon ngọt như mật nguyên chất, các loại hoa sen đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng xen lẫn nhau che kín cả mặt ao. Lại có các loài chim cất tiếng hót hòa lẫn nhau rất hay, xung quanh bờ ao có vô số cây hoa và cây trái. Cung điện nơi đây là chỗ ở của voi chúa Thiên trụ với tám ngàn voi làm quyến thuộc. Khi Chuyển luân thánh vương ra đời thì con voi nhỏ nhất trong tám ngàn voi kia sẽ làm voi báu cho Chuyển luân thánh vương cỡi”, các Tỳ-kheo nói: “Làm gì có ao đó và voi đó, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ở phương Bắc có một cái ao A-nậu-đạt, dài rộng năm mươi do tuần, chu vi một trăm năm mươi mươi do tuần, dưới đáy có cát vàng, nước có đủ tám công đức thường đầy ắp trong ao, vị ngon ngọt như mật nguyên chất, các loại hoa sen đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng xen lẫn nhau che kín cả mặt ao. Lại có các loài chim cất tiếng hót hòa lẫn nhau rất hay, xung quanh bờ ao có vô số cây hoa và cây trái. Cung điện nơi đây là chỗ ở của voi chúa Thiên trụ với tám ngàn voi làm quyến thuộc. Khi Chuyển luân thánh vương ra đời thì con voi nhỏ nhất trong tám ngàn voi kia sẽ làm voi báu cho Chuyển luân thánh vương cỡi. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Ở ngoài biển cả có cái đảo với núi tên là Minh nguyệt, cung điện nơi đây là chỗ ở của Ngựa chúa Bà-la-ê với tám ngàn con ngựa làm quyến thuộc. Khi Chuyển luân thánh vương ra đời thì con ngựa nhỏ nhất trong tám ngàn con ngựa đó sẽ làm ngựa báu cho Chuyển luân thánh vương cỡi”, các Tỳ-kheo nói: “Làm gì có đảo đó và có ngựa đó, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ- kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ở ngoài biển cả có cái đảo với núi tên là Minh nguyệt, cung điện nơi đây là chỗ ở của Ngựa chúa Bà-la-ê với tám ngàn con ngựa làm quyến thuộc. Khi Chuyển luân thánh vương ra đời thì con ngựa nhỏ nhất trong tám ngàn con ngựa đó sẽ làm ngựa báu cho Chuyển luân thánh vương cỡi. Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần các Tỳ-kheo hỏi trưởng lão Đại Mục-kiền-liên: “Nước của sông Đa phù từ đâu chảy đến?”, đáp là từ ao A-nậu-đạt chảy đến, các Tỳ-kheo nói: “Nước trong ao A-nậu-đạt có vị ngon ngọt, có đủ tám công đức còn nước của sông này nóng sôi và mặn đắng. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ- kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ao A-nậu-đạt ở cách đây rất xa, tuy có đủ tám công đức với vị ngon ngọt nhưng nó đã chảy qua năm trăm địa ngục nhỏ rồi mới chảy đến nơi đây, nên nước sông này nóng sôi và mặn đắng. Nếu các thầy hỏi vì sao nước sông này nóng và mặn thì Mục-liên sẽ giải thích như thế, Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Dưới đáy núi Kỳ-xà-quật có cái ao dài rộng năm mươi do tuần, dưới đáy có cát vàng, nước có đủ tám công đức thường đầy ắp trong ao, vị ngon ngọt như mật nguyên chất, các loại hoa sen đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng xen lẫn nhau che kín cả mặt ao. Lại có các loài chim cất tiếng hót hòa lẫn nhau rất hay, xung quanh bờ ao có vô số cây hoa và cây trái. Cung điện nơi đây là chỗ ở của vua rồng Ma-na-tư”, các Tỳ-kheo nói: “Làm gì có ao đó và vua rồng đó, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ở dưới dáy núi Kỳ-xà-quật có cái ao dài rộng năm mươi do tuần, dưới đáy có cát vàng, nước có đủ tám công đức thường đầy ắp trong ao, vị ngon ngọt như mật nguyên chất, các loại hoa sen đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng xen lẫn nhau che kín cả mặt ao. Lại có các loài chim cất tiếng hót hòa lẫn nhau rất hay, xung quanh bờ ao có vô số cây hoa và cây trái. Cung điện nơi đây là chỗ ở của vua rồng Ma-na-tư, Mục-liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nói với các Tỳ-kheo: “Ở cõi trời Tam thập tam có Thiện pháp đường, trong Thiện pháp đường có năm trăm cây cột trụ, trong số cây cột trụ này có một cây cột trụ báu nhỏ như sợi lông, trên đầu cột trụ có tòa báu là chỗ ngồi của Thích đề hoàn nhơn với các loại hoa trang nghiêm; hai bên tòa này là tòa ngồi của chư thiên cũng có các loại hoa trang nghiêm”, các Tỳ-kheo nói: “Làm gì có tòa báu đó, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì ở cõi trời Tam thập tam có Thiện pháp đường, trong Thiện pháp đường có năm trăm cây cột trụ, trong số cây cột trụ này có một cây cột trụ báu nhỏ như sợi lông, trên đầu cột trụ có tòa báu là chỗ ngồi của Thích đề hoàn nhơn với các loại hoa trang nghiêm; hai bên tòa này là tòa ngồi của chư thiên cũng có các loại hoa trang nghiêm.Mục- liên nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Có một lần trưởng lão Đại Mục-kiền-liên nhập định thấy Dạ-xoa Bạt-kỳ cùng Dạ-xoa Ma-kiệt-đà đánh nhau và Dạ-xoa Bạt-kỳ đánh bại Dạ-xoa Ma-kiệt-đà. Sau khi xuất định liền nói với các Tỳ-kheo: “Người nước Bạt-kỳ sẽ đánh bại người nước Ma-kiệt-đà”. Sau đó vua A-xà-thế khéo dẫn binh chúng đến đánh bại người nước Bạt-kỳ, các Tỳ-kheo nói: “Trước đây thầy nói người nước Bạt-kỳ sẽ đánh bại người nước Ma-kiệt-đà; nhưng nay người nước Ma-kiệt-đà lại đánh bại người nước Bạt-kỳ. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì Mục-liên thấy được việc trước mà không thấy được việc sau; Như lai thì trước sau đều thấy được. Dạ-xoa Bạt-kỳ cùng Dạ-xoa Ma-kiệt-đà đánh nhau và Dạ-xoa Bạt-kỳ đánh bại Dạ-xoa Ma-kiệt-đà thì khi ấy, người nước Bạt- kỳ cũng đánh bại người nước Ma-kiệt-đà. Sau đó do vua A-xà-thế khéo tập họp binh lại nên được thắng, Nếu Mục-liên không được pháp hơn người mà lại đại vọng ngữ thì cũng không có lý đó, Mục-liên nói theo tâm tưởng nên không phạm”. Trưởng lão Đại Mục-kiền-liên lại nhập định thấy Dạ-xoa Ma- kiệt-đà đánh nhau với Dạ-xoa Bạt-kỳ và đánh bại được Dạ-xoa Bạt-kỳ. Sau khi xuất định nói với các Tỳ-kheo: “Người nước Ma-kiệt-đà sẽ đánh bại người nước Bạt-kỳ”, sau đó người nước Bạt-kỳ lại đánh bại người nước Ma-kiệt-đà, các Tỳ-kheo nói: “Trước đây thầy nói người nước Ma-kiệt-đà sẽ đánh bại người nước Bạt-kỳ, nhưng nay người nước Bạt-kỳ lại đánh bại người nước Ma-kiệt-đà. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì Mục-liên thấy được việc trước mà không thấy được việc sau; Như lai thì trước sau đều thấy được. Dạ-xoa Ma-kiệt-đà đánh nhau với dạ xọa Bạt-kỳ được thắng thì lúc đó người nước Ma- kiệt-đà đánh bại người nước Bạt-kỳ; nhưng sau đó người nước Bạt-kỳ tập họp binh chúng đánh bại đuợc người nước Ma-kiệt-đà.Mục-liên nói theo tâm tưởng nên không phạm”. Trưởng lão Đại Mục-kiền-liên thường lui tới nhà một cư só, sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só mời ngồi rồi cùng nhau thăm hỏi. Lúc đó vợ cư só đang mang thai, cư só hỏi Mục-liên: “Vợ tôi sanh trai hay gái?”, đáp là sanh trai, nói rồi ra về. Sau đó lại có 1 Phạm chí đến, cư só cũng hỏi: “Vợ tôi sanh trai hay gái?”, Phạm chí đáp là sanh gái. Thời gian sau quả thật vợ cư só sanh con gái, các Tỳ-kheo nói với Mục-liên: “Trước đây thầy nói vợ cư só sanh con trai nhưng nay lại sanh con gái, thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì Mục-liên thấy được việc trước mà không thấy được việc sau; Như lai thì trước sau đều thấy được. Khi Mục-liên nói thì thai nhi quả là con trai, sau đó chuyển căn thành nữ, Mục-liên nói theo tâm tưởng nên không phạm”. Lúc đó trời hạn hán không mưa, Mục-liên nhập định thấy sau bảy ngày nữa trời sẽ mưa to, nước ngập cả hào thành. Dân chúng trong thành nghe rồi ai nấy đều vui mừng, vội bỏ việc làm lo che chắn nhà cửa, nhưng đến ngày thứ bảy lại không có một giọt mưa nào. Các Tỳ- kheo nói với Mục-liên: “Thầy nói bảy ngày sau trời sẽ mưa to ngập cả hào thành nhưng ngày nay một giọt mưa cũng không có. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ- kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì Mục-liên thấy được việc trước mà không thấy được việc sau; Như lai thì trước sau đều thấy được. Ngày thứ bảy quả thật có mưa rất lớn, vì vua A-tu-la là La-hầu dùng tay hứng lấy nước đổ vào biển cả, Mục-liên nói theo tâm tưởng nên không phạm”. Trưởng lão Sa-già-đà nói với các Tỳ-kheo: “Từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá, tôi có thể làm cho đầy lửa ở trong đó”, các Tỳ- kheo nói: “Đệ tử Thanh văn hiện thần thông lực có thể tạo lửa cực xa cũng chỉ đến cõi trời Phạm thế. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thấy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy chớ nói Sa-già-đà phạm tội này, vì sao, vì người nào nương nơi Sơ thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được thần thông lực, người ấy có thể tự tại làm cho lửa đầy khắp từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Tỳ-kheo nương vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng đều như vậy. Sa-già-đàø nương vào bốn thiền khéo tu tập Tứ như ý túc được thần thông lực, nên có thể tự tại làm cho lửa đầy khắp từ địa ngục A-tỳ cho đến cõi trời A-ca-ni-trá. Sa-già-đà nói thật, không phải đại vọng ngữ nên không phạm”. Trưởng lão Thâu tỳ đà nói với các Tỳ-kheo: “Tôi có thể trong một niệm biết được việc trong năm trăm kiếp trước”, các Tỳ-kheo nói: “Đệ tử Thanh văn được Túc mạng thông, trong một niệm cũng chỉ biết được một đời. Thầy không được pháp hơn người mà đại vọng ngữ, thầy đáng bị tẫn xuất”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ- kheo: “Các thầy chớ nói Mục-liên phạm tội này, vì sao, vì Thâu-tỳ-đà này tiền thân từ cõi trời Vô tưởng mạng chung sanh vào cõi này. Cõi trời Vô tưởng thọ mạng đến năm trăm kiếp nên mới nói là trong một niệm có thể biết được việc trong năm trăm kiếp. Thâu tỳ la nói theo tâm tưởng nên không phạm”. Nói Sơ Lược Về Bốn Pháp Còn Lại Là Tăng-Già-Bà-Thi-Sa Phật tại nước Xá-vệ, do trưởng lão Ca-lưu-đà-di nên Phật kết giới cố ý xuất tinh và nói là làm trước thì không phạm. Ca-lưu-đà-di suy nghó: “Ta đã nhiều lần cố ý làm xuất tinh, không biết lúc nào là trước và không phải là trước”, bạch Phật, Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời cố ý làm xuất tinh đều gọi là trước nên nói là làm trước thì không phạm”. Có một Tỳ-kheo không động thân mà lại xuất tinh, nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Tỳ-xá-khư lộc tử mẫu vì kính tín Tăng nên khi đảnh lễ hai tay chạm chân, khi đảnh lễ hai tay chạm vào chân của Ca-lưu-đà-di, Ca- lưu-đà-di liền xuất tinh rơi trên đầu bà. Ưu-bà-di này đưa tay sờ trên đầu nói: “Ta được đại lợi, các vị đồng học của ta có người nhiều dâm dục như vậy mà cũng có thể đoạn dục tu phạm hạnh”, Ca-lưu-đà-di sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói: “Không phạm, nhưng nếu Tỳ-kheo có nhiều dục như vậy thì nên bọc buộc lại”. Có một Tỳ-kheo khi tắm rửa liền xuất tinh, nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Lại có một Tỳ-kheo tắm nhờ Tỳ-kheo khác chà thân, lúc chà liền xuất tinh, nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu xúc chạm ngược mà xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi- sa, nếu xúc chạm xuôi có che phủ mà xuất tinh thì không phạm”. Có một Tỳ-kheo tà niệm nên xuất tinh, nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Lại có một Tỳ-kheo vừa thấy người nữ xinh đẹp liền xuất tinh, nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Có Tỳ-kheo khi bị người nữ nắm tay, nắm chân hoặc đầu gối, bắp vế liền xuất tinh, nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Có Tỳ-kheo được mẹ ôm nói lời thương yêu liền xuất tinh, nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Đối với chị em, vợ cũ, hay người trước kia cùng tư thông cũng giống như vậy”. Có Tỳ-kheo ở trước người nữ mới chết hay người nữ chết đã sình trướng cho đến thối rửa, bị chim thú ăn dư, khi khô teo hay chỉ còn là bộ xương mà xuất tinh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Cũng do Ca-lưu-đà-di nên Phật kết giới xúc chạm người nữ và nói là làm trước thì không phạm, Ca-lưu-đà-di suy nghó: “Ta đã nhiều lần xúc chạm thân người nữ, không biết lúc nào là trước, lúc nào không phải là trước”, bạch Phật, Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời xúc chạm thân người nữ đều gọi là trước nên nói là làm trước thì không phạm”. Có một Tỳ-kheo đối trước người nữ khởi tưởng không phải nữ mà xúc chạm, sau đó sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu là người nữ khởi tưởng là người nữ mà xúc chạm thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu là người nữ khởi tưởng là nữ phi nhơn cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa; nếu là người nữ mà sanh nghi cũng phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Là nữ phi nhơn khởi tưởng là người nữ mà xúc chạm thì phạm Thâu-lan-giá; là nữ phi nhơn khởi tưởng là nữ phi nhơn cũng phạm Thâu-lan-giá; là nữ phi nhơn mà sanh nghi cũng phạm Thâu-lan-giá”. Nếu Tỳ-kheo dùng chân chạm vào thân người nữ thì phạm Đột- kiết-la, nếu người nữ dùng chân chạm vào thân Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo không phạm. Nếu Tỳ-kheo nắm tay người nữ thì phạm Đột-kiết-la, nếu người nữ nắm tay Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo không phạm. Tỳ-kheo sờ tóc cho đến các đồ trang sức trên thân người nữ như tràng hoa, chuỗi anh lạc vòng xuyến, bông tai… đều phạm Thâu-lan-giá. Có người nữ nhờ Tỳ-kheo xối nước, Tỳ-kheo sanh tâm tà đối với người nữ, sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Do Tỳ-kheo Ca-la nên Phật kết giới mai mối và nói là làm trước thì không phạm, Tỳ-kheo này suy nghó: “Ta đã nhiều lần làm mai mối, không biết lúc nào là trước, lúc nào không phải là trước”, liền bạch Phật, Phật nói: “Trước là trước khi kết giới, tất cả thời làm mai mối đều gọi là trước nên nói là làm trước thì không phạm”. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só mời ngồi cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể nói với người nữ đến chỗ tôi được không?, đáp: “Tôi có thể đến nói nhưng không thể trở lại trả lời cho ông”, cư só hỏi: “Làm sao biết được là thành hay không thành?”, đáp: “Nếu thành thì tôi sẽ bảo một Tỳ-kheo đứng ở chỗ ”. Tỳ-kheo nói rồi ra về, sau đó gặp một Tỳ-kheo nói rằng: “Thầy đứng ở đây một lát”, hỏi: “Đứng đây làm gì?”, đáp: “Cứ đứng một lát, đừng hỏi”, Tỳ- kheo này đứng đó, Tỳ-kheo kia liền bỏ đi, cư só đi ra thấy Tỳ-kheo này đứng ở chỗ đó liền nói: “Lành thay, việc đã thành”, Tỳ-kheo này liền hỏi: “Việc gì đã thành”, đáp: “Đừng hỏi, đây là chỗ hẹn”. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só cùng nhau tham hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với người nữ đến chỗ tôi được không?”, đáp là được. Khi đến nói thì người nữ kia nói là không cần, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan- giá”. Có hai vợ chồng giận nhau không hòa hợp, có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só cùng nhau thăm hỏi rồi Tỳ-kheo liền bảo hai người sám hối. hai người sám hối rồi hòa hợp như cũ và cùng nhau hành dục, Tỳ-kheo sanh nghi đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Có ba loại vợ: Một là vợ do dùng tài vật mà được, hai là vợ do dùng lễ pháp mà được, ba là vợ do đánh phá mà được. Ba loại vợ này nếu người chồng tuy làm giấy tờ thôi vợ nhưng lễ pháp chưa đoạn nên vẫn còn qua lại; Tỳ-kheo nếu giúp cho họ hòa hợp lại thì phạm Thâu-lan-giá. Ba loại vợ này nếu người chồng đã làm giấy tờ thôi vợ, lễ pháp đã dứt, không còn qua lại nữa nhưng chưa tuyên bố không còn là vợ; nếu Tỳ-kheo giúp cho họ hòa hợp lại cũng phạm Thâu-lan-giá. Ba loại vợ này nếu người chông đã làm giấy tờ thôi vợ, lễ pháp đã dứt, không còn qua lại và đã tuyên bố không còn là vợ tôi nữa; nếu Tỳ-kheo mai mới cho họ hòa hợp lại thì phạm Tăng- già-bà-thi-sa”. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể nói với dâm nữ đến chỗ tôi được không?, đáp là được, liền đến nói, dâm nữ đi đến giữa đường thì có người khác đón đi, Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Tăng-già- bà-thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi- sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể nói người nữ đến chỗ tôi được không?”, đáp là được, liền đến nói, người nữ trang điểm định đi thì người chồng trở về nên không đi được. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể nói với người nữ đến chỗ tôi được không?, đáp là được, liền đến nói, người nữ nhận lời rồi suy nghó: “Ta đến đó chắc đêm nay không ngủ được, ngủ trước một chút rồi sẽ đến đó”, không ngờ ngủ quên cho đến sáng và không đến đó được. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một cư só say mê một cô gái, đến nói với cô rằng: “Hãy cùng tôi hành dâm”, người nữ nói không rảnh, cư só hỏi là lúc nào rảnh, người nữ nói: “Có một Tỳ-kheo thường ra vào nhà tôi, khi nào tôi rảnh tôi sẽ nhờ Tỳ-kheo đánh vào lưng ông, lúc đó ông biết là tôi rảnh”. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà cô gái này, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cô gái mời ngồi thăm hỏi một lát rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy đến chỗ cư só rồi đánh vào lưng ông ta”, hỏi vì sao lại đánh, đáp: “Thầy cứ đánh, đừng hỏi”, Tỳ-kheo đến chỗ cư só và đánh vào lưng, cư só liền nói: “Việc đã thành”, hỏi là thành việc gì, đáp: “Là việc hẹn hò”. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà- thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só mời ngồi cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể nói với người nữ đến chỗ tôi được không?”, đáp: “Chúng tôi không được làm sứ giả, nếu ông cần thì nên mở hội cúng Tăng, tôi sẽ mời người nữ đó đến”, cư só nghe lời mở hội cúng Tăng và Tỳ-kheo này mời cô gái đó đến, cư só được dịp cùng cô gái hành dâm. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà- thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có vợ của một thương buôn rất xinh đẹp, có một cư só muốn cùng cô tư thông nhưng không được. Sau đó chồng cô chết, mẹ cô gái hỏi: “Có phương tiện gì khiến cho người nam tới lui nhà mình không?”, cô gái nói: “Có một cư só thường đưa tin đến cho con nói là muốn cùng con tư thông nhưng con không đồng ý”, người mẹ nói: “Con nên chìu ý ông ta để mọi người được vui”, cô gái nói: “Nên nhờ ai nói”, người mẹ nói: “Nên nhờ Tỳ-kheo thường lui tới nhà mình nói giùm”. Có một Tỳ- kheo thường lui tới nhà này, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cô gái mời ngồi cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với cư só việc như vậy như vậy không?”, đáp là được, liền đến nói, cư só đến nhà cô gái. Tỳ-kheo sanh nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không, bạch Phật, Phật nói: “Không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá”. Có một cư só làm Tăng phường, thường cung cấp y phục, mền nệm thức ăn uống và thuốc thang cho Tăng. Sau khi cư só qua đời thì không có ai cung cấp cho Tăng nữa. Một Tỳ-kheo đến gặp vợ của cư só này nói: “Vì sao cô không cung cấp thức ăn uống và những vật cần dùng cho Tăng như chồng cô trước kia?”, vợ cư só nói: “Có một cư só nhiều phước đức có thể cung cấp cho Tăng, thầy hãy đến nói với cư só đó đến đây cùng xử phân công việc thì các thầy sẽ được cung cấp đầy đủ như chồng tôi trước kia”, Tỳ-kheo liền đến chỗ cư só đó nói, cư só nói: “Tôi nhiều việc, cùng xử phân công việc thì không xuể”, Tỳ-kheo nói: “Hay là ông nhận làm người cung cấp cho Phật pháp tăng”, cư só này có lòng tin Phật pháp nên nhận lời, nhân việc này cư só tới lui và cùng vợ cư só kia hòa hợp. Tỳ-kheo nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Có một cư só làm Tăng phường, thường cung cấp y phục, mền nệm thức ăn uống và thuốc thang cho Tăng. Sau khi vợ cư só qua đời thì không có ai cung cấp cho Tăng nữa. Một Tỳ-kheo đến gặp cư só này nói: “Vì sao ông không cung cấp thức ăn uống và những vật cần dùng cho Tăng như trước kia nữa?”, cư só nói: “Có vợ của một cư só nhiều phước đức có thể cung cấp cho Tăng, thầy hãy đến nói với vợ cư só đó đến đây cùng xử phân công việc thì các thầy sẽ được cung cấp đầy đủ như trước kia”, Tỳ-kheo liền đến chỗ vợ cư só đó nói, vợ cư só nói: “Tôi nhiều việc, cùng xử phân công việc thì không xuể”, Tỳ-kheo nói: “Hay là cô nhận làm người cung cấp cho Phật pháp tăng”, vợ cư só này có lòng tin Phật pháp nên nhận lời, nhân việc này vợ cư só tới lui và cùng cư só kia hòa hợp. Tỳ-kheo nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só mời ngồi cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với người nữ đến chỗ tôi được không?, đáp là được, liền đến nói, không ngờ cư só và người nữ này đều bị bịnh không thể hòa hợp được. Tỳ-kheo nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, vợ cư só mời ngồi cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể đến nói với cư só đến chỗ tôi được không?”, đáp là được, liền đến nói, không ngờ cả hai người này đều bị bịnh không thể cùng hòa hợp được. Tỳ-kheo nghi không biết có phạm Tăng-già-bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ-kheo thường lui tới nhà một cư só, Tỳ-kheo này sáng sớm hôm đó đắp y mang bát đến nhà, cư só mời ngồi cùng nhau thăm hỏi rồi nói với Tỳ-kheo: “Thầy có thể vì con trai tôi đến nói với cư só gả chị em hoặc con gái cho con trai tôi được không?”, đáp là được, liền đến nói, không ngờ những người nữ kia hoặc bị gù lưng hoặc bịnh điên cuồng hoặc đã có chồng. Tỳ-kheo nghi không biết có phạm Tăng-già- bà-thi-sa không liền bạch Phật, Phật nói không phạm Tăng-già-bà-thi- sa, chỉ phạm Thâu-lan-giá. Một Tỳ-kheo hỏi Phật: “Giống như người nam có Ưu-bà-tắc đáng tin, phi nhơn cũng có hay không?”, Phật nói: “Có, đó là trời đắc đạo” Lại hỏi: “Giống như người nữ có Ưu-bà-di đáng tin, nữ phi nhân cũng có hay không?”, Phật nói: “Có, đó là thiên nữ đắc đạo” Lại hỏi: Có Tỳ-kheo nói với người khác rằng: “Tôi có thể ngồi kiết già trong hư không”, thì có phạm Ba-la-di không? Đáp: Nếu Tỳ-kheo này không có được việc đó thì phạm Ba-la- di. Nếu Tỳ-kheo nói: “Tôi có thể biến một thân làm nhiều thân, nhiều thân trở lại một thân. Tôi dùng trí huệ thông đạt được việc hiện tại hay không phải hiện tại; có thể vượt qua tường vách không bị chướng ngại, có thể ra vào trong đất như trong hư không; đi trên nước như đi trên đất; đi trong hư không như chim. Mặt trời mặt trăng có đại oai đức, tôi có thể không động mà dùng tay chạm đến, cho đến có thể tự tại qua lại cõi trời Phạm thế”, nếu việc này không thật có thì phạm Ba-la-di. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo làm y bất tịnh, mặc mà không phạm Ba-dật- đề hay không? Đáp: Có, nếu y này chiều dọc bất tịnh, chiều ngang tịnh hoặc chiều ngang bất tịnh, chiều dọc tịnh hoặc cả hai đều bất tịnh. Bất tịnh là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông dê đực hay vải tạp khác. Nếu mặc y như vậy thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Trong Tỳ ní nói Tỳ-kheo không được để tóc dài, nếu trên đầu có ghẻ thì phải làm sao? Đáp: dùng dao kéo cắt bỏ Lại hỏi: Tỳ-kheo được thức ăn tịnh, khi ăn sanh nghi không biết là tinh hay bất tịnh thì phạm tội gì? Đáp: Phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu viết thư, hay hiện tướng hay sai sứ hay nói pháp cho các nữ phi nhân như thiên nữ, long nữ, Dạ-xoa nữ… quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo lợp nhà quá ba lớp mà không phạm Ba-dật- đề hay không? Đáp: Có, nếu làm nhà trước thì tùy ý dùng ván lợp . Lại hỏi: Có Tỳ-kheo hẹn người nữ đi chung đường mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu hẹn với các nữ phi nhân như thiên nữ, long nữ, Dạ- xoa nữ… đi cùng đường thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Súc miệng như thế nào? Đáp: Miệng húp nuớc rồi súc ba lần thì gọi là súc miệng. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo ăn biệt chúng mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu ăn trong hư không thì không phạm. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo ăn thức ăn mà phạm Ba-la-di không? Đáp: Có, nếu ăn thức ăn với tâm trộm. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo ngồi trong nhà ăn (nhà có nam nữ yêu thương nhau) mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người nữ thọ giới một ngày (bát quan trai giới), người nam không thọ, Tỳ-kheo ngồi trong nhà ăn này thì phạm Đột- kiết-la; ngược lại cũng vậy. Nếu cả hai cùng thọ giới một ngày, Tỳ- kheo ngồi trong nhà ăn này thì không phạm. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo ngồi một mình với người nữ trong nhà ăn (nhà có nam nữ yêu thương nhau) mà không phạm Ba-dật-đề không? Đáp: Có, nếu người nữ thọ giới một ngày (bát quan trai giới), người nam không thọ, Tỳ-kheo ngồi trong nhà ăn này thì phạm Đột- kiết-la; ngược lại cũng vậy. Nếu cả hai cùng thọ giới một ngày, Tỳ- kheo ngồi trong nhà ăn này thì không phạm. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo đến xem quân xuất hành mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu xem quân Dạ-xoa thì phạm Đột-kiết-la. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Thầy cùng tôi đi đến nhà kia, tôi sẽ bảo họ cúng cho thầy thức ăn ngon”, sau đó lại nói rằng: “Tôi không thích cùng ngồi và cùng nói chuyện với thầy, tôi ngồi một mình, nói chuyện một mình vui hơn”, mà không phạm Ba-dật-đề hay không? Đáp: Có, nếu chưa đến nhà kia hoặc đến trong ngõ hẽm rồi trở về thì phạm Đột-kiết-la. Nếu nói trong Tăng phường thì không phạm. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo không bịnh vào nhà bạch y, từ Tỳ-kheo-ni không phải bà con, tự tay thọ thức ăn uống mà không phạm Ba-la-đề- đề-xá-ni hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni tự mang thức ăn uống đến nhà bạch y đưa cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tự tay thọ thì không phạm. Lại hỏi: Có Tỳ- kheo-ni chỉ vẽ bạch y đưa thức ăn cho Tỳ-kheo cơm như vậy, canh như vậy mà không phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni hay không? Đáp: Có, nếu Tỳ-kheo-ni là bà con của tỳ-kheo này, Tỳ-kheo không quở trách mà ăn thức ăn này thì phạm Đột-kiết-la.  <卷>QUYỂN 60 THIỆN TỤNG TỲ NI PHẨM PHÁP Năm Trăm Tỳ-Kheo Kết Tạâp Tam Tạng: Phật Bà-già-bà bát niết bàn tại trú xứ Lực só ở giữa hai cây sa-la thuộc thành Câu-thi, các lực só ở Câu thi cúng dường thân Phật. Lúc đó trưởng lão Đại Ca-diếp dẫn năm trăm Tỳ-kheo từ thành Ba-bà đi đến thành Câu-thi-na, khi đến ranh giới giữa hai thành gặp một Phạm chí cầm hoa trời Mạn-đà-la từ thành Câu-thi-na đi đến thành Ba-bà. Đại Ca-diếp hỏi: “Ông có biết đại sư của tôi không?, đáp: “Biết, đại sư của thầy đã bát niết bàn tại trú xứ Lực só ở giữa hai cây Sa-la thuộc thành Câu-thi-na đến nay đã bảy ngày rồi, trời người đang cúng dường thân Phật. Tôi được hoa trời Mạn-đà-la này từ chỗ đó”. Đại Ca-diếp nghe rồi rất đau buồn, trong số các đệ tử có vị khóc, có vị dậm chân nói rằng: “Vì sao Thế tôn nhập niết bàn mau như vậy, con mắt thế gian đã diệt rồi”. Lúc đó có người ngã lăn ra đất, có người bi cảm; có người hành tâm xả quán tướng các pháp là vô thường, khổ, không và vô ngã; đã là pháp tướng vô thường thì làm sao có thể thường được. Khi Phật còn tại thế có dạy rằng: “Cái mà chúng sanh đắm trước thì không thể giữ lâu, rốt cuộc đều phải biệt ly, tan hoại và diệt mất”. Lúc đó có một Tỳ-kheo già ngu si bất thiện nói lời thô ác rằng: “Phật thường nói điều này nên làm, điều này không nên làm. Nay tôi được tự tại, muốn làm gì thì làm, không muốn làm thì thôi”, lời thô ác này chỉ có một mình trưởng lão Đại Ca-diếp nghe được, những người khác không nghe thấy vì các thiên thần đã ngăn không cho nghe. Lúc đó ở cõi Diêm phù đề này, trưởng lão Kiều-trần-như là đệ nhất Thượng tòa, trưởng lão Quân đà là đệ nhị Thượng tòa, trưởng lão Thập lực Ca-diếp và A-nan là đệ tam Thượng tòa, trưởng lão Đại Ca-diếp là đệ tứ Thượng tòa. Do trưởng lão Đại Ca-diếp là người quen biết nhiều, tất cả bốn bộ chúng đều cung kính, tin thọ lời của trưởng lão nên khi hay tin trưởng lão sắp đến thành Câu-thi-na, bốn bộ chúng đều ra đến nữa đường để nghinh đón. Trưởng lão Đại Ca-diếp thấy bốn bộ chúng đến liền dừng lại một gốc cây bên đường, trải Ni-sư-đàn ngồi kiết già, bốn bộ chúng đến đảnh lễ rồi ngồi một bên nghe nói pháp, Trưởng lão tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho bốn bộ chúng được lợi hỉ rồi bảo họ cùng quay về Đảnh kết chi di ở Song thọ: “Hãy khoan thiêu nhục thân của Phật, tôi đã về kịp, tôi muốn đảnh lễ kinm thân Phật”. Trưởng lão cùng bốn bộ chúng đến Đảnh kết chi di, chư thiên mở kim quan để lộ kim thân Phật cho trưởng lão Đại Ca-diếp đảnh lễ, đảnh lễ rồi bảo mọi người dùng bạch điệp mới của trời quấn lại kim thân Phật, dùng dầu thơm tưới lên kim quan rồi đậy nắp kim quan và chất củi thơm để thiêu. Chủ các lực só liền đốt đống củi thơm này, trưởng lão A-nan thấy đống củi thơm bốc cháy bi cảm nghẹn ngào nói kệ: “Thân của Thế tôn, Ở trong kim quan, Quấn ngàn tấm lụa, Tưới bằng dầu thơm, Đốt bằng củi thơm”. Khi đống củi thơm đã cháy hết, Đại Ca-diếp nghó: “Làm sao dập tắt lửa, nên dùng sữa bò để dập tắt”, vừa nghó liền có ao sữa bò tinh khiết hiện ra, trưởng lão liền dùng sữa bò này tưới để tắt lửa và nói kệ: “Ngàn tấm lụa quấn thân, Dùng lửa trà tỳ thân, Thần lực của đức Phật, Thường một nội y còn, Ngoài cùng cũng không cháy, Ở giữa đều cháy hết”. Lúc đó trưởng lão Đại Ca-diếp thành kính gỡ lớp lụa bên ngoài ra để lấy xá lợi Phật đưa cho các lực só, các lực só để xá lợi trong bình vàng, đặt lên xe, đốt hương thơm, dùng phướn lọng và trổi các kỹ nhạc cúng dường rồi rước vào thành Câu-thi-na. Trong thành Câu-thi-na lúc đó vừa xây xong Luận nghóa đường, đã được tưới quét sạch sẽ, xông các hương thơm, treo cờ phướn và rãi hương hoa trên chiếc giường ngà voi để bình vàng xá lợi Phật. Trưởng lão A-nan dùng hương hoa kỹ nhạc cúng dường và hướng dẫn các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà- di cúng dường đảnh lễ. Lúc đó các lực só trong thành Ba-bà nghe được tin này suy nghó: “Phật cũng là thầy ta, được ta tôn thờ, ta nên đến đó thỉnh phần xá lợi mang về xây tháp thờ, đốt hương hoa, treo phướn lọng suốt đời cúng dường”, các lực só thành Câu-thi-na nói: “Phật nhập niết bàn ở nước ta, chúng ta tự sẽ xây tháp cúng dường, chia xá lợi thì không được”. Lúc đó dòng Sát-đế-lî thuộc tộc họ Bà-tha-bà-la ở nước Già-lặc, các Bà- la-môn trong nước Tỳ-miệu, dòng họ Lê xương trong thành Tỳ-da-ly, các Thích tử trong nước Ca-tỳ-la vệ, vua A-xà-thế vua nước Ma-kiệt-đà nghe được tin này đều đem hương hoa và kỹ nhạc đến để cúng dường xá lợi. Vua A-xà-thế bảo đại thần Bà-la-môn Bà-lợi-sa Ca-la: “Khanh đến chỗ các lực só thành Câu-thi-na, chuyển lời ta thăm hỏi họ thân tâm có được an ổn vui vẻ không và nói với họ rằng Phật cũng là thầy ta, được ta tôn thờ, nay nhập niết bàn ở nước các vị, xin cho thỉnh phần xá lợi mang về xây tháp thờ trong thành Vương xá; nếu các vị không cho thỉnh nước tôi sẽ khởi binh dùng sức đoạt lấy xá lợi”, Bà-la-môn vâng lịnh vua tập họp bốn binh đi đến thành Câu-thi-na nói với các lực só thành Câu-thi-na y như vậy, các lực só thành Câu-thi-na nói: “Phật nhập niết bàn ở nước ta, chúng ta tự sẽ xây tháp cúng dường, chia xá lợi thì không được”. Lúc đó các lực só thành Ba-bà cũng tập họp bốn binh đến đóng quân tại một nơi, tộc họ Câu-bà-la ở tụ lạc La-bà cũng tập họp bốn binh đến đóng quân tại một nơi, cho đến dòng Sát-đế-lî thuộc tộc họ Bà tha bà la ở nước Già-lặc, các Bà-la-môn trong nước Tỳ miệu, dòng họ Lê xương trong thành Tỳ-da-ly, các Thích tử trong nước Ca-tỳ-la vệ cũng tập họp bốn binh đến đóng quân tại một nơi, Bà-la-môn Bà-la-sa Ca- la tăng cường thêm bốn binh cũng đóng quân tại một nơi. Lúc đó bên ngoài thành Câu-thi-na bị tám nước đóng quân bao vây, nước nào cũng muốn đoạt lấy xá lợi Phật. Lúc đó trong đại chúng có một Bà-la-môn họ Yên cất tiếng hô lớn: “Chủ các lực só thành Câu-thi-na lắng nghe: Từ vô lượng kiếp, Phật đã tích thiện tu nhẫn, các vị cũng thường nghe pháp nhẫn. Tại sao hôm nay Phật mới nhập niết bàn, vì xá lợi Phật mà tám nước khởi binh tranh đoạt, các vị nên biết đây là việc không cung kính, xá lợi Phật nay nên chia làm tám phần”, các lực só thành Câu-thi-na nói: “Vì tôn kính Phật chúng tôi chấp thuận lời đề nghị này”. Bà-la-môn họ Yên chia xá lợi thành tám phần rồi lớn tiếng xướng rằng: “Chủ các lực só cho tôi được thỉnh chiếc bình vàng đựng xá lợi Phật mang về tụ lạc Đầu-na-la để xây tháp thờ, đốt hương hoa, treo phướn lọng suốt đời cúng dường”, Bà-la-môn Tất-Ba-la-diên-na cũng lớn tiếng xướng rằng: “Chủ các lực só thành Câu-thi-na cho tôi thỉnh phần tro nơi chỗ thiêu kim thân Phật, mang về nước tôi để xây tháp thờ, đốt hương hoa, treo phướn lọng suốt đời cúng dường”, các lực só thành Câu-thi-na nói: “Vì tôn kính Phật, chúng tôi chấp thuận cho thỉnh”. Lúc đó các lực só thành Câu-thi-na được phần xá lợi thứ nhất, nước Ba-bà được phần xá lợi thứ hai, tộc họ Câu-lâu-la ở tụ lạc La-ma được phần xá lợi thứ ba, dòng Sát-đế-lî thuộc tộc họ Bà tha bà la ở nước Già-lặc được phần xá lợi thứ tư, các Bà-la-môn trong nước Tỳ miệu được phần xá lợi thứ năm, dòng họ Lê xương trong thành Tỳ-da-ly đuợc phần xá lợi thứ sáu, các Thích tử trong nước Ca-tỳ-la vệ được phần xá lợi thứ bảy, vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà được phần xá lợi thứ tám, tất cả đều thỉnh xá lợi Phật mang về nước mình để xây tháp thờ, đốt hương hoa, treo phướn lọng suốt đời cúng dường. Bà-la-môn họ Yên được bình đựng xá lợi, Bà-la-môn Tất Ba-la-diên na được phần tro cũng đều mang về nước mình xây tháp thờ, đốt hương hoa, treo phướn lọng suốt đời cúng dường. Lúc đó trong cõi Diêm phù đề có tám tháp thờ xá lợi Phật, tháp thứ chín thờ bịnh đựng xá lợi và tháp thứ mười thờ tro. Sau khi Phật vừa nhập niết bàn chỉ Có mười tháp nhưng về sau có thêm vô số tháp, trưởng lão Đại Ca-diếp biết xá lợi Phật đã được lưu bố khắp mười phương nên tập họp Tăng chúng và nói với các Tỳ-kheo rằng: “Trước đây tôi dẫn năm trăm Tỳ-kheo từ thành Ba-bà đi đến thành Câu-thi-na, khi đến ranh giới giữa hai thành gặp một Phạm chí cầm hoa trời Mạn-đà-la từ thành Câu-thi-na đi đến thành Ba-bà. Tôi hỏi: “Ông có biết đại sư của tôi không?”, đáp: “Biết, đại sư của thầy đã bát niết bàn tại trú xứ Lực só ở giữa hai cây Sa-la thuộc thành Câu-thi-na đến nay đã bảy ngày rồi, trời người đang cúng dường thân Phật. Tôi được hoa trời Mạn-đà-la này từ chỗ đó”. Tôi nghe rồi rất đau buồn, trong số các đệ tử có vị khóc, có vị dậm chân nói rằng: “Vì sao Thế tôn nhập niết bàn mau như vậy, con mắt thế gian đã diệt rồi”. Lúc đó có người ngã lăn ra đất, có người bi cảm; có người hành tâm xả quán tướng các pháp là vô thường, khổ, không và vô ngã; đã là pháp tướng vô thường thì làm sao có thể thường được. Khi Phật còn tại thế có dạy rằng: “Cái mà chúng sanh đắm trước thì không thể giữ lâu, rốt cuộc đều phải biệt ly, tan hoại và diệt mất”. Lúc đó có một Tỳ-kheo già ngu si bất thiện nói lời thô ác rằng: “Phật thường nói điều này nên làm, điều này không nên làm. Nay tôi được tự tại, muốn làm gì thì làm, không muốn làm thì thôi”, lời thô ác này chỉ có một mình tôi nghe được, những người khác không nghe thấy vì các thiên thần đã ngăn không cho nghe. Lại có một Tỳ-kheo ở trước tôi nói phi pháp là pháp, pháp là phi pháp, thiện là bất thiện, bất thiện là thiện. Vì thế nay chúng ta nên kết tập tất cả kinh, luật, luận”. Lúc đó trưởng lão Đại Ca-diếp suy nghó: “Ta sẽ ở trong Tăng kết tập tất cả kinh, luật, luận; nếu có Tỳ-kheo không hiểu biết sẽ nói là không nên kết tập tất cả kinh luật luận. Ta nên ở trong Tăng chọn lấy những vị thông tuệ có thể kết tập pháp và nên ở trong Tăng làm yết ma chọn”, nghó rồi liền ở trong Tăng chọn lấy năm trăm Tỳ-kheo chỉ thiếu có một người. Các vị này xưng tên đều là những vị đã chứng ba minh, thông suốt ba tạng, đã diệt ba độc đều là bậc Câu giải thoát. Đại Ca-diếp liền ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, năm trăm Tỳ-kheo chỉ thiếu một vị này xưng danh đều là những vị đã chứng ba minh, thông suốt ba tạng, đã diệt ba độc đều là bậc Câu giải thoát. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, năm trăm Tỳ-kheo chỉ thiếu có một vị này đều là những người kết tập pháp. Bạch như vậy. Lúc đó trưởng lão A-nan có mặt trong Tăng, trưởng lão Đại Ca-diếp suy nghó: “A-nan là Học nhơn thông tuệ đa văn, Phật nói A-nan là bậc đa văn bậc nhất trong các đệ tử. Nay ta nên cử A-nan làm người kết tập pháp thứ năm trăm”, nghó rồi liền ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, A-nan là Học nhơn thông tuệ đa văn, Phật nói A-nan là bậc đa văn bậc nhất trong các đệ tử. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, chúng ta nay cử A-nan là người thứ năm trăm để kết tập pháp. Bạch như vậy. Đại đức tăng lắng nghe, A-nan là Học nhơn thông tuệ đa văn, Phật nói A-nan là bậc đa văn bậc nhất trong các đệ tử. Nay chúng ta cử A-nan là người thứ năm trăm để kết tập pháp. Các trưởng lão nào chấp thuận cử A-nan là người thứ năm trăm để kết tập pháp thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Tăng đã chấp thuận cử A-nan là người thứ năm trăm để kết tập pháp xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Lúc đó trưởng lão Đại Ca-diếp suy nghó: “Việc kết tập kinh luật luận cần nhiều thời gian, không phải chỉ một, hai ngày cho đến một tuần mà có thể xong được. Nay ta nên ở trong Tăng tác pháp yết ma tập họp những người kết tập pháp lại cùng an cư một chỗ, những người không kết tập pháp thì an cư chỗ khác”, nghó rồi liền ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, việc kết tập kinh luật luận cần nhiều thời gian, không phải chỉ một, hai ngày cho đến một tuần mà có thể xong được. Nay ở trong Tăng tác pháp yết ma tập họp những người kết tập pháp lại cùng an cư một chỗ, những người không kết tập pháp thì an cư chỗ khác. Bạch như vậy. Trưởng lão Đại Ca-diếp lại suy nghó: “Ở trong xứ nào của nước nào an ổn, có tinh xá tốt, được tứ sự cúng dường đầy đủ, thức ăn uống không thiếu thốn, không có giặc cướp”, trưởng lão liền nghó đến thành Vương xá, trong thành này có tinh xá tốt, được tứ sự cúng dường đầy đủ, thức ăn uống không thiếu thốn, không có giặc cướp. Nghó rồi liền một mình đến trước lo liệu mọi thứ như sửa sang lại tinh xá, kêu gọi bạch y cúng dường tứ sự… Đến lúc an cư liền cùng năm trăm Tỳ-kheo kết tập pháp cùng đến an cư trong thành Vương xá, sáng sớm Đại Ca-diếp đắp y mang bát vào thành Vương xá nhắc nhở mọi người mang thức ăn uống đến để cúng dường cho những vị kết tập pháp, sau đó trở về tập họp Tăng. Trưởng lão Đại Ca-diếp suy nghó: “Tỳ-kheo nào có thể tụng luật thông suốt, chúng ta gạn hỏi mà có thể tùy đáp theo câu hỏi, chúng ta sẽ cử người đó kết tập Tỳ-ni. Phật thường khen ngợi Ưu-ba-ly là người tụng luật thông suốt bậc nhất trong các Tỳ-kheo “, nghó rồi liền bạch Tăng: Đại đức tăng lắng nghe, Tỳ-kheo Ưu-ba-ly là người tụng luật thông suốt, Phật thường khen ngợi Ưu-ba-ly là người tụng luật thông suốt bậc nhất trong các Tỳ-kheo, nay chúng ta cử Ưu-ba-ly làm người kết tập Tỳ-ni, chúng ta gạn hỏi, Ưu-ba-ly tùy theo câu hỏi mà đáp. Bạch như vậy. Lúc đó Đại Ca-diếp trải pháp tòa, trưởng lão Ưu-ba-ly thăng tòa, Đại Ca-diếp hỏi: “Giới thứ nhất thuộc Ba-la-di, nhân duyên xuất phát từ đâu?”, Ưu-ba-ly đáp: “Nhân duyên xuất phát từ Tỳ-kheo Tu-đề-na Ca-lan đà tử ở nước Tỳ-da-ly”, lại hỏi: “Tướng phạm và không phạm trong giới này như thế nào?”, Ưu-ba-ly liền nói rõ tướng phạm và tướng không phạm, Đại Ca-diếp liền hỏi trưởng lão A nhã Kiều-trần-như: “Lời Ưu-ba-ly nói có đúng không?”, Kiều-trần-như đáp là đúng, Đại Ca-diếp kế hỏi trưởng lão Quân đà, kế hỏi trưởng lão Thập lực Ca- diếp… như thế cho đến hỏi hết năm trăm Tỳ-kheo kết tập pháp, trưởng lão A-nan là người thứ năm trăm đáp: “Tôi cũng nghe như vậy, việc này là pháp, là thiện đúng như trưởng lão Ưu-ba-ly đã nói”, A-nan hỏi lại Đại Ca-diếp là có đúng như vậy không, Đại Ca-diếp đáp là đúng rồi ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, Giới thứ nhất Ba-la-di đã kết tập xong, là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Không có Tỳ-kheo nào nói pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp; Tỳ-ni nói là phi Tỳ-ni, phi Tỳ-ni nói là Tỳ-ni. Đây là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Đại Ca-diếp lại hỏi Ưu-ba-ly: “Nhân duyên của giới Ba-la-di thứ hai xuất phát từ đâu?”, Ưu-ba-ly đáp: “Nhân duyên xuất phát từ Tỳ-kheo Đạt-ni-ca con của người thợ gốm ở thành Vương xá”, lại hỏi: “Nhân duyên của giới Ba-la-di thứ ba phát xuất từ đâu?”, đáp: “Nhân duyên phát xuất từ các Tỳ-kheo bên sông Bà-cầu-ma đề ở nước Bạt- kỳ”, lại hỏi: “Nhân duyên của giới Ba-la-di thứ tư phát xuất từ đâu?”, đáp: “Nhân duyên phát xuất từ các Tỳ-kheo bên sông Bà-cầu-ma đề ở nước Tỳ-da-ly”, lại hỏi: “Nhân duyên của giới Tăng-già-bà-thi-sa thứ nhất phát xuất từ đâu?”, đáp: “Nhân duyên phát xuất từ Tỳ-kheo Ca-lưu-đà-di ở nước Xá-bà-đề; giới Tăng-già-bà-thi-sa thứ hai, thứ ba, thứ tư cũng đều do Tỳ-kheo Ca-lưu-đà-di ở nước Xá-bà-đề”, lại hỏi: “Nhân duyên của giới thứ năm phát xuất từ đâu?”, đáp: “Từ Tỳ-kheo Ca-la Di-lê-ca tử ở nước Xá-bà-đề”, lại hỏi: “Tướng phạm và không phạm trong giới này như thế nào?”, Ưu-ba-ly liền nói rõ tướng phạm và tướng không phạm, Đại Ca-diếp liền hỏi trưởng lão A nhã Kiều-trần- như: “Lời Ưu-ba-ly nói có đúng không?”, Kiều-trần-như đáp là đúng, Đại Ca-diếp kế hỏi trưởng lão Quân đà, kế hỏi trưởng lão Thập lực Ca- diếp… như thế cho đến hỏi hết năm trăm Tỳ-kheo kết tập pháp, trưởng lão A-nan là người thứ năm trăm đáp: “Tôi cũng nghe như vậy, việc này là pháp, là thiện đúng như trưởng lão Ưu-ba-ly đã nói”, A-nan hỏi lại Đại Ca-diếp là có đúng như vậy không, Đại Ca-diếp đáp là đúng, cứ hỏi và đáp như vậy cho đến tất cả Tỳ-ni đều được kết tập xong. Lúc đó Đại Ca-diếp ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, tất cả Tỳ-ni đều đã kết tập xong, là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Không có Tỳ-kheo nào nói pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp; Tỳ-ni nói là phi Tỳ-ni, phi Tỳ-ni nói là Tỳ- ni. Đây là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Lúc đó Đại Ca-diếp suy nghó: “Tỳ-kheo nào tụng kinh và luận thông suốt, chúng ta gạn hỏi mà có thể tùy đáp theo câu hỏi, chúng ta sẽ cử làm người kết tập kinh và luận. Phật thường khen ngợi A-nan là bậc đa văn, thọ trì tất cả kinh luận bậc nhất trong các Tỳ-kheo. Chúng ta nên cử làm người kết tập kinh và luận”, nghó rồi liền ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, Tỳ-kheo A-nan là người đa văn thông suốt kinh luận, Phật thường khen ngợi A-nan là bậc đa văn, thọ trì tất cả kinh luận bậc nhất trong các Tỳ-kheo. Chúng ta nên cử làm người kết tập kinh và luận. Bạch như vậy. Lúc đó Đại Ca-diếp trải pháp tòa, trưởng lão A-nan thăng tòa, Đại Ca-diếp hỏi A-nan: “Lần đầu tiên Phật nói kinh ở nơi đâu?”, đáp: “Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Phật ở tại trú xứ Tiên nhơn trong rừng Nai thuộc thành Ba-la-nại”. A-nan vừa nói xong, năm trăm Tỳ-kheo đều quỳ xuống khóc nói: “Tôi đã ở trước Phật nghe thọ và thấy pháp, nay cũng được nghe”, Đại Ca-diếp nói với A-nan: “Từ nay tất cả kinh luật luận đều bắt đầu bằng câu: Tôi nghe như vậy, một thuở nọ”, A-nan đáp: “Xin vâng. Lúc đó Phật bảo năm Tỳ-kheo: “Khổ thánh đế này là pháp mà trước đây ta chưa từng nghe từ người khác. Ngay khi chánh ức niệm, ở trong các pháp sanh Nhãn, sanh Trí, sanh Minh, sanh Giác. Tập thánh đế, Diệt thánh đế và Đạo thánh đế này là pháp mà trước đây ta chưa từng nghe từ người khác. Ngay khi chánh ức niệm, ở trong các pháp sanh Nhãn, sanh Trí, sanh Minh, sanh Giác. Này các Tỳ-kheo, Khổ thánh đế này các thầy nên biết, Khổ Tập thánh đế này các thầy nên đoạn, Khổ diệt thánh đế này các thầy nên chứng, Khổ đạo thánh đế này các thầy nên tu. Tứ thánh đế này là pháp mà trước đây ta chưa từng nghe từ người khác. Ngay khi chánh ức niệm, ở trong các pháp sanh Nhãn, sanh Trí, sanh Minh, sanh Giác. Này các Tỳ-kheo, Khổ thánh đế này ta đã biết, Khổ Tập thánh đế này ta đã đoạn, Khổ Diệt thánh đế này ta đã chứng, Khổ Đạo thánh đế này ta đã tu. Tứ thánh đế này là pháp mà trước đây ta chưa từng nghe từ người khác. Ngay khi chánh ức niệm, ở trong các pháp sanh Nhãn, sanh Trí, sanh Minh, sanh Giác. Này các Tỳ-kheo, nếu trong ngần ấy thời gian đối với bốn thánh đế này, ba lần chuyển mười hai phần pháp luân hành mà ta không sanh Nhãn, sanh Trí, sanh Minh, sanh Giác; ở trong tất cả thế gian hoặc là Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, trời người mà ta không được giải thoát, không đuợc lìa, không được xả, không được tâm không điên đảo thì lúc đó ta không khởi niệm là đã đắc quả Vô thượng Bồ đề. Chính ở trong ngần ấy thời gian đối với bốn thánh đế này, ba lần chuyển mười hai phần pháp luân hành mà ta sanh Nhãn, sanh Trí, sanh Minh, sanh Giác; ở trong tất cả thế gian hoặc là Ma, Phạm, Sa-môn, Bà- la-môn, trời người mà ta được giải thoát, đuợc lìa, được xả, được tâm không điên đảo nên lúc đó ta khởi niệm là đã đắc quả Vô thượng Bồ đề”. Lúc thuyết giảng pháp này trưởng lão Kiều-trần-như và tám vạn chư thiên được xa lìa trần cấu, ở trong các pháp sanh khởi pháp nhãn. Lúc đó Phật hỏi Kiều-trần-như: “Đã đắc pháp rồi phải không?”, Kiều- trần-như đáp: “Đã đắc pháp rồi thưa Thế tôn”. Phật hỏi ba lần và Kiều- trần-như cũng đáp ba lần như vậy, do lần đầu tiên đắc pháp nên gọi là A-nhã-Kiều-trần-như. Khi Kiều-trần-như đắc pháp, thần đất lớn tiếng xướng rằng: “Này các chúng sanh, Phật ở tại trú xứ Tiên nhơn trong rừng Nai thuộc thành Ba-la-nại nói bốn thánh đế này, ba lần chuyển mười hai phần pháp luân hành; ở trong tất cả thế gian hoặc là Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, trời người đều không thể như pháp chuyển. Phật vì lợi ích cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì thương xót thế gian, làm lợi ích an lạc cho chư thiên và loài người, làm tăng thêm chúng trời và làm giảm chúng A-tu-la”. Thần hư không nghe thần đất xướng như vậy, cũng lớn tiếng xướng như vậy, như thế cho đến các cõi trời Tứ thiên vương, cõi trời Tam thập tam, trời Dạ ma, trời Đâu suất đà, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại… trời Phạm thiên đều xướng lên như vậy. Phật ở tại trú xứ Tiên nhơn trong rừng Nai thuộc thành Ba-la-nại, nói bốn thánh đế này, ba lần chuyển mười hai phần pháp luân hành nên kinh này gọi là kinh Chuyển pháp luân”. Lúc đó Đại Ca-diếp liền hỏi trưởng lão A nhã Kiều-trần-như: “Lời A-nan nói có đúng không?”, Kiều-trần-như đáp là đúng, Đại Ca-diếp kế hỏi trưởng lão Quân đà, kế hỏi trưởng lão Thập lực Ca-diếp… như thế cho đến hỏi hết năm trăm Tỳ-kheo kết tập pháp, trưởng lão Ưu-ba-ly là người thứ năm trăm đáp: “Tôi cũng nghe như vậy, đúng như trưởng lão A-Nan-đã nói”, Ưu-ba-ly hỏi lại Đại Ca-diếp là có đúng như vậy không, Đại Ca-diếp đáp là đúng, cứ như thế hỏi đáp cho đến khi tất cà kinh đã được kết tập xong. Đại Ca-diếp ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, tất cả kinh đã kết tập xong, là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Không có Tỳ-kheo nào nói pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp; Tỳ-ni nói là phi Tỳ-ni, phi Tỳ-ni nói là Tỳ-ni. Đây là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Đại Ca-diếp lại hỏi A-nan: “Phật bắt đầu nói A-tỳ-đàm ở nơi đâu?”, đáp: “Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Phật tại nước Xá-bà-đề, lúc đó Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nếu người nào có năm sợ hãi, năm tội, năm oán và năm diệt thì người này sau khi chết sẽ bị đọa trong địa ngục nhanh như lực só co duỗi cánh tay. Năm tội đó là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và uống rượu. Ngược lại “Nếu người nào không có năm sợ hãi, năm tội, năm oán và năm diệt thì người này sau khi chết sẽ được sanh lên cõi trời nhanh như lực só co duỗi cánh tay. Không có năm tội đó là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu. Đối với năm sợ hãi, năm oán và năm diệt cũng giống như vậy”. Lúc đó Đại Ca-diếp liền hỏi trưởng lão A-nhã-Kiều-trần-như: “Lời A-nan nói có đúng không?”, Kiều-trần-như đáp là đúng, Đại Ca- diếp kế hỏi trưởng lão Quân đà, kế hỏi trưởng lão Thập lực Ca-diếp… như thế cho đến hỏi hết năm trăm Tỳ-kheo kết tập pháp, trưởng lão Ưu-ba-ly là người thứ năm trăm đáp: “Tôi cũng nghe như vậy, đúng như trưởng lão A-Nan-đã nói”, Ưu-ba-ly hỏi lại Đại Ca-diếp là có đúng như vậy không, Đại Ca-diếp đáp là đúng, cứ như thế hỏ đáp cho đến khi tất cả luận đã được kết tập xong. Đại Ca-diếp ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, tất cả luận đã kết tập xong, là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Không có Tỳ-kheo nào nói pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp; Tỳ-ni nói là phi Tỳ-ni, phi Tỳ-ni nói là Tỳ-ni. Đây là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Sau khi tất cả kinh, luật, luận đã được kết tập xong, trưởng lão A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch với trưởng lão Đại Ca-diếp: “Đại đức, tôi từ Phật nghe thọ lời này, Phật nói: “Sau khi ta nhập niết bàn, nếu Tăng nhất tâm hòa hợp thì có thể xem xét bỏ bớt những giới vi tế”, Đại Ca-diếp hỏi: “A-nan, thầy có hỏi Phật những giới nào là giới vi tế mà nếu Tăng nhất tâm hòa hợp thì có thể bỏ bớt hay không?”, đáp là không có hỏi, Đại Ca-diếp nói: “Đáng lẽ thầy nên hỏi cho rõ ràng, vì thầy không hỏi Phật rõ ràng nên thầy phạm Đột- kiết-la, thầy nên như pháp sám hối”, A-nan nói: “Tôi không khinh giới nên không hỏi, vã lại lúc đó Phật sắp diệt độ, tâm tôi ưu sầu nên không thể hỏi được”. Đại Ca-diếp nói: “Phật ba lần nói với thầy rằng: Vô số việc trong cõi Diêm phù đề thì thích thọ mạng là việc vui thích nhất. Nếu người nào tu Tứ như ý túc có thể sống thọ một kiếp hoặc dưới một kiếp”. Phật khéo tu Tứ như ý túc nếu muốn thọ mạng một kiếp hoặc dưới một kiếp đều có thệ tự tại trụ. Tại sao lúc đó thầy không thỉnh Phật trụ lâu ở đời, vì việc này nên thầy phạm Đột-kiết-la, thầy nên như pháp sám hối”, A-nan nói: “Tôi không khinh giới và không phải không cung kính Phật mà không thỉnh Phật trụ lâu ở đời. Chỉ vì lúc đó ma che lấp tâm tôi khiến tôi không nhận biết nên mới không thỉnh Phật trụ lâu ở đời”. Đại Ca-diếp nói: “Một lần nọ thầy đã dùng chân giẫm lên y của Phật nên thầy phạm Đột-kiết-la, thầy nên như pháp sám hối”, A-nan nói: “Tôi không khinh giới và không phải không cung kính Phật mà giẫm lên y của Phật. Chỉ vì lúc đó gió thổi rất mạnh, không có ai giúp đỡ, tôi phải dùng chân giẫm lên y để giữ y mới xếp được y”. Đại Ca- diếp lại nói: “Một lần nọ Phật bảo thầy ra bờ sông Ca-câu-đà lấy một bát nước, thầy đáp là nước sông đang đục chưa trong nên không đi lấy nước liền. Vì việc này thầy phạm Đột-kiết-la, thầy nên như pháp sám hối”, A-nan nói: “Tôi không khinh giới và không phải không cung kính Phật mà không đi lấy nước liền. Chỉ vì lúc đó có năm trăm cỗ xe vừa băng qua sông nên nước đục chưa trong”. Đại Ca-diếp lại nói: “Phật không cho người nữ xuất gia, thầy đến thỉnh ba lần để Phật cho người nữ xuất gia. Vì việc này thầy phạm Đột-kiết-la, thầy nên như pháp sám hối”, A-nan nói: “Tôi không khinh giới và không phải không cung kính Phật mà thỉnh Phật ba lần để cho người nữ xuất gia. Chỉ vì chư Phật quá khứ đều có đủ bốn chúng, vì sao riêng Phật của chúng ta lại không Có bốn chúng nên tôi mới thỉnh Phật đến ba lần”. Đại Ca-diếp lại nói: “Sau khi Phật diệt độ, vì sao thầy lại để lộ tướng âm tàng của Phật cho người nữ nhìn thấy. Vì việc này thầy phạm Đột-kiết-la, thầy nên như pháp sám hối”, A-nan nói: “Vì người nữ phước đức mỏng ít, muốn được thấy tướng của Phật, khi thấy được rồi sẽ sanh nhàm lìa thân nữ, đời sau được thân nam nên tôi mới để lộ cho họ thấy”. Lúc đó Đại Ca-diếp bảo A- nan ở trong Tăng sám hối sáu tội Đột-kiết-la rồi bạch Tăng: “Chúng ta không nên cho bỏ bớt một giới vi tế nào, vì sao, vì ngoại đạo dị học nếu nghe biết việc này sẽ nói rằng: “Đệ tử thông minh, vì sao, vì thầy kết giới mà đệ tử lại bỏ bớt”. Vì vậy chúng ta nhất tâm xem xét không cho bỏ bớt một giới vi tế nào, nếu chúng ta bỏ bớt thì ngoại đạo dị học sẽ nói rằng: “Khi đại sư còn ở đời, Sa-môn Thích tử đều trì giới đầy đủ; sau khi đại sư diệt độ lại không trì giới đầy đủ mà còn bỏ bớt, pháp của Thích tử không bao lâu nữa sẽ bị diệt, giống như lửa cháy thì khòi bốc lên, lửa tắt thì khòi cũng diệt. Vì vậy chúng ta nhất tâm xem xét không cho bỏ bớt một giới vi tế nào, nếu chúng ta bỏ bớt thì các Tỳ-kheo không biết giới nào là vi tế sẽ nói rằng: “Giới vi tế không phải chỉ là Đột-kiết-la, mà bốn Ba-la-đề-đề-xá-ni cũng được xem là giới vi tế. Vì vậy chúng ta nhất tâm xem xét không cho bỏ bớt một giới vi tế nào, nếu chúng ta bỏ bớt thì các Tỳ-kheo không biết giới nào là vi tế sẽ nói rằng: “Giới vi tế không phải chỉ là Đột-kiết-la, bốn Ba-la-đề-đề-xá-ni mà cả chín mươi Ba-dật-đề cũng được xem là giới vi tế”. Vì vậy chúng ta nhất tâm xem xét không cho bỏ bớt một giới vi tế nào, nếu chúng ta bỏ bớt thì các Tỳ-kheo không biết giới nào là vi tế sẽ nói rằng: “Giới vi tế không phải chỉ là Đột-kiết-la, bốn Ba-la-đề-đề-xá-ni, chín mươi Ba-dật-đề mà cả ba mươi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề cũng được xem là giới vi tế”. Vì vậy chúng ta nhất tâm xem xét không cho bỏ bớt một giới vi tế nào, nếu chúng ta bỏ bớt thì các Tỳ-kheo không biết giới nào là vi tế sẽ nói rằng: “Giới vi tế không phải chỉ là Đột-kiết-la, bốn Ba-la-đề-đề-xá-ni, chín mươi Ba- dật-đề, ba mươi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề mà cả hai pháp Bất định cũng được xem là giới vi tế”. Vì vậy chúng ta nhất tâm xem xét không cho bỏ bớt một giới vi tế nào, nếu chúng ta bỏ bớt thì các Tỳ-kheo không biết giới nào là vi tế sẽ nói rằng: “Giới vi tế không phải chỉ là Đột-kiết-la, bốn Ba-la-đề-đề-xá-ni, chín mươi Ba-dật-đề, ba mươi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, hai pháp Bất định mà cả mười ba Tăng-già-bà-thi-sa cũng được xem là giới vi tế”. Vì vậy chúng ta nhất tâm xem xét không cho bỏ bớt một giới vi tế nào, nếu chúng ta bỏ bớt thì sẽ có Tỳ-kheo nói rằng: “Tôi chỉ thọ trì bốn giới thôi còn những giới khác thì bỏ bớt”. Vì vậy chúng ta nhất tâm xem xét không cho bỏ bớt một giới vi tế nào, chúng ta phải thọ trì tất cả giới Phật đã kết. Những giới Phật đã kết, tất cả đều phải thọ trì, Phật không kết giới thì thôi, nếu Phật đã kết rồi thì không được bỏ, nên như Phật đã kết giới mà thọ trì, mới khiến cho các Tỳ-kheo thiện pháp được tăng trưởng không diệt. Vì vậy chúng ta phải thọ trì hết, không bỏ bớt một giới nào”. Bảy Trăm Tỳ-Kheo Kết Tập Diệt Ác Pháp: Từ khi Phật nhập niết bàn cho đến một trăm mười năm sau, ở nước Tỳ-da-ly phát sanh mười việc phi pháp, phi thiện, xa lìa Phật pháp, không liên quan tới kinh, luật và luận, cũng phá pháp tướng. Các Tỳ- kheo Tỳ-da-ly hành theo mười việc này, cho là pháp, là thanh tịnh rồi thọ trì như vậy. Mười việc phi pháp đó là diêm tịnh, chỉ tịnh, cận tụ lạc tịnh, sanh hòa hợp tịnh, như thị tịnh, chứng tri tịnh, bần trú xứ tịnh, hành pháp tịnh, lũ biên bất ích Ni-sư-đàn tịnh và mười là kim ngân bảo vật tịnh. Lúc đó các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly mang bát bằng vàng lớn của nước Kiều-tát-la, ra khỏi nước Kiều-tát-la vào nước Tỳ-da-ly theo thứ lớp từng nhà xin tiền, được bao nhiêu đều bỏ vào trong bát. Có người bỏ vào trong bát một vạn tiền, có người bỏ ngàn tiền hoặc trăm tiền, năm mươi tiền cho đến một tiền. Lúc đó có trưởng lão Da-xá đà con của Ca-lan đề ở nước Tỳ-da- ly đã được ba minh, thọ trì ba tạng pháp kinh luật và luận, là đệ tử của trưởng lão A-nan. Trưởng lão Da-xá-đà nghe biết được tin này, biết mười việc này là phi pháp nên sai sứ đến nói với các bạch y ở Tỳ-da-ly rằng: “Sa-môn Thích tử không được xin vàng bạc và cất giữ vật báu. Phật đã dùng các nhân duyên thuyết pháp cho chủ tụ lạc Ma-ni-châu-la rằng: Từ nay các Tỳ-kheo cần củi thì xin củi, cần cỏ thì xin cỏ, cần xe thì cho mượn xe, cần người làm thì mượn người làm; nhưng không được xin vàng bạc và cất giữ vật báu”. Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly nghe tin trưởng lão Da-xá-đà sai sứ đến nói với các bạch y như thế, liền tập họp lại chia số vàng bạc vật đã xin được. Trong số các Tỳ-kheo này, có người tự lấy phần mình mang đi, có người sai Sa-di, bạch y mang đi, có người để trên giường mang đi, có người bỏ trong giày ủng mang đi, có người bỏ trong đãy y mang đi, có người sai sứ mang đến một phần đưa cho trưởng lão Da-xá-đà. Trưởng lão trả lại vật bất tịnh này cho họ và nói rằng: “Sa- môn Thích tử không được xin vàng bạc và cất giữ vật báu. Phật đã dùng các nhân duyên thuyết pháp rằng: Từ nay các Tỳ-kheo cần củi thì xin củi, cần cỏ thì xin cỏ, cần xe thì cho mượn xe, cần người làm thì mượn người làm; nhưng không được xin vàng bạc và cất giữ vật báu”, các Tỳ- kheo Tỳ-da-ly suy nghó: “Da-xá-đà ở trước bạch y nếu tội của chúng ta, chúng ta nên tác pháp yết ma Hạ ý cho Da-xá-đà, bắt buộc Da-xá- đà đến các bạch y sám tạ”, nghó rồi liền tập họp Tăng làm yết ma Hạ ý cho Da-xá-đà. Da-xá-đà nghe biết được tin này liền suy nghó: “Khi ta đến các bạch y sám tạ, ta sẽ tùy thuận thuyết pháp khiến cho các bạch y tin rằng: Sa-môn Thích tử không được xin vàng bạc và cất giữ vật báu. Phật đã dùng các nhân duyên thuyết pháp cho chủ tụ lạc Ma ni châu la rằng: Từ nay các Tỳ-kheo cần củi thì xin củi, cần cỏ thì xin cỏ, cần xe thì cho mượn xe, cần người làm thì mượn người làm; nhưng không được xin vàng bạc và cất giữ vật báu”. Sáng hôm sau, Da-xá-đà đắp y mang bát vào thành Tỳ-da-ly khất thực, khất thực xong đến các bạch y sám tạ và tùy duyên thuyết pháp khiến cho các bạch y tin như thế. Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly nghe được tin này liền suy nghó: “Chúng ta không để cho Da-xá-đà ở trong nước này nữa, nên tác pháp yết ma tẫn xuất, không cho Da-xá-đà ở nước Tỳ-da-ly nữa”, nghó rồi liền tập họp Tăng tác pháp yết ma tẫn xuất cho Da-xá-đà. Da-xá-đà nghe được tin này liền trở về phòng thu dọn, giao trả ngọa cụ rồi mang y bát rời khỏi nước Tỳ-da-ly. Đi chưa được bao xa liền suy nghó: “Ta được thoát khỏi các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly, các Tỳ-kheo này xin vàng bạc và cất giữ vật báu nhiếu dục, nhiều mong cầu và tạo nhiều pháp ác”, nghó rồi Da-xá-đà đến nước Kiều-tát-la hạ an cư. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-giàø trụ dưới tàng cây Ô-đầu-bà-la, rừng A-ba-đại-la tinh xá Tăng-già-già của nước Ma-thâu-la. Vị này đã chứng ba minh, thọ trì ba tạng pháp, có danh xưng là đại A-la-hán, là đệ tử của trưởng lão A-nan. Trưởng lão Da-xá-đà nghe danh của trưởng lão này liền sai sứ đến bạch với trưởng lão Tam-bồ-giàø rằng: “Trưởng lão biết không, ở nước Tỳ-da-ly phát sanh mười việc phi pháp, phi thiện, xa lìa Phật pháp, không liên quan tới kinh, luật và luận, cũng phá pháp tướng. Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly hành theo mười việc này, cho là pháp, là thanh tịnh rồi thọ trì như vậy. Mười việc phi pháp đó là diêm tịnh, chỉ tịnh, cận tụ lạc tịnh, sanh hòa hợp tịnh, như thị tịnh, chứng tri tịnh, bần trú xứ tịnh, hành pháp tịnh, lũ biên bất ích Ni-sư-đàn tịnh và mười là kim ngân bảo vật tịnh. Lúc đó các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly mang bát bằng vàng lớn của nước Kiều-tát-la, ra khỏi nước Kiều-tát-la vào nước Tỳ- da-ly theo thứ lớp từng nhà xin tiền, được bao nhiêu đều bỏ vào trong bát. Có người bỏ vào trong bát một vạn tiền, có người bỏ ngàn tiền hoặc trăm tiền, năm mươi tiền cho đến một tiền. Các trưởng lão Tỳ-kheo nên tập họp lại để diệt ác pháp này, nếu không diệt thì ác pháp sẽ ngày càng lan rộng”. Trưởng lão Tam-bồ-già nghe rồi liền sai sứ đến các nước như nước Đạt-thẩn-na, nước A-bàn-đề… thông báo cho họ biết được việc phi pháp trên và nói các trưởng lão Tỳ-kheo nên tập họp lại để diệt ác pháp này, nếu không diệt thì ác pháp sẽ ngày càng lan rộng. Các trưởng lão Tỳ-kheo ở các nước này sau khi được tin này đều cùng tập họp lại đi đến nước Tỳ-da-ly. Lúc đó trưởng lão Lê-bà-đa ở nước Tát hàn nhã là người đã chứng ba minh, thọ trì ba tạng pháp, có danh xưng là đại A-la-hán, thích hành bốn tâm vô lượng là đệ tử của trưởng lão A-nan. Trưởng lão Tam-bồ-già nghe biết danh của vị trưởng lão này liền suy nghó: “Chúng ta nên mời trưởng lão nào chủ trì cuộc kết tập này, chúng ta nên mời trưởng lão này chủ trì và thống lãnh các Tỳ- kheo, trưởng lão này sẽ nói thật pháp cho các Tỳ-kheo”, nghó rồi liền tập họp Tăng nói rõ ý nghó của mình. Sau khi đến các bạch y xin cúng dường tứ sự, trưởng lão lên thuyền đến nước Tát hàn nhã yết kiến trưởng lão Lê-bà-đa. Trưởng lão Lê-bà-đa từ xa thấy trưởng lão Tam-bồ-già đến liền ra nghinh đón và thăm hỏi đi đường có nhọc mệt không, cầm giúp y bát rồi chỉ phòng xá ngọa cụ và các vật cần dùng cho trưởng lão Tam-bồ-già. Đêm đó hai trưởng lão cùng nghỉ chung một phòng, cuối đêm ngồi thiền cho đến sáng. Đến sáng trưởng lão Lê-bà-đa nói với trưởng lão Tam-bồ-già: “Tôi đã theo pháp cúng dường khách xong, giờ thầy nên theo pháp của người xuất gia”, trưởng lão Tam-bồ-giànghe rồi liền đắp y mang bát vào thành Tất-hàn-nhã khất thực, khất thực xong trở về đảnh lễ trưởng lão Lê-bà-đa. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già suy nghó: “Trưởng lão Lê-bà-đa là đại pháp sư nếu hỏi ta về A-tỳ-đàm thì ta không đáp nhanh được, chi bằng ta đem mười phi pháp của các Tỳ- kheo Tỳ-da-ly ra hỏi trước”, nghó rồi liền chắp tay hỏi trưởng lão Lê-bà- đa: “Xin hỏi trưởng lão Diêm tịnh có nên thọ trì hay không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Diêm tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly dùng muối cất cách đêm để bỏ vào thức ăn cho là tịnh và thọ trì. Nay xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, Lê-bà-đa đáp là bất tịnh, không nên ăn; lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la; lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Xá-bà- đề nói việc này trong pháp Dược của-tỳ-ni”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Nhị chỉ tịnh có nên thọ không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Nhị chỉ tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly ăn xong rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, không thọ pháp tàn thực, bóng mặt trời qua hai ngón tay được ăn và nói là tịnh. Xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, Lê-bà-đa đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ-kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Cận tụ lạc có thật là tịnh không?”, Lê-bà- đa hỏi: “Thế nào là Cận tụ lạc tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly được thức ăn gần tụ lạc, không thọ pháp tàn thực được ăn và nói là tịnh. Xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ-kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Danh hòa hợp tịnh có nên thọ không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Danh hòa hợp tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly ăn xong rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, không thọ pháp tàn thực lại đem sữa lạc và tô hòa hợp rồi ăn và nói là tịnh. Xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ-kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Như thị tịnh có thật là tịnh không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Như thị tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly ở trong nội giới cùng trú xứ riêng làm yết ma rồi vào trong Tăng nói rằng: “Trú xứ kia làm yết ma như thế, việc này là tịnh”. Xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới này?”, đáp: “Phật kết giới này trong hành pháp Tỳ-ni ở nước Chiêm-ba”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Chứng tri tịnh có thật là tịnh không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Chứng tri tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly ở mỗi trú xứ làm yết ma phi pháp rồi vào trong Tăng bạch rằng: “Chúng tôi ở mỗi trú xứ đã làm yết ma, xin Tăng chứng tri, việc này là tịnh”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới này?”, đáp: “Phật kết giới này trong hành pháp Tỳ-ni ở nước Chiêm-ba”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Bần trú xứ tịnh có thật là tịnh không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Bần trú xứ tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly nói rằng: “Trú xứ của chúng tôi nghèo nên làm rượu uống, nói việc này là tịnh, xin hỏi có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu uống thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được uống?”, đáp: “Phật vì trưởng lão A-la-hán Bà-già-đà kết giới không uống rượu tại thành Bạt-đà La-Bà-đề thuộc nước Chi-bà-đề”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Hành pháp tịnh có thật là tịnh không?”, đáp: “Có Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh; có Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh”, lại hỏi: “Thế nào là Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh?”, đáp: “Như không sát sanh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh; không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ… đều là Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh”, lại hỏi: “Thế nào là Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh?”, đáp: “Như tội sát sanh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh; tội trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ… đều là Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Bất ích lũ biên Ni-sư-đàn có thật là tịnh không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Bất ích lũ biên Ni-sư-đàn tịnh?”, Đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly làm Ni-sư-đàn không nới rộng thêm viền và nói việc này là tịnh”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được làm?”, đáp: “Phật vì trưởng lão Ca-lưu-đà-di kết giới cho làm Ni-sư-đàn nới rộng thêm viền một gang tay tại nước Xá-bà-đề”. Lại hỏi: “Xin hỏi trưởng lão Kim ngân bảo vật tịnh có thật là tịnh không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Kim ngân bảo vật tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly thọ vàng bạc vật báu và nói việc này là tịnh, xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu thọ thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được thọ?”, đáp: “Phật vì Tỳ-kheo Bạt-nan-đà kết giới không được lấy vàng bạc bảo vật tại nước Tỳ-da-ly”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già khen: “Lành thay trưởng lão Lê-bà-đa khéo nói mười việc”, lại hỏi: “Nên xử lý các Tỳ-kheo này như thế nào?”, đáp: “Nên cùng nổ lực phương tiện diệt trừ pháp bất thiện này”. Lúc đó có trưởng lão Sa-la ở nước Tỳ-da-ly đã chứng ba minh, thọ trì ba tạng pháp, có danh xưng là đại A-la-hán, là đệ tử của trưởng lão A-nan suy nghó: “Học trí của ta đều thọ từ Hòa thượng, ta nên phân biệt quán sát Tỳ-kheo khách và Tỳ-kheo Tỳ-da-ly”, nghó rồi liền đắp y mang bát vào thành khất thực, khất thực xong đi vào rừng Sa-la, trải Ni-sư-đàn ngồi dưới một gốc cây quán chiếu pháp để biết ai là như pháp, là Tỳ-kheo Tỳ-da-ly hay là Tỳ-kheo khách. Quán chiếu rồi mới biết là Tỳ-kheo Tỳ-da-ly là phi pháp, Tỳ-kheo khách là như pháp. Lúc đó thần cây trong rừng chắp tay hỏi trưởng lão Sa-la: “Đúng như vậy, Tỳ-kheo Tỳ-da-ly là phi pháp, Tỳ-kheo khách là như pháp, trưởng lão nay muốn làm gì?”, đáp: “Tôi sẽ nổ lực làm phương tiện diệt trừ pháp bất thiện này”. Lúc đó các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly nghe tin các khách Tỳ-kheo ở nước A-bàn-đề, Đạt-thẩn-na, Bà-đa đang nổ lực làm phương tiện diệt trừ việc này liền suy nghó: “Chúng ta nên thỉnh Thượng tòa nào làm Thượng tòa, trong số các Tỳ-kheo sắp đến có Thượng tòa Lê-bà-đa, chúng ta nên thỉnh làm Thượng tòa”, nghó rồi liền đắp y mang bát đến nước Tát-hàn- nhã, đến nới liền thấy trưởng lão này đang cùng các khách Tỳ-kheo ở nước A-bàn-đề, Đạt-thẩn-na, Bà-đa hành sự mới biết Trưởng lão này đồng với nhóm bên kia. Họ liền nghó: “Chúng ta nên đến chỗ các đệ tử của Thượng tòa Lê-bà-đa, dùng lời nhu hòa nhờ họ nói giúp, Thượng tòa này ắt sẽ nghe lời các đệ tử”, nghó rồi liền mang y bát, chìa khóa, giày dép, ba loại dược đến chỗ các đệ tử của Thượng tòa Lê-bà-đa nói rằng: “Xin nhờ các thầy nói giúp với Thượng tòa là Tỳ-kheo Tỳ-da-ly là có pháp ngữ, các khách Tỳ-kheo ở nước A-bàn-đề, Đạt-thẩn-na, Bà-đa là không phải pháp ngữ. Tất cả chư Phật đều xuất hiện ở phương Đông, Thượng tòa trưởng lão chớ cùng các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly đấu tranh”, các đệ tử của Thượng tòa Lê-bà-đa nhận lời nói giúp, nói rồi liền đi đến chỗ Thượng tòa Lê-bà-đa bạch rằng: “Tỳ-kheo Tỳ-da-ly là có pháp ngữ, các khách Tỳ-kheo ở nước A-bàn-đề, Đạt-thẩn-na, Bà-đa là không phải pháp ngữ. Tất cả chư Phật đều xuất hiện ở phương Đông, Thượng tòa trưởng lão chớ cùng các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly đấu tranh”, trưởng lão Lê- bà-đa nói: “Các thầy là người ngu si, ta tự biết các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly là phi pháp, phi thiện; các khách Tỳ-kheo ở nước A-bàn-đề, Đạt-thẩn-na, Bà-đa là pháp, là thiện. Tại sao các thầy lại bảo ta làm điều phi pháp, phi thiện, không phải lời Phật dạy. Các thầy hãy đi đi, cho đến chết ta cũng không muốn gặp các thầy nữa”. Lúc đó trưởng lão Lê-bà-đa nói với trưởng lão Tam-bồ-già: “Việc này tuy có thể diệt trừ ở đây được, nhưng người không có trí huệ sẽ nói là việc này không thể diệt trừ ở đây được. Vì vậy việc phát sanh từ đâu thì nên đến chỗ đó trừ diệt”. Lúc đó Trưởng lão Lê-bà-đa, trưởng lão Tam-bồ-già cùng các khách Tỳ-kheo ở nước A-bàn-đề, Đạt-thẩn-na, Bà-đa mang y bát đi đến nước Tỳ-da-ly, tuần tự tới thành Tỳ-da-ly ; các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly cũng mang y bát tuần tự đi đến thành Tỳ-da-ly. Lúc đó có trưởng lão Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la trụ tại nước Tỳ- da-ly, đã chứng ba minh, thọ trì ba tạng pháp, có danh xưng là đại A-la- hán, thích hành Không tam muội là đệ tử của trưởng lão A-nan. Trưởng lão Lê-bà-đa đến gặp trưởng lão này, trưởng lão này thấy trưởng lão Lê-bà-đa đến liền vui vẻ chào hỏi thiện lai rồi mời ngồi. Các Thượng tòa có pháp như vầy: Nếu có khách Tỳ-kheo đến thì cùng ngủ chung một phòng, vì vậy Thượng tòa này liền bảo người cấp sự trải giường và ngọa cụ cho khách Tỳ-kheo. Cấp sự suy nghó: “Thượng tòa bảo ta trải giường và ngọa cụ cho khách, ắt là cùng khách Tỳ-kheo ngủ chung một phòng”, nghó rồi liền vào phòng của Thượng tòa trải giường và ngọa cụ cho khách, trải xong trở ra bạch Thượng tòa biết thời. Thượng tòa này liền đứng dậy vào phòng, trải Ni-sư-đàn ngồi kiết già; trưởng lão Lê-bà- đa cũng theo vào phòng đảnh lễ Thượng tòa rồi trải Ni-sư-đàn ngồi kiết già. Thượng tòa chủ suy nghó: “Thượng tòa khách mới đến, đi đường mệt nhọc, nếu khách chưa nằm ngủ thì ta không nên nằm ngủ trước; Tỳ-kheo khách nằm ngủ rồi ta mới nằm ngủ”, lúc đó trưởng lão Lê-bà- đa cũng suy nghó: “Thượng tòa bậc nhất trong Tăng này chưa nằm ngủ thì ta không nên nằm ngủ trước; Thượng tòa nằm ngủ rồi ta mới nằm ngủ”. Đêm đó cả hai Thượng tòa đều cùng ngồi thiền, đến cuối đêm Thượng tòa chủ hỏi Tỳ-kheo khách: “Vì sao thầy không ngủ?”, đáp: “Tôi suy nghó Thượng tòa bậc nhất trong Tăng này chưa nằm ngủ thì ta không nên nằm ngủ trước; Thượng tòa nằm ngủ rồi ta mới nằm ngủ”, Thượng tòa lại hỏi: “Đêm nay thầy nhập tam muội gì?”, đáp: “Tôi hành nhiều về Từ tam muội”, Thượng tòa nói: “Đây là hành tam muội nhỏ”, đáp: “Quả thật đây là hành tam muội nhỏ. Tôi là A-la-hán các lậu đã hết, trong đêm thích nhớ nghó nên tôi thường nhập tam muội này. Còn Thượng tòa vì sao không ngủ?”, đáp: “Tôi cũng nghó Thượng tòa khách mới đến, đi đường mệt nhọc, nếu khách chưa nằm ngủ thì ta không nên nằm ngủ trước; Tỳ-kheo khách nằm ngủ rồi ta mới nằm ngủ”, khách lại hỏi: “Đêm nay Thượng tòa nhập tam muội gì?”, đáp: “Tôi hành nhiều về Không tam muội”, khách nói: “Đây là hành tam muội bậc thượng”, đáp: “Quả thật đây là hành tam muội bậc thượng. Tôi là A-la-hán các lậu đã đứt trừ, trong đêm thích nhớ nghó nên tôi thường nhập tam muội này”. Cả hai Thượng tòa đều đắc quả A-la-hán phát xuất từ pháp đã hành. Sáng hôm sau trưởng lão Tam-bồ-giàđến gặp Thượng tòa Tát- bà-già-la-ba-lê-bà-la cung kính đảnh lễ rồi ngồi một bên, Thượng tòa hỏi trưởng lão Tam-bồ-già: “Trưởng lão muốn diệt trừ việc này như thế nào?”, đáp: “Trưởng lão là Thượng tòa bậc nhất trong Tăng nên biết diệt trừ việc này như thế nào”, Thượng tòa nói: “Hôm nay sau giờ thọ thực, trưởng lão nên tập họp Tăng”. Trưởng lão Tam-bồ-già vâng lời Thượng tòa sau giờ thọ thực liền tập họp Tăng, chỉ thiếu một vị nữa là đủ số bảy trăm Tỳ-kheo tăng để diệt trừ việc phi pháp, phi thiện, không phải lời Phật dạy. Lúc đó có trưởng lão Cấp-xà-tô-di-la trụ ở nước Bà- la-lê-phất, đã chứng ba minh, thọ trì ba tạng pháp, có danh xưng là đại A-la-hán, thích dùng thiên nhãn là đệ tử của trưởng lão A-nan. Tỳ-kheo dùng thiên nhãn thấy ở Tỳ-da-ly Tỳ-kheo tăng chỉ thiếu một vị nữa là đủ số bảy trăm để diệt trừ việc phi pháp, phi thiện, không phải lời Phật dạy. Trưởng lão liền nhập tam muội, như lực só co duỗi cánh tay liền ẩn mất khỏi nước Ba la lê phất và hiện ra trước cửa của trú xứ tăng tại nước Tỳ-da-ly, xuất tam muội rồi liền nói kệ khiến mở cửa: “Nước Bà- la-lê-phất Trong các cựu Tỳ-kheo, Người trì luật, đa văn, Đã đoạn hết nghi hoặc, Từ nước kia đến đây, Đang đứng trước cửa này. Nước Bà-la-lê-phất, Trong các cựu Tỳ-kheo, Người trì luật, đa văn, Chế ngự sáu tình căn, Từ nước kia đến đây, Đang đứng trước cửa này. Nước Bà-la-lê-phất, Trong các cựu Tỳ-kheo, Người trì luật, đa văn, Cấp-xà tô-di-la, Từ nước kia đến đây, Đang đứng trước cửa này”.  LUẬT THẬP TỤNG <卷>QUYỂN 61 THIỆN TỤNG TỲ NI PHẨM PHÁP (Tiếp Theo) 2.Bảy Trăm Tỳ-Kheo Kết Tập Diệt Pháp Ác (Tiếp Theo): Trưởng lão Cấp-xà-tô-di-la đến liền đủ số bảy trăm Tỳ-kheo tăng, trưởng lão vào trong Tăng rồi, trưởng lão Tam-bồ-già suy nghó: “Nếu chúng ta ở trong Tăng diệt pháp ác này, có Tỳ-kheo bất trí sẽ nói rằng: “Việc này không nên diệt như vậy”. Ta nên ở trong Tăng làm yết ma để tất cả Tăng chấp thuận việc diệt pháp ác này”, nghó rồi liền ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nếu chúng ta ở trong Tăng diệt pháp ác này, có Tỳ-kheo bất trí sẽ nói rằng: “Việc này không nên diệt như vậy”. Ta nên ở trong Tăng làm yết ma để tất cả Tăng chấp thuận việc diệt pháp ác này. Bạch như vậy. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng tên bốn Tỳ- kheo khách và bốn cựu Tỳ-kheo. Bốn khách Tỳ-kheo ở nước A-bàn- đề, Đạt-thẩn-na, Bà-đa là Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la, Sa-la, Da-thâu-đà và Cấp-xà-tô-di-la; bốn cựu Tỳ-kheo ở phương Đông là Thượng tòa Lê-bà-đa, Tam-bồ-già, Tu-ma-na và tát ba-ma-già-la-ma. Kế ở trong Tăng tác bạch: Đại đức tăng lắng nghe, tôi ở trong Tăng xướng tên bốn khách Tỳ-kheo ở nước A-bàn-đề, Đạt-thẩn-na, Bà-đa và bốn cựu Tỳ-kheo ở phương Đông. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay cử tám vị này làm Ô-hồi-cưu-la để diệt trừ pháp ác này. Bạch như vậy. Lúc đó trưởng lão A-kỳ-đa thọ giới đã năm năm, khéo trì tụng tạng Tỳ-ni đang có mặt trong Tăng, trưởng lão Tam-bồ-già suy nghó: “Nếu ta cử Tỳ-kheo này nương theo các Thượng tòa làm Ô-hồi-cưu-la để diệt trừ pháp ác này thì các Thượng tòa có thể sẽ không vui. Ta nên sai Tỳ-kheo này làm người trải tọa cụ cho các Thượng tòa, nương theo các Thượng tòa Ô-hồi-cưu-la ở trong rừng Sa-la”, nghó rồi liền ở trong Tăng tác pháp yết ma sai: Đại đức tăng lắng nghe, Tỳ-kheo A-kỳ-đạt thọ giới năm năm, khéo trì tụng tạng Tỳ-ni, học thông A-hàm. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay sai Tỳ-kheo này làm người trải tọa cụ cho các Thượng tòa, nương theo các Thượng tòa Ô-hồi-cưu-la ở trong rừng Sa-la. Bạch như vậy. Như thế bạch nhị yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận sai Tỳ- kheo A-kỳ-đạt làm người trải tọa cụ cho các Thượng tòa, nương theo các Thượng tòa Ô-hồi-cưu-la ở trong rừng Sa-la xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Tỳ-kheo được sai này từ chỗ ngồi đứng dậy đến trong rừng cây trải tọa cụ cho các Thượng tòa xong liền trở lại bạch các Thượng tòa tự biết thời. Các Thượng tòa từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ đã trải tọa trong rừng cây, trải Ni-sư-đàn ngồi kiết già. Trưởng lão Tam-bồ-già từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch với Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Diêm tịnh có nên thọ trì hay không?”, Thượng tòa hỏi: “Thế nào là Diêm tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly dùng muối cất cách đêm để bỏ vào thức ăn cho là tịnh và thọ trì. Nay xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, Thượng tòa đáp là bất tịnh, không nên ăn. Lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la; lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Xá-bà-đề nói việc này trong pháp Dược của tỳ-ni”. Trưởng lão Tam-bồ-già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà- la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu-đà, Cấp-xà-tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà-khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ-già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-giàở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ nhất trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ nhất. Trưởng lão Tam-bồ-già lại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba- lê-bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Nhị chỉ tịnh có nên thọ không?”, Thượng tòa hỏi: “Thế nào là Nhị chỉ tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly ăn xong rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, không thọ pháp tàn thực, bóng mặt trời qua hai ngón tay được ăn và nói là tịnh. Xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, Thượng tòa đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ-kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Trưởng lão Tam-bồ-già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu- đà, Cấp-xà-tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà-khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ-già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ hai trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ hai. Trưởng lão Tam-bồ-già lại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê- bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Cận tụ lạc có thật là tịnh không?”, Thượng tòa hỏi: “Thế nào là Cận tụ lạc tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly được thức ăn gần tụ lạc, không thọ pháp tàn thực được ăn và nói là tịnh. Xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ- kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Trưởng lão Tam-bồ-già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu-đà, Cấp-xà-tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà- khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ- già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ ba trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ ba. Trưởng lão Tam-bồ-già lại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà- la: “Xin hỏi Thượng tòa Sanh hòa hợp tịnh có nên thọ không?”, Thượng tòa hỏi: “Thế nào là Sanh hòa hợp tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly ăn xong rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, không thọ pháp tàn thực lại đem sữa lạc và tô hòa hợp rồi ăn và nói là tịnh. Xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ-kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Trưởng lão Tam-bồ-giàhỏi Thượng tòa Tát-bà-già- la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu-đà, Cấp-xà- tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà-khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ-già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ tư trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ tư. Trưởng lão Tam-bồ-giàlại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê- bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Như thị tịnh có thật là tịnh không?”, Thượng tòa hỏi: “Thế nào là Như thị tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly ở trong nội giới cùng trú xứ riêng làm yết ma rồi vào trong Tăng nói rằng: “Trú xứ kia làm yết ma, việc này là tịnh”. Xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới này?”, đáp: “Phật kết giới này trong hành pháp Tỳ-ni ở nước Chiêm-ba”. Trưởng lão Tam-bồ- già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu-đà, Cấp-xà-tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na- bà-khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam- bồ-già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ năm trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ năm. Trưởng lão Tam-bồ-già lại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba- lê-bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Chứng tri tịnh có thật là tịnh không?”, Thượng tòa hỏi: “Thế nào là Chứng tri tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ- da-ly ở mỗi trú xứ làm yết ma phi pháp rồi vào trong Tăng bạch rằng: “Chúng tôi ở mỗi trú xứ đã làm yết ma, xin Tăng chứng tri, việc này là tịnh”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới này?”, đáp: “Phật kết giới này trong hành pháp Tỳ-ni ở nước Chiêm-ba”. Trưởng lão Tam-bồ-già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu-đà, Cấp-xà-tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà- khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ- già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-giàở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ sáu trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ sáu. Trưởng lão Tam-bồ-giàlại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê- bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Bần trú xứ có thật là tịnh không?”, Thượng tòa hỏi: “Thế nào là Bần trú xứ tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly nói rằng: “Trú xứ của chúng tôi nghèo nên làm rượu uống, nói việc này là tịnh, xin hỏi có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu uống thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được uống?”, đáp: “Phật vì trưởng lão A-la-hán Bà-già-đà kết giới không uống rượu tại thành Bạt-đà La-Bà-đề thuộc nước Chi-bà-đề”. Trưởng lão Tam-bồ-già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già- la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu-đà, Cấp-xà- tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà-khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ-già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ bảy trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ bảy. Trưởng lão Tam-bồ-già lại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê- bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Hành pháp tịnh có thật là tịnh không?”, đáp: “Có Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh; có Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh”, lại hỏi: “Thế nào là Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh?”, đáp: “Như không sát sanh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh; không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ… đều là Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh”, lại hỏi: “Thế nào là Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh?”, đáp: “Như tội sát sanh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh; tội trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ… đều là Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh”. Trưởng lão Tam-bồ-già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu- đà, Cấp-xà-tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà-khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ-già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ tám trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ tám. Trưởng lão Tam-bồ-già lại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba- lê-bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Bất-ích-lũ-biên Ni-sư-đàn có thật là tịnh không?”, Thượng tòa hỏi: “Thế nào là Bất ích lũ biên Ni-sư-đàn tịnh?”, “Đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly làm Ni-sư-đàn không nới rộng thêm viền và nói việc này là tịnh”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được làm?”, đáp: “Phật vì trưởng lão Ca-lưu-đà-di kết giới cho làm Ni-sư-đàn nới rông thêm viền một gang tay tại nước Xá-bà- đề”. Trưởng lão Tam-bồ-già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu-đà, Cấp-xà-tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà-khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ-già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ chín trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ chín. Trưởng lão Tam-bồ-giàlại hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba- lê-bà-la: “Xin hỏi Thượng tòa Kim ngân bảo vật tịnh có thật là tịnh không?”, Lê-bà-đa hỏi: “Thế nào là Kim ngân bảo vật tịnh?”, đáp: “Các Tỳ-kheo Tỳ-da-ly thọ vàng bạc vật báu và nói việc này là tịnh, xin hỏi việc này có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu thọ thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được thọ?”, đáp: “Phật vì Tỳ-kheo Bạt-nan-đà kết giới không được lấy vàng bạc bảo vật tại nước Tỳ-da-ly”. Trưởng lão Tam-bồ-già hỏi Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la xong, kế hỏi đến Thượng tòa Sa-la, Da-thâu-đà, Cấp-xà-tô-di-la cho đến Thượng tòa Tu-ma-na-bà-khí-già-di, cuối cùng hỏi đến Tỳ-kheo A-kỳ-đa: “Thầy cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp phải không?, đáp: “Con cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”, kế hỏi lại trưởng lão Tam-bồ-già: “Trưởng lão cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa nói phải không?”, đáp: “Tôi cũng biết như vậy, đúng như lời Thượng tòa đáp”. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già ở trong Tăng xướng: Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng đã diệt trừ xong việc thứ mười trong mười việc phi pháp, như pháp như thiện như lời Phật dạy, hiện tiền trong Tăng diệt trừ việc ác này. Trong đây không có vị nào phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi thiện nói là thiện, thiện nói là phi thiện, không phải lời Phật dạy. Việc này là bất tịnh. Nói xong liền bỏ một thẻ quyết định là đã diệt trừ xong việc ác thứ mười. Lúc đó Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la nói với trưởng lão Tam-bồ-già: “Việc ác này nay đạ diệt trừ xong, như pháp, như thiện, như lời Phật dạy; hiện tiền đã bỏ mười thẻ, hỏi đáp rõ ràng. Nếu có Tỳ- kheo bất trí nói rằng: “Nay diệt trừ mười việc ác này là như pháp hay là không như pháp thì không thể biết được. Vì vậy trưởng lão khi đến trong đại hội Tăng, ở trong đại hội Tăng cùng nhau hỏi mười việc này phải như tôi đã trả lời, không được đáp một việc nào khác”, dạy như vậy rồi các Thượng tòa từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến trong đại hội Tăng ngồi vào chỗ cũ. Lúc đó trưởng lão Tam-bồ-già từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Thượng tòa Tát-bà-già-la-ba-lê-bà-la: Xin hỏi Thượng tòa, Diêm tịnh có nên thọ trì hay không?”, đáp là bất tịnh, không nên ăn. Lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la; lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Xá-bà-đề nói việc này trong pháp Dược của tỳ-ni”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa, Nhị chỉ tịnh có nên thọ không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ-kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa, Cận tụ lạc có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ-kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa, Sanh hòa hợp tịnh có nên thọ không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu ăn thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được ăn?”, đáp: “Phật ở nước Tỳ-da-ly, vì các Tỳ-kheo không thọ pháp tàn thực nên kết giới”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa, Như thị tịnh có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới này?”, đáp: “Phật kết giới này trong hành pháp Tỳ-ni ở nước Chiêm-ba”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa, Chứng tri tịnh có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Đột-kiết-la, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới này?”, đáp: “Phật kết giới này trong hành pháp Tỳ-ni ở nước Chiêm-ba”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa Bần trú xứ có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu uống thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được uống?”, đáp: “Phật vì trưởng lão A-la-hán Bà-già-đà kết giới không uống rượu tại thành Bạt-đà La-Bà-đề thuộc nước Chi-bà-đề”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa, Hành pháp tịnh có thật là tịnh không?”, đáp: “Có Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh; có Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh”, lại hỏi: “Thế nào là Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh?”, đáp: “Như không sát sanh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh; không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ … đều là Hành pháp tịnh, hành cũng tịnh, không hành cũng tịnh”, lại hỏi: “Thế nào là Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh?”, đáp: “Như tội sát sanh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh; tội trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ… đều là Hành pháp bất tịnh, hành cũng bất tịnh, không hành cũng bất tịnh”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa, Bất ích lũ biên Ni-sư-đàn có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu làm thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được làm?”, đáp: “Phật vì trưởng lão Ca-lưu-đà-di kết giới cho làm Ni-sư- đàn nới rông thêm viền một gang tay tại nước Xá-bà-đề”. Lại hỏi: “Xin hỏi Thượng tòa, Kim ngân bảo vật tịnh có thật là tịnh không?”, đáp là bất tịnh, lại hỏi: “Nếu thọ thì phạm tội gì?”, đáp là phạm Ba-dật-đề, lại hỏi: “Phật ở đâu kết giới nói việc này không được thọ?”, đáp: “Phật vì Tỳ-kheo Bạt-nan-đà kết giới không được lấy vàng bạc bảo vật tại nước Tỳ-da-ly”. Trưởng lão Tam-bồ-giàở trong Tăng như pháp diệt trừ mười việc có tội của tỳ-kheo Tỳ-da-ly, như pháp diệt trừ xong liền nói kệ: “Nếu người không biết tội, không trừ, Lại tức giận người khác trừ tội. Đó là người ngu si, vô trí. Hằng ngày đánh mất công đức lợi, Như mặt trăng sau ngày mười sáu, Ánh sáng dần dần tiêu diệt hết. Nếu có người biết tội được trừ, Lại vui vẻ với người trừ tội. Đó gọi là người có trí huệ. Hằng ngày được nhiều công đức lợi. Như mặt trăng sau ngày mồng một, Ánh sáng dần dần tỏ rạng lên”. --------------------- PHẨM TẠP TRONG TỲ NI Phật tại thành Xá-bà-đề, có một Tỳ-kheo hiềm trách Tỳ-kheo khác về việc lễ bái cung kính, liền lớn tiếng kêu lên khiến cho các Tỳ-kheo tụ họp lại rồi nói: “Tỳ-kheo này đánh tôi”, các Tỳ-kheo hỏi Tỳ-kheo kia: “Có thật đánh hay không?”, đáp: “Tôi lễ bái cung kính chứ không có đánh, Tỳ-kheo này trước có hiềm khích với tôi nên nói tôi như thế”. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay nếu trước có hiềm khích nhau thì không nên lễ bái, nếu lễ bái thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nếu người chưa thọ giới cụ túc trước có hiềm khích nhau thì có được lễ bái không?”, Phật nói: “Không được, nếu khi Tăng đều tập họp thì lễ bái không phạm”. Lại hỏi: Khi Sa-di đăng đàn thọ giới cụ túc, nam căn chuyển thành nữ căn thì gọi là Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni? Đáp: Gọi là Tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Thức-xoa-ma-na khi đang đàn thọ giới cụ túc, chuyển nữ căn thành nam căn thì gọi là Tỳ-kheo-ni hay là Tỳ-kheo?, đáp là Tỳ- kheo . Lại hỏi: Nếu tất cả Tỳ-kheo khi kết giới, Tăng đều biến thành nữ thì đại giới này gọi là đại giới của tỳ-kheo hay là đại giới của tỳ-kheo- ni?, đáp là giới của tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Nếu tất cả Tỳ-kheo-ni kết đại giới, ni tăng đều biến thành nam thì đại giới này gọi là đại giới của tỳ-kheo-ni hay là của tỳ-kheo?, đáp là giới của tỳ-kheo . Lại hỏi: Nếu khi các Tỳ-kheo tác pháp yết ma kết giới, có người chuyển thành nữ, có người không chuyển thì giới này gọi là giới của tỳ- kheo hay là giới của tỳ-kheo-ni? Đáp: Nếu người nói yết ma là nam thì giới này thuộc về của tỳ- kheo, nếu chuyển thành nữ thì giới này thuộc về Tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Nếu khi các Tỳ-kheo tác pháp yết ma kết giới, chỉ một mình Tỳ-kheo nói yết ma chuyển thành nữ thì giới này là giới của tỳ- kheo hay là giới của tỳ-kheo-ni? Đáp: Là giới của tỳ-kheo-ni. Lại hỏi: Nếu khi các Tỳ-kheo-ni tác pháp yết ma kết giới, chỉ một mình Tỳ-kheo-ni nói yết ma chuyển thành nam thì giới này là giới của tỳ-kheo-ni hay là giới của tỳ-kheo? Đáp: Là giới của tỳ-kheo. Lúc đó các Tỳ-kheo làm các loại yết ma cho Tỳ-kheo-ni, các Tỳ- kheo-ni không thọ liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo không nên làm yết ma cho Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni nên làm yết ma cho Tỳ-kheo-ni, trừ ba loại yết ma là: Yết ma thọ giới cụ túc, yết ma hành Ma-na-đỏa và yết ma Xuất tội”. Lúc đó các Tỳ-kheo-ni làm các loại yết ma cho Tỳ-kheo, các Tỳ- kheo không thọ liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo-ni không nên làm yết ma cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nên làm yết ma cho Tỳ- kheo, trừ ba loại yết ma là: Yết ma không lễ bái, yết ma không cùng nói chuyện và yết ma không cúng dường”. Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó có các Tỳ-kheo-ni đến tinh xá Kỳ- hoàn muốn nghe pháp, ngày đó là ngày thuyết giới, các Tỳ-kheo nói: “Các cô hãy đi ra, chúng tôi sắp làm pháp sự thuyết giới”, các Tỳ- kheo-ni nói: “Chúng tôi muốn nghe giới của tỳ-kheo”, các Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho chúng tôi thuyết giới trước Tỳ-kheo-ni”, liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Cho Tỳ-kheo được thuyết giới trước Tỳ- kheo-ni nhưng không cho Tỳ-kheo-ni nói giới Tỳ-kheo; nếu Tỳ-kheo khi nói giới quên, cho Tỳ-kheo-ni được nhắc”. Lúc đó các Tỳ-kheo đến trong tinh xá Vương viên, ngày đó là ngày thuyết giới, các Tỳ-kheo-ni nói: “Các thầy hãy đi ra, chúng tôi sắp làm pháp sự thuyết giới”, các Tỳ-kheo nói: “Chúng tôi muốn nghe giới của tỳ-kheo-ni”, các Tỳ-kheo- ni nói: “Phật chưa cho chúng tôi thuyết giới trước Tỳ-kheo”, liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Cho Tỳ-kheo-ni được thuyết giới trước Tỳ-kheo nhưng không cho Tỳ-kheo nói giới Tỳ-kheo-ni; nếu Tỳ-kheo- ni khi nói giới quên, cho Tỳ-kheo được nhắc”. Lúc đó vua Ba-tư-nặc thỉnh Phật và trưởng lão A-nan ngày mai vào vương cung thọ thực, A-nan trước đã thọ người khác thỉnh thực nhưng quên nên thọ vua thỉnh thực. Phật im lặng nhận lời, vua biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến trong cung liền ra lịnh ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Phật đắp y mang bát cùng A-nan vào cung thọ thực, lúc đó A-nan có hai nơi thỉnh thực, vì quên nên không nhường cho người khác chỗ thọ thỉnh trước. Khi A-nan vừa bỏ thức ăn vào miệng mới sực nhớ ra mình có hai nơi thọ thỉnh thực; lúc đó A-nan không dám nhổ thức ăn ra vì kính Phật, lại không dám nuốt vì trì giới. Phật biết tâm của A-nan nên bảo: “Hãy tâm niệm cho người khác rồi ăn”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Phật cho A-nan được tâm niệm nhường chỗ thọ thỉnh thực cho người khác rồi ăn, nếu Tỳ-kheo khác tâm niệm nhường cho người khác thì có được ăn không?”, Phật nói: “Không được, trừ năm hạng người: Một là người ngồi thiền, hai là người ở chỗ một mình, ba là người đi xa, bốn là người mắc bịnh lâu ngày, năm là gặp thời thế đói kém đến ở nhờ bà con. Ngoài năm hạng người này ra, những người khác không cho tâm niệm nhường chỗ thỉnh thức cho người khác rồi được ăn ở chỗ này”. Có một Tỳ-kheo gởi thanh tịnh cho một Tỳ-kheo có hiềm khích với mình, Tỳ-kheo này lớn tiếng kêu lên khiến cho các Tỳ-kheo tụ đến rồi nói: “Tỳ-kheo này phạm trọng muốn đến bên tôi sám hối”, các Tỳ- kheo hỏi Tỳ-kheo kia: “Thầy có thật như thế không?”, đáp: “Không có, tôi muốn gởi thanh tịnh, vì Tỳ-kheo này trước đây có hiềm khích với tôi nên mới nói như vậy”. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay, không nên gởi thanh tịnh cho người trước đây có hiềm khích với mình; cũng không nên gởi dục, gởi tự tứ, không nên đến cùng sám hối; nếu đến cùng sám hối thì phạm Đột-kiết-la”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nếu Tỳ-kheo trong một trú xứ này bị Tăng tác pháp tẫn, có được đến trú xứ khác sám hối không?”, Phật nói: “Không được, trừ trú xứ này trống không hoặc các Tỳ-kheo qua đời hoặc hoàn tục, hoặc vào phái ngoại đạo thì được đến trú xứ khác sám hối không phạm”. Ở nước Kiều-tát-la có hai tụ lạc giới tướng liền nhau, lúc đó có một Tỳ-kheo-ni cho là một giới nên đi, không ngờ là đi vào giới khác. Các Tỳ-kheo-ni nói: “Cô đã phạm Tăng-già-bà-thi-sa”, hỏi vì sao, đáp: “Cô đã một mình vào tụ lạc khác”. Tỳ-kheo-ni này trong tâm nghi hối, liền bạch Phật, Phật hỏi: “Cô cho là cùng một giới hay khác giới”, đáp: “Con cho là cùng một giới”, Phật nói: “Không phạm, từ nay cho trường hợp hai tụ lạc có giới tướng liền nhau, được tác pháp yết ma kết làm một giới”. Một Tỳ-kheo-ni trong Tăng xướng rằng: Đại đức ni tăng lắng nghe, giới của tụ lạc và giới của tụ lạc , Tăng nay muốn tác pháp yết ma kết làm một giới. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay yết ma kết giới của tụ lạc và giới của tụ lạc thành một giới. Bạch như vậy. Bạch nhị yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận yết ma kết giới của tụ lạc và giới của tụ lạc làm một giới xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Lúc đó có các Tỳ-kheo từ nước Kiều-tát-la du hành đến thành Xá- bà-đề, gần tinh xá Kỳ-hoàn có một rừng cây tươi tốt sum suê và mát mẻ khiến các Tỳ-kheo này rất thích. Ngày đó là ngày thuyết giới nên các Tỳ-kheo này dừng lại ở trong rừng cây này thuyết giới. Thuyết giới xong mới vào trong tinh xá Kỳ-hoàn thì nghe tiếng kiền chùy, liền hỏi: “Đánh kiền chùy làm gì?, đáp là muốn thuyết giới, khách Tỳ-kheo nói: “Chúng tôi vừa mới thuyết giới xong”, liền hỏi là thuyết giới ở đâu, đáp là ở trong rừng cây gần tinh xá Kỳ-hoàn. Các Tỳ-kheo nói: “Các thầy phá tăng”, liền hỏi vì sao, đáp: “Vì ở trong nội giới mà có hai nơi thuyết giới, các thầy khinh cựu Tỳ-kheo chúng tôi”. Khách Tỳ-kheo nghe rồi sanh nghi hối liền bạch Phật, Phật hỏi: “Lúc đó tâm các thầy nghó như thế nào?”, đáp: “Chúng con cho là ngoại giới”, Phật nói: “Không phạm, từ nay không được vì một nhân duyên nhỏ mà dừng ở giữa đường thuyết giới. Nếu muốn thuyết giới nên lên chỗ cao nhìn xem gần đó có tinh xá không, nếu có thì nên đến đó thuyết giới”. Có một tụ lạc ở vùng biên của nước Kiều-tát-la, các Tỳ-kheo sợ giặc nên bỏ tinh xá vào trong tụ lạc này. Ngày đó là ngày thuyết giới, có Tỳ-kheo cùng giặc đến, Tỳ-kheo này không biết đâu là ngoại giới, đâu là nội giới liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu tụ lạc thuộc của giặc thì tất cả là ngoại giới, lúc đó tùy ở bất cứ nơi đâu đều được tự tại thuyết giới”. Ở nước Xá-bà-đề có một thương chủ muốn đến nước khác buôn bán, xem sao Phất để định ngày khởi hành. Ngày đó là ngày thuyết giới nên Tỳ-kheo đến nói với thương chủ: “Xin đợi một lát chờ tôi làm pháp sự”, thương chủ nói: “Hôm nay là ngày sao Phất, tốt nên khởi hành, thầy nếu làm pháp sự thì nên đi sau”. Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu thương chủ ở lại đợi thì nên thuyết giới đầy đủ, nếu chỉ đợi một lát thì nên thuyết giới tóm lược, nếu không đợi thì nên nói ba lần thuyết giới, nếu không thể ở lại đi sau thì mỗi Tỳ-kheo nên tâm niệm miệng nói hôm nay là ngày thuyết giới bố tát. Nếu có bạch y ở đó thì chỉ nên tâm niệm nghó hôm nay là ngày thuyết giới bố tát”. Thương chủ lên đường, khi đến chỗ dừng lại ngủ qua đêm có quy định không ai được ở tản mát, nếu tản mát ra thì sẽ bị giặc cướp hết tài vật và tính mạng. Ngày đó là ngày thuyết giới, các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay nếu có trường hợp như thế thì nên nhất tâm nghó hôm nay là ngày thuyết giới bố tát”. Có các thương nhơn ngủ đêm ở chỗ có rồng, ngày đó là ngày thuyết giới nên các Tỳ-kheo nói với thương chủ: “Chúng tôi muốn làm pháp sự”, thương chủ nói: “Chỗ này có rồng ở, không được làm ồn, rồng nổi giận thì chúng ta sẽ khốn đốn”, các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay nếu có trường hợp như thế thì nên nhất tâm nghó hôm nay là ngày thuyết giới bố tát”. Có các thương nhơn ngủ đêm ở chỗ có quỷ thần, ngày đó là ngày thuyết giới nên các Tỳ-kheo nói với thương chủ: “Chúng tôi muốn làm pháp sự”, thương chủ nói: “Chỗ này có quỷ thần ở, không được làm ồn, quỷ thần nổi giận thì chúng ta sẽ khốn đốn”, các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay nếu có trường hợp như thế thì nên nhất tâm nghó hôm nay là ngày thuyết giới bố tát”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Tỳ-kheo A-lan-nhã ở một mình thì nên thuyết giới như thế nào, tự tứ như thế nào, thọ y như thế nào, thọ pháp bảy ngày như thế nào, thọ thất nhật dược như thế nào, nhường chỗ đã thọ thỉnh thực như thế nào, y vật vì thanh tịnh nên thí như thế nào?”, Phật nói: “Nếu Tỳ-kheo A-lan-nhã ở một mình thì cho được tâm niệm nghó hôm nay là ngày thuyết giới bố tát; tự tứ, thọ y, thọ pháp bảy ngày, thọ thất nhật dược… cũng đều được làm tâm niệm”. Có Tỳ-kheo thần thông đại đức đại lực đến trong nước Tịnh khất thực, người trong nước này phần nhiều xấu ác khi cho thức ăn, không dùng tay đưa trao mà để dưới đất, Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho ở trong nước Tịnh, không dùng tay đưa trao để dưới đất được thọ lấy”. Có một trú xứ, vị Thượng tòa phạm Tăng- già-bà-thi-sa, Thượng tòa muốn hành Ba-lợi-bà-sa và hành Ma-na-đỏa; mọi người nói: “Thượng tòa còn hành Ba-lợi-bà-sa và hành Ma-na-đỏa huống chi là trung hạ tòa”, liền sanh tâm bất tín, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm nghó là từ nay sẽ không làm nữa thì ngay lúc đó được thanh tịnh”. Có một trú xứ, vị Tỳ-kheo quen biết nhiều, phạm Tăng-già-bà- thi-sa muốn hành Ba-lợi-bà-sa và hành Ma-na-đỏa; mọi người nói: “Tỳ-kheo quen biết nhiều mà còn hành Ba-lợi-bà-sa và hành Ma-na- đỏa huống chi là các Tỳ-kheo khác”, liền sanh tâm bất tín, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm nghó là từ nay sẽ không làm nữa thì ngay lúc đó được thanh tịnh”. Có Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, các Tỳ-kheo nói: “Thầy nên hành Ba-lợi-bà-sa và hành Ma-na-đỏa, như pháp sám hối tội này”, Tỳ-kheo này nói: “Tôi thà phản giới hoàn tục chứ không thể hành”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm nghó là từ nay sẽ không làm nữa thì ngay lúc đó được thanh tịnh”. Có Tỳ-kheo bịnh phạm Tăng-già-bà-thi-sa, các Tỳ-kheo nói: “Thầy nên hành Ba-lợi-bà-sa và hành Ma-na-đỏa, như pháp sám hối tội này”, Tỳ-kheo này nói: “Tôi không có sức nên không thể hành pháp này được”, các Tỳ-kheo nói: “Thầy nên xin yết ma Xuất tội”, đáp: “Tôi không thể quỳ được”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm nghó là từ nay sẽ không làm nữa thì ngay lúc đó được thanh tịnh”. Có một trú xứ, Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa nhưng chúng không đủ hai mươi người nên Tỳ-kheo này muốn đến nơi khác sám hối, nhưng giữa đường bị giặc giết chết. Các Tỳ-kheo nói: “Tỳ-kheo này không thanh tịnh, chết ắt đọa trong đường ác”, liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm niệm như pháp sám hối thì được thanh tịnh, chết sẽ không đọa vào đường ác mà được sanh lên cõi trời”. Có một trú xứ, Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa nhưng chúng không thanh tịnh nên Tỳ-kheo này muốn đến nơi khác sám hối, nhưng giữa đường bị giặc giết chết. Các Tỳ-kheo nói: “Tỳ-kheo này không thanh tịnh, chết ắt đọa trong đường ác”, liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm niệm như pháp sám hối thì được thanh tịnh, chết sẽ không đọa vào đường ác mà được sanh lên cõi trời”. Có một trú xứ cách xa nước Kiều-tát-la, hai Tỳ-kheo ở chung đều bị giặc bắt đem cúng tế nên giặc cho người canh giữ. Ngày đó là ngày thuyết giới, hai Tỳ-kheo nói: “Hày thả cho chúng tôi ra một lát, chúng tôi muốn làm pháp sự”, chúa giặc cho thả để làm pháp sự. hai Tỳ-kheo này ra chỗ hơi cách xa, một người nói tôi có tội, người kia cũng nói tôi có tội; Phật dạy nếu hai người đều có tội thì không được cùng sám hối. Chúa giặc hỏi: “Hai người nói gì, ý muốn trốn chạy phải không?”, đáp: “Chúng tôi không trốn chạy, chỉ muốn sám hối”, lại hỏi: “Có tội gì mà sám hối”, liền đáp là có tội như thế như thế, chúa giặc nói: “Các thầy là người tốt, chỉ có việc nhỏ như thế mà cũng nói là có tội. Chúng tôi là người ác đã xúc não người tốt như vậy”, nói rồi liền cho thả hai Tỳ- kheo đi. hai Tỳ-kheo này được thoát liền đem việc trên kể lại cho các Tỳ-kheo nghe, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay có việc cấp bạch như vậy, nếu là tội không tương ưng thì cho được cùng sám hối”. Có một trú xứ cách xa nước Kiều-tát-la, hai Tỳ-kheo ở chung đều bị giặc bắt đem cúng tế nên giặc cho người canh giữ. Ngày đó là ngày thuyết giới, hai Tỳ-kheo nói: “Hãy thả cho chúng tôi ra một lát, chúng tôi muốn làm pháp sự”, chúa giặc cho thả để làm pháp sự. hai Tỳ-kheo này ra chỗ hơi cách xa, một người nói tôi có tội, người kia cũng nói tôi có tội; Phật dạy nếu hai người đều có tội tương ưng thì không được cùng sám hối, tội không tương ưng thì được cùng sám hối. Tội của hai người là tội tương ưng nên không được cùng sám hối. Chúa giặc hỏi: “Hai người nói gì, ý muốn trốn chạy phải không?”, đáp: “Chúng tôi không trốn chạy, chỉ muốn sám hối”, lại hỏi: “Có tội gì mà sám hối”, liền đáp là có tội như thế như thế, chúa giặc nói: “Các thầy là người tốt, chỉ có việc nhỏ như thế mà cũng nói là có tội. Chúng tôi là người ác đã xúc não người tốt như vậy”, nói rồi liền cho thả hai Tỳ-kheo đi. hai Tỳ-kheo này được thoát liền đem việc trên kể lại cho các Tỳ-kheo nghe, các Tỳ- kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay nếu có tội tương ưng nên tâm niệm miệng nói rằng: “Sau này sẽ đối trước Tỳ-kheo thanh tịnh sám hối”, sau đó được cùng sám hối”. Có một trú xứ, Tỳ-kheo bịnh phạm tội Đọa nói với người khán bịnh là tôi có tội, người khán bịnh cũng nói là tôi có tội. Tỳ-kheo bịnh nói: “Phật nói từ nay nếu có tội tương ưng nên tâm niệm miệng nói rằng: “Sau này sẽ đối trước Tỳ-kheo thanh tịnh sám hối”, sau đó được cùng sám hối. Nên tôi muốn đối trước thầy sám hối”, Tỳ-kheo khán bịnh nói: “Do nhân duyên hai Tỳ-kheo bị giặc bát đem cúng tế nên Phật nói nếu có tội tương ưng thì cho được cùng sám hối, nhưng chưa cho người bịnh cùng sám hối”. Tỳ-kheo bịnh sau khi chết do tâm hối hận nên đọa vào đường ác, Phật nói: “Từ nay nếu có tội tương ưng hoặc bị giặc bắt hay là người bịnh đều được tâm niệm miệng nói rằng: “Sau này sẽ đối trước Tỳ-kheo thanh tịnh sám hối”, sau đó được cùng sám hối mà không phạm”. Trưởng lão Xá-lợi-phất từ nước Kiều-tát-la du hành đến nước Xá- bà-đề, giữa đường thấy một tinh xá trống không, ngày đó là ngày thuyết giới nhưng không biết đâu là nội giới, đâu là ngoại giới nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu là tinh xá trống không thì tất cả là ngoại giới, ở trong đó được tùy ý thuyết giới”. Nước Kiều-tát-la có hai tụ lạc giáp ranh giới nhau, lúc đó thời thế mất mùa đói kém, một Tỳ-kheo-ni dẫn một Tỳ-kheo-ni bạn đến nhà bà con ở tụ lạc khác nương ở, được cho ăn hai, ba ngày thì không thể cho thêm được nữa. Tỳ-kheo-ni bạn nói: “Một mình cô, bà con còn nuôi chưa nổi, vì sao lại dẫn tôi đến nữa?”, Tỳ-kheo-ni này đáp: “Vì Phật chế không cho một mình đến trong tụ lạc khác nên tôi mới dẫn cô theo”, bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho trường hợp hai tụ lạc có giới tướng liền nhau, được tác pháp yết ma kết làm một giới”. Một Tỳ-kheo-ni trong Tăng xướng rằng: Đại đức ni tăng lắng nghe, giới của tụ lạc và giới của tụ lạc , Tăng nay muốn tác pháp yết ma kết làm một giới. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay yết ma kết giới của tụ lạc và giới của tụ lạc thành một giới. Bạch như vậy. Bạch nhị yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận yết ma kết giới của tụ lạc và giới của tụ lạc làm một giới xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Ở nước Kiều-tát-la có các Tỳ-kheo tháp tùng theo đoàn thương buôn đi ngang qua một đầm lớn, các Tỳ-kheo đến xin nước, thương chủ rót nước vào trong bát cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thấy trên mặt nước có một ít thức ăn liền đổ nước, thương chủ nói: “Các thầy biết nơi đây không có nước, khó được nước, vì sao lại đổ nước?”, Tỳ-kheo nói: “Ngày nay thời đã qua, tôi thấy trên mặt nước có ít thức ăn nên không uống được”, bạch Phật, Phật nói: “Không nên đổ hết nước, chỉ đổ nước ở trên, nước ở dưới là tịnh nên uống”. Ở nước Kiều-tát-la có các Tỳ-kheo tháp tùng theo đoàn thương buôn đi ngang qua một đầm lớn, các Tỳ-kheo đến xin nước, thương chủ rót nước vào trong bát cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thấy dưới đáy nước có một ít thức ăn liền đổ nước, thương chủ nói: “Các thầy biết nơi đây không có nước, khó được nước, vì sao lại đổ nước?”, Tỳ-kheo nói: “Ngày nay thời đã qua, tôi thấy dưới đáy nước có ít thức ăn nên không uống được”, bạch Phật, Phật nói: “Không nên đổ hết nước, nước ở trên là tịnh nên uống, nước dưới đáy thì đổ bỏ”. Các Tỳ-kheo đến người chăn bò xin nước, họ dùng bình nước còn dính bợn rót nước cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thấy trên mặt nước có đóng váng, không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Chỉ đổ bỏ lớp đóng váng trên mặt, nước ở dưới là tịnh nên uống”. Các Tỳ-kheo đem bát còn dính bợn xuống ao múc nước, Tỳ-kheo thấy trên mặt nước có đóng váng, không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Chỉ đổ bỏ lớp đóng váng trên mặt, nước ở dưới là tịnh nên uống”. Các Tỳ-kheo đem bát còn dính thức ăn dư xuống ao múc nước, Tỳ-kheo nhìn thấy trong bát nước có thức ăn, không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Cái đáng bỏ thì nên bỏ, nước là tịnh nên uống”. Sa-di và bạch y cầm bình tô, dầu rót vào bát cho Tỳ-kheo, Tỳ- kheo thấy tô dầu chảy xuống, sanh nghi không biết có phải là pháp thọ không nên bạch Phật, Phật nói: “Rót thì phải chảy xuống nên không phá pháp thọ”. Tỳ-kheo từ nước Kiều-tát-la du hành đến nước Xá-bà-đề, đi ngang qua một đầm lớn. Lúc đó Sa-di nhỏ mang theo tịnh vật, không mang nổi nữa, Phật bảo: “Tỳ-kheo nên mang tịnh vật giúp cho Sa-di”. Các Tỳ-kheo ở trong nhà có gác, thức ăn treo trên tường ở trên gác, Sa-di nhỏ tuổi không thể lấy được, Phật bảo: “Lúc mặt trời mọc, Tỳ-kheo nên lấy thức ăn xuống đưa cho tịnh nhân”. Lại có các Tỳ-kheo từ nước Kiều-tát-la du hành đến nước Xá-bà-đề, giữa đường gặp con sông, Sa-di nhỏ tuổi phải mang tịnh vật nên không lội qua được, Phật bảo: “Tỳ-kheo nên cõng Sa-di lội qua sông”. Khi cõng lội qua sông, do nước sông chảy mạnh nên cả hai đều bị nước cuốn trôi, tay Tỳ-kheo chạm vào thức ăn, Tỳ-kheo nghi không biết thức ăn này có bất tịnh hay không nên bạch Phật, Phật nói: “Tịnh nhân thường nhớ nghó giữ gìn đãy thức ăn này, Tỳ-kheo tuy chạm nhưng ăn không phạm”. Lại có Tỳ-kheo qua sông bằng bè, Sa-di mang tịnh vật, Phật bảo: “Tỳ-kheo nên bảo Sa- di để đãy thức ăn trên bè, Tỳ-kheo không nên chạm vào đãy thức ăn, khi qua bờ kia thì Sa-di mang trở lai”. Tỳ-kheo dùng bát mới xông đựng tô, rửa để qua hai, ba ngày mà vẫn còn mùi tô nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm rửa hai, ba lần thì bát này gọi là tịnh”. Lại có Tỳ-kheo dùng bát không sạch thọ bún mì, sau đó đem đổ bỏ, Phật nói không nên đổ bỏ, nên sớt qua vật sạch khác rối ăn, phần thức ăn dính trong bát không sạch thì đổ bỏ. Lại có Tỳ-kheo dùng bát răng được buộc ràng thọ cháo chín nóng, nước cháo chảy ra từ các đường răng nứt, Tỳ-kheo liền đem đổ bỏ, Phật nói: “Không nên đổ bỏ, chỉ bỏ phần nước cháo chảy rịn ra, cháo trong bát nên ăn”. Có Tỳ-kheo bảo Sa-di cầm bát, Sa-di này để thức ăn trong bát không sạch đưa cho thầy, Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu không có việc gấp thì không nên bảo Sa-di cầm bát, nếu đã bảo thì nên đến chỗ Sa-di thọ lại”. Lại có Tỳ-kheo để thức ăn bất tịnh vào trong thức ăn tịnh, Phật nói: “Bỏ phần bất tịnh, phần tịnh còn lại nên ăn”. Lại có Tỳ-kheo để thức ăn tịnh vào trong thức ăn bất tịnh, Phật nói: “Bỏ phần bất tịnh, phần tịnh còn lại nên ăn”. Lại có Tỳ-kheo để cơm bất tịnh vào trong cơm tịnh, Phật nói: “Bỏ phần bất tịnh, phần tịnh còn lại nên ăn”. Lại có Tỳ-kheo để cơm tịnh vào trong cơm bất tịnh, Phật nói: “Bỏ phần bất tịnh, phần tịnh còn lại nên ăn”. Ở nước Kiều-tát-la có các Tỳ-kheo tháp tùng theo đoàn thương buôn đi ngang qua một đầm lớn, các Tỳ-kheo đến xin thức ăn, thương chủ nói: “Các thầy biết thức ăn nơi đây khó được, vì sao không tự mang theo thức ăn đi đường?”, Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho chúng tôi mang theo thức ăn đi đường”, bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho mang theo lương thực đi đường, đến người khác đổi lấy thức ăn tịnh rồi ăn, không đổi thì không được ăn”. Lúc đó các Tỳ-kheo muốn đổi thức ăn, họ không chịu đổi và nói: “Trong thức ăn của hầy có gì không ăn được mà phải đổi thức ăn của người khác”, bạch Phật, Phật nói: “Từ nay vì làm tịnh nên đưa cho họ”. Lúc đó các Tỳ-kheo đưa thức ăn cho họ thì họ không trả lại, bạch Phật, Phật bảo nên theo đòi lại. Các thương nhơn dừng lại một chỗ ngủ qua đêm, tịnh nhân làm thức ăn đựng đấy bát cho Tỳ-kheo rồi để một bên, các thương nhơn nữa đêm lên đường, Tỳ-kheo quên không tự mang theo bát thức ăn, sau đó mới sực nhớ, cho thức ăn này là bất tịnh nên đổ bỏ. Phật nói: “Không nên đổ bỏ, khi sực nhớ nên đến người khác thọ lại”. Có người Thủ la đến Tỳ-kheo xin thức ăn, nếu cho thì thiếu, không cho thì sợ người này tức giận làm bậy, đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho mang đồ đựng thức ăn, cất đừng cho người thấy, khi muốn ăn thì bước qua một bên lấy ra một ít thức ăn, không thọ vẫn được ăn vì đang đi qua chỗ đồng trống vắng vẻ”. Lúc đó xe chở thức ăn uống vào trong chùa sắp nghiêng đổ, người đánh xe nói với các Tỳ-kheo: “Hãy nắm giữ xe giúp tôi”, các Tỳ-kheo không chịu nắm giữ xe giúp, Phật bảo: “Cho nắm giữ xe giúp để xe được ngay lại, khi xe được ngay rồi thì không được nắm giữ nữa, nếu còn nắm giữ nữa thì phạm Đột-kiết-la” Lúc đó trên thuyết chất đầy thức ăn uống nên các Tỳ-kheo không chịu lên thuyền, Phật bảo: “Từ nay cho trải cỏ lau hay chiếu thì được ngồi trên thuyền có chở thức ăn”. Khi ngồi chạm vào thức ăn, Phật nói: “Nên trải cho khắp và đừng chạm vào đồ đựng thức ăn”. Lúc đó trên lưng lạc đà, bò, lừa, voi chất đầy thức ăn bị nghiêng sắp ngã đổ, người coi giữ nói với các Tỳ-kheo: “Hãy nắm giữ giúp tôi sửa lại cho ngay”, các Tỳ-kheo không chịu nắm giữ sửa giúp lại cho ngay, Phật bảo: “Cho nắm giữ sửa giúp cho ngay lại, khi được ngay rồi thì không được nắm giữ nữa, nếu còn nắm giữ nữa thì phạm Đột-kiết- la. Sa-di và bạch y mang bình tô dầu rót vào trong bình khác, bình lung lay muốn ngã đổ, tịnh nhân nói với các Tỳ-kheo: “Hãy nắm giữ bình giúp tôi”, các Tỳ-kheo không chịu nắm giữ bình giúp, Phật bảo: “Cho nắm giữ giúp cho bình được ngay lại, khi bình được ngay rồi thì không được nắm giữ nữa, nếu còn nắm giữ nữa thì phạm Đột-kiết-la”. Tỳ-kheo sai Sa-di, bạch y nấu cơm, cháo, canh; lúc đó nồi canh muốn nghiêng đổ, họ nói với các Tỳ-kheo: “Hãy nắm giữ nồi giúp tôi”, các Tỳ-kheo không chịu nắm giữ nồi giúp, Phật bảo: “Cho nắm giữ giúp cho nồi được ngay lại, khi nồi được ngay rồi thì không được nắm giữ nữa, nếu còn nắm giữ nữa thì phạm Đột-kiết-la”. Có người chăn ngựa từ nước Ba-la-nại đến nước Xá-bà-đề, vì tín kính Phật nên làm nhiều món ăn mang đến cúng cho Tỳ-kheo tăng, vừa mang đến cho Tăng thì hay tin chuồng ngựa bị cháy liền nói với các Tỳ- kheo: “Các thầy cứ tự nhiên dùng, con có việc gấp phải đi ngay”, nói rồi để thức ăn lại đó mà đi. Các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Người có lóng tín kính mang đến cho, dù họ bỏ đi cũng nên thọ lấy ăn”. Có Tỳ-kheo khất thực về để thức ăn một bên đợi đến giờ mới ăn, bỗng một con quạ bay đến mổ lấy một miếng rồi bay đi, Tỳ-kheo liền đổ bỏ thức ăn này, Phật bảo: “Không nên đổ hết, chỉ bỏ chỗ thức ăn bị quạ mổ, thức ăn còn lại nên ăn”. Lại có Tỳ-kheo khất thực về để thức ăn một bên chờ đến giờ ăn mới ăn, bỗng có ruồi bay đến đậu trong thức ăn, Tỳ-kheo cho là đã bị phá pháp thọ, gần đến giờ ăn mà không có tịnh nhân để thọ lại, Tỳ-kheo nghi không dám ăn, Phật bảo: “Ruồi đậu không phá pháp thọ”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Có Tỳ-kheo xin bình nước lại lấy nhầm bình tô, dầu, bình này phá pháp tịnh, có nên bỏ hay không?”, Phật nói: “Có hai trường hợp không hoại pháp tịnh: Một là không sai người phá giới cầm, hai là người trì giới quên lấy nhầm. Vì không hoại pháp tịnh nên được ăn”. Các Tỳ-kheo mang giúp đãy thức ăn cho Sa-di, giữa đường cho Sa-di ăn, Sa-di trao thức ăn cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không thọ vì đã cùng thức ăn ngủ qua đêm. Phật nói: “Trước không cọng yếu thì được ăn, nếu đã cọng yếu thì không nên ăn”. Các Tỳ-kheo trong hạ an cư, do trong tụ lạc có nhân duyên phải xuất giới nhưng các Tỳ-kheo sợ phạm giới nên không đi, vì không đi nên việc này bị phế. Phật bảo nên thọ pháp bảy ngày xuất giới được đi. Các Tỳ-kheo thọ pháp bảy ngày xuất giới, bảy ngày chưa hết, việc cũng chưa xong liền trở về. Phật nói: “Nên thọ ngày còn dư lại, bạch rằng: Tôi thọ pháp bảy ngày, mấy ngày đã qua, còn lại mấy ngày xin thọ để xuất giới”. Phật tại Xá-bà-đề, lúc đó vua Ba-tư-nặc có vườn cây tên Ba-la-đà sạch sẽ và mát mẻ, chỉ còn thiếu một thứ là nước. Khi vua ra vườn thấy không có nước liền hỏi đại thần nguyên do, đáp là vì tìm không ra nước, vua bảo: “Nên tìm cách dẫn nước vào vườn, vườn nếu không có nước thì không thể yêu thích được”. Lúc đó có một người không tín kính Phật pháp liền tâu vua: “Có một nhân duyên có thể dẫn nước đến đây”, vua hỏi là duyên gì, đáp: “Nên đào một con kênh dẫn nước từ trong tinh xá Kỳ-hoàn đến nơi đây, nhưng đào kênh thì phải chặt phá rừng cây trong tinh xá Kỳ-hoàn”, vua nói: “Ta muốn có nước dẫn đến đây, không biết việc khác”, vua vì việc này sợ các Tỳ-kheo đến cầu xin nên bỏ đi đến nước Tang kỳ da. Lúc đó quan coi thợ dẫn thợ tới tinh xá Kỳ-hoàn muốn đào kênh, các Tỳ-kheo hỏi muốn làm gì, liền kể rõ mọi việc và nói: “Đây là ý chỉ của vua, tôi làm quan chỉ tuân theo lịnh vua không được tự do. Tôi chỉ có thể đình lại việc này trong một thời gian ngắn, các thầy tự đến cầu xin vua không đào kênh nữa”. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “Nên thọ pháp bảy ngày để đi”, các Tỳ-kheo thọ pháp bảy ngày đi đến chỗ vua, ở lại đã lâu mà không có người cho bạch vua, bảy ngày sắp hết, việc cũng chưa xong, các Tỳ-kheo tâm nghi nên trở về lại tinh xá Kỳ-hoàn, đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Cho thọ pháp ba mươi chín ngày để đi”. Pháp thọ ba mươi chín ngày xuất giới như sau: Một Tỳ-kheo ở trong Tăng xướng rằng: Đại đức tăng lắng nghe, các Tỳ-kheo tên , cùng thọ pháp ba mươi chín ngày vì Tăng sự được xuất giới, ở chỗ này an cư tự tứ. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay cho các Tỳ- kheo , cùng thọ pháp ba mươi chín vì Tăng sự được xuất giới, ở chỗ này an cư tự tứ. Bạch như vậy. Như thế bạch nhị yết ma cho đến câu Tăng đã chấp thuận cho các Tỳ-kheo , thọ pháp ba mươi chín ngày vì Tăng sự được xuất giới, ở chỗ này an cư tự tứ xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lạêng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Các Tỳ-kheo đến chỗ vua ở đã lâu vẫn không có người cho bạch vua, vào một lúc khác, vua đi ra ngoài từ xa nhìn thấy các Tỳ-kheo liền hỏi đại thần: “Đến hỏi Sa-môn Thích tử đến đây có việc gì?”, đại thần liền đến hỏi, các Tỳ-kheo đáp là muốn gặp vua, vua nghe rồi liền cho gặp, sau khi cùng nhau thăm hỏi rồi, vua quên việc trước kia nên hỏi các Tỳ-kheo đến có việc gì, các Tỳ-kheo liền đem việc trên bạch vua, vua liền bảo: “Vậy thì không nên đào kênh nữa”, quan coi việc đào kênh liền không cho đào nữa. Lục quần Tỳ-kheo cất chứa năm loại da: da sư tử, da cọp, da báo, da rái cá và da hồ ly; các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Có năm loại da không nên chứa, đó là da Sư tử, da hổ, da báo, da rái cá và năm là da chồn; lại có năm loại da không nên chứa, đó là da voi, da ngựa, da chó, da dã can và năm là da nai đen. Nếu cất chứa thì phạm Đột-kiết-la ”. Vua A-xà-thế nhìn thấy chiếc giường lớn, đẹp của vua cha liền hối hận và đau buồn, nghó rằng: “Vì những vật này mà cha ta vốn là người thanh tịnh, không có lỗi lại chết oan uổng”, vua liền bảo người hầu mang chiếc giường đi. Người hầu mang giường bỏ ngoài chỗ đất trống, vua đi ra nhìn thấy liền bảo đem bỏ đi, họ lại dời giường đem bỏ ở ngoài cung điện; vua đi ra lại nhìn thấy và lại bảo đem bỏ đi, họ lại dời giường đem bỏ bên trong cửa cung điện; vua cũng lại nhìn thấy và hỏi tại sao không đem bỏ, người hầu nói: “Thần không biết đem bỏ nơi đâu”, vua bảo: “Mang đến thí cho Tăng trong Trúc viên”. Người hầu liền mang giường đến trong Trúc viên, Tăng để giường ngoài chỗ đất trống ở trước giảng đường. Các quan viên đến Trúc viên nhìn thấy giường liền nói: “Giường tốt đẹp như thế sao lại đem bỏ ở đây, nếu vua biết tâm sẽ không tịnh”, các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay giường cao lớn đẹp của bạch y, Tỳ-kheo không nên cất chứa để ngồi nằm; nếu có người bố thí giường cao lớn đẹp được nhận và cất giữ nhưng không được ngồi nằm”. Mẹ vua Ba-tư-nặc mất, tất cả vật dụng của bà dùng lúc còn sống đều mang đến bố thí cho Tăng trong tinh xá Kỳ-hoàn, gồm có nệm và vải trải nệm thuộc loại quý giá của nước A-nga-la-di, y Thi-ma-căn của nước Bà-ta-a-bà-đa-lan… Các Tỳ-kheo đem vải và nệm quý giá này bỏ ở chỗ kinh hành, các quan viến đến Trúc viên nhìn thấy liền nói: “Những vật quý giá như thế sao lại bỏ dưới đất giẫm đạp, nếu vua nghe biết tâm sẽ không vui”, các Tỳ- kheo bạch Phật, Phật nói: “Xem trong số vải và nệm quý giá này, cái nào có thể làm ngọa cụ được thì làm ngọa cụ, cái nào làm y được thì làm y, làm được cái gì thì tùy ý làm. Nệm và vải trải nệm thuộc loại quý giá của nước A-nga-la-di, y Thi-ma-căn của nước Bà-ta-a-bà-đa-lan… thì đem dùng làm ngọa cụ cho Tăng bốn phương”. Có một lần trời sấm sét lớn khiến cho các loài chim sợ hãi nên chết rất nhiều, các cư só lượm lấy những chim tốt mang đi và chừa lại các loại chim quạ, chim thứu, chim kiêu, chim Diên a la… Lúc đó các Tỳ-kheo trước giờ ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực thấy các loại chim chết này không có ai lượm lấy liền nói với nhau: “Thầy mang những con chim này về nấu, còn tôi đi khất thực trở về chúng ta cùng ăn”. Tỳ-kheo mang những chim chết này về nấu, các Tỳ-kheo khác thấy liền hỏi nấu thịt gì, đáp là thịt quạ; lại hỏi: “Thịt kia là thịt gì?”, đáp là thịt chim thứu, chim kiêu…; các Tỳ-kheo đủ lời quở trách rồi đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo lại ăn thịt các loại chim như thế, từ nay thịt quạ không được ăn, nếu ăn thì phạm Đột- kiết-la. Tất cả thịt của các loài chim ăn xác chết như chim Thứu, chim Kiêu… đều không được ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la ”. Các Tỳ-kheo sau giờ ăn, đến bên bờ sông A-kỳ-la kinh hành thì thấy xác một con báo nổi trên mặt nước, Tỳ-kheo này nói với Tỳ-kheo khác: “Vớt con báo đem về ngày mai nấu ăn”. Ngày mai thấy có người đang nấu thịt, các Tỳ-kheo hỏi nấu thịt gì, đáp là thịt báo, các Tỳ-kheo đủ lời quở trách rồi đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo lại ăn thịt báo, thịt báo và thịt chó đâu có khác gì. Từ nay không được ăn thịt báo, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la”. Có người đem bỏ xác con La trong hào thành, các Tỳ-kheo trước giờ ngọ đắp y mang bát vào thành khất thực thấy xác con La trong hào thành liền nói nhau: “Thầy mang xác con la này về nấu, tôi khất thực trở về, chúng ta cùng ăn”. Tỳ-kheo này mang về nấu, các Tỳ-kheo hỏi nấu thịt gì, đáp là thịt La, các Tỳ-kheo đủ lời quở trách rồi bạch Phật, Phật nói: “La và Ngựa đâu có khác gì, từ nay không được ăn thịt la, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la “. Sau giờ ăn, các Tỳ-kheo vào trong rừng An-đà kinh hành thấy một con khỉ chết, Tỳ-kheo này nói với Tỳ-kheo khác: “Đem xác con khỉ này về ngày mai nấu ăn”. Ngày mai thấy có người đang nấu thịt, các Tỳ-kheo hỏi nấu thịt gì, đáp là thịt khỉ, các Tỳ-kheo đủ lời quở trách rồi đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Tại sao gọi là Tỳ-kheo lại ăn thịt khỉ, thịt khỉ và thịt người đâu có khác gì. Tứ nay không được ăn thịt khỉ, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la”. ----------------------- PHẨM NHÂN DUYÊN Phật tại nước Ca-tỳ-la vệ, các thích tử quý tộc xuất gia mắc bịnh mãi, sáng sớm đến nhà bà con, đàn việt quen biết, họ thăm hỏi có an lạc không, đáp là không an, liền hỏi bị bịnh gì, đáp là bịnh như vậy như vậy, lại hỏi: “Khi còn bạch y, bịnh này chữa trị như thế nào?”, đáp: “Để thuốc trong lớp da bò rồi nhỏ”, họ nói: “Tôi sẽ cho thuốc này để thầy chữa trị”, đáp: “Phật chưa cho tôi được dùng loại thuốc nhỏ như vậy”, bạch Phật, Phật nói: “Cho được dùng loại thuốc nhỏ này”. Lúc đó dùng lớp da mỏng để thuốc vào nhỏ không được, Phật nói: “Cho dùng lớp da dầy, nên ở chỗ khuất nhỏ thuốc; cho thầy thuốc chỉ cho người thân cách nhỏ thuốc”. Các thích tử quý tộc xuất gia mắc bịnh mãi, sáng sớm đến nhà bà con, đàn việt quen biết, họ thăm hỏi có an lạc không, đáp là không an, liền hỏi bị bịnh gì, đáp là bịnh như vậy như vậy, lại hỏi: “Khi còn bạch y, bịnh này chữa trị như thế nào?”, đáp là dùng dao chữa trị, họ nói: “Tôi đưa dao cho thầy chữa trị”, đáp: “Phật chưa cho dùng dao chữa trị”, liền bạch Phật, Phật bảo nên dùng cọng sen để cắt, cắt không được, Phật nói: “Cho dùng dao bằng vàng, bạc… để cắt”, vẫn không cắt được, Phật nói: “Cho ở chỗ khuất dùng dao sắt cắt”. Có Tỳ-kheo bịnh nói với người khán bịnh: “Hãy đem sanh tô, thục tô, dầu, mật, đường phèn đến”, người khán bịnh nói: “Không có, nếu có là vật của Tăng, bất tịnh, cất cách đêm, phạm ác tróc, không thọ và nội túc”, liền bạch Phật, Phật nói: “Nếu người bịnh dùng những vật trên mà được lành bịnh thì cho dùng”. Trưởng lão Tất-lân-già-bà-ta bị bịnh mắt, thầy thuốc bảo dùng thuốc La-tán thiền thoa lên mắt, trưởng lão nói: “Phật chưa cho dùng thuốc này”, liền nói với các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Từ nay nếu bị bịnh mắt thì được dùng thuốc La-tán thiền thoa lên mắt để trị”. Trưởng lão này đựng La-tán thiền đầy trong các bát lớn, bát nhỏ, bình sứ lớn, bình sứ nhỏ… khi lấy dùng làm thuốc chảy lan dơ vách tường và ngọa cụ khiến trong phòng hôi dơ. Phật bảo nên đựng trong cái hộp, do hộp không có nắp đậy nên bụi đất bay vào bám trong thuốc, khi thoa lên mắt lại làm cho mắt đau thêm, Phật bảo nên làm nắp đậy. Làm nắp đậy thuốc vẫn chảy ra ngoài, Phật bảo nên làm miệng hộp nhỏ lại. Lúc đó các Tỳ-kheo dùng đuôi lông chim Khổng tước chấm thuốc để thoa lên mắt khiến mắt càng đau thêm, Phật bảo nên dùng thìa. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật nên dùng vật gì làm thìa, Phật bảo nên dùng sắt, đồng, vỏ sò, ngà voi, sừng hoặc gốm sứ để làm thìa. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Vua Bà-la-môn A-kỳ-đạt làm tám món cháo: Cháo tô, cháo hồ ma, cháo dầu, cháo sữa, cháo đậu nhỏ, cháo đầu ma sa, cháo lỏng… Nếu dùng loại dược từ củ, thân cành, lá, hoa và quả để nấu cháo thì có được dùng không?”, Phật nói: “Tỳ-kheo bịnh thì được dùng, nếu không bịnh thì không được dùng”. Phật tại nước Tô-ma, lúc đó đệ tử của trưởng lão A-na-luật bị bịnh, uống thuốc vào thì bụng quặn đau, Phật bảo: “Nên cho uống nước gạo rang”, uống rồi bụng vẫn đau, Phật bảo: “Nên cho uống nước măng tre”, uống rồi vẫn còn đau, Phật nói: “Nên dùng túi đựng cháo vắt lấy nước cho uống”, uống rồi vẫn còn đau, Phật nói: “Dẫn đến chỗ khuất cho ăn cháo”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Phật cho Phạm chí búi tóc Kê-ni- da bố thí tám loại nước trái cây: Nước trái Châu-lê, nước trái Mâu-lê, nước trái Câu-lầu, nước trái Xá-lầu, nước trái Thuyết-ba-đa, nước trái Phả-lưu-sa, nước trái lê, nước trái Bồ-đào. Nếu dùng năm loại thuốc thang (thuốc sắc) từ củ, hoặc từ thân, cành, cọng hoặc từ lá, từ hoa và từ quả hòa hợp thì có được uống hay không?”, Phật nói: “Nếu không có mùi rượu, không có thức ăn cen tạp, trong mà không đục thì được uống”. Phật tại Xá-bà-đề, lúc đó các cư só ở nước Kiều-tát-la nơi giữa đường chỗ không có nước lo liệu nước và đường phèn để bố thí. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo từ nước Kiều-tát-la du hành đến nước Xá-bà-đề, đến chỗ bố thí nước và đường phèn này thọ bố thì, nhưng chỉ ăn đường phèn mà không uống nước. Cư só hỏi vì sao không uống nước, đáp: “Chỉ thích ăn đường phèn, không thích uống nước”, cư só nói: “Tôi vì nước uống nên bố thí đường phèn, vì sao các thầy chỉ ăn đường phèn mà không uống nước”, đáp như trên. Vì Lục quần Tỳ-kheo có thế lực lớn lại không sợ phá giới nên các cư só không thể trước mặt nói đôi co, sau khi Lục quần Tỳ-kheo đi rồi mới tức giận quở trách: “Sa-môn Thích tử tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại chỉ ăn đường phèn mà không uống nước”. Các Tỳ-kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe việc này liền bạch Phật, Phật nói: “Từ nay Có năm thời cho ăn đường phèn mà không uống nước, đó là đi xa đến, bịnh, ăn ít, không được thức ăn và năm là ở chỗ bố thí nước. Từ nay nếu không uống nước thì không được ăn đường phèn, nếu ăn phạm Đột-kiết-la”. Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nước đường phèn để cách đêm có được uống không?”, Phật nói: “Tỳ-kheo bịnh thì được dùng, nếu không bịnh thì không được dùng” Tỳ-kheo nếu được hai nơi thỉnh thực thì nên cho Tỳ-kheo khác một nơi, Tỳ-kheo kia nên hỏi: “Thầy cho phải không?”, đáp là tôi cho, lại hỏi khi nào cho, đáp: “Khi vua Bình-sa thỉnh Phật và Tăng cúng dường tứ sự mừng thọ một trăm tuổi thì tôi cho”. Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo có hai loại thỉnh: Một là hôm nay thỉnh, hai là khiến thỉnh. Nếu trong một ngày có hai nơi thỉnh thì nên nhường cho người khác một nơi, một nơi tự thọ; khiến thỉnh có hai là tùy thọ tịnh và tùy thọ bất tịnh. Sao gọi là tùy thọ tịnh?: Tức là năm loại thức ăn Khư-đà-ni, năm loại thức ăn Bồ-xà-ni và năm loại thức ăn tương tợ. Năm loại thức ăn Khư-đà-ni là: Thức ăn từ củ, cọng, lá, từ xay giã và từ trái; năm loại thức ăn Bồ-xà-ni là: cơm, bún, mì, cá và thịt. Năm loại thức ăn tương tợ là cháo, xôi nếp, bắp, tú tử, ca sư. Sao gọi là tùy thọ bất tịnh?: Tức là năm loại bảo vật gồm có vàng, bạc, ma ni, pha lê, lưu ly và năm loại tợ bảo vật gồm có sắt, đồng đỏ, thủy tinh, chì thiếc, bạch lạp. Nếu vật là tịnh thì được thọ ngay, nếu vật là bất tịnh thì tác tịnh rồi mới thọ”. Các Tỳ-kheo ở nước A-la-tỳ thường theo cư só muợn khí cụ làm việc như búa, rìu, cưa…; các cư só nói: “Chúng tôi làm sao có thể cho các thầy muợn hoài được, sao các thầy không tự cất chứa khí cụ”, Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho chúng tôi cất chứa khí cụ”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay cho cất chứa khi cụ”. Có cư só làm phòng xá trong tinh xá Kỳ-hoàn, có Tỳ-kheo khách ngủ đêm trong phòng này thấy thiếu đồ cúng dường nên hỏi ai đã làm phòng này, đáp là cư só tên . Sáng hôm sau Tỳ-kheo khách này đắp y mang bát đến nhà cư só này hỏi: “Trong phòng xá mà ông đã làm thiếu đồ cúng dường”, cư só nói: “Trước đây tôi đã cúng rất nhiều”, Tỳ-kheo khách nói: “Tôi ngủ đêm trong phòng này thấy thiếu đồ cúng dường”, cư só này nói: “Thầy cùng tôi đến chỗ Tỳ-kheo coi việc làm phòng xá trước kia”. Đến nơi cư só liền hỏi: “Tôi vốn đã đưa cho trưởng lão đồ cúng dường trong phòng mà tôi đã làm, nay chúng đâu hết rồi?”, Tỳ-kheo này nói: “Tỳ-kheo ở phòng khác đã lấy mang đi dùng hết rồi”, cư só nói: “Tôi không đưa cho Tỳ-kheo ở phòng khác dùng, chỉ muốn để cho Tỳ-kheo ở trong phòng mà tôi đã làm được dùng. Trong phòng mà tôi đã làm thì trống không, đồ cúng dường lại mang đi đến phòng khác, các thầy không được làm như vậy”. Tỳ-kheo này không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Từ nay đàn việt cho đồ cúng dường trong phòng nào thì Tỳ-kheo ở trong phòng đó được dùng”. Nước Xá-bà-đề có một người bị người khác giết rồi đem bỏ xác nơi chỗ đất trống bên hào của tinh xá Kỳ-hoàn, một Tỳ-kheo tìm y phấn tảo đi đến thấy xác chết này bèn lấy y mang đi. Bà con của người chết đi tìm, khi đến tinh xá Kỳ-hoàn gặp Tỳ-kheo này liền hỏi có thấy một người như vậy như vậy không, Tỳ-kheo này đáp: “Người ấy chết nằm bên hào của tinh xá Kỳ-hoàn, tôi vừa lấy y ở bên người chết đó”, người bà con này nói: “Thầy dẫn tôi đến đó”, Tỳ-kheo liền dẫn đến chỗ người chết, người bà con vừa nhìn thấy người chết liền kêu lên: “Tại saao thầy có thể vì lấy y mà giết chết người thân của tôi”, Tỳ-kheo nói là không có giết, người bà con này suy nghó: “Nếu nói lời nhỏ nhẹ, Tỳ-kheo này sẽ không nói thật, ta nên dẫn tới quan”, nghó rồi liền dẫn Tỳ-kheo tới quan xử đoán, quan hỏi Tỳ-kheo có giết người không, Tỳ-kheo đáp: “Tôi là Tỳ-kheo làm sao có thể giết người”. Vị quan này tín kính Phật pháp, biết Sa-môn Thích tử không có giết người nên thả Tỳ-kheo này đi và nói: “Sau này gặp trường hợp như thế, Tỳ-kheo không hỏi người khác thì đừng có vật của người chết”. Tỳ-kheo này thoát nạn liền đem việc này kể cho các Tỳ-kheo nghe, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không hỏi người khác thì không nên lấy y vật của người chết, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Các Tỳ-kheo lấy y của người chết trên đất có chủ, các Chiên-đà- la thấy nói: “Trưởng lão không được lấy, đó là vật đóng thuế của chúng tôi”, các Tỳ-kheo không biết làm sao liền bạch Phật, Phật nói: “Từ nay Tỳ-kheo không nên lấy y của người chết trên đất có chủ, nếu lấy thì phạm tội”. Lại có các Tỳ-kheo lượm y ở bên ngoài chỗ đất có chủ, các Chiên-đà-la cũng ngăn không cho lấy, Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Nếu ngăn không cho lấy thì đừng lấy, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Nước Xá-bà-đề có nạn dịch, nhiều người chết vì bịnh dịch; các Tỳ-kheo lấy củi ở chỗ thiêu người mang về trong nhà ấm để đốt, khi đốt củi này quỷ hiện đến khiến cho tất cả tăng đều mắc bịnh khổ. Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không nên lấy củi nơi chỗ thiêu người chết, nấu lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Các Tỳ-kheo lấy lông chiên, kiếp bối, bạch điệp trong miếu thờ trời, người giữ miếu nói: “Không được lấy, y vật này thuộc về miếu”, Tỳ-kheo nói: “Trời bằng đất, bằng gỗ thì dùng y vật này làm gì?”, người giữ miếu nói: “Nếu vậy, tôi cũng sẽ lấy y vật trong tháp Phật, tháp A-la-hán”. Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Từ nay lông chiên, kiếp bôi, bạch điệp trong miếu thờ trời không được lấy, nếu lấy thì phạm Đột-kiết-la”. Có Tỳ-kheo bịnh có nhiều y vật, người khán bịnh nói với Tỳ-kheo bịnh: “Thầy bịnh đã lâu không lành, sau khi thầy chết, hiện tiền Tăng sẽ chia, thầy cũng không được phước lớn cũng không được ân phần. Nay thầy nên giao hết y vật cho tôi hoặc cho tôi sáu vật, hoặc cho Tăng sáu vật, những vật khác cho tôi”, Tỳ-kheo bịnh suy nghó: “Nếu không cho thì người này sẽ không chăm sóc tốt cho ta”, nghó rồi liền đưa cho Tăng sáu vật, những vật khác đưa cho người khán bịnh. Sau đó bịnh được lành, lúc đó là vào tháng cuối của mùa hạ, Phật và Tăng du hành các nước, các Tỳ-kheo khác đều đắp y mới nhuộm, chỉ riêng có Tỳ-kheo này đắp y cũ rách, Phật hỏi nguyên do, Tỳ-kheo này đem việc trên bạch Phật, Phật đủ lời quở trách Tỳ-kheo này: “sáu vật không nên đem cho Tăng, cũng không nên đem cho người khác”, quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay sáu vật không được tự mình đem cho, không được bảo cho; nếu tự đem cho hay bảo người đem cho thì đều phạm Đột-kiết- la”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Nếu phòng xá trong Tăng phường hư hoại, trong đó có đồ trải và đồ lợp, có được đem đổi để tu sửa phòng xá hay không?”, Phật nói là được, lại hỏi: “Nếu trong Tăng phường có hai phòng xá bị hư hoại, có được bán một phòng để tu sửa một phòng hay không?”, Phật nói là được. Nước Kiều-tát-la có một tụ lạc ở vùng biên, nơi đó có giặc nên các cư só bỏ tụ lạc mà đi, Tỳ-kheo khất thực khó được cũng bỏ vật tháp và vật Tăng, mang y bát của mình mà đi. Thời gian sau giặc bỏ đi, được yên bình trở lại, các cư só lại trở về chốn cũ, các Tỳ-kheo lại vì vật tháp và vật Tăng mà đến cư só xin tài vật, các cư só hỏi: “Vật của tháp của tăng trước kia nay đâu hết rồi?”, đáp là đã mất hết trong thời có giặc, các cư só nói: “Nhưng y bát của thầy vẫn còn phải không?”, đáp là tôi mang tùy thân, các cư só nói: “Thầy ái hộ y bát của mình chứ không ái hộ vật của tháp của tăng”. Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu thời thế có giặc sợ hãi thì nên mang đi theo, sau đó yên bình đem trả lại chỗ cũ”. Lúc đó thời thế lại có giặc, các Tỳ-kheo mang y bát của mình và vật tháp vật tăng đi, giữa đường gặp Lục quần Tỳ-kheo nói: “Ngọa cụ của tăng chúng tôi lấy dùng”, Tỳ- kheo này không cho nên hai bên tranh cãi nhau, bạch Phật, Phật nói: “Người mang đi thì được dùng, người khác không được đòi”. Lúc đó các Tỳ-kheo mang vật tháp vật tăng để ở chỗ đất trống rồi đi khất thực, trở về thấy các vật ấy bị lấy mất, bạch Phật, Phật nói: “Đi khất thực cũng nên mang theo”. Khất thực cũng mang theo thì lại bất tiện, Phật bảo: “Khi đi khất thực nên bỏ các vật ấy vào trong đãy y”. Lúc đó Tỳ-kheo mang vật tháp vật tăng để ở chỗ đất trống rồi đi vệ sinh, trở ra thì thấy mất hết, bạch Phật, Phật nói: “Giữ vật này muốn không mất thì nên gởi cho người hoặc cất giấu ở chỗ khuất”. Ở nước Kiều-tát-la có một trú xứ, đàn việt thí y cho Tỳ-kheo tăng, nhưng nơi đây không có Tỳ-kheo tăng, Phật nói: “Hiện tiền nếu có ba hoặc hai Tỳ-kheo nên chia, nếu có một Tỳ-kheo thì nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Sa-di có ba hoặc hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ”. Lại có một trú xứ, đàn việt thí y cho Tỳ-kheo-ni tăng, nhưng nơi đây không có Tỳ-kheo-ni tăng, Phật nói: “Hiện tiền nếu có ba hoặc hai Tỳ-kheo-ni nên chia, nếu có một Tỳ- kheo-ni thì nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Thức-xoa-ma-na có ba, hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Sa-di-ni có ba hoặc hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ”. Lại có một trú xứ, đàn việt thí y vật cho Tỳ-kheo tăng, nhưng nơi đây không có Tỳ-kheo tăng, Phật nói: “Hiện tiền nếu có ba hoặc hai Tỳ-kheo nên chia, nếu có một Tỳ-kheo thì nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Sa-di có ba hoặc hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Nếu nơi đó không có Tỳ-kheo cũng không có Sa-di thì Tỳ-kheo-ni tăng nên thọ rồi chia; nếu không có Tỳ- kheo-ni tăng, hiện tiền nếu có ba hoặc hai Tỳ-kheo-ni nên chia, nếu có một Tỳ-kheo-ni thì nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Thức-xoa-ma-na có ba, hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Sa-di-ni có ba hoặc hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ”. Lại có trú xứ, đàn việt thí y vật cho Tỳ-kheo- ni tăng, nơi đây không có Tỳ-kheo-ni tăng, Phật nói: “Hiện tiền nếu có ba hoặc hai Tỳ-kheo-ni nên chia, nếu có một Tỳ-kheo-ni thì nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Thức-xoa-ma-na có ba, hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Sa-di-ni có ba hoặc hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ. Nếu tất cả đều không có thì Tỳ-kheo tăng nên chia, cho đến Sa-di nên chia cũng giống như vậy”. Lại có một trú xứ, đàn việt thí y cho hai bộ tăng, nhưng nơi đây không có Tỳ-kheo tăng, Phật nói Tỳ-kheo-ni tăng nên chia, nếu Tỳ-kheo-ni tăng cũng không có thì hiện tiền nếu có ba hoặc hai Tỳ-kheo nên chia, nếu có một Tỳ-kheo thì nên tâm niệm miệng nói mà thọ; hiện tiền nếu có ba, hai Tỳ-kheo-ni nên chia; hoặc có ba, hai Thức-xoa-ma-na nên chia; Sa-di có ba hoặc hai cũng nên chia; nếu có một cũng nên tâm niệm miệng nói mà thọ; hoặc có ba, hai Sa-di-ni cũng nên chia, nếu có một thì cũng tâm niệm miệng nói mà thọ. Phật tại Xá-bà-đề, lúc đó có cư só thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, cư só biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Chúng tăng đắp y mang bát đến nhà cư só, Phật ở trong tinh xá chờ thị giả mang phần thức ăn về, cư só thấy Tăng đã ngồi xong liền dâng thức ăn ngon cho các Thượng tòa và trung tòa; còn Hạ tòa và Sa-di thì cho cơm loại gạo tẻ sáu mươi ngày và món cạên hồ ma nấu với rau. Tăng ăn xong liền lấy chiếc ghế ngồi trước Thượng tòa nghe thuyết pháp, Thượng tòa Xá-lợi-phất thuyết pháp xong liền đứng dậy cùng Tăng ra về. Sa-di La-hầu la về đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên, thường pháp của Phật là khi Tỳ-kheo thọ thực xong trở về, Phật liền thăm hỏi ăn uống có no đủ không. Lúc đó Phật hỏi La-hầu la ăn uống có no đủ không, La-hầu la đáp: “Có người được no đủ, có người không được no đủ”, Phật hỏi: “Tại sao nói lời này”, La- hầu-la nói: “Cư só dâng thức ăn ngon cho các Thượng tòa và trung tòa nên Thượng trung tòa no đủ; còn Hạ tòa và Sa-di thì cho cơm loại gạo tẻ sáu mươi ngày và món cạên hồ ma nấu với rau nên Hạ tòa và Sa-di không no đủ”, La-hầu la liền nói kệ: “Ăn dầu mè có được khí lực, Người ăn Tô càng được tịnh sắc, Cặn mè với rau không có sức, Phật thiên trung thiên nên tự biết”. Phật hỏi La-hầu la: “Trong Tăng ai là Thượng tòa?”, đáp là trưởng lão Xá-lợi-phất, Phật nói: “Tỳ-kheo Xá-lợi-phất ăn thức ăn bất tịnh”. Lúc đó trưởng lão Xá-lợi-phất nghe biết Phật quở trách lời này liền nôn ra hết thức ăn vừa mới ăn, từ đó về sau cho đến trọn đời không thọ thỉnh thực và Tăng bố thí mà thọ pháp khất thực. Các cư só quý trọng trưởng lão Xá-lợi-phất làm thức ăn cúng Tăng, muốn được trưởng lão Xá-lợi- phất đến nhà nên bạch Phật: “Cúi xin Phật bảo trưởng lão Xá-lợi-phất thọ thỉnh thực trở lại”, Phật nói: “Các vị không thể cầu mong trưởng lão Xá-lợi-phất thọ thỉnh thực trở lại, vì sao, vì tánh của Xá-lợi-phất nếu thọ thì nhất định sẽ thọ, nếu bỏ thì nhất định bỏ. Xá-lợi-phất không phải chỉ đời này có tánh ấy mà trong quá khứ cũng như vậy, nếu thọ thì nhất định thọ, nếu bỏ thì nhất định bỏ. Các vị lắng nghe ta nói nhân duyên bổn sanh: Quá khứ có một quốc vương bị rắn độc cắn, một thầy thuốc có thể trị được rắn độc, làm chú Xà-già-la bắt rắn độc đến trước một lò lửa nói với rắn độc rằng: “Ngươi thà vào lò lửa này hay là nuốt nọc độc trở lại”, rắn độc suy nghó: “Phóng nọc độc ra rồi làm sao nuốt trở lại, ta thà vào trong lửa chết”, nghó rồi liền lao vào lửa mà chết. Phật bảo các cư só: “Con rắn độc xưa kia, nay chính là trưởng lão Xá-lợi-phất, xưa kia cũng đã nếu thọ thì nhất định thọ, nếu bỏ thì nhất định bỏ”. Lúc đó Phật đủ lời quở trách Xá-lợi-phất rồi bảo các Tỳ- kheo: “Từ nay nên hành pháp Thượng tòa trong Tăng, nên hành như sau: Khi Tăng xướng thời đáo hoặc đánh kiền chùy nên mau đến chỗ ngồi, nên nhìn ngó thượng, trung, hạ tòa ngồi có như pháp không, có mất thứ lớp không. Nếu có ai ngồi không như pháp, không theo thứ lớp thì Thượng tòa nên chỉ bảo, nên hiện tướng cho biết, nếu không biết thì khảy móng tay, nếu khảy móng tay mà cũng không biết thì nên nói với người ngồi gần bên, nên nói lời dịu dàng. Khi thí chủ cúng thức ăn cho Tăng, Thượng tòa nên bảo sớt thức ăn bình đẳng, phải đợi xướng Tăng bạt và tất cả Tăng phải thuận theo Thượng tòa”. Phật tại thành Vương xá, trong thành có một cư só tên là Thi-lợi- cừu-đa có oai đức lớn và nhà rất giàu có, là đệ tử của Bà-la-môn ngoại đạo. Người nay nghi không biết Sa-môn Cù-đàm có phải là Nhất thiết trí hay không, liền đến chỗ Phật thăm hỏi rồi ngồi một bên, Phật tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho cư só điều nên làm và điều không nên làm khiến được lợi hỉ rồi liền im lặng. Thi-lợi-cừu-đa nghe pháp rồi chắp tay bạch Phật: “Cúi xin Sa-môn Cù-đàm ngày mai đến nhà con thọ thực”, Phật vì thương xót và vì người này đáng độ nên Phật im lặng nhận lời. Thi-lợi-cừu-đa biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ hữu nhiều rồi ra về, đến nhà liền cho làm một hầm lửa lớn bên ngoài cửa lớn, làm cho lửa này không có khói cũng không có lửa ngọn rồi phủ cát lên, nghó rằng: “Nếu Sa-môn Cù-đàm là Nhất thiết trí thì sẽ biết được việc này, nếu không phải là Nhất thiết trí thì Sa-môn Cù-đàm cùng các đệ tử sẽ rơi xuống hầm lửa này”; kế đó vào nhà trải tấm bạch điệp lên trên giường không có dệt, nghó rằng: “Nếu Sa-môn Cù-đàm là Nhất thiết trí thì sẽ biết được việc này, nếu không phải là Nhất thiết trí thì Sa-môn Cù-đàm cùng các đệ tử sẽ té xuống đây”; kế dùng thuốc độc hòa trong thức ăn thức uống, nghó rằng: “Nếu Sa-môn Cù-đàm là Nhất thiết trí thì sẽ biết được việc này, nếu không phải là Nhất thiết trí thì Sa-môn Cù-đàm cùng các đệ tử sẽ trúng độc mà chết”. Sáng sớm hôm sau liền sai sứ đến bạch Phật đã đến giờ, Phật bảo A-nan đi thông báo cho chúng tăng rằng: Tất cả Tăng không được đi trước Phật, tất cả nên đi sau Phật; A- nan vâng lời Phật dạy đi thông báo cho Tăng biết. Lúc đó Phật đi trước, chúng tăng đi sau, khi sắp bước vào nhà, Phật biến hầm lửa bên ngoài cửa thành ao hoa sen đủ loại đủ màu sắc, nước đầy trong ao; Phật và chúng tăng đi trên cánh hoa sen lớn để vào trong nhà. Phật nói với Thi- lợi-cừu-đa: “Cư só hãy bỏ tâm nghi ngờ, ta thật là bậc Nhất thiết trí”, nói rồi đến ngồi trên giường không dệt, giường biến thành có dệt, Phật nói với Thi-lợi-cừu-đa: “Cư só hãy bỏ tâm nghi ngờ, ta thật là bậc Nhất thiết trí”. Thi-lợi-cừu-đa thấy thần lực của Phật rồi liền sanh tín tâm cung kính tôn trọng, vui vẻ bạch Phật: “Trong thức ăn này có độc, cúi xin Phật đợi một lát để con cho làm lại thức ăn khác”, Phật bảo: “Cư só cứ thí thức ăn này”, nói rồi Phật bảo A-nan: “Thầy bảo chúng tăng chưa xướng Đẳng cúng thì không được ăn”, A-nan liền thông báo cho Tăng: “Đại đức tăng nghe, Phật dạy chưa xướng Đẳng cúng thì không được ăn”. Lúc đó Phật chú nguyện: “Dâm, nộ si là ba độc của thế gian, Phật có thật pháp diệt trừ được tất cả độc, Phật là thật ngữ nên tất cả độc đều được giải trừ”, Phật chú nguyện rồi, thức ăn liền biến thành không có độc. Thi-lợi-cừu-đa tự tay dâng thức ăn cho Phật và Tăng, khiến tất cả đều được no đủ rồi lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước Phật muốn nghe pháp, Phật tùy thuận thuyết pháp vi diệu khiến cho Thi-lợi-cừu- đa ngay nơi chỗ ngồi được pháp nhãn thanh tịnh vô cấu. Sau khi thấy pháp, biết pháp, được tịnh pháp, vượt khỏi nghi hối, bất tín, không từ nơi người khác mà ở trong đạo quả được vô sở úy. Thi-lợi-cừu-đa đảnh lễ rồi bạch Phật: “Từ nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, thọ trì năm giới làm Ưu-bà-tắc”, Phật lại thuyết giàng chỉ dạy cho được lợi hỉ rồi đứng dậy cùng chúng tăng ra về. Về đến tinh xá, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay không được đi trước Phật, không được đi trước Hòa thượng, A-xà-lê và tất cả Thượng tòa; từ nay chưa xướng Đẳng cúng thì không được ăn, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la”. Có một trú xứ ở nước Kiều-tát-la, hai bộ Tăng được cúng y vật. Lúc đó Tỳ-kheo đông, Tỳ-kheo-ni ít nên Tỳ-kheo nói: “Chúng tôi lấy hai phần, các cô lấy một phần”, Tỳ-kheo-ni không chịu, đòi chia hai, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chia bằng nhau; Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni nên chia cho phần thứ tư trong bốn phần”. Phật tại thành Vương xá, lúc đó có cư só tên Bà-đề làm phòng xá cúng cho Phật và Tăng, trang hoàng rất đẹp và sửa soạn rất nhiều thức ăn cúng dường cho tất cả Tỳ-kheo tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị. Lại có cư só cúng y vật cho Tăng và nói: “Nếu Phật cho ở trong đại chúng lớn tiếng xướng thì tốt”, bạch Phật, Phật liền cho xướng lớn tiếng. Tỳ-kheo đứng nơi đất bằng xướng, chúng đông nên không nghe thấy, Phật bảo nên đứng chỗ cao xướng, khi đứng chỗ cao xướng thì ai cũng đều nghe thấy được. Lại có cư só thấy đại chúng tập họp nên muốn bố thí y Ma-la-tỳ ha la, Phật cho thí; cư só lại muốn mang lư hương đi trước, Phật cũng cho mang lư hương đi trước, chúng tăng im lặng đi sau, ngoại đạo thấy liền chê trách: “Sa-môn Thích tử đi sau lư hương giống như mang người chết đi ra không khác”, cư só liền xin Phật cho được tấu kỹ nhạc đi trước, Phật cũng cho. Lại có cư só cúng nhiều y vật xin Phật cho xướng tán, Phật cũng cho xướng tán. Lúc đó không có người thọ nhận và coi giữ số y vật này, Phật nói: “Nên tác pháp yết ma sai một người thọ và coi giữ y vật. Tỳ-kheo có năm pháp không nên sai thọ và coi giữ y vật: Một là không biết chỗ, hai là không biết giá, ba là không biết thọ nhận, bốn là không biết số, năm là hay quên, không nhớ chỗ. Ngược với năm pháp trên thì nên sai thọ và coi giữ y vật”. Lại không có người chia y vật này, Phật nói: “Nên tác pháp yết ma sai người chia y vật. Tỳ-kheo có năm pháp không nên sai chia y: Một là không biết y, hai là không biết màu sắc y, ba là không biết giá y, bốn là không biết số, năm là không biết là cho hay không cho. Ngược với năm pháp trên thì nên sai chia y. Người chia y khi chia y không được khen ngợi làm loạn tâm chúng, người được chia nên im lặng nhận phần y”. Phật tại Xá-bà-đề, lúc đó trong tinh xá Kỳ-hoàn có người do nhân duyên làm phòng xá mới cho Tăng nên sửa soạn thức ăn uống cúng dường cho Tỳ-kheo tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị. Các Tỳ-kheo khi vào chỗ ngồi, không theo thứ lớp ngồi, ăn, đứng dậy và đi ra; có vị vào trước, có vị đang lúc dọn đưa thức ăn mới vào, có vị vào lúc đang ăn, lại có vị vào lúc đã ăn xong, Phật bảo nên xướng báo giờ. Khi xướng báo giờ, ở xa không nghe được, Phật bảo nên đánh kiền chùy; ở xa cũng không nghe được, Phật bảo nên đánh trống; trống để dưới đất đánh, ở xa cũng không nghe được, Phật bảo nên để trống trên giá đánh; vẫn không nghe xa được, Phật bảo nên để trên chỗ cao, khi để trên chỗ cao đánh, khắp nơi đều được nghe . Lúc đó không có người coi ngó thức ăn nên thức ăn hoặc chưa làm xong, chưa nấu chín, tuy đã đến giờ ăn mà thức ăn vẫn chưa dọn đến. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo: “Tăng nên tác pháp yết ma sai người coi ngó thức ăn”. Có một trú xứ ở nước Kiều-tát-la, hai bộ Tăng được cúng y vật. Lúc đó Tỳ-kheo-ni đông, Tỳ-kheo ít nên Tỳ-kheo nói: “Y vật này nên chia làm hai phần, các cô lấy một phần, chúng tôi lấy một phần”, Tỳ- kheo-ni nói: “Trước kia chúng tôi ít thì các Tỳ-kheo đòi lấy hai phần; nay chúng tôi đông sao lại đòi chia hai”, Tỳ-kheo-ni không chịu chia hai, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chia bằng nhau; Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni nên chia cho phần thứ tư trong bốn phần”. Lúc đó có đàn việt thí thức ăn cho Tăng nơi đất trống, trên mâm còn bánh dư, trong chõ còn cơm dư, trong nồi còn canh dư. Các ngoại đạo dị học vì ganh tî nên đem hèm rượu bỏ vào trong cơm canh dư, nghó rằng: “Thức ăn này bất tịnh khiến cho Sa-môn Thích tử không ăn được”, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Nếu thấy chỗ nào nên bỏ thì bỏ, phần còn lại nên ăn”. Lúc đó các Tỳ-kheo cùng các Sa-di chuyền bát để ăn, Tỳ-kheo chuyền cho Sa-di, Sa-di chuyền cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đã rửa tay rồi lại thọ từ Sa-di nên sanh tâm nghi không biết có bất tịnh hay không, bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm đưa cho Sa-di bát thì gọi là tịnh”. Khi các Sa-di đi dọn đưa thức ăn thì các Tỳ-kheo nhận phần thức ăn giùm cho Sa-di rồi sanh tâm nghi không biết có phải là xúc thực hay không, Phật nói: “Tỳ-kheo thọ xúc thực không phạm”. Lúc đó các Tỳ-kheo ăn xong đưa bát dơ cho Sa-di, bạch y rửa; Sa-di, bạch y rửa xong bỏ lại trong chậu, Tỳ-kheo không biết có bất tịnh không, bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm đưa bát cho tịnh nhơn thì gọi là tịnh”. Có Tỳ-kheo thọ đàn việt thí thực nơi đất trống, ăn xong bỏ lại đó các đồ đựng thức ăn mà đi, các đồ đựng thức ăn này bị gió mưa bùn đất làm dơ, Phật bảo: “Đồ đựng thức ăn nên rửa sạch rồi cất vào chỗ có ngăn che”. Lúc đó các Tỳ-kheo dùng tháo đậu rửa hai, ba lần mà chất bợn dính trong bát không sạch, dùng cây gỗ chà cũng không sạch nên dùng rất nhiều nước, chỗ lấy nước rất xa, cư só đem nước bố thì liền trách: “Biết lấy nước rất xa sao lại dùng nhiều nước như thế”, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Nếu nhất tâm dùng tháo đậu rửa hai, ba lần thì gọi là rửa sạch”. Lúc đó các Tỳ-kheo hỏi Phật: “Nước đục có được uống không?”, Phật nói: “Nếu trước nghi là bất tịnh thì không nên uống, nếu trước không nghi thì nên uống”. Có một trú xứ ở nước Kiều-tát-la, Tăng được thí y vật nhưng không phải tất cả Tăng đều ở đó, Tỳ-kheo chia y vật này không biết chia làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Y vật này nên chia làm hai phần nói rằng: “Phần này thuộc về thượng tòa, phần kia thuộc về hạ tòa hoặc phần này thuộc về hạ tòa, phần kia thuộc về thượng tòa”. Làm như vậy gọi là được yết ma, sau đó nếu có Tỳ-kheo khác đến, không muốn cho thì không nên cho, Tỳ-kheo khác không được gắng gượng đòi. Nếu không làm yết ma như thế thì Tỳ-kheo không được thọ y vật này, nếu thọ thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo này nên đem y vật này chia cho Tỳ-kheo khác; nếu không làm như vậy thì khi xuất giới phạm Đột-kiết-la, cũng phải đem chia cho Tỳ-kheo khác”. Nếu tất cả Tăng đều ở đó thì nên yết ma chia, Tăng nên yết ma giao y vật này cho một Tỳ-kheo, pháp giao như sau: Tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ-kheo trong Tăng xướng rằng: Đại đức Tăng lắng nghe, trú xứ này được cúng dường y vật hiện tiền tăng nên chia. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay giao y vật này cho Tỳ-kheo . Bạch như vậy. Như thế bạch nhị yết ma cho đến câu Tăng nay đã giao y vật cho Tỳ-kheo xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Nếu Tỳ-kheo này nhận y vật rồi sau đó không chịu hoàn lại, nói rằng: “Đây là chơn thật thí, khéo cho, khéo thủ pháp, khéo đoán sự, tất cả đều từ trong Tăng, vì sao phải hoàn lại”, Phật nói: “Tăng nên bảo Tỳ-kheo này rằng: “vật thí này vốn vì làm tịnh nên thí, không phải là chơn thật thí”, nếu Tỳ-kheo này hoàn lại thì tốt, nếu không hoàn lại thì Tăng nên cưỡng đoạt lại và bảo Tỳ-kheo này sám tội Đột-kiết-la”. Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Y mà Phật cho mặc trên thân, y che thân, khăn lau thân, khăn lau chân, khăn lau mặt, Tăng kỳ chi, Nê-hoàn-tăng; y này gọi là gì?”, Phật nói: “Gọi là y Ba-ca-la”, lại hỏi: “Y này thọ như thế nào?”, Phật nói: “Nên nói: Y Ba-ca-la này tôi thọ dụng”, lại hỏi: “Nên ở bên người nào thọ?”, Phật nói: “Nên ở bên năm chúng thọ”, lại hỏi: “Thượng tòa nêu không thông minh, phi pháp ngăn thì có thành ngăn không?”, Phật nói không thành ngăn, lại hỏi: “Nếu Thượng tòa trì giới nhưng phi pháp phi thiện ngăn thì có thành ngăn không?”, Phật nói không thành ngăn, lại hỏi: “Như Phật đã dạy nếu ngăn yết ma như pháp thì không thành ngăn yết ma. Như vậy tất cả không thành ngăn phải không?”, Phật nói không thành ngăn. Nếu có Sa-di khi thọ giới cụ túc, tâm hối hận không muốn thọ nữa nên nói rằng: “Tôi không muốn thọ giới cụ túc nữa”, thì lời nói này thành ngăn. Nếu Sa-di-ni khi thọ sáu pháp làm Thức-xoa-ma-na mà nói rằng: “Tôi không muốn thọ sáu pháp”, thì lời nói này thành ngăn. Nếu Thức-xoa-ma-na khi thọ giới cụ túc nói rằng: “Tôi không muốn thọ giới cụ túc”, thì lời nói này thành ngăn. Nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già- bà-thi-sa khi Tăng cho Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa, Bổn nhật trị, yết ma phù-ha-na; Tỳ-kheo này nói rằng: “Chớ làm, tôi không dùng”, thì lời nói này thành ngăn. Nếu mười bốn hạng Tỳ-kheo khi được cử ở trong Tăng mà nói rằng: “Tôi không dùng”, thì lời nói này thành ngăn. Lại hỏi: Có Tỳ-kheo bị tẫn muốn sám hối, khi sám hối hạ mình tùy thuận Tăng, ở ngoài giới có được làm yết ma giải tẫn hay không? Đáp: Không được, nếu làm thì người làm yết ma giải tẫn phạm tội. Lại hỏi: Như Phật đã dạy, có hai nguyên nhân nên phá Tăng: Một là xướng nói, hai là lấy thẻ. Trong đây nếu Tỳ-kheo tặc trụ, Sa-di học hối, và bốn hạng người vốn là bạch y nếu xướng nói và phát thẻ thì có gọi là phá Tăng không? Đáp: Không gọi là phá Tăng. Lại hỏi: Số đầy đủ nhưng nếu có một Tỳ-kheo chuyển căn thành nữ thì có gọi là phá Tăng không? Đáp: Không gọi là phá Tăng. Lại hỏi: Nếu trải chỗ ngồi bằng cỏ hay giường dài thì có được ngồi chung với người chưa thọ giới cụ túc không? Đáp: Được ngồi. Lại hỏi: Được ngồi chung với huỳnh môn không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Được ngồi chung với Sa-di học hối không? Đáp: Được ngồi. Lại hỏi: Hai Sa-di học hối có được ngồi chung không? Đáp: Không được. Lại hỏi: Làm giường dài ngồi được khoảng bao nhiêu người?. Đáp: Tối thiểu dung chứa bốn người ngồi. Có cư só làm phòng xá trong tinh xá Kỳ-hoàn thấy Tỳ-kheo ở trong phòng này mang bát khất thực liền hỏi: “Vì sao thầy đi khất thực?, đáp là không có thức ăn, cư só nói: “Thầy về đi, tôi sẽ cho người mang thức ăn đến”, nói rồi cho người mang đến, Tỳ-kheo hỏi người này: “Thức ăn mang đến cho ai?”, đáp là mang đến cho Tăng, Tỳ-kheo liền dẫn người này mang đến để ở chỗ thức ăn của Tăng. Sáng hôm sau cư só lại thấy Tỳ-kheo ở trong phòng này mang bát khất thực liền hỏi: “Vì sao thầy đi khất thực?, đáp là không có thức ăn, cư só nói: “Hôm qua tôi cho người mang thức ăn đến, vì sao thầy không ăn”, Tỳ-kheo nói: “Thức ăn có mang đến, tôi hỏi người này: “Thức ăn mang đến cho ai?”, người này đáp là mang đến cho Tăng, tôi liền dẫn người này mang đến để ở chỗ thức ăn của Tăng, vì thế nên tôi không có thức ăn”, cư só nói: “Tôi không cúng thức ăn cho tất cả Tăng, tôi chỉ cúng cho Tỳ-kheo ở trong phòng mà tôi đã làm”, Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu thí chủ cúng thức ăn cho Tỳ-kheo ở trong phòng nào thì Tỳ-kheo ở trong phòng đó được thọ”. Có cư só làm phòng xá trong tinh xá Kỳ-hoàn, mấy ngày sau đến trong Kỳ-hoàn muốn nghe pháp, chiều tối đánh kiền chùy muốn ở trong phòng mình đã làm ngồi nghe pháp, Tỳ-kheo ngồi trong bóng tối thuyết pháp, cư só kêu đốt đèn, Tỳ-kheo nói là không có tô dầu, cư só nói: “Tôi sẽ cho người mang tô dầu đến”. Người sứ mang tô dầu đến, Tỳ-kheo hỏi: “Mang cho ai?”, đáp là cho Tăng, Tỳ-kheo liền dẫn người sứ mang tô dầu đến để ở chỗ cất dầu đốt đèn của Tăng. Thời gian sau, cư só lại đến trong Kỳ-hoàn muốn nghe pháp, chiều tối đánh kiền chùy muốn ở trong phòng mình đã làm ngồi nghe pháp, Tỳ-kheo ngồi trong bóng tối thuyết pháp, cư só kêu đốt đèn, Tỳ-kheo nói là không có tô dầu, cư só nói: “Trước đây tôi đã cho người mang tô dầu đến, sao nay thầy không đốt”. Tỳ-kheo nói: “Khi người sứ mang tô dầu đến, tôi hỏi: “Mang cho ai?”, đáp là cho Tăng, tôi liền dẫn người sứ mang tô dầu đến để ở chỗ cất dầu đốt đèn của Tăng”, cư só nói: “Tôi không cúng tô dầu cho tất cả Tăng, tôi chỉ cúng cho Tỳ-kheo ở trong phòng mà tôi đã làm”, Tỳ- kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Nếu thí chủ cúng tô dầu cho Tỳ-kheo ở trong phòng nào thì Tỳ-kheo ở trong phòng đó được thọ. Cho đến dầu thoa chân, giày dép, y bát cũng như vậy; nếu đàn việt nói: “Đại đức ở trong đây bao lâu, đại đức được tùy ý thọ dụng”, thì Tỳ-kheo được dùng; hoặc nói: “Vật này thuộc về thầy, thầy tùy ý mang đi”, thì Tỳ- kheo được mang đi”. Lúc đó Tỳ-kheo không mặc y che thân lại dùng ngọa cụ của Tăng khiến cho ngọa cụ này mất màu, dơ bẩn sanh trùng. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Từ nay Tỳ-kheo không mặc y che thần không được dùng ngọa cụ của Tăng, nếu dùng thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó các Tỳ-kheo không biết làm y che thân kích lượng bao nhiêu, Phật nói: “Tối thiểu che được phần thân là ngực, lưng bụng và đầu gối”. Lúc đó các Tỳ-kheo không ái hộ ngọa cụ của Tăng, bạch Phật, Phật nói: “Khi dùng ngọa cụ của Tăng phải ái hộ, nếu không ái hộ mà dùng thì phạm Đột-kiết-la. Có năm việc không ái hộ là nước, ánh nắng mặt trời, bụi đất, lau và xúc chạm”. Lúc đó các Tỳ-kheo dùng ngọa cụ của Tăng đứng trong mưa khiến cho ngọa cụ này mất màu, chất nhuộm chảy ra, bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không được dùng ngọa cụ của Tăng mà đứng trong mưa, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la”. Lại có các Tỳ-kheo dùng ngọa cụ của Tăng hướng về lửa hơ thân, khiến cho ngọa cụ này bị khói bám, sắc xấu, hư hoại. Phật nói: “Từ nay không được dùng ngọa cụ của Tăng mà hướng về lửa hơ thân, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la. Nếu ngọa cụ có phủ một lớp bên ngoài thì không phạm”. Lại có Tỳ-kheo dùng ngọa cụ của Tăng đi vào chỗ đại tiểu tiện, chỗ rửa và nhà tắm, khiến cho ngọa cụ này dơ bẩn, mất màu và sanh trùng. Phật nói: “Từ nay không được dùng ngọa cụ của Tăng mà đi vào chỗ đại tiểu tiện, chỗ rửa và nhà tắm, nếu làm thế thì phạm Đột-kiết-la”. Lục quần Tỳ-kheo cạo tóc cho một tiểu Tỳ-kheo, cạo chưa xong, chưa mặc ca-sa liền đuổi đi. Phật nói: “Khi cạo tóc tiểu Tỳ-kheo, còn một chỏm tóc thì không nên đuổi, nếu đuổi thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó các Tỳ-kheo mài sắc dao hớt tóc, kéo và dao cắt móng tay của Tăng để dùng thì Lục quần Tỳ-kheo đến giành lấy dùng, nói rằng: “Chúng tôi là Thượng tòa, các thầy nhỏ hơn, hãy để chúng tôi dùng trước”, các Tỳ-kheo không cho nên cùng tranh cãi, bạch Phật, Phật nói: “Không nên cho, người mài dao trước nên dùng trước rồi mới đưa cho dùng sau”. Lục quần Tỳ-kheo thấy tiểu Tỳ-kheo vào chỗ đại tiểu tiện hoặc chỗ rửa trước, hoặc trong nhà tắm, liền đuổi đi ra và nói: “Chúng tôi là Thượng tòa, các thầy nhỏ hơn nên đi ra, đừng để người không bịnh bị mắc bịnh, người mắc bịnh càng thêm nặng”. Phật nói: “Ở chỗ đại tiểu tiện, chỗ rửa và nhà tắm, người đến sau không được đuổi người vào trước đi ra, nếu đuổi thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại nước Xá-bà-đề, lúc đó trưởng lão A-Nan-đang thuyết pháp cho đại chúng, có một Thượng tòa đến sau bảo Tỳ-kheo hạ tòa đứng dậy nhường chỗ, vị Hạ tòa này đứng dậy lui xuống thì vị Hạ tòa thứ ba phải đứng dậy lui xuống, cứ như thế thứ lớp đứng dạây lui xuống nhường chỗ, khiến trong chúng tán loạn làm trở ngại việc nghe pháp. Các trưởng giả trong hội nói: “Trong đây đâu phải là thọ thực, cần gì phải ngồi theo thứ lớp làm cho trở ngại việc nghe pháp”. Phật nghe thấy rồi, vì việc này nên nhóm Tỳ-kheo tăng rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay khi nghe pháp Thượng tòa đến sau không được bảo Hạ tòa đứng dậy nhường chỗ, nếu bảo đứng dậy thì phạm Đột-kiết-la. Nếu là Hòa thượng, A-xà-lê đến vì cung kính nên bản thân tự đứng dậy nhường chỗ thì không được bảo người khác đứng dậy, nếu bảo người khác đứng dậy thì phạm Đột-kiết-la. Từ nay ba-tỳ-kheo cách nhau ba tuổi hạ thì được cùng ngồi một giường lớn; hai người được cùng ngồi một giường dây; giường độc tọa thì chỉ được một người ngồi, không được hai người”. Lúc đó các Tỳ-kheo dùng nồi của Tăng để nấu thuốc nhuộm, nấu xong bỏ y vào trong đó rồi để nồi nước nhuộm này ở một chỗ khác. Lục quần Tỳ-kheo đến nói: “Hãy đưa nồi cho tôi, tôi là Thượng tòa muốn dùng”, nói rồi liền đem nồi nước nhuộm này sớt qua vật này, vật khác để lấy nồi, khiến cho màu sắc của y nhuộm biến thành màu đen. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Không nên cho lấy, Tỳ-kheo lấy trước dùng xong rồi mới đưa cho Thượng tòa dùng sau”. Lúc đó nước nhuộm còn dư một ít, Thượng tòa đến xin không cho, Phật nói: “Nước nhuộm còn dư, có thể đổ bỏ thì nên cho người khác dùng”. Lúc đó các khách Tỳ-kheo lượm lấy cây trong vườn Tăng để nấu cơm canh, nấu nước nhuộm… khiến cựu Tỳ-kheo không vui, nói rằng: “Cây trồng trong vườn, chúng tôi chăm sóc cực khổ, các thầy là khách lấy dùng mà không nói với tôi một tiếng”, Phật nói: “Nên nói với cựu Tỳ-kheo rồi mới lấy dùng. Từ nay, hoa cây trong vườn của Tăng chỉ nên lấy cùng dường tháp Phật, tháp A-la-hán; còn trái thì nên bảo tịnh nhân hái cho Tỳ-kheo ăn. Những cây lớn trong vườn nên dùng làm rường cột cho Tăng bốn phương; vỏ cây, cành lá thì các Tỳ-kheo tùy ý lấy dùng”. Phật tại Xá-bà-đề, trưởng giả Cấp-cô-độc làm tinh xá Kỳ-hoàn xong, dùng vô số đồ trang nghiêm để trang nghiêm rồi cúng cho Tăng. Các Tỳ-kheo không thọ, nói rằng: “Phật chưa cho chúng tôi thọ phòng xá trang nghiêm như vậy”, bạch Phật, Phật nói: “Phòng xá này thanh tịnh, cho thọ”. Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo đuổi các Tỳ-kheo đang tọa thiền, nói rằng: “Hãy đứng dậy, chúng tôi là Thượng tòa, các thầy nhỏ hơn”, bạch Phật, Phật nói: “Khi tọa thiền không tính lớn nhỏ, không được đuổi đi ra; nếu đuổi thì phạm Đột-kiết-la”. Lúc đó các Tỳ-kheo đang rửa chân, Lục quần Tỳ-kheo cũng đuổi đi ra, bạch Phật, Phật nói: “Khi rửa chân không tính lớn nhỏ, không được đuổi đi ra; nếu đuổi thì phạm Đột-kiết- la”. Lúc đó các Tỳ-kheo lấy giẻ lau chân của Tăng đem giặt phơi rồi dùng lau giày phú la, Lục quần Tỳ-kheo đến giành lấy và nói rằng: “Chúng tôi là Thượng tòa, các thầy nhỏ hơn, hãy để chúng tôi dùng trước”, các Tỳ-kheo không cho nên cùng tranh cãi, bạch Phật, Phật nói: “Không nên cho, người lấy trước nên dùng trước rồi mới đưa cho dùng sau”. Có một trú xứ, cựu Tỳ-kheo tự mượn lấy vật của tháp để dùng, Tỳ-kheo này qua đời, các Tỳ-kheo không biết chia y vật như thế nào nên bạch Phật, Phật nói: “Nên tính giá tiền các y vật nộp trả cho tháp, còn dư bao nhiêu thì Tăng nên chia”. Lại có trú xứ chỉ có một Tỳ-kheo đem y vật của mình dùng cho tháp, Tỳ-kheo này qua đời, các Tỳ-kheo không biết chia y vật như thế nào nên bạch Phật, Phật nói: “Nên tính giá tiền vật của tháp trả lại, hiện tiền Tăng nên chia”. Có một trú xứ chỉ có một Tỳ-kheo mượn lấy vật của Tứ phương tăng để dùng, Tỳ-kheo này qua đời, các Tỳ-kheo không biết chia y vật như thế nào nên bạch Phật, Phật nói: “Nên tính giá tiền các y vật nộp trả cho Tứ phương tăng, còn dư bao nhiêu thì Tăng nên chia”. Lại có trú xứ chỉ có một Tỳ-kheo đem y vật của mình cho Tứ phương tăng dùng, Tỳ-kheo này qua đời, các Tỳ-kheo không biết chia y vật như thế nào nên bạch Phật, Phật nói: “Nên tính giá tiền các y vật của Tứ phương tăng trả lại, hiện tiền Tăng nên chia. Tỳ-kheo khách hay cựu Tỳ-kheo cũng giống như thế”. Có một Tỳ-kheo gởi y bát cho một cư só, cư só này làm mất, Tỳ- kheo theo đòi nói rằng: “Ông tự làm mất, không phải tôi làm mất, ông nên bồi thường”, bạch Phật việc này, Phật nói: “Nếu giữ gìn tốt mà làm mất thì không nên đòi bồi thường, nếu giữ gìn không tốt mà làm mất thì nên đòi bồi thường”. Lại có một thương buôn gởi y vật cho Tỳ- kheo, Tỳ-kheo làm mất, thương buôn theo đòi nói rằng: “Thầy tự làm mất, không phải tôi làm mất, thầy nên bồi thường”, bạch Phật việc này, Phật nói: “Nếu được tự tại thì không nên đền, nếu không tự tại thì nên đền”. Có cư só làm phòng xá trong tinh xá Kỳ-hoàn xong, thiết thực cúng dường cho Tỳ-kheo tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị, lúc đó có những người không biết pháp ở các nước khắp bốn phương đến tụ họp bố thí cho các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo liền chú nguyện, khi tán Phật thì nói Phật đại lực đại đức, tán Pháp thì nói Pháp đại đức đại lực, khi tán Tăng thì nói Tăng đại đức đại lực; cho đến tán thán các trưởng lão Xá- lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, A-na-luật… Tán thán tam bảo như vậy là vô lượng vô số A-tăng-kỳø. Trong số những người này, có người trì danh hiệu Phật, có người trì danh hiệu Pháp, có người trì danh hiệu Tăng, cho đến danh hiệu các trưởng lão Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên… Sau khi giải tán ai nấy trở về nhà cửa ruộng vườn thôn xóm của mình. Thời gian sau các Tỳ-kheo đi đến nhà của họ để khất thực, người trì danh hiệu Phật thì nói Phật đến sẽ bố thí, người trì danh hiệu Pháp thì nói Pháp đến sẽ bố thí… cuối cùng các Tỳ-kheo không khất thực được gì nên đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Người ở vùng biên của các nước đó không biết gọi là Tỳ-kheo thì nên cho thức ăn, mà gọi là Phật hay Pháp hay Tăng mới nên cho thức ăn, thức ăn tự tại nên thọ”. Có Tỳ-kheo bịnh, có Tỳ-kheo thân quen đến thăm, Tỳ-kheo bịnh mời ngồi cùng nhau thăm hỏi một lát thì Tỳ-kheo khách đứng dậy muốn ra về, Tỳ-kheo bịnh hỏi vì sao muốn đi, đáp là vì không mang theo y, Tỳ-kheo bịnh nói: “Tôi cho thầy y”, nói rồi liền đưa cho. Tỳ-kheo khách ngủ qua đêm, sáng hôm sau mang y này đi, Tỳ-kheo bịnh nói: “Y của tôi không được mang đi”, Tỳ-kheo khách nói: “Y này thầy đã thật cho tôi”, Tỳ-kheo bịnh nói: “Không phải thường cho thầy, vì thọ nên đưa cho”, Tỳ-kheo khách nói là thường cho nên không trả lại, Tỳ-kheo bịnh không biết làm sao nên đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Đây không phải là thật cho, vì thanh tịnh nên đưa cho. Tỳ-kheo này nên trả lại y, nói lời nhỏ nhẹ trả lại thì tốt, nếu không trả lại thì cưỡng đoạt lại và bảo Tỳ-kheo này sám tội Đột-kiết-la”. Phật tại tinh xá Kỳ-hoàn, lúc đó hỏa hoạn lan dần đến thiêu đốt tinh xá Kỳ-hoàn, Phật liền chú nguyện: “Tất cả lậu ta đều đoạn trừ, là chân A-la-hán đắc Phật đạo, lời Phật là thật ngữ thì lửa nên tắt hết”, Phật chú nguyện xong lửa liền tắt, các Tỳ-kheo mang ngọa cụ của Tăng ra để ở một chỗ, sau không biết ngọa cụ này ở phòng nào nên bạch Phật. Phật nói: “Nên làm dấu hiệu, làm dấu hiệu cũng không phân biệt được thì nên làm tướng khác, làm tướng khác cũng không phân biệt được thì nên cuộn tròn, hoặc vẽ chữ đức, hoặc viết tên, thuộc phòng nào, phòng nào”, ngọa cụ tuy biế của phòng nào nhưng lại không biết thuộc tầng gác nào, trên, giữa hay ở dưới, Phật bảo nên viết chữ để phân biệt rõ ràng là tầng trên hay tầng giữa hay tầng dưới. Lúc đó cư só Cấp-cô-độc làm lầu thí cho Tăng, Tăng không thọ, bạch Phật, Phật cho thọ; lại làm nệm cúng cho Tăng, Tăng cũng không thọ, bạch Phật, Phật cho thọ; lại xin được họa vẽ chạm trổ trên giường tòa, Phật nói: “Trừ vẽ hình tượng nam nữ, tất cả hình tượng khác đều cho vẽ”. Cấp-cô-độc làm năm trăm chiếc giường độc tọa có chạm trổ đẹp đẽ cúng cho Tăng, Tăng không thọ nói rằng: “Phật chưa cho thọ giường ngồi tốt đẹp như thế”, bạch Phật, Phật cho thọ. Phật tại Xá-bà-đề, có người dùng tấm bạch điệp bọc thây của người thân chết rồi đem bỏ trong rừng thây chết, người này suy nghó: “Ta nên đem tấm bạch điệp quấn người chết này thí cho Tăng để được phước”, nghó rồi liền đem bạch điệp này đến thí cho Tăng, các Tỳ-kheo không thọ nói rằng: “Phật chưa cho chúng tôi thọ y vật của người chết”, bạch Phật, Phật nói nên thọ. Lại có người nghèo khổ chết, người khác dùng y bọc xác người chết đem bỏ trong rừng thây chết, người này suy nghó: “Ta nên đem tấm bạch điệp quấn người chết này thí cho Tăng để được phước”, nghó rồi liền đem bạch điệp này đến thí cho Tăng, các Tỳ- kheo không thọ nói rằng: “Y này không có chủ, nên từ ai thọ y”, bạch Phật, Phật nói: “Nếu không có người nào khác thì theo pháp nên thọ”. Lúc đó bà con của người chết kia lại dùng y khác để bọc thây người chết, nhưng y này bất tịnh, liền trở lại chỗ Tỳ-kheo đòi lại chiếc y đã cho, các Tỳ-kheo không cho, bạch Phật, Phật nói nên cho. Cho lại rồi, người bà con này suy nghó: “Y này quấn hai người chết thì ai sẽ thọ”, nghó rồi liền bỏ y lại ở bên người chết rồi trở về, y này bị lấy mất. Các Tỳ-kheo theo đòi lại y, người kia đáp là đã mất, bạch phật, Phật nói: “Dùng lời nhỏ nhẹ đòi lại được thì tốt, nếu không được thì theo pháp nên cưỡng ép đòi lại”. Có một Tỳ-kheo mua chịu rượu rồi trả tiền dần dần, trả chưa xong thì chết, chủ quán rượu đến chỗ các Tỳ-kheo đòi tiền, các Tỳ-kheo nói: “Sao lúc còn sống không chịu đòi”, chủ quán rượu nói: “Hãy trả tiền nợ rượu lại cho tôi, nếu không trả tôi sẽ loan truyền khắp nơi là Sa-môn Thích tử uống rượu không chịu trả tiền”, các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Lấy y bát của tỳ-kheo này đem trả nợ, nếu không có thì nên lấy vật của Tăng đem trả nợ, vì sao, vì sợ mang tiếng xấu cho các Tỳ-kheo”. Phật tại Xá-bà-đề, lúc đó có một thương buôn xuất hành, trên đường đi phải đi ngang qua một đầm trống vắng vẻ đáng sợ, bỗng thấy có một tinh xá liền vào bên trong, thấy các Tỳ-kheo ngồi im lặng không phải ngủ, mà là tọa thiền nhập định sâu. Thương buôn này thấy rồi sanh tín kính, liền nói với các đệ tử: “Các con xem còn bao nhiêu thức ăn uống, đều mang đến bố thí cho các Tỳ-kheo này”, các đệ tử nói: “Không còn thức ăn, chỉ còn ít Bồ đào”, thương buôn nói: “Tùy con bao nhiêu đem cho bấy nhiêu, nếu không bố thí thì không được phước”, nói rồi liền đem Bồ đào bố thí cho các Tỳ-kheo, mỗi người được năm trái. Lúc đó các Tỳ-kheo ai nấy tìm tịnh nhân, có người tìm được, có người tìm không được, bạch Phật, Phật nói: “Nên gom tất cả Bồ đào lại một chỗ, dùng Hỏa tịnh thì được ăn”. Phật tại nước A-la-tỳ, các Thượng tòa đầu đêm ngồi thiền, giữa đêm trở về phòng, trên đường sợ có thú dữ như sư tử, cọp, beo nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay nên đốt đuốc đi”. Lúc đó phu nhân Mạt-lợi đến trong tinh xá Kỳ-hoàn muốn nghe pháp, các Tỳ-kheo thuyết pháp trong bóng tối, phu nhân nói: “Hãy đốt đèn lên”, đáp là không có tô dầu, phu nhân nói: “Tôi sẽ cúng”. Hôm sau cho nguời mang tô dầu đến, các Tỳ-kheo đốt đèn đặt trên đất bằng nên ánh sáng không tỏa khắp, phu nhân Mạt-lợi liền đem cúng cây đèn, các Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho thọ cây đèn”, bạch Phật, Phật cho thọ. Phật tại thành Vương xá, lúc đó Lục quần Tỳ-kheo dùng mỡ của các thú dữ như sư tử, cọp, báo, gấu để thoa chân; khi đi đến chuồng ngựa, bò, voi, dê, chúng nghe được mùi mỡ này đều kinh sợ muốn vùng bỏ chạy. Các cư só nói với nhau: “Tại sao chúng lại kinh sợ như vậy”, Lục quần Tỳ-kheo nói: “Vì chúng tôi có đại oai đức, đại thần lực nên khiến chúng kinh sợ muốn vùng bỏ chạy”, các cư só quở trách: “Sa-môn Thích tử tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại giống như thợ săn, dùng mỡ các thú dữ như sư tử, cọp, báo… để thoa chân, khiến cho súc sanh kinh sợ còn nói là có đại oai đức”. Tỳ-kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay không được dùng mỡ của các thú dữ thoa chân, nếu dùng thì phạm Đột-kiết-la”. Phật tại Xá-bà-đề, vua Ba-tư-nặc đến trong tinh xá Kỳ-hoàn muốn nghe pháp, ngày đó là ngày thuyết giới nên các Tỳ-kheo nói: “Đại vương hãy đi ra, chúng tôi sắp làm pháp sự”, vua nói: “Ta muốn nghe pháp sự”, các Tỳ-kheo nói: “Phật chưa cho chúng tôi ở trước người chưa thọ đại giới mà làm pháp sự này”, vua khăng khăng đòi được nghe, các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho ở trước các vua như vua Ba-tư-nặc thuyết giới bố tát, các đại thần và binh só đều đi ra”, vua được nghe nên tâm thanh tịnh. Lúc đó có một người cúng đất đai cho Tỳ-kheo tăng, các Tỳ-kheo không thọ, Phật nói: “Từ nay cho Tăng thọ đất đai để làm vườn cây, phòng xá hoặc chỗ kinh hành”. Lúc đó có Tỳ-kheo mặc y dài năm, ba khuỷu tay đi vào tụ lạc, y kéo lê trên đất dính dơ và bị gió thổi làm lộ thân. Phật nói: “Từ nay cho Tỳ-kheo được mặc Nê-hoàn-tăng khi đi vào tụ lạc. Nê-hoàn-tăng dại bốn khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay”. Lúc đó các Tỳ-kheo nước A-la-tỳ sau khi bưng đất đá gạch ngói… để xây tháp, tu sửa tinh xá nên y bị dính dơ. Các Tỳ-kheo này đến giờ lại mang bát đi khất thực bị các cư só quở trách: “Sa-môn Thích tử tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại mặc y dơ đi khất thực, giống người làm dầu me, hay như người làm ruộng”, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Từ nay khi làm việc Tăng nên mặc y trong và Nê-hoàn-tăng”. Phật tại nước Ca-tỳ-la vệ, các Thích tử quý tộc xuất gia khi khất thực đùa giỡn làm lộ ngực, các Bà-la-môn thấy liền chê trách: “Sa-môn Thích tử tự xưng là bậc hiền thiện có đức mà lại đùa giỡn lộ bày ngực đi khất thực, khiến cho mọi người thấy”, các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho mặc Tăng kỳ chi để che ngực khi vào tụ lạc khất thực”. Lúc đó có Tỳ-kheo sau khi khất thực được thức ăn mang về để một bên đợi đến giờ mới ăn, không ngờ có gió mưa thổi bụi đất bay vào trong bát thức ăn, đến giớ ăn không tìm được tịnh nhân để thọ lại, giờ ngọ sắp qua nên bạch Phật, Phật nói: “Từ nay nếu gặp năm loại bụi đất được không thọ mà ăn, đó là bụi gạo, bụi lúa, bụi nước, bụi y và bụi gió”. Các Tỳ-kheo nước Kiều-tát-la được cúng Cam giá (mía) cùng chia ăn, các Thượng tòa được chia nhiều nhưng lại không có răng, còn các trung hạ tòa và Sa-di được chia ít nhưng răng cứng bén nên ăn mau hết, ăn xong nhìn Thượng tòa muốn được ăn nữa. Phật nói: “Từ nay nên chia thức ăn cho đồng đều”. Nước Kiều-tát-la có trú xứ nhiều Tỳ-kheo hạ an cư, thấy chúng đông nên muốn theo thứ lớp thỉnh thọ thực hoặc tự bớt phần thức ăn để bố thí cho Tỳ-kheo. Tháng cuối hạ, sau khi tự tứ xong, các Tỳ-kheo này chia y vật và thức ăn rồi mang đi. Lúc đó có các Tỳ-kheo khác du hành từ nước Kiều-tát-la muốn đến nước Xá-bà-đề, bỗng gặp mưa lớn phi thời nên ghé lại trú xứ này hỏi thăm: “Nơi đây có đàn việt nào có thể bố thí thức ăn không?”, đáp là không có, lại hỏi: “Trong đây có thức ăn của Tăng không?, đáp: “Vốn có thức ăn của Tăng, nhưng an cư tự tứ xong, các Tỳ-kheo chia y vật và thức ăn rồi mang đi hết”. Có Tỳ-kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe rồi tâm không vui quở trách rồi đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay thức ăn của tăng không nên chia, nếu chia thì phạm Đột-kiết-la. Từ nay nếu an cư dưới tàng cây, cây tốt nên nhường cho Thượng tòa. Giống như dưới tàng cây, chỗ đất bằng cũng như vậy. Nếu Tăng có việc nên làm yết ma sai mười bốn hạng người”. Phật tại nước Bà-già, trong nước này có con của một quý nhân tên là Mãn-đề thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, Mãn-đề biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Lúc đó Phật và Tăng đi đến nhà Mãn-đề ngồi vào chỗ ngồi, đệ tử của Mãn-đề vốn là Bà-la-môn người biên địa không tin Phật pháp tăng, khi dọn đưa thức ăn hoặc không đưa mau hoặc đưa ít hoặc không nhất tâm đưa hoặc khi đưa đụng vào tay Tỳ-kheo. Tỳ-kheo nói: “Hãy giơ tay cao, chớ đụng vào tay tôi”, liền đáp: “Tôi không phải người bịnh bạch lại, cũng không phải Chiên-đà-la, tại sao thầy có thái độ này với tôi”, các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu khi cho không khinh thường thì được thọ, nếu khinh thường cố ý đụng vào tay thì không nên thọ”. Có một trú xứ ở nước Kiều-tát-la, một Tỳ-kheo qua đời, trước khi chết có gởi y bát trong tinh xá Tỳ-kheo-ni, các Tỳ-kheo nói: “Chúng tôi nên chia”, Tỳ-kheo-ni cũng nói: “Chúng tôi nên chia”, các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu Tỳ-kheo này trước khi qua đời gởi y bát ở chỗ Tỳ-kheo-ni thì hiện tiền Tỳ-kheo tăng nên chia”. Lại có một trú xứ ở nước Kiều-tát-la, một Tỳ-kheo-ni qua đời, trước khi chết có gởi y bát trong tinh xá Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo-ni nói: “Chúng tôi nên chia”, Tỳ-kheo cũng nói: “Chúng tôi nên chia”, các Tỳ- kheo-ni không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Nếu Tỳ-kheo-ni này trước khi qua đời gởi y bát ở chỗ Tỳ-kheo thì hiện tiền Tỳ-kheo-ni tăng nên chia”. Phật tại Xá-bà-đề, lúc đó Bạt-nan-đà Thích tử mất, y vật để lại trị giá ba mươi vạn lượng vàng. Vua Ba-tư-nặc nước Kiều-tát-la nói: “Người này không có con cái nên y vật để lại này thuộc về vua”, Phật sai sứ giả đến nói với vua Ba-tư-nặc: “Đại vương khi ban phát thành ấp, tụ lạc cho dân, trong đó có cho Bạt-nan-đà phần nào không?”, vua đáp là không cho, sứ giả nói: “Nhờ sức của ai được sinh sống thì người đó được lấy phần; Bạt-nan-đà nhờ sức của Tăng nên nay Tăng được lấy phần”, vua nghe rồi thấy chí lý bèn thôi. Lúc đó những người trong dòng Sát-đế-lî nói: “Tỳ-kheo này cùng họ, cùng sanh trong chủng tộc Sát-đế-lî nên y vật để lại này thuộc về chúng tôi”, Phật sai sứ giả đến nói với những người này rằng: “Các vị làm việc nước, việc quan có hỏi đến Bạt-nan-đà hay không?”, đáp là không hỏi, sứ giả lại hỏi: “Khi Bạt-nan-đà không có mặt, các vị làm việc quan có đợi Bạt-nan-đà đến không?”, đáp là không đợi, sứ giả nói: “Bạt-nan-đà cùng Tăng yết ma, nếu Bạt-nan-đà không đến, không có mặt thì Tăng không yết ma, nên y vật để lại này nên thuộc về tăng”, những người dòng Sát-đế-lî nghe rồi thấy chí lý nên thôi. Lúc đó, những người trong thân tộc nội ngoại của Bạt-nan-đà đều nói: “Bạt-nan-đà là chú, bác, cậu, là anh, em… của chúng tôi nên y vật để lại này nên thuộc về chúng tôi”, Phật sai sứ giả đến nói với những người này: “Vợ con, thê thiếp… của các vị cùng lấy tiền tài, có đợi Bạt-nan-đà đến để chia cho Bạt-nan-đà hay không?”, đáp là không, sứ giả nói: “Những ai cùng chia y thực với Bạt-nan-đà thì những người đó nên lấy phần. Bạt-nan-đà cùng thọ y thực với Tăng nên y vật để lại này nên thuộc về Tăng”, những người này nghe rồi thấy chí lý bèn thôi. Y vật của Bạt-nan-đà gởi ở chỗ khác, Bạt-nan-đà qua đời ở chỗ khác, các Tỳ-kheo ở chỗ gởi y vật nói: “Y vật này chúng tôi nên chia”, các Tỳ-kheo ở chỗ Bạt-nan-đà qua đời cũng nói: “Y vật này chúng tôi nên chia”, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Y vật của tỳ-kheo này, hiện tiền Tăng trong nội giới nên chia”. Y vật của Bạt-nan-đà cho người vay lấy lãi ở chỗ này, nhưng lại qua đời ở chỗ khác, các Tỳ-kheo ở chỗ cho vay lấy lãi nói: “Y vật này chúng tôi nên chia”, các Tỳ-kheo ở chỗ Bạt-nan-đà qua đời cũng nói: “Y vật này chúng tôi nên chia”, Phật nói: “Các Tỳ-kheo ở trong nội giới chỗ cho vay lấy lãi nên chia”. Y vật mà Bạt-nan-đà bảo nhậm (cầm cố) để lấy lãi ở chỗ này, nhưng lại qua đời ở chỗ khác, các Tỳ-kheo ở chỗ cầm cố y vật nói: “Y vật này nên thuộc về chúng tôi”, các Tỳ-kheo ở chỗ Bạt-nan-đà qua đời cũng nói: “Y vật này nên thuộc về chúng tôi”, Phật nói: “Hiện tiền Tăng trong nội giới chỗ cầm cố y vật nên chia”. Tài vật của Bạt-nan-đà do buôn bán đổi chác bằng Chất vật (vật báu chưa thành hay đã thành) để được lợi tức thì ở chỗ này, nhưng Bạt- nan-đà lại mất ở chỗ khác. Các Tỳ-kheo ở chỗ buôn bán đổi chác để được lợi tức nói rằng: “Tài vật này nên thuộc về chúng tôi”, các Tỳ- kheo ở chỗ Bạt-nan-đà qua đời cũng nói: “Tài vật này nên thuộc về chúng tôi”, Phật nói: “Hiện tiền Tăng trong nội giới chỗ buôn bán đổi chác để được lợi tức nên chia”. Tài vật mà Bạt-nan-đà cùng người khác làm giấy cam kết để ở chỗ này, nhưng Bạt-nan-đà lại qua đời ở chỗ khác. Các Tỳ-kheo ở chỗ giữ giấy tờ để thu tiền nói: “Tài vật này nên thuộc về chúng tôi”, các Tỳ-kheo ở chỗ Bạt-nan-đà qua đời cũng nói: “Tài vật này nên thuộc về chúng tôi”, Phật nói: “Hiện tiền Tăng trong nội giới ở chỗ giữ giấy tờ để thu tiền nên chia”. Phật tại Xá-bà-đề, Tỳ-kheo Mâu-lâu-phá-cầu-ma qua đời, y vật của vị này gởi cho trưởng lão A-nan, nhưng lại qua đời ở chỗ khác, A- nan lại ở một chỗ khác, y vật đã gởi lại để ở một chỗ khác. Các Tỳ-kheo ở chỗ Tỳ-kheo này qua đời nói: “Y vật này nên thuộc về chúng tôi”, các Tỳ-kheo ở trong trú xứ của A-nan cũng nói: “Y vật này nên thuộc về chúng tôi”, các Tỳ-kheo ở chỗ gởi y vật cũng nói: “Y vật này nên thuộc về chúng tôi”. Các Tỳ-kheo không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “Hiện tiền Tăng trong nội giới ở chỗ A-nan nên chia”. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 76