<經 id="n1">KINH TRƯỜNG A-HÀM <字>長阿含經 <類>Hán dịch: Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm <卷> PHẦN I KINH ĐẠI BẢN KINH DU HÀNH KINH ĐIỂN TƠN KINH XÀ-NI-SA <詞 id="485140696">1.KINH ĐẠI BẢN<註 n="1"/>1 Tơi nghe như vầy: Một thời Phật ở động Hoa lâm<註 n="2"/>2 vườn cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi khất thực<註 n="3"/>3, tụ họp ở Hoa lâm đường<註 n="4"/>4, cùng nhau bàn luận rằng: “Các Hiền giả Tỳ-kheo, duy chỉ Đấng Vơ Thượng Tơn, rất kỳ diệu, oai lực lớn lao, thần thơng viễn đạt, mới biết rõ quá khứ vơ số Đức Phật nhập Niết-bàn, dứt sạch các kết sử, tiêu diệt các hý luận và cũng biết rõ kiếp số các Đức Phật ấy dài hay ngắn, cho đến danh hiệu, dịng họ thác sinh, sự ăn uống, thọ mạng dài ngắn, cảm thọ lạc và cảm thọ khổ như thế nào<註 n="5"/>5; lại biết rõ các Đức Phật ấy có giới như vậy, có pháp như vậy, có trí tuệ như vậy, có giải thốt như vậy, an trụ như vậy. Thế nào, này chư Hiền? Đó là do Đức Như Lai thơng rõ các pháp tính mà biết được hay do chư Thiên kể lại?” Bấy giờ, Đức Thế Tơn đang ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhó thanh tịnh, nghe rõ các Tỳ-kheo luận bàn như thế, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Hoa lâm đường, ngồi vào chỗ ngồi dọn sẵn. Bấy giờ, Đức Thế Tơn tuy đã biết nhưng vẫn hỏi: “Này chư Tỳ-kheo, các ngươi tụ tập nơi đây bàn luận chuyện gì?” Các Tỳ-kheo bèn đem hết mọi việc bạch lại với Phật. Rồi thì, Đức Thế Tơn nói với các Tỳ-kheo: “Lành thay, lành thay! Các ngươi đã với tâm chánh tín<註 n="6"/>6 xuất gia học đạo, nên làm hai việc: một là nói năng theo pháp Hiền thánh, hai là im lặng theo pháp Hiền thánh. Những điều các ngươi luận bàn phải nên như thế. Như Lai thần thơng oai lực lớn lao, biết khắp mọi việc từ vơ số kiếp quá khứ, như thế là do thơng rõ các pháp tính, đồng thời cũng do chư Thiên nói lại.” Bấy giờ Phật nói bàøi tụng: Tỳ-kheo họp pháp đường Giảng luận pháp Hiền thánh. Như Lai từ am vắng Nghe rõ bằng thiên nhó. Mặt trời Phật rọi khắp, Phân tích nghóa pháp giới. Cũng biết việc quá khứ, Chư Phật<註 n="7"/>7 Bát-niết-bàn, Tên, dịng họ, chủng tộc. Cũng biết thọ sanh phần. Vị ấy ở nơi nào, Ghi nhận bằng tịnh nhãn. Chư Thiên uy lực lớn, Dung mạo rất đoan nghiêm, Cũng đến bẩm báo Ta Chư Phật Bát-niết-bàn, Chỗ sinh, tên, chủng tộc Âm thanh vi diệu tỏ <註 n="8"/>8. Đấng Chí Tơn trong đời Biết rõ Phật quá khứ. Phật lại bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo! Các ngươi có muốn Như Lai, bằng trí túc mạng biết nhân duyên của chư Phật quá khứ, nói cho nghe chăng?” Các Tỳ-kheo liền bạch Phật: “Bạch Thế Tơn, nay chính là lúc. Chúng con muốn nghe. Lành thay, Thế Tơn, lúc này thích hợp để giảng thuyết. Chúng con phụng hành.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Hãy lắng nghe, hãy suy gẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho các ngươi nghe.” Lúc bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời, lắng nghe. Phật nói: “Này các Tỳ-kheo! Quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp có Đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi<註 n="9"/>9, Như Lai, Chí Chân, xuất hiện ở thế gian. “Lại nữa, Tỳ-kheo, trong quá khứ cách đây ba mươi mốt kiếp có Đức Phật hiệu là Thi-khí<註 n="10"/>10, Như Lai, Chí Chân, xuất hiện ở thế gian. “Lại nữa, Tỳ-kheo, cũng trong ba mươi mốt kiếp đó có Đức Phật hiệu là Tỳ-xá-bà<註 n="11"/>11 Như Lai, Chí Chân, xuất hiện ở thế gian. “Lại nữa, Tỳ-kheo, trong hiền kiếp này có Phật hiệu là Câu-lưu-tơn, Câu-na-hàm, Ca-diếp<註 n="12"/>12. Ta nay cũng ở trong hiền kiếp này mà thành Tối chánh giác.” Bấy giờ, Phật nói bài tụng: Qua chín mươi mốt kiếp Có Phật Tỳ-bà-thi. Ba mươi mốt kiếp kế Có Phật hiệu Thi-khí. Cũng ở trong kiếp này, Xuất hiện Phật Tỳ-xá. Nay trong Hiền kiếp này, Vơ số na-duy tuổi<註 n="13"/>13, Có bốn Đại Tiên Nhân, Xuất hiện vì thương đờøi: Câu-lưu-tơn, Na-hàm, Ca-diếp, Thích-ca Văn. “Các ngươi nên biết, thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, nhân loại sống đến tám vạn tuổi; thời Đức Phật Thi-khí, nhân loại sống đến bảy vạn tuổi; thời Đức Phật Tỳ-xá-bà, nhân loại sống đến sáu vạn tuổi; thời Đức Phật Câu-lưu-tơn, nhân loại sống đến bốn vạn tuổi; thời Đức Phật Câu-na-hàm, nhân loại sống đến ba vạn tuổi; thời Đức Phật Ca-diếp, nhân loại sống đến hai vạn tuổi và nay Ta ra đời, nhân loại sống đến một trăm tuổi, tăng thì ít mà giảm thì nhiều<註 n="14"/>14.” Rồi Phật nói bài tụng: Người thời Tỳ-bà-thi, Thọ tám vạn bốn ngàn, Người thời Phật Thi-khí Thọ mạng bảy vạn tuổi. Người thời Tỳ-xá-bà Thọ mạng sáu vạn tuổi. Người thời Câu-lưu-tơn Thọ mạng bốn vạn tuổi. Người thời Câu-na-hàm Thọ mạng ba vạn tuổi. Người thời Phật Ca-diếp Thọ mạng hai vạn tuổi. Người thời Ta hiện nay Tuổi thọ khơng quá trăm. “Đức Phật Tỳ-bà-thi sinh về dịng Sát-lî<註 n="15"/>15, họ Câu-lî-nhã<註 n="16"/>16. Phật Thi-khí và Phật Tỳ-xá-bà, dịng họ cũng vậy. Phật Câu-lưu-tơn sinh về dịng Bà-la-mơn họ Ca-diếp<註 n="17"/>17. Phật Câu-na-hàm, Phật Ca-diếp, dịng họ cũng vậy. Cịn nay Ta, Như Lai, Chí Chân thì sinh về dịng Sát-lî, họ Cù-đàm<註 n="18"/>18.” Phật lại nói bài tụng: Tỳ-bà-thi Như Lai, Thi-khí, Tỳ-xá-bà, Ba vị Đẳng Chánh Giác, Sinh họ Câu-lî-nhã. Ba Đức Như Lai kia, Sinh vào họ Ca-diếp Ta nay, Bậc Vơ Thượng, Dẫn dắt các chúng sanh, Bậc nhất trong trời người, Họ Cù-đàm dũng mãnh. Ba Đấng Chánh Giác đầu, Sinh vào dịng Sát-lî. Ba Đức Như Lai sau Thuộc dịng Bà-la-mơn. Ta nay Đấng Tối Tơn, Dịng Sát-lî dũng mãnh. “Đức Phật Tỳ-bà-thi ngồi dưới cây Ba-ba-la<註 n="19"/>19 chứng thành Bậc Tối Chánh Giác. Phật Thi-khí ngồi dưới cây Phân-đà-lî<註 n="20"/>20, thành Bậc Tối Chánh Giác. Phật Tỳ-xá-bà ngồi dưới cây Sa-la<註 n="21"/>21 thành Bậc Tối Chánh Giác. Phật Câu-lưu-tơn ngồi dưới cây Thi-lî-sa<註 n="22"/>22 thành Bậc Chánh Giác. Phật Câu-na-hàm ngồi dưới cây Ơ-tạm-bà-la<註 n="23"/>23 thành Bậc Chánh Giác. Phật Ca-diếp ngồi dưới cây Ni-câu-luật<註 n="24"/>24 thành Bậc Chánh Giác. Ta nay, Như Lai, Chí Chân, ngồi dưới cây Bát-đa<註 n="25"/>25 thành Bậc Chánh Giác.” Rồi Phật nói bài tụng: Tỳ-bà-thi Như Lai Đi đến cây Ba-la Và ngay tại chỗ ấy Đắc thành Tối chánh giác. Thành đạo, dứt nguồn hữu. Tỳ-xá-bà Như Lai Ngồi dưới gốc Sa-la Đắc giải thốt tri kiến. Thần túc khơng trở ngại, Câu-lưu-tơn Như Lai Ngồi gốc Thi-lî-sa Vơ nhiễm, vơ sở trước. Câu-na-hàm Mâu-ni Ngồi dưới gốc Ơ-tạm Và ngay tại chỗ ấy Diệt các tham, ưu não. Đức Ca-diếp Như Lai Ngồi dưới Ni-câu-luật Và ngay tại chỗ ấy Trừ diệt gốc rễ hữu. Ta nay, Thích-ca Văn Ngồi dưới cây Bát-đa Đấng Như Lai, mười lực, Đoạn diệt các kết sử, Hàng phục đám ma ốn, Diễn ánh sáng giữa chúng. Bảy Phật, sức tinh tấn, Phóng quang, diệt tăm tối; Mỗi mỗi ngồi gốc cây, Ở đó thành Chánh giác. “Đức Phật Tỳ-bà-thi có ba hội thuyết pháp: hội đầu có mười sáu vạn tám ngàn đệ tử; hội hai có mười vạn đệ tử; hội ba có tám vạn đệ tử. Phật Thi-khí cũng có ba hội thuyết pháp: hội đầu có mười vạn đệ tử; hội thứ hai có tám vạn đệ tử; hội thứ ba có bảy vạn đệ tử. Phật Tỳ-xá-bà có hai hội thuyết pháp: hội đầu có bảy vạn đệ tử; hội thứ hai có sáu vạn đệ tử. Đức Câu-lưu-tơn Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử bốn vạn người. Đức Câu-na-hàm Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử ba vạn người. Đức Ca-diếp Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử hai vạn người. Ta nay một hội thuyết pháp, đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người.” Bấy giờ Phật nói bài tụng rằng: Tỳ-bà-thi tên Quán, Trí tuệ khơng thể lường, Thấy khắp<註 n="26"/>26, khơng sợ hãi, Ba hội chúng đệ tử. Thi-khí, sáng, bất động, Diệt trừ các kiết sử, Vơ lượng đại oai đức, Khơng thể trắc lượng được, Ngài cũng có ba hội, Tụ hội các đệ tử. Tỳ-xá-bà đoạn kết<註 n="27"/>27, Đấng Đại Tiên tụ hội, Tiếng tăm khắp các phương, Pháp mầu được tán thán; Chúng đệ tử hai hội, Diễn rộng nghóa thâm áo. Câu-lưu-tơn một hội, Thương xót trị các khổ, Đạo Sư dạy chúng sanh, Chúng đệ tử một hội. Câu-na-hàm Như Lai, Bậc Vơ Thượng cũng vậy, Thân sắc vàng rịng tía, Dung mạo thảy tồn hảo, Chúng đệ tử một hội, Rộng diễn pháp nhiệm mầu. Ca-diếp, mỗi sợi lơng<註 n="28"/>28, Nhất tâm khơng loạn tưởng, Một lời khơng phiền trọng, Chúng đệ tử một hội. Năng Nhân Ý Tịch Diệt,<註 n="29"/>29 Ta, Sa-mơn họ Thích, Chí Tơn, Trời trên Trời, Có một hội đệ tử; Hội ấy, Ta hiện nghóa, Quảng diễn giáo thanh tịnh. Trong tâm thường hoan hỷ, Lậu tận<註 n="30"/>30, khơng tái sinh, Tỳ-bà, Thi-khí, ba; Phật Tỳ-xá-bà, hai; Bốn Phật mỗi vị một Hội Tiên nhân diễn thuyết. “Đức Phật Tỳ-bà-thi có hai đệ tử là Khiên-trà<註 n="31"/>31 và Đề-xá<註 n="32"/>32. Đức Phật Thi-khí có hai đệ tử là A-tỳ-phù và Tam-bà-bà<註 n="33"/>33. Phật Tỳ-xá-bà có hai đệ tử là Phị-du và Uất-đa-ma<註 n="34"/>34. Phật Câu-lưu-tơn có hai đệ tử là Tát-ni và Tỳ-lâu<註 n="35"/>35. Đức Phật Câu-na-hàm có hai đệ tử là Thư-bàn-na và Uất-đa-lâu<註 n="36"/>36. Đức Phật Ca-diếp có hai đệ tử là Đề-xá và Bà-la-bà. Cịn nay Ta có hai đệ tử là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên<註 n="37"/>37.” Bấy giờ, Phật nói bài tụng: Khiên-trà và Đề-xá Đệ tử Tỳ-bà-thi. A-tỳ-phù, Tam-bà, Đệ tử Phật Thi-khí. Phị-du, Uất-đa-ma, Bậc nhất hàng đệ tử. Cả hai hàng ma ốn, Đệ tử Tỳ-xá-bà. Tát-ni và Tỳ-lâu, Đệ tử Câu-lưu-tơn. Thư-bàn, Uất-đa-lâu, Đệ tử Câu-na-hàm. Đề-xá, Bà-la-bà, Đệ tử Phật Ca-diếp. Xá-lợi-phất, Mục-liên, Bậc nhất đệ tử Ta. “Đức Phật Tỳ-bà-thi có vị đệ tử chấp sự<註 n="38"/>38 là Vơ Ưu<註 n="39"/>39; Phật Thi-khí có vị đệ tử chấp sự là Nhẫn Hành<註 n="40"/>40; Phật Tỳ-xá-bà có vị đệ tử chấp sự là Tịch Diệt<註 n="41"/>41; Phật Câu-lưu-tơn có vị đệ tử chấp sự là Thiện Giác<註 n="42"/>42; Phật Câu-na-hàm có vị đệ tử chấp sự là An Hịa<註 n="43"/>43; Phật Ca-diếp có vị đệ tử chấp sự là Thiện Hữu<註 n="44"/>44; cịn Ta có vị đệ tử chấp sự là A-nan<註 n="45"/>45.” Vơ Ưu và Nhẫn Hành, Tịch Diệt và Thiện Giác, An Hịa và Thiện Hữu Thứ bảy là A-nan. Ấy là thị giả Phật Đầy đủ các nghóa thú; Ngày đêm khơng buơng lung. Bảy Thánh đệ tửû ấy Hầu tả hữu bảy Phật Hoan hỷ và cúng dường, Tịch nhiên vào diệt độ<註 n="46"/>46. “Đức Phật Tỳ-bà-thi có con tên Phương Ưng<註 n="47"/>47. Phật Thi-khí có con tên Vơ Lượng. Tỳ-xá-bà có con tên Diệu Giác. Câu-lưu-tơn có con tên Thượng Thắng. Câu-na-hàm có con tên Đạo Sư. Ca-diếp có con tên Tập Quân<註 n="48"/>48. Ta nay có con tên là La-hầu-la<註 n="49"/>49.” Phật lại nói bài tụng: Phương Ưng và Vơ Lượng, Diệu Giác và Thượng Thắng, Đạo Sư và Tập Quân, Thứ bảy La-hầu-la. Các con hào quý ấy Nối dõi hạt giống Phật; Yêu Pháp, ưa bố thí, Trong Thánh pháp, vơ úy. “Đức Phật Tỳ-bà-thi có cha tên Bàn-đầu<註 n="50"/>50, dịng vua Sát-lî; mẹ tên Bàn-đầu-bà-đề<註 n="51"/>51. Quốc thành của vua trị tên là Bàn-đầu-bà-đề<註 n="52"/>52.” Phật bèn nói bài tụng: Biến Nhãn<註 n="53"/>53, cha Bàn-đầu, Mẹ Bàn-đầu-bà-đề. Thành Bàn-đầu-bà-đề, Phật thuyết pháp trong đó. “Đức Phật Thi-khí có cha tên Minh Tướng, dịng vua Sát-lî; mẹ tên Quang Diệu; quốc thành vua cai trị tên là Quang tướng<註 n="54"/>54.” Phật lại nói tụng: Thi-khí, cha Minh Tướng, Mẹ tên gọi Quang Diệu; Ở trong thành Quang tướng, Uy đức dẹp ngoại địch. “Đức Phật Tỳ-xá-bà có cha tên Thiện Đăng, dịng vua Sát-lî; mẹ tên Xưng Giới, quốc thành vua cai trị tên Vơ dụ<註 n="55"/>55.” Phật nói tụng: Cha Phật Tỳ-xá-bà, Vua Sát-lî Thiện Đăng; Mẹ tên gọi Xưng Giới; Quốc thành tên Vơ dụ. “Đức Phật Câu-lưu-tơn có cha tên Tự Đắc<註 n="56"/>56, dịng Bà-la-mơn; mẹ tên Thiện Chi; vua tên An Hịa và quốc thành cũng theo đó mà có tên là An hịa<註 n="57"/>57.” Bà-la-mơn Tự Đắc, Mẹ tên gọi Thiện Chi. Vua tên là An Hịa, Cai trị thành An hịa. “Đức Phật Câu-na-hàm có cha tên Đại Đức, dịng Bà-la-mơn; mẹ tên Thiện Thắng, vua tên Thanh Tịnh và quốc thành này cũng theo đó mà có tên là Thanh tịnh<註 n="58"/>58.” Bà-la-mơn Đại Đức, Mẹ tên là Thiện Thắng; Vua tên là Thanh Tịnh, Ở trong thành Thanh tịnh. “Đức Phật Ca-diếp có cha tên Phạm Đức, dịng Bà-la-mơn; mẹ tên Tài Chủ; vua thời đó tên Cấp-tỳ<註 n="59"/>59, trị vì quốc thành tên Ba-la-nại.” Bà-la-mơn Phạm Đức, Mẹ tên là Tài Chủ; Thời vua tên Cấp-tỳ, Trị thành Ba-la-nại. “Cịn Ta có thân phụ tên là Tịnh Phạn dịng vua Sát-lî, mẹ tên Đại Thanh Tịnh Diệu<註 n="60"/>60; trị sở thành của vua là Ca-tỳ-la-vệ.” Cha, Sát-lî Tịnh Phạn, Mẹ tên Đại Thanh Tịnh; Đất rộng, dân sung túc; Ta sinh ra ở đó. “Đó là nhân duyên, danh hiệu, chủng tộc và chỗ xuất sinh của chư Phật. Kẻ trí nào nghe đến nhân duyên đó mà khơng vui mừng sinh tâm ưa muốn!” Bấy giờ<註 n="61"/>61, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo! Nay Ta muốn, bằng Túc mạng trí, sẽ nói về sự tích của chư Phật quá khứ. Các thầy muốn nghe khơng?” Các Tỳ-kheo trả lời: “Nay thật đúng lúc. Chúng con muốn nghe.” Phật nói: “Này các Tỳ-kheo, hãy nghe kỹ, hãy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho các thầy. “Này các Tỳ-kheo, nên biết pháp thường của chư Phật. “Đức Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, do hơng phải mà vào, chánh niệm khơng tán loạn. Ngay lúc ấy cõi đất rung chuyển; ánh sáng rực rỡ soi khắp thế gian; những chỗ mặt trời mặt trăng khơng soi tới cũng đều mong nhờ chiếu sáng. Chúng sanh chốn u minh nhờ đó được trơng thấy lẫn nhau và tự biết mình hiện đang sinh ở chỗ nào. Ánh quang minh đó lại soi đến cung điện Ma vương. Phạm thiên, Đế Thích, Sa-mơn, Bà-la-mơn và các chúng sanh khác, cũng đều được mong nhờ ánh sáng. Ánh sáng của chư Thiên tự nhiên biến mất.” Rồi Phật nói bài tụng: Mây dày kín hư khơng, Ánh chớp chiếu thiên hạ; Tỳ-bà-thi giáng thai, Ánh sáng chiếu cũng vậy. Chỗ nhật nguyệt khơng tới, Thảy đều được chiếu sáng, Thai thanh tịnh, vơ nhiễm, Pháp chư Phật đều vậy. “Này các Tỳ-kheo, nên biết pháp thường của chư Phật<註 n="62"/>62. Bồ-tát Tỳ-bà-thi, lúc ở thai mẹ, chuyên niệm khơng tán loạn, thường có bốn vị Thiên thần tay cầm qua mâu, hộ vệ cho mẹ ngài, dẫu lồi người hay lồi phi nhân đều khơng thể xâm phạm. Đó là pháp thường.” Rồi Phật nói bài tụng: Bốn phương bốn Thiên thần, Có tiếng tăm, uy đức, Thiên Đế Thích sai khiến, Khéo thủ hộ Bồ-tát. Tay thường cầm qua mâu, Hộ vệ khơng chút rời. Nhân, phi nhân khơng hại; Ấy pháp thường chư Phật. Được chư Thiên hộ vệ, Như Thiên nữ hầu Trời, Quyến thuộc đều hoan hỷ, Ấy pháp thường chư Phật. “Lại nữa, này các Tỳ-kheo, đây là pháp thường của chư Phật: Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáùng thần vào thai mẹ, chuyên niệm khơng tán loạn, khiến thân mẹ được an ổn, khơng có các não loạn, trí tuệ ngày càng thêm. Mẹ tự xem thai mình thấy rõ thân Bồ-tát đủ các căn tốt đẹp như chất vàng tía khơng chút tỳ tích, khác nào kẻ có mắt sáng, xem vào đồ lưu ly trong sạch, thấy suốt cả trong ngồi khơng chút ngăn ngại. Này các Tỳ-kheo, đó là pháp thường của chư Phật.” Bấy giờ Thế Tơn nói bài kệ: Như ngọc lưu ly sáng, Ánh sáng như trời trăng, Nhân Tơn trong thai mẹ, Khiến mẹ khơng não hoạn. Trí tuệ càng tăng thêm, Xem thai như vàng rịng; Mẹ mang thai an lạc, Ấy pháp thường chư Phật. “Này các Tỳ-kheo, Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm khơng tán loạn, khiến tâm mẹ lúc nào cũng thanh tịnh, khơng có các dục tưởng, khơng bị lửa dục thiêu đốt. Ấy là pháp thường của chư Phật.” Thế Tơn lại nói bài kệ: Bồ-tát trụ thai mẹ; Phước trời trên cõi trời; Tâm mẹ ngài thanh tịnh, Khơng có các dục tưởng. Dứt bỏ các dâm dục, Khơng nhiễm, khơng gần gũi, Khơng bị lửa dục thiêu, Mẹ chư Phật thường tịnh. “Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm khơng tán loạn, khiến mẹ ngài giữ trọn năm giới, phạm hạnh thanh tịnh, thuần tín và nhân từ, thành tựu mọi điều lành, an lạc khơng sợ hãi và khi thân hoại mệnh chung, được sanh cõi trời Đao-lợi. Ấy là pháp thường của chư Phật.” Bấy giờ Thế Tơn lại nói kệ: Hồi thai Đấng Chí Tơn, Tinh tấn, Giới đầy đủ, Mạng chung lại sinh thiên; Duyên ấy, nói mẹ Phật. “Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh từ hơng phải của mẹ mà ra, cõi đất rung động, ánh sáng chiếu khắp nơi. Khi mới vào thai, những chỗ tối tăm thảy đều được chiếu sáng. Ấy là pháp thường của chư Phật.” Thái tử sinh, đất động, Ánh sáng rọi khắp nơi, Cõi này và cõi khác, Trên dưới và các phương. Phóng quang, cho mắt sáng, Trọn đủ nơi thân trời, Bằng tịnh tâm hoan hỷ, Chuyển xưng tên Bồ-tát. “Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, lúc sanh, do hơng phải của mẹ mà ra, chuyên niệm khơng tán loạn. Khi ấy mẹ Bồ-tát tay vin cành cây, khơng ngồi khơng nằm, có bốn Thiên thần bưng nước hương đứng trước mẹ mà thưa rằng: “Tâu Thiên mẫu, nay ngài sanh Thánh tử, chớ có ưu lo. Đó là pháp thường của chư Phật.” Mẹ Phật khơng nằm, ngồi; Trụ giới, tu phạm hạnh; Khơng lười; sinh Chí Tơn, Được trời người phụng thờ. “Này các Tỳ-kheo, pháp thường chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi lúc sanh, do hơng phải của mẹ mà ra, chuyên niệm khơng tán loạn, thân Ngài thanh tịnh khơng bị ơ nhiễm bởi các thứ ơ uế. Ví như kẻ có mắt sáng, liệng hạt minh châu sáng sạch lên lụa trắng, thấy rõ cả hai đều khơng làm bẩn nhau, vì cả hai đều sạch. Bồ-tát ra khỏi thai cũng như vậy. Đó là pháp thường của chư Phật.” Như minh châu sáng sạch, Trên lụa, khơng vấy bẩn; Bồ-tát khi xuất thai, Thanh tịnh, khơng nhiễm ơ. “Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh, do hơng phải của mẹ mà ra, chuyên niệm khơng tán loạn. Ngài từ hơng phải ra, vừa đến đất, khơng cần người đỡ, liền đùi bảy bước, ngó khắp bốn phương, rồi đùưa tay lên nói rằng: ‘Trên trời dưới đất, duy Ta là tơn quý’, Ta sẽ cứu độ chúng sanh khỏi sinh, già, bệnh, chết<註 n="63"/>63. Ấy là pháp thường của chư Phật.” Giống như sư tử bước, Ngó khắp cả bốn phương; Nhân Sư Tử <註 n="64"/>64 khi sanh, Đi bảy bước cũng thế. Lại như rồng lớn<註 n="65"/>65 đi, Khắp ngó cả bốn phương, Đấng Nhân Long khi sanh, Đi bảy bước cũng thế. Khi Đâáng Lưỡng Túc sanh<註 n="66"/>66, Đi thong thả bảy bước, Ngó bốn phương rồi nói. Sẽ dứt khổ sinh tử. Ngay lúc mới sanh ra, Đã khơng ai sánh bằng, Tự xét gốc sinh tử, Thân này thân tối hậu. “Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh do hơng phải của mẹ mà ra, chuyên niệm khơng tán loạn, tức thì có hai suối nước, một ấm, một mát, tự nhiên ở dưới đất tuơn ra, để cúng dường tắm rửa cho Bồ-tát. Đó là pháp thường của chư Phật.” Đấng Lưỡng Túc khi sinh, Hai suối tự tuơn ra, Để cúng Bồ-tát dùng; Biến Nhãn<註 n="67"/>67 tắm sạch sẽ. Hai suối tự tuơn ra, Nước suối rất trong sạch; Một ấm, một lạnh mát, Tắm Đấng Nhất Thiết Trí. “Lúc Thái tử mới sanh, phụ vương Bàn-đầu mời các tướng sư và đạo só đến xem tướng Thái tử để biết sự tốt xấu. Bấy giờ, các tướng sư vâng lệnh đến xem và ngay trước khi chưa mặc áo, họ nhìn rõ các tướng đầy đủ. Bèn đốn rằng: “Người có tướng này sẽ có hai con đường, chắc chắn khơng nghi ngờ. Nếu tại gia thì sẽ làm Chuyển luân thánh vương, trị vì bốn châu thiên hạ, đủ bốn thứ quân binh, dùng chánh pháp trị dân, khơng thiên lệch; thi ân khắp thiên hạ, tự nhiên có bảy thứ báu qui tụ, có ngàn người con dũng kiện hay dẹp trừ ngoại địch, khơng cần dùng đao binh mà thiên hạ thái bình. Cịn nếu xuất gia học đạo, thì sẽ thành Bậc Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu.” Rồi các tướng sư tâu vua: “Con trai của đức vua có ba mươi hai tướng, sẽ có hai con đường, chắc chắn khơng nghi ngờ. Nếu tại gia sẽ là vị Chuyển luân thánh vương. Nếu xuất gia sẽ thành Bậc Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu.” Thái tử trăm phước sinh, Được tướng sư ghi nhận, Như chép trong điển sách, Chắc chắn theo hai đường. Nếu ngài vui tại gia, Sẽ làm Chuyển luân vương Được bảy báu hiếm có, Báu tự hiện cho vua. Bánh xe vàng ngàn căm, Với lưới vàng bao quanh, Bánh xe hay bay khắp, Nên gọi bánh xe trời. Khéo luyện voi bảy ngà, Cao lớn trắng như tuyết, Khéo bay qua hư khơng, Voi báu là thứ hai. Ngựa đi khắp thiên hạ, Sớm đi chiều về ăn, Lơng đỏ, bờm khổng tước, Là báu vật thứ ba. Ngọc lưu ly trong sáng, Chiếu rọi một do-tuần, Đêm sáng như ban ngày, Là báu vật thứ tư. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, Khơng ai có thể sánh, Bậc nhất hàng nữ nhân; Đó là báu thứ năm. Hiến vua ngọc lưu ly, Châu ngọc các thứ quý, Hoan hỷ mà phụng cống, Đó là báu thứ sáu. Theo ý niệm Luân vương, Quân binh tiến thối nhanh, Nhậm lẹ theo ý vua, Đó là báu thứ bảy. Đó là bảy báu vật, Bánh xe, voi, ngựa trắng, Cư só báu, nữ báu, Quân binh báu thứ bảy; Nhìn xem mà khơng chán, Ngũ dục tự vui đùa, Như voi bứt dây trói, Xuất gia thành Chánh giác. Vua có con như thế, Đấng Lưỡng Túc lồi người, Ở đời Chuyển Pháp luân, Đạo thành khơng biếng nhác. “Lúc bấy giờ, Phụ vương ân cần hỏi lại tướng sư ba lần: ‘Các ngươi hãy xem lại ba mươi hai tướng của Thái tử là những gì?’ Các tướng sư bèn khốc áo lại cho Thái tử và kể rõ ba mươi hai tướng: Bàn chân bằng phẳng đầy đặn, đi đứng vững vàng. Dưới bàn chân có dấu chỉ như bánh xe có ngàn căm, ánh sáng xen nhau. Có màng lưới mỏng giữa kẽ ngón tay, chân như chân ngỗng chúa. Tay chân mềm mại như áo trời. Ngón tay chân thon dài khơng ai bằng. Gót chân đầy đặn trơng khơng chán. Ống chân thon dài như của nai. Các khớp xương móc lấy nhau như xích chuyền. Mã âm tàng. Đứng thẳng tay duỗi dài quá gối. Mỗi chân lơng đều có một sợi lơng. Sợi lơng ấy xốy hữu, màu lưu ly xanh biếc. Lơng mọc xoay phía hữu, màu xanh biếc thẳng lên. Thân sắc huỳnh kim. Da thịt mịn màng khơng dính bụi nhơ. Hai vai ngang bằng đầy đặn trịn đẹp. Giữa ngực có chữ vạn. Thân cao gấp đơi người thường. Bảy chỗ trong người đầy đặn. Mình cao to lớn như cây Ni-câu-lơ. Hai má như sư tử. Ngực vuơng đầy như ngực sư tử. Có bốn mươi cái răng. Răng ngang bằng đầy đặn. Răng khít nhau khơng hở. Răng trắng, trong sáng. Yết hầu thanh sạch, ăn thức gì cũng thích hợp. Lưỡi rộng dài có thể liếm tới mép tai. Tiếng nói trong rõ như tiếng Phạm thiên. Con mắt màu xanh biếc. Mắt như mắt trâu chúa, trên dưới có hai mí<註 n="68"/>68. Có lơng trắng giữa hai chân mày, mềm mại kéo ra dài một tầm, thả thì xốy trơn ốc về phía hữu như trân châu. Trên đỉnh có chỗ thịt nổi. “Ấy là ba mươi hai tướng Đại nhân. “Bèn nói bài tụng: Đứng vững chân mềm mại, Khơng dẫm đất, có dấu, Tướng ngàn căm trang nghiêm, Màu sắc rất tươi sáng. Thân cao rộng ngay thẳng, Như cây Ni-câu-loại. Như Lai, chưa từng có, Mã âm tàng ẩn kín. Vàng báu trang nghiêm thân, Các tướng chói lẫn nhau. Tuy mồ hơi như thường, Song bụi đất khơng dính. Như sắc trời mịn màng Lọng trời tự nhiên che, Phạm âm, thân vàng tía, Như hoa vươn khỏi ao. Vua bèn hỏi tướng sư Tướng sư kính tâu vua Ngợi khen tướng Bồ-tát, Sáng chói khắp tồn thân, Các gân khớp tay chân, Trong ngồi đều hiện rõ. Thực vị thảy vi diệu, Thân ngay ngắn khơng vẹo, Bánh xe hiện dưới chân, Tiếng nói như chim oanh, Tướng bắp đùi đầy đặn, Ấy do túc nghiệp thành. Cùi chỏ trịn đầy đẹp, Mày mắt rất đoan nghiêm, Đấng Sư Tử giữa người, Có oai lực hơn hết. Hai má đều đầy đặn, Nằm nghiêng như sư tử, Bốn mươi răng đều đặn, Dày khít khơng kẽ hở Tiếng Phạm âm ít có, Xa gần tùy duyên nghe. Đứng thẳng thân khơng nghiêng, Hai tay sờ đến gối, Ngón tay đều, mềm mại, Đủ các tướng tơn quý, Mỗi chân lơng một sợi, Màng lưới kẽ tay chân, Nhục kế, mắt xanh biếc, Mắt trên dưới hai mí, Hai vai ngang, trịn, đầy. Đủ ba mươi hai tướng. Gót chân khơng cao thấp, Đùi thon như đùi nai, Đấng Chí Tơn xuất hiện, Như voi bứt dây trói, Độ chúng sanh thốt khổ, Khỏi sanh già bệnh chết. Ngài đem tâm đại bi, Truyền dạy Bốn chân đế, Diễn bày các pháp nghóa, Được mọi người tơn quý.” Phật lại bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, lúc Phật Tỳ-bà-thi sinh ra, chư Thiên ở phía trên, giữa hư khơng, tay cầm lọng trắng, quạt báu, để ngăn che lạnh, nóng, gió, mưa, bụi bặm.” Hiếm có trong lồi người, Đấng Lưỡng Túc ra đời, Được chư Thiên cung kính, Dâng lọng báu, quạt báu. “Bấy giờ, Phụ vương cấp bốn người vú: một, cho bú; hai, tắm rửa; ba, bơi hương; bốn, vui đùa. Họ vui vẻ nuơi nấng khơng hề biếng nhác.” Nhũ mẫu lịng từ ái, Nuơi dưỡng con mới sinh, Cho bú và tắm rửa, Bơi hương và vui đùa. Hương bậc nhất trong đời, Bơi xoa Đấng Chí Tơn. “Lúc cịn là đồng tử, con trai con gái cả nước ngắm nhìn Ngài khơng chán.” Được nhiều người thương kính, Như tượng vàng mới thành, Trai gái cùng nhìn ngắm, Nhìn mãi khơng biết chán. “Lúc cịn là đồng tử, con trai và con gái cả nước đều ẵm bồng, như ngắm hoa báu”. Phật nói bài kệ: Khi Lưỡng Túc Tơn sanh, Được nhiều người thương kính, Chuyền tay nhau bồng ẵm, Như ngắm hương hoa báu. “Bồ-tát khi mới sanh mắt Ngài khơng nháy như chư Thiên trời Đao-lợi<註 n="69"/>69. Do cặp mắt khơng nháy mà có hiệu là Tỳ-bà-thi.” Đấng Chí Tơn khơng nháy, Như chư Thiên Đao-lợi, Thấy sắc mà chánh quán, Nên hiệu Tỳ-bà-thi. “Bồ-tát khi sanh âm thanh của Ngài trong suốt êm dịu hịa nhã như tiếng chim Ca-la-tần-già<註 n="70"/>70.” Như chim trên núi Tuyết, Uống nước hoa mà hót, Đấng Lưỡng Túc Tơn ấy, Tiếng trong suốt cũng vậy. “Bồ-tát khi mới sinh, mắt có thể nhìn thấy suốt một do-tuần.” Do nghiệp quả thanh tịnh, Ánh sáng trời mầu nhiệm, Mắt Bồ-tát nhìn thấy, Khắp suốt một do-tuần. “Bồ-tát khi sinh, tuổi lớn dần, ở tại Thiên chánh đường<註 n="71"/>71 để khai hóa. Ân đức ban đến thứ dân, đức lớn đồn xa<註 n="72"/>72.” Thơ ấu, ở chánh đường, Để khai hóa thiên hạ, Quyết đốn các sự vụ, Nên gọi Tỳ-bà-thi. Trí thanh tịnh quảng bác, Sâu thẳm như biển cả, Hài lịng với mọi người, Khiến trí tuệ tăng trưởng. “Một hơm, Bồ-tát muốn ra khỏi thành để dạo chơi và quan sát, bèn ra lệnh sửa soạn xe báu để Ngài đi đến viên lâm<註 n="73"/>73 tuần hành và du ngoạn. Người đánh xe sau khi sửa soạn xa giá xong, tâu Thái tử: ‘Giờ đã đến lúc.’ Thái tử cưỡi xe báu đi đến khu vườn cơng cộng<註 n="74"/>74 kia. Giữa đường Ngài gặp một người già, đầu bạc răng rụng, lưng cịm, mặt nhăn, rung rinh trên chiếc gậy, thở khị khè theo nhịp bước khó khăn. Thái tử liền xoay hỏi quân hầu: ‘Đó là người gì?’ Đáp rằng: ‘Đó là người già.’ Lại hỏi: ‘Già là thế nào?’ Đáp: ‘Già là người mà tuổi thọ sắp hết, khơng cịn sống bao lăm nữa. Thái tử lại hỏi: ‘Ta đây cũng sẽ như thế, khơng tránh khỏi hoạn này chăngï?’ Đáp: ‘Phàm đã có sinh tất có già, đâu kể chi sang hèn.’ Nghe vậy Thái tử buồn bã khơng vui, liền bảo quân hầu đánh xe về. Ngài lặng lẽ suy nghó về nỗi già khổ mà chính Ngài cũng chưa tránh khỏi.” Bấy giờ Phật bèn nói bài kệ: Nhìn mạng già sắp chết, Chống gậy bước đi run, Bồ-tát tự suy ngẫm, Ta chưa khỏi nạn này. “Bấy giờ Phụ vương hỏi quân hầu: ‘Thái tử xuất du có vui khơng?’ Đáp: ‘Khơng vui.’ Lại hỏi lý do: ‘Tại sao vậy?’ Đáp: ‘Tại giữa đường Ngài gặp người già nên khơng vui.’ Phụ vương mới âm thầm nhớ tới lời tướng sư ngày trước, đốn Thái tử sẽ xuất gia, nay Thái tử khơng vui, hẳn đúng như thế chăngï? Ta hãy dùng mọi cách giữ Thái tử lại thâm cung, đem ngũ dục làm nguơi lịng Thái tử, để Thái tử đừng xuất gia. Nghó xong vua liền hạ lệnh trang sức cung quán, chọn hàng thế nữ để giúp vui Thái tửû.” Phật lại nói bài tụng: Phụ vương nghe lời ấy, Sai trang hồng cung quán, Tăng thêm bằng ngũ dục, Muốn để khơng xuất gia. “Lại một lúc khác, Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và trên đường đi, Ngài gặp một người bệnh, thân gầy, bụng lớn, mày mặt sạm đen, nằm lăn trên nhơ bẩn, khơng ai ngó ngàng chăm sóc. Bệnh rất trầm trọng, miệng khơng thốt được một lời. Thái tử xoay lại hỏi quân hầu: ‘Đó là người gì?’ Đáp: ‘Đó là người bệnh.’ Hỏi: ‘Bệnh là thế nào?’ Đáp: ‘Bệnh là sự đau đớn bứt rứt, chết sống khơng biết lúc nào.’ Hỏi: ‘Ta cũng sẽ như thế, chưa tránh khỏi cái hoạn này sao?’ Đáp: ‘Phải. Phàm có sanh thì có bệnh, khơng kể gì sang hèn.’ Nghe vậy Thái tử trở nên buồn bã khơng vui, liền bảo quân hầu đánh xe trở về. Ngài lặng lẽ suy nghó tới cái khổ bệnh mà Ngài cũng khơng tránh khỏi.” Rồi Phật nói bài kệ: Nhìn người bệnh lâu kia, Nhan sắc bị suy tổn. Im lặng tự suy ngẫm Ta chưa khỏi hoạn này. “Bấy giờ, Phụ vương lại hỏi quân hầu: ‘Thái tử đi dạo có vui khơng?’ ‘Khơng vui.’ Quân hầu đáp. ‘Tại sao thế?’ ‘Tại giữa đường Ngài gặp người bệnh, nên khơng vui.’ Phụ vương âm thầm suy nghó: ‘Ngày trước tướng sư xem tướng Thái tử có đốn sẽ đi xuất gia. Ngày nay Thái tử khơng vui, hẳn đúng thế chăngï? Ta sẽ tìm cách tăng thêm mọi thứ dục lạc làm nguơi lịng Thái tử khiến cho khỏi xuất gia’. Vua liền hạ lệnh nghiêm sức cung quán, chọn thêm thể nữ để giúp vui.” Phật lại nói kệ: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, Vi diệu đáng ưa thích, Bồ-tát phước tột cùng, Nên sống trong hoan lạc. “Lại một lúc khác, Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và giữa đường lần này, Ngài gặp một người chết, phan lụa nhiều màu dẫn đường trước sau; dịng họ thân quyến tiếc thương than khóc, đưa ra khỏi thành. Thái tử lại hỏi: ‘Đó là người gì?’ ‘Đó là người chết’, quân hầu đáp. Hỏi: ‘Chết là thế nào?’ Đáp: ‘Chết tức là hết. Hết gió đến lửa cứ tiếp tục làm cho xác thân bại hoại. Kẻ cịn kẻ mất đơi đường, gia đình ly biệt.’ Thái tử lại hỏi người đánh xe: ‘Ta đây cũng sẽ như thế, chưa khỏi cái hoạn này chăng?’ Đáp: ‘Phải. Phàm đã có sanh tất có chết, chẳng kể sang hèn.’ Nghe vậy Thái tử lại càng buồn bã khơng vui, bảo đánh xe về. Ngài trầm ngâm suy nghó tới cái chết khổ mà Ngài cũng khơng tránh khỏi. Phật liền dạy bài kệ: Vừa trơng thấy người chết, Biết họ cịn tái sanh; Thầm lặng tự suy nghó: Ta chưa khỏi hoạn này. “Phụ vương lại hỏi quân hầu: ‘Thái tử đi dạo lần này có vui khơng?’. ‘Khơng vui’, quân hầu đáp. ‘Tại sao thế?’. ‘Tại giữa đường Ngài gặp người chết, nên khơng vui.’ Phụ vương âm thầm suy nghó: ‘Ngày trước tướng sư xem Thái tử có đốn sẽ đi xuất gia, ngày nay Thái tử khơng vui, hẳn là đúng thế chăngï? Ta hãy tìm cách tăng thêm các thứ kỹ nhạc để làm nguơi lịng Thái tử, khỏi xuất gia.’ Liền hạ lệnh trang sức cung cấm, chọn thêm thể nữ để khiến cho giúp vui.” Tuổi thơ đã nổi tiếng, Các thể nữ vây quanh, Tự vui trong ngũ dục, Như thú vui Thiên đế. “Lại một lúc khác, Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và lần này giữa đường Ngài gặp một vị Sa-mơn, mang y cầm bát, mắt ngó xuống đất, chân bước khoan thai. Thái tử liền hỏi quân hầu: ‘Đó là người gì?’. ‘Đó là vị Sa-mơn’, quân hầu đáp. ‘Sao gọi là Sa-mơn?’. ‘Sa-mơn là người xa lìa ân ái, xuất gia học đạo, chế ngự các căn, khơng nhiễm mê ngoại dục, lịng xót thương hết thảy, khơng làm tổn hại vật gì, gặp khó cũng khơng phiền, gặp vui cũng khơng mong, hay nhẫn như đất, nên gọi là Sa-mơn.’ Thái tử bèn nói: ‘Lành thay, đó là đạo chân chính, tuyệt hẳn mọi trần lụy, vi diệu thanh hư. Chỉ có thế là khối thích thơi!’ Thái tử liền bảo quân hầu đưa xe đến gần và hỏi Sa-mơn rằng: ‘Ơng cắt tóc, cạo râu mang y cầm bát như vậy, chí ơng muốn cầu chuyện gì?’ Sa-mơn đáp: ‘Phàm người xuất gia là cốt điều phục tâm ý, xa lìa trần cấu, thương cứu quần sanh, khơng làm điều nhiễu hại, trong lịng rỗng rang tịch mịch, chỉ có bề giữ đạo mà thơi”. Thái tử khen: ‘Hay lắm! Đạo này rất chân chính.’ Liền bảo quân hầu: Mang áo trân bảo của Ta và xa giá về, tâu lại phụ vương biết rằng ngay tại đây, Ta sẽ cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Vì Ta muốn điều phục tâm ý, xa lìa trần cấu, giữ mình thanh tịnh để cầu Chánh đạo.’ Quân hầu liền đem xa giá và y phục của Thái tử về tâu lại phụ vương, cịn Thái tử thì cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo! Thái tử nhân thấy người già, bệnh mà thấu rõ cõi đời là khổ não; nhân thấy người chết mà lịng tham luyến thế gian tiêu tan; nhân thấy vị Sa-mơn mà tâm được hốt nhiên đại ngộ. Trong khi Thái tử xuống xe bước đi, cứ mỗi bước tiến tới là mỗi bước rời xa triền phược. Thế ấy là chân xuất gia, chân viễn ly. “Bấy giờ, nhân dân trong nước nghe Thái tử đã cạo bỏ râu tóc, mang y cầm bát, xuất gia hành đạo, họ bảo nhau rằng: ‘Đạo ấy chắc là đạo chân chính, mới khiến Thái tử từ bỏ vương vị vinh hoa cùng mọi sự quý trọng để đi theo.’ Lúc ấy có tới tám vạn bốn ngàn người trong nước đến xin Thái tử cho làm đệ tử xuất gia tu đạo.” Lựa chọn pháp thâm diệu, Nghe xong liền xuất gia, Thốt khỏi ngục ân ái, Khơng cịn các trói buộc. “Thái tử bèn thâu nhận, cho cùng đi theo giáo hóa khắp nơi, từ thơn này sang thơn khác, từ nước nọ đến nước kia. Họ đến chỗ nào cũng được cung kính, cúng dường tứ sự. Bồ-tát nghó rằng: ‘Ta cùng đại chúng thường đi qua các nước, chỗ nhân gian ồn ào, việc này khơng thích hợp với ta lắm. Lúc nào ta mới xa được đám đơng này ở chỗ nhàn tịnh mà suy tầm đạo lý?’ “Ngài liền theo ý nguyện đi đến chỗ nhàn tịnh, chuyên tinh tu đạo. Ngài lại suy nghó: ‘Chúng sanh thật đáng thương,ï thường ở trong hơn ám, thọ thân nguy khốn, mong manh, nào sanh, nào già, nào bệnh, nào chết, đủ mọi thứ khổ não. Họ chết đây sanh kia, chết kia sanh đây, cứ duyên theo cái khổ ấm đó mà trơi nổi khơng biết bao giờ cùng. Ta lúc nào mới có thể thấu triệt khổ ấm, diệt hết sanh già chết?’ “Ngài lại suy nghó rằng: ‘Sanh tử từ đâu, duyên đâu mà có ra? Liền dùng trí tuệ quán sát nguyên do, thấy rằng do sanh mà có già và chết; sanh là duyên của già chết. Sanh lại do hữu mà có; hữu là duyên của sanh. Hữu do thủ mà có; thủ là duyên của hữu. Thủ do ái mà có; ái là duyên của thủ. Ái do thọ mà có; thọ là duyên của ái. Thọ do xúc mà có; xúc là duyên của thọ. Xúc do lục nhập mà có; lục nhập là duyên của xúc. Lục nhập do danh sắc mà có; danh sắc là duyên của lục nhập. Danh sắc do thức mà có; thức là duyên của danh sắc. Thức do hành mà có, hành là duyên của thức. Hành do si mà có, si là duyên của hành. Thế tức là do duyên là si có hành, do duyên là hành có thức, do duyên là thức có danh sắc, do duyên là danh sắc có lục nhập, do duyên là lục nhập có xúc, do duyên là xúc có thọ, do duyên là thọ có ái, do duyên là ái có thủ, do duyên là thủ có hữu, do duyên là hữu có sanh, do duyên là sanh có già, bệnh, chết, sầu, buồn, khổ, não. Cái ấm thân đầy dẫy khổ não này do duyên là sanh mà có. Chính đó là sự tập khởi của khổ<註 n="75"/>75.’ “Khi Bồ-tát suy nghó tới cái khổ tập ấm<註 n="76"/>76 ấy, liền phát sinh trí, phát sinh nhãn<註 n="77"/>77, phát sinh giác, phát sinh minh, phát sinh thơng, phát sinh tuệ, phát sinh chứùng ngộ<註 n="78"/>78. “Bồ-tát lại suy nghó: ‘Do cái gì khơng có thì già chết khơng có? Do cái gì diệt thì già chết diệt?’ Rồi bằng trí tuệ, Ngài quán sát nguyên do, biết rằng, do sanh khơng có nên già chết khơng có; do sanh diệt nên già chết diệt; do hữu khơng có nên sanh khơng có, hữu diệt nên sanh diệt; do thủ khơng có nên hữu khơng có, thủ diệt nên hữu diệt; do ái khơng có nên thủ khơng có, ái diệt nên thủ diệt; do thọ khơng có nên ái khơng có, thọ diệt nên ái diệt; do xúc khơng có nên thọ khơng có, xúc diệt nên thọ diệt; do lục nhập khơng có nên xúc khơng có, lục nhập diệt nên xúc diệt; do danh sắc khơng có nên lục nhập khơng có, danh sắc diệt nên lục nhập diệt; do thức khơng có nên danh sắc khơng có, thức diệt nên danh sắc diệt; do hành khơng có nên thức khơng có, hành diệt nên thức diệt; do si khơng có nên hành khơng có, si diệt nên hành diệt. Thế tức là vì si diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già chết ưu bi khổ não diệt. “Khi Bồ-tát suy nghó về khổ ấm diệt như thế liền phát sinh trí, phát sinh nhãn, phát sinh giác, phát sinh minh, phát sinh thơng, phát sinh tuệ, phát sinh chứng. “Sau khi Bồ-tát quán mười hai nhân duyên theo hai chiều thuận nghịch, biết như thật, thấy như thật, ngay tại chỗã, Ngài chứng được đạo quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề<註 n="79"/>79.” Phật bèn nói bài tụng: Lời này nói giữa chúng, Các ngươi nên lắng nghe. Bồ-tát quá khứ quán Mà vốn chưa từng nghe: Già chết từ duyên gì, Nhân gì mà có ra? Quán sát đúng như vậy, Biết già chết do sanh; Sanh lại từ duyên gì, Nhân gì mà có ra? Suy nghó đúng như vậy, Liền biết sanh do hữu; Chấp thủ, chấp thủ rồi, Hữu lần lượt chồng chất. Vậy nên Như Lai dạy: Thủ là duyên của hữu. Như đống chứa dơ bẩn<註 n="80"/>80. Gió thổi, ác tuơn chảy<註 n="81"/>81, Như vậy nhân của thủ, Do ái mà rộng sâu. Ái do từ thọ sanh, Nảy sinh gốc lưới khổ, Vì nhân duyên nhiễm trước, Cùng tương ưng khổ lạc. Thọ vốn do duyên gì, Nhân gì mà có thọ? Suy nghó như thế rồi, Biết thọ do xúc sanh. Xúc vốn do duyên gì, Nhân gì mà có xúc? Suy nghó như thế rồi, Biết xúc từ lục nhập. Lục nhập do duyên gì, Nhân gì có lục nhập? Suy nghó như vậy, biết, Lục nhập do danh sắc. Danh sắc do duyên gì, Nhân gì có danh sắc? Suy nghó như vậy biết Danh sắc từ thức sanh. Thức vốn do duyên gì, Nhân gì mà có thức? Suy nghó như vậy rồi, Biết thức từ hành sanh; Hành vốn do duyên gì, Nhân gì mà có hành? Suy nghó như vậy rồi Biết hành từ si sanh. Nhân duyên như vậy đó, Mới thật nghóa nhân duyên. Dùng trí tuệ phương tiện, Quáùn thấy gốc nhân duyên. Khổ khơng do Thánh hiền, Cũng khơng phải vơ cớ. Nên với khổ biến dịch, Kẻ trí lo đoạn trừø. Nếu vơ minh dứt sạch, Lúc đó khơng cịn hành. Nếu đã khơng có hành, Thời cũng khơng có thức; Nếu thức hết vónh viễn, Thì danh sắc khơng cịn. Danh sắc đã dứt rồi, Làm gì có lục nhập. Nếu lục nhập trọn dứt, Thời cũng khơng có xúc. Nếu xúc đã dứt hẳn, Thời cũng khơng có thọ. Nếu thọ dứt hết rồi, Thời cũng khơng có ái Nếu ái dứt hết rồi Thời cũng khơng có thủ. Nếu thủ đã dứt rồi, Thời cũng khơng có hữu. Nếu hữu dứt hết rồi, Thời cũng khơng có sanh. Nếu sanh dứt hết rồi, Thời khơng khổ già chết. Hết thảy đều dứt sạch. Đó lời người trí nói. Mười hai duyên sâu xa, Khó thấy khó hiểu biết Duy Phật mới biết rõ, Tại sao có, sao khơng. Nếu hay tự quán sát, Thời khơng cịn các nhập. Người thấu triệt nhân duyên Khơng cần tìm thầy ngồi. Đối với ấm, giới, nhập, Lìa dục, khơng, nhiễm trước; Xứng đáng nhận bố thí; Thí chủ được báo lành. Nếu đặng bốn biện tài, Thành tựu quyếát định chứng; Giải trừ mọi ràng buộc, Đoạn trừ, khơng buơng lung.<註 n="82"/>82 Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, Giống như xe cũ mục; Quán rõ được như vậy, Thời thành Bậc Chánh Giác. Như chim bay giữa khơng, Đơng tây theo ngọn gió; Bồ-tát đoạn kết sử, Như gió thổi áo nhẹ. Tỳ-bà-thi tịch tịnh, Quán sát rõ các pháp; Già chết duyên đâu có, Từ đâu già chết dứt, Ngài quán như vậy rồi, Phát sanh trí thanh tịnh, Biết già chết do “sanh” Sanh dứt, già chết dứt. “Lúc Phật Tỳ-bà-thi vừa mới thành đạo, Ngài tu tập nhiều về hai phép quán là An ẩn quán và Xuất ly quán<註 n="83"/>83.” Phật liền dạy bài tụng: Như Lai, Bậc Tối Thượng, Thường tu hai phép quán, An ẩn và Xuất ly, Đại Tiên sang bờ kia, Tâm Ngài được tự tại, Đoạn trừ mọi kết sử Lên núi nhìn bốn phương, Nên hiệu Tỳ-bà-thi. Ánh đại trí trừ tối, Như gương sáng soi mình. Trừ ưu khổ cho đời. Dứt khổ sanh già chết. “Phật Tỳ-bà-thi, lại ở chỗ nhàn tịnh suy nghó như vầy: “Ta nay đã chứng được pháp vơ thượng thậm thâm vi diệu là pháp khó thấy khó hiểu, tịch tónh<註 n="84"/>84, thanh tịnh<註 n="85"/>85, chỉ có người trí mới thấu biết chứ kẻ phàm phu khơng thể nào hiểu thấu được. Bởi vì chúng sanh có những nhẫn dị biệt, kiến dị biệt, chấp thủ dị biệt, sở kiến dị biệt. Dựa theo kiến thức dị biệt đó mỗi người chỉ thích điều mình mong cầu, làm theo tập quán của mình<註 n="86"/>86, cho nên đối với lý nhân duyên thâm diệu<註 n="87"/>87 này chúngï cịn khơng thể thấu hiểu, huống chi cảnh Niết-bàn dứt hết mọi tham ái, lại càng khó hiểu gấp bội phần. Ta dầu vì chúng mà nói ra thì chắc chúng khơng hiểu nổi cịn trở lại gây phiền nhiễu”. Suy nghó như thế rồi, Ngài im lặng khơng muốn thuyết pháp. “Lúc ấy vị vua trời Phạm thiên, biết Đức Tỳ-bà-thi đã nghó gì, liền tự nhủ: ‘Cõi thế gian này đang bị sụp đổ, rất đáng thương xót. Đức Phật Tỳ-bà-thi vừa chứng được pháp mầu như thế mà khơng muốn nói ra.’ Tức thì, trong khoảnh khắc, như lực só co duỗi tay, từ cung Phạm thiên bỗng nhiên hiện xuống, đến trước mặt Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, đứng lui một bên, rồi đầu gối mặt quỳ sát đất, chắp tay bạch rằng: ‘Ngưỡng mong Đức Thế Tơn kịp thời thuyết pháp. Các chúng sanh hiện nay, trần cấu mỏng nhẹ, các căn lanh lợi nhiều, có lịng cung kính, dễ bề khai hóa. Chúngï đã biết sợ những tội lỗi khơng ai cứu trong tương lai, biết dứt trừ điều ác, phát sinh điều lành.’ “Phật bảo Phạm vương: ‘Thật vậy, thật vậy, đúng như lời ngươi nói. Nhưng ta ở chỗ nhàn tịnh, thầm lặng suy nghó: Chánh pháp ta vừa chứng được vi diệu thậm thâm, nếu đem nói cho chúng sanh, chắc họ khơng hiểu nổi lại sanh tâm báng bổ, nên ta mặc nhiên khơng muốn thuyết pháp. Ta nhờ từ vơ số a-tăng-kỳ kiếp cần khổ khơng biếng nhác tu tập những hạnh vơ thượng, nay mới chứng ngộ được pháp khó chứng ngộ này, nếu vì hạng chúng sanh cịn dâm, nộ, si mà nói ra, chắc chúngï khơng làm theo, chỉ thêm luống uổng. Pháp vi diệu này trái nghịch với đời. Chúng sanh bị dục nhiễm ngu si che ngăn khơng tin hiểu nổi. Này Phạm vương, Ta thấy rõ như thế, nên mặc nhiên khơng muốn thuyết pháp.’ “Khi ấy, Phạm vương lại ân cần khẩn thiết thưa thỉnh một lần nữa, rồi một lần nữa, ân cần khẩn thiết thỉnh cầu đến ba lần rằng: ‘Bạch Thế Tơn, nếu Thế Tơn khơng thuyết pháp, thì nay cõi thế gian này phải bị sụp đổ, rất đáng thương xót. Ngưỡng mong Thế Tơn, kịp thời giảng dạy, chớ để chúng sanh sa đọa đường mê.’ “Đức Thế Tơn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ơ nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng, căn tánh có lanh lợi, có chậm lụt; có kẻ dễ khai hóa, có người khó khai hóa. Hạng người dễ khai hóa, biết sợ tội lỗi đời sau, nên gắng lo dứt trừ điều ác, làm phát sanh đường lành. Chúngï như hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lî<註 n="88"/>88, có cái vừa ra khỏi bùn nhưng chưa tới mặt nước, có cái đã ra khỏi bùn lại lên ngang mặt nước, có cái tuy lên khỏi mặt nước mà chưa nở, nhưng cái nào cũng khơng bị dính bẩn, mà dễ dàng nở ra. Chúng sanh trong thế gian này cũng như thế. “Đức Thế Tơn bảo Phạm vương: ‘Ta vì thương tưởng các ơng sẽ khai diễn pháp mơn cam lồ<註 n="89"/>89 là pháp thâm diệu khó hiểu, khó biết. Nay vì những người tín thọ, muốn nghe, mà nói chứ khơng phải vì hạng người bài báng vơ ích’. “Phạm vương biết Phật đã nhận lời thỉnh cầu, nên vui mừng hớn hở đi quanh Phật ba vịng, cúi đầu đảnh lễ rồi biến mất. “Phạm vương đi chưa bao lâu, Đức Như Lai lại tónh mặc suy nghó: ‘Nay ta nên nói pháp cho ai trước hết?’ Rồi Ngài lại suy nghó: ‘Ta hãy đi vào thành Bàn-đầu, trước hết mở cánh cửa cam lộ cho vương tử Đề-xá và con đại thần là Khiên-đồ.’ Rồi thì, liền trong khoảnh khắc như lực só co duỗi tay, Thế Tơn bỗng biến mất khỏi cây đại thọ, Ngài đã đến thành Bàn-đầu, vào vườn Lộc dã của vua Bàn-đầu, trải tọa rồi ngồi.” Bấy giờ, Phật nói bài tụng: Như sư tử trong rừng, Mặc tình mà đi dạo. Phật kia cũng như vậy, Du hành khơng trở ngại. “Phật Tỳ-bà-thi bảo người giữ vườn: ‘Ngươi hãy vào thành bảo với vương tử Đề-xá và Khiên-đồ con đại thần rằng: Các ngài có biết khơng, Đức Phật Tỳ-bà-thi hiện ở trong vườn Lộc dã, muốn gặp các ngài? Các ngài nên biết bây giờ là phải thời.’ Người giữ vườn vâng mệnh tìm đến chỗ hai người trình đủ những điều Phật dạy. Hai người nghe xong, liền đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi đứng lại một bên. Phật lần lượt thuyết pháp cho họ nghe, chỉ bày, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ. Ngài giảng về bố thí, trì giới, sanh thiên; dục là xấu ác, bất tịnh; phiền não là nguy hiểm<註 n="90"/>90; tán dương sự xuất ly là pháp rất vi diệu tối thượng, thanh tịnh bậc nhất. Khi Phật thấy hai người đã có một tâm ý mềm mại, hoan hỷ tin vui, đủ sức lãnh thọ chánh pháp, thì dạy tiếp về Khổ thánh đế; phân tích, giảng giải, mở bày rành rẽ về Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế và Khổ xuất yếu thánh đế<註 n="91"/>91. Bấy giờ vương tử Đề-xá và con trai đại thần là Khiên-đồ ngay tại chỗ, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, như tấm vải trắng dễ nhuộm sắc màu. “Lúc ấy, địa thần bèn xướng lên rằng: ‘Đức Tỳ-bà-thi Như Lai ở vườn Lộc dã, thành Bàn-đầu, chuyển Pháp luân vơ thượng mà các Sa-mơn, Bà-la-mơn, chư Thiên, Ma, Phạm và các Người thế gian khác khơng thể chuyển được.’ Tiếng nói ấy lần lượt vang đến cõi Tứ thiên vương, cho đến cõi trời Tha hóa tự tại, rồi trong khoảnh khắc vang đến cõi Phạm thiên.” Phật liền dạy bài kệ: Tâm vui mừng hớn hở, Xưng tán Đức Như Lai. Tỳ-bà-thi thành Phật, Chuyển Pháp luân vơ thượng. Bắt đầu từ đạo thọ, Đi đến thành Bàn-đầu. Vì Đề-xá, Khiên-đồ Chuyển Pháp luân Tứ đế. Đề-xá và Khiên-đồ Nghe xong lời Phật dạy Ở trong pháp thanh tịnh Được phạm hạnh tối cao. Thiên chúng trời Đao-lợi Cho đến Thiên Đế Thích, Vui mừng bảo lẫn nhau, Nghe khắp cả chư Thiên: Phật xuất hiện thế gian, Chuyển Pháp luân vơ thượng; Tăng thêm hàng chư Thiên; Giảm bớt A-tu-la. Đấng Thế Tơn danh vang Thiện trí<註 n="92"/>92 lìa thế biên. Tự tại đối các pháp, Đại Trí chuyển Pháp luân. Quán sát pháp bình đẳng, Tâm dứt sạch cấu bẩn, Để lìa ách sanh tử, Đại Trí chuyển Pháp luân. Diệt khổ lìa các ác, Ly dục được tự tại, Xa lìa ngục ái ân, Đại Trí chuyển Pháp luân. Đấng Chánh Giác Tối Tơn, Đấng Điều Ngự Lưỡng Túc, Giải thốt mọi ràng buộc, Đại Trí chuyển Pháp luân. Đạo Sư khéo giáo hóa, Hay uốn dẹp ốn ma, Xa lìa mọi điều ác, Đại Trí chuyển Pháp luân. Sức vơ lậu hàng ma, Các căn định, khơng lười, Lậu tận, lìa ma trói, Đại Trí chuyển Pháp luân. Nếu học pháp quyết định, Biết các pháp vơ ngã, Đó là pháp cao tột, Đại Trí chuyển Pháp luân. Khơng vì cầu lợi dưỡng Cũng chẳng vì danh dự, Chỉ vì thương chúng sanh, Đại Trí chuyển Pháp luân. Thấy chúng sanh khổ ách, Già, bệnh, chết bức bách, Vì ba đường ác đó, Đại Trí chuyển Pháp luân. Đoạn tham, sân nhuế, si; Nhổ sạch gốc tham ái, Được giải thốt bất động, Đại Trí chuyển Pháp luân. Ta thắng việc khó thắng Thắng để tựï hàng phục, Đã thắng ma khó thắng, Đại Trí chuyển Pháp luân. Pháp luân vơ thượng đó, Chỉ Phật hay chuyển nói. Hàng Thiên, Ma, Thích, Phạm, Khơng ai chuyển nói được. Thân cận chuyển Pháp luân, Làm ích lợi Thiên, Nhân; Bậc Thiên Nhân Sư đó, Đã vượt đến bờ kia. “Lúc ấy vương tử Đề-xá và cơng tử Khiên-đồ đã thấy pháp, đắc quả, chân thật khơng dối thành tựu vơ úy, liền bạch Phật rằng: ‘Chúng con muốn ở trong giáo pháp của Như Lai tịnh tu phạm hạnh.’ Phật nói: ‘Hãy đến đây, Tỳ-kheo<註 n="93"/>93. Pháp ta thanh tịnh, tự tại; hãy tự mình tu hành để dứt trừ hết thống khổ.’ Ngay lúc ấy hai người liền đắc Cụ túc giới. Họ đăéc giới chưa bao lâu, Như Lai lại thị hiện ba việc: một là Thần túc, hai là Quán tha tâm, ba là Giáo giới<註 n="94"/>94, tức thì chứng đắc Tâm giải thốt vơ lậu<註 n="95"/>95, phát sinh Vơ nghi trí<註 n="96"/>96. “Bấy giờ số đơng nhân dân ở thành Bàn-đầu nghe hai người xuất gia học đạo, mang y cầm bát, tịnh tu phạm hạnh, họ nói nhau rằng: ‘Đạo ấy chắc là đạo chân thật, mới khiến các người kia bỏ vinh vị ở đời, bỏ các thứ quý trọng để tu theo.’ Rồi thì, trong thành có tám vạn bốn ngàn người đi đếân vườn Lộc dã, chỗ Phật Tỳ-bà-thi, cúi đầu đảnh lễ, ngồi lại một bên. Phật lần lượt thuyết pháp, chỉ bày, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ<註 n="97"/>97; nói về bố thí, về trì giới, về sinh thiên; chỉ rõ dục là xấu ác bất tịnh phiền não là nguy hiểm tán thán sự xuất ly làø vi diệu tối thượng, thanh tịnh bậc nhất. Khi Đức Thế Tơn thấy đại chúng có một tâm ý mềm mại, hoan hỷ tín thọ, đủ sức lãnh thọ Chánh pháp, Ngài liền nói về Khổ thánh đế; phân tích, giảng giải, cơng bố Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ xuất yếu thánh đế. Ngay tại chỗ, cả bốn vạn tám ngàn người đều xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, như tấm vải trắng dễ nhuộm sắc màu. Họ đượïc thấy pháp chứng quả, chân thật khơng dối, thành tựu vơ úy, liền bạch Phật rằng: ‘Chúng con muốn ở trong giáo pháp Như Lai mà tịnh tu phạm hạnh.’ Phật dạy: ‘Hãy đến đây, Tỳ-kheo! Pháp ta thanh tịnh, tự tại; hãy theo đó tu hành để dứt trừ thống khổ.’ Khi đó tám vạn bốn ngàn người đều đắc Cụ túc giới. Đắc giới chưa bao lâu Như Lai lại thị hiện ba việc để giáo hóa: một là Thần túc, hai là Quán tha tâm, ba là Giáo giới. Họ tức thì chứng đắc Tâm giải thốt vơ lậu, phát sinh Trí vơ nghi. “Hiện tiền có tám vạn bốn ngàn người khác, nghe Phật ở trong vườn Lộc dã chuyển Pháp luân vơ thượng mà hàng Sa-mơn, Bà-la-mơn, chư Thiên, Ma, Phạm và các người thế gian khác khơng thể chuyển được, liền đến thành Bàn-đầu chỗ Phật Tỳ-bà-thi, cúi đầu đảnh lễ, ngồi lại một bên.” Phật lại nói bài tụng: Như người cứu đầu cháy, Nhanh chóng tìm chỗ dập; Người kia cũng như vậy, Vội đến trước Như Lai. “Phật cũng vì họ nói pháp như trước. “Đến lúc này tại thành Bàn-đầu đã có mười sáu vạn<註 n="98"/>98 tám ngàn vị Đại Tỳ-kheo. Tỳ-kheo Đề-xá và Tỳ-kheo Khiên-đồ ở trong đại chúng bỗng bay lên khơng trung, thân phóng xuất nước lửa, hiện các thần thơng biến hóa, nói pháp vi diệu cho đại chúng nghe. Bấy giờ Đức Như Lai thầm nghó: ‘Nay tại trong thành này đã có mười sáu vạn tám ngàn Đại Tỳ-kheo, ta nên sai đi du hóa; chớ đi hai người một nhóm<註 n="99"/>99, đến khắp các nơi, đúng sáu năm lại trở về thành này để thuyết Cụ túc giới<註 n="100"/>100.’ “Bấy giờ, trời Thủ-đà-hội<註 n="101"/>101 biết được tâm tư của Như Lai, trong khoảnh khắc như lực só co duỗi cánh tay, biến mất khỏi cõi trời kia mà hiện đến nơi này, đến trước Đức Thế Tơn, cúi đầu đảnh lễ, đứng lại một bên; giây lát, bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tơn, thật như vậy, trong thành Bàn-đầu này có nhiều Tỳ-kheo, Ngài nên phân bố đi khắp mọi nơi, đúng sáu năm sẽ trở lại thành này để thuyết giới, con sẽ ủng hộ, khiến khơng ai tìm cơ hội phá khuấy các vị được.’ Như Lai sau khi nghe lời ấy, làm thinh nhận lời. Trời Thủ-đà-hội thấy Phật làm thinh nhận lời, đảnh lễ Phật xong, bỗng biến trở lại cõi trời. Khơng bao lâu sau, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay trong thành này Tỳ-kheo đã đơng, nên mỗi người phân bố đi mỗi hướng du hành giáo hóa. Sau sáu năm hãy trở về tập họp thuyết giới. Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, mang y cầm bát, đảnh lễ Phật rồi đi.” Phật bèn nói bài tụng: Phật sai<註 n="102"/>102 chúng khơng loạn, Ly dục, khơng luyến ái, Oai như chim kim sí; Như hạc bỏ ao hoang. “Sau đó một năm, trời Thủ-đà-hội nhắc lại các Tỳ-kheo: ‘Các ngài đi du hóa đã qua một năm, cịn năm năm nữa, các ngài nên nhớ trọn sáu năm rồi hãy nhóm về thành mà thuyết giới.’ Cứ như thế, đến năm thứ sáu, trời lại nhắc rằng: ‘Sáu năm đã mãn, nên trở về thành mà thuyết giới.’ Các Tỳ-kheo nghe lời nhắc xong, thu xếp y bát, trở lại thành Bàn-đầu, đến Lộc dã chỗ Phật Tỳ-bà-thi, cúi đầu đảnh lễ, ngồi lui một bên.” Phật nói bài tụng: Như voi khéo huấn luyện, Tùy ý sai khiến đi; Đại chúng cũng như vậy, Vâng lời mà trở về. “Bấy giờ, ở trước mặt đại chúng, Như Lai bay lên khơng trung, ngồi kiết già, giảng nói giới kinh: Nhẫn nhục là bậc nhất, Niết-bàn là tối thượng, Cạo tóc, não hại người, Khơng phải là Sa-mơn.<註 n="103"/>103 “Trời Thủ-đà-hội lúc ấy ở cách Phật khơng xa, dùng bài kệ tán Phật rằng: Như Lai đại trí, Vi diệu độc tơn, Chỉ, quán đầy đủ, Thành Tối chánh giác. Vì thương quần sanh, Ở đời thành Đạo. Đem Bốn chân đế Dạy hàng Thanh-văn. Khổ cùng khổ nhân, Chân lý diệt khổ; Tám đạo Thánh hiền; Đưa đến an lạc. Phật Tỳ-bà-thi Xuất hiện thế gian; Ở giữa đại chúng Như ánh mặt trời. “Nói xong bài kệ, bỗng nhiên biến mất.” Bấy giờ, Phật lại bảo các Tỳ-kheo: “Ta nhớ lại, thuở xưa, khi ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt, có một lần sinh tâm nghó rằng: ‘Chỗ Ta sinh ra, đâu đâu cũng có, duy trừ cõi trời Thủ-đà-hội. Giả sử Ta sanh cõi trời kia, thời đã khơng trở lại đây.’ “Này các Tỳ-kheo, khi ấy Ta lại nghó rằng: khi Ta muốn đến cõi trời Vơ tạo<註 n="104"/>104, tức thì trong khoảnh khắc như tráng só co duỗi cánh tay, Ta biến mất ở đây mà hiện ở kia. Chư Thiên lúc đó thấy ta đến, liền đảnh lễ, đứng lại một bên, bạch với ta rằng: ‘Chúng con đều là đệ tử Đức Phật Tỳ-bà-thi. Chúng con nhờ sự giáo hóa của Ngài mà được sanh đến cõi này.’ Rồi họ kể đủ nhân duyên gốc ngọn của Đức Phật Tỳ-bà-thi. Họ lại nói: ‘Các Đức Phật Thi-khí, Tỳ-xá-bà, Câu-lưu-tơn, Câu-na-hàm, Ca-diếp, Thích-ca Mâu-ni, thảy đều là Thầy của con. Con chịu sự giáo hóa ấy mà sinh ở đây.’ Họ cũng nói nhân duyên bản mạt chư Phật. Cho đến chư Thiên ở cõi trời A-ca-nị-trá, cũng kể với ta như thế<註 n="105"/>105.” Bấy giờ Phật nói bài tụng: Ví như lực só, Co duỗi cánh tay Ta, bằng thần thơng, Đến trời Vơ tạo. Đại Tiên thứ bảy<註 n="106"/>106, Hàng phục hai ma, Vơ nhiệt<註 n="107"/>107 vơ kiến Chắp tay kính lễ. Như cây trú đạc<註 n="108"/>108 Tiếng đồn Thích Sư, Tướng tốt đầy đủ, Đến trời Thiện kiến.<註 n="109"/>109 Ví như hoa sen, Khơng bị dính nước. Thế Tơn vơ nhiễm, Đến Đại thiện kiến<註 n="110"/>110. Mặt trời mới mọc, Khơng chút bụi che; Sáng như trăng thu, Đến Nhất cứu cánh.<註 n="111"/>111 Năm Tịnh cư này, Chúng sanh hành tịnh, Tâm tịnh nên đến Trời khơng phiền não. Tịnh tâm mà đến, Làm đệ tử Phật. Xả ly nhiễm thủ, Vui nơi vơ thủ, Thấy pháp quyết định, Đệ tử Tỳ-bà-thi. Tịnh tâm mà đến Với Đại Tiên Nhân. Đệ tử Thi-khí Vơ cấu, vơ vi. Tịnh tâm mà đến Với Đấng Ly Hữu. Đệ tử Tỳ-xá, Các căn đầy đủ. Tịnh tâm đến Ta, Như mặt trời chiếu. Con Câu-lưu-tơân, Xả ly các dục. Tịnh tâm đến Ta, Sáng mầu rực ánh. Đệ tử Câu-na-hàm, Vơ cấu vơ vi. Tịnh tâm đến Ta, Sáng như trăng đầy. Đệ tử Ca-diếp, Các căn đầy đủ. Tịnh tâm đến Ta, Như bắc thiên niệm<註 n="112"/>112 Đại Tiên bất loạn. Thần túc bậc nhất, Bằng tâm kiên cố, Làm đệ tử Phật. Tịnh tâm mà đến, Làm đệ tử Phật; Kính lễ Như Lai, Kể rõ Chí Tơn, Chỗ sinh, thành đạo, Danh tánh, chủng tộc, Tri kiến thâm pháp, Thành đạo Vơ thượng. Tỳ-kheo nơi vắng, Xa lìa bụi dơ, Siêng năng khơng lười. Đoạn chư hữu kết Ấy là nhân duyên, Sự tích chư Phật, Mà được diễn giải, Bởi Đức Thích-ca. Phật nói kinh “Đại nhân duyên” xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều Phật nói hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140771">2. KINH DU HÀNH<註 n="113"/>113 <章 id="485140772">I<註 n="114"/>114 Tơi nghe như vầy: Một thời Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt<註 n="115"/>115 cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, A-xà-thế<註 n="116"/>116, vua nước Ma-kiệt, muốn chinh phạt nước Bạt-kỳ<註 n="117"/>117, mới tự nghó: “Nước ấy tuy mạnh, dân chúng giàu mạnh, nhưng lấy sức ta để thắng họ khơng phải là khó”. Rồi vua A-xà-thếá sai đại thần Bà-la-mơn Vũ-xá<註 n="118"/>118: “Khanh hãy đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ Đức Thế Tơn, nhân danh ta đảnh lễ dưới chân Thế Tơn và thăm hỏi Đức Thế Tơn, Ngài đời sống thường nhật có thoải mái khơng, đi đứng có khỏe mạnh khơng. Sau đó lại bạch Đức Thế Tơn, người nước Bạt-kỳø tự ỷ hùng cường, dân chúng giàu mạnh, khơng chịu thần phục ta. Ta muốn chinh phạt chúng. Khơng hiểu Đức Thế Tơn có dạy bảo gì khơng? Nếu Ngài có dạy thế nào, ngươi hãy nhớ cho kỹ, chớ để quên sót, hãy nói lại cho ta hay những gì khanh đã nghe. Những điều Như Lai nói khơng bao giờ hư dối.” Đại thần Vũ-xá lãnh mạng, cưỡi xe báu đi đến núi Kỳ-xà-quật. Đến chỗ phải dừng, ơng xuống xe, đi bộ đến chỗ Thế Tơn, thăm hỏi xong, ngồi lại một bên, bạch Đức Thế Tơn rằng: “Vua nước Ma-kiệt là A-xà-thế cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật và ân cần kính hỏi Ngài, đời sống thường nhật có thoải mái chăng, lui tới có được mạnh khỏe khơng?” Ơng lại thưa tiếp: “Người nước Bạt-kỳ tự thị dũng mãnh, dân chúng giàu mạnh, khơng chịu thần phục nhà vua, nên nhà vua muốn chinh phạt. Chẳng hay Đức Thế Tơn có dạy bảo gì khơng?” Lúc đó, A-nan đang cầm quạt đứng hầu sau Phật. Phật hỏi A-nan: “Ngươi có nghe dân nước Bạt-kỳø thường nhóm họp bàn những sự việc chân chánh khơng?” A-nan đáp: “Con có nghe.” Phật nói với A-nan: “Nếu được như thế, lớn nhỏ hịa thuận, nước đó lại càng thịnh vượng; nước ấy sẽ an ổn lâu dài, khơng thể xâm hại được. “Này A-nan, ngươi có nghe người nước Bạt-ky vua tơi hịa thuận, trên dưới kính nhường nhau khơng?” “Con có nghe.” “Nếu được như vậy, lớn nhỏ hịa thuận, nước đó càng thêm thịnh vượng và được yên ổn lâu dài, khơng thể xâm hại được. “Này A-nan, ngươi có nghe dân nước Bạt-kỳ thường tơn trọng pháp luật, hiểu điều cấm kî, chẳng trái lễ độ khơng?” “Con có nghe.” “Này A-nan, nếu được như vậy, lớn nhỏ hịa thuận, nước đó càng thêm thịnh vượng và yên ổn lâu dài, khơng thể xâm hại được. “Này A-nan! Ngươi có nghe dân nước Bạt-kỳ hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng khơng?” “Con có nghe.” “Này A-nan, nếu vậy, lớn nhỏ hịa thuận, nước đó càng thêm thịnh vượng và yên ổn lâu dài, khơng thể xâm hại được. “Này A-nan! Ngươi có nghe dân nước Bạt-kỳ thường tơn trọng tơng miếu, kính nể quỷ thần khơng?” “Con có nghe.” “Này A-nan, nếu được như vậy thì lớn nhỏ hịa thuận, nước đó càng thêm thịnh vượng và yên ổn lâu dài, khơng thể xâm hại được. “Này A-nan, ngươi có nghe dân nước Bạt-ky giữ gìn khuê mơn trinh chính, thanh khiết, khơng bậy bạ, cho đến sự vui đùa, nói năng cũng khơng tà vạy khơng?” “Con có nghe.” “Này A-nan, nếu được như vậy thì lớn nhỏ hịa thuận, nước đó càng thêm thịnh vượng và yên ổn lâu dài, khơng thể xâm hại được. “Này A-nan, ngươi có nghe dân nước Bạt-kỳ tơn thờ Sa-mơn, kính người trì giới và thân cận ủng hộ chẳng biếng nhác khơng?” “Con có nghe.” “Này A-nan, nếu được như vậy thì nước đó càng thêm thịnh vượng và yên ổn lâu dài, khơng thể xâm hại được. Bấy giờ, đại thần Vũ-xáù liền bạch Phật: “Nhân dân nước kia nếu thi hành có một điều cịn khơng mong gì thắng họ, huống nay họ đủ cả bảy điều. Vì việc nước quá bận, con xin từ tạ trở về.” Phật nói: “Nên biết thời giờ.” Vũ-xáù liền đứng dậy đi quanh Phật ba vịng rồi vái chào mà lui. Vũ-xá đi chưa bao lâu, Phật bảo A-nan: “Ngươi hãy truyền cho các Tỳ-kheo ở chung quanh thành La-duyệt-kỳ nhóm hết lại giảng đường.” A-nan vâng lệnh đi đến thành La-duyệt-kỳ tập họp hết các Tỳ-kheo lại giảng đường xong, bạch Phật: “Bạch Thế Tơn, các Tỳ-kheo đã nhóm đủ, kính mong Đức Thánh biết thời.” Bấy giờ, Thế Tơn liền đứng dậy đi đến giảng đường, ngồi lên chỗ ngồi dọn sẵn, bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, Ta sẽ giảng cho các thầy bảy pháp bất thối<註 n="119"/>119. Các thầy hãy lắng nghe, lắng nghe, suy nghó kỹ.” Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Kính vâng, bạch Thế Tơn. Chúng con muốn nghe.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, bảy pháp bất thối là: “1. Thường hội họp luận bàn nghóa lý chân chính, thời lớn nhỏ hịa thuận mà Chánh pháp khơng bị suy thối.<註 n="120"/>120 “2. Trên dưới hịa đồng, kính thuận khơng trái, thời lớn nhỏ hịa thuận mà Chánh pháp khơng bị suy thối. “3. Trọng pháp, hiểu điều cấm kî, khơng trái qui chế, thời lớn nhỏ hịa thuận mà Chánh pháp khơng bị suy thối. “4. Nếu có Tỳ-kheo nào có năng lực hộä chúng, có nhiều tri thức, nên được kính thờ, thời lớn nhỏ hịa thuận mà Chánh pháp khơng bị suy thối. “5. Niệm hộ tâm ýù<註 n="121"/>121, lấy sự hiếu kính làm đầu, thời lớn nhỏû hịa thuận mà Chánh pháp khơng bị suy thối. “6. Tịnh tu phạm hạnh, khơng chạy theo trạng thái dục<註 n="122"/>122, thời lớn nhỏ hịa thuận mà Chánh pháp khơng bị suy thối. “7. Trước người rồi sau mình, khơng tham lam danh lợi, thời già trẻ hịa thuận mà Chánh pháp khơng bị suy thối. “Này các Tỳ-kheo, lại có bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng tổn giảm. “1. Ưa ít việc, khơng ưa nhiều việc<註 n="123"/>123, thời Chánh pháp tăng trưởng khơng bị tổn giảm. “2. Ưa yên lặng, khơng ưa nói nhiều. “3. Bớt sự ngủ nghỉ, tâm khơng hơn muội. “4. Khơng tụ họp nói việc vơ ích. “5. Khơng tự khen ngợi khi mình thiếu đức<註 n="124"/>124. “6. Khơng kết bè bạn với người xấu ác. “7. Ưa ở một mình nơi chỗ nhàn tịnh, núi rừng. “Này Tỳ-kheo, được như vậy, thời Chánh pháp sẽ được tăng trưởng, khơng bị tổn giảm. “Này các Tỳ-kheo! Lại có bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị tổn giảm. “1. Có tín tâm; tin Đức Như Lai, Chí Chân, Chánh Giác, đủ mười đức hiệu. “2. Có tàm, biết hổ với điều thiếu sót của mình. “3. Có quý, biết thẹn với việc ác mình đã làm. “4. Đa văn, những điều đã được thọ trì đều tốt ở đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, nghóa và vị thâm áo, thanh tịnh khơng bẩn, phạm hạnh đầy đủ. “5. Siêng năng cần khổ, bỏ ác tu lành, chuyên tâm tập luyện mãi khơng ngừng. “6. Điều đã học tập được, ghi nhớ mãi khơng quên. “7. Tu tập trí tuệ, biết pháp sanh diệt, hướng đến Hiền thánh, dứt hết gốc khổ. “Với bảy pháp như thế thời Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn. “Này các Tỳ-kheo! Lại có bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn: “1. Kính Phật. “2. Kính Pháp. “3. Kính Tăng. “4. Kính giới luật. “5. Kính thiền định. “6. Kính thuận cha mẹ. “7. Kính pháp khơng buơng lung. “Bảy pháp như vậy làm cho Chánh pháp tăng trưởng mãi khơng bị hao tổn. “Này các Tỳ-kheo! Lại có bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn: “1. Quán thân bất tịnh. “2. Quán đồ ăn bất tịnh. “3. Chẳng mê đắm thế gian. “4. Thường suy niệm về sự chết. “5. Suy niệm về vơ thường. “6. Suy niệm về vơ thường tức khổ. “7. Suy niệm khổ tức vơ ngã. “Bảy pháp như vậy làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn. “Này các Tỳ-kheo! Lại có bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn: “1. Tu về niệm giác ý<註 n="125"/>125, nhàn tịnh, vơ dục, xuất ly, vơ vi<註 n="126"/>126. “2. Tu về pháp giác ý. “3. Tu về tinh tấn giác ý. “4. Tu về hỷ giác ý. “5. Tu về ỷ giác ý. “6. Tu về định giác ý. “7. Tu về hộ giác ý.<註 n="127"/>127 “Bảy pháp như vậy làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn. “Này các Tỳ-kheo! Có sáu pháp bất thối làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn. “1. Thân thường hành xử từ ái, khơng hại chúng sanh. “2. Miệng nói nhân từ, khơng diễn lời dữ. “3. Ý niệm Từ tâm, khơng ơm lịng thêm bớt<註 n="128"/>128. “4. Được vật lợi dưỡng hợp lẽ, chia cùng chúng hưởng, bình đẳng như nhau. “5. Giữ giới Thánh hiền khơng để khuyết lậu, cũng khơng cấu uế, nhất định khơng dao độâng<註 n="129"/>129. “6. Thấy đạo Thánh hiền để dứt hết thống khổ.<註 n="130"/>130 “Sáu pháp như vậy làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn. “Này các Tỳ-kheo, lại có sáu pháp bất thối làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn: “1. Niệm Phật. “2. Niệm Pháp. “3. Niệm Tăng. “4. Niệm giới. “5. Niệm thí. “6. Niệm thiên. Sáu niệm ấy làm cho Chánh pháp tăng trưởng khơng bị hao tổn.” Bấy giờ, Thế Tơn sau khi tùy nghi trú ở La-duyệt-kỳ<註 n="131"/>131, Ngài bảo A-nan rằng: “Các thầy hãy sẵn sàng, ta muốn đi đến Trúc viên<註 n="132"/>132.” Đáp: “Thưa vâng.” Rồi Ngài sửa soạn y bát, cùng đại chúng thị tùng, Thế Tơn theo ngả đường từ Ma-kiệt đi đến Trúc viên. Sau khi lên giảng đường an tọa, Phật dạy các Tỳ-kheo về giới, định, tuệ; tu giới đắc định<註 n="133"/>133, được quả báo lớn; tu định đắc trí, được quả báo lớn; tu trí tâm tịnh, được giải thốt hồn tồn<註 n="134"/>134, dứt hết ba thứ lậu hoặc là dục lậu, hữu lậu và vơ minh lậu. Sau khi đã giải thốt liền phát sanh trí về sự giải thốt<註 n="135"/>135, sanh tử dứt hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sinh nữa.” Bấy giờ, Thế Tơn sau khi tùy nghi trú ở Trúc viên, Ngài bảo A-nan: “Các thầy hãy sửa soạn, hãy đi đến thành Ba-lăng-phất<註 n="136"/>136.” Đáp: “Kính vâng.” Rồi Ngài sửa soạn y bát cùng với đại chúng theo hầu, Thế Tơn từ Ma-kiệt đi đến thành Ba-lăng-phất và ngồi ở gốc cây Ba-lăng<註 n="137"/>137. Lúc ấy các Thanh tín só<註 n="138"/>138 tại đó nghe Phật cùng đại chúng từ xa đến nghỉ dưới cây Ba-lăng, bèn cùng nhau ra khỏi thành, từ xa trơng thấy Thế Tơn ngồi dưới gốc cây Ba-lăng dung mạo đoan chính, các căn vắng lặng, nhu thuận tột bực, như con rồng lớn, như nước đứng trong, khơng chút bợn nhơ, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm tột bực. Thấy rồi, ai nấy hoan hỷ, lần đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi ngồi lại một bên. Đức Thế Tơn theo thứ lớp nói pháp, khai tỏ, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ<註 n="139"/>139. Các Thanh tín só được nghe Phật nói Pháp liền bạch Phật rằng: “Chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Thánh chúng. Ngưỡng mong Đức Thế Tơn thương xót chấp nhận cho chúng con được làm Ưu-bà-tắc. Từ nay về sau, nguyện khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm<註 n="140"/>140, khơng nói dối, khơng uống rượu. Chúng con sẽ giữ giới khơng bao giờ quên<註 n="141"/>141. Ngày mai chúng con xin cúng dường. Ngưỡng mong Thế Tơn cùng đại chúng rủ lịng hạ cố.” Đức Thế Tơn làm thinh nhận lời. Các Thanh tín só thấy Phật làm thinh nhận lời, liền đứng dậy đi quanh Phật ba vịng làm lễ rồi lui ra. Vì Đức Như Lai, họ dựng ngơi nhà lớn, ban sửa đất đai, quét tước, rưới nước, xơng hương, trang hồng bảo tọa. Khi thiết cúng xong, họ đến bạch Phật: “Cỗ đã dọn xong, cúi mong Đức Thánh biết đã đến giờ.” Khi ấy, Thế Tơn liền đứng dậy mang y cầm bát cùng đại chúng đến giảng đường. Đến nơi, rửa tay chân xong, Phật ngồi giữa, các Tỳ-kheo ngồi bên tả, các Thanh tín só ngồi bên hữu. Bấy giờ, Thế Tơn nói với các Thanh tín só rằng: “Phàm người phạm giới thời có năm điều suy hao. Những gì là năm? “1. Cầu tài lợi khơng được toại nguyện. “2. Dẫu có được tài lợi, ngày mỗi hao mịn. “3. Bất cứ đến đâu cũng khơng được mọi người kính nể. “4. Tiếng xấu đồn khắp thiên hạ. “5. Thân hoại mệnh chung sa vào địa ngục. “Trái lại, này các Thanh tín só, phàm người giữ giới sẽ có năm cơng đức. Những gì là năm? “1. Cầu gì đều được như nguyện. “2. Tài sản đã có thì thêm mãi khơng hao sút. “3. Ở đâu cũng được mọi người kính mến. “4. Tiếng tốt đồn khắp thiên hạ. “5. Thân hoại mệnh chung được sanh lên cõi trời.” Bấy giờ, đã nửa đêm, Phật bảo các Thanh tín só hãy trở về. Các Thanh tín só vâng lời, đi quanh Phật ba vịng, rồi đảnh lễ mà lui. Bấy giờ, khi đêm vừa qua, ánh sáng vừa ló, Thế Tơn đi tới chỗ thanh vắng, bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấu suốt, thấy các vị thần lớn mỗi vị phong thủ đất đai nhà cửa<註 n="142"/>142 riêng, các thần trung, thần hạ cũng phong thủ đất đai nhà cửa. Thế Tơn liền trở lại giảng đường, lên chỗ ngồi. Tuy đã biết, nhưng Ngài vẫn hỏi: “Này A-nan, ai tạo lập thành Ba-lăng-phất này?” A-nan bạch Phật: “Thành này do đại thần Vũ-xáù tạo ra để phịng ngự nước Bạt-kỳ.” Phật nói với A-nan: “Người tạo ra thành này rất hợp ý trời<註 n="143"/>143. Lúc đêm đã tàn, trời vừa sáng, Ta đi tới chỗ thanh vắng, bằng thiên nhãn, xem thấy các Đại Thiên thần mỗi vị phong thủ đất đai nhà cửa riêng, các trung thần, hạ thần cũng phong thủ đất đai nhà cửa. A-nan! Nên biết chỗ đất đai nhà cửa nào được Đại Thiên thần phong thủ, ai ở đó tất được an lạc nhiều<註 n="144"/>144; cịn chỗ trung thần phong thủ thì hàng trung nhân ở; chỗ hạ thần phong thủ thì hạ nhân ở và cơng đức nhiều ít cũng tùy theo chỗ ở ấy. “Này A-nan, chỗ này là chỗ hiền nhân ở, kẻ bán buơn qui tụ, phép nước đúng đắn khơng dối ngụy<註 n="145"/>145. Thành này rất tốt, được mọi nơi suy tơn, khơng thể phá hoại. Lâu về sau nếu có bị phá chăng chỉ do ba việc; một là bị nước lớn, hai là bị lửa lớn và ba là bị người trong thơng mưu với người ngồi phá hoại được thành này.” Trong lúc đó các Thanh tín só Ba-lăng-phất suốt đêm cùng bày biện. Đúng giờ, họ đến bạch Phật: “Cỗ đã dọn xong, cúi mong Đức Thánh biết là đã đến giờ.<註 n="146"/>146” Bấy giờ, các Thanh tín só bưng dọn, tự tay bưng sớt đồ ăn. Thọ thực xong dùng nước rửa. Rồi họ dọn một chỗ ngồi nhỏ trước Phật. Phật chỉ bày mà rằng: “Chỗ này của các ngươi là chỗ bậc Hiền trí, phần nhiều người trì giới tịnh tu phạm hạnh cư trú; các Thiện thần vui mừng ủng hộ.” Rồi Ngài chú nguyện cho họ: “Biết kính trọng thì được người kính trọng. Biết phụng sự thì được người phụng sự. Bố thí, kiêm ái, có lịng từ mẫn, được chư Thiên khen ngợi và thường cùng người lành sum họp, khơng cùng người ác ở chung.” Bấy giờ, sau khi thuyết pháp xong, Đức Thế Tơn liền rời khỏi chỗ, đại chúng hầu quanh mà đưa Ngài trở về. Đại thần Vũ-xá đi theo sau Phật, nghó rằng: “Hơm nay, nhân Đức Sa-mơn Cù-đàm đi qua cửa thành này, ta hãy gọi cửa này là cửa Cù-đàm<註 n="147"/>147. ” Lại nhân bến sơng mà Phật sang ngang, liền đặt tên chỗ đó là bến Cù-đàm<註 n="148"/>148. Đức Thế Tơn ra khỏi thành Ba-lăng-phất, đi đến bờ sơng. Lúc ấy, trên bờ sơng có nhiều người, trong số đó có người thì dùng thuyền, có người dùng bè, có người dùng phà mà sang sơng. Đức Thế Tơn cùng đại chúng chỉ trong khoảnh khắc, như lực só co duỗi cánh tay, đã đến cả bên kia sơng. Sau khi quán sát nghóa này, Thế Tơn liền nói bài tụng: Phật là Hải Thuyền Sư Pháp là cầu sang sơng, Là chiếc xe Đại thừa, Đưa hết thảy trời, người. Là Đấng Tự Giải Thốt, Sang sơng, thành Phật-đà<註 n="149"/>149. Khiến tất cả đệ tử, Giải thốt, đắc Niết-bàn. Thế Tơn lại từ nước Bạt-kỳ đi đến thơn Câu-lî<註 n="150"/>150 nghỉ ở dưới một khóm rừng và bảo các Tỳ-kheo: “Có bốn pháp thâm diệu: một là Thánh giới; hai là Thánh định; ba là Thánh tuệ và bốn là Thánh giải thốt. Đó là pháp vi diệu khó hiểu, khó biết, mà ta với các ơng xưa kia vì khơng hiểu rõ nên mãi trơi lăn khơng cùng trong vịng sống chết.” Quán xét theo nghóa đó, Phật liền dạy bài kệ: Giới, định, tuệ, giải thốt, Duy Phật phân biệt rõ. Lìa khổ độ chúng sanh, Khiến dứt mầm sanh tử. Bâáy giờ, Thế Tơn sau khi tùy nghi trú ở thơn Câu-lî lại bảo A-nan cùng đi đến thơn Na-đà<註 n="151"/>151. A-nan vâng lời, khốc y ơm bát cùng với đại chúng đi theo Phật, theo con đường từ Bạt-kỳ đến Na-đà và dừng lại chỗ Kiền-chùy<註 n="152"/>152. Bấy giờ, A-nan ở chỗ thanh vắng yên lặng suy nghó: “Thơn Na-đà này có mười hai cư só là Già-già-la, Già-lăng-giàø, Tỳ-già-đà, Già-lê-thâu, Giá-lâu, Bà-da-lâu, Bà-đầu-lâu, Tẩu-bà-đầu-lâu, Đà-lê-xá-nậu, Tẩu-đạt-lê-xá-nậu, Da-thâu, Da-thâu-đa-lâu đã qua đời<註 n="153"/>153. Hiện nay khơng biết họ sinh về đâu? Lại có năm mươi người khác mệnh chung, lại năm trăm người khác nữa mệnh chung, nay khơng biết họ sinh về chỗ nào?” A-nan suy nghó như thế xong, rời khỏi nơi nhàn tịnh, đến chỗ Thế Tơn, đầu mặt lễ chân Phật xong, ngồi xuống một bên, bạch Phật: “Thế Tơn, vừa rồi con ở chỗ nhàn tịnh, lặng lẽ suy nghó: Thơn Na-đà này có mười hai cư só: Già-già-la v.v…, mạng chung; lại có năm mươi người nữa mạng chung, lại có năm trăm người mạng chung; khơng biết họ sinh về đâu. Cúi mong Thế Tơn nói rõ cho con.” Phật bảo A-nan: “Mười hai cư só kia là Già-già-la v.v…, đã đoạn năm hạ phần kết<註 n="154"/>154 nên mệnh chung sinh thiên<註 n="155"/>155; họ nhập Niết-bàn ở đó chứ khơng trở lại cõi này nữa. Cịn năm mươi người kia mạng chung do đoạn trừ ba kết sử<註 n="156"/>156; dâm, nộ, si mỏng, đắc quả Tư-đà-hàm<註 n="157"/>157, sẽ trở lại cõi này để dứt hết gốc khổ. Cịn năm trăm người kia mạng chung do đoạn trừ ba kết sử, đắc quả Tu-đà-hồn<註 n="158"/>158, khơng cịn bị đọa vào ác thú, chắc chắn thành đạo, chỉ trở lại cõi này bảy lần để dứt hết gốc khổ rồi thơi. “Này A-nan, phàm có sinh thì có chết, đó là lẽ thường của cuộc đời, có gì là quái lạ. Nếu thấy mỗi người chết, ngươi đều tới hỏi ta như vậy chẳng là quấy rầy ư?” A-nan đáp: “Đúng vậy, bạch Thế Tơn, quả là phiền nhiễu.” Phật bảo: “A-nan, nay ta sẽ nói cho ngươi về Pháp kính<註 n="159"/>159 để các Thánh đệ tử biết chỗ thọ sanh; dứt hết ba đường dữ, chứng quả Tu-đà-hồn, khơng quá bảy đời sẽ tận cùng biên tế của khổ; và cũng có thể nói việc ấy cho người khác nghe. “Này A-nan! Pháp kính là, Thánh đệ tử đã đạt được bất hoại tín<註 n="160"/>160, hoan hỷ tin Phật là Đức Như Lai, Vơ Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, mười đức hiệu đầy đủ. Hoan hỷ tin Pháp là giáo pháp chân chính vi diệu, Phật tự ý nói ra<註 n="161"/>161, khơng cuộc hạn thời tiết, dạy bày con đường đi đến Niết-bàn; được thực hành bởi kẻ trí. Hoan hỷ tin Tăng là chúng khéo hịa đồng, sở hành chất trực khơng dối trá và chứng thành đạo quả, trên dưới thuận hịa, đầy đủ pháp thân, hoặc có người đang hướng tới Tu-đà-hồn và được quả Tu-đà-hồn, có người đang hướng tới Tư-đà-hàm và được quả Tư-đà-hàm, có người đang hướng tới A-na-hàm và được quả A-na-hàm, có người đang hướng tới A-la-hán và được quả A-la-hán<註 n="162"/>162. Ấy là bốn đơi tám bậc, chúng Hiền thánh của Như Lai, xứng đáng được cung kính, làm ruộng phước cho đời. Tin giới của Hiền thánh là thanh tịnh, khơng nhơ, khơng bị sứt mẻ, khơng rị rỉ, được các bậc minh triết tu theo mà chứng đến tam-muội định vậy. “A-nan, đó là Pháp kính, khiến Thánh đệ tử biết chỗ thọ sanh, dứt sạch ba đường dữ, chứng đắc Tu-đà-hồn, khơng quá bảy đời hồn tất tận cùng biên tế của khổ; và cũng có thể nói cho người khác sự việc ấy.” Bấy giờ, Thế Tơn sau khi tùy nghi trú ở đó, bèn bảo A-nan hãy cùng đi đến nước Tỳ-xá-ly<註 n="163"/>163. A-nan vâng lời, mang y cầm bát, cùng với đại chúng theo hầu Thế Tơn, theo con đường từ Bạt-kỳ đến Tỳ-xá-ly và ngồi nghỉ ở một gốc cây. Bấy giờø có một dâm nữ tên Am-bà-bà-lê<註 n="164"/>164 vừa nghe Phật cùng các đệ tử đến Tỳ-xá-ly, đang ngồi dưới một gốc cây, liền sửa soạn xe báu, muốn đi đến chỗ Phật để lễ bái cúng dường. Khi chưa đến nơi, từ xa nàng đã thấy Đức Thế Tơn diện mạo đoan chánh, các căn đặc biệt khác thường, tướng tốt đầy đủ, như mặt trăng ở giữa những vì sao. Nàng rất hoan hỷ, xuống xe đi bộ lần tới chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi lại một bên. Rồi Thế Tơn, theo thứ lớp thuyết pháp, khai giải, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ. Nghe Phật nói xong nàng phát tâm vui mừng quỳ bạch Phật rằng: “Bắt đầu từ hơm nay con quy y ngơi Tam bảo. Mong Phật nhận lời cho con được làm Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp, trọn đời con khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm<註 n="165"/>165, khơng nói dối, khơng uống rượu.” Lại bạch Phật: “Cúi mong Thế Tơn cùng các đệ tử ngày mai nhận lời thỉnh cầu của con. Cịn tối nay thì xin nghỉ tại vườn của con.” Khi ấy Phật im lặng nhận lời. Nàng thấy Phật đã im lặng nhận lời, liền đứng dậy đi quanh Phật ba vịng rồi đảnh lễ mà trở về. Nàng đi chưa bao lâu, Phật bảo A-nan: “Ta cùng các ngươi đi đến khu vườn kia.” Đáp: “Thưa vâng.” Phật bèn rời chỗ ngồi, mang y cầm bát cùng chúng đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người đi đến khu vườn ấy. Lúc bấy giờ, nhóm người Lệ-xa<註 n="166"/>166 ở Tỳ-xá-ly, nghe Phật đến nghỉ tại vườn của Am-bà-bà-lê thì liền thắng những cỗ xe báu năm sắc lộng lẫy; có người cưỡi xe xanh, ngựa xanh, phan dù áo mão đều xanh; ngựa xe năm sắc đều như vậy. Rồi thì, những người Lệ-xa với y phục đồng sắc, cả năm trăm người kéo đến Phật. Nàng Am-bà-bà-lê sau khi từ giã Phật trở về, giữa đường gặp xe họ. Lúc đó, xe nàng chạy rất nhanh, cùng với xe báu của họ móc kéo nhau, khiến phướn lọng gãy đổ cả, mà vẫn khơng chịu tránh đường. Các người Lệ-xa trách: “Nàng ỷ thế gì mà khơng tránh đường cho chúng tơi đi, để đụng nhằm xe cộ chúng tơi khiến phướn lọng gãy cả?” Am-bà đáp: “Thưa quý ngài, tơi đã thỉnh Phật ngày mai đến nhà tơi thọ trai. Tơi phải về gấp sửa soạn đồ cúng dường, thành phải đi mau, khơng tránh kịp.” Nhóm Lệ-xa liền bảo nàng: “Nàng khoan hãy thỉnh. Để chúng tơi thỉnh trước, chúng tơi sẽ cho nàng một trăm ngàn lượng vàng.” Nàng đáp: “Tơi đã thỉnh trước rồi, khơng thể nhường được.” Nhóm Lệ-xa tiếp: “Chúng tơi sẽ tặng nàng gấp mười sáu lần trăm ngàn lượng vàng. Hãy để chúng tơi thỉnh trước.” Nàng vẫn khơng chịu: “Tơi đã thỉnh rồi. Nhất định khơng thể làm như thế được.” Các Lệ-xa lại nói: “Chúng tơi sẽ tặng bằng số tài bảo nửa nước, nàng hãy để chúng tơi thỉnh trước.” Nàng trả lời: “Giả sử đem tài bảo của cả nước cấp cho tơi, tơi cũng khơng nhận. Vì sao? Vì Phật hiện ở tại vườn tơi, Ngài đã nhận lời tơi thỉnh trước. Việc ấy đã xong, khơng thể nhường được.” Các Lệ-xa khoa tay than tiếc, rằng: “Nàng con gái này đã làm chúng ta thiếu mất cái phúc quả đầu tiên.” Họ liền tiến tới khu vườn Phật đang ở. Khi Đức Thế Tơn từ xa thấy năm trăm người Lệ-xa, với ngựa xe số vạn, chật đường tiến đến, Ngài bảo các Tỳ-kheo: “Các ngươi nên biết chư Thiên Đao-lợi khi đi dạo cơng viên, thì uy nghi và sự trang sức cũng khơng khác đồn người đó mấy. Này các Tỳ-kheo, hãy tự nhiếp tâm, gìn giữ oai nghi đầy đủ. Tỳ-kheo tự nhiếp tâm mình như thế nào? Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, siêng năng khơng lười biếng, ghi nhớ khơng quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân…, quán nội ngoại thân…, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thọï, quán ý, quán pháp cũng như thế<註 n="167"/>167. Thế nào là Tỳ-kheo đầy đủ oai nghi? Ở đây, Tỳ-kheo, khi đi thì biết là đi, dừng thì biết là dừng, quay nhìn tả hữu, co duỗi, cúi ngước, mang y cầm bát cho đến việc ăn uống, thuốc thang, đều khơng để mất nghi tắc. Khơn khéo tìm cách trừ bỏ ấm cái<註 n="168"/>168, đi ở nằm ngồi, ngủ thức, nói năng hay im lặng đều nhiếp tâm đừng cho loạn động. Đấy gọi là Tỳ-kheo đầy đủ oai nghi.” Bấy giờ năm trăm người Lệ-xa đi đến vườn Am-bà-bà-lê. Gần đến chỗ Phật, xuống xe đi bộ đến, đầu mặt đảnh lễ chân Phật, rồi lui ngồi một bên. Như Lai ở trên chỗ ngồi, ánh sáng độc nhất tỏa sáng che mờ đại chúng, như trăng mùa thu; lại như trời đất trong sáng sạch sẽ khơng chút bụi dơ, mặt trời giữa hư khơng độc nhất tỏa sáng. Rồi thì, năm trăm người Lệ-xa hầu vây quanh chỗ ngồi của Phật. Lúc ấy, giữa hội chúng có một người Phạm chí tên là Tịnh Ký<註 n="169"/>169, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo vai hữu, đầu gối hữu quỳ xuống đất, chắp tay hướng về Phật, tán thán bằng bài kệ rằng: Vua Ma-kiệt, Ương-già, Để được nhiều thiện lợi, Khốc khơi giáp bảo châu. Phật hiện ở nước ấy. Uy đức động tam thiên, Tiếng vang như núi Tuyết. Như hoa sen đã nở, Mùi hương thật mầu nhiệm. Nay thấy ánh sáng Phật, Như mặt trời mới mọc; Như trăng qua bầu trời, Khơng bị mây che khuất. Thế Tơn cũng như vậy, Sáng chiếu cả thế gian. Quán trí tuệ Như Lai Như tối gặp đuốc sáng; Đem mắt sáng cho đời, Quyết trừ các nghi hoặc. Năm trăm người Lệ-xa sau khi nghe bài kệ ấy lại bảo Tịnh Ký: “Ngươi hãy lặp lại.” Rồi Tịnh Ký ở trước Phật lặp lại ba lần. Năm trăm Lệ-xa sau khi nghe lặp lại bài kệ, mỗi người cởi y báu mà cho Tịnh Ký. Tịnh Ký bèn đem y báu dâng Đức Như Lai. Phật vì lịng từ mẫn nên thọ nhận. Bấy giờ, Thế Tơn nói với những người Lệ-xa ở Tỳ-xá-ly rằng: “Ở đời có năm thứ báu rất khó có được. Những gì là năm? Một là Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời rất khó có được. Hai là người có thể giảng thuyết Chánh pháp của Như Lai rất khó có được. Ba là người có thể tín giải pháp mà Như Lai diễn thuyết rất khó có được. Bốn là người có thể thành tựu pháp mà Như Lai diễn thuyết rất khó có được. Năm là hiểm nguy được cưu ách mà biết đáp trả, hạng người ấy cũng rất khó có. Ấy là năm thứ báu rất khó có được.<註 n="170"/>170” Năm trăm người Lệ-xa sau khi nghe Phật khai thị, giáo huấn khiến cho lợi ích, hoan hỷ, liền bạch Phật; “Cúi mong Thế Tơn và chúng đệ tử ngày mai nhận lời thỉnh cầu của chúng con.” Phật nói với các người Lệ-xa: “Các ơng đã thỉnh Ta. Ta nay như thế là đã được cúng dường rồi. Kỹ nữ Am-bà-bà-lê đã thỉnh trước.” Năm trăm người Lệ-xa nghe Am-bà-bà-lê nữ đã thỉnh Phật trước, ai nấy đều vung tay mà nói rằng: “Chúng ta muốn cúng dường Như Lai, mà nay người đàn bà kia đã phổng tay trên ta rồi.” Rồi họ rời chỗ ngồi, đầu mặt lễ Phật, đi quanh Phật ba vịng, sau đó ai về nhà nấy. Bấy giờ, Am-bà-bà-lê nữ bèn bày dọn thực phẩm thượng diệu để cúng Phật và Tăng. Sau khi ăn xong, thâu bát, dẹp bàn ghế. Rồi kỹ nữ tay bưng bình bằng vàng dâng nước rửa xong, nàng đến trước Phật bạch rằng: “Trong số những khu vườn trong thành Tỳ-xá-ly này vườn của con là hơn hết. Nay con đem vườn ấy dâng cúng Như Lai. Ngưỡng nguyện Như Lai vì thương tưởng con mà thọ nhận.” Phật nói với người kỹ nữ: “Ngươi có thể đem khu vườn này cúng dường trước hết là Phật và Chiêu-đề tăng<註 n="171"/>171. Vì sao vậy? Các thứ vườn tược, phịng xá, y bát, sáu vật mà Như Lai sở hữu, ngay dù những Ma, Thích, Phạm, chư Thiên có đại oai lực, khơng ai có khả năng kham thọ sự cúng dường ấy.” Kỹ nữ thọ lãnh lời dạy, bèn đem khu vườn mà cúng trước tiên là Phật và Chiêu-đề tăng. Phật vì lịng từ mẫn đối với nàng nên thọ nhận. Rồi Ngài nói bài kệ: Dựng tháp, lập tinh xá, Cúng vườn cây mát mẻ; Cầu thuyền để đưa người; Và cho cả nhà, gác; Đồng trống cho nước cỏ, Phước ấy ngày đêm tăng; Người đủ giới thanh tịnh, Ắt sẽ đến chỗ lành. Sau đó, kỹ nữ Am-bà-bà-lê mang một cái giường nhỏ đến ngồi trước Phật. Phật theo thứ lớp nói pháp, mở bày, dạy dỗ, khiến cho lợi ích, hoan hỷ. Ngài giảng về thí, về giới, về sinh thiên, về dục là đại hoạn, ơ uế, bất tịnh, phiền não là chướng ngại, xuất ly là tối thượng. Khi Thế Tơn biết tâm ý của nàng đã nhu nhuyến, hịa duyệt, các triền cái vơi mỏng, rất dễ hóa độ, như pháp của chư Phật, Ngài bèn giảng cho nàng về Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ nàng Am-bà-bà-lê, tín tâm thanh tịnh, như tấm lụa trắng trong sạch dễ nhuộm màu, ngay trên chỗ ngồi mà xa lìa trần cấu, con mắt pháp của các pháp sanh, thấy pháp, đắc pháp, quyết định chánh trụ, khơng cịn đọa ác đạo, thành tựu vơ úy. Nàng bèn bạch Phật: “Con nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, nói ba lần như vậy. Cúi mong Như Lai nhận con làm một Ưu-bà-di trong Chánh pháp. Từ nay về sau, cho đến trọn đời khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối trá, khơng uống rượu.” Người nữ ấy sau khi thọ lãnh năm giới từ Phật, xả bỏ tập quán từ trước, tiêu trừ những cấu uế, rời khỏi chỗ ngồi, lễ Phật rồi lui. Bấy giờ, Thế Tơn tùy nghi trú ở Tỳ-xá-ly, bảo A-nan: “Các ngươi hãy sửa soạn. Ta muốn đi đến Trúc lâm<註 n="172"/>172.” Đáp: “Kính vâng.” Rồi sửa soạn y bát, cùng đại chúng hầu quanh Thế Tơn, đi theo con đường từ Bạt-kỳ đến Trúc lâm kia. Lúc ấy có người Bà-la-mơn tên là Tỳ-sa-đà-da<註 n="173"/>173, nghe Phật cùng đại chúng đến Trúc lâm này, liền thầm nghó: “Sa-mơn Cù-đàm này có tiếng tốt đồn khắp bốn phương, mười hiệu đầy đủ, ở giữa chư Thiên, Thích, Phạm, Ma hay Thiên ma, Sa-mơn, Bà-la-mơn, mà tự mình tác chứng, rồi thuyết pháp cho người khác, với những ngơn từ mà khoảng đầu, giữa và cuối thảy đều chân chánh, nghóa vị thâm áo, phạm hạnh đầy đủ. Bậc Chân Nhân như thế, ta nên đến thăm viếng.” Rồi Bà-la-mơn ra khỏi thành, đi đến Thế Tơn chỗ rừng Trúc<註 n="174"/>174; chào hỏi xong, ngồi sang một bên. Thế Tơn theo thứ lớp thuyết pháp cho ơng, mở bày, chỉ dạy, khiến cho ích lợi, hoan hỷ. Nghe xong, hoan hỷ, ơng bèn thỉnh Thế Tơn cùng đại chúng ngày mai đến nhà thọ thực. Phật im lặng nhận lời. Bà-la-mơn biết Ngài đã nhận lời, liền đứng dậy, nhiễu quanh Phật ba vịng rồi cáo về. Vào ngay đêm đó dọn bày các thứ ẩm thực. Sáng mai, lúc đã đến giờ, bèn báo tin: “Cúi mong Đức Thánh biết là đã đến giờ.” Bấy giờ Thế Tơn khốc y ơm bát, cùng đại chúng vây quanh, đi đến nhà kia, ngồi lên chỗ dọn sẵn. Rồi thì, Bà-la-mơn dâng đủ các thực phẩm ngon cúng Phật và Tăng. Ăn xong, thâu bát, dùng nước rửa xong, ơng mang một cái giường nhỏ đến ngồi trước Phật. Thế Tơn vì Bà-la-mơn mà nói một bài tụng: Nếu đem ẩm thực, Y phục, ngọa cụ, Cho người trì giới, Tất được quả lớn. Đó là bạn thật, Chung thủy theo nhau; Đến bất cứ đâu, Như bóng theo hình. Vậy nên gieo thiện, Làm lương đời sau. Phước là nền tảng, Chúng sanh an trụ. Phước là thiên hộ, Đường đi khơng nguy. Sống khơng gặp nạn; Chết được sanh thiên. Rồi Thế Tơn nói pháp vi diệu cho Bà-la-mơn; mở bày, chỉ dẫn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ. Sau đó, Ngài rời chỗ ngồi mà đi. Lúc ấy, ở địa phương này thóc quý, đói kém, nên khất thực khó được. Phật bảo A-nan: “Hãy gọi các Tỳ-kheo hiện ở địa phương này tập họp ở giảng đường. A-nan đáp vâng, rồi thừa lệnh Phật kêu gọi các Tỳ-kheo xa gần về tập họp hết ở giảng đường. Sau khi đại chúng trong nước này đều đã tập họp, A-nan bạch Phật: “Đại chúng đã tập họp, cúi mong Đức Thánh biết thời.” Bấy giờ, Phật rời chỗ ngồi, đi đến giảng đường, ngồi lên chỗ dọn sẵn, bảo các Tỳ-kheo: “Đất này đói kém, khất thực khó khăn, các ngươi nên chia thành từng nhóm, tùy theo chỗ quen biết, hãy đến Tỳ-xá-ly và nước Việt-kỳ<註 n="175"/>175 mà an cư ở đó để có thể khơng bị thiếu thốn. Ta một mình cùng với A-nan an cư ở đây.” Các Tỳ-kheo vâng lời dạy, ra đi. Riêng Phật với A-nan ở lại. Về sau, trong lúc an cư, thân Phật nhuốm bệnh, khắp cả mình đều đau. Phật tự nghó: “Ta nay cả người đều đau mà các đệ tử đều khơng ở đây. Nếu Ta nhập Niết-bàn thì khơng thích hợp. Vậy Ta hãy tinh cần tự lực lưu lại thọ mạng”. Rồi Thế Tơn ra khỏi tịnh thất, đến ngồi chỗ mát mẻ. A-nan trơng thấy liền vội đến, bạch Phật rằng: “Nay con xem gương mặt Thế Tơn, bệnh hình như có bớt<註 n="176"/>176.” A-nan lại nói: “Thế Tơn bệnh, tâm con sợ hãi, lo buồn thắt chặt, hoang mang khơng biết phương hướng. Nhưng hơi thở chưa dứt, cịn chút tỉnh táo, con thầm nghó rằng: ‘Thế Tơn chưa diệt độ ngay, con mắt của đời chưa tắt, Đại pháp chưa suy tổn, sao nay Ngài khơng có điều gì dạy bảo các đệ tử?’<註 n="177"/>177.” Phật bảo A-nan: “Chúng Tăng cịn có điều gì cần ở Ta nữa? Nếu có ai tự mình nói: ‘Ta duy trì chúng Tăng, ta nhiếp hộ chúng Tăng’, thì người ấy nên có lời di giáo cho chúng Tăng. Như Lai khơng nói: ‘Ta duy trì chúng Tăng. Ta nhiếp hộ chúng Tăng.<註 n="178"/>178’ Vậy tại sao Ta lại phải có lời di giáo cho chúng Tăng? Này A-nan, những pháp Ta đã giảng thuyết, trong cũng như ngồi đều đã hồn tất<註 n="179"/>179. Ta khơng bao giờ tự xưng sở kiến thơng đạt<註 n="180"/>180. Ta nay đã già rồi, tuổi đã đến tám mươi rồi. Cũng như cỗ xe cũ kỹ, nhờ phương tiện tu sửa mà có thể đi đến nơi. Thân ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện cịn hơi duy trì được tuổi thọ, tự lực tinh tấn mà nhẫn chịu sự đau nhức này. Khơng suy niệm tất cả tưởng, khi nhập vơ tưởng định<註 n="181"/>181, thân an ổn, khơng có não hoạn. Vì vậy, A-nan, hãy tự mình thắp sáng; thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác. Hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi pháp, chớ nương tựa nơi khác<註 n="182"/>182. Thế nào là ‘Hãy tự mình thắp sáng, thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác; hãy tự nương tựa mình, nương tựa pháp, chớ nương tựa nơi khác’? Này A-nan, Tỳ-kheo quán nội thân, tinh cần khơng biếng nhác, ghi nhớ khơng quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán ngoại thân; quán nội ngoại thân, tinh cần khơng biếng nhác, ghi nhớ khơng quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thọï, quán ý, quán pháp cũng vậy. Này A-nan, đó gọi là ‘Hãy tự thắp sáng, thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác. Hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi pháp, chớ nương tựa nơi khác.…’ Này A-nan, sau khi Ta diệt độ, nếu có ai có thể tu hành pháp này, người đó là đệ tử chân thật của Ta, là bậc nhất hữu học.” Phật bảo A-nan, hãy cùng đi đến tháp Giá-bà-la<註 n="183"/>183. A-nan vâng lời. Như Lai bèn đứng dậy, mang y cầm bát đến dưới một gốc cây, bảo A-nan: “Hãy trải chỗ ngồi. Ta đau lưng, muốn nghỉ lại đây.” An-nan đáp: “Vâng”. Trải chỗ ngồi và sau khi Như Lai đã ngồi xuống, A-nan dọn một chỗ ngồi nhỏ ngồi trước Phật. Phật nói: “Này A-nan, những ai tu Bốn thần túc, tu tập nhiều, thường ghi nhớ khơng quên, người ấy tùy theo ý muốn có thể kéo dài tuổi thọ hơn một kiếp. A-nan, Phật đã tu tập nhiều Bốn thần túc, chuyên niệm khơng quên, tùy theo ý muốn, Như Lai có thể sống hơn một kiếp, để trừ minh ám cho đời, đem lại nhiều lợi ích, trời và người đều được an ổn.” Lúc bấy giờ A-nan im lặng khơng trả lời. Phật nói như vậy ba lần, A-nan cũng im lặng khơng trả lời. Khi ấy A-nan bị ma ám, mê muội khơng tỏ rõ. Phật đã ba lần hiện tướng, nhưng A-nan khơng biết mà thỉnh cầu. Phật bảo A-nan: “Hãy biết thời”. A-nan vâng ý chỉ của Phật, đứng dậy lễ Phật rồi lui. A-nan đi cách Phật khơng xa, ngồi dưới một gốc cây, tónh ý tư duy. Trong khoảng thời gian khơng lâu, ma Ba-tuần<註 n="184"/>184 đến bạch Phật: “Ý Phật khơng muốn vào Niết-bàn sớm<註 n="185"/>185. Nay chính là lúc, Phật nên mau chóng diệt độ.” Phật bảo ma Ba-tuần: “Hãy thơi! Hãy thơi! Ta tự biết thời. Như Lai nay chưa nhập Niết-bàn, vì cịn đợi chúng Tỳ-kheo của Ta hội đủ<註 n="186"/>186. Có người có thể tự điều phục<註 n="187"/>187, dũng mãnh, khơng khiếp sợ, đã đến chỗ an ổn, đã đạt được mục đích của mình, là hướng đạo của lồi người, thuyết giảng kinh giáo, hiển bày cú nghóa, nếu có dị luận thì có thể hàng phục bằng Chánh pháp, lại có thể bằng thần biến mà tự mình tác chứng<註 n="188"/>188. Các đệ tử như thế chưa hội đủ. Lại cịn có các Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả cũng như thế, đều chưa tụ hội đủ. Nay điều cần thiết là triển khai phạm hạnh, phổ biến giác ý<註 n="189"/>189, khiến cho chư Thiên và lồi người thảy đều thấy được sự thần diệu<註 n="190"/>190.” Bấy giờ ma Ba-tuần lại bạch Phật: “Thuở xưa, ở Uất-bệ-la bên dịng sơng Ni-liên-thuyền, dưới gốc cây A-du-ba ni-câu-luật<註 n="191"/>191, Phật khi mới thành Chánh giác, tơi đã đến chỗ Như Lai mà khuyên mời Ngài hãy nhập Niết-bàn rằng: ‘Nay thật là đúng lúc, Ngài hãy nhanh chóng nhập Niết-bàn.’ Khi ấy Như Lai trả lời tơi rằng: ‘Hãy thơi đi, này Ba-tuần. Ta tự biết thời. Như Lai nay chưa nhập Niết-bàn, vì cịn đợi đệ tử Ta tụ hội đơng đủ v.v…, cho đến, chư Thiên và lồi người thấy được sự thần thơng biến hóa, khi ấy Ta mới nhập Niết-bàn.’ Nay chính là lúc ấy, sao Ngài khơng nhập Niết-bàn?” Phật nói: “Hãy thơi đi, này Ba-tuần. Phật tự biết thời. Ta khơng trụ thế bao lâu nữa. Sau ba tháng nữa, tại bản sanh địa Câu-thi-na-kiệt<註 n="192"/>192, vườn Sa-la, giữa đơi cây, Ta sẽ diệt độ.” Lúc ấy, ma Ba-tuần nghó rằng Phật tất khơng nói dối, nhất định sẽ diệt độ, bèn vui mừng phấn khởi, hốt nhiên biến mất. Ma đi chưa bao lâu, Phật ở nơi tháp Giá-bà-la, bằng định ý tam-muội, xả thọ hành. Ngay lúc đó, đại địa chấn động. Nhân dân cả nước<註 n="193"/>193 thảy đều kinh sợ, lơng tóc dựng ngược. Phật phóng ánh sáng rọi suốt vơ cùng, nơi chỗ tối tăm cũng được soi sáng, thảy đều trơng thấy nhau. Bấy giờ Thế Tơn nói kệ tụng rằng: Trong hai hành hữu vơ, Ta nay xả hữu vi.<註 n="194"/>194 Nội chuyên Tam-muội định Như chim ra khỏi trứng. Lúc bấy giờ Hiền giả A-nan tâm kinh sợ, lơng tóc dựng ngược, vội vàng đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng sang một bên, bạch Phật: “Lạ thay, Thế Tơn! Do nhân duyên gì mà đất rung động?” Phật bảo A-nan: “Ở đời, có tám nguyên nhân khiến đất rung động. Những gì là tám? Đất y trên nước. Nước y trên gió. Gió y trên hư khơng. Trong hư khơng có ngọn gió lớn có khi tự nổi lên, khi ấy khối lớn nước bị khuấy động. Khối nước lớn bị khấy động thì khắp cả đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ nhất. “Lại nữa, này A-nan, có khi có Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni đắc đạo, hoặc Tơn thiên đại thần quán thể tánh nước nhiều, quán thể tánh đất ít, muốn tự thử năng lực của mình, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ hai. “Lại nữa, này A-nan, khi Bồ-tát từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm khơng tán loạn, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ ba. “Lại nữa, A-nan, khi Bồ-tát ra khỏi thai mẹ, sanh từ hơng phải, chuyên niệm khơng tán loạn, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ tư. “Lại nữa, A-nan, khi Bồ-tát vừa thành Vơ thượng chánh giác, ngay lúc ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ năm. “Lại nữa, A-nan, khi Phật vừa thành đạo chuyển Vơ thượng pháp luân mà Ma hoặc Thiên ma, Sa-mơn, Bà-la-mơn thảy đều khơng thể chuyển, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ sáu. “Lại nữa, A-nan, khi sự giáo giới của Phật gần hồn tất, chuyên tâm khơng tán loạn, Phật xả bỏ thọ hành, khi đó khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ bảy. “Lại nữa, này A-nan, khi Như Lai ở nơi Vơ dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn, khi ấy khắp cõi đất rung động. Đó là nguyên nhân thứ tám. “Do tám nguyên nhân ấy mà đất rung động.” Rồi Thế Tơn nói bài kệ: Đấng Lưỡng Túc Tối Tơn, Đại Sa-mơn soi sáng đời, Được A-nan thưa hỏi: Nguyên nhân gì đất rung? Như Lai diễn từ âm, Tiếng như chim Ca-lăng: “Ta nói, hãy lắng nghe, Nguyên do đất rung động. Đất nhân y trên nước, Nước nhân y trên gió. Nếu gió trổi hư khơng, Đất vì thế rung mạnh. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Muốn thử thần thơng lực, Núi, biển, trăm cây cỏ, Cõi đất thảy rung động. Thích, Phạm, các Tơn thiên, Ý muốn đất rung động, Núi biển các Quỷ thần, Cõi đất thảy rung động. Bồ-tát, Lưỡng Túc Tơn, Trăm phước tướng đã đủ, Khi mới nhập thai mẹ, Khi ấy đất rung động. Mười tháng trong thai mẹ, Như rồng nằm thảm đệm; Từ hơng hữu xuất sanh, Khi ấy đất rung động. Phật khi cịn trai trẻ Tiêu diệt dây kết sử, Thành đạo Thắng vơ thượng; Khi ấy đất rung động. Thành Phật, chuyển Pháp luân, Ở trong vườn Lộc dã; Đạo lực hàng phục ma, Khi ấy đất rung động. Thiên ma nhiều phen thỉnh, Khuyên Phật nhập Niết-bàn; Khi Phật xả thọ mạng, Khi ấy đất rung động. Đại Đạo Sư, Chí Tơn, Thần Tiên, khơng tái sanh, Vào tịch diệt, bất động; Khi ấy đất rung động. Tịnh nhãn, nói các duyên, Đất rung vì tám sự. Do đây và khác nữa, Khi ấy đất rung động”. <章 id="485140779">II<註 n="195"/>195 Phật nói với A-nan: “Này A-nan! Đời có tám chúng: một là chúng Sát-lî; hai là chúng Bà-la-mơn; ba là chúng Cư só; bốn là chúng Sa-mơn; năm là chúng Tứ thiên vương; sáu là chúng Đao-lợi thiên; bảy là chúng Ma; tám là chúng Phạm thiên. “Ta nhớ xưa kia, Ta từng qua lại trong chúng Sát-lî, cùng họ nói năng, ngồi đứng, chẳng biết đã bao nhiêu lần. Nhờ sức thiền định tinh tấn mà nơi nào Ta hiện đến, hễ họ có sắc đẹp thì sắc Ta đẹp hơn. Họ có tiếng hay thì tiếng Ta hay hơn. Họ từ giã Ta mà đi, nhưng Ta khơng từ giã họ. Điều họ nói được, Ta cũng nói được. Điều họ khơng thể nói được, Ta cũng nói được. Ta thường thuyết pháp cho họ, chỉ bày, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ<註 n="196"/>196, rồi biến mất khỏi nơi đó, mà họ khơng biết Ta là trời hay là người. Như thế cho đến, Ta từng qua lại trong chúng Phạm thiên khơng biết là bao nhiêu lần để thuyết pháp cho họ, mà họ cũng đều chẳng biết Ta là ai.” “A-nan bạch Phật: “Thế Tơn, thật là kỳ diệu, chưa từng có, mới có thể thành tựu được như thế.” Phật nói: “Pháp vi diệu chưa từng có như vậy, này A-nan, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, duy chỉ Như Lai mới thành tựu được.” Phật lại bảo A-nan: “Như Lai có thể biết rõ sự sanh khởi, tồn tại và biến mất của thọ; biết rõ sự sanh khởi, tồn tại và biến mất của tưởng; sự sanh khởi, tồn tại và biến mất của quán<註 n="197"/>197. Đó mới thật là pháp kỳ diệu chưa từng có của Như Lai, ngươi nên ghi nhớ.” Bấy giờ Đức Thế Tơn lại bảo A-nan cùng đi đến Hương tháp<註 n="198"/>198, rồi tới một gốc cây trải tọa ngồi và bảo A-nan nhóm hết các Tỳ-kheo hiện có mặt chung quanh Hương tháp lại giảng đường. A-nan vâng lời Phật dạy, tập họp tất cả, rồi bạch Phật: “Đại chúng đã tụ tập. Cúi xin Đức Thánh biết thời.” Thế Tơn bèn đi đến giảng đường, ngồi trên chỗ dọn sẵn. Rồi Thế Tơn nói với các Tỳ-kheo: “Các ngươi nên biết, Ta do những pháp sau đây mà tự thân tác chứng, thành Tối chánh giác. Đó là Bốn niệm xứ, Bốn ý đoạn<註 n="199"/>199, Bốn thần túc, Bốn thiền định, Năm căn, Năm lực, Bảy giác ý<註 n="200"/>200 và Tám thánh đạo. Các ngươi hãy nên cùng nhau tu tập ở trong pháp đó, cùng nhau hịa đồng kính thuận, chớ sinh tranh tụng. Cùng đồng một thầy học hãy cùng đồng hịa hợp như nước với sữa. Ở trong pháp Ta, hãy tinh cần tu học, cùng soi sáng cho nhau, cùng nhau hoan hỷ. “Này các Tỳ-kheo, các ngươi nên biết, Ta từ các pháp này mà tự mình chứng ngộ, rồi cơng bố ra nơi đây. Tức là, Khế kinh, Kỳ dạ kinh, Thọ ký kinh, Kệ kinh, Pháp cú kinh, Tương ưng kinh, Bản duyên kinh, Thiên bản kinh, Quảng kinh, Vị tằng hữu kinh, Chứng dụ kinh, Đại giáo kinh. Các ngươi hãy ghi nhớ kỹ, tùy khả năng mà phân tích, tùy sự mà tu hành. Vì sao vậy? Như Lai khơng bao lâu nữa, sau ba tháng nữa, sẽ vào Niết-bàn.” Các Tỳ-kheo sau khi nghe lời ấy, rất đỗi kinh ngạc, sửng sốt hoang mang, vật mình xuống đất, cất tiếng kêu than: “Nhanh chóng làm sao, Thế Tơn diệt độ! Đau đớn làm sao, con mắt của thế gian sắp tắt! Chúng ta từ nay mãi mãi mất mát!” Hoặc có Tỳ-kheo vật vã buồn khóc, lăn lộn kêu ca, khơng tự kềm chế được, khác nào như rắn bị đứt làm hai khúc, lăn lộn ngắc ngoải, khơng biết đi về đâu.<註 n="201"/>201 Phật bảo: “Này các Tỳ-kheo, các ngươi chớ ơm lịng ưu bi như vậy. Từ trời đất đến người vật, khơng có cái gì sanh ra mà khơng kết thúc. Muốn các pháp hữu vi khơng bị biến dịch, thì khơng thể nào được. Trước đây Ta đã từng dạy ân ái là vơ thường, có hội hợp tất có chia ly. Thân này khơng phải của mình, mạng này khơng ở lâu được.” Bấy giờ Thế Tơn nói bài kệ: Ta nay tự tại Đến chỗ an ổn; Nói rõ nghóa này Cho chúng hịa hợp. Ta nay già rồi, Việc làm đã xong, Nay nên xả thọ. Niệm khơng buơng lung, Tỳ-kheo giới đủ; Thâu nhiếp định ý, Thủ hộ tâm mình. Ở trong pháp Ta, Ai khơng buơng lung, Sẽ dứt gốc khổ, Khỏi sanh già chết. Phật lại bảo các Tỳ-kheo: “Ta nay sở dó khuyên dạy các ơng như thế, vì thiên ma Ba-tuần, vừa rồi đến thỉnh cầu ta, nói: ‘Ý Phật<註 n="202"/>202 chưa muốn vào Niết-bàn sớm. Nay đã phải thời rồi, xin Ngài mau diệt độ.’ Ta bảo ma Ba-tuần: ‘Hãy thơi! Hãy thơi! Ta tự biết thời. Ta cịn đợi chúng Tỳ-kheo của Ta hội đủ… cho đến, khiến cho chư Thiên và lồi người thảy đều thấy được sự thần diệu.’ Bấy giờ ma Ba-tuần lại nói với Ta rằng: ‘Thuở xưa, ở Uất-bệ-la, bên dịng sơng Ni-liên-thuyền, dưới gốc cây A-du-ba ni-câu-luật, Phật khi mới thành Chánh giác, tơi đã thưa Ngài rằng: ‘Ý Phật khơng muốn Niết-bàn sớm. Nay thật là đúng lúc. Ngài hãy nhanh chóng nhập Niết-bàn.’ Khi ấy Như Lai trả lời tơi rằng: ‘Hãy thơi đi, này Ba-tuần. Ta tự biết thời. Như Lai nay chưa nhập Niết-bàn, vì cịn đợi đệ tử Ta tụ hội đơng đủ v.v…, cho đến, chư Thiên và lồi người thấy được sự thần thơng biến hóa, khi ấy Ta mới nhập Niết-bàn.’ Nay đây, đệ tử của Như Lai đã hội đủ…, cho đến, chư Thiên và lồi người đều thấy được sự thần thơng biến hóa. Nay chính là lúc, sao Ngài khơng nhập Niết-bàn?’ Ta nói: ‘Hãy thơi đi, này Ba-tuần. Phật tự biết thời. Ta khơng trụ thế bao lâu nữa. Sau ba tháng nữa, Ta sẽ diệt độ.’ Lúc ấy ma Ba-tuần nghó rằng Phật tất khơng nói dối, bèn vui mừng phấn khởi, hốt nhiên biến mất. Ma đi chưa bao lâu, ở nơi tháp Giá-bà-la, bằng định ý tam-muội, Ta xả thọ hành. Ngay lúc đó, đại địa chấn động. Trời người thảy đều kinh sợ, lơng tóc dựng ngược. Phật phóng ánh sáng rọi suốt vơ cùng, nơi chỗ tối tăm cũng được soi sáng, thảy đều trơng thấy nhau. Bấy giờ Ta nói kệ tụng rằng: Trong hai hành hữu vơ, Ta nay xả hữu vi. Nội chuyên tam-muội định Như chim ra khỏi trứng. Bấy giờ, Hiền giả A-nan đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, quỳ gối phải sát đất, chắp tay bạch Phật: “Cúi mong Đức Thế Tơn, lưu trú một kiếp, chớ vội diệt độ, vì lịng thương tưởng chúng sanh, để làm ích lợi cho trời, người.” Đức Thế Tơn yên lặng khơng đáp. A-nan thưa thỉnh đến ba lần. Phật bảo: “A-nan! Ngươi có tin đạo Chánh giác của Như Lai khơng?” A-nan đáp: “Thưa vâng, con tin chắc thật lời Phật nói.” Phật nói: “Nếu ngươi có tin, sao ba lần quấy rầy Ta? Ngươi đã trực tiếp nghe từ Phật, trực tiếp lãnh thọ từ Phật rằng, những ai đã tu tập bốn thần túc, tu tập nhiều lần, chuyên niệm khơng quên, thì có thể tùy ý muốn mà kéo dài tuổi thọ trong một kiếp hoặc một kiếp hơn. Phật đã tu tập bốn thần túc, tu tập nhiều lần, chuyên niệm khơng quên, tùy theo ý muốn có thể sống hơn một kiếp, để trừ sự tối tăm cho đời, làm lợi ích nhiều người, cho trời và người được an lạc. Tại sao lúc đó ngươi khơng thỉnh cầu Như Lai chớ diệt độ? Nghe lần thứ hai, cịn khả thứ. Cho đến lần thứ ba, ngươi cũng khơng khuyến thỉnh Như Lai sống thêm một kiếp hoặc một kiếp hơn, để trừ tối tăm cho đời, đem lại lợi ích an lạc cho hàng thiên nhân. Nay ngươi mới nói, há chẳng muộn lắm ư? Ta ba lần hiện tướng, ngươi ba lần im lặng. Sao lúc ấy ngươi khơng nói với Ta rằng ‘Như Lai hãy sống thêm một kiếp hoặc một kiếp hơn, để trừ sự tối tăm cho đời, vì lợi ích cho nhiều người, để cho trời người được an lạc’? “Hãy thơi, A-nan, nay Ta đã xả tuổi thọ, đã bỏ, đã nhổ rồi. Muốn Như Lai trái với lời đã nói ra, thì khơng bao giờ có trường hợp đó. Ví như một người hào quý đã nhổ đồ ăn xuống đất, họ cịn lấy ăn trở lại được khơng?” A-nan đáp: “Khơng”. “Nay Như Lai cũng vậy, đã bỏ, đã nhổ rồi đâu cịn tự mình ăn lại nữa.” Phật lại bảo A-nan cùng đi đến thơn Am-bà-la. A-nan xếp y ơm bát, cùng với đại chúng đi theo Thế Tơn, do theo đường từ Bạt-kỳ đến Am-bà-la. Khi đến thơn Am-bà-la, tới một đồi cây, Phật dạy các Tỳ-kheo về giới, định, tuệ; tu giới đắc định<註 n="203"/>203, được quả báo lớn; tu định đắc trí, được quả báo lớn; tu trí tâm tịnh, được giải thốt hồn tồn<註 n="204"/>204, dứt hết ba thứ lậu hoặc là dục lậu, hữu lậu và vơ minh lậu. Sau khi đã giải thốt liền phát sanh trí về sự giải thốt<註 n="205"/>205, sanh tử dứt hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn phải tái sinh nữa.” Bấy giờ, sau khi tùy nghi an trú ở thơn Am-bà-la, Đức Thế Tơn lại bảo A-nan: “Hãy sửa soạn để đi thơn Chiêm-bà, thơn Kiền-đồ, thơn Bà-lê-bà và thành Phụ-di<註 n="206"/>206. A-nan đáp: “Thưa vâng”. Rồi xếp y ơm bát, cùng đại chúng theo hầu Thế Tơn, theo con đường từ Bạt-kỳ đi lần đến các thành khác, đến phía Bắc thành Phụ-di<註 n="207"/>207, nghỉ lại trong rừng Thi-xá-bà<註 n="208"/>208. Phật nói với các Tỳ-kheo: “Ta sẽ nói cho các ngươi nghe Bốn đại giáo pháp<註 n="209"/>209. Hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ.” Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Kính vâng, bạch Thế Tơn! Chúng con muốn nghe.” Phật nói: “Bốn pháp ấy là gì? Nếu có vị Tỳ-kheo nào nói như vầy: ‘Này chư Hiền, tơi từng ở tại thơn kia, thành kia, nước kia, đích thân theo Phật được nghe, được lãnh thọ giáo pháp này.’ Nghe như vậy thì các ngươi cũng khơng nên vội tin, cũng khơng nên bài bác. Hãy nương theo Kinh mà xét chỗ hư thật. Nương theo Luật, nương theo Pháp mà xét rõ gốc ngọn. Nếu thấy lời nói ấy khơng đúng Kinh, khơng đúng Luật, khơng đúng Pháp, thì các ngươi hãy nói lại người kia rằng: ‘Phật khơng nói như thế, ngươi đã nhớ lầm chăng? Bởi vì chúng tơi nương Kinh, nương Luật, nương Pháp. Mà lời ngươi vừa nói trái với Chánh pháp. Vậy này Hiền só, ngươi chớ có thọ trì và chớ đem nói cho người khác. Hãy từ bỏ nó đi.’ Trái lại nếu xét thấy lời kia đúng Kinh, đúng Luật, đúng Pháp thì hãy nói với người kia rằng: ‘Lời ngươi vừa nói, đúng là lời Phật nói. Vì chúng tơi nương Kinh, nương Luật, nương Pháp. Mà lời ngươi vừa nói phù hợp với Chánh pháp. Vậy Hiền só! Hãy cẩn thận thọ trì và rộng nói cho người nghe, chớ có từ bỏ.’ Đó là đại pháp thứ nhất. “Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào nói như vầy: ‘Này chư Hiền, tơi từng ở tại thơn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ chúng Tăng hịa hợp với các vị kỳ cựu đa văn, được lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này.’ Nghe như vậy thì các ngươi cũng khơng nên vội tin, cũng khơng nên bài bác. Hãy nương theo Kinh mà xét chỗ hư thật. Nương theo Luật, nương theo Pháp mà xét rõ gốc ngọn. Nếu thấy lời nói ấy khơng đúng Kinh, khơng đúng Luật, khơng đúng Pháp, thì các ngươi hãy nói lại người kia rằng: ‘Phật khơng nói như thế, ngươi đã nghe, nhớ lầm chăng? Bởi vì chúng tơi nương Kinh, nương Luật, nương Pháp. Mà lời ngươi vừa nói trái với Chánh pháp. Vậy này Hiền só, ngươi chớ có thọ trì và chớ đem nói cho người khác. Hãy từ bỏ nó đi.’ Trái lại nếu xét thấy lời kia đúng Kinh, đúng Luật, đúng Pháp thì hãy nói với người kia rằng: ‘Lời ngươi vừa nói, đúng là lời Phật nói. Vì chúng tơi nương Kinh, nương Luật, nương Pháp. Mà lời ngươi vừa nói phù hợp với Chánh pháp. Vậy Hiền só! Hãy cẩn thận thọ trì và rộng nói cho người nghe, chớ có từ bỏ.’ Đó là đại pháp thứ hai. “Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào đến nói như vầy: ‘Này chư Hiền, tơi từng ở tại thơn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ nhiều vị Tỳ-kheo, là những người trì Pháp, trì Luật, trì Luật nghi, được lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này.’Nghe như vậy thì các ngươi cũng khơng nên tin, cũng khơng nên bài bác. Hãy nương theo Kinh mà xét chỗ hư thật. Nương theo Luật, nương theo Pháp mà xét rõ gốc ngọn. Nếu thấy lời nói ấy khơng đúng Kinh, khơng đúng Luật, khơng đúng Pháp, thì các ngươi hãy nói lại người kia rằng: ‘Phật khơng nói như thế, ngươi đã nghe, nhớ lầm chăng? Bởi vì chúng tơi nương Kinh, nương Luật, nương Pháp. Mà lời ngươi vừa nói trái với Chánh pháp. Vậy này Hiền só, ngươi chớ có thọ trì và chớ đem nói cho người khác. Hãy từ bỏ nó đi.’ Trái lại nếu xét thấy lời kia đúng Kinh, đúng Luật, đúng Pháp thì hãy nói với người kia rằng: ‘Lời ngươi vừa nói, đúng là lời Phật nói. Vì chúng tơi nương Kinh, nương Luật, nương Pháp. Mà lời ngươi vừa nói phù hợp với Chánh pháp. Vậy Hiền só! Hãy cẩn thận thọ trì và rộng nói cho người nghe, chớ có từ bỏ.’ Đó là đại pháp thứ ba. “Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào đến nói như vầy: ‘Này chư Hiền, tơi từng ở tại thơn kia, thành kia, nước kia, đích thân từ một vị Tỳ-kheo kia, là người trì Pháp, trì Luật, trì Luật nghi, được lãnh thọ Giáo pháp này.’ Nghe như vậy thì các ngươi cũng khơng tin, cũng khơng nên bài bác. Hãy nương theo Kinh mà xét chỗ hư thật. Nương theo Luật, nương theo Pháp mà xét rõ gốc ngọn. Nếu thấy lời nói ấy khơng đúng Kinh, khơng đúng Luật, khơng đúng Pháp, thì các ngươi hãy nói lại người kia rằng: ‘Phật khơng nói như thế, ngươi đã nhớ lầm chăng? Bởi vì chúng tơi nương Kinh, nương Luật, nương Pháp. Mà lời ngươi vừa nói trái với Chánh pháp. Vậy này Hiền só, ngươi chớ có thọ trì và chớ đem nói cho người khác. Hãy từ bỏ nó đi.’ Trái lại nếu xét thấy lời kia đúng Kinh, đúng Luật, đúng Pháp thì hãy nói với người kia rằng: ‘Lời ngươi vừa nói, đúng là lời Phật nói. Vì chúng tơi nương Kinh, nương Luật, nương Pháp. Mà lời ngươi vừa nói phù hợp với Chánh pháp. Vậy Hiền só! Hãy cẩn thận thọ trì và rộng nói cho người nghe, chớ có từ bỏ.’ Đó là đại pháp thứ tư.” Bấy giờ, Đức Thế Tơn sau khi tùy nghi trú ở thành Phụ-di lại bảo A-nan cùng đi đến thành Ba-bà<註 n="210"/>210. A-nan đáp: “Kính vâng”, rồi xếp y ơm bát, với đại chúng đi theo Thế Tơn, theo con đường Mạt-la đi vườn Xà-đầu<註 n="211"/>211, thành Ba-bà. Nơi đây có con trai của một người thợ tên là Châu-na<註 n="212"/>212 nghe Phật từ Mạt-la kia đến thành này, liền y phục chỉnh tề tìm đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi ngồi lại một bên. Phật theo thứ lớp thuyết pháp cho Châu-na, chỉ bày, giáo huấn, khiến cho lợi ích hoan hỷ. Châu-na sau khi nghe phát tín tâm hoan hỷ, bèn thỉnh Phật ngày mai đến nhà cúng dường. Phật làm thinh nhận lời. Châu-na biết Phật đã nhận lời, liền đứng dậy lễ Phật, rồi lui về. Ngay đêm đó ơng sửa soạn thức ăn. Ngày mai, vào thời gian thích hợp, ơng trở lại thỉnh Phật. Bấy giờ, Thế Tơn khốc y cầm bát cùng với đại chúng tùy tùng đến nhà ơng, ngồi lên chỗ ngồi dọn sẵn. Sau khi Phật và đại chúng đã an tọa, Châu-na đem món ăn dâng Phật và chúng Tăng. Ơng lại nấu riêng một thứ nấm Chiên-đàn<註 n="213"/>213 là thức ăn trân quý kỳ lạ ít thấy, đem dâng riêng cho Phật. Phật bảo Châu-na chớ đem thứ nấm ấy cho chúng Tăng ăn. Châu-na vâng lời, khơng dám dọn cho chúng Tăng. Lúc bấy giờ, trong đại chúng Tỳ-kheo có một Tỳ-kheo già, xuất gia lúc tuổi xế chiều, ngay trên mâm ăn, dùng đồ đựng dư để lấy<註 n="214"/>214. Châu-na, sau khi thấy chúng Tăng thọ trai xong, cất bình bát và dùng nước rửa xong, liền đến trước Phật mà hỏi bằng bài kệ rằng: Xin hỏi Đại Thánh Trí, Đấng Chánh Giác Chí Tơn: Đời có mấy Sa-mơn, Khéo huấn luyện điều phục? Phật đáp bằng bài kệ: Theo như ngươi vừa hỏi, Có bốn hạng Sa-mơn, Chí hướng khơng đồng nhau, Ngươi hãy nhận thức rõ: Một, hành đạo thù thắng; Hai, khéo giảng đạo nghóa; Ba, y đạo sinh sống; Bốn, làm ơ uế đạo. Sao gọi ‘đạo thù thắng’? Sao ‘khéo nói đạo nghóa’? Sao ‘y đạo sinh hoạt’? Sao ‘làm đạo ơ uế’? Bẻ gai nhọn ân ái, Quyết chắc vào Niết-bàn; Vượt khỏi đường Thiên nhân, Là hành đạo thù thắng. Khéo hiểu đệ nhất nghóa Giảng đạo khơng cấu uế, Nhân từ giải nghi ngờ, Là hạng khéo thuyết đạo. Khéo trình bày pháp cú Nương đạo mà nuơi sống, Xa mong cõi vơ cấu; Là hạng sống y đạo. Trong ơm lịng gian tà, Ngồi như tuồng thanh bạch. Hư dối khơng thành thật, Là hạng làm nhơ đạo. Sao gọi ‘gồm thiện ác’, Tịnh, bất tịnh xen lẫn. Mặt ngồi hiện tốt đẹp, Như chất đồng mạ vàng, Người tục thấy liền bảo: “Đó là Thánh đệ tử, Các vị khác khơng bằng, Ta chớ bỏ lịng tin”. Người gìn giữ đại chúng, Trong trược giả ngồi thanh. Che giấu điều gian tà, Kỳ thật lịng phóng đãng. Chớ trơng dáng bề ngồi, Đã vội đến thân kính. Che giấu điều gian tà, Kỳ thật lịng phóng đãng. Rồi Châu-na lấy một cái giường nhỏ đặt ngồi trước Phật. Phật lần lượt thuyết pháp, chỉ bày, khuyến khích, khiến cho lợi ích, hoan hỷ. Sau đó, với đại chúng theo hầu, Phật trở về. Vừa đến giữa đường, Phật dừng lại dưới một gốc cây và bảo A-nan: “Ta đau lưng, ngươi hãy trải chỗ ngồi.” A-nan đáp vâng, rồi trải chỗ ngồi. Phật nghỉ ngơi. Bấy giờ, A-nan lại trải một chỗ ngồi thấp hơn và ngồi trước Phật. Phật hỏi A-nan: “Vừa rồi ơng thấy Châu-na có ý gì hối hận khơng? Nếu có hối hận là tự đâu?” A-nan đáp: “Châu-na vừa cúng dường Phật như vậy khơng được phúc lợi gì cả. Vì sao? Tại vì sau khi Đức Như Lai thọ trai ở nhà ơng thì Ngài vào Niết-bàn!” Phật nói: “A-nan chớ nói như vậy, chớ nói như vậy! Hiện nay Châu-na được nhiều lợi lớn, được sống lâu, được sắc đẹp, được sức lực, được tiếng tốt, được nhiều tài lợi, chết được lên trời, cầu điều gì đều được. Tại sao vậy? Vì người cúng dường cho Phật lúc mới thành đạo với người cúng dường cho Phật lúc sắp Niết-bàn, cơng đức hai bên ngang nhau khơng khác. Ngươi hãy đến nói với Châu-na rằng: ‘Tơi trực tiếp nghe từ Phật, trực tiếp lãnh thọ từ Phật, rằng Châu-na nhờ cơng đức cúng dường Phật mà được lợi lớn, quả báo lớn’.” A-nan vâng lời, đi đến chỗ Châu-na, nói rằng: “Tơi trực tiếp nghe từ Phật, trực tiếp lãnh thọ từ Phật, rằng ơng Châu-na nhờ cơng đức cúng dường Phật mà được lợi lớn, quả báo lớn. Tại sao vậy? Vì người cúng dường Phật lúc mới thành đạo với người cúng dường Phật lúc sắp Niết-bàn, cơng đức hai bên ngang nhau khơng khác. Thọ trai nhà Châu-na, Mới nghe lời nói này: Bệnh Như Lai thêm nặng, Thọ mạng đã sắp tàn, Tuy ăn nấm Chiên-đàn, Mà bệnh vẫn càng tăng. Ơm bệnh mà lên đường, Lần đến thành Câu-thi. Bấy giờ, Thế Tơn đứng dậy, đi về phía trước được một quãng ngắn, đến dưới một gốc cây, lại bảo A-nan: “Ta đau lưng quá, hãy sửa chỗ ngồi.” A-nan đáp: “Vâng”. Rồi dọn một chỗ ngồi. Như Lai nghỉ ngơi. A-nan lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. Lúc đó, có người đệ tử A-la-hán tên là Phúc-quý<註 n="215"/>215, đi từ thành Câu-thi-na-kiệt<註 n="216"/>216 nhắm đến thành Ba-bà, khi vừa đến giữa đường, trơng thấy Phật tại bên gốc cây, dung mạo đoan chính, các căn tịch tịnh, tâm ý nhu thuận trong cảnh tịch diệt tuyệt đối, ví như con rồng lớn, như hồ nước đứng trong khơng chút cáu bợn. Sau khi thấy, ơng phát sinh thiện tâm hoan hỷ, đi đến gần Phật, đảnh lễ rồi ngồi lại một bên và bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tơn, người xuất gia, ở tại chỗ thanh tịnh, ưa thích sự nhàn cư, thật hy hữu thay, dẫu cả một đồn xe có những năm trăm cỗ đi ngang qua một bên mà vẫn khơng hay biết! Thầy tơi có lần ngồi tónh tọa dưới một gốc cây bên đường thuộc địa phận giữa hai thành Câu-thi và Ba-bà. Lúc đó có đồn xe năm trăm cỗ đi ngang qua một bên. Tiếng xe cộ rầm rầm. Tuy thức tỉnh nhưng khơng nghe thấy. Sau đó có người đến hỏi: ‘Có thấy đồn xe vừa đi qua đây khơng?’ Đáp: ‘Khơng thấy.’Lại hỏi: ‘Có nghe khơng?’ Đáp: ‘Khơng nghe.’ Lại hỏi: ‘Nãy giờ ơng ở đây hay ở chỗ khác?’ Trả lời: ‘Ở đây.’ Lại hỏi: ‘Nãøy giờ ơng tỉnh hay mê?’ Trả lời: ‘Tỉnh.’ Lại hỏi: ‘Nãy giờ ơng thức hay ngủ?’ Trả lời: ‘Khơng ngủ.’ Người kia thầm nghó: ‘Đây thật là hy hữu. Người xuất gia chuyên tinh mới như thế. Cho dẫu tiếng xe rầm rộ, thức mà vẫn khơng hay.’Rồi nói với thầy tơi rằng: ‘Vừa có năm trăm cỗ xe rầm rộ đi qua con đường này, tiếng xe chấn động mà cịn khơng nghe thấy, có đâu lại nghe thấy chuyện khác!’ Rồi người kia làm lễ, hoan hỷ từ tạ.” Phật nói: “Này Phúc-quý! Nay Ta hỏi ngươi. Hãy tùy ý trả lời. Đồn xe rầm rộ đi qua, tuy thức nhưng khơng nghe và sấm sét vang động đất trời, tuy thứùc nhưng khơng nghe. Trong hai điều đó, điều nào khó hơn?” Phúc-quý thưa: “Tiếng động của ngàn chiếc xe đâu sánh bằng tiếng sấm sét. Khơng nghe tiếng xe cịn dễ chứ khơng nghe sấm sét ấy mới thật là rất khó.” Phật nói: “Này Phúc-quý, Ta có một lần ở tại một thảo lư trong thơn A-việt<註 n="217"/>217, lúc đó có đám mây lạ vụt nổi lên, rồi tiếng sấm sét vang rền dữ dội làm chết hết bốn con trâu và hai anh em người đi cày, thiên hạ xúm tới chật ních. Lúc ấy Ta đang ra khỏi thảo lư, đi kinh hành thong thả. Một người từ đám đơng kia đi lại chỗ Ta, đầu mặt lễ sát chân, rồi theo sau Ta kinh hành. Dẫu biết nhưng Ta vẫn hỏi: ‘Đám đơng kia đang tụ tập để làm gì vậy?’ Người kia liền hỏi lại Ta rằng: ‘Nãy giờ Ngài ở đâu, thức hay ngủ?’ Ta trả lời: ‘Ở đây, khơng ngủ.’ Người kia tán thán cho là hy hữu, chưa thấy ai đắc định như Phật; sấm chớp vang rền cả trời đất thế mà riêng mình tịch tịnh, thức mà khơng hay. Rồi người ấy bạch Phật: ‘Vừa rồi có đám mây lạ vụt nổi lên, rồi tiếng sấm sét vang rền dữ dội làm chết hết bốn con trâu và hai người đi cày. Đám đơng tụ tập chính là vì chuyện ấy.’ Người ấy trong lịng vui vẻ, liền được pháp hỷ, lễ Phật rồi lui. Lúc đó Phúc-quý đang khốc hai tấm vải màu vàng<註 n="218"/>218, trị giá cả trăm ngàn, rời chỗ ngồi đứng dậy, rồi quỳ xuống, chắp tay bạch Phật: “Nay con đem tấm vải này dâng Thế Tơn. Cúi mong Thế Tơn nạp thọ.” Phật bảo Phúc-quý: “Ngươi để một tấm cho Ta và một tấm cho A-nan.” Phúc-quý vâng lời. Một tấm dâng Phật, một tấm cho A-nan. Phật thương tưởng ơng cho nên nhận. Phúc-quý đảnh lễ Phật và ngồi lại một bên. Phật lần lượt thuyết pháp cho ơng, chỉ bày, giáo huấn, khiến cho được ích lợi, hoan hỷ. Ngài giảng về bố thí, trì giới, sinh thiên, dục là đại hoạn, bất tịnh, ơ uế, phiền não ơ nhiễm<註 n="219"/>219 là pháp chướng đạo, xuất yếu<註 n="220"/>220 là tối thắng. Khi Phật biết tâm ý Phúc-quý đã hoan hỷ, nhu nhuyến, khơng bị triền cái trùm lấp, rất dễ khai hóa; như thường pháp của chư Phật, Ngài giảng cho Phúc-quý về Khổ thánh đế, Khổ tập, Khổ diệt và Khổ xuất yếu thánh đếá. Phúc-quý liền phát tín tâm thanh tịnh, ví như tấm vải sạch rất dễ nhuốm màu, ngay trên chỗ ngồi mà xa lìa trần cấu, phát sinh pháp nhãn, thấy pháp, chứng pháp, an trú quyết định chánh tánh, khơng cịn bị sa đọa ác đạo, thành tựu vơ úy, bèn bạch Phật: “Con nay quy y Phật, Pháp, Tăng. Cúi mong Thế Tơn nhận con làm một Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay cho đến trọn đời con nguyện khơng sát, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu. Cúi mong Thế Tơn nhận con là Ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp.” Lại bạch Phật: “Lúc nào Phật đến giáo hóa tại thành Ba-bà xin Ngài hạ cố đến khóm nhà nghèo của con. Bởi vì con muốn đem hết những vật thực sàng tọa, y phục, thuốc thang sẵn có trong nhà để dâng cúng Thế Tơn. Thế Tơn lãnh thọ cho thì nội gia con được an lạc.” Phật nói: “Ngươi nói rất phải.” Rồi Thế Tơn lại nói pháp cho Phúc-quý; chỉ bày, giáo huấn, khiến cho được lợi ích, hoan hỷ. Phúc-quý đảnh lễ Phật rồi đi. Phúc-quý đi chưa bao lâu, A-nan liền đem tấm vải vàng của mình dâng Phật. Phật do tâm từ mẫn nhận lãnh và khốc lên trên mình. Bấy giờ, Đức Thế Tơn hiện ra một dung mạo thung dung, oai quang rực rỡ, các căn thanh tịnh, sắc diện tươi vui. A-nan trơng thấy, âm thầm suy nghó: “Ta được hầu gần Phật hai mươi lăm năm nay chưa khi nào thấy Phật có một sắc diện tươi sáng như ngày nay”. Bèn đứng dậy, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hỏi Phật: “Từ khi con được hầu Phật, đã hai mươi lăm năm nay, chưa từng thấy sắc diện Phật như hơm nay. Chẳng hiểu do duyên gì? Con mong nghe được ý Phật.” Phật bảo A-nan: “Có hai duyên cớ mà sắc diện Như Lai tươi sáng khác lúc bình thường: một là lúc Phật mới thành ngơi Chánh giác, hai là lúc Phật xả bỏ thọ mạng sắp vào Niết-bàn. A-nan, do hai duyên ấy mà sắc diện khác thường.” Rồi Thế Tơn nói bài tụng: Y màu vàng sáng vui, Mịn, mềm, rất tươi sạch, Phúc-quý dâng Thế Tơn, Hào quang trắng như tuyết. Phật bảo: “A-nan, ta đang khát. Ta muốn uống nước. Ngươi hãy đi lấy nước đem đến đây.” A-nan thưa: “Vừa rồi có năm trăm cỗ xe lội qua khúc trên sơng làm nước đục cả. Chỉ có thể dùng rửa chân, khơng thể dùng uống được.” Phật nói đến ba lần như thế. A-nan thưa: “Hiện chỉ có sơng Câu-tơn<註 n="221"/>221 cách đây khơng xa, là có nước trong mát. Uống hay tắm rửa đều được.” Lúc đó có một vị thần ở tại núi Tuyết, vốn dốc lịng tin Phật đạo, lấy bát đựng nước quý tịnh đủ tám cơng đức đem đến dâng Phật. Phật thương xót lãnh thọ và đọc bài tụng: Phật bằng tám thứ âm, Bảo A-nan lấy nước: Ta khát, nay muốn uống. Uống xong đến Câu-thi. Âm êm dịu, hịa nhã, Ai nghe cũng vui lịng. Hầu hạ hai bên Phật, Liền bạch Thế Tơn rằng: Vừa có năm trăm xe, Lội sơng sang bờ kia, Đã làm đục dịng nước, Uống chắc khơng thể được. Sơng Câu-lưu khơng xa, Nước tốt, rất trong mát; Có thể lấy nước uống, Cũng có thể tắm rửa. Tuyết sơn có quỷ thần, Đem nước dâng Như Lai. Uống xong, uy dũng mãnh. Đấng Sư Tử bước đi. Nước ấy có rồng ở, Trong sạch khơng đục dơ. Thánh nhan như Tuyết sơn Thong thả qua Câu-tơn. Rồi Thế Tơn đi đến sơng Câu-tơn, lấy nước uống và rửa xong rồi, cùng đại chúng lần đi nữa. Giữa đường, Phật dừng lại tại dưới một gốc cây và bảo Châu-na<註 n="222"/>222: “Ngươi lấy y Tăng-già-lê gấp làm tư rồi trải cho ta nằm. Ta đau lưng. Muốn tạm nghỉ tại đây.” Châu-na vâng lời, trải chỗ xong, Phật ngồi lên chỗ đó. Châu-na lễ Phật rồi ngồi lại một bên mà thưa rằng: “Con muốn nhập Niết-bàn. Con muốn nhập Niết-bàn.” Phật dạy: “Nên biết phải thời.” Châu-na liền nhập Niết-bàn ở ngay trước Phật. Phật bèn nói bài tụng: Phật đến sơng Câu-tơn, Trong mát, khơng đục dơ. Đấng Chí Tơn xuống nước, Tắm rửa, sang bờ kia. Vị đứng đầu đại chúng, Sai khiến bảo Châu-na: Ta nay thân mỏi mệt, Ngươi trải ngọa cụ nhanh. Châu-na liền vâng lời, Gấp tư y mà trải. Như Lai đã nghỉ ngơi Châu-na ngồi phía trước Tức thì bạch Thế Tơn: Con muốn nhập Niết-bàn, Vào chốn khơng yêu, ghét. Con nay đến chỗ đó; Biển cơng đức vơ lượng. Đấng Tối Thắng trả lời: Phận sự ngươi đã xong, Nên biết thời thích hợp. Được Phật hứa khả rồi, Châu-na càng tinh tấn. Diệt hành, vơ hữu dư. Như hết củi, lửa tắt. Bấy giờ A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật: “Sau khi Phật diệt độ, phép tẩn táng nên làm thế nào?” Phật bảo A-nan: “Ơng hãy im lặng. Hãy lo nghó đến cơng việc của mình. Việc ấy đã có các Thanh tín só vui vẻ lo liệu.” A-nan hỏi đến ba lần: “Sau khi Phật diệt độ, phép tẩn táng nên làm thế nào? Phật dạy: “Muốn biết phép tẩn táng thế nào thì nên làm theo cách tẩn táng Chuyển luân thánh vương.” A-nan lại hỏi: “Phép tẩn táng Chuyển luân thánh vương như thế nào? Phật nói: “Về phép tẩn táng Chuyển luân thánh vương, trước hết lấy nước thơm tắm rửa thân thể; lấy vải bơng mới quấn thân thể; dùng năm trăm tấm vải lần lượt quấn vào, rồi đặt thân vào kim quan. Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt kim quan trong một cái quách thứ hai lớn, bằng sắt, bên ngồi là lớp quách bằng gỗ hương Chiên-đàn. Chất các thứ vải dày, hương thơm lên trên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong lượm lấy xá-lợi, dựng tháp treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trơng thấy tháp của Pháp vương mà tưởng nhớ lại chánh hóa của vua, đã làm lợi ích cho nhiều người. “A-nan, ngươi muốn tẩn táng Ta, trước hết lấy nước thơm tắm rửa thân thể; lấy vải bơng mới quấn thân thể; dùng năm trăm tấm vải lần lượt quấn vào, đặt thân vào kim quan. Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt kim quan trong một cái quách thứ hai lớn bằng sắt, bên ngồi là lớp quách bằng gỗ hương Chiên-đàn. Chất các thứ vải dày, hương thơm lên trên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong lượm lấy xá-lợi, dựng tháp treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trơng thấy tháp của Phật mà tưởng nhớ lại đạo hóa của Pháp vương Như Lai, sống thì được phước lợi, chết thì sanh Thiên.” Rồi Thế Tơn muốn trùng tuyên lại ý nghóa này, Ngài thuyết bằng bài kệ: A-nan rời chỗ ngồi, Quỳ chắp tay bạch Phật: Như Lai diệt độ rồi, Phép tẩn táng thế nào? A-nan, hãy im lặng, Hãy lo phận sự mình. Các Thanh tín trong nước Sẽ vui vẻ lo liệu. A-nan ba lần hỏi. Phật giảng táng Luân vương. Muốn tẩn táng thân Phật, Quấn thân, đặt vào quách. Dựng tháp ngã tư đường, Vì lợi ích chúng sanh. Những ai đến kính lễ Đều được phước vơ lượng. Phật bảo A-nan: “Trong thiên hạ có bốn hạng người nên dựng tháp và cúng dường hương hoa, phướn lụa, âm nhạc. Đó là những ai? Là Như Lai, Bích-chi phật, Thanh văn và Chuyển luân vương. Này A-nan, bốn hạng người này nên được dựng tháp và dùng hương, hoa, phướn lụa, âm nhạc để cúng dường. Bấy giờ Thế Tơn nói bài kệ: Thứ nhất là tháp Phật, Bích-chi phật, Thanh văn, Và Chuyển luân thánh vương, Chủ tể trị bốn phương: Bốn nơi đáng cúng này, Được Như Lai chỉ dạy: Phật, Bích-chi, Thanh văn, Và tháp Chuyển luân vương. Bấy giờ, Thế Tơn bảo A-nan hãy cùng đi đến thành Câu-thi, tới giữa đám cây song thọ của dịng họ Mạt-la. A-nan đáp vâng. Rồi cùng với đại chúng đi theo Thế Tơn mà lên đường. Có một người Phạm chí từ thành Câu-thi đi đến thành Ba-bà, giữa đường, từ xa trơng thấy Thế Tơn dung mạo đoan chính, các căn tịch định. Thấy vậy, tự nhiên sanh tâm hoan hỷ, liền đi đến trước Phật, thăm hỏi rồi đứng sang một bên, bạch Phật rằng: “Thơn tơi ở cách đây khơng xa. Kính mong Đức Cù-đàm đến đó nghỉ đêm. Sáng mai thọ thực xong hãy đi.” Phật nói: “Thơi đủ rồi, Phạm chí. Ngươi nay đã cúng dường Ta rồi đó.” Phạm chí ân cần thưa thỉnh tới ba lần, Phật vẫn đáp như trước, lại bảo Phạm chí: “A-nan đàng sau kia, người đến đó tỏ ý.” Phạm chí nghe Phật bảo liền đến gặp ngài A-nan, thăm hỏi xong, đứng sang một bên, thưa rằng: “Thơn tơi ở cách đây khơng xa. Tơi muốn thỉnh Đức Cù-đàm đến đó nghỉ đêm. Sáng mai thọ thực xong hãy đi.” A-nan đáp: “Thơi đủ rồi, Phạm chí. Ngươi nay đã cúng dường rồi đó. Phạm chí ân cần thưa thỉnh tới ba lần. A-nan đáp: “Trời đã nóng bức, thơn kia lại xa, mà Đức Thế Tơn thì quá nhọc, khơng thể đến được đâu.” Bấy giờ, Thế Tơn sau khi quán sát ý nghóa này, bèn nói bài kệ: Đấng Tịnh Nhãn tiến bước, Mệt nhọc, hướng song thọ. Phạm chí xa thấy Phật, Vội bước đến, cúi đầu: Thơn tơi hiện gần đây, Xin thương, lưu một đêm. Sáng mai, cúng dường nhỏ, Rồi hãy đến thành kia. Phạm chí, thân Ta mệt, Đường xa khơng thể qua. Người hầu Ta đi sau. Hãy đến mà hỏi ý. Vâng lời Phật dạy thế, Bèn đến chỗ A-nan: Xin mời đến thơn tơi, Sáng mai, ăn rồi đi. A-nan ngăn: thơi, thơi. Trời nóng, khơng đi được. Ba lần mời khơng toại, Vẻ buồn rầu khơng vui. Quái thay, hữu vi này, Đổi dời mãi khơng thơi, Nay giữa cây song thọ, Dứt Ta, thân vơ lậu. Phật, Bích-chi, Thanh văn Hết thảy đều quy diệt, Vơ thường khơng chọn lựa, Như lửa đốt núi rừng. Bấy giờ, Thế Tơn vào thành Câu-thi, đi về phía Bản sanh xứ, giữa khu rừng Song thọ của dịng họ Mạt-la<註 n="223"/>223 và bảo A-nan: “Ngươi hãy sửa chỗ ở giữa cây Song thọ cho Ta nằm, đầu xây hướng Bắc, mặt xây hướng Tây. Sở dó như thế, vì giáo pháp của Ta sẽ lưu truyền lâu dài ở phương Bắc.” A-nan đáp: “Vâng”. Rồi dọn chỗ, cho đầu xây về phương Bắc. Rồi Thế Tơn tự mình lấy y Tăng-già-lê gấp làm tư, đắp lên mình, nằm nghiêng hơng tay mặt như sư tử chúa, hai chân chồng lên nhau. Lúc đó giữa đám cây Song thọ có các quỷ thần vốn dốc lịng tin Phật, lấy các thứ hoa sái mùa rải khắp mặt đất. Phật bảo A-nan rằng: “Vị thần cây Song thọ ấy lấy hoa sái mùa cúng dường cho Ta như thế, chưa phải cúng dường Như Lai.” A-nan thưa: “Sao mới là cúng dường Như Lai?” Phật dạy: “Người nào biết lãnh thọ và thực hành đúng Chánh pháp, mới là người cúng dường Như Lai.” Quán sát ý nghóa này, Phật nói bài kệ: Phật ở giữa Song thọ, Nằm nghiêng, tâm khơng loạn. Thần cây tâm thanh tịnh, Rải hoa lên trên Phật. A-nan hỏi Phật rằng: Thế nào là cúng dường? Nghe pháp và thực hành, Cúng dường bằng hoa giác. Hoa vàng như bánh xe, Chưa phải cúng dường Phật. Ấm, giới, nhập vơ ngã, Là cúng dường bậc nhất. Lúc đó ơng Phạm-ma-na<註 n="224"/>224 cầm quạt đứng hầu quạt trước Phật, Phật bảo: “Ngươi hãy tránh ra, chớ đứng ở trước Ta.” A-nan nghe vậy thầm lặng suy nghó: “Phạm-ma-na thường hầu hạ Phật, cung cấp mọi sự cần thiết, tơn kính Như Lai khơng hề chán nản. Nay vào ngày cuối cùng, lẽ để cho ơng chăm sóc, chứ sao Phật lại đuổi đi, là có ý gì?” Rồi A-nan sửa lại y phục, đến trước Phật, bạch rằng: “Phạm-ma-na thường hầu hạ Phật, cung cấp mọi sự cần thiết, tơn kính Như Lai khơng hề chán nản. Nay vào ngày cuối cùng, lẽ để cho ơng xem sóc, chứ sao Phật lại đuổi đi, là có ý gì?” Phật nói: “Phía ngồi thành Câu-thi này mười hai do-tuần, thảy đều là chỗ<註 n="225"/>225 các vị Đại Thiên thần, chật ních khơng có khoảng trống. Họ đều than phiền: ‘Vị Tỳ-kheo này sao đứng chốn trước Phật. Nay giờ phút cuối cùng Phật sắp vào Niết-bàn, chúng ta các thần muốn đến chiêm bái một lần, mà vị Tỳ-kheo đó với oai đức lớn lao, ánh sáng chói che khơng cho chúng ta được gần Phật để lễ bái cúng dường.’ Này A-nan, vì thế mà Ta bảo tránh ra.” A-nan bạch Phật: “Chẳng hay vị Tỳ-kheo đó xưa kia chứa phúc đức gì, tu hạnh nghiệp gì mà nay có oai đức như thế?” Phật dạy: “Vào kiếp thứ chín mươi mốt trong đời quá khứ, có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Vị Tỳ-kheo đó, lúc ấy đem tâm hoan hỷ cầm cây đuốc cỏ soi sáng vào ngơi tháp của Phật, nhờ đó nay ơng được có oai quang chiếu suốt cả hai mươi tám tầng trời, ánh sáng của chư Thiên thần khơng thể sánh kịp”. Rồi thì, A-nan rời khỏi chỗ ngồi, trịch áo bày vai hữu, quỳ xuống, chắp tay bạch Phật: “Xin Phật chớ diệt độ tại chỗ đất hoang vu trong thành chật hẹp thơ lậu này. Vì sao? Hiện có các nước lớn như Chiêm-bà, nước Tỳ-xá-ly, thành Vương xá, nước Bạt-kỳ, nước Xá-vệ, nước Ca-tỳ-la-vệ, nước Ba-la-nại. Ở đó nhân dân đơng đúc, nhiều người tín mộ Phật pháp. Phật diệt độ tại các chỗ đó, ắt nhiều người cung kính, cúng dường xá-lợi.” Phật dạy: “Thơi, đủ rồi, chớ có nhận xét như thế. Chớ cho nơi này là bỉ lậu. Vì sao thế? Khi xưa tại nước này, có vị vua tên Đại Thiện Kiến<註 n="226"/>226 và thành này lúc đó tên là Câu-xá-bà-đề<註 n="227"/>227. Đơ thành của vua dài bốn trăm tám mươi dặm, rộng hai trăm tám mươi dặm. Bấy giờ được mùa lúa rẻ, nhân dân phồn thịnh. Thành này có bảy lớp, bao quanh cũng có bảy lớp lan can, chạm trổ văn vẻ, linh báu treo xen. Móng thành bề sâu ba nhẫn, lên cao mười hai nhẫn. Lâu đài trên thành cao mười nhẫn. Vịng cột ba nhẫn. Thành vàng thì cửa bạc, thành bạc thì cửa vàng, thành lưu ly thì cửa thủy tinh, thành thủy tinh thì cửa lưu ly. Quanh thành trang nghiêm bằng tứ bảo, xen kẽ lan can bằng tứ bảo. Lầu vàng thì treo linh bạc, lầu bạc thì treo linh vàng. Có hào bảy lớp, mọc đầy hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng. Đáy hào tồn lát bằng cát vàng. Hai bên bờ hào có nhiều cây Đa-lân<註 n="228"/>228. Cây vàng thì lá hoa trái bạc. Cây bạc thì lá hoa trái vàng. Cây thủy tinh thì hoa trái lưu ly. Cây lưu ly thì hoa trái thủy tinh. Giữa đám cây Đa-lân có ao tắm. Dịng nước sâu, trong, thanh khiết khơng dơ. Hai bên bờ ao lát bằêng gạch tứ bảo. Thang bằng vàng thì bậc thang bằng bạc. Thang bạc thì bậc bằng vàng. Thềm cấp bằng lưu ly thì bậc thềm bằng thủy tinh. Thềm cấp bằng thủy tinh thì lưu ly làm bậc. Chung quanh, lan can vây bọc liên tiếp nhau. Trong thành ấy nơi nào cũng sanh cây Đa-lân. Cây vàng thì lá hoa trái bạc. Cây bạc thì lá hoa trái vàng. Cây thủy tinh thì hoa trái lưu ly. Cây lưu ly thì hoa trái thủy tinh. Khoảng giữa các cây có các ao bằng tứ bảo, sanh bốn loại hoa. Đường xá ngay ngắn, hàng ngũ tương đương. Gió thổi, hoa rơi lá bay hai bên đường. Gió nhẹ thổi qua các cây báu, phát ra âm thanh dịu dàng như thiên nhạc. Người trong nước, trai gái lớn nhỏ, dạo chơi vui vẻ giữa các cây. Nước ấy thường có mười loại âm thanh: Tiếng vỏ sị, tiếng trống, tiếng ba la, tiếng ca, tiếng múa, tiếng thổi, tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe cộ, tiếng ẩm thực, tiếng cười đùa. “Vua Đại Thiện Kiến có đủ bảy báu. Vua cũng có đủ bốn đức. Bảy báu là: bánh xe vàng báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, cư só báu và quân binh báu. “Vua Đại Thiện Kiến thành tựu bánh xe vàng báu như thế nào? “Thường vào ngày rằm trăng trịn, vua tắm gội nước hương, lên ngồi tại bảo điện, có thể nữ bao quanh, tự nhiên có bánh xe báu hiện ra trước mặt; vành xe có ngàn căm sáng chói, do thợ trời làm chớ khơng phải đời có được. Bánh xe tồn bằng chân kim, đường kính bằng một trượng tư. Khi ấy vua Đại Thiện Kiến thầm nghó: ‘Ta từng nghe các bậc tiên túc kỳ cựu nói: nếu vua Quán đảnh dịng Sát-lî, đến ngày rằm trăng trịn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại bảo điện, có thể nữ bao quanh, thời tự nhiên có bánh xe vàng hiện đến trước mặt, bánh xe có ngàn căm, ánh sáng rực rỡ, là tác phẩm của thợ nhà trời chứ khơng phải do con người làm, được làm thành bằng vàng thật, đường kính trượng tư, khi đó được gọi là Chuyển luân thánh vương. Nay có bánh xe báu ấy hiện đến há khơng là đây chăng? Ta hãy thử coi xe đó thế nào?’ “Vua Đại Thiện Kiến liền triệu bốn thứ binh, hướng về phía bánh xe vàng, trịch áo bày vai phải, đầu gối phải quỳ sát đất, rồi lấy tay phải vỗ lên bánh xe và nói: ‘Ngươi hãy theo đúng phép mà vận chuyển về phương Đơng, chớ trái lệ thường.’ Bánh xe liền chuyển vềà phương Đơng. Vua bèn dẫn bốn chủng quân binh đi theo bánh xe vàng, trước bánh xe vàng có bốn vị thần dẫn đường. Đến chỗ xe vàng ngừng thì vua cũng dừng xe. Bấáy giờ, các tiểu quốc phương Đơng thấy đại vương đến, họ đem bát vàng đựng lúa bạc, bát bạc đựng lúa vàng đến trước vua, cúi đầu tâu rằng: ‘Đại vương đến, thật lành thay! Nay phương Đơng này đất ruộng phì nhiêu, nhân dân sung túc, chí tánh nhân hịa, từ hiếu trung thuận. Cúi mong Thánh vương lấy chánh pháp trị hóa chốn này, chúng tơi xin cung cấp hầu hạ, vâng chịu mọi việc cần dùng.’ Vua Đại Thiện Kiến nói với các tiểu vương: ‘Thơi thơi chư hiền! Thế là các ngươi đã cúng dường ta rồi đó. Các ngươi nên lấy chánh pháp mà trị dân, chớ làm cho thiên lệch, khơng để cho quốc nội có hành vi phi pháp. Đó tức là ta trị hóa.’ Các tiểu vương vâng lệnh. Họ liền theo vua đi tuần khắp nước, đến tận mé biển Đơng mới trở về. “Vua lần lượt đi về phương Nam, rồi phương Tây, phương Bắc. Hễ bánh xe vàng đến ở đâu thì các quốc vương đều đến cống hiến như các tiểu quốc phương Đơng vậy. “Bấy giờ, vua Đại Thiện Kiến sau khi đã theo bánh xe vàng đi khắp bốn biển, đem chánh đạo khai hóa, an ủi dân chúng xong trở về thành Câu-xá-bà-đề của bổn quốc, thì bánh xe vàng dừng lại trên khơng trung ngay cửa cung điện. Vua Đại Thiện Kiến vui mừng phấn khởi nói: ‘Bánh xe vàng báu này thật là điềm tốt của ta. Nay ta chính thật là Chuyển luân thánh vương.’ Đó là sự thành tựu bánh xe vàng báu. “Vua Đại Thiện Kiến thành tựu voi trắng báu như thế nào? “Lúc bấy giờ, vào buổi sáng sớm, vua Đại Thiện Kiến đang ngồi trên chánh điện, tự nhiên voi báu hốt nhiên xuất hiện trước mặt. Lơng nó thuần trắng. Bảy chỗ đầy đặn. Có thể bay được. Đầu nó tạp sắc. Sáu ngà thon nhọn, xen cẩn bằêng vàng rịng. Sau khi nhìn thấy, vua tự nghó: ‘Con voi này khơn. Nếu khéo huấn luyện, có thể cưỡi.’ Bèn sai huấn luyện thử. Tập các khả năng đều đủ. Khi ấy vua Đại Thiện Kiến muốn tự mình thử voi, bèn cưỡi lên, rồi vào lúc sáng sớm, ra khỏi thành, chu du khắp bốn biển. Đến giờ cơm thì đã về tới. Thấy thế, vua Thiện Kiến phấn khởi nói: ‘Con voi trắng báu này thật sự là điềm lành cho ta. Nay ta thật sự là Chuyển luân thánh vương’. Đó là sự thành tựu voi trắng báu. “Vua Đại Thiện Kiến thành tựu ngựa báu như thế nào? “Bấy giờ, vào lúc sáng sớm, vua Đại Thiện Kiến đang ngồi trên chánh điện, tự nhiên ngựa báu hốt nhiên xuất hiện trước mắt. Lơng nó màu xanh, bờm đỏ. Đuơi, đầu và cổ, như voi. Nó có khả năng bay. Khi ấy vua Thiện Kiến tự nghó: ‘Con ngựa này khơn. Nếu huấn luyện kỹ, có thể cưỡi.’ Rồi vua sai huấn luyện thử, tập đủ các khả năng. Khi vua Thiện Kiến muốn tự mình thí nghiệm ngựa báu, bèn cưỡi lên, vào lúc sáng sớm, ra khỏi thành, chu du bốn biển. Đến giờ ăn thì đã về tới. Vua Thiện Kiến phấn khởi nói: ‘Con ngựa báu màu xanh này thật sự là điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương, đó là sự thành tựu ngựa trắng báu. “Vua Đại Thiện Kiến thành tựu thần châu báu như thế nào? “Bấy giờ, vào lúc sáng sớm, vua Đại Thiện Kiến đang ngồi trên chánh điện, tự nhiên thần châu báu hốt nhiên xuất hiện trước mắt. Màu sắc tinh chất, trong suốt, khơng có tỳ vết. Thấy rồi, vua nói: ‘Hạt châu này đẹp quá. Ánh sáng của nó có thể rọi sáng cả nội cung.’ Rồi vua muốn thử hạt châu ấy, bèn gọi bốn chủng quân binh vào, đặt bảo châu này ở trên tràng phan. Vào lúc nửa đêm trời tối, mang nó ra ngồi thành. Ánh sáng của hạt châu này rọi sáng tất cả quân binh, chẳng khác gì ban ngày. Ở vịng ngồi quân binh, nó lại chiếu sáng cả một do-tuần. Người trong thành đều thức dậy làm việc, vì cho là ban ngày. Vua Đại Thiện Kiến phấn khởi nói: ‘Nay hạt thần châu báu này thật sự là điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương, đó là sự thành tựu thần châu báu. “Vua Đại Thiện Kiến thành tựu ngọc nữ báu như thế nào? “Khi ấy ngọc nữ báu hốt nhiên xuất hiện. Nhan sắc thung dung, diện mạo đoan chánh, khơng cao, khơng thấp, khơng thơ, khơng tế, khơng đen, khơng trắng, khơng cương, khơng nhu; đơng thì thân ấm; hè thì thân mát; các lỗ chân lơng trên khắp thân thể tốt ra mùi hương Chiên-đàn; miệng thở ra hương hoa Ưu-bát-la; nói năng dịu dàng; cử động khoan thai; đứng dậy trước, ngồi xuống sau, khơng hề mất nghi tắc. Vua Thiện Kiến lúc bấy giờ thanh tịnh khơng nhiễm trước. Tâm khơng hề có chút ý niệm gì, huống hồ gần gũi. Bấy giờ vua Thiện Kiến phấn khởi nói: ‘Ngọc nữ này thật là điềm lành của ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ Đó là sự thành tựu về ngọc nữ báu. “Vua Đại Thiện Kiến thành tựu cư só báu như thế nào? “Khi ấy cư só trượng phu hốt nhiên tự xuất hiện. Kho báu tự nhiên có. Tài sản vơ lượng. Cư só có túc phước nên con mắt có thể nhìn suốt thấy mỏ báu dưới lịng đất. Vật hữu chủ hay vơ chủ, đều nhìn mà biết hết. Nếu có chủ, ơng có thể gìn giữ hộ. Nếu vơ chủ, ơng thu lấy đem hiến cho vua dùng. Cư só báu đi đến tâu vua: ‘Đại vương, có vật cống hiến, vua đừng lo buồn. Tơi có thể tự giải quyết.’ Bấy giờ, vua Đại Thiện Kiến muốn thử cư só báu, bèn ra lệnh chuẩn bị thuyền để du hí. Vua bảo cư só: ‘Ta cần vàng. Ngươi hãy kiếm nhanh cho ta.’ Cư só tâu: ‘Đại vương, xin hãy chờ giây lát. Đợi lên bờ đã.’ Vua tìm cách thúc hối: ‘Ta dừng đây. Đang cần dùng. Ngươi đem đến ngay!’ Khi ấy cư só bị vua ra lệnh nghiêm, bèn quỳ ngay trên thuyền, dùng tay phải thọc vào trong nước. Bình báu từ trong nước cùng lên theo tay. Như con sâu leo cây, cũng như thế, với cư só báu, bảo vật từ trong nước duyên theo tay mà xuất hiện đầy thuyền. Rồi ơng tâu vua: ‘Vừa rồi Đại vương nói cần báu. Nhưng cần bao nhiêu?’ Vua Thiện Kiến nói với cư só: ‘Thơi, đủ rồi. Ta khơng cần dùng gì. Chỉ là để thử nhau mà thơi. Ngươi nay như thế là đã cống hiến cho ta rồi đó.’ Cư só kia nghe vua nói như vậy liền ném trả bảo vật xuống nước. Vua Thiện Kiến phấn khởi nói: ‘Cư só báu này thật sự là điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ Đó là thành tựu cư só báu. “Vua Đại Thiện Kiến thành tựu chủ binh báu như thế nào? “Khi ấy chủ binh báu hốt nhiên xuất hiện, trí mưu, hùng mãnh, thao lược, quyết đốn. Rồi chủ binh đi đến chỗ vua, tâu: ‘Đại vương, nếu có chỗ cần chinh phạt, xin đừng lo lắng. Tơi có thể tự mình giải quyết.’ Vua Thiện Kiến lúc ấy muốn thử chủ binh báu, liền cho tập họp bốn chủng binh và nói với chủ binh rằng: ‘Ngươi nay dụng binh, chưa tập họp hãy tập họp; đã tập họp hãy giải tán; chưa nghiêm hãy nghiêm; đã nghiêm hãy cho buơng lỏng; chưa đi hãy bảo đi; đã đi hãy bảo dừng.’ Chủ binh báu nghe vua nói xong, liền điều khiển bốn chủng quân khiến cho chưa tập họp thì tập họp; đã tập họp thì giải tán; chưa nghiêm thì nghiêm chỉnh; đã nghiêm chỉnh thì cho buơng lỏng; chưa đi, bảo đi; đã đi, bảo dừng. Vua Thiện Kiến lúc ấy phấn khởi nói: ‘Chủ binh báu này thật sự là điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ Đó là chủ binh báu. “Này A-nan, đó là vua Đại Thiện Kiến thành tựu bảy báu. “Thế nào là bốn thần đức? Một là sống lâu, khơng yểu, khơng ai sánh bằng. Hai là thân thể cường tráng, khơng bệnh hoạn, khơng ai sánh bằng. Ba là nhan mạo đoan chánh, khơng ai sánh bằng. Bốn là kho báu tràn đầy, khơng ai sánh bằng. “Đó là Chuyển luân thánh vương thành tựu bảy báu và bốn thần đức. “A-nan, một thời gian lâu vua Thiện Kiến mới bảo đánh xe xuất du hậu viên. Vua bảo người đánh xe: ‘Ngươi đánh xe đi thong thả. Vì sao vậy? Ta muốn xem xét kỹ nhân dân có được an lạc, khơng hoạn nạn xảy ra chăng.’ Lúc bấy giờ, nhân dân trong nước đi đường mà gặp, liền nói với kẻ đánh xe: ‘Ngươi hãy cho đi chậm. Tơi muốn ngắm rõ uy nhan của Thánh vương.’ Này A-nan, khi ấy vua Thiện Kiến vỗ về trìu mến nhân dân như cha yêu con. Quốc dân kính mộ vua như con kính cha. Có gì quý hiếm họ đem dâng vua: ‘Cúi xin đức vua nạp thọ, tùy ý sử dụng.’ Vua bảo: ‘Thơi đủ rồi, các khanh. Ta có đủ tài bảo cần dùng rồi. Các khanh hãy cất lấy mà dùng.” “Vào lúc khác vua nghó: ‘Ta muốn tạo tác cung quán.’ Khi vừa có ý nghó đó thì người trong nước đến chỗ vua, tâu: ‘Tơi xin xây dựng cung điện cho vua.’ Vua bảo: ‘Ta cho như vậy là đã được các ngươi cúng dường rồi. Ta sẵn có tài bảo để lo liệu.’ Quốc dân lặp lại thỉnh cầu: ‘Chúng tơi xin xây dựng cung điện cho vua.’ Vua bảo: ‘Tùy ý các ngươi muốn’. Quốc dân được lệnh, liền đem tám mươi bốn ngàn chiếc xe chở vàng đến thành Câu-xá-bà để tạo lập Chánh pháp điện<註 n="229"/>229. Khi ấy vị Thiên thần thợ khéo ở trời Đao-lợi tự nghó: ‘Chỉ có ta mới có khả năng xây dựng Chánh pháp điện cho vua Đại Thiện Kiến.’ “Này A-nan, khi ấy Thiên thần khéo xây dựng Chánh pháp điện dài sáu mươi dặm, rộng ba mươi dặm, được trang sức bằng tứ bảo. Mặt nền bằng phẳng. Thềm được lát bảy lớp gạch báu. Pháp điện có tám muơn ngàn cây cột. Thân cột bằng vàng thì chóp cột bằng bạc. Thân cột bạc thì chóp cột vàng. Bằng lưu ly và thủy tinh cũng vậy. Bao quanh điện là bốn lớp lan can, đều được làm bằng tứ bảo. Lại có bốn thềm cấp cũng bằng tứ bảo. Trên pháp điện ấy có tám vạn bốn ngàn lầu báu. Lầu bằng vàng thì các cửa sổ bằng bạc. Lầu bằng bạc, cửa sổ bằng vàng. Bằng thủy tinh và lưu ly cũng vậy. Lầu vàng thì giường bạc. Lầu bạc, giường vàng. Chăn đệm mềm mại được dệt bằng kim lũ trải trên giường. Bằng thủy tinh và lưu ly cũng vậy. Ánh sáng của cung điện chói lọi làm hoa mắt mọi người, như mặt trời lúc cực sáng khơng ai có thể nhìn được. “Bấy giờ, vua Thiện Kiến phát sanh ý nghó: ‘Nay ở hai bên điện, ta hãy lập nhiều ao và vườn cây Đa-lân.’ Vua bèn cho lập vườn. Ngang dọc một do-tuần. Vua lại nghó: ‘Ở trước pháp điện ta hãy lập một ao pháp. Bèn cho xây ao pháp, ngang dọc một do-tuần. Nước ao trong lắng, tinh khiết, khơng bợn dơ. Đáy ao lát bằng gạch tứ bảo. Bao quanh ao là lan can, đều làm bằng bốn thứ báu: hồng kim, bạch ngân, thủy tinh và lưu ly. Nước trong ao, mọc xen lẫn các thứ hoa như Ưu-bát-la, Ba-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lî. Hoa tỏa ra hương thơm sực nức khắp nơi. Khoảng đất ở bốn mặt ao mọc các thứ hoa như A-hê-vật-đa, Chiêm-bặc, Ba-la-la, Tu-mạn-đà, Bà-sư-ca, Đàn-cu-ma-lê. Vua sai người trơng coi ao. Những ai đi ngang qua, dẫn xuống ao tắm, mát mẻ vui đùa tùy ý thích. Cần nước tương thì cho nước tương. Cần thức ăn thì cho thức ăn. Y phục, hương hoa, xe ngựa, tài bảo các thứ, đều khơng để nghịch ý người. “A-nan, bấy giờ vua Thiện Kiến có tám vạn bốn ngàn voi, trang sức bằng vàng bạc, tua dải bằng bảo châu, tề tượng vương<註 n="230"/>230 là bậc nhất. Có tám vạn bốn ngàn ngựa, trang sức bằng vàng bạc, tua dải bằng bảo châu, lựïc mã vương là bậc nhất. Có tám vạn bốn ngàn cỗ xe, lót bằng da sư tử, trang nghiêm bằng tứ bảo, kim luân bảo là bậc nhất. Có tám muơn bốn ngàn hạt châu, thần châu bảo là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, ngọc nữ báu là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn cư só, cư só báu là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn Sát-lî, chủ binh báu là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn thành, Câu-thi-bà-đề là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn cung điện, Chánh pháp điện là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn lầu, Đại chánh lầu là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn giường, thảy đều bằng các thứ báu hồng kim, bạch ngân; bên trên giường trải nệm lơng, chăn lơng các thứ<註 n="231"/>231. Tám vạn bốn ngàn ức áo bằng các thứ vải như sơ-ma, ca-thi, kiếp-ba<註 n="232"/>232 là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn thức ăn, mỗi ngày dọn mỗi món khác nhau. “A-nan, bấy giờ, vào buổi sáng sớm, vua Thiện Kiến cưỡi tề tượng vương, cùng với tám vạn bốn ngàn thớt voi, ra khỏi thành Câu-thi, xem xét thiên hạ, đi khắp bốn biển. Trong khoảng chốc lát, trở về thành ăn cơm. Rồi cưỡi lực mã bảo, cùng với tám vạn bốn ngàn ngựa, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành xuất du, xem xét thiên hạ, đi khắp bốn biển. Trong chốc lát, trở về thành ăn cơm. Cưỡi xe kim luân, lựïc mã bảo kéo, cùng với tám vạn bốn ngàn cỗ xe, vào buổi sáng sớm xuất du, xem xét thiên hạ, đi khắp bốn biển. Trong chốc lát trở về thành ăn cơm. Cùng với tám vạn bốn ngàn minh châu, dùng thần châu bảo soi sáng nội cung. Ngày đêm luơn luơn sáng. Với tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, ngọc nữõ bảo khơn ngoan, khéo léo, hầu hạ phục thị hai bên. Với tám vạn bốn ngàn cư só, mọi thứ nhu yếu đều giao cho cư só báu lo. Với tám vạn bốn ngàn Sát-lî, nếu có chinh phạt, giao cho chủ binh báu. Với tám vạn bốn ngàn thành, thủ đơ trụ sở thường trực ở Câu-thi thành. Với tám vạn bốn ngàn cung điện, vua thường ngự ở Chánh pháp điện. Với tám vạn bốn ngàn lầu, chỗ vua thường nghỉ là Đại chánh lầu. Với tám vạn bốn ngàn chỗ ngồi, vua thường ngồi trên tịa pha lê, vì để an thiền. Với tám vạn bốn ngàn ức y, trang sức bằng thượng diệu bảo, tùy ý mà mặc để che người cho khỏi hổ thẹn. Với tám vạn bốn ngàn thức ăn, vua thường ăn thức ăn tự nhiên. Vì là tri túc. “Khi tám vạn bốn ngàn thớt voi hiện đến, chúng dày xéo, dẫm đạp, làm hại chết chúng sanh khơng kể xiết. Vua bèn tự nghó: ‘Đám voi này làm thương tổn chúng sanh quá nhiều. Từ nay về sau, cứ một trăm năm mới cho hiện một con voi. Lần lượt như vậy cho đến hết vịng thì quay trở lại’.” <章 id="485140780">III<註 n="233"/>233 Bấy giờ, Thế Tơn nói với A-nan: “Vua Đại Thiện Kiến thầm nghó: ‘Ta sẵn chứa cơng đức gì, tu được điều lành gì mà nay được quả báo đẹp đẽ như thế?’ Vua lại nhớ rằng nhờ ba nhân duyên mà gây được phúc báo đó. Ba nhân duyên ấy là gì? Một là Bố thí, hai là Trì giới, ba là Thiền tứ. Vua lại suy nghó: ‘Nay ta đã được thọ hưởng phúc báo nhân gian, ta hãy tiến tu thêm về phúc nghiệp cõi trời. Ta hãy tự hạn chế và bớt đi; lánh chỗ ồn ào; ẩn ở chỗ yên tónh để tu luyện đạo thuật.’ Rồi vua liền sai gọi ngọc nữ Hiền Thiện đến, bảo rằng: ‘Nay ta đã được thọ hưởng phúc báo nhân gian, ta hãy tiến tu thêm về phúc nghiệp cõi trời. Ta hãy tự hạn chế và bớt đi; lánh chỗ ồn ào; ẩn ở chỗ yên tónh để tu luyện đạo thuật.’ Ngọc nữ đáp: ‘Kính vâng. Xin tuân lời Đại vương dạy.’ Rồi sắc lệnh cho cả trong ngồi từ nay miễn sự chầu hầu. Vua liền lên pháp điện, vào tịa lầu bằng vàng, ngồi trên giường ngựï bằng bạc, tư duy tham dục là ác bất thiện. Với giác và quán<註 n="234"/>234, có hỷ và lạc phát sanh từ sự viễn ly, chứng đắc thiền thứ nhất. Trừ giảm giác và quán, nội tín, hoan duyệt<註 n="235"/>235, nhiếp tâm chuyên nhất, khơng giác khơng quán, có hỷ và lạc do định sanh, chứng thiền thứ hai. Xả hỷ thủ hộ<註 n="236"/>236 chuyên niệm khơng loạn, tự cảm biết thân lạc, điều mà Hiền thánh mong cầu, cùng hành với hộ, niệm và lạc<註 n="237"/>237, chứng đắc thiền thứ ba. Xả bỏ khổ và lạc, trừ diệt ưu và hỷ từ trước, khơng khổ, khơng lạc, hộ và niệm thanh tịnh<註 n="238"/>238, chứng đắc thiền thứ tư. “Rồi vua Thiện Kiến rời khỏi giường ngự bằng bạc, ra khỏi lầu vàng, đi đến lầu Đại chánh, ngồi trên giường lưu ly tu tập về Từ tâm, rải lịng từ đầy khắp một phương này rồi đến một phương khác cũng vậy, trùm khắp, rộng lớn, khơng hai, khơng hạn lượng, trừ mọi sân hận, tâm khơng cịn chút ganh ghét, mà vui điều tónh mặc từ nhu. Rồi tiếp tu về Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. “Bấy giờ, ngọc nữ báu thầm tự suy nghó: ‘Đã lâu khơng thấy tơn nhan, tưởng nên đến hầu thăm một phen. Nay nên diện kiến đức vua.’ Rồi ngọc nữ báu Hiền Thiện nói với tám vạn bốn ngàn các thể nữ rằng: ‘Các ngươi mỗi người hãy tắm gội nước thơm, trang điểm y phục. Sở dó như vậy vì đã lâu chúng ta khơng gặp tơn nhan, nên hãy hầu thăm một phen.’ Thể nữ nghe thế, thảy đều trang điểm y phục, tắm gội sạch sẽ. Rồi ngọc nữ nói với chủ binh báu thần tập họp bốn chủng quân, rằng: ‘Đã lâu chúng ta khơng gặp tơn nhan, nên hãy hầu thăm một phen.’ Chủ binh báu thần liền tập họp bốn chủng quân, thưa với ngọc nữ báu: ‘Bốn chủng quân đã tập. Nên biết thời.’ Rồi ngọc nữ báu dẫn tám vạn bốn ngàn thể nữ, cùng với bốn thứ quân đi đến vườn Kim-đa-lân<註 n="239"/>239. Âm thanh chấn động của đại chúng vang đến vua. Nghe thế, vua đi đến cửa sổ để xem. Ngọc nữ báu lúc ấy đứng một bên trước cửa. Thấy ngọc nữ báu, vua liền nói: ‘Ngươi khỏi bước tới. Ta sẽ ra xem.’ Vua Thiện Kiến rời tịa pha lê, ra khỏi lầu Đại chánh, đi xuống Chánh pháp điện, cùng với ngọc nữ đi đến vườn Đa-lân, ngồi lên chỗ soạn sẵn. Lúc ấy dung sắc vua Thiện Kiến tươi sáng hơn hẳn bình thường. Ngọc nữ báu Hiền thiện tự nghó: ‘Nay, sắc mặt Đại vương hơn hẳn bình thường. Có điềm lạ gì chăng?’ Rồi ngọc nữ báu tâu vua: ‘Đại vương, nay nhan sắc khác thường. Há khơng phải là điềm sắp xả thọ mạng chăng? Nay tám vạn bốn ngàn voi này, bạch tượng bảo là bậc nhất, được trang sức bằng vàng bạc, với bảo châu làm tua dải; tất cả là sở hữu của vua. Mong vua lưu ý một chút, cùng chung vui hưởng, chớ xả bỏ tuổi thọ mà bỏ rơi vạn dân. Lại tám vạn bốn ngàn ngựa, lực mã vương bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn cỗ xe, kim luân bảo bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn minh châu, thần châu bảo bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, ngọc nữ báu bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn cư só, cư só báu bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn Sát-lî, chủ binh báu là bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn thành, Câu-thi thành bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn cung điện, chánh pháp điện bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn tịa lầu, đại chánh lầu bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn tịa ngồi, bảo sức tịa bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn ức y, nhu nhuyến y bậc nhất. Tám vạn bốn ngàn thức ăn, mỗi vị đều quý hiếm. Hết thảy bảo vật ấy đều thuộc về vua. Mong vua lưu ý một chút, cùng chung vui thú, chớ xả thọ mạng, bỏ rơi vạn dân.’ “Vua Thiện Kiến nói với ngọc nữ báu: ‘Từ trước đến nay, ngươi cung phụng ta một cách từ hịa kính thuận, chưa bao giờ nói lời thơ lậu, sao nay ngươi lại có lời ấy?’ Ngọc nữ tâu: ‘Chẳng hay lời ấy có gì khơng thuận.’ Vua nói: ‘Những thứ mà ngươi vừa nói, voi, ngựa, xe cộ, đền đài, y phục, hào soạn quý báu kia đều vơ thường, khơng giữ gìn lâu được, mà khuyên ta lưu lại hưởng thụ, như thế có thuận chăng?’ Ngọc nữ tâu: ‘Chẳng hay phải nói thế nào mới là thuận?’ Vua bảo: ‘Giá ngươi nói, các thứ voi, ngựa xe cộ, đền đài, y phục, hào soạn đều vơ thường, khơng giữ gìn lâu được, mà khuyên ta đừng mê luyến đến làm gì cho lao thần tổn tứ. Vì mạng vua chẳng cịn bao lâu sẽ qua đời khác. Hễ có sanh tất có chết, có hợp tất có ly, đâu phải sống đời ở đây được. Vậy hãy cắt đứt ân ái để chuyên tâm vào đạo lý. Nếu ngươi nói như thế mới là kính thuận.’ “Này A-nan, nghe lời vua dạy như thế, ngọc nữ buồn khóc than thở, gạt nước mắt mà nói: ‘Các thứ voi, ngựa xe cộ, đền đài, y phục, hào soạn đều vơ thường, khơng giữ gìn lâu được, đừng mê luyến đến làm gì cho lao thần tổn tứ. Vì mạng vua chẳng cịn bao lâu sẽ qua đời khác. Hễ có sanh tất có chết, có hợp tất có ly, đâu phải sống đời ở đây được. Vậy hãy cắt đứt ân ái để chuyên tâm vào đạo lý’. “Này A-nan, ngọc nữ báu kia vừa nói xong giây lát, Thiện Kiến vương bỗng nhiên mệnh chung, khơng chút đau khổ, như kẻ tráng só trong một bữa ăn ngon, hồn thần sanh lên cõi trời Phạm thiên thứ bảy. “Sau khi vua băng hà bảy ngày, các thứ luân bảo, thần châu biến mất, voi báu, ngựa báu, ngọc nữ báu, cư só báu, quân binh báu cũng một ngày chết hết; thành ao, pháp điện, đền đài, các thứ trang sức bằng báu, vườn Kim-đa-lân, đều biến thành gỗ, đất.” Phật bảo A-nan: “Này A-nan, pháp hữu vi này là vơ thường, biến dịch, chung qui hao mịn, hoại diệt. Tham dục khơng chán. Mạng người tiêu tán. Mê say ân ái khơng hề biết đủ. Chỉ người nào chứng đắc Thánh trí, thấy rõ đạo lý, mới biết đủ mà thơi. “Này A-nan, Ta nhớ đã từng ở nơi này, Ta sáu lần tái sanh làm Chuyển luân thánh vương và cuối cùng bỏ xác tại chỗ này. Nay Ta thành Vơ thượng chánh giác, lại cũng muốn xả bỏ tánh mạng, gởi thân tại đây. Từ nay về sau, Ta đã dứt tuyệt sanh tử, khơng cịn có chỗ nào là nơi bỏ xác Ta nữa. Đây là kiếp cuối cùng. Ta khơng cịn thọ sinh trở lại nữa. Bấy giờ, Thế Tơn tại thành Câu-thi-na-kiệt, Bản sanh xứ, trong vườn Sa-la, giữa hai cây song thọ, vào lúc sắp gần diệt độ, nói với A-nan rằng: “Này A-nan! Ngươi hãy vào thành Câu-thi-na-kiệt, báo tin cho những người Mạt-la rằng: ‘Chư Hiền nên biết, Như Lai nửa đêm nay sẽ vào Niết-bàn tại giữa cây Song thọ trong vườn Sa-la. Các ngươi nên kịp thời đến thưa hỏi các điều nghi ngờ và trực tiếp nghe Phật chỉ dạy, để sau khỏi hối hận ăn năn.” A-nan vâng lời Phật dạy, rời chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật mà đi. Cùng với một Tỳ-kheo khác, nước mắt chảy rịng, mà vào thành Câu-thi-na. Khi vào thành gặp năm trăm người Mạt-la có chuyện đang họp cả một chỗ. Họ thấy A-nan đến, đều đứng dậy chào hỏi rồi đứng về một bên và bạch rằng: “Khơng hiểu Tơn giả có việc gì mà phải vào thành lúc chiều tối thế này?” A-nan rơi lệ vừa nói: “Ta vì ích lợi các ngươi, đến tin các ngươi hay Đức Như Lai đến nửa đêm<註 n="240"/>240 nay sẽ vào Niết-bàn. Các ngươi nên kịp thời đến thưa hỏi những điều hồi nghi, trực tiếp nghe Phật chỉ dạy, để sau khỏi ăn năn.” Vừa nghe xong, những người Mạt-la cất tiếng kêu than, vật vã xuống đất, có người ngất đi tỉnh lại. Ví như cây lớn khi trốc gốc thì các nhánh cành đều đổ gãy. Họ đồng than: “Phật diệt độ sao mà nhanh thế! Phật diệt độ làm sao nhanh thế! Con mắt của thế gian mà diệt mất, thì chúng sanh bị suy hại lâu dài.” A-nan an ủi họ: “Thơi các người chớ buồn! Trời đất muơn vật hễ có sanh đều có chết. Muốn cho pháp hữu vi tồn tại mãi là điều khơng thể có được. Phật há chẳng dạy: Có hợp tất có ly, có sanh tất có diệt đó sao!” Rồi thì, các người Mạt-la bảo nhau: “Chúng ta hãy về nhà, đem cả gia thuộc và năm trăm khổ vải trắng, cùng đến Song thọ.” Những người Mạt-la ai về nhà nấy, rồi đem cả gia thuộc và mang cả năm trăm tấm lụa trắng ra khỏi thành Câu-thi, đến giữa rừng Song thọï và đi đến chỗ A-nan. A-nan vừa trơng thấy từ xa, thầm nghó: ‘Bọn họ rất đơng. Nếu để cho từng người một vào yết kiến Phật, e rằng chưa khắp hết thì Như Lai đã diệt độ rồi! Ta nên bảo họ vào đầu hơm<註 n="241"/>241 đồng một lượt đến bái yết Phật’.” A-nan liền dắt năm trăm người Mạt-la và gia thuộc đến trước Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng sang một bên và bạch rằng: “Nay có các Mạt-la tên như thế và gia thuộc, xin thăm hỏi Đức Thế Tơn sức khoẻ có bình thường khơng?” Phật nói: “Phiền các ngươi đến thăm. Ta chúc cho các ngươi sống lâu, vơ bệnh.” A-nan bằng cách đó đã có thể dẫn hết các người Mạt-la và gia thuộc của họ vào thăm Phật. Khi ấy, các Mạt-la đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi sang một bên. Thế Tơn thuyết giảng cho họ về vơ thường, chỉ bày, giáo huấn khiến cho được lợi ích, hoan hỷ. Nghe pháp xong, các Mạt-la ai nấy vui mừng liền đem năm trăm khổ vải trắng dâng Phật. Phật thụ lãnh. Các Mạt-la rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ Phật rồi lui ra. Lúc đó, trong thành Câu-thi có một vị Phạm chí tên Tu-bạt<註 n="242"/>242 là bậc kỳ cựu đa trí, đã một trăm hai mươi tuổi, nhân nghe Đức Sa-mơn Cù-đàm đêm nay sẽ diệt độ tại giữa cây song thọ, ơâng tự nghó: ‘Ta có điều hồi nghi về giáo pháp. Chỉ có Đức Cù-đàm mới giải được ý ta. Ta nên kịp thời gắng đi đến Phật.’ Ngay đêm ấy ơng gắng ra khỏi thành đi đến Song thọï, đến chỗ A-nan. Sau khi chào hỏi xong, ơng thưa: “Tơi nghe Sa-mơn Cù-đàm sắp vào Niết-bàn đêm nay, nên đến đây mong được bái yết một lần. Tơi có điều hồi nghi về giáo pháp, mong được gặp Cù-đàm để Ngài giải quyết cho. Vậy Ngài có được rỗi rảnh cho tơi vào bái yết khơng?” A-nan bảo: “Thơi đừng Tu-bạt! Phật đang có bệnh. Khơng nên quấy rầy Ngài.” Tu-bạt cố nài xin đến ba lần rằng: “Tơi nghe Đức Như Lai ra đời như hoa Ưu-đàm<註 n="243"/>243, rất lâu mới xuất hiện<註 n="244"/>244, nên đến đây mong bái yết để được giải quyết nghi ngờ. Ngài có rỗi rảnh cho tơi gặp một lát được khơng?” A-nan cũng vẫn trả lời như trước: “Phật đang có bệnh. Khơng nên quấy rầy Ngài.” Khi ấy Phật bảo A-nan: “A-nan, ngươi chớ ngăn cản. Hãy để cho ơng ấy vào. Ơng muốn giải quyết sự nghi ngờ, khơng có gì phiền nhiễu. Nếu nghe được pháp của ta, ắt được tỏ rõ.” A-nan liền bảo Tu-bạt: “Nếu ơng muốn vào thăm Phật, xin mời vào.” Tu-bạt được vào, chào hỏi Phật xong, ngồi một bên và bạch Phật: “Tơi có điều hồi nghi về giáo pháp. Ngài có rỗi rảnh giải quyết cho chỗ vướng mắc khơng?” Phật nói: “Ơng cứ tùy ý hỏi”. Tu-bạt hỏi: “Bạch Cù-đàm, có những giáo phái khác, họ tự xưng bậc thầy, như các ơng Phất-lan Ca-diếp<註 n="245"/>245, Mạt-già-lê Kiều-xá-lợi<註 n="246"/>246, A-phù-đà Sí-xá-kim-bạt-la<註 n="247"/>247, Ba-phù Ca-chiên<註 n="248"/>248, Tát-nhã Tỳ-da-lê-phất<註 n="249"/>249, Ni-kiền Tử<註 n="250"/>250. Những thầy đó đều có giáo pháp riêng, đức Sa-mơn Cù-đàm có biết hết hay khơng?” Phật đáp: “Thơi thơi khỏi nói, những giáo pháp ấy Ta đều rõ cả. Nay Ta sẽ vì ngươi nói đến pháp thâm diệu, ngươi hãy lắng nghe và khơn khéo suy nghiệm. Này Tu-bạt! Trong giáo pháp nào nếu khơng có tám Thánh đạo thời ở đó khơng có quả vị Sa-mơn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Trong giáo pháp nào có tám Thánh đạo thời ở đó có quả vị Sa-mơn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Nay trong giáo pháp này có tám Thánh đạo nên có quả vị Sa-mơn thứ nhất, quả vị Sa-mơn thứ hai, thứ ba, thứ tư. Trong các chúng ngoại đạo khơng có”. Rồi Thế Tơn đọc bài kệ: Ta hai mươi chín tuổi, Xuất gia tìm Chánh đạo. Từ khi Ta thành Phật, Đến nay năm mươi năm. Các hạnh giới, định, tuệ, Một mình Ta tư duy. Nay Ta giảng pháp yếu: Ngoại đạo khơng Sa-mơn. Phật bảo: “Này Tu-bạt! Nếu các Tỳ-kheo thảy đều có thể tự nhiếp tâm thời cõi thế gian này khơng trống vắng A-la-hán. Khi ấy Tu-bạt thưa với A-nan: “Những ai theo đức Sa-mơn Cù-đàm đã tu hành phạm hạnh, hiện đang tu hành và sẽ tu hành, thảy đều có lợi ích lớn. A-nan, ơng theo Như Lai tu hành phạm hạnh cũng được lợi ích lớn. Tơi nay được gặp mặt Như Lai, hỏi những điều nghi ngờ, cũng được lợi ích lớn. Nay Như Lai cũng đã ký biệt cho tơi như là ký biệt cho đệ tử.<註 n="251"/>251” Rồi ơng bạch Phật: “Tơi nay có thể ở trong pháp của Như Lai mà xuất gia thọ giới Cụ túc được chăng?” Phật nói: “Này Tu-bạt, nếu có dị học Phạm chí muốn tu hành ở trong giáo pháp của ta, phải được thử qua bốn tháng để xét coi hành vi họ, chí nguyện, tánh nết họ. Nếu thấy đủ các oai nghi khơng điều gì thiếu sót, mới cho phép thọ Cụ túc giới ở trong giáo pháp Ta. Tuy vậy, này Tu-bạt, cịn tùy thuộc hành vi của mỗi người.” Tu-bạt lại bạch Phật: “Dị học Phạm chí muốn tu hành ở trong Phật pháp, phải được thử qua bốn tháng để xét coi hành vi, chí nguyện, tánh nết. Nếu thấy đủ các oai nghi khơng điều gì thiếu sót, mới cho phép thọ Cụ túc giới ở trong Phật pháp. Nay tơi có thể phục dịch bốn năm ở trong Phật pháp, khi đủ các oai nghi khơng cịn gì thiếu sót mới xin thọ Cụ túc giới.” Phật dạy: “Này Tu-bạt, Ta đã nói trước rồi. Cịn tùy thuộc hành vi của mỗi người.” Ngay trong đêm đó, Tu-bạt được xuất gia thọ giới, thanh tịnh tu hành, ngay trong hiện tại, tự thân tác chứng: “Sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, chứng đắc như thật trí, khơng cịn tái sinh”. Lúc gần nửa đêm, ơng đã chứng quả A-la-hán, là đệ tử cuối cùng của Phật và diệt độ trước Phật. Bấy giờ, A-nan đứng hầu sau Phật, khơng tự ngăn nổi bi cảm nên vỗ giường than khóc, rằng: “Như Lai diệt độ sao mà vội thế! Thế Tơn diệt độ sao mà vội thế! Đại pháp chìm lặng làm sao nhanh quá! Con mắt thế gian diệt mất thì chúng sanh suy đọa lâu dài! Ta nhờ ơn Phật xuất gia nay chỉ mới được lên bậc học địa, tu nghiệp chưa thành mà Như Lai đã diệt độ!” Khi ấy Đức Thế Tơn dù biết mà cố hỏi: “Tỳ-kheo A-nan đâu rồi?” Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Tỳ-kheo A-nan đang ở sau Phật, khơng tự ngăn nổi bi cảm nên vỗ giường than khóc, rằng: ‘Như Lai diệt độ sao mà vội thếù! Đại pháp chìm lặng làm sao mau quá! Con mắt thế gian diệt mất thì chúng sanh suy đọa lâu dài! Ta nhờ ơn Phật xuất gia nay chỉ mới được lên bậc học địa, tu nghiệp chưa thành mà Như Lai đã diệt độ!’” Phật bảo A-nan: “Thơi thơi, A-nan, chớ có buồn phiền than khóc. Từ trước đến nay ngươi hầu hạ Ta với cử chỉ từ hịa, ngơn ngữ kính ái và tâm niệm hoan hỷ thủy chung như một, khơng sao xiết kể. Ấy là ngươi đã cúng dường Ta, cơng đức rất lớn. Nếu có sự cúng dường nào của chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-mơn và Bà-la-mơn cũng khơng sao sánh bằng được. Ngươi hãy siêng năng lên, ngày thành đạo của ngươi khơng lâu nữa!” Rồi Thế Tơn nói với các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo! Đệ tử hầu hạ chư Phật quá khứ cũng chỉ như A-nan. Đệ tử hầu hạ chư Phật vị lai cũng chỉ như A-nan. Nhưng đệ tử hầu hạ của chư Phật quá khứ, Phật có dạy mới biết. Cịn A-nan nay, Ta vừa đưa mắt là đã biết Như Lai cần muốn gì. Đó là điều hy hữu của A-nan, các ơng nhớ lấy. “Chuyển luân thánh vương có bốn pháp đặc biệt, kỳ lạ ít có. Những gì là bốn? Khi Thánh vương đi, người dân khắp cả nước đều đến nghinh đón; thấy vua rồi thì hoan hỷ, nghe lời dạy cũng hoan hỷ, chiêm ngưỡng uy nhan khơng hề biết chán. Khi Thánh vương đứng, khi Thánh vương ngồi và khi Thánh vương nằm, quốc dân đều đến bái yết, được thấy vua họ vui mừng, được nghe vua họ vui mừng, họ trơng ngắm dung nhan vua khơng biết chán. Đó là bốn pháp đặc biệt của Chuyển luân thánh vương. A-nan cũng có bốn pháp đặc biệt ấy. Khi A-nan lặng lẽ đi vào chúng Tỳ-kheo, chúng đều hoan hỷ; thuyết pháp cho chúng, ai nghe cũng hoan hỷ; nhìn ngắêm nghi dung, nghe lời thuyết pháp khơng hề biết chán. Khi A-nan vào chúng Tỳ-kheo-ni, khi A-nan vào chúng Ưu-bà-tắc, khi A-nan vào chúng Ưu-bà-di, nơi nào được trơng thấy A-nan cũng vui mừng, được nghe A-nan thuyết pháp cũng vui mừng; họ trơng nhìn nghi dung và lời A-nan thuyết pháp khơng biết chán. Đó là bốn pháp đặc biệt hy hữu của A-nan.” Bấy giờ, A-nan trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất, bạch Phật: “Thế Tơn, hiện nay các Sa-mơn khắp bốn phương, gồm những vị kỳ cựu đa văn, thấu hiểu kinh luật, đức hạnh thanh cao, thường đến bái yết Phật, nhân đó con được lễ kính và gần gũi hỏi han. Nhưng sau khi Phật diệt độ rồi, họ khơng đến nữa, con khơng cịn biết hỏi ai nữa, làm sao?” Phật bảo A-nan: “Ngươi chớ lo. Các con nhà dịng dõi<註 n="252"/>252 thường có bốn chỗ tưởng nhớ: ­“1. Tưởng tới chỗ Phật sanh, hoan hỷ muốn thấy, nhớ mãi khơng quên, sanh tâm luyến mộ; “2. Tưởng tới chỗ Phật thành đạo, hoan hỷ muốn thấy, nhớ mãi khơng quên, sanh tâm luyến mộ; “3. Tưởng tới chỗ Phật chuyển Pháp luân đầu tiên, hoan hỷ muốn thấy, nhớ mãi khơng quên, sanh tâm luyến mộ; “4. Tưởng tới chỗ Phật vào Niết-bàn, hoan hỷ muốn thấy, nhớ mãi khơng quên, sanh tâm luyến mộ. “Này A-nan, sau khi ta diệt độ, trai hay gái con nhà dịng dõi nhớ nghó khi Phật giáng sinh có những cơng đức như thế, khi Phật đắc đạo có những thần thơng như thế, khi Phật chuyển Pháp luân có những sự hóa độ như thế, khi Phật diệt độ có những lời di huấn như thế. Rồi mỗi người đi đến bốn chỗ đó kính lễ, dựng chùa tháp cúng dường. Khi chết đều được sanh lên cõi trời, chỉ trừ người đắc đạo. “Này A-nan, sau khi Ta diệt độ, có các người dịng họ Thích đến cầu đạo, hãy nhận cho họ xuất gia thọ giới Cụ túc chớ để lâu. Những người Phạm chí dị học đến cầu đạo cũng nhận cho xuất gia thọ giới Cụ túc, chớ có để thử qua bốn tháng. Vì những người kia vốn có học sẵn các luận thuyết khác, nếu để lâu thì các kiến giải trước của họ sẽ phát sanh lại. Bấy giờ A-nan quỳ xuống, chắp tay bạch Phật: “Tỳ-kheo Xiển-nộ<註 n="253"/>253 thơ lỗ, tự chuyên, sau khi Phật diệt độ, phải đối xử thế nào?” Phật dạy: “Sau khi Ta diệt độ, nếu Tỳ-kheo Xiển-nộ khơâng tuân oai nghi, khơng chịu nghe giáo huấn, các ơng hãy cùng xử trị theo phép phạm-đàn<註 n="254"/>254 là truyền hết các Tỳ-kheo khơng ai được cùng nói chuyện, cùng tới lui, chỉ bảo, giúp đỡ.” A-nan lại bạch Phật: “Sau khi Phật diệt độ, các hạng nữ nhân đến thọï giáo huấn<註 n="255"/>255 cần được đối xử như thế nào?” Phật dạy: “Đừng gặp họ.” “Giả sử phải gặp thì làm sao?” “Chớ cùng nói chuyện.” “Giả sử phải cùng nói chuyện thì làm sao?” “Hãy tự thu nhiếp tâm ý. “Này A-nan, ngươi chớ nghó sau khi Ta diệt độ, các ngươi mất chỗ nương tựa, khơng ai che chở. Chớ có quan niệm như vậy. Nên biết những Kinh và Giới mà Ta đã dạy từ khi thành Đạo đến nay là chỗ nương tựa, che chở các ngươi đó! “Này A-nan, từ nay trở đi, cho phép các Tỳ-kheo tùy nghi bỏ các giới cấm nhỏ nhặt. Kẻ trên, người dưới xưng hơ nhau phải thuận lễ độ<註 n="256"/>256. Đó là pháp kính thuận của người xuất gia.” Rồi Phật nói với các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, đối với Phật, Pháp và chúng Tăng, đối với Chánh đạo, các ơng có điều gì hồi nghi nữa khơng, nên kịp thời hỏi han để sau khỏi hối hận ăn năn. Kịp lúc Ta cịn, Ta sẽ giảng thuyết cho các ngươi. Các Tỳ-kheo đều im lặng. Phật lại nói: “Các ngươi, đối với Phật, Pháp và chúng Tăng, đối với Chánh đạo, các ơng có điều gì hồi nghi nữa khơng, nên kịp thời hỏi han để sau khỏi hối hận ăn năn.” Các Tỳ-kheo cũng vẫn lặng thinh. Phật lại nói: “Nếu các ngươi e ngại khơng dám hỏi, hãy mau nhờ các vị hiểu biết hỏi giúp cho; nên kịp thời để sau khỏi hối hận<註 n="257"/>257.” Các Tỳ-kheo cũng vẫn lặng thinh. A-nan bạch Phật: “Con tin rằng đại chúng ở đây ai nấy đều đã có lịng tin thanh tịnh, khơng một ai cịn hồi nghi về Phật, Pháp, Tăng và Chánh đạo nữa. Phật dạy: “A-nan, Ta cũng biết trong chúng này dù một vị Tỳ-kheo nhỏ nhất cũng thấy được dấu đạo<註 n="258"/>258, khơng cịn đọa vào đường ác, chỉ trải qua bảy lần sanh lại cõi Dục này để tu hành là dứt hết thống khổ.” Bấy giờ, Đức Thế Tơn liền thọ ký cho một ngàn hai trăm đệ tử đã được đạo quả. Rồi Thế Tơn khốc lên uất-đa-la-tăng<註 n="259"/>259 để lộ cánh tay sắc màu vàng rịng, bảo với các Tỳ-kheo: “Các ngươi hãy quán sát rằng, Như Lai mỗi khi xuất thế, như hoa Ưu-đàm-bát<註 n="260"/>260 lâu lắm mới hiện một lần.” Quan sát ý nghóa này, Thế Tơn đọc bài kệ: Tay phải màu tử kim, Phật hiện như Linh thụy. Hành sinh diệt vơ thường; Hiện diệt, chớ buơng lung. “Thế nên các Tỳ-kheo chớ có buơng lung. Ta chính nhờ khơng buơng lung mà được thành Chánh giác. Vơ lượng điều lành tồn nhờ khơng buơng lung mà có được. Hết thảy vạn vật đều vơ thường, đó là lời dạy cuối cùng của Như Lai.” Thế rồi, Thế Tơn nhập Sơ thiền; rồi từ Sơ thiền xuất, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền xuất, nhập Tam thiền; từ Tam thiền xuất, nhập Tứ thiền, từ Tứ thiền xuất, nhập Khơng xứ định; từ Khơng xứ định xuất, nhập Thức xứ; từ Thức xứ định xuất, nhập vào Vơ sở hữu xứ; từ Vơ sở hữu xứ định xuất, nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định; từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ định xuất, nhập Diệt thọ tưởng định. Lúc ấy A-nan hỏi A-na-luật<註 n="261"/>261: “Thế Tơn đã vào Niết-bàn rồi chăng?” A-na-luật nói: “Chưa, A-nan. Thế Tơn hiện đang ở trong định Diệt thọ tưởng<註 n="262"/>262. Tơi lúc trước được thân nghe từ Phật rằng, khi Phật từ Tứ thiền xuất mới vào Niết-bàn.” Rồi Thế Tơn từ Diệt thọ tưởng định xuất, nhập Phi tưởng phi phi tưởng, từ Phi tưởng phi phi tưởng xuất, nhập Vơ sở hữu định; từ Vơ sở hữu định xuất, nhập Thức xứ định; từ Thức xứ định xuất, nhập Khơng xứ định; từ Khơng xứ định xuất, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền xuất, nhập Tam thiền; từ Tam thiền xuất, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền xuất, nhập Sơ thiền; rồi lại từ Sơ thiền xuất lần lượt đến Tứ thiền, rồi từ Tứ thiền xuất, Phật vào Niết-bàn. Ngay lúc đó, cõi đất rung động, trời người kinh hồng. Những chỗ tối tăm mà mặt trăng, mặt trời khơng rọi đến được đều được chói sáng. Chúng sanh ở đó trơng thấy nhau và bảo nhau: ‘Người kia sinh ra người này! Người kia sinh ra người này!’ Ánh sáng ấy chiếu khắp, hơn cả ánh sáng của chư Thiên. Bấy giờ, trời Đao-lợi, ở giữa hư khơng, dùng hoa Văn-đa-la, hoa Ưu-bát-la, hoa Ba-đầu-ma, hoa Câu-ma-đầu, hoa Phân-đà-lî<註 n="263"/>263, tán rải trên thân Phật và chúng hội. Rồi lại lấy bột hương Chiên-đàn tán rải trên thân Phật và chúng hội. Phật diệt độ rồi, khi ấy Phạm thiên vương ở giữa hư khơng ngâm bài kệ rằng: Hết thảy lồi sinh linh<註 n="264"/>264, Đều phải bỏ thân mạng. Phật là Đấng Vơ Thượng, Thế gian khơng ai bằng; Như Lai đại thánh hùng, Có thần lực vơ úy, Đáng lẽ ở đời lâu, Nhưng nay diệt độ rồi! Trời Thích Đề-hồn Nhân đọc bài kệ: Ấm hành đều vơ thường Chỉ là pháp sinh diệt. Có sanh đều có chết, Phật tịch diệt là vui. Tỳ-sa-mơn Thiên vương đọc bài kệ: Đại tịng lâm cây phúc, Sa-la phước vơ thượng. Đấng Ứng Cúng Phước Điền, Diệt độ giữa rừng cây. Tỳ-kheo A-na-luật đọc bài kệ: Phật an trú vơ vi, Khơng cần thởù ra vào. Vốn từ Tịch diệt đến, Sao Thiêng lặn nơi đây. Tỳ-kheo Phạm-ma-na đọc bài kệ: Khơng sanh tâm giải mạn Tự ước, tu thượng tuệ. Khơng nhiễm, khơng bị nhiễm, Đấng Chí Tơn lìa ái. Tỳ-kheo A-nan đọc bài kệ: Trời người lịng kinh sợ, Tồn thân lơng dựng lên. Việc giáo hóa thành tựu, Thế Tơn vào Niết-bàn. Thần Kim-tỳ-la dâng lời tán Phật: Thế gian mất che chở, Chúng sanh trọn mù lịa Khơng cịn thấy Chánh Giác, Đấng Sư Tử giữa người. Mật Tích lực só đọc bài kệ: Các Thiên, Nhân, Ma, Phạm, Đời nay và đời sau, Khơng cịn thấy được Phật, Bậc Sư Tử giữa người. Phật mẫu Ma-da đọc bài kệ: Phật sanh vườn Lâm-tỳ; Đạo Ngài lưu bố rộng. Trở lại chỗ bản sinh, Ngài xả thân vơ thường. Thần Song thọ đọc bài kệ: Bao giờ tơi lại lấy Hoa sái mùa cúng dâng Đấng trọn đủ mười lực, Như Lai vào Niết-bàn. Thần rừng cây Sa-la đọc bài kệ: Chỗ này vui thượng diệu, Phật sanh trưởng tại đây. Ở đây chuyển xe Pháp, Lại ở đây Niết-bàn. Tứ thiên vương đọc bài kệ: Như Lai vơ thượng trí, Thường diễn lẽ vơ thường. Cởi trói chúng sanh khổ, Nay trọn vào Niết-bàn. Đao-lợi Thiên vương đọc bài kệ: Trải ức ngàn vạn kiếp, Mong thành đạo Vơ thượng. Cởi trói chúng sanh khổ, Nay trọn vào Niết-bàn. Diệm Thiên vương đọc bài kệ: Đây mảnh y tối hậu Dùng quấn thân Như Lai. Nay Phật diệt độ rồi, Y này để cúng ai. Đâu-suất-đà Thiên vương đọc bài kệ: Đây là thân cuối cùng, Ấm giới diệt ở đây. Khơng tâm tưởng lo mừng, Khơng tai hoạn già chết. Hóa tự tại Thiên vương đọc bài kệ: Đúng vào giữa đêm nay, Phật nằm nghiêng bên hữu. Ở tại rừng Sa-la, Thích Sư Tử diệt độ. Tha hóa tự tại Thiên vương đọc bài kệ: Thế gian mãi tối tăm, Trăng sao đều rơi rụng, Mây vơ thường che kín, Mặt trời Đại trí mờ. Các Tỳ-kheo đọc bài kệ: Thân này như bèo bọt, Mong manh có gì vui. Phật được Kim cang thân, Cịn bị vơ thường hoại. Thể Kim cang chư Phật, Cũng đều qui vơ thường; Tiêu tan như băng tuyết, Huống những người thế gian. Sau khi Phật diệt độ, các Tỳ-kheo buồn đau, vật vã, gieo mình xuống đất, lăn lộn kêu than khơng tự kềm chế nổi, nức nở mà nói rằng: “Như Lai diệt độ sao chóng thay! Thế Tơn diệt độ sao sớm thay! Đại pháp sao chìm lặn sớm thay! Quần sanh mãi suy sụp; con mắt của thế gian đã tắt.” Như thân cây lớn, trốc rễ, gãy cành. Lại như con rắn bị đứt khúc, bị trườn, uốn lượn, khơng biết trườn đi lối nào. Các Tỳ-kheo cũng vậy, buồn đau, vật vã, gieo mình xuống đất, lăn lộn kêu than khơng tự kềm chế nổi, nức nở mà nói rằng: ‘Như Lai diệt độ sao chóng thay! Thế Tơn diệt độ sao sớm thay! Đại pháp sao chìm lặn sớm thay! Quần sanh mãi suy sụp; con mắt của thế gian đã tắt.’ Bấy giờ, Trưởng lão A-na-luật khuyên: “Thơi các Tỳ-kheo, các ngài chớ buồn khóc, kẻo có hàng chư Thiên nhìn xuống ngó thấy họ chê trách.” Các Tỳ-kheo hỏi A-na-luật: “Trên ấy có bao nhiêu Thiên thần?” A-na-luật nói: “Đầy kín hư khơng. Kể sao hết. Thảy đều ở trong hư khơng, bồi hồi, bứt rứt, bước đi khập khiễng, gạt nước mắt mà than rằng: ‘Như Lai diệt độ sao chóng thay! Thế Tơn diệt độ sao sớm thay! Đại pháp sao chìm lặn sớm thay! Quần sanh mãi suy sụp; con mắt của thế gian đã tắt.’ Như thân cây lớn, trốc rễ, gãy cành. Lại như con rắn bị đứt khúc, bị trườn, uốn lượn, khơng biết trườn đi lối nào. Các chư Thiên cũng vậy, thảy đều ở trong hư khơng, bồi hồi, bứt rứt, bước đi khập khiễng, gạt nước mắt mà than rằng: ‘Như Lai diệt độ sao chóng thay! Thế Tơn diệt độ sao sớm thay! Đại pháp sao chìm lặn sớm thay! Quần sanh mãi suy sụp; con mắt của thế gian đã tắt.’ Các Tỳ-kheo suốt đêm đến sáng cùng nhau giảng luận pháp ngữ. Trưởng lão A-na-luật bảo A-nan đi vào thành báo tin cho dân chúng dịng Mạt-la biết Phật đã diệt độ, như họ có muốn cúng dường thế nào thì mau đến kịp thời. A-nan vâng lời, đứng dậy, lễ chân Phật, rồi dắt theo một Tỳ-kheo, vừa khóc vừa đi vào thành. Từ xa A-nan trơng thấy năm trăm người Mạt-la do có chút duyên sự đang nhóm tại một chỗ. Trơng thấy A-nan, họ đều đứng dậy nghinh tiếp, đảnh lễ và hỏi: “Tơn giả có việc gì đến đây sớm vậy?” A-nan đáp: “Vì lợi ích các ngài, nên mới sáng sớm tơi đã đến đây. Các ngài nên biết, Như Lai đêm qua đã diệt độ rồi. Các ngài muốn cúng dường thế nào thì nên đến kịp thời.” Chúng Mạt-la vừa nghe tin, ai nấy bi cảm buồn rơi lệ than kể: “Phật vào Niết-bàn sao vội quá! Con mắt của thế gian diệt mất sao mau quá!” A-nan khuyên: “Thơi thơi các ngài! Chớ có buồn khóc! Muốn cho pháp hữu vi khơng bị biến hoại, khơng thể nào đượïc. Đức Như Lai đã dạy hễ có sanh tức có chết, có hội hợp tức có chia ly, hết thảy ân ái đều vơ thường cả.” Chúng Mạt-la mới bàn nhau rằng: “Chúng ta hãy trở về nhà mang hương hoa, kỹ nhạc, đi mau đến rừng cây Song thọ để cúng dường kim thân suốt một ngày, rồi thỉnh kim thân Phật đặt lên một cái giường, khiến thanh niên Mạt-la nâng bốn góc giường khiêng đi; có tràng phan, lọng tàn, đốt hương, rải hoa, trỗi nhạc, cúng dường. Đưa vào thành cửa Đơng khắp các nẻo cho dân chúng cúng dường, rồi đưa ra cửa thành Tây, đến một đồi cao rộng mà trà-tỳ<註 n="265"/>265.” Bàn xong, ai về nhà nấy, sắm sửa các thứ hương hoa, kỹ nhạc, rồi đi đến rừng Song thọ, cúng dường xá-lợi. Suốt một ngày rồi, họ đặt xá-lợi Phật lên trên một cái giường. Chúng Mạt-la cùng đến khiêng. Nhưng dở khơng lên. Trưởng lão A-na-luật mới bảo: “Này các ngài chớ nhọc cơng khiêng! Hiện nay có các chư Thiên muốn đến khiêng giường.” Các người Mạt-la hỏi: “Ý chư Thiên thế nào mà lại muốn khiêng giường?” A-na-luật đáp: “Các người muốn mang hương hoa, kỹ nhạc cúng dường kim thân suốt một ngày, rồi thỉnh kim thân Phật đặt lên một cái giường, khiến thanh niên Mạt-la nâng bốn góc giường khiêng đi; có tràng phan, lọng tàn, đốt hương, rải hoa, trỗi nhạc cúng dường. Đưa vào thành cửa Đơng khắp các nẻo cho dân chúng cúng dường, rồi đưa ra thành cửa Tây, đến một đồi cao rộng mà trà-tỳ. Theo ý chư Thiên thì muốn lưu kim thân lại trong bảy ngày để kính lễ cúng dường bằng các thứ hoa hương, kỹ nhạc, sau mới thỉnh lên giường, cho các thanh niên Mạt-la nâng bốn góc rước vào thành cửa Đơng, đi khắp các nẻo để cho dân chúng cúng dường, rồi đưa ra thành cửa Bắc, qua sơng Hi-liên-thiền<註 n="266"/>266 đến chùa Thiên quan<註 n="267"/>267 mà trà-tỳ. Ý chư Thiên là như vậy nên khiến cho giường bất động.” Các Mạt-la nói: “Hay lắm! Xin tùy ý chư Thiên!” Chúng Mạt-la bảo nhau: “Chúng ta hãy vào thành trước, đi đến các ngõ đường, dọn bằng phẳng các con đường, quét tước, đốt hương, rồi trở lại đây để cúng dường kim thân trong bảy ngày.” Rồi các Mạt-la cùng vào thành, đi đến các ngõ đường, dọn bằng phẳng các con đường, quét tước, đốt hương, xong rồi ra khỏi thành, trở lại rừng Song thọ, dùng hương hoa, kỹ nhạc để cúng dường kim thân. Sau bảy ngày, vào lúc trời chiều, họ thỉnh kim thân Phật đặt lên một cái giường, khiến các thanh niên Mạt-la nâng bốn góc khiêng đi thong thả giữa đám đơng người hộ tống, có tràng phan, hương hoa, âm nhạc cúng dường. Từ khơng trung các vị trời Đao-lợi dùng hoa Văn-đà-la, hoa Ưu-đàm-bát-la, hoa Ba-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lî và bột hương Chiên-đàn nhà trời rải trên kim thân và tràn ngập các ngả đường, chư Thiên tấu nhạc, quỷ thần ca ngâm. Khi ấy các người Mạt-la nói với nhau: “Hãy gác qua nhạc lồi người. Xin tấu nhạc trời để cúng dường xá-lợi.” Rồi các người Mạt-la khiêng giường tiến tới dần, vào cửa thành phía Đơng, đến mỗi ngả đường thì dừng lại để cho dân chúng đốt hương, tán hoa, trỗi nhạc cúng dường. Lúc ấy có nàng Lộ-di dịng Mạt-la vốn dốc lịng tin Phật, cầm một đóa hoa vàng lớn như bánh xe cúng dường kim thân và một bà lão cất tiếng tán thán rằng: “Các Mạt-la này may được phúc lợi lớn. Như Lai cuối cùng diệt độ tại đây. Khắp nước nhân dân hớn hở cúng dường”. Họ cúng dường xong, đưa kim thân ra thành cửa Bắc, qua sơng Hi-liên-thiền đến chùa Thiên quan, đặt giường xuống đất rồi thưa với A-nan: “Chúng tơi bây giờ nên cúng dường cách nào nữa?” A-nan bảo: “Tơi trực tiếp nghe từ Phật, lãnh thọ lời Phật dạy rằng: muốn tẩn táng xá-lợi hãy làm như pháp tẩn táng Chuyển luân thánh vương.” Hỏi: “Phép tẩn táng Chuyển luân thánh vương là thế nào?” Đáp: “Về phép tẩn táng Chuyển luân thánh vương, trước hết lấy nước thơm tắm rửa thân thể, rồi lấy vải bơng mới quấn thân thể, rồi lấy năm trăm tấm vải lần lượt quấn vào, đặt thân vào kim quan. Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt kim quan trong một cái quách thứ hai lớn bằng sắt, bên ngồi là lớp quách bằng gỗ hương Chiên-đàn. Chất các thứ vải dày, hương thơm lên trên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong lượm lấy xá-lợi, dựng tháp treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trơng thấy tháp của pháp vương mà tưởng nhớ lại chánh hóa của vua đã làm lợi ích cho nhiều người. A-nan, ngươi muốn tẩn táng Ta, trước hết lấy nước thơm tắm rửa thân thể, rồi lấy vải bơng mới quấn thân thể, rồi lấy năm trăm tấm vải lần lượt quấn vào, đặt thân vào kim quan. Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt kim quan trong một cái quách thứ hai lớn bằng sắt, bên ngồi là lớp quách bằng gỗ hương Chiên-đàn. Chất các thứ vải dày, hương thơm lên trên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong lượm lấy xá-lợi, dựng tháp treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trơng thấy tháp của Phật mà tưởng nhớ lại đạo hóa của Pháp vương Như Lai, sống thì được phước lợi, chết thì sanh thiên. Trừ người đã đắc đạo”. Chúng Mạt-la bảo nhau: “Chúng ta về thành sắêm sửa các đồ tẩn táng, các thứ hương hoa, bơng gịn, quan quách, dầu thơm và vải lụa trắng.” Những người Mạt-la vào thành sắm sửa các thứ xong, trở lại chùa Thiên quan, dùng nước hương tắm rửa thân Phật, rồi lấy vải bơng mới bọc quanh, tiếp quấn năm trăm lớp vải trắng, rồi đặt vào trong kim quan đã tẩm dầu thơm, lại đặt kim quan vào một cái quách lớn bằng sắt, rồi một cái quách gỗ Chiên-đàn bọc ngồi. Xong, lấy củi thơm chất đầy lên trên. Tiếp đó, vị đại thần dịng Mạt-la tên Lộ-di, cầm cây đuốc lớn châm lửa vào giàn hỏa, song lửa khơng cháy. Các người Mạt-la trưởng lão cũng cầm lửa châm theo, song lửa vẫn khơng cháy. Trưởng lão A-na-luật bảo chúng Mạt-la: “Thơi các Ngài, chẳng phải sức các ngài đốt được đâu. Lửa khơng cháy là vì ý chư Thiên vậy.” Chúng Mạt-la hỏi: “Tại sao chư Thiên lại khiến cho lửa khơng cháy?” A-na-luật đáp: “Chư Thiên nhân thấy Đại Ca-diếp đang dẫn năm trăm đệ tử từ nước Ba-bàø đi về cho kịp được thấy Phật khi chưa trà-tỳ. Hiện Tơn giả đang ở nửa đường. Chư Thiên biết ý nên làm cho lửa khơng cháy.” Chúng Mạt-la nói: “Xin để toại ý ấy”. Lúc bấy giờ, Đại Ca-diếp dắt năm trăm đệ tử, từ nước Ba-bàø đi về vừa ngang giữa đường, thì gặp một người Ni-kiền Tử trong tay cầm một đóa hoa Văn-đà-la. Đại Ca-diếp đến gần hỏi: “Này bạn! Bạn từ đâu đến?” Ni-kiền Tử đáp: “Tơi từ thành Câu-thi đến”. Ca-diếp lại hỏi: “Bạn có biết thầy ta khơng?” “Có biết”. Lại hỏi: “Thầy ta hiện nay thế nào?” Đáp: “Đã diệt độ cách đây bảy ngày. Tơi từ đó đến, nên lượm được đóa thiên hoa này”. Ca-diếp nghe xong lịng rất buồn bã. Năm trăm Tỳ-kheo nghe Phật diệt độ, đều buồn khóc, quay cuồng kêu than khơng tự kềm chế nổi: “Như Lai diệt độ làm sao vội quá! Thế Tơn diệt độ sao vội quá! Đại pháp chìm lặng làm sao mau quá! Con mắt của thế gian đã diệt, chúng sanh suy đọa lâu dài! Ví như cây lớn bị trốc gốc, cành nhánh gãy đổ. Lại như rắn bị chặt đuơi, quay cuồng lăn lóc, khơng biết trườn đi đâu”. Nhưng trong chúng ấy có một Tỳ-kheo tên Bạt-nan-đà dịng họ Thích, ngăn các Tỳ-kheo rằng: “Các ngươi chớ lo buồn. Thế Tơn diệt độ thì chúng ta được tự do. Ơng già<註 n="268"/>268 ấy trước đây thường hay bảo chúng ta nên làm thế này, khơng nên làm thế này. Nhưng nay về sau thì tùy ý chúng ta làm.” Ca-diếp nghe rồi, lịng càng buồn, mới bảo các Tỳ-kheo sửa soạn y bát đi mau đến Song thọ trước khi chưa trà-tỳ, có thể trơng thấy Phật. Các Tỳ-kheo nghe Đại Ca-diếp nói xong đều đứng dậy tùy tùng Ca-diếp đến thành Câu-thi, qua sơng Hi-liên-thiền đến chùa Thiên quan, rồi đến chỗ A-nan. Hỏi han xong, đứng sang một bên, nói với A-nan: “Chúng tơi muốn được thấy Phật một lần chót khi chưa trà-tỳ, có thể được khơng?” A-nan đáp: “Tuy chưa trà-tỳ nhưng khó mà thấy được, vì thân Phật đã được tắm nước hương, quấn một lớp kiếp-ba ngồi bọc năm trăm lớp vải trắng, đặt trong một kim quan. Kim quan lại đặt trong một cái quách bằng sắt, ngồi hết có bọc một cái quách bằng gỗ Chiên-đàn, nên khó thấy được.” Ca-diếp năn nỉ xin tới ba lần, A-nan vẫn trả lời như cũ, là khó mà thấy Phật được nữa! Ngài Đại Ca-diếp mới hướng mặt về hỏa đàn để chiêm bái, thì ngay khi ấy bỗng nhiên từ trong ba lớp quan quách, Phật đưa hai bàn chân ra ngồi. Chân có màu sắc khác lạ. Ca-diếp thấy vậy, ngạc nhiên hỏi A-nan: “Thân Phật kim sắc, sao chân ngài lại có sắc khác?” A-nan đáp: “Trước đây có một bà già, tiếc thương Đức Như Lai, tiến tới lấy tay vỗ vào chân Phật, để rơi nước mắt trên chân Ngài cho nên có màu sắc khác như thế”. Nghe xong, Ca-diếp lại khơng vui, liền hướng tới hỏa đàn đảnh lễ kim thân Phật. Bốn bộ chúng và chư Thiên trên khơng trung cũng đồng thời tác lễ. Chân Phật bỗng khơng hiện nữa. Ngài Đại Ca-diếp vừa đi quanh hỏa đàn ba vịng vừa tán dương rằng: Con nay cúi đầu lễ Đức Đạo Sư Vơ Thượng, Thánh trí khơng nghó lường, Thánh trí cao tột bậc. Đức Sa-mơn tối cao, Tuyệt đối khơng tỳ uế, Thanh tịnh khơng nhiễm ái, Tơn quý giữa nhân thiên. Con nay cúi đầu lễ Đấng Đại Hùng bậc nhất, Khổ hạnh chẳng ai bằng, Lìa bỏ để độ sanh. Kính lễ Đấng Thế Tơn Khơng nhiễm ơ trần cấu; Tham, sân, si dứt sạch; Vui trong hạnh khơng tịch. Kính lễ Đấng Thế Tơn, Khơng hai, khơng thể sánh. Khéo giải thốt thế gian, Chí Tơn giữa trời người. Kính lễ An Ổn Trí, Ngộ Tứ đế, tịch tịnh, Vơ thượng giữa Sa-mơn, Khiến bỏ tà về chánh. Kính lễ đạo trạm nhiên, Thế Tơn nơi tịch diệt. Khơng nhiệt não tì uế, Thân tâm thường vắng lặng. Kính lễ Đấng Vơ Nhiễm Bậc trừ hết trần cấu, Tuệ nhãn khơng hạn lượng, Cam lộ tiếng oai vang. Kính lễ Đấng Vơ Đẳng, Hy hữu khó nghó nghì, Tiếng nói như sư tử, Ở rừng khơng khiếp sợ. Hàng ma, vượt bốn tánh; Cho nên con kính lễ. Đại Ca-diếp oai đức lớn lao và đủ bốn biện tài, vừa đọc xong bài kệ trên, thì hỏa đàn khơng đốt mà tự nhiên bừng cháy. Chúng Mạt-la bảo nhau: “Ngọn lửa cháy mạnh quá khó ngăn, e cháy tiêu hết xá-lợi! Hãy tìm đâu lấy nước dập tắt.” Lúc đó có vị thần cây Song thọ đang đứng bên giàn hỏa, vốn dốc lịng tin Phật, dùng thần lực làm tắt ngọn lửa. Chúng Mạt-la lại bảo nhau: “Mười hai do-tuần chung quanh thành Câu-thi này có bao nhiêu hoa thơm hái hết, đem về dâng cúng xá-lợi”. Rồi họ đi ra hai bên thành tìm các thứ hoa thơm đem về cúng dường xá-lợi. Lúc đó dân Mạt-la nước Ba-bà nghe Phật diệt độ tại Song thọ, tự nghó: “Ta nên đến đó cầu lấy phần xá-lợi về dựng tháp cúng dường tại trong nước”. Các người Mạt-la nước Ba-bàø liền hạ lệnh đem bốn thứ binh là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, đi đến thành Câu-thi và cử sứ giả nói: “Chúng tơi nghe Đức Phật đã diệt độ tại đây. Phật cũng là thầy chúng tơi. Vì lịng kính mộ Ngài, chúng tơi đến xin phần xá-lợi về nước dựng tháp cúng dường.” Vua Câu-thi đáp: “Thật vậy, đúng như ngài nói. Nhưng vì Đức Thế Tơn đã giáng lâm và diệt độ tại đây. Nhân dân trong nước tơi tự lo cúng dường. Phiền các ngài từ xa đến cầu xá-lợi. Nhưng điều đó hẳn là khơng được!” Đồng thời dân Bạt-ly nước Giá-la-phả<註 n="269"/>269, dân Câu-lî nước La-ma-già<註 n="270"/>270, dân chúng dịng Bà-la-mơn nước Tỳ-lưu-đề<註 n="271"/>271, dân chúng dịng họ Thích nước Ca-duy-la-vệ, dân chúng dịng Lệ-xa nước Tỳ-xá-ly và vua A-xà-thếá nước Ma-kiệt, nghe Đức Như Lai diệt độ tại cây Song thọï ở thành Câu-thi, đều tự nghó: “Ta nay nên đến đó chia phần xá-lợi”. A-xà-thế và các vua kia mới hạ lệnh trong nước đem bốn thứ binh mã tiến qua sơng Hằng. Vua A-xà-thế sai Bà-la-mơn Hương Tánh<註 n="272"/>272: “Ngươi nhân danh ta vào thành Câu-thi hỏi thăm vua Mạt-la, đời sống thường nhật có thoải mái chăng, lui tới có khỏe mạnh chăng và nói ta với quý quốc xưa nay vốn tơn kính nhau, láng giềng hịa nghóa, chưa có xảy ra điều chi tranh tụng. Nay ta nghe Như Lai diệt độ tại quý quốc. Đối với Đức Thế Tơn, lịng ta thật hết sức tơn kính, nên chẳng quản xa xơi, đến thỉnh phần di cốt, đem về nước dựng tháp cúng dường. Nếu nhận lời, ta sẽ chia bớt tài bảo trong nước ta cho.” Bà-la-mơn Hương Tánh vâng lệnh, đến thành Câu-thi nói với các người Mạt-la: “Đại vương nước Ma-kiệt có lời thăm hỏi vơ vàn. Các ngài đi đứng có nhẹ nhàng khơng? Bước đi có khoẻ mạnh khơng? Và nhắn rằng, ‘Ta với quý quốc xưa nay vốn tơn kính nhau, láng giềng hịa nghóa, chưa có xảy ra điều chi tranh tụng. Nay ta nghe Như Lai diệt độ tại quý quốc. Đối với Đức Thế Tơn, lịng ta thật hết sức tơn kính, nên chẳng quản xa xơi, đến thỉnh phần di cốt, đem về nước dựng tháp cúng dường. Nếu nhận lời, ta sẽ chia bớt tài bảo trong nước ta cho’.” Các người Mạt-la trả lời: “Quả như vậy! Quả như lời ơng nói. Nhưng vì Đức Thế Tơn đã giáng lâm và diệt độ tại đây, thì nhân dân trong nước tơi tự lo cúng dường. Phiền các ngài từ xa đến cầu xin xá-lợi. Nhưng điều đó hẳn khơng thể được.” Các quốc vương liền triệu tập quần thần lập nghị, tụng cáo rằng: Chúng ta hịa nghị, Xa đến cúi đầu, Khiêm tốn yêu cầu. Như khơng chấp nhận; Tứ binh đã sẵn. Khơng tiếc thân mạng. Dùng nghóa khơng được; Tất phải dùng lực. Vua Câu-thi cũng triệu tập quần thần lập nghị trả lời: Các người xa nhọc, Khuất nhục cầu xin Như Lai di thể; Nhưng khơng cho được. Kia muốn dùng binh, Ta đây cũng sẵn. Chống trả đến cùng, Chưa từng biết sợ. Bấy giờ, Bà-la-mơn Hương Tánh đứng ra hiểu dụ mọi người: “Chư Hiền lãnh thụ giáo huấn của Phật đã lâu, miêïng tụng pháp ngơn, tâm khốc nhân hóa, thường mong cho chúng sanh thảy được an lành, nay há lẽ vì giành xá-lợi của Phật mà trở nên tàn hại nhau sao? Di thể Như Lai nếu muốn có lợi ích rộng rãi, thì xá-lợi hiện tại nên chia ra nhiều phần.” Chúng đều khen phải. Họ lại bàn nghị nên nhờ ai đủ sức chia giúp. Mọi người đều nói Bà-la-mơn Hương Tánh là người nhân trí quân bình, có thể chia được. Các quốc vương bèn sai Hương Tánh: “Ngươi hãy vì chúng ta mà chia xá-lợi làm tám phần bằng nhau.” Được lệnh của các quốc vương, Hương Tánh đến ngay chỗ xá-lợi, cúi đầu đảnh lễ, xong từ từ trước hết nhặt lấy răng trên của Phật để riêng một nơi. Rồi bảo sứ giả mang cái răng trên của Phật đến chỗ vua A-xà-thế rằng: “Ngươi nhân danh ta tâu lên vua rằng: ‘Đại vương, đời sống thường nhật có thoải mái chăng? Bước đi có khỏe khơng? Xá-lợi chưa đến chắc Đại vương trơng lắm? Nay tơi giao sứ giả răng trên của Như Lai để kịp cúng dường cho thỏa lịng Đại vương trơng ngóng. Sáng mai, lúc sao mai mọc, xá-lợi chia xong, tơi sẽ đích thân dâng đến’.” Khi ấy, sứ giả vâng lời, đi đến chỗ vua A-xà-thếá, tâu rằng: “Bà-la-mơn Hương Tánh kính lời thăm hỏi vơ vàn: ‘Đại vương, đời sống thườøng nhật có thoải mái khơng? Bước đi có khỏe khơng. Xá-lợi chưa đến chắc Đại vương trơng lắm? Nay tơi giao sứ giả răng trên của Như Lai để kịp cúng dường cho thỏa lịng Đại vương trơng ngóng. Sáng mai, lúc sao mai mọc, xá-lợi chia xong, tơi sẽ đích thân dâng đến’.” Tiếp đó Hương Tánh lấy một bình dung lượng chừng một thạch, rồi chia đều xá-lợi ra làm tám phần, xong, ơng nói với mọi người: “Các ngài bàn bạc cho tơi xin cái bình đó để dựng tháp thờ tại nhà riêng.” Mọi người đều nói: “Trí tuệ thay. Như thế là thích hợp.” Và họ đồng ý cho. Lúc đó, có người thơn Tất-bát<註 n="273"/>273 cũng đến xin phần tro cịn lại để dựng tháp cúng dường. Mọi người cũng bằng lịng. Sau khi người nước Câu-thi được xá-lợi liền dựng tháp cúng dường. Các nước Ba-bà, Giá-la, La-ma-già, Tỳ-lưu-đề, Ca-duy-la-vệ, Tỳ-xá-ly, Ma-kiệt sau khi được xá-lợi đều đem về nước dựng tháp cúng dường. Bà-la-mơn Hương Tánh đem cái bình dùng chia xá-lợi về nhà dựng tháp cúng dường. Dân chúng thơn Tất-bát đem phần tro cịn lại về dựng tháp cúng dường. Như vậy, xá-lợi Phật được chia thờ ở tám tháp, tháp thứ chín là cái bình, tháp thứ mười là tháp tro và tháp thứ mười một là tháp tóc, thờ tóc Phật khi cịn tại thế. Phật sanh giờ nào? Thành đạo giờ nào? Diệt độ thời nào? Sanh khi sao Phất mọc. Xuất gia khi sao Phất mọc. Thành đạo khi sao Phất mọc. Diệt độ khi sao Phất mọc.<註 n="274"/>274 Lưỡng Túc Tơn sanh thế nào? Xuất gia tu khổ thế nào? Đắc Tối thượng đạo thế nào? Nhập Niết-bàn thành thế nào? Mồng tám Như Lai sanh. Mồng tám Phật xuất gia. Mồng tám thành Bồ-đề. Mồng tám vào diệt độ. Sao Phất mọc, Thế Tơn sanh. Sao Phất mọc, Phật xuất gia. Sao Phất mọc, thành Chánh giác. Sao Phất mọc, nhập Niết-bàn. Mồng tám sanh Lưỡng Túc Tơn. Mồng tám vào rừng tu khổ. Mồng tám thành Tối thượng đạo. Mồng tám vào thành Niết-bàn. Tháng hai Như Lai sanh. Tháng hai Phật xuất gia. Tháng hai thành Bồ-đề. Tháng hai vào diệt độ. Tháng hai sanh Lưỡng Túc Tơn. Tháng hai vào rừng tu khổ. Tháng hai thành đạo Tối thượng. Tháng hai vào thành Niết-bàn. Sa-la hoa nở rộ, Đủ màu ánh chói nhau, Tại chỗ bản sanh ấy, Như Lai nhập Niết-bàn, Đức Đại Từ Niết-bàn Nhiều người xưng tán lễ. Vượt qua các sợ hãi Quyết định nhập Niết-bàn. <詞 id="485140816">3. KINH ĐIỂN TƠN<註 n="275"/>1 Tơi nghe như vầy. Một thời, Phật ở núi Kỳ-xà-quật thành La-duyệt-kỳ cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ có nhạc thần là Ban-giá-dực<註 n="276"/>2, trong lúc đêm thanh vắng khơng người, phóng ánh sáng rọi sáng núi Kỳ-xà-quật, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ chân Phật rồi đứng sang một bên, bạch Đức Thế Tơn rằng: “Đêm qua<註 n="277"/>3 Phạm thiên vương đến cõi trời Đao-lợi bàn nghị với Đế Thích. Con ở đó chính mình được nghe, nay có thể thuật lại Đức Thế Tơn nghe chăng?” Phật đáp: “Ngươi muốn nói thì nói.” Ban-giá-dực nói: “Một thời, chư Thiên Đao-lợi<註 n="278"/>4 nhóm ở Pháp đường<註 n="279"/>5 để luận nghị. Lúc đó bốn Thiên vương ngồi bốn phía theo phương hướng mình. Đề-đế-lại-tra<註 n="280"/>6 Thiên vương ngồi ở phía Đơng, mặt day về hướng Tây. Đế Thích ngồi trước mặt. Tỳ-lâu-lặc Thiên vương ngồi ở phía Nam, mặt day về hướng Bắc; Đế Thích ngồi trước mặt. Tỳ-lâu-bác-xoa Thiên vương ngồi ở phía Tây, mặt day về hướng Đơng; Đế Thích ngồi trước mặt. Tỳ-sa-mơn Thiên vương ngồi phía Bắc, mặt day về hướng Nam; Đế Thích ngồi trước mặt. Sau khi các Thiên vương ngồi xong, con mới ngồi. Lại cịn có các Đại Thiên thần khác nữa, tồn là những người đã từng theo Phật tu hành phạm hạnh, khi mệnh chung ở đây, được sanh lên cõi trời Đao-lợi, khiến cho chư Thiên ở đó thêm được năm thứ phước: tuổi thọ cõi trời, sắc đẹp cõi trời, danh xưng cõi trời, âm nhạc cõi trời và oai đức trời. Bấy giờ chư Thiên Đao-lợi vui mừng phấn khởi nói rằng: “Mong chúng chư Thiên tăng gia, chúng A-tu-la giảm thiểu.” “Lúc ấy, Thích Đề-hồn Nhân<註 n="281"/>7 biết chư Thiên có điều vui mừng, bèn vì chư Thiên Đao-lợi mà làm bài tụng rằng: Chúng chư Thiên Đao-lợi, Cùng Đế Thích hoan lạc, Cung kính lễ Như Lai, Đấng Pháp Vương tối thượng. Chư Thiên thọ phước báo, Thọ, sắc, danh, nhạc, uy. Theo Phật tu phạm hạnh, Nên sanh vào nơi đây. Lại có các thiên nhân, Ánh màu sáng chói lọi. Đệ tử trí tuệ Phật, Sanh đây càng trỗi vượt. Đao-lợi và Nhân-đề, Nghó thế mà sung sướng. Cung kính lễ Như Lai, Đấng Pháp Vương tối thượng. Chư Thiên Đao-lợi sau khi nghe bài kệ ấy, lại càng vui mừng khơng thể tự chế: “Mong chúng chư Thiên gia tăng, chúng A-tu-la giảm thiểu.” Thích Đề-hồn Nhân thấy chư Thiên Đao-lợi vui mừng hớn hở, bèn bảo họ rằng: “Chư Hiền có muốn nghe Tám pháp vơ đẳng về Như Lai<註 n="282"/>8 khơng?” Chư Thiên đáp: “Chúng tơi muốn nghe.” Đế Thích nói: “Hãy lắng nghe, hãy khéo suy nghó. Này chư Hiền, Đức Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu. Ta khơng thấy có ai trong quá khứ, vị lai, hiện tại có đủ mười đức hiệu Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác như Phật. “Pháp Phật vi diệu, được khéo giảng thuyết, được người trí thật hành. Ta khơng thấy có ai trong quá khứ, vị lai, hiện tại có giáo pháp vi diệu như Phật. “Phật do pháp ấy mà tự giác ngộ, thơng đạt vơ ngại, trú trong an lạc<註 n="283"/>9. Ta khơng thấy có ai trong quá khứ, vị lai, hiện tại có thể ở nơi pháp ấy mà tự giác ngộ, thơng đạt vơ ngại, tự tại an vui như Phật. “Chư Hiền! Phật do pháp ấy mà tự giác ngộ rồi cịn có thể khai thị con đường dẫn đến Niết-bàn, thân cận<註 n="284"/>10, dần dần đến chỗ nhập vào nơi tịch diệt. Ví như nước sơng Hằng và nước sơng Diệm-ma<註 n="285"/>11, cả hai dịng sơng đều chảy vào biển cả. Phật cũng vậy. Có thể khai thị con đường dẫn đến Niết-bàn, thân cận, dần dần đến chỗ nhập vào nơi tịch diệt. Ta khơng thấy có ai trong quá khứ, vị lai, hiện tại có thể khai thị con đường dẫn đến Niết-bàn được như Phật. “Chư Hiền! Như Lai thành tựu quyến thuộc, gồm những người có trí tuệ, Sát-lî, Bà-la-mơn, Cư só, Sa-mơn. Ta khơng thấy có ai trong quá khứ, vị lai, hiện tại có được quyến thuộc như Phật. “Chư Hiền! Như Lai thành tựu đại chúng. Đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Ta khơng thấy ai trong quá khứ, vị lai, hiện tại thành tựu đại chúng như Phật. “Chư Hiền! Ngơn và hành của Như Lai tương ưng. Nói đúng như làm, làm đúng như nói, thành tựu pháp và tùy pháp. Ta khơng thấy có ai trong quá khứ, vị lai, hiện tại mà ngơn hành tương ưng, pháp pháp thành tựu như Phật. “Chư Hiền! Như Lai vì lợi ích mọi người, vì an lạc mọi người; với lịng từ mẫn, Ngài làm lợi ích cho chư Thiên và nhân loại. Ta khơng thấy có ai trong quá khứ, vị lai, hiện tại vì lợi ích mọi người, vì an lạc mọi người như Phật. “Chư Hiền, đó là Tám pháp vơ đẳng về Như Lai.” Khi ấy có vị Đao-lợi nói: “Giả sử thế gian được tám Đức Phật ra đời một lượt, thời sẽ làm tăng nhiều chư Thiên mà giảm bớt chúng A-tu-la.” Vị trời khác nói: “Đừng nói chi tám Đức Phật, dẫu cho có bảy Phật, sáu Phật đến hai Đức Phật ra đời, cũng làm cho thêm nhiều chúng chư Thiên mà giảm bớt chúng A-tu-la.” Thích Đề-hồn Nhân liền nói với trời Đao-lợi: “Ta được nghe từ Phật, trực tiếp lãnh giáo từ Phật, thì khơng bao giờ có thể có hai Đức Phật ra đời một lần. Nhưng nếu một Đức Như Lai mà Ngài ở đời lâu dài, vì thương mọi người, vì ích lợi cho nhiều người, vì an lạc cho chư Thiên và nhân loại, thời cũng có thể tăng nhiều chúng chư Thiên mà giảm bớt chúng A-tu-la vậy.” Rồi Ban-giá-dực bạch Phật: “Bạch Thế Tơn, chư Thiên Đao-lợi sở dó tập họp tại Pháp giảng đường, ấy là để bàn luận, tư duy, thương lượng, xem xét giáo lệnh được ban ra. Rồi trao cho Tứ thiên vương. Tứ thiên vương sau khi thọ lãnh, mỗi vị ngồi đúng theo chỗ của mình. Khơng bao lâu, có ánh sáng lớn kỳ lạ chiếu sáng bốn phương. Chư Thiên Đao-lợi nhìn thấy ánh sáng ấy thảy đều kinh sợ: ‘Nay ánh sáng lạ này, sắp có điều gì quái lạ chăng?’ Các Đại Thiên thần có oai đức cũng đều kinh sợ: ‘Nay ánh sáng lạ này, sắp báo điều gì quái lạ chăng?’ “Khi ấy, Đại phạm vương tức thì hóa làm đồng tử đầu có năm chỏm<註 n="286"/>12, đứng giữa hư khơng, bên trên đại chúng, gương mặt xinh đẹp vượt hẳn đám đơng, thân màu vàng tía, che mờ ánh sáng chư Thiên. Chư Thiên Đao-lợi khơng đứng dậy nghinh đón, cũng khơng cung kính, khơng mời ngồi. Khi Phạm đồng tử ngồi vào chỗ ngồi của vị trời nào thì vị ấy rất hoan hỷ. Ví như vua Quán đảnh thuộc dịng Sát-lî, khi làm lễ đăng quang, khi ấy vua rất hoan hỷ phấn khởi. “Ngồi chưa lâu, Đại phạm lại tự biến thành hình tượng đồng tử đầu có năm chỏm, ngồi giữa hư khơng, bên trên đại chúng, như một lực só ngồi trên chỗ ngồi vững chắc, vịi vọi bất động và làm bài tụng: Chúng chư Thiên Đao-lợi, Cùng Đế Thích hoan lạc, Cung kính lễ Như Lai, Đấng Pháp Vương tối thượng. Chư Thiên thọ phước báo: Thọ, sắc, danh, nhạc, uy. Theo Phật tu phạm hạnh, Nên sanh vào nơi đây. Lại có các thiên nhân, Ánh màu sáng chói lọi. Đệ tử trí tuệ Phật, Sanh đây càng trỗi vượt. Đao-lợi và Nhân-đề, Nghó thế mà sung sướng. Cung kính lễ Như Lai, Đấng Pháp Vương tối thượng. “Rồi thì, chư Thiên Đao-lợi nói với Đồng tử: ‘Chúng tơi đã nghe Thiên Đế Thích tán thán Tám pháp vơ đẳng về Như Lai, thảy đều hoan hỷ phấn khởi khơng thể tự chế.’ Phạm đồng tử bèn nói với chư Thiên: ‘Tám pháp vơ đẳng về Như Lai là những gì? Ta cũng muốn nghe.’ Thiên Đế Thích bèn nói cho Đồng tử nghe Tám pháp vơ đẳng về Như Lai. Chư Thiên Đao-lợi nghe lần nữa, bội phần hoan hỷ phấn khởi khơng kể xiết: ‘Mong chúng chư Thiên tăng thịnh, chúng A-tu-la giảm thiểu.’ “Khi ấy Đồng tử thấy chư Thiên hoan hỷ lại càng phấn khởi, bèn nói với chư Thiên Đao-lợi rằng: ‘Các ngươi muốn nghe Một pháp vơ đẳng khơng?’ Đao-lợi thiên đáp: ‘Hay lắm, chúng tơi muốn nghe.’ Đồng tử nói: ‘Hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho’.” ‘Này chư Thiên Đao-lợi! Đức Như Lai xưa kia, lúc Ngài cịn làm Bồ-tát, sanh bất cứ chỗ nào thảy đều thơng minh túc trí. ‘Này chư Hiền, vào thời quá khứ xa xưa, có vị vua tên Địa Chủ, vua có một thái tử tên Từ Bi. Đại thần của vua tên Điển Tơn và con đại thần tên Diệm Man. Thái tử Từ Bi có bạn và bạn này thường kết giao với sáu vị đại thần dịng Sát-lî khác<註 n="287"/>13. ‘Đại vương Địa chủ mỗi khi muốn vào thâm cung du hý, đem quốc sự ủy thác lại đại thần Điển Tơn. Rồi sau đó mới vào cung hát xướng, hoan lạc với ngũ dục. ‘Đại thần Điển Tơn khi muốn xử lý quốc sự thì trước đem việc đó hỏi con, sau mới quyết định. Hoặc có phân xử điều gì cũng nghe theo ý con. Sau bỗng nhiên đại thần Điển Tơn mệnh chung. Vua Địa Chủ nghe tin, buồn thương thảm thiết, đấm ngực mà than rằng: ‘Quái thay! Sao vơ phúc! Quốc gia mất người lương bật.’ Thái tử Từ Bi thầm nghó: ‘Vua vì mất Điển Tơn mà sinh ưu khổ. Ta hãy đến can vua, chớ nên vì cái tang ấy mà buồn khổ. Vì sao? Vì đại thần Điển Tơn hiện có con tên là Diệm Man cịn thơng minh túc trí hơn cha. Nay vua có thể triệu vào để giao xử lý quốc sự’. ‘Rồi thái tử Từ Bi liền đến vua tâu bày ý kiến. Vua nghe lời, cho triệu Diệm Man đến bảo rằng: ‘Nay ta bổ sung ngươi vào chức vị của cha ngươi, trao cho ngươi ấn tướng.’ Diệm Man lãnh ấn tướng xong, khi vua muốn vào thâm cung thì đem quốc sự giao cho Diệm Man. ‘Diệm Man vốn đã biết rõ việc trị lý. Chẳng những những điều trước kia cha làm Diệm Man biết rõ, mà điều trước kia cha khơng thể làm Diệm Man cũng biết rõ. Về sau danh Diệm Man truyền khắp quốc nội, nên thiên hạ đều tơn xưng là Đại Điển Tơn. ‘Đại Điển Tơn nghó: ‘Nay vua Địa Chủ, tuổi đã già yếu, sống chẳng bao lâu. Nếu bây giờ thái tử nối ngơi cũng chưa khó lắm. Có lẽ ta nên đến nói với sáu đại thần Sát-lî: ‘Nay vua Địa Chủ, tuổi đã già yếu, sống chẳng bao lâu. Nếu bây giờ thái tử nối ngơi cũng chưa khó lắm. Nhưng các ơng cũng nên phong riêng vương thổ. Cái ngày ở ngơi cũng đừng quên nhau vậy.’ ‘Thế rồi Đại Điển Tơn đi đến sáu đại thần Sát-lî kia, nói rằng: ‘Này các ơng nên biết, nay vua Địa Chủ tuổi đã già yếu, chẳng cịn sống bao lâu, nếu tơn thái tử lên ngơi cũng khơng khó lắm. Các ơng nên đến tỏ ý này với thái tử rằng: ‘Chúng tơi với ngài, biết nhau từ nhỏ. Ngài khổ chúng tơi khổ, ngài vui chúng tơi vui, nay vua đã già yếu, chẳng cịn sống bao lâu, vậy thái tử muốn lên nối ngơi vua khơng khó. Giả sử ngài lên ngơi, xin ngài hãy phong đất cho chúng tơi.’ ‘Rồi sáu đại thần Sát-lî liền đến tỏ với thái tử. Thái tử trả lời: ‘Giả sử ta lên ngơi, chia đất phong quốc, ta cịn phong cho ai khác hơn?’ Khơng bao lâu, vua băng hà. Đại thần trong nước đến bái yết thái tử, tơn lên kế vị. Lên ngơi xong, tân vương thầm nghó: ‘Nay lập chức Tể tướng nên chuẩn theo Tiên vương. Nhưng người nào xứng đáng để cử chức đó? Hẳn phải là Đại Điển Tơn mới được.’ Vua Từ Bi liền triệu Đại Điển Tơn đến bảo: ‘Nay ta cử ngươi lên chức vị Tể tướng và trao ấn tín cho. Ngươi hãy chuyên cần tổng lý quốc sự.’ Đại Điển Tơn vâng lệnh, lãnh ấn. ‘Mỗi khi vua lui vào cung, thì bao nhiêu quốc sự đều phó thác cả cho Đại Điển Tơn. Đại Điển Tơn thầm nghó: ‘Ta nay nên đến sáu vị Sát-lî để hỏi thử xem họ có nhớ lời trước kia khơng.’ Bèn đi đến nói với sáu đại thần Sát-lî: ‘Các ngài có nhớ lời đã nói khi trước khơng? Nay thái tử đã lên ngơi vua, ở kín trong thâm cung, vui thú ngũ dục. Các ngài nay nên đến tâu hỏi vua: ‘Vua ở ngơi trời, vui thú ngũ dục, vậy cịn có nhớ lời nói trước kia chăng?’’ ‘Sáu vị Sát-lî nghe lời ấy xong liền đến chỗ vua, tâu: ‘Vua ở ngơi trời, vui thú ngũ dục, vậy cịn có nhớ lời nói trước kia chăng? Rằng: Cắt đất phong ấp, ai xứng đáng ở đóù?’ Vua đáp: ‘Khơng quên! Xưa ta có nói, chia đất phong ấp, phi các khanh cịn ai được.’ ‘Tiếp đó vua thầm nghó: ‘Cõi đất Diêm-phù-đề này trong rộng ngồi hẹp<註 n="288"/>14. Người nào có khả năng phân nó làm bảy phần?’ Rồi lại nghó: ‘Hẳn phải là Đại Điển Tơn mới làm được việc này.’ Vua liền triệu Đại Điển Tơn đến nói rằng: ‘Ngươi hãy chia cõi đất Diêm-phù-đề này ra làm bảy phần.’ Khi được lệnh, Đại Điển Tơn liền phân bảy phần. Thành, thơn ấp, quận quốc do vua cai trị thảy làm một phần. Sáu nước Sát-lî đại thần là được chia cho mỗi bộ phận. Vua lấy làm hài lịng nói: ‘Nguyện vọng của ta đã thỏa. Sáu đại thần Sát-lî cũng sung sướng cho nguyện vọng mình đã thỏa. Cơng việc này thành được là nhờ Đại Điển Tơn vậy.’ ‘Sáu vua dịng Sát-lî lại tự nghó: ‘Nước ta mới lập, phải cần có vị phụ tướng. Nhưng biết ai có thể đảm đương được? Nếu có ai như Đại Điển Tơn, ta sẽ khiến kiêm thơng lãnh quốc sự.’ ‘Sáu vua Sát-lî đều mời Đại Điển Tơn đến bảo: ‘Nước ta cần phụ tướng. Khanh hãy vì ta kiêm thơng, lãnh quốc sự.’ Cả sáu nước đều trao tướng ấn cho Đại Điển Tơn. Đại Điển Tơn nhận tướng ấn xong, sáu vua lui vào hậu cung hưởng thụ dục lạc. Đại Điển Tơn được giao luơn quốc sự và xử lý luơn cơng việc cả bảy nước; thảy đều thành tựu cả.’ ‘Đồng thời trong nước có bảy đại cư só, Đại Điển Tơn cũng xử lý luơn việc nhà giúp họ. Ơng lại có thể dạy bảo cho bảy người Phạm chí đọc tụng kinh điển.’ ‘Bảy quốc vương kính xem ơng như thần minh. Bảy đại cư só kính xem ơng như Đại vương. Cịn bảy Phạm chí kính xem ơng như Phạm thiên. Họ đều thầm nghó rằng: ‘Tể tướng Đại Điển Tơn thường gặp gỡ Phạm thiên, chuyện trị đi đứng thân thiện với Phạm thiên.’ Đại Điển Tơn thầm biết ý tưởng bảy vua, cư só và Phạm chí, rằng: ‘Ta thường gặp gỡ Phạm thiên, chuyện trị đi đứng thân thiện với Phạm thiên. Nhưng ta thật chưa từng thấy Phạm thiên, chưa từng nói chuyện với Phạm thiên. Ta khơng thể làm thinh để vọng nhận tiếng khen đó. Ta cũng từng nghe các vị kỳ túc nói: Ai trong bốn tháng mùa hạ ở nơi nhàn tónh tu tập Bốn vơ lượng tâm thời trời Phạm thiên sẽ xuống gặp. Nay ta nên tu Bốn vơ lượng tâm để được Phạm thiên xuống gặp chăng?’ ‘Rồi thì, Đại Điển Tơn tìm đến bảy quốc vương nói rằng: ‘Tâu Đại vương, mong Đại vương hãy trơng nom quốc sự. Tơi muốn vào bốn tháng mùa hạ tu Bốn vơ lượng tâm.’ Bảy vua nói: ‘Khanh tự biết thời.’ ‘Đại Điển Tơn lại đến nói với bảy cư só: ‘Các ơng hãy tự lo cơng việc của mình. Ta muốn vào bốn tháng mùa hạ, tu Bốn vơ lượng tâm.’ Các cư só đáp: ‘Vâng. Ngài tự biết thời.’ ‘Lại nói với bảy trăm Phạm chí: ‘Các khanh hãy siêng năng đọc tụng và chỉ bảo lẫn nhau. Ta muốn vào bốn tháng mùa hạ, tu Bốn vơ lượng tâm.’ Các Phạm chí đáp: ‘Vâng. Đại sư tự biết thời.’ ‘Rồi Đại Điển Tơn ở phía Đơng thành ấy dựng một am thất, vào bốn tháng mùa hạ, nghỉ ở đó mà tu Bốn vơ lượng tâm. Nhưng Phạm thiên vẫn khơng hiện xuống. Đại Điển Tơn thầm nghó: ‘Ta nghe các bậc túc cựu nói, tu Bốn vơ lượng tâm trong bốn tháng hạ thì sẽ có Phạm thiên hiện xuống, nhưng nay sao lặng lẽ khơng thấy dấu tích gì.’ ‘Đến ngày rằm trăng trịn, Đại Điển Tơn ra khỏi tịnh thất, đến chỗ đất trống, ngồi, chưa bao lâu bỗng có ánh sáng lạ hiện tới. Đại Điển Tơn tự nghó: Nay ánh sáng lạ đó là điềm Phạm thiên hiện xuống chăng? ‘Ngay khi ấy Phạm thiên hóa làm một đồng tử đầu có năm chỏm, ngồi giữa khơng, bên trên chỗ Đại Điển Tơn. Đại Điển Tơn sau khi thấy bèn nói bài tụng rằng: Đây là thiên tượng gì, Ở ngay giữa hư khơng, Sáng chói cả bốn phương, Như đống củi cháy hực? Phạm đồng tử đáp lại bằng bài kệ: Duy chư Thiên cõi Phạm Biết ta Phạm đồng tử. Những người khác bảo ta Thờ tự bởi thần Lửa. Đại Điển Tơn đáp bằng bài kệ: Nay tơi sẽ thưa hỏi; Vâng dạy, rất thành kính. Dọn các thứ thượng vị, Nguyện Trời biết lịng tơi. Phạm đồng tử lại nói kệ: Nay dọn cúng dường này, Điển Tơn, ngươi tu gì? Muốn gì, chí cầu gì? Ta sẽ trao cho ngươi. ‘Lại bảo Điển Tơn: ‘Ngươi muốn hỏi gì tùy ý hỏi. Ta sẽ nói cho.’ ‘Đại Điển Tơn thầm nghó: Ta nên hỏi việc hiện tại chăng? Hay việc vị lai? Rồi lại tự nghó: Việc hiện tại đời này cần gì nữa hỏi. Ta hãy hỏi việc u minh chưa tỏ. Liền hướng đến Phạm đồng tử nói bài kệ: Tơi xin hỏi Phạm đồng, Nhờ giải quyết mối nghi; Học và trụ pháp gì, Được sanh lên Phạm thiên? ‘Phạm đồng tử đáp: Dứt ý tưởng ta, người; Độc cư, tu Từ tâm; Trừ dục, khơng xú uế, Được sanh lên Phạm thiên. ‘Đại Điển Tơn nghe xong bài kệ, liền suy nghó: ‘Phạm đồng tử thuyết kệ là nên trừ xú uế. Ta khơng hiểu điều này. Vậy cần hỏi thêm nữa’. Bèn nói kệ: Phạm kệ nói xú uế, Xin giải rõ tơi hay, Ai mở <註 n="289"/>15 cửa thế gian, Đọa ác, khơng sanh thiên? ‘Phạm đồng tử đáp bằng bài kệ: Dối trá và tật đố, Ngã mạn, tăng thượng mạn Tham dục, sân nhuế, si Mặc tình chứa đầy tâm, Là thế gian xú uế; Ta nói cho ngươi rõ. Nó mở cửa thế gian; Đọa ác, khơng sanh thiên. ‘Nghe xong, Đại Điển Tơn thầm nghó: ‘Theo lời của Đồng tử, bây giờ ta đã hiểu nghóa chữ xú uế. Nhưng tại gia thì khơng thể dứt trừ được. Tốt hơn ta có nên bỏ đời, xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, tu đạo chăng?’ Khi ấy Phạm đồng tử biết được ý nghó của ơng, bèn nói bài kệ: Nếu ngươi hay dũng mãnh, Chí đó thật tuyệt vời; Là hành vi bậc trí; Chết tất sanh Phạm thiên. ‘Thế rồi Phạm đồng tử bỗng nhiên biến mất. ‘Bấy giờ, Đại Điển Tơn trở về, đi đến bảy vua, tâu rằng: ‘Tâu Đại vương, mong ngài đem sức thần mà xử lý quốc sự. Nay tơi có ý xuất gia, bỏ đời, mặc pháp phục tu đạo. Vì sao vậy? Tơi thân nghe từ Phạm thiên nói đến sự xú uế mà lịng rất ghét. Nếu tại gia thì khơng sao loại trừ được nó.’ Bảy quốc vương thầm nghó: ‘Bọn Bà-la-mơn thường hay tham tài bảo, có lẽ ta nên mở rộng kho tàng cho ơng ta cần dùng gì tùy ý, để đừng xuất gia.’ Rồi vời Đại Điển Tơn đến bảo: ‘Ngươi muốn cần dùng gì ta đều cấp cả, khơng cần xuất gia.’ Đại Điển Tơn tâu đáp: ‘Tơi đã được vua ân tứ rồi. Tơi cũng có nhiều tài bảo. Nay xin để lại hết dâng Đại vương. Xin cho tơi được thỏa chí nguyện xuất gia thơi.’ ‘Bảy quốc vương lại thầm nghó: ‘Những người Bà-la-mơn thường ham mỹ sắc, có lẽ ta đem thể nữ trong cung cấp cho vừa ý, để khỏi xuất gia.’ Rồi nói với Đại Điển Tơn: ‘Nếu cần thể nữ ta cấp hết cho ngươi. Khơng cần xuất gia nữa.’ Đại Điển Tơn đáp: ‘Nay tơi đã được vua ân tứ rồi. Nhưng trong nhà tơi thể nữ có nhiều nay cho về hết. Tơi chỉ mong lìa ân ái để xuất gia hành đạo vì tơi thân nghe Phạm đồng tử nói điều xú uế mà lịng nhàm ghét. Nếu tại gia thì khơng sao trừ được.’ ‘Rồi Đại Điển Tơn nói bài kệ cho vua Từ Bi nghe: Vua hãy nghe tơi nói Vua là bậc nhân tơn, Cho tài bảo, thể nữ Thứ ấy phi sở thích. ‘Vua Từ Bi đáp bằng bài kệ: Thành Đàn-đặc, Già-lăng. Thành A-bà, Bố-hịa. Thành A-bàn, Đại-thiên. Thành Ương-già, Chiêm-bà. Số-di, Tát-la thành Tây-đà, Lộ-lâu thành Thành Bà-la, Già-thi.<註 n="290"/>16 Thảy do Điển Tơn dựng. Có bao nhiêu ngũ dục, Ta sẽ cùng cho ngươi; Hãy cùng trơng việc nước Chớ bỏ mà xuất gia. ‘Điển Tơn trả lời bằng bài kệ: Ngũ dục, tơi khơng thiếu. Chỉ khơng ham thế gian. Sau khi nghe trời nói, Khơng cịn muốn tại gia. ‘Vua Từ Bi đáp lại bằng bài kệ: Lời Đại Điển Tơn nói, Được nghe từ Trời nào, Mà dứt bỏ ngũ dục? Nay hỏi, mong trả lời. ‘Đại Điển Tơn nói kệ: Xưa tơi ở chỗ vắng, Một mình, tự suy tư. Rồi Phạm thiên vương đến, Tỏa hào quang rực sáng. Tơi nghe được từ Ngài; Khơng cịn ham thế gian. ‘Vua Từ Bi nói kệ: Hãy chờ, Đại Điển Tơn! Để cùng hoằng thiện pháp; Rồi sau cùng xuất gia. Khanh là thầy của ta. Ví như trong hư khơng, Thanh tịnh, đầy lưu ly; Nay ta tín thanh tịnh, Đầy khắp trong Phật pháp. ‘Rồi Đại Điển Tơn lại làm bài tụng: Chư Thiên và người đời, Đều nên xả ngũ dục; Chùi sạch các ơ uế, Mà tịnh tu phạm hạnh. ‘Bấy giờ bảy vị quốc vương nói với Đại Điển Tơn: ‘Ngươi nên hỗn lại bảy năm để cùng nhau vui thú ngũ dục. Sau đó chúng ta cùng bỏ nước, giao lại cho con em, cùng xuất gia. Há khơng hay hơn sao? Những gì ngươi sở đắc, chúng ta cũng đồng.’ ‘Đại Điển Tơn đáp: “Thế gian vơ thường, mạng người mau chóng, chỉ trong hơi thở cịn khó bảo tồn. Nay hỗn đến bảy năm chẳng quá lâu lắm sao?” Bảy vua nói: “Bảy năm lâu thì sáu, năm… hoặc một năm cũng được. Chúng ta lưu lại trong tónh cung để cùng chung vui hưởng ngũ dục tuyệt thế. Sau đó chúng ta cùng bỏ nước, giao lại cho con em, cùng xuất gia. Há khơng hay hơn sao? Những gì ngươi sở đắc, chúng ta cũng đồng.’ ‘Đại Điển Tơn vẫn đáp: “Thế gian vơ thường, mạng người mau chóng, chỉ trong hơi thở cịn khó bảo tồn. Nên dầu cho một năm vẫn cịn lâu; thậm chí bảy tháng, hay một tháng cũng khơng thể được”. Bảy vua nói tiếp: “Thơi hỗn bảy ngày”. Đại Điển Tơn đáp: “Bảy ngày khơng lâu, có thể hỗn được. Xin Đại vương chớ sai lời. Quá bảy ngày nếu vua khơng xuất gia thì tơi xuất gia một mình”. ‘Rồi Đại Điển Tơn lại đến bảy cư só, bảo họ: ‘Mỗi người hãy tự lo lấy cơng việc của mình. Tơi muốn xuất gia, tu đạo vơ vi. Vì sao vậy? Ta thân nghe từ Phạm thiên, nói đến sự xú uế mà lịng rất ghét. Nếu tại gia thì khơng sao dứt trừ được.” ‘Bảy cư só đáp Đại Điển Tơn: “Lành thay, chí hướng ấy. Hãy làm những gì thích hợp. Chúng tơi cũng muốn cùng xuất gia theo. Những gì ơng sở đắc, chúng tơi cũng nên đồng.” ‘Đại Điển Tơn lại đến nói với bảy trăm Phạm chí: ‘Các ngươi hãy siêng năng phúng tụng, tìm rộng đạo nghóa, rồi dạy bảo lẫn nhau. Ta muốn xuất gia tu đạo vơ vi. Vì sao? Ta thân nghe từ Phạm thiên nói đến xú uế mà lịng rất ghét. Nếu tại gia thì khơng thể dứt trừ được.” ‘Bấy giờ bảy trăm Phạm chí nói với Đại Điển Tơn: ‘Đại sư, chớ xuất gia. Sống gia đình thì an vui, hưởng thụ ngũ dục, có nhiều người hầu hạ, tâm khơng ưu khổ. Người xuất gia sống một mình ở chỗ hoang vắng; muốn gì đều khơng có, chẳng ham lấy được gì.” ‘Đại Điển Tơn đáp: “Nếu ta cho tại gia là vui, xuất gia là khổ, hẳn ta khơng xuất gia. Nhưng ta đã cho tại gia là khổ, xuất gia là vui, nên ta xuất gia”. ‘Các Phạm chí nói: “Đại sư xuất gia, chúng tơi cũng xuất gia. Đại sư làm gì, chúng tơi làm theo cả”. ‘Đại Điển Tơn lại đến nói với các bà vợ: “Nay các ngươi được tùy nghi. Ai muốn ở thì ở. Ai muốn về thì về. Nay ta muốn xuất gia cầu đạo vơ vi.” Rồi kể hết sự việc như trên và nói rõ ý muốn xuất gia. Các phu nhân đáp: “Đại Điển Tơn nếu cịn ở nhà, thì vừa là chồng cũng vừa như cha chúng tơi. Nay nếu xuất gia, chúng tơi sẽ xin đi theo. Việc gì Đại Điển Tơn làm, chúng tơi cũng sẽ làm”. ‘Sau bảy ngày, Đại Điển Tơn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, bỏ nhà mà đi. Đồng thời, bảy quốc vương, bảy cư só, bảy trăm Phạm chí, bốn mươi phu nhân, cũng lần lượt xuất gia. Lần hồi lên tới tám vạn bốn ngàn người, đồng thời theo Đại Điển Tơn xuất gia. Đại Điển Tơn thường cùng đại chúng dạo qua các nước, hóa độ rộng rãi, đem lại ích lợi cho nhiều người. ‘Bấy giờ Phạm vương bảo với Thiên chúng: “Các ngươi chớ nghó đại thần Điển Tơn lúc đó là ai đâu khác. Chính là tiền thân của Đức Phật Thích-ca hiện nay vậy. Thế Tơn vào lúc ấy, sau bảy ngày, xuất gia tu đạo, dẫn các đại chúng du hành các nước, hóa độ rộng rãi, làm lợi ích cho nhiều người. Nếu có nghi lời ta nói, các ngươi hãy đến Đức Thế Tơn hiện ngự tại núi Kỳ-xà-quật để hỏi. Như những gì Phật dạy, hãy gắng nhớ lấy”.’ Nhạc thần Ban-giá-dực bạch Phật: “Bạch Thế Tơn! Vì duyên cớ đó nên hơm nay con đến đây. Bạch Thế Tơn, Đại Điển Tơn kia chính là Thế Tơn đó phải khơng? Thế Tơn qua bảy ngày thì xuất gia tu đạo; cùng với bảy quốc vương, cho đến tám vạn bốn ngàn người đồng thời xuất gia, cùng chúng du hành các nước, giáo hóa rộng rãi, làm lợi ích cho nhiều người phải khơng?” Phật đáp Ban-giá-dực: “Đại Điển Tơn lúc đó là ai khác chăng? Chớ nghó như vậy. Chính là thân Ta đó. Lúc bấy giờ, gái trai cả nước mỗi khi đi lại, cử động, có điều gì nguy khốn, họ liền cất tiếng niệm: Nam mơ Đại Điển Tơn, vị Tể tướng của bảy vua. Nam mơ Đại Điển Tơn, vị Tể tướng của bảy vua. Niệm đến ba lần như vậy. “Này Ban-giá-dực! Đại Điển Tơn lúc đó tuy có oai đức lớn, nhưng khơng thể vì đệ tử giảng nói đạo cứu cánh, khơng thể khiến đệ tử được cứu cánh phạm hạnh, khơng thể khiến đến được chỗ cứu cánh an lạc. Pháp của Đại Điển Tơn nói ra, nếu đệ tử nào thực hành thì khi thân hoại mệnh chung chỉ được sanh lên cõi Phạm thiên. Người nào thực hành cạn hơn thì sanh lên cõi trời Tha hóa tự tại. Thứ nữa sanh Hóa tự tại, Đâu-suất-đà, Diệm-ma, Đao-lợi, Tứ thiên vương, hoặc Sát-lî, Bà-la-mơn, Cư só tại gia. Muốn gì cũng được vừa ý. “Này Ban-giá-dực! Đệ tử của Đại Điển Tơn đều là kẻ xuất gia khơng phải ngu si. Có quả báo, có giáo giới, nhưng chưa phải là đạo cứu cánh, chẳng khiến đệ tử chứng được cứu cánh phạm hạnh, chẳng đưa đệ tử đến chỗ an ổn hồn tồn. Chỗ cao tột của đạo kia chỉ đến cõi Phạm thiên là cùng. Cịn nay giáo pháp của ta dạy cho đệ tử có thể khiến họ chóng được đạo cứu cánh, được cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn và cuối cùng thì vào Niết-bàn. Pháp của ta nói, nếu đệ tử nào thực hành thì xả bỏ hữu lậu mà thành vơ lậu, ngay trong đời này mà tự mình chứng ngộ tâm giải thốt, tuệ giải thốt, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sinh nữa. Người nào thực hành cạn hơn thì đoạn được năm kết sử hạ giới và có thể nhập Niết-bàn tại thiên giới, chứ khơng trở lại cõi này. Thứ nữa thì đoạn ba kiết sử, dâm, nộ, si mỏng, chỉ phải một lần sanh vào cõi này nữa là sẽ nhập Niết-bàn. Và thứ nữa thì đoạn được ba kiết sử, chứng quả Tu-đà-hồn, khơng cịn bị đọa vào ác đạo, nhiều lắm là bảy lần sanh đến cõi này nữa là chắc chắn được Niết-bàn. “Này Ban-giá-dực! Các đệ tử Ta xuất gia khơng phải ngu si, có quả báo, có giáo giới, được cứu cánh đạo pháp, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn và cuối cùng vào Niết-bàn.” Ban-giá-dực nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140835">4. KINH XÀ-NI-SA<註 n="291"/>17 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật du hành Na-đề<註 n="292"/>18, trú xứ Kiền-chùy<註 n="293"/>19, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, Tơn giả A-nan ngồi ở tịnh thất, thầm nghó: “Kỳ diệu thay, hy hữu thay, Như Lai ký biệt<註 n="294"/>20 cho nhiều người, làm lợi ích cho nhiều người. Thứ nhất<註 n="295"/>21, đại thần Già-già-la mạng chung, Như Lai ghi nhận rằng, người này mạng chung, đoạn trừ năm hạ phần kết, được sanh lên trời mà diệt độ ở đó, khơng trở lại đời này.” “Thứ hai, Ca-lăng-gia; thứ ba, Tỳ-già-đà; thứ tư, Già-lî-du; thứ năm, Giá-lâu; thứ sáu, Bà-da-lâu; thứ bảy, Bà-đầu-lâu; thứ tám, Tẩu-bà-đầu; thứ chín, Tha-lê-xá-nậu; thứ mười, Tẩu-đạt-lê-xá-nậu; thứ mười một, Da-du; thứ mười hai, Da-du-đa-lâu. Các đại thần này mạng chung, họ cũng được ghi nhận, đoạn trừ năm hạ phần kết, liền sinh lên trời mà diệt độ ở đó, khơng phải sinh ở đây. “Lại có năm mươi người khác nữa mạng chung, Phật cũng đều ký biệt cho, đoạn trừ ba kết, dâm, nộ, si mỏng, chứng đắc Tư-đà-hàm, một lần tái sinh đời này rồi tận diệt biên tế của khổ. “Lại có năm trăm người nữa mạng chung, Phật cũng ghi nhận, ba kết đã diệt tận, chứng đắc Tu-đà-hồn, khơng đọa ác thú, tối đa bảy lần tái sinh, chắc chắn sẽ diệt tận biên tế của khổ. “Có đệ tử của Phật mệnh chung ở nơi này nơi kia, Phật đều ký biệt cho, người này sanh ở chỗ này, người kia sanh ở chỗ kia. “Nước Ương-già, nước Ma-kiệt, nước Ca-thi, nước Cư-tát-la, nước Bạt-kỳø, nước Mạt-la, nước Chi-đề, nước Bạt-sa, nước Cư-lâu, nước Ban-xà-la, nước Phả-thấp-ba, nước A-bàn-đề, nước Bà-ta, nước Tơ-la-bà, nước Càn-đa-la, nước Kiếm-phù-sa<註 n="296"/>22. Ở mười sáu nước này có người mạng chung Phật đều ký biệt. “Người nước Ma-kiệt<註 n="297"/>23 đều là người dịng họ vua, được vua thân yêu<註 n="298"/>24. Có người mạng chung Phật khơng ký biệt.” Rồi thì A-nan rời tịnh thất đi đến chỗ Thế Tơn, đầu mặt lễ Thế Tơn, rồi ngồi sang một bên và bạch Phật rằng: “Vừa rồi ở tịnh thất con thầm nghó rằng: ‘Kỳ diệu thay, hy hữu thay, Phật ký biệt cho nhiều người, làm lợi ích cho nhiều người. Trong mười sáu nước lớn có người mạng chung Phật đều ký biệt cho. Duy người nước Ma-kiệt được vua thân yêu; có người mạng chung, độc nhất khơng được ký biệt.’ Cúi mong Thế Tơn hãy ký biệt cho người đó! Cúi mong Thế Tơn hãy ký biệt cho người đó. Vì lợi ích cho tất cả; vì sự an lạc của chư Thiên và lồi người. “Lại nữa, Phật đắc đạo ở nước Ma-kiệt. Nhưng riêng người nước ấy khi mạng chung khơng được ký biệt. Cúi mong Thế Tơn hãy ký biệt cho người ấy! Cúi mong Thế Tơn hãy ký biệt cho người ấy.” “Lại nữa, vua Bình-sa<註 n="299"/>25, vua nước Ma-kiệt, là Ưu-bà-tắc thành tín đối với Phật, đã nhiều lần thiết lễ cúng dường, rồi sau đó mạng chung. Do vua ấy mà có nhiều người tin hiểu cúng dường Tam bảo. Nhưng nay Như Lai khơng thọ ký cho. Cúi mong Thế Tơn hãy thọ ký cho người ấy vì ích lợi cho chúng sanh khiến cho trời và người đều an lạc.” Bấy giờ, A-nan sau khi vì người Ma-kiệt thỉnh cầu Thế Tơn, bèn rời khỏi chỗ ngồi lễ Phật rồi lui ra. Bấy giờ, Thế Tơn đắp y ơm bát vào thành Na-già<註 n="300"/>26. Sau khi khất thực, Ngài đi đến rừng lớn<註 n="301"/>27, ngồi dưới một gốc cây, tư duy về chỗ mà người Ma-kiệt tái sinh sau khi mạng chung. Lúc ấy cách Phật khơng xa có một quỷ thần<註 n="302"/>28 tự xưng tên mình, bạch Thế Tơn rằng: “Con là Xà-ni-sa. Con là Xà-ni-sa<註 n="303"/>29.” Phật nói: “Ngươi do việc gì mà xưng tên mình là Xà-ni-sa? Ngươi nhân bởi pháp gì mà bằng những lời vi diệu, tự xưng là đã thấy đạo tích?<註 n="304"/>30” Xà-ni-sa nói: “Khơng phải ở đâu khác mà con vốn là vua ở lồi người<註 n="305"/>31, là Ưu-bà-tắc ở trong pháp của Như Lai nhất tâm niệm Phật và mệnh chung, do đó được sanh làm thái tử của Tỳ-sa-mơn Thiên vương<註 n="306"/>32. Từ đó đến nay con thường soi sáng các pháp, chứng đắc Tu-đà-hồn khơng cịn đọa ác đạo, ở trong bảy đời tái sinh, đều có tên là Xà-ni-sa.” Thế Tơn sau khi tùy nghi nghỉ ở đại lâm lại đi đến trú xứ Kiền-chùy ở Na-đà<註 n="307"/>33, ngồi lên chỗ dọn sẵn rồi nói với một Tỳ-kheo: “Ngươi theo lời ta đi kêu A-nan đến đây!”. Tỳ-kheo đáp: “Kính vâng”. Rồi vâng lời Phật dạy đi gọi A-nan. Lát sau A-nan đến chỗ Thế Tơn, đầu mặt lễ dưới chân rồi ngồi sang một bên và bạch Phật rằng: “Nay con xem Như Lai, nhan sắc hơn hẳn bình thường, các căn tịch định. Thế Tơn đang an trú tư duy gì mà nhan sắc như vậy?” Phật bảo A-nan: “Ngươi vừa rồi vì người nước Ma-kiệt đến chỗ ta thỉnh cầu ký biệt, sau đó lui đi. Lát sau ta khốc y ơm bát vào thành Na-la<註 n="308"/>34 khất thực. Sau khi khất thực, ta đi đến đại lâm kia ngồi dưới một gốc cây, tư duy về chỗ mà người Ma-kiệt tái sinh. Lúc đó cách ta khơng xa có một quỷ thần tự xưng tên và bạch ta rằng: ‘Con là Xà-ni-sa.’ A-nan, ngươi đã từng nghe tên Xà-ni-sa kia chưa?” A-nan bạch Phật: “Con chưa từng nghe. Nay nghe tên ấy, con cảm thấy sợ hãi, lơng tóc dựng ngược. Thế Tơn, vì quỷ thần ấy ắt có oai đức lớn nên mới có tên Xà-ni-sa<註 n="309"/>35.” Phật nói: “Ta hỏi vị ấy trước rằng: ‘Ngươi nhân pháp gì mà bằng lời nói vi diệu tự xưng là đã thấy đạo tích?’ Xà-ni-sa nói: ‘Con khơng phải ở nơi khác; khơng phải tại pháp khác. Xưa con là vua của lồi người, là đệ tử của Thế Tơn, với tín tâm chí thành con là một Ưu-bà-tắc nhất tâm niệm Phật, sau đó mạng chung làm con trai của Tỳ-sa-mơn thiên vương, chứng đắc Tu-đà-hồn, khơng cịn đọa ác thú, tối đa bảy lần tái sanh rồi diệt biên tế của khổ, ở trong bảy đời tái sinh có tên thường là Xà-ni-sa. Một thời Thế Tơn ở tại đại lâm ngồi dưới một gốc cây. Khi ấy con cưỡi cỗ xe báu có ngàn căm. Do có nhân duyên nhỏ, muốn đến Tỳ-lâu-lặc Thiên vương<註 n="310"/>36, từ xa con thấùy Thế Tơn ngồi ở dưới một gốc cây, nhan mạo đoan chánh, các căn tịch định, ví như ao sâu trong veo, tónh lặng, trong sáng. Sau khi thấy, con tự nghó: Ta nên đến hỏi thăm Thế Tơn rằng người nước Ma-kiệt có người mạng chung sẽ tái sinh ở chỗ nào.’ “Lại nữa, một thời Tỳ-sa-mơn Thiên vương tự mình ở trong đại chúng mà nói kệ rằng: Chúng ta khơng tự nhớ, Việc trải qua quá khứ Nay may gặp Thế Tơn Thọ mạng được tăng thêm. “Lại nữa, một thời chư Thiên Đao-lợi do chút nhân duyên, tập họp tại một chỗ. Khi ấy Tứ thiên vương mỗi người ngồi đúng trên chỗ ngồi của mình. Đề-đầu-lại-tra<註 n="311"/>37 ngồi ở phương Đơng xây mặt phía Tây; Đế Thích ở phía trước. Tỳ-lâu-lặc Thiên vương ngồi ở phía Nam xây mặt hướng Bắc, Đế Thích phía trước. Tỳ-lâu-bát-xoa<註 n="312"/>38 thiên vương ngồi phía Tây xây mặt hướng Đơng; Đế Thích ở phía trước. Tỳ-sa-mơn Thiên vương ngồi ở phía Bắc, xây mặt hướng Nam; Đế Thích ở phía trước. “Sau khi Tứ thiên vương ngồi xong con mới ngồi. Lại cịn có các Đại Thiên thần khác đã từng theo Phật tịnh tu phạm hạnh, chết ở đây mà sanh lên trời Đao-lợi, làm tăng thêm chư Thiên, hưởng thọ năm phước báo nhà trời: “1. Tuổi thọ trời. “2. Nhan sắc trời. “3. Danh tiếng trời. “4. Âm nhạc trờøi. “5. Oai đức trời. “Khi ấy chư Thiên Đao-lợi vui mừng phấn khởi nói: ‘Tăng thêm chúng chư Thiên, giảm thiểu chúng A-tu-la.’ “Bấy giờ, Thích Đề-hồn Nhân, biết chư Thiên Đao-lợi có tâm hoan hỷ, liền nói kệ rằng: Chúng chư Thiên Đao-lợi, Cùng Đế Thích hoan lạc, Cung kính lễ Như Lai, Đấng Pháp Vương tối thượng. Chư Thiên thọ phước báo, Thọ, sắc, danh, nhạc, uy. Theo Phật tu phạm hạnh, Nên sanh vào nơi đây. Lại có các thiên nhân, Ánh màu sáng chói lọi. Đệ tử trí tuệ Phật, Sanh đây càng trổi vượt. Đao-lợi và Nhân-đề, Nghó thế mà sung sướng. Cung kính lễ Như Lai, Đấng Pháp Vương tối thượng. “Thần Xà-ni-sa lại nói: Sở dó chư Thiên Đao-lợi tập hợp ở Pháp đường ấy là để cùng thương nghị, tư duy, quan sát, thương lượng, giáo lệnh được ban hành, rồi sau đó trao cho Tứ thiên vương. Tứ thiên vương sau khi nhận giáo lệnh mỗi người tự ngồi vào vị trí của mình. Họ ngồi chưa bao lâu, có ánh sáng dị thường to lớn chiếu khắp cả bốn phương, khi chư Thiên Đao-lợi thấy ánh sáng dị thường này thảy đều hết sức kinh ngạc: ‘Nay ánh sáng dị thường này chắc có sự quái lạ gì chăng?’ Các Thiên thần lớn có oai đức khác cũng đều kinh ngạc: ‘Nay ánh sáng dị thường này chắc có sự quái lạ gì chăng?’ Rồi thì Đại phạm vương bèn hóa làm đồng tử, đầu có năm chỏm đứng trong hư khơng bên trên Thiên chúng, nhan sắc đoan chánh siêu tuyệt mọi người, thân màu vàng tía che mờ ánh sáng chư Thiên. Khi ấy, chư Thiên Đao-lợi khơng đứng dậy nghinh đón cũng khơng cung kính lại cũng khơng mời ngồi. Lúc bấy giờ, Phạm đồng tử ngồi qua chỗ ngồi của vị trời nào thì vị ấy hoan hỷ. Ví như vua Quán đảnh dịng Sát-lî<註 n="313"/>39 khi làm lễ đăng quang thì hoan hỷ phấn khởi. Đồng tử ngồi chưa lâu, lại tự mình biến thân làm hình tượng Đồng tử đầu có năm chỏm ngồi trên hư khơng, bên trên đại chúng. Ví như lực só ngồi trên chỗ ngồi vững vàng, vịi vọi bất động<註 n="314"/>40 và làm bài tụng rằng: Đấng Chí Tơn, điều phục, Dạy đời sinh chỗ sáng, Sáng bừng, diễn pháp sáng, Chứng phạm hạnh tuyệt luân, Khiến chúng sanh thanh tịnh, Sinh lên trời Tịnh diệu. “Phạm đồng tử sau khi nói bài kệ này, bảo chư Thiên Đao-lợi rằng: Những âm thanh nào có năm thứ thanh tịnh thì được gọi là Phạm thanh. Những gì là năm? Một là, âm ấy chánh trực. Hai là âm ấy hịa nhã. Ba là, âm ấy trong suốt. Bốn là, âm ấy đầy sâu. Năm là, nghe xa khắp nơi. Đủ năm âm ấy mới được gọi là Phạm âm. Nay ta lại nói, vậy các ngươi hãy lắng nghe. Đệ tử của Như Lai, Ưu-bà-tắc Ma-kiệt, mạng chung có người chứng đắc A-na-hàm, có người chứng đắc Tư-đà-hàm, có người chứng đắc Tu-đà-hồn, có người sinh lên trời Tha hóa tự tại, có người sinh lên trời Hóa tự tại, trời Đâu-suất, trời Diệm<註 n="315"/>41, trời Đao-lợi, Tứ thiên vương. Có người sinh vào gia đình lớn của Sát-lî, Bà-la-mơn, Cư só, ngũ dục tự nhiên. “Rồi Phạm đồng tử đọc bài kệ: Ưu-bà-tắc Ma-kiệt, Có những ai mạng chung; Tám vạn bốn ngàn người, Ta nghe đều đắc đạo: Thành tựu Tu-đà-hồn, Khơng cịn đọa ác thú, Đều đi đường bình chánh, Đắc đạo, hay cứu tế Những đám quần sanh này, Phị trì bởi cơng đức, Trí tuệ xả ân ái, Tàm quý lìa dối trá. Đại chúng chư Thiên kia, Phạm đồng ghi nhận thế, Rằng đắc Tu-đà-hồn, Chư Thiên đều hoan hỷ. “Tỳ-sa-mơn Thiên vương sau khi nghe bài kệ này thì hoan hỷ và nói: ‘Thế Tơn ra đời nói pháp chân thật, kỳ diệu thay, hy hữu thay, chưa từng có vậy. Ta vốn khơng biết Như Lai ra đời nói pháp như vậy. Trong đời vị lai lại sẽ có Phật nói pháp như vậy có thể khiến chư Thiên Đao-lợi sanh tâm hoan hỷ.’ “Bấy giờ Phạm đồng tử nói với Tỳ-sa-mơn Thiên vương: Vì sao ngươi nói lời này: ‘Như Lai ra đời nói pháp như vậy, kỳ diệu thay, hy hữu thay, chưa từng có vậy?’ Như Lai bằng năng lực phương tiện nói thiện và bất thiện, nói pháp một cách đầy đủ, nhưng là vơ sở đắc. Nói pháp khơng tịch, nhưng là hữu sở đắc. Pháp ấy vi diệu như đề hồ. “Rồi Phạm đồng tử nói với chư Thiên Đao-lợi rằng: ‘Các ngươi hãy lắng nghe, hãy suy nghó kỹ ta sẽ nói cho các ngươi nghe. Như Lai, Chí Chân khéo léo phân biệt nói Bốn niệm xứ. Những gì là bốn? ‘1. Quán nội thân trên thân<註 n="316"/>42, tinh cần khơng biếng nhác, chuyên niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. ‘2. Quán ngoại thân trên thân, tinh cần khơng biếng nhác chuyên niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. ‘3. Quán nội ngoại thân, tinh cần khơng biếng nhác, chuyên niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. ‘4. Quán thọï, quán ý, quán pháp cũng vậy. Tinh cần khơng biếng nhác, chuyên niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. ‘Sau khi quán nội thân, phát sinh trí về thân khác. Sau khi quán thọ bên trong, phát sinh trí về thọ khác. Sau khi quán ý ở bên trong phát sinh trí về ý khác. Sau khi quán pháp ở bên trong, phát sinh trí về pháp khác. Ấy là Như Lai khéo léo phân biệt thuyết Bốn niệm xứ.’ “Lại nữa chư Thiên, các người hãy lắng nghe, ta sẽ nói thêm nữa. Như Lai khéo léo phân biệt nói Bảy định cụ<註 n="317"/>43. Những gì là bảy? Chánh kiến, Chánh chí, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh phương tiện, Chánh niệm. Ấy là Như Lai khéo léo phân biệt nói Bảy định cụ. “Lại nữa, chư Thiên, Như Lai khéo léo phân biệt nói Bốn thần túc. Những gì là bốn? “1. Dục định diệt hành thành tựu tu tập thần túc. “2. Tinh tấn định diệt hành thành tựu tu tập thần túc. “3. Ý định diệt hành thành tựu tu tập thần túc. “4. Tư duy định diệt hành thành tựu tu tập thần túc<註 n="318"/>44. “Ấy là Như Lai khéo léo phân biệt giảng thuyết Bốn thần túc. “Lại bảo chư Thiên: ‘Quá khứ các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện, hiện vơ lượng thần túc, đều khởi lên từ Bốn thần túc này. Giả sử tương lai các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện hiện vơ lượng thần túc cũng từ do Bốn thần túc này mà khởi lên. Hiện tại các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện hiện vơ lượng thần túc cũng từ do Bốn thần túc này mà khởi lên.’ “Rồi Phạm đồng tử bèn tự biến hóa hình thành ba mươi ba thân cùng với ba mươi ba vị Thiên thần từng cặp cùng ngồi và bảo rằng: ‘Ngươi nay có thấy năng lực thần biến của ta khơng?’ Đáp: ‘Thưa vâng đã thấy.’ Phạm đồng tử nói: ‘Ta cũng do tu bốn thần túc cho nên có thể biến hóa vơ số như thế.’ Rồi ba mươi ba vị thiên mỗi người riêng nghó: ‘Nay Phạm đồng tử ngồi riêng với ta mà nói lời nói như vậy.’ Nhưng khi một hóa thân của Phạm đồng tử kia nói thì các hóa thân khác cũng nói; một hóa thân im lặng các hóa thân khác cũng im lặng. “Bấy giờ, Phạm đồng tử ấy thâu lại thần túc rồi ngồi trên chỗ ngồi của Đế Thích, nói với chư Thiên Đao-lợi rằng: ‘Ta nay sẽ nói. Các ngươi hãy lắng nghe. Như Lai, Chí Chân tự mình bằng năng lực của mình đã mở ra ba lối đi<註 n="319"/>45 và tự mình đã đi đến Chánh giác. Những gì là ba? ‘Hoặc có chúng sanh thân cận tham dục tập hành vi bất thiện. Người ấy về sau gặp thiện tri thức, được nghe nói pháp, thành tựu pháp và tùy pháp<註 n="320"/>46. Rồi thì người ấy ly dục, dứt bỏ hành vi bất thiện được tâm hoan hỷ điềm nhiên khối lạc. Lại ở trong lạc mà phát sanh đại hỷ, như người bỏ đồ ăn thơ mà ăn thức ăn có trăm vị, sau khi đã no, lại cịn muốn hơn nữa. Hành giả cũng vậy. Lìa pháp bất thiện được hoan hỷ lạc. Lại ở trong lạc mà phát sanh đại hỷ. Ấy là Như Lai tự mình bằng năng lực của mình đã mở ra lối đi thứ nhất mà thành Chánh giác. ‘Lại có chúng sanh phần nhiều hay sân hận, khơng dứt bỏ ác nghiệp của thân, của khẩu và ý. Người ấy về sau gặp thiện tri thức được nghe nói pháp, thành tựu pháp và tùy pháp, xa lìa ác hạnh của thân, ác hạnh của khẩu và ý, sinh tâm hoan hỷ, điềm nhiên khối lạc. Lại ở trong lạc mà sanh đại hỷ. Như người xả bỏ thức ăn thơ mà ăn thức ăn trăm vị, sau khi đã no đủ rồi cịn cầu cái ngon hơn nữa. Hành giả cũng vậy. Lìa pháp bất thiện, được hoan hỷ lạc. Lại ở trong lạc mà phát sinh đại hỷ. Ấy là Như Lai mở ra lối đi thứ hai.’ ‘Lại có chúng sanh ngu tối, vơ trí, khơng biết thiện ác, khơng thể biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Người ấy về sau gặp thiện tri thức được nghe nói pháp, thành tựu pháp và tùy pháp, biết rõ thiện và bất thiện có thể biết như thật Khổ, Tập, Diệt, Đạo, dứt bỏ hành vi bất thiện, sinh tâm hoan hỷ điềm nhiên khối lạc. Lại ở trong lạc mà sinh đại hỷ. Như người xả bỏ thức ăn thơ mà ăn thức ăn trăm vị, sau khi đã no đủ rồi cịn cầu cái ngon hơn nữa. Hành giả cũng vậy. Lìa pháp bất thiện, được hoan hỷ lạc. Lại ở trong lạc mà phát sinh đại hỷ. Ấy là Như Lai mở ra lối đi thứ ba.’ “Sau khi Phạm đồng tử giảng nói Chánh pháp này cho chư Thiên Đao-lợi, Tỳ-sa-mơn Thiên vương, lại nói Chánh pháp ấy cho thuộc hạ của mình. Thần Xà-ni-sa lại ở trước Phật nói Chánh pháp ấy. Thế Tơn lại nói Chánh pháp ấy cho A-nan. A-nan lại nói Chánh pháp ấy cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.” Bấy giờ A-nan, sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành. <卷 id="485140840">PHẦN II KINH TIỂU DUYÊN KINH CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG TU HÀNH KINH TỆ-TÚ KINH TÁN-ĐÀ-NA KINH CHÚNG TẬP KINH THẬP THƯỢNG KINH TĂNG NHẤT KINH TAM TỤ KINH ĐẠI DUYÊN PHƯƠNG TIỆN KINH THÍCH ĐỀ-HỒN NHÂN VẤN KINH A-NẬU-DI KINH THIỆN SINH KINH THANH TỊNH KINH TỰ HOAN HỶ KINH ĐẠI HỘI <詞 id="485140841">5. KINH TIỂU DUYÊN<註 n="321"/>1 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật trú tại Xá-vệ, trong vườn Thanh tín, giảng đường Lộc mẫu<註 n="322"/>2, cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Lúc ấy, có hai người Bà-la-mơn với lịng tin kiên cố tìm đến chỗ Phật xin xuất gia học đạo, một tên là Bà-tất-tra một tên là Bà-la-đọa<註 n="323"/>3. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tơn rời khỏi tịnh thất, đang kinh hành thong thả trên giảng đường. Bà-tất-tra vừa trơng thấy Phật liền vội vàng đến bảo Bà-la-đọa: “Anh biết khơng, Như Lai hiện đang rời khỏi tịnh thất kinh hành tại giảng đường. Chúng ta nên đến đó hoặc có nghe Ngài dạy bảo điều gì chăng?” Bà-la-đọa nghe nói thế liền cùng đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ chân Phật, rồi đi theo sau Phật. Phật nói với Bà-tất-tra: “Hai người vốn sanh trong dịng Bà-la-mơn, với lịng tin kiên cố, muốn xuất gia tu hành ở trong giáo pháp ta phải khơng?” Hai người đáp: “Thưa phải.” Phật nói: “Này Bà-la-mơn, nay các ngươi xuất gia tu hành ở trong giáo pháp Ta, các người Bà-la-mơn khác há khơng hiềm trách các ngươi?” Hai người đáp: “Thưa có. Nhưng mong ơn lớn của Phật được xuất gia tu đạo, thật sự chúng con khơng khỏi bị các người Bà-la-mơn hiềm trách.” Phật dạy: “Họ lấy lẽ gì mà hiềm trách các ngươi?” Hai người đáp: “Họ nói rằng: ‘Dịng Bà-la-mơn ta tối cao bậc nhất, các dịng khác thấp hèn. Dịøng ta trắng trẻo, các dịng khác đen điu. Dịng Bà-la-mơn ta xuất xứ từ Phạm thiên, từ miệng Phạm thiên sanh ra, ở ngay trong hiện tại mà được thanh tịnh giải<註 n="324"/>4, về sau cũng thanh tịnh. Cớ gì các ngươi lại bỏ dịng thanh tịnh của mình mà vào trong dị pháp của Cù-đàm kia.’ Bạch Thế Tơn, thấy chúng con ở trong Phật pháp mà xuất gia tu đạo nên họ lấy lời lẽ như thế chê trách chúng con.” Phật bảo Bà-tất-tra: “Này Bà-tất-tra, ngươi xem các người đó khác nào kẻ ngu si vơ thức như cầm thú, dối trá tự xưng rằng: ‘Dịng Bà-la-mơn là tối cao bậc nhất, cịn ngồi ra là hèn hạ. Dịøng ta trắng trẻo, các dịng khác đen điu. Dịng Bà-la-mơn ta xuất xứ từ Phạm thiên, từ miệng Phạm thiên sanh, ở ngay trong hiện tại mà được thanh tịnh giải, về sau cũng thanh tịnh.’ Này Bà-tất-tra, nay trong Chánh đạo vơ thượng của Ta khơng cần kể dịng dõi, khơng ỷ vào tâm kiêu mạn ngơ ngã. Pháp thế tục cần thứ đó. Pháp của Ta khơng phải vậy. Nếu có Sa-mơn hay Bà-la-mơn nào tự thị chủng tộc, ơm lịng kiêu mạn thì ở trong giáo pháp Ta trọn khơng chứng đắc Vơ thượng. Nếu hay khước từ chủng tánh, trừ bỏ tâm kiêu mạn, thì mới có thể chứng được đạo quả Vơ thượng trong giáo pháp Ta, mới kham lãnh thọ được Chánh pháp. Người đời gớm ghét kẻ hạ lưu, cịn giáo pháp ta khơng thế.” “Này Bà-tất-tra! Có bốn chủng tánh gồm cả người lành người dữ; được người trí khen, cũng bị người trí chê. Bốn chủng tánh ấy là: Sát-lî, Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la. “Này Bà-tất-tra! Hẳn ngươi từng nghe trong dịng Sát-lî có kẻ sát sinh, có kẻ trộm cắp, có kẻ dâm loạn, kẻ dối trá, kẻ nói hai lưỡi, kẻ nói ác độc, có kẻ ỷ ngữ, có kẻ xan tham, có kẻ tật đố, có kẻ tà kiến, thì trong dịng Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la cũng có lẫn lộn đủ hạng người làm mười ác hạnh đó. Này Bà-tất-tra! Phàm làm điều bất thiện thì có quả báo bất thiện, làm điều hắc ám thì có quả báo hắc ám. Nếu rằng quả báo đó chỉ có với dịng Sát-lî, Cư só, Thủ-đà-la chứ khơng có với dịng Bà-la-mơn, khi ấy người Bà-la-mơn mới nên tự cho dịng Bà-la-mơn ta là tối cao bậc nhất, cịn các dịng khác thấp hèn, dịng ta trắng trẻo, các dịng khác đen điu; dịng Bà-la-mơn ta xuất hiện từ Phạm thiên, từ miệng Phạm thiên sinh ra, hiện tại thanh tịnh, về sau cũng thanh tịnh. Trái lại nếu rằng làm điều bất thiện thì có quả báo bất thiện, làm điều hắc ám thì có quả báo hắc ám, quả báo đó bất cứ Bà-la-mơn, Sát-lî, hay Thủ-đà-la đều có như nhau, thời người Bà-la-mơn khơng thể tự xưng chỉ dịng ta là thanh tịnh tối cao bậc nhất. “Này Bà-tất-tra! Nếu trong dịng Sát-lî, có kẻ khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng hai lưỡi, khơng ác khẩu, khơng ỷ ngữ, khơng xan tham, khơng tật đố, khơng tà kiến, thời trong dịng Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la cũng đều có hạng người tu mười điều thiện như thế. Phàm làm điều lành, tất có quả báo lành, làm điều thanh bạch tất có quả báo thanh bạch. Nếu rằng quả báo đó chỉ có với dịng Bà-la-mơn mà khơng có với dịng Sát-lî, Cư só, Thủ-đà-la khi ấy người dịng Bà-la-mơn mới nên tự xưng dịng mình thanh tịnh tối cao bậc nhất. Trái lại, nếu cả bốn chủng tánh đều có quả báo đó, thời người Bà-la-mơn khơng thể tự xưng chỉ dịng ta là thanh tịnh tối cao bậc nhất. “Này Bà-tất-tra! Nay hiện dịng Bà-la-mơn có gả cưới, có sinh sản khơng khác người đời<註 n="325"/>5, thế mà lại dối xưng ta là dịng Phạm thiên, từ miệng Phạm thiên sinh ra, hiện tại được thanh tịnh, về sau cũng thanh tịnh. “Này Bà-tất-tra! Ngươi nên biết hiện nay chúng đệ tử của Ta, dịng dõi khơng đồng, xuất xứ khác nhau, xuất gia tu hành ở trong giáo pháp Ta. Nếu có gặp ai hỏi: ‘Người thuộc dịng nào?’ thì nên trả lời họ: ‘Tơi là Sa-mơn, con dịng họ Thích<註 n="326"/>6.’ Hoặc có thể tự xưng: ‘Tơi dịng Bà-la-mơn<註 n="327"/>7, tơi đích từ miệng Phật sanh ra, từ Pháp hóa sinh ra, hiện tại được thanh tịnh, về sau cũng thanh tịnh.’ Tại sao thế? Vì các danh xưng Đại Phạm tức là đức hiệu Như Lai. Như Lai là con mắt của thế gian, là trí tuệ của thế gian, là pháp của thế gian, là Phạm của thế gian, là Pháp luân của thế gian, là Cam lồ của thế gian, là Pháp chủ của thế gian vậy. “Này Bà-tất-tra, nếu trong dịng Sát-lî có người thành tín Phật, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ. “Thành tín Pháp, tin pháp của Như Lai, là thanh tịnh vi diệu, có thể tu hành ngay hiện tại, được nói ra khơng hạn cuộc thời tiết, là pháp đưa đến Niết-bàn, duy người trí mới thấu rõ, chẳng phải kẻ phàm phu ngu si thấu rõ được<註 n="328"/>8. “Thành tín Tăng, tánh thiện chất trực, đạo quả thành tựu, quyến thuộc thành tựu, là đệ tử chân chính của Phật, thành tựu pháp và tùy pháp<註 n="329"/>9. Nói là chúng, đó là nói chúng thành tựu giới, chúng thành tựu định, chúng thành tựu tuệ, chúng giải thốt, chúng giải thốt tri kiến. Đó là chúng Tu-đà-hồn hướng, Tu-đà-hồn quả; chúng Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm quả; chúng A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả; chúng A-la-hán hướng; chúng A-la-hán quả. Gồm bốn đơi tám bậc. Đó là chúng đệ tử của Như Lai, rất đáng kính, đáng tơn trọng, làm ruộng phước của thế gian; xứngï đáng lãnh thọ sự cúng dường người<註 n="330"/>10. “Thành tín Giới, là giới luật Thánh hiền đầy đủ, khơng khuyết lậu, khơng tì vết, cũng khơng dính nhơ, được người trí ngợi khen, đầy đủ đức tính tốt lành và vắng lặng thì này Bà-tất-tra, người dịng Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la cũng có thể như thế. Thành tín Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Thánh giới thành tựu. “Này Bà-tất-tra, trong dịng Sát-lî cũng có người cúng dường, cung kính, lễ bái A-la-hán. Dịng Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la cũng đều có người cúng dường, cung kính, lễ bái A-la-hán như thế. ‘Này Bà-tất-tra, nay thân tộc Ta, dịng họ Thích, cũng tơn phụng vua Ba-tư-nặc<註 n="331"/>11, tơn thờ lễ kính. Vua Ba-tư-nặc cũng lại đến cúng dường, kính lễ Ta. Vua khơng nghó rằng: ‘Vì Sa-mơn Cù-đàm sinh từ dịng hào quý cịn ta sinh dịng hạ tiện. Sa-mơn Cù-đàm sinh trong nhà đại tài phú, đại oai đức cịn ta sinh nhà hạ cùng bỉ lậu ty tiện. Cho nên ta phải đến cúng dường Như Lai.’ Nhưng Ba-tư-nặc căn cứ trên pháp, quán sát pháp, biết rõ chân ngụy, cho nên mới sanh lịng tịnh tín đến kính lễ cúng dường Như Lai. “Này Bà-tất-tra, nay Ta sẽ vì ngươi nói rõ nhân duyên của bốn chủng tánh ấy. “Trời đất thủy chung, khi kiếp tận băng hoại, chúng sanh mệnh chung đều sanh lên cõi trời Quang âm<註 n="332"/>12. Tự nhiên hóa sanh, ăn bằng tư niệm lực, mình phát ánh sáng và có thần túc bay trong hư khơng<註 n="333"/>13. “Về sau, cõi đất này thảy biến thành nước trùm ngập tất cả. Vào lúc ấy khơng có mặt trời, mặt trăng, các sao, cũng khơng có kể ngày đêm, năm, tháng, số tuổi. Duy có một vùng tối tăm bao la. Sau dần dần biển nước đó lại biến thành cõi đất. Các vị trời Quang âm đến lúc hết phước, mệnh chung, sinh xuống nơi này. Tuy sinh xuống đó, song vẫn ăn bằng tư niệm, cịn có thần túc bay đi, thân cịn tỏa sáng. Chúng sống như thế một thời gian lâu và ai cũng gọi nhau là ‘chúng sanh, chúng sanh.’ “Về sau nữa, từ trong cõi đất này có suối ngọt chảy ra giống như đường mật<註 n="334"/>14. Chúng khi mới đến, thiên tánh cịn khinh tháo giản dị<註 n="335"/>15, thấy vậy nghó thầm: ‘Đó là vật gì ta hãy nếm thử?’ Liền nhúng ngón tay vào suối để nếm thử, nếm tới ba lần, cảm thấy ngon, chúng mới lấy tay bụm ăn khơng chút e ngại và cứ mê say ăn như thế chẳng biết nhàm. Các chúng sanh khác nhìn thấy bắt chước làm theo, nếm đến ba lần, cảm thấy ngon rồi cũng tiếp tục ăn mãi, do đó, thân họ trở nên thơ kệch, da thịt cứng rắn, mất cả màu sắc đẹp đẽ nhà trời, thần túc khơng cịn, phải đi trên đất, ánh sáng nơi thân cũng mất, cả trời đất tối tăm. “Này Bà-tất-tra, nên biết pháp thường của trời đất, sau thời gian tối tăm thì có thiên tượng: mặt trời, trăng, sao, xuất hiện ở khơng trung, rồi từ đó bắt đầu có ngày đêm, tối sáng, năm tháng, số tuổi<註 n="336"/>16. Chúng sanh lúc này chỉ sống nhờ ăn vị đất mà sống lâu trong thế gian. Người nào ham ăn nhiều thì nhan sắc thơ xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc cịn tươi nhuận, do đó mới bắt đầu có sự tốt xấu, đoan chính. Người đoan chính thì sinh tâm kiêu mạn khinh người xấu xí. Người xấu xí thì sinh tâm tật đố ghét người đoan chính. Chúng sanh do đó thù nghịch với nhau. “Bấy giờ suối ngọt tự nhiên cạn khơ. Về sau, cõi đất tự nhiên lại sinh ra chất béo của đất<註 n="337"/>17 có đủ mùi vị thơm tho ăn được. Chúng sanh lại lấy đất ấy mà ăn, sống lâu trong thế gian. Người nào ham ăn nhiều thì nhan sắc mau xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc cịn tươi nhuận; người đẹp đẽ sinh tâm kiêu mạn khinh người xấu xí; người xấu xí sinh tâm tật đố ghét người đẹp đẽ. Chúng sanh vì thế cùng nhau tranh tụng mãi. Rồi thì, chất béo của đất khơng cịn sinh như trước. Về sau, đất này lại sinh thứ chất béo của đất dày mà thơ, tuy cũng thơm ngon ăn được nhưng khơng bằng trước. Chúng sanh bấy giờ lại lấy đất này ăn mà sống lâu ở thế gian. Người ham ăn nhiều thì nhan sắc mau xấu, người ăn ít thì nhan sắc cịn tươi nhuận. Người đoan chính, kẻ xấu xí cứ thị phi nhau rồi sinh điều tranh tụng mãi. Từ đó chất đất tốt khơng sinh lại nữa. Về sau, đất này lại sinh ra thứ lúa tự nhiên khơng có trấu<註 n="338"/>18, sắc vị đầy đủ, thơm tho ăn được, chúng sanh lại lấy lúa gạo ăn, sống lâu ở thế gian; con trai con gái nhìn nhau, dần dần móng tâm tình dục, mới tìm gần gũi nhau. Nhưng chúng sanh khác thấy thế nói: ‘Ngươi làm quấy, ngươi làm quấy’ và kẻ làm quấy bị tẩn xuất khỏi nhóm người, sau ba tháng mới cho trở lại. “Này Bà-tất-tra, những điều trước kia người ta cho là quấy, thì bây giờ người ta cho là phải. Rồi chúng sanh kia tập quen với phi pháp, mặc tình buơng thả theo tình dục, khơng kể gì thời tiết. Rồi vì sự hổ thẹn mới tạo lập phịng xá và từ đó thế gian khởi đầu có phịng xá. Đùa quen với điều quấy, dâm dục ngày càng tăng lên, mới có bào thai sinh ra từ bất tịnh và thế gian mới bắt đầu có bào thai vậy. “Chúng sanh lúc ấy ăn loại lúa gạo tự nhiên; lấy xong nó lại sinh ra, vơ cùng vơ tận. Sau trong chúng sanh đó có kẻ lười nhác thầm nghó rằng: ‘Cứ sáng ăn sáng lấy, chiều ăn chiều lấy thì nhọc nhằn. Chi bằng lấy luơn cất đủ ăn một ngày.’ Nó liền lấy cất để ăn đủ một ngày. Sau đó có bạn gọi nó đi lấy lúa, nó đáp: ‘Tơi đã lấy đủ để ăn một ngày rồi. Bạn muốn lấy thì cứ tùy ý.’ Người ấy bèn suy nghó: ‘Anh này khơn ngoan, chứa lương thực trước. Ta nay cũng muốn tích trữ lương thực đủ cho ba ngày.’ Nó bèn trữ lương thực dư cho ba ngày. Khi có chúng sanh khác đến rủ đi lấy gạo, nó đáp: ‘Ta đã cất trướùc đủ ăn ba ngày rồi. Ngươi muốn lấy cứ tự ý đi mà lấy mấy tùy ý.’ Người đó lại nghó rằng: ‘Gã kia khơn ngoan, đã biết cất lương thực trước đủ ăn ba ngày. Vậy ta hãy bắt chước nó, cất đủ năm ngày.’ Nó đi lấy cất ăn đủ năm ngày. “Chúng sanh sau khi cạnh tranh nhau tích trữ, thóc lúa trở nên hoang dại, bắt đầu có vỏ trấu. Cắt rồi khơng tự nhiên sinh lại như trước nữa. Chúng sanh thấy thế trong lịng khơng vui, mới có sự ưu lo suy nghó: ‘Ta lúc đầu mới sinh ra, chỉ sống bằng tư niệm, thân ta có ánh sáng và thần túc bay đi. Sau đó đất này tuơn ra suối ngọt, chảy ra giống như đường mật thơm ngon ăn được. Chúng ta cùng ăn, tiếp tục ăn mãi. Ai ăn nhiều thì nhan sắc thơ xấu, người ăn ít thì sắc cịn tươi nhuận. Do thức ăn này mà nhan sắc chúng ta trở nên khác nhau. Chúng ta do vậy ai nấy ơm lịng thị phi, ganh ghét lẫn nhau. Bấy giờ suối ngọt tự nhiên cạn khơ. Về sau, cõi đất tự nhiên lại sinh ra chất béo của đất<註 n="339"/>19 có mùi vị thơm tho ăn được. Chúng ta lại lấy đất ấy mà ăn. Ai ăn nhiều thì nhan sắc thơ xấu, người ăn ít thì sắc cịn tươi nhuận. Chúng ta do vậy ai nấy ơm lịng thị phi, ganh ghét lẫn nhau. Rồi thì, chất béo của đất khơng cịn sinh như trước mà lại sinh thứ chất thơ kệch, tuy cũng thơm ngon ăn được. Chúng ta lại lấy mà ăn. Ai ăn nhiều thì nhan sắc thơ xấu, người ăn ít thì sắc cịn tươi vui. Chúng sanh do vậy ai nấy ơm lịng thị phi, ganh ghét lẫn nhau. Rồi thì, chất béo của đất khơng cịn sinh như trước, mà lại sinh ra thứ lúa tự nhiên khơng có trấu. Chúng ta lại lấy mà ăn để sống lâu ở đời. Rồi những kẻ biếng nhác tranh nhau tích trữ, nên lúa gạo trở nên hoang dại, bắt đầu có vỏ trấu, cắt rồi khơng sinh lại. Bây giờ phải làm sao đây?’ “Rồi chúng bảo nhau: ‘Chúng ta hãy phân chia đất và cắm mốc.’ Chúng chia đất và cắm mốc. “Này Bà-tất-tra, do nhân duyên ấy mới phát sinh danh từ ruộng đất. “Bấy giờ chúng sanh đó chia cắt ruộng đất, ai lập bờ cõi nấy, nên dần dần sinh ra tâm lén lút trộm cắp thóc lúa của nhau. Những chúng sanh khác trơng thấy bảo: ‘Ngươi làm quấy, ngươi làm quấy. Ngươi đã có ruộng đất mà cịn lấy trộm của người ta. Từ nay về sau khơng được làm thế nữa.’ Nhưng chúng sanh kia vẫn lấy cắp mãi. Các chúng sanh khác lại đã quở trách, nhưng nó khơng thơi, bèn lấy tay đánh và tố cáo với mọi người rằng: ‘Người này đã có ruộng lúa mà cịn lấy trộm của người khác.’ Gã này lại bảo: ‘Người này đánh tơi.’ Mọi người thấy hai bên cãi nhau mãi, thì ưu sầu khơng vui, nói nhau một cách áo não: ‘Chúng sanh đi dần đến chỗ ác, nên thế gian mới có xảy ra sự bất thiện đó. Điều xấu ác, bất tịnh đó chính là nguyên nhân của sanh, già, đau, chết và phiền não khổ báo trong ba đường ác. Bởi có ruộng đất riêng nên mới sinh kiện cáo, vậy tốt hơn chúng ta nên lập lên một người làm chủ để xử trị. Hễ ai đáng bảo hộ thì bảo hộ, ai đáng khiển trách thì khiển trách. Mỗi người chúng ta đều giảm phần gạo để cung cấp cho người ấy để lo xét xử kiện cáo.’ Họ mới lựa trong đám tơn lên một người có hình vóc to lớn, nhan mạo đoan chánh, có oai đức và bảo rằng: ‘Ngươi nay hãy vì bọn ta mà lên làm ơng chủ bình đẳng<註 n="340"/>20. Hễ thấy ai đáng bảo hộ thì bảo hộ, ai đáng khiển trách thì khiển trách, ai đáng đuổi thì đuổi. Bọn ta sẽ góp gạo cung cấp cho.’ “Người kia nhận lời lên làm chủ, trơng coi xử đốn kiện cáo. Mọi người cùng góp gạo cung cấp. “Người kia thường lấy lời hay đẹp ủy lạo mọi người và mọi người đều hoan hỷ tơn xưng rằng: ‘Lành thay Đại vương! Lành thay Đại vương!’ Từ đó thế gian mới bắt đầu có danh từ vua<註 n="341"/>21. Lấy chánh pháp trị dân, nên gọi là Sát-lî<註 n="342"/>22 và thế gian bắt đầu có tên “Sát-lî”. “Thời gian sau trong chúng độc nhất có một người suy nghó như vầy: ‘Nhà là đại hoạn, nhà là gai độc, ta thà bỏ nhà đi ở riêng trên rừng núi để nhàn tịnh tu hành thì hơn.’ Người ấy liền bỏ nhà vào rừng, trầm lặng tư duy, đến giờ ăn thì mang bình bát vào làng khất thực. Mọi người trơng thấy đều vui vẻ cúng dường, tán thán: ‘Lành thay, người này có thể bỏ nhà lên ở núi, trầm lặng tu đạo, xa lìa mọi điều xấu ác.’ Từ đó trong thế gian mới bắt đầu có tên Bà-la-mơn<註 n="343"/>23. “Nhưng trong đám Bà-la-mơn có kẻ khơng ưa ở chỗ nhàn tịnh tọa thiền tư duy, mà chỉ ưa vào nhân gian chuyên nghề tụng đọc và tự nói: “Ta là người khơng tọa thiền”. Người đời nhân đó gọi là “Bất thiền Bà-la-mơn”<註 n="344"/>24 và cũng vì hay đi vào nhân gian nên lại có tên là “Nhân gian Bà-la-mơn”. Bắt đầu từ đó trong thế gian có dịng Bà-la-mơn hiện ra. “Lại trong đám chúng sanh kia, có người ưa kinh doanh sự nghiệp, chất chứa tài bảo, nhân đó người ta kêu hạng này là hạng Cư só. Trong đám chúng sanh kia có người có nhiều cơ xảo kiến tạo, nên thế gian mới có thêm một hạng nữa gọi là Thủ-đà-la cơng xảo. “Này Bà-tất-tra! Nay thế gian có đủ tên bốn chủng tánh và thêm hạng thứ năm là chúng Sa-mơn. Như thế là vì có khi trong chúng Sát-lî, có người tự thấy nhàm chán pháp của mình, bèn cắt bỏ râu tóc, mặc pháp y tu đạo. Do đó, tên Sa-mơn bắt đầu có từ đó. Trong chúng Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la, có khi có người tự thấy nhàm chán pháp của mình, bèn cắt bỏ râu tóc, mặc pháp y tu đạo. Do đó, tên Sa-mơn bắt đầu có từ đó. “Này Bà-tất-tra! Người dịng Sát-lî mà thân làm bất thiện, miệng nói bất thiện, ý nghó bất thiện, khi thân hoại mạng chung phải thọ ác báo. Dịng người Bà-la-mơn, dịng Cư só, dịng Thủ-đà-la mà thân làm bất thiện, miệng nói bất thiện, ý nghó bất thiện, khi thân hoại mệnh chung họ cũng phải thọ ác báo như thế. “Này Bà-tất-tra! Nếu người dịng Sát-lî mà thân làm lành, miệng nói lành, ý nghó lành, khi thân hoại mệnh chung được hưởng thiện báo, thì người dịng Bà-la-mơn, dịng Cư só, dịng Thủ-đà-la mà thân làm lành, miệng nói lành, ý nghó lành, khi thân hoại mệnh chungï cũng được hưởng thiện báo như thế. “Này Bà-tất-tra! Nếu người dịng Sát-lî mà làm cả hai điều thiện ác về nơi thân, miệng, ý, khi thân hoại mệnh chung phải gặt lấy quả báo vừa khổ vừa vui, thì người dịng Bà-la-mơn, dịng Cư só, dịng Thủ-đà-la mà làm cả hai điều thiện ác về nơi thân, miệng, ý, đến khi thân hoại mệnh chung, cũng phải thọ lấy quả báo vừa khổ vừa vui như thế. “Này Bà-tất-tra! Trong dịng Sát-lî có kẻ cắt tóc cạo râu, mặc y tu đạo, tu bảy pháp giác ýù, khơng bao lâu là được thành đạo. Vì sao? Con nhà tộc tánh ấy mặc pháp y xuất gia, tu các phạm hạnh cao thượng, thì chính ngay trong hiện tại tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sanh. Trong dịng Bà-la-mơn, dịng Cư só, dịng Thủ-đà-la mà có kẻ cắt bỏ râu tóc, mặc pháp y tu đạo, tu bảy pháp giác ý, khơng lâu cũng sẽ được thành đạo như thế. Vì sao? Con nhà tộc tánh ấy xuất gia, mặc pháp y, tu các phạm hạnh vơ thượng, chính ngay trong hiện tại tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sanh. “Này Bà-tất-tra! Cả bốn chủng tánh đó, đều có thể xuất sinh bậc La-hán thành tựu viên mãn trí minh và đức hạnh, là bậc đứng nhất ở trong năm chủng tánh ấy. “Này Bà-tất-tra! Phạm thiên có bài kệ rằng: Trong đời<註 n="345"/>25, Sát-lî nhất. Bỏ chủng tánh xuất gia, Thành bậc đủ Minh Hạnh, Bậc nhất trong thế gian. “Này Bà-tất-tra! Phạm thiên nói như thế là đúng chớ khơng phải khơng đúng, khéo thọ<註 n="346"/>26 chứ khơng phải khơng khéo thọ. Lúc đó Ta liền ấn khả lời nói ấy của Phạm thiên. Vì nay Ta, là Như Lai, Chí Chân, cũng nói nghóa như thế đó: Trong đời, Sát-lî nhất. Bỏ chủng tánh xuất gia, Thành Bậc Minh Hạnh đủ, Bậc nhất trong thế gian. Bấy giờ, sau khi nghe Đức Thế Tơn nói pháp, Bà-tất-tra, Bà-la-đọa liền được tâm giải thốt vơ lậu. Nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140843">6. KINH CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG TU HÀNH<註 n="347"/>27 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại Ma-la-hê-sưu<註 n="348"/>28, du hành nhân gian, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, dần dần đi đến nước Ma-lâu<註 n="349"/>29. Bấy giờ Thế Tơn nói với các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy tự thắp sáng. Thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác. Hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác<註 n="350"/>30. “Này các Tỳ-kheo, thế nào là hãy tự thắp sáng; thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác; hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác? “Ở đây, Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân, quán thân trên nội ngoại thân, tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thọï, quán ý, quán pháp cũng vậy. Đó là Tỳ-kheo hãy tự thắp sáng; thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác; hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác. Thực hành như thế sẽ khơng bị ma nhiễu hại, cơng đức ngày một thêm. Tại vì sao? “Vào thời quá khứ xa xưa, có vị vua tên là Kiên Cố Niệm<註 n="351"/>31, là vua Quán đảnh dịng Sát-lî<註 n="352"/>32, làm Chuyển luân thánh vương, thống lãnh cả bốn châu thiên hạ. Bấy giờ nhà vua là vị Tự tại<註 n="353"/>33, cai trị bằng chánh pháp, là người tối thắng trong lồi người. Vua có đủ bảy thứ báu: bánh xe vàng báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, cư só báu, chủ binh báu. Và có một ngàn người con hùng dũng, đủ sức dẹp địch. Vua khơng cần dùng binh mà thiên hạ tự thái bình. “Vua Kiên Cố Niệm trị vì đã lâu ngày, một hơm bánh xe vàng báu ở khơng trung bỗng tự nhiên rời khỏi chỗ cũ. Người coi bánh xe gấp đến tâu vua: ‘Tâu Đại vương, nên biết, bánh xe báu nay rời khỏi chỗ cũ.’ Sau khi nghe thế, vua Kiên Cố Niệm nghó: ‘Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói: Nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương khơng cịn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm phương tiện để thọ hưởng phước lạc thiên thượng. Ta hãy lập thái tử lên thống lãnh bốn châu thiên hạ và phong riêng một ấp cho người hớt tóc, để khiến cắt bỏ râu tóc, rồi ta mặc pháp y, xuất gia tu đạo.’ “Rồi vua Kiên Cố Niệm sai gọi thái tử và bảo: ‘Khanh biết khơng? Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói, nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương khơng cịn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm phương tiện để thụ hưởng phước lạc trên Trời. Nay ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Ta đem bốn châu thiên hạ ủy thác cho ngươi. Ngươi hãy gắng sức, thương yêu dân chúng.’ Sau khi thái tử lãnh mạng. Vua Kiên Cố Niệm liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. “Vua xuất gia được bảy ngày thì bánh xe vàng báu bỗng nhiên khơng hiện ra nữa. Người coi bánh xe đến tâu vua: ‘Đại vương nên biết, nay bánh xe vàng báu bỗng nhiên biến mất. Vua khơng vui. Bèn tìm đến chỗ vua Kiên Cố Niệm. Sau khi đến, bạch rằng: ‘Phụ vương nên biết, nay bánh xe vàng báu bỗng nhiên khơng hiện ra nữa.’ Vua Kiên Cố Niệm trả lời con: ‘Ngươi chớ lo lắng cho là điều khơng vui. Bánh xe vàng báu đó khơng phải là của cha ngươi sản xuất ra. Ngươi chỉ cần gắng thi hành chánh pháp Thánh vương, rồi đến ngày rằm trăng trịn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại chánh pháp điện, có thể nữ bao quanh, tức thì có thần bảo bánh xe vàng báu tự nhiên hiện đến. Bánh xe có ngàn căm, màu sắc đầy đủ, là tác phẩm của thợ nhà trời chứ khơng phải của lồi người.’ “Thái tử tâu phụ vương: ‘Phụ vương, chánh pháp của Chuyển luân thánh vương là thế nào? Phải làm như thế nào?’ Vua bảo con: ‘Hãy nương trên pháp, an lập trên pháp, thành tựu nơi pháp; cung kính, tơn trọng, quán sát pháp; lấy pháp làm đầu, thủ hộ chánh pháp. Lại nữa, hãy răn dạy các thể nữ bằng pháp. Lại nữa, hãy chăm sóc dạy dỗ các vương tử, đại thần, các quan lại, trăm quan và thứ dân bằng pháp. Hãy hộ trì, chăm sóc các Sa-mơn, Bà-la-mơn, cho đến cầm thú.’ Rồi vua lại bảo con: ‘Lại nữa, trong cõi nước ngươi, nếu có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, tu hành thanh chơn, cơng đức đầy đủ, chuyên cần tinh tấn, xa lìa kiêu mạn, nhẫn nhục nhân ái, một mình ở chỗ nhàn tịnh tu tập, một mình yên nghỉ, một mình đạt đến Niết-bàn; tự mình diệt trừ tham dục, dạy người khác diệt trừ tham dục; tự diệt trừ sân nhuế, dạy người khác diệt trừ sân nhuế; tự diệt trừ ngu si, dạy người khác diệt trừ ngu si; ở trong chỗ ơ nhiễm họ khơng ơ nhiễm, trong chỗ tội ác họ khơng tội ác, trong chỗ ngu si họ khơng ngu si, chỗ có thể đắm trước họ khơng đắm trước, chỗ đáng trụ họ khơng trụ, chỗ đáng ở họ khơng ở, thân hành chất trực, miệng nói lời chất trực, ý nghó chất trực; thân hành thanh tịnh, miệng nói thanh tịnh, ý nghó thanh tịnh, chánh niệm thanh tịnh, nhân huệ<註 n="354"/>34, khơng hề chán; biết đủ trong sự ăn mặc và cầm bát đi khất thực để gây phước lành cho chúng sanh. Nếu có những người như thế, ngươi hãy thường nên tìm đến, tùy lúc hỏi han: phàm những điều tu hành, sao là thiện, sao là ác, sao gọi là phạm, sao gọi khơng phạm, cái nào đáng thân, cái nào khơng đáng thân, việc gì đáng làm, việc gì khơng đáng làm và thi hành pháp gì để được an lạc lâu dài? Ngươi hỏi xong rồi lấy ý mình quán xét thấy việc nên làm thì gắng làm, việc nên bỏ thì gắng bỏ. Trong nước nếu có kẻ mồ cơi, già cả hãy nên chẩn cấp. Người nghèo cùng yếu kém đến xin, cẩn thận chớ trái nghịch. Trong nước có luật pháp cũ, ngươi chớ thay đổi. Đó là những pháp mà Chuyển luân thánh vương tu hành, ngươi hãy phụng hành.” Phật nói với các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, khi Chuyển luân thánh vương nghe lời phụ vương dạy xong, thì như lời dạy mà tu hành. Đến ngày rằm trăng trịn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại bảo điện, có thể nữ bao quanh, tự nhiên có bánh xe báu hiện ra trước mặt, vành xe có ngàn căm sáng chói, do thợ trời làm chớ khơng phải đời có được. Bánh xe tồn bằng chân kim, đường kính bánh xe một trượng tư. Khi ấy, Chuyển luân thánh vương thầm nghó: ‘Ta từng nghe các bậc tiên túc kỳ cựu nói: Nếu vua Quán đảnh dịng Sát-lî, đến ngày rằm trăng trịn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại bảo điện, có thể nữ bao quanh, thời tự nhiên có bánh xe vàng hiện đến trước mặt, bánh xe có ngàn căm, ánh sáng rực rỡ, là tác phẩm của thợ nhà trời chứ khơng phải do con người làm, được làm thành bằng vàng thật, đường kính trượng tư, khi đó được gọi là Chuyển luân thánh vương. Nay có bánh xe báu ấy hiện đến há khơng là đây chăng? Ta hãy thử coi bánh xe đó thế nào?’ “Khi ấy, vua Chuyển luân liền triệu bốn thứ binh, hướng về phía bánh xe vàng, trịch áo bày vai phải, đầu gối phải quỳ sát đất, rồi lấy tay mặt vỗ lên bánh xe và nói: ‘Ngươi hãy theo đúng phép mà vận chuyển về phương Đơng, chớ trái lệ thường.’ Bánh xe liền chuyển về phương Đơng. Vua bèn dẫn bốn thứ quân binh đi theo bánh xe vàng, trước bánh xe vàng có bốn vị thần dẫn đường. Đến chỗ bánh xe vàng ngừng thì vua cũng dừng xe. Bấáy giờ, các tiểu quốc phương Đơng thấy đại vương đến, họ đem bát vàng đựng lúa bạc, bát bạc đựng lúa vàng đến trước vua, cúi đầu tâu rằng: “Đại vương đến, thật lành thay! Nay phương Đơng này đất ruộng phì nhiêu, nhân dân sung túc, tánh khí nhân hịa, từ hiếu trung thuận. Cúi mong Thánh vương lấy chánh pháp trị hóa chốn này, chúng tơi xin cung cấp hầu hạ, phục vụ mọi việc cần dùng.’ Vua Chuyển luân nói với các tiểu vương: “Thơi thơi chư Hiền! Thế là các ngươi đã cúng dường ta rồi đó. Các ngươi hãy nên lấy chánh pháp mà trị dân, chớ làm cho thiên lệch, khơng để cho quốc nội có hành vi phi pháp. Như vậy tức là ta trị hóa đó.’ Các tiểu vương vâng lệnh. Họ liền theo vua đi tuần khắp nước, đến tận mé biển Đơng mới trở về. “Vua lần lượt đi về phương Nam, rồi phương Tây, phương Bắc. Hễ bánh xe vàng đến ở đâu thì các quốc vương đều đến cống hiến như các tiểu quốc phương Đơng vậy. “Bấy giờ, vua Chuyển luân, sau khi đã theo bánh xe vàng đi khắp bốn biển, đem chánh đạo khai hóa, an ủi dân chúng xong, trở về nước, thì bánh xe vàng dừng lại trên khơng trung ngay cửa cung điện. Vua Chuyển luân vui mừng phấn khởi nói: ‘Bánh xe vàng báu này thật là điềm tốt của ta. Nay ta chính thật là Chuyển luân thánh vương.’ “Đó là sự thành tựu bánh xe vàng báu. “Vua ấy trị đời một thời gian lâu, rồi bánh xe vàng báu giữa hư khơng lại bỗng nhiên rời chỗ cũ. Người coi bánh xe gấp đến tâu vua: ‘Đại vương nên biết, nay bánh xe báu đã rời chỗ.’ Vua nghe xong liền tự mình suy nghó: ‘Ta từng nghe nơi các bậc tiên túc kỳ cựu rằng, nếu bánh xe báu dời chỗ, Chuyển luân thánh vương sống chẳng cịn bao lâu nữa. Ta nay đã hưởng thọ phước lạc của lồi người, cũng nên tìm phương tiện thọ phước lạc trên trời. Ta hãy lập thái tử thống lãnh bốn thiên hạ, phong riêng một ấp cho người hớt tóc và ra lệnh cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.’ “Rồi vua sai gọi thái tử và bảo: ‘Khanh biết khơng? Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói, nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương khơng cịn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm phương tiện để thụ hưởng phước lạc thiên thượng. Nay ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Ta đem bốn châu thiên hạ ủy thác cho ngươi. Ngươi hãy gắng sức, thương yêu dân chúng.’ Sau khi thái tử lãnh mạng, vua liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. “Vua xuất gia được bảy ngày thì bánh xe vàng bỗng nhiên khơng hiện. Người coi bánh xe đến báo tin vua: ‘Tâu Đại vương, bánh xe báu nay bỗng nhiên biến mất.’ Vua nghe xong chẳng cho đó là điều đáng lo, cũng chẳng chịu đến hỏi ý phụ vương. “Rồi vua cha bỗng nhiên thăng hà. “Kể từ đây về trước có sáu vua Chuyển luân, cứ đắp đổi trao ngơi và lấy chánh pháp trị dân, duy một ơng vua sau này tự chuyên trị nước, khơng theo pháp cũ, chánh trị bất cơng khiến thiên hạ ốn thán, quốc độ kém sút, nhân dân điêu linh. Thấy vậy có một đại thần dịng Bà-la-mơn đến tâu vua: ‘Nay quốc độ sút kém, nhân dân điêu linh, khơng được như trước. Hiện nay trong nước vua có nhiều vị trí thức, thơng minh bác đạt, rõ thấu cổ kim, biết đủ pháp chánh trị của tiên vương, sao ngài khơng vời lại để hỏi những điều họ biết, hỏi chắc họ đáp.’ Vua liền vời quần thần đến hỏi cái đạo trị chánh của Tiên vương, các vị trí thần đáp đủ mọi việc. Vua nghe xong bèn thi hành theo pháp cũ, lấy chánh pháp cứu hộ nhân dân, nhưng vẫn khơng thể chẩn tế những kẻ cơ lão, cấp thí cho người hạ cùng, nhân dân trong nước vẫn bị đưa dần tới chỗ nghèo khổ, xâm đoạt lẫn nhau mà thành có nạn đạo tặc hồnh hành. Mỗi khi có ai bị rình bắt được đem đến vua, tâu rằng: ‘Người này làm giặc, xin vua trị nó.’ Vua hỏi: ‘Có thật ngươi là giặc khơng?’ Người ấy đáp: ‘Thật. Vì tơi nghèo cùng đói khát, khơng tự sống nổi nên phải làm giặc.’ Vua liền xuất kho, lấy của cấp cho và dặn: ‘Ngươi đem của này về cung cấp cha mẹ, giúp đỡ bà con, từ nay chớ làm giặc nữa nghe.’ “Các người khác thấy vậy đồn: ‘Có kẻ làm giặc được vua cấp cho tài bảo’, nên họ cũng bắt chước làm theo. Họ lại bị rình bắt được đem đến vua, tâu rằng: ‘Người này làm giặc, xin vua trị nó.’ Vua lại hỏi: Có thật ngươi là giặc khơng?’ Người kia đáp: ‘Dạ thật. Vì tơi nghèo cùng đói khát khơng tự sống nổi, nên phải làm giặc.’ Vua lại xuất kho lấy của cấp cho và bảo: ‘Ngươi đem của này về cung cấp cha mẹ, giúp đỡ bà con, từ nay chớ làm giặc nữa nghe.’ “Lại những người khác nghe nói có kẻ làm giặc được vua cấp cho tài bảo, nên họ bắt chước rủ nhau làm theo và lại bị rình bắt đem đến vua, tâu: ‘Người này làm giặc, xin vua trị nó.’ Vua lại hỏi: ‘Có thật ngươi làm giặc khơng?’ Người kia đáp: ‘Dạ thật. Vì tơi nghèo cùng đói khát, khơng tự sống nổi nên phải làm giặc.’ Lần này vua nghó: ‘Trước có người làm giặc, ta thấy nghèo đói cấp cho tài vật, dặn thơi đừng làm. Người khác nghe thế lại bắt chước làm. Nạn đạo tặc nhân đó tràn lan mãi. Thơi bây giờ tốt hơn ta phải hạ lệnh bắt trói người này dắt đi các ngõ đường, sau đưa ra ngồi thành đến chỗ trống trải mà hành hình, để răn người sau.’ Vua liền sắc tả hữu bắt trói lại rồi đánh trống xướng lệnh đưa đi khắp ngõ đường. Xong rồi đem tới một nơi trống trải ở ngồi thành mà hành hình. Mọi người khác thấy vậy truyền nhau: ‘Nếu chúng ta làm giặc, cũng phải bị xử như thế chẳng khác gì.’ Từ đây quốc dân, để tự phịng hộ, mới tạo ra những binh trượng, gươm đao, cung tên, tàn hại nhau, tấn cơng, cướp giậït lẫn nhau. “Kể từ vua này mới bắt đầu có sự nghèo cùng. Nhân có nghèo cùng mới có đạo tặc. Nhân có đạo tặc mới có đao trượng. Nhân có đao trượng mới có sát hại. Nhân có sát hại nên nhan sắc con người mới tiều tụy, thọ mạng ngắn ngủi. Họ sống từ bốn vạn tuổi, sau lần xuống cịn hai vạn tuổi. Trong số đó có người sống lâu; có người chết yểu; có người khổ; có người sướng. Những người khổ thì sinh tâm tà dâm, tham thủ, bày đủ phương tiện để mưu đoạt của nhau, nên tai nạn nghèo cùng, trộm cướp, đao trượng, sát hại càng ngày càng nhiều, làm cho mạng người lại giảm dần xuống chỉ sống một vạn tuổi. “Trong thời gian người sống một vạn tuổi, vẫn lại trộm cướp lẫn nhau. Mỗi khi bị rình bắt đem đến vua, tâu rằng: ‘Người này làm giặc, xin vua trị nó.’ Vua hỏi: ‘Có thật ngươi làm giặc khơng?’ Người kia đáp: ‘Tơi khơng làm.’ Và ở giữa đám đơng nó cố ý nói dối. Như vậy chúng sanh lúc đó vì nghèo cùng nên trộm cướp. Vì trộm cướp nên có đao binh. Vì đao binh nên có giết hại. Vì giết hại nên có tham thủ tà dâm. Vì tham thủ tà dâm nên có nói dối. Vì có nói dối, do đó tuổi thọ lại giảm lần, chỉ cịn sống được một ngàn tuổi. “Trong thời gian sống một ngàn tuổi, bắt đầu người ta tạo bốn ác hạnh về miệng trên đời là nói dối, nói hai lưỡi, nói độc ác và nói thêu dệt. Ba ác nghiệp đó tăng dần lên thì tuổi thọ con người giảm bớt xuống, chỉ cịn sống được năm trăm tuổi. “Trong thời gian sống năm trăm tuổi, người ta lại tạo thêm ba nết ác khác là dâm dục phi pháp, tham lam phi pháp và tà kiến. Ba ác nghiệp này tăng dần lên thì tuổi thọ con người giảm bớt xuống, chỉ cịn sống đến ba trăm rồi hai trăm tuổi và nay, nhân loại trong thời ta, chỉ cịn sống được một trăm tuổi. Số tuổi thọ được tăng thì ít mà giảm thì nhiều. Hễ cứ làm ác mãi thì tuổi thọ cứ như thế giảm xuống mãi cho đến khi nhân loại chỉ cịn sống mười tuổi. “Trong thời gian nhân loại sống mười tuổi này, con gái vừa sinh ra năm tháng đã gả chồng. Ở vào thời ấy, những vị ngon ngọt như dầu mỡ, đường mật khơng cịn nghe tên. Đậu, mè, lúa, nếp biến thành cỏ rác. Những thứ danh phục, lụa là, gấm vóc, vải trắng, kiếp-ba, lụa tơ, lãnh nhiễu như bây giờ khơng thấy mặc, mà phải bện lơng gai xơ xảm lấy làm áo mặc thượng hạng. Bấy giờ, tồn cõi đất này mọc đầy gai góc, sanh đầy mịng muỗi, ruồi lằng, chấy rận, rắn rết, ong, bị cạp, trùng độc. Vàng bạc, lưu ly, trân châu, danh bảo đều lặn hết xuống đất, chỉ cịn ngói đá, sạn sỏi thì nổi cả lên trên. Nhân loại lúc đó tuyệt nhiên khơng cịn nghe đến tên thập thiện mà chỉ có thập ác dẫy đầy thế gian. Nhằm lúc cái tên thiện pháp cịn khơng nghe thấy, nhân loại khơng biết đâu để tu tập hạnh lành, do đó hễ người nào làm điều cực ác, bất hiếu với cha mẹ, bất kính với sư trưởng, bất trung bất nghóa, phản nghịch vơ đạo, thì được dân chúng tơn sùng như hiện nay người ta tơn sùng kẻ làm điều lành, hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng, trung tín tiết nghóa, thuận đạo tu nhân vậy. “Nhân loại thời ấy, phần nhiều tạo mười điều ác nên sa vào nẻo ác nhiều, hễ vừa trơng thấy nhau là họ muốn bắn giết nhau như kẻ thợ săn trơng thấy bầy nai. “Cõi đất lúc ấy đầy dẫy hố hầm, khe suối, hang hóc; đất rộng người thưa, đi lại ghê sợ. Nhằm lúc ấy thì có nạn đao binh nổi lên. Cọng cỏ nhánh cây cầm trong tay cũng đều biến thành qua mâu, giết hại nhau trong vịng bảy ngày. Khi ấy, những kẻ có trí, tìm lánh vào rừng sâu, nương ở hang hố, trong bảy ngày lịng quá sợ hãi mà phát lời từ thiện rằng: ‘Ngươi khơng hại ta, ta khơng hại ngươi.’ Họ nhờ ăn cỏ cây mà sống cịn. Qua khỏi bảy ngày họ từ núi đi ra, hễ gặp người sống sót, vừa thấy nhau đã mừng rỡ nói: ‘Ngươi khơng chết ư? Ngươi khơng chết ư?’ Giống như cha mẹ chỉ có con một, xa cách lâu ngày, nay gặp lại mừng khơng xiết kể. Họ đem lịng mừng rỡ chúc hỏi nhau như thế xong, sau mới thăm hỏi đến nhà, thì hay rằng thân thuộc nhà họ đã chết đi nhiều, nên họ lại buồn khóc, than van, kêu ca với nhau trong suốt bảy ngày tiếp. “Hết bảy ngày buồn khóc, tiếp đến bảy ngày họ cùng nhau chúc mừng, hoan lạc và tự nghó: ‘Vì chúng ta chứa ác quá nhiều nên gặp phải tai nạn, khiến thân tộc chết chóc, gia quyến mất tiêu. Vậy nay ta nên chung nhau tu tập điều lành, nhưng hãy tu điều lành gì? Ta nên đừng sát sinh.’ “Bấy giờ nhân loại lại phát từ tâm, khơng tàn hại nhau, nhờ đó nhân loại được tăng dần sắc lực và thọ mạng từ mười tuổi nay sống lên hai mươi tuổi. Trong lúc sống hai mươi tuổi lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít hạnh lành khơng tàn hại nhau mà thọ mạng tăng lên hai mươi tuổi. Có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Trước đã khơng sát sinh rồi, giờ ta nên đừng trộm cắp.’ Và do tu điều khơng trộm cắp mà thọ mạng tăng lên bốn mươi tuổi. Trong lúc sống bốn mươi tuổi, lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít lành mà thọ mạng tăng lên, nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên tu điều khơng tà dâm. ‘Từ đó mọi người đều khơng tà dâm và thọ mạng tăng lên tám mươi tuổi. Trong lúc sống tám mươi tuổi, lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít lành mà thọ mạng tăng lên, nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên khơng nói dối.’ Từ đó mọi người thảy đều khơng nói dối và thọ mạng tăng lên đến một trăm sáu mươi tuổi. Trong lúc sống một trăm sáu mươi tuổi lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên khơng nói hai lưỡi.’ Từ đó mọi người đều khơng nói hai lưỡi và thọ mạng tăng lên ba trăm hai mươi tuổi. Trong lúc sống ba trăm hai mươi tuổi, lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên khơng ác khẩu.’ Từ đó mọi người khơng ác khẩu và thọ mạng tăng lên sáu trăm bốn mươi tuổi. Trong lúc sống sáu trăm bốn mươi tuổi, lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên khơng nói thêu dệt.’ Từ đó mọi người khơng nói thêu dệt và thọ mạng tăng lên đến hai ngàn tuổi. Trong lúc sống hai ngàn tuổi, lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên khơng xan tham.’ Từ đó mọi người khơng xan tham và thọ mạng tăng lên đến năm ngàn tuổi. Trong lúc sống năm ngàn tuổi, lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên khơng tật đố, Từ tâm tu thiện.’ Từ đó mọi người khơng tật đố, Từ tâm tu thiện và thọ mạng tăng lên đến một vạn tuổi. Trong lúc sống một vạn tuổi, lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên tu chánh kiến, khơng sanh điên đảo.’ Từ đó mọi người tu chánh kiến, khơng sanh điên đảo và thọ mạng tăng lên đến hai vạn tuổi. Trong lúc sống bốn vạn tuổi, lại suy nghó: ‘Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng.’ Từ đó mọi người đều hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng và thọ mạng tăng lên đến tám vạn tuổi. “Trong lúc nhân loại sống tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới gả chồng và có chín thứ bệnh là lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện, tham dục, ham ăn và già nua. Cõi đất lúc ấy bằng phẳng khơng có rạch hầm, gị nổng gai góc, cũng khơng mịng muỗi, rắn rết, trùng độc. Ngói, đá, cát, gạch thì biến thành lưu ly. Nhân dân sung túc, ngũ cốc rẻ thường, giàu vui khơng xiết tả. Có tám vạn thành lớn được dựng lên, thơn thành san sát gần nhau, gà gáy cùng nghe được. “Vào thời kỳ ấy thì có Đức Phật ra đời hiệu là Di-lặc<註 n="355"/>35 Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ như Đức Thích-ca Như Lai ngày nay khơng khác. Đức Di-lặc kia tự mình tu chứng ngay ở giữa hàng chư Thiên, Đế Thích, Ma, Thiên ma, Sa-mơn, Bà-la-mơn và Nhân gian, mà tự thân tác chứng, cũng như ta ngày nay ở ngay giữa hàng chư Thiên, Đế Thích, Ma hoặc Thiên ma, Sa-mơn, Bà-la-mơn và Nhân gian mà tự mình tác chứng vậy. “Đức Di-lặc sẽ thuyết pháp, khoảng đầu, giữa và cuối đều trọn lành, đầy đủ nghóa vị, tịnh tu phạm hạnh như ngày nay Ta thuyết pháp, khoảng đầu, giữa, cuối đều chân chánh, nghóa vị đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh vậy. “Đức Di-lặc có chúng đệ tử vơ số ngàn vạn, như Ta ngày nay có đệ tử vài trăm<註 n="356"/>36. Nhân dân lúc ấy gọi đệ tử Ngài là Từ tử như gọi đệ tử Ta nay là Thích tử. “Lúc ấy, có vua tên là Tương-già<註 n="357"/>37, là vua Sát-lî Chuyển luân thánh vương quán đảnh<註 n="358"/>38, cai trị bốn châu thiên hạ. Vua lấy chánh pháp trị dân, ai nấy đều mến phục. Vua có đủ bảy thứ báu là bánh xe vàng, voi trắng, ngựa xanh, thần châu, ngọc nữ, cư só, chủ binh và ngàn người con dõng mãnh hùng nghị, đủ sức dẹp ngoại địch, được bốn phương kính thuận, khơng cần binh đao mà thiên hạ thái bình. “Vua thiết lập một Đại bảo tràng<註 n="359"/>39 vịng vây mười tầm, cao một ngàn tầm, được trang nghiêm với ngàn sắc lẫn lộn. Bảo tràng có một trăm góc<註 n="360"/>40; mỗi góc có trăm nhánh, dệt bằng chỉ báu, có các châu bảo xen lẫn. Sau khi lập bảo tràng để cúng thí hàng Sa-mơn, Bà-la-mơn và người nghèo trong nước xong, vua cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, tập hạnh vơ thượng, ngay trong pháp hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử dứt hết, phạm hạnh thành tựu, việc làm hồn mãn, khơng cịn phải chịu thân sau nữa.” Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo! Các ngươi hãy siêng tu các thiện hạnh. Nhờø tu thiện hạnh mà thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an ổn khối lạc, tài bảo phong nhiêu, oai lực đầy đủ, giống như các vua thuận làm theo cựu pháp của Chuyển luân thánh vương thời thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an ổn khối lạc, tài bảo phong nhiêu, oai lực đầy đủ. Tỳ-kheo cũng vậy, nên tu thiện pháp, thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an ổn khối lạc, tài bảo phong phú, oai lực đầy đủ. “Thế nào gọi là Tỳ-kheo được thọ mạng lâu dài? Tỳ-kheo tu tập dục định, tinh cần khơng giải đãi, do thành tựu diệt hành mà tu thần thơng<註 n="361"/>41. Tu tập tinh tấn định, ý định, tư duy định, tinh cần khơng giải đãi, do thành tựu diệt hành mà tu thần thơng. Như thế là Tỳ-kheo thọ mạng lâu dài. “Thế nào gọi là Tỳ-kheo được nhan sắc thêm tươi? Ở đây, Tỳ-kheo có giới Cụ túc, thành tựu oai nghi, thấy có tội nhỏ đã sanh lịng sợ lớn, học tập đầy đủ trong các học giới<註 n="362"/>42, hồn tồn khơng thiếu sót. Như thế là Tỳ-kheo nhan sắc thêm tươi. “Thế nào gọi là Tỳ-kheo được an ổn khối lạc? Ở đây, Tỳ-kheo đoạn trừ dâm dục, xả bỏ pháp bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc phát sanh do viễn ly, chứng đệ Nhất thiền. Trừ diệt giác và quán, nội đẳng tịnh<註 n="363"/>43, tâm chuyên nhất, khơng giác khơng quán, có hỷ lạc phát sanh do định, chứng đệ Nhị thiền. Lìa hỷ, an trú xả, chuyên tâm khơng tán loạn, tự mình biết rõ cảm giác lạc nơi thân, an trú nơi điều mà Hiền thánh nói là xả-niệm-lạc<註 n="364"/>44, chứng đệ Tam thiền. Dứt khổ dứt lạc, ưu và hỷ đã loại trừ từ trước, khơng khổ khơng lạc, xả và niệm thanh tịnh, chứng đệ Tứ thiền. Như thế là Tỳ-kheo an ổn, khối lạc. “Thế nào gọi là Tỳ-kheo được tài bảo phong nhiêu? Ở đây, Tỳ-kheo lo tu tập Từ tâm, khắp một phương, rồi đến các phương khác cũng vậy, bao trùm, rộng lớn, bình đẳng vơ lượng, trừ mọi ốn kết, tâm khơng tật đố, tịch mặc từ nhu. Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. Như thế là Tỳ-kheo được tài bảo phong nhiêu. “Thế nào gọi là Tỳ-kheo được oai lực đầy đủ? Ở đây, Tỳ-kheo hiểu biết một cách như thật về Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Như thế là Tỳ-kheo được oai lực đầy đủ. Này các Tỳ-kheo! Nay Ta xem khắp những người có sức lực khơng ai hơn ma lực, nhưng Tỳ-kheo đã đoạn trừ hết hoặc lậu, thì lại thắng được chúng ma đó. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140845">7. KINH TỆ-TÚ<註 n="365"/>45 Lúc bấy giờ, Đồng nữ Ca-diếp<註 n="366"/>46 cùng năm Tỳ-kheo du hành từ nước Câu-tát-la lần đến thơn Bà-la-mơn tên là Tư-bà-hê<註 n="367"/>47. Rồi Đồng nữ Ca-diếp nghỉ tại phía Bắc rừng Thi-xá-bà<註 n="368"/>48. Lúc đó có người Bà-la-mơn tên Tệ-tú<註 n="369"/>49, xưa nay ở thơn Tư-bà-hê, một thơn giàu vui, nhân dân đơng đúc, cây cối sầm uất do vua Ba-tư-nặc đã phong riêng cho Bà-la-mơn Tệ-tú coi như là một ân điển<註 n="370"/>50. Bà-la-mơn Tệ-tú là người thường chấp giữ dị kiến và dạy mọi người rằng: “Khơng có thế giới khác, cũng khơng có hóa sinh<註 n="371"/>51, khơng quả báo thiện ác.” Lúc bấy giờ, người trong thơn Tư-bà-hê nghe có Đồng nữ Ca-diếp cùng năm Tỳ-kheo từ nước Câu-tát-la đi lần đến nghỉ tại rừng Thi-xá-bà, bàn nhau rằng: “Vị Đồng nữ Ca-diếp này có tiếng tăm lớn, đã chứng A-la-hán, kỳ cựu trưởng túc, đa văn, quảng bác, thơng minh duệ trí, biện tài ứng cơ, giỏi cách nghị luận, nếu chúng ta gặp được thì hay lắm”. Rồi người trong thơn cứ ngày ngày thay nhau tìm đến Ca-diếp. Bấy giờ Tệ-tú đang đứng trên lầu cao trơng thấy mọi người từng đồn nối nhau kéo đi mà chẳng biết đi đâu, mới hỏi người cầm lọng hầu rằng: “Những người kia vì sao họp thành đồn nối nhau như thế?” Người hầu đáp: “Tơi nghe nói Đồng nữ Ca-diếp cùng năm trăm Tỳ-kheo từ nước Câu-tát-la đến nghỉ tại rừng Thi-xá-bà. Lại nghe đồn người ấy có tiếng tăm lớn, đã chứng La-hán, kỳ cựu trưởng túc, đa văn quảng bác, thơng minh duệ trí, biện tài ứng cơ, giỏi cách nghị luận. Những người kia họp thành đồn nối nhau là đồn muốn đến gặp Ca-diếp đấy.” Tệ-tú liền sai người hầu: “Ngươi hãy mau tới nói mấy người ấy, bảo hãy dừng lại, chờ ta cùng đi đến gặp với. Vì sao? Vì người kia ngu si, nhầm lẫn, lừa dối thế gian, nói có thế giới khác, có hóa sinh, có quả báo thiện ác. Song kỳ thật khơng có thế giới khác, khơng có hóa sinh, khơng có quả báo thiện ác.” Người hầu vâng lời đến nói với người thơn Tư-bà-hê kia rằng: “Ơng Bà-la-mơn bảo các người hãy dừng lại chờ, để cùng đi gặp gỡ.” Người trong thơn đáp: “Hay lắm, nếu muốn đi, chúng ta hãy cùng đi.” Người hầu về thưa lại: “Những người kia đang dừng lại đợi. Đi được thì đi mau.” Tệ-tú liền xuống lầu, sai người hầu sắp sửa xe cộ, rồi với đồn người trong thơn vây quanh nhau, ơng đi đến rừng Thi-xá-bà. Khi đến nơi, ai nấy đều xuống xe đi bộ đến chỗ ngài Ca-diếp, hỏi han xong ngồi lại một bên. Người trong thơn ấy, Bà-la-mơn có, cư só có, có người lễ bái Ca-diếp rồi mới ngồi, có người hỏi han rồi ngồi, có người tự xưng tên mình rồi ngồi, có người chắp tay xá rồi ngồi, có người chỉ lặng lẽ ngồi xuống. Bấy giờ Bà-la-mơn Tệ-tú nói với Ca-diếp: “Nay tơi có điều muốn hỏi. Ngài có rỗi rảnh cho phép được hỏi khơng?” Ca-diếp đáp: “Tùy theo chỗ ơng hỏi, nghe rồi mới biết.” Tệ-tú nói: “Luận thuyết của tơi là khơng có thế giới khác, khơng có hóa sinh, khơng có quả báo tội phước. Luận thuyết của ngài thế nào?” Ca-diếp đáp: “Nay tơi hỏi ơng. Ơng hãy trả lời theo ý nghó của mình. Hiện mặt trời, mặt trăng ở trên kia thuộc về thế giới này hay thế giới khác? Thuộc về trời hay về người?” Bà-la-mơn đáp: “Mặt trời, mặt trăng là thuộc về thế giới khác chớ khơng phải thế giới này; thuộc về trời chớ khơng phải người.” Ca-diếp nói: “Như vậy có thể biết tất phải có thế giới khác, phải có hóa sinh, phải có quả báo thiện ác.” Bà-la-mơn nói: “Tuy ngài nói có thế giới khác, có hóa sinh, có quả báo thiện ác, nhưng theo ý tơi thì khơng tất cả.” Ca-diếp hỏi: “Có nhân duyên gì để biết khơng có thế giới khác, khơng có hóa sinh, khơng có quả báo thiện ác?” “Có nhân duyên.” “Nhân duyên gì để nói biết khơng có thế giới khác, khơng có hóa sinh, khơng có quả báo thiện ác?” Bà-la-mơn nói: “Này Ca-diếp, nguyên tơi có người bà con quen biết, mắc phải bệnh ngặt, tơi đến nói hỏi rằng: ‘Các Sa-mơn, Bà-la-mơn thường chấp theo dị kiến, cho rằng những người sát sinh, trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi, nói dối, nói thêu dệt, xan tham, tật đố, tà kiến, sau khi chết đều bị đọa địa ngục. Nhưng tơi khơng tin vì tơi chưa hề thấy người nào chết rồi trở lại nói cho biết chỗ họ đọa vào. Nếu có người trở lại nói cho biết chỗ họ đọa vào, thì tơi tin ngay. Nay anh là chỗ thân thuộc của tơi. Anh đã tạo đủ mười điều ác. Nếu quả như lời Sa-mơn nói thì anh chết chắc phải sa vào địa ngục. Nay tơi tin ở anh, tùy theo anh để quyết định. Nếu xét có cảnh địa ngục thật, anh hãy trở lại nói cho tơi biết. Sau đó tơi sẽ tin.’ Nhưng, này Ca-diếp, từ khi người ấy chết đến nay biệt mất khơng hề trở lại. Người ấy là người thân của tơi, khơng lẽ dối tơi, hứa rồi khơng trở lại. Do đó tơi biết chắc khơng có thế giới khác.” Ca-diếp trả lời: “Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tơi sẽ dẫn ví dụ để giải bày. Ví như một tên đạo tặc, thường ơm lịng gian trá, vi phạm phép cấm nhà vua, bị rình bắt đem đến vua và tâu: ‘Người này là giặc cướp, xin vua trị nó.’ Vua liền hạ lệnh tả hữu bắt trói kẻ kia bêu rêu khắp các ngõ đường, rồi chở ra khỏi thành, giao cho đao phủ xử hình. Khi tả hữu mang tên cướp đó giao cho đao phủ, tên giặc cướp ấy dùng lời mềm mỏng xin với thị vệ rằng: ‘Xin ơng thả cho tơi về thăm bà con xóm làng để nói vài lời từ biệt, xong tơi trở lại.’ Này Bà-la-mơn, ơng nghó sao, thị vệ kia có chịu thả khơng?” Đáp: “Khơng”. Ca-diếp nói: “Họ là người cùng loại, ở cùng một đời hiện tại, cịn khơng chịu thả huống gì bà con ơng tạo đủ mười điều ác, chết tất đọa địa ngục. Ngục quỷ khơng có từ tâm, lại khơng cùng một loại, thế giới chết sống khác nhau. Khi đó bà con ơng nếu lấy lời ngon ngọt xin quỷ ngục rằng: ‘Ngươi hãy tạm tha ta, để ta trở lại nhân gian thăm bà con, từ biệt vài lời xong ta sẽ trở lại.’ Người ấy có được thả khơng?” Đáp: “Khơng”. Ca-diếp nói: “Cứ so sánh theo đó đủ biết. Tại sao ngươi cịn giữ chặt chỗ mê lầm, sinh điều tà kiến như thế?” Tệ-tú nói: “Tuy ngài dẫn dụ bảo có thế giới khác, nhưng tơi vẫn cho là khơng có.” Ca-diếp hỏi: “Ơng cịn duyên cớ gì khác để biết khơng có thế giới khác?” “Có duyên cớ khác để biết khơng có thế giới khác.” “Duyên cớ gì?” “Này Ca-diếp, nguyên tơi có người bà con mắc phải bệnh nặng, tơi đến nói với nó rằng: ‘Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, chấp theo dị kiến bảo có thế giới khác. Rằng ai khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng hai lưỡi, khơng nói dữ, khơng vọng ngữ, khơng nói thêu dệt, khơng tham lam, khơng tật đố, khơng tà kiến, thì khi chết được sinh lên cõi trời. Tơi trước kia khơng tin điều đó, vì từ trước tơi chưa từng thấy người nào chết rồi trở lại nói cho biết chỗ họ đã sinh tới. Nếu có ai trở lại nói cho biết chỗ họ sinh đến thì tơi tin ngay. Nay anh là chỗ bà con tơi, anh đã tạo đủ mười điều lành. Nếu quả như lời Sa-mơn, Bà-la-mơn nói thì anh chết rồi sẽ được sanh lên cõi trời. Bây giờ tơi tin anh để quyết định. Vậy nếu xét thật có quả báo cõi trời, anh phải nhớ trở lại nói cho tơi biết để tơi tin.’ Nhưng, này Ca-diếp, từ ngày anh ta chết đến nay khơng hề trở lại. Anh ta là người thân của tơi, khơng thể dối tơi, hứa rồi khơng trở lại. Nên chắc khơng có thế giới khác.” Ca-diếp nói: “Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ ngươi rõ. Ví như có người bị rớt xuống hầm xí, đầu mình chìm nghỉm. May được vua cho người vớt lên. Lấy tre làm lược, cạo trên thân người ấy ba lần, rồi lấy nước tháo đậu, tro sạch rửa lần. Sau lại lấy nước thơm tắm gội, lấy các thứ bột hương xoa khắp mình và bảo thợ cạo sạch râu tóc cho. Lại cho người tắm gội thêm ba lần như thế, lấy nước thơm rửa, lấy bột hương xoa mình và lấy áo tốt mặc cho, làm đẹp thân thể người ấy. Tiếp đến, người ta đem thức ngon vị ngọt cho ăn rồi đưa đến ở ngơi nhà cao đẹp cho hưởng thú ngũ dục. Này Tệ-tú, về sau người kia có muốn rớt xuống hầm xí nữa khơng?” “Khơng. Chỗ dơ thối đó, cịn trở lại làm gì.” “Chư Thiên cũng thế. Họ cho cõi Diêm-phù<註 n="372"/>52 này là nơi tanh hơi bất tịnh. Họ ở cách trên xa hàng trăm do-tuần cịn nghe mùi hơi của nhân gian xơng lên khơng khác hầm xí. Như vậy, này Bà-la-mơn, bà con của ơng đầy đủ thập thiện, tất nhiên sanh thiên, hưởng thú ngũ dục, khối lạc vơ cùng, phỏng có chịu trở lại cõi Diêm-phù hầm xí này khơng?” Đáp: “Khơng”. “Cứ so sánh theo đó đủ biết, tại sao ơng cịn giữ chặt mê lầm, sinh điều tà kiến thế!” Bà-la-mơn nói: “Tuy ngài dẫn dụ nói có thế giới khác, song tơi vẫn cho là khơng có.” Ca-diếp hỏi: “Ơng cịn duyên cớ gì khác để biết khơng có thế giới khác?” “Có duyên cớ khác.” “Duyên cớ gì?” “Này Ca-diếp, nguyên tơi có người bà con mắc bệnh trầm trọng, tơi đến nói rằng: ‘Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, chấp theo dị kiến, bảo có đời sau. Rằng người nào khơng sát, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu thì khi chết được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Nhưng tơi khơng tin vì tơi chưa từng thấy có ai chết rồi trở lại nói cho biết chỗ họ đã sanh tới. Nếu có ai trở lại cho biết thì tơi tin ngay. Nay anh là bà con tơi, anh tu đủ ngũ giới, chết rồi chắc được sinh lên cõi Đao-lợi. Giờ tơi chỉ cịn tin anh để quyết định. Vậy nếu quả có cõi thiên phước, anh hãy trở lại nói cho tơi biết để tơi tin.’ Nhưng này Ca-diếp, từ ngày anh ta chết đến nay khơng hề trở lại. Anh ta là bà con tơi, khơng lẽ dối tơi, hứa rồi khơng lại? Nên chắc khơng có đời sau.” Ca-diếp đáp: “Ở cõi này một trăm năm chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Đao-lợi. Cõi Đao-lợi cũng lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, mà người ở cõi trời kia lại sống lâu một ngàn năm như thế. Bà-la-mơn, ơng nghó thế nào? Khi người bà con ơng giữ gìn đủ ngũ giới, chết được sinh lên cõi trời Đao-lợi thì nghó rằng: ‘Ta đã được sinh lên đây, ta hãy vui chơi trong hai, ba ngày, sau trở lại báo tin cho bà con ta hay.’ Như thế, chừng có gặp được khơng?” “Khơng. Khi ấy tơi đã chết mất lâu rồi, làm sao gặp được. Nhưng tơi khơng tin; ai đã nói với ngài cõi trời Đao-lợi có sự sống lâu như thế?” “Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ ngươi rõ. Ví như có người sinh ra đã bị đui, khơng hiểu năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, thơ, tế, dài, vắn; cũng khơng thấy mặt trời, mặt trăng, sao, gị nổng, ngịi, rãnh gì gì cả. Nếu có ai hỏi nó xanh, vàng, đỏ, trắng như thế nào, thì nó trả lời ngay: ‘Khơng có năm màu sắc’. Cũng vậy, nếu hỏi đến thơ, tế, dài, vắn, mặt trời, mặt trăng, sao, gị, nổng, ngịi, rãnh, thì nó cũng trả lời khơng có. Bà-la-mơn, ơng nghó thế nào, người mù trả lời như thế có đúng khơng?” “Khơng đúng. Vì sao? Thế gian hiện có năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, thơ, tế, dài, vắn, mà người mù bảo khơng.” “Này Bà-la-mơn, ơng cũng như thế. Sự sống lâu của trời Đao-lợi có thật, khơng hư dối; chỉ vì ngươi khơng thấy nên ngươi mới nói khơng có thơi.” Bà-la-mơn nói: “Tuy ngài nói có, nhưng tơi vẫn khơng tin.” Ca-diếp hỏi: “Ơng cịn có duyên cớ gì mà cho là khơng có đời sau?” “Này Ca-diếp, nguyên người trong phong ấp của tơi có kẻ ăn cướp bị rình bắt được đem đến tơi và nói: ‘Người này là giặc cướp, xin ơng trị nó.’ Tơi liền bảo trói người ấy lại bỏ vào trong một cái vạc, đậy nắp trét kín với một lớp bùn dày, khơng để cho cái gì tiết ra được, rồi lấy lửa vây đốt. Lúc đó tơi cố tìm thử thần thức người ấy thốt ra chỗ nào, nên khiến kẻ thị tùng bao quanh cái vạc nhìn kỹ, song khơng ai thấy chỗ thần thức chui ra ở đâu. Sau tơi lại bổ cái vạc ra tìm, cũng chẳng thấy chỗ nào là chỗ thần thức qua lại. Vì duyên cớ đó nên tơi biết chắc khơng có thế giới khác.” Ca-diếp nói: “Nay tơi hỏi ơng, nếu trả lời được thì tùy ý mà trả lời. “Này Bà-la-mơn, khi ơng nằm ngủ trên lầu cao, có lúc nào ơng ngủ mộng thấy núi, rừng, sơng, ngịi, vườn quán, ao hồ, quốc ấp, đường sá khơng?” Đáp: “Có mộng thấy”. “Này Bà-la-mơn, lúc ơng đang nằm mộng, quyến thuộc trong nhà có hầu quanh ơng khơng?” Đáp: “Có hầu”. “Quyến thuộc của ơng khi đó có thấy thần thức ơng đi ra đi vào khơng?” “Khơng thấy.” “Ơng hiện cịn sống mà thần thức ra vào cịn khơng thấy được, huống nơi người chết. Ngươi khơng thể chỉ dựa vào việc trước mắt mà quán sát chúng sanh. “Này Bà-la-mơn, có những vị Tỳ-kheo, từ đầu đêm chí cuối đêm khơng ngủ, tinh cần chuyên niệm đạo phẩm, lấy sức tam-muội mà tịnh tu thiên nhãn. Rồi bằng năng lực thiên nhãn mà quán thấy chúng sanh chết chỗ này sinh chỗ kia, chết chỗ kia sinh chỗ này, sống lâu hay chết yểu, nhan sắc tốt hay xấu, tùy hành vi mà thọ báo ở cảnh giới tốt hay xấu, đều thấy biết hết. Ơng khơng nên vì lẽ con mắt thịt uế trược khơng nhìn thấy suốt chỗ thú hướng của chúng sanh mà vội cho là khơng có. Này Bà-la-mơn, do đó có thể biết chắc chắn có thế giới khác.” Bà-la-mơn nói: “Tuy Ngài dẫn dụ nói có thế giới khác, nhưng theo chỗ tơi biết thì hẳn khơng có.” Ca-diếp hỏi: “Ơng cịn cóù duyên cớ gì cho là khơng có thế giới khác?” Đáp: “Có”. “Duyên cớ gì?” Bà-la-mơn nói: “Nguyên người ở thơn tơi, có kẻ làm giặc cướp, bị rình bắt được đem đến tơi và nói: ‘Người này làm giặc cướp, xin ơng trị nó.’ Tơi liền sai tả hữu bắt trói người ấy lại, để sống vậy mà lột da tìm thần thức. Nhưng khơng trơng thấy gì cả. Lại sai tả hữu cắt thịt ra tìm thần thức, cũng chẳng thấy. Lại sai xẻ xương, gân, vạch ra tìm cũng chẳng thấy. Lại sai đập xương tìm trong tủy, cũng chẳng thấy. Này Ca-diếp, vì cớ đó, tơi biết chắc khơng có thế giới khác.” Ca-diếp nói: “Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà được rõ. Để tơi dẫn chuyện này cho ơng rõ. Vào thời quá khứ xa xưa, có một quốc độ bị điêu tàn hoang phế chưa hồi phục. Bấy giờ có đồn lái buơn gồm năm trăm cỗ xe đi ngang qua quốc độ này, gặp một người Phạm chí thờ phụng thần Lửa thường nghỉ tại một khu rừng. Các người lái buơn mới đến xin ngủ trọ. Sáng ngày, sau khi bọn lái buơn đi, ơng Phạm chí thầm nghó: ‘Ta hãy đến chỗ mấy người lái buơn ngủ khi đêm xem thử họ có bỏ sót gì chăng?’ Ơng liền đến xem thì khơng thấy gì trừ một đứa con nít mới sanh độ một năm, đang ngồi một mình. Ơng Phạm chí nghó: ‘Ta đâu có thể nhẫn tâm thấy đứa nhỏ này chết trước mặt mình. Ta có nên mang đứa nhỏ này về chỗ mình để nuơi chăng?’ Ơng liền bồng về chỗ mình ở mà nuơi. Đứa trẻ mỗi ngày mỗi lớn, được mười tuổi hơn. Lúc đó ơng Phạm chí có chút việc muốn đi vào nhân gian, mới dặn đứa nhỏ: ‘Ta có chút việc, tạm đi khỏi ít hơm. Ngươi khéo giữ gìn ngọn lửa này chớ để tắt. Nếu lửa có tắt, thì hãy lấy hai thanh củi cọ lại với nhau mà lấy lửa đốt lên.’ Dặn xong, Phạm chí ra đi. Sau khi ơng đi, đứa nhỏ ham chơi, khơng chịu coi lửa cho thường, để lửa tắt. Đứa nhỏ hết chơi trở về thấy lửa đã tắt, áo não than thầm: ‘Ta làm hỏng rồi! Cha ta khi đi có dặn bảo ta phải trơng coi ngọn lửa này đừng để tắt. Nay ta ham chơi, để cho lửa tắt. Phải làm gì đây?’ Nó liền thổi tro tìm lửa. Chẳng thấy lửa đâu. Lại lấy búa chẻ củi ra tìm, cũng chẳng thấy. Lại chặt củi thành khúc bỏ vào cối giã để tìm. Cũng chẳng thấy. Sau đóù Phạm chí từ ngồi trở về, đến khu rừng mà ơng trú ngụ, hỏi đứa nhỏ: ‘Trước khi đi ta đã dặn ngươi coi lửa. Lửa có tắt khơng?’ Đứa nhỏ đáp: ‘Vừa rồi con chạy ra ngồi chơi, khơng coi lửa thường, nên lửa đã tắt.’ Phạm chí lại hỏi: ‘Người làm cách nào để lấy lửa lại?’ Đứa nhỏ đáp: ‘Lửa phát ra từ củi. Con lấy búa bửa củi ra tìm mà chẳng thấy. Lại chặt nhỏ bỏ trong cối giã để tìm, cùng chẳng thấy.’ Ơng Phạm chí liền lấy hai thanh củi cọ nhau, bỗng phát ra lửa. Ơng chất củi lên đốt và bảo đứa nhỏ: ‘Muốn tìm lửa phải làm đúng cách này. Khơng nên chẻ củi, giã nát củi ra mà tìm.’ “Này Bà-la-mơn, ơng cũng giống như thế. Chẳng có phương pháp nào đi lột da người chết ra mà tìm thần thức. Ơng khơng thể dựa vào việc hiện trước mắt mà xem xét chúng sanh. “Này Bà-la-mơn, có những vị Tỳ-kheo, từ đầu đêm đến cuối đêm khơng ngủ, tinh cần chuyên niệm đạo phẩm, lấy sức tam-muội mà tịnh tu thiên nhãn. Rồi bằng năng lực thiên nhãn mà quán thấy chúng sanh chết chỗ này sinh chỗ kia, chết chỗ kia sinh chỗ này, sống lâu hay chết yểu, nhan sắc tốt hay xấu, tùy hành vi mà thọ báo ở cảnh giới tốt hay xấu, đều thấy biết hết. Ơng khơng nên vì lẽ con mắt thịt uế trược khơng nhìn thấy suốt chỗ thú hướng của chúng sanh mà vội cho là khơng có. “Này Bà-la-mơn, do đó có thể biết, tất phải có thế giới khác vậy.” Tệ-tú nói: “Tuy ngài dẫn dụ nói có thế giới khác, song theo chỗ tơi biết thì hẳn khơng có.” Ca-diếp hỏi: “Ơng cịn có duyên cớ gì cho là khơng có thế giới khác?” “Có.” “Duyên cớ gì?” Bà-la-mơn nói: “Ở phong ấp của tơi, có kẻ làm giặc cướp, bị rình bắt được, đem đến tơi và nói: ‘Người này làm giặc, xin ơng trị nó.’ Tơi liền sai tả hữu đem người ấy ra cân. Người hầu vâng mạng, đem nó đi cân. Tơi lại bảo người hầu: ‘Ngươi mang người này đi giết từ từ, êm thấm, khơng làm hao tổn lấy một chút da thịt.’ Người hầu vâng lệnh giết mà khơng để chút hao hụt. Tơi sai tả hữu đem xác người ấy cân lại. Nó lại nặng hơn trước. “Này Ca-diếp, thân người ấy khi sống, thần thức đang cịn, nhan sắc tốt tươi, cịn nói năng được mà đem cân thì nhẹ. Đến khi chết, thần thức đã mất, nhan sắc khơng cịn tươi tốt, khơng nói năng được mà đem cân thì lại thấy nặng. Vì cớ đó nên tơi biết khơng có đời sau.” Ca-diếp nói: “Tơi nay hỏi ơng. Tùy ý trả lời. “Ví như người cân sắt. Khi sắt cịn nguội đem cân thì nặng. Sau đốt đỏ đem cân lại nhẹ. Tại sao khi sắt nóng, mềm, có màu đỏ sáng mà nhẹ, khi sắt nguội, cứng, khơng màu đỏ sáng mà lại nặng?” Bà-la-mơn nói: “Sắt nóng có màu đỏ và mềm, nên nhẹ; sắt nguội khơng màu đỏ mà cứng, nên nặng.” Ca-diếp nói: “Con người cũng thế. Khi sống có nhan sắc, mềm mại mà nhẹ. Khi chết khơng nhan sắc, cứng đơ mà nặng. Do đây mà biết tất có thế giới khác.” Tệ-tú nói: “Tuy ngài dẫn dụ nói có thế giới khác. Nhưng theo tơi biết thì khơng có thế giới khác.” Ca-diếp hỏi: “Ơng cịn có duyên cớ gì mà cho là khơng có thế giới khác?” “Có. Nguyên tơi có người bà con mắc bệnh nặng. Tơi đến thăm, bảo người đỡ nằm nghiêng tay mặt. Người ấy liếc ngó, co duỗi, nói năng như thường. Tơi lại bảo đỡ nằm nghiêng tay trái, người ấy cũng cịn liếc ngó, co duỗi, nói năng như thường. Rồi nó chết. Tơi lại bảo đỡ xác người ấy nằm nghiêng tay mặt, tay trái, lật sấp, lật ngửa, xem kỹ thì khơng thấy người ấy co duỗi, liếc ngó, nói năng chi cả. Do đó tơi biết chắc khơng có thế giới khác.” Ca-diếp nói: “Người trí nhờ thí dụ mà được rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ cho ơng rõ. “Xưa có một quốc độ khơng ai từng nghe tiếng tù và. Hơm nọ có người thổi tù và giỏi, đến nước đó, đi vào trong một thơn nọ, cầm tù và thổi ba tiếng rồi bỏ xuống đất. Khi ấy, trai gái trong thơn nghe tiếng lạ kinh động, rủ nhau đến hỏi: ‘Thứ tiếng gì mà trong trẻo hịa dịu như thế?’ Người chủ chỉ vào tù và mà nói ‘Tiếng của cái đó.’ Người trong thơn liền lấy tay vỗ vào tù và, nói: ‘Ngươi kêu lên, ngươi kêu lên.’ Nhưng tù và bặt khơng kêu. Người chủ lại cầm tù và lên thổi thêm ba tiếng rồi bỏ xuống đất. Người trong thơn nói: ‘Cái thứ tiếng hay ho ta nghe khi nãy chẳng phải do sức tù và làm, mà cần có tay, có miệng, có hơi thổi, nó mới kêu.’ Con người cũng thế. Phải có thọ mạngï, có thần thức và hơi thở mới co duỗi, liếc ngó, nói năng được. Khơng thọ, khơng thức, khơng hơi thở thời khơng thể co duỗi, liếc ngó, nói năng được.” Ca-diếp lại khuyên: “Ơng nên từ bỏ cái ác tà kiến đó. Chớ giữ nó suốt đời, chỉ có thêm khổ não.” Bà-la-mơn nói: “Tơi khơng thể bỏ được. Vì sao? Tơi từ sinh ra đến giờ đã tụng đọc, luyện tập kiên cố. Đâu có bỏ được.” Ca-diếp nói: “Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tơi nay sẽ dẫn ví dụ thêm cho ơng rõ. “Thuở xa xưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân điêu tàn. Trong nước có hai người, một anh trí và một anh ngu, bảo nhau: ‘Tơi là bạn anh. Chúng ta hãy cùng nhau ra ngồi thành bứt lúa mọc hoang<註 n="373"/>53 về làm của. Rồi họ cùng đi. Khi đến một xóm hoang, thấy có cây gai mọc đầy đất, người trí bảo người ngu chung nhau lấy đem về, mỗi người mỗi gánh. Sau đi ngang xóm trước, họ thấy có đám chỉ gai. Người trí nói: ‘Chỉ gai này đã làm thành, nhỏ và mịn, đáng lấy hơn.’ Người kia nói: ‘Tơi đã lấy cây gai bó buộc chặt chẽ rồi, khơng thể bỏ được.’ Người trí một mình lấy một gánh nặng chỉ gai đem về. Họ cùng nhau đi, bỗng lại gặp có đám vải gai. Người trí nói: ‘Vải gai này đã làm thành, nhẹ và mịn đáng lấy hơn.’ Người kia nói: ‘Tơi đã lấy cây gai đó buộc chặt chẽ rồi, nay khơng bỏ được.’ Người trí liền bỏ gánh chỉ gai mà lấy vải gai làm một gánh nặng. Họ lại cùng nhau đi tới. Bỗng lại gặp đống bơng gịn<註 n="374"/>54. Người trí nói: ‘Bơng gịn có giá, nhẹ và mịn, đáng lấy hơn.’ Người kia nói: ‘Tơi đã lấy cây gai, bó buộc chắc chắn, gánh đi đã xa đường rồi nay khơng bỏ được.’ Người trí một mình bỏ vải gai mà lấy bơng gịn gánh đi. Lần lữa họ gặp chỉ bơng, gặp vải bơng; rồi gặp đồng trắng, rồi gặp bạc, gặp vàng. Người trí nói: ‘Nếu khơng vàng ta hãy lấy bạc, khơng bạc ta hãy lấy đồng, hay ta hãy lấy chỉ gai, nếu khơng chỉ gai ta mới lấy cây gai, nhưng nay tại thơn này có nhiều vàng, là thứ quý hơn các bảo vật khác, ngươi nên bỏ cây gai, ta sẽ bỏ bạc để chung nhau lấy vàng, mỗi người gánh lấy gánh nặng đem về.’ Nhưng người kia nói: ‘Tơi đã lấy cây gai bó buộc chắc chắn gánh đi đã xa, nay khơng thể bỏ được. Ngươi muốn lấy vàng thì lấy, tùy ý.’ Người trí liền bỏ bạc mà lấy vàng, gánh một gánh nặng đem về. Đến nhà, bà con người trí vừa thấy bóng anh ta gánh nhiều vàng thì hoan hỷ nghinh đón. Người trí thấy được bà con nghinh đón lại càng vui mừng hơn. Người ngu gánh cây gai về, bà con trơng thấy khơng chút vui mừng, khơng thèm nghinh đón. Người ngu gánh gai cũng càng thêm buồn và hổ thẹn. “Này Bà-la-mơn, ơng nên rời bỏ cái xu hướng ác tà kiến ấy đi, chớ để suốt đời chuốc thêm khổ não. Như người gánh cây gai, cứ chấp chặt ý ngu, khơng chịu lấy vàng, lại cứ gánh gai đem về, luống chịu lao nhọc, bà con khơng vui, suốt đời nghèo cùng, tự mang thêm khổ sở.” Bà-la-mơn đáp: “Tơi khơng bao giờ bỏ kiến thức sẵn có của tơi được. Vì sao? Vì tơi nhờ thứ kiến thức đó mà dạy vẽ cho nhiều người, đem lại nhiều ích lợi, vua chúa tứ phương đều nghe danh tơi, đều biết rõ tơi là nhà học giả chủ trương đoạn diệt cả rồi.” Ca-diếp lại nói: “Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tơi nay sẽ dẫn ví dụ thêm cho ơng rõ. “Thuở xa xưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân đều điêu tàn. Lúc đó có một đồn buơn gồm một ngàn cỗ xe đi ngang qua nước đó. Vì khơng đủ nước, thóc, củi và cỏ, thương chủ bèn nghó: ‘Bọn ta đơng người, khơng thể tự lo đủ nước, thóc, củi và cỏ. Nay ta hãy chia đồn thành hai bộ phận.’ Một bộ phận lên đường trước. Người dẫn đạo của tốn đi đầu gặp một người thân thể to lớn, mắt đỏ, mặt đen, mình mẩy dính đầy bùn. Trơng thấy người ấy từ xa đi lại, người dẫn đầu tốn bèn hỏi: ‘Ơng từ đâu lại?’ Đáp: ‘Tơi từ xóm phía trước lại.’ Lại hỏi: ‘Chỗ đó có nhiều nước, thóc, củi và cỏ khơng?’ Đáp: ‘Chỗ ấy có rất nhiều nước, thóc, củi và cỏ, khơng thiếu. Tơi giữa đường gặp mưa lớn. Chỗ ấy nước nhiều mà củi, cỏ cũng nhiều.’ Lại bảo thương chủ: ‘Trên xe các ơng, nếu có thóc và cỏ, có thể bỏ hết đi. Đằng kia dư dã, khơng cần chở nặng xe.’ Rồi thương chủ ấy nói với các thương nhân rằng: ‘Tơi có gặp một người thân thể to lớn, mắt đỏ mặt đen, xoa bùn khắp mình, từ đàng xa đi lại, tơi hỏi: ‘Ơng từ đâu lại?’ Thì người đó trả lời: ‘Từ thơn đàng trước kia lại’. Tơi hỏi: ‘Ở thơn đó có nước gạo củi cỏ nhiều khơng?’ Người đó trả lời: ‘Thơn ấy giàu có, nước gạo củi cỏ khơng thiếu.’ Lại bảo tơi: ‘Tơi vừa đi giữa đường thì gặp trời mưa lớn. Chỗ này có nhiều nước; và củi cỏ cũng nhiều.’ Rồi ơng ta lại bảo tơi: ‘Nếu trên xe bọn người có chở thóc cỏ gì thì nên bỏ xuống hết. Thơn kia giàu có, khơng cần chở xe nặng làm chi.’ Vậy các bạn nên bỏ thóc cỏ đi cho nhẹ xe.’ Rồi như lời ấy, cả tốn bỏ hết thóc cỏ xuống để cho xe nhẹ đi mau tới. Đi như thế một ngày, chẳng thấy cỏ nước đâu. Đi hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày cũng khơng thấy đâu. Bọn người buơn phải khốn cùng nơi đầm vắng và bị ác quỷ bắt ăn thịt hết. “Tốn thứ hai tiếp tục lên đường. Người chủ buơn đi đầu, lại gặp một người to lớn mắt đỏ, mặt đen, mình mẩy dính đầy bùn. Trơng thấy người ấy từ xa đi lại, người dẫn đầu hỏi: ‘Ơng từ đâu lại?’ Người kia đáp: ‘Tơi từ xóm trước lại.’ Lại hỏi: ‘Chỗ đó có nhiều nước, thóc, củi và cỏ khơng?’ Đáp: ‘Chỗ ấy có rất nhiều.’ Rồi lại bảo thương chủ: ‘Tơi ở giữa đường gặp cơn mưa lớn. Chỗ ấy nước nhiều, cũng có nhiều củi, cỏ.’ Lại bảo thương chủ: ‘Trên xe các ơng, nếu có thóc, cỏ thì có thể bỏ đi. Đằng kia dư dả; khơng cần chở nặng xe làm gì.’ Khi ấy, thương chủ trở lại nói với mọi người: ‘Ta vừa đến phía trước, gặp một người; y nói với ta rằng: ‘Trên xe các ơng, nếu có thóc cỏ thì có thể vứt bỏ hết đi. Đằng kia dư dã, khơng cần chở nặng xe.’ Rồi thương chủ dặn: ‘Thóc, cỏ; các ngươi hãy cẩn thận chớ vất bỏ đi. Bao giờ được có cái mới rồi hãy bỏ. Vì sao? Cái mới, cái cũ nối tiếp luơn mới mong qua khỏi bãi hoang.’ Cả đồn buơn cứ chở xe nặng mà đi. Đi được một ngày, chẳng thấy cỏ nước đâu. Đi hai ngày, ba ngày đến bảy ngày cũng chẳng thấy đâu, chỉ thấy xương cốt ngổn ngang của tốn người đi trước bị quỷ bắt ăn thịt để lại. “Này Bà-la-mơn, người mặt đỏ mặt đen kia chính là quỷ La-sát. Những người nghe theo lời nó, suốt đời chịu khổ, chẳng khác tốn buơn đầu vì vơ trí nghe theo người dẫn đường mà phải thiệt mạng. Những Sa-mơn, Bà-la-mơn tinh tấn, trí tuệ, họ có dạy gì, ai nghe theo thời suốt đời được an ổn như tốn buơn sau, nhờ có trí nên khỏi bị tai nạn. “Này Bà-la-mơn, ơng hãy bỏ thứ ác kiến đó đi, chớ để suốt đời chỉ chuốc thêm khổ não.” Bà-la-mơn nói: “Tơi khơng thể nào bỏ kiến thức đó được. Nếu có ai đến can tơi lắm, thì chỉ làm tơi phát giận chớ tơi quyết khơng bao giờ bỏ.” Ca-diếp tiếp: “Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà được rõ. Tơi sẽ dẫn ví dụ cho ơng. “Thuở xưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân đều điêu tàn. Lúc đó có một người thích nuơi heo. Nhân anh ta đi đến một thơn vắng, thấy có nhiều phân khơ, mới nghó thầm: ‘Chỗ này nhiều phân, mà heo ta ở nhà đang đói. Ta nên lấy cỏ gói phân này đội trên đầu đem về.’ Rồi anh ta liền lấy cỏ gói phân đội đi. Bất ngờ giữa đường gặp cơn mưa lớn, nước phân chảy xuống thấu gót chân. Mọi người thấy vậy chê anh ta điên cuồng: ‘Đồ phân dơ ấy, giả sử trời tạnh cịn khơng nên đội thay, huống giữa lúc trời mưa lại đội mà đi.’ Anh ta nổi giận mắng lại: ‘Các ngươi là đồ ngu, khơng biết heo ta ở nhà đang đói. Nếu các ngươi biết, chắc khơng nói ta ngu.’ “Này Tệ-tú! Ngươi nên bỏ thứ ác kiến đó đi, chớ giữ chặt sự ngu mê mà suốt đời chịu khổ. Như người ngu kia đã đội phân mà đi, bị kẻ khác chê trách, can ngăn, lại trở mắng người ta vơ trí! Bà-la-mơn nói với Ca-diếp: “Các ngài nếu bảo làm lành được lên trời, chết hơn sống, sao các ngài khơng lấy dao tự vẫn hoặc uống thuốc độc chết đi, hoặc trói tay chân rồi gieo mình từ trên bờ cao? Nhưng nay thảy đều tham sống, khơng ai tự sát cả. Như thể đủ biết chết khơng hơn sống! Ca-diếp nói: “Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tơi nay sẽ dẫn ví dụ thêm cho ơng rõ. “Xưa ở thơn Tư-bà-hê này có một người Phạm chí, kỳ cựu trưởng lão, tuổi đã một trăm hai mươi, có hai người vợ, một người có con trước, cịn một người mới có thai. Phạm chí ấy khơng bao lâu thì chết. Con người mẹ lớn nói với người mẹï nhỏ rằng: ‘Bao nhiêu gia tài này đều về tơi cả, bà khơng có phần’. Người mẹ nhỏ nói: ‘Hãy chờ ít lâu để tơi sinh. Nếu là con trai thì nó phải có một phần gia tài. Nếu là con gái, cậu cưới nó<註 n="375"/>55 thì sẽ có tiền”. Nhưng con của người vợ lớn cứ nằn nì ba lần địi chia gia tài cho được, người vợ nhỏ vẫn trả lời như trước. Con của người vợ lớn bức ép mãi. Người vợ nhỏ bèn lấy dao tự mổ bụng mình để coi cho biết con trai hay con gái. “Này Bà-la-mơn, người mẹ này tự sát, lại hại luơn đứa con trong bào thai. Bà-la-mơn các ngươi cũng như thế, đã tự giết mình cịn muốn giết kẻ khác. Nếu các Sa-mơn, Bà-la-mơn tinh cần tu thiện, đầy đủ giới đức mà sống lâu ở đời thì đem lại nhiều ích lợi, an lạc cho nhân thiên. “Nay tơi sẽ dẫn một ví dụ cuối cùng để cho ngươi rõ tai hại của ác kiến. “Xưa ở thơn Tư-bà-hê này có hai tay nghề<註 n="376"/>56 giỏi luyện trị chơi bi<註 n="377"/>57. Một hơm họ đấu nghề với nhau, một người hơn cuộc. Người thua nói với người hơn rằng: ‘Thơi ngày nay nghỉ để ngày mai đấu lại.’ Người thua trở về nhà lấy mấy hịn bi để chơi đem tẩm thuốc độc, phơi khơ, ngày mai đem tới chỗ người hơn địi đấu nghề lại. Trước khi cùng chơi, người thua lấy một hịn bi đã tẩm thuốc độc trao cho người hơn, người hơn lấy nuốt. Người thua trao nữa, người hơn nuốt nữa, bị chất độc chạy, làm tồn thân run rẩy. Bấy giờ người thua bèn mắng bằng một bài kệ<註 n="378"/>58: Ta bơi thuốc vào bi, Ngươi nuốt mà khơng hay. Tiểu kỹ <註 n="379"/>59, hãy nuốt đi, Về sau khắc tự biết. “Này Bà-la-mơn! Ngươi nên mau mau xả bỏ ác kiến đó đi, chớ để mê muội mãi càng thêm khổ sở, như anh chàng làm trị kia nuốt độc vào mình mà khơng biết! Bấy giờ Bà-la-mơn bạch Ca-diếp rằng: “Tơn giả mới nói về dụ mặt trăng, tơi đã hiểu rồi. Tơi sở dó nhiều phen khơng chịu, vì tơi muốn thấy chỗ trí tuệ biện tài của ngài để thêm chắc lịng tin. Nay tơi xin tín thọ quy y Ca-diếp.” Ca-diếp đáp: “Ơng chớ quy y ta, mà nên quy y nơi Đấng Vơ Thượng Tơn như ta đã quy y.” Tệ-tú hỏi: “Khơng hiểu Đấng Vơ Thượng Tơn mà ngài đã quy y nay ở đâu?” Ca-diếp đáp: “Đức Thế Tơn thầy tơi đã diệt độ chưa bao lâu<註 n="380"/>60.” Tệ-tú nói: “Nếu Thế Tơn cịn, dù xa gần tơi cũng tìm đến để tự thân nhìn thấy, quy y lễ bái. Nay nghe Ca-diếp nói Như Lai đã diệt độ, vậy tơi xin quy y Đức Như Lai diệt độ, quy y Phật pháp và chúng Tăng. Xin Ca-diếp cho tơi được làm Ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp; từ nay về sau, tơi thề trọn đời khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu. Nay tơi sẽ đại bố thí cho tất cả.” Ca-diếp nói: “Nếu ơng giết mổ chúng sanh, đánh đập tơi tớ để mở hội, đó khơng phải ngươi làm phước thanh tịnh. Ví như trên chỗ đất cạn, sạn sỏi, gai mọc nhiều, đem gieo giống vào tất khơng gặt được gì. Nếu ơng giết mổ chúng sanh, đánh đập tơi tớ để mở hội bố thí cho chúng tà kiến, đó khơng phải là phước thanh tịnh. Nếu ơng mở hội đại thí mà khơng sát hại chúng sanh, khơng dùng roi gậy đánh đập tơi tớ, đem lịng hoan hỷ mở hội để thí cho hạng người thanh tịnh thì ngươi sẽ thâu được phước lớn. Ví như chỗ ruộng tốt, đúng mùa đem gieo giống tất được gặt nhiều.” “Này Ca-diếp, từ nay về sau tơi sẽ luơn luơn tịnh thí cho chúng Tăng, khơng để gián đoạn. Lúc đó có một Phạm chí trẻ tên là Ma-đầu, đứng sau lưng Tệ-tú. Tệ-tú quay lại bảo: “Nay ta muốn mở hội đại thí tất cả, ngươi hãy thay ta sắp đặt và phân xử.” Phạm chí trẻ vâng lời Tệ-tú sắp đặt và phân xử. Khi sắp đặt xong, cất tiếng nói rằng: “Nguyện cho ơng Tệ-tú đời nay, đời sau chẳng được phúc báo gì cả.” Tệ-tú nghe được, kêu Phạm chí trẻ đến hỏi: “Ngươi có nói như thế chăng?” Phạm chí trẻ đáp: “Đúng như vậy. Tơi thật có nói như vậy. Bởi vì các thức ăn thơ kém như vầy nay ngài bày dọn để thí chúng Tăng, nếu thử đem cho ngài, ngài cịn khơng thèm sờ tay tới huống là lấy ăn. Những thứ được dọn bày hiện tại khơng thể vui mắt đẹp lịng làm sao đời sau có được quả báo thanh tịnh. Ngài bố thí y phục cho chúng Tăng mà thí tồn vải gai, nếu thử đem nó cho ngài, ngài cịn khơng lấy chân sờ tới huống hồ lấy mặc. Những thứ được dọn bày hiện tại khơng thể vui mắt đẹp lịng làm sao đời sau có được quả báo thanh tịnh.” Khi ấy Bà-la-mơn lại bảo Phạm chí: “Từ nay về sau ngươi hãy lấy thứ vật ta ăn, thứ áo ta mặc mà bố thí chúng Tăng. Phạm chí trẻ vâng lời làm theo lấy thứ vật mà vua ăn, thứ áo vua mặc mà bố thí chúng Tăng. Bà-la-mơn khi thiết tịnh thí này, thân hoại mạng chung sinh lên một cõi trời hạ liệt. Phạm chí trẻ trơng nom mở hội thì sau khi chết lại được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Bấy giờ, Bà-la-mơn Tệ-tú, Phạm chí trẻ và chúng Bà-la-mơn, Cư só trong thơn Tư-bà-hê, sau khi nghe những điều Đồng nữ Ca-diếp thuyết, hoan hỷ phụng hành.  <詞 id="485140847">8. KINH TÁN-ĐÀ-NA<註 n="381"/>61 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại động cây Thất diệp<註 n="382"/>62, núi Tỳ-ha-la, thành La-duyệt-kỳ cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Lúc đó, ở thành Vương xá có một cư só tên Tán-đà-na<註 n="383"/>63, tính ưa đi dạo, cứ ngày ngày ơng ra khỏi thành, đến chỗ Đức Thế Tơn. Một hơm, ơng xem bóng mặt trời rồi thầm nghó: “Giờ này chưa phải lúc đến bái yết Phật. Giờ này Phật cịn nhập định tại tịnh thất và các Tỳ-kheo cũng đang thiền tịnh. Ta hãy đi đến rừng của nữ Phạm chí Ơ-tạm-bà-lî<註 n="384"/>64, chờ đúng giờ sẽ đến Phật để lễ bái và gặp các Tỳ-kheo cung kính thăm viếng”. Trong rừng của nữ Phạm chí lúc đó có Phạm chí tên Ni-câu-đà<註 n="385"/>65 cùng năm trăm đệ tử đang tụ tập một chỗ, lớn tiếng bàn luận, suốt ngày chỉ nói những điều phù phiếm, chướng đạo. Hoặc luận bàn quốc sự. Hoặc bàn việc đao binh chiến tranh. Hoặc bàn việc quốc gia hịa nghóa. Hoặc bàn việc đại thần, việc thứ dân. Hoặc bàn chuyện xe ngựa, cơng viên, rừng. Hoặc bàn chuyện chiếu giường, y phục, ăn uống, phụ nữ. Hoặc bàn việc núi biển, rùa trạnh. Nghóa là họ chỉ bàn những điều chướng ngại đạo như thế mà hết ngày. Khi Phạm chí kia vừa xa thấy bóng cư só Tán-đà-na đi lại liền ra lệnh: “Chúng ngươi hãy tónh lặng. Vì sao vậy? Vì có đệ tử của Sa-mơn Cù-đàm đang từ ngồi đến. Trong hàng đệ tử bạch y<註 n="386"/>66 của Sa-mơn Cù-đàm, ơng đó vào hạng trưởng thượng. Ơng ấy chắc đi đến đây. Các ngươi hãy im lặng”. Các Phạm chí đều im lặng. Cư só Tán-đà-na đi đến chỗ Phạm chí, chào hỏi xong ngồi một bên và nói với Phạm chí: “Thầy tơi, Đức Thế Tơn, thường ưa nhàn tónh, chẳng ưa huyên náo. Khơng như các ơng và đệ tử các ơng ưa ở giữa đám đơng cao tiếng luận đàm. Nhưng chỉ tồn những lời chướng đạo, vơ ích.” Phạm chí nói lại: “Sa-mơn Cù-đàm có từng cùng mọi người đàm luận khơng? Mọi người làm sao biết được Sa-mơn có đại trí tuệ? Thầy ngươi thường ưa ở chỗ biên địa. Cũng như con trâu đui ăn cỏ, chỉ hài lịng với chỗ mà nó thấy. Thầy ngươi là Cù-đàm cũng thế. Cứ ham điều độc kiến riêng nên mới ưa chỗ khơng người. Nếu thầy ngươi lại đây, chúng ta sẽ kêu là trâu đui. Sa-mơn Cù-đàm thường xưng là bậc đại trí tuệ, nhưng ta chỉ cần một câu là đủ làm cho cùng bí mà phải im lặng. Ví như con rùa thu hết mình vào vỏ cho thế là yên ổn rồi. Nhưng ta chỉ cần một mũi tên là làm cho khơng chỗ tránh.” Lúc đó, Đức Thế Tơn đang ở tại tịnh thất, bằng thiên nhó, nghe câu chuyện giữa Phạm chí và cư só như thế, liền ra khỏi động Thất diệp, đi đến rừng nữ Phạm chí Ơ-tạm-bà-lî. Khi Phạm chí vừa từ xa thấy Phật đi lại, bảo các đệ tử: “Các ngươi im lặng. Sa-mơn Cù-đàm đang muốn đến đây. Các ngươi chớ đứng dậy nghinh đón, cung kính lễ bái, cũng đừng mời ngồi. Chỉ riêng một chỗ cho ơng ta ngồi thơi. Khi y ngồi xong các ngươi hãy hỏi: ‘Sa-mơn Cù-đàm, từ trước đến nay ơng dạy bảo đệ tử những pháp gì để họ được an ổn, tịch định, tịnh tu phạm hạnh.’” Bấy giờ, Thế Tơn vừa đi đến khu vườn, Phạm chí bất giác đứng dậy, nghinh đón Thế Tơn và nói rằng: “Xin mời đến đây, Cù-đàm. Xin mời đến đây, Sa-mơn. Từ lâu khơng được gặp, nay có việc gì Ngài đến đây? Xin mời ngồi tạm ở đàng trước.” Khi ấy, Đức Thế Tơn ngồi xuống, vui vẻ mỉm cười và thầm nghó: ‘Các người ngu này khơng tự chủ được. Trước đã đặt lệnh ước với nhau mà rốt cuộc khơng giữ tồn.’ Sở dó vậy, là vì thần lực của Phật khiến ác tâm của chúng tự nhiên tiêu tan. Cư só Tán-đà-na đảnh lễ chân Phật rồi ngồi một bên. Phạm chí Ni-câu-đà chào hỏi Phật xong cũng ngồi một bên và bạch Phật: “Sa-mơn Cù-đàm từ trước đến nay dạy bảo hàng đệ tử những pháp gì khiến họ được tịch định an vui, tịnh tu phạm hạnh?” Phật nói: “Hãy thơi Phạm chí. Pháp Ta sâu rộng. Những điều mà từ trước đến nay Ta dạy các đệ tử được an vui, tịnh tu phạm hạnh, khơng phải là những điều mà ơng có thể theo kịp.” Rồi Phật lại nói với Phạm chí: “Dẫu đến cả đạo pháp mà thầy của ơng và các đệ tử của ơng tu hành, tịnh hay bất tịnh<註 n="387"/>67, Ta cũng nói được cả.” Lúc đó năm trăm đệ tử Phạm chí này đều cất tiếng bảo nhau: “Sa-mơn Cù-đàm có oai thế lớn, có thần lực lớn thật. Người ta hỏi nghóa lý mình, mình lại giảng trở lại nghóa lý của người ta!” Phạm chí bạch Phật: “Lành thay Cù-đàm! Xin Ngài phân biệt cho.” Phật bảo Phạm chí: “Này Phạm chí, hãy lắng nghe, hãy lắng nghe. Ta sẽ nói.” Phạm chí đáp: “Rất vui lịng được nghe.” Phật nói: “Những điều sở hành của ơng tồn là thấp hèn. Như việc, cởi bỏ y phục để trần truồng<註 n="388"/>68, hoặc lấy tay che<註 n="389"/>69, hoặc khơng nhận đồ ăn đựng trong cái ghè<註 n="390"/>70, khơng nhận đồ ăn đựng trong chậu, khơng nhận đồ ăn giữa hai bức vách<註 n="391"/>71, khơng nhận đồ ăn giữa hai người, khơng nhận đồ ăn giữa hai con dao<註 n="392"/>72, khơng nhận đồ ăn giữa hai cái chậu<註 n="393"/>73, khơng nhận đồ ăn từ gia đình đang ăn chung<註 n="394"/>74, khơng nhận đồ ăn từ nhà có thai, khơng nhận đồ ăn từ nhà được thấy có chó đứng trước cửa, khơng nhận đồ ăn từ nhà có nhiều ruồi, khơng nhận lời mời ăn, khơng nhận đồ ăn từ người nói đã có biết từ trước, khơng ăn cá, khơng ăn thịt, khơng uống rượu, khơng ăn với hai chén bát, một bữa ăn, một lần nuốt cho đến bảy lần nuốt thì thơi<註 n="395"/>75, nhận thức ăn được thêm<註 n="396"/>76, khơng quá bảy lần thêm, hoặc mỗi ngày ăn một bữa, hoặc hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày ăn một bữa, hoặc chỉ ăn rau<註 n="397"/>77, hoặc chỉ ăn cỏ lúa<註 n="398"/>78, hoặc chỉ uống nước cơm, hoặc chỉ ăn mè, hoặc ăn gạo lứt, hoặc ăn phân bị, hoặc ăn phân nai, hoặc ăn rễ, nhánh lá, trái, hột cây, hoặc ăn trái cây tự rụng, hoặc chồng áo, hoặc mặc áo cỏ cú<註 n="399"/>79, hoặc mặc vỏ cây, hoặc lấy cỏ quấn mình, hoặc mặc da nai, hoặc để đầu tóc<註 n="400"/>80, hoặc mang tấm lơng bện, hoặc mặc áo vất ở gị mả, hoặc thường đưa tay lên, hoặc khơng ngồi giường chiếu, hoặc thường ngồi chồm hổm, hoặc cạo tóc chừa râu, hoặc nằm trên chơng gai, hoặc nằm trên dưa quả, hoặc lõa hình nằm trên phân bị, hoặc một ngày tắm ba lần, hoặc một đêm tắm ba lần. Tóm lại là lấy vơ số chuyện khổ cực hành hạ xác thân. Ni-câu-đà, ý ngươi nghó sao? Tu những hạnh như thế, đáng gọi là thanh tịnh pháp chăng<註 n="401"/>81?” Ni-câu-đà đáp: “Pháp đó là tịnh<註 n="402"/>82, chớ chẳng phải bất tịnh.” Phật nói: “Ngươi bảo là tịnh, Ta sẽ từ trong cái tịnh của ơng đó chỉ ra điều cấu uế<註 n="403"/>83 cho ơng xem.” Ni-câu-đà nói: “Hay lắm, Cù-đàm! Ngài cứ nói, tơi xin nghe”. Phật nói: “Những người kia trong khi tu khổ hạnh mà tâm thường tính nghó rằng: ‘Ta làm như thế này sẽ được mọi người cúng dường, cung kính, lễ bái.’ Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia khi được cúng dường rồi thì say đắm giữ chặt, ưa luyến khơng rời, khơng biết xa lìa, khơng biết cách thốt ra. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà vừa trơng thấy bóng ai đi đến, thì cùng nhau ngồi thiền. Khi khơng ai thì mặc ý nằm ngồi. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà nếu nghe chánh nghóa người khác, khơng chịu nhìn nhận. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia nếu mà có ai hỏi ngay, tiếc lẫn khơng chịu đáp. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà hễ thấy người nào cúng dường Sa-mơn, Bà-la-mơn thì la rầy, ngăn cản. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia nếu thấy Sa-mơn, Bà-la-mơn ăn vật có thể sinh sản nữa<註 n="404"/>84 liền đến chê trách. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia có thức ăn bất tịnh, khơng chịu cho người khác mà tham ăn một mình, khơng thấy lỗi lầm của mình, khơng biết con đường xuất ly. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia tự khen mình hay, chê bai người khác. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà giết, trộm, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, tham lam, tật đố, tà kiến điên đảo. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà lười biếng, lãng quên<註 n="405"/>85, khơng tập thiền, khơng có trí tuệ, chẳng khác nào cầm thú. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà cống cao, kiêu mạn, mạn, tăng thượng mạn<註 n="406"/>86. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà khơng có tín nghóa, lại khơng báo đáp, khơng trì tịnh giới, khơng hay tinh cần chịu nghe người khuyên răn, thường kết bạn xấu làm điều xấu ác khơng thơi. Thế là cấu uế. Người tu khổ hạnh kia mà ơm nhiều sân hận, ưa làm xảo quyệt, cậy mình hiểu biết, tìm tịi hay dở của người, thường chấp tà kiến, biên kiến<註 n="407"/>87. Thế là cấu uế. Ni-câu-đà, ý ngươi nghó thế nào? Tu khổ hạnh như trên, đáng gọi là thanh tịnh ư? Ni-câu-đà đáp: “Đó là bất tịnh chứ khơng phải tịnh.” Phật nói: “Nay Ta từ trong pháp cấu uế ấy của ơng mà chỉ ra phần thanh tịnh, vơ cấu cho ơng hiểu”. Phạm chí nói: “Xin hãy nói”. Phật nói: “Những người tu khổ hạnh kia, nếu khơng tính nghó rằng ta tu như thế này sẽ được sự cúng dường cung kính, lễ bái. Đó là pháp khổ hạnh khơng cấu uế. Người tu khổ hạnh nếu được cúng dường tâm khơng tham đắm, hiểu biết xa lìa, rõ biết con đường xuất ly. Đó là pháp khổ hạnh khơng cấu uế. Người tu khổ hạnh lo tọa thiền thường lệ, khơng vì có người khơng người mà thay đổi. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh, nếu nghe ai nói chánh nghóa thì hoan hỷ tín nhận. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh nếu gặp ai hỏi ngay thì hoan hỷ đáp. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh hễ thấy ai cúng dường Sa-mơn, Bà-la-mơn thì hoan hỷ thay họ, chứ khơng la rầy ngăn cản. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh nếu thấy Sa-mơn, Bà-la-mơn ăn vật có thể sanh lại, khơng tới chê bai. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh mà gặp món ăn bất tịnh, tâm khơng lẫn tiếc, gặp món ăn tịnh tâm khơng say đắm, xét thấy lỗi mình, biết cách thốt ly. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh khơng tự khen mình, khơng chê kẻ khác. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh khơng sát, khơng đạo, khơng dâm, khơng hai lưỡi, khơng ác khẩu, khơng nói dối, khơng thêu dệt, khơng tham lam, khơng tật đố, khơng tà kiến. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh mà tinh cần khơng quên, ưa tập thiền định, tu nhiều trí tuệ, chẳng ngu như thú. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh mà khơng cống cao, kiêu mạn, tự đại. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh mà có lịng tín nghóa, tập hạnh báo bổ, giữ gìn tịnh giới, siêng năng học hỏi, thường kết bạn với người lành, chứa điều lành mãi. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Người tu khổ hạnh mà khơng ơm lịng sân hận, khơng xảo ngụy, khơng cậy mình biết, khơng tìm cái dở của người, khơng chấp chặt tà kiến cũng khơng biên kiến. Đó là pháp khổ hạnh thanh tịnh. Phạm chí nghó thế nào? Pháp khổ hạnh như thế, đáng gọi là pháp thanh tịnh vơ cấu khơng?” Ni-câu-đà đáp: “Quả như vậy, quả thật là pháp khổ hạnh thanh tịnh vơ cấu.” Rồi Phạm chí hỏi Phật: “Khổ hạnh đến chừng mực như vậy đã được gọi là bậc nhất kiên cố<註 n="408"/>88 chưa?” Phật nói: “Chưa! Đó mới là khổ hạnh vỏ ngồi<註 n="409"/>89.” Ni-câu-đà thưa: “Xin Phật cho biết cốt lõi<註 n="410"/>90.” Phật nói: “Ngươi hãy lắng nghe. Ta sẽ nói cho.” Phạm chí thưa: “Vâng. Bạch Thế Tơn, tơi mong muốn được nghe.” Phật nói: “Này Phạm chí! Người tu khổ hạnh mà tự mình khơng giết, khơng dạy người giết, tự mình khơng trộm cắp, khơng dạy người trộm cắp, tự mình khơng tà dâm, khơng dạy người tà dâm, tự mình khơng nói dối, khơng dạy người nói dối. Người ấy đem tâm Từ rải khắp một phương, rồi các phương khác cũng vậy, Từ tâm quảng đại, bình đẳng vơ lượng, khắp cả thế gian, khơng chút ốn kết. Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. Chính đó mới là pháp khổ hạnh thuộc cốt lõi.” Phạm chí bạch Phật: “Xin Ngài dạy cho cái nghóa khổ hạnh kiên cố.” Phật nói: “Này Phạm chí, hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho.” Phạm chí đáp: “Thưa vâng. Bạch Thế Tơn, tơi mong muốn được nghe.” Phật nói: “Này Phạm chí, người tu khổ hạnh mà tự mình khơng giết cịn dạy người khơng giết, tự mình khơng trộm cắp cịn dạy người khơng trộm cắp, tự mình khơng tà dâm cịn dạy người khơng tà dâm, tự mình khơng nói dối cịn dạy người khơng nói dối. Người ấy đem Từ tâm rải khắp một phương, rồi các phương khác cũng vậy, Từ tâm quảng đại, bình đẳng vơ lượng, khắp cả thế gian, khơng chút ốn kiết. Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. Người khổ hạnh kia lại có thể biết được việc xảy ra vơ số kiếp trước, hoặc một đời, hai đời cho đến vơ số đời, quốc độ thành hoại hay kiếp số trước sau, đều thấy đều biết cả. Lại cịn thấy biết mình từng sanh vào chủng tộc đó, tên tuổi như thế, ăn uống như thế, sống lâu như thế, chịu khổ chịu vui như thế, từ kia sanh đây, từ đây sanh kia như thế. Những việc từ vơ số kiếp như thế đều nhớ cả. Ấy gọi là khổ hạnh kiên cố khơng hoại của Phạm chí.” Phạm chí bạch Phật: “Cịn thế nào gọi là khổ hạnh bậc nhất?” Phật nói: “Này Phạm chí, hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho.” Phạm chí đáp: “Thưa vâng. Bạch Thế Tơn, tơi mong muốn được nghe.” Phật nói: “Này Phạm chí, những người tu khổ hạnh mà tự mình khơng giết cịn dạy người khơng giết, tự mình khơng trộm cắp cịn dạy người khơng trộm cắp, tự mình khơng tà dâm cịn dạy người khơng tà dâm, tự mình khơng nói dối cịn dạy người khơng nói dối. Người ấy đem Từ tâm rải khắp một phương, các phương khác cũng vậy, Từ tâm rộng lớn, trùm khắp, vơ nhị vơ lượng, khơng có kết hận, cùng khắp thế gian. Bi, Hỷ và Xả tâm cũng như vậy. “Người khổ hạnh ấy tự biết sự việc vơ số kiếp quá khứ về trước, một đời, hai đời, cho đến vơ số đời, quốc độ, thành hoại, kiếp số chung thủy, thảy đều thấy hết biết hết. Lại tự mình thấy biết: Ta đã từng sanh vào chủng tánh kia, tên họ như vậy, ăn uống, thọ mạng như vậy, cảm nghiệm khổ lạc như vậy, từ đây sanh kia, từ kia sanh đây. Như thế, nhớ hết sự việc vơ số kiếp. Vị ấy bằng thiên nhãn thanh tịnh xem xét các lồi chúng sanh chết đây sanh kia, nhan sắc đẹp xấu, chỗ hướng đến tốt hay xấu, tùy theo hành vi mà bị đọa lạc; thảy đều thấy hết biết hết. “Lại biết chúng sanh với thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện, phỉ báng Hiền thánh, tà tín điên đảo, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đọa vào ba đường dữ. Hoặc có chúng sanh với thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, khơng phỉ báng Hiền thánh, tu hạnh chánh tín, khi thân hoại mệnh chung được sinh vào cõi trời cõi người. Bằng thiên nhãn thanh tịnh xem thấy các chúng sanh có hành vi nào sinh tới chỗ nào, đều thấy biết hết. Đó gọi là khổ hạnh thù thắng bậc nhất.” Phật lại nói với Phạm chí: “Này Phạm chí, ở trong pháp này lại có pháp thù thắng hơn nữa mà Ta thường đem dạy cho hàng Thanh văn. Họ nhờ pháp đó tu được phạm hạnh.” Bấy giờ năm trăm đệ tử Phạm chí lớn tiếng bảo nhau: “Nay chúng ta mới thấy Đức Thế Tơn là Bậc Tối Thượng, thầy ta khơng bằng.” Rồi cư só Tán-đà-na nói với Phạm chí: “Lúc nãy ơng nói ‘nếu gặp Cù-đàm đến thì chúng ta gọi là trâu đui.’ Nay Đức Thế Tơn đến sao ơng khơng gọi. Lúc nãy ơng nói ‘chỉ cần một câu là đủ làm cho Cù-đàm cùng bí phải làm thinh. Như con rùa thu cả vào vỏ cho thế là yên ổn, ta chỉ cần một mũi tên là khơng chỗ trốn’, sao nay ơng khơng đem một câu làm cùng bí Như Lai?” Phật hỏi Phạm chí: “Thật ngươi có nói lời đó chăng?” Đáp: “Thưa có”. Phật nói với Phạm chí: “Ngươi há khơng nghe các vị tiên túc Phạm chí nói: chư Phật Như Lai ưa ở chỗ núi rừng nhàn tịnh, như Ta ngày nay ưa chỗ nhàn tónh, chẳng phải như pháp của các ơng chỉ ưa chỗ huyên náo, nói chuyện vơ ích suốt ngày ư?” Phạm chí nói: “Tơi có nghe chư Phật quá khứ ưa chỗ nhàn tónh, một mình sống ở núi rừng, như Thế Tơn ngày nay. Khơng như pháp chúng tơi ưa chỗ huyên náo, nói những chuyện vơ ích để cho hết ngày.” Phật nói: “Ngươi há khơng suy nghó rằng, Sa-mơn Cù-đàm có thể thuyết Bồ-đề, có thể tự điều phục mình và cũng có thể điều phục người khác; có thể tự tịch tịnh và có thể khiến người khác tịch tịnh; có thể tự mình qua bờ bên kia và đưa người khác sang bờ bên kia; tự mình giải thốt và có thể khiến người khác giải thốt; có thể tự mình diệt độ và có thể khiến người khác được diệt độ?” Lúc bấy giờ, Phạm chí bèn rời chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt làm lễ, hai tay sờ bàn chân Phật, tự xưng tên mình, nói rằng: “Con là Phạm chí Ni-câu-đà. Con là Phạm chí Ni-câu-đà. Nay tự mình quy y, làm lễ dưới chân Thế Tơn.” Phật nói với Phạm chí: “Thơi đủ rồi, hãy dừng lại. Miễn sao tâm ngươi tỏ rõ, đó là kính lễ.” Phạm chí lại lễ dưới chân Phật một lần nữa, rồi ngồi xuống một bên. Phật bảo Phạm chí: “Ngươi sẽù chẳng nói rằng Phật vì lợi dưỡng mà thuyết pháp chăng? Chớ móng tâm như thế. Nếu có sự lợi dưỡng nào, Ta cũng cho ngươi hết. Pháp được Ta nói, là vi diệu đệ nhất, để diệt trừ bất thiện, tăng trưởng thiện pháp.” Rồi Phật lại bảo Phạm chí: “Ngươi sẽ chẳng nói rằng Phật vì tiếng tăm mà thuyết pháp chăng? Vì để được tơn trọng, vì để đứng đầu, vì để có những người tùy thuộc, ví để có chúng đơng, mà thuyết pháp chăng? Chớ móng khởi tâm ấy. Nay những người tùy thuộc ngươi vẫn là tùy thuộc của ngươi. Pháp mà Ta nói là để diệt trừ bất thiện, tăng trưởng thiện pháp.” Rồi Phật lại bảo Phạm chí: “Ngươi sẽ khơng nói rằng Phật đặt ngươi vào trong tụ bất thiện, tụ tối tăm chăng? Chớ nghó như vậy. Các tụ bất thiện và các tụ tối tăm, ngươi hãy loại bỏ đi. Ta vì ngươi mà nói pháp thiện tịnh.” Lại bảo Phạm chí: “Ngươi sẽ khơng nghó rằng Phật truất ngươi ra khỏi tụ thiện pháp, tụ thanh bạch chăng? Chớ nghó như vậy. Ngươi cứ ở trong tụ thiện pháp, tụ thanh bạch mà tinh cần tu hành. Ta vì ngươi mà nói tụ thiện tịnh, tụ thanh bạch, diệt trừ hành vi bất thiện, tăng thêm thiện pháp.” Bấy giờ năm trăm đệ tử Phạm chí đều đoan tâm chánh ý nghe Phật thuyết pháp. Thấy vậy, ma Ba-tuần nghó rằng: “Năm trăm đệ tử Phạm chí đang đem tâm ý đoan chính nghe theo Phật pháp có lẽ ta phải đến phá tâm ý đó đi”. Rồi ác ma liền đem sức phá hoại thiện ý của năm trăm đệ tử ấy. Phật bảo với cư só Tán-đà-na: “Năm trăm đệ tử Phạm chí này đoan tâm chánh ý nghe Ta nói pháp. Thiên ma Ba-tuần đã phá hoại ý ấy. Ta muốn trở về, ngươi hãy cùng đi với Ta.” Phật liền lấy tay mặt dẫn cư só Tán-đà-na đặt trong bàn tay, rồi nương hư khơng mà trở về. Cư só Tán-đà-na, Phạm chí Ni-câu-đà và năm trăm đệ tử, sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140848">9. KINH CHÚNG TẬP<註 n="411"/>91 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật du hành ở Mạt-la<註 n="412"/>92 cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, rồi đi dần đến thành Ba-bà, vườn Am-bà của Xà-đầu.<註 n="413"/>93 Bấy giờ, vào ngày mười lăm lúc trăng trịn<註 n="414"/>94, Thế Tơn ngồi ở giữa khoảng đất trống với các Tỳ-kheo vây quanh trước sau. Thế Tơn, sau khi đã thuyết pháp nhiều qua đêm, nói với Xá-lợi-phất: “Các Tỳ-kheo bốn phương tụ tập về, thảy đều siêng năng, dẹp bỏ ngủ nghỉ. Nhưng Ta đau lưng, muốn nghỉ một chút, ngươi nay hãy thuyết pháp cho các Tỳ-kheo.” Xá-lợi-phất đáp: “Kính vâng. Con sẽ làm theo Thánh giáo.” Thế Tơn gấp tư y Tăng-già-lê nằm nghiêng phía hữu như con sư tử, hai chân chồng lên nhau. Khi ấy Xá-lợi-phất nói với các Tỳ-kheo: “Nay trong thành Ba-bàø này có Ni-kiền Tử<註 n="415"/>95 mạng chung chưa bao lâu, nhưng các đệ tử chia ra làm hai bộ, luơn luơn tranh chấp nhau, tìm sở trường và sở đoản của nhau, mắng nhiếc nhau, thị phi với nhau rằng: ‘Ta biết pháp này. Ngươi khơng biết pháp này. Ngươi theo tà kiến. Ta theo chánh kiến. Ngươi nói năng hỗn loạn, chẳng có trước sau, tự cho điều mình nói là chân chính. Lập ngơn của ta thắng. Lập ngơn của ngươi bại. Nay ta làm chủ cuộc đàm luận, ngươi có điều muốn hỏi thì đến hỏi ta.’ “Này các Tỳ-kheo, lúc bấy giờ nhân dân trong nước những ai theo Ni-kiền Tử đều chán ghét những tiếng cãi vã của bọn này. Đó là vì pháp ấy khơng chân chính. Pháp khơng chân chính thì khơng có con đường xuất ly<註 n="416"/>96. Ví như ngơi tháp đã đổ thì khơng cịn đổ nữa. Đó khơng phải là điều mà Đấng Chánh Giác<註 n="417"/>97 đã dạy. “Các Tỳ-kheo, duy chỉ Pháp vơ thượng tơn của Đức Thích-ca Ta là chân chánh mới có thể có con đường xuất ly. Cũng như ngơi tháp mới có thể được dễ dàng trang hồng. Vì đó là điều mà Đấng Chánh Giác giảng dạy. “Các Tỳ-kheo, hơm nay chúng ta cần phải kiết tập pháp luật để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đơng, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Như Lai nói một chánh pháp: hết thảy chúng sanh đều do thức ăn mà tồn tại. “Như Lai lại nói một chánh pháp: tất cả chúng sanh đều do các hành<註 n="418"/>98 mà tồn tại. “Đó là một pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đơng, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Các Tỳ-kheo, Như Lai nói hai chánh pháp: một là danh, hai là sắc. “Lại có hai pháp: một là si, hai là ái<註 n="419"/>99. “Lại có hai pháp: hữu kiến và vơ kiến<註 n="420"/>100. “Lại có hai pháp: khơng biết tàm và khơng biết quý. “Lại có hai pháp: có tàm và có quý. “Lại có hai pháp: tận trí và vơ sanh trí. “Lại có hai pháp, hai nhân hai duyên sanh ra ái dục: một, sắc tịnh diệu; hai, khơng tư duy. “Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh nơi sân nhuế: thù ghét và khơng tư duy. “Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh nơi tà kiến: nghe từ người khác và tà tư duy. “Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh nơi chánh kiến: nghe từ người khác và chánh tư duy. “Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên: giải thốt hữu học và giải thốt vơ học<註 n="421"/>101. “Lại có hai pháp hai nhân, hai duyên: hữu vi giới và vơ vi giới. “Các Tỳ-kheo, đó là hai pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đơng, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Các Tỳ-kheo, Như Lai nói ba pháp, tức là ba bất thiện căn: tham dục, sân nhuế và ngu si. “Lại có ba pháp, tức là ba thiện căn: khơng tham, khơng nhuế và khơng si. “Lại có ba pháp, tức là ba bất thiện hành: thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện và ý hành bất thiện. “Lại có ba pháp, tức là ba bất thiện hành: bất thiện hành của thân, bất thiện hành của khẩu và bất thiện hành của ý. “Lại nữa, có ba pháp, tức là ba ác hành<註 n="422"/>102 ác hành của thân, ác hành của khẩu và ác hành của ý. “Lại có ba pháp, tức là ba thiện hành: thiện hành của thân, thiện hành của khẩu và thiện hành của ý. “Lại có ba pháp, tức là ba tưởng bất thiện: dục tưởng, sân tưởng và hại tưởng. “Lại có ba pháp tức là ba tưởng thiện: vơ dục tưởng, vơ sân tưởng và vơ hại tưởng. “Lại có ba pháp tức là ba tư bất thiện: dục tư, nhuế tư và hại tư “Lại có ba pháp tức là ba tư thiện: vơ dục tư, vơ nhuế tư và vơ hại tư. “Lại có ba loại phước nghiệp: nghiệp bố thí, nghiệp bình đẳng và nghiệp tư duy.<註 n="423"/>103 “Lại có ba pháp, tức là ba thọ: lạc thọï, khổ thọ và phi khổ phi lạc thọ. “Lại có ba pháp tức là ba ái: dục ái, hữu ái, vơ hữu ái. “Lại có ba pháp tức là ba hữu lậu: dục lậu, hữu lậu và vơ minh lậu. “Lại có ba pháp, tức là ba thứ lửa: lửa dục, lửa sân và lửa si. “Lại có ba pháp tức là ba cầu<註 n="424"/>104: dục cầu, hữu cầu và phạm hạnh cầu. “Lại có ba pháp tức là ba tăng thịnh: ngã tăng thịnh, thế tăng thịnh và pháp tăng thịnh<註 n="425"/>105. “Lại có ba pháp tức là ba giới: dục giới, sân giới và hại giới<註 n="426"/>106. “Lại có ba pháp tức là ba giới: xuất ly giới, vơ sân giới và vơ hại giới. “Lại có ba pháp tức là ba giới: sắc giới, vơ sắc giới, tận giới<註 n="427"/>107. “Lại có ba pháp tức là ba tụ: giới tụ, định tụ và huệ tụ. “Lại có ba pháp tức là ba giới: tăng thịnh giới (cấm), tăng thịnh ý, tăng thịnh tuệ<註 n="428"/>108. “Lại có ba pháp tức là ba tam-muội: khơng tam-muội, vơ nguyện tam-muội và vơ tướng tam-muội<註 n="429"/>109. “Lại có ba pháp tức là ba tướng: chỉ tức tướng, tinh cần tướng và xả tướng. “Lại có ba pháp tức là ba minh: tự thức túc mạng trí minh, thiên nhãn trí minh và lậu tận trí minh<註 n="430"/>110. “Lại có ba pháp tức là ba biến hóa: thần túc biến hóa, biết tâm người mà tùy ý thuyết pháp và giáo giới<註 n="431"/>111. “Lại có ba pháp tức là ba căn bổn dục sinh<註 n="432"/>112: do hiện dục hiện tiền<註 n="433"/>113 sinh trời người, do hóa dục<註 n="434"/>114 sinh trời Hóa tự tại<註 n="435"/>115, do tha hóa dục<註 n="436"/>116 sinh trời Tha hóa tự tại<註 n="437"/>117. “Lại có ba pháp tức là ba lạc sinh<註 n="438"/>118: “1. Chúng sanh tự nhiên thành biện sanh hoan hỷ tâm<註 n="439"/>119 như trời Phạm quang âm<註 n="440"/>120 vào lúc mới sinh. “2. Có chúng sanh lấy niệm làm an vui<註 n="441"/>121 tự xướng ‘lành thay’ như trời Quang âm<註 n="442"/>122. “3. Lạc do được chỉ tức<註 n="443"/>123 như trời Biến tịnh<註 n="444"/>124. “Lại có ba pháp tức là ba khổ: dục khổ, hành khổ và biến dịch khổ<註 n="445"/>125. “Lại có ba pháp tức là ba căn: vị tri dục tri căn, tri căn, tri dó căn<註 n="446"/>126. “Lại có ba pháp tức là ba đường: Hiền thánh đường, thiên đường, phạm đường<註 n="447"/>127. “Lại có ba pháp tức là ba sự phát hiện<註 n="448"/>128: phát hiện do thấy, phát hiện do nghe và phát hiện do nghi. “Lại có ba pháp tức là ba luận: Quá khứ có sự như thế, có luận như thế. Vị lai có sự như thế, có luận như thế. Hiện tại có sự như thế có luận như thế. “Lại có ba pháp tức là ba tụ<註 n="449"/>129: chánh định tụ, tà định tụ và bất định tụ. “Lại có ba pháp tức là ba ưu: thân ưu, khẩu ưu và ý ưu. “Lại có ba pháp tức ba trưởng lão: trưởng lão do tuổi tác, trưởng lão do pháp và trưởng lão do tác thành<註 n="450"/>130. “Lại có ba pháp tức là ba con mắt: con mắt thịt, con mắt trời và con mắt tuệ. “Các Tỳ-kheo, đó là ba pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đơng, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Các Tỳ-kheo, Như Lai nói bốn pháp, tức là bốn ác hành do miệng: “1. Nói dối. “2. Hai lưỡi. “3. Ác khẩu. “4. Ỷ ngữ<註 n="451"/>131. “Lại có bốn pháp, tức là bốn thiện hành của miệng: “1. Nói sự thật. “2. Nói dịu dàng. “3. Khơng ỷ ngữ. “4. Khơng hai lưỡi. “Lại có bốn pháp tức là bốn phi Thánh ngơn: “1. Khơng thấy nói thấy. “2. Khơng nghe nói nghe. “3. Khơng cảm thấy nói cảm thấy. “4. Khơng biết nói biết<註 n="452"/>132. “Lại có bốn pháp tức là bốn Thánh ngơn: “1. Thấùy nói thấy. “2. Nghe nói nghe. “3. Hay nói hay. “4. Biết nói biết. “Lại có bốn pháp tức là bốn thức ăn: “1. Thức ăn vo nắm<註 n="453"/>133. “2. Thức ăn bởi xúc. “3. Thức ăn bởi niệm. “4. Thức ăn bởi thức. “Lại có bốn pháp tức là bốn thọ<註 n="454"/>134: “1. Khổ hành trong hiện tại thọ khổ báo về sau. “2. Khổ hành hiện tại thọ lạc báo về sau. “3. Lạc hành hiện tại thọ khổ báo về sau. “4. Lạc hành hiện tại thọ lạc báo về sau. “Lại có bốn pháp tức là bốn thọ<註 n="455"/>135: “1. Dục thọ. “2. Ngã thọ. “3. Giới thọ. “4. Kiến thọ. “Lại có bốn pháp tức là bốn phược: “1. Thân phược bởi dục tham. “2. Thân phược bởi sân nhuế. “3. Thân phược bởi giới đạo. “4. Thân phược bởi ngã kiến. “Lại có bốn pháp, tức bốn gai nhọn: “1. Gai nhọn dục. “2. Gai nhọn nhuế. “3. Gai nhọn kiến. “4. Gai nhọn mạn. “Lại có bốn pháp tức là bốn sanh: “1. Sanh từ trứng. “2. Sanh từ bào thai. “3. Sanh do ẩm thấp. “4. Sanh do biến hóa. “Lại có bốn pháp tức Bốn niệm xứ: “1. Ở đây, Tỳ-kheo quán thân trên nội thân tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ bỏ tham ưu ở đời; quán thân trên ngoại thân tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ bỏ tham ưu ở đời; quán thân trên nội ngoại thân tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. “2. Quán thọ. “3. Quán ý. “4. Quán pháp, cũng vậy. “Lại có bốn pháp tức là Bốn ý đoạn<註 n="456"/>136: “1. Ở đây Tỳ-kheo ác pháp chưa khởi, phương tiện khiến khơng khởi. “2. Ác pháp đã khởi phương tiện khiến diệt. “3. Thiện pháp chưa khởi pháp, phương tiện khiến khởi. “4. Thiện pháp đã khởi phương tiện khiến tăng trưởng. “Lại có bốn pháp tức là Bốn thần túc: “1. Ở đây Tỳ-kheo tư duy dục định diệt hành thành tựu. “2. Tinh tấn định. “3. Ýù định. “4. Tư duy định cũng vậy. “Lại có bốn pháp tức là Bốn thiền: “1. Ở đây, Tỳ-kheo trừ dục, ác bất thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc phát sanh do viễn ly, nhập Sơ thiền. “2. Diệt giác và quán, nội tịnh<註 n="457"/>137 nhất tâm, khơng giác khơng quán, có hỷ lạc do định sanh, nhập đệ Nhị thiền. “3. Lìa hỷ tu xả, niệm tiến<註 n="458"/>138, tự giác thân lạc, có lạc và xả niệm, mà bậc Thánh tìm cầu<註 n="459"/>139, nhập đệ Tam thiền. “4. Lìa các hạnh khổ và lạc, hỷ và ưu đã diệt từ trước khơng khổ khơng lạc xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền. “Lại có bốn pháp tức là Bốn phạm đường: Từ, Bi, Hỷ và Xả<註 n="460"/>140. “Lại có bốn pháp tức là Bốn vơ sắc định: “1. Ở đây, Tỳ-kheo siêu việt hết thảy sắc tưởng, sân tưởng đã diệt từ trước, khơng niệm các tưởng khác, tư duy vơ lượng khơng xứ. “2. Sau khi xả khơng xứ, nhập thức xứ. “3. Sau khi xả thức xứ nhập vơ hữu xứ. “4. Sau khi xả vơ hữu xứ nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ. “Lại có bốn pháp tức là bốn pháp túc<註 n="461"/>141: Pháp túc khơng tham, pháp túc khơng sân, pháp túc chánh niệm và pháp túc chánh định. “Lại có bốn pháp tức là bốn dịng dõi Hiền thánh<註 n="462"/>142: “1. Ở đây, Tỳ-kheo tri túc về y thực, được thứ tốt khơng mừng, được cái xấu khơng buồn; khơng nhiễm khơng trước, biết điều cấm kî, biết con đường xuất yếu; ở trong pháp này tinh cần khơng biếng nhác; thành tựu sự ấy khơng khuyết khơng giảm và cũng dạy người thành tựu sự ấy. Đó là thứ nhất; tri túc, an trú trong sự truyền thừa của Hiền thánh, từ xưa đến nay chưa thường não loạn. Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-mơn, Bà-la-mơn, Trời và Người khơng ai có thể chê trách. “2. Thức ăn. “3. Vật dụng nằm ngồi. “4. Thuốc thang trị bệnh, tất cả đều cũng tri túc như thế. “Lại có bốn pháp tức là bốn nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. “Lại có bốn pháp, tức là bốn chi của Tu-đà-hồn<註 n="463"/>143: Tỳ-kheo thành tựu tín tâm bất hoại đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng và đối với giới. “Lại có bốn pháp tức là bốn thọ chứng<註 n="464"/>144: “1. Thọ chứng do thấy sắc. “2. Thọ chứng do thân hoại diệt<註 n="465"/>145. “3. Thọ chứng do nhớ về túc mạng. “4. Thọ chứng do biết hữu lậu đã bị diệt tận. “Lại có bốn pháp tức là bốn đạo: khổ đắc chậm, khổ đắc nhanh, lạc đắc chậm và lạc đắc nhanh<註 n="466"/>146. “Lại có bốn pháp tức là Bốn thánh đế: Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đếá, Khổ diệt thánh đếá, Khổ xuất yếu thánh đếá. “Lại có bốn pháp tức là bốn Sa-mơn quả: Tu-đà-hồn quả, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả. “Lại có bốn pháp tức là bốn xứ: thật xứ, thí xứ, trí xứ, chỉ tức xứ<註 n="467"/>147. “Lại có bốn pháp tức là bốn trí: pháp trí, vị tri trí, đẳng trí và tha tâm trí<註 n="468"/>148. “Lại có bốn pháp tức là bốn biện tài: pháp biện tài, nghóa biện tài, từ biện tài, ứng thuyết biện tài. “Lại có bốn pháp tức là bốn trú xứ của thức: sắc là trú xứ của thức, duyên sắc mà trú, sắc và ái cùng tăng trưởng. Thọ, tưởng, hành, cũng đều như vậy. “Lại có bốn pháp tức là bốn ách: dục là ách, hữu là ách, kiến là ách, vơ minh là ách. “Lại có bốn pháp tức là bốn vơ ách: vơ dục ách, vơ hữu ách, vơ kiến ách, vơ minh ách<註 n="469"/>149. “Lại có bốn pháp tức là bốn tịnh: giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh và độ nghi tịnh. “Lại nữa có bốn pháp tức là bốn sự biết: đáng thọ biết thọ, đáng hành biết hành, đáng lạc biết lạc, đáng xả biết xả. “Lại có bốn pháp tức là bốn oai nghi: đáng đi biết đi, đáng đứng biết đứng, đáng ngồi biết ngồi, đáng nằm biết nằm. “Lại có bốn pháp tức là bốn tư duy: tư duy ít, tư duy rộng, tư duy vơ lượng, khơng tư duy gì cả. “Lại có bốn pháp tức là bốn ký luận<註 n="470"/>150: quyết định ký luận, phân biệt ký luận, cật vấn ký luận, chỉ trú ký luận. “Lại có bốn tức là bốn pháp khơng cần phịng hộ của Phật: “1. Như Lai thân hành thanh tịnh, khơng khiếm khuyết, khơng rị rỉ; có thể tự phịng hộ. “2. Khẩu hành thanh tịnh. “3. Ý hành thanh tịnh. “4. Mạng hành thanh tịnh cũng đều như vậy. “Các Tỳ-kheo, đó là bốn pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đơng cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Như Lai nói năm chánh pháp, tức là năm nhập<註 n="471"/>151: mắt, sắc; tai, tiếng; mũi, hương; lưỡi, vị; thân, xúc. “Lại có năm pháp tức là năm thọ ấm<註 n="472"/>152: sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. “Lại có năm pháp, tức là năm cái: tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, trạo cử cái, nghi cái. “Lại có năm pháp tức là năm hạ phần kết: thân kiến, giới đạo<註 n="473"/>153, nghi, tham dục và sân nhuế. “Lại có năm pháp tức là năm thuận thượng phần kết: sắc ái, vơ sắc ái, vơ minh, mạn, trạo hối. “Lại có năm pháp tức là năm căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ. “Lại có năm pháp tức là năm lực: tín, tấn, niệm, định, tuệ. “Lại có năm pháp tức là năm diệt tận chi<註 n="474"/>154: “1. Tỳ-kheo tin Phật, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu thành tựu. “2. Tỳ-kheo khơng bệnh, thân thường an ổn. “3. Chất trực, khơng dua xiểm. Được như thế thì Như Lai chỉ bày con đường đi đến Niết-bàn<註 n="475"/>155. “4. Tự chuyên tâm khơng để thác loạn. Những điều đã tụng đọc từ trước ghi nhớ khơng quên. “5. Khéo quán sát sự sinh và diệt của các pháp bằng sự thực hiện của Hiền thánh<註 n="476"/>156 mà diệt tận gốc rễ của khổ. “Lại có năm pháp tức là năm sự phát ngơn<註 n="477"/>157: phát phi thời, phát hư dối, phát phi nghóa, phát hư ngơn<註 n="478"/>158, phát khơng từ tâm. “Lại có năm pháp tức là năm thiện phát: phát đúng thời, phát sự thật, phát có nghóa, phát lời nói hịa, phát khởi Từ tâm. “Lại có năm pháp tức là năm sự tật đố: tật đố về trú xứ, tật đố về thí chủ, tật đố về lợi dưỡng, tật đố về sắc, tật đố về pháp. “Lại có năm pháp tức là năm thú hướng giải thốt: tưởng về thân bất tịnh, tưởng về thức ăn bất tịnh, tưởng hết thảy các hành vơ thường, tưởng hết thảy thế gian khơng đáng vui, tưởng về sự chết.<註 n="479"/>159 “Lại có năm pháp tức là năm xuất ly giới: “1. Tỳ-kheo đối với dục khơng hoan hỷ, bất động, cũng khơng thân cận, mà chỉ niệm sự thốt ly, hoan hỷ nơi sự viễn ly, thân cận khơng giải đãi, tâm mềm mại, xuất ly, ly dục. Vị ấy đối với các lậu triền do nhân dục mà khởi, cũng dứt sạch, xả ly diệt trừ mà được giải thốt. Đó gọi là dục thốt ly. “2. Sân nhuế xuất ly. “3. Tật đố xuất ly. “4. Sắc xuất ly. “5. Thân kiến xuất ly cũng vậy. “Lại có năm pháp tức năm hỷ giải thốt nhập<註 n="480"/>160. Nếu Tỳ-kheo tinh cần khơng biếng nhác, ưa ở nơi nhàn tónh, chuyên niệm nhất tâm, chưa giải thốt thì được giải thốt, chưa an thì được an. Những gì là năm? “1. Ở đây Tỳ-kheo nghe Như Lai thuyết pháp, hoặc nghe đồng phạm hạnh thuyết pháp, hoặc nghe sư trưởng thuyết pháp, tư duy, quán sát, phân biệt pháp nghóa, tâm đắc hoan hỷ. Sau khi được hoan hỷ thì được pháp ái, sau khi được pháp ái thân tâm an ổn, sau khi thân tâm an ổn thì chứng đắc thiền định. Đắc thiền định rồi, đắc như thật kiến. Đó là giải thốt xứ thứ nhất. “2. Ở đây, Tỳ-kheo sau khi nghe pháp hoan hỷ. “3. Thọ trì đọc tụng cũng lại hoan hỷ. “4. Thuyết cho người khác cũng lại hoan hỷ. “5. Tư duy phân biệt cũng lại hoan hỷ, ở nơi pháp mà đắc định cũng như vậy. “Lại có năm pháp tức là năm hạng người<註 n="481"/>161: Trung Bát-niết-bàn, Sanh Bát-niết-bàn, Vơ hành Bát-niết-bàn, Hữu hành Bát-niết-bàn, Thượng lưu sắc cứu cánh. “Các Tỳ-kheo, đó là năm chánh pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đơng cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Lại nữa, các Tỳ-kheo, Như Lai nói sáu chánh pháp tức là sáu nội nhập<註 n="482"/>162: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. “Lại có sáu pháp tức là sáu ngoại nhập: sắc, tiếng, hương, vị, xúc, pháp. “Lại có sáu pháp tức là sáu thức thân: nhãn thức thân, nhó thức thân, tỷ thức thân, thiệt thức thân, thân thức thân, ý thức thân. “Lại nữa có sáu pháp tức là sáu xúc thân: nhãn xúc thân, nhó xúc thân, tỷ xúc thân, thiệt xúc thân, thân xúc thân, ý xúc thân. “Lại có sáu pháp tức là sáu thọ thân: nhãn thọ thân, nhó thọ thân, tỷ thọ thân, thiệt thọ thân, thân thọ thân, ý thọ thân. “Lại có sáu pháp tức là sáu tưởng thân: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tưởng thân. “Lại có sáu pháp tức sáu tư thân: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tư thân. “Lại có sáu pháp tức là sáu ái thân: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ái thân. “Lại có sáu pháp tức là gốc rễ tranh cãi<註 n="483"/>163: “1. Nếu Tỳ-kheo ưa sân khơng bỏ, khơng kính Như Lai, cũng khơng kính Pháp, cũng khơng kính chúng Tăng, ở nơi giới có lọt có rỉ, nhiễm ơ bất tịnh, ở trong chúng ưa gây tranh cãi mà ai cũng ghét, tranh chấp nhiễu loạn, trời và người bất an. Các Tỳ-kheo, các ngươi hãy tự mình quán sát bên trong, giả sử có sự sân hận như kẻ nhiễu loạn kia, hãy tập hợp hịa hợp chúng, rộng đặt phương tiện, nhổ sạch gốc rễ tranh cãi ấy. Các ngươi lại hãy chuyên niệm, tự quán sát. Nếu kết hận đã diệt lại hãy thêm phương tiện ngăn cản tâm ấy khơng để sinh khởi trở lại. “2. Các Tỳ-kheo ngoan cố khơng chịu nghe. “3. Xan tham tật đố. “4. Xảo ngụy hư vọng. “5. Cố chấp kiến giải của mình khơng chịu bỏ. “6. Nghe lầm nơi tà kiến cùng với biên kiến cũng như vậy. “Lại có sáu pháp tức là sáu giới: địa giới, hỏa giới, thủy giới, phong giới, khơng giới, thức giới. “Lại có sáu pháp tức là sáu sát hành<註 n="484"/>164: con mắt sát hành sắc, tai đối với tiếng, mũi đối với hương, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, ý đối với pháp. “Lại có sáu pháp tức là sáu xuất ly giới: “1. Nếu Tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tơi tu Từ tâm nhưng lại tâm sanh sân nhuế.’ Các Tỳ-kheo khác bảo: ‘Ngươi chớ nói như vậy. Chớ báng bổ Như Lai. Như Lai khơng nói như vậy: muốn khiến tu từ giải thốt mà sanh sân nhuế tưởng, khơng có trường hợp ấy. Phật nói: trừ sân nhuế rồi sau mới đắc từ.’ “2. Nếu Tỳ-kheo nói: ‘Tơi thực hành bi giải thốt nhưng tâm sanh tật đố’. “3. ‘Thực hành hỷ giải thốt nhưng sanh tâm ưu não’. “4. ‘Thực hành xả giải thốt nhưng sanh tâm yêu ghét’. “5. ‘Thực hành vơ ngã nhưng sanh tâm hồ nghi’. “6. ‘Thực hành vơ tưởng nhưng sanh tâm loạn tưởng;’ cũng giống như vậy. “Lại có sáu pháp tức là sáu vơ thượng: kiến vơ thượng, văn vơ thượng, lợi dưỡng vơ thượng, giới vơ thượng, cung kính vơ thượng, ức niệm vơ thượng. “Lại có sáu pháp tức là sáu tư niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. “Các Tỳ-kheo, đó là sáu pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đơng, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Các Tỳ-kheo, Như Lai nói bảy chánh pháp, tức là bảy phi pháp: khơng có tín, khơng có tàm, khơng có quý, ít học hỏi, biếng nhác, hay quên, vơ trí. “Lại có bảy pháp tức là bảy chánh pháp: có tín, có tàm, có quý, đa văn, tinh tấn, tổng trì, đa trí. “Lại có bảy pháp tức là bảy thức trụ: “1. Hoặc có chúng sanh với thân sai biệt, với tưởng sai biệt, tức là chư Thiên và lồi người đó là trú xứ thứ nhất của thức. “2. Hoặc có chúng sanh với nhiều thân khác nhau nhưng chỉ một tưởng, đó là trời Phạm quang âm, lúc đầu tiên mới thọ sinh. Đó là trú xứ thứ hai của thức. “3. Hoặc có chúng sanh với một thân nhưng nhiều tưởng sai biệt tức là trời Quang âm. Đó là trú xứ thứ ba của thức. “4. Hoặc có chúng sanh với một thân và một tưởng đó là trời Biến tịnh. Đó là trú xứ thứ tư của thức. “5. Hoặc có chúng sanh trú ở khơng xứ. “6. Trú ở thức xứ. “7. Trú ở vơ hữu xứ. “Lại có bảy pháp tức là bảy tinh cần: “1. Tỳ-kheo tinh cần nơi sự thực hành giới. “2. Tinh cần diệt tham dục. “3. Tinh cần phá tà kiến. “4. Tinh cần nơi đa văn. “5. Tinh cần nơi tinh tấn. “6. Tinh cần nơi chánh niệm. “7. Tinh cần nơi thiền định. “Lại có bảy pháp tức là bảy tưởng: tưởng về thân bất tịnh, tưởng về thức ăn bất tịnh, tưởng về hết thảy thế gian khơng đáng ưa thích, tưởng về sự chết, tưởng về vơ thường, tưởng về vơ thường là khổ, tưởng về khổ là vơ ngã. “Lại có bảy pháp tức là bảy tam-muội thành tựu: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm. “Lại có bảy pháp tức là bảy giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, tuệ xả giác chi. “Các Tỳ-kheo, đó là bảy pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đơng, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Các Tỳ-kheo, Như Lai nói tám chánh pháp tức là tám pháp ở đời: đắc, thất, vinh, nhục, khen, chê, lạc và khổ<註 n="485"/>165. “Lại có tám pháp tức là tám giải thốt: “1. Sắc quán sắc giải thốt. “2. Nội khơng sắc tưởng quán ngoại sắc giải thốt. “3. Tịnh giải thốt. “4. Vượt quá sắc tưởng, diệt sân nhuế tưởng<註 n="486"/>166, an trú Hư khơng xứ giải thốt. “5. Vượt Hư khơng xứ an trú Hư khơng xứ giải thốt. “6. Vượt Thức xứ an trú Vơ hữu xứ giải thốt. “7. Vượt Vơ sở hữu xứ an trú Phi phi tưởng xứ giải thốt. “8. Vượt Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú Diệt tận định giải thốt. “Lại có tám pháp tức là Tám thánh đạo: chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. “Lại có tám pháp tức tám nhân cách: Tu-đà-hồn hướng, Tu-đà-hồn quả; Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm quả; A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả; A-la-hán hướng, A-la-hán quả. “Các Tỳ-kheo, đó là tám pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích cho số đơng cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Các Tỳ-kheo, Như Lai nói chín chánh pháp, tức là chín chúng sanh cư: “1. Hoặc có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, với nhiều tưởng khác nhau, tức là chư Thiên và lồi người. Đó là nơi cư trú thứ nhất của chúng sanh. “2. Lại có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, nhưng với một tưởng giống nhau, tức là trời Phạm quang âm lúc mới sanh. Đó là cư trú thứ hai của chúng sanh. “3. Lại có chúng sanh với một thân giống nhau, nhưng với nhiều tưởng khác nhau, tức là trời Quang âm. Đó là cư trú thứ ba của chúng sanh. “4. Lại có chúng sanh với một thân một tưởng giống nhau, tức là trời Biến tịnh. Đó là cư trú thứ tư của chúng sanh. “5. Lại có chúng sanh khơng có tưởng và khơng có giác tri, tức là trời Vơ tưởng. Đó là cư trú thứ năm của chúng sanh. “6. Lại có chúng sanh an trú hư khơng xứ. Đó là cư trú thứ sáu của chúng sanh. “7. Lại có chúng sanh an trú thức xứ. Đó là cư trú thứ bảy của chúng sanh. “8. Lại có chúng sanh an trú vơ sở hữu xứ. Đó là cư trú thứ tám của chúng sanh. “9. Lại có chúng sanh an trú phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là cư trú thứ chín của chúng sanh. “Các Tỳ-kheo, đó là chín pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích cho số đơng, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc. “Các Tỳ-kheo, Như Lai nói mười chánh pháp, tức là mười pháp vơ học: vơ học chánh kiến, vơ học chánh tư duy, vơ học chánh ngữ, vơ học chánh nghiệp, vơ học chánh mạng, vơ học chánh niệm, vơ học chánh phương tiện, vơ học chánh định, vơ học chánh trí, vơ học chánh giải thốt. “Các Tỳ-kheo, đó là mười pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích cho số đơng, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.” Bấy giờ, Thế Tơn ấn khả những điều Xá-lợi-phất đã nói. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Xá-lợi-phất đã nói, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140849">10. KINH THẬP THƯỢNG<註 n="487"/>1 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật du hành nước Ương-già, cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người<註 n="488"/>2, đến thành Chiêm-bà<註 n="489"/>3, nghó đêm bên bờ hồ Già-già<註 n="490"/>4. Vào ngày mười lăm trăng trịn, Thế Tơn ngồi ở khoảng đất trống, với đại chúng vây quanh, thuyết pháp cho đến hết đêm. Rồi ngài bảo Xá-lợi-phất: “Nay các Tỳ-kheo bốn phương tập hợp về đây, thảy đều tinh cần, dẹp bỏ sự ngủ nghỉ, muốn nghe thuyết pháp. Nhưng Ta đau lưng, muốn nghỉ ngơi một chút. Thầy nay hãy thuyết pháp cho các Tỳ-kheo.” Sau khi Xá-lợi-phất vâng lời Phật dạy, Thế Tơn bèn gấp tư y Tăng-già-lê, nằm nghiêng về hơng phải như sư tử chồng hai chân lên nhau mà nằm. Bấy giờ, Trưởng lão Xá-lợi-phất<註 n="491"/>5 nói với các Tỳ-kheo: “Nay tơi nói pháp, khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối thảy đều chân chánh, có đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Các thầy hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ. Tơi sẽ giảng thuyết.” Các Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe. Xá-lợi-phất nói: “Có pháp thập thượng<註 n="492"/>6, trừ các kết phược<註 n="493"/>7, dẫn đến Niết-bàn<註 n="494"/>8, dứt sạch biên tế của khổ, lại có thể đầy đủ năm trăm năm mươi pháp. Nay tơi sẽ phân biệt. Các thầy hãy lắng nghe. “Này các Tỳ-kheo, có một thành pháp, một tu pháp, một giác pháp, một diệt pháp, một thối pháp, một tăng pháp, một nan giải pháp, một sanh pháp, một tri pháp, một chứùng pháp<註 n="495"/>9. “Thế nào là một thành pháp? Đó là: đối với các pháp thiệân mà khơng buơng lung. “Thế nào là một tu pháp? Đó là: thường tự niệm thân. “Thế nào là một giác pháp? Đó là: xúc hữu lậu<註 n="496"/>10. “Thế nào là một diệt pháp? Đó là: ngã mạn. “Thế nào là một thối pháp? Đó là: bất ác lộ quán<註 n="497"/>11. “Thế nào là một tăng pháp? Đó là: ác lộ quán. “Thế nào là một nan giải pháp? Đó là: vơ gián định<註 n="498"/>12. “Thế nào là một sanh pháp? Đó là: hữu lậu giải thốt<註 n="499"/>13. “Thế nào là một tri pháp? Đó là: hết thảy chúng sanh đều do thức ăn mà tồn tại. “Thế nào là một chứng pháp? Đó làø: vơ ngại tâm giải thốt<註 n="500"/>14. “Lại nữa, có hai thành pháp, hai tu pháp, hai giác pháp, hai diệt pháp, hai thối pháp, hai tăng pháp, hai nan giải pháp, hai sanh pháp, hai tri pháp, hai chứùng pháp. “Thế nào là hai thành pháp? Biết tàm và biết quý. “Thế nào là hai tu pháp? Chỉ và quán. “Thế nào là hai giác pháp? Danh và sắc. “Thế nào là hai diệt pháp? Vơ minh và ái. “Thế nào là hai thối pháp? Hủy giới và phá kiến<註 n="501"/>15. “Thế nào là hai tăng pháp? Có giới và có kiến. “Thế nào là hai nan giải pháp? Có nhân, có duyên, khiến chúng sanh sanh cáu bẩn. Có nhân, có duyên khiến chúng sanh đắc tịnh. “Thế nào là hai sanh pháp? Tận trí và vơ sanh trí. “Thế nào là hai tri pháp? Thị xứ và phi xứ <註 n="502"/>16. “Thế nào là hai chứng pháp? Minh và giải thốt. “Lại nữa, có ba thành pháp, ba tu pháp, ba giác pháp, ba diệt pháp, ba thối pháp, ba tăng pháp, ba nan giải pháp, ba sanh pháp, ba tri pháp, ba chứng pháp. “Thế nào là ba thành pháp? Thân cận thiện hữu; Tai nghe pháp âm; Thành tựu pháp và tùy pháp<註 n="503"/>17. “Thế nào là ba tu pháp? Đó là ba tam-muội: Khơng tam-muội, Vơ tướng tam-muội, Vơ tác tam-muội<註 n="504"/>18. “Thế nào là ba giác pháp? Đó là ba thọ: khổ thọ, lạc thọï, phi khổ phi lạc thọ. “Thế nào là ba diệt pháp? Đó là ba ái: dục ái, hữu ái, vơ hữu ái. “Thế nào là ba thối pháp? Đó là ba bất thiện căn: tham bất thiện căn, nhuế bất thiện căn, si bất thiện căn. “Thế nào là ba tăng pháp? Đó là ba thiện căn: vơ tham thiện căn, vơ nhuế thiện căn, vơ si thiện căn. “Thế nào là ba nan giải pháp? Đó là ba điều khó hiểu: khó hiểu về các bậc Hiền thánh, khó hiểu về nghe Pháp, khó hiểu về Như Lai<註 n="505"/>19. “Thế nào là ba sanh pháp? Đó là ba tướng: tức chỉ tướng, tinh tấn tướng, xả ly tướng<註 n="506"/>20. “Thế nào là ba tri pháp? Đó là ba xuất yếu giới: “1. Thốt ly dục lên sắc giới. “2. Thốt ly sắc giới lên vơ sắc giới. “3. Xả ly hết thảy các pháp hữu vi, đó được gọi là diệt tận<註 n="507"/>21. “Thế nào là ba chứng pháp? Đó là ba minh: túc mạng trí, thiên nhãn trí và lậu tận trí. “Các Tỳ-kheo, đó là ba mươi pháp như thật, khơng hư dối, Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực. Lại nữa, có bốn thành pháp, bốn tu pháp, bốn giác pháp, bốn diệt pháp, bốn thối pháp, bốn tăng pháp, bốn nan giải pháp, bốn sanh pháp, bốn tri pháp, bốn chứng pháp. “Thế nào là bốn thành pháp? Đó là luân pháp<註 n="508"/>22: “1. Sống ở giữa nước<註 n="509"/>23; “2. Gần thiện hữu; “3. Tự cẩn thận<註 n="510"/>24; “4. Có gốc rễ thiện đã được trồng từ đời trước. “Thế nào là bốn tu pháp? Đó là bốn niệm xứ: “1. Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời<註 n="511"/>25; Quán thân trên ngoại thân, tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thân trên nội ngoại thân, tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. “2. Quán thọ. “3. Quán ý. “4. Quán pháp cũng như vậy. “Thế nào là bốn giác pháp? Đó là bốn thức ăn: thức ăn bằng vo nắm, thức ăn bằng cảm xúc, thức ăn bằng tư niệm, thức ăn do thức. “Thế nào là bốn diệt pháp? Đó là bốn thủ<註 n="512"/>26: dục thủ, ngã ngữ thủ, giới cấm thủ và kiến thủ. “Thế nào là bốn thối pháp? Đó là bốn ách<註 n="513"/>27: dục là ách, hữu là ách, kiến là ách, vơ minh là ách. “Thế nào là bốn tăng pháp? Đó là bốn vơ ách: khơng có ách là dục, khơng có ách là hữu, khơng có ách là kiến, khơng có ách là vơ minh. “Thế nào là bốn nan giải pháp? Đó là bốn thánh đế: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế<註 n="514"/>28. “Thế nào là bốn sanh pháp: đó là bốn trí: pháp trí, vị tri trí, đẳng trí, tha tâm trí<註 n="515"/>29. “Thế nào là bốn tri pháp? Đó là bốn biện tài: pháp biện, nghóa biện, từ biện, vơ ngại biện<註 n="516"/>30. “Thế nào là bốn chứng pháp? Đó là bốn Sa-mơn quả: Tu-đà-hồn quả, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả. “Các Tỳ-kheo, đó là bốn mươi pháp, như thật, khơng hư dối, Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực. “Lại nữa, có năm thành pháp, năm tu pháp, năm giác pháp, năm diệt pháp, năm thối pháp, năm tăng pháp, năm nan giải pháp, năm sanh pháp, năm tri pháp, năm chứng pháp. “Thế nào là năm thành pháp? Đó là năm diệt tận chi<註 n="517"/>31: “1. Tin Phật Như Lai, Chí Chân, mười hiệu thành tựu. “2. Khơng bệnh, thân thường an ổn. “3. Chất trực, khơng dua xiểm, hướng thẳng đến con đường dẫn đến Niết-bàn của Như Lai <註 n="518"/>32. “4. Chuyên tâm khơng tán loạn, đọc tụng cũng khơng quên lãng. “5. Khéo léo quán sát sự sinh diệt của pháp, bằng thực hành của Hiền thánh mà diệt tận gốc rễ khổ. “Thế nào là năm tu pháp? Đó là năm căn<註 n="519"/>33: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn. “Thế nào là năm giác pháp? Đó là năm thọ ấm<註 n="520"/>34: sắc thọ ấm, thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm. “Thế nào là năm diệt pháp? Đó là năm cái: tham dục cái, sân nhuế cái, thụy miên cái, trạo hối cái và nghi cái. “Thế nào là năm thối pháp? Đó là năm tâm ngại kết<註 n="521"/>35: “1. Tỳ-kheo nghi Phật. Nghi Phật rồi thì khơng thân cận. Khơng thân cận rồi thì khơng cung kính. Đó là tâm ngại kết thứ nhất. “2→4. Lại nữa, Tỳ-kheo, đối với Pháp, đối với Chúng, đối với Giới, có lọt, có rỉ, có hành vi khơng chân chánh, có hành vi ơ nhiễm, khơng thân cận giới, cũng khơng cung kính. Đó là bốn tâm ngại kết. “5. Lại nữa, Tỳ-kheo đối với người đồng phạm hạnh sanh tâm ác hại, tâm khơng hỷ lạc, mắng chửi bằng những lời thơ lỗ. Đó là tâm ngại kết thứ năm. “Thế nào là năm tăng pháp? Đó là năm gốc rễ của hỷ: vui vẻ, niệm, khinh an, lạc, định<註 n="522"/>36. “Thế nào là năm nan giải pháp? Đó là năm giải thốt xứ<註 n="523"/>37, nếu Tỳ-kheo tinh cần khơng biếng nhác, ưa chỗ nhàn tónh, chuyên niệm nhất tâm, chưa giải thì được giải, chưa diệt tận thì được diệt tận, chưa an thì được an. Những gì là năm? Nếu Tỳ-kheo nghe Phật thuyết pháp hoặc nghe đồng phạm hạnh thuyết, hoặc nghe sư trưởng thuyết, tư duy, quán sát, phân biệt pháp nghóa, tâm được hoan hỷ. Tâm được hoan hỷ rồi thì được pháp ái, được pháp ái rồi thì thân tâm an ổn. Thân tâm an ổn rồi thì đắc thiền định. Đắc thiền định rồi thì đắc như thật trí. Đó là giải thốt xứ thứ nhất. Ở đây, Tỳ-kheo nghe pháp hoan hỷ, thọ trì đọc tụng cũng hoan hỷ, thuyết giảng cho người khác cũng hoan hỷ, tư duy phân biệt cũng lại hoan hỷ, đối với pháp mà đắc định cũng giống như vậy. “Thế nào là năm sanh pháp? “Đó là năm trí định của Hiền thánh: “1. Tu tam-muội là, nay an lạc về sau cũng an lạc, sanh nội ngoại trí<註 n="524"/>38. “2. Là Hiền thánh vơ ái<註 n="525"/>39, sanh nội ngoại trí. “3. Là định mà chư Phật và các Hiền thánh tu hành, sanh nội ngoại trí. “4. Là êm dịu, tịch diệt tướng, độc nhất khơng gì sánh ngang, sanh nội ngoại trí<註 n="526"/>40. “5. Đối với tam-muội nhất tâm nhập, nhất tâm khởi, sanh nội ngoại trí. “Thế nào là năm tri pháp? Đó là năm xuất yếu giới: “1. Tỳ-kheo đối với dục khơng lạc, khơng niệm tưởng, cũng khơng thân cận, mà chỉ niệm tưởng sự xuất yếu, hoan lạc nơi sự viễn ly, thân cận khơng biếng nhác, tâm vị ấy nhu nhuyến, xuất yếu, ly dục. Lậu khởi do bởi dục cũng bị diệt tận mà đắc giải thốt. Đó là dục xuất yếu. “2. Sân nhuế xuất yếu. “3. Tật đố xuất yếu. “4. Sắc xuất yếu. “5. Thân kiến xuất yếu cũng giống như vậy. “Thế nào là năm chứng pháp? Đó là năm tụ vơ học<註 n="527"/>41: tụ vơ học giới, tụ vơ học định, tụ vơ học tuệ, tụ vơ học giải thốt, tụ vơ học giải thốt tri kiến. “Các Tỳ-kheo, đó là năm mươi pháp, như thật, khơng hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực. “Lại nữa, có sáu thành pháp, sáu tu pháp, sáu giác pháp, sáu diệt pháp, sáu thối pháp, sáu tăng pháp, sáu nan giải pháp, sáu sanh pháp, sáu tri pháp, sáu chứng pháp. “Thế nào là sáu thành pháp? Đó là sáu trọng pháp<註 n="528"/>42: nếu có Tỳ-kheo tu sáu pháp tơn trọng, đáng kính đáng trọng, hịa hợp với chúng khơng có tranh tụng, độc hành khơng hỗn tạp. Những gì là sáu? “1. Ở đây, Tỳ-kheo thân thường hành từ<註 n="529"/>43, kính đồng phạm hạnh, sống với tâm nhân ái. Đó gọi là trọng pháp, đáng kính, đáng trọng, hịa hợp với chúng, khơng có tranh tụng, độc hành khơng hỗn tạp<註 n="530"/>44. “2→4. Lại nữa, Tỳ-kheo khẩu hành từ, ý hành từ; được vật lợi dưỡng đúng pháp và những thức ăn ở trong bát cũng đều đem chia cho người khác dùng chung, khơng phân biệt đây kia. “5. Lại nữa, Tỳ-kheo, đối với giới mà bậc Thánh hành trì, khơng phạm, khơng hủy, khơng nhiễm ơ, được bậc trí khen ngợi, khéo thọ trì đầy đủ, thành tựu định ý. “6. Lại nữa, Tỳ-kheo chánh kiến về các phạm hạnh để thành tựu sự xuất yếu của Hiền thánh, để chân chánh diệt tận khổ, đó gọi là trọng pháp, đáng kính đáng trọng, hịa hợp với chúng, khơng có tranh tụng, độc hành khơng tạp. “Thế nào là sáu tu pháp? Đó là sáu tu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. “Thế nào là sáu giác pháp? Đó là sáu nội nhập: nhãn nhập, nhó nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. “Thế nào là sáu diệt pháp? Đó là sáu ái: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. “Thế nào là sáu thối pháp? Đó là sáu pháp bất kính: khơng kính Phật, khơng kính Pháp, khơng kính Tăng, khơng kính giới, khơng kính định, khơng kính cha mẹ. “Thế nào là sáu tăng pháp? Đó là sáu pháp kính: kính Phật, kính Pháp, kính Tăng, kính giới, kính định, kính cha mẹ. “Thế nào sáu nan giải pháp? Đó là sáu vơ thượng: kiến vơ thượng, văn vơ thượng, lợi dưỡng vơ thượng, giới vơ thượng, cung kính vơ thượng, niệm vơ thượng. “Thế nào là sáu sanh pháp? Đó là sáu đẳng pháp<註 n="531"/>45: ở đây, Tỳ-kheo, mắt thấy sắc, khơng ưu, khơng hỷ, an trú xả, chuyên niệm. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tưởng pháp, khơng ưu, khơng hỷ, an trú xả, chuyên niệm. “Thế nào là sáu tri pháp? Đó là sáu xuất yếu giới. Nếu có Tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tơi tu Từ tâm, lại cịn sanh sân nhuế’, thì các Tỳ-kheo khác nói: ‘Ngươi đừng nói như thế. Chớ hủy báng Như Lai. Như Lai khơng nói như thế, rằng muốn khiến tu Từ giải thốt mà lại sanh sân nhuế, khơng có trường hợp đó. Phật nói, trừ sân nhuế rồi sau đó mới đắc Từ’. Nếu có Tỳ-kheo nói: ‘Tơi thực hành Bi giải thốt lại sanh tâm tật đố. Hành Hỷ giải thốt, sanh tâm ưu não. Hành Xả giải thốt, sanh tâm yêu ghét. Hành Vơ ngã hành<註 n="532"/>46 sanh tâm hồ nghi. Hành Vơ tưởng hành<註 n="533"/>47, sanh các loạn tưởng’, thì cũng giống như vậy. “Thế nào là sáu chứng pháp? Đó là sáu thần thơng: “1. Thần túc thơng. “2. Thiên nhó thơng. “3. Tri tha tâm thơng “4. Túc mạng thơng. “5. Thiên nhãn thơng. “6. Lậu tận thơng. “Các Tỳ-kheo, đó là sáu mươi pháp, như thật khơng hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực. “Lại nữa, có bảy thành pháp, bảy tu pháp, bảy giác pháp, bảy diệt pháp, bảy thối pháp, bảy tăng pháp, bảy nan giải pháp, bảy sanh pháp, bảy tri pháp, bảy chứng pháp. “Thế nào là bảy thành pháp? Đó là bảy tài sản: tín là tài sản, giới là tài sản, tàm là tài sản, quý là tài sản, đa văn là tài sản, huệ thí là tài sản. “Thế nào là bảy tu pháp? Đó là bảy giác ý: ở đây, Tỳ-kheo tu niệm giác ýù, y vơ dục y tịch diệt, y viễn ly. Tu pháp, tu tinh tấn, tu hỷ, tu ỷ, tu định, tu xả, y vơ dục, y tịch diệt, y viễn ly. “Thế nào là bảy giác pháp? Đó là bảy trú xứ của thức: nếu có chúng sanh với nhiều tâm khác nhau, nhiều tưởng khác nhau, đó là trời và người vậy. Đó là thức trú thứ nhất. Lại có chúng sanh, với nhiều thân khác nhau nhưng một tưởng, đó là trời Phạm quang âm lúc mới sanh đầu tiên. Đó là thức trú thứ hai. Lại có chúng sanh với một thân nhưng nhiều tưởng khác nhau, đó là trời Quang âm. Đó là thức trú thứ ba. Lại có chúng sanh với một thân và một tưởng giống nhau, đó là trời Biến tịnh. Đó là thức trú thứ tư. Lại có chúng sanh trú hư khơng xứ. Đó là thức trú thứ năm. Lại có chúng sanh trú ở thức xứ. Đó là thức trú thứ sáu. Hoặc trú bất dụng xứ. Đó là thức trú thứ bảy. “Thế nào là bảy diệt pháp? Đó là sáu sử<註 n="534"/>48: sai sử bởi dục ái, sai sử bởi hữu ái, sai sử bởi kiến, sai sử bởi mạn, sai sử bởi sân nhuế, sai sử bởi vơ minh, sai sử bởi nghi. “Thế nào là bảy thối pháp? Đó là bảy phi pháp: ở đây, Tỳ-kheo khơng có tín, khơng có tàm, khơng có quý, ít học, biếng nhác, hay quên, vơ trí. “Thế nào là bảy tăng pháp? Đó là bảy chánh pháp: ở đây Tỳ-kheo có tín, có tàm, có quý, đa văn, khơng biếng nhác, nhớ dai, có trí. “Thế nào là bảy nan giải pháp? Đó là bảy chánh thiện pháp: ở đây, Tỳ-kheo ưa nghóa, ưa pháp, ưa biết thời, ưa biết đủ, ưa tự nhiếp, ưa tập chúng, ưa phân biệt người. “Thế nào là bảy sanh pháp? Đó là bảy tưởng: tưởng về sự bất tịnh của thân, tưởng về sự bất tịnh của thức ăn, tưởng về sự hết thảy thế gian khơng đáng ưa thích, tưởng về sự chết, tưởng về vơ thường, tưởng vơ thường là khổ, tưởng khổ là vơ ngã. “Thế nào là bảy tri pháp? Đó là bảy sự tinh cần: tinh cần nơi giới, tinh cần diệt tham dục, tinh cần phá tà kiến, tinh cần nơi đa văn, tinh cần nơi tinh tấn, tinh cần nơi chánh niệm, tinh cần nơi thiền định. “Thế nào là bảy chứng pháp? Đó là bảy năng lực diệt tận lậu hoặc<註 n="535"/>49: ở đây, Tỳ-kheo dứt tận lậu đối với hết thảy sự tập khởi của khổ, sự diệt trừ, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất ly mà biết như thật, thấy như thật. Quán sát dục như hầm lửa và cũng như đao kiếm, biết dục, thấy dục, khơng tham nơi dục, tâm khơng trụ nơi dục. Tỳ-kheo lậu tận, quán sát thuận và nghịch, sau khi đã như thật giác tri, như thật thấy; tham, tật, ác bất thiện pháp của thế gian, khơng rị rỉ, khơng sinh khởi. Tu Tứ niệm xứ, tu tập nhiều lần, thực hành nhiều lần. Tu Năm căn, Năm lực, Bảy giác ýù, Tám hiền thánh đạo, tu tập nhiều lần. “Các Tỳ-kheo, đó là bảy mươi pháp như thật khơng hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực. “Lại nữa, có tám thành pháp, tám tu pháp, tám giác pháp, tám diệt pháp, tám thối pháp, tám tăng pháp, tám nan giải pháp, tám sanh pháp, tám tri pháp, tám chứng pháp. “Thế nào là tám thành pháp? Đó lá tám nhân duyên khiến cho chưa sở đắc phạm hạnh nhưng có thể sở đắc trí<註 n="536"/>50 và nếu đã sở đắc phạm hạnh thì trí tăng trưởng. Những gì là tám? Ở đây, Tỳ-kheo sống nương tựa Thế Tơn, hoặc nương tựa sư trưởng, hoặc nương tựa người phạm hạnh có trí tuệ, sanh tâm tàm quý, có ái, có kính. Đó là nhân duyên thứ nhất, chưa chứng đắùc phạm hạnh nhưng chứng đắc trí; đã chứng đắc phạm hạnh thì trí tăng gia. Lại nữa, sống nương tựa Thế Tơn, tùy thời mà thưa hỏi: ‘Pháp này có ý nghóa gì? Dẫn đến đâu?’ Khi ấy các tơn trưởng liền mở bày cho nghóa lý thậm thâm. Đó là nhân duyên thứ hai. Sau khi nghe pháp thân tâm an lạc, an tónh. Đó là nhân duyên thứ ba. Sau khi đã được an lạc, an tónh, sẽ khơng luận bàn những tạp luận làm chướng ngại đạo. Vị ấy đến giữa đại chúng hoặc tự mình thuyết pháp, hoặc thỉnh người khác thuyết, mà vẫn khơng bỏ sự im lặng của Hiền thánh. Đó là nhân duyên thứ tư. Đa văn, quảng bác, ghi nhớ khơng quên các pháp thâm áo, hay khéo ở khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối, có nghóa có vị, chân thật, đầy đủ phạm hạnh. Sau khi nghe thì ghi nhớ trong lịng, kiến giải khơng lay động<註 n="537"/>51. Đó là nhân duyên thứ năm. Tu tập tinh cần, diệt ác tăng thiện, gắng sức thực hành khơng bỏ pháp ấy. Đó là nhân duyên thứ sáu. Bằng trí tuệ mà nhận thức pháp sanh diệt, chỗ thú hướng của Hiền thánh, tận cùng biên tế của khổ. Đó là nhân duyên thứ bảy. Quán tướng sanh và tướng diệt của năm thọ ấm: Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc. Đây là thọ tưởng, hành, thức. Đây là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức, sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức. Đó là nhân duyên thứ tám, khiến cho chưa sở đắc phạm hạnh mà sở đắc trí, nếu đã sở đắc phạm hạnh thì trí tuệ tăng trưởng. “Thế nào là tám tu pháp? Đó là tám con đường của Hiền thánh: chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. “Thế nào là tám giác pháp? Đó là tám pháp ở đời: lợi, suy, vinh, nhục, khen, chê, khổ, lạc. “Thế nào là tám diệt pháp? Đó là tám tà: tà kiến, tà tư, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định. “Thế nào là tám thối pháp? Đó là tám pháp giải đãi. Tám pháp giải đãi là những gì? Tỳ-kheo lười biếng, khất thực nhưng khơng được thực, bèn suy nghó: ‘Hơm nay ta khất thực dưới xóm nhưng khơng được thực, thân thể mệt mỏi khơng đủ sức tọa thiền kinh hành. Ta nên nghỉ ngơi.’ Tỳ-kheo lười biếng suy nghó như vậy và nằm nghỉ, khơng chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ nhất. “Tỳ-kheo lười biếng nhận được thức ăn đầy đủ, lại suy nghó: ‘Sáng nay ta vào xóm khất thực, nhận được thức ăn và ăn quá no, thân thể nặng nề khơng thể tọa thiền kinh hành. Ta nên ngủ nghỉ.’ Tỳ-kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, khơng chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ hai. “Tỳ-kheo lười biếng, giả sử có làm chút cơng việc, bèn suy nghó: ‘Ngày nay ta làm việc, thân thể mệt mỏi khơng thể tọa thiền kinh hành. Ta nên ngủ nghỉ.’ Tỳ-kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, khơng chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ ba. “Tỳ-kheo lười biếng, giả sử có chút việc sẽ phải làm, bèn suy nghó: ‘Ngày mai ta sẽ làm việc, thân thể sẽ mệt mỏi, vậy hơm nay khơng thể tọa thiền kinh hành. Ta nên nghỉ ngơi trước.’ Tỳ-kheo lười biếng liền ngủ nghỉ. Đó là sự giải đãi thứ tư. “Tỳ-kheo lười biếng, giả sử có đi lại chút ít bèn suy nghó: ‘Sáng nay ta đi lại, thân thể mệt mỏi, khơng thể tọa thiền kinh hành. Ta nên ngủ nghỉ.’ Tỳ-kheo lười biếng liền ngủ nghỉ. Đó là sự giải đãi thứ năm. “Tỳ-kheo lười biếng, giả sử sẽ phải đi lại chút ít, bèn suy nghó: ‘Ngày mai ta sẽ phải đi lại, thân thể sẽ mệt mỏi, vậy hơm nay khơng thể tọa thiền kinh hành. Ta nên nghỉ ngơi trước.’ Tỳ-kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, khơng chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ sáu. “Tỳ-kheo lười biếng, giả sử gặp chút bệnh hoạn, bèn suy nghó: ‘Nay ta bệnh nặng, mệt nhọc gầy yếu, khơng thể tọa thiền kinh hành. Ta nên ngủ nghỉ.’ Tỳ-kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, khơng chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ bảy. “Tỳ-kheo lười biếng, khi bệnh đã bớt, bèn suy nghó: ‘Ta khỏi bệnh chưa lâu, thân thể gầy yếu, khơng thể tọa thiền kinh hành. Ta nên ngủ nghỉ.’ Tỳ-kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, khơng chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ tám. “Thế nào là tám tăng pháp? Đó là tám sự khơng biếng nhác. Tỳ-kheo vào xóm khất thực nhưng khơng được thức ăn, bèn suy nghó: ‘Ta thân thể nhẹ nhàng, ít buồn ngủ, vậy ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng.’ Rồi Tỳ-kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ nhất. “Tỳ-kheo khất thực được đủ, bèn suy nghó: ‘Nay ta vào xóm khất thực được no đủ, khí lực sung túc, ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng.’ Rồi Tỳ-kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ hai. “Tỳ-kheo siêng năng giả sử có chút cơng việc phải làm, bèn suy nghó: ‘Ta vừa làm cơng việc mà bỏ phế sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng.’ Rồi Tỳ-kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ ba. “Tỳ-kheo siêng năng giả sử có cơng việc sẽ phải làm, bèn suy nghó: ‘Ngày mai ta sẽ làm cơng việc mà bỏ phế sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng.’ Rồi Tỳ-kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ tư. “Tỳ-kheo siêng năng giả sử có chút đi lại, bèn suy nghó: ‘Ta sáng nay đi lại mà bỏ phế sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng.’ Rồi Tỳ-kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ năm. “Tỳ-kheo siêng năng giả sử sẽ phải đi lại, bèn suy nghó: ‘Ngày mai ta sẽ phải đi lại mà bỏ phế sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng.’ Rồi Tỳ-kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ sáu. “Tỳ-kheo siêng năng giả sử bị bệnh hoạn, bèn suy nghó: ‘Ta nay bệnh nặng, có thể mạng chung. Nay ta hãy tọa thiền kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng.’ Rồi Tỳ-kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ bảy. “Tỳ-kheo siêng năng khi bệnh có chút thuyên giảm bèn suy nghó: ‘Ta bệnh mới khỏi, biết đâu nó tăng trở lại mà phế bỏ sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng.’ Rồi Tỳ-kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ tám. “Thế nào là tám nan giải pháp? Đó là tám sự khơng thuận lợi, cản trở sự tu tập phạm hạnh<註 n="538"/>52. Những gì là tám? “1. Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vơ vi, hướng về đạo giác ngộ, mà có người sanh vào địa ngục. Đó là trường hợp khơng thuận lợi, khơng thể tu tập phạm hạnh. “2→5. Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vơ vi, hướng về đạo giác ngộ, mà có người sanh vào súc sanh ngạ quỷ, cõi trời trường thọ, biên địa vơ thức, chỗ khơng có Phật pháp. Đó là trường hợp khơng thuận lợi, khơng thể tu tập phạm hạnh. “6. Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vơ vi, hướng về đạo giác ngộ, hoặc có người sanh ở trung ương, nhưng có tà kiến, mang tâm điên đảo, thành tựu ác hành chắc chắn vào địa ngục. Đó là trường hợp khơng thuận lợi, khơng thể tu tập phạm hạnh. “7. Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vơ vi, hướng về đạo giác ngộ, hoặc có chúng sanh sanh ở trung ương nhưng mù, điếc, câm, ngọng, khơng thể nghe pháp, tu hành phạm hạnh. Đó là trường hợp khơng thuận lợi, khơng thể tu tập phạm hạnh. “8. Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vơ vi, hướng về đạo giác ngộ, hoặc có chúng sanh sanh ở trung ương, các căn đầy đủ để lãnh thọ Thánh giáo nhưng khơng gặp Phật, khơng được tu hành phạm hạnh. “Đó là tám pháp khơng thuận lợi. “Thế nào là tám sanh pháp? Đó là tám sự tỉnh giác của bậc đại nhân<註 n="539"/>53: “1. Đạo phải là ít dục; nhiều dục khơng phải là đạo. “2. Đạo phải là tri túc; khơng biết nhàm đủ khơng phải là đạo. “3. Đạo cần phải nhàn tónh; ưa đám đơng khơng phải là đạo. “4. Đạo cần phải tự giữ; cười giỡn khơng phải là đạo. “5. Đạo cần phải tinh tấn; biếng nhác khơng phải là đạo. “6. Đạo cần phải chuyên niệm; hay quên lãng khơng phải là đạo. “7. Đạo cần phải định ý; loạn ý khơng phải là đạo. “8. Đạo cần phải có trí tuệ; ngu si khơng phải là đạo. “Thế nào là tám tri pháp? Đó là tám trừ nhập<註 n="540"/>54: “1. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc ít, hoặc đẹp hoặc xấu, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ nhất. “2. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc vơ lượng, hoặc đẹp hoặc xấu, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ hai. “3. Bên trong khơng có sắc tưởng, quán ngoại sắc ít, hoặc xấu hoặc đẹp, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ ba. “4. Bên trong khơng có sắùc tưởng, quán ngoại sắc vơ lượng, hoặc đẹp hoặc xấu, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ tư. “5. Bên trong khơng sắc tưởng, quán ngoại sắc xanh, màu xanh, ánh sáng xanh, cái nhìn xanh<註 n="541"/>55. Ví như màu xanh của sen xanh. Cũng như vải ba-la-nại màu xanh, thuần nhất. Màu xanh, ánh sáng xanh, cái nhìn xanh cũng được tưởng như vậy, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ năm. “6. Bên trong khơng sắc tưởng, quán ngoại sắc vàng; màu vàng, ánh sáng vàng, cái nhìn vàng. Ví như màu vàng của hoa vàng; vải ba-la-nại vàng. Màu vàng, ánh sáng vàng, cái nhìn vàng cũng được tưởng như vậy, thường quán, thường niệm. Đó là trừ nhập thứ sáu. “7. Bên trong khơng sắc tưởng quán ngoại sắc đỏ. Màu đỏ, ánh sáng đỏ, cái nhìn đỏ. Ví như ba màu đỏ, vải ba-la-nại đỏ, thuần nhất màu đỏ, ánh sáng đỏ, cái nhìn đỏ, cũng được tưởng như vậy thường quán, thường niệm. Đó là trừ nhập thứ bảy. “8. Bên trong khơng sắc tưởng, quán ngoại sắc trắng. Màu trắng, ánh sáng trắng, cái nhìn trắng. Cũng như màu trắng của hoa trắng, vải ba-la-nại trắng, thuần nhất. Cũng tưởng như vậy, màu trắng, ánh sáng trắng, cái nhìn trắng, thường quán, thường niệm. Đó là trừ nhập thứ tám. “Thế nào là tám chứng pháp? Đó là tám giải thốt: Bên trong có sắc tưởng, quán sắc: giải thốt thứ nhất. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc: giải thốt thứ hai. Tịnh giải thốt: giải thốt thứ ba. Vượt sắc tưởng, diệt sân nhuế tưởng, an trú khơng xứ: giải thốt thứ tư<註 n="542"/>56. Vượt qua khơng xứ, an trú thức xứ: giải thốt thứ năm. Vượt qua thức xứ, an trú bất dụng xứ: giải thốt thứ sáu. Vượt qua bất dụng xứ, an trú hữu tưởng vơ tưởng xứ: giải thốt thứ bảy. Vượt hữu tưởng vơ tưởng xứ, an trú tưởng tri diệt: giải thốt thứ tám. “Các Tỳ-kheo, đó là tám mươi pháp như thật khơng hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực. “Lại nữa, có chín thành pháp, chín tu pháp, chín giác pháp, chín diệt pháp, chín thối pháp, chín tăng pháp, chín nan giải pháp, chín sanh pháp, chín tri pháp, chín chứng pháp. “Thế nào là chín thành pháp? Đó là chín tịnh diệt chi<註 n="543"/>57: giới<註 n="544"/>58 tịnh diệt chi, tâm tịnh diệt chi, kiến tịnh diệt chi, độ nghi tịnh diệt chi, phân biệt tịnh diệt chi, đạo tịnh diệt chi, trừ tịnh diệt chi, vơ dục tịnh diệt chi, giải thốt tịnh diệt chi<註 n="545"/>59. “Thế nào là chín tu pháp? Đó là chín gốc rễ của hỷ: hỷ, ái, duyệt, lạc, định, như thật tri, trừ xả, vơ dục, giải thốt<註 n="546"/>60. “Thế nào chín giác pháp? Đó là chín nơi cư trú của chúng sanh: “1. Hoặc có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, với nhiều tưởng khác nhau, tức là chư Thiên và lồi người. Đó là nơi cư trú thứ nhất của chúng sanh. “2. Lại có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, nhưng với một tưởng giống nhau, tức là trời Phạm quang âm lúc mới sanh. Đó là nơi cư trú thứ hai của chúng sanh. “3. Lại có chúng sanh với một thân giống nhau, nhưng với nhiều tưởng khác nhau, tức là trời Quang âm. Đó là nơi cư trú thứ ba của chúng sanh. “4. Lại có chúng sanh với một thân một tưởng giống nhau, tức là trời Biến tịnh. Đó là nơi cư trú thứ tư của chúng sanh. “5. Lại có chúng sanh khơng có tưởng và khơng có giác tri, tức là trời Vơ tưởng<註 n="547"/>61. Đó là nơi cư trú thứ năm của chúng sanh. “6. Lại có chúng sanh an trú hư khơng xứ. Đó là nơi cư trú thứ sáu của chúng sanh. “7. Lại có chúng sanh an trú thức xứ. Đó là an trú thứ bảy của chúng sanh. “8. Lại có chúng sanh an trú vơ sở hữu xứ. Đó là nơi cư trú thứ tám của chúng sanh. “9. Lại có chúng sanh an trú phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là nơi cư trú thứ chín của chúng sanh. “Thế nào là chín diệt pháp? Đó là chín gốc rễ của ái: nhân ái có tìm cầu; nhân tìm cầu có lợi; nhân lợi có dụng; nhân dụng có dục; nhân dục có dính trước; nhân dính trước có tật đố; nhân tật đố có bảo thủ; nhân bảo thủ có hộ. “Thế nào là chín thối pháp? Đó là chín não pháp: có người đã não hại ta; nó đang não hại ta; nó sẽ não hại ta; nó đã xâm hại cái ta thương yêu; nó đang xâm hại cái ta thương yêu; nó sẽ xâm hại cái ta thương yêu; nó đã yêu kính cái ta ghét; nó đang yêu kính cái ta ghét; nó sẽ yêu kính cái ta ghét. “Thế nào là chín tăng pháp? Đó là chín vơ não: Người kia đã xâm hại ta; nghó vậy chẳng có ích gì: đã khơng sanh não, đang khơng sanh não, sẽ khơng sanh não. Nó xâm não cái ta yêu thương; nghó như vậy chẳng có ích gì: đã khơng sanh não, đang khơng sanh não, sẽ khơng sanh não. Nó yêu thương cái ta ghét; nghó như vậy chẳng có ích gì: đã khơng sanh não, đang khơng sanh não, sẽ khơng sanh não. “Thế nào là chín nan giải pháp? Đó là chín phạm hạnh: Nếu Tỳ-kheo có tín nhưng khơng trì giới, thì phạm hạnh khơng đầy đủ. Tỳ-kheo có tín và có giới thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo có tín, có giới, nhưng khơng có đa văn, thì phạm hạnh khơng đầy đủ. Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, nhưng khơng thể thuyết pháp, thì phạm hạnh khơng đầy đủ. Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, nhưng khơng thể nuơi chúng, thì phạm hạnh khơng đầy đủ. Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, nhưng giữa đại chúng khơng thể quảng diễn pháp ngơn, thì phạm hạnh khơng đầy đủ. Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, có thể quảng diễn pháp ngơn giữa đại chúng thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, giữa đại chúng có thể quảng diễn pháp ngơn, nhưng khơng chứng đắc Tứ thiền, thì phạm hạnh khơng đầy đủ. Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, có thể quảng diễn pháp ngơn giữa đại chúng, lại đắc Tứ thiền, thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, giữa đại chúng có thể quảng diễn pháp ngơn, lại chứng đắc Tứ thiền, nhưng đối với tám giải thốt khơng thể thuận nghịch du hành, thì phạm hạnh khơng đầy đủ. Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, có thể quảng diễn pháp ngơn giữa đại chúng, lại đắc Tứ thiền, đối với tám giải thốt có thể thuận nghịch du hành, thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, giữa đại chúng có thể quảng diễn pháp ngơn, lại chứng đắc Tứ thiền, đối với tám giải thốt có thể thuận nghịch du hành, nhưng khơng thể diệt tận các lậu, thành vơ lậu tâm giải thốt, trí tuệ giải thốt, ngay trong hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sanh nữa, thì phạm hạnh khơng đầy đủ. Tỳ-kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuơi chúng, có thể quảng diễn pháp ngơn giữa đại chúng, lại đắc Tứ thiền, đối với tám giải thốt có thể thuận nghịch du hành, có thể diệt tận các lậu, thành vơ lậu tâm giải thốt, trí tuệ giải thốt, ngay trong hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sanh nữa, thì phạm hạnh đầy đủ. “Thế nào là chín sanh pháp? Đó là chín tưởng: tưởng về sự bất tịnh; tưởng về sự bất tịnh của thức ăn; tưởng về hết thảy thế gian khơng đáng ưa thích; tưởng về sự chết; tưởng về vơ thường; tưởng vơ thường là khổ; tưởng khổ là vơ ngã; tưởng về sự diệt tận; tưởng về vơ dục. “Thế nào là chín tri pháp? Đó là chín dị pháp: sanh quả dị nhân quả dị; sanh xúc dị nhân xúc dị; sanh thọ dị nhân thọ dị; sanh tưởng dị nhân tưởng dị; sanh tập dị nhân tập dị; sanh dục dị nhân dục dị; sanh lợi dị nhân lợi dị; sanh cầu dị nhân cầu dị; sanh phiền não dị nhân phiền não dị. “Thế nào là chín chứng pháp? Đó là chín tận<註 n="548"/>62: Nếu nhập Sơ thiền, thì gai nhọn là âm thanh bị diệt trừ. Nhập đệ Nhị thiền, thì gai nhọn là giác và quán bị diệt trừ. Nhập đệ Tam thiền, thì gai nhọn là hỷ bị diệt trừ. Nhập đệ Tứ thiền, thì gai nhọn là hơi thở ra vào bị diệt trừ. Nhập khơng xứ thì gai nhọn là sắc tưởng bị diệt trừ. Nhập thức xứ thì gai nhọn là khơng tưởng bị diệt trừ. Nhập bất dụng xứ thì gai nhọn là thức tưởng bị diệt trừ. Nhập hữu tưởng vơ tưởng xứ thì gai nhọn là bất dụng tưởng bị diệt trừ. Nhập diệt tận định thì gai nhọn là tưởng và thọ bị diệt trừ. “Các Tỳ-kheo, đó là chín mươi pháp như thật khơng hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực. “Lại nữa, có mười thành pháp, mười tu pháp, mười giác pháp, mười diệt pháp, mười thối pháp, mười tăng pháp, mười nan giải pháp, mười sanh pháp, mười tri pháp, mười chứng pháp. “Thế nào là mười thành pháp? Đó là mười cứu pháp<註 n="549"/>63. “1. Tỳ-kheo đầy đủ hai trăm năm mươi giới, đầy đủ oai nghi, thấy lỗi nhỏ nhặt sanh tâm lo sợ lớn, chân chánh học giới<註 n="550"/>64, tâm khơng nghiêng lệch. “2. Có được thiện tri thức. “3. Ngơn ngữ trung chánh, nhẫn nhịn được nhiều điều<註 n="551"/>65. “4. Ưa cầu thiện pháp, phân bố khơng tiếc lẫn. “5. Các đồng phạm hạnh có việc phải làm liền đến giúp đỡ khơng lấy làm mệt nhọc, làm được những việc khó làm và cũng dạy người khác làm. “6. Nghe nhiều; nghe xong thì ghi nhớ khơng hề quên. “7. Tinh tấn, diệt trừ bất thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp. “8. Thường tự chuyên niệm, khơng có tưởng khác, nhớ những hành vi thiện từ trước như thấy trước mắt. “9. Trí tuệ thành tựu, quán sự sanh diệt của các pháp, bằng pháp luật Hiền thánh mà đoạn trừ gốc khổ. “10. Vui với sự nhàn cư, chuyên niệm tư duy, ở trung gian thiền, khơng có đùa giỡn. “Thế nào là mười tu pháp? Đó là mười chánh hành: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thốt, chánh tri. “Thế nào là mười giác pháp? Đó là mười sắc nhập<註 n="552"/>66: nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân nhập; sắc, thanh, hương, vị, xúc nhập. “Thế nào là mười diệt pháp? Đó là mười tà hạnh: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định, tà giải thốt, tà trí. “Thế nào là mười thối pháp. Đó là mười bất thiện hành tích<註 n="553"/>67: thân có sát, đạo, dâm; khẩu có hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt; ý có tham lam, tật đố, tà kiến. “Thế nào là mười tăng pháp? Đó là mười thiện hành: thân khơng sát, đạo, dâm; khẩu khơng hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt; ý khơng tham lam, tật đố, tà kiến. “Thế nào là mười nan giải pháp? Đó là mười Hiền thánh cư<註 n="554"/>68: “1. Tỳ-kheo trừ diệt năm chi<註 n="555"/>69. “2. Thành tựu sáu chi<註 n="556"/>70. “3. Xả một chi<註 n="557"/>71. “4. Y trên bốn<註 n="558"/>72. “5. Diệt dị đế<註 n="559"/>73. “6. Thắng diệu cầu<註 n="560"/>74. “7. Khơng trược tưởng<註 n="561"/>75. “8. Thân hành đã lập<註 n="562"/>76. “9. Tâm giải thốt. “10. Tuệ giải thốt. “Thế nào là mười sanh pháp? Đó là mười trường hợp khen ngợi: Nếu Tỳ-kheo tự mình đã có được tín tâm rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người có được tín tâm. Tự mình đã trì giới rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người trì giới. Tự mình thiểu dục rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người thiểu dục. Tự mình tri túc rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người tri túc. Tự mình ưa nhàn tónh rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người ưa nhàn tónh. Tự mình đa văn rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người đa văn. Tự mình tinh tấn rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người tinh tấn. Tự mình chuyên niệm rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người chuyên niệm. Tự mình đắc thiền định rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người đắc thiền định. Tự mình đắc trí tuệ rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người đắc trí tuệ. “Thế nào là mười tri pháp? Đó là mười diệt pháp<註 n="563"/>77: Người chánh kiến có thể diệt trừ tà kiến, diệt trừ sạch những gì là vơ số ác duyên tà kiến mà khởi lên và thành tựu những gì là vơ số thiện nhân nơi chánh kiến mà sanh khởi. Người có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thốt, chánh trí có thể diệt trừ tà trí và vơ số ác nhân tà trí sanh khởi cũng hồn tồn bị diệt tận; vơ số thiện pháp, nhân nơi chánh trí sanh khởi, thảy đều được thành tựu. “Thế nào là mười vơ học pháp? Vơ học chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thốt, chánh trí. “Các Tỳ-kheo, đó là trăm pháp như thật khơng hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực.” Bấy giờ, Xá-lợi-phất được Phật ấn khả. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Xá-lợi-phất thuyết, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140850">11. KINH TĂNG NHẤT<註 n="564"/>78 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp cơ độc, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, Thế Tơn nói với các Tỳ-kheo: “Nay Ta sẽ nói pháp cho các thầy nghe; pháp vi diệu, khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối đều chân chánh, có đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Đó là pháp tăng nhất. Các thầy hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ giảng thuyết.” Các Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe. Phật nói với các Tỳ-kheo: “Pháp tăng nhất ấy là, một thành pháp, một tu pháp, một giác pháp, một diệt pháp, một chứùng pháp. “Thế nào là một thành pháp? Đó là khơng bỏ các pháp thiệân. “Thế nào là một tu pháp? Đó là thường tự niệm thân. “Thế nào là một giác pháp? Đó là xúc hữu lậu. “Thế nào là một diệt pháp? Đó là ngã mạn. “Thế nào là một chứng pháp? Đó là vơ ngại tâm giải thốt. “Lại nữa, có hai thành pháp, hai tu pháp, hai giác pháp, hai diệt pháp, hai chứùng pháp. “Thế nào là hai thành pháp? Biết tàm và biết quý. “Thế nào là hai tu pháp? Chỉ và quán. “Thế nào là hai giác pháp? Danh và sắc. “Thế nào là hai diệt pháp? Vơ minh và hữu ái. “Thế nào là hai chứng pháp? Minh và giải thốt. “Lại nữa, có ba thành pháp, ba tu pháp, ba giác pháp, ba diệt pháp, ba chứng pháp. “Thế nào là ba thành pháp. “1. Thân cận thiện hữu. “2. Tai nghe pháp âm. “3. Thành tựu pháp và tùy pháp. “Thế nào là ba tu pháp? Đó là ba tam-muội: khơng tam-muội, vơ tướng tam-muội, vơ tác tam-muội. “Thế nào là ba giác pháp? Đó là ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, phi khổ phi lạc thọ. “Thế nào là ba diệt pháp? Đó là ba ái: dục ái, hữu ái, vơ hữu ái. “Thế nào là ba chứng pháp? Đó là ba minh: túc mạng trí, thiên nhãn trí và lậu tận trí. “Lại nữa, có bốn thành pháp, bốn tu pháp, bốn giác pháp, bốn diệt pháp, bốn chứng pháp. “Thế nào là bốn thành pháp? Đó là luân pháp: “1. Sống ở trung ương của đất nước. “2. Gần thiện hữu. “3. Tự cẩn thận. “4. Có gốc rễ thiện đã được trồng từ đời trước. “Thế nào là bốn tu pháp? Đó là bốn niệm xứ: “1. Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân, tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thân trên nội ngoại thân, tinh cần khơng biếng nhác, ức niệm khơng quên, trừ tham ưu ở đời. “2. Quán thọ. “3. Quán ý. “4. Quán pháp cũng như vậy. “Thế nào là bốn giác pháp? Đó là bốn thức ăn: thức ăn bằng vo nắm, thức ăn bằng cảm xúc, thức ăn bằng tư niệm, thức ăn do thức. “Thế nào là bốn diệt pháp? Đó là bốn thủ: dục thủ, ngã ngữ thủ, giới cấm thủ và kiến thủ. “Thế nào là bốn chứng pháp? Đó là bốn Sa-mơn quả: Tu-đà-hồn quả, Tư-đa-hàm quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả. “Lại nữa, có năm thành pháp, năm tu pháp, năm giác pháp, năm diệt pháp, năm chứng pháp. “Thế nào là năm thành pháp? Đó là năm diệt tận chi: “1. Tin Phật, Như Lai, Chí Chân, mười hiệu thành tựu. “2. Khơng bệnh, thân thường an ổn. “3. Chất trực, khơng dua xiểm, hướng thẳng đến con đường dẫn đến Niết-bàn của Như Lai. “4. Chuyên tâm khơng tán loạn, đọc cũng khơng quên lãng. “5. Khéo léo quán sát sự sinh diệt của pháp, bằng thực hành của Hiền thánh mà diệt tận gốc rễ khổ. “Thế nào là năm tu pháp? Đó là năm căn: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn. “Thế nào là năm giác pháp? Đó là năm thọ ấm: sắc thọ ấm, thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm. “Thế nào là năm diệt pháp? Đó là năm cái: tham dục cái, sân nhuế cái, thụy miên cái, trạo hối cái và nghi cái. “Thế nào là năm chứng pháp? Đó là năm tụ vơ học: tụ vơ học giới, tụ vơ học định, tụ vơ học tuệ, tụ vơ học giải thốt, tụ vơ học giải thốt tri kiến. “Lại nữa có sáu thành pháp, sáu tu pháp, sáu giác pháp, sáu diệt pháp, sáu chứng pháp. “Thế nào là sáu thành pháp? Đó là sáu pháp tơn trọng: Nếu có Tỳ-kheo tu sáu pháp tơn trọng, đáng kính, đáng trọng, hịa hợp với chúng khơng có tranh tụng, độc hành khơng hỗn tạp. Những gì là sáu? “1. Ở đây, Tỳ-kheo thân thường hành từ, kính đồng phạm hạnh, sống với tâm nhân ái. Đó gọi là pháp tơn trọng, đáng kính, đáng trọng, hịa hợp với chúng, khơng có tranh tụng, độc hành khơng tạp. “2→4. Lại nữa, Tỳ-kheo khẩu hành từ, ý hành từ; được vật lợi dưỡng đúng pháp và những thức ăn ở trong bát cũng đều đem chia cho người khác dùng chung, khơng phân biệt đây kia. “5. Lại nữa, Tỳ-kheo, đối với giới mà bậc Thánh hành trì, khơng phạm, khơng hủy, khơng nhiễm ơ, được bậc Trí khen ngợi, khéo thọ trì đầy đủ, thành tựu định ý. “6. Chánh kiến và các phạm hạnh để thành tựu sự xuất yếu của Hiền thánh, để chân chánh diệt tận khổ, đó gọi là pháp tơn trọng, đáng kính đáng trọng, hịa hợp với chúng, khơng có tranh tụng, độc hành khơng hỗn tạp. “Thế nào là sáu tu pháp? Đó là sáu tu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. “Thế nào là sáu giác pháp? Đó là sáu nội nhập: nhãn nhập, nhó nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. “Thế nào là sáu diệt pháp? Đó là sáu ái: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. “Thế nào là sáu chứng pháp? Đó là sáu thần thơng: “1. Thần túc thơng chứng. “2. Thiên nhó thơng chứng. “3. Tri tha tâm thơng chứng. “4. Túc mạng thơng chứng. “5. Thiên nhãn thơng chứng. “6. Lậu tận thơng chứng. “Lại nữa, có bảy thành pháp, bảy tu pháp, bảy giác pháp, bảy diệt pháp, bảy chứng pháp. “Thế nào là bảy thành pháp? Đó là bảy tài sản: tín là tài sản, giới là tài sản, tàm là tài sản, quý là tài sản, đa văn là tài sản, huệ thí là tài sản. “Thế nào là bảy tu pháp? Đó là bảy giác ý: ở đây, Tỳ-kheo tu niệm giác ý, y vơ dục, y tịch diệt, y viễn ly. Tu pháp, tu tinh tấn, tu hỷ, tu ỷ, tu định, tu xả, y vơ dục, y tịch diệt, y viễn ly. “Thế nào là bảy giác pháp? Đó là bảy trú xứ thức: Hoặc có chúng sanh với nhiều tâm khác nhau, nhiều tưởng khác nhau, đó là trời và người vậy. Đó là thức trú thứ nhất. Lại có chúng sanh, với nhiều thân khác nhau nhưng một tưởng, đó là trời Phạm quang âm lúc mới sanh đầu tiên. Đó là thức trú thứ hai. Lại có chúng sanh với một thân nhưng nhiều tưởng khác nhau, đó là trời Quang âm. Đó là thức trú thứ ba. Lại có chúng sanh với một thân và một tưởng giống nhau, đó là trời Biến tịnh. Đó là thức trú thứ tư. Lại có chúng sanh trú Hư khơng xứ. Đó là thức trú thứ năm. Lại có chúng sanh trú ở Thức xứ. Đó là thức trú thứ sáu. Hoặc trú Bất dụng xứ. Đó là thức trú thứ bảy. “Thế nào là bảy diệt pháp? Đó là bảy sử: sai sử bởi dục ái, sai sử bởi hữu ái, sai sử bởi kiến, sai sử bởi mạn, sai sử bởi sân nhuế, sai sử bởi vơ minh, sai sử bởi nghi. “Thế nào là bảy chứng pháp? Đó là bảy năng lực diệt tận lậu hoặc: ở đây, Tỳ-kheo, đối với hết thảy khổ, sự tập khởi của khổ, sự diệt trừ, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất ly của khổ mà biết như thật, thấy như thật; quán sát dục như hầm lửa và cũng như đao kiếm, biết dục, thấy dục, khơng tham nơi dục, tâm khơng trụ nơi dục. Ở trong đó lại khéo quán sát; sau khi đã như thật giác tri, như thật thấy, tham, tật, ác bất thiện pháp của thế gian khơng rị rỉ, khơng sinh khởi. Tu Tứ niệm xứ, tu tập nhiều lần, thực hành nhiều lần. Tu Năm căn, Năm lực, Bảy giác ý, Tám hiền thánh đạo, tu tập nhiều lần, thực hành nhiều lần. “Lại nữa, có tám thành pháp, tám tu pháp, tám giác pháp, tám diệt pháp, tám chứng pháp. “Thế nào là tám thành pháp? Đó là tám nhân duyên khiến cho chưa sở đắc phạm hạnh nhưng có thể sở đắc trí và nếu đã sở đắc phạm hạnh thì trí tăng trưởng. Những gì là tám? Ở đây, Tỳ-kheo sống nương tựa Thế Tơn, hoặc nương tựa Sư trưởng, hoặc nương tựa người phạm hạnh có trí tuệ, sanh tâm tàm quý, có ái, có kỉnh. Đó là nhân duyên thứ nhất, khiến cho chưa đắc phạm hạnh mà chứng đắc trí; nếu đắc phạm hạnh rồi thì trí tăng trưởng. Lại nữa, nương tựa Thế Tơn, tùy thời mà thưa hỏi: ‘Pháp này có ý nghóa gì? Dẫn đến đâu?’, khi ấy các tơn trưởng liền mở bày cho nghóa lý thậm thâm. Đó là nhân duyên thứ hai. Sau khi nghe pháp thân tâm an lạc, an tónh. Đó là nhân duyên thứ ba. Khơng luận bàn những tạp luận vơ ích làm chướng ngại đạo; vị ấy đến giữa đại chúng, hoặc tự mình thuyết pháp, hoặc thỉnh người khác thuyết, mà vẫn khơng bỏ sự im lặng của Hiền thánh. Đó là nhân duyên thứ tư. Đa văn, quảng bác, ghi nhớ khơng quên các pháp thâm áo, hay khéo ở khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối, có nghóa có vị, chân thật, đầy đủ phạm hạnh. Sau khi nghe thì ghi nhớ trong lịng, kiến giải khơng lay động. Đó là nhân duyên thứ năm. Tu tập tinh cần, diệt ác tăng thiện, gắng sức thực hành khơng bỏ pháp ấy. Đó là nhân duyên thứ sáu. Bằng trí tuệ mà nhận thức pháp sanh diệt, chỗ thú hướng của Hiền thánh, tận cùng biên tế của khổ. Đó là nhân duyên thứ bảy. Quán tướng sanh và tướng diệt của năm thọ ấm: Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc. Đây là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức, sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức. Đó là nhân duyên thứ tám, khiến cho chưa sở đắc phạm hạnh mà sở đắc trí, nếu đã sở đắc phạm hạnh thì trí tuệ tăng trưởng. “Thế nào là tám tu pháp? Đó là tám con đường của Hiền thánh: chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. “Thế nào là tám giác pháp? Đó là tám pháp ở đời: lợi, suy, vinh, nhục, khen, chê, khổ, lạc. “Thế nào là tám diệt pháp? Đó là tám tà: tà kiến, tà tư, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định. “Thế nào là tám chứng pháp? Đó là tám giải thốt. Bên trong có sắc tưởng, quán sắc: giải thốt thứ nhất. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc: giải thốt thứ hai. Tịnh giải thốt: giải thốt thứ ba. Vượt sắc tưởng, diệt sân nhuế tưởng, an trú khơng xứ: giải thốt thứ tư. Vượt qua khơng xứ, an trú thức xứ: giải thốt thứ năm. Vượt qua thức xứ, an trú bất dụng xứ: giải thốt thứ sáu. Vượt qua bất dụng xứ, an trú hữu tưởng vơ tưởng xứ: giải thốt thứ bảy. Vượt hữu tưởng vơ tưởng xứ, an trú tưởng tri diệt: giải thốt thứ tám. “Lại nữa, có chín thành pháp, chín tu pháp, chín giác pháp, chín diệt pháp, chín chứng pháp. “Thế nào là chín thành pháp? Đó là chín tịnh diệt chi: giới tịnh diệt chi, tâm tịnh diệt chi, kiến tịnh diệt chi, độ nghi tịnh diệt chi, phân biệt tịnh diệt chi, đạo tịnh diệt chi, trừ tịnh diệt chi, vơ dục tịnh diệt chi, giải thốt tịnh diệt chi. “Thế nào là chín tu pháp? Đó là chín gốc rễ của hỷ: hỷ, ái, duyệt, lạc, định, như thật tri, trừ xả, vơ dục, giải thốt. “Thế nào chín giác pháp? Đó là chín chúng sanh cư: “1. Hoặc có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, với nhiều tưởng khác nhau, tức là chư Thiên và lồi người. Đó là nơi cư trú thứ nhất của chúng sanh. “2. Lại có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, nhưng với một tưởng giống nhau, tức là trời Phạm quang âm lúc mới sanh. Đó là cư trú thứ hai của chúng sanh. “3. Lại có chúng sanh với một thân giống nhau, nhưng với nhiều tưởng khác nhau, tức là trời Quang âm. Đó là cư trú thứ ba của chúng sanh. “4. Lại có chúng sanh với một thân một tưởng giống nhau, tức là trời Biến tịnh. Đó là cư trú thứ tư của chúng sanh. “5. Lại có chúng sanh khơng có tưởng và khơng có giác tri, tức là trời Vơ tưởng. Đó là cư trú thứ năm của chúng sanh. “6. Lại có chúng sanh an trú hư khơng xứ. Đó là cư trú thứ sáu của chúng sanh. “7. Lại có chúng sanh an trú thức xứ. Đó là an trú thứ bảy của chúng sanh. “8. Lại có chúng sanh an trú vơ sở hữu xứ. Đó là cư trú thứ tám của chúng sanh. “9. Lại có chúng sanh an trú phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là cư trú thứ chín của chúng sanh. “Thế nào là chín diệt pháp? Đó là chín gốc rễ của ái: Nhân ái có tìm cầu. Nhân cầu có lợi. Nhân lợi có dụng. Nhân dụng có dục. Nhân dục có dính trước. Nhân trước có tật đố. Nhân tật có bảo thủ. Nhân thủ có hộ. “Thế nào là chín chứng pháp? Đó là chín tận: Nếu nhập Sơ thiền, thì gai nhọn là âm thanh bị diệt trừ. Nhập đệ Nhị thiền, gai nhọn là giác và quán bị diệt trừ. Nhập đệ Tam thiền, gai nhọn là hỷ bị diệt trừ. Nhập đệ Tứ thiền, gai nhọn là hơi thở ra vào bị diệt trừ. Nhập khơng xứ, gai nhọn là sắc tưởng bị diệt trừ. Nhập thức xứ, gai nhọn là khơng tưởng bị diệt trừ. Nhập bất dụng xứ, gai nhọn là thức tưởng bị diệt trừ. Nhập hữu tưởng vơ tưởng xứ, gai nhọn là bất dụng tưởng bị diệt trừ. Nhập diệt tận định, gai nhọn là tưởng và thọ bị diệt trừ. “Lại nữa, có mười thành pháp, mười tu pháp, mười giác pháp, mười diệt pháp, mười chứng pháp. “Thế nào là mười thành pháp? Đó là mười cứu pháp: “1. Tỳ-kheo đầy đủ hai trăm năm mươi giới, đầy đủ oai nghi, thấy lỗi nhỏ nhặt sanh tâm lo sợ lớn, chân chánh học giới, tâm khơng nghiêng lệch. “2. Có được thiện tri thức. “3. Ngơn ngữ trung chánh, nhẫn nhịn được nhiều điều. “4. Ưa cầu thiện pháp, phân bố khơng tiếc lẫn. “5. Các đồng phạm hạnh có việc phải làm liền đến giúp đỡ khơng lấy làm mệt nhọc, làm được những việc khó làm và cũng dạy người khác làm. “6. Nghe nhiều; nghe xong thì ghi nhớ khơng hề quên. “7. Tinh tấn, diệt trừ bất thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp. “8. Thường tự chuyên niệm, khơng có tưởng khác, nhớ những hành vi thiện từ trước như thấy trước mắt. “9. Trí tuệ thành tựu, quán sự sanh diệt của các pháp, bằng pháp luật Hiền thánh mà đoạn trừ gốc khổ. “10. Vui với sự nhàn cư, chuyên niệm tư duy, ở trung gian thiền, khơng có đùa giỡn. “Thế nào là mười tu pháp? Đó là mười chánh hạnh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thốt, chánh tri. “Thế nào là mười giác pháp? Đó là mười sắc nhập: nhãn nhập, nhó, tỉ, thiệt, thân nhập; sắc, thanh, hương, vị, xúc nhập. “Thế nào là mười diệt pháp? Đó là mười tà hạnh: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định, tà giải thốt, tà trí. “Thế nào là mười chứùng pháp? Đó là mười vơ học pháp: vơ học chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thốt, chánh trí. “Các Tỳ-kheo, đó là tăng nhất pháp. Ta nay đã nói cho các thầy pháp như vậy. Ta, Như Lai, đã làm đầy đủ những điều cần làm cho đệ tử. Với lịng thương yêu, Ta đã răn dạy các thầy. Các thầy cũng nên tinh tấn phụng hành. “Này các Tỳ-kheo, hãy ở chỗ thanh vắng, dưới gốc cây hay bãi đất trống, tinh cần tọa thiền, chớ tự để mình buơng lung. Nay khơng gắng sức, về sau hối hận nào có ích gì. Đó là lời Ta răn dạy, hãy tinh tấn thọ trì.” Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140851">12. KINH TAM TỤ<註 n="565"/>79 Tơi nghe như vầy. Một thời, Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ thọ, vườn Cấp cơ độc, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, Thế Tơn nói với các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, Ta sẽ nói cho các ngươi nghe pháp vi diệu, có nghóa, có vị, thanh tịnh, đầy đủ phạm hạnh. Đó là pháp ba tụ. Các ngươi hãy lắng nghe, hãy suy nghó kỹ. Ta sẽ nói.” Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, chú ý lắng nghe. Phật nói: “Tỳ-kheo, pháp ba tụ ấy là: một pháp dẫn đến ác thú; một pháp dẫn đến thiện thú; một pháp dẫn đến Niết-bàn. “Thế nào là một pháp dẫn đến ác thú? Khơng có nhân từ, ơm lịng độc hại. Đó là một pháp dẫn đến ác thú. “Thế nào là một pháp dẫn đến thiện thú? Khơng đem ác tâm gia hại chúng sanh. Đó là một pháp dẫn đến thiện thú. “Thế nào là một pháp dẫn đến Niết-bàn? Thường tinh cần tu niệm xứ về thân. Đó là một pháp dẫn đến Niết-bàn. “Lại có hai pháp thú hướng ác thú. Lại có hai pháp thú hướng thiện thú. Lại có hai pháp thú hướng Niết-bàn. “Thế nào là hai pháp dẫn đến ác thú? Hủy giới và phá kiến. “Thế nào là hai pháp dẫn đến thiện thú? Có đủ giới và có đủ kiến. “Thế nào là hai pháp dẫn đến Niết-bàn? Là chỉ và quán. “Lại có ba pháp thú hướng ác thú; ba pháp thú hướng thiện thú; ba pháp thú hướng Niết-bàn. “Thế nào là ba pháp hướng đến ác thú? Ba bất thiện căn: tham bất thiện căn, nhuế bất thiện căn, si bất thiện căn. “Thế nào là ba pháp dẫn đến thiện thú? Ba thiện căn: vơ tham thiện căn, vơ nhuế thiện căn, vơ si thiện căn. “Thế nào là ba pháp dẫn đến Niết-bàn? Ba tam-muội: Khơng tam-muội, Vơ tướng tam-muội, Vơ tác tam-muội. “Lại có bốn pháp dẫn đến ác thú; bốn pháp dẫn đến thiện thú; bốn pháp thú hướng Niết-bàn. “Thế nào là bốn pháp thú hướng ác thú? Lời nói thiên vị, lời nói thù hận, lời nói sợ hãi, lời nói ngu si. “Thế nào là bốn pháp dẫn đến thiện thú? Lời nói khơng thiên vị, lời nói khơng thù hận, lời nói khơng sợ hãi, lời nói khơng ngu si. “Thế nào là bốn pháp dẫn đến Niết-bàn? Bốn niệm xứ: thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ. “Lại có năm pháp dẫn đến ác thú; năm pháp dẫn đến thiện thú; năm pháp dẫn đến Niết-bàn. “Thế nào là năm pháp dẫn đến ác thú? Phá năm giới: giết, trộm, dâm dật, nói dối, uống rượu. “Thế nào là năm pháp dẫn đến thiện thú? Thọ trì năm giới: khơng giết, khơng trộm, khơng dâm dật, khơng dối, khơng uống rượu. “Thế nào là năm pháp dẫn đến Niết-bàn? Năm căn: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. “Lại có sáu pháp dẫn đến ác thú; sáu pháp dẫn đến thiện thú; sáu pháp thú hướng Niết-bàn. “Thế nào là sáu pháp dẫn đến ác thú? Sáu bất kính: khơng kính Phật, khơng kính Pháp, khơng kính Tăng, khơng kính giới, khơng kính định, khơng kính cha mẹ. “Thế nào là sáu pháp dẫn đến thiện thú? Kính Phật, kính Pháp, kính Tăng, kính giới, kính định, kính cha mẹ. “Thế nào là sáu pháp dẫn đến Niết-bàn? Sáu tư niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên. “Lại có bảy pháp dẫn đến ác thú; bảy pháp dẫn đến thiện thú; bảy pháp dẫn đến Niết-bàn. “Thế nào là bảy pháp dẫn đến ác thú? Giết, trộm, dâm dật, nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói thêu dệt. “Thế nào là bảy pháp dẫn đến thiện thú? Khơng giết, khơng trộm, khơng dâm dật, khơng nói dối, khơng nói hai lưỡi, khơng ác khẩu, khơng nói thêu dệt. “Thế nào là bảy pháp dẫn đến Niết-bàn? Bảy giác ý: niệm giác ý, trạch pháp giác ý, tinh tấn giác ý, khinh an giác ý, định giác ý, hỷ giác ý, xả giác ý. “Lại có tám pháp dẫn đến ác thú; tám pháp dẫn đến thiện thú; tám pháp dẫn đến Niết-bàn. “Thế nào là tám pháp dẫn đến ác thú? Tám tà hạnh: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. “Thế nào là tám pháp dẫn đến thiện thú? Thế gian chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. “Thế nào là tám pháp dẫn đến Niết-bàn? Tám hiền thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. “Lại có chín pháp dẫn đến ác thú; chín pháp dẫn đến thiện thú; chín pháp dẫn đến Niết-bàn. “Thế nào là chín pháp dẫn đến ác thú? Chín ưu não: Có người xâm não ta; nó đã xâm não, đang xâm não, sẽ xâm não. Có người xâm não cái ta yêu; nó đã xâm não, đang xâm não, sẽ xâm não. Có người yêu kính cái ta ghét; nó đã yêu kính, đang yêu kính, sẽ yêu kính. “Thế nào là chín pháp dẫn đến thiện thú? ‘Có người xâm não ta’, ích gì mà ta sanh não; đã khơng sanh não, đang khơng sanh não, sẽ khơng sanh não. ‘Có người xâm não cái ta yêu’, ích gì ta sanh não; đã khơng sanh não, đang khơng sanh não, sẽ khơng sanh não. ‘Có người yêu kính cái ta ghét’, ích gì ta sanh não; đã khơng sanh não, đang khơng sanh não, sẽ khơng sanh não. “Thế nào là chín pháp dẫn đến Niết-bàn? Chín thiện pháp: Hỷ, Ái, Duyệt, Lạc, Định, Thật tri, Trừ xả, Vơ dục, Giải thốt. “Lại có mười pháp dẫn đến ác thú; mười pháp dẫn đến thiện thú; mười pháp dẫn đến Niết-bàn. “Thế nào là mười pháp dẫn đến ác thú? Mười bất thiện: thân với giết, trộm, tà dâm; khẩu với nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt; ý với tham lam, tật đố, tà kiến. “Thế nào là mười pháp dẫn đến thiện thú? Mười thiện hành: thân với khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm; khẩu với khơng nói dối, khơng hai lưỡi, khơng ác khẩu, khơng thêu dệt; ý với khơng tham lam, khơng tật đố, khơng tà kiến. “Thế nào là mười pháp dẫn đến Niết-bàn? Mười trực đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh giải thốt, chánh trí. “Này các Tỳ-kheo, mười pháp như vậy đưa đến Niết-bàn. Đó là chánh pháp vi diệu gồm ba tụ. Ta, Như Lai, đã làm đầy đủ những điều cần làm cho đệ tử, vì nghó đến các ngươi nên chỉ bày lối đi. Các ngươi cũng phải tự lo cho thân mình, hãy ở nơi thanh vắng, dưới gốc cây mà tư duy, chớ lười biếng. Nay khơng gắng sức, sau hối khơng ích gì.” Các Tỳ-kheo sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140852">13. ĐẠI DUYÊN PHƯƠNG TIỆN<註 n="566"/>80 Tơi nghe như vầy: Một thời gian Phật ở tại nước Câu-lưu-sa, trú xứ Kiếp-ma-sa<註 n="567"/>81, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, A-nan ở tại chỗ thanh vắng suy nghó: “Kỳ diệu thay! Hy hữu thay! Ánh sáng của mười hai nhân duyên<註 n="568"/>82 mà Đức Thế Tơn đã dạy thật là sâu xa, khó hiểu! Nhưng theo ý ta quán xét thì như thấy ở trước mắt, có gì mà gọi là sâu xa?” Rồi thì, A-nan liền rời khỏi tịnh thất đi đến chỗ Phật; đầu mặt lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên, bạch Thế Tơn rằng: “Vừa rồi, ở nơi tịnh thất, con tự thầm nghó: ‘Kỳ diệu thay! Hy hữu thay! Ánh sáng của mười hai nhân duyên mà Đức Thế Tơn đã dạy thật là sâu xa, khó hiểu! Nhưng theo ý con quán xét thì như thấy ở trước mắt, có gì mà gọi là sâu xa?’” Bấy giờ, Phật bảo A-nan: “Thơi, thơi, A-nan! Chớ nói như vậy. Ánh sáng của mười hai nhân duyên rất sâu xa, khó hiểu. Mười hai nhân duyên này khó thấy, khó biết. Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-mơn, Bà-la-mơn, những người chưa thấy duyên, nếu muốn tư lương, quán sát, phân biệt nghóa lý của nó, đều bị hoang mê khơng thể thấy nổi. “Này A-nan, nay Ta nói với ngươi: Già chết có duyên<註 n="569"/>83. Nếu có người hỏi: ‘Cái gì là duyên của già chết?’ Hãy trả lời người ấy: ‘Sanh là duyên của già chết.<註 n="570"/>84’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của sanh.’ Hãy trả lời: ‘Hữu là duyên của sanh.<註 n="571"/>85 ’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của hữu?’ Hãy trả lời: ‘Thủ là duyên của hữu.<註 n="572"/>86 ’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của thủ?’ Hãy trả lời: ‘Ái là duyên của thủ.’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của ái?’ Hãy trả lời: ‘Thọ là duyên của ái.’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của thọ?’ Hãy trả lời: ‘Xúc là duyên của thọ.<註 n="573"/>87’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của xúc?’ Hãy trả lời: ‘Lục nhập là duyên của xúc.<註 n="574"/>88 ’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của lục nhập?’ Hãy trả lời: ‘Danh sắc là duyên của lục nhập.’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của danh sắc?’ Hãy trả lời: ‘Thức là duyên của danh sắc.<註 n="575"/>89’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của thức?’ Hãy trả lời: ‘Hành là duyên của thức.<註 n="576"/>90’ Nếu lại hỏi: ‘Cái gì là duyên của hành?’ Hãy trả lời: ‘Vơ minh<註 n="577"/>91 là duyên của hành.’ “Này A-nan, như vậy duyên vơ minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có lục nhập, duyên lục nhập có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, lo, rầu, khổ não, tập thành một khối đại hoạn. Đó là duyên của cái đại khổ ấm vậy<註 n="578"/>92. “Này A-nan, duyên sanh có già chết: điều này có ý nghóa gì? Giả sử hết thảy chúng sanh khơng có sanh, thì có già chết khơng?” “A-nan đáp: “Khơng”. “Vậy nên, A-nan, Ta do lẽ đó, biết già chết do sanh, duyên sanh có già chết, nghóa của Ta nói thế đó. “Lại nữa, này A-nan, duyên hữu mà có sanh là nghóa thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh khơng có dục hữu, sắc hữu, vơ sắc hữu<註 n="579"/>93, thế thì có sanh khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết sanh do hữu, duyên hữu có sanh. Điều mà Ta nói, ý nghóa là ở đó. “Lại nữa, này A-nan, duyên thủ mà có hữu là nghóa thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh khơng có dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã thủ<註 n="580"/>94, thế thì có hữu khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết hữu do thủ, duyên thủ có hữu. Nghóa của Ta nói tại đó. “Lại nữa, này A-nan, duyên ái mà có thủ là nghóa thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh khơng có dục ái, hữu ái, vơ hữu ái<註 n="581"/>95, thế thì có thủ khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết thủ do ái, duyên ái có thủ. Nghóa của Ta nói tại đó. “Lại nữa, này A-nan, duyên thọ mà có ái, là nghóa thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh khơng có cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ khơng lạc khơng khổ<註 n="582"/>96, thế thì có ái khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết ái do thọ, duyên thọ có ái. Nghóa của Ta nói tại đó. “A-nan, nên biết, nhân tham ái mà có tìm cầu, nhân tìm cầu mà đắc lợi, nhân đắc lợi mà thọ dụng, nhân thọ dụng mà tham muốn, nhân tham muốn mà đắm trước, nhân đắm trước mà tật đố, nhân tật đố mà quản thủ, nhân quản thủ mà bảo hộ<註 n="583"/>97. Này A-nan! Do bảo hộ nên mới có dao gậy, tranh cãi, gây vơ số điều ác. Nghóa của ta nói là ở đó. Này A-nan! Nghóa đó thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh khơng bảo hộ thế thì có dao gậy, tranh cãi, gây ra vơ số ác khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết dao gậy, tranh cãi là do tâm bảo hộ, nhân tâm bảo hộ mà sinh ra. Nghóa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan, nhân quản thủ mà có bảo hộ là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng tâm quản thủ thế thì có bảo hộ khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết có bảo hộ là do quản thủ; nhân quản thủ mà có sự bảo hộ. Nghóa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tật đố có quản thủ là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng tâm tật đố thế thì có quản thủ khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết quản thủ do tật đố; nhân tật đố mà có quản thủ. Nghóa của ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân đắm trước mà có tật đố là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng đắm trước thế thì có tật đố khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết tật đố do đắm trước; nhân đắm trước mà có tật đố. Nghóa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân ham muốn mà có đắm trước là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng ham muốn thế thì có đắm trước khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết đắm trước do ham muốn; nhân ham muốn mà có đắm trước. Nghóa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân thọ dụng mà có ham muốn là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng thọ dụng thế thì có ham muốn khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết ham muốn do thọ dụng; nhân thọ dụng mà có ham muốn. Nghóa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân đắc lợi mà có thọ dụng là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng đắc lợi thế thì có thọ dụng khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết thọ dụng do đắc lợi; nhân đắc lợi mà có thọ dụng. Nghóa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tìm cầu mà có đắc lợi là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng tìm cầu thế thì có đắc lợi khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết đắc lợi do tìm cầu; nhân tìm cầu mà có đắc lợi. Nghóa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tham ái mà có tìm cầu là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng tham ái thế thì có tìm cầu khơng? Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết tìm cầu do tham ái; nhân tham ái mà có tìm cầu. Điều mà Ta nói, ý nghóa là ở đó.” Lại bảo A-nan: “Nhân tham ái mà có tìm cầu, cho đến có thủ hộ. Thọ cũng vậy. Nhân thọ có tìm cầu, cho đến thủ hộ.” Phật lại bảo A-nan: “Duyên xúc mà có thọ, là nghóa thế nào? Giả sử khơng có con mắt, khơng có sắc, khơng có thức con mắt, thế thì có xúc khơng?” Đáp: “Khơng”. “Nếu khơng có tai, khơng có tiếng, khơng có thức của tai; khơng có mũi, khơng có hương, khơng có thức của mũi; khơng có lưỡi, khơng có vị, khơng có thức của lưỡi; khơng có thân, xúc, thức của thân; khơng có ý, pháp, ý thức, thế thì có xúc khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan! Giả sử chúng sanh khơng có xúc, thế thì có thọ khơng?” Đáp: “Khơng”. “A-nan, Ta do nghóa đó, biết thọ do xúc; duyên xúc mà có thọ. Điều mà Ta nói, ý nghóa là ở đó. “Này A-nan! Duyên danh sắc mà có xúc, là nghóa thế nào? Giả sử chúng sanh khơng có danh sắc, thế thì có tâm xúc<註 n="584"/>98 khơng?” Đáp: “Khơng”. “Nếu chúng sanh khơng có hình sắc, tướng mạo, thế thì có thân xúc khơng?<註 n="585"/>99” Đáp: “Khơng”. “Nếu khơng có danh sắc, thế thì có xúc khơng?” Đáp: “Khơng”. “A-nan, Ta do lẽ đó, biết xúc do danh sắc; duyên danh sắc mà có xúc. Điều mà Ta nói, ý nghóa là ở đó. “Này A-nan, duyên thức mà có danh sắc, là nghóa thế nào? Nếu thức khơng nhập thai mẹ thì có danh sắc khơng?” Đáp: “Khơng”. “Nếu thức nhập thai mẹ rồi khơng sinh ra<註 n="586"/>100, thế thì có danh sắc khơng?” Đáp: “Khơng”. “Nếu thức ra khỏi thai mẹ mà đứa hài nhi bị hỏng thì danh sắc có được tăng trưởng khơng?” Đáp: “Khơng”. “A-nan, nếu khơng có thức, thế thì có danh sắc khơng?” Đáp: “Khơng”. “A-nan, Ta do lẽ đó, biết danh sắc do thức; duyên thức mà có danh sắc. Nghóa của ta nói là ở đó. “A-nan, duyên danh sắc có thức là nghóa thế nào? Nếu thức khơng trụ nơi danh sắc thời thức khơng có trú xứ. Nếu thức khơng có trú xứ, thế thì có sanh, già, bệnh, chết, ưu bi khổ não khơng?” Đáp: “Khơng”. “Này A-nan, nếu khơng danh sắc thì có thức khơng?” Đáp: “Khơng”. “A-nan, Ta do lẽ đó, biết thức do danh sắc; duyên danh sắc mà có thức. Nghóa của Ta nói là ở đó. Vậy nên, danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết, ưu bi khổ não, tập thành một đại khổ ấm. “Này A-nan, trong giới hạn ấy là ngơn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự phơ diễn, trong giới hạn ấy là trí quán, trong giới hạn ấy là chúng sanh<註 n="587"/>101. “Này A-nan, các Tỳ-kheo nào ở trong pháp này mà như thật chánh quán, với tâm giải thốt vơ lậu, Tỳ-kheo ấy được gọi là tuệ giải thốt<註 n="588"/>102. Đối với Tỳ-kheo giải thốt như vậy, Như Lai chung tuyệt cũng được biết, Như Lai khơng chung tuyệt cũng được biết, Như Lai vừa chung tuyệt vừa khơng chung tuyệt cũng được biết, Như Lai chẳng phải chung tuyệt chẳng phải khơng chung tuyệt cũng được biết. Vì sao? Này A-nan, trong giới hạn ấy là ngơn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự phơ diễn, trong giới hạn ấy là trí quán, trong giới hạn ấy là chúng sanh. Sau khi đã hiểu biết tận cùng, Tỳ-kheo với tâm giải thốt vơ lậu khơng biết khơng thấy tri kiến như vậy<註 n="589"/>103. “Này A-nan, đối với những người chấp ngã, cho đến mức nào thì được gọi là ngã kiến? Danh sắc và thọ đều được chấp là ngã. “Có người nói, ‘thọ khơng phải ngã; ngã là thọ.’ Có người nói, ‘thọ khơng phải ngã, ngã khơng phải thọ; nhưng thọ pháp là ngã.’ Có người nói, ‘thọ khơng phải ngã, ngã khơng phải thọ, thọ pháp khơng phải ngã; nhưng thọ là ngã<註 n="590"/>104’. “Này A-nan, đối với người thấy có ngã, nói rằng ‘thọ là ngã’, hãy nói với người ấỵ: Như Lai nói có ba thọ là cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ khơng lạc khơng khổ. Trong lúc hiện hữu thọ lạc thì khơng có thọ khổ, thọ khơng lạc khơng khổ. Trong khi hiện hữu thọ khổ thì khơng có thọ lạc, thọ khơng lạc khơng khổ. Trong lúc hiện hữu thọ khơng lạc khơng khổ thì khơng có thọ lạc, thọ khổ. Sở dó như vậy, A-nan, là vì do duyên là cảm xúc lạc mà phát sanh thọ lạc. Nếu cảm xúc lạc diệt mất, thì cảm thọ lạc cũng diệt mất. A-nan, do duyên là cảm xúc khổ mà phát sinh cảm thọ khổ. Nếu cảm xúc khổ diệt mất thì cảm thọ khổ cũng diệt mất. Này A-nan, do duyên là cảm xúc khơng lạc khơng khổ mà phát sanh thọ khơng lạc khơng khổ. Nếu cảm xúc khơng lạc khơng khổ diệt mất thì cảm thọ khơng lạc khơng khổ cũng diệt mất. A-nan, ví như hai khúc cây cọ lại với nhau thì lửa bật ra, hai khúc cây rời nhau thì lửa khơng có. Ở đây cũng vậy, nhân bởi duyên là cảm xúc lạc mà cảm thọ lạc phát sanh; nếu cảm xúc lạc diệt thì cảm thọ cũng đồng thời diệt. Nhân bởi duyên là cảm xúc khổ mà cảm thọ khổ phát sanh; nếu cảm xúc khổ diệt thì thọ cũng đồng thời diệt. Nhân bởi duyên là cảm xúc khơng lạc khơng khổ mà cảm thọ khơng lạc khơng khổ phát sanh; nếu cảm xúc khơng lạc khơng khổ diệt thì thọ cũng đồng thời diệt. Này A-nan! Ba thọ đó là hữu vi, vơ thường, do nhân duyên sanh, là pháp phải tận, phải diệt, là pháp hủ hoại, nó chẳng phải sở hữu của ngã; ngã khơng phải là sở hữu của nó. Hãy chánh quán điều đó một cách như thật với chánh trí. A-nan, ai thấy có ngã, cho rằng ‘thọ là ngã’, người ấy sai lầm. “A-nan, với những ai thấy có ngã, nói rằng, ‘thọ khơng phải là ngã; ngã là thọ’, hãy nói với người ấy rằng: Như Lai nói có ba thọ: thọ khổ, thọ lạc, thọ khơng khổ khơng lạc. Nếu thọ lạc là ngã; khi thọ lạc diệt mất, sẽ có hai ngã. Điều ấy sai lầm. Nếu thọ khổ là ngã; khi thọ khổ diệt mất thì sẽ có hai ngã. Điều ấy sai lầm. Nếu thọ khơng lạc khơng khổ là ngã; khi thọ khơng lạc khơng khổ diệt, thì sẽ có hai ngã. Điều ấy sai lầm. A-nan, những ai thấy có ngã, nói rằng ‘thọ khơng phải là ngã; ngã là thọ’, người ấy sai lầm. “A-nan, với những ai chủ trương có ngã, nói rằng: ‘Thọ khơng phải là ngã, ngã khơng phải là thọ; thọ pháp là ngã’, hãy nói với người ấy rằng: ‘Hết thảy khơng thọ, làm sao ơng nói được có thọ pháp. Ơng là thọ pháp chăng’<註 n="591"/>105? Đáp: ‘Khơng phải.’ “Vì vậy, A-nan, những ai chủ trương có ngã, nói rằng: ‘thọ khơng phải là ngã, ngã khơng phải là thọ; thọ pháp là ngã’, người ấy sai lầm. “A-nan, với những ai chủ trương có ngã, nói rằng: ‘thọ khơng phải là ngã, thọ pháp khơng phải là ngã; nhưng thọ là ngã<註 n="592"/>106 ”, nên nói với người ấy: ‘Hết thảy khơng có thọ, làm sao có thọ. Ơng chính là thọ chăng?<註 n="593"/>107 ’ Đáp: ‘Khơng phải.’ Vì vậy, A-nan, những ai chủ trương có ngã, nói rằng: ‘thọ khơng phải là ngã, ngã khơng phải là thọ, thọ pháp khơng phải là ngã; thọ là ngã’, người ấy sai lầm. “A-nan, trong giới hạn ấy là ngơn ngữ; trong giới hạn ấy là sự thích ứng; trong giới hạn ấy là hạn lượng; trong giới hạn ấy là sự phơ diễn; trong giới hạn ấy là trí quán; trong giới hạn ấy là chúng sanh. “A-nan, các Tỳ-kheo ở trong pháp này mà như thật chánh quán, với tâm giải thốt vơ lậu, A-nan, Tỳ-kheo ấy được gọi là tuệ giải thốt. Với Tỳ-kheo tâm giải thốt như vậy, có ngã cũng đượïc biết, khơng có ngã cũng được biết, vừa có ngã vừa khơng có ngã cũng được biết, khơng phải có ngã khơng phải khơng có ngã cũng được biết. Vì sao? Này A-nan, trong giới hạn ấy là ngơn ngữ; trong giới hạn ấy là sự thích ứng; trong giới hạn ấy là hạn lượng; trong giới hạn ấy là sự phơ diễn; trong giới hạn ấy là trí quán; trong giới hạn ấy là chúng sanh. Sau khi biết rõ thấu suốt như vậy, Tỳ-kheo với tâm giải thốt vơ lậu khơng biết khơng thấy tri kiến như vậy.” Phật nói A-nan: “Với những người chủ trương có ngã, cho đến giới hạn nào thì được xác định?” “Với những người chủ trương có ngã, hoặc nói: ‘Một ít sắc là ngã’; hoặc nói: ‘Phần lớn sắc là ngã’; hoặc nói: ‘Một ít vơ sắc là ngã’; hoặc nói: ‘Phần lớn vơ sắc là ngã’<註 n="594"/>108. “A-nan, những người nói một ít sắc là ngã, xác định chỉ một ít sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng, ngồi ra đều sai. Những người nói phần lớn sắc là ngã, xác định phần lớn sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng, ngồi ra đều sai. Những người nói một ít vơ sắc là ngã, xác định chỉ một ít vơ sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng, ngồi ra đều sai. Những người nói phần lớn vơ sắc là ngã, xác định phần lớn vơ sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng, ngồi ra đều sai.” Phật nói với A-nan: “Có bảy trú xứ của thức<註 n="595"/>109 và hai nhập xứ<註 n="596"/>110, mà các Sa-mơn, Bà-la-mơn nói: ‘Chỗ này là nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui tựa, là khơng hư dối, là khơng phiền não.’ “Những gì là bảy? Hoặc có hạng chúng sanh, với nhiều thân khác nhau và nhiều tưởng khác nhau, tức chư Thiên và lồi Người. Đó là trú xứ thứ nhất của thức, mà các Sa-mơn, Bà-la-mơn nói: ‘Chỗ này là nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui tựa, là khơng hư dối, là khơng phiền não.’ Này A-nan, nếu Tỳ-kheo biết trú xứ thứ nhất của thức, biết sự tập khởi, biết sự diệt trừ, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết một cách như thật; A-nan, Tỳ-kheo ấy nói: ‘Cái ấy khơng phải là ta. Ta khơng phải là cái ấy’<註 n="597"/>111 với tri kiến như thật. “Hoặc có hạng chúng sanh với thân đồng nhất nhưng với nhiều tưởng khác nhau, như trời Quang âm. Hoặc có hạng chúng sanh với thân đồng nhất, tưởng đồng nhất, tức trời Biến tịnh. Hoặc có hạng chúng sanh trú nơi Khơng xứ. Hoặc có hạng chúng sanh trú nơi Thức xứ. Hoặc có hạng chúng sanh trú nơi Vơ sở hữu xứ. Đó là bảy trú xứ của thức mà các Sa-mơn, Bà-la-mơn nói: ‘Chỗ này là nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui tựa, là khơng hư dối, là khơng phiền não.’ Này A-nan, nếu Tỳ-kheo biết bảy trú xứ của thức, biết sự tập khởi, biết sự diệt trừ, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết một cách như thật; A-nan, Tỳ-kheo ấy nói: ‘Cái ấy khơng phải là ta. Ta khơng phải là cái ấy’<註 n="598"/>112 với tri kiến như thật. “Thế nào là hai nhập xứ? Vơ tưởng nhập và phi tưởng phi vơ tưởng nhập<註 n="599"/>113. A-nan, đó là hai nhập xứ mà các Sa-mơn, Bà-la-mơn nói: ‘Chỗ này là nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui tựa, là khơng hư dối, là khơng phiền não.’ Này A-nan, nếu Tỳ-kheo biết hai nhập xứ, biết sự tập khởi, biết sự diệt trừ, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết một cách như thật; A-nan, Tỳ-kheo ấy nói: ‘Cái ấy khơng phải là ta. Ta khơng phải là cái ấy’<註 n="600"/>114 với tri kiến như thật. “A-nan, lại có tám giải thốt<註 n="601"/>115. Những gì là tám? Có sắc, quán sắc là giải thốt thứ nhất. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc là giải thốt thứ hai. Tịnh giải thốt là giải thốt thứ ba. Vượt sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, khơng niệm tạp tưởng, an trú Khơng xứ là giải thốt thứ tư. Vượt Khơng xứ, an trú Thức xứ là giải thốt thứ năm. Vượt thức xứ, an trú Vơ sở hữu xứ là giải thốt thứ sáu. Vượt Vơ sở hữu xứ, an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ là giải thốt thứ bảy. Diệt tận định là giải thốt thứ tám. A-nan, các Tỳ-kheo đối với tám giải thốt này du hành theo chiều thuận và nghịch, xuất nhập tự tại, Tỳ-kheo như vậy chứng đắc Câu giải thốt<註 n="602"/>116.” Bấy giờ, A-nan sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140853">14. THÍCH ĐỀ-HỒN NHÂN VẤN<註 n="603"/>117 Tơi nghe như vầy: Một thời Phật ở tại nước Ma-kiệt-đà, trong hang Nhân-đà-bà-la, núi Tỳ-la, phía Bắc thơn Am-bà-la<註 n="604"/>118. Bấy giờ, Thích Đề-hồn Nhân<註 n="605"/>119 phát khởi thiện tâm vi diệu, muốn đến thăm Phật: “Nay ta hãy đi đến chỗ Thế Tơn”. Khi ấy, chư Thiên Đao-lợi<註 n="606"/>120 hay rằng Thích Đề-hồn Nhân phát khởi thiện tâm vi diệu muốn đi đến chỗ Phật, bèn tìm gặp Đế Thích, tâu rằng: “Lành thay, Đế Thích! Ngài phát khởi thiện tâm vi diệu muốn đến Như Lai. Chúng tơi cũng rất vui sướng nếu được theo hầu ngài đi đến chỗ Thế Tơn.” Thích Đề-hồn Nhân liền nói với thần chấp nhạc là Ban-giá-dực<註 n="607"/>121 rằng: “Ta nay muốn đi đến chỗ Thế Tơn. Ngươi có thể đi theo. Chư Thiên Đao-lợi này cũng muốn theo ta đến chỗ Phật.” Đáp: “Thưa vâng”. Rồi Ban-giá-dực cầm cây đàn lưu ly, ở trong chúng, trước mặt Đế Thích, gảy đàn cúng dường. Rồi Thích Đề-hồn Nhân, chư Thiên Đao-lợi, cùng Ban-giá-dực, bỗng nhiên biến mất khỏi Pháp đường. Trong khoảnh khắc như lực só co duỗi cánh tay họ đến phía Bắc nước Ma-kiệt-đà, trong núi Tỳ-đà. Bấy giờ Thế Tơn nhập hỏa diệm tam-muội, khiến cho cả núi Tỳ-đà đồng một màu lửa. Khi ấy, người trong nước thấy vậy, bảo nhau rằng: “Núi Tỳ-đà này đồng một màu lửa. Phải chăng là do thần lực của chư Thiên?” Bấy giờ, Thích Đề-hồn Nhân nói với Ban-giá-dực rằng: “Đức Như Lai, Chí Chân, rất khó được gặp. Nhưng nay có thể rũ lịng đi xuống chỗ thanh vắng này, lặng lẽ khơng tiếng động, làm bạn với muơng thú. Chỗ này thường có các Đại Thiên thần thị vệ Thế Tơn. Ngươi hãy đi trước tấu đàn lưu ly để làm vui lịng Thế Tơn. Ta cùng chư Thiên sẽ đến sau.” Đáp: “Kính vâng”. Tức thì cầm đàn lưu ly đến Phật trước. Cách Phật khơng xa, ơng tấu đàn lưu ly và hát lên bài kệ rằng: Bạt-đà<註 n="608"/>122 ơi, kính lễ phụ thân nàng. Cha nàng đẹp rực rỡ, Sinh ra nàng cát tường Tâm ta rất thương yêu. Vốn do nhân duyên nhỏ, Dục tâm<註 n="609"/>123 sinh trong đó; Càng ngày càng lớn thêm. Như cúng dường La-hán<註 n="610"/>124; Thích tử chuyên Tứ thiền, Thường ưa chốn thanh vắng, Chánh ý cầu cam lồ; Tâm niệm ta cũng vậy. Năng Nhân phát đạo tâm, Tất muốn thành Chánh giác; Như tơi nay cũng vậy, Ước hội họp với nàng. Tâm tơi đã đắm đuối, Yêu thương khơng dứt được; Muốn bỏ, khơng thể bỏ, Như voi bị móc câu. Như nóng gặp gió mát; Như khát gặp suối lạnh; Như người nhập Niết-bàn; Như nước rưới tắt lửa; Như bệnh, gặp lương y; Đói, gặp thức ăn ngon, No đủ, khối lạc sanh; Như La-hán trú Pháp. Như voi bị kềm chặt, Mà vẫn chưa khứng phục, Bươn chạy, khó chế ngự, Buơng lung chẳng chịu dừng. Cũng như ao trong mát, Mặt nước phủ đầy hoa; Voi mệt, nóng, vào tắm, Tồn thân cảm mát rượi. Trước, sau, tơi bố thí, Cúng dường các La-hán; Phước báo có trong đời; Thảy mong được cùng nàng. Nàng chết, tơi cùng chết; Khơng nàng, sống làm gì? Chẳng thà tơi chết đi, Cịn hơn sống khơng nàng. Chúa tể trời Đao-lợi, Thích chúa<註 n="611"/>125, cho tơi nguyện. Tơi ngợi ca đủ lễ. Xin người suy xét kỹ. Khi ấy, Thế Tơn từ tam-muội dậy, nói với Ban-giá-dực rằng: “Lành thay, lành thay, Ban-giá-dực, ngươi đã có thể bằng âm thanh thanh tịnh cùng với đàn lưu ly mà tán thán Như Lai. Tiếng của đàn và giọng của ngươi khơng dài, khơng ngắn, buồn và thương uyển chuyển, làm rung động lịng người. Cây đàn mà ngươi tấu hàm đủ các ý nghóa. Nó được nói là sự trói buộc của dục và cũng được nói là phạm hạnh, cũng được nói là Sa-mơn, cũng được nói là Niết-bàn.” Khi ấy Ban-giá-dực bạch Phật rằng: “Con nhớ lại, thuở xưa khi Thế Tơn vừa mới thành đạo dưới gốc cây A-du-ba-đà ni-câu-luật<註 n="612"/>126, bên dịng sơng Ni-liên-thiền<註 n="613"/>127, thơn Uất-bệ-la<註 n="614"/>128; lúc ấy có người con trai của Thiên đại tướng là Thi-hán-đà<註 n="615"/>129 và con gái của Chấp nhạc Thiên vương đang cùng ở một chỗ, chỉ tổ chức những cuộc vui chơi. Con khi ấy thấy được tâm tư họ, bèn làm một bài tụng. Bài tụng ấy nói đến sự trói buộc của dục; và cũng nói đến phạm hạnh, cũng nói Sa-mơn, cũng nói Niết-bàn. Vị Thiên nữ kia khi nghe bài kệ của con, đưa mắt lên cười và nói với con rằng: ‘Ban-giá-dực, tơi chưa hề thấy Như Lai. Tơi ở trên Pháp đường của trời Đao-lợi đã từng nghe chư Thiên xưng tán Như Lai, có cơng đức như vậy, năng lực như vậy. Ơng hằng có lịng thành tín, thân cận Như Lai. Nay tơi muốn cùng ơng làm bạn.’ Thế Tơn, con lúc ấy có nói với nàng một lời, rồi sau đó khơng hề nói với nàng nữa.” Lúc bấy giờ Thích Đề-hồn Nhân suy nghó như vầy: “Ban-giá-dực này đã làm vui lịng Thế Tơn rồi, nay ta hãy nghó đến người ấy”. Rồi Thiên Đế Thích tức thì nghó đến người ấy. Lúc ấy Ban-giá-dực lại có ý nghó như vầy: “Thiên Đế Thích đang nghó đến ta”. Tức thì cầm cây đàn lưu ly đi đến chỗ Đế Thích. Đế Thích bảo rằng: “Ngươi mang danh ta cùng ý của trời Đao-lợi đến thăm hỏi Thế Tơn: ‘Đi đứng có nhẹ nhàng khơng? Lui tới có khỏe mạnh khơng?’” Ban-giá-dực vâng lời chỉ giáo của Đế Thích, đi đến chỗ Thế Tơn, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đứng sang một bên, bạch Thế Tơn rằng: “Thích Đề-hồn Nhân và chư Thiên Đao-lợi sai con đến thăm Thế Tơn, hỏi Ngài đi đứng có nhẹ nhàng khơng? Lui tới có khỏe mạnh khơng?” Thế Tơn trả lời: “Mong Đế Thích của ngươi và chư Thiên Đao-lợi thọ mạng lâu dài, khối lạc, khơng bệnh. Sở dó như vậy là vì chư Thiên, Người đời, A-tu-luân<註 n="616"/>130 và các chúng sanh khác đều ham sống lâu, an lạc, khơng bệnh hoạn.” Bấy giờ Đế Thích lại suy nghó: “Chúng ta nên đến lễ viếng Thế Tơn”. Tức thì cùng với chư Thiên Đao-lợi đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đứng sang một bên. Khi ấy, Đế Thích bạch Phật rằng: “Khơng biết nay con có thể ngồi cách Thế Tơn bao xa?” Phật bảo Đế Thích: “Thiên chúng các ngươi nhiều. Nhưng ai gần Ta thì ngồi.” Khi ấy, hang Nhân-đà-la mà Thế Tơn đang ở tự nhiên trở nên rộng rãi, khơng bị ngăn ngại. Bấy giờ Đế Thích cùng chư Thiên Đao-lợi và Ban-giá-dực đều lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. Đế Thích bạch Phật: “Một thời, Phật ở tại nhà một người Bà-la-mơn ở nước Xá-vệ<註 n="617"/>131. Lúc bấy giờ Thế Tơn nhập hỏa diệm tam-muội. Con khi ấy nhân có chút việc, cưỡi xe báu ngàn căm, đi đến chỗ Tỳ-lâu-lặc Thiên vương. Bay ngang khơng trung, trơng thấy một Thiên nữ<註 n="618"/>132 chắp tay đứng trước Thế Tơn. Con liền nói với Thiên nữ ấy rằng: ‘Khi Thế Tơn ra khỏi tam-muội, nàng hãy xưng tên ta mà thăm hỏi Thế Tơn, đi đứng có nhẹ nhàng khơng, lui tới có khỏe mạnh khơng?’ Khơng biết Thiên nữ ấy sau đó có chuyển đạt tâm tư ấy giùm con khơng?” Phật nói: “Ta có nhớ. Thiên nữ ấy sau đó có xưng tên ngươi mà thăm hỏi Ta. Ta ra khỏi thiền định mà cịn nghe tiếng xe của ngươi.” Đế Thích bạch Phật: “Thuở xưa, nhân có chút duyên sự, con cùng chư Thiên Đao-lợi tập họp tại Pháp đường. Các vị Thiên thần cố cựu khi ấy đều nói rằng: ‘Nếu Như Lai xuất hiện ở đời, thì Thiên chúng gia tăng, mà chúng A-tu-la giảm thiểu.’ Nay con chính tự thân gặp Thế Tơn, tự thân biết, tự thân chứng nghiệm, rằng Như Lai xuất hiện ở đời thì các Thiên chúng gia tăng, mà chúng A-tu-la giảm thiểu. “Có Cù-di Thích nữ<註 n="619"/>133 này, theo Thế Tơn tu hành phạm hạnh, thân hoại mạng chung, sanh lên cung trời Đao-lợi, làm con của con. Chư Thiên Đao-lợi đều khen: ‘Cù-di con cả của trời<註 n="620"/>134 có cơng đức lớn, có uy lực lớn.’ Lại có ba Tỳ-kheo khác theo Thế Tơn tịnh tu phạm hạnh, thân hoại mạng chung, sanh trong hàng các thần chấp nhạc thấp kém, hằng ngày đến để con sai khiến. Cù-di thấy vậy, làm bài kệ chọc tức<註 n="621"/>135 rằng: Ơng là đệ tử Phật; Khi tơi là tại gia, Cúng dường ơng cơm áo, Lễ bái rất cung kính. Các ơng là những ai? Tự thân được Phật dạy. Lời dạy Đấng Tịnh Nhãn, Mà ơng khơng suy xét. Ta xưa lễ kính ơng, Nghe Phật pháp vơ thượng, Sinh trời Tam thập tam, Làm con trời Đế Thích. Các ơng sao khơng xét, Cơng đức mà tơi có. Trước vốn là thân gái, Nay là con Đế Thích. Trước vốn cùng các ơng Đồng tu nơi phạm hạnh; Nay riêng sinh chỗ thấp, Để cho tơi sai khiến. Xưa ơng hành vi xấu, Nên nay chịu báo này. Riêng sinh chỗ ti tiện, Để cho tơi sai khiến. Sinh chỗ bất tịnh này, Bị người khác xúc phạm. Nghe vậy, hãy nhàm chán Chỗ đáng nhàm tởm này. Từ nay hãy siêng năng, Chớ để làm tơi người<註 n="622"/>136. Hai ơng siêng tinh tấn, Tư duy pháp Như Lai. Xả bỏ điều mê luyến, Hãy quán, dục bất tịnh, Dục trói, khơng chân thật, Chỉ lừa dối thế gian. Như voi bứt xiềng xích, Siêu việt trời Đao-lợi. Đế Thích, trời Đao-lợi, Tập pháp trên giảng đường. Kia với sức dũng mãnh, Siêu việt trời Đao-lợi. Thích khen chưa từng có. Chư Thiên cũng thấy qua. Đấy con nhà họ Thích, Siêu việt trời Đao-lợi. Đã chán dục trói buộc; Cù-di nói như vậy. Nước Ma-kiệt có Phật, Hiệu là Thích-ca Văn<註 n="623"/>137. Người kia vốn thất ý; Nay phục hồi chánh niệm. Một trong số ba người, Vẫn làm thần Chấp nhạc. Hai người thấy Đạo đế, Siêu việt trời Đao-lợi. Pháp Thế Tơn đã dạy, Đệ tử khơng hồi nghi. Cũng đồng thời nghe pháp; Hai người hơn người kia. Tự mình thấy thù thắng, Đều sinh trời Quang âm. Con quan sát họ rồi, Nên nay đến chỗ Phật. Đế Thích bạch Phật: “Kính mong Thế Tơn bỏ chút thời gian, giải quyết cho con một điều nghi ngờ.” Phật nói: “Ngươi cứ hỏi, Ta sẽ giải thích cho từng điều một.” Bấy giờ Đế Thích liền bạch Phật rằng: “Chư Thiên, người thế gian, Càn-đạp-hịa<註 n="624"/>138, A-tu-la cùng các chúng sanh khác, tất cả tương ưng với kết phược<註 n="625"/>139 gì mà cho đến thù địch nhau, dao gậy nhắm vào nhau?” Phật nói với Đế Thích: “Sự phát sanh của ốn kết đều do tham lam, tật đố<註 n="626"/>140. Vì vậy, chư Thiên, người thế gian, cùng các chúng sanh khác dùng dao gậy nhắm vào nhau.” Đế Thích liền bạch Phật: “Thật vậy, bạch Thế Tơn. Oán kết sanh do bởi tham lam, tật đố; khiến cho chư Thiên, người đời, A-tu-la và các chúng sanh khác, sử dụng dao gậy đối với nhau. Con nay nghe lời Phật dạy, lưới nghi đã được dứt bỏ, khơng cịn nghi ngờ nữa. Nhưng con khơng hiểu sự phát sanh của tham lam tật đố do đâu mà khởi lên; do bởi nhân duyên gì; cái gì làm nguyên thủ<註 n="627"/>141, từ cái gì mà có, do cái gì mà khơng?” Phật bảo Đế Thích: “Sự phát sanh của tham lam, tật đố, tất cả đều do bởi yêu và ghét<註 n="628"/>142; yêu ghét là nhân; yêu ghét là nguyên thủ; từ đó mà có, từ đó mà khơng<註 n="629"/>143.” Bấy giờ, Đế Thích liền bạch Phật: “Thật vậy, Thế Tơn! Tham lam, tật đố phát sanh do bởi yêu ghét; yêu ghét là nhân; yêu ghét làm duyên; yêu ghét làm nguyên thủ; từ đó mà có, từ đó mà khơng. Con nay nghe lời Phật dạy, mê hoặc đã được dứt bỏ, khơng cịn nghi ngờ nữa. Nhưng con khơng hiểu yêu ghét do đâu mà sanh; do bởi nhân gì, duyên gì; cái gì làm nguyên thủ; từ cái gì mà có, do cái gì mà khơng?” Phật bảo Đế Thích: “Yêu ghét phát sanh ở nơi dục<註 n="630"/>144; do nhân là dục, do duyên là dục; dục là nguyên thủ, từ đó mà có; khơng cái này thì khơng.” Đế Thích liền bạch Phật: “Thật vậy, Thế Tơn, yêu ghét phát sanh ở nơi dục; do nhân là dục, do duyên là dục; dục là nguyên thủ, từ đó mà có; khơng cái này thì khơng. Con nay nghe lời Phật dạy, mê hoặc đã được dứt bỏ, khơng cịn nghi ngờ nữa. Nhưng con khơng hiểu dục này do dâu mà sanh; do bởi nhân gì, duyên gì; cái gì làm nguyên thủ, do cái gì mà có, do cái gì mà khơng?” Phật bảo Đế Thích: “Ái<註 n="631"/>145 do tưởng sanh<註 n="632"/>146; do nhân là tưởng, duyên là tưởng; tưởng làm nguyên thủ, từ đó mà có; cái đó khơng thì khơng.” Đế Thích liền bạch Phật: “Thật vậy, Thế Tơn, ái do tưởng sanh; do nhân là tưởng, do duyên là tưởng; tưởng là nguyên thủ, từ đó mà có; khơng cái này thì khơng. Con nay nghe lời Phật dạy, mê hoặc đã được dứt bỏ, khơng cịn nghi ngờ nữa. Nhưng con khơng hiểu tưởng do đâu mà sanh; do bởi nhân gì, duyên gì; cái gì làm nguyên thủ, do cái gì mà có, do cái gì mà khơng?” Phật bảo Đế Thích: “Tưởng phát sanh do nơi điệu hý<註 n="633"/>147; nhân điệu hý, duyên điệu hý; điệu hý làm nguyên thủ, từ đó mà có, cái đó khơng thì khơng. “Này Đế Thích, nếu khơng có điệu hý thì khơng có tưởng. Khơng có tưởng thì khơng có dục. Khơng có dục thì khơng có yêu ghét. Khơng có yêu ghét thì khơng có tham lam tật đố. Nếu khơng có tham lam tật đó thì tất cả chúng sanh khơng tàn hại lẫn nhau. “Này Đế Thích, chỉ duyên điệu hý làm gốc; nhân điệu hý, duyên điệu hý; điệu hý làm nguyên thủ, từ đó có tưởng. Từ tưởng có dục. Từ dục có yêu ghét. Từ yêu ghét có tham lam tật đố. Do tham lam tật đố, chúng sanh tàn hại lẫn nhau.” Đế Thích bạch Phật: “Thật vậy, Thế Tơn, do điệu hý mà có tưởng; nhân điệu hý, duyên điệu hý; điệu hý làm nguyên thủ, từ đó có tưởng. Từ tưởng có dục. Từ dục có yêu ghét. Từ yêu ghét có tham lam tật đố. Do tham lam tật đố, chúng sanh tàn hại lẫn nhau. Nếu vốn khơng có điệu hý thì khơng có tưởng. Khơng có tưởng thì khơng có dục. Khơng có dục thì khơng có yêu ghét. Khơng có yêu ghét thì khơng có tham lam tật đố. Nếu khơng có tham lam tật đố thì tất cả chúng sanh khơng tàn hại lẫn nhau. Nhưng tưởng do điệu hý sanh; nhân điệu hý, duyên điệu hý; điệu hý làm nguyên thủ, từ đó có tưởng. Từ tưởng có dục. Từ dục có yêu ghét. Từ yêu ghét có tham lam tật đố. Do tham lam tật đố, chúng sanh tàn hại lẫn nhau. Con nay nghe những điều Phật dạy, mê hoặc đã trừ, khơng cịn nghi ngờ gì nữa.” Rồi Đế Thích bạch Phật: “Hết thảy Sa-mơn, Bà-la-mơn đều ở trên con đường diệt trừ điệu hý chăng? Hay khơng ở trên con đường diệt trừ điệu hý<註 n="634"/>148?” Phật nói: “Khơng phải hết thảy Sa-mơn, Bà-la-mơn đều ở trên con đường diệt trừ điệu hý. Sở dó như vậy, này Đế Thích, vì thế gian có nhiều chủng loại giới khác nhau. Mỗi chúng sanh y trên giới của mình, ơm giữ chặt cứng, khơng thể dứt bỏ; cho rằng điều của mình là thật, ngồi ra là dối. Vì vậy, Đế Thích, khơng phải hết thảy Sa-mơn, Bà-la-mơn đều ở trên con đường diệt trừ điệu hý<註 n="635"/>149.” Đế Thích liền bạch Phật: “Thật vậy, Thế Tơn, thế gian có nhiều chủng loại giới khác nhau. Mỗi chúng sanh y trên giới của mình, ơm giữ chặt cứng, khơng thể dứt bỏ; cho rằng điều của mình là thật, ngồi ra là dối. Vì vậy, khơng phải hết thảy Sa-mơn, Bà-la-mơn đều ở trên con đường diệt trừ điệu hý. Con nay nghe những điều Phật dạy, mê hoặc đã trừ, khơng cịn nghi ngờ gì nữa.” Đế Thích lại bạch Phật: “Trong chừng mực nào là con đường diệt trừ điệu hý?” Phật bảo Đế Thích: “Điệu hý có ba; một là miệng, hai là tưởng, ba là cầu<註 n="636"/>150. Những gì do miệng người nói, hại mình, hại người, hại cả hai; xả bỏ lời nói ấy. Như những gì được nói khơng hại mình, khơng hại người, khơng hại cả hai; Tỳ-kheo biết thời, đúng như những điều được nói, chuyên niệm khơng tán loạn. Tưởng cũng hại mình, hại người, hại cả hai; xả bỏ tưởng ấy. Đúng như những gì được tưởng mà khơng hại mình, khơng hại người, khơng hại cả hai; Tỳ-kheo biết thời, đúng như những điều được tưởng, chuyên niệm khơng tán loạn. Đế Thích, cầu cũng hại mình, hại người, hại cả hai; sau khi xả bỏ cầu ấy, đúùng những gì được tìm cầu, khơng hại mình, khơng hại người, khơng hại cả hai, Tỳ-kheo biết thời đúng như những gì được tìm cầu chuyên niệm khơng tán loạn.” Bấy giờ, Đế Thích bạch Phật: “Con nghe những điều Phật dạy, khơng cịn hồ nghi nữa.” Lại hỏi: “Trong chừng mực nào thì gọi là Xả tâm của Hiền thánh?” Phật nói với Đế Thích: “Xả tâm có ba: một là hỷ thân, hai là ưu thân, ba là xả thân. Đế Thích; hỷ thân kia hại mình, hại người, hại cả hai<註 n="637"/>151. Sau khi xả bỏ hỷ ấy, như điều được hoan hỷ, khơng hại mình, khơng hại người, khơng hại cả hai; Tỳ-kheo biết thời, chuyên niệm khơng tán loạn, liền được gọi là thọ giới Cụ túc<註 n="638"/>152. Đế Thích, ưu thân<註 n="639"/>153 kia hại mình, hại người, hại cả hai. Sau khi xả bỏ ưu ấy, như điều ưu tư, khơng hại mình, khơng hại người, khơng hại cả hai, Tỳ-kheo biết thời, chuyên niệm khơng tán loạn, liền được gọi là thọ giới Cụ túc. Lại nữa, Đế Thích, xả thân kia hại mình, hại người, hại cả hai. Sau khi xả bỏ xả thân ấy, như điều được xả, khơng hại mình, khơng hại người, khơng hại cả hai, Tỳ-kheo biết thời, chuyên niệm khơng tán loạn, liền được gọi là thọ giới Cụ túc.” Đế Thích bạch Phật: “Con nghe những điều Phật dạy, khơng cịn hồ nghi nữa.” Lại bạch Phật: “Trong chừng mực nào thì được gọi là sự đầy đủ các căn của bậc Hiền thánh<註 n="640"/>154?” Phật bảo Đế Thích: “Con mắt biết sắc, Ta nói có hai: đáng thân và khơng đáng thân<註 n="641"/>155. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm ý biết pháp, Ta nói có hai: đáng thân và khơng đáng thân.” Đế Thích bạch Phật: “Thế Tơn, Như Lai nói vắn tắt mà khơng phân biệt rộng rãi. Theo chỗ hiểu biết đầy đủ của con thì như thế này: ‘Mắt biết sắc, Ta nói có hai: đáng thân và khơng đáng thân. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp, Ta nói có hai: đáng thân và khơng đáng thân. Thế Tơn, như con mắt quán sát sắc, mà pháp thiện tổn giảm, pháp bất thiện tăng. Mắt thấy sắùc như thế, Ta nói khơng đáng thân. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ýù biết pháp, mà pháp thiện tổn giảm, pháp bất thiện tăng trưởng, Ta nói khơng đáng thân. Như mắt biết sắc mà pháp thiện tăng trưởng, pháp bất thiện giảm; sự biết sắc của mắt như vậy, Ta nói đáng thân. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp, mà pháp thiện tăng trưởng, pháp bất thiện tổn giảm, Ta nói đáng thân’.” Phật bảo Đế Thích: “Lành thay, lành thay, đó gọi là sự đầy đủ các căn của Hiền thánh.” Đế Thích bạch Phật: “Con nghe những điều Phật nói, khơng cịn hồ nghi nữa.” Lại bạch Phật: “Trong chừøng mực nào Tỳ-kheo được nói là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vơ dư?” Phật bảo Đế Thích: “Thân bị khổ bởi ái đã diệt tận, là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vơ dư.<註 n="642"/>156” Đế Thích bạch Phật: “Những mối hồi nghi mà con ơm ấp lâu dài nay đã được Như Lai mở bày, khơng cịn gì nghi ngờ nữa.” Phật nói với Đế Thích: “Trước đây ngươi có bao giờ đi đến các Sa-mơn, Bà-la-mơn hỏi ý nghóa này chưa?” Đế Thích bạch Phật: “Con nhớ lại, thuở xưa, con đã từng đến Sa-mơn, Bà-la-mơn để hỏi nghóa này. Xưa, có một thời, chúng con tập họp tại giảng đường, cùng các Thiên chúng bàn luận: ‘Như Lai sẽ ra xuất hiện ở đời chăng? Chưa xuất hiện ở đời chăng?’ Rồi chúng con cùng suy tìm, khơng thấy có Như Lai xuất hiện ở đời. Mỗi vị trở về cung điện của mình, hưởng thụ ngũ dục. Thế Tơn, về sau, con lại thấy các Đại Thiên thần sau khi tự thỏa mãn với ngũ dục, dần dần từng vị mạng chung. Lúc ấy, bạch Thế Tơn, con rất kinh sợ, lơng tóc dựng đứng. Khi gặp các Sa-mơn, Bà-la-mơn sống nơi thanh vắng, lìa bỏ gia đình, lìa bỏ dục lạc, con bèn tìm đến hỏi họ rằng: ‘Thế nào là cứu cánh?’ Con hỏi ý nghóa ấy, nhưng họ khơng thể trả lời. Đã khơng thể trả lời, họ hỏi ngược lại con: ‘Ơng là ai?’ Con liền đáp: ‘Tơi là Thích Đề-hồn Nhân.’ Kia lại hỏi: ‘Ơng là Thích nào?’Con đáp: ‘Tơi là Thiên Đế Thích. Trong lịng có mối nghi nên đến hỏi.’ Rồi con và vị ấy theo chỗ thấy biết của mình cùng giải thích ý nghóa. Kia nghe con nói, kia lại nhận làm đệ tử của con. Nay con là đệ tử Phật, chứng đắc Tu-đà-hồn đạo, khơng cịn đọa cõi dữ; tái sanh tối đa bảy lần tất thành đạo quả. Cúi mong Thế Tơn thọ ký con là Tư-đà-hàm.” Nói xong, Đế Thích lại làm bài tụng: Do kia nhiễm uế tưởng<註 n="643"/>157, Khiến con sanh nghi ngờ. Cùng chư Thiên, lâu dài Suy tìm đến Như Lai. Gặp những người xuất gia Thường ở nơi thanh vắng, Tưởng là Phật Thế Tơn, Con đến cúi đầu lễ. Con đến và hỏi họ “Thế nào là cứu cánh?” Hỏi, nhưng khơng thể đáp, Đường tu đi về đâu. Ngày nay đấng Vơ Đẳng, Mà con đợi từ lâu, Đã quán sát, thực hành, Tâm đã chánh tư duy. Đấng Tịnh Nhãn đã biết Sở hành của tâm con Và nghiệp tu lâu dài, Cúi mong thọ ký con. Quy mạng Đấng Chí Tơn, Đấng siêu việt tam giới, Đã bứt gai ân ái. Kính lễ Đấng Nhật Quang<註 n="644"/>158. Phật bảo Đế Thích: “Ngươi có nhớ trước đây khi ngươi có hỷ lạc, cảm nghiệm lạc chăng<註 n="645"/>159?” Đế Thích đáp: “Đúng vậy, Thế Tơn. Con nhớ hỷ lạc, cảm nghiệm lạc mà con có trước đây. Thế Tơn, xưa có lần con đánh nhau với A-tu-la. Khi đó con chiến thắng, A-tu-la bại trận. Con trở về với sự hoan hỷ, cảm nghiệm lạc. Nhưng hoan hỷ ấy, cảm nghiệm lạc ấy duy chỉ là hỷ lạc của dao gậy uế ác, là hỷ lạc của đấu tranh. Nay hỷ lạc, cảm nghiệm lạc mà con có được ở nơi Phật khơng phải là hỷ lạc của dao gậy, của đấu tranh.” Phật hỏi Đế Thích: “Hỷ lạc, cảm nghiệm lạc mà ngươi có hiện nay, trong đó muốn tìm cầu những kết quả cơng đức gì?” Bấy giờ, Đế Thích bạch Phật: “Con ở trong hỷ lạc, cảm nghiệm lạc, muốn tìm cầu năm kết quả cơng đức<註 n="646"/>160. Những gì là năm? Rồi Đế Thích liền đọc bài kệ: Nếu sau này con chết, Xả bỏ tuổi thọ trời, Đầu thai khơng lo lắng<註 n="647"/>161, Khiến tâm con hoan hỷ. Phật độ người chưa độ; Hay nói đạo chân chánh; Ở trong pháp Chánh giác<註 n="648"/>162, Con cần tu phạm hạnh. Sống với thân trí tuệ, Tâm tự thấy chân đế; Chứng đạt điều cần chứng<註 n="649"/>163, Do thế sẽ giải thốt<註 n="650"/>164. Nhưng phải siêng tu hành, Tu tập chơn trí Phật. Dù chưa chứng đạo quả; Cơng đức vẫn hơn trời. Các cõi trời thần diệu, A-ca-ni<註 n="651"/>165, vân vân; Cho đến thân cuối cùng, Con sẽ sanh nơi ấy. Nay con ở nơi này, Được thân trời thanh tịnh; Lại được tuổi thọ tăng; Tịnh nhãn, con tự biết. Nói bài kệ xong, Đế Thích bạch Phật: “Con ở trong hỷ lạc, cảm nghiệm lạc, mà được năm kết quả cơng đức như vậy.” Bấy giờ Đế Thích nói với chư Thiên Đao-lợi: “Các ngươi ở trên trời Đao-lợi đã cung kính hành lễ trước Phạm đồng tử. Nay trước Phật lại cũng hành lễ cung kính như vậy, há khơng tốt đẹp sao?” Nói xong, phút chốc Phạm đồng tử bỗng xuất hiện giữa hư khơng, đứng bên trên các Thiên chúng, hướng về phía Đế Thích mà đọc bài kệ rằng: Thiên vương hành thanh tịnh, Nhiều lợi ích chúng sanh; Ma-kiệt, chúa Đế Thích, Hỏi Như Lai ý nghóa. Bấy giờ, Phạm đồng tử sau khi nói kệ, bỗng nhiên biến mất. Khi ấy Đế Thích rời chỗ ngồi đứng dậy, lễ dưới chân Thế Tơn, đi quanh Phật ba vịng, rồi lui về. Chư Thiên Đao-lợi cùng Ban-giá-dực cũng lễ dưới chân Phật rồi lui về. Thiên Đế Thích đi trước một đỗi, quay lại nói với Ban-giá-dực: “Lành thay, lành thay! Ngươi đã đi trước đến gảy đàn trước Phật cho vui vẻ, sau đó ta mới cùng chư Thiên Đao-lợi đến sau. Ta nay bổ ngươi vào địa vị của cha ngươi, làm thượng thủ trong các Càn-đạp-hịa và sẽ gả Bạt-đà con gái của vua Càn-đạp-hịa cho ngươi làm vợ.” Khi Thế Tơn nói pháp này, tám vạn bốn ngàn chư Thiên xa lìa trần cấu, con mắt Chánh pháp phát sanh đối với các pháp. Bấy giờ Thích Đề-hồn Nhân, chư Thiên Đao-lợi và Ban-giá-dực sau khi nghe những điều Phật dạy hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140859">15. KINH A-NẬU-DI<註 n="652"/>166 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại nước Minh-ninh, đất A-nậu-di<註 n="653"/>167. Cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, Thế Tơn khốc y cầm bát vào thành A-nậu-di khất thực. Rồi Thế Tơn thầm nghó: “Nay Ta đi khất thực, thời gian cịn quá sớm. Ta hãy đến khu vườn của Phạm chí Phịng-già-bà<註 n="654"/>168. Tỳ-kheo cần phải đúng giờ mới đi khất thực”. Thế Tơn đi đến khu vườn kia. Khi ấy Phạm chí từ xa trơng thấy Phật liền đứng dậy nghinh tiếp, cùng chào hỏi, rằng: “Hoan nghinh Cù-đàm. Từ lâu khơng đến. Nay do duyên gì lại khuất tất đến đây? Xin mời Cù-đàm ngồi chỗ này”. Thế Tơn liền ngồi vào chỗ ấy. Phạm chí ngồi một bên, bạch Thế Tơn: “Đêm hơm qua có Tỳ-kheo Thiện Tú người Lệ-xa<註 n="655"/>169 đến chỗ tơi nói rằng: ‘Đại sư, tơi khơng theo Phật tu phạm hạnh nữa. Sở dó vậy là vì Phật xa lạ với tơi.’ Người ấy nói với tơi những sai lầm của Cù-đàm. Tuy có nói như vậy, nhưng tơi khơng chấp nhận.” Phật nói với Phạm chí: “Điều mà Thiện Tú kia nói, Ta biết ơng khơng chấp nhận. Xưa, một thời, Ta đang ở trên Tập pháp đường, bên bờ hồ Di hầu<註 n="656"/>170, thuộc Tỳ-da-li; khi ấy Thiện Tú này đi đến chỗ Ta, nói với Ta rằng: ‘Như Lai xa lạ với con. Con khơng theo Như Lai tu phạm hạnh nữa.’ Ta khi ấy nói rằng: ‘Ngươi vì sao nói rằng khơng theo Như Lai tu phạm hạnh nữa, vì Như Lai xa lạ với ngươi?’ Thiện Tú đáp: ‘Như Lai khơng hiện thần túc biến hóa<註 n="657"/>171 cho con thấy.’ “Ta khi ấy nói rằng: ‘Ta có mời ngươi đến trong pháp Ta tịnh tu phạm hạnh, Ta sẽ hiện thần túc cho ngươi thấy khơng? Sao lại nói: ‘Như Lai hãy hiện thần túc biến hóa cho con thấy, con mới tu phạm hạnh’? Khi ấy Thiện Tú trả lời Ta rằng: ‘Khơng, bạch Thế Tơn’.” Phật nói với Thiện Tú<註 n="658"/>172: “Ta cũng khơng nói với ngươi: ‘Ngươi hãy ở trong Pháp của Ta mà tịnh tu phạm hạnh, Ta sẽ hiện thần túc biến hóa cho thấy.’ Ngươi cũng khơng nói: ‘Hãy hiện thần túc cho con thấy, con sẽ tu phạm hạnh.’ Thế nào, Thiện Tú, theo ý ngươi, Như Lai có khả năng hiện thần thơng, hay khơng có khả năng? Pháp mà Ta giảng thuyết, Pháp ấy có khả năng dẫn đến xuất ly, tận cùng biên tế của khổ chăng<註 n="659"/>173.” Thiện Tú bạch Phật: “Đúng vậy, Thế Tơn. Như Lai có thể thị hiện thần túc, chứ khơng phải khơng thể. Pháp được giảng dạy có khả năng dẫn đến xuất ly, diệt tận biên tế của khổ, chứ khơng phải khơng diệt tận.” “Cho nên, này Thiện Tú, ai tu hành phạm hạnh theo Pháp mà Ta giảng dạy thì có thể hiện thần túc chứ khơng phải khơng thể; pháp ấy dẫn đến xuất ly, khơng phải khơng thể xuất ly. Ngươi mong cầu cái gì đối với pháp ấy?” Thiện Tú nói: “Thế Tơn thỉnh thoảng khơng dạy con bí thuật của cha con mà Thế Tơn đã biết hết, nhưng vì keo kiệt mà khơng dạy cho con.” Phật nói: “Thiện Tú, Ta có bao giờ nói với ngươi rằng: ‘Ngươi hãy ở trong pháp Ta tu phạm hạnh, Ta sẽ dạy cho ngươi bí thuật của cha ngươi chăng?’” Đáp: “Khơng”. “Cho nên, này Thiện Tú, trước đây Ta khơng nói như vậy. Ngươi cũng khơng nói. Vậy tại sao nay nói như thế? “Thế nào, Thiện Tú, Như Lai có thể nói bí thuật của cha ngươi, hay khơng thể? Pháp mà Ta giảng dạy có dẫn đến xuất ly, diệt tận biên tế của khổ chăng?” Thiện Tú nói: “Như Lai có thể nói bí thuật của cha con, khơng phải khơng thể. Pháp đã được giảng dạy có thể dẫn đến xuất ly, diệt tận biên tế của khổ, chứ khơng phải khơng thể.” Phật lại bảo Thiện Tú: “Nếu Ta có thể nói bí thuật của cha ngươi, cũng có thể nói pháp, nói sự xuất ly, sự lìa khổ, thì ngươi tìm cái gì trong pháp của Ta?” Phật lại nói với Thiện Tú: “Ngươi, trước kia ở trong lãnh thổ của người Bạt-xà<註 n="660"/>174, thuộc Tỳ-xá-ly, đã bằng vơ số phương tiện xưng tán Như Lai, xưng tán Chánh pháp, xưng tán chúng Tăng. Cũng như một người khen ngợi một cái ao trong mát kia bằng tám cách khiến mọi người ưa thích: một, lạnh; hai, nhẹ; ba, mềm; bốn, trong; năm, ngọt; sáu, khơng bẩn; bảy, uống khơng chán; tám, khỏe người. Ngươi cũng vậy, ở trong lãnh thổ Bạt-xà, Tỳ-xá-ly, xưng tán Như Lai, xưng tán Chánh pháp, xưng tán chúng Tăng, khiến mọi người tin vui. Thiện Tú, nên biết, ngày nay ngươi bị lui sụt, người đời sẽ nói rằng: ‘Tỳ-kheo Thiện Tú có nhiều quen biết, lại thân cận Thế Tơn và cũng là đệ tử Thế Tơn; nhưng khơng thể trọn đời tịnh tu phạm hạnh; đã xả giới, hồn tục, thực hành hèn hạ.’ Phạm chí, nên biết, khi ấy Ta nói đủ lời, nhưng Thiện Tú khơng thuận lời dạy của Ta, mà đã xả giới hồn tục. “Phạm chí, một thời Ta ở tại Tập pháp đường bên bờ hồ Di hầu<註 n="661"/>175; khi ấy có Ni-kiền Tử tên là Già-la-lâu<註 n="662"/>176 dừng chân tại chỗ kia, được mọi người sùng kính, tiếng tăm đồn xa, có nhiều quen biết, lợi dưỡng đầy đủ. Khi ấy Tỳ-kheo Thiện Tú khốc y cầm bát vào thành Tỳ-xá-ly khất thực; đi lần đến chỗ Ni-kiền Tử. Bấy giờ, Thiện Tú hỏi Ni-kiền Tử bằng ý nghóa sâu xa. Ni-kiền Tử ấy khơng đáp được, liền sanh tâm sân hận. Thiện Tú nghó thầm: ‘Ta làm người này bực bội<註 n="663"/>177, sẽ phải chịu quả báo lâu dài chăng?’ Phạm chí, nên biết, Tỳ-kheo Thiện Tú sau khi khất thực về, cầm y bát đến chỗ Ta, đầu mặt lễ dưới chân, rồi ngồi xuống một bên. Thiện Tú khi ấy khơng đem duyên cớ ấy mà kể lại với Ta. Ta nói với Thiện Tú rằng: ‘Người ngu kia, ngươi há có thể tự nhận mình là Sa-mơn Thích tử chăng?’ Thiện Tú giây lát hỏi Ta rằng: ‘Thế Tơn vì duyên cớ gì mà gọi con là người ngu? Khơng xứng đáng tự nhận là Sa-mơn Thích tử?’ Ta nói: ‘Người ngu kia, có phải ngươi đã đến Ni-kiền Tử mà hỏi ý nghóa sâu xa, nhưng người kia khơng đáp được bèn sanh sân hận. Ngươi nghó thầm: “Ta nay làm người này bực bội, há sẽ phải chịu quả báo đau khổ lâu dài chăng?” Ngươi có nghó như vậy khơng?’ Thiện Tú bạch Phật rằng: ‘Người kia là A-la-hán. Sao Thế Tơn có tâm sân hận ấy<註 n="664"/>178?’. Ta khi ấy trả lời rằng: ‘Người ngu kia, La-hán làm sao lại có tâm sân hận? Ta, La-hán, khơng có tâm sân hận. Ngươi nay tự cho người kia là La-hán. Người kia có bảy sự khổ hạnh, đã được gìn giữ lâu ngày. Bảy khổ hạnh ấy là gì? Một, suốt đời khơng mặc quần áo. Hai, suốt đời khơng uống rượu, ăn thịt, cũng khơng ăn cơm và thực phẩm bằng bột mì<註 n="665"/>179. Ba, suốt đời khơng vi phạm phạm hạnh. Bốn, trọn đời khơng rời bốn tháp bằng đá<註 n="666"/>180 ở Tỳ-xá-ly; phía Đơng là tháp Ưu viên, phía Nam tháp Voi, phía Tây tháp Đa tử, phía Bắc tháp Thất tụ<註 n="667"/>181. Trọn đời khơng rời khỏi bốn tháp ấy, coi đó là bốn sự khổ hạnh. Nhưng người ấy về sau vi phạm bảy khổ hạnh này và mạng chung ở ngồi thành Tỳ-xá-ly. Cũng như con chó sói bệnh suy vì ghẻ lỡ mà chết trong bãi tha ma<註 n="668"/>182. Ni-kiền Tử kia cũng vậy. Tự mình đặt cấm pháp, sau lại phạm hết. Trước tự thề rằng suốt đời khơng mặc quần áo, sau đó lại mặc. Trước tự mình thề rằng suốt đời khơng uống rượu, ăn thịt và khơng ăn các thứ làm bằng bột mì, nhưng về sau lại ăn hết. Trước vốn tự mình thề rằng suốt đời khơng vượt qua khỏi bốn cái tháp: phía Đơng tháp Ưu viên, Nam tháp Voi, Tây tháp Đa tử, Bắc tháp Thất tụ. Nay trái lời hết, rời xa khơng cịn gần gũi nữa. Người ấy sau khi vi phạm bảy lời thề ấy rồi, ra khỏi thành Tỳ-xá-ly, chết trong bãi tha ma.’ Phật bảo Thiện Tú: ‘Người ngu kia, ngươi khơng tin lời Ta. Ngươi hãy tự mình đi xem, sẽ tự mình biết’.” Phật nói với Phạm chí: “Một thời, Tỳ-kheo Thiện Tú khốc y cầm bát vào thành khất thực. Khất thực xong, lại ra khỏi thành, đi đến một khoảng trống trong bãi tha ma, thấy Ni-kiền Tử kia chết ở đó. Sau khi thấy như vậy, về đến chỗ Ta, đầu mặt lễ dưới chân, rồi ngồi sang một bên, nhưng khơng kể lại chuyện ấy với Ta. Phạm chí, nên biết, lúc ấy Ta nói với Thiện Tú: ‘Thế nào, Thiện Tú, những điều Ta ghi nhận về Ni-kiền Tử trước đây, có đúng như vậy khơng?’ Đáp rằng: ‘Đúng vậy, đúng như lời Thế Tơn đã nói.’ Phạm chí, nên biết, Ta đã hiện thần thơng chứng minh cho Thiện Tú, nhưng kia lại nói: ‘Thế Tơn khơng thị hiện thần thơng cho con’.” “Lại một thời, Ta ở tại ấp Bạch thổ nước<註 n="669"/>183 Minh-ninh, lúc bấy giờ có Ni-kiền Tử tên là Cứu-la-đế<註 n="670"/>184, trú tại Bạch thổ, được mọi người sùng kính, tiếng tăm đồn xa, được nhiều lợi dưỡng. Khi ấy, Ta khốc y cầm bát vào thành khất thực. Tỳ-kheo Thiện Tú lúc bấy giờ đi theo Ta, thấy Ni-kiền Tử Cứu-la-đế đang nằm phục trên một đống phân mà liếm bã trấu<註 n="671"/>185. Phạm chí, nên biết, khi Tỳ-kheo Thiện Tú thấy Ni-kiền Tử này nằm phục trên đống phân mà ăn bã trấu, liền suy nghó rằng: ‘Các A-la-hán hay những vị đang hướng đến quả A-la-hán trong thế gian khơng ai kịp vị này. Đạo của vị Ni-kiền Tử này là bậc nhất hơn hết. Vì sao? Người khổ hạnh mới được như vậy, dứt bỏ kiêu mạn, nằm trên đống phân mà liếm bã trấu.’ “Phạm chí, bấy giờ Ta xoay người theo hướng phải, nói với Thiện Tú rằng: ‘Người ngu kia<註 n="672"/>186, ngươi há có thể tự nhận là Thích tử chăng?’ Thiện Tú bạch Phật rằng: ‘Thế Tơn, vì sao gọi con là người ngu, khơng xứng đáng tự nhận là Thích tử?’ Phật nói với Thiện Tú: ‘Ngươi ngu si, ngươi quan sát Cứu-la-đế này ngồi chồm hổm trên đống phân mà ăn bã trấu liền nghó rằng: Trong các A-la-hán hay những vị đang hướng đến quả La hán, Cứu-la-đế này là tối tơn. Vì sao? Nay Cứu-la-đế này có thể hành khổ hạnh, trừ kiêu mạn, ngồi chồm hổm trên đống phân mà ăn bã trấu. Ngươi có ý nghó như vậy khơng?’ Đáp rằng: ‘Thật vậy.’ Thiện Tú lại nói: ‘Thế Tơn vì sao sanh tâm ganh tị với một vị A-la-hán?’ Phật nói: ‘Người ngu kia, Ta khơng hề sanh tâm ganh tị đối với một vị A-la-hán, làm sao nay lại sanh tâm tật đố đối với một vị A-la-hán? Ngươi, người ngu kia, bảo Cứu-la-đế là một vị chân A-la-hán. Nhưng người này sau bảy ngày nữa sẽ sình bụng mà chết<註 n="673"/>187, tái sanh làm quỷ đói thây ma biết đi<註 n="674"/>188, thường chịu khổ vì đói. Sau khi mạng chung, được buộc bằng cọng lau mà lơi vào bãi tha ma. Nếu người khơng tin, hãy đến báo trước cho người ấy biết.’ “Rồi Thiện Tú liền đi đến chỗ Cứu-la-đế, bảo rằng: ‘Sa-mơn Cù-đàm kia tiên đốn rằng bảy ngày nữa ơng sẽ bị sình bụng mà chết, sanh vào trong lồi quỷ đói thây ma biết đi; sau khi chết, được buộc bằng sợi dây lau và lơi vào bãi tha ma.’ Thiện Tú lại dặn: ‘Ơng hãy ăn uống cẩn thận, chớ để lời ấy đúng.’ Phạm chí, nên biết, qua bảy ngày, Cứu-la-đế bị sình bụng mà chết, tức thì sanh vào trong lồi quỷ đói thây ma; sau khi chết, được buộc bằng dây lau và lơi vào bãi tha ma. Thiện Tú sau khi nghe Phật nói, co ngón tay tính ngày. Cho đến ngày thứ bảy, Tỳ-kheo Thiện Tú đi đến xóm lõa hình, hỏi người trong xóm: ‘Này các bạn, Cứu-la-đế nay đang ở đâu?’ Đáp rằng: ‘Chết rồi.’ Hỏi: ‘Vì sao chết?’ Đáp: ‘Bị sình bụng.’ Hỏi: ‘Chơn cất thế nào?’ Đáp: ‘Được buộc bằng dây lau và lơi vào bãi tha ma.’ “Phạm chí, Thiện Tú sau khi nghe như vậy, liền đi đến bãi tha ma. Khi sắp sửa đến nơi, hai đầu gối của thây ma động đậy, rồi bồng nhiên ngồi chồm hổm dậy. Tỳ-kheo Thiện Tú vẫn cứ đi đến trước thây ma, hỏi: ‘Cứu-la-đế, ơng chết rồi phải khơng?’ Thây ma đáp: ‘Ta chết rồi.’ Hỏi: ‘Ơng đau gì mà chết?’ Đáp: ‘Cù-đàm đã tiên đốn ta sau bảy ngày sình bụng mà chết. Quả như lời, qua bảy ngày, ta sình bụng mà chết.’ Thiện Tú lại hỏi: ‘Ơng sanh vào chỗ nào?’ Đáp: ‘Như Cù-đàm tiên đốn, ta sẽ sanh vào lồi quỷ đói thây ma biết đi. Nay ta sanh vào trong quỷ đói làm thây ma biết đi.’ Thiện Tú hỏi: ‘Khi ơng chết, được chơn cất như thế nào?’ Thây ma đáp: ‘Như Cù-đàm đã tiên đốn, ta sẽ được buộc bằng dây lau rồi lơi vào bãi tha ma. Quả như lời, ta được buộc bằng dây lau rồi lơi vào bãi tha ma.’ Rồi thây ma nói với Thiện Tú: ‘Ngươi tuy xuất gia mà khơng được điều thiện lợi. Sa-mơn Cù-đàm nói như vậy, mà ngươi thường khơng tin.’ Nói xong, thây ma lại nằm xuống. “Phạm chí, bấy giờ Tỳ-kheo Thiện Tú đi đến chỗ Ta, đảnh lễ xong, ngồi xuống một bên, nhưng khơng kể lại chuyện ấy với Ta. Ta liền nói: ‘Như lời Ta tiên đốn, Cứu-la-đế có thật như vậy khơng?’ Đáp: ‘Thật vậy, đúng như Thế Tơn nói.’ Phạm chí, Ta nhiều lần như vậy thị hiện thần thơng chứng cho Tỳ-kheo Thiện Tú, nhưng kia vẫn nói: ‘Thế Tơn khơng hiện thần thơng cho con thấy’.” Phật lại nói với Phạm chí: “Một thời, Ta ở tại Tập pháp đường, bên bờ hồ Di hầu<註 n="675"/>189. Khi ấy có Phạm chí tên là Ba-lê Tử<註 n="676"/>190, đang ngụ tại chỗ kia, được mọi người sùng kính, có nhiều lợi dưỡng. Người ấy ở giữa quần chúng Tỳ-xá-ly nói như vậy: ‘Sa-mơn Cù-đàm tự nhận là có trí tuệ. Ta cũng có trí tuệ. Sa-mơn Cù-đàm tự nhận có thần túc. Ta cũng có thần túc. Sa-mơn Cù-đàm đã đạt được đạo siêu việt. Ta cũng đạt được đạo siêu việt. Ta sẽ cùng ơng ấy hiện thần thơng. Sa-mơn hiện một, ta sẽ hiện hai. Sa-mơn hiện hai, ta sẽ hiện bốn. Sa-mơn hiện tám, ta sẽ hiện mười sáu. Sa-mơn hiện mười sáu, ta sẽ hiện ba mươi hai. Sa-mơn hiện ba mươi hai, ta hiện sáu mươi tư. Tùy theo Sa-mơn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đơi.’ “Phạm chí, khi ấy Tỳ-kheo Thiện Tú khốc y cầm bát vào thành khất thực. Trơng thấy Phạm chí Ba-lê Tử đang nói như vậy giữa quần chúng: ‘Sa-mơn Cù-đàm tự nhận là có trí tuệ. Ta cũng có trí tuệ. Sa-mơn Cù-đàm tự nhận có thần túc. Ta cũng có thần túc. Sa-mơn Cù-đàm đã đạt được đạo siêu việt. Ta cũng đạt được đạo siêu việt. Ta sẽ cùng ơng ấy hiện thần thơng. Sa-mơn hiện một, ta sẽ hiện hai. Sa-mơn hiện hai, ta sẽ hiện bốn. Sa-mơn hiện tám, ta sẽ hiện mười sáu. Sa-mơn hiện mười sáu, ta sẽ hiện ba mươi hai. Sa-mơn hiện ba mươi hai, ta hiện sáu mươi tư. Tùy theo Sa-mơn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đơi.’ Tỳ-kheo Thiện Tú sau khi khất thực xong, về đến chỗ Ta, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên, nói với Ta rằng: ‘Sáng nay, con khốc y cầm bát vào thành khất thực, nghe Ba-lê Tử ở Tỳ-xá-ly đang nói như vầy: ‘Sa-mơn Cù-đàm tự nhận là có trí tuệ. Ta cũng có trí tuệ. Sa-mơn Cù-đàm tự nhận có thần túc. Ta cũng có thần túc. Sa-mơn Cù-đàm đã đạt được đạo siêu việt. Ta cũng đạt được đạo siêu việt. Ta sẽ cùng ơng ấy hiện thần thơng. Sa-mơn hiện một, ta sẽ hiện hai; cho đến, tùy theo Sa-mơn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đơi.’ Kể lại cho Ta đầy đủ sự việc ấy. Ta nói với Thiện Tú: ‘Ba-lê Tử ở giữa quần chúng, nếu khơng từ bỏ lời ấy mà đi đến Ta, sẽ khơng có trường hợp ấy. Nếu người kia nghó rằng: ‘Ta khơng từ bỏ lời ấy, khơng từ bỏ quan điểm ấy, khơng xả bỏ kiêu mạn ấy, mà cứ đi đến Sa-mơn Cù-đàm, thì đầu ơng ấy sẽ bị bể làm bảy mảnh. Khơng có trường hợp người ấy khơng từ bỏ lời ấy, khơng từ bỏ kiêu mạn ấy, mà vẫn đi đến Ta.’ “Thiện Tú nói: ‘Thế Tơn hãy giữ miệng. Như Lai hãy giữ miệng.’ Phật hỏi Thiện Tú: ‘Vì sao ngươi nói: Thế Tơn hãy giữ miệng. Như Lai hãy giữ miệng?’ Thiện Tú nói: ‘Ba-lê Tử kia có uy thần lớn, có uy lực lớn. Giả sử ơng ấy đến thật, há khơng phải Thế Tơn hư dối sao?’ Phật bảo Thiện Tú: ‘Như Lai có bao giờ nói hai lời khơng?’ Đáp: ‘Khơng.’ Phật lại bảo Thiện Tú: ‘Nếu khơng có hai lời, tại sao ngươi lại nói: Thế Tơn hãy giữ miệng. Như Lai hãy giữ miệng?’ Thiện Tú bạch Phật: ‘Thế Tơn do tự mình thấy biết Ba-lê Tử, hay do chư Thiên nói?’ Phật nói: ‘Ta tự mình biết và cũng do chư Thiên đến nói cho nên biết. Đại tướng A-do-đà ở Tỳ-xá-ly<註 n="677"/>191 này sau khi thân hoại mạng chung sanh vào trời Đao-lợi. Ơng đến nói với Ta rằng: ‘Phạm chí Ba-lê Tử kia khơng biết xấu hổ, phạm giới, vọng ngữ, ở Tỳ-xá-ly, giữa quần chúng, nói lời phỉ báng như vầy: Đại tướng A-do-đà sau khi thân hoại mạng chung sanh vào lồi quỷ thây ma biết đi<註 n="678"/>192. Nhưng thật sự con thân hoại mạng chung sanh vào trời Đao-lợi.’ Ta đã tự mình biết trước viện Ba-lê Tử và cũng do chư Thiên nói lại nên biết.’ Phật nói với Thiện Tú ngu ngốc: ‘Ngươi khơng tin Ta, thì hãy vào thành Tỳ-xá-ly, tùy ý mà rao lên. Ta sau bữa ăn sẽ đi đến chỗ Phạm chí Ba-lê Tử’.” Phật lại nói với Phạm chí: “Bấy giờ, Thiện Tú kia sau khi qua đêm khốc y cầm bát vào thành khất thực. Khi ấy Thiện Tú kia hướng đến các Bà-la-mơn, Sa-mơn, Phạm chí trong thành Tỳ-xá-ly kể đủ câu chuyện rằng: ‘Phạm chí Ba-lê Tử ở giữa đại chúng đã tuyên bố lời này: ‘Sa-mơn Cù-đàm tự nhận là có trí tuệ. Ta cũng có trí tuệ. Sa-mơn Cù-đàm có đại uy lực; ta cũng có đại uy lực. Sa-mơn Cù-đàm tự nhận có đại thần túc. Ta cũng có đại thần túc. Sa-mơn hiện một, ta sẽ hiện hai; cho đến, tùy theo Sa-mơn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đơi.’ Nhưng nay Sa-mơn Cù-đàm sẽ đi đến chỗ Ba-lê Tử kia. Các vị cũng đến đó hết.’ “Khi ấy Phạm chí Ba-lê đang đi trên đường; Thiện Tú trơng thấy, vội vã đến gần, nói rằng: ‘Ơng ở giữa đám đơng của Tỳ-xá-ly đã tuyên bố như vầy: ‘Sa-mơn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ, cho đến, tùy theo Sa-mơn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đơi.’ Sa-mơn Cù-đàm nghe lời tuyên bố ấy, nay muốn đến chỗ ơng. Ơng hãy về nhanh đi.’ Đáp rằng: ‘Ta sẽ về ngay. Ta sẽ về ngay.’ Nói như thế rồi, giây lát cảm thấy hoảng sợ, lơng tóc dựng đứng, khơng trở về chỗ cũ, mà đi đến khu rừng của Phạm chí Đạo-đầu-ba-lê<註 n="679"/>193, ngồi trên võng<註 n="680"/>194, rầu ró, mê loạn.” Phật bảo Phạm chí: “Ta, sau bữa ăn, cùng với nhiều người Lệ-xa, Sa-mơn, Bà-la-mơn, Phạm chí, Cư só, đi đến trú xứ của Ba-lê-tử, ngồi lên chỗ ngồi. Trong đám đơng ấy có một Phạm chí tên là Giá-la<註 n="681"/>195. Khi ấy, mọi người kêu Giá-la, bảo rằng: ‘Ơng hãy đi đến rừng Đạo-đầu nói với Ba-lê Tử: ‘Nay nhiều người Lệ-xa, Sa-mơn, Bà-la-mơn, Phạm chí, Cư só đều tụ tập hết nơi rừng của ơng. Mọi người cùng bàn luận rằng, Phạm chí Ba-lê ở giữa đám đơng tự mình xướng lên lời này: ‘Sa-mơn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ, cho đến, tùy theo Sa-mơn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đơi.’ Sa-mơn Cù-đàm vì vậy đã đến nơi rừng của ơng. Ơng hãy đến xem.’ Rồi thì, Già-la sau khi nghe mọi người nói, bèn đi đến rừng bảo Đạo-đầu Ba-lê Tử rằng: ‘Nay nhiều người Lệ-xa, Sa-mơn, Bà-la-mơn, Phạm chí, Cư só đều tụ tập hết nơi rừng của ơng. Mọi người cùng bàn luận rằng, Phạm chí Ba-lê ở giữa đám đơng tự mình xướng lên lời này: ‘Sa-mơn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ, cho đến, tùy theo Sa-mơn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đơi.’Sa-mơn Cù-đàm nay đang ở nơi rừng kia. Ba-lê, ơng có về khơng?’ Khi ấy, Phạm chí Ba-lê liền đáp: ‘Sẽ về. Sẽ về.’ Nói như vậy xong, ở trên võng mà day trở khơng yên. Bấy giờ, võng lại làm cho vướng chân, khiến ơng khơng thể rời khỏi võng, huống hồ đi đến Thế Tơn. “Thế rồi, Già-la nói với Phạm chí Ba-lê: ‘Ngươi tự vơ trí, chỉ có tiếng nói rỗng khơng: ‘Sẽ về. Sẽ về.’ Nhưng cái võng ấy cịn khơng thể rời khỏi, sao có thể đi đến chỗ đại chúng?’ Trách mắng Ba-lê Tử xong, bèn trở về chỗ đại chúng, báo rằng: ‘Ta nhân danh đại chúng, đi đến nói với Ba-lê Tử. Y trả lời: ‘Sẽ về. Sẽ về.’ Ngay lúc ấy, ở trên võng, chuyển động thân thể, nhưng võng dính vào chân khơng rời được. Y cịn khơng thể rời khỏi cái võng, sao có thể đến đại chúng này được?’ “Bấy giờ, có một Lệ-xa Tử là Đầu-ma<註 n="682"/>196 đang ngồi trong chúng, liền đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ dài, chắp tay, bạch đại chúng rằng: ‘Đại chúng hãy đợi một lát. Tơi sẽ tự mình đến dẫn người ấy lại đây’.” Phật nói: “Ta khi ấy nói với Lệ-xa Tử Đầu-ma rằng: ‘Người kia đã tuyên bố như vậy, ơm giữ kiến giải như vậy, khởi kiêu mạn như vậy; mà muốn khiến cho người ấy đi đến chỗ Phật, thì khơng thể được. Đầu-ma Tử, giả sử ơng lấy dây quấn nhiều lớp, rồi khiến bầy bị cùng kéo, cho đến thân thể người ấy bị rã rời, cuối cùng người ấy vẫn sẽ khơng thể từ bỏ lời nói như vậy, kiến giải như vậy, kiêu mạn như vậy, để đến chỗ Ta. Nếu khơng tin lời Ta, ngươi hãy đến đó tự mình khắc biết.’ “Bấy giờ, Lệ-xa Tử Đầu-ma vẫn cố đi đến chỗ Ba-lê Tử, nói với Ba-lê Tử rằng: ‘Nhiều người Lệ-xa, Sa-mơn, Bà-la-mơn, Phạm chí, Cư só đều tụ tập hết nơi rừng của ơng. Mọi người cùng bàn luận rằng, Phạm chí Ba-lê ở giữa đám đơng tự mình xướng lên lời này: ‘Sa-mơn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ, cho đến, tùy theo Sa-mơn ấy hiện nhiều hay ít, ta sẽ hiện gấp đơi.’ Sa-mơn Cù-đàm nay đang ở nơi rừng kia. Ơng hãy về đi.’ Lúc ấy, Ba-lê Tử đáp: ‘Sẽ về. Sẽ về.’ Nói như vậy rồi, ở trên võng mà chuyển động thân mình, nhưng khi ấy võng lại vướng vào chân, khiến ơng khơng thể rời khỏi võng, huống nữa là đi đến chỗ Thế Tơn. “Thế rồi, Đầu-ma nói với Ba-lê Tử rằng: ‘Ngươi tự vơ trí, chỉ có tiếng nói rỗng khơng: Sẽ về, sẽ về. Nhưng tự mình cịn khơng thể rời khỏi cái võng này, đâu có thể đi đến chỗ đại chúng!’ “Đầu-ma lại nói với Ba-lê Tử: ‘Những người có trí, do thí dụ mà được hiểu rõ. Thuở xưa lâu xa có một sư tử chúa tể lồi thú sống trong rừng sâu. Vào buổi sáng sớm, sư tử ra khỏi hang, nhìn ngắm bốn phía, vươn mình rống lên ba tiếng, sau đó rảo quanh kiếm thịt mà ăn. Này Ba-lê Tử, sư tử chúa tể lồi thú kia ăn xong rồi trở về rừng, thường có một con dã can đi theo sau ăn tàn, khí lực sung mãn, bèn tự bảo: Sư tử trong rừng kia cuối cùng là con thú gì? Hơn ta được chăng? Nay ta hãy độc chiếm một khu rừng, sáng sớm ra khỏi hang, nhìn quanh bốn phía, vươn mình rống lên ba tiếng, sau đó rảo quanh. Nó muốn học tiếng rống sư tử, nhưng lại ré lên tiếng dã can. Này Ba-lê Tử, ngươi nay cũng vậy. Nhờ uy đức của Phật mà sống cịn ở đời, được người cúng dường; nhưng nay lại tranh đua với Như Lai.’ Rồi Đầu-ma nói bài kệ chỉ trích: Dã can xưng sư tử Tự cho mình vua thú Muốn rống tiếng sư tử Lại ré tiếng dã can. Một mình trong rừng vắng Tự cho mình vua thú Muốn rống tiếng sư tử Lại ré tiếng dã can. Quỳ xuống kiếm chuột hang, Tha ma tìm xác chết; Muốn rống tiếng sư tử, Lại ré tiếng dã can. “Đầu-ma nói rằng: ‘Ngươi cũng vậy. Nhờ ơn Phật mà sống cịn ở đời, được người cúng dường; nhưng nay lại tranh đua với Như Lai.’ Khi ấy Đầu-ma lấy bốn thí dụ, trách mắng thẳng mặt, sau đó, trở về chỗ đại chúng, báo rằng: ‘Tơi đã nhân danh đại chúng đi gọi Ba-lê Tử. Kia trả lời tơi: ‘Sẽ về. Sẽ về.’ Rồi ở trên võng chuyển động thân, nhưng võng liền vướng chân khơng thể rời ra được. Kia cịn khơng thể rời khỏi võng, nói gì chuyện đi đến đại chúng này.’ “Bấy giờ Thế Tơn nói với Đầu-ma: ‘Ta đã nói trước với ngươi, muốn cho người ấy đi đến chỗ Phật, khơng thể được. Giả sử người lấy sợi dây da bó nhiều lớp rồi cho bầy bị kéo, cho đến thân thể rã rời, cuối cùng kia vẫn khơng xả bỏ lời ấy, kiến giải ấy, kiêu mạn ấy, để đi đến Ta.’ “Này Phạm chí, bấy giờ, Ta liền thuyết nhiều pháp khác nhau cho đại chúng, chỉ bày, khuyến khích, làm cho ích lợi, hoan hỷ. Ở trong chúng, ba lần cất tiếng rống sư tử, rồi cất mình bay lên hư khơng, Ta trở về chỗ cũ.” Phật nói với Phạm chí: “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói rằng: ‘Tất cả thế gian đều do Phạm tự tại thiên<註 n="683"/>197 sáng tạo.’Ta hỏi họ: ‘Hết thảy thế gian có thật do Phạm tự tại thiên sáng tạo chăng?’ Họ khơng thể đáp, mà lại hỏi Ta rằng: ‘Cù-đàm, sự ấy là thế nào?’ Ta trả lời họ: ‘Có một thời gian, khi thế giới này bắt đầu hủy diệt, có những chúng sanh khác mà mạng hết, hành hết, từ trời Quang âm mạng chung, sanh vào chốn Phạm thiên trống khơng<註 n="684"/>198 khác; rồi khởi tham ái đối với chỗ ấy, sanh tâm đắm trước, lại mong muốn có chúng sanh khác cũng sanh đến chỗ này. Những chúng sanh khác khi mạng hết, hành hết, lại sanh vào chỗ này. Bấy giờ, chúng sanh kia tự nghó như vầy: ‘Ta nay là Đại phạm vương, ngẫu nhiên mà hiện hữu, khơng do ai sáng tạo. Ta có thể thấu suốt mục đích của các ý nghóa, tuyệt đối tự do trong một ngàn thế giới, có thể sáng tác, có thể biến hóa, vi diệu bậc nhất, là cha mẹ của lồi người. Ta đến đây trước nhất, một mình khơng bầu bạn; do năng lực của ta mà có chúng sanh này; ta sáng tạo ra chúng sanh này.’ Các chúng sanh khác cũng thuận theo, gọi đó là Phạm vương, ngẫu nhiên hiện hữu, có thể thấu suốt mục đích của các ý nghóa, tuyệt đối tự do trong một ngàn thế giới, có thể sáng tác, có thể biến hóa, vi diệu bậc nhất, là cha mẹ của người, là vị duy nhất hiện hữu trước, cịn chúng ta hiện hữu sau; chúng ta do vị Đại phạm vương ấy sáng tạo.’ Các chúng sanh này tùy theo khi tuổi thọ của chúng hết, tái sanh vào đời này; rồi dần dần trưởng thành, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Vị ấy nhập định ý tam-muội<註 n="685"/>199, tùy tam-muội tâm<註 n="686"/>200 mà nhớ đời sống trước của mình. Vị ấy nói như vậy: ‘Vị Đại phạm vương này ngẫu nhiên mà hiện hữu, khơng do ai sáng tạo; có thể thấu suốt mục đích của các ý nghóa; tuyệt đối tự do trong một ngàn thế giới; có thể sáng tác, có thể biến hóa, vi diệu bậc nhất, là cha mẹ của người. Đại Phạm thiên kia thường trụ, khơng biến chuyển, khơng phải là pháp biến dịch. Chúng ta đều do Phạm thiên sáng tạo, cho nên khơng thường hằng, khơng tồn tại lâu dài, là pháp biến dịch.’ Như vậy, Phạm chí, các Sa-mơn, Bà-la-mơn kia do duyên này, thảy đều nói Phạm tự tại thiên sáng tạo thế giới này. Này Phạm chí, sự sáng tạo của thế giới khơng phải là điều mà những vị ấy có thể vươn tới; duy chỉ Phật mới có thể biết. Lại cịn vượt qua sự ấy, Phật cũng đều biết cả. Tuy biết nhưng khơng tham trước, mà biết một cách như thật về khổ, sự tập khởi, sự diệt khổ, vị ngọt, tai hoạn và sự xuất yếu; với bình đẳng quán mà giải thốt vơ dư. Ấy gọi là Như Lai.” Phật bảo Phạm chí: “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói như vầy: ‘Chơi bời và biếng nhác là khởi thủy của chúng sanh<註 n="687"/>201.’ Ta nói với họ: ‘Có thật các Ngươi nói rằng: Chơi bời và biếng nhác là khởi thủy của chúng sanh?’ Họ khơng thể trả lời mà hỏi ngược lại rằng: ‘Cù-đàm, sự ấy là thế nào?’ Ta đáp: ‘Một số chúng sanh ở trời Quang âm do chơi bời và biếng nhác, khi thân hoại mạng chung, tái sanh vào thế gian này; rồi dần trưởng thành, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, cho đến khi nhập tâm định tam-muội<註 n="688"/>202; do năng lực tam-muội, nhận thức được đời sống trước, bèn nói như vầy: ‘Các chúng sanh kia do khơng chơi bời biếng nhác nên thường hằng ở chỗ ấy, tồn tại lâu dài, khơng biến chuyển. Chúng ta do thường xuyên chơi bời dẫn đến pháp vơ thường, biến dịch này.’ Như vậy, Phạm chí, Sa-mơn, Bà-la-mơn kia do duyên ấy nói rằng tiêu khiển là khởi thủy của chúng sanh. Những điều ấy Phật biết tất cả, lại cịn biết hơn thế nữa. Biết nhưng khơng đắm trước, do khơng đắm trước mà như thật biết khổ, sự tập khởi, sự diệt trừ, vị ngọt, tai hoạn, sự xuất yếu; bằng bình đẳng quán mà giải thốt vơ dư. Ấy gọi là Như Lai.” Phật nói với Phạm chí: “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói rằng: ‘Thất ý<註 n="689"/>203 là khởi thủy của chúng sanh.’ Ta nói với họ: ‘Có thật các ngươi nói rằng sự thất ý là khởi thủy của chúng sanh chăng?’ Họ khơng biết trả lời, bèn hỏi lại Ta rằng: ‘Cù-đàm, sự ấy thế nào?’ Ta nói với họ: ‘Một số chúng sanh do nhìn ngắm nhau một thời gian sau bèn thất ý; do thế, mạng chung tái sanh vào thế gian này; rồi lớn dần, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, bèn nhập tâm định tam-muội; do năng lực tam-muội vị ấy nhận thức được đời sống trước, bèn nói như vầy: Như chúng sanh kia do khơng nhìn ngắm nhau nên khơng thất ý, do vậy mà mà thường hằng bất biến. Chúng ta do nhiều lần nhìn ngắm nhau bèn thất ý; do thế dẫn đến pháp vơ thường, biến dịch.’ Như vậy, Phạm chí, Sa-mơn, Bà-la-mơn kia do duyên ấy nói rằng sự thất ý là khởi thủy của chúng sanh. Điều như vậy, duy Phật mới biết; lại cịn biết hơn thế nữa. Biết nhưng khơng đắm trước; do khơng đắm trước mà như thật biết khổ, sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hoạn, sự xuất yếu; do bình đẳng quán mà giải thốt vơ dư.” Phật nói với Phạm chí: “Những điều Ta nói là như vậy. Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn ở chỗ kín chê bai Ta rằng: ‘Sa-mơn Cù-đàm tự cho rằng đệ tử mình chứng nhập tịnh giải thốt<註 n="690"/>204, thành tựu tịnh hạnh. Kia biết thanh tịnh, nhưng khơng biết tịnh một cách tồn diện<註 n="691"/>205.’ Nhưng Ta khơng nói như vậy: ‘Đệ tử của Ta khi nhập tịnh giải thốt, thành tựu tịnh hạnh, vị ấy biết thanh tịnh, nhưng khơng biết tịnh một cách tồn diện.<註 n="692"/>206’ Này Phạm chí, chính Ta nói rằng: ‘Đệ tử Ta nhập tịnh giải thốt, thành tựu tịnh hạnh; vị ấy biết thanh tịnh, tất cả đều thanh tịnh<註 n="693"/>207’.” Lúc bấy giờ, Phạm chí bạch Phật: “Kia khơng được thiện lợi<註 n="694"/>208 khi phỉ báng Sa-mơn Cù-đàm rằng: ‘Sa-mơn Cù-đàm tự cho đệ tử của mình nhập tịnh giải thốt, thành tựu tịnh hạnh; kia biết thanh tịnh, nhưng khơng biết tịnh một cách tồn diện.’ Nhưng Thế Tơn khơng nói như vậy. Chính Thế Tơn nói: ‘Đệ tử ta nhập tịnh giải thốt, thành tựu tịnh hạnh; vị ấy biết thanh tịnh, tất cả đều tịnh.” Rồi lại bạch Phật: “Tơi cũng sẽ nhập tịnh giải thốt này, thành tựu tịnh hạnh, tất cả đều biết một cách tồn diện<註 n="695"/>209.” Phật bảo Phạm chí: “Ngươi muốn nhập, quả thật rất khó. Ngươi do kiến giải dị biệt, kham nhẫn dị biệt, sở hành dị biệt, mà muốn y trên kiến giải khác để nhập tịnh giải thốt, thì thật là quá khó. Nhưng nếu ngươi tin vui nơi Phật, tâm khơng đoạn tuyệt, thì trong lâu dài sẽ luơn luơn được an lạc.” Bấy giờ, Phạm chí Phịng-già-bà, sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140861">16. KINH THIỆN SINH<註 n="696"/>210 Tơi nghe như vầy. Một thời Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt-kỳ<註 n="697"/>211 cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, vào lúc thích hợp<註 n="698"/>212 Đức Thế Tơn khốc y cầm bát vào thành khất thực. Lúc bấy giờ tại thành La-duyệt-kỳ có con trai của trưởng giả tên là Thiện Sinh<註 n="699"/>213, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành, đi đến khu vườn cơng cộng<註 n="700"/>214 sau khi vừa tắm gội xong, cả mình cịn ướt, hướng đến các phương Đơng, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới mà lạy khắp cả. Đức Thế Tơn thấy Thiện Sinh, con trai nhà trưởng giả, sau khi đi đến khu vườn cơng cộng, vừa tắm xong, cả thân mình cịn ướt sũng, bèn đến gần và hỏi: “Vì sao, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành, đi đến khu vườn cơng cộng, với cả người cịn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?” Thiện Sinh bạch Phật: “Khi cha tơi sắp chết có dặn, “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đơng, Tây, Nam, Bắc, Trên và Dưới”. Tơi vâng lời cha dạy khơng dám chống trái, nên sau khi tắm gội xong, chắp tay hướng mặt về phương Đơng mà lễ phương Đơng trước rồi tiếp lễ khắp các phương Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới.” Phật bảo Thiện Sinh: “Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ khơng phải khơng. Nhưng trong pháp của bậc Hiền thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu.” Thiện Sinh thưa: “Cúi xin Đức Thế Tơn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp của Hiền thánh.” Phật bảo con trai trưởng giả: “Hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ, Ta sẽ nói cho ngươi nghe.” Thiện Sinh đáp: “Thưa vâng. Con rất muốn nghe.” Phật bảo Thiện Sinh: “Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết<註 n="701"/>215 khơng làm ác theo bốn trường hợp<註 n="702"/>216 và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản<註 n="703"/>217. “Như thế, này Thiện Sinh<註 n="704"/>218 nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương; thì đời này tốt đẹp và cả đời sau cũng được quả báo tốt đẹp; đời này có căn cơ và đời sau có căn cơ<註 n="705"/>219; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả bậc nhất<註 n="706"/>220, sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện. “Này Thiện Sinh, nên biết, hành bốn kết<註 n="707"/>221 là: Sát sinh, trộm cắp, dâm dục<註 n="708"/>222, vọng ngữ. “Thế nào là bốn trường hợp ác? Đó là: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Ai làm những việc ác theo bốn trường hợp đó sẽ bị hao tổn. Nói như vậy xong, Phật lại nói bài tụng: Ai làm theo bốn pháp, Tham, sân, sợ hãi, si, Thì danh dự mất dần, Như trăng về cuối tháng. “Này Thiện Sinh, người nào khơng làm ác theo bốn trường hợp thì sự ích lợi ngày càng tăng thêm: Người nào khơng làm ác, Do tham, hận, sợ, si, Thì danh dự càng thêm, Như trăng hướng về rằm. “Này Thiện Sinh, sáu nghiệp tổn tài là: “1 Đam mê rượu chè. “2. Cờ bạc. “3. Phóng đãng<註 n="709"/>223. “4. Đam mê kỹ nhạc. “5. Kết bạn người ác “6. Biếng lười.<註 n="710"/>224 “Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành<註 n="711"/>225, khơng làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài, ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp là cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện. “Lại nữa, này Thiện Sinh, nên biết, uống rượu có sáu điều lỗi: “1. Hao tài. “2. Sanh bệnh. “3. Đấu tranh. “4. Tiếng xấu đồn khắp. “5. Bộc phát nóng giận. “6. Tuệ giảm dần. “Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả ấy uống rượu khơng thơi thì nghiệp gia sản ngày mỗi tiêu tán. “Này Thiện Sinh, cờ bạc có sáu điều tai hại: “1. Tài sản ngày một hao hụt. “2. Thắng thì gây thù ốn. “3. Bị kẻ trí chê. “4. Mọi người khơng kính nễ tin cậy. “5. Bị xa lánh; và sáu, sanh tâm trộm cắp. “Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả mê đánh bạc mãi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán. “Này Thiện Sinh, phóng đãng có sáu lỗi: “1. Khơng tự phịng hộ mình. “2. Khơng phịng hộ được tài sản và hàng hóa. “3. Khơng phịng hộ được con cháu. “4. Thường hay bị sợ hãi. “5. Bị những điều khốn khổ ràng buộc xác thân. “6. Ưa sinh điều dối trá. “Đó là sáu điều lỗi. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả phóng đãng mãi khơng thơi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán. “Này Thiện Sinh, say mê kỹ nhạc có sáu lỗi: “1. Tìm đến chỗ ca hát. “2. Tìm đến chỗ múa nhảy. “3. Tìm đến chỗ đàn địch. “4. Tìm đến chỗ tấu linh tay. “5. Tìm đến chỗ có âm thanh vi diệu. “6. Tìm đến chỗ đánh trống.<註 n="712"/>226 “Đó là sáu tai hại của kỹ nhạc. Nếu trưởng giả hoặc con trai trưởng giả say mê kỹ nhạc mãi khơng thơi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán. “Này Thiện Sinh, giao du với bạn xấu có sáu lỗi: “1. Tìm cách lừa dối. “2. Ưa chỗ thầm kín. “3. Dụ dỗ nhà người khác. “4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người khác. “5. Xoay tài lợi về mình. “6. Ưa phanh phui lỗi người. “Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán. “Này Thiện Sinh, lười biếng có sáu lỗi: “1. Khi giàu sang khơng chịu làm việc. “2. Khi nghèo khơng chịu siêng năng. “3. Lúc lạnh khơng chịu siêng năng. “4. Lúc nóng khơng chịu siêng năng. “5. Lúc sáng trời khơng chịu siêng năng. “6. Lúc tối trời khơng chịu siêng năng. “Đó là sáu điều tai hại của sự lười biếng. Nếu trưởng giả hay con trưởng giả lười biếng mãi, thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán.” Nói như vậy xong, Phật làm bài tụng: Người mê say rượu chè, Lại có bè bạn rượu, Tài sản đã tích lũy, Liền theo mình tiêu tan; Uống rượu khơng tiết độ; Thường ưa ca, múa, nhảy, Ngày rong chơi nhà người, Nhân thế tự đọa lạc. Theo bạn ác khơng sửa; Phỉ báng ra nhà người. Tà kiến bị người chê; Làm xấu bị người truất. Cờ bạc, đắm ngoại sắc; Chỉ bàn việc hơn thua. Bạn ác khơng sửa đổi, Làm xấu bị người truất. Bị rượu làm hoang mê; Nghèo khó khơng tự liệu; Tiêu xài chẳng tiếc của; Phá nhà gây tai ương; Đánh bạc, xúm uống rượu; Lén lút vợ con người. Tập quen nết bỉ ổi; Như trăng về cuối tháng. Gây ác phải chịu ác. Chung làm cùng bạn ác; Đời này và đời sau, Rốt khơng đạt được gì. Ngày thời ưa ngủ nghỉ, Đêm thức những mơ tưởng, Mê tối khơng bạn lành; Chẳng gây nổi gia vụ. Sáng chiều chẳng làm việc; Lạnh, nóng lại biếng lười. Làm việc khơng suy xét; Trở lại uổng cơng toi. Nếu khơng kể lạnh nóng, Sáng chiều siêng cơng việc, Sự nghiệp chi chẳng thành; Suốt đời khỏi âu lo. Phật bảo Thiện Sinh: “Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? “1. Hạng úy phục. “2. Hạng mỹ ngơn. “3. Hạng kính thuận. “4. Hạng ác hữu<註 n="713"/>227. “Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: “1. Cho trước đoạt lại sau. “2. Cho ít mong trả nhiều. “3. Vì sợ gượng làm thân. “4. Vì lợi gượng làm thân. “Hạng mỹ ngơn thì thường hay làm bốn việc: “1. Lành dữ đều chiều theo. “2. Gặp hoạn nạn thì xa lánh. “3. Ngăn cản những điều hay. “4. Thấy gặp nguy tìm cách đun đẩy. “Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: “1. Việc trước dối trá. “2. Việc sau dối trá. “3. Việc hiện dối trá. “4. Thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt. “Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ.” Đức Thế Tơn nói như vậy rồi, bèn làm một bài tụng: Úy phục, gượng làm thân; Hạng mỹ ngơn cũng thế. Kính thuận, thân nhưng dối. Ác hữu là ác thân. Bạn thế chớ tin cậy, Người trí nên biết rõ. Nên gấp rút lìa xa Như tránh con đường hiểm. Phật lại bảo Thiện Sinh: “Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? “1. Ngăn làm việc quấy. “2. Thương yêu. “3. Giúp đỡ. “4. Đồng sự. “Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận. “Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: “1. Thấy người làm ác thì hay ngăn cản. “2. Chỉ bày điều chánh trực. “3. Có lịng thương tưởng. “4. Chỉ đường sinh Thiên<註 n="714"/>228. “Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở. “Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: “1. Mừng khi mình được lợi. “2. Lo khi mình gặp hại. “3. Ngợi khen đức tốt mình. “4. Thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. “Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở. “Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: “1. Che chở mình khỏi buơng lung. “2. Che chở mình khỏi hao tài vì buơng lung. “3. Che chở mình khỏi sợ hãi. “4. Khuyên bảo mình trong chỗ vắng người. “Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: “1. Khơng tiếc thân mạng với bạn. “2. Khơng tiếc của cải với bạn. “3. Cứu giúp bạn khỏi sợ hãi. “4. Khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.” Nói như vậy xong, Đức Thế Tơn lại nói bài tụng: Bạn ngăn ngừa điều quấy, Bạn từ mẫn thương yêu, Bạn làm lợi ích bạn, Bạn đồng sự với bạn. Đó bốn hạng đáng thân, Người trí đáng thân cận; Thân hơn người thân khác, Như mẹ hiền thân con. Muốn thân người đáng thân; Hãy thân bạn kiên cố. Người bạn đủ giới hạnh, Như lửa sáng soi người. Phật lại bảo Thiện Sinh: “Ngươi nên biết ý nghóa sáu phương. Sáu phương là gì? “1. Phương Đơng là cha mẹ. “2. Phương Nam là sư trưởng. “3. Phương Tây là thê thiếp. “4. Phương Bắc là bạn bè thân thích<註 n="715"/>229. “5. Phương Trên là các bậc Trưởng thượng, Sa-mơn, Bà-la-mơn. “6. Phương Dưới là tơi tớ. “Này Thiện Sinh, kẻ làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều. Những gì là năm? “1. Cung phụng khơng để thiếu thốn. “2. Muốn làm gì thưa cha mẹ biết. “3. Khơng trái điều cha mẹ làm. “4. Khơng trái điều cha mẹ dạy. “5. Khơng cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm. “Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm điều này chăm sóc con cái: “1. Ngăn con đừng để làm ác. “2. Chỉ bày những điều ngay lành. “3. Thương yêu đến tận xương tủy. “4. Chọn nơi hơn phối tốt đẹp. “5. Tùy thời cung cấp đồ cần dùng. “Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ thế thì phương ấy được an ổn khơng có điều lo sợ. “Đệ tử cung phụng sư trưởng có năm việc: “1. Hầu hạ cung cấp điều cần. “2. Kính lễ cúng dường. “3. Tơn trọng qúi mến. “4. Thầy có dạy bảo điều gì khơng trái nghịch. “5. Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ khơng quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm điều ấy. “Thầy cũng có năm điều để săn sóc đệ tử: “1. Dạy dỗ có phương pháp. “2. Dạy những điều chưa biết. “3. Giải nghóa rành rõ những điều trị hỏi. “4. Chỉ cho những bạn lành. “5. Dạy hết những điều mình biết khơng lẫn tiếc. “Này Thiện Sinh, nếu đệ tử kính thuận, cung kính sư trưởng, thì phương ấy được an ổn khơng có điều lo sợ. “Này Thiện Sinh, chồng cũng phải có năm điều đối với vợ: “1. Lấy lễ đối đãi nhau. “2. Oai nghiêm khơng nghiệt. “3. Cho ăn mặc phải thời. “4. Cho trang sức phải thời. “5. Phó thác việc nhà. “Này Thiện Sinh, chồng đối đãi vợ có năm điều, vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng<註 n="716"/>230. Những gì là năm? “1. Dậy trước. “2. Ngồi sau. “3. Nói lời hịa nhã. “4. Kính nhường tùy thuận. “5. Đón trước ý chồng. “Này Thiện Sinh, ấy là vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn khơng điều gì lo sợ. “Này Thiện Sinh, người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con<註 n="717"/>231: “1. Chu cấp. “2. Nói lời hiền hịa. “3. Giúp đạt mục đích. “4. Đồng lợi<註 n="718"/>232. “5. Khơng khi dối. “Bà con cũng phải lấy năm điều đối lại: “1. Che chở cho mình khỏi buơng lung. “2. Che chở cho mình khỏøi hao tài vì buơng lung. “3. Che chở khỏi sự sợ hãi. “4. Khuyên răn nhau lúc ở chỗ vắng người. “5. Thường ngợi khen nhau. “Này Thiện Sinh! Người biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn khơng điều chi lo sợ. “Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo: “1. Tùy khả năng mà sai sử. “2. Phải thời cho ăn uống. “3. Phải thời thưởng cơng lao. “4. Thuốc thang khi bệnh. “5. Cho có thời giờ nghỉ ngơi. “Tơi tớ phải lấy năm điều phụng sự chủ<註 n="719"/>233: “1. Dậy sớm. “2. Làm việc chu đáo. “3. Khơng gian cắp. “4. Làm việc có lớp lang. “5. Bảo tồn danh giá chủ. “Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn khơng điều chi lo sợ. “Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-mơn, Bà-la-mơn với năm điều: “1. Thân hành từ. “2. Khẩu hành từ. “3. Ý hành từ. “4. Đúng thời cúng thí. “5. Khơng đóng cửa khước từ. “Sa-mơn, Bà-la-mơn cũng khuyên dạy theo sáu điều<註 n="720"/>234: “1. Ngăn ngừa chớ để làm ác. “2. Chỉ dạy điều lành. “3. Khuyên dạy với thiện tâm. “4. Cho nghe những điều chưa nghe. “5. Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ. “6. Chỉ vẽ con đường sanh Thiên. “Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-mơn, Bà-la-mơn như thế thì phương ấy được an ổn khơng điều gì lo sợ.” Đức Thế Tơn nói như vậy xong, lại làm một bài tụng: Cha mẹ là phương Đơng, Sư trưởng là phương Nam, Vợ chồng là phương Tây, Thân tộc là phương Bắc, Tơi tớ là phương Dưới, Sa-mơn là phương Trên. Những người con trưởng giả Kính lễ các phương ấy. Thuận thảo khơng lỗi thời, Khi chết được sanh Thiên. Huệ thí, nói hịa nhã, Giúp người đạt mục đích. Lợi lộc chia đồng đều, Mình có cho người hưởng. Bốn việc ấy như xe, Chở tất cả nặng nề. Đời khơng bốn việc ấy, Sẽ khơng có hiếu dưỡng. Bốn việc ấy ở đời, Được người trí chọn lựa. Làm thời kết quả lớn, Tiếng tốt đồn vang xa. Trang sức chỗ nằm ngồi, Dọn thức ăn bậc nhất, Để cấp bậc xứng đáng, Tiếng tốt đồn vang xa. Khơng bỏ người thân cũ; Chỉ bày việc lợi ích; Trên dưới thường hịa đồng, Tất được danh dự tốt. Trước hãy tập kỹ nghệ, Sau mới có tài lợi. Khi có tài lợi rồi, Hãy khéo lo gìn giữ. Tiêu dùng đừng xa xí; Hãy lựa người làm thân. Hạng lừa dối, xung đột; Thà chẳng nên đến gần<註 n="721"/>235. Của dồn từ khi ít; Như ong góp nhụy hoa. Tài bảo ngày chứa dồn, Trọn đời khơng hao tổn. Một, ăn biết vừa đủ; Hai, làm việc siêng năng; Ba, lo dồn chứa trước, Đề phịng khi thiếu hụt; Bốn, cày ruộng buơn bán, Và lựa đất chăn nuơi; Năm, xây dựng tháp miếu; Sáu, lập tăng phịng xá. Tại gia sáu việc ấy, Siêng lo chớ lỗi thời. Ai làm được như thế Thời nhà khỏi sa sút, Tài sản ngày một thêm, Như trăm sơng về biển. Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật: “Lành thay, bạch Thế Tơn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vơ số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Đức Như Lai, Bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin Đức Thế Tơn chấp thuận cho con được làm Ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hơm nay cho đến trọn đời, con nguyện khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu.” Bấy giờ, Thiện Sinh sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140868">17. KINH THANH TỊNH<註 n="722"/>236 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại nước Ca-duy-la-vệ<註 n="723"/>237, trong khu rừng của Ưu-bà-tắc Miến-kỳ<註 n="724"/>238, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, có Sa-di Châu-na<註 n="725"/>239, ở tại nước Ba-ba, sau an cư mùa hạ, cầm y bát, đi lần đến nước Ca-duy-la-vệ, trong vườn Miến-kỳ; đến chỗ A-nan, cúi đầu lễ dưới chân, rồi đứng sang một bên, bạch A-nan rằng: “Có Ni-kiền Tử<註 n="726"/>240 trong thành Ba-ba<註 n="727"/>241, chết chưa bao lâu, mà các đệ tử của ơng đã chia làm hai phe. Họ tranh chấp nhau, trực diện mắng chửi nhau, khơng cịn phân biệt trên dưới; tìm tịi khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thức với nhau rằng: ‘Ta có thể biết điều này; ngươi khơng thể biết điều này. Hành động của ta chân chính, cịn ngươi là tà kiến. Ngươi đặt cái trước ra sau; để cái sau ra trước; điên đảo, thác loạn, khơng có phép tắc. Những điều ta làm thật là vi diệu. Những điều ngươi nói thì sai lầm. Ngươi có điều gì nghi ngờ, cứ hỏi ta.’ Bạch Đại đức A-nan, bấy giờ, những người thờ Ni-kiền Tử trong nước này nghe những tranh tụng như vậy sinh lịng chán ghét.” A-nan nói với Sa-di Châu-na: “Ta có điều muốn bạch Thế Tơn. Ngươi hãy đi với ta, trình bày Thế Tơn về sự việc này. Nếu Thế Tơn có răn dạy điều gì, chúng ta hãy cùng phụng hành.” Rồi thì, Sa-di Châu-na sau khi nghe A-nan nói bèn cùng đi theo đến chỗ Thế Tơn. Sau khi cúi lạy dưới chân Thế Tơn, bèn đứng sang một bên. Lúc bấy giờ, A-nan bạch Thế Tơn rằng: “Sa-di Châu-na này, sau an cư mùa hạ ở nước Ba-ba, cầm y bát, đi lần đến đây. Sau khi đảnh lễ dưới chân con, nói với con rằng: ‘Có Ni-kiền Tử trong thành Ba-ba, chết chưa bao lâu, mà các đệ tử của ơng đã chia làm hai phe. Họ tranh chấp nhau, trực diện mắng chửi nhau, khơng cịn phân biệt trên dưới; tìm tịi khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thức với nhau rằng: ‘Ta có thể biết điều này; ngươi khơng thể biết điều này. Hành động của ta chân chính, cịn ngươi là tà kiến. Ngươi đặt cái trước ra sau; để cái sau ra trước; điên đảo, thác loạn, khơng có phép tắc. Những điều ta làm thật là vi diệu. Những điều ngươi nói thì sai lầm. Ngươi có điều gì nghi ngờ, cứ hỏi ta.’ Bấy giờ, những người thờ Ni-kiền Tử trong nước này nghe những tranh tụng như vậy sinh lịng chán ghét.’.” Thế Tơn nói với Châu-na: “Quả vậy, Châu-na, trong phi pháp ấy khơng có gì đáng để nghe. Đó khơng phải là những điều được nói bởi Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác<註 n="728"/>242. Cũng như ngơi tháp đổ nát, khó có thể bơi màu<註 n="729"/>243. Kia tuy có thầy, nhưng thảy đều ơm giữ tà kiến. Tuy có pháp, nhưng thảy đều khơng chân chánh<註 n="730"/>244, khơng đáng để nghe theo, khơng có khả năng xuất ly<註 n="731"/>245, khơng phải là những điều được nói bởi Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng như ngơi tháp đổ nát khơng thể bơi màu vậy. “Trong số các đệ tử của vị ấy có người khơng thuận theo pháp ấy, dứt bỏ tà kiến ấy, đi theo chánh kiến. Châu-na, nếu có người đến nói với các đệ tử ấy rằng: ‘Này chư Hiền, pháp của thầy ơng là chân chánh, nên tu hành trong pháp ấy, sao lại bỏ đi?’ Nếu người đệ tử này mà tin lời ấy, thì cả hai đều thất đạo, mắc tội vơ lượng. Vì sao vậy? Kia tuy có pháp, nhưng khơng chân chánh. “Châu-na, nếu thầy khơng tà kiến và pháp ấy chân chánh, có thể khéo léo nghe theo, có khả năng xuất yếu, là pháp được nói bởi Đấng Chánh Biến Tri<註 n="732"/>246. Cũng như ngơi tháp mới có thể dễ dàng bơi màu. Nhưng nếu các đệ tử, ở trong pháp ấy, khơng tinh cần tu tập, khơng thể thành tựu, bỏ con đường bình đẳng, đi vào tà kiến. Nếu có người đến nói với các đệ tử ấy rằng: ‘Này chư Hiền, pháp của thầy các người là chân chánh, nên ở trong đó mà tu hành, sao lại bỏ đi mà đi vào tà kiến?’ Các đệ tử ấy nếu tin lời ấy, thì cả hai đều thấy chân chánh, được phước vơ lượng. Vì sao vậy? Vì pháp ấy chân chánh.” Phật bảo Châu-na: “Kia tuy có thầy, nhưng ơm giữ tà kiến. Tuy cũng có pháp, nhưng thảy đều khơng chân chánh, khơng có khả năng xuất yếu, khơng phải là pháp được thuyết bởi Đấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngơi tháp đổ nát khơng thể bơi màu. Các đệ tử kia thành tựu pháp và tùy pháp<註 n="733"/>247, tùy thuận theo mà tu hành, nhưng lại khởi tà kiến. Châu-na, nếu có người đến nói đệ tử ấy rằng: ‘Pháp của thầy ngươi là chân chánh. Điều ngươi làm là đúng. Nay ngươi tu hành cần khổ như vậy, có thể ở trong đời này ngươi sẽ thành tựu đạo quả.’ Các đệ tử kia tin lời ấy, thì cả hai đều thất đạo, mắc tội vơ lượng. Vì sao vậy? Vì pháp khơng chân chánh vậy. “Này Châu-na, nếu bậc thầy khơng tà kiến; Pháp của vị ấy chân chánh, có thể khéo léo nghe theo, có khả năng xuất ly, là pháp được thuyết bởi Đấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngơi tháp mới thì dễ bơi màu. Nay đệ tử của vị ấy thành tựu pháp và tùy pháp, tùy thuận tu hành mà sanh chánh kiến. Nếu có người đến nói với các đệ tử ấy rằng: ‘Pháp của thầy ngươi là chân chánh. Sở hành của ngươi là đúng. Nay cần khổ tu hành như vậy, có thể ở trong đời này mà thành tựu đạo quả.’ Các đệ tử kia tin lời ấy, cả hai đều chánh kiến, được phước vơ lượng. Vì sao vậy? Vì pháp ấy chân chánh. “Này Châu-na, hoặc có bậc Đạo sư xuất thế khiến cho các đệ tử buồn rầu. Hoặc có Đạo sư xuất thế khiến các đệ tử khơng buồn rầu. “Thế nào là Đạo sư xuất thế khiến các đệ tử sinh buồn rầu? “Này Châu-na! Đạo sư mới xuất hiện thế gian, thành đạo chưa lâu, pháp của vị ấy đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, như thật chơn yếu nhưng khơng được phân bố rộng khắp, rồi vị Đạo sư ấy lại chóng diệt độ. Các đệ tử vì thế khơng được tu hành, thảy đều buồn rầu mà nói rằng: ‘Thầy vừa mới xuất thế, thành đạo chưa lâu, pháp của Thầy đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, như thật chơn yếu, nhưng rốt cùng lại khơng được phân bố rộng khắp, mà nay Đạo sư lại nhanh chóng diệt độ, khiến cho đệ tử chúng ta khơng được tu hành.’ Đấy là có vị Đạo sư xuất thế nhưng đệ tử lại ưu sầu. “Thế nào là Đạo sư xuất thế, đệ tử khơng ưu sầu? “Có vị Đạo sư xuất thế, Pháp của vị ấy thanh tịnh, đầy đủ phạm hạnh, như thật chơn yếu, lại được lưu bố rộng rãi, rồi sau đó mới vào diệt độ. Các đệ tử vì thế mà được tu hành, khơng ưu sầu, mà nói rằng: ‘Thầy mới xuất hiện thế gian, thành đạo chưa lâu, pháp của Thầy thanh tịnh, đầy đủ phạm hạnh, như thật chơn yếu lại được lưu bố rộng rãi, rồi sau đó mới vào diệt độ, khiến cho đệ tử chúng ta thảy đều được tu hành.’ Này Châu-na, như vậy, Đạo sư xuất thế, đệ tử khơng ưu sầu.” Phật lại bảo Châu-na: “Với chi<註 n="734"/>248 này mà phạm hạnh thành tựu. Đó là, Đạo sư xuất thế, xuất gia chưa bao lâu, danh tiếng chưa rộng, đó gọi là phạm hạnh chi chưa đầy đủ<註 n="735"/>249. Này Châu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng rãi, đó gọi là chi phạm hạnh đầy đủ. “Này Châu-na, Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng, nhưng các đệ tử chưa nhận được sự dạy dỗ, chưa đầy đủ phạm hạnh, chưa đến nơi an ổn<註 n="736"/>250, chưa đạt được mục đích của mình, chưa thể phân bố diễn thuyết pháp đã được thọ lãnh; nếu có dị luận nổi lên thì khơng thể như pháp mà diệt, chưa chứng đắc thần thơng có khả năng biến hóa<註 n="737"/>251. Đó gọi là chi phạm hạnh chưa đầy đủ. “Này Châu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng, mà các đệ tử thảy đều chịu giáo huấn, phạm hạnh đầy đủ, đã đến nơi an ổn, đã đạt được mục đích của mình, lại có thể phân biệt diễn thuyết pháp được lãnh thọ; nếu có dị luận khởi thì có thể như pháp mà diệt, đã chứng đắc thần thơng có khả năng biến hóa đầy đủ. Đó là chi phạm hạnh đầy đủ. “Này Châu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia chưa lâu, danh tiếng chưa rộng, các Tỳ-kheo-ni chưa nhận được sự dạy dỗ, chưa đến chỗ an ổn, chưa đạt được mục đích của mình, chưa thể phân bố diễn thuyết pháp đã được lãnh thọ; nếu có dị luận khởi lên chưa thể như thật diệt trừ bằng chánh pháp, chưa chứng đắc thần thơng có khả năng biến hóa. Đó là chi phạm hạnh chưa đầy đủ. “Này Châu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng, các Tỳ-kheo-ni thảy đều nhận được giáo huấn, phạm hạnh đầy đủ, đã đến nơi an ổn, có thể phân biệt diễn thuyết pháp đã lãnh thọ; nếu có dị luận khởi lên thì như pháp mà trừ diệt, đã chứng đắc thần thơng có khả năng biến hóa. Đó là chi phạm hạnh đầy đủ. “Này Châu-na! Các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di rộng tu phạm hạnh… cho đến đã chứng đắc thần thơng có khả năng biến hóa, cũng vậy. “Này Châu-na, nếu Đạo sư khơng cịn ở đời, khơng có danh tiếng, sự lợi dưỡng tổn giảm. Đó là chi phạm hạnh khơng đầy đủ. Nếu Đạo sư tại thế, danh tiếng và lợi dưỡng đều có đủ, khơng có tổn giảm; đó là chi phạm hạnh đầy đủ. “Nếu Đạo sư cịn ở đời, danh tiếng và lợi dưỡng thảy đều đầy đủ, nhưng các Tỳ-kheo khơng thể đầy đủ danh tiếng và lợi dưỡng. Đó là chi phạm hạnh khơng đầy đủ. “Nếu Đạo sư tại thế, danh tiếng và lợi dưỡng đầy đủ khơng tổn giảm, chúng các Tỳ-kheo cũng đầy đủ như vậy. Đó là chi phạm hạnh đầy đủ. Chúng Tỳ-kheo-ni cũng vậy. “Châu-na, Ta xuất gia đã lâu, danh tiếng rộng xa, các Tỳ-kheo của Ta đã nhận lãnh giáo huấn, đã đến chỗ an ổn, đã tự mình đạt được mục đích, lại có thể nói cho người khác pháp đã lãnh thọ; nếu có dị luận khởi lên có thể như pháp mà diệt, đã chứng đắc thần thơng có khả năng biến hóa. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cũng vậy. “Châu-na, Ta đã lưu bố rộng rãi phạm hạnh … cho đến, đã chứng đắc thần thơng có khả năng biến hóa. “Này Châu-na! Hết thảy Đạo sư trong thế gian, khơng thấy có ai có danh tiếng và lợi dưỡng như Ta, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Này Châu-na, hết thảy đồ chúng có trong thế gian, khơng thấy ai có danh tiếng và lợi dưỡng như chúng của Như Lai. “Châu-na, nếu muốn nói cho chân chánh, thì nên nói ‘thấy mà khơng thấy’<註 n="738"/>252. Thế nào là thấy mà khơng thấy? Hết thảy phạm hạnh thanh tịnh cụ túc, đã được tuyên thuyết, được lưu bố hiển thị<註 n="739"/>253. Đó gọi là thấy mà khơng thấy.” Rồi thì, Đức Thế Tơn nói với các Tỳ-kheo: “Uất-đầu-lam Tử<註 n="740"/>254, ở giữa đại chúng, nói như vậy: ‘Thấy mà khơng thấy. Thế nào là thấy mà khơng thấy? Như có thể thấy con dao nhưng khơng thể thấy sự bén nhọn’<註 n="741"/>255. Này các Tỳ-kheo, vị ấy chỉ dẫn lời nói khơng nhận thức của phàm phu mà ví dụ. Như vậy, này Châu-na, nếu muốn nói một cách chân chánh, nên nói: ‘Thấy mà khơng thấy.’ Thế nào là thấy mà khơng thấy? Ngươi cần phải nói một cách chân chánh rằng: ‘Hết thảy phạm hạnh thanh tịnh đầy đủ, được tuyên thị, lưu bố.<註 n="742"/>256 Đó là thấy mà khơng thấy.’ “Này Châu-na, pháp tương tục kia khơng đầy đủ nhưng có thể đạt được. Pháp khơng tương tục kia tuy đầy đủ nhưng khơng thể đạt được<註 n="743"/>257. Này Châu-na, phạm hạnh trong các pháp, là đề hồ<註 n="744"/>258 trong các thứ tơ lạc<註 n="745"/>259.” Rồi Thế Tơn nói với các Tỳ-kheo: “Ta đối với pháp này tự thân tác chứng<註 n="746"/>260. Đó là bốn niệm xứ, bốn thần túc, bốn ý đoạn, bốn thiền, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám đạo Hiền thánh. Các ngươi tất cả hãy cùng hịa hợp chớ sanh tranh chấp. Cùng theo học một Thầy, cũng như nước và sữa hịa một; ở trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tự thắp sáng cho mình, nhanh chóng được an lạc. Sau khi đã được an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào, trong lúc có Tỳ-kheo đang thuyết pháp, mà nói rằng: ‘Điều được nói của vị kia, văn cú khơng chánh; nghóa lý khơng chánh.’ Tỳ-kheo nghe như thế khơng nên nói đấy là đúng, cũng khơng nên nói đấy là sai, mà hãy nói với Tỳ-kheo ấy rằng: ‘Thế nào, chư Hiền? Câu của tơi như vậy. Câu của các ngài như vậy. Nghóa của tơi như vậy. Nghóa của các ngài như vậy. Cái nào hơn? Cái nào thua?’ Nếu Tỳ-kheo kia nói rằng: ‘Câu của tơi như vậy. Câu của ngài như vậy. Nghóa của tơi như vậy. Nghóa của ngài như vậy. Câu của ngài hơn. Nghóa của ngài cũng hơn.’ Tỳ-kheo kia nói vậy, nhưng cũng chớ cho là đúng, cũng chớ cho là sai, mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên khuyến cáo hãy từ bỏ, hãy cùng suy cầu. Như vậy, cùng nhau hịa hợp, chớ sanh tranh chấp. Cùng một Thầy học, như sữa và nước hợp nhất; ở trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tự mình thắp sáng, chóng được an lạc. “Sau khi đã an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào trong khi có Tỳ-kheo đang thuyết pháp mà nói như vậy: ‘Điều mà vị ấy nói, văn cú khơng chánh, nhưng nghóa thì chánh.’ Tỳ-kheo nghe như vậy, khơng nên nói đấy là đúng, cũng khơng nên nói đấy là sai, mà nên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: ‘Thế nào, Tỳ-kheo? Câu của tơi như vậy. Câu của ngài như vậy. Câu nào đúng? Câu nào sai?’ Nếu Tỳ-kheo ấy nói: ‘Câu của tơi như vậy. Câu của ngài như vậy. Câu của ngài hơn.’ Tỳ-kheo kia nói như vậy, nhưng cũng khơng nên nói đấy là đúng, cũng khơng nên nói thế là sai, mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên khuyến cáo hãy dứt bỏ, hãy cùng suy cầu. Như vậy tất cả cùng hịa hợp, chớ sanh tranh chấp, đồng một Thầy học, như nước sữa hợp nhất, ở trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tự mình thắp sáng, nhanh chóng được an lạc. “Sau khi đã an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào trong khi có Tỳ-kheo đang thuyết pháp mà nói như vậy: ‘Điều mà vị kia nói, văn cú chánh, nhưng nghóa khơng chánh.’ Tỳ-kheo nghe như vậy, khơng nên nói đấy là đúng, cũng khơng nên nói đấy là sai, mà nên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: ‘Thế nào, Tỳ-kheo? Câu của tơi như vậy. Câu của ngài như vậy. Câu nào đúng? Câu nào sai?’ Nếu Tỳ-kheo ấy nói: ‘Câu của tơi như vậy. Câu của ngài như vậy. Câu của ngài hơn.’ Tỳ-kheo kia nói như vậy, nhưng cũng khơng nên nói đấy là đúng, cũng khơng nên nói thế là sai, mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên khuyến cáo hãy dứt bỏ, hãy cùng suy cầu. Như vậy tất cả cùng hịa hợp, chớ sanh tranh chấp, đồng một Thầy học, cùng hịa hợp như nước với sữa, ở trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tự mình thắp sáng, chóng được an lạc. “Sau khi được an lạc, nếu có Tỳ-kheo trong khi có Tỳ-kheo đang thuyết pháp mà nói như vậy ‘Điều được thuyết kia, văn cú chánh, nghóa chánh.’ Tỳ-kheo nghe như vậy, khơng nên nói là sai, mà hãy nên khen ngợi Tỳ-kheo ấy rằng: ‘Điều ngài nói là đúng. Điều ngài nói là đúng.’ Vì vậy, này Tỳ-kheo, trong mười hai bộ kinh<註 n="747"/>261 hãy tự mình chứng nghiệm, rồi lưu bố rộng rãi. Một là Quán kinh. Hai là Kỳ dạ kinh. Ba là Thọ ký kinh. Bốn là Kệ kinh. Năm là Pháp cú kinh. Sáu là Tương ưng kinh. Bảy là Bổn duyên kinh. Tám là Thiên bổn kinh. Chín là Quảng kinh. Mười là Vị tằng hữu kinh. Mười một là Thí dụ kinh. Mười hai là Đại giáo kinh. Các ngươi hãy khéo thọ trì, hãy tùy năng lực mà suy xét, phân bố rộng rãi. “Này các Tỳ-kheo, y mà Ta quy định, hoặc y lấy từ bãi tha ma, hoặc y của trưởng giả, hoặc y xấu hèn; các thứ y ấy đủ để che nóng che lạnh, muỗi mịng; đủ để trùm kín bốn chi thể. “Này các Tỳ-kheo, ẩm thực mà Ta quy định, hoặc thực phẩm do khất thực, hoặc từ cư sĩ; các loại thực phẩm ấy đủ no. Nếu thân thể khổ não, các bệnh hoạn bức thiết mình, sợ rằng có thể vì thế mà chết, cho nên Ta cho phép các loại thực phẩm ấy, để tri túc mà thơi. “Này các Tỳ-kheo, trú xứ mà Ta quy định, hoặc dưới gốc cây, hoặc chỗ trống, hoặc trong phịng, hoặc trên lầu gác, hoặc trong hang, hoặc tại các trú xứ khác; các trú xứ ấy đủ để ngăn che nóng lạnh, che nắng, che mưa, muỗi mịng, cho đến chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi. “Này các Tỳ-kheo, thuốc men mà Ta quy định<註 n="748"/>262, hoặc đại tiểu tiện, hoặc dầu, hoặc mật; các thứ thuốc ấy tự đủ, nếu thân thể phát sanh đau nhức, các thứ bệnh hoạn bức thiết mình, sợ rằng có thể chết, cho nên Ta quy định các thứ thuốc ấy.” Phật lại nói: “Hoặc có Phạm chí ngoại đạo<註 n="749"/>263 đến nói: ‘Sa-mơn Thích tử hưởng thụ các thứ hoan lạc.’ Nếu có người nói như vậy, nên trả lời rằng: ‘Ngươi chớ nói như vậy, rằng Sa-mơn Thích tử ham hưởng thụ các thứ hoan lạc.’ Vì sao? Có thứ lạc nếu hưởng thụ thì bị Như Lai chê trách. Có thứ lạc nếu hưởng thụ thì được Như Lai khen ngợi. Nếu Phạm chí ngoại đạo hỏi: ‘Thứ lạc nào mà nếu hưởng thụ thì bị Cù-đàm chê trách?’ Nếu có hỏi như vậy, nên trả lời rằng: ‘Năm phẩm tính của dục<註 n="750"/>264, đáng ưa đáng thích, mọi người đều đam mê. Thế nào là năm? Mắt nhận thức sắc, đáng ưa đáng thích, mọi người đều đam mê. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc cảm, đáng ưa đáng thích, mọi người đều đam mê. Này chư Hiền, do duyên là năm dục mà sanh hỷ lạc; đó là điều mà Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác chê trách. Cũng như có người cố tình sát hại chúng sanh, tự cho thế là hoan lạc; đó là điều mà Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác chê trách. Cũng như có người lén lút trộm cắp của người, cho thế là khối lạc; đó là điều mà Như Lai chê trách. Cũng như có người xâm phạm tịnh hạnh của người khác, tự cho thế là khối lạc; đó là điều mà Như Lai chê trách. Cũng như có người cố ý nói dối, tự cho thế là khối lạc; đó là điều mà Như Lai chê trách. Cũng có người sống phóng đãng buơng thả; đó là diều Như Lai chê trách. Cũng có người hành khổ hạnh bề ngồi, khơng phải là hành chân chánh mà Như Lai dạy, tự cho thế là khối lạc; đó là điều Như Lai chê trách. “Này các Tỳ-kheo, năm phẩm chất của dục vốn đáng chê trách, mà mọi người tham đắm. Những gì là năm? Mắt nhận biết sắc, đáng ưa đáng thích, là cái mà con người tham đắm. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, đáng ưa đáng thích, mọi người tham đắm. Sa-mơn Thích tử khơng tán đồng những thứ khối lạc như vậy. Cũng như có người cố ý sát sanh, cho đó là khối lạc. Sa-mơn Thích tử khơng tán đồng khối lạc như vậy. Cũng như có người trộm cắp, cho thế là khối lạc. Sa-mơn Thích tử khơng tán đồng những thứ khối lạc như vậy. Cũng như có người phạm tịnh hạnh, cho thế là khối lạc. Sa-mơn Thích tử khơng tán đồng khối lạc như vậy. Cũng như có người phóng đãng buơng trơi, cho thế là lạc. Sa-mơn Thích tử khơng tán đồng khối lạc như vậy. Cũng như có người hành khổ hạnh bề ngồi, cho thế là khối lạc. Sa-mơn Thích tử khơng tán đồng khối lạc như vậy. “Nếu có Phạm chí ngoại đạo hỏi như vậy: ‘Thứ lạc hưởng thụ nào mà Sa-mơn Thích tử khen ngợi?’ Này các Tỳ-kheo, nếu người kia có nói như vậy, các ngươi nên trả lời rằng: ‘Này chư Hiền, năm phẩm chất của dục, đáng ưa đáng thích, được người đời tham đắm. Những gì là năm? Mắt biết sắc… cho đến, thân biết xúc, đáng ưa đáng thích, được người đời tham đắm. Này chư Hiền, do nhân duyên là năm dục mà sanh lạc, nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người cố ý sát sanh, tự cho thế là khối lạc. Thứ lạc như thế, nên nhanh chóng diệt trừ. Có người trộm cắp, tự cho thế là khối lạc. Thứ lạc ấy nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người phạm tịnh hạnh, tự cho thế là khối lạc. Thứ lạc ấy nên chóng diệt trừ. Cũng như có người phóng đãng buơng trơi, tự cho thế là khối lạc. Thứ lạc ấy nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người hành khổ hạnh bề ngồi, cho thế là khối lạc. Thứ lạc ấy nên chóng diệt trừ. Cũng như có người ly dục, lìa bỏ pháp ác bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc phát sanh do ly dục, nhập Sơ thiền. Lạc như thế là điều Phật khen ngợi. Cũng như có người diệt giác quán, nội tâm hoan hỷ<註 n="751"/>265, nhất tâm, khơng giác khơng quán, có hỷ lạc do định sanh, nhập Nhị thiền. Lạc như thế được Phật khen ngợi. Cũng như có người trừ hỷ, nhập xả, tự biết thân lạc, là điều mà Hiền thánh mong cầu, có xả niệm<註 n="752"/>266, nhất tâm, nhập đệ Tam thiền. Lạc như thế được Phật khen ngợi. Lạc hết, khổ hết, ưu và hỷ trước đã diệt, khơng khổ khơng lạc, hộ niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền. Lạc như vậy được Phật khen ngợi.<註 n="753"/>267 “Nếu có Phạm chí ngoại đạo nói như vầy: ‘Trong lạc ấy, các ngươi tìm phẩm chất gì?’ Nên trả lời rằng: ‘Lạc ấy sẽ đưa đến phẩm chất của bảy quả<註 n="754"/>268. Những gì là bảy? Ngay trong đời này, chứùng đắc Thánh đạo<註 n="755"/>269. Giả sử chưa chứng, sau khi chết, sẽ chứng đắc Thánh đạo. Nếu trong khi chết mà chưa chứng đắc, thì sẽ đoạn trừ năm hạ phần kết<註 n="756"/>270, sẽ chứng đắc Trung bát Niết-bàn, Sanh bát Niết-bàn, Hành bát Niết-bàn, Vơ hành bát Niết-bàn, Thượng lưu A-ca-nị-trá Niết-bàn<註 n="757"/>271. Này chư Hiền, như vậy lạc ấy có bảy phẩm chất. Chư Hiền, nếu Tỳ-kheo đang ở bậc học địa mà muốn hướng thượng, tìm cầu chỗ an ổn, nhưng chưa trừ năm triền cái. Những gì là năm? Tham dục triền cái, sân nhuế triền cái, thụy miên triền cái, trạo hý triền cái, nghi triền cái. Tỳ-kheo hữu học kia muốn cầu hướng thượng, tìm chỗ an ổn, nhưng chưa diệt trừ năm triền cái, đối với bốn niệm xứ khơng hay tinh cần, đối với bảy giác ý khơng hay tinh cần, lại muốn chứng được pháp thượng nhân, trí tuệ tăng thượng của Hiền thánh, mong cầu muốn biết, muốn thấy, khơng có trường hợp ấy. “Chư Hiền, Tỳ-kheo hữu học muốn cầu hướng thượng, tìm cầu chỗ an ổn, mà có thể diệt trừ năm triền cái là tham dục triền cái, sân nhuế triền cái, thụy miên triền cái, trạo hý triền cái, nghi triền cái, đối với bốn niệm xứ lại hay tinh cần, đối với bảy giác ý như thật tu hành, vị ấy muốn được pháp thượng nhân, trí tuệ tăng thượng của Hiền thánh, muốn biết muốn thấy, có trường hợp như vậy. “Chư Hiền, có Tỳ-kheo là lậu tận A-la-hán, điều cần làm đã làm xong, đã đặït gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch các kết sử của hữu, với chánh trí đã giải thốt; vị ấy khơng làm chín việc. Những gì là chín? Một là khơng giết. Hai là khơng lấy trộm. Ba là khơng dâm. Bốn là khơng nói dối. Năm, khơng xả đạo<註 n="758"/>272. Sáu, khơng bị dục chi phối. Bảy, khơng bị sân chi phối. Tám, khơng bị sợ hãi chi phối. Chín, khơng bị nghi chi phối. Chư Hiền, ấy là vị lậu tận A-la-hán đã làm xong điều cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch kết sử của hữu, chánh trí giải thốt, xa lìa chín sự. “Hoặc có Phạm chí ngoại đạo nói như vầy: ‘Sa-mơn Thích tử có pháp bất trụ<註 n="759"/>273’. Nên trả lời vị ấy rằng: ‘Chư Hiền, chớ nói như vậy, rằng Sa-mơn Thích tử có pháp bất trụ. Vì sao vậy? Pháp của Sa-mơn Thích tử là thường trụ, khơng bị dao động. Cũng như ngưỡng cửa<註 n="760"/>274 thường trụ khơng động. Pháp của Sa-mơn Thích tử cũng vậy, thường trụ khơng di động.’ “Hoặc có Phạm chí ngoại đạo nói như vậy: ‘Sa-mơn Cù-đàm biết suốt việc trong đời quá khứ, nhưng khơng biết việc trong đời vị lai.’ Tỳ-kheo kia, cùng Phạm chí dị học kia, trí tuệ khác nhau, trí quán cũng khác<註 n="761"/>275, nên lời nói hư dối. Như Lai đối với việc quá khứ kia, khơng gì khơng thấy biết, rõ như ở trước mắt. Đối với đời vị lai, Như Lai có trí tuệ phát sanh từ đạo<註 n="762"/>276. Việc trong đời quá khứ vốn hư dối khơng thật, khơng đáng vui thích, khơng lợi ích gì, Như Lai khơng ghi nhận. Hoặêc việc quá khứ có thật, nhưng khơng đáng ưa thích, khơng ích lợi gì, Phật cũng khơng ghi nhận. Nếu việc quá khứ có thật, đáng ưa, nhưng khơng lợi ích, Phật cũng khơng ghi nhận. Nếu việc quá khứ có thật, đáng ưa, có lợi ích, Như Lai biết suốt, sau đó mới ghi nhận. Vị lai, hiện tại, cũng vậy. “Như Lai đối với quá khứ, vị lai, hiện tại, nói đúng thời, nói sự thật, nói có nghóa, có lợi<註 n="763"/>277, nói đúng pháp, đúng luật, khơng có lời hư dối. Phật từ đêm đầu tiên thành Vơ thượng Chánh giác cho đến đêm cuối cùng, trong khoảng giữa, có nói điều gì, thảy đều như thật; do đó gọi là Như Lai. “Lại nữa, những điều Như Lai nói đúng như sự; sự đúng như lời; do đó gọi là Như Lai. “Do nghóa gì mà gọi là Đẳng Chánh Giác? Những gì mà Phật thấy biết, diệt trừ, giác ngộ, Phật thảy đều giác ngộ, biết rõ, nên gọi là Đẳng Chánh Giác. “Hoặc có Phạm chí ngoại đạo nói như vậy: ‘Thế gian thường cịn. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra đều là hư dối.’ Hoặc có người lại nói: ‘Thế gian này là vơ thường. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra đều hư dối.’ Hoặc có người lại nói: ‘Thế gian vừa thường vừa vơ thường. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra đều hư dối.’ Hoặc có người nói: ‘Thế gian khơng phải thường, khơng phải vơ thường. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra là hư dối.’ “Hoặc có người nói: ‘Thế gian hữu biên. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra đều hư dối.’ Hoặc có người nói: ‘Thế gian vơ biên. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra đều hư dối.’ Hoặc có người nói: ‘Thế gian vừa hữu biên vừa vơ biên. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra đều hư dối.’ Hoặc nói: ‘Thế gian khơng phải hữu biên khơng phải vơ biên. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra đều hư dối.’ “Hoặc nói: ‘Chính mạng<註 n="764"/>278 tức là thân. Duy chỉ điều này là thật; ngồi ra đều dối.’ Hoặc nói: ‘Mạng khơng phải là thân. Đây là thật; ngồi ra là dối.’ Hoặc nói: ‘Mạng khác thân khác. Đây là thật; ngồi ra là dối.’ Hoặc nói: ‘Khơng phải mạng khác thân khác. Đây là thật; ngồi ra là dối.’ “Hoặc nói: ‘Như Lai có cuối cùng<註 n="765"/>279. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Hoặc nói: ‘Như Lai khơng có cuối cùng. Đây là thật cịn ngồi ra là dối.’ Hoặc nói: ‘Như Lai vừa có cuối cùng vừa khơng có cuối cùng, đây là thật cịn ngồi ra là dối.’ Hoặc nói: ‘Như Lai khơng phải có cuối cùng cũng khơng phải khơng có cuối cùng, đây là thật cịn ngồi ra là dối.’ “Những ai có quan điểm như vậy, gọi là bổn sanh bổn kiến<註 n="766"/>280. Nay ta ghi nhận cho ngươi rằng: ‘Thế gian là thường cịn… cho đến, Như Lai khơng phải có cuối cùng cũng khơng phải khơng có cuối cùng. Đây là thật cịn ngồi ra là dối.’ Đó là bổn kiến bổn sanh. Hãy ghi nhớ lấy. “Gọi là: ‘Mạt<註 n="767"/>281 kiếp mạt sanh.’<註 n="768"/>282 Ta cũng ghi nhận. Những gì là mạt kiếp mạt sanh được ta ghi nhận? Sắc là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng; đây là thật cịn ngồi ra là dối. Vơ sắc là ta, tùy theo tưởng có cuối cùng. Vừa có sắc vừa vơ sắc là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Khơng phải có sắc khơng phải khơng sắc là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ta là hữu biên, ta là vơ biên, ta vừa hữu biên vừa vơ biên, ta khơng phải hữu biên cũng khơng phải vơ biên, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ta có lạc, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ta khơng có lạc, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ta vừa có khổ vừa có lạc, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ta khơng khổ cũng khơng lạc, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Một tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Nhiều tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ít tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Vơ lượng tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Đây là thật ngồi ra là dối. Đó là tà kiến bổn kiến bổn sanh, được Ta ghi nhận. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, có luận như vầy, có kiến như vầy: ‘thế gian này thường cịn, đây là thật, ngồi ra là dối… cho đến, vơ lượng tưởng là ta, đây là thật, ngồi ra là dối.’ Sa-mơn, Bà-la-mơn kia, lại nói như vầy, thấy như vầy: ‘Đây là thật ngồi ra là hư dối’. Nên trả lời người ấy rằng: ‘Có phải ngươi chủ trương rằng, thế giới này là thường cịn; đây là thật cịn ngồi ra là dối? Lời nói như vậy Phật khơng chấp nhận. Vì sao? Trong các kiến giải đó mỗi thứ đều có kết sử. Ta lấy lý mà suy, trong các Sa-mơn, Bà-la-mơn, khơng ai bằng Ta, huống hồ muốn hơn Ta.’ Các tà kiến như vậy chỉ có nơi lời nói mà thơi, khơng đáng cùng bàn luận… Cho đến vơ lượng tưởng là ta, cũng vậy. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói như vầy: ‘Thế gian này tự tạo.’ Lại có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói: ‘Thế gian này cái khác tạo.’ Hoặc nói: ‘Vừa tự tạo vừa cái khác tạo.’ Hoặc nói: ‘Khơng phải tự tạo cũng khơng phải cái khác tạo nhưng ngẫu nhiên mà có.’ Sa-mơn, Bà-la-mơn nào nói rằng thế gian là tự tạo thì các Sa-mơn, Bà-la-mơn ấy đều nhân bởi nhân duyên là xúc. Nếu lìa xúc là nhân mà có thể nói được; khơng có trường hợp ấy. Vì sao? Do sáu nhập thân<註 n="769"/>283 mà phát sanh xúc. Do xúc mà sanh thọ. Do thọ mà sanh ái. Do ái mà sanh thủ. Do thủ mà sanh hữu. Do hữu mà sanh sanh. Do sanh mà có già, chết, ưu, buồn, khổ não, khối lớn khổ đau. Nếu khơng có sáu nhập, thì khơng có xúc. Khơng có xúc thì khơng có thọ. Khơng có thọ thì khơng có ái. Khơng có ái thì khơng có thủ. Khơng có thủ thì khơng có hữu. Khơng có hữu thì khơng có sanh. Khơng có sanh thì khơng có già, chết, ưu, buồn, khổ não, khối lớn khổ đau. “Lại nói, ‘thế gian này do cái khác tạo’; lại nói, ‘thế gian này vừa tự tạo vừa do cái khác tạo’; lại nói, ‘thế gian này khơng phải tự tạo cũng phải do cái khác tạo, nhưng ngẫu nhiên mà có’; cũng vậy. Nhân xúc mà có, khơng có xúc thì khơng.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nếu muốn diệt trừ các quan điểm tà ác ấy, nên tu ba hành<註 n="770"/>284 đối với Bốn niệm xứ. Thế nào Tỳ-kheo diệt trừ các tà ác, nên tu ba hành với Bốn niệm xứ? Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, tinh cần khơng biếng nhác, ghi nhớ khơng quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thọ, ý, pháp, cũng vậy. Đó là muốn diệt trừ ba hành đối với Bốn niệm xứ. “Có tám giải thốt<註 n="771"/>285. Những gì là tám? Có sắc, quán sắc, đó là giải thốt thứ nhất. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc là giải thốt thứ hai. Tịnh giải thốt<註 n="772"/>286 là giải thốt thứ ba. Vượt sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, trú khơng xứ là giải thốt thứ tư. Xả khơng xứ trú thức xứ là giải thốt thứ năm. Xả thức xứ, trú bất dụng xứ<註 n="773"/>287 là giải thốt thứ sáu. Xả bất dụng xứ, trú hữu tưởng vơ tưởng xứ là giải thốt thứ bảy. Diệt tận định, giải thốt thứ tám.” Bấy giờ, A-nan đứng sau Thế Tơn, cầm quạt quạt Phật, bèn trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay bạch Phật rằng: “Kỳ diệu thay, Thế Tơn. Pháp này thanh tịnh, vi diệu bậc nhất, nên gọi là gì? Nên phụng trì như thế nào?” Phật bảo A-nan: “Kinh này gọi là “Thanh tịnh”. Ngươi hãy phụng trì như thế.” Bấy giờ, A-nan sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140869">18. KINH TỰ HOAN HỶ<註 n="774"/>288 Tơi nghe như vầy: Một thời Phật trú tại thành Na-nan-đà<註 n="775"/>289, trong rừng Ba-ba-lî-am-bà<註 n="776"/>290, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ Trưởng lão Xá-lợi-phất đang ở nơi nhàn tónh, thầm tự suy nghó rằng: “Ta biết với tâm quyết định<註 n="777"/>291 rằng các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong quá khứ, vị lai và hiện tại, khơng ai có trí tuệ, thần túc, cơng đức, đạo lực sánh bằng Như Lai, Bậc Vơ Sở Trước, Đẳng Chánh Giác<註 n="778"/>292. “ Rồi Xá-lợi-phất rời khỏi tịnh thất, đi đến chỗ Phật; cúi đầu lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên, bạch Phật rằng: “Vừa rồi ở tịnh thất, con thầm tự nghó rằng: ‘Các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong quá khứ, vị lai và hiện tại, khơng ai có trí tuệ, thần túc, cơng đức, đạo lực sánh bằng Như Lai, Bậc Vơ Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.’” Phật bảo Xá-lợi-phất: “Lành thay, lành thay, ngươi có thể trước Phật mà nói lời như vậy. Với tin tưởng xác quyết<註 n="779"/>293, ngươi thật sự cất tiếng rống sư tử. Các Sa-mơn, Bà-la-mơn khơng ai bằng ngươi được. Thế nào, Xá-lợi-phất, ngươi có thể biết những điều được nhớ nghó trong tâm của chư Phật quá khứ chăng? Biết Đức Phật ấy có giới như vậy, pháp như vậy, trí tuệ như vậy, giải thốt như vậy, giải thốt đường<註 n="780"/>294 như vậy chăng?” Đáp rằng: “Khơng biết”. “Thế nào, Xá-lợi-phất, ngươi có thể biết những điều được nhớ nghó trong tâm của chư Phật đương lai chăng? Biết Đức Phật ấy có giới như vậy, pháp như vậy, trí tuệ như vậy, giải thốt như vậy, giải thốt đường như vậy chăng?” Đáp rằng: “Khơng biết”. “Thế nào, Xá-lợi-phất, nay, như Ta, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, những gì được nhớ nghó trong tâm, có giới như vậy, pháp như vậy, trí tuệ như vậy, giải thốt như vậy, giải thốt đường như vậy, ngươi có thể biết được chăng?” Đáp rằng: “Khơng biết”. Phật lại bảo Xá-lợi-phất: “Ngươi khơng thể biết những điều được nhớ nghó<註 n="781"/>295 trong tâm của Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại, vì sao ngươi lại suy nghó một cách xác quyết như thế? Nhân bởi sự kiện gì mà ngươi phát sinh ý nghó như vậy, với tin tưởng xác quyết, cất tiếng rống sư tử? Nhưng các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác nghe ngươi nói: ‘Ta biết với tâm quyết định rằng các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong quá khứ, vị lai và hiện tại, khơng ai có trí tuệ, thần túc, cơng đức, đạo lực sánh bằng Như Lai’, họ sẽ khơng tin lời ngươi.” Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: “Con tuy khơng thể biết những điều suy nghó trong tâm của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại; nhưng con có thể biết pháp tổng tướng<註 n="782"/>296 của Phật. Như Lai thuyết pháp cho con, càng lúc càng cao, càng lúc càng vi diệu<註 n="783"/>297; nói về pháp đen, pháp trắng; pháp duyên, khơng duyên; pháp chiếu, khơng chiếu<註 n="784"/>298. Những điều Như Lai dạy, càng cao, càng vi diệu. Con sau khi nghe, biết từng pháp một<註 n="785"/>299; đạt đến chỗ rốt ráo của pháp<註 n="786"/>300, con tin Như Lai là Đấng Chí Chân, Đẳng Chánh Giác; tin pháp của Như Lai được khéo phân biệt; tin chúng của Như Lai thành tựu sự diệt khổ. Trong các pháp thiện<註 n="787"/>301, đây là tối thượng. Thế Tơn có trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư<註 n="788"/>302. Các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh bằng Như Lai, huống hồ muốn vượt lên trên. “Pháp mà Thế Tơn đã dạy, lại có pháp cao hơn nữa; đó là các chế pháp<註 n="789"/>303. Các chế pháp đó là: Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Bốn thiền, Năm căn, Năm lực, Bảy giác ý, Tám hiền thánh đạo. Đó là các chế pháp vơ thượng, trí tuệ vơ dư<註 n="790"/>304, thần thơng vơ dư. Các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh bằng Như Lai, huống hồ muốn vượt lên trên. “Pháp mà Thế Tơn đã dạy, lại có pháp cao hơn nữa, đó là chế các nhập<註 n="791"/>305. Các nhập là mắt và sắc, tai và thanh, mũi và hương, lưỡi và vị, xúc và thân, ý và pháp. Cũng như Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác quá khứ đã chế nhập này, tức là mắt và sắc,… cho đến, ý và pháp. Giả sử Như Lai, Chí Chân. Đẳng Chánh Giác vị lai cũng chế nhập ấy, tức là, mắt và sắc,… cho đến, ý và pháp. Nay Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, cũng chế nhập ấy, tức là, mắt và sắc,… cho đến, ý và pháp. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháùp mà Thế Tơn đã dạy, lại có pháp trên nữa; đó là thức nhập thai<註 n="792"/>306. Nhập thai là, một, loạn nhập thai<註 n="793"/>307, loạn trú và loạn xuất; hai, khơng loạn nhập, loạn trú, loạn xuất; ba, khơng loạn nhập, khơng loạn trú nhưng loạn xuất; bốn, khơng loạn nhập, khơng loạn trú, khơng loạn xuất. Kia khơng loạn nhập, khơng loạn trú, khơng loạn xuất, là sự nhập thai bậc trên. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp Như Lai thuyết, lại có pháp trên nữa, đó là đạo<註 n="794"/>308. Nói là đạo, tức là, các Sa-mơn, Bà-la-mơn bằng đủ các phương tiện nhập định ý tam-muội<註 n="795"/>309; rồi tùy tam-muội tâm<註 n="796"/>310 mà tu niệm giác ý, y dục, y viễn ly, y diệt tận, y pháp xuất yếu; tinh tấn, hỷ, khinh an<註 n="797"/>311, định, xả giác ý, y dục, y viễn ly, y diệt tận, y pháp xuất yếu<註 n="798"/>312. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp Như Lai thuyết lại cịn có pháp trên nữa; đó là diệt<註 n="799"/>313. Diệt, tức là: Diệt bằng khổ hành nhưng chậm chứng đắc<註 n="800"/>314, cả hai<註 n="801"/>315 đều thấp kém. Diệt bằng khổ hành, chóng chứng đắc<註 n="802"/>316, duy chỉ khổ hành là thấp kém. Diệt bằng lạc, chậm chứng đắc, duy chỉ sự chậm là thấp kém. Diệt bằng lạc<註 n="803"/>317, chóng chứng đắc<註 n="804"/>318, nhưng khơng phổ rộng; vì khơng phổ rộng nên nói là thấp kém<註 n="805"/>319. Như nay Như Lai diệt bằng lạc, chóng chứng đắc, mà lại phổ rộng, cho đến trời và người đều thấy biến hóa thần diệu.” Xá-lợi-phất bạch Phật: “Những điều Thế Tơn dạy vi diệu bậc nhất, cho đến nữ nhân cũng có thể thọ trì, dứt sạch lậu, thành vơ lậu, tâm giải thốt, tuệ giải thốt, tự thân tác chứng ngay trong đời này: sanh tử đã tận, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, khơng cịn hậu hữu. Đó là sự diệt vơ thượng được Như Lai dạy. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp Như Lai dạy cịn có trên nữa; đó là ngơn thanh tịnh<註 n="806"/>320. Ngơn thanh tịnh, tức là, Thế Tơn đối với các Sa-mơn, Bà-la-mơn khơng nói lời hư dối vơ ích; nói khơng cốt để hơn, khơng vì phe đảng, lời nói nhu hịa, khơng sai thời tiết, lời nói khơng phát suơng. Đó gọi là ngơn thanh tịnh. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp Như Lai dạy cịn có trên nữa, đó là kiến định<註 n="807"/>321. Nói kiến định, là nói rằng, có Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ phương tiện nhập định ý tam-muội. Tùy tam-muội tâm, quán từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, trong ngồi lớp da, chỉ có những thứ bất tịnh như tóc, lơng, móng, gan, phổi, ruột, dạ dày, lá lách, thận tức là năm tạng, mồ hơi, mỡ, tủy, não, phân, nước tiểu, nước mũi, nước mắt, chỗ hơi thối bất tịnh, khơng một cái gì đáng tham. Đó là kiến định thứ nhất. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, loại bỏ các thứ bất tịnh bên trong và ngồi da, chỉ quán xương trắng và răng. Đó là kiến định thứ hai. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, loại bỏ xương trắng và các thứ bất tịnh trong ngồi da, chỉ quán tâm thức<註 n="808"/>322 trú ở chỗ nào, ở đời này hay đời sau? Đời này khơng gián đoạn, đời sau khơng gián đoạn; đời này khơng giải thốt, đời sau khơng giải thốt. Đó là kiến định thứ ba. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, loại bỏ các thứ bất tịnh trong ngồi da và xương trắng, lại trùng quán thức. Thức ở đời sau, khơng ở đời này; đời nay gián đoạn, đời sau khơng đoạn; đời nay giải thốt, đời sau khơng giải thốt. Đó là kiến định thứ tư.<註 n="809"/>323 “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, loại bỏ các thứ bất tịnh trong ngồi da và xương trắng, lại trùng quán thức; khơng ở đời này, khơng ở đời sau, cả hai đều gián đoạn, cả hai đều giải thốt. Đó là kiến định thứ năm. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp Như Lai thuyết lại cịn có trên nữa, đó là thường pháp<註 n="810"/>324. Thường pháp là, các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội<註 n="811"/>325, tùy tam-muội tâm<註 n="812"/>326, nhớ lại hai mươi thành kiếp và hoại kiếp<註 n="813"/>327 của thế gian, vị ấy nói: ‘Thế gian thường tồn, đây là thật, ngồi ra là dối. Vì sao? Vì do tơi nhớ lại, cho nên biết có thành kiếp và hoại kiếp ấy. Quá khứ cịn lại thì tơi khơng biết. Thành kiếp, hoại kiếp vị lai, tơi cũng khơng biết.’ Người ấy sáng và chiều do vơ trí mà nói rằng: ‘Thế gian thường tồn, duy chỉ đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là thường pháp thứ nhất. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, nhớ lại bốn mươi kiếp thành và kiếp hoại, vị ấy nói: ‘Thế gian này thường, duy chỉ đây là thật, ngồi ra là dối. Vì sao? Vì tơi nhớ lại nên biết có thành kiếp, hoại kiếp. Tơi cịn biết hơn thế nữa, biết thành kiếp, hoại kiếp. Nhưng tơi khơng biết sự thành và hoại của vị lai.’ Điều đó nói, biết khởi thủy mà khơng biết chung cuộc. Người ấy sáng mai, chiều tối, do vơ trí mà nói rằng: ‘Thế gian thường tồn, duy chỉ đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là thường pháp thứ hai. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, nhớ lại tám mươi thành kiếp, hoại kiếp, vị ấy nói rằng: ‘Thế gian này thường, ngồi ra là dối. Vì sao? Tơi nhớ lại mà biết có thành kiếp, hoại kiếp; lại cịn biết thành kiếp, hoại kiếp quá khứ hơn thế nữa. Thành kiếp, hoại kiếp vị lai tơi cũng biết cả.’ Người ấy sớm chiều do vơ trí mà nói lời này: ‘Thế gian thường cịn, chỉ đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đây là pháp thường tồn thứ ba. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp mà Như Lai thuyết cịn có trên nữa, đó là quán sát<註 n="814"/>328. Quán sát là, có Sa-mơn, Bà-la-mơn, do tưởng mà quán sát<註 n="815"/>329, ‘tâm kia thú hướng như thế, tâm này thú hướng như thế.’ Tâm ấy khi phát tưởng như vậy, hoặc hư hoặc thật<註 n="816"/>330. Đó là quán sát thứ nhất. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, khơng do tưởng mà quán sát, nhưng hoặc nghe lời của chư Thiên và phi nhân, mà nói với người kia rằng: ‘Tâm ngươi như vậy, tâm ngươi như vậy.’ Điều này cũng hoặc thật, hoặc hư. Đó là quán sát thứ hai. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, khơng do tưởng mà quán sát, cũng khơng nghe lời của chư Thiên hay phi nhân, mà tự quán sát thân mình, lại nghe lời người khác, mà nói với người kia<註 n="817"/>331 rằng: ‘Tâm của ngươi như vậy, tâm của ngươi như vậy.’ Điều này cũng có thật, cũng có hư. Đó là quán sát thứ ba. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, khơng do tưởng quán sát, cũng khơng nghe lời chư Thiên và phi nhân nói, lại khơng tự quán sát, hay quán sát người khác; nhưng, trừ giác quán rồi, đắc định ý tam-muội, quán sát tâm người khác, mà nói với người ấy rằng<註 n="818"/>332: ‘Tâm của ngươi như vậy, tâm của ngươi như vậy.’ Quán sát như thế là chân thật. Đó là quán sát thứ tư. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp Như Lai thuyết lại cịn có trên nữa, đó là giáo giới<註 n="819"/>333. Giáo giới là, hoặc có trường hợp có người khơng trái với giáo giới, dứt sạch hữu lậu thành vơ lậu, tâm giải thốt, trí tuệ giải thốt, ngay trong đời này tự thân tác chứng<註 n="820"/>334: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn hậu hữu. Đó là giáo giới thứ nhất. “Có người khơng trái với giáo giới, dứt sạch năm hạ phần kết, sau khi diệt độ chốn này sẽ khơng trở lại cõi này nữa. Đó là giáo giới thứ hai. “Hoặc có người khơng trái giáo giới, ba kết đã hết, dâm nộ si mỏng, đắc Tư-đà-hàm, sẽ trở lại đời này mà diệt độ. Đó là giáo giới thứ ba. “Hoặc có người khơng trái giáo giới, ba kết đã hết, đắc Tu-đà-hồn, tối đa bảy lần trở lại, ắt sẽ thành đạo quả, khơng đọa ác thú. Đó là giáo giới thứ tư. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp mà Như Lai thuyết lại cịn có trên nữa, là thuyết pháp cho người khác, khiến cho giới thanh tịnh<註 n="821"/>335. Giới thanh tịnh là, có Sa-mơn, Bà-la-mơn, có lời nói chí thành, khơng hề hai lưỡi, thường tự kính cẩn, dẹp bỏ ngủ nghỉ, khơng mang lịng tà siểm, miệng khơng nói dối, khơng dự đốn cát hung cho người, khơng tự mình xưng thuyết, đem sở đắc của người này tỏ cho người khác để cầu thêm lợi từ người khác<註 n="822"/>336, tọa thiền tu trí, biện tài vơ ngại, chuyên niệm khơng loạn, tinh cần khơng biếng nhác. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp mà Như Lai thuyết lại cịn có trên nữa, đó là giải thốt trí<註 n="823"/>337. Nói là giải thốt trí, đó là, Thế Tơn do nhân duyên của người khác mà nội tâm tư duy rằng: Người này là Tu-đà-hồn; người này là Tư-đà-hồn; người này là A-na-hàm, người này là A-la-hán. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp mà Như Lai thuyết lại cịn có trên nữa, đó là tự thức túc mạng trí chứng<註 n="824"/>338. Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ các phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, tự mình nhớ lại vơ số việc đời từ trước, một đời, hai đời,… cho đến trăm ngàn thành kiếp, hoại kiếp, vơ số như vậy, ta sanh ở chỗ kia, có tên như vậy, chủng tộc như vậy, họ như vậy, thọ mạng như vậy, ẩm thực như vậy, khổ lạc như vậy; từ chỗ này sanh nơi kia; từ nơi kia sanh đến chỗ này, với nhiều tướng dạng khác nhau, tự nhớ vơ số kiếp sự đời xưa, ngày đêm thường nghó nhớ những nơi đã trải qua. Đây là sắc. Đây là vơ sắc. Đây là tưởng. Đây là vơ tưởng. Đây là phi vơ tưởng, thảy đều nhớ biết hết. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp Như Lai thuyết cịn có pháp trên nữa, đó là thiên nhãn trí<註 n="825"/>339. Thiên nhãn trí là, các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ các phương tiện, nhập định ý tam-muội, từ tam-muội tâm, quán chúng sanh, hoặc sống, hoặc chết, có sắc tốt, sắc xấu, định mệnh lành, định mệnh dữ<註 n="826"/>340, hoặc đẹp, hoặc xấu, tùy theo chỗ làm, thảy đều thấy hết, biết hết. Hoặc có chúng sanh thành tựu thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, phỉ báng Hiền thánh, tin theo tà kiến điên đảo, khi thân hoại mạng chung đọa ba đường dữ. Hoặc có chúng sanh có thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, khơng báng bổ Hiền thánh, chánh kiến, tín hành, khi thân hoại mạng chung sanh lên trời người. Bằøng thiên nhãn thanh tịnh, quán chúng sanh, thấy biết như thật. Pháp ấy vơ thượng, khơng gì có thể vượt qua; trí tuệ vơ dư, thần thơng vơ dư; các Sa-mơn, Bà-la-mơn trong đời khơng ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên. “Pháp mà Như Lai thuyết lại cịn có trên nữa, đó là thần túc chứng<註 n="827"/>341. Thần túc chứng là, các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng đủ các phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, thực hiện vơ số thần lực; có thể biến một thân thành vơ số thân; từ vơ số thân hợp làm một thân; vách đá khơng trở ngại; ngồi kiết già giữa hư khơng; cũng như chim bay; vào ra lịng đất như ở trong nước; đi trên nước như đi trên đất; thân mình bốc khói, bốc lửa, như đống lửa cháy rực; lấy tay sờ mặt trời, mặt trăng; đứng cao đến trời Phạm thiên. Nếu Sa-mơn, Bà-la-mơn gọi đó là thần túc, thì nên bảo họ rằng: có thần túc như vậy, khơng phải khơng có. Nhưng loại thần túc ấy thấp kém, hèn hạ, là việc làm của phàm phu, khơng phải điều mà Hiền thánh tu tập. Nếu Tỳ-kheo đối với sắc thế gian yêu thích mà khơng nhiễm<註 n="828"/>342, sau khi xả ly sắc ấy, làm việc đáng làm, ấy mới gọi là thần túc của Hiền thánh. Đối với sắc khơng đáng ưa cũng khơng ghét, sau khi xả ly sắc ấy, làm việc nên làm, ấy mới gọi là thần túc của Hiền thánh. Đối với sắc mà thế gian yêu, sắc mà thế gian khơng yêu, lìa bỏ cả hai, tu bình đẳng xả<註 n="829"/>343, chuyên niệm khơng quên<註 n="830"/>344, ấy mới gọi là thần túc của Hiền thánh<註 n="831"/>345. “Cũng như Đức Thế Tơn tinh tấn dũng mãnh, có đại trí tuệ, có tri có giác, đắc đệ nhất giác, cho nên gọi là Đẳng giác. Thế Tơn nay cũng khơng hoan lạc nơi dục<註 n="832"/>346; khơng hoan lạc nơi điều tu tập của phàm phu thấp kém<註 n="833"/>347, cũng khơng nhọc nhằn siêng năng để chịu các thứ khổ não. Thế Tơn nếu muốn loại trừ pháp xấu ác, có giác có quán, có hỷ lạc do định sanh, chứng nhập Sơ thiền, thì như thế Ngài liền có thể loại trừ pháp xấu ác, có giác có quán, có hỷ lạc do định sanh, chứng nhập Sơ thiền. Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, cũng vậy. Ngài tinh tấn, dũng mãnh, có đại trí tuệ, có tri, có giác, đắc đệ nhất giác, nên gọi là Đẳng giác.” Phật bảo Xá-lợi-phất: “Nếu có dị học ngoại đạo đến hỏi ngươi rằng<註 n="834"/>348: ‘Trong các Sa-mơn, Bà-la-mơn quá khứ có ai sánh bằng Sa-mơn Cù-đàm chăng?’ Ngươi sẽ trả lời như thế nào? Người ấy lại hỏi: ‘Trong các Sa-mơn, Bà-la-mơn vị lai có ai sánh bằng Sa-mơn Cù-đàm chăng?’ Ngươi sẽ trả lời như thế nào? Kia lại hỏi: ‘Trong các Sa-mơn, Bà-la-mơn hiện tại có ai sánh bằng Sa-mơn Cù-đàm chăng?’ Ngươi sẽ trả lời như thế nào?’” Xá-lợi-phất liền trả lời: “Giả sử được hỏi rằng: ‘Trong các Sa-mơn, Bà-la-mơn quá khứ có ai sánh bằng Sa-mơn Cù-đàm chăng?’ Con sẽ trả lời rằng: ‘Có.’ Giả sử được hỏi: ‘Trong các Sa-mơn, Bà-la-mơn vị lai có ai sánh bằng Sa-mơn Cù-đàm chăng?’ Con sẽ trả lời rằng: ‘Có.’ Giả sử được hỏi: ‘Trong các Sa-mơn, Bà-la-mơn hiện tại có ai sánh bằng Sa-mơn Cù-đàm chăng?’ Con sẽ trả lời rằng: ‘Khơng.’” Phật bảo Xá-lợi-phất : “Dị học ngoại đạo kia lại hỏi: ‘Vì sao nói là có? Và vì sao nói là khơng?’ Ngươi sẽ trả lời như thế nào?” Xá-lợi-phất đáp: “Con sẽ trả lời người ấy rằng: ‘Các Bậc Tam-da-tam-phật quá khứ cùng sánh bằng Như Lai. Các Tam-da-tam-phật vị lai cùng sánh bằng Như Lai. Nhưng con tự thân nghe từ Phật, rằng khơng có trường hợp có thể nói có vị Tam-da-tam-phật hiện tại nào khác cùng sánh với Như Lai.’ Bạch Thế Tơn, con theo chỗ được nghe, y pháp, thuận pháp, mà trả lời như vậy, có phải là trả lời đúng chăng?” Phật nói: “Trả lời như vậy là y pháp, thuận pháp, khơng trái. Sở dó như vậy là vì, có các Đức Tam-da-tam-phật quá khứ sánh bằng Ta. Có những vị Tam-da-tam-phật vị lai sánh bằng Ta. Nhưng khơng có trường hợp để nói rằng có hai Đức Phật cùng xuất hiện thế gian cùng một lần.” Lúc bấy giờ Tơn giả Uất-đà-di đứng sau Phật, đang cầm quạt quạt Phật. Phật nói với Uất-đà-di: “Uất-đà-di, ngươi hãy quán sát sự ít dục, biết đủ của Thế Tơn. Nay Ta có thần lực lớn, có uy đức lớn, mà ít dục, biết đủ, khơng hoan lạc trong các dục<註 n="835"/>349. Uất-đà-di, nếu các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác ở trong pháp này mà có thể tinh cần khó nhọc, chứng đắc một pháp, vị ấy sẽ dựng phướn mà bố cáo bốn phương xa rằng: ‘Nay Như Lai <註 n="836"/>350 này ít dục, biết đủ. Nay hãy quán sát sự ít dục, biết đủ của Như Lai. Như Lai có thần lực lớn, có uy đức lớn, khơng cần đến các dục.’” Rồi thì, Tơn giả Uất-đà-di sửa y phục ngay ngắn, trịch áo bày vai hữu, qùy gối phải xuống đất, chắp tay bạch Phật rằng: “Kỳ diệu thay, bạch Thế Tơn, ít dục, biết đủ như Thế Tơn. Thế Tơn có thần lực lớn, có uy đức lớn, khơng cần đến các dục. Nếu có Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, ở trong pháp này mà tinh cần khó nhọc chứng đắc một pháp, vị ấy sẽ dựng phướn tuyên cáo bốn phương xa rằng: ‘Thế Tơn<註 n="837"/>351 hiện nay là Bậc ít dục, biết đủ.’ Xá-lợi-phất, ngài hãy thuyết pháp này cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Những người ấy nếu có điều nghi ngờ đối với Phật, Pháp, Tăng, thì sau khi nghe pháp này sẽ khơng cịn ở trong lưới nghi nữa.” Bấy giờ Thế Tơn nói với Xá-lợi-phất : “Ngươi hãy nhiều lần giảng thuyết pháp này cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Vì sao? Vì những người ấy nếu có nghi ngờ đối với Phật, Pháp, Tăng, đối với đạo, thì sau khi nghe ngươi giảng thuyết sẽ được thơng tỏ.” Xá-lợi-phất đáp: “Kính vâng, bạch Thế Tơn.” Rồi thì, Xá-lợi-phất nhiều lần giảng thuyết pháp này cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, vì để khiến họ được tự mình thanh tịnh, do đó được gọi là “Thanh Tịnh kinh”. Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140870">19. KINH ĐẠI HỘI<註 n="838"/>352 Tơi nghe như vầy: Một thời Phật tại nước Thích-kiều-sấu<註 n="839"/>353, trong rừng Ca-duy<註 n="840"/>354, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo năm trăm người, thảy đều là A-la-hán. Lại có mười phương các Trời thần diệu cũng đến tập hội, kính lễ Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Lúc bấy giờ, bốn vị Tịnh cư thiên<註 n="841"/>355 đang ở trên cõi trời ấy, mỗi người, tự nghó rằng: “Nay Thế Tơn đang ở tại Thích-kiều-sấu trong rừng Ca-duy cùng chúng Đại Tỳ-kheo năm trăm người, thảy đều đã chứng đắc A-la-hán. Lại có mười phương các trời thần diệu cũng đến tập hội, kính lễ Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Nay chúng ta cũng nên đi đến chỗ Thế Tơn, mỗi người sẽ xưng tán Như Lai bằng bài kệ của mình.” Rồi thì, bốn vị Tịnh cư thiên, trong khoảnh khắc như lực só co duỗi cánh tay, biến mất khỏi các cõi trời kia, đến Thích-kiều-sấu trong rừng Ca-duy. Bấy giờ, bốn vị Tịnh cư thiên, sau khi đến nơi, cúi đầu lễ chân Phật, rồi đứng sang một bên. Lúc ấy một vị Tịnh cư thiên ở trước Phật đọc bài kệ tán thán rằng: Ngày nay đại chúng hội; Chư Thiên cùng đến dự. Tất cả đến vì pháp; Muốn lễ chúng Vơ thượng. Nói xong bài kệ này rồi đứng sang một bên. Một vị Tịnh cư thiên khác lại đọc bài kệ rằng: Tỳ-kheo thấy ơ nhiễm, Tâm ngay, tự phịng hộ. Như biển nạp các sơng; Bậc trí hộ các căn. Nói xong bài kệ ấy rồi đứng sang một bên. Một vị Tịnh cư thiên khác lại đọc bài kệ: Bứt gai, lấp hố ái,<註 n="842"/>356 San bằng hào vơ minh; Dạo bước trường thanh tịnh Như voi khéo huấn luyện. Nói bài kệ này xong, đứng sang một bên. Một Tịnh cư thiên khác đọc bài kệ: Những ai quy y Phật, Trọn khơng đọa đường dữ; Khi xả bỏ thân người, Thọ thân trời thanh tịnh. Sau khi bốn Tịnh cư thiên đọc các bài kệ xong, Phật liền ấn khả. Họ bèn lễ chân Phật, đi quanh Phật ba vịng, thoạt biến mất. Họ đi chưa bao lâu, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nay chư Thiên đại tập hội. Mười phương các thần diệu thiên đều đến đây lễ viếng Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Này các Tỳ-kheo, quá khứ các Như Lai, Bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác cũng có chư Thiên đại tập hội như Ta ngày nay. Đương lai các Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, cũng có chư Thiên đại tập hội, như Ta ngày nay. “Này các Tỳ-kheo, nay chư Thiên đại tập hội. Mười phương các thần diệu thiên khơng ai khơng đến đây lễ viếng Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Ta sẽ nói lên danh hiệu của họ và cũng nói kệ về họ. Tỳ-kheo, nên biết: Chư Thiên nương hang núi, Ẩn tàng, trơng đáng sợ <註 n="843"/>357 Mình khốc áo tồn trắng, Tinh sạch khơng vết dơ. Trời người nghe thế rồi, Đều quy y Phạm thiên. Ta nay nói tên họ, Thứ tự khơng nhầm lẫn. Các Thiên chúng nay đến; Tỳ-kheo, ngươi nên biết, Trí phàm phu thế gian Trong trăm, khơng thấy một. Vì sao có thể thấy, Bảy vạn chúng quỷ thần? Nếu thấy mười vạn quỷ, Một bên cịn khơng thấy, Hà huống các quỷ thần Đầy khắp cả thiên hạ. Địa thần dẫn theo bảy ngàn Duyệt-xoa<註 n="844"/>358 đủ các loại, thảy đều có thần túc<註 n="845"/>359, hình mạo, sắc tượng, danh xưng, thảy đều với tâm hoan hỷ đến chỗ chúng Tỳ-kheo trong rừng. Lúc ấy, có thần Tuyết sơn dẫn theo sáu ngàn quỷ Duyệt-xoa<註 n="846"/>360 đủ các loại, thảy đều có thần túc, hình mạo, sắc tượng, danh xưng, thảy đều với tâm hoan hỷ đến chỗ chúng Tỳ-kheo trong rừng. Có một thần Xá-la dẫn theo ba ngàn quỷ Duyệt-xoa<註 n="847"/>361 đủ các loại, thảy đều có thần túc, hình mạo, sắc tượng, danh xưng, thảy đều với tâm hoan hỷ đến chỗ chúng Tỳ-kheo trong rừng. Một vạn sáu ngàn quỷ thần Duyệt-xoa đủ các loại này thảy đều có thần túc, hình mạo, sắc tượng, danh xưng, thảy đều với tâm hoan hỷ đến chỗ chúng Tỳ-kheo trong rừng. Lại có thần Tỳ-ba-mật<註 n="848"/>362, trú ở Mã quốc<註 n="849"/>363, dẫn năm trăm quỷ, đều có thần túc, oai đức. Lại có thần Kim-tỳ-la<註 n="850"/>364, trú ở núi Tỳ-phú-la<註 n="851"/>365, thành Vương xá, dẫn vơ số quỷ thần, cung kính vây quanh. Lại có, phương Đơng, Đề-đầu-lại-tra Thiên vương<註 n="852"/>366, thống lãnh các thần Càn-đạp-hịa<註 n="853"/>367, có đại oai đức, có chín mươi mốt người con, tất cả đều có tên là Nhân-đà-la<註 n="854"/>368, có đại thần lực. Phương Nam, Tỳ-lâu-lặc<註 n="855"/>369 Thiên vương thống lãnh các Long vương, có đại oai đức, có chín mươi mốt người con, thảy đều có tên là Nhân-đà-la, có đại thần lực. Phương Tây, Tỳ-lâu-bác-xoa<註 n="856"/>370 Thiên vương, thống lãnh các quỷ Cưu-bàn-trà, có đại oai đức, có chín mươi mốt người con, thảy đều tên là Nhân-đà-la, có đại thần lực. Phương Bắc, Tỳ-sa-mơn<註 n="857"/>371 Thiên vương thống lãnh các quỷ Duyệt-xoa, có đại oai đức, có chín mươi mốt người con, thảy đều tên là Nhân-đà-la, có đại thần lực. Bốn vị Thiên vương hộ trì thế gian này có đại oai đức, mình phát ánh sáng, đi đến rừng Ca-duy. Bấy giờ, Thế Tơn muốn hàng phục tâm huyễn ngụy hư dối của họ<註 n="858"/>372 nên kết chú rằng: “Ma câu lâu la ma câu lâu la<註 n="859"/>373, tỳ lâu la tỳ lâu la<註 n="860"/>374, chiên đà na, gia ma thế trí, ca, ni diên đậu, ni diên đậu, ba na lỗ<註 n="861"/>375, ơ hơ nơ<註 n="862"/>376 nơ chủ, đề bà tơ mộ, Ma-đầu la, chi đa la tư na, càn đạp ba, na la chủ, xà ni sa, thi ha, vơ liên đà la, tỷ ba mật đa la, thọ trần đà la, na lư ni<註 n="863"/>377 kha, thăng<註 n="864"/>378 phù lâu, thâu chi bà tích<註 n="865"/>379 bà.<註 n="866"/>380 Như vậy, các vua Càn-đạp-hịa và La-sát đềàu có thần túc, hình mạo, sắc tượng, với tâm hoan hỷ đi đến chúng Tỳ-kheo trong khu rừng. Bấy giờ, Thế Tơn lại kết chú: “A hê, na đà sắt, na đầu, tỳ-xá-ly, sa<註 n="867"/>381 ha, đái xoa xà, bà đề, đề đầu lại trá, đế bà sa ha, nhã lî<註 n="868"/>382 da, gia<註 n="869"/>383 tỳ la, nhiếp ba<註 n="870"/>384 na già, a đà già ma, thiên đề già, y la bà đà, ma ha na già, tỳ ma na già đa, đà<註 n="871"/>385 già đà dư, na già la xà, bà ha sa ha, xoa kỳ đề, bà đề la đế, bà đề la đế, tỳ mai đại tích thiễm, tỳ ha tứ, bà nanh, a bà bà tứ, chất đa la, tốc hịa ni na, cầu tứ đa, a bà do, na già la trừ, a tứ, tu bạt la, tát đế nơ, a già, phật đà sái, thất la-nanh, bà da, ưu la đầu bà diên lâu, tố bàn nậu, phật đầu, xá la nậu, già loại lâu.<註 n="872"/>386 Rồi Thế Tơn lại kết chú cho A-tu-la: “Kỳ đà, bạt xà, ha đế, tam vật đệ, a tu la, a thất đà, bà diên địa, bà tam bà<註 n="873"/>387 tứ, y đệ a đà, đề bà ma, thiên địa, già lê diệu, ma ha bí ma, a tu la, đà na bí la đà, bệ ma chất đâu lâu, tu chất đế lệ, bà la ha lê, vơ di liên na bà, xá lê a tế, bạt lê, phất đa la na, tát bệ, tát lâu da na na mê, tát na mê đế, bà lê, tế như, la da bạt đâu lâu, y ha am bà la mê, tam ma do y, đà na, bạt đà nhã, tỷ khâu na, tam di thế, nê bạt.<註 n="874"/>388 Rồi Thế Tơn lại kết chú cho chư Thiên: “A phù, đề bà, bế lê, hê bệ, đề dự, bà do, đa đà nậu bạt lâu nậu bạt lâu ni, thế đế tơ di, da xá a đầu, di đa la bà, già la na di bà a lã đề bà, ma thiên thê dữ, đà xà đề xá, già dư, tát bệ, na-nan đa la bà bạt na, y địa bàn đại, thù địa ban na bàn đại, da xá ti nậu, mộ đà bà na<註 n="875"/>389, a hê kiền đại, tỳ khâu na, bà<註 n="876"/>390 vị<註 n="877"/>391 đệ, bà ni. “Bệ noa, đề bộ, xá già lî, a hê địa dũng mê, na sát<註 n="878"/>392 đế lệ phú la tức ky đại a đà man đà la bà la, bệ chiên đại tơ, bà ni sao đề bà, a đa, chiên đà, phú la kiều chi đại, tơ lê da tơ bà ni sao đề ba, a đa, tơ đề da, phú la kiều đại, ma già đà, bà tơ nhân, đồ lơ a đầu, thích câu, phú la đại lơ. “Thúc già, già la ma, la na a đại, bệ ma ni bà, ơ bà đề kỳ ha, ba la vơ ha bệ bà la vi a ni, tát đà ma đa a ha lê, di sa a ni bát thù nậu, thán nơ a, lơ dư đề xá, a hê bạt sa. “Xa ma, ma ha xa ma, ma nậu sa ha, ma nậu sơ đa ma, khất đà ba đầu sái a, đa ma nậu đầu sái a hê a la dạ đề bà a đà lê đà da bà tư, ba la ma ha ba la a đa đề bà ma thiên thê da. “Sai ma đâu suất đà, dạ ma, già sa ni a, ni, lam bệ, lam bà chiết đế, thọ đề na ma y sái, niệm ma la đề, a đà hê ba la niệm di đại. “A hê đề bà đề bà xà lan đề, a kỳ, thi hu ba, ma a lật trá lơ da, ơ ma, phù phù ni bà tư viễn giá bà đà mo, a châu đà, a ni thâu đậu đàn<註 n="879"/>393 da nậu, a đầu a lã, tỳ sa-mơn y sái.<註 n="880"/>394 Đấy là sáu mươi chủng loại trời. Rồi Thế Tơn lại kết chú cho sáu mươi tám vị Bà-la-mơn đắc ngũ thơng<註 n="881"/>395: “La da lê xá da hà<註 n="882"/>396 hê kiền đại bà ni già tỳ la bạt đâu bệ địa xà nậu a đầu sai mộ tát đề ương kỳ bệ địa mâu ni a đầu bế lê da sai già thi lê sa bà ha nhã nậu a đầu phạm ma đề bà đề na bà bệ địa mâu ni a đầu câu tát lê y ni lơ ma xà lã ương kỳ lã dã bàn xà<註 n="883"/>397 a lâu ơ viên đầu, ma ha la dã a câu đề<註 n="884"/>398 lâu dặc<註 n="885"/>399, nậu a đầu lục bế câu tát lê a lâu già lăng ỷ già di la đàn hê tội<註 n="886"/>400 phủ phù dã phúc đơ lơ lê sái tiên đà bộ a đầu<註 n="887"/>401 đề na già phủ bà, a di già da la dã đa đà<註 n="888"/>402 a già độ bà la man đà nậu ca mục la dã a đầu nhân đà la lâu mê<註 n="889"/>403 ca phù đà lơ mộ ma già hê a sắc thương câu ty dư<註 n="890"/>404 a đầu hê lan nhã già phủ bệ lê vị dư lê đa tha a già độ a hê bà hảo la tử<註 n="891"/>405 di đơ lơ đa đà a già độ bà tư phật ly thủ đà la la dư đa đà a già độ y lê da sai ma ha la dư tiên a bộ đa đà a già độ ban xà bà dư bà lê địa kiều a<註 n="892"/>406 la dư đa đà a già độ, uất a lan ma ha dư tiện bị bà lê ma lê thâu bà hê đại na ma a bàn địa khổ ma lê la<註 n="893"/>407 dư a cụ tư lî đà na bà địa a đầu kiều bệ la dư<註 n="894"/>408 thi y nế<註 n="895"/>409 di nế ma ha la dư phục<註 n="896"/>410 bà lâu đa đà a già độ bạt đà bà lî ma ha la dư câu tát lê ma đề thâu thi hán đề chiêm bà lê<註 n="897"/>411 la dư tu đà la<註 n="898"/>412 lâu đa tha a già độ a ha<註 n="899"/>413 nhân đầu lâu a đầu ma la dư dư tơ lî dữ tha bệ địa đề bộ a ha bệ lî tứ a đầu hằng a<註 n="900"/>414 da lâu bà la mục giá da mộ a di nậu a đầu nhất ma da xá phê na bà sai ma la dư hà lê kiền độ dư phê độ bát chi dư thị số ba na lộ ma tơ la dư da tứ đa do hê lan nhã tơ bàn na bí sầu độ trí dạ số la xá ba la bệ đà uất đà bà a bà sái bà ha bà bà mưu sa ha sa<註 n="901"/>415 tham phú xa đại xa pháp<註 n="902"/>416 xà sa lệ la đà na ma ban chi sấu đa la càn đạp bà sa ha bà tát đa đề tơ bệ la dư a hê kiền sấu<註 n="903"/>417 tỷ khâu tam di địa bà ni địa bà ni.<註 n="904"/>418 Bấy giờ, có một ngàn Bà-la-mơn đắc ngũ thơng cũng được Như Lai kết chú cho. Lúc ấy, trong thế giới này, vị Phạm thiên vương đứng đầu<註 n="905"/>419 cùng với các Phạm thiên<註 n="906"/>420 khác, thảy đều có thần thơng và có một Phạm đồng tử tên gọi Đề-xá<註 n="907"/>421, có đại thần lực. Lại có Phạm thiên vương khác trong mười phương đến dự cùng với quyến thuộc vây quanh. Lại vượt qua một ngàn thế giới, có Đại phạm vương<註 n="908"/>422, thấy các đại chúng ở tại chỗ Thế Tơn, bèn cũng đến dự với quyến thuộc vây quanh. Bấy giờ Ma vương thấy các đại chúng ở tại chỗ Thế Tơn bèn sinh tâm độc hại, suy nghó rằng: Ta hãy dẫn các quỷ binh đi đến phá hoại chúng kia, bao vây chúng lại, khơng để sót một ai. Rồi thì, Ma vương triệu tập bốn binh chủng, tay vỗ xe, tiếng rền như sấm dậy. Những ai trơng thấy khơng khỏi kinh sợ. Ma vương phóng ra gió to mưa lớn, sấm chớp vang rền, hướng đến rừng Ca-duy, bao vây đại chúng. Phật nói với các Tỳ-kheo ưa thích chúng hội này rằng: “Các ngươi nên biết, hơm nay, Ma chúng mang ác tâm đến đây.” Nhân đó tụng bài kệ rằng: Các ngươi hãy kính thuận, Đứng vững trong Phật pháp; Hãy diệt Ma chúng này, Như voi giày đống hoa. Chuyên niệm, khơng buơng lung, Đầy đủ nơi tịnh giới; Tâm định, tự tư duy, Khéo hộ trì chí ý. Nếu ở trong Chánh pháp Mà hay khơng buơng lung, Sẽ vượt cõi già, chết, Diệt tận các gốc khổ, Các đệ tử nghe rồi, Hãy càng tinh tấn hơn; Vượt khỏi mọi thứ dục, Sợi lơng khơng lay động. Chúng này là tối thắng, Có tiếng tăm, đại trí; Đệ tử đều dũng mãnh, Được đại chúng kính trọng. Bấy giờ, chư Thiên thần, Quỷ, Tiên nhân ngũ thơng, thảy đều hội về trong vườn Ca-duy, nhìn thấy việc làm của Ma, quái lạ chưa từng có. Phật nói pháp này, lúc ấy tám vạn bốn ngàn chư Thiên xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Chư Thiên, Rồng, Quỷ, Thần, A-tu-la, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân, sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <卷 id="485140877">PHẦN III 20. KINH A-MA-TRÚ 21. KINH PHẠM ĐỘNG 22. KINH CHỦNG ĐỨC 23. KINH CỨU-LA-ĐÀN-ĐẦU 24. KINH KIÊN CỐ 25. KINH LÕA HÌNH PHẠM CHÍ 26. KINH TAM MINH 27. KINH SA-MƠN QUẢ KINH BỐ-TRA-BÀ-LÂU KINH LỘ-GIÀØ. <詞 id="485140878">20. KINH A-MA-TRÚ<註 n="909"/>1 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật du hành nước Câu-tát-la<註 n="910"/>2, cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người<註 n="911"/>3, rồi đến Y-xa-năng-già-la<註 n="912"/>4, thơn của một người Bà-la-mơn ở Câu-tát-la. Ngài nghỉ đêm tại rừng Y-xa<註 n="913"/>5. Lúc ấy, có một người Bà-la-mơn tên Phất-già-la-sa-la<註 n="914"/>6, đang dừng chân ở thơn Úc-già-la<註 n="915"/>7. Thơn ấy sung túc, nhân dân đơng đúc, là một thơn được vua Ba-tư-nặïc<註 n="916"/>8 phong cho Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la làm phạm phần<註 n="917"/>9. Người Bà-la-mơn này, từ bảy đời nay cha mẹ đều chân chánh, khơng bị người khác khinh thường<註 n="918"/>10; đọc tụng thơng suốt ba bộ cựu điển<註 n="919"/>11, có thể phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem tướng đại nhân, nghi lễ tế tự; có năm trăm đệ tử, dạy dỗ khơng bỏ phế. Ơng có một đệ tử Ma-nạp<註 n="920"/>12 tên là A-ma-trú<註 n="921"/>13, từ bảy đời nay cha mẹ đều chân chánh, khơng bị người khác khinh thường, đọc tụng thơng suốt ba bộ cựu điển, có thể phân tích các loại kinh thư và cũng giỏi phép xem tướng đại nhân, nghi lễ tế tự và cũng có năm trăm đệ tử Ma-nạp, dạy dỗ khơng bỏ phế, khơng khác với thầy mình. Lúc ấy, Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la nghe đồn Sa-mơn Cù-đàm Thích tử<註 n="922"/>14, xuất gia, thành đạo, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người, đến Y-xa-năng-già-la, thơn của Bà-la-mơn, đang nghỉ trong rừng Y-xa; có tiếng tăm lớn lưu truyền trong thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma, hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn, đã tự mình chứng nghiệm<註 n="923"/>15, rồi thuyết pháp cho người khác, khéo léo khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối, có đủ nghóa và vị<註 n="924"/>16, phạm hạnh thanh tịnh. Với Bậc Chân Nhân như vậy<註 n="925"/>17, ta nên đến thăm viếng. Ta nay nên đến xem Sa-mơn Cù-đàm để xác định có ba mươi hai tướng, tiếng tăm đồn khắp, có đúng sự thật chăng? Nên bằng duyên cớ nào để có thể thấy tướng của Phật? Rồi lại nghó: Nay đệ tử ta A-ma-trú, từ bảy đời trở lại cha mẹ đều chân chánh, khơng bị người khác khinh thường, đọc tụng thơng suốt ba bộ cựu điển, có thể phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem tướng đại nhân, nghi lễ tế tự; duy chỉ người này có thể sai đi xem Phật, để biết có các tướng ấy khơng. Rồi Bà-la-mơn liền sai đệ tử A-ma-trú, bảo rằng: “Ngươi hãy đến xem Sa-mơn Cù-đàm kia có thật có ba mươi hai tướng hay khơng, hay là dối?” A-ma-trú liền thưa thầy ngay rằng: “Con làm thế nào để nghiệm xét tướng của Cù-đàm, để biết thật hay dối?” Người thầy trả lời: “Nay ta bảo cho ngươi biết, nếu thật có ba mươi hai tướng đại nhân, chắc chắn có hai đường, khơng nghi ngờ gì nữa. Nếu tại gia, sẽ làm Chuyển luân thánh vương, cai trị bốn thiên hạ, bằng pháp trị, giáo hóa, thống lãnh nhân dân, đầy đủ bảy báu: “1. Báu bánh xe vàng. “2. Báu voi trắng. “3. Báu ngựa xanh. “4. Báu thần châu. “5. Báu ngọc nữ. “6. Báu cư só. “7. Báu điển binh. “Vua có một ngàn người con, dũng mãnh, đa trí, hàng phục kẻ thù, khơng cần dùng vũ khí mà thiên hạ thái bình, nhân dân trong nước khơng có điều kinh sợ. Cịn nếu khơng ham thích thế gian, vị ấy xuất gia cầu đạo, sẽ thành Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười hiệu. Theo đó mà có thể biết thực hư của Cù-đàm.” A-ma-trú vâng lời thầy sai bảo, bèn thắng cỗ xe báu, dẫn theo năm trăm đệ tử Ma-nạp, vào lúc sáng sớm, ra khỏi thơn, đi đến rừng Y-xa. Đến nơi, xuống xe, đi bộ đến chỗ Thế Tơn. Trong lúc cùng đàm luận nghóa lý, nếu Thế Tơn đang ngồi thì Ma-nạp này đứng; nếu Thế Tơn đứng thì Ma-nạp này ngồi. Phật nói với Ma-nạp rằng: “Phải chăng ngươi đã từng đàm luận với các Bà-la-mơn trưởng thượng, kỳ cựu như thế?” Ma-nạp bạch Phật: “Nói như vậy nghóa là sao?” Phật bảo Ma-nạp: “Trong lúc cùng đàm luận, Ta ngồi thì ngươi đứng; Ta đứng thì ngươi ngồi. Phép đàm luận của thầy ngươi phải là như vậy chăng?” Ma-nạp bạch Phật: “Theo phép Bà-la-mơn của tơi, ngồi thì cùng ngồi, đứng thì cùng đứng, nằm thì cùng nằm. Nay với hạng Sa-mơn hủy hình, góa vợ, hèn hạ, thấp kém, tập theo pháp đen tối<註 n="926"/>18, thì khi tơi cùng bọn người ấy luận nghóa, khơng theo phép ngồi đứng.” Bấy giờ, Thế Tơn liền nói với Ma-nạp ấy rằng: “Khanh, Ma-nạp, chưa được dạy kỹ<註 n="927"/>19.” Khi Ma-nạp nghe Thế Tơn gọi mình là khanh, lại nghe bị chê là chưa được dạy kỹ, tức thì nổi giận, kích bác Phật rằng: “Con nhà họ Thích<註 n="928"/>20 này hay có lịng độc ác, khơng có phép tắc.” Phật bảo Ma-nạp: “Những người họ Thích có lỗi gì với khanh?” Ma-nạp nói: “Xưa, một lần, tơi có chút duyên sự của thầy tơi với họ Thích ở nước Ca-duy-việt<註 n="929"/>21. Khi ấy có nhiều người họ Thích có chút nhân duyên nên tập họp tại giảng đường. Thấy tơi từ xa đến, họ khinh mạn, đùa cợt, khơng thuận nghi pháp, khơng biết kính trọng nhau.” Phật bảo Ma-nạp: “Các người họ Thích kia khi ở trong nước mình có thể vui đùa thỏa thích. Cũng như chim bay, đối với khu rừng có tổ của nó, ra vào tự tại. Cũng vậy, các người họ Thích khi ở trong nước mình có thể vui đùa tự tại.” Ma-nạp nói với Phật: “Đời có bốn chủng tánh<註 n="930"/>22: Sát-lî, Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la. Ba chủng tánh kia thường tơn trọng, cung kính, cúng dường Bà-la-mơn. Những người họ Thích kia khơng nên như vậy. Họ Thích tơi tớ<註 n="931"/>23 kia, hèn mọn, thấp kém, mà khơng cung kính Bà-la-mơn như ta.” Bấy giờ, Thế Tơn nghó thầm rằng: “Gã Ma-nạp này nhiều lần mắng nhiếc và nói đến từ tơi tớ. Vậy Ta có nên nói duyên do của nó để nó khuất phục chăng?” Rồi Phật bảo Ma-nạp: “Chủng tánh<註 n="932"/>24 ngươi là gì?” Ma-nạp trả lời: “Tơi chủng tánh Thanh vương<註 n="933"/>25.” Phật bảo Ma-nạp: “Chủng tánh ngươi như thế là thuộc dịng dõi tơi tớ<註 n="934"/>26 của dịng họ Thích.” Lúc ấy, năm trăm đệ tử Ma-nạp kia thảy đều lớn tiếng nói với Phật rằng: “Chớ nói như vậy. Chớ nói Ma-nạp này thuộc dịng dõi tơi tớ của dịng họ Thích. Vì sao? Đại Ma-nạp này thật sự là con nhà tơng tộc, nhan mạo đoan chánh, tài biện luận đúng lúc, nghe nhiều, học rộng, đủ để cùng đàm luận trao đổi với Cù-đàm.” Thế Tơn nói với năm trăm Ma-nạp: “Nếu thầy của các ngươi khơng đúng như lời các ngươi nói, Ta sẽ bỏ qua thầy ngươi mà luận nghóa với các ngươi. Nếu thầy ngươi có đúng như lời các ngươi nói, các ngươi nên im lặng để Ta luận với thầy các ngươi.” Năm trăm Ma-nạp bấy giờ bạch Phật rằng: “Chúng tơi tất cả sẽ im lặng. Xin Ngài luận với thầy của tơi.” Bấy giờ Thế Tơn nói với A-ma-trú: “Trong thời quá khứ lâu dài xa xưa, có vị vua tên Thanh Ma<註 n="935"/>27. Vua có bốn người con trai. Thứ nhất tên Diện Quang. Thứ hai tên Tượng Thực. Thứ ba tên Lộ Chỉ. Thứ tư tên Trang Nghiêm<註 n="936"/>28. Bốn người con của vua có chút vi phạm bị vua đuổi khỏi nước<註 n="937"/>29, đến phía Nam Tuyết sơn, sống trong rừng cây thẳng<註 n="938"/>30. Mẹ của bốn người con cùng với các gia thuộc đều nghó nhớ họ, cùng nhau nhóm họp bàn, rồi đi đến chỗ Thanh Ma vương, tâu rằng: “Đại vương, nên biết, bốn đứa con của chúng ta xa cách đã lâu, nay tơi muốn đi thăm.” Vua nói: “Muốn đi thì tùy ý.” “Người mẹ và các quyến thuộc nghe vua dạy, liền đi đến phía Nam Tuyết sơn, trong rừng cây thẳng, đến chỗ bốn người con. Các bà mẹ nói: “Con gái của ta gả cho con trai ngươi. Con trai ngươi gả cho con gái ta<註 n="939"/>31. “Rồi họ phối nhau thành vợ chồng. Sau sinh con trai<註 n="940"/>32, dung mạo đoan chánh. “Lúc ấy, vua Thanh Ma nghe bốn người con mình được các bà mẹ gả cho các con gái làm vợ, sanh con trai đoan chánh. Vua rất vui mừng, thốt lên lời này: ‘Đúng là con nhà họ Thích. Đúng là con trai họ Thích.’<註 n="941"/>33 Vì có thể tự lập, nhân đó đặt tên là Thích. Thanh Ma vương chính là tiên tổ họ Thích vậy. Vương có một người áo xanh<註 n="942"/>34, tên gọi Phương Diện, nhan mạo đoan chánh, cùng thơng giao với một người Bà-la-mơn bèn có thai, sanh một Ma-nạp<註 n="943"/>35, vừa rớt xuống đất là biết nói. Nó nói với cha mẹ rằng: ‘Hãy tắm cho con, trừ sạch dơ bẩn. Sau này lớn lên, con sẽ báo ơn.’ Vì mới sanh đã biết nói nên đặt tên Thanh vương. Như nay kẻ mới sanh mà biết nói thì ai cũng sợ, đặt tên là Đáng Sợ<註 n="944"/>36. Kia cũng vậy. Vừa sanh đã biết nói nên được đặt tên là Thanh vương. Từ đó đến nay, Bà-la-mơn lấy Thanh vương làm họ.” Lại bảo Ma-nạp: “Ngươi có bao giờ nghe các Bà-la-mơn kỳ cựu, trưởng thượng, nói về nguồn gốc chủng tánh này chưa?” Lúc ấy Ma-nạp im lặng khơng trả lời. Hỏi lần nữa. Lại cũng khơng trả lời, Phật hỏi đến ba lần, bảo Ma-nạp rằng: “Ta hỏi đến ba lần. Ngươi hãy nhanh chóng trả lời. Nếu ngươi khơng trả lời, Mật Tích lực só<註 n="945"/>37, tay cầm chày vàng đứng hai bên Ta sẽ đánh cho đầu ngươi vỡ thành bảy mảnh.” Lúc ấy Mật Tích lực só tay cầm chày vàng, đang đứng giữa hư khơng, ngay trên đầu Ma-nạp. Nếu Ma-nạp khơng trả lời câu hỏi đúng lúc, sẽ hạ chày vàng đánh vỡ đầu Ma-nạp. Phật bảo Ma-nạp: “Ngươi hãy ngước nhìn xem.” Ma-nạp ngước nhìn, thấy Mật Tích lực só tay cầm chày vàng đứng giữa hư khơng. Thấy vậy, rất đỗi kinh hãi, tồn thân lơng dựng đứng, liền rời chỗ ngồi, đến gần Thế Tơn, nương nơi Thế Tơn để được cứu hộ. Ma-nạp bạch Phật: “Thế Tơn hãy hỏi. Con sẽ trả lời.” Phật hỏi Ma-nạp: “Ngươi có bao giờ nghe các Bà-la-mơn kỳ cựu, trưởng thượng, nói về nguồn gốc chủng tánh này chưa?” Ma-nạp đáp: “Con tin là đã từng nghe. Thật có sự kiện ấy.” Khi ấy năm trăm Ma-nạp thảy cùng cất tiếng bảo nhau rằng: “A-ma-trú này thật sự thuộc dịng họ tơi tớ của Thích-ca. Sa-mơn Cù-đàm nói sự thật, chúng ta vơ cớ ơm lịng khinh mạn.” Bấy giờ Thế Tơn nghó thầm: “Năm trăm Ma-nạp này về sau tất có lịng khinh mạn, gọi Ma-nạp này là đày tớ. Nay hãy phương tiện diệt cái tên đày tớ ấy.” Ngài liền nói với năm trăm Ma-nạp: “Các ngươi cẩn thận, chớ gọi người này là đày tớ. Vì sao? Tiên tổ Bà-la-mơn của người này là một đại tiên nhân<註 n="946"/>38, có oai lực lớn, chinh phạt Thanh Ma vương, địi lấy con gái. Vì sợ, vua bèn gả con gái cho.” Do lời này của Phật, Ma-nạp tránh được tên đày tớ. Rồi Thế Tơn bảo A-ma-trú: “Thế nào, Ma-nạp? Nếu con gái Sát-lî có bảy đời cha mẹ chân chánh khơng bị khinh khi, nhưng được gả cho một người Bà-la-mơn làm vợ, sanh một người con trai, là Ma-nạp, dung mạo đoan chánh. Người con trai này khi vào giữa những người Sát-lî có được mời ngồi, nhận nước, tụng đọc pháp Sát-lî khơng?” Đáp: “Khơng được”. “Có được sự nghiệp tài sản của cha khơng?” Đáp: “Khơng được”. “Có được kế thừa chức của cha khơng?” Đáp: “Khơng được”. “Thế nào, Ma-nạp? Nếu con gái Bà-la-mơn, có cha mẹ bảy đời chân chánh khơng bị người khinh khi, được gả cho người Sát-lî làm vợ, sanh một người con, dung mạo đoan chánh. Người này khi vào giữa chúng Bà-la-mơn, có được mời ngồi, được nhận nước khơng?” Đáp: “Được”. “Được tụng đọc pháp Bà-la-mơn, được hưởng gia tài của cha, thừa kế chức vụ của cha khơng?” Đáp: “Được”. “Thế nào, Ma-nạp? Nếu người Bà-la-mơn bị Bà-la-mơn tẩn xuất, chạy vào chủng tánh Sát-lî, có được chỗ ngồi, được nước, được tụng đọc pháp Sát-lî khơng?” Đáp: “Khơng được”. “Được hưởng di sản của cha, kế thừa chức vụ của cha khơng?” Đáp: “Khơng”. “Nếu chủng tánh Sát-lî bị Sát-lî tẩn xuất sang Bà-la-mơn, có được chỗ ngồi, được mời nước, tụng đọc pháp Bà-la-mơn chăng?” Đáp: “Được”. “Vậy thì, này Ma-nạp, giữa người nữ, nữ Sát-lî trỗi hơn. Giữa người nam, nam Sát-lî trỗi hơn. Khơng phải là Bà-la-mơn vậy.” Phạm thiên<註 n="947"/>39 tự mình nói bài kệ rằng: Sanh<註 n="948"/>40 Sát-lî tối thắng, Chủng tánh cũng thuần chơn. Minh, Hạnh thảy đầy đủ, Tối thắng giữa trời, người.<註 n="949"/>41 Phật bảo Ma-nạp: “Phạm thiên nói bài kệ này, thật là nói khéo chớ khơng phải khơng khéo. Ta cơng nhận như vậy, là vì sao? Nay, như Ta, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, cũng nói nghóa đó: Sanh, Sát-lî tối thắng, Chủng tánh cũng thuần chơn. Minh, Hạnh thảy đầy đủ, Tối thắng giữa Trời Người. Ma-nạp bạch Phật: “Cù-đàm, thế nào là Vơ thượng só, đầy đủ Minh và Hạnh<註 n="950"/>42?” Phật bảo Ma-nạp: “Hãy nghe kỹ, hãy nghe kỹ, hãy suy nghó kỹ, Ta sẽ nói cho.” Đáp: “Kính vâng. Rất muốn được nghe”. Phật bảo Ma-nạp: “Nếu Đức Như Lai xuất hiện ở đời, là Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, là Đấng Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vơ Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tơn; ở giữa chư Thiên, Người đời, Sa-mơn, Bà-la-mơn, Thiên ma, Phạm vương, tự mình chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người. Lời nói khoảng đầu thiện<註 n="951"/>43, khoảng giữa thiện, khoảng cuối cũng thiện, đầy đủ nghóa và vị, khai mở hạnh thanh tịnh<註 n="952"/>44. Nếu cư só, con trai cư só và các chủng tánh khác, nghe chánh pháp mà sanh lịng tín ngưỡng, do tâm tín ngưỡng mà nghó như vầy: ‘Ta nay tại gia, vợ con ràng buộc, khơng thể thanh tịnh thuần tu phạm hạnh. Ta hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y<註 n="953"/>45, xuất gia tu đạo.’ Người ấy, sau đó từ bỏ gia đình tài sản, từ giã thân tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Cũng đồng với những người xuất gia, xả bỏ các thứ trang sức, đầy đủ các giới hạnh, khơng làm hại chúng sanh. “Xả bỏ dao gậy, tâm hằng tàm quý, từ niệm đối với hết thảy. Đó là khơng giết. “Xả bỏ tâm trộm cắp, khơng lấy vật khơng cho, tâm hằng thanh tịnh, khơng có ý lén lút lấy cắp. Đó là khơng trộm cắp. “Xả ly dâm dục, tịnh tu phạm hạnh, ân cần tinh tấn, khơng bị nhiễm dục, sống trong sạch. Đó là khơng dâm. “Xả ly vọng ngữ, chí thành khơng lừa dối, khơng gạt người. Đó là khơng nói dối. “Xả ly nói hai lưỡi; nếu nghe lời người này, khơng truyền lại người kia; nếu nghe lời người kia, khơng truyền lại người này. Những người chia rẽ thì làm cho hịa hợp, khiến cho thân kính lẫn nhau. Những lời nói ra, hồ thuận, đúng thời. Đó là khơng nói hai lưỡi. “Xả ly ác khẩu. Những lời thơ lỗ, thích gây não người khác, khiến sanh phẫn kết; xả những lời như vậy. Lời nói dịu dàng, khơng gây ốn hại, đem nhiều lợi ích, được mọi người yêu kính, thích nghe những lời như vậy. Đó là khơng ác khẩu. “Xả ly ỷ ngữ; lời nói hợp thời, thành thật như pháp, y luật diệt trừ tranh chấp; có duyên cớ mới nói; lời nói khơng phát suơng. Đó là xả ly ỷ ngữ. “Xả ly uống rượu, xa lìa chỗ buơng lung. “Khơng đeo hương hoa, anh lạc. “Khơng đi xem và nghe các thứ ca múa xướng hát. “Khơng ngồi giường cao. “Khơng ăn phi thời. “Khơng cất chứa, sử dụng vàng bạc, bảy báu. “Khơng cưới thê thiếp; khơng nuơi nơ tỳ, voi ngựa, trâu bị, gà, chó, heo, dê; khơng tích chứa ruộng nhà, vườn tược. Khơng gạt người bằng cân đấu dối trá. Khơng lơi kéo nhau bằng bàn tay, nắm tay. Cũng khơng cầm đồ. Khơng vu dối người, khơng làm điều ngụy trá. Xả bỏ những thứ xấu ác như vậy; diệt trừ các tranh tụng, các điều bất thiện. Đi thì biết thời. Khơng phải thời thì khơng đi. Lường dạ mà ăn, khơng tích chứa dư thừa. Che thân bằng y phục, vừa đủ thì thơi. Pháp phục, ứng khí<註 n="954"/>46, thường mang theo mình. Như chim bay mang theo mình hai cánh. Cũng vậy, Tỳ-kheo khơng chứa dư thừa. “Này Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, nhận sự tín thí của người mà vẫn tìm cách tích chứa; y phục, ẩm thực, khơng hề biết đủ. Ai vào trong pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, tuy ăn của do người tín thí, vẫn tự mình kinh doanh buơn bán, gieo trồng cây cối, sở y của quỷ thần<註 n="955"/>47. Ai vào trong pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, tuy ăn của người tín thí, vẫn tìm phương tiện cầu các lợi dưỡng, các thứ ngà voi, tạp bảo, giường lớn cao rộng, với các loại chăn nệm thêu thùa sặc sỡ. Ai vào trong pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy nhận của người tín thí, vẫn tìm phương tiện, tìm cách trang điểm mình, bơi dầu<註 n="956"/>48 vào thân, tắm gội bằng nước thơm, thoa các thứ bột thơm, chải đầu thơm láng, đeo tràng hoa đẹp, nhuộm mắt xanh biếc, bơi mặt cho đẹp đẽ, đeo vịng xuyến sáng chói, dùng gương soi mặt, giày da đủ màu, áo trên thuần trắng, dao gậy, người hầu, lọng báu, quạt báu, xe báu trang nghiêm. Ai vào trong pháp Ta, khơng có những việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí mà chuyên việc đùa giỡn, chơi bài, chơi cờ loại tám đường, mười đường<註 n="957"/>49, trăm đường, cho đến đủ hết mọi đường<註 n="958"/>50, với các loại đùa cười khác nhau. Ai vào trong pháp Ta, khơng có những việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí vẫn nói những lời vơ ích, chướng ngại đạo: bàn các việc vương giả, việc chiến đấu, quân mã; việc quần liêu, đại thần, cưỡi ngựa, đánh xe ra vào, dạo chơi vườn quán; bàn luận việc nằm, việc đứng, việc đi bộ, việc nữ nhân, việc y phục, ẩm thực, thân lý; lại nói chuyện vào biển tìm ngọc. Ai vào pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, tuy ăn của người tín thí, bằng vơ số phương tiện, chỉ sinh hoạt tà mạng: mỹ từ dua siểm, hiện tướng khen chê, lấy lợi cầu lợi. Ai vào pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, lại chỉ tranh cãi nhau, hoặc nơi vườn quán, hoặc nơi ao tắm, hoặc ở sảnh đường, chỉ trích lẫn nhau, rằng: ‘Ta biết kinh luật. Ngươi khơng biết gì. Ta đi đường chánh. Ngươi đi lối tà. Ngươi đặt cái trước ra sau, đặt cái sau ra trước. Ta nhịn ngươi được. Ngươi khơng biết nhịn. Những điều ngươi nói đều khơng chân chánh. Nếu có điều gì nghi ngờ, cứ đến hỏi ta, ta giải đáp được hết.’ Ai vào pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn tuy ăn của người tín thí, lại làm các phương tiện, cầu làm sứ giả; hoặc làm sứ giả thơng tin cho vua, đại thần của vua, Bà-la-mơn, cư só; từ người này đến người kia, từ người kia đến người này; đem lời người này trao cho người kia, đem lời người kia trao cho người này; hoặc tự mình làm, hoặc sai người khác làm. Ai vào trong pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, tuy ăn của người tín thí, lại chỉ luyện tập các việc chiến trận, tỷ đấu; hoặc luyện tập dao, gậy, cung tên; hoặc nuơi gà chọi, chó, heo, dê, voi, ngựa, bị, lạc đà; hoặc đấu nam nữ; hoặc tấu các thứ tiếng: tiếng loa, tiếng trống, tiếng ca, tiếng múa, leo cột phướn, leo xuơi, leo ngược, đủ các thứ trị chơi. Ai vào pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, tuy ăn của người tín thí, lại hành pháp chướng ngại đạo, sinh hoạt bằng tà mạng, xem tướng trai gái, cát hung, đẹp xấu và tướng súc sanh, lấy lợi cầu lợi. Ai vào pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí vẫn hành pháp chướng ngại đạo, sinh sống tà mạng, kêu gọi quỷ thần, hoặc đuổi đi, hoặc bảo dừng, các thứ ếm đảo, vơ số phương thuật, khiến người sợ hãi, có thể tụ có thể tán, có thể khổ có thể vui, lại có thể an thai trục thai, cũng có thể chú ếm người khiến làm lừa ngựa, cũng có thể khiến người đui mù câm ngọng, hiện bày các mánh khóe, chắp tay hướng về mặt trời mặt trăng, làm các khổ hạnh để cầu lợi. Ai vào trong pháp Ta, khơng có những việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, tuy ăn của người tín thí, mà hành các pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: chú bệnh cho người, hoặc tụng ma thuật ác, hoặc tụng chú thuật lành, hoặc làm thầy thuốc, châm cứu, thuốc thang, liệu trị các thứù bệnh. Ai vào pháp Ta, khơng có những việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, tuy ăn của người tín thí, nhưng hành các pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: hoặc chú nước chú lửa, hoặc chú ma quỷ, hoặc tụng chú Sát-lî, hoặc tụng chú chim, hoặc tụng chú chi tiết, hoặc bùa chú trấn nhà trấn cửa, hoặc bùa chú giải trừ lửa cháy, chuột gặm, hoặc tụng kinh thư ly biệt sanh tử, hoặc đọc sách đốn mộng, hoặc xem tướng tay tướng mặt, hoặc đọc sách tất cả âm. Ai vào pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác, tuy ăn của người tín thí, mà hành pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: xem tướng thiên thời, đốn mưa hay khơng mưa, thóc cao hay thóc kém, bệnh nhiều hay bệnh ít, kinh sợ hay an ổn, hoặc nói động đất, sao chổi, nhật thực, nguyệt thực, tinh thực, hoặc nói khơng thực, điềm lành như vậy, điềm xấu như vậy. Ai vào pháp Ta, khơng có việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, mà hành pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: hoặc nói nước này hơn nước kia, nước kia khơng bằng; hoặc nói nước kia hơn nước này, nước này khơng bằng; xem tướng tốt xấu, đốn việc thịnh suy. Ai vào pháp Ta, khơng có việc ấy. Nhưng tu Thánh giới, khơng nhiễm trước tâm, trong lịng hỷ lạc<註 n="959"/>51. “Mắt tuy nhìn thấy sắc nhưng khơng nắm bắt các tướng, mắt khơng bị sắc trói buộc, kiên cố tịch nhiên, khơng điều tham đắm, cũng khơng buồn lo, khơng rị rỉ các ác, kiên trì giới phẩm, khéo thủ hộ nhãn căn. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý, cũng như vậy. Khéo chế ngự sáu xúc, hộ trì điều phục, khiến cho được an ổn, cũng như đi xe bốn ngựa trên đường bằng phẳng, người đánh xe khéo cầm roi khống chế khơng để trật lối. Tỳ-kheo cũng vậy, chế ngự con ngựa sáu căn, an ổn khơng mất. “Vị ấy có Thánh giới như vậy, khéo hộ trì các căn theo Thánh pháp, ăn biết đủ<註 n="960"/>52, cũng khơng tham vị, chỉ với mục đích nuơi thân để khơng bị khổ hoạn mà khơng cống cao, điều hịa thân mình khiến cho cái khổ cũ diệt, cái khổ mới khơng sanh, có sức, vơ sự, khiến thân an lạc. Cũng như người dùng thuốc bơi ghẻ, cốt để ghẻ lành chứù khơng phải để trang sức, khơng vì tự cao. “Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy, ăn đủ để duy trì thân, khơng có lịng kiêu mạn phóng túng. Cũng như xe được bơi mỡ, cốt để trơn tru khiến vận hành thơng suốt, đi đến đích. Tỳ-kheo cũng vậy, ăn uống cốt đủ duy trì thân để mà hành đạo. “Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy thành tựu Thánh giới, được các căn của Thánh, ăn biết vừa đủ; đầu hơm cuối hơm, tinh tấn tỉnh giác. Lại lúc ban ngày, hoặc đi hoặc dừng, thường niệm nhất tâm, trừ các ấm cái<註 n="961"/>53. Vị ấy, vào khoảng đầu hơm, hoặc đi hoặc ngồi, thường niệm nhất tâm, trừ các ấm cái. Cho đến giữa đêm, nằm nghiêng hơng phải, tưởng niệm sẽ trỗi dậy, đặt ý tưởng vào ánh sáng, tâm khơng loạn tưởng. Đến lúc cuối đêm, liền dậy tư duy, hoặc đi hoặc ngồi, trừ các ấm cái. Tỳ-kheo có Thánh giới như vậy đầy đủ, được các căn bậc Thánh, ăn uống biết đủ, đầu hơm cuối hơm, tinh cần tỉnh giác, thường niệm nhất tâm, khơng có loạn tưởng. “Thế nào là Tỳ-kheo-niệm khơng thác loạn? Tỳ-kheo như vậy, quán thân trên nội thân, tinh cần khơng biếng nhác, nhớ nghó khơng quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân; quán thân trên nội ngoại thân, tinh cần khơng biếng nhác, nhớ nghó khơng quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thọ, quán ý, quán pháp cũng vậy. Đó là Tỳ-kheo-niệm khơng thác loạn. “Thế nào là nhất tâm? Tỳ-kheo như vậy hoặc tản bộ, hoặc ra vào, hoặc quay nhìn hai bên, co duỗi, cúi ngước, cầm y bát, tiếp nhận ẩm thực, hoặc tả hữu tiện lợi, hoặc ngủ hoặc thức, hoặc ngồi hoặc đứng, nói năng hay im lặng, vào bất cứ lúc nào, thường niệm nhất tâm, khơng mất oai nghi. Đó là nhất tâm. Cũng như một người đi giữa đám đơng, hoặc đi ở trước, ở giữa hay ở cuối, thường an ổn, khơng có điều sợ hãi. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy,… cho đến, nói năng im lặng, thường niệm nhất tâm, khơng buồn khơng sợ. “Tỳ-kheo có Thánh giới như vậy, được các căn bậc Thánh, ăn thì biết đủ, đầu hơm, cuối hơm, tinh cần tỉnh thức, thường niệm nhất tâm, khơng có thác loạn. Thích ở nơi vắng, dưới gốc cây, trong bãi tha ma, hoặc trong hang núi, hoặc ở đất trống hay trong chỗ đống phân<註 n="962"/>54; đến giờ khất thực, lại rửa tay chân, đặt yên y bát, ngồi kiết già, ngay người chánh ý, buộc chặt niệm trước mắt. Trừ bỏ xan tham, tâm khơng đeo theo<註 n="963"/>55; diệt tâm sân hận, khơng có ốn kết, tâm trú thanh tịnh, thường giữ lịng từ; trừ dẹp ngủ nghỉ<註 n="964"/>56, buộc tưởng nơi ánh sáng<註 n="965"/>57, niệm khơng thác loạn; đoạn trừ trạo hý<註 n="966"/>58, tâm khơng khuấy động, nội tâm an tịnh<註 n="967"/>59, diệt tâm trạo hý; đoạn trừ nghi hoặc, đã vượt lưới nghi, tâm chuyên nhất ở nơi pháp thiện<註 n="968"/>60. Cũng như đồng bộc được đại gia ban cho chủng tánh, an ổn giải thốt, miễn khỏi sai khiến, tâm hoan hỷ, khơng cịn lo, sợ. “Lại như có người mượn tiền đi buơn bán<註 n="969"/>61, được lợi lớn mà trở về, trả vốn cho chủ, cịn dư tiền đủ dùng, bèn nghó rằng: ‘Ta trước mượn tiền đi buơn, e khơng như ý. Nay được lợi mà trở về, trả vốn cho chủ, tiền cịn dư đủ dùng, khơng lo, sợ.’ Người ấy rất đỗi vui mừng.’ “Như người bệnh lâu, nay bệnh đã khỏi; ăn uống được tiêu hóa, sức lực dồi dào, bèn nghó rằng: ‘Ta trước có bệnh, mà nay đã khỏi; ăn uống được tiêu hóa, sức lực dồi dào, khơng cịn lo và sợ.’ Người ấy rất đỗi vui mừng. “Cũng như người bị nhốt trong ngục đã lâu, nay bình yên ra tù, bèn nghó thầm rằng: ‘Ta trước đây bị giam giữ, nay được giải thốt, khơng cịn lo và sợ.’ Người ấy rất đỗi vui mừng. “Lại như có người cầm nhiều tài bảo, đi qua chỗ hoang mạc, khơng gặp cướp, bình an qua khỏi, bèn tự nghó rằng: ‘Ta cầm tài bảo qua khỏi chỗ hiểm nạn này, khơng cịn lo và sợ.’ Người ấy rất đỗi vui mừng, tâm tư an lạc. “Ma-nạp, Tỳ-kheo bị năm triền cái bao phủ cũng giống như vậy. Như người mang nợ, bệnh lâu, bị giam giữ, đi qua hoang mạc<註 n="970"/>62, tự thấy mình chưa thốt ly các ấm che trùm tâm, bị trùm kín trong tối tăm, mắt tuệ khơng sáng; vị ấy bèn tinh cần, xả dục, xả pháp ác, bất thiện, có giác có quán, có hỷ do viễn ly sanh, chứng nhập Sơ thiền. Vị ấy có hỷ lạc nhuần thấm nơi thân, tràn đầy cùng khắp, khơng đâu là khơng sung mãn. Như người khéo biết cách tắm, cho thuốc đầy bồn tắm, rồi chế nước vào, trong ngồi đều nhuần thấm<註 n="971"/>63, khơng đâu là khơng cùng khắp. Tỳ-kheo cũng vậy, chứng nhập Sơ thiền, hỷ lạc nhuần thấm khắp thân, khơng đâu khơng sung mãn. Như vậy, này Ma-nạp, đó là hiện thân chứng đắc lạc thứ nhất. Vì sao? Ấy là do tinh tấn, niệm khơng thác loạn, ưa chỗ nhàn tónh mà được vậy. “Vị ấy xả giác, quán, bèn phát sanh tín<註 n="972"/>64, chuyên niệm nhất tâm, khơng giác khơng quán, có hỷ lạc do định sanh, chứng nhập đệ Nhị thiền. Vị ấy có hỷ lạc và nhất tâm thấm nhuần châu thân, cùng khắp, tràn đầy, khơng đâu khơng sung mãn. Cũng như nước suối trong mát từ đỉnh núi chảy ra<註 n="973"/>65, khơng phải từ ngồi đến, mà nước trong mát chảy ra ngay từ trong con suối ấy, trở lại thấm nhuần chính nó, khơng đâu khơng cùng khắp. Ma-nạp, Tỳ-kheo cũng vậy, nhập Nhị thiền, có hỷ lạc do định sanh khơng đâu khơng sung mãn. Đó là hiện thân chứng đắc lạc thứ hai. “Vị ấy lìa hỷ, an trú xả và niệm, khơng tán loạn<註 n="974"/>66, thân cảm thọ lạc, như điều mà Thánh nói, khởi hộ niệm lạc<註 n="975"/>67, chứng nhập Tam thiền. Vị ấy thân khơng hỷ, có lạc thấm nhuần, cùng khắp, tràn đầy, khơng đâu khơng sung mãn. Cũng như hoa Ưu-bát, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lî<註 n="976"/>68, mới nhơ khỏi bùn mà chưa ra khỏi nước, với cọng, rễ, cành, lá cịn chìm ngập trong nước, khơng đâu khơng cùng khắp. Ma-nạp, Tỳ-kheo cũng vậy, chứng nhập Tam thiền, lìa hỷ, an trú lạc, nhuần thấm khắp thân, khơng đâu khơng cùng khắp. Đó là hiện thân chứng đắc lạc thứ ba. “Vị ấy xả hỷ và lạc; ưu và hỷ đã diệt từ trước, khơng khổ, khơng lạc, xả<註 n="977"/>69 niệm thanh tịnh, nhập Tứ thiền. Thân tâm thanh tịnh, tràn đầy cùng khắp, khơng chỗ nào khơng thấm nhuần. Cũng như một người đã tắm gội sạch sẽ, khốc lên mình tấm lụa trắng mới tinh, tồn thân thanh tịnh. Ma-nạp, Tỳ-kheo cũng vậy, nhập Tứ thiền, tâm thanh tịnh, tràn khắp thân, khơng chỗ nào khơng thấm. “Lại nhập Tứ thiền, tâm khơng tăng giảm, cũng khơng dao động, an trú trên mảnh đất khơng ái, khơng nhuế, khơng động. Cũng như mật thất, trong ngồi được sơn quét, đóng chặt các cửa nẻo, khơng gió khơng bụi lọt vào, bên trong đốt đèn, khơng bị khuấy động, ngọn lửa bốc thẳng mà khơng lay động. Ma-nạp, Tỳ-kheo cũng vậy, nhập đệ Tứ thiền, tâm khơng tăng giảm, cũng khơng khuynh động, an trú trên đất khơng ái, khơng nhuế, khơng dao động. Đó là hiện thân chứng lạc thứ tư. “Vị ấy với tâm định tónh<註 n="978"/>70, thanh tịnh khơng dơ, nhuần nhuyễn, khéo được huấn luyện, an trú trạng thái bất động<註 n="979"/>71, tự mình trong thân khởi tâm biến hóa, hóa thành thân khác, chân tay đầy đủ, các căn khơng khuyết. Vị ấy quán như vầy: ‘Thân này, với sắc bốn đại, hóa thành thân kia. Thân này cũng khác, thân kia cũng khác. Từ thân này khởi tâm hóa thành thân kia, các căn đầy đủ, chân tay khơng khuyết.’ Cũng như người rút con dao khỏi bao, bèn nghó rằng: ‘Bao khác với dao, nhưng dao được rút ra từ bao.’ Lại như một người se gai làm dây, nghó rằng: ‘Gai khác với dây. Nhưng dây xuất xứ từ gai.’ Lại như một người cho rắn bị ra khỏi hộp<註 n="980"/>72, nghó rằng: ‘Rắn khác hộp khác, nhưng rắn từ hộp mà ra.’ Lại như một người lấy áo ra khỏi giỏ tre, nghó rằng: ‘Giỏ tre khác áo khác, nhưng áo được lấy ra từ giỏ. Ma-nạp, Tỳ-kheo cũng vậy. Đây là thắng pháp đầu tiên được chứng đắc. Vì sao? Ấy do tinh tấn, niệm khơng thác loạn, ưa chỗ nhàn tónh mà được vậy. “Vị ấy với tâm định tónh, thanh tịnh khơng dơ, nhu nhuyến, được khéo huấn luyện, an trú trạng thái bất động, từ sắc thân bốn đại của mình mà khởi tâm, hóa thành thân khác, đủ cả tay chân và các căn, nghó rằng: ‘Thân này do bốn đại hợp thành. Thân kia từ thân này hóa ra. Thân này với thân kia khác nhau. Tâm này trú trong thân này, y thân này mà an trú, rồi đi đến trong thân biến hóa kia. Cũng như lưu ly, ma ni, được lau chùi sáng lống, trong sạch khơng dơ; hoặc được xâu bằng chỉ xanh, chỉ vàng, chỉ đỏ, người có mắt đặt trong lịng tay mà nhìn, biết rằng ngọc và dây xâu khác nhau. Nhưng dây dựa ngọc, từ hạt này đến hạt khác. Ma-nạp, Tỳ-kheo quán tâm nương thân này mà an trú, rồi đi đến thân kia cũng như vậy. Đó là Tỳ-kheo chứng đắc thắng pháp thứ hai. Vì sao? Ấy do tinh cần, niệm khơng tán loạn, ưa chỗ nhàn tónh mà được vậy. “Vị ấy, với tâm định tónh, thanh tịnh khơng dơ, mềm dịu, dễ điều phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập thần thơng trí chứng<註 n="981"/>73, có thể biến hóa các thứ: hoặc biến một thân thành vơ số thân; từ vơ số thân hợp thành một thân; thân có thể bay đi, vách đá khơng ngăn ngại; dạo trong hư khơng như chim, đi trên nước như đi trên đất; mình bốc khói lửa, như đống lửa lớn; tay sờ mặt trời, mặt trăng, đứng cao đến Phạm thiên; muốn làm gì tùy ý, đều có thể tự tại thành tựu, làm ích lợi cho nhiều người. Lại như thợ ngà khéo xử lý ngà voi. Cũng như thợ vàng khéo luyện chơn kim, tùy ý mà làm, ích lợïi cho nhiều người. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy, tâm định tónh, thanh tịnh, an trú bất động địa, tùy ý biến hố, cho đến, tay sờ mặt trời, mặt trăng, đứng cao đến Phạm thiên. Đó là thắng pháp thứ ba của Tỳ-kheo. “Vị ấy với tâm đã định, thanh tịnh khơng dơ, mềm dịu, khéo điều phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập chứng thiên nhó trí<註 n="982"/>74. Vị ấy, với thiên nhó thanh tịnh vượt qua lỗ tai con người, nghe được hai loại tiếng: tiếng chư Thiên và tiếng lồi người. Cũng như trong thành có đại giảng đường, cao lớn, rộng rãi, có người thính tai ở trong giảng đường; những âm thanh có trong giảng đường, khơng phải cố gắng để nghe, người ấy nghe rõ hết. Cũng vậy, Tỳ-kheo do tâm đã định, với thiên nhó thanh tịnh, nghe được hai thứ tiếng. Ma-nạp, đó là thắng pháp thứ tư của Tỳ-kheo. “Vị ấy với tâm đã định, thanh tịnh khơng dơ, mềm dịu, khéo điều phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập chứng tha tâm trí<註 n="983"/>75. Vị ấy đúng như tâm của người, có dục hay khơng dục, có cấu uế hay khơng cấu uế<註 n="984"/>76, có si hay khơng si, tâm rộng hay hẹp<註 n="985"/>77, tâm lớn hay nhỏ<註 n="986"/>78, tâm định hay loạn, tâm bị tróùi buộc hay cởi mở, tâm cao thượng hay hạ liệt, cho đến, tâm vơ thượng, thảy đều biết hết. Cũng như một người rọi bóng mình trong nước trong, đẹp hay xấu đều xét biết cả. Tỳ-kheo như vậy, vì tâm định tónh cho nên có thể biết tâm người. Ma-nạp, đó là thắng pháp thứ tư của Tỳ-kheo. “Vị ấy tâm định, thanh tịnh khơng cấu uế, mềm dịu, khéo điều phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập túc mạng trí chứng<註 n="987"/>79, liền có thể biết được đời trước, với vơ số sự việc; có thể nhớ một đời cho đến vơ số đời, số kiếp thành hoại; chết đây sanh kia; danh tánh, chủng tộc, ẩm thực xấu tốt, thọ mạng dài vắn, cảm thọ khổ lạc, hình sắc tướng mạo thế nào, tất cả đều nhớ biết hết. Cũng như một người từ thơn xóm mình đi đến nước khác; ở tại chỗ kia, hoặc đi hoặc đứng, hoặc nói hoặc im lặng; rồi lại từ nước này đến nước khác. Lần lượt như vậy, sau đó quay về chốn cũ. Khơng cần nhọc sức mà vẫn có thể nhớ những nước đã đi qua; từ chỗ này đến chỗ kia, từ chỗ kia đến chỗ này; đi, đứng, nói năng, im lặng, thảy đều nhớ hết. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy, do tâm đã định tónh, thanh tịnh khơng cấu uế, an trú bất động địa, có thể bằng túc mạng trí mà nhớ đời trước vơ số sự việc trong vơ số kiếp. Đó là Tỳ-kheo chứng đắc minh thứ nhất<註 n="988"/>80. Vơ minh vónh viễn diệt, pháp đại minh phát sanh; cái tối tăm tiêu diệt, pháp sáng chói phát sanh. Đấy là Tỳ-kheo đắc túc mạng trí minh. Vì sao? Ấy do tinh cần, niệm khơng tán loạn, ưa chỗ thanh nhàn vắng vẻ mà được như vậy. “Vị ấy, với tâm định tónh, thanh tịnh khơng cấu uế, nhu nhuyến khéo điều phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập sanh tử trí chứng<註 n="989"/>81. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, thấy các chúng sanh sanh đây chết kia; chết ở kia, sanh đến nơi này, hình sắùc đẹp xấu, quả báo thiện ác, tơn quý, ty tiện, tùy nghiệp báo đã tạo mà phù hợp với nhân duyên, tất cả đều biết rõ. Người này thân hành ác, khẩu nói ác, ý nghó ác, phỉ báng Hiền thánh, tin theo tà kiến điên đảo, thân hoại mạng chung đọa ba đường ác. Người này thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghó thiện, khơng phỉ báng Hiền thánh, hành theo chánh kiến, thân hoại mạng chung, sanh lên trời, người. Bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy chúng sanh tùy theo duyên của nghiệp đã làm, qua lại trong năm đường. Cũng như khoảng đất bằng cao rộng trong thành nội, đầu ngã tư đường cất một lầu cao lớn, người mắt sáng đứng trên lầu mà nhìn, thấy các bộ hành Đơng, Tây, Nam, Bắc, mọi cử động, tất cả đều thấy hết. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy, với tâm định tónh, khơng cấu uế, thanh tịnh, nhu nhuyến dễ điều phục, an trú bất động địa, chứng sanh tử trí. Bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy hết chúng sanh với những việc thiện ác mà chúng đã làm, tùy nghiệp thọ sanh, qua lại năm đường, thảy đều biết cả. Đó là minh thứ hai của Tỳ-kheo. Đoạn trừ vơ minh, sanh tuệ minh, xả bỏ tối tăm, phát ra ánh sáng trí tuệ. Đó là kiến chúng sanh sanh tử trí minh vậy. Vì sao? Ấy do tinh cần niệm khơng tán loạn, ưa một mình nơi thanh vắng mà được vậy. “Vị ấy với tâm định tónh, thanh tịnh khơng cấu uế, nhu nhuyến dễ điều phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập vơ lậu trí chứng<註 n="990"/>82. Vị ấy như thật biết Khổ thánh đế, như thật biết hữu lậu tập, như thật biết hữu lậu diệt tận, như thật biết con đường dẫn đến vơ lậu. Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy; tâm giải thốt khỏi dục lậu, hữu lậu, vơ minh lậu, chứng đắc giải thốt trí<註 n="991"/>83:‘sanh tử đã hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sinh đời sau nữa.’ Cũng như trong nước trong, có gỗ, đá, cá, ba ba, các loại thủy tộc du hành Đơng-tây, người có mắt sáng thấy rõ hết: đây là gỗ, đá; đây là cá, ba ba. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy, với tâm định tónh, an trú bất động địa, đắc vơ lậu trí chứng, cho đến, khơng cịn tái sanh. Đó là Tỳ-kheo đắc minh thứ ba. Đoạn trừ vơ minh, phát sanh tuệ minh, xả bỏ tối tăm, phát ra ánh sáng đại trí. Đó là vơ lậu trí minh. Vì sao? Ấy do tinh cần, niệm khơng tán loạn, ưa một mình nơi thanh vắng vậy. “Ma-nạp, đó là Minh và Hạnh vơ thượng được đầy đủ. Ý ngươi nghó sao, Minh và Hạnh như vậy là đúng, hay sai? Phật bảo Ma-nạp: “Có người khơng thể chứng đắc đầy đủ Minh Hạnh vơ thượng, nhưng thực hành bốn phương tiện<註 n="992"/>84. Những gì là bốn? Ma-nạp, hoặc có người khơng được đầy đủ Minh Hạnh vơ thượng, nhưng vác rựa, ơm lồng<註 n="993"/>85, đi vào rừng tìm thuốc, ăn rễ cây. Đó là khơng được Minh Hạnh vơ thượng mà hành phương tiện thứ nhất. Thế nào, Ma-nạp, phương tiện thứ nhất này, ngươi và thầy các ngươi có làm khơng?” Đáp: “Khơng”. Phật bảo Ma-nạp: “Ngươi tự mình thấp kém, khơng hay biết chơn ngụy, lại cứ phỉ báng, khinh mạn Thích tử, tự gieo mầm tội lỗi, nuơi lớn gốc rễ địa ngục. “Lại nữa, Ma-nạp, khơng được thành tựu Minh Hạnh vơ thượng, mà tay cầm bình nước rửa, vác gậy tốn thuật<註 n="994"/>86, vào núi rừng, ăn trái cây tự rụng. Ma-nạp, đó là khơng được thành tựu Minh Hạnh vơ thượng mà hành phương tiện thứ hai. Thế nào, Ma-nạp, ngươi và thầy ngươi có hành pháp này chăng?” Đáp: “Khơng”. Phật bảo Ma-nạp: “Ngươi tự mình thấp kém, khơng rõ chân ngụy, bèn phỉ báng, khinh mạn Thích tử, tự gieo mầm ác, nuơi lớn gốc địa ngục lâu dài. “Lại nữa, Ma-nạp, khơng được thành tựu Minh Hạnh vơ thượng, mà bỏ lối hái thuốc và lượm trái cây rụng trên đây, trở về thơn xóm, sống nương người đời, cất am tranh, ăn lá cây, lá cỏ<註 n="995"/>87. Ma-nạp, đó là khơng được thành tựu Minh Hạnh vơ thượng mà thực hành phương tiện thứ ba. Thế nào, Ma-nạp, ngươi và thầy ngươi có hành pháp này chăng?” Đáp: “Khơng”. Phật bảo Ma-nạp: “Ngươi tự mình thấp kém, khơng rõ chân ngụy, bèn phỉ báng, khinh mạn Thích tử, tự gieo mầm ác, nuơi lớn gốc địa ngục lâu dài. “Lại nữa, Ma-nạp, khơng được thành tựu Minh Hạnh vơ thượng, nhưng khơng ăn cỏ thuốc, khơng ăn trái cây rụng, khơng ăn lá cỏ, mà dựng nhà gác to lớn nơi thơn xóm thành ấp<註 n="996"/>88. Những người đi đường từ Đơng sang Tây ngang qua đó đều được cấp dưỡng tùy khả năng. Đó là khơng được Minh Hạnh vơ thượng mà thực hành phương tiện thứ tư. Thế nào, Ma-nạp, ngươi và thầy ngươi cóù hành pháp ấy khơng?” Đáp: “Khơng”. Phật bảo Ma-nạp: “Ngươi tự mình thấp kém, khơng rõ chơn ngụy, bèn phỉ báng, khinh mạn Thích tử, tự gieo mầm tội, nuơi lớn gốc địa ngục. “Thế nào, Ma-nạp, các Bà-la-mơn kỳ cựu và các Tiên nhân, với nhiều kỷ thuật, tán thán, xưng tụng những điều mình học tụng, như nay những điều được các người Bà-la-mơn, tán thán, ca ngợi. Đó là: “1. A-tra-ma. “2. Bà-ma. “3. Bà-ma-đề-bà. “4. Tỷ-ba-mật-đa. “5. Y-đâu-lại-tất. “6. Da-bà-đề-già. “7. Bà-bà-bà-tất-tra. “8. Ca-diệp. “9. A-lâu-na. “10. Cù-đàm. “11. Thủ-di-bà. “12. Tổn-đà-la.<註 n="997"/>89 “Các Đại tiên, Bà-la-mơn này, có đào hào, xây dựng nhà gác, như chỗ mà thầy trị ngươi đang ở khơng?” Đáp: “Khơng”. “Các Đại tiên ấy có dựng thành quách vây quanh nhà cửa, rồi ở trong đó, như chỗ ở của thầy trị ngươi hiện nay khơng? Đáp: “Khơng”. “Các Đại tiên ấy có nằm trên giường cao, chăn đệm dày, mềm mại, như thầy trị ngươi hiện nay khơng?” Đáp: “Khơng”. “Các Đại tiên kia có tự mình vui thú với vàng, bạc, chuỗi anh lạc, tràng hoa nhiều màu và mỹ nữ, như thầy trị ngươi hiện nay khơng? Các Đại tiên kia có đi xe báu, cầm gậy sắt dẫn đường, che đầu bằng lọng trắng, tay cầm phất báu, mang guốc báu nhiều màu, lại mặc tồn lụa trắng, như thầy trị ngươi hiện nay đang mặc khơng?” Đáp: “Khơng”. “Ma-nạp, ngươi tự mình thấp hèn, khơng rõ chơn ngụy, mà lại phỉ báng, khinh mạn Thích tử, tự gieo mầm tội, nuơi lớn gốc địa ngục. Thế nào, Ma-nạp, như các đại tiên, các Bà-la-mơn kỳ cựu kia, như A-tra-ma, tán thán, đề cao những gì mà họ vốn đọc tụng, nay những điều đượïc các Bà-la-mơn tán tháùn, đề cao cũng giống như vậy. Nếu truyền những điều ấy, để dạy vẽ người khác, mà muốn sanh lên Phạm thiên, khơng có trường hợp đó. Cũng như, này Ma-nạp, vua Ba-tư-nặc cùng nói chuyện với người khác, hoặc cùng bàn luận với các vua, hoặc với đại thần, Bà-la-mơn, cư só, mà những người nhỏ mọn khác nghe được, bèn vào thành Xá-vệ, gặp người, liền thuật chuyện vua Ba-tư-nặc có nói như vậy. Thế nào, Ma-nạp, vua có cùng bàn luận với người ấy khơng?” Đáp: “Khơng”. “Ma-nạp, người đọc thuộc lời vua cho những người khác nghe, há có thể làm đại thần cho vua được chăng?” Đáp: “Khơng có chuyện ấy”. “Ma-nạp, ngươi ngày nay truyền lời của đại tiên đời trước, Bà-la-mơn kỳ cựu, đọc tụng, dạy cho người, mà muốn sanh Phạm thiên, khơng có chuyện ấy. Thế nào, Ma-nạp, các ngươi tiếp nhận sự cúng dường của người có thể tùy pháp mà thực hành được chăng?” Đáp: “Đúng như vậy, Cù-đàm, nhận cúng dường của người khác thì phải như pháp mà hành”. “Ma-nạp, thầy ngươi Phất-già-la-sa-la nhận phong ấp của vua, nhưng khi cùng nghị luận với vua Ba-tư-nặc, lại nói những lời vơ ích mà vua khơng nên bàn đến, khơng đem sự việc chân chánh mà cùng bàn luận, cùng khuyên nhủ. Ngươi nay tự mình xem xét lỗi lầm của thầy ngươi và của chính ngươi; nhưng hãy gác qua chuyện ấy, mà nên tìm hiểu nguyên nhân ngươi đến đây.” “Ma-nạp liền ngước mắt lên nhìn thân của Như Lai, tìm các tướng tốt. Thấy đủ các tướng khác, duy chỉ hai tướng khơng thấy, trong lịng hồi nghi. Bấy giờ, Thế Tơn thầm nghó: “Nay Ma-nạp này khơng thấy hai tướng nên sanh nghi ngờ như thế”. Ngài bèn cho ra tướng lưỡi rộng dài, liếm đến tai, phủ kín mặt. Lúc ấy, Ma-nạp cịn nghi ngờ một tướng nữa. Thế Tơn lại nghó: “Nay Ma-nạp này vẫn cịn nghi ngờ một tướng nữa”. Ngài bèn dùng thần lực khiến cho duy chỉ Ma-nạp thấy được tướng mã âm tàng. Ma-nạp thấy đủ các tướng rồi, khơng cịn hồ nghi gì nơi Như Lai nữa, bèn rời chỗ ngồi đứng dậy, vịng quanh Phật rồi đi. Khi ấy, Bà-la-mơn Phất-già-la đứng ngồi cửa, từø xa trơng thấy đệ tử đang đi đến, bèn đón lại, hỏi rằng: “Ngươi xem Cù-đàm có thật đủ các tướng khơng? Cơng đức thần thơng có thật như lời đồn khơng?” Tức thì bạch thầy rằng: “Sa-mơn Cù-đàm đầy đủ cả ba mươi hai tướng. Cơng đức thần lực đều như tiếng đồn.” Thầy lại hỏi: “Ngươi có bàn luận ý nghóa gì với Cù-đàm khơng?” Đáp: “Thật có trao đổi với Cù-đàm”. Thầy lại hỏi: “Người với Cù-đàm thảo luận chuyện gì?” Bấy giờ Ma-nạp kể hết câu chuyện cùng Phật luận bàn. Thầy nói: “Ta có người đệ tử thơng minh như vậy lại khiến xảy ra như vậy, chúng ta chẳng bao lâu sẽ đọa địa ngục. Vì sao? Lời nói của ngươi, vì muốn hơn mà kích bác Cù-đàm, khiến cho ơng ấy khơng vui lịng, đối với ta lại càng xa cách<註 n="998"/>90. Ngươi được coi là đệ tử thơng minh mà khiến đến mức ấy, thì khiến ta vào địa ngục sớm.” Thế rồi người thầy ấy lịng rất tức giận, bèn đạp Ma-nạp té xuống đất và ơng tự mình đánh xe lấy. Ma-nạp kia khi vừa té xuống đất thì tồn thân nổi vảy trắng. Khi ấy Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la ngước nhìn mặt trời, nghó thầm rằng: “Nay chưa phải là lúc thăm viếng Sa-mơn Cù-đàm. Ta hãy chờ sáng mai rồi đi thăm hỏi”. Sáng hơm sau, ơng thắng cỗ xe báu, cùng với năm trăm đệ tử tùy tùng, đi đến rừng Y-xa; đến nơi, xuống xe, đi bộ đến chỗ Thế Tơn, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Ơng ngước nhìn thân Như Lai, đầy đủ các tướng, duy thiếu hai tướng. Bà-la-mơn do đó có ý nghi ngờ về hai tướng. Phật biết ý nghó của ơng, bèn làm lộ tướng lưỡi rộng dài, liếm đến tai và phủ kín mặt. Bà-la-mơn lại cịn nghi ngờ một tướng nữa. Phật biết ý nghó của ơng, bèn dùng thần lực, khiến cho thấy tướng mã âm tàng. Bà-la-mơn khi thấy đủ ba mươi hai tướng của Như Lai, trong lịng khai ngộ, khơng cịn hồ nghi, liền bạch với Phật rằng: “Nếu khi đi giữa đường mà gặp Phật, con dừng xe một lát, mong Ngài biết cho là con đã kính lễ Thế Tơn. Vì sao? Vì con nhận được phong cho thơn này. Nếu con xuống xe, sẽ mất thơn ấy và tiếng xấu đồn khắp.” Ơng lại bạch Phật: “Nếu tơi xuống xe, cởi kiếm, lui tàn lọng và dẹp bỏ giải phướn, bình nước rửa và giày dép, nên biết ấy là tơi đã lễ kính Như Lai. Vì sao? Tơi nhận được phong cho thơn này. Nếu tơi xuống xe, sẽ mất thơn ấy và tiếng xấu đồn khắp.” Lại bạch Phật: “Nếu ở giữa đám đơng, thấy Phật mà con đứng dậy, hoặc trịch áo bày vai phải, tự xưng tên họ, nên biết, ấy là con đã lễ kính Như Lai. Vì sao? Vì con nhận được phong cho thơn này. Nếu con xuống xe, sẽ mất thơn ấy và tiếng xấu đồn khắp.” Lại bạch Phật: “Con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin nhận con làm Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay về sau, con khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu. Cúi mong Thế Tơn cùng các Đại chúng nhận lời mời của con.” Đức Thế Tơn im lặng nhận lời. Bà-la-mơn thấy Phật im lặng, biết Ngài đã hứa khả, bèn rời chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật, nhiễu quanh ba vịng rồi đi. Về nhà, ơng sửa soạn thức ăn. Sau khi bày biện mâm cỗ xong, ơng quay trở lại thưa: “Đã đến giờ”. Bấy giờ, Thế Tơn khốc y ơm bát cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi người đi đến nhà ơng ấy, rồi ngồi lên chỗ soạn sẵn. Lúc ấy, Bà-la-mơn tự tay châm chước thức ăn, cúng Phật và Tăng các thứ ngon ngọt. Ăn xong, dẹp cất bát, dùng nước rửa xong, Bà-la-mơn tay phải nắm cánh tay đệ tử là A-ma-trú đến trước Thế Tơn bạch rằng: “Cúi mong Thế Tơn nghe lời hối lỗi của nó.” Nói như vậy ba lần, rồi lại bạch Phật: “Cũng như voi, ngựa đã được huấn luyện khéo; người này cũng vậy, tuy có sơ suất, cúi mong Ngài nhận lời hối lỗi.” Phật bảo Bà-la-mơn: “Cầu cho ngươi thọ mạng dài lâu, đời này an ổn. Mong cho chứng vảy trắng của đệ tử ngươi được trừ.” Phật nói vừa xong, người đệ tử kia liền khỏi chứng vảy trắng. Rồi thì, Bà-la-mơn lấy một cái giường nhỏ để trước Thế Tơn. Thế Tơn bèn nói pháp cho Bà-la-mơn, chỉ bày, khuyên dạy, khiến cho được ích lợi, hoan hỷ. Ngài giảng về thí, giới, sanh thiên, dục là ơ uế, phiền não là tai hoạn, xuất yếu là trên hết, diễn bày thanh tịnh. Khi Thế Tơn biết tâm người Bà-la-mơn đã nhu nhuyến, thanh tịnh, khơng cáu bẩn, có thể nhận lãnh đạo giáo; như thường pháp của chư Phật, Ngài nói Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ xuất yếu thánh đế. Bà-la-mơn lúc ấy ngay trên chỗ ngồi mà xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh, cũng như tấm lụa trắng tinh dễ nhuộm màu, Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la cũng vậy, thấy pháp, đắc pháp, quyết định đạo quả, khơng cịn tin ở đạo khác, được vơ sở úy, tức thì bạch Phật rằng: “Con nay ba lần xin quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Xin nhận con làm Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Suốt đời khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu. Cúi mong Thế Tơn cùng Đại chúng thương tưởng con, nhận lời mời bảy ngày.” Thế Tơn im lặng nhận lời. Bà-la-mơn tức thì trong bảy ngày cúng dường Phật và Đại chúng đủ các thứ. Bấy giờ, qua bảy ngày, Thế Tơn lại du hành nhân gian. Phật đi chưa bao lâu, Phất-già-la-sa-la ngộ bệnh, mạng chung. Các Tỳ-kheo nghe Bà-la-mơn này sau khi cúng dường Phật trong bảy ngày, sau đó mạng chung, bèn tự nghó thầm: Người này mạng chung, sanh vào cõi nào? Rồi chúng Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, lễ Phật xong, ngồi sang bên, bạch Phật rằng: “Bà-la-mơn sau khi cúng dường Phật suốt bảy ngày thì thân hoại mạng chung. Người ấy sanh vào chỗ nào?” Phật nói với các Tỳ-kheo: “Tộc tánh tử ấy đã tập hợp rộng rãi các điều thiện, đầy đủ pháp và tùy pháp, khơng trái pháp hành, đoạn trừ năm hạ phần kết, Niết-bàn ở nơi kia<註 n="999"/>91, khơng trở lại đời này nữa.” Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140881">21. KINH PHẠM ĐỘNG<註 n="1000"/>92 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật du hành đến nước Ma-kiệt<註 n="1001"/>93, cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người<註 n="1002"/>94, du hành nhân gian, đến Trúc lâm<註 n="1003"/>95, nghỉ đêm tại vương đường<註 n="1004"/>96. Lúc bấy giờ có vị Phạm chí<註 n="1005"/>97 tên là Thiện Niệm và đệ tử tên là Phạm-ma-đạt<註 n="1006"/>98; hai thầy trị thường cùng đi theo sau Phật, mà Phạm chí Thiện Niệm thì dùng vơ số phương tiện hủy báng Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng, đệ tử Phạm-ma-đạt thì bằng vơ số phương tiện tán thán Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Hai thầy trị mỗi người một tâm tư, mâu thuẫn chống trái nhau. Vì sao vậy? Ấy là do xu hướng dị biệt, kiến giải dị biệt, thân cận dị biệt<註 n="1007"/>99. Bấy giờ, số đơng Tỳ-kheo sau khi khất thực về<註 n="1008"/>100 nhóm tại giảng đường bàn câu chuyện như sau: “Kỳ diệu thay, hy hữu thay, Thế Tơn có đại thần lực, đầy đủ oai đức, biết hết mọi xu hướng của chúng sanh. Nhưng nay có hai thầy trị Thiện Niệm cùng đi theo sau Phật và chúng Tăng, mà Phạm chí Thiện Niệm thì dùng vơ số phương tiện hủy báng Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Đệ tử Phạm-ma-đạt thì bằng vơ số phương tiện tán thán Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Hai thầy trị mỗi người một tâm tư, mâu thuẫn chống trái nhau vì do xu hướng dị biệt, kiến giải dị biệt, thân cận dị biệt vậy.” Bấy giờ, Thế Tơn đang ở trong tịnh thất, bằng thiên nhó thanh tịnh quá hơn người thường, nghe các Tỳ-kheo đang luận bàn như thế, liền rời khỏi tịnh thất đi đến giảng đường, ngồi trước đại chúng. Tuy đã biết Ngài vẫn hỏi: “Này các Tỳ-kheo! Do nhân duyên gì mà các ơng nhóm lại đây và đang bàn luận câu chuyện gì?” Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Chúng con sau khi khất thực về, tập họp ở giảng đường này và cùng bàn luận như vầy: ‘Kỳ diệu thay, hy hữu thay, Thế Tơn có đại thần lực, đầy đủ oai đức, biết hết mọi xu hướng của chúng sanh. Nhưng nay có hai thầy trị Thiện Niệm cùng đi theo sau Phật và chúng Tăng, mà Phạm chí Thiện Niệm thì dùng vơ số phương tiện hủy báng Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Đệ tử Phạm-ma-đạt thì bằng vơ số phương tiện tán thán Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Hai thầy trị mỗi người một tâm tư, mâu thuẫn chống trái nhau vì do xu hướng dị biệt, kiến giải dị biệt, thân cận dị biệt vậy’.” Thế Tơn bèn nói với các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, nếu có ai dùng phương tiện hủy báng Như Lai, hủy báng Chánh pháp và chúng Tăng, các ngươi khơng nên ơm lịng phẫn nộ, có ý nghó ác hại đối với người ấy<註 n="1009"/>101. Vì sao vậy? Vì nếu có ai dùng phương tiện hủy báng Như Lai, hủy báng Chánh pháp và chúng Tăng mà các ngươi ơm lịng phẫn nộ, có ý nghó ác hại đối với người ấy<註 n="1010"/>102 thì tự các ngươi đã tự hãm nịch<註 n="1011"/>103 rồi. Vì vậy các ngươi khơng nên ơm lịng ốn giận hay có ý nghó ác hại đối với người ấy. “Này các Tỳ-kheo, nếu có ai khen ngợi Phật, Pháp và chúng Tăng, các ngươi cũng vội chớ lấy điều đó làm vui mừng, hãnh diện. Vì sao vậy? Vì nếu các ngươi sinh tâm vui mừng là đã bị hãm nịch rồi. Do đó các ngươi khơng nên vui mừng. Tại sao thế? Vì đó chỉ là duyên cớ nhỏ nhặt về oai nghi giới hạnh<註 n="1012"/>104, mà hàng phàm phu ít học, khơng thấu rõ thâm nghóa, chỉ bằng vào sở kiến để tán thán một cách chân thật. “Thế nào là duyên cớ nhỏ nhặt về oai nghi giới hạnh, mà hàng phàm phu ít học, khơng thấu rõ thâm nghóa, chỉ bằng vào sở kiến để tán thán một cách chân thật? “Người ấy tán thán rằng<註 n="1013"/>105 Sa-mơn Cù-đàm đã bỏ nghiệp sát, dứt nghiệp sát, xả bỏ dao gậy, có tàm quý, có tâm thương xót hết thảy. Đó chỉ là duyên cớ nhỏ nhặt về oai nghi giới hạnh mà hàng phàm phu ít học dựa lấy để tán thán Như Lai. “Lại tán thán rằng: Sa-mơn Cù-đàm đã bỏ sự lấy của khơng cho, dứt trừ sự lấy của khơng cho, khơng có tâm trộm cắp. “Sa-mơn Cù-đàm đã dứt bỏ sự dâm dục, tịnh tu phạm hạnh, một mực giữ giới, khơng tập thói dâm dật, sở hành tinh khiết. “Sa-mơn Cù-đàm đã dứt bỏ nói dối, mà nói lời nói chí thành, nói điều chân thật, khơng dối gạt người đời. “Sa-mơn Cù-đàm đã dứt bỏ nói hai lưỡi, khơng đem lời người này đến phá rối người kia, đem lời người kia đến phá rối người này, gặp kẻ tranh tụng làm cho hịa hợp, kẻ đã hịa hợp làm cho vui thêm, nói ra lời gì cũng cốt đem đến sự hịa hợp, thành thật đưa vào lịng người và nói phải lúc. “Sa-mơn Cù-đàm đã dứt bỏ ác khẩu. Nếu có lời thơ lỗ, thương tổn đến người, tăng thêm mối hận, kéo dài mối thù; những lời như vậy đều khơng nói. Thường nói lời hay, đẹp lịng người, ai cũng ưa, nghe khơng chán. Chỉ nói những lời như vậy. “Sa-mơn Cù-đàm đã dứt bỏ nói thêu dệt<註 n="1014"/>106, chỉ nói phải lúc, nói thành thật, nói có lợi, nói đúng pháp đúng luật, nói để ngăn ngừa sai quấy. “Sa-mơn Cù-đàm đã dứt bỏ uống rượu; khơng trang sức hương hoa<註 n="1015"/>107; khơng xem ca múa; khơng ngồi giường cao; khơng ăn phi thời; khơng cầm vàng bạc; khơng chứa vợ con, tớ trai, tớ gái; khơng nuơi heo ngựa, voi, dê, gà, chó và các thứ chim muơng; khơng chứa binh voi, binh ngựa, binh xe, binh bộ; khơng chứa ruộng nhà, gieo trồng ngũ cốc; khơng nắm quyền đánh đấm với người; khơng dùng cân đấu lường gạt; khơng mua bán, khốn ước, giao kèo; khơng cho vay cầm đồ lấy lãi bất chánh<註 n="1016"/>108. Cũng khơng âm mưu, trước mặt khác sau lưng khác; phi thời khơng đi; để nuơi sống thân, lường bụng mà ăn; đi đến chỗ nào thì y bát mang theo như chim khơng lìa hai cánh. Nhưng đó cũng chỉ là nhân duyên nhỏ nhặt về sự trì giới mà hàng phàm phu ít học nương lấy để tán thán Như Lai. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác dầu đã nhận của tín thí vẫn tìm cách tích trữ; y phục, ẩm thực khơng hề biết chán. Sa-mơn Cù-đàm khơng như vậy. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng vẫn kinh doanh sinh kế, trồng cây, gieo giống<註 n="1017"/>109. Cịn Sa-mơn Cù-đàm khơng có việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí nhưng vẫn tìm phương tiện mong cầu lợi dưỡng, chứa ngà voi tạp bảo, ghế giường cao rộng, thảm thêu, đệm bơng, chăn len các thứ thêu thùa. Sa-mơn Cù-đàm khơng có việc ấy. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí nhưng vẫn tìm phương tiện để trang sức, dùng dầu mỡ xoa mình, nước thơm tắm gội, bột thơm xơng ướp, chải đầu thơm láng, hoặc mang tràng hoa đẹp, nhuộm mắt xanh biếc, tơ điểm mặt mày, xâu bơng tai, soi gương, mang dép da quý, mặc áo trắng mịn, che dù, cầm phất lộng, trang sức cờ hiệu, cịn Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác chuyện trị du hí, chơi cờ đánh bạc, cờ tám đường, mười đường cho đến trăm ngàn đường, đủ các trị chơi. Sa-mơn Cù-đàm khơng như vậy. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng vẫn nói lời vơ ích chướng ngại đạo<註 n="1018"/>110, hoặc bàn việc vua chúa, quân mã, chiến đấu, việc quân liêu đại thần, xe ngựa ra vào, dạo chơi vườn quán và luận việc nữ nhân, nằm ngồi đi đứng, việc y phục, ăn uống, thân thích; lại nói chuyện vào biển tìm châu báu. Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy đã nhận thức ăn của tín thí, bằng vơ số phương tiện, làm điều tà mạng, chuốt lời dua nịnh, gợi ý, chê bai<註 n="1019"/>111, lấy lợi cầu lợi. Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng cùng nhau tranh cãi, hoặc nơi vườn quán, hoặc ở ao tắm, trong nhà, thị phi lẫn nhau, rằng: ‘Ta biết kinh luật. ngươi khơng biết gì; ta đi đường chánh, ngươi đi đường tà, đem trước để sau, lấy sau để trước; ta nhẫn ngươi được, ngươi khơng nhẫn được; ngươi nói điều gì đều khơng chánh đáng; nếu có nghi ngờ hãy đến hỏi ta, ta đáp cho cả.’ Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy đã ăn của tín thí, nhưng tìm đủ phương tiện làm thơng sứ cho vua, đại thần, Bà-la-mơn, cư só; đi từ đây đến kia, từ kia đến đây; đem tin qua lại, hoặc tự làm, hoặc dạy người làm. Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy đã ăn của tín thí, nhưng lo luyện tập chiến trận, đấu tranh, đao gậy cung tên, chọi gà, chó, heo, dê, voi, ngựa, trâu, lạc đà. Hoặc đấu tài trai gái, hoặc luyện các thứ tiếng, tiếng thổi, tiếng trống, tiếng ca, tiếng múa, luyện các trị kỹ thuật, leo cột phướn, leo xuơi leo ngược. Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của tín thí, nhưng hành pháp chướng ngại đạo, nuơi sống bằng cách tà vạy, như xem tướng trai gái tốt xấu lành dữ, xem tướng súc sinh, để cầu lợi dưỡng. Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng hành pháp chướng ngại đạo, nuơi sống bằng cách tà vạy, như kêu gọi quỷ thần, hoặc lại đuổi đi, các thứ ếm đảo, vơ số phương đạo, làm người khiếp sợ; có thể tụ, có thể tán; có thể làm cho khổ, có thể làm cho vui; có thể an thai, trục thai; hoặc phù chú người ta hóa làm lừa, ngựa; có thể khiến người điếc, đui, câm, ngọng; hiện các kỹ thuật; hoặc chắp tay hướng về mặt trời, mặt trăng; hành các khổ hạnh để cầu lợi dưỡng. Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng hành pháp chướng ngại đạo, nuơi sống bằng cách tà vạy; hoặc vì người mà chú đảo bệnh tật, đọc ác thuật, tụng thiện chú; làm thuốc thang, châm chích, trị liệu bệnh tật. Sa-mơn Cù-đàm khơng có việc đó. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn tuy ăn của người tín thí, nhưng hành pháp chướng ngại đạo<註 n="1020"/>112, sinh hoạt bằng tà mạng: hoặc chú<註 n="1021"/>113 nước lửa, hoặc chú quỷ thần<註 n="1022"/>114, hoặc chú Sát-lî, hoặc chú voi, hoặc chú chân tay<註 n="1023"/>115, hoặc bùa chú an nhà cửa; hoặc giải chú lửa cháy, chuột gặm; hoặc đọc sách đốn việc sống chết; hoặc đọc sách giải mộng; hoặc xem tướng tay, tướng mặt; hoặc đọc sách thiên văn; hoặc đọc sách hết thảy âm. Sa-mơn Cù-đàm khơng có những việc ấy. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, hành pháp chướng ngại đạo, sinh hoạt bằng tà mạng: xem tướng thiên thời, nói có mưa hay khơng mưa, thóc quý hay thóc rẻ, nhiều bệnh hay ít bệnh, kinh sợ hay an ổn; hoặc dự đốn động đất, sao chổi, nhật thực, nguyệt thực, tinh tú thực, hay khơng thực, phương vị ở đâu<註 n="1024"/>116; thảy đều ghi nhận cả. Sa-mơn Cù-đàm khơng có các việc ấy. “Như các Sa-mơn, Bà-la-mơn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng hành pháp chướng ngại đạo, sinh hoạt bằng tà mạng: hoặc nói nước này sẽ thắng, hoặc nói nước này chẳng bằng; xem tướng tốt xấu, bàn chuyện thịnh suy. Sa-mơn Cù-đàm khơng có việc ấy. “Các Tỳ-kheo, đấy chỉ là nhân duyên trì giới nhỏ nhặt, mà phàm phu ít học kia dựa vào để khen Phật.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Lại cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, duy chỉ đệ tử Hiền thánh mới có thể tán thán Như Lai bằng pháp này. Thế nào là pháp đại quang minh, mà đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai? Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y vào bổn kiếp bổn kiến<註 n="1025"/>117, mạt kiếp mạt kiến<註 n="1026"/>118, mà tùy ý lập thuyết với vơ số trường hợp khác nhau<註 n="1027"/>119. Tất cả được tóm thâu vào trong sáu mươi hai kiến. Bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, với vơ số trường hợp khác nhau, tùy ý lập thuyết, khơng thể vượt ra ngồi sáu mươi hai kiến. Các Sa-mơn, Bà-la-mơn kia, do duyên gì, y vào bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, mà tùy ý lập thuyết với vơ số trường hợp khác nhau; tất cả được tóm thâu vào trong sáu mươi hai kiến; chỉ chừng ấy, khơng hơn? “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, với vơ số trường hợp khác nhau, mỗi người tùy ý lập thuyết; tất cả được thâu tóm trong mười tám trường hợp<註 n="1028"/>120. Các Sa-mơn, Bà-la-mơn ấy do duyên gì, y bổn kiếp bổn kiến, với vơ số trường hợp khác nhau, tùy ý lập thuyết, tất cả được thâu tóm trong mười tám trường hợp; chừng ấy khơng hơn? “Những Sa-mơn, Bà-la-mơn nào y bổn kiến khởi thường trú luận<註 n="1029"/>121, nói rằng: ‘Bản ngã và thế giới thường tồn.’<註 n="1030"/>122 Tất cả thuyết này được thâu tóm vào trong bốn trường hợp. Y bổn kiếp bổn kiến mà nói: ‘Bản ngã và thế giới thường tồn’, tất cả được thâu tóm vào trong bốn trường hợp; chừng ấy khơng hơn. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn kia do duyên gì, y bổn kiếp bổn kiến, khởi thường trú luận, nói rằng, ‘bản ngã và thế giới thường tồn’, tất cả được thâu tóm trong bốn trường hợp, chừng ấy khơng hơn? “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội<註 n="1031"/>123, rồi bằng tam-muội tâm<註 n="1032"/>124, nhớ lại hai mươi thành kiếp và hoại kiếp<註 n="1033"/>125. Vị ấy bèn nói như vầy: ‘Bản ngã và thế gian thường tồn. Đây là thật, ngồi ra là dối. Vì sao? Tơi bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại hai mươi thành kiếp và hoại kiếp. Trong đó, chúng sanh khơng tăng, khơng giảm, thường trụ, khơng tán<註 n="1034"/>126. Tơi vì thế mà biết, ‘bản ngã và thế gian thường tồn.’ Đó là trường hợp điểm thứ nhất. Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã và thế giới thường trú, thuộc trong bốn quan điểm, chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại bốn mươi thành kiếp và hoại kiếp. Vị ấy bèn nói như vầy: ‘Bản ngã và thế gian thường tồn. Đây là thật, ngồi ra là dối. Vì sao? Tơi bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại bốn mươi thành kiếp và hoại kiếp. Trong đó, chúng sanh khơng tăng, khơng giảm, thường tụ, khơng tán. Tơi vì thế mà biết, ‘bản ngã và thế gian thường tồn.’ Đó là trường hợp điểm thứ hai. Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã và thế giới thường trú, thuộc trong bốn trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại tám mươi thành kiếp và hoại kiếp<註 n="1035"/>127. Vị ấy bèn nói như vầy: ‘Bản ngã và thế gian thường tồn. Đây là thật, ngồi ra là dối. Vì sao? Tơi bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại tám mươi thành kiếp và hoại kiếp. Trong đó, chúng sanh khơng tăng, khơng giảm, thường tụ, khơng tán. Tơi vì thế mà biết, ‘bản ngã và thế gian thường tồn.’ Đó là quan điểm thứ hai. Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã và thế giới thường trú, thuộc trong bốn trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, là người có trí tuệ nhạy bén, có năng lực quán sát khéo<註 n="1036"/>128 và bằng trí tuệ nhạy bén ấy, phương tiện quán sát, nghóa là suy xét kỹ, rồi bằng những điều mà mình đã thấy và bằng tài biện thuyết của mình, tuyên bố rằng: ‘Bản ngã và thế gian thường tồn.’ Đó là quan điểm thứ tư. Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó đối với bổn kiếp bổn kiến chủ trương ‘bản ngã và thế gian thường tồn’, thuộc trong bốn trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Như Lai biết rõ những cơ sở quan điểm này<註 n="1037"/>129 được nắm bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Sở tri của Như Lai vượt qua những thứ ấy. Tuy biết nhưng khơng bị dính mắc. Do khơng bị dính mắc nên được tịch diệt<註 n="1038"/>130; biết sự tập khởi của thọ; biết sự diệt tận, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất yếu của thọ<註 n="1039"/>131, do bình đẳng quán mà được vơ dư giải thốt, vì vậy được gọi là Như Lai<註 n="1040"/>132. “Đó gọi là, cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình đẳng. “Lại cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình đẳng<註 n="1041"/>133. Đó là pháp gì? “Một số Sa-mơn, Bà-la-mơn y bổn kiếp bổn kiến đề lên luận thuyết rằng ‘Bản ngã và thế gian, một nửa thường và một nửa vơ thường.<註 n="1042"/>134 ’ Các Sa-mơn, Bà-la-mơn nào nhân đó đối với bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã và thế gian một nửa thường và một nửa vơ thường, đều thuộc trong bốn trường hợp này; chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có một thời gian, kiếp này bắt đầu thành tựu<註 n="1043"/>135. Một số chúng sanh khác phước hết, mạng dứt, hành dứt, từ trời Quang âm<註 n="1044"/>136 mạng chung sanh vào Phạm thiên trống khơng<註 n="1045"/>137, tức thì đối với nơi ấy sanh tâm yêu thích, lại ước nguyện có các chúng sanh khác cùng sanh đến chỗ này. Chúng sanh này sau khi sanh tâm yêu thích và có ước nguyện như vậy rồi, lại có các chúng sanh khác mà mạng, hành và phước đều hết, chết ở trời Quang âm sanh đến Phạm thiên trống khơng. Chúng sanh này bèn nghó: ‘Ở đây, ta là Phạm, Đại phạm. Ta tự nhiên hiện hữu, khơng có ai tạo ra ta. Ta biết hết thảy nghóa điển<註 n="1046"/>138. Ta tự tại trong một ngàn thế giới, là tơn quý bậc nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc nhất. Là cha của chúng sanh, riêng mình ta hiện hữu trước nhất. Chúng sanh sanh ra sau này đều do ta hóa thành<註 n="1047"/>139.’ Chúng sanh sanh đến sau kia lại có ý nghó như vầy: ‘Vị kia là Đại phạm. Vị kia có khả năng tự tạo, khơng có ai là người sáng tạo ra vị ấy. Ngài biết rõ hết nghóa điển; tự tại trong một ngàn thế giới, tơn quý bậc nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc nhất. Là cha của chúng sanh, riêng vị ấy hiện hữu trước nhất. Chúng ta hiện hữu sau. Chúng sanh chúng ta đều do vị ấy hóa thành.’ Chúng sanh ở Phạm thiên kia khi mạng và hành đã hết bèn sanh đến thế gian; tuổi lớn dần, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, tự mình biết được đời trước, bèn nói như vầy: ‘Đại phạm kia có khả năng tự tạo; khơng do ai tạo ra. Ngài biết hết nghóa điển, tự tại trong một ngàn thế giới, là tơn quý bậc nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc nhất. Là cha của chúng sanh, thường trú bất biến. Nhưng các chúng sanh do Phạm thiên kia sáng tạo như chúng ta, chúng ta thì vơ thường biến dịch, khơng tồn tại lâu dài. Vì vậy biết rằng bản ngã và thế gian nửa thường và nửa vơ thường. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là trường hợp thứ nhất. Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến đề khởi luận thuyết nửa thường nửa vơ thường, thuộc trong bốn trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có chúng sanh<註 n="1048"/>140 thích vui đùa, biếng nhác, mãi mãi<註 n="1049"/>141 vui đùa lấy làm thỏa thích. Kia khi vui đùa thỏa thích, thân thể mệt mỏi, bèn thất ý<註 n="1050"/>142. Do thất ý mà mạng chung, sanh đến thế gian; tuổi lớn dần, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhập định ý tam-muội, từ tam-muội tâm, tự mình biết được đời trước, bèn nói như vầy: ‘Các chúng sanh cịn lại kia do khơng vui đùa thỏa thích nhiều nên thường trú ở chỗ kia. Ta do vui đùa thỏa thích nhiều nên phải chịu vơ thường, là pháp biến dịch. Vì vậy, ta biết rằng: bản ngã và thế gian nửa thường nửa vơ thường. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là trường hợp thứ hai; Sa-mơn Bà-la-mơn nhân đó đối với bổn kiếp bổn kiến đề khởi luận thuyết rằng bản ngã và thế giới nửa thường nửa vơ thường; thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có chúng sanh sau khi nhìn ngó nhau, liền thất ý<註 n="1051"/>143. Do thất ý mà mạng chung, sanh đến thế gian; tuổi lớn dần, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, tự mình biết được đời trước, bèn nói như vầy: ‘Các chúng sanh cịn lại kia do khơng nhìn ngó nhau nên khơng thất ý. Vì vậy, chúng thường trú bất biến. Chúng ta vì nhiều lần nhìn ngó nhau; sau khi nhìn ngó nhau nhiều lần liền thất ý, khiến cho phải vơ thường, là pháp biến dịch. Ta vì vậy biết rằng bản ngã và thế gian nửa thường nửa vơ thường. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là trường hợp thứ ba, các Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến đề xuất luận thuyết rằng bản ngã và thế giới nửa thường nửa vơ thường; thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, là người có trí tuệ nhạy bén, có năng lực quán sát khéo và bằng trí tuệ quán sát nhạy bén ấy và bằng trí biện thuyết của mình, tuyên bố rằng: ‘Bản ngã và thế gian nửa thường nửa vơ thường.’ Đó là quan điểm thứ tư, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến chủ trương ‘bản ngã và thế gian thường tồn’, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Như Lai biết rõ những cơ sở quan điểm này được nắm bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Sở tri của Như Lai vượt qua những thứ ấy. Tuy biết nhưng khơng bị dính mắc. Do khơng bị dính mắc nên được tịch diệt; biết sự tập khởi của thọ; biết sự diệt tận, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất yếu của thọï, do bình đẳng quán mà được vơ dư giải thốt, vì vậy được gọi là Như Lai. “Đó gọi là, cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình đẳng. “Lại cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình đẳng. Đó là pháp gì? “Một số Sa-mơn, Bà-la-mơn y bổn kiếp bổn kiến đề lên luận thuyết rằng ‘Bản ngã và thế gian là hữu biên và vơ biên’.<註 n="1052"/>144 Các Sa-mơn, Bà-la-mơn nào nhân đó y bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã và thế gian hữu biên và vơ biên, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, khởi lên vơ biên tưởng<註 n="1053"/>145, vị ấy nói rằng: ‘Thế gian là hữu biên<註 n="1054"/>146. Đây là thật, ngồi ra là dối. Vì sao? Ta bằng vơ số phương tiện nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, quán sát thấy rằng thế gian có biên tế. Vì vậy biết rằng thế gian là hữu biên. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là trường hợp thứ nhất, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến đề xướng luận thuyết rằng bản ngã và thế giới hữu biên, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, khởi lên vơ biên tưởng, vị ấy nói rằng: ‘Thế gian là vơ biên. Đây là thật, ngồi ra là dối. Vì sao? Ta bằng vơ số phương tiện nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, quán sát thấy rằng thế gian khơng có biên tế. Vì vậy biết rằng thế gian là hữu biên. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là trường hợp thứ hai, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến đề xướng luận thuyết rằng bản ngã và thế giới vơ biên, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng vơ số phương tiện, nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, quán sát thế gian, thấy rằng phương trên có biên, bốn phương khơng có biên<註 n="1055"/>147, vị ấy nói rằng: ‘Thế gian vừa hữu biên vừa vơ biên. Đây là thật, ngồi ra là dối. Vì sao? Ta bằng vơ số phương tiện nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, quán sát thấy phương trên có biên cịn bốn phương khơng có biên. Vì vậy biết rằng thế gian vừa hữu biên vừa vơ biên. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là trường hợp thứ ba, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến đề xướng luận thuyết rằng bản ngã và thế giới vơ biên, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, là người có trí tuệ nhạy bén, có năng lực quán sát khéo, rồi bằng trí tuệ quán sát nhạy bén và bằng trí biện thuyết của mình, tuyên bố rằng: ‘Bản ngã và thế gian khơng phải hữu biên, khơng phải vơ biên.’ Đó là trường hợp thứ tư, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến chủ trương ‘bản ngã và thế gian hữu biên hay vơ biên’, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Như Lai biết rõ những cơ sở quan điểm này được nắm bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Sở tri của Như Lai vượt qua những thứ ấy. Tuy biết nhưng khơng bị dính mắc. Do khơng bị dính mắc nên được tịch diệt; biết sự tập khởi của thọ; biết sự diệt tận, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất yếu của thọï, do bình đẳng quán mà được vơ dư giải thốt, vì vậy được gọi là Như Lai. “Đó gọi là, cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình đẳng. “Lại cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình đẳng. Đó là pháp gì? “Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, được hỏi khác nhưng trả lời khác<註 n="1056"/>148. Những vị ấy mỗi khi có người hỏi điều này hay điều khác, được hỏi khác, trả lời khác<註 n="1057"/>149, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. Các Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đóù y bổn kiếp bổn kiến, hỏi khác đáp khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Tơi khơng thấy, khơng biết, thiện ác có quả báo chăng? khơng có quả báo chăng?’<註 n="1058"/>150 Vì tơi khơng thấy, khơng biết nên nói như vầy: ‘Thiện ác có quả báo chăng? khơng có quả báo chăng? Thế gian có những Sa-mơn, Bà-la-mơn quảng bác, đa văn, thơng minh, trí tuệ, thường ưa nhàn tónh, cơ biện tinh vi, được người đời tơn trọng, có thể bằng trí tuệ phân tích khéo léo các quan điểm. Giả sử họ hỏi tơi những nghóa lý sâu sắc, tơi khơng thể đáp. Vì thẹn với vị ấy; vì sợ vị ấy, tơi phải dựa vào sự trả lời ấy làm chỗ quy y, làm hịn đảo, làm mái nhà, làm cứu cánh đạo. Giả sử kia có hỏi, tơi sẽ đáp như vầy: ‘Việc này như thế. Việc này là thật. Việc này khác. Việc này khơng khác. Việc này khơng phải khác, khơng phải khơng khác.’ Đó là trường hợp thứ nhất, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó hỏi khác đáp khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Tơi khơng thấy, khơng biết có thế giới khác chăng? Khơng có thế giới khác chăng?<註 n="1059"/>151 Trong đời có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, bằng thiên nhãn trí, tha tâm trí, có thể thấy những việc xa xơi. Những việc ấy tuy gần người khác nhưng người khác khơng thấy. Những người như vậy có thể biết có thế giới khác hay khơng có thế giới khác. Tơi khơng biết, khơng thấy có thế giới khác hay khơng có thế giới khác. Nếu tơi nói, thì đó là nói dối. Vì ghét nói dối, sợ nói dối<註 n="1060"/>152. Vì vậy, để làm chỗ quy y, làm hịn đảo, làm mái nhà, làm cứu cánh đạo, giả sử kia có hỏi, tơi sẽ đáp như vầy: ‘Việc này như vậy. Việc này là thật. Việc này khác. Việc này khơng khác. Việc này khơng phải khác, khơng phải khơng phải khơng khác.’ Đó là trường hợp thứ hai, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó hỏi khác đáp khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn có quan điểm như vầy, có luận thuyết như vầy: ‘Tơi khơng thấy, khơng biết thiện là gì, bất thiện là gì. Nếu tơi khơng thấy, khơng biết mà nói như vầy: đây là thiện, đây là bất thiện, thì do đây tơi sanh ái, từ ái sanh sân nhuế. Có ái, có nhuế, thì có thọ<註 n="1061"/>153 sanh. Tơi vì muốn diệt trừ thọ nên xuất gia tu hành.’ Kia do ghét thọ, kinh sợ thọ<註 n="1062"/>154. Vì để làm chỗ quy y, làm hịn đảo, làm mái nhà, làm cứu cánh đạo, nên giả sử kia có hỏi, tơi sẽ trả lời như vầy: ‘Việc này như vậy. Việc này là thật. Việc này khác. Việc này khơng khác. Việc này khơng phải khác, khơng phải khơng khác.’ Đó là trường hợp thứ ba, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó hỏi khác đáp khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn ngu si ám độn<註 n="1063"/>155, khi có người hỏi, thì tùy theo người hỏi mà trả lời rằng: ‘Việc này như vậy. Việc này là thật. Việc này khác. Việc này khơng khác. Việc này khơng phải khác, khơng phải khơng khác.’ Đó là trường hợp thứ tư, Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó hỏi khác đáp khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, hỏi khác đáp khác, tất cả thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Phật mới có thể biết rõ những cơ sở quan điểm này được nắm bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Sở tri của Như Lai vượt qua những thứ ấy. Tuy biết nhưng khơng bị dính mắc. Do khơng bị dính mắc nên được tịch diệt; biết sự tập khởi của thọ; biết sự diệt tận, vị ngọt, sựï tai hại và sự xuất yếu của thọï, do bình đẳng quán mà được vơ dư giải thốt, vì vậy được gọi là Như Lai. “Đó gọi là, cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình đẳng. “Lại cịn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình đẳng. Đó là pháp gì? “Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương rằng khơng có nguyên nhân mà xuất hiện có thế gian này. Chủ trương ấy thuộc hai trường hợp. Y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương vơ nhân mà xuất hiện có thế gian này<註 n="1064"/>156, thuộc trong hai trường hợp. Chừng ấy khơng hơn. “Sa-mơn, Bà-la-mơn kia nhân sự kiện gì, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương vơ nhân mà có, thuộc trong hai trường hợp, chừng ấy khơng hơn? “Có hạng chúng sanh vơ tưởng, vơ tri<註 n="1065"/>157. Khi chúng sanh kia sanh khởi tưởng, tức thì mạng chung, sanh đến thế gian này; rồi dần dần khơn lớn, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhập định ý tam-muội. Bằng tam-muội tâm mà biết được gốc đời trước của mình, vị ấy bèn nói như vầy: ‘Tơi vốn khơng có. Nay bỗng nhiên có<註 n="1066"/>158. Thế gian này vốn khơng, nay có. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là trường hợp thứ nhất, các Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương khơng nhân mà có, thuộc trong hai trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn có trí tuệ nhạy bén, có khả năng quán sát khéo léo. Vị ấy bằng trí tuệ quán sát nhạy bén, bằng trí tuệ biện luận của mình, nói như vầy: ‘Thế gian này hiện hữu khơng do nhân. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ Đó là trường hợp thứ hai, các Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương khơng nhân mà hiện hữu, mà có thế gian này, thuộc trong hai trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Phật mới có thể biết… (như trên). “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, với vơ số trường hợp khác nhau, mỗi người tùy ý lập thuyết; tất cả được thâu tóm trong mười tám trường hợp. Bổn kiếp bổn kiến, với vơ số trường hợp, tùy ý lập thuyết, thuộc trong mười tám trường hợp, chừng ấy khơng hơn. Duy chỉ Phật mới có thể biết… (như trên). “Lại có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp vi diệu, thâm sâu. Đó là pháp gì? Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y mạt kiếp mạt kiến<註 n="1067"/>159, với vơ số trường hợp, tùy ý lập thuyết, gồm bốn mươi bốn trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, với vơ số trường hợp, tùy lý lập thuyết, thuộc trong bốn mươi bốn trường hợp, chừng ấy khơng hơn? “Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y mạt kiếp mạt kiến, sanh hữu tưởng luận<註 n="1068"/>160, nói rằng thế gian có tưởng<註 n="1069"/>161, tất cả thuộc trong mười sáu trường hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, sanh hữu tưởng luận, nói rằng thế gian có tưởng, thuộc trong mười sáu trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, sanh tưởng luận, nói rằng thế gian có tưởng, thuộc trong mười sáu trường hợp, chừng ấy khơng hơn? “Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn có luận thuyết như vầy, có quan điểm như vầy: ‘Ta<註 n="1070"/>162, sau kết thúc này, sanh có tưởng có sắc. Đây là thật, ngồi ra là dối.’72 Đó là trường hợp thứ nhất, các Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó, y bổn kiếp bổn kiến, sanh tưởng luận, nói thế gian có tưởng, thuộc trong mười sáu luận chấp, chừng ấy khơng hơn. “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh vơ sắc có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có sắc vừa khơng sắc, có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng phải có sắc khơng phải vơ sắc, có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có biên<註 n="1071"/>163, có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng biên, có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có biên vừa khơng biên, có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng phải có biên cũng khơng phải khơng biên, có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh mà thuần lạc, có tưởng<註 n="1072"/>164. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Bản ngã, sau kết thúc này, sanh mà thuần khổ, có tưởng<註 n="1073"/>165. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Bản ngã, sau kết thúc này, sanh vừa có khổ vừa có lạc, có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng phải khổ, khơng phải lạc, có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có một tưởng<註 n="1074"/>166. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có đa biệt tưởng<註 n="1075"/>167. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có ít tưởng<註 n="1076"/>168. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có vơ lượng tưởng<註 n="1077"/>169. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Đó là mười sáu trường hợp, các Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó, y mạt kiếp mạt kiến, sanh tưởng luận, nói thế gian có tưởng, thuộc trong mười sáu trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Phật mới có thể biết, cũng như vậy… (như trên). “Lại có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp vi diệu, thâm sâu. Đó là pháp gì? Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y mạt kiếp mạt kiến, sanh vơ tưởng luận<註 n="1078"/>170, nói thế gian khơng có tưởng. Tất cả thuộc vào trong tám trường hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, sanh vơ tưởng luận, thuộc trong tám trường hợp này, chừng ấy khơng hơn. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, sanh vơ tưởng luận, nói thế gian khơng có tưởng, thuộc trong tám trường hợp, chừng ấy khơng hơn? “Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có sắc khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng sắc, khơng tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có sắc vừa khơng sắc, khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, khơng phải có sắc cũng khơng phải khơng có sắc, khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có biên, khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng có biên, khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có biên vừa khơng có biên, khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có người nói: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng phải có biên khơng phải khơng có biên, khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Đó là tám trường hợp. Nếu có Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó, y mạt kiếp mạt kiến, sanh vơ tưởng luận, nói thế gian khơng có tưởng; tất cả thuộc trong tám trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Phật mới có thể biết, cũng vậy (như trên). “Lại có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp vi diệu, sâu xa. Đó là pháp gì? Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, y mạt kiếp mạt kiến, sanh phi tưởng phi phi tưởng luận<註 n="1079"/>171, nói thế gian khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Tất cả thuộc trong tám trường hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, chủ trương phi tưởng phi phi tưởng luận, thuộc trong tám trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Sa-mơn, Bà-la-mơn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, chủ trương phi tưởng phi phi tưởng luận, thuộc trong tám trường hợp, chừng ấy khơng hơn? “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có sắc, khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng sắc, khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có sắc vừa khơng sắc, khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng phải có sắc khơng phải khơng sắc, khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh có biên, khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng có biên, khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có biên vừa khơng có biên, khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta, sau kết thúc này, sanh khơng phải có biên khơng phải khơng có biên, khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng. Đây là thật, ngồi ra là dối.’ “Đó là tám trường hợp. Nếu Sa-mơn, Bà-la-mơn nào nhân đó, y mạt kiếp mạt kiến, sanh phi hữu tưởng phi vơ tưởng, nói thế gian khơng phải có tưởng khơng phải khơng có tưởng, thảy đều thuộc trong tám trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Phật mới có thể biết, cũng vậy… như trên. “Lại có pháp khác, là ánh sáng của pháp vi diệu, sâu xa. Pháp đó là gì? Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y mạt kiếp mạt kiến, khởi lên đoạn diệt luận<註 n="1080"/>172, nói rằng chúng sanh hồn tồn đoạn diệt; tất cả thuộc trong bảy trường hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, khởi đoạn diệt luận, nói rằng chúng sanh hồn tồn đoạn diệt, thuộc trong bảy trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Sa-mơn, Bà-la-mơn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, khởi đoạn diệt luận, nói chúng sanh hồn tồn đoạn diệt, thuộc trong bảy trường hợp, chừng ấy khơng hơn? “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: ‘Ta<註 n="1081"/>173, với thân bốn đại, sáu nhập, do cha mẹ sanh, được nuơi nấng bằng sữa; trưởng thành nhờ áo cơm, nhờ vuốt ve, bồng ẳm; nhưng là vơ thường, chắc chắn đi đến chỗ hủy diệt.<註 n="1082"/>174’ Cho đến mức ấy, được gọi là đoạn diệt. Đó là trường hợp thứ nhất. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói như vầy: ‘Cái ta đây khơng thể gọi là đoạn diệt. Cái ta dục giới thiên<註 n="1083"/>175 mới đoạn diệt hồn tồn; cho đến mức ấy mới là đoạn diệt.’ Đó là trường hợp thứ hai. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói như vầy: ‘Đấy khơng phải là đoạn diệt. Ta sắc giới hóa thân, các căn đầy đủ<註 n="1084"/>176, đoạn diệt hồn tồn; chừng mức ấy mới gọi là đoạn diệt.’ “Hoặc có người nói: ‘Đấy khơng phải là đoạn diệt. Ta vơ sắc giới khơng xứ<註 n="1085"/>177 mới đoạn diệt.’ “Hoặc có người nói: ‘Đấy khơng phải là đoạn diệt. Ta vơ sắc thức xứ<註 n="1086"/>178 mới đoạn diệt.’ “Hoặc có người nói: ‘Đấy khơng phải đoạn diệt. Ta vơ sắc bất dụng xứ<註 n="1087"/>179 đoạn diệt.’ “Hoặc có người nói: ‘Đấy khơng phải là đoạn diệt. Ta vơ sắc hữu tưởng vơ tưởng xứ<註 n="1088"/>180 đoạn diệt.’ Đó là đoạn diệt thứ bảy. “Đó là bảy trường hợp, các Sa-mơn, Bà-la-mơn nhân đó, y mạt kiếp mạt kiến, nói các loại chúng sanh đoạn diệt hồn tồn, thuộc trong bảy trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Phật mới có thể biết, cũng vậy … (như trên). “Lại có pháp, là ánh sáng của đại pháp vi diệu, sâu xa. Đó là pháp gì? Có Sa-mơn, Bà-la-mơn, y mạt kiếp mạt kiến, đề xuất hiện tại Niết-bàn luận<註 n="1089"/>181, nói rằng chúng sanh trong hiện tại có Niết-bàn; thảy đều thuộc trong năm trường hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, chủ trương hiện tại Niết-bàn luận, thuộc trong năm kiến, chừng ấy khơng hơn. “Sa-mơn, Bà-la-mơn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, nói rằng chúng sanh trong hiện tại có Niết-bàn, thuộc trong năm trường hợp, chừng ấy khơng hơn? “Có Sa-mơn, Bà-la-mơn, quan điểm như vầy, luận thuyết như vầy: ‘Ta trong hiện tại phóng túng theo năm dục<註 n="1090"/>182, ấy là ta đạt Niết-bàn trong hiện tại.’ Đó là trường hợp thứ nhất. “Lại có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói như vầy: ‘Đó là hiện tại Niết-bàn, chớ khơng phải là khơng đúng. Nhưng cịn có Niết-bàn vi diệu bậc nhất mà ngươi khơng biết; chỉ ta biết mà thơi. Như ta ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc do định sanh, nhập Sơ thiền.<註 n="1091"/>183 ’ Đây mới là hiện tại Niết-bàn.’ Đó là trường hợp thứ hai. “Lại có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói như vầy: ‘Đó là hiện tại Niết-bàn, chớ khơng phải là khơng đúng<註 n="1092"/>184. Nhưng có Niết-bàn hiện tại vi diệu bậc nhất mà ngươi khơng biết; chỉ mình ta biết mà thơi. Như ta diệt giác quán, nội tâm tịch tónh, nhất tâm, khơng giác quán, hỷ lạc do định sanh, nhập đệ Nhị thiền. Chừng ấy mới gọi là hiện tại Niết-bàn.’ Đó là trường hợp thứ ba. “Lại có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói như vầy: ‘Đó là hiện tại Niết-bàn, chớ khơng phải là khơng đúng. Nhưng có Niết-bàn hiện tại vi diệu bậc nhất mà ngươi khơng biết; chỉ mình ta biết mà thơi. Như ta lìa hỷ, an trú xả và niệm, nhất tâm, thân cảm thọ lạc, điều mà Thánh nói, an trú lạc và xả, nhập đệ Tam thiền. Chừøng ấy mới là hiện tại Niết-bàn.’ Đó là trường hợp thứ tư. “Lại có Sa-mơn, Bà-la-mơn nói như vầy: ‘Đó là hiện tại Niết-bàn, khơng phải là khơng đúng. Nhưng cịn hiện tại Niết-bàn vi diệu bậc nhất mà ngươi khơng biết. Chỉ mình ta biết thơi. Như ta lạc diệt, khổ diệt, ưu hỷ đã trừ trước, khơng khổ khơng lạc, xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền. Ấy mới gọi là hiện tại Niết-bàn.’ Đó là trường hợp thứ năm. Nếu Sa-mơn, Bà-la-mơn nào chủ trương hiện tại Niết-bàn luận, thuộc trong năm trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy Phật mới có thể biết, cũng vậy… (như trên). “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y mạt kiếp mạt kiến, với vơ số trường hợp, tùy ý lập thuyết, thuộc trong bốn mươi bốn trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy Phật mới có thể biết các cơ sở quan điểm này, cũng như vậy (như trên). “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, với vơ số trường hợp, tùy ý lập thuyết, tất cả thuộc trong sáu mươi hai trường hợp. Y bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, với vơ số trường hợp, tùy ý lập thuyết, tất cả thuộc trong sáu mươi hai trường hợp, chừng ấy khơng hơn. “Duy chỉ Như Lai mới biết các cơ sở quan điểm ấy, cũng vậy (như trên). “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương thường trú luận, nói: ‘Bản ngã và thế giới là thường.’ Sa-mơn, Bà-la-mơn kia ở nơi đó phát sanh trí, nghóa là, tín dị biệt, dục dị biệt, học hỏi dị biệt, duyên dị biệt, giác dị biệt, kiến dị biệt, định dị biệt, nhẫn dị biệt. Nhân đấy mà sanh trí và kia do hiện hữu phổ biến mà được gọi là thọ<註 n="1093"/>185,… cho đến, hiện tại Niết-bàn, cũng lại như vậy. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn chủ trương thường trú luận, nói: ‘Thế gian là thường’, các vị ấy nhân bởi duyên là thọ mà khởi ái; sanh khởi ái mà tự mình khơng hay biết, bị nhiễm trước bởi ái, bị khuất phục bởi ái<註 n="1094"/>186,… cho đến hiện tại Niết-bàn; cũng lại như vậy. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương thường trú luận, nói ‘Thế gian là thường’, các vị ấy do bởi duyên là xúc. Nếu lìa xúc duyên thì khơng thể lập luận,… cho đến hiện tại Niết-bàn, cũng lại như vậy. “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, mỗi người tùy theo sở kiến mà nói; tất cả đều gồm trong sáu mươi hai kiến. Mỗi người tùy ý thuyết; thảy đều y trên đó, ở trong đó, chừng ấy khơng hơn. Cũng như người chài khéo, bằng tấm lưới dày mắt giăng trên ao nhỏ, nên biết, hết thảy các lồi thủy tộc trong ao đều lọt vào lưới, khơng chỗ tránh thốt, chừng ấy khơng hơn. Cũng vậy, các Sa-mơn, Bà-la-mơn, y bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, với nhiều thuyết khác nhau, tất cả thuộc vào sáu mươi hai kiến, chừng ấy khơng hơn. “Nếu Tỳ-kheo, đối với sự tập khởi của sáu xúc, sự diệt tận, vị ngọt, tai họa và sự xuất ly, mà biết rõ như thật, Tỳ-kheo ấy là người tối thắng, vượt ngồi các kiến ấy. Như Lai tự biết, sự sanh đã dứt, sở dó có thân là để phước độ chư Thiên, nhân loại. Nếu Như Lai khơng có thân, người đời khơng chỗ nương cậy. Cũng như cây Đa-la bị chặt ngọn khơng cịn sống trở lại nữa. Phật cũng vậy, đã đoạn sanh tử, vónh viễn khơng cịn tái sanh.” Khi Phật nói pháp này, đại thiên thế giới ba lần chuyển mình với sáu cách rung động. Lúc ấy, A-nan đứng sau Phật đang cầm quạt hầu Phật, liền trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng: “Pháp này rất sâu xa, nên gọi tên là gì? Nên phụng trì như thế nào?’ Phật bảo A-nan: “Nên đặt kinh này là Nghóa động, Pháp động, Kiến động, Ma động, Phạm động<註 n="1095"/>187.” Bấy giờø A-nan sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140882">22. KINH CHỦNG ĐỨC<註 n="1096"/>188 Tơi nghe như vầy: Một thời Phật ở tại Ương-già<註 n="1097"/>189, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người, du hành trong nhân gian, nghỉ đêm tại thành Chiêm-bà bên bờ hồ Già-già. Lúc ấy có Bà-la-mơn tên Chủng Đức<註 n="1098"/>190 sống ở Chiêm-bà. Thành ấy nhân dân đơng đúc, sầm uất, sung túc. Vua Ba-tư-nặc phong thành này cho Bà-la-mơn ấy làm phạm phần<註 n="1099"/>191. Người Bà-la-mơn này, bảy đời cha mẹ trở lại đều chân chánh khơng bị người khác khi dễ<註 n="1100"/>192, đọc tụng thơng suốt ba bộ sách của dị học<註 n="1101"/>193, có thể phân tích các thứ kinh thư; chỗ sâu xa của thế điển khơng thứ nào khơng nghiền ngẫm; lại giỏi xem tướng đại nhân, xem thời tiết tốt xấu, nghi lễ tế tự. Ơng có năm trăm đệ tử, dạy dỗ khơng bỏ phế. Bấy giờ, trong thành Chiêm-bà các Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só, nghe tin Sa-mơn Cù-đàm, con nhà họ Thích, xuất gia và thành đạo, từ Ương-già, du hành trong nhân gian, đến thành Chiêm-bà, ở bên bờ hồ Già-già. Ngài có tiếng tăm lớn, đồn khắp thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn, tự thân chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người<註 n="1102"/>194, lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối đều chân chánh, đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Bậc chân nhân như vậy nên đến viếng thăm. Nay ta cũng nên đến thăm Ngài.’ Nói như vậy xong, bèn rủ nhau ra khỏi thành Chiêm-bà, từng đồn lũ lượt nối nhau, muốn đến chỗ Phật. Lúc ấy, Bà-la-mơn Chủng Đức đang ngồi trên đài cao, từ xa trơng thấy đồn người lũ lượt nối nhau, bèn quay hỏi người hầu: “Những người ấy vì nhân duyên gì mà lũ lượt nối nhau, muốn đi đâu vậy?” Người hầu thưa: “Tơi nghe nói Sa-mơn Cù-đàm, con nhà họ Thích, xuất gia và thành đạo, từ Ương-già, du hành trong nhân gian, đến thành Chiêm-bà, ở bên bờ hồ Già-già. Ngài có tiếng tăm lớn, đồn khắp thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn, tự thân chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người<註 n="1103"/>195, lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chân chánh, đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Các Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só trong thành Chiêm-bà này tụ họp, nối nhau để đến thăm viếng Sa-mơn Cù-đàm vậy.” Rồi Bà-la-mơn Chủng Đức liền ra lệnh cho người hầu rằng: “Ngươi hãy nhanh chóng mang lời ta đến với các người ấy rằng: ‘Các ngươi hãy dừng lại một lát, hãy đợi ta đến, rồi cùng đi đến chỗ Cù-đàm kia’.” Người hầu tức thì mang lời của Chủng Đức đến nói với các người ấy rằng: “Các người hãy dừng lại một lát, hãy đợi ta đến, rồi cùng đi đến chỗ Cù-đàm kia.” Lúc ấy, mọi người trả lời rằng: “Ngươi hãy nhanh chóng trở về thưa với Bà-la-mơn rằng, nay thật là phải thời, nên cùng nhau đi.” Người hầu trở về thưa: “Những người ấy đã dừng rồi. Họ nói: nay thật là phải thời, nên cùng nhau đi.” Bà-la-mơn liền xuống đài, đến đứng cửa giữa. Bấy giờ có năm trăm Bà-la-mơn khác, có chút duyên sự, trước đó đã tụ tập dưới cửa. Thấy Bà-la-mơn Chủng Đức đến, thảy đều đứng dậy nghinh đón, hỏi rằng: “Đại Bà-la-mơn, ngài muốn đi đâu đây?” Chủng Đức đáp: “Có Sa-mơn Cù-đàm, con nhà họ Thích, xuất gia và thành đạo, từ Ương-già, du hành trong nhân gian, đến thành Chiêm-bà, ở bên bờ hồ Già-già. Ngài có tiếng tăm lớn, đồn khắp thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn, tự thân chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người, lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chân chánh, đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Bậc Chân nhân như vậy nên đến viếng thăm. Nay ta muốn đến thăm Ngài.” Năm trăm người Bà-la-mơn liền thưa với Chủng Đức: “Ngài chớ đi thăm. Vì sao? Kia nên đến đây chứ đây khơng nên đến kia. Nay Đại Bà-la-mơn, bảy đời cha mẹ đều chân chánh khơng bị gièm pha. Nếu đã có đủ điều kiện như vậy. Thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. Lại nữa, Đại Bà-la-mơn tụng đọc thơng suốt ba bộ sách dị học, có thể phân tích các loại kinh thư, những chỗ sâu xa của thế điển, khơng chỗ nào khơng nghiền ngẫm. Lại giỏi xem tướng đại nhân, xem tướng tốt xấu, nghi lễ tế tự. Đã thành tựu những pháp ấy, thì kia nên đến đây, chứ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại Bà-la-mơn dung mạo đoan chánh, có sắc tướng của Phạm thiên <註 n="1104"/>196. Đã thành tựu pháp ấy thì kia nên đến đây chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại Bà-la-mơn có giới đức tăng thượng<註 n="1105"/>197, trí tuệ thành tựu. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại Bà-la-mơn có lời nói nhu hịa, biện tài đầy đủ, nghóa và vị thanh tịnh. Đã có đủ pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại Bà-la-mơn là đại tơn sư, có đơng đệ tử. Đã có đủ pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại Bà-la-mơn thường dạy dỗ năm trăm Bà-la-mơn. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại Bà-la-mơn có học giả bốn phương đến xin thọ giáo, được hỏi các kỹ thuật, các pháp tế tự, thảy đều trả lời được cả. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại Bà-la-mơn được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa<註 n="1106"/>198 cung kính cúng dường. Đã thành tựu pháp thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại Bà-la-mơn trí tuệ sáng suốt, nói năng thơng lợi, khơng hề khiếp nhược. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia.” Chủng Đức nói với các Bà-la-mơn: “Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như điều các ơng nói. Tơi có đủ các đức ấy, chớ khơng phải khơng có. Nhưng các ơng hãy nghe tơi nói. Sa-mơn Cù-đàm có cơng đức<註 n="1107"/>199 mà chúng ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. Sa-mơn Cù-đàm từ bảy đời trở lại cha mẹ đều chân chánh khơng bị gièm pha. Kia đã thành tựu pháp này, chúng ta nên đến kia, chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm có dung mạo đoan chánh, xuất thân từ giai cấp Sát-lî. Đã thành tựu pháp này, chúng ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm sanh chỗ tơn quý, nhưng đã xuất gia hành đạo<註 n="1108"/>200. Thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm sắùc sáng đầy đủ, chủng tánh chân chánh, nhưng đã xuất gia tu đạo. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm sanh vào gia đình giàu có, có uy lực lớn, nhưng đã xuất gia hành đạo. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm có đủ giới Hiền thánh, thành tựu trí tuệ. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm khéo léo nơi ngơn ngữ, dịu dàng hịa nhã. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm là Bậc Đạo Sư của đại chúng, có đơng đệ tử. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm vónh viễn diệt trừ dục ái, khơng có sơ suất thơ tháo<註 n="1109"/>201, ưu tư và sợï hãi đã trừ, lơng tóc khơng dựng đứng<註 n="1110"/>202, hoan hỷ, hịa vui; được mọi người thì khen ngợi, khéo nói quả báo của hành vi<註 n="1111"/>203, khơng chê bai đạo khác. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm thường được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa lễ kính cúng dường. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia, chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm được Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la<註 n="1112"/>204 lễ kính cúng dường; cũng được Bà-la-mơn Phạm<註 n="1113"/>205, Bà-la-mơn Đa-lợi-già<註 n="1114"/>206, Bà-la-mơn Cứ Xỉ<註 n="1115"/>207, Thủ-ca-ma-nạp Đơ-da Tử<註 n="1116"/>208 thăm gặp cúng dường. Đã thành tựu pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm được Thanh văn đệ tử sùng phụng, lễ kính cúng dường; cũng được chư Thiên và các chúng quỷ thần khác cung kính. Các dịng họ Thích-ca, Câu-lî, Minh-ninh, Bạt-kỳ, Mạt-la, Tơ-ma<註 n="1117"/>209, thảy đều phụng thừa. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến ta. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm truyền trao cho vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa ba quy và năm giới. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm truyền trao ba quy năm giới cho Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la v.v… Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, đệ tử của Sa-mơn Cù-đàm thọ ba quy năm giới; chư Thiên, dịng họ Thích, Câu-lî v.v…, thảy đều thọ ba quy năm giới. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm khi du hành được hết thảy mọi người cung kính cúng dường. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, những thành quách, tụ lạc mà Sa-mơn Cù-đàm đã đến, đều được mọi người cúng dường. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, những nơi Sa-mơn Cù-đàm đi đến, các lồi phi nhân, quỷ thần khơng dám xúc nhiễu. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, những nơi Sa-mơn Cù-đàm đi đến, nhân dân ở đó đều thấy ánh sáng, nghe âm nhạc trời. Đã thành tựu pháp này thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến ta. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm khi muốn rời khỏi chỗ đã đến. Mọi người đều luyến mộ, khóc lóc mà tiễn đưa. Đã thành tựu pháp này thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Sa-mơn Cù-đàm khi mới xuất gia, cha mẹ khóc lóc, thương nhớ tiếc nuối. Đã thành tựu pháp này thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến ta. “Sa-mơn Cù-đàm xuất gia khi cịn trai trẻ, dẹp bỏ các thứ trang sức, voi, ngựa, xe báu, ngũ dục, anh lạc. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm khước từ ngơi vị Chuyển luân vương, xuất gia hành đạo. Nếu Ngài tại gia, sẽ trị vì bốn thiên hạ, thống lãnh dân vật, thì chúng ta đều là thần thuộc. Đã thành tựu pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm hiểu rõ Phạm pháp<註 n="1118"/>210, có thể nói cho người khác và cũng nói chuyện trao đổi với Phạm thiên. Đã thành tựu pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm đầy đủ cả ba hai tướng. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm có trí tuệ thơng suốt, khơng có khiếp nhược. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Cù-đàm kia nay đến thành Chiêm-bà này, ở bên bờ hồ Già-già, đối với ta là tơn quý, vả lại là khách. Ta nên thân hành đến thăm viếng.” Năm trăm Bà-la-mơn khi ấy thưa với Chủng Đức rằng: “Kỳ diệu thay, hy hữu thay, cơng đức của vị kia đến như vậy chăng? Trong các đức, vị kia chỉ cần có một đức là đã khơng nên đến đây rồi, huống hồ nay gồm đủ cả. Vậy ta hãy kéo hết đi thăm hỏi.” Chủng Đức đáp: “Ngươi muốn đi thì nên biết thời.” Rồi Chủng Đức cho thắng cỗ xe báu, cùng với năm trăm Bà-la-mơn và các trưởng giả trong thành Chiêm-bà trước sau vây quanh, đi đến hồ Già-già. Cách hồ khơng xa, ơng thầm nghó rằng: ‘Giả sử ta hỏi Cù-đàm, mà hoặc giả khơng vừa ý Ngài, thì vị Sa-mơn ấy sẽ chê trách ta, bảo rằng: ‘Nên hỏi như vầy. Khơng nên hỏi như vầy.’ Mọi người mà nghe được, cho rằng ta vơ trí, sẽ tổn hại cho thanh danh của ta. Giả sử Sa-mơn Cù-đàm hỏi ta về nghóa, mà ta đáp hoặc khơng vừa ý Ngài, vị Sa-mơn ấy sẽ khiển trách ta, bảo rằng: ‘Nên trả lời như vầy. Khơng nên trả lời như vầy.’ Mọi người mà nghe được, cho rằng ta vơ trí, sẽ tổn hại cho thanh danh của ta. Giả sử ở đây ta im lặng rồi trở về, mọi người sẽ nói: ‘Ơng này chẳng biết gì. Cuối cùng, khơng thể đến chỗ Sa-mơn Cù-đàm.’ Thế thì cũng tổn hại thanh danh của ta. Nếu Sa-mơn Cù-đàm hỏi ta về pháp của Bà-la-mơn, ta sẽ trả lời Cù-đàm đầy đủ, hợp ý Ngài.” Khi ấy, Chủng Đức ở bên bờ hồ suy nghó như vậy rồi, liền xuống xe đi bộ dẫn đầu đến chỗ Thế Tơn, chào hỏi xong, ngồi sang một bên. Bấy giờ các Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só thành Chiêm-bà, có người lễ Phật xong rồi ngồi; có người chào hỏi xong rồi ngồi; hoặïc có người xưng tên rồi ngồi; hoặc có người chắp tay hướng về Phật rồi ngồi; hoặc có người im lặng mà ngồi xuống. Khi mọi người đã ngồi yên, Phật biết ý nghó trong lịng của Chủng Đức, bèn bảo rằng: “Điều mà ơng suy nghó, hãy theo ước nguyện của ơng.” Rồi Phật hỏi Chủng Đức: “Bà-la-mơn của ơng có mấy pháp để thành tựu?” Bấy giờ Chủng Đức nghó thầm rằng: “Kỳ diệu thay, hy hữu thay, Sa-mơn Cù-đàm có đại thần lực mới thấy được tâm của người, đúng theo ý nghó của ta mà hỏi.” Bà-la-mơn Chủng Đức bèn ngồi thẳng người lên, nhìn bốn phía đại chúng, tươi cười hớn hở, rồi mới trả lời Phật rằng: “Bà-la-mơn của tơi có năm pháp để thành tựu, lời nói mới chí thành, khơng có hư dối<註 n="1119"/>211. Những gì là năm? “1. Bà-la-mơn có bảy đời cha mẹ chân chánh khơng bị người gièm pha. “2. Đọc tụng thơng lợi ba bộ dị học, có thể phân tích các thứ kinh thư, những chỗ u vi của thế điển, khơng chỗ nào khơng tổng luyện, lại có thể giỏi phép xem tướng đại nhân, xét rõ cát hung, nghi lễ tế tự.<註 n="1120"/>212 “3. Dung mạo đoan chánh<註 n="1121"/>213. “4. Trì giới đầy đủ<註 n="1122"/>214. “5. Trí tuệ thơng suốt. Đó là năm. Thưa Cù-đàm, Bà-la-mơn thành tựu năm pháp này, thì lời nói chí thành, khơng có hư dối.” Phật nói: “Lành thay, Chủng Đức, có Bà-la-mơn nào, trong năm pháp, bỏ một, thành tựu bốn, mà lời nói chí thành, khơng có hư dối chăng?” Chủng Đức bạch Phật: “Có. Vì sao? Thưa Cù-đàm, cần gì dịng họ<註 n="1123"/>215? Nếu Bà-la-mơn đọc tụng thơng suốt ba bộ dị học, phân tích các loại kinh thư, những chỗ u vi của thế điển, khơng đâu là khơng tổng luyện, lại giỏi phép xem tướng đại nhân, xét rõ cát hung, tế tự nghi lễ, dung mạo đoan chánh, trì giới đầy đủ, trí tuệ thơng suốt; có bốn pháp thì lời nói thành thật, khơng có hư dối.” Phật nói với Chủng Đức: “Lành thay, lành thay, nếu trong bốn pháp này, bỏ một, thành tựu ba, mà lời nói vẫn thành thật, khơng có hư dối, vẫn được gọi là Bà-la-mơn chăng?” Chủng Đức trả lời: “Có. Cần gì dịng dõi. Cần gì đọc tụng<註 n="1124"/>216. Nếu Bà-la-mơn có dung mạo đoan chánh, trì giới đầy đủ, trí tuệ thơng suốt; thành tựu ba pháp này, thì lời nói chân thành, khơng có hư dối; được gọi là Bà-la-mơn.” Phật nói: “Lành thay, lành thay. Thế nào, nếu trong ba pháp, bỏ một pháp, thành hai, mà kia lời nói vẫn chí thành, khơng có hư dối; được gọi là Bà-la-mơn chăng?” Đáp: “Có. Cần gì dịng dõi, đọc tụng và đoan chánh?”<註 n="1125"/>217 Lúc bấy giờ năm trăm Bà-la-mơn ai nấy đều lớn tiếng, nói với Bà-la-mơn Chủng Đức: “Sao lại chê bỏ dịng dõi, đọc tụng và đoan chánh, cho là khơng cần?” Thế Tơn nói với năm trăm Bà-la-mơn rằng: “Nếu Bà-la-mơn Chủng Đức có dung mạo xấu xí, khơng có dịng dõi, đọc tụng khơng thơng suốt, khơng có biện tài, trí tuệ, khéo trả lời, khơng đủ khả năng nói chuyện với Ta, thì các ngươi nên nói. Nếu Bà-la-mơn Chủng Đức có dung mạo đoan chánh, chủng tánh đầy đủ, đọc tụng thơng suốt, trí tuệ biện tài, giỏi vấn đáp, đủ khả năng cùng Ta luận nghị, thì các ngươi hãy im lặng, nghe người này nói.” Bấy giờ, Bà-la-mơn Chủng Đức bạch Phật: “Xin Cù-đàm tạm ngừng giây lát. Tơi sẽ tự mình dùng pháp đi khuyên bảo những người này.” Chủng Đức ngay sau đó nói với năm trăm Bà-la-mơn: “Ương-già Ma-nạp<註 n="1126"/>218 nay đang ở trong chúng này. Đó là cháu của ta. Các ngươi có thấy khơng? Nay các đại chúng cùng tụ hội hết ở đây. Duy trừ Cù-đàm có dung mạo đoan chánh, kỳ dư có ai bằng Ma-nạp này? Nhưng nếu Ma-nạp này sát sanh, trộm cướp, dâm dật, vơ lễ, dối trá, lừa gạt, lấy lửa đốt người, chận đường làm chuyện ác. Này các Bà-la-mơn, nếu Ương-già Ma-nạp này làm đủ chuyện ác, thế thì đọc tụng, đoan chánh, để làm gì?” Năm trăm Bà-la-mơn lúc ấy im lặng khơng trả lời. Chủng Đức bạch Phật: “Nếu trì giới đầy đủ, trí tuệ thơng suốt, thế thì lời nói chí thành, khơng hư dối, được gọi là Bà-la-mơn.” Phật nói: “Lành thay, lành thay, thế nào, Chủng Đức, trong hai pháp nếu bỏ một mà thành tựu một, thì lời nói vẫn thành thật, khơng có hư dối, được gọi là Bà-la-mơn chăng?” Đáp: “Khơng thể được. Vì sao? Giới tức trí tuệ. Trí tuệ tức giới. Có giới, có trí, sau đó lời nói mới thành thật, khơng có hư dối, tơi gọi là Bà-la-mơn.” Phật nói: “Lành thay, lành thay, đúng như ơng nói. Có giới thì có tuệ. Có tuệ thì có giới. Giới làm thanh tịnh tuệ. Tuệ làm thanh tịnh giới. Chủng Đức, như người rửa tay, tay trái và tay phải cần cho nhau. Tay trái rửa sạch tay phải, tay phải rửa sạch tay trái. Cũng vậy, có tuệ thì có giới. Có giới thì có tuệ. Giới làm sạch tuệ. Tuệ làm sạch giới. Bà-la-mơn, ai đầy đủ giới và tuệ, ta gọi người đó là Tỳ-kheo.<註 n="1127"/>219 ” Bấy giờ, Chủng Đức bạch Phật: “Thế nào là giới?” Phật nói: “Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe. Hãy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt từng điều một cho ơng nghe.” Đáp rằng: “Kính vâng. Vui lịng muốn nghe”. Bấy giờ, Phật nói với Chủng Đức: “Nếu Như Lai xuất hiện ở đời, là vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vơ Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tơn, ở giữa chư Thiên, Người đời, Sa-mơn, Bà-la-mơn, mà tự thân chứng ngộ, rồi giảng thuyết cho người; lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chân chánh, đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Nếu có trưởng giả, hay con trai trưởng giả, sau khi nghe pháp này, tín tâm thanh tịnh. Do tín tâm thanh tịnh, người ấy suy xét như vầy: ‘Tại gia thật khó, ví như gơng cùm; muốn tu hành phạm hạnh mà khơng thể tự tại. Ta nay hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.’ Người ấy, sau đó, từ bỏ gia đình, bỏ sản nghiệp, từ giã thân tộc, mặc ba pháp y, dẹp các trang sức, đọc tụng tỳ-ni, đầy đủ giới luật, từ bỏ khơng sát sanh,…, cho đến, tâm pháp Tứ thiền<註 n="1128"/>220, đạt được an lạc ngay trong hiện tại. Vì sao? Ấy là do tinh tấn, chuyên niệm khơng quên, ưa sống một mình chỗ thanh vắng mà được vậy. Bà-la-mơn, đó gọi là giới.” Lại hỏi: “Sao gọi là tuệ?” Phật nói: “Nếu Tỳ-kheo, bằng tam-muội tâm, thanh tịnh khơng cấu uế, mềm mại, dễ điều phục, an trú trạng thái bất động,… cho đến, chứng đắc ba minh, trừ khử vơ minh, phát sanh trí tuệ, diệt trừ tối tăm, sanh ánh sáng đại pháp, xuất trí tuệ lậu tận. Vì sao? Ấy là do tinh cần, chuyên niệm khơng quên, ưa sống một mình nơi thanh vắng mà được vậy. Bà-la-mơn, đó là đầy đủ trí tuệ.” Khi ấy, Chủng Đức liền bạch Phật rằng: “Nay con quy y Phật, Pháp, Thánh chúng. Cúi mong Thế Tơn nhận con làm Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay về sau, suốt đời khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu.” Bấy giờ, Chủng Đức Bà-la-mơn sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140883">23. KINH CỨU-LA-ĐÀN-ĐẦU<註 n="1129"/>221 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại nước Câu-tát-la<註 n="1130"/>222, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người du hành trong nhân gian, đến phía Bắc xóm Bà-la-mơn Khư-nậu-bà-đề<註 n="1131"/>223 ở Câu-tát-la, nghỉ đêm trong rừng Thi-xá-bà<註 n="1132"/>224. Bấy giờ, có Bà-la-mơn tên Cứu-la-đàn-đầu đang nghỉ tại thơn Khư-nậu-bà-đề. Xóm ấy sung túc, nhân dân đơng đúc, vườn quán, ao tắm, cây cối, trong xanh, tươi mát. Vua Ba-tư-nặc phong thơn ấy cho Bà-la-mơn Cứu-la-đàn-đầu làm phạm phần. Bà-la-mơn này từ bảy đời trở lại cha mẹ đều chân chánh khơng bị người khinh nhờn, đọc tụng thơng suốt ba bộ dị học, có khả năng phân tích các loại kinh thư. Thế điển u vi, khơng thứ nào khơng tổng luyện; lại giỏi phép xem tướng đại nhân, dự đốn cát hung, tế tự nghi lễ. Ơng có năm trăm đệ tử, dạy dỗ khơng hề bỏ phế. Khi ấy, Bà-la-mơn muốn thiết lễ đại tế<註 n="1133"/>225, chuẩn bị năm trăm con bị đực, năm trăm con bị cái, năm trăm con bê đực, năm trăm con bê cái, năm trăm con dê và năm trăm con cừu<註 n="1134"/>226 để dâng cúng. Lúc bấy giờ, các Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só trong thơn Khư-nậu-bà-đề nghe tin Sa-mơn Cù-đàm, con trai dịng họ Thích, đã xuất gia và thành đạo, từ nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, đến nghỉ ở rừng Thi-xá-bà. Ngài có tiếng tăm lớn, lan truyền khắp thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn. Mà tự thân chứng ngộ, rồi giảng pháp cho người, lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối đều chân chánh, đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. “Bậc Chân nhân như vậy, nên đến thăm viếng. Nay chúng ta hãy cùng đi thăm viếng Ngài”. Nói như vậy rồi, họ kéo nhau ra khỏi thơn Khư-nậu-bà-đề, từng đồn nối tiếp nhau, cùng đến chỗ Phật. Khi ấy Bà-la-mơn Cứu-la-đàn-đầu đang ở trên lầu cao, từ xa trơng thấy từng đồn người nối tiếp nhau, bèn quay lại hỏi người hầu: “Những người kia do nhân duyên gì mà từng đồn nối tiếp nhau, muốn đi đâu vậy?” Người hầu thưa: “Tơi nghe đồn, Sa-mơn Cù-đàm, con trai dịng họ Thích, đã xuất gia và thành đạo, từ nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, đến nghỉ ở rừng Thi-xá-bà. Ngài có tiếng tăm lớn, lan truyền khắp thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn. Mà tự thân chứng ngộ, rồi giảng thuyết pháp cho người, lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối đều chân chánh, đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Những người Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só trong thơn này, từng đồn nối tiếp nhau, muốn đến thăm viếng Sa-mơn Cù-đàm vậy.” Rồi Bà-la-mơn Cưu-la-đàn-đầu liền ra lệnh cho người hầu rằng: “Ngươi hãy nhanh chóng mang lời ta đến với các người ấy rằng: ‘Các khanh hãy dừng lại một lát, hãy đợi ta đến, rồi cùng đi đến chỗ Cù-đàm kia’.” Người hầu tức thì mang lời của Cứu-la-đàn-đầu đến nói với các người ấy rằng: “Các người hãy dừng lại một lát, hãy đợi ta đến, rồi cùng đi đến chỗ Cù-đàm kia”. Lúc ấy, mọi người trả lời rằng: “Ngươi hãy nhanh chóng trở về thưa với Bà-la-mơn rằng, nay thật là phải thời, nên cùng nhau đi.” Người hầu trở về thưa: “Những người ấy đã dừng rồi. Họ nói: nay thật là phải thời, nên cùng nhau đi.” Bà-la-mơn liền xuống đài, đến đứng cửa giữa. Bấy giờ có năm trăm Bà-la-mơn khác đang ngồi bên ngồi cửa giữa, giúp Cứu-la-đàn-đầu thiết lễ đại tự. Thấy Bà-la-mơn Cứu-la-đàn-đầu đến, thảy đều đứng dậy nghinh đón, hỏi rằng: “Đại Bà-la-mơn, ngài muốn đi đâu đây?” Cứu-la-đàn-đầu đáp: “Có Sa-mơn Cù-đàm, con nhà họ Thích, xuất gia và thành đạo, đang ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, đến rừng Thi-xá-bà, phía Bắc thơn Khư-nậu-bà-đề. Ngài có tiếng tăm lớn, đồn khắp thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn, tự thân chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người<註 n="1135"/>227, lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chân chánh, đầy đủ nghóa và vị, phạm hạnh thanh tịnh. Bậc Chân nhân như vậy nên đến viếng thăm. Này các ngài Bà-la-mơn, ta lại nghe nói Cù-đàm biết ba loại tế tự<註 n="1136"/>228, mười sáu tư cụ tế tự<註 n="1137"/>229. Ta tuy là hàng tiên học cựu thức trong chúng, nhưng có chỗ chưa biết rõ. Nay ta muốn cử hành đại tế tự, bị và dê đã đủ. Ta muốn đến Cù-đàm để hỏi về ba pháp tế tự và mười sáu tư cụ tế tự. Nếu chúng ta có được pháp tế tự rồi, cơng đức đầy đủ, tiếng tăm sẽ đồn xa.” Năm trăm người Bà-la-mơn liền thưa với Cứu-la-đàn-đầu: “Đại sư chớ đi. Vì sao? Kia nên đến đây chứ đây khơng nên đến kia. Đại sư có bảy đời cha mẹ đều chân chánh khơng bị gièm pha. Nếu đã có đủ yếu tố như vậy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. Lại nữa, Đại sư tụng đọc thơng suốt ba bộ sách dị học, có thể phân tích các loại kinh thư, thế điển u vi, khơng thứ nào là khơng tổng luyện. Lại giỏi xem tướng đại nhân, xem tướng tốt xấu, nghi lễ tế tự. Đã thành tựu những pháp ấy, thì kia nên đến đây, chứ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại sư dung mạo đoan chánh, có sắc tướng của Phạm thiên<註 n="1138"/>230. Đã thành tựu pháp ấy thì kia nên đến đây chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại sư có giới đức tăng thượng<註 n="1139"/>231, trí tuệ thành tựu. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia.” “Lại nữa, Đại sư có lời nói nhu hịa, biện tài đầy đủ, nghóa và vị thanh tịnh. Đã có đủ pháp ấy, thì kia nên đến đây chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại sư là vị dẫn đầu đại chúng, có đơng đệ tử. Đã có đủ pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại sư thường dạy dỗ năm trăm Bà-la-mơn. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại sư có học giả bốn phương đến xin thọ giáo; được hỏi các kỹ thuật, các pháp tế tự, thảy đều trả lời được cả. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại sư được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa<註 n="1140"/>232 cung kính cúng dường. Đã thành tựu pháp ấy thì kia nên đến đây chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại sư giàu có nhiều tài bảo, kho tàng đầy ắp. Đã thành tựu pháp ấy thì kia nên đến đây chớ đây khơng nên đến kia. “Lại nữa, Đại sư có trí tuệ sáng suốt, nói năng thơng lợi, khơng hề khiếp nhược. Đã thành tựu pháp ấy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. “Đại sư nếu đã đủ mười pháp như vậy, thì kia nên đến đây, chớ đây khơng nên đến kia. Cứu-la-đàn-đầu nói với các Bà-la-mơn: “Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như điều các ơng nói. Tơi thật có đủ các đức ấy, chớ khơng phải khơng có. Nhưng các ơng hãy nghe tơi nói. Sa-mơn Cù-đàm có cơng đức để chúng ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. Sa-mơn Cù-đàm từ bảy đời trở lại cha mẹ đều chân chánh khơng bị gièm pha. Kia đã thành tựu pháp này, chúng ta nên đến kia, chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm có dung mạo đoan chánh, xuất thân từ giai cấp Sát-lî. Đã thành tựu pháp này, chúng ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm sanh chỗ tơn quý, nhưng đã xuất gia hành đạo<註 n="1141"/>233. Thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm sắc sáng đầy đủ<註 n="1142"/>234, chủng tánh chân chánh, nhưng đã xuất gia tu đạo. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm sanh vào gia đình giàu có, có uy lực lớn, nhưng đã xuất gia hành đạo. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm có đủ giới Hiền thánh, thành tựu trí tuệ. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm khéo léo nơi ngơn ngữ, dịu dàng hịa nhã. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm là Bậc Đạo Sư của đại chúng, có đơng đệ tử. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm vónh viễn diệt trừ dục ái, khơng có sơ suất thơ tháo<註 n="1143"/>235, ưu tư và sợï hãi đã trừ, lơng tóc khơng dựng đứng<註 n="1144"/>236, hoan hỷ, hịa vui; được người<註 n="1145"/>237 khen thiện, khéo nói quả báo của hành vi<註 n="1146"/>238, khơng chê bai đạo khác. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm thường được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa lễ kính cúng dường. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia, chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm được Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la<註 n="1147"/>239 lễ kính cúng dường; cũng được Bà-la-mơn Phạm<註 n="1148"/>240, Bà-la-mơn Đa-lî-giá<註 n="1149"/>241, Bà-la-mơn Chủng Đức<註 n="1150"/>242, Thủ-ca Ma-nạp Đơ-da Tử<註 n="1151"/>243 thăm gặp cúng dường. Đã thành tựu pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm được Thanh văn đệ tử tơn thờ, lễ kính cúng dường; cũng được chư Thiên và các chúng quỷ thần khác cung kính. Các dịng họ Thích-ca, Câu-lî, Minh-ninh, Bạt-kỳ, Mạt-la, Tơ-ma, thảy đều tơn thờ. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia, chớ kia khơng nên đến ta. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm truyền trao cho vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa ba quy y và năm giới. Đãø thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm truyền trao ba quy năm giới cho Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la vân vân. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, đệ tử của Sa-mơn Cù-đàm thọ ba quy năm giới; chư Thiên, dịng họ Thích, Câu-lî…, đều thọ ba quy năm giới. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm khi du hành được hết thảy mọi người cung kính cúng dường. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, những thành quách, thơn ấp mà Cù-đàm đã đến, khơng đâu là khơng khuynh động, cung kính cúng dường<註 n="1152"/>244. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, những nơi Sa-mơn Cù-đàm đi đến, các lồi phi nhân, quỷ thần khơng dám xúc nhiễu. Đã thành tựu pháp này, ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, những nơi Sa-mơn Cù-đàm đi đến, nhân dân ở đó đều thấy ánh sáng, nghe âm nhạc trời. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm khi muốn rời khỏi chỗ đã đến. Mọi người đều luyến mộ, khóc lóc mà tiễn đưa. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Sa-mơn Cù-đàm khi mới xuất gia, cha mẹ, tơng thân, khóc lóc, thương nhớ tiếc nuối. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến ta. “Sa-mơn Cù-đàm xuất gia khi cịn trai trẻ, dẹp bỏ các thứ trang sức, voi, ngựa, xe báu, ngũ dục, anh lạc. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm khước từ ngơi vị Chuyển luân vương, xuất gia hành đạo. Nếu Ngài tại gia, sẽ trị vì bốn thiên hạ, thống lãnh dân vật, thì chúng ta đều là thần thuộc. Đã thành tựu pháp ấy, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm hiểu rõ Phạm pháp, có thể nói cho người khác và cũng nói chuyện trao đổi với Phạm thiên. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm đầy đủ cả ba mươi hai tướng. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Lại nữa, Sa-mơn Cù-đàm có trí tuệ thơng suốt, khơng có khiếp nhược. Đã thành tựu pháp này, thì ta nên đến kia chớ kia khơng nên đến đây. “Cù-đàm kia nay đến thơn Khư-nậu-bà-đề này, đối với ta là tơn quý, vả lại là khách. Ta nên thân hành đến thăm viếng.” Năm trăm Bà-la-mơn khi ấy thưa với Cứu-la-đàn-đầu rằng: “Kỳ diệu thay, hy hữu thay, cơng đức của vị kia đến như vậy chăng? Trong các đức, giả sử Cù-đàm chỉ cần có một đức là đã khơng nên đến đây rồi, huống hồ nay gồm đủ cả. Vậy ta hãy kéo hết đi thăm hỏi.” Cứu-la-đàn-đầu đáp: “Các ngươi muốn đi thì nên biết thời.” Rồi Bà-la-mơn liền thắng cỗ xe báu, cùng với năm trăm Bà-la-mơn và các Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só ở Khư-nậu-bà-đề, trước sau vây quanh, đi đến rừng Thi-xá-bà. Đến nơi, xuống xe, đi bộ, tiến đến chỗ Thế Tơn, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Trong lúc ấy, trong số các Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só, có người lễ Phật rồi ngồi xuống; có người chào hỏi xong rồi ngồi xuống; có người chỉ xưng tên rồi ngồi xuống; có người chắp tay hướng về Phật rồi ngồi xuống; có người im lặng ngồi xuống. Khi mọi người ngồi yên chỗ, Cứu-la-đàn-đầu bạch Phật rằng: “Tơi có điều muốn hỏi. Nếu Ngài có rỗi, cho phép, tơi mới dám hỏi. Phật nói: “Xin cứ hỏi tùy ý.” Bà-la-mơn bạch Phật: “Tơi nghe nói Cù-đàm thơng hiểu ba loại tế tự và mười sáu tư cụ tế tự, là những điều mà chúng tơi, tiên túc kỳ cựu, khơng hiểu biết. Nay chúng tơi muốn cử hành đại tế tự; đã chuẩn bị đủ năm trăm bị đực, năm trăm bị cái, năm trăm bê đực, năm trăm bê cái, năm trăm con dê, năm trăm con cừu. Hơm nay cố ý đến đây, tơi muốn hỏi ba pháp tế tự và mười sáu tế cụ. Nếu tế tự này mà được thành tựu, sẽ được quả báo lớn, tiếng tăm đồn xa, được trời và người kính trọng.” Bấy giờ, Thế Tơn nói với Cứu-la-đàn-đầu rằng: “Nay ơng hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ, tơi sẽ giảng thuyết cho.” Bà-la-mơn nói: “Xin vâng, thưa Cù-đàm, tơi rất muốn nghe.” Rồi Phật nói với Cứu-la-đàn-đầu: “Vào một thời quá khứ xa xưa, có vị vua Quán đảnh thuộc dịng Sát-lî<註 n="1153"/>245, muốn thiết lễ đại tự, tập họp đại thần Bà-la-mơn<註 n="1154"/>246 đến bảo rằng: Ta nay rất giàu có, tài bảo dồi dào, ngũ dục thỏa mãn. Tuổi ta đã già yếu. Dân chúng cường thịnh, khơng có sự khiếp nhược. Kho tàng đầy ắp. Nay ta muốn thiết lễ đại tự. Theo các ngươi, pháp tế tự cần những gì?” Khi ấy, có vị đại thần kia tâu vua rằng: “Tâu Đại vương, quả như lời Đại vương, nước giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Nhưng dân chúng phần nhiều ơm ác tâm, tập các phi pháp. Nếu tế tự vào lúc này thì khơng thành phép tế tự. Như sai ăn cướp đuổi ăn cướp, thì sự sai khiến chẳng thành. “Tâu Đại vương, chớ nghó rằng, đây là dân của ta; ta có thể đánh, có thể giết, có thể khiển trách, có thể ngăn cấm. Những kẻ gần gũi vua, nên cung cấp chúng những thứ cần yếu. Những người buơn bán, nên cung cấp chúng tài bảo. Những người chuyên tu điền sản, hãy cung cấp chúng bị, bê, hạt giống. Chúng mỗi người tự mình kinh doanh. Vương khơng bức bách dân, thì dân được an ổn, nuơi nấng con cháu, cùng nhau vui đùa.” Phật lại nói với Cứu-la-đàn-đầu: “Rồi thì, sau khi nghe lời của các đại thần, vua liền cung cấp y phục ẩm thực cho những người thân cận, tài bảo cho những người buơn bán, trâu bị, thóc giống cho những người làm ruộng. Bấy giờ nhân dân mỗi người tự lo cơng việc của mình, khơng xâm hại nhau, nuơi nấng con cháu, cùng nhau vui đùa.” Phật lại nói: “Sau đó, vua lại triệu quần thần đến bảo rằng: ‘Ta nước giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Ta cung cấp cho nhân dân khơng thiếu thốn cái gì. Chúng nuơi dưỡng con cháu, cùng nhau vui đùa. Nay ta muốn thiết lễ đại tự. Theo các ngươi, phép tế tự cần có những gì?’ “Các đại thần tâu: “Đúng vậy, đúng vậy, như lời Đại vương nói, ‘Nước giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Ta cung cấp cho nhân dân khơng thiếu thốn cái gì. Chúng nuơi dưỡng con cháu, cùng nhau vui đùa.’ Nếu Đại vương muốn tế tự, có thể truyền lệnh cho cung nội biết. “Vua làm như lời các đại thần; vào truyền lệnh cung nội: ‘Ta nước giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Ta cung cấp cho nhân dân khơng thiếu thốn cái gì. Chúng nuơi dưỡng con cháu, cùng nhau vui đùa. Nay ta muốn thiết lễ đại tự.’ “Các phu nhân liền tâu vua: “Đúng vậy, đúng vậy, như lời Đại vương, nước giàu binh mạnh, kho tàng đầy ắp, tài bảo dồi dào. Nếu muốn tế tự, nay thật đúng lúc. Vua trở ra, báo cho quần thần biết: “Ta nước giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Ta cung cấp cho nhân dân khơng thiếu thốn cái gì. Chúng nuơi dưỡng con cháu, cùng nhau vui đùa. Nay ta muốn thiết lễ đại tự. Ta đã truyền lệnh cung nội. Các ngươi hãy nói hết cho ta, cần có những thứ gì? “Bấy giờ, các đại thần liền tâu vua rằng: “Đúng vậy, đúng vậy, như lời Đại vương nói. Đại vương muốn tế tự. Đã truyền cho nội cung biết, nhưng chưa nói cho thái tử, hồng tử, đại thần, tướng só biết<註 n="1155"/>247. Đại vương nên lệnh truyền cho biết. “Vua nghe lời các đại thần, bèn truyền lệnh cho thái tử, hồng tử, đại thần, tướng só rằng: “Ta nước giàu binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Nay ta muốn thiết lễ đại tự. “Khi ấy, thái tử, hồng tử, quần thần và các tướng só, tâu vua rằng: “Đúng vậy, đúng vậy, như lời Đại vương, nước giàu binh mạnh, kho tàng đầy ắp, tài bảo dồi dào. Nếu muốn tế tự, nay thật đúng lúc. “Vua lại báo cho quần thần biết: “Ta nước giàu, binh mạnh, kho tàng đầy ắp. Tài bảo dồi dào. Nay ta muốn thiết lễ đại tự. Ta đã truyền lệnh cung nội, thái tử, hồng tử, cho đến tướng só. Nay muốn thiết lễ đại tự, cần có những thứ gì? Các đại thần liền tâu: “Như lời Đại vương. Muốn thiết lễ đại tự, nay chính là lúc. “Vua nghe lời, cho dựng những ngơi nhà mới ở thành Đơng. Vua đi vào nhà mới. Mình khốc áo da hươu, thoa mình bằng dầu bơ thơm, lại đội sừng hươu lên đầu. Sai trét phân bị lên đất, rồi ngồi nằm trên đó. Rồi đệ nhất phu nhân, đại thần Bà-la-mơn, chọn một con bị cái màu vàng. Một phần sữa để vua ăn; một phần sữa để cho phu nhân ăn; một phần sữa để cho đại thần ăn; một phần sữa cúng dường đại chúng, cịn lại cho bê. Bấy giờ, nhà vua thành tựu tám pháp, đại thần thành tựu bốn pháp. “Những gì là tám pháp nhà vua thành tựu? “Nhà vua thuộc dịng Sát-lî, từ bảy đời trở lại cha mẹ đều chân chánh, khơng bị người khinh chê. Đó là thành tựu pháp thứ nhất. Nhà vua thuộc dịng tộc Sát-lî, có dung mạo đoan chánh. Đó là pháp thứ hai. “Nhà vua có giới đức tăng thạnh, trí tuệ đầy đủ. Đó là pháp thứ ba. Nhà vua tập đủ các loại kỹ thuật: cưỡi voi, xe ngựa, đao mâu, cung tên, phương pháp chiến đấu; khơng thứ nào là khơng biết. Đó là pháp thứ tư. Nhà vua có uy lực lớn, thâu nhiếp các tiểu vương; khơng ai khơng thần phục. Đó là pháp thứ năm. Nhà vua khéo léo về ngơn ngữ, lời nói dịu dàng, đầy đủ nghóa và vị. Đó là pháp thứ sáu. Nhà vua có tài bảo dồi dào, kho tàng đầy ắp. Đó là pháp thứ bảy. Nhà vua có trí mưu, dũng mãnh, quả cảm, khơng hề run sợ. Đó là pháp thứ tám.<註 n="1156"/>248 Nhà vua thuộc dịng Sát-lî kia thành tựu tám pháp này. “Thế nào là đại thần<註 n="1157"/>249 thành tựu bốn pháp? Đại thần Bà-la-mơn kia từ bảy đời nay cha mẹ đều chân chánh khơng bị người khinh chê; đó là pháp thứ nhất. Đại thần đọc tụng thơng suốt ba bộ dị học, có khả năng phân tích các loại kinh thư; thế điển u vi, khơng thứ nào khơng tổng luyện; lại giỏi phép xem tướng đại nhân, dự đốn tốt xấu, tế tự nghi lễ; đó là pháp thứ hai. Lại nữa, đại thần giỏi về ngơn ngữ, lời nói dịu dàng, nghóa vị đầy đủ; đó là pháp thứ ba. Lại nữa, đại thần có trí mưu, dũng cảm, quả quyết, khơng hề run sợ; thấu hiểu tất cả mọi pháp tế tự; đó là pháp thứ tư.<註 n="1158"/>250 “Bấy giờ, vua thành tựu tám pháp; đại thần Bà-la-mơn thành tựu bốn pháp; và vua có đủ bốn viện trợ. Đó là, ba pháp tế tự, với mười sáu tư cụ tế tự. “Bấy giờ, đại thần Bà-la-mơn ở nơi ngơi nhà mới mở bày tâm ý của vua bằng mười sáu việc, dứt trừ ý tưởng nghi ngờ của vua. Mười sáu việc ấy là gì? Đại thần tâu vua: “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng từ bảy đời trở lại cha mẹ vua khơng chân chánh, thường bị người khinh chê. Giả sử có lời ấy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương từ bảy đời nay cha mẹ đều chân chánh. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng dung mạo xấu xí, khơng thuộc dịng dõi Sát-lî. Giả sử có lời ấy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương có dung mạo đoan chánh, thuộc dịng dõi Sát-lî. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng có giới tăng thượng, trí tuệ khơng đầy đủ. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương giới đức tăng thượng, trí tuệ đầy đủ. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng giỏi các thuật: cưỡi voi, xe ngựa, các thứ binh pháp cũng khơng biết. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương giỏi các kỹ thuật, binh pháp chiến trận, khơng thứ nào khơng biết. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng có uy lực lớn để thống nhiếp các tiểu vương. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương có uy lực lớn, thống nhiếp các tiểu vương. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng giỏi ngơn ngữ; lời nói thơ lỗ, khơng đủ nghóa vị. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương giỏi ngơn ngữ, lời nói dịu dàng, đầy đủ nghóa và vị. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng có nhiều tài bảo. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương có nhiều tài bảo, kho lẫm tràn đầy. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng có trí mưu, ý chí khiếp nhược. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương có trí mưu, dũng mãnh và quả cảm, khơng hề khiếp nhược. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng nói với nội cung. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương muốn tế tự, trước đã nói cho nội cung. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng nói với thái tử và các hồng tử. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương muốn tế tự, trước đã nói với thái tử và các hồng tử. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng nói với quần thần. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương muốn tế tự, trước đã nói với quần thần. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng khơng nói với tướng só. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Đại vương muốn tế tự, trước đã nói với tướng só. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng Bà-la-mơn đại thần từ bảy đời trở lại cha mẹ khơng chân chánh, bị người khinh chê. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Tơi bảy đời trở lại cha mẹ chân chánh, khơng bị người khinh chê. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng Bà-la-mơn đại thần khơng đọc tụng thơng suốt ba bộ dị học, khơng có khả năng phân tích các thứ kinh thư, thế điển u vi khơng hề lão luyện, khơng giỏi phép xem tướng đại nhân, dự đốn cát hung, tế tự nghi lễ. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Tơi đọc tụng thơng suốt ba bộ dị học, có khả năng phân tích các thứ kinh thư, thế điển u vi khơng thứ nào khơng lão luyện, lại giỏi phép xem tướng đại nhân, dự đốn cát hung, tế tự nghi lễ. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng Bà-la-mơn đại thần khơng giỏi ngơn ngữ; nói năng thơ lỗ, nghóa vị khơng đủ. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Tơi khéo léo nơi ngơn ngữ; nói năng dịu dàng, đầy đủ nghóa và vị. “Hoặc có người nói, nay vua Sát-lî muốn cử hành đại tự, nhưng Bà-la-mơn đại thần khơng đủ mưu trí, ý chí khiếp nhược, khơng hiểu rõ phép tế tự. Giả sử có lời như vậy, Đại vương vẫn khơng bị ơ uế. Vì sao? Tơi đủ mưu trí, ý chí khơng khiếp nhược, khơng phép tế tự nào mà khơng hiểu rõ.” Phật bảo Cứu-la-đàn-đầu: “Nhà vua có mười sáu chỗ ngờ vực, mà đại thần kia cởi mở ý vua bằng mười sáu việc như thế.” Rồi Phật nói tiếp: “Bấy giờ, vị đại thần ở nơi ngơi nhà mới, bằng mười sự hành<註 n="1159"/>251, chỉ bày, khuyến khích, khiến cho được ích lợi, hoan hỷ cho nhà vua. Những gì là mười? “Vị đại thần nói: Khi Đại vương tế tự, những kẻ sát sanh hay những kẻ khơng sát sanh cùng tụ hội đến. Hãy bố thí cho họ một cách bình đẳng. Nếu có những kẻ sát sanh đến, cũng bố thí cho và kia sẽ tự biết lấy. Kẻ khơng sát sanh đến, cũng bố thí cho, vì lý do ấy mà bố thí; bố thí với tâm như vậy<註 n="1160"/>252. Nếu có những kẻ trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, ỷ ngữ, tham lam, tật đố, tà kiến, cùng tụ hội đến, hãy bố thí cho họ. Kia sẽ tự biết lấy. Nếu những kẻ khơng trộm cắp, cho đến, có chánh kiến, cùng đến, cũng hãy bố thí cho họ, vì sự ấy mà bố thí, bố thí với tâm như vậy. Phật lại nói với Bà-la-mơn: “Vị đại thần kia, bằng mười sự hành này, chỉ bày, khuyến khích, khiến cho được lợi ích, hoan hỷ.” “Rồi thì, vua Sát-lî kia ở nơi ngơi nhà mới sanh ba tâm hối tiếc. Vị đại thần khiến cho được dứt trừ. Ba tâm hối là gì? “Nhà vua sanh tâm hối tiếc rằng: Ta nay tổ chức đại tự, đã làm đại tự, sẽ làm đại tự, đang làm đại tự. Tốn nhiều tài bảo. Đại thần tâu vua: Đại vương đã tổ chức đại tự, đã bố thí, sẽ bố thí, đang bố thí. Khơng nên sanh hối tiếc đối với tế tự có phước này. “Như thế, nhà vua khi ở ngơi nhà mới có ba sự hối tiếc, đã được đại thần dứt trừ.” Phật lại nói với Bà-la-mơn: “Bấy giờ, vua Quán đảnh dịng Sát-lî, vào ngày rằm, khi trăng trịn, ra khỏi ngơi nhà mới, tại khoảng đất trống trước nhà, đốt lên một đống lửa lớn. Tay vua cầm bình dầu rót lên ngọn lửa, xướng lên rằng: ‘Hãy cho! Hãy cho!’<註 n="1161"/>253 “Khi ấy phu nhân của vua hay tin nhà vua, vào ngày rằm trăng trịn, ra khỏi nhà mới, tại khoảng đất trống trước nhà, đốt lên một đống lửa lớn, tay cầm bình dầu rót lên ngọn lửa, xướng lên rằng: ‘Hãy cho! Hãy cho!’ Bà cùng với thể nữ cầm nhiều tài bảo, đi đến chỗ vua, tâu vua rằng: “Các tạp bảo này, giúp Đại vương làm tế tự. “Này Bà-la-mơn, nhà vua liền nói với phu nhân và thể nữ rằng: “Thơi, đủ rồi. Các ngươi như thế là đã cúng dường rồi. Ta có sẵn tài bảo riêng mình, đủ để tế tự.’ “Phu nhân và các thể nữ suy nghó: ‘Chúng ta khơng nên mang các bảo vật này trở về nội cung. Nếu khi đức vua thiết lễ đại tự ở phương Đơng, chúng ta sẽ dùng để hỗ trợ. “Này Bà-la-mơn, sau đó nhà vua ở phương Đơng thiết lễ đại tự, khi ấy phu nhân và các thể nữ liền đem các bảo vật ấy trợ giúp thiết lễ đại tự. “Bấy giờ, thái tử, hồng tử, hay tin nhà vua, vào ngày rằm trăng trịn, ra khỏi nhà mới, tại khoảng đất trống trước nhà, đốt lên một đống lửa lớn, tay cầm bình dầu rót lên ngọn lửa, xướng lên rằng: ‘Hãy cho! Hãy cho!’ Thái tử, hồng tử cầm nhiều tài bảo, đi đến chỗ vua, tâu vua rằng: “Các tạp bảo này, giúp Đại vương làm tế tự. “Này Bà-la-mơn, nhà vua liền nói với thái tử và hồng tử. “Thơi, đủ rồi. Các ngươi như thế là đã cúng dường rồi. Ta có sẵn tài bảo riêng mình, đủ để tế tự. “Thái tử, hồng tử suy nghó: ‘Chúng ta khơng nên mang các bảo vật này trở về. Nếu khi đức vua thiết lễ đại tựï ở phương Nam, chúng ta sẽ dùng để hỗ trợ.’ “Này Bà-la-mơn, sau đó nhà vua ở phương thiết lễ đại tự, khi ấy thái tử, hồng tử liền đem các bảo vật ấy trợ giúp thiết lễ đại tự. “Cũng vậy, đại thần cầm tài bảo đến, hỗ trợ vua tế tự ở phương Tây. Tướng só cầm tài bảo đến hỗ trợ vua tế tự ở phương Bắc<註 n="1162"/>254.” Phật lại nói với Bà-la-mơn: “Nhà vua kia khi cử hành đại tự khơng giết bị, dê và các chúng sanh; chỉ dùng bơ, sữa, dầu mè, mật, đường đen<註 n="1163"/>255, đường thẻ để tế tự.” Phật lại nói với Bà-la-mơn: “Vua Sát-lî kia khi cử hành đại tự, khoảng đầu hoan hỷ, khoảng giữa hoan hỷ, khoảng cuối hoan hỷ. Đó là phép tổ chức tế tự.” Phật lại nói với Bà-la-mơn<註 n="1164"/>256: “Vua Sát-lî kia, sau khi cử hành đại tự, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia hành đạo, tu Bốn vơ lượng tâm. Khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi Phạm thiên. “Phu nhân của vua, sau khi cử hành đại tự, cũng cạo tóc, mặc ba pháp y, xuất gia hành đạo, hành bốn phạm hạnh. Khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi Phạm thiên. “Đại thần Bà-la-mơn sau khi chỉ dẫn vua tế tự bốn phương, cũng tổ chức đại thí, sau đó cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia hành đạo, hành bốn phạm hạnh. Khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi Phạm thiên.” Phật lại nói với Bà-la-mơn: “Bấy giờ, nhà vua bằng ba pháp tế tự, mười sáu tư cụ tế tự, đã tổ chức thành cơng đại tự. Ý ơng nghó sao?” Cứu-la-đàn-đầu nghe Phật nói, im lặng khơng trả lời. Lúc ấy, năm trăm Bà-la-mơn hỏi Cứu-la-đàn-đầu: “Những điều Sa-mơn Cù-đàm nói thật vi diệu, sao Đại sư im lặng khơng trả lời?” Cứu-la-đàn-đầu đáp: “Những điều Sa-mơn Cù-đàm nói thật là vi diệu. Khơng phải tơi khơng thừa nhận. Lý do mà tơi im lặng, là vì có điều suy nghó. Sa-mơn Cù-đàm nói sự việc này, khơng nói là nghe từ người khác. Tơi thầm nghó: Há Sa-mơn Cù-đàm khơng phải là vua Sát-lî kia chăng? Hoặc giả là vị đại thần Bà-la-mơn kia chăng?” Bấy giờ Thế Tơn nói với Cứu-la-đàn-đầu: “Lành thay, lành thay. Ngươi quán sát Như Lai, thật sự là thích hợp. Vua Sát-lî cử hành đại tự lúc ấy há phải là ai khác chăng? Chớ nhận xét như thế. Người ấy chính bản thân Ta vậy. Ta lúc bấy giờ đã huệ thí rất lớn.” Cứu-la-đàn-đầu bạch Phật rằng: “Chừng ấy thơi, ba loại tế tự và mười sáu tư cụ tế tự, là được quả báo lớn, hay cịn có cái gì<註 n="1165"/>257 hơn thế nữa khơng?” Phật nói: “Có”. Hỏi: “Đó là cái gì?” Phật nói: “So với ba tế tự và mười sáu tế cụ, nếu thường cúng dường chúng Tăng, khơng để gián đoạn, cơng đức cịn hơn nhiều.” Lại hỏi: “So với ba tế tự và mười sáu tế cụ, nếu thường cúng dường chúng Tăng, khơng để gián đoạn, do thế cơng đức tối thắng. Nhưng cịn có cái tối thắng nữa khơng?” Phật nói: “Có”. Lại hỏi: “Đó là cái gì?” Phật nói: “Nếu bằng ba tế tự và mười sáu tế cụ và thường cúng dường chúng Tăng khơng để gián đoạn, chẳng bằng vì Chiêu-đề tăng<註 n="1166"/>258 mà dựng tăng phịng, nhà cửa, lầu gác. Thí ấy tối thắng.” Lại hỏi: “Bằng ba tế tự và mười sáu tế cụ và thường cúng dường chúng Tăng khơng để gián đoạn và vì Chiêu-đề tăng mà dựng tăng phịng, nhà cửa, lầu gác; phước ấy tối thắng. Những có cái gì hơn thế chăng?” Phật nói: “Có”. Lại hỏi: “Đó là cái gì?” Phật nói: “Nếu bằng ba tế tự và mười sáu tế cụ và thường cúng dường chúng Tăng khơng để gián đoạn và vì Chiêu-đề tăng mà dựng tăng phịng, nhà cửa, lầu gác; chẳng bằng khởi tâm hoan hỷ, miệng tự phát thành lời rằng: Tơi quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Phước này tối thắng.” Lại hỏi: “Chừng ấy ba pháp quy y được quả báo lớn, hay cịn có cái gì hơn nữa?” Phật nói: “Có”. Hỏi: “Đó là cái gì?” Phật nói: “Nếu với tâm hoan hỷ thọ và hành năm giới, suốt đời khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu; phước này tối thắng.” Lại hỏi: “Chừng ấy ba pháp tế tự (…), cho đến năm giới, được quả báo lớn hay cịn có cái gì hơn nữa?” Phật nói: “Có”. Lại hỏi: “Đó là cái gì?” Phật nói: “Nếu có thể bằng Từ tâm nhớ nghó chúng sanh bằng khoảnh khắc vắt sữa bị; phước ấy tối thắng.” Lại hỏi: “Chừng ấy ba pháp tế tự, cho đến Từ tâm, được quả báo lớn, hay cịn có cái gì hơn nữa?” Phật nói: “Có”. Lại hỏi: “Đó là cái gì?” Phật nói: “Nếu Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, có người theo Phật pháp xuất gia tu đạo, mọi đức đều hồn bị, cho đến, đầy đủ ba minh, diệt các sự tối tăm, đầy đủ tuệ minh. Vì sao? Vì khơng buơng lung, ưa sống nơi thanh vắng; phước này tối thắng.” Cứu-la-đàn-đầu bạch Phật: “Thưa Cù-đàm! Tơi vì tế tự mà chuẩn bị bị, dê mỗi thứ năm trăm con. Nay sẽ thả hết, mặc chúng tùy ý đi tìm cỏ, nước. Tơi nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin nhận tơi làm Ưu-bà-tắc trong chánh pháp. Từ nay về sau, cho đến hết đời, khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu. Cúi mong Thế Tơn cùng đại chúng nhận lời mời sáng mai của tơi.” Bấy giờ, Thế Tơn im lặng nhận lời. Bà-la-mơn thấy Phật im lặng nhận lời, liền đứng dậy lễ Phật, đi quanh ba vịng, rồi lui ra. Trở về nhà, ơng sửa soạn đủ các loại hào soạn. Sáng hơm sau, khi đến thời, Thế Tơn khốc y, cầm bát, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người, đi đến nhà Bà-la-mơn, ngồi trên chỗ dọn sẵn. Khi ấy Bà-la-mơn tự tay châm chước, cúng Phật và Tăng. Ăn xong, thâu y bát, dùng nước rửa xong, Phật đọc cho Bà-la-mơn nghe một bài tụng: Tế tự, lửa là nhất. Đọc tụng, thơ là nhất. Lồi người, vua là nhất. Các sơng, biển là nhất. Các sao, trăng là nhất. Ánh sáng, mặt trời nhất. Trên, dưới và bốn phương, Phàm sanh vật hiện hữu, Chư Thiên và Người đời, Duy chỉ Phật tối thượng. Ai muốn cầu đại phúc, Hãy cúng dường Tam bảo. Bấy giờ Cứu-la-đàn-đầu lấy một cái ghế nhỏ ngồi trước Phật. Thế Tơn thuyết pháp cho ơng theo thứ tự, chỉ bày, khuyến khích, khiến được lợi ích, hoan hỷ. Ngài nói về thí, về giới, về sanh thiên; nói dục là tai họa, phiền não là chướng ngại<註 n="1167"/>259, xuất ly là tối thượng, phân bố, hiển thị các hạnh thanh tịnh. Rồi Thế Tơn quán sát Bà-la-mơn, ý chí đã mềm dịu, ấm cái đã vơi nhẹ<註 n="1168"/>260, dễ được điều phục. Như thường pháp của chư Phật, Ngài giảng thuyết cho ơng về Khổ thánh đế, phân biệt hiển thị, thuyết Tập thánh đế, Tập diệt thánh đế. Cứu-la-đàn-đầu ngay trên chỗ ngồi mà xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Cũng như tấm lụa trắng rất dễ nhuộm màu. Bà-la-mơn Cứu-la-đàn-đầu cũng vậy, thấy pháp, đắc pháp, thành tựu đạo quả, quyết định an trú, tự tín khơng do ai, đắc vơ sở úy<註 n="1169"/>261, bèn bạch Phật rằng: “Nay con ba lần xin quy y Phật, Pháp, Thánh chúng. Nguyện Phật chấp thuận con là một Ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Từ nay về sau, cho đến trọn đời, khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu.” Rồi lại bạch Phật tiếp rằng: “Cúi mong Thế Tơn nhận lời mời của con trong bảy ngày.” Thế Tơn khi ấy im lặng nhận lời. Trong bảy ngày ấy, Bà-la-mơn tự tay châm chước, cúng Phật và Tăng. Qua bảy ngày, Thế Tơn du hành trong nhân gian. Phật đi chưa bao lâu, Cứu-la-đàn-đầu mắc bệnh mà mạng chung. Khi ấy, số đơng Tỳ-kheo nghe tin Cứu-la-đàn-đầu sau khi cúng dường Phật bảy ngày và khi Phật đi chưa lâu, ơng lâm bệnh mà mạng chung. Các Tỳ-kheo này bèn nghó thầm rằng: “Người kia nay mạng chung, sẽ sanh về đâu?” Rồi các Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, lễ dưới chân Phật xong, ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng: “Cứu-la-đàn-đầu nay mạng chung, sẽ sanh về đâu?” Phật nói với các Tỳ-kheo: “Người ấy tịnh tu phạm hạnh, thành tựu pháp và tùy pháp và cũng khơng bị xúc nhiễu bởi pháp<註 n="1170"/>262, do đã đoạn trừ năm hạ phần kết, hiện Bát-niết-bàn ở nơi kia, khơng trở lại cõi này nữa<註 n="1171"/>263.” Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140885">24. KINH KIÊN CỐ<註 n="1172"/>264 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại thành Na-lan-đà, trong rừng Ba-bà-lî-yểm, cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.<註 n="1173"/>265 Bấy giờ, có người con trai trưởng giả, tên gọi Kiên Cố<註 n="1174"/>266, đi đến chỗ Phật, cúi lạy sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy, con trai trưởng giả Kiên Cố bạch Phật rằng: “Lành thay, Thế Tơn. Cúi mong Thế Tơn giáo sắc các Tỳ-kheo, nếu có Bà-la-mơn, trưởng giả tử hay cư só đến, hãy hiện thần thơng<註 n="1175"/>267, hiển thị pháp thượng nhân<註 n="1176"/>268.” Phật nói với Kiên Cố: “Ta khơng bao giờ dạy các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, cho Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só<註 n="1177"/>269. Ta chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tónh mà trầm tư về đạo. Nếu có cơng đức, nên giấu kín. Nếu có sai lầm, nên bày tỏ.” Kiên Cố, con trai trưởng giả, lại bạch Phật: “Cúi mong Thế Tơn giáo sắc các Tỳ-kheo, nếu có Bà-la-mơn, trưởng giả tử hay cư só đến, hãy hiện thần thơng, hiển thị pháp thượng nhân.” Phật lại nói với Kiên Cố: “Ta khơng bao giờ dạy các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, cho Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só. Ta chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tónh mà trầm tư về đạo. Nếu có cơng đức, nên giấu kín. Nếu có sai lầm, nên bày tỏ.” Khi ấy Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch Phật rằng: “Con đối với pháp thượng nhân khơng có gì nghi ngờ. Nhưng thành Na-lan-đà này, quốc thổ thịnh vượng, nhân dân đơng đúc, nếu ở đó mà hiện thần túc, sẽ ích lợi cho nhiều người. Phật và chúng Tăng khéo hoằng hóa đạo.” Phật nói với Kiên Cố: “Ta khơng bao giờ dạy các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, cho Bà-la-mơn, trưởng giả, cư só. Ta chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tónh mà trầm tư về đạo. Nếu có cơng đức, nên giấu kín. Nếu có sai lầm, nên bày tỏ. Vì sao vậy? Có ba loại thần túc. Những gì là ba? Một, thần túc; hai, quán sát tâm người; ba, giáo giới<註 n="1178"/>270. “Thế nào là thần túc? Này con trai trưởng giả, Tỳ-kheo tập<註 n="1179"/>271 vơ lượng thần túc, có thể từ một thân biến thành vơ số; từ vơ số thân hợp trở lại thành một thân; hoặc xa, hoặc gần, núi, sơng, vách đá, thảy đều tự tại vơ ngại, như đi trong hư khơng. Ở giữa hư khơng mà ngồi kết già y như chim bay. Ra, vào lịng đất y như trong nước. Hoặc đi trên nước như đi trên đất. Mình bốc khói, lửa, như đống lửa lớn. Tay sờ mặt trời, mặt trăng. Đứng cao đến Phạm thiên. Nếu có trưởng giả hay cư só đã có tín tâm thấy Tỳ-kheo hiện vơ lượng thần túc, đứng cao đến Phạm thiên, sẽ đi đến các trưởng giả, cư só chưa có tín tâm khác, mà nói rằng: ‘Tơi thấy Tỳ-kheo hiện vơ lượng thần túc, đứng cao đến Phạm thiên.’ Trưởng giả hay cư só kia, những người chưa có tín tâm, nói với những người đã có tín tâm rằng: ‘Tơi nghe nói có thần chú Cù-la<註 n="1180"/>272 có khả năng hiện vơ lượng thần biến như vậy…, cho đến, đứng cao đến Phạm thiên.” Phật bảo Kiên Cố, con trai trưởng giả: “Những người chưa có tín tâm kia nói như vậy há khơng phải là hủy báng sao?” Kiên Cố đáp: “Đó thật sự là lời hủy báng vậy.” Phật nói: “Ta vì vậy khơng giáo sắc các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, mà chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tónh mà trầm tư về đạo. Nếu có cơng đức, nên giấu kín. Nếu có sai lầm, nên bày tỏ. Như vậy, này con trai trưởng giả, đó chính là loại thần túc mà các đệ tử Ta thị hiện. “Sao gọi là thần túc quán sát tâm người? Ở đây, Tỳ-kheo hiện vơ lượng thần túc quán sát; quán sát những pháp được nhớ nghó trong tâm chúng sanh; những việc được làm trong xó tối cũng có thể nhận biết. Nếu có trưởng giả hay cư só đã có tín tâm thấy Tỳ-kheo hiện vơ lượng thần túc quán sát; quán sát những pháp được nhớ nghó trong tâm chúng sanh; những việc được làm trong xó tối cũng có thể nhận biết, sẽ đi đến các trưởng giả, cư só chưa có tín tâm khác, mà nói rằng: ‘Tơi thấy Tỳ-kheo hiện vơ lượng thần túc quán sát; quán sát những pháp được nhớ nghó trong tâm chúng sanh; những việc được làm trong xó tối cũng có thể nhận biết.’ Trưởng giả hay cư só kia, những người chưa có tín tâm, nói với những người đã có tín tâm rằng: ‘Tơi nghe nói có thần chú Càn-đà-la<註 n="1181"/>273 có khả năng hiện vơ lượng thần biến như vậy… cho đến, đứng cao đến Phạm thiên.” Phật bảo Kiên Cố, con trai trưởng giả: “Những người chưa có tín tâm kia nói như vậy há khơng phải là hủy báng sao?” Kiên Cố bạch Phật: “Đó thật sự là lời hủy báng vậy.” Phật nói: “Ta vì vậy khơng giáo sắc các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, mà chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tónh mà trầm tư về đạo. Nếu có cơng đức, nên giấu kín. Nếu có sai lầm, nên bày tỏ. Như vậy, này con trai trưởng giả, đó chính là loại thần túc quán sát mà các đệ tử Ta thị hiện. “Thế nào là giáo giới thần túc? Này con trai trưởng giả, nếu Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, mười hiệu đầy đủ, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn, mà tự thân chứng ngộ, rồi giảng thuyết cho người khác, với lời khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chân chánh, nghóa vị thanh tịnh, phạm hạnh đầy đủ<註 n="1182"/>274. Nếu có trưởng giả hoặc cư só, sau khi nghe, ở trong đó phát sanh tín tâm. Khi đã có tín tâm, vị ấy ở trong đó quán sát, suy nghó rằng: ‘Ta khơng nên sống tại gia. Nếu sống tại gia, trói buộc liên miên, khơng thể thanh tịnh tu hành phạm hạnh. Nay ta hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, đủ các cơng đức, cho đến thành tựu ba minh, diệt trừ những sự tối tăm, phát sanh ánh sáng đại trí. Vì sao vậy? Ấy là do tinh cần, ưa sống một mình chỗ thanh vắng, chuyên niệm khơng quên, mà được vậy. Này con trai trưởng giả, đó là giáo giới thần túc mà Tỳ-kheo của Ta thị hiện vậy.” Bấy giờ, Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch Phật rằng: “Có Tỳ-kheo nào thành tựu ba thần túc ấy khơng? Phật nói với con trai trưởng giả: “Ta khơng nói phần lớn các Tỳ-kheo đều thành tựu ba thần túc ấy. Nhưng, này con trai trưởng giả, có một Tỳ-kheo của Ta ở trong chúng này thầm suy nghó rằng: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vónh viễn diệt tận ở đâu<註 n="1183"/>275?’ Tỳ-kheo ấy phút chốc hướng vào con đường thiên giới<註 n="1184"/>276, đi đến chỗ Tứ thiên vương<註 n="1185"/>277, hỏi Tứ thiên vương rằng: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vónh viễn diệt tận ở đâu?’ “Này con trai trưởng giả, Tứ thiên vương kia trả lời Tỳ-kheo rằng: ‘Tơi khơng biết bốn đại vónh viễn diệt tận ở đâu. Trên tơi cịn có trời, gọi là Đao-lợi<註 n="1186"/>278, vi diệu đệ nhất, có đại trí tuệ. Trời kia có thể biết bốn đại vónh viễn diệt tận ở đâu.’ Tỳ-kheo nghe xong, phút chốc hướng theo thiên đạo, đi lên trời Đao-lợi, hỏi chư Thiên: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vónh viễn diệt tận ở đâu?’ Chư Thiên Đao-lợi trả lời: ‘Tơi khơng biết bốn đại vónh viễn diệt tận ở đâu. Bên trên cịn có trời, gọi là Diệm-ma<註 n="1187"/>279, vi diệu đệ nhất, có đại trí tuệ. Trời ấy có thể biết.’ Tỳ-kheo liền lên đó hỏi, nhưng nơi ấy vẫn khơng biết. “Lần lượt như thế, lên Đâu-suất, lên Hóa tự tại, lên Tha hóa tự tại thiên<註 n="1188"/>280, thảy đều nói: ‘Tơi khơng biết bốn đại vónh viễn diệt tận ở đâu. Bên trên cịn có trời, gọi là Phạm-ca-di<註 n="1189"/>281, vi diệu đệ nhất, có đại trí tuệ. Trời ấy có thể biết bốn đại vónh viễn diệt tận ở đâu.’Tỳ-kheo ấy phút chốc hướng vào Phạm đạo<註 n="1190"/>282. Lên đến Phạm thiên, Tỳ-kheo hỏi: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vónh viễn diệt tận ở đâu?’ Vị Phạm thiên kia trả lời Tỳ-kheo: ‘Tơi khơng biết bốn đại vónh viễn diệt tận ở đâu. Nay có Đại Phạm thiên vương, đấng Vơ năng thắng, thống lãnh một ngàn thế giới, phú quý, tơn quý, hào quý, hồn tồn được tự tại, có khả năng tạo hóa mọi vật, là cha mẹ của chúng sanh. Ngài có thể biết bốn đại vónh viễn diệt tận ở đâu.’ Này con trai trưởng giả, Tỳ-kheo kia liền hỏi ngay rằng: ‘Ngài Đại Phạm thiên vương kia hiện đang ở đâu?’ Vị trời ấy đáp: ‘Khơng rõ Đại Phạm nay đang ở đâu. Nhưng theo ý tơi mà xét, Ngài sẽ xuất hiện giây lát.’ Chưa bao lâu, Phạm vương hốt nhiên xuất hiện. Này con trai trưởng giả, Tỳ-kheo kia đến Phạm vương và hỏi: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vónh viễn diệt tận ở đâu?’ Đại phạm vương kia nói với Tỳ-kheo: ‘Ta là Đại Phạm, là đấng Vơ năng thắng, thống lãnh một ngàn thế giới, phú quý, tơn quý, hào quý, hồn tồn được tự tại, có khả năng tạo hóa mọi vật, là cha mẹ của chúng sanh<註 n="1191"/>283.’ Tỳ-kheo kia khi ấy nói với Phạm thiên vương: ‘Tơi khơng hỏi việc ấy. Tơi hỏi, bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vónh viễn diệt tận ở đâu.’ “Này con trai trưởng giả, Phạm vương kia vẫn trả lời Tỳ-kheo: ‘Ta là Đại phạm vương, cho đến, sáng tạo vạn vật, cha mẹ của chúng sanh.’ Tỳ-kheo lại nói: ‘Tơi khơng hỏi việc ấy. Tơi hỏi, bốn đại vónh viễn diệt tận ở đâu.’ Này con trai trưởng giả, Phạm thiên vương, như vậy đến ba lần, khơng thể trả lời Tỳ-kheo, bốn đại này vónh viễn diệt tận ở đâu. Rồi thì, Đại phạm vương bèn nắm lấy tay phải của Tỳ-kheo, kéo ra chỗ kín đáo, nói rằng: ‘Này Tỳ-kheo, nay các Phạm thiên đều bảo rằng ta là trí tuệ bậc nhất, khơng có gì khơng biết, khơng thấy. Vì vậy ta khơng trả lời thầy, vì ta khơng biết, khơng thấy, bốn đại này nơi đâu vónh viễn diệt tận.’ Rồi lại nói tiếp với Tỳ-kheo: ‘Thầy thật là đại ngu ngốc mới bỏ Như Lai mà đi tra vấn chư Thiên về việc này. Thầy nên đến Thế Tơn mà hỏi việc này. Như những gì Phật nói, hãy ghi nhớ kỹ.’ Lại bảo Tỳ-kheo: ‘Nay Phật ở tại Xá-vệ, trong vườn Cấp cơ độc. Thầy hãy đến đó mà hỏi.’ “Này con trai trưởng giả, bấy giờ, Tỳ-kheo hốt nhiên biến mất khỏi Phạm thiên giới và trong khoảnh khắc như tráng só co duỗi cánh tay, đến Xá-vệ, trong vườn Cấp cơ độc, rừng cây Kỳ-đà. Tỳ-kheo đi đến chỗ Ta, cúi lạy chân Ta, ngồi sang một bên, bạch Ta rằng: ‘Thế Tơn, nay bốn đại này, đất, nước, lửa, gió, vónh viễn diệt tận ở đâu?’ Bấy giờ, Ta nói rằng: “Tỳ-kheo! Cũng như thương nhân mang một con ưng<註 n="1192"/>284 vào biển. Ở giữa biển, thả chim ưng bay các phương Đơng, Tây, Nam, Bắc trong hư khơng. Nếu nhìn thấy đất liền, chim bèn dừng trên đó. Nếu khơng nhìn thấy, chim bay trở về thuyền. Tỳ-kheo, ngươi cũng vậy. Ngươi lên cho đến Phạm thiên để hỏi ý nghóa đó, cuối cùng khơng thành tựu mới trở về Ta. Nay Ta sẽ khiến cho ngươi thành tựu ý nghóa đó.” Liền nói bài kệ rằng: Do đâu khơng bốn đại: Đất, nước, lửa và gió?<註 n="1193"/>285 Do đâu khơng thơ, tế, Và dài, ngắn, đẹp, xấu? Do đâu khơng danh-sắc, Vónh diệt, khơng dư tàn?<註 n="1194"/>286 Nên đáp: thức vơ hình, Vơ lượng, tự tỏa sáng<註 n="1195"/>287; Nó diệt, bốn đại diệt; Thơ, tế, đẹp, xấu diệt. Nơi này danh sắc diệt, Thức diệt, hết thảy diệt.<註 n="1196"/>288 Khi ấy, Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch Phật rằng: “Thế Tơn, Tỳ-kheo ấy tên gì? Làm sao ghi nhớ?” Phật đáp: “Tỳ-kheo ấy tên là A-thất-dó<註 n="1197"/>289. Hãy ghi nhớ như vậy.” Bấy giờ, Kiên Cố, con trai trưởng giả, nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140887">25. KINH LÕA HÌNH PHẠM CHÍ<註 n="1198"/>290 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại nước Ủy-nhã, trong rừng Kim bàn Lộc dã<註 n="1199"/>291, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, có một Phạm chí lõa hình họ là Ca-diệp<註 n="1200"/>292 đi đến chỗ Thế Tơn, sau khi chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Phạm chí lõa hình Ca-diệp bạch Phật rằng: “Sa-mơn Cù-đàm chê bai tất cả các pháp tế tự; mắng những người khổ hạnh là dơ dáy<註 n="1201"/>293. Cù-đàm, nếu có người nói rằng: ‘Sa-mơn Cù-đàm chê bai tất cả các pháp tế tự; mắng những người khổ hạnh là dơ dáy.’ Đó có phải là pháp ngữ, pháp pháp thành tựu<註 n="1202"/>294, khơng phỉ báng Sa-mơn Cù-đàm chăng?” Phật nói: “Ca-diệp, người kia nói: ‘Sa-mơn Cù-đàm chê bai tất cả các pháp tế tự; mắng những người khổ hạnh là dơ dáy.’ Đó khơng phải là lời nói đúng pháp, khơng phải pháp thành tựu, là phỉ báng Ta, khơng phải là lời nói thành thật. Vì sao? Này Ca-diệp, Ta thấy, trong những người khổ hạnh kia, có người khi thân hoại mạng chung đọa vào địa ngục; lại thấy có người khổ hạnh khi thân hoại mạng chung được sanh thiên, sanh chỗ thiện. Hoặc thấy người khổ hạnh ưa làm việc khổ hạnh<註 n="1203"/>295, khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục. Hoặc thấy người khổ hạnh ưa làm việc khổ hạnh, khi thân hoại mạng chung, sanh thiên, sanh chỗ thiện. Ta đối với trường hợp thọ báo với hai thú hướng ấy<註 n="1204"/>296, thấy hết biết hết, làm sao có thể Ta chỉ trích người tu khổ hạnh cho là dơ dáy? Điều Ta rõ ràng nói là phải, người kia nói là khơng phải. Điều Ta rõ ràng nói khơng phải, người kia nói là phải. “Này Ca-diệp, có pháp đồng với Sa-mơn, Bà-la-mơn. Có pháp khơng đồng với Sa-mơn, Bà-la-mơn<註 n="1205"/>297. Ca-diệp, pháp nào khơng đồng, Ta bỏ qua, vì pháp ấy khơng đồng Sa-mơn, Bà-la-mơn vậy. “Này Ca-diệp, những người có trí kia quán sát như vầy: đối với pháp bất thiện, nặng nề ơ trược, tối tăm, khơng phải là pháp Hiền thánh<註 n="1206"/>298, giữa Sa-mơn Cù-đàm và các tơng sư dị học kia<註 n="1207"/>299, ai là người có khả năng diệt trừ pháp này? Ca-diệp, người có trí kia khi quán sát như vậy, liền thấy biết như vầy: duy chỉ Sa-mơn Cù-đàm có khả năng diệt trừ pháp ấy. Ca-diệp, người có trí kia khi quán sát như vậy, suy cầu như vậy, luận thuyết như vậy, Ta ở trong đó có tiếng tăm.<註 n="1208"/>300 “Lại nữa, Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vầy: đệ tử của Sa-mơn Cù-đàm, đối với pháp bất thiện, nặng nề ơ trược, tối tăm, khơng phải pháp Hiền thánh; hay đệ tử các tơng sư dị học kia đối với pháp bất thiện, nặng nề, ơ trược, tối tăm, khơng phải pháp Hiền thánh; ai có khả năng diệt trừ pháp này? Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vậy, liền thấy, biết như vầy: duy chỉ đệ tử của Sa-mơn Cù-đàm có khả năng diệt trừ pháp ấy. Ca-diệp, vị có trí kia khi quán sát như vậy, suy cầu như vậy, luận như vậy, đệ tử Ta có tiếng tăm. “Lại nữa, Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vầy: Sa-mơn Cù-đàm, đối với pháp thiện, thanh bạch, vi diệu và là pháp Hiền thánh; hay các tơng sư dị học kia, đối với pháp thiện, thanh bạch, vi diệu và là pháp Hiền thánh; ai là người có khả năng làm lớn rộng để tu hành<註 n="1209"/>301? Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vậy, liền thấy biết như vầy: duy chỉ có Sa-mơn Cù-đàm có khả năng làm lớn rộng, tu hành pháp ấy. Ca-diệp, người có trí kia khi quán sát như vậy, suy cầu như vậy, luận thuyết như vậy, Ta ở trong đó có tiếng tăm. “Lại nữa, Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vầy: đệ tử của Sa-mơn Cù-đàm, đối với pháp thiện, thanh bạch, vi diệu và là pháp Hiền thánh; hay đệ tử của các tơng sư dị học kia, đối với pháp thiện, thanh bạch, vi diệu và là pháp Hiền thánh; ai là người có khả năng làm lớn rộng, tu hành? Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vậy, liền thấy biết như vầy: duy chỉ có đệ tử của Sa-mơn Cù-đàm có khả năng làm lớn rộng, tu hành pháp ấy. Ca-diệp, người có trí kia khi quán sát như vậy, suy cầu như vậy, luận thuyết như vậy, đệ tử Ta ở trong đó có tiếng tăm. “Ca-diệp, có đạo, có tích<註 n="1210"/>302, để Tỳ-kheo ở trong đó tu hành mà tự mình thấy, tự mình biết: Sa-mơn Cù-đàm nói đúng thời, nói sự thật, nói có nghóa, nói đúng pháp, nói đúng luật. “Ca-diệp, thế nào là đạo, thế nào là tích, để Tỳ-kheo ở trong đó tu hành mà tự mình thấy, tự mình biết: Sa-mơn Cù-đàm nói đúng thời, nói sự thật, nói có nghóa, nói đúng pháp, nói đúng luật? Này Ca-diệp, ở đây Tỳ-kheo tu niệm giác ý, y tịch diệt<註 n="1211"/>303, y vơ dục, y xuất ly. Tu pháp, tinh tấn, hỷ khinh an, định, xả giác ý, y tịch diệt, y vơ dục, y xuất yếu<註 n="1212"/>304. Ca-diệp, đó là đạo, đó là tích, để Tỳ-kheo ở trong đó tu hành mà tự mình thấy, tự mình biết: Sa-mơn Cù-đàm nói đúng thời, nói sự thật, nói có nghóa, nói đúng pháp, nói đúng luật <註 n="1213"/>305.” Ca-diệp nói: “Cù-đàm, duy chỉ đạo ấy, tích ấy, Tỳ-kheo ở trong đó tu hành mà tự mình thấy, tự mình biết: Sa-mơn Cù-đàm nói đúng thời, nói sự thật, nói có nghóa, nói đúng pháp, nói đúng luật. Nhưng với khổ hạnh ơ uế, có trường hợp được gọi là Bà-la-mơn, có trường hợp được gọi là Sa-mơn. “Những khổ hạnh ơ uế nào, mà có trường hợp được gọi là Bà-la-mơn, có trường hợp được gọi là Sa-mơn? “Thưa Cù-đàm, đó là: khỏa thân<註 n="1214"/>306, cởi bỏ y phục, rồi lấy tay che; khơng nhận đồ ăn từ nồi chảo; khơng nhận đồ ăn từ chậu nước; khơng nhận đồ ăn giữa hai vách tường; khơng nhận đồ ăn giữa hai người, khơng nhận đồ ăn giữa hai cái chày<註 n="1215"/>307; khơng nhận đồ ăn từ gia đình đang ăn; khơng nhận đồ ăn từ nhà có thai; khơng ăn đồ ăn có chó đứng trước cửa; khơng nhận đồ ăn nơi nhà có ruồi; khơng nhận mời ăn; khơng nhận của người nói đã biết trước; khơng ăn cá; khơng ăn thịt; khơng uống rượu, khơng ăn bằng hai bát; một bữa ăn một lần nuốt, cho đến bảy bữa thì thơi<註 n="1216"/>308; nhận thức ăn thêm của người, khơng nhận quá bảy lần thêm<註 n="1217"/>309; hoặc một ngày ăn một bữa; hoặc hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày ăn một bữa; hoặc chỉ ăn quả; hoặc chỉ ăn cỏ vực<註 n="1218"/>310; hoặc chỉ uống nước cơm; hoặc ăn mè<註 n="1219"/>311; hoặc chỉ ăn lúa liêm<註 n="1220"/>312; hoặc ăn phân bị; hoặc ăn phân nai; hoặc ăn rễ, cành, lá, hoa, hạt của cây; hoặc ăn trái cây tự rụng<註 n="1221"/>313; hoặc mặc áo; hoặc mặc áo sa thảo<註 n="1222"/>314; hoặc mặc áo vỏ cây; hoặc lấy cỏ đắp lên mình<註 n="1223"/>315; hoặc khốc áo da hươu; hoặc bện tóc; hoặc áo bện bằng lơng; hoặc áo lượm từ bãi tha ma; hoặc thường đưa tay lên; hoặc khơng ngồi giường chiếu; hoặc thường ngồi chồm hỗm; hoặc có người cạo tóc nhưng để râu; hoặc có người nằm trên gai; hoặc có người nằm trên bầu trái; hoặc có người khỏa thân nằm trên phân bị; hoặc một ngày ba lần tắm; hoặc một đêm ba lần tắm. Bằng vơ số sự khổ mà làm khổ thân này. Cù-đàm, đó gọi là khổ hạnh ơ uế, có trường hợp được gọi là Sa-mơn pháp, có trường hợp được gọi là Bà-la-mơn pháp.” Phật nói: “Những người khỏa thân cởi bỏ y phục, bằng vơ số phương tiện làm khổ thân này; những người ấy khơng đầy đủ giới, khơng đầy đủ kiến, khơng thể siêng tu, cũng khơng phát triển rộng lớn<註 n="1224"/>316.” Ca-diệp bạch Phật: “Thế nào là giới đầy đủ, kiến đầy đủ<註 n="1225"/>317, vượt xa các khổ hạnh, vi diệu bậc nhất? ” Phật bảo Ca-diệp: “Hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ, Ta sẽ nói cho ơng nghe.” Ca-diệp nói: “Thưa vâng. Vui lịng xin được nghe.” Phật nói với Ca-diệp: “Nếu Như Lai xuất hiện ở đời, cho đến, Tứ thiền, ở ngay trong hiện tại mà được an lạc. Vì sao vậy? Ấy do tinh cần, chuyên niệm nhất tâm, ưa ở chỗ nhàn tónh, khơng buơng lung vậy. Ca-diệp, đó là giới đầy đủ, kiến đầy đủ, thù thắng hơn các thứ khổ hạnh.” Ca-diệp nói: “Cù-đàm, tuy nói rằng giới đầy đủ, kiến đầy đủ, vượt hơn các thứ khổ hạnh, vi diệu bậc nhất; nhưng pháp Sa-mơn thật là khó; pháp Bà-la-mơn thật là khó.<註 n="1226"/>318” Phật nói: “Ca-diệp, đó là pháp bất cộng của thế gian<註 n="1227"/>319, nghóa là, Sa-mơn pháp, Bà-la-mơn pháp là khó. Ca-diệp, cho đến Ưu-bà-di cũng biết được pháp đó, là khỏa thân cởi bỏ y phục, cho đến, bằng vơ số phương tiện làm khổ mình. Nhưng khơng biết rằng tâm ấy là tâm có nhuế, hay tâm khơng có nhuế; tâm có hận hay tâm khơng có hận; tâm có hại hay tâm khơng có hại. Nếu biết tâm ấy, thì khơng nói rằng pháp Sa-mơn, Bà-la-mơn là khó. Vì khơng biết, cho nên nói pháp Sa-mơn, Bà-la-mơn khó.” Bấy giờ, Ca-diệp bạch Phật rằng: “Thế nào là Sa-mơn, thế nào là Bà-la-mơn có giới cụ túc, kiến cụ túc, là tối thượng, là tối thắng, vi diệu bậc nhất?” Phật nói: “Hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ, Ta sẽ nói cho ơng nghe.” “Thưa vâng, Cù-đàm. Vui lịng xin được nghe.” Phật nói: “Ca-diệp, Tỳ-kheo kia, bằng tam-muội tâm, cho đến, chứng đắc ba minh, diệt trừ các si mê tối tăm, sanh ánh sáng trí tuệ, gọi là lậu tận trí. Vì sao? Ấy là do tinh cần, chuyên niệm khơng quên, ưa chỗ nhàn tónh, khơng buơng lung vậy. Ca-diệp, đó gọi là Sa-mơn, Bà-la-mơn có giới cụ túc, kiến cụ túc, là tối thượng, là tối thắng, vi diệu bậc nhất.” Ca-diệp nói: “Cù-đàm, tuy nói đó gọi là Sa-mơn, Bà-la-mơn có giới cụ túc, kiến cụ túc, là tối thượng, là tối thắng, vi diệu bậc nhất, nhưng pháp Sa-mơn, Bà-la-mơn thật quá khó, quá khó! Sa-mơn cũng khó biết, Bà-la-mơn cũng khó biết<註 n="1228"/>320.” Phật nói: “Ưu-bà-tắc cũng có thể tu hành được pháp ấy, nói rằng: ‘Tơi, kể từ hơm nay, có thể khỏa thân cởi bỏ y phục, cho đến, bằng vơ số phương tiện gieo khổ cho thân này.’ Khơng thể do hành vi này mà được gọi là Sa-mơn, Bà-la-mơn. Nếu chỉ do hạnh này mà có thể được gọi là Sa-mơn, Bà-la-mơn; thì khơng thể nói pháp Sa-mơn là quá khó, pháp Bà-la-mơn là quá khó. Nhưng khơng vì hạnh ấy mà được gọi là Sa-mơn, Bà-la-mơn, cho nên nói rằng Sa-mơn rất khó, Bà-la-mơn rất khó.” Phật lại nói với Ca-diệp: “Xưa, một thời, Ta ở tại Duyệt-kỳ<註 n="1229"/>321, trong hang Thất diệp trên Cao sơn<註 n="1230"/>322, đã từng giảng về khổ hạnh thanh tịnh cho Phạm chí Ni-câu-đà<註 n="1231"/>323. Khi ấy Phạm chí sanh tâm hoan hỷ, được tín tâm thanh tịnh; cúng dường Ta, xưng tán Ta, cúng dường, tán thán Ta một cách tối thượng.” Ca-diệp nói: “Thưa Cù-đàm, ai đối với Cù-đàm mà khơng phát sanh hoan hỷ, tịnh tín, cúng dường, xưng tán một cách tối thượng? Tơi nay đối Cù-đàm cũng phát sanh hoan hỷ, tịnh tín, cúng dường, xưng tán một cách tối thượng. Tơi quy y Cù-đàm.” Phật nói với Ca-diệp: “Những gì là giới trong thế gian, khơng có giới nào sánh bằng tăng thượng giới này, huống hồ muốn nói hơn. Những gì là tam-muội, trí tuệ, giải thốt kiến, giải thốt tuệ<註 n="1232"/>324, khơng có cái gì sánh ngang với tăng thượng tam-muội, trí tuệ, giải thốt kiến, giải thốt tuệ; huống hồ muốn nói là hơn. “Này Ca-diệp, được nói là sư tử, là chỉ cho Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Như Lai, khi ở giữa đại chúng tuyên bố Chánh pháp một cách rộng rãi, tự tại, vơ úy. Do đó được gọi là sư tử. Thế nào, Ca-diệp, Như Lai khi rống tiếng sư tử, lúc ấy khơng dũng mãnh<註 n="1233"/>325 sao? Chớ nghó như vậy. Như Lai ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử một cách dũng mãnh. Ca-diệp, ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử một cách dũng mãnh, nhưng khơng thể thuyết pháp chăng?<註 n="1234"/>326 Chớ nghó như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử một cách dũng mãnh và thuyết pháp một cách thiện xảo. “Thế nào, Ca-diệp, ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, nhưng thính giả trong chúng hội khơng nhất tâm chăng? Chớ nghó vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những người đến hội đều nhất tâm lắng nghe. Thế nào, Ca-diệp, ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những người đến hội đều nhất tâm lắng nghe, nhưng khơng hoan hỷ tín thọ phụng hành chăng? Chớ nghó như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những người đến hội thảy nhất tâm lắng nghe và hoan hỷ tín thọ. Ca-diệp, ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những người đến hội đều nhất tâm lắng nghe và hoan hỷ tín thọ, nhưng khơng cúng dường chăng? Chớ nghó như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những người đến hội đều nhất tâm lắng nghe, hoan hỷ tín thọ và thi thiết cúng dường. “Ca-diệp, ngươi bảo rằng, Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, cho đến, tín kính cúng dường, nhưng khơng cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo chăng? Chớ nghó như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, cho đến, tín kính cúng dường, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. “Ca-diệp, ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, cho đến, tín kính cúng dường, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhưng khơng cứu cánh phạm hạnh<註 n="1235"/>327, đến chỗ an ổn, vơ dư Niết-bàn chăng? Chớ nghó như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vơ úy mà cất tiếng rống sư tử, cho đến, tín kính cúng dường, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, rồi cứu cánh phạm hạnh, đến chỗ an ổn, vơ dư Niết-bàn.” Bấy giờ, Ca-diệp bạch Phật rằng: “Thế nào, thưa Cù-đàm, tơi có thể xuất gia thọ Cụ giới trong pháp này được chăng?<註 n="1236"/>328” Phật bảo Ca-diệp: “Nếu dị học muốn đến xuất gia tu đạo trong giáo pháp của Ta, phải lưu bốn tháng quán sát<註 n="1237"/>329, làm hài lịng chúng Tăng, sau đó mới có thể xuất gia thọ giới. Ca-diệp, tuy có pháp như vậy, nhưng cũng xét theo người.<註 n="1238"/>330” Ca-diệp nói: “Nếu dị học muốn đến xuất gia tu đạo trong Phật pháp, phải lưu bốn tháng quán sát, làm hài lịng chúng Tăng, sau đó mới có thể xuất gia thọ giới. Con nay có thể ở trong Phật pháp bốn năm quán sát, làm hài lịng chúng Tăng, sau đó mới xuất gia thọ giới.” Phật bảo Ca-diệp: “Ta đã có nói, cũng cịn xét theo người.” Bấy giờ, Ca-diệp liền ở trong Phật pháp xuất gia thọ Cụ túc giới. Rồi thì, Ca-diệp xuất gia thọ giới chưa bao lâu, bằng tín tâm, tu phạm hạnh vơ thượng, ở ngay trong đời này mà tự thân chứng ngộ: sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã đứng vững, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sanh nữa; tức thời thành A-la-hán. Bấy giờ, Ca-diệp nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140888">26. KINH TAM MINH<註 n="1239"/>331 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại nước Câu-tát-la, du hành nhân gian, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người, đến Y-xa-năng-già-la, thơn Bà-la-mơn ở Câu-tát-la. Ngài nghỉ đêm trong rừng Y-xa.<註 n="1240"/>332 Bấy giờ, có Bà-la-mơn tên Phất-già-la-sa-la, Bà-la-mơn tên Đa-lê-xa<註 n="1241"/>333, có duyên sự nên cùng đến thơn Y-xa-năng-già-la. Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la này, từ bảy đời nay cha mẹ chân chánh khơng bị người khinh chê, tụng đọc thơng suốt ba bộ dị điển, có khả năng phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem tướng đại nhân, quán sát cát hung, tế tự nghi lễ. Ơng có năm trăm đệ tử, dạy dỗ khơng bỏ phế. Trong số đó có một đệ tử tên Bà-tất-tra<註 n="1242"/>334, từ bảy đời nay cha mẹ chân chánh khơng bị người khinh chê, tụng đọc thơng suốt ba bộ dị điển, có khả năng phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem tướng đại nhân, quán sát cát hung, tế tự nghi lễ; cũng có năm trăm đệ tử, dạy dỗ khơng bỏ phế. Bà-la-mơn Đa-lê-xa cũng từ bảy đời nay cha mẹ chân chánh khơng bị người khinh chê, tụng đọc thơng suốt ba bộ dị điển, có khả năng phân tích các loại kinh thư, cũng giỏi phép xem tướng đại nhân, quán sát cát hung, tế tự nghi lễ. Ơng cũng có năm trăm đệ tử, dạy dỗ khơng bỏ phế. Trong số đó có một đệ tử tên Phả-la-đọa<註 n="1243"/>335 từ bảy đời nay cha mẹ chân chánh khơng bị người khinh chê, tụng đọc thơng suốt ba bộ dị điển, có khả năng phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem tướng đại nhân, quán sát cát hung, tế tự nghi lễ; cũng có năm trăm đệ tử, dạy dỗ khơng bỏ phế. Lúc bấy giờ, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa, hai người vào lúc tảng sáng đi đến khu vườn cùng nhau bàn luận. Bà-tất-tra nói với Phả-la-đọa: “Con đường của ta chân chánh, có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm thiên. Đó là điều mà Đại sư Phất-già-la-sa-la Bà-la-mơn dạy.” Phả-la-đọa lại nói: “Con đường của ta chân chánh, có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm thiên. Đó là điều mà Đại sư Đa-lê-xa Bà-la-mơn dạy.” Như vậy, Bà-tất-tra ba lần tự khen đạo mình chân chánh. Phả-la-đọa cũng ba lần tự khen đạo mình chân chánh. Hai người cùng bàn luận mà khơng thể quyết định. Rồi Bà-tất-tra nói với Phả-la-đọa rằng: “Ta nghe nói Sa-mơn Cù-đàm, con nhà dịng họ Thích, xuất gia và đã thành đạo, ở Câu-tát-la, du hành nhân gian, nay đang nghỉ tại rừng Y-xa-năng-già-la. Ngài có tiếng tăm lớn, lưu truyền khắp thiên hạ, rằng, Ngài là Bậc Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa chư Thiên, người đời, Sa-mơn, Bà-la-mơn, tự mình chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người khác; lời nói khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối thảy đều chân chánh, nghóa vị đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh. Bậc Chân Nhân như vậy, ta nên đến thăm viếng. Ta nghe nói Sa-mơn Cù-đàm kia biết con đường Phạm thiên, có thể giảng thuyết cho người. Ngài thường nói chuyện, trao đổi với Phạm thiên. Chúng ta hãy cùng nhau đi đến Cù-đàm để giải quyết ý nghóa này. Nếu Sa-mơn có nói điều gì, chúng ta sẽ vâng nhớ.” Bấy giờ, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa, hai người theo nhau đi vào rừng Y-xa-năng-già-la, đến chỗ Thế Tơn, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Thế Tơn biết ý nghó trong lịng hai người, bèn hỏi Bà-tất-tra: “Các ngươi hai người vào lúc tảng sáng đi vào khu vườn, cùng nhau thảo luận như vậy, cùng bài bác lẫn nhau. Một người nói: ‘Con đường của ta chân chánh, có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm thiên. Đó là điều mà Đại sư Phất-già-la-sa-la Bà-la-mơn dạy.’ Người kia nói: ‘Con đường của ta chân chánh, có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm thiên. Đó là điều mà Đại sư Đa-lê-xa Bà-la-mơn dạy.’ Như vậy ba lần, các ngươi bài bác nhau. Có sự việc như vậy khơng?” Bà-tất-tra và Phả-la-đọa khi nghe lời này của Phật thảy đều kinh ngạc, lơng tóc dựng đứng, trong lịng nghó thầm: ‘Sa-mơn Cù-đàm có đại thần đức, biết trong tâm người. Những điều mà chúng ta muốn thảo luận, Sa-mơn Cù-đàm đã nói trước rồi. Rồi Bà-tất-tra bạch Phật: “Con đường này và con đường kia, đều tự xưng là chân chánh, đều có khả năng xuất yếu, dẫn đến Phạm thiên. Điều mà Bà-la-mơn Phất-già-la-sa-la nói đúng hay điều mà Đa-lê-xa nói đúng?” Phật nói: “Giả sử, Bà-tất-tra, con đường này, con đường kia đều chân chánh, xuất yếu, dẫn đến Phạm thiên, các ngươi sao lại đi vào khu vườn lúc tảng sáng mà bài bác lẫn nhau, cho đến ba lần?” Bà-tất-tra bạch Phật: “Có những Bà-la-mơn thơng ba minh<註 n="1244"/>336 giảng thuyết các con đường khác nhau, con đường tự tại dục, con đường tự tác, con đường Phạm thiên. Cả ba con đường ấy đều dẫn đến Phạm thiên<註 n="1245"/>337. Cũng như những con đường trong xóm, tất cả đều dẫn về thành, các Bà-la-mơn tuy nói những con đường khác nhau, nhưng đều hướng đến Phạm thiên.” Phật hỏi Bà-tất-tra: “Có phải các con đường kia thảy đều thú hướng Phạm thiên?” Đáp: “Thảy đều thú hướng”. Phật lặp lại câu hỏi ba lần: “Có phải các con đường kia thảy đều thú hướng Phạm thiên?” Đáp: “Thảy đều thú hướng”. Thế Tơn sau khi đã xác định lời ấy rồi, bèn hỏi Bà-tất-tra: “Thế nào, trong số các Bà-la-mơn thơng tam minh có ai đã từng thấy Phạm thiên chưa?” Đáp: “Khơng có ai thấy”. “Thế nào, Bà-tất-tra, tiên sư của Bà-la-mơn thơng tam minh có từng thấy Phạm thiên chưa?” Đáp: “Khơng ai thấy”. “Thế nào, Bà-tất-tra, các Bà-la-mơn kỳ cựu, các tiên nhân thơng tam minh thời cổ, đọc tụng thơng suốt, có thể thuyết cho người khác nghe các tán tụng cổ, các ca vịnh, thi thư, những vị có tên là A-tra-ma Bà-la-mơn, Bà-ma-đề-bà Bà-la-mơn, Tỳ-bà-thẩm-tra Bà-la-mơn, Y-ni-la-tư Bà-la-mơn, Xà-bà-đề-già Bà-la-mơn, Bà-bà-tất Bà-la-mơn, Ca-diệp Bà-la-mơn, A-lâu-na Bà-la-mơn, Cù-đàm-ma Bà-la-mơn, Thủ-chỉ Bà-la-mơn, Bà-la-tổn-đà Bà-la-mơn<註 n="1246"/>338; những vị này có được thấy Phạm thiên khơng?” Đáp: “Khơng có ai thấy”. Phật nói: “Nếu Bà-la-mơn thơng tam minh kia khơng thấy Phạm thiên, tiên sư của Bà-la-mơn thơng tam minh cũng khơng thấy Phạm thiên, các Bà-la-mơn thơng tam minh, những cựu tiên nhân, như A-tra-ma v.v…, cũng khơng một ai thấy Phạm thiên, thế thì biết rằng những điều mà Bà-la-mơn thơng tam minh nói khơng phải là sự thật<註 n="1247"/>339.” Phật lại nói với Bà-tất-tra: “Như có một người dâm, nói rằng: ‘Tơi cùng với người nữ đẹp đẽ kia thơng giao, ca ngợi dâm pháp.’ Những người khác liền hỏi: ‘Ơng có biết người nữ ấy khơng? Cơ ấy ở đâu? Phương Đơng, phương Tây, phương Nam, hay phương Bắc?’ Đáp: ‘Khơng biết.’ Lại hỏi: ‘Ơng có biết đất, đai, thành ấp, chịm xóm mà người nữ ấy ở khơng?’ Đáp: ‘Khơng biết.’Lại hỏi: ‘Ơng có biết cha mẹ cơ ấy tên gì khơng?’ Đáp: ‘Khơng biết.’ Lại hỏi: ‘Ơng có biết người nữ ấy là Sát-lî, hay Bà-la-mơn, hay Cư só, hay Thủ-đà-la khơng?’ Đáp: ‘Khơng.’ Lại hỏi: ‘Ơng có biết người nữ ấy cao hay thấp, mập hay gầy, đen hay trắng, đẹp hay xấu khơng?’ Đáp: ‘Khơng.’ Thế nào, Bà-tất-tra, sự ca ngợi của người kia có phải sự thật khơng?” Đáp: “Khơng thật”. “Như vậy, Bà-tất-tra, những điều mà Bà-la-mơn thơng tam minh nói cũng như vậy, khơng có sự thật. Thế nào, Bà-tất-tra, Bà-la-mơn thơng tam minh của ngươi thấy nơi chốn mà mặt trời, mặt trăng mọc, lặn, du hành, chắp tay cúng dường và có thể nói như vầy: ‘Con đường này chân chánh, có thể dẫn đến xuất yếu, đến chỗ mặt trời, mặt trăng’ được chăng?” Đáp: “Thật vậy, Bà-la-mơn thơng tam minh thấy nơi chốn mà mặt trời, mặt trăng mọc, lặn, du hành, chắp tay cúng dường, nhưng khơng thể nói như vầy: ‘Con đường này chân chánh, có thể dẫn đến xuất yếu, đến chỗ mặt trời, mặt trăng.’” Phật nói: “Như vậy, Bà-tất-tra, Bà-la-mơn thơng tam minh thấy nơi chốn mà mặt trời, mặt trăng mọc, lặn, du hành, chắp tay cúng dường, nhưng khơng thể nói như vầy: ‘Con đường này chân chánh, có thể dẫn đến xuất yếu, đến chỗ mặt trời, mặt trăng.’ Nhưng lại thường chắp tay cúng dường cung kính, há khơng phải là hư dối sao?” Đáp: “Thật vậy, thưa Cù-đàm, kia thật sự hư dối”. Phật nói: “Ví như có người dựng thang nơi khoảng đất trống; những người khác hỏi: ‘Ngươi bắc thang làm gì?’ Đáp: ‘Tơi muốn lên nhà trên’. Hỏi: ‘Nhà ở chỗ nào? Đơng, hay Tây, hay Nam, hay Bắc?’ Đáp rằng: ‘Khơng biết.’ Thế nào, Bà-tất-tra, người ấy dựng thang để lên nhà, há khơng phải là hư dối sao?’ Đáp: ‘Thật vậy, kia thật sự hư dối’. Phật nói: “Bà-la-mơn thơng tam minh cũng vậy, hư dối khơng thật. “Bà-tất-tra, năm dục khiết tịnh, rất đáng yêu thích<註 n="1248"/>340. Những gì là năm? Mắt thấy sắc, rất đáng yêu thích. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, rất đáng yêu thích, ở trong pháp Hiền thánh của Ta, được gọi là dính mắc, là trói buộc, là xiềng xích. Bà-la-mơn thơng tam minh kia bị nhiễm bởi năm dục, ái dục dính chặt, nhưng khơng thấy lỗi lầm, khơng biết lối xuất yếu. Kia đã bị năm dục trói buộc, giả sử có phụng sự nhật, nguyệt, thủy, hỏa và xướng lên rằng: ‘Xin tiếp đỡ tơi sanh lên Phạm thiên.’ Khơng có trường hợp ấy. Ví như con sơng A-di-la<註 n="1249"/>341, có mức nước ngang bờ<註 n="1250"/>342. Có người ở bờ bên này, mình bị quấn chặt, kêu suơng bờ bên kia rằng: ‘Lại đây, đưa tơi sang.’ Bờ kia có đến đưa người ấy sang khơng?” Đáp: “Khơng”. “Bà-tất-tra, năm dục khiết tịnh, rất đáng yêu thích, ở trong pháp Hiền thánh của Ta, được gọi là dính mắc, là trói buộc, là xiềng xích. Bà-la-mơn thơng tam minh kia bị nhiễm bởi năm dục, ái dục dính chặt, nhưng khơng thấy lỗi lầm, khơng biết lối xuất yếu. Kia đã bị năm dục trói buộc, giả sử có phụng sự nhật, nguyệt, thủy, hỏa và xướng lên rằng: ‘Xin tiếp đỡ tơi sanh lên Phạm thiên’, thì cũng giống như vậy. Trọn khơng thể xảy ra. “Bà-tất-tra, ví như con sơng A-di-la, nước tràn ngang bờ, con quạ có thể uống được. Có người muốn sang, khơng bằng vào sức của tay chân, thân mình, khơng nhân thuyền bè, mà có thể sang được khơng?” Đáp: “Khơng”. “Bà-tất-tra, Bà-la-mơn thơng tam minh cũng vậy, khơng tu hạnh thanh tịnh của Sa-mơn, lại tu theo hạnh khơng thanh tịnh của đạo khác, mà muốn cầu sanh Phạm thiên, khơng có trường hợp đó. “Bà-tất-tra, cũng như nước trong núi vọt mạnh ra, cuốn trơi khá nhiều nhân dân, vả lại khơng có thuyền, bè, cũng khơng có cầu bến. Người kia nghó thầm: ‘Ta nên thâu lượm thật nhiều cỏ và cây, buộc thành chiếc bè thật chắc chắn, rồi bằng sức của thân mình mà sang bờ một cách an ổn. Bà-tất-tra, cũng vậy, nếu Tỳ-kheo xả hạnh bất tịnh phi Sa-mơn, tu hành phạm hạnh thanh tịnh của Sa-mơn, muốn sanh Phạm thiên; trường hợp ấy có xảy ra. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có nhuế tâm<註 n="1251"/>343 hay khơng có nhuế tâm?” Đáp: “Khơng có nhuế tâm”. Lại hỏi: “Bà-la-mơn thơng tam minh có nhuế tâm hay khơng có nhuế tâm?” Đáp: “Có nhuế tâm”. “Bà-tất-tra, Phạm thiên khơng có nhuế tâm. Bà-la-mơn thơng tam minh có nhuế tâm. Nhuế tâm và khơng nhuế tâm khơng cùng sống chung, khơng cùng giải thốt, khơng thú hướng đến nhau.<註 n="1252"/>344 Vậy Phạm thiên và Bà-la-mơn khơng sống chung. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có sân tâm, hay khơng có sân tâm<註 n="1253"/>345.” Đáp: “Khơng có sân tâm”. Lại hỏi: “Bà-la-mơn thơng tam minh có sân tâm, hay khơng có sân tâm?” Đáp: “Có sân tâm.” “Bà-tất-tra, Phạm thiên khơng có sân tâm. Bà-la-mơn thơng tam minh có sân tâm. Sân tâm và khơng sân tâm khơng cùng sống chung, khơng cùng giải thốt, khơng thú hướng đến nhau. Vậy Phạm thiên và Bà-la-mơn khơng sống chung. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có hận tâm, hay khơng có hận tâm<註 n="1254"/>346?” Đáp: “Khơng có hận tâm.” Lại hỏi: “Bà-la-mơn thơng tam minh có hận tâm, hay khơng có hận tâm? Đáp: “Có hận tâm”. Phật nói: “Phạm thiên khơng có sân tâm. Bà-la-mơn thơng tam minh có sân tâm. Sân tâm và khơng sân tâm khơng cùng sống chung, khơng cùng giải thốt, khơng thú hướng đến nhau. Vậy Phạm thiên và Bà-la-mơn khơng sống chung. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có gia thuộc, sản nghiệp khơng<註 n="1255"/>347?” Đáp: “Khơng” Lại hỏi: “Bà-la-mơn tam minh có gia thuộc, sản nghiệp khơng?” Đáp: “Có”. Phật nói: “Phạm thiên khơng có gia thuộc, sản nghiệp. Bà-la-mơn thơng tam minh có gia thuộc, sản nghiệp. Người có gia thuộc, sản nghiệp và người khơng gia thuộc, sản nghiệp khơng cùng sống chung, khơng cùng giải thốt, khơng thú hướng đến nhau. Vậy Phạm thiên và Bà-la-mơn khơng sống chung. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có được tự tại hay khơng được tự tại<註 n="1256"/>348?” Đáp: “Được tự tại”. Lại hỏi: “Bà-la-mơn tam minh có được tự tại, hay khơng được tự tại? Đáp: “Khơng được tự tại”. Phật nói: “Phạm thiên được tự tại. Bà-la-mơn thơng tam minh khơng được tự tại. Người được tự tại và người khơng được tự tại cùng sống chung, khơng cùng giải thốt, khơng thú hướng đến nhau. Vậy Phạm thiên và Bà-la-mơn khơng sống chung.” Phật lại nói: “Bà-la-mơn tam minh kia, giả sử có người đến hỏi ý nghóa sâu xa, khơng thể trả lời đầy đủ, có thật như vậy khơng?” Đáp: “Thật như vậy”. Bấy giờ, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa, hai người đều bạch Phật rằng: “Hãy gác qua một bên các đề tài khác. Tơi nghe Sa-mơn Cù-đàm biết rõ con đường Phạm thiên<註 n="1257"/>349, có thể giảng thuyết điều đó cho người khác; lại đã cùng Phạm thiên gặp gỡ, qua lại chuyện trị. Cúi mong Sa-mơn Cù-đàm vì lịng từ mẫn, xin thuyết con đường Phạm thiên, xin khai thị, phơ diễn.” Phật nói với Bà-tất-tra: “Ta nay hỏi ngươi. Hãy tùy ý trả lời. Thế nào, Bà-tất-tra, nước Tâm niệm<註 n="1258"/>350 kia cách đây gần xa?” Đáp: “Gần”. “Giả sử có người sanh trưởng ở nước này được người khác hỏi đường đi đến nước này. Thế nào, Bà-tất-tra, người sanh trưởng ở nước ấy trả lời đường đi cho người hỏi kia, há có đáng nghi ngờ chăng?” Đáp: “Khơng nghi. Vì sao? Vì y sanh trưởng ở nước này”. Phật nói: “Dù cho người sanh trưởng ở nước này kia cũng có thể đáng nghi ngờ, nhưng nếu có người hỏi Ta về con đường Phạm thiên, khơng có điều gì nghi ngờ. Vì sao? Ta đã từng nhiều lần nói về con đường Phạm thiên ấy.” Bà-tất-tra và Phả-la-đọa, cả hai cùng bạch Phật: “Hãy gác qua một bên các đề tài khác. Tơi nghe Sa-mơn Cù-đàm biết rõ con đường Phạm thiên, có thể giảng thuyết điều đó cho người khác; lại đã cùng Phạm thiên gặp gỡ, qua lại chuyện trị. Cúi mong Sa-mơn Cù-đàm vì lịng từ mẫn, xin thuyết con đường Phạm thiên, xin khai thị, phơ diễn.” Phật nói: “Hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ nói cho ngươi nghe.” Đáp: “Kính vâng. Xin vui lịng được nghe.” Phật nói: “Nếu Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, đầy đủ mười hiệu, cho đến, Tứ thiền, ở ngay trong đời này mà hưởng thọ an lạc. Vì sao? Ấy do tinh cần, chuyên niệm khơng quên, ưa sống một mình nơi thanh vắng, khơng buơng lung vậy. Vị ấy với Từ tâm tràn khắp một phương; các phương khác cũng vậy, rộng khắp khơng biên tế, khơng hai, vơ lượng, khơng hận, vơ hại<註 n="1259"/>351, du hí với tâm ấy và hưởng thọ an lạc<註 n="1260"/>352. Bi, Hỷ, Xả tâm biến mãn một phương, phương khác cũng vậy, rộng khắp khơng biên tế, khơng hai, vơ lượng, khơng kết hận, khơng có ý não hại<註 n="1261"/>353, du hí với tâm ấy và hưởng thọ an lạc. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có nhuế tâm khơng?” Đáp: “Khơng”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo hành Từ tâm có nhuế tâm, hay khơng có nhuế tâm?” Đáp: “Khơng có nhuế tâm”. Phật nói: “Phạm thiên khơng có nhuế tâm. Tỳ-kheo hành Từ tâm khơng có nhuế tâm. Khơng nhuế tâm và khơng nhuế tâm cùng hướng đến nhau, đồng giải thốt. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống chung.<註 n="1262"/>354 “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có sân tâm, hay khơng có sân tâm?” Đáp: “Khơng”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo hành Từ tâm có sân tâm, hay khơng có sân tâm?” Đáp: “Khơng có sân tâm”. Phật nói: “Phạm thiên khơng có sân tâm. Tỳ-kheo hành Từ tâm khơng có sân tâm. Khơng sân tâm và khơng sân tâm cùng hướng đến nhau, đồng giải thốt. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống chung. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có hận tâm, hay khơng có hận tâm?” Đáp: “Khơng”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo hành Từ tâm có hận tâm, hay khơng có hận tâm?” Đáp: “Khơng có hận tâm”. Phật nói: “Phạm thiên khơng có hận tâm. Tỳ-kheo hành Từ tâm khơng có hận tâm. Khơng hận tâm và khơng hận tâm cùng hướng đến nhau, đồng giải thốt. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống chung. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có gia thuộc sản nghiệp hay khơng?” Đáp: “Khơng”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo hành Từ tâm có gia thuộc, sản nghiệp hay khơng?” Đáp: “Khơng có gia thuộc, sản nghiệp”. Phật nói: “Phạm thiên khơng có gia thuộc, sản nghiệp. Tỳ-kheo hành Từ tâm khơng có gia thuộc, sản nghiệp. Khơng gia thuộc, sản nghiệp và khơng gia thuộc sản nghiệp cùng hướng đến nhau, đồng giải thốt. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống chung. “Thế nào, Bà-tất-tra, Phạm thiên có được tự tại khơng?” Đáp: “Được tự tại”. Lại hỏi: “Tỳ-kheo hành Từ tâm có được tự tại khơng?” Đáp: “Được tự tại”. Phật nói: “Phạm thiên được tự tại. Tỳ-kheo hành Từ tâm được tự tại. Được tự tại và được tự tại cùng hướng đến nhau, đồng giải thốt. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo cùng sống chung.” Phật lại nói với Bà-tất-tra: “Nên biết, Tỳ-kheo hành Từ tâm, khi thân hoại mạng chung, trong khoảnh khắc như mũi tên được bắn đi, sanh lên Phạm thiên.” Khi Phật nói kinh này, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa ngay trên chỗ ngồi mà xa lìa trần cấu, ở trong các pháp phát sanh con mắt thấy pháp<註 n="1263"/>355. Bấy giờ, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140889">27. KINH SA-MƠN QUẢ<註 n="1264"/>1 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật trú tại La-duyệt-kỳ, trong vườn Am-bà của Kỳ Cựu đồng tử<註 n="1265"/>2, cùng với Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, A-xà-thế, con trai bà Vi-đề-hi<註 n="1266"/>3, vào ngày rằm, lúc trăng trịn, sai gọi một phu nhân đến, bảo rằng: “Đêm nay trong sáng khơng khác gì ban ngày. Ta nên làm gì?” Phu nhân tâu: “Đêm nay rằm trăng trịn, như ban ngày khơng khác. Nên tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ hưởng thụ ngũ dục.” Vua lại lệnh gọi thái tử thứ nhất là Ưu-da-bà-đà<註 n="1267"/>4 đến hỏi: “Đêm nay rằm trăng trịn, khơng khác gì ban ngày. Ta nên làm gì?” Thái tử tâu: “Đêm nay rằm trăng trịn, như ban ngày khơng khác. Nên tập họp bốn thứ quân, cùng bàn mưu chinh phạt phản nghịch biên cương, sau đó trở về cùng hưởng thụ dục lạc.” Vua lại ra lệnh triệu đại tướng Dũng Kiện đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng trịn, đêm sáng trong khơng khác gì ban ngày. Ta nên làm gì?” Đại tướng tâu: “Đêm nay trong sáng, khơng khác gì ban ngày, nên tập họp bốn thứ quân, đi tra xét thiên hạ để biết có sự thuận hay nghịch<註 n="1268"/>5.” Vua lại sai triệu Bà-la-mơn Vũ-xá<註 n="1269"/>6 đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng trịn, đêm sáng trong khơng khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-mơn, Bà-la-mơn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?” Khi ấy Vũ-xá tâu vua: “Đêm nay trong sáng, khơng khác ban ngày. Có Bất-lan Ca-diệp<註 n="1270"/>7, là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường<註 n="1271"/>8. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.” “Vua lại lệnh gọi em Vũ-xá là Tu-ni-đà<註 n="1272"/>9 đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng trịn, đêm sáng trong khơng khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-mơn, Bà-la-mơn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?” Khi ấy Tu-ni-đà tâu vua: “Đêm nay trong sáng, khơng khác ban ngày. Có Mạt-già-lê Cù-xá-lê<註 n="1273"/>10, là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.” Vua lại sai triệu Điển tác đại thần<註 n="1274"/>11 đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng trịn, đêm sáng trong khơng khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-mơn, Bà-la-mơn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?” Khi ấy Điển tác đại thần tâu vua: “Đêm nay trong sáng, khơng khác ban ngày. Có A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la<註 n="1275"/>12, là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.” Vua lại sai triệu tướng thủ thành mơn là Già-la<註 n="1276"/>13 đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng trịn, đêm sáng trong khơng khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-mơn, Bà-la-mơn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?” Khi ấy tướng thủ thành mơn là Già-la tâu vua: “Đêm nay trong sáng, khơng khác ban ngày. Có Bà-phù-đà Già-chiên-na<註 n="1277"/>14, là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.” Vua lại sai triệu Ưu-đà-di Mạn-đề Tử<註 n="1278"/>15 đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng trịn, đêm sáng trong khơng khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-mơn, Bà-la-mơn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?” Khi ấy Ưu-đà-di tâu vua: “Đêm nay trong sáng, khơng khác ban ngày. Có Tán-nhã-di Tỳ-la-lê-phất<註 n="1279"/>16, là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.” Vua lại sai triệu em là Vơ Úy<註 n="1280"/>17 đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng trịn, đêm sáng trong khơng khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-mơn, Bà-la-mơn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?” Khi ấy Vơ Úy tâu vua: “Đêm nay trong sáng, khơng khác ban ngày. Có Ni-kiền Tử<註 n="1281"/>18, là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.” Vua lại sai triệu Thọ Mạng đồng tử<註 n="1282"/>19 đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng trịn, đêm sáng trong khơng khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-mơn, Bà-la-mơn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?” Thọ Mạng đồng tử tâu: “Có Phật, Thế Tơn, nay đang ở trong vườn xồi của tơi. Đại vương nên đến đó thăm hỏi. Nếu Đại vương gặp Phật, tâm tất khai ngộ.” Vua bèn sắc lệnh Thọ Mạng: “Hãy thắng kiệu con voi báu mà ta thường cưỡi, cùng với năm trăm thớt voi trắng.” Thọ Mạng vâng lệnh, cho trang nghiêm con voi của vua cùng với năm trăm thớt voi xong, tâu vua rằng: “Xa giá đã trang nghiêm. Xin Đại vương biết thời.” A-xà-thế tự mình cưỡi voi báu; cho năm trăm phu nhân cưỡi năm trăm voi cái, tay mỗi người đều cầm một bó đuốc, thể hiện uy nghi của vua, ra khỏi La-duyệt-kỳ, chậm rãi tiến đi trên con đường hướng đến chỗ Phật. Vua bảo Thọ Mạng: “Ngươi nay gạt ta, hãm hại ta, dẫn ta và đại chúng đến cho kẻ thù.” Thọ Mạng tâu: “Đại vương, thần khơng dám lừa dối Đại vương. Khơng dám hãm hại Đại vương, dẫn Đại vương và đại chúng đến cho kẻ thù. Đại vương cứ tiến về phía trước, tất thu hoạch được phúc khánh.” Rồi thì, tiến tới một quãng ngắn, vua lại bảo Thọ Mạng: “Ngươi nay gạt ta, hãm hại ta, dẫn ta và đại chúng đến cho kẻ thù.” Vua nói ba lần như vậy. “Vì sao? Kia có một ngàn hai trăm năm mươi người, nhưng lại vắng lặng khơng tiếng động. Hẳn là có âm mưu rồi.” Thọ Mạng ba lần tâu: “Đại vương, thần khơng dám lừa dối Đại vương. Khơng dám hãm hại Đại vương, dẫn Đại vương và đại chúng đến cho kẻ thù. Đại vương cứ tiến về phía trước, tất thu hoạch được phúc khánh. Vì sao? Sa-mơn kia theo pháp thường ưa sự thanh vắng, do đó khơng có tiếng động. Đại vương cứ tiến tới. Khu vườn đã xuất hiện<註 n="1283"/>20.” Vua A-xà-thế đi đến cổng vườn<註 n="1284"/>21, xuống voi, giải kiếm, cất lọng, dẹp bỏ năm thứ uy nghi<註 n="1285"/>22, bước vào cổng vườn, nói với Thọ Mạng: “Phật, Thế Tơn đang ở đâu?” Thọ Mạng trả lời: “Đại vương, Phật đang ở trên cao đường kia<註 n="1286"/>23, phía trước Ngài có ngọn đèn. Thế Tơn ngồi trên tịa sư tử<註 n="1287"/>24, mặt hướng về phía Nam. Đại vương đi tới một chút, tự mình gặp Thế Tơn.” Bấy giờ, A-xà-thế đi đến chỗ giảng đường, rửa chân ở bên ngồi, sau đó mới bước lên giảng đường, im lặng nhìn bốn phía, sanh tâm hoan hỷ, miệng tự phát lên lời: “Nay các Sa-mơn yên tónh lặng thinh, đầy đủ chỉ quán<註 n="1288"/>25. Mong sao thái tử Ưu-đà-di của tơi cũng chỉ quán thành tựu<註 n="1289"/>26, như thế này khơng khác.” Khi ấy, Phật nói với vua A-xà-thế: “Đại vương nghó đến con, nên từ miệng mình phát ra lời<註 n="1290"/>27: ‘Mong sao thái tử Ưu-đà-di cũng chỉ quán thành tựu như vậy khơng khác.’ Đại vương hãy ngồi phía trước đó.” A-xà-thế bèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi sang một bên, bạch Phật rằng: “Nay có điều muốn hỏi, nếu Ngài có rảnh, tơi mới dám hỏi.” Phật nói: “Đại vương, có điều gì muốn hỏi, xin cứ hỏi.” A-xà-thế bạch Phật: “Thế Tơn, như nay người cưỡi voi, xe ngựa, tập luyện đao, mâu, kiếm, cung tên, binh khí, phép chiến đấu; vương tử, lực só, đại lực só, tơi tớ, thợ da, thợ hớt tóc, thợ bện tóc, thợ đóng xe, thợ gốm, thợ đan, thợ dệt cói; mỗi người đều sinh sống bằng các kỹ thuật khác nhau, tự mình hưởng thụ dục lạc; và cùng với cha, mẹ, vợ con, nơ bộc vui hưởng lạc thú. Các nghề nghiệp như vậy đều có quả báo hiện tại. Nay các Sa-mơn hiện tại tu hành, được những quả báo hiện tại<註 n="1291"/>28 gì?” Phật nói với vua A-xà-thế: “Đại vương đã từng đến các Sa-mơn, Bà-la-mơn để hỏi ý nghóa như vậy chưa?” Vua bạch Phật: “Tơi đã từng đi đến các Sa-mơn, Bà-la-mơn để hỏi ý nghóa như vậy. “Nhớ lại, một thời tơi đến Bất-lan Ca-diệp, hỏi rằng: ‘như ngườøi cưỡi voi, xe ngựa, tập luyện binh pháp… cho đến, bằng các sự mưu sinh khác nhau, hiện tại có quả báo. Nay chúng đây hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báo khơng?’ Bất-lan Ca-diệp kia trả lời tơi rằng: ‘Đại vương nếu tự mình làm hay sai bảo người khác làm. Chặt, bửa, tàn hại, nấu, nướng, cắt, xẻ, não loạn chúng sanh, khiến cho sầu ưu, than khóc; sát sanh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, trèo tường cướp bóc, phóng lửa thiêu đốt, chận đường làm chuyện ác. Đại vương, hành động như vậy khơng phải là ác. Đại vương, nếu lấy kiếm bén mà lóc thịt chúng sanh, làm thành một đống thịt, ngập tràn cả thế gian; đó khơng phải là sự ác, cũng khơng tội báo. Ở bờ Nam sơng Hằng, lóc thịt chúng sanh, cũng khơng có ác báo. Ở phía Bắc sơng Hằng, thiết hội bố thí lớn, bố thí tất cả chúng sanh, lợi cho tất cả mọi người, cũng khơng có quả báo của tội phước<註 n="1292"/>29’.” Rồi vua bạch Phật: “Cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tơi hỏi hiện tại có được quả báo khơng, nhưng kia trả lời tơi là khơng có tội phước. Tơi bèn suy nghó rằng: ‘Ta là vua Quán đảnh dịng Sát-lî, khơng duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi đi.<註 n="1293"/>30 ’ Khi ấy, trong lịng tơi phẫn nộ, suy nghó như vậy rồi, bèn bỏ mà đi<註 n="1294"/>31.” Rồi nhà vua lại bạch Phật: “Nhớ lại, một thời tơi đến Mạt-già-lê Câu-xá-lê, hỏi rằng: ‘như người cưỡi voi, xe ngựa, tập luyện binh pháp v.v…, cho đến, bằng các sự mưu sinh khác nhau, hiện tại có quả báo. Nay chúng đây hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báo khơng?’ Kia trả lời tơi rằng: ‘Đại vương, khơng có bố thí, khơng có sự cho<註 n="1295"/>32, khơng có pháp tế tự<註 n="1296"/>33. Cũng khơng có thiện ác; khơng có quả báo của thiện ác. Khơng có đời này, khơng có đời sau. Khơng có cha, khơng có mẹ, khơng có chư Thiên, khơng có sự hóa sanh, khơng có chúng sanh<註 n="1297"/>34. Ở đời khơng có Sa-mơn, Bà-la-mơn, bình đẳng hành giả<註 n="1298"/>35 và họ cũng khơng tự mình chứng ngộ đời này hay đời sau, rồi phơ diễn cho người hay. Những ai nói có, thảy đều hư dối.<註 n="1299"/>36 ’ “Cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tơi hỏi hiện tại có được quả báo khơng, nhưng kia trả lời bằng thuyết vơ nghóa<註 n="1300"/>37. Tơi bèn suy nghó rằng: ‘Ta là vua Quán đảnh dịng Sát-lî, khơng duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi đi.’ Khi ấy, trong lịng tơi phẫn nộ, suy nghó như vậy rồi, bèn bỏ mà đi.” Rồi nhà vua lại bạch Phật: “Một thời, tơi đến A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la, hỏi rằng: ‘Đại đức, như người cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báo khơng?’ Kia trả lời tơi rằng: ‘Con người lãnh thọ bốn đại, khi mạng chung, đất trở về đất, nước trở về nước, lửa trở về lửa, gió trở về gió; thảy đều hư rã, các căn trở về hư khơng. Khi người chết, nhà đồ khiêng xác để trong bãi tha ma, lửa đốt cháy thành xương như màu bồ câu, hoặc biến thành tro đất. Hoặc ngu, hoặc trí, đến lúc mạng chung, thảy đều hư rã, là pháp đoạn diệt<註 n="1301"/>38’. “Cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tơi hỏi hiện tại có được quả báo khơng, nhưng kia trả lời bằng thuyết đoạn diệt<註 n="1302"/>39. Tơi bèn suy nghó rằng: ‘Ta là vua Quán đảnh dịng Sát-lî, khơng duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi đi.’ Khi ấy, trong lịng tơi phẫn nộ, suy nghó như vậy rồi, bèn bỏ mà đi.” Rồi nhà vua lại bạch Phật: “Một thời, tơi đến Ba-phù-đà Già-chiên-diên, hỏi rằng: ‘Đại đức, như người cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báo khơng?’ Kia trả lời tơi rằng: ‘Khơng có lực, khơng có tinh tấn, con người khơng sức mạnh, khơng phương tiện. Chúng sanh nhiễm trước khơng do nhân gì hay duyên gì. Chúng sanh thanh tịnh khơng do nhân gì hay duyên gì. Hết thảy chúng sanh, những lồi có mạng, thảy đều khơng sức mạnh, khơng được tự tại, khơng có cái gì được gọi là ốn là thù<註 n="1303"/>40, ở trong sáu sanh loại<註 n="1304"/>41 mà thọ các khổ hay lạc.’<註 n="1305"/>42 “Cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tơi hỏi hiện tại có được quả báo khơng, nhưng kia trả lời bằng thuyết Vơ lực<註 n="1306"/>43. Tơi bèn suy nghó rằng: ‘Ta là vua Quán đảnh dịng Sát-lî, khơng duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi đi.’ Khi ấy, trong lịng tơi phẫn nộ, suy nghó như vậy rồi, bèn bỏ mà đi.” Rồi nhà vua lại bạch Phật: “Một thời, tơi đến Tán-nhã Tỳ-la-lê Tử, hỏi rằng: ‘Đại đức, như người cưỡi voi, ngựa, xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báo khơng?’ Kia trả lời tơi rằng: ‘Đại vương, hiện tại có quả báo của Sa-mơn. Hỏi như vậy, đáp sự việc ấy như vậy. Sự việc này là thật, sự việc này là khác; sự việc này khơng phải khác cũng khơng phải khơng khác. Đại vương, hiện tại khơng có quả báo của Sa-mơn. Hỏi như vậy, đáp sự việc ấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác; sự việc này khơng phải khác cũng khơng phải khơng khác. Đại vương, hiện tại vừa có vừa khơng có quả báo của Sa-mơn. Hỏi như vậy, đáp sự việc ấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác; sự việc này khơng phải khác cũng khơng phải khơng khác. Đại vương, hiện tại khơng phải có cũng khơng phải khơng có quả báo của Sa-mơn. Hỏi như vậy, đáp sự việc ấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác; sự việc này khơng phải khác cũng khơng phải khơng khác. Hỏi như vậy, đáp sự việc ấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác; sự việc này khơng phải khác cũng khơng phải khơng khác<註 n="1307"/>44.’ Thế Tơn, cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tơi hỏi hiện tại có được quả báo khơng, nhưng kia trả lời bằng thuyết dị luận. Tơi bèn suy nghó rằng: ‘Ta là vua Quán đảnh dịng Sát-lî, khơng duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi đi.’ Khi ấy, trong lịng tơi phẫn nộ, suy nghó như vậy rồi, bèn bỏ mà đi.” Rồi nhà vua lại bạch Phật: “Một thời, tơi đến Ni-kiền Tử, hỏi rằng: ‘Đại đức, như người cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báo khơng?’ Kia trả lời tơi rằng: ‘Đại vương, tơi là bậc Nhất thiết trí, là người thấy tất cả, biết thấu suốt khơng sót. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc ngủ, hoặc thức, bất cứ lúc nào, trí thường hiện tiền.’ Thế Tơn, cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tơi hỏi hiện tại có được quả báo khơng, nhưng kia trả lời bằng thuyết dị luận. Tơi bèn suy nghó rằng: ‘Ta là vua Quán đảnh dịng Sát-lî, khơng duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi đi.’ Khi ấy, trong lịng tơi phẫn nộ, suy nghó như vậy rồi, bèn bỏ mà đi. “Thế Tơn, hơm nay tơi đến đây để hỏi ý nghóa như vầy: như người cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây Sa-mơn hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báo khơng?” Phật nói với vua A-xà-thế: “Nay Ta trở lại hỏi Đại vương, xin tùy ý trả lời. Thế nào, Đại vương, có đồng bộc của Đại vương, người làm các cơng việc trong và ngồi, đều thấy Đại vương vào ngày rằm, lúc trăng trịn, tắm gội sạch sẽ, ở trên điện cao cùng hưởng thụ dục lạc với các thể nữ, bèn suy nghó như vầy: ‘Lạ thay, quả báo của hành vi<註 n="1308"/>45 đến như thế sao? Vua A-xà-thế này vào ngày rằm, lúc trăng trịn, tắm gội sạch sẽ, ở trên điện cao cùng hưởng thụ dục lạc với các thể nữ. Ai có thể biết được đấy lại là quả báo của hành vi?’ Người kia, một thời gian sau, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, thực hành pháp bình đẳng<註 n="1309"/>46. Thế nào, Đại vương, Đại vương từ xa thấy người ấy đi đến, há có khởi lên ý nghó rằng: Đấy là nơ bộc của ta?” Vua bạch Phật: “Khơng, bạch Thế Tơn. Nếu thấy người ấy đến, phải đứng dậy nghinh đón, mời ngồi.” Phật nói: “Đó khơng phải là Sa-mơn được quả báo hiện tại sao?” Vua đáp: “Đúng như vậy, Thế Tơn, đó là hiện tại được quả báo Sa-mơn vậy”. “Lại nữa, Đại vương, có người khách<註 n="1310"/>47 cư ngụ trong cương giới của Đại vương, ăn thóc lúa mà Đại vương ban cho. Người ấy thấy Đại vương vào ngày rằm trăng trịn, tắm gội sạch sẽ, ở trên điện cao cùng các thể nữ vui thú ngũ dục, bèn nghó thầm rằng: ‘Lạ thay, quả báo của hành vi kia đến như vậy sao? Ai có thể biết đó là quả báo của hành vi?’ Một thời gian sau, người ấy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, hành bình đẳng pháp. Thế nào, Đại vương? Nếu Đại vương từ xa thấy người ấy đi đến, có khởi lên ý nghó rằng; ‘Người ấy là khách dân của Ta, ăn thóc lúa mà Ta ban cho’ hay khơng?” Vua nói: “Khơng. Nếu tơi thấy người ấy từ xa đến, tơi sẽ đứng dậy nghinh đón, chào hỏi, mời ngồi”. “Thế nào, Đại vương, đó khơng phải là Sa-mơn hiện tại được quả báo chăng?” Vua nói: “Đúng như vậy, hiện tại được quả báo của Sa-mơn vậy”. “Lại nữa, Đại vương, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, vào trong pháp Ta, cho đến tam minh, diệt trừ các tối tăm, phát sanh ánh sáng đại trí, gọi là lậu tận trí chứng. Vì sao? Ấy là do tinh cần, chuyên niệm khơng quên, ưa sống một mình nơi thanh vắng, khơng buơng lung vậy. Thế nào, Đại vương, đó khơng phải là quả báo hiện tại của Sa-mơn sao?” Vua đáp: “Thật vậy, Thế Tơn, đó thật là quả báo hiện tại của Sa-mơn”. Bấy giờ, vua A-xà-thế rời chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt lễ chân Phật, bạch Phật rằng: “Cúi mong Thế Tơn nhận sự hối hận của con. Con vì cuồng, ngu si, tối tăm, khơng nhận thức. Cha con là Bình-sa vương, vua nước Ma-kiệt-đà, cai trị bằng chánh pháp, khơng có thiên vạy. Nhưng con bị ngũ dục mê hoặc, thật sự đã hại phụ vương. Cúi mong Thế Tơn rũ lịng thương xót, nhận sự sám hối của con.” Phật bảo vua: “Ngươi ngu si, khơng nhận thức. Nhưng đã tự mình hối cải. Ngươi vì mê say ngũ dục mà hại phụ vương. Nay trong pháp Hiền thánh mà biết hối cải, tức là tự làm ích lợi cho mình. Ta vì thương tưởng ngươi, nhận sự sám hối của ngươi.” Bấy giờ, vua A-xà-thế sau khi lễ Phật, được Phật giảng pháp cho nghe, được chỉ bày, khuyến khích, làm cho ích lợi, hoan hỷ. Sau khi nghe những điều Phật dạy, vua liền bạch Phật: “Con nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin chấp nhận con là Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay về sau, suốt đời khơng giết, khơng trộm, khơng dâm, khơng dối, khơng uống rượu. Cúi mong Thế Tơn cùng đại chúng sáng ngày mai nhận lời thỉnh của con.” Bấy giờ, Thế Tơn im lặng nhận lời. Rồi thì, vua thấy Phật im lặng nhận lời, liền đứng dậy lễ Phật, đi quanh ba vịng sau đó cáo lui. Vua đi chưa bao lâu, Phật nói với các Tỳ-kheo rằng: “Vua A-xà-thế này, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội. Nếu A-xà-thế khơng giết cha, thì ngay tại chỗ này đã được con mắt thanh tịnh thấy pháp. Nhưng vua A-xà-thế nay đã hối lỗi, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội.” Bấy giờ, A-xà-thế, đang trên đường đi, gọi Thọ Mạng đồng tử bảo rằng: “Lành thay, lành thay! Ngươi nay làm được nhiều điều lợi ích cho ta. Ngươi trước đã tán thán Như Lai, chỉ dẫn, khơi mở, sau đó đưa ta đến gặp Thế Tơn, nhờ thế ta được khai ngộ. Ta rất cám ơn ngươi, trọn khơng bao giờ quên.” Rồi thì, vua trở về cung sửa soạn các món hào soạn, các loại thức ăn. Sáng hơm sau, khi đã đến giờ, báo Đức Thánh biết đã đến giờ. Bấy giờ, Thế Tơn khốc y cầm bát, cùng với chúng đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người, đi đến vương cung, ngồi trên chỗ ngồi dọn sẵn. Rồi, vua tự tay châm chước, cúng Phật và Tăng. Ăn xong, cất bát, dùng nước rửa xong, vua đảnh lễ Phật, bạch rằng: “Con nay ba lần xin sám hối. Con vì cuồng dại, ngu si, tối tăm, khơng nhận thức. Cha con là Bình-sa vương, vua nước Ma-kiệt-đà, cai trị bằng chánh pháp, khơng có thiên vạy. Nhưng con vì mê say ngũ dục, thật sự đã hại phụ vương. Cúi mong Thế Tơn rủ lịng thương xót, nhận sự sám hối của con.” Phật bảo vua: “Ngươi ngu si, khơng nhận thức. Ngươi vì mê say ngũ dục mà hại phụ vương. Nay trong pháp Hiền thánh mà biết hối cải, tức là tự làm ích lợi cho mình. Ta vì thương tưởng ngươi, nhận sự sám hối của ngươi.” Rồi thì, sau khi đảnh lễ Phật, vua lấy một ghế nhỏ ngồi trước Phật. Phật giảng pháp cho vua nghe, chỉ bày, khuyến khích, khiến cho được ích lợi, hoan hỷ. Sau khi nghe Phật dạy, vua lại bạch Phật: “Con nay ba lần xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi mong nhận con làm Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay cho đến trọn đời, khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu.” Bấy giờ, Thế Tơn sau khi giảng pháp cho vua nghe, chỉ bày, khuyến khích, khiến cho được ích lợi, hoan hỷ, bèn rời chỗ ngồi ra về. Vua A-xà-thế và Thọ Mạng đồng tử sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140890">28. KINH BỐ-TRA-BÀ-LÂU<註 n="1311"/>48 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại nước Xá-vệ<註 n="1312"/>49, trong vườn Kỳ thọ Cấp cơ độc<註 n="1313"/>50, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người<註 n="1314"/>51. Bấy giờ, vào lúc sáng sớm, Thế Tơn khốc y cầm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khi ấy, Thế Tơn nghó rằng: “Ngày hơm nay khất thực, thời gian cịn sớm, Ta hãy đến thăm khu rừng của Phạm chí Bố-tra-bà-lâu<註 n="1315"/>52; đợi đến giờ rồi hãy đi khất thực”. Rồi Ngài đi đến rừng của Phạm chí. Phạm chí Bố-tra-bà-lâu từ xa trơng thấy Phật đi đến, liền đứng dậy nghinh đón rằng: “Hoan nghinh, Sa-mơn Cù-đàm! Lâu nay khơng đến. Nay vì duyên cớ gì lại khuất mình chiếu cố? Xin mời ngồi phía trước đây.” Thế Tơn ngồi xuống chỗ ấy, nói với Bố-tra-bà-lâu rằng: “Các ơng tập họp tại đây, để làm gì? Để bàn chuyện gì?” Phạm chí bạch Phật: “Thế Tơn, ngày hơm qua<註 n="1316"/>53 có nhiều Sa-mơn, Bà-la-mơn tập họp tại giảng đường, bàn luận sự việc như vậy<註 n="1317"/>54. Những vấn đề chống trái nhau. “Cù-đàm, hoặc có Phạm chí nói như vầy: ‘Con người phát sanh tưởng khơng do nhân gì duyên gì. Tưởng có đến, có đi. Đến thì tưởng sanh. Đi thì tưởng diệt.<註 n="1318"/>55’ “Cù-đàm, hoặc có Phạm chí nói như vầy: ‘Do mạng, có tưởng sanh; do mạng, có tưởng diệt. Tưởng kia đi, đến. Đến thì tưởng sanh. Đi thì tưởng diệt.<註 n="1319"/>56 ’ “Cù-đàm, hoặc có Phạm chí nói như vầy: ‘Các thuyết nói trước đó khơng đúng sự thật. Có vị đại quỷ thần, có uy lực lớn, mang tưởng đi; mang tưởng đến. Khi vị ấy mang tưởng đi thì tưởng diệt. Khi vị ấy mang tưởng đến thì tưởng sanh.<註 n="1320"/>57’ “Tơi nhân đó có suy nghó, nghó rằng Sa-mơn Cù-đàm tất biết rõ ý nghóa này, tất có thể biết rõ tưởng tri diệt định<註 n="1321"/>58.” Bấy giờ Thế Tơn nói với Phạm chí rằng: “Các luận thuyết ấy đều có chỗ sai lầm. Tức là nói khơng do nhân, khơng do duyên mà có tưởng sanh; khơng do nhân, khơng do duyên mà có tưởng diệt; tưởng có đến, đi; đến thì tưởng sanh, đi thì tưởng diệt. Hoặc nói nhân bởi mạng mà tưởng sanh, nhân bởi mạng mà tưởng diệt; tưởng có đến, đi; đến thì tưởng sanh, đi thì tưởng diệt. Hoặc nói, khơng hề có chuyện đó, mà là có một vị đại quỷ thần mang tưởng đến và mang tưởng đi; khi vị ấy mang đến thì tưởng sanh; khi mang đi thì tưởng diệt. Những lời như vậy thảy đều sai lầm. Vì sao? Này Phạm chí, có nhân, có duyên để tưởng sanh. Có nhân, có duyên để tưởng diệt. “Nếu Như Lai xuất hiện ở đời; là Bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ. Có người ở trong Phật pháp mà xuất gia tu đạo, cho đến, diệt năm triền cái che lấp tâm, trừ khử dục, ác bất thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc do định sanh, nhập Sơ thiền. Trước diệt tưởng về dục, rồi phát sanh tưởng về hỷ và lạc. Phạm chí, vì vậy biết có nhân duyên cho tưởng sanh, có nhân duyên cho tưởng diệt. “Diệt giác, quán, nội tâm hoan hỷ<註 n="1322"/>59, nhất tâm, khơng giác, khơng quán, hỷ và lạc do định sanh, nhập đệ Nhị thiền. Phạm chí, kia tưởng của Sơ thiền diệt, tưởng của Nhị thiền sanh, vì vậy nên biết có nhân duyên để tưởng diệt; có nhân duyên để tưởng sanh. “Dứt hỷ, an trú xả<註 n="1323"/>60, chuyên niệm nhất tâm<註 n="1324"/>61, tự biết thân lạc, điều mà Hiền thánh mong cầu, hộ niệm thanh tịnh<註 n="1325"/>62, nhập đệ Tam thiền. Phạm chí, kia tưởng của Nhị thiền diệt, tưởng của Tam thiền sanh. Vì vậy nên biết có nhân duyên để tưởng diệt, có nhân duyên để tưởng sanh. “Dứt khổ, dứt lạc, ưu và hỷ từ trước đã diệt, xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền<註 n="1326"/>63. Phạm chí, kia tưởng Tam thiền diệt, tưởng Tứ thiền sanh. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng diệt; có nhân duyên để tưởng sanh. “Xả<註 n="1327"/>64 hết thảy tưởng về sắc, diệt nhuế<註 n="1328"/>65, khơng niệm dị tưởng<註 n="1329"/>66, nhập khơng xứ<註 n="1330"/>67. Này Phạm chí, tưởng về hết thảy sắc diệt, tưởng về khơng xứ sanh. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng sanh, có nhân duyên để tưởng diệt. “Vượt hết thảy khơng xứ, nhập thức xứ. Này Phạm chí, tưởng về khơng xứ diệt, tưởng về thức xứ sanh. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng sanh, có nhân duyên để tưởng diệt. “Vượt hết thảy thức xứ, nhập bất dụng xứ<註 n="1331"/>68. Này Phạm chí, tưởng về thức xứ diệt, tưởng về bất dụng xứ sanh. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng sanh, có nhân duyên để tưởng diệt. “Xả bất dụng xứ, nhập hữu tưởng vơ tưởng xứ<註 n="1332"/>69. Này Phạm chí, tưởng về bất dụng xứ diệt, tưởng về hữu tưởng vơ tưởng xứ sanh. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng sanh, có nhân duyên để tưởng diệt. “Kia xả hữu tưởng vơ tưởng xứ, nhập tưởng tri diệt định. Này Phạm chí, tưởng về hữu tưởng vơ tưởng xứ diệt; nhập tưởng tri diệt định. Vì vậy biết rằng có nhân duyên để tưởng sanh, có nhân duyên để tưởng diệt. “Vị ấy khi đạt đến tưởng này rồi<註 n="1333"/>70, suy nghó như vầy: có niệm là ác, khơng niệm là thiện. Vị ấy khi suy nghó như vậy, tưởng vi diệu của vị ấy khơng diệt, mà tưởng thơ lại sanh<註 n="1334"/>71. Vị ấy lại suy nghó: Nay ta khơng nên niệm hành, khơng khởi tư duy<註 n="1335"/>72. Vị ấy khi khơng niệm hành, khơng khởi tư duy, tưởng vi diệu diệt, tưởng thơ khơng sanh. Khi vị ấy khơng niệm hành, tưởng vi diệu diệt, tưởng thơ khơng sanh, liền nhập định tưởng tri diệt<註 n="1336"/>73. “Thế nào, Phạm chí, từ trước đến nay ơng đã bao giờ nghe nhân duyên của thứ tự diệt tưởng<註 n="1337"/>74 này chưa?” Phạm chí bạch Phật: “Tơi tin là từ trước đến nay chưa bao giờ nghe đến nhân duyên của thứ tự diệt tưởng này.” Phạm chí lại bạch Phật: “Nay tơi có ý nghó như vầy, tức là, đây là có tưởng; đây là khơng có tưởng. Hoặc lại có tưởng. Sau khi có tưởng như vậy rồi, vị ấy suy nghó như vầy: có niệm là ác, khơng niệm là thiện. Vị ấy khi suy nghó như vậy, tưởng vi diệu của vị ấy khơng diệt, mà tưởng thơ lại sanh. Vị ấy lại suy nghó: Nay ta khơng nên niệm hành, khơng khởi tư duy. Vị ấy khi khơng niệm hành, khơng khởi tư duy, tưởng vi diệu diệt, tưởng thơ khơng sanh. Khi vị ấy khơng niệm hành, tưởng vi diệu diệt, tưởng thơ khơng sanh, liền nhập định tưởng tri diệt<註 n="1338"/>75.” Phật nói với Phạm chí: “Lành thay, lành thay, đó là theo thứ tự đạt diệt tưởng định trong pháp của Hiền thánh.” Phạm chí lại bạch Phật: “Trong các tưởng này, tưởng nào là tối thượng bậc nhất?” Phật nói với Phạm chí: “Những gì được nói là có tưởng và những gì được nói là khơng có tưởng, ở khoảng trung gian đó mà có thể thứ tự đạt được tưởng tri diệt định, đó là tưởng tối thượng bậc nhất.” Phạm chí lại hỏi: “Là một tưởng, hay nhiều tưởng<註 n="1339"/>76?” Phật nói: “Có một tưởng. Khơng có nhiều tưởng<註 n="1340"/>77.” Phạm chí lại hỏi: “Trước có tưởng sanh sau đó mới trí, hay trước có trí sanh sau đó mới tưởng?” Phật nói: “Trước có tưởng sanh, sau đó mới trí. Do tưởng mà có trí.” Phạm chí lại hỏi: “Tưởng tức là ngã<註 n="1341"/>78 chăng?” Phật hỏi: “Ngươi nói con người như thế nào là ngã?” Phạm chí nói: “Tơi khơng nói con người là ngã. Tơi tự nói, sắc thân với bốn đại, sáu nhập, do cha mẹ sanh, được nuơi nấng mà lớn, trang sức bằng y phục, nhưng là pháp vơ thường, biến hoại. Tơi nói, con người đó là ngã.” Phật nói với Phạm chí: “Ngươi nói, sắc thân với bốn đại, sáu nhập, do cha mẹ sanh, được nuơi nấng mà lớn, trang sức bằng y phục, nhưng là pháp vơ thường, biến hoại. Nói con người đó là ngã. Này Phạm chí, hãy gác qua tự ngã đó<註 n="1342"/>79. Nhưng, tưởng của con người sanh, tưởng của con người diệt<註 n="1343"/>80.” Phạm chí nói: “Tơi khơng nói con người là ngã. Tơi nói, Dục giới thiên là ngã<註 n="1344"/>81.” Phật nói: “Này Phạm chí, hãy gác qua Dục giới thiên là tự ngã đó. Nhưng, tưởng của con người sanh, tưởng của con người diệt<註 n="1345"/>82.” Phạm chí nói: “Tơi khơng nói con người là ngã. Tơi tự nói, Sắc giới thiên là ngã<註 n="1346"/>83.” Phật nói: “Này Phạm chí, hãy gác qua Sắc giới thiên là tự ngã đó. Nhưng, tưởng của con người sanh, tưởng của con người diệt.” Phạm chí nói: “Tơi khơng nói con người là ngã. Tơi tự nói khơng xứ, thức xứ, bất dụng xứ, hữu tưởng vơ tưởng xứ, vơ sắc thiên, là ngã.” Phật nói: “Hãy gác qua khơng xứ, thức xứ, vơ sở hữu xứ<註 n="1347"/>84, hữu tưởng vơ tưởng xứ, vơ sắc thiên, là ngã. Nhưng, tưởng của con người sanh, tưởng của con người diệt.” Phạm chí bạch Phật: “Thế nào, thưa Cù-đàm, tơi có thể biết được tưởng của con người sanh, tưởng của con người diệt khơng<註 n="1348"/>85? ” Phật nói: “Ngươi muốn biết tưởng của con người sanh, tưởng của con người diệt. Thật quá khó! Thật quá khó! Vì sao vậy? Vì do ngươi, y pháp khác mà có kiến giải khác, tập hành khác, nhẫn khác, thọ khác<註 n="1349"/>86.” Phạm chí bạch Phật: “Thật vậy, thưa Cù-đàm, tơi y theo pháp khác mà có kiến giải khác, tập hành khác, nhẫn khác, thọ khác, cho nên, muốn biết tưởng của con người sanh, tưởng của con người diệt, thật quá khó! Thật quá khó! Vì sao vậy? Ngã, thế gian là thường hằng: đây là thật, ngồi ra là dối. Ngã, thế gian là vơ thường: đây là thật, ngồi ra là dối. Ngã, thế gian vừa thường vừa vơ thường: đây là thật, ngồi ra là dối. Ngã, thế gian khơng phải thường khơng phải vơ thường: đây là thật, ngồi ra là dối. Ngã, thế gian là hữu biên: đây là thật, ngồi ra là dối. Ngã, thế gian là vơ biên: đây là thật, ngồi ra là dối. Ngã, thế gian vừa hữu biên vừa vơ biên: đây là thật, ngồi ra là dối. Ngã, thế gian khơng phải hữu biên khơng phải vơ biên: đây là thật, ngồi ra là dối. Thân tức là mạng: đây là thật, ngồi ra là dối. Mạng khác thân khác: đây là thật, ngồi ra là dối. Thân, mạng khơng phải khác khơng phải khơng khác: đây là thật, ngồi ra là dối. Khơng mạng, khơng thân: đây là thật, ngồi ra là dối. Như Lai có tận cùng: đây là thật, ngồi ra là dối. Như Lai khơng có tận cùng: đây là thật, ngồi ra là dối. Như Lai khơng phải có tận cùng khơng phải khơng có tận cùng: đây là thật, ngồi ra là dối.” Phật nói với Phạm chí: “Thế gian là thường hằng, cho đến, Như Lai khơng phải có tận cùng khơng phải khơng có tận cùng: là những câu hỏi Ta khơng trả lời<註 n="1350"/>87.” Phạm chí bạch Phật: “Cù-đàm, vì sao khơng trả lời, ngã và thế gian là thường hằng, cho đến, Như Lai khơng phải có tận cùng khơng phải khơng có tận cùng?” Phật nói: “Vì chúng khơng phù hợp ý nghóa<註 n="1351"/>88, khơng phù hợp pháp, khơng phải phạm hạnh, khơng phải vơ dục, khơng phải vơ vi, khơng phải tịch diệt, khơng phải chỉ tức, khơng phải Chánh giác, khơng phải Sa-mơn, khơng phải Nê-hồn. Vì vậy Ta khơng trả lời.” Phạm chí lại hỏi: “Thế nào là phù hợp nghóa, phù hợp pháp<註 n="1352"/>89? Thế nào là phạm hạnh sơ<註 n="1353"/>90? Thế nào là vơ vi<註 n="1354"/>91? Thế nào là vơ dục<註 n="1355"/>92? Thế nào là tịch diệt<註 n="1356"/>93? Thế nào là chỉ tức<註 n="1357"/>94? Thế nào là Chánh giác<註 n="1358"/>95? Thế nào là Sa-mơn<註 n="1359"/>96? Thế nào là Nê-hồn<註 n="1360"/>97? Thế nào là vơ ký<註 n="1361"/>98? ” Phật nói: “Ta trả lời về Khổ đế, về Khổ tập, Khổ diệt, Khổ xuất yếu đế. Vì sao vậy? Vì phù hợp nghóa, phù hợp pháp, là phạm hạnh sơ thủ, là vơ dục, vơ vi, tịch diệt, chỉ tức, Chánh giác, Sa-mơn, Nê-hồn. Vì vậy Ta trả lời.” Bấy giờ, Thế Tơn thuyết pháp cho Phạm chí nghe xong, chỉ bày, khuyến khích, làm cho ích lợi, hoan hỷ, Ngài đứng dậy mà đi. Phật đi chưa bao lâu, sau đó các Phạm chí khác nói với Phạm chí Bố-tra-bà-lâu rằng: “Tại sao ngươi nghe theo những lời của Sa-mơn Cù-đàm? Chấp nhận những lời của Cù-đàm rằng: ‘Ngã và thế gian là thường hằng, cho đến, Như Lai khơng phải có tận cùng khơng phải khơng có tận cùng, là những vấn đề khơng phù hợp nghóa nên Ta khơng trả lời.’ Tại sao ngươi ấn khả những lời như vậy? Chúng ta khơng chấp nhận sở thuyết như vậy của Sa-mơn Cù-đàm<註 n="1362"/>99.” Bố-tra-bà-lâu trả lời các Phạm chí: “Sa-mơn Cù-đàm nói rằng: ‘Ngã và thế gian là thường hằng, cho đến, Như Lai khơng phải có tận cùng khơng phải khơng có tận cùng, là những vấn đề khơng phù hợp nghóa nên Ta khơng trả lời.’ Tơi cũng khơng ấn khả lời ấy. Nhưng Sa-mơn Cù-đàm kia y trên Pháp, trụ trên Pháp<註 n="1363"/>100, đúng Pháp mà nói, đúng theo Pháp mà xuất ly; làm sao tơi có thể chống lại lời nói có trí tuệ ấy? Pháp ngơn vi diệu như thế của Sa-mơn Cù-đàm, khơng thể chống trái được.” Rồi, một lúc khác<註 n="1364"/>101, Phạm chí Bố-tra-bà-lâu cùng với Tượng Thủ Xá-lợi-phất<註 n="1365"/>102 đến chỗ Thế Tơn, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Tượng Thủ lễ Phật xong rồi ngồi xuống. Phạm chí bạch Phật: “Trước đây Phật tại chỗ tơi. Khi Ngài đi chưa lâu, sau đó các Phạm chí khác nói với tơi rằng: ‘Tại sao ngươi nghe theo những lời của Sa-mơn Cù-đàm? Chấp nhận những lời của Cù-đàm rằng: ‘Ngã và thế gian là thường hằng, cho đến, Như Lai khơng phải có tận cùng khơng phải khơng có tận cùng, là những vấn đề khơng phù hợp nghóa nên Ta khơng trả lời.’ Tại sao ngươi ấn khả những lời như vậy? Chúng ta khơng chấp nhận sở thuyết như vậy của Sa-mơn Cù-đàm.’Tơi trả lời các Phạm chí: ‘Sa-mơn Cù-đàm nói rằng: ‘Ngã và thế gian là thường hằng, cho đến, Như Lai khơng phải có tận cùng khơng phải khơng có tận cùng, là những vấn đề khơng phù hợp nghóa nên Ta khơng trả lời.’ Tơi cũng khơng ấn khả lời ấy. Nhưng Sa-mơn Cù-đàm kia y trên Pháp, trụ trên Pháp, đúng Pháp mà nói, đúng theo Pháp mà xuất ly; làm sao chúng ta có thể chống lại lời nói có trí tuệ ấy? Pháp ngơn vi diệu như thế của Sa-mơn Cù-đàm, khơng thể chống trái được’.” Phật nói với Phạm chí: “Các Phạm chí nói: ‘Ngươi tại sao nghe những điều Sa-mơn Cù-đàm nói mà ấn khả?’ Lời ấy sai lầm. Vì sao vậy? Pháp mà Ta nói, có trường hợp được ghi nhận xác quyết, có trường hợp khơng được ghi nhận xác quyết<註 n="1366"/>103ù. Thế nào gọi là khơng ghi nhận xác quyết? Ngã, thế gian thường hằng, cho đến, Như Lai khơng phải có tận cùng khơng phải khơng có tận cùng. Ta cũng nói lời ấy, nhưng khơng ghi nhận xác ký. Sở dó như vậy, vì những lời ấy khơng phù hợp nghóa, khơng phù hợp pháp, khơng phải là phạm hạnh sơ, khơng phải vơ dục, khơng phải vơ vi, khơng phải tịch diệt, khơng phải chỉ tức, khơng phải Chánh giác, khơng phải Sa-mơn, khơng phải Nê-hồn. Vì vậy, này Phạm chí, Ta tuy nói những lời ấy nhưng khơng ghi nhận xác quyết. Thế nào gọi là ghi nhận xác quyếtù? Ta ghi nhận Khổ đế, Khổ tập, Khổ diệt, Khổ xuất yếu đế. Vì sao vậy? Điều đó phù hợp nghóa, phù hợp pháp, là phạm hạnh sơ thủ, vơ dục, vơ vi, tịch diệt, chỉ tức, Chánh giác, Sa-mơn, Nê-hồn. Vì vậy, Ta nói được ghi nhận xác quyết. “Hoặc có Sa-mơn, Bà-la-mơn, chủ trương ở một nơi thế gian chỉ có hồn tồn lạc<註 n="1367"/>104. Ta nói với vị ấy rằng: ‘Các ơng có thật chủ trương ở một nơi thế gian chỉ có hồn tồn lạc chăng?’ Những vị ấy trả lời Ta rằng: ‘Thật vậy.’ Ta lại nói với họ rằng: ‘Các ơng có thấy, biết một nơi thế gian chỉ có hồn tồn lạc khơng?’ Họ trả lời: ‘Khơng thấy, khơng biết.’ Ta lại nói với họ: ‘Chư Thiên ở một nơi thế gian chỉ có hồn tồn lạc<註 n="1368"/>105; các ơng đã từng thấy chưa?’ Kia đáp: ‘Khơng biết, khơng thấy.’ Ta lại hỏi: ‘Chư Thiên ở một nơi thế gian kia, có bao giờ các ơng từng cùng đứng ngồi trị chuyện, tinh tấn tu định chưa?’ Đáp rằng: ‘Chưa.’ Ta lại hỏi: ‘Chư Thiên ở một nơi thế gian hồn tồn sung sướng kia, có bao giờ đến nói với các ơng chưa, rằng: ‘Việc làm của ngươi chất trực, ngươi sẽ sanh lên cõi trời hồn tồn sung sướng kia. Ta do việc làm chất trực, nên được sanh lên kia cùng hưởng thọ dục lạc?’ Kia đáp rằng: ‘Chưa’. Ta lại hỏi: ‘Các ơng có thể ở nơi thân của mình, khởi tâm biến hóa thành thân tứ đại khác, thân thể đầy đủ, các căn khơng khuyết, hay khơng?’ Kia đáp: ‘Khơng thể’. Thế nào, Phạm chí, những điều mà Sa-mơn, Bà-la-mơn kia nói có thành thật chăng? Có thích ứng với pháp chăng?” Phạm chí bạch Phật: “Đấy khơng phải là thành thật; khơng phải là lời nói đúng pháp.” Phật bảo Phạm chí: “Như có người nói: ‘Tơi đã giao thơng với người nữ xinh đẹp kia, khen ngợi dâm nữ kia.’ Người khác hỏi: ‘Ngươi có biết người nữ ấy khơng? Ở tại địa phương nào: Đơng, Tây, Nam, Bắc?’ Đáp: ‘Khơng biết.’ Lạïi hỏi: ‘Ngươi có biết đất đai, thành ấp, chịm xóm mà người nữ ấy cư ngụ khơng? ’Đáp: ‘Khơng biết’. Lại hỏi: ‘Ngươi có biết người kia là Sát-lî, hay Bà-la-mơn, hay Cư só, hay Thủ-đà-la khơng?’ Đáp: ‘Khơng.’ Lại hỏi: ‘Ngươi có biết người kia cao hay thấp, thơ kệch hay thanh lịch. Đen hay trắng, xấu hay đẹp khơng?’ Đáp: ‘Khơng.’ Thế nào, Phạm chí, những điều mà người này nói có thành thật chăng?’ Đáp: ‘Khơng’. “Phạm chí, Sa-mơn, Bà-la-mơn kia cũng vậy, khơng có sự chân thật. Phạm chí, cũng như có người dựng thang nơi khoảng đất trống. Những người khác hỏi: ‘Dựng thang để làm gì?’ Đáp: ‘Tơi muốn leo lên nhà trên.’ Thế nào, Phạm chí, người dựng thang kia há khơng phải là dối sao?” Đáp: “Kia thật sự hư dối”. Phật nói: “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn kia cũng vậy, hư dối, khơng thật.” Phật bảo Bố-tra-bà-lâu: “Thân ta<註 n="1369"/>106, sắc gồm bốn đại, sáu nhập, do cha mẹ sanh, được nuơi lớn bằng bú mớm, trang sức bằng y phục, vơ thường hoại diệt; thân đó được cho là ngã. Ta nói đó là ơ nhiễm, là thanh tịnh, là được giải thốt<註 n="1370"/>107. Ý của ngươi hoặc giả cho rằng pháp nhiễm ơ khơng thể diệt, pháp thanh tịnh khơng thể sanh, luơn luơn tồn tại trong đau khổ<註 n="1371"/>108. Chớ nghó như vậy. Vì sao? Vì, pháp nhiễm ơ có thể bị diệt tận, pháp thanh tịnh có thể xuất sanh, an trú nơi lạc địa, hoan hỷ, ái lạc, chuyên niệm, nhất tâm, trí tuệ rộng lớn<註 n="1372"/>109. Phạm chí, Ta đối với Dục giới thiên, Sắc giới thiên, Khơng xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vơ tưởng thiên, nói là ơ nhiễm và cũng nói là thanh tịnh, cũng nói là được giải thốt. Ý ngươi có thể cho rằng pháp nhiễm ơ khơng thể diệt, pháp thanh tịnh khơng thể sanh, luơn luơn tồn tại trong đau khổ. Chớ nghó như vậy. Vì sao? Vì, pháp nhiễm ơ có thể bị diệt tận, pháp thanh tịnh có thể xuất sanh, an trú nơi lạc địa, hoan hỷ, ái lạc, chuyên niệm, nhất tâm, trí tuệ rộng lớn<註 n="1373"/>110. ” Bấy giờ Tượng Thủ Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: “Thế Tơn, khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục giới, với bốn đại và các căn, khi ấy thân thuộc Dục giới thiên, thân thuộc Sắc giới thiên, thân thuộc Khơng xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vơ tưởng xứ thiên, lúc ấy có đồng thời cùng hiện hữu khơng<註 n="1374"/>111? “Bạch Thế Tơn, khi đang hiện hữu thân thuộc Dục giới thiên, khi ấy thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thân thuộc Sắc giới thiên, thân thuộc Khơng xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vơ tưởng xứ thiên, lúc ấy có đồng thời cùng hiện hữu khơng? “Bạch Thế Tơn, khi đang hiện hữu thân thuộc Sắc giới thiên, khi ấy thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thân thuộc Dục giới thiên, thân thuộc Khơng xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vơ tưởng xứ có đồng thời cùng hiện hữu khơng? “Cũng vậy, cho đến, khi đang hiện hữu thân thuộc Hữu tưởng vơ tưởng xứ, khi ấy thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thân thuộc Dục giới thiên, thân thuộc Sắc giới thiên, thân thuộc Khơng xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ thiên có đồng thời cùng hiện hữu khơng?” Phật nói với Tượng Thủ Xá-lợi-phất : “Khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thì ngay khi ấy là thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, chứ khơng phải là thân thuộc Dục giới thiên, thân Sắc giới thiên, thân Khơng xứ thiên, thân Thức xứ thiên, thân Vơ sở hữu xứ thiên, thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên. Cũng vậy, cho đến, nếu khi đang hiện hữu thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên, thì ngay khi ấy là thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên, chứ khơng phải là thân người Dục giới với bốn đại và các căn, khơng phải là thân Dục giới thiên, thân Sắc giới thiên, thân Khơng xứ, Thức xứ, Vơ sở hữu xứ thiên. “Này Tượng Thủ, ví như sữa bị. Sữa biến thành tơ. Tơ biến thành lạc. Lạc biến thành sanh tơ. Sanh tơ biến thành thục tơ. Thục tơ biến thành đề hồ. Đề hồ là bậc nhất. Khi là sữa, thì chỉ được gọi là sữa mà khơng gọi là lạc, tơ, đề hồ. Cũng vậy, lần lượt cho đến khi là đề hồ, thì khi ấy chỉ được gọi là đề hồ mà khơng gọi là lạc, tơ. “Tượng Thủ, ở đây cũng vậy, khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thì ngay khi ấy là thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, chứ khơng phải là thân thuộc Dục giới thiên, cho đến, khơng phải là thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên. Cũng vậy, lần lượt cho đến, khi đang hiện hữu thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên, thì ngay khi ấy chỉ có thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên, chứ khơng phải là thân người Dục giới với bốn đại và các căn, cho đến, thân Vơ sở hữu xứ thiên. “Tượng Thủ, ý ngươi nghó sao? Nếu có người hỏi ngươi: ‘Khi đang hiện hữu thân quá khứ; khi ấy thân vị lai và thân hiện tại có cùng nhất thời hiện hữu khơng? Khi đang hiện hữu thân vị lai, khi ấy thân quá khứ và thân hiện tại có đồng thời hiện hữu khơng? Khi đang hiện hữu thân hiện tại, khi ấy thân quá khứ và thân vị lai có đồng thời hiện hữu khơng?’ Giả sử được hỏi như vậy, ngươi sẽ trả lời như thế nào?” Tượng Thủ đáp: “Giả sử có người hỏi như vậy, con sẽ trả lời người ấy rằng: ‘Khi đang hiện hữu thân quá khứ, khi ấy duy chỉ là thân quá khứ, mà khơng phải là thân hiện tại và vị lai. Khi đang hiện hữu thân vị lai, khi ấy duy chỉ là thân vị lai. Chứ khơng phải là thân quá khứ và hiện tại. Khi đang hiện hữu thân hiện tại, khi ấy chỉ là thân hiện tại, chứ khơng phải là thân quá khứ và thân vị lai’.” Phật nói: “Tượng Thủ, ở đây cũng vậy, khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thì ngay khi ấy là thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, chứ khơng phải là thân thuộc Dục giới thiên, cho đến, khơng phải là thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên. Cũng vậy, lần lượt cho đến, khi đang hiện hữu thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên, thì ngay khi ấy chỉ có thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên, chứ khơng phải là thân người Dục giới với bốn đại và các căn, cho đến, thân Bất dụng xứ thiên<註 n="1375"/>112. “Lại nữa, Tượng Thủ, giả sử có người hỏi ngươi: ‘Có phải ngươi trong quá khứ đã từng hiện hữu và đã diệt; vị lai sẽ sanh và hiện tại đang tồn tại chăng?’ Nếu được hỏi như vậy, ngươi sẽ trả lời như thế nào?” Tượng Thủ bạch Phật: “Giả sử có người hỏi như vậy, con sẽ trả lời người ấy rằng: ‘Trong quá khứ tơi đã từng hiện hữu; khơng phải khơng hiện hữu. Trong vị lai, tơi sẽ sanh, chứ khơng phải khơng có; trong hiện tại, tơi đang tồn tại. Chứ khơng phải khơng có.” Phật nói: “Tượng Thủ, ở đây cũng vậy, khi đang hiện hữu thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, thì ngay khi ấy là thân người thuộc Dục giới với bốn đại và các căn, chứ khơng phải là thân thuộc Dục giới thiên, cho đến, khơng phải là thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên. Cũng vậy, lần lượt cho đến, khi đang hiện hữu thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên, thì ngay khi ấy chỉ có thân Hữu tưởng vơ tưởng thiên, chứ khơng phải là thân người Dục giới với bốn đại và các căn, cho đến, thân Vơ sở hữu xứ thiên.” Bấy giờ, Tượng Thủ bạch Phật: “Con nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin nhận con là Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay đến trọn đời, nguyện khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu.” Khi ấy Phạm chí Bố-tra-bà-lâu bạch Phật: “Con có thể ở trong Phật pháp xuất gia, thọ giới Cụ túc được khơng?” Phật nói với Phạm chí: “Nếu có người dị học muốn được xuất gia thọ giới trong Pháp của Ta, trước hết phải cần bốn tháng quán sát, làm hài lịng đại chúng, sau đó mới được xuất gia thọ giới. Tuy có quy định như vậy, nhưng cũng cịn nhận xét tùy người.” Phạm chí bạch Phật: “Nếu có các người dị học muốn được xuất gia thọ giới trong Phật Pháp, trước hết phải cần bốn tháng quán sát, làm hài lịng đại chúng, sau đó mới được xuất gia thọ giới. Như con nay, có thể ở trong Phật pháp qua bốn tháng quan sát, khi đại chúng hài lịng, con mới xin xuất gia thọ giới Cụ túc.” Phật nói với Phạm chí: “Ta đã có nói với ngươi trước rồi. Tuy có quy định như vậy, nhưng cũng cịn nhận xét tùy người.” Bấy giờ Phạm chí liền được xuất gia thọ giới Cụ túc ở trong Chánh pháp. Như vậy khơng bao lâu, do tín tâm kiên cố, tịnh tu phạm hạnh, ở ngay trong đời này mà tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, điều cần làm đã làm xong, khơng cịn tái sinh nữa; tức thành A-la-hán. Bấy giờ, Bố-tra-bà-lâu sau khi nghe những điều Phật dạy hoan hỷ phụng hành. <詞 id="485140891">29. KINH LỘ-GIÀ<註 n="1376"/>113 Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở Câu-tát-la<註 n="1377"/>114, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người<註 n="1378"/>115, du hành nhân gian, đi đến thơn Bà-la-mơn Bà-la-bà-đề<註 n="1379"/>116, dừng nghỉ ở phía Bắc khu rừng Thi-xá-bà<註 n="1380"/>117. Khi ấy, có Bà-la-mơn tên là Lộ-già<註 n="1381"/>118 trú ở trong rừng Bà-la<註 n="1382"/>119. Thơn ấy giàu có, an vui, nhân dân đơng đúc. Vua Ba-tư-nặc phong thơn này cho Bà-la-mơn để làm phạm phần. Vị Bà-la-mơn này, bảy đời cha mẹ trở lại đây chân chánh, khơng bị người khác khinh chê, phúng tụng thơng suốt ba bộ dị điển, có khả năng phân biệt hết các loại kinh sách, lại giỏi về tướng pháp đại nhân bói xem kiết hung, nghi lễ tế tự, nghe Sa-mơn Cù-đàm là con dịng họ Thích xuất gia thành đạo đang ở nước Câu-tát-la, du hành nhân gian, đến lại rừng Thi-xá-bà, có đại danh xưng lưu truyền thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác,… đầy đủ mười hiệu, ở trong chúng chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-mơn, Bà-la-mơn, tự thân tác chứng, rồi thuyết pháp cho người khác; pháp ấy có khoảng đầu khoảng giữa, khoảng cuối đều thiện, nghóa vị đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh. “Với vị Chân nhân như vậy, nên đến thăm hỏi. Nay ta phải đến để tương kiến”. Khi ấy, Bà-la-mơn liền ra khỏi thơn, đến rừng Thi-xá-bà, tới chỗ Thế Tơn, thăm hỏi rồi, ngồi một bên. Phật vì ơng thuyết pháp, chỉ dạy, làm cho lợi ích, hoan hỷ. Bà-la-mơn nghe pháp rồi, bạch Phật: “Cúi xin Thế Tơn và chư đại chúng ngày mai nhận lời thỉnh mời của con!” Bấy giờ, Thế Tơn im lặng thọ thỉnh.<註 n="1383"/>120 Bà-la-mơn kia thấy Phật im lặng, biết là đã chấp thuận, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vịng quanh Phật rồi lui. Đi cách Phật khơng xa, bèn khởi ác kiến: “Các Sa-mơn, Bà-la-mơn biết nhiều thiện pháp<註 n="1384"/>121, chứng đắc thành tựu nhiều thiện pháp. Nhưng khơng nên nói cho người khác, mà chỉ nên tự biết an nghỉ<註 n="1385"/>122. Chẳng khác nào một người đã phá ngục cũ rồi, lại tạo ngục mới<註 n="1386"/>123. Đó chỉ là pháp tham, ác bất thiện”. Khi ấy, Bà-la-mơn về đến rừng Bà-la rồi, ngay trong đêm ấy bày biện đủ loại thức ăn thức uống ngon lành. Đến giờ, bảo người thợ cạo<註 n="1387"/>124: “Ngươi mang lời ta đến rừng Thi-xá-bà bạch với Sa-mơn Cù-đàm: ‘Ngày giờ đã đến, nên biết đúng thời<註 n="1388"/>125.” Người thợ hớt tóc vâng lời ra đi, đến chỗ Phật, lạy chân Thế Tơn, bạch: “Thời giờ đã đến, nên biết đúng thời”. Bấy giờ, Thế Tơn liền khốc y mang bát, cùng các đệ tử, một ngàn hai trăm năm mươi người, đến rừng Bà-la. Người thợ cạo theo hầu Thế Tơn, để trần vai phải, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật: “Bà-la-mơn Lộ-già kia khi đi cách Phật chưa xa, khởi sanh ác kiến rằng: ‘Có các Sa-mơn, Bà-la-mơn biết nhiều thiện pháp, chứng đắc nhiều điều, nhưng khơng nên nói cho người khác, mà chỉ tự mình biết an nghỉ. Cũng như một người phá ngục cũ, rồi lại tạo ngục mới. Đó chỉ là pháp tham, ác bất thiện.’ Cúi xin Thế Tơn trừ ác kiến ấy!” Phật bảo người thợ cạo: “Đây là việc nhỏ, dễ khai hóa thơi.” Bấy giờ, Thế Tơn đến nhà Bà-la-mơn, ngồi lên chỗ ngồi dọn sẵn. Khi ấy, Bà-la-mơn với đủ các loại ngon ngọt, tự tay phục dịch, cúng Phật và Tăng. Ăn xong, cất bát và sau khi dùng nước rửa, bắc một cái gường nhỏ ngồi trước Phật. Phật bảo Lộ-già: “Hơm qua, ngươi đi cách Ta chẳng xa, phát sanh ác kiến rằng: ‘Các Sa-mơn, Bà-la-mơn biết nhiều thiện pháp, chứng đắc nhiều điều, nhưng khơng nên nói cho người khác,… cho đến, chỉ là pháp tham, ác bất thiện.’ Có thật nói như vậy chăng?” Lộ-già đáp: “Vâng! Thật có việc đó.” Phật bảo Lộ-già: “Ngươi chớ sanh ác kiến như thế nữa. Vì sao? Đời có ba hạng thầy có thể để tự răn dạy. Những gì là ba? “Hạng thầy thứ nhất, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, để rồi ngay trong đời này mà có thể trừ các phiền não, lại có thể tăng trưởng được pháp thượng nhân; nhưng vị ấy ở trong đời này mà khơng thể trừ các phiền não, khơng chứng đắc pháp thượng nhân; đạo nghiệp của mình chưa thành mà lại thuyết pháp cho đệ tử. Các đệ tử ấy khơng cung kính phụng thờ, nhưng lại chỉ nương tựa, cùng sống chung với nhau. Này Lộ-già! Các đệ tử ấy nói với thầy rằng: ‘Nay thầy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, ở trong đời này đã có thể trừ được các phiền não, được pháp thượng nhân; nhưng nay ở trong đời này mà khơng thể trừ các phiền não, khơng chứng đắc pháp thượng nhân; đạo nghiệp của mình chưa thành tựu mà lại nói pháp cho đệ tử, khiến các đệ tử chẳng cung kính, thờ phụng, cúng dường, mà chỉ cùng sống chung, nương tựa nhau mà thơi.’” Phật nói : “Này Lộ-già, cũng như có người đã phá bỏ ngục tù cũ, rồi lại xây ngục tù mới. Như thế gọi là pháp tham, ơ trược, xấu xa. Đó là hạng thầy thứ nhất; có thể lấy đó mà tự răn. Đó là giới của Hiền thánh, luật giới, nghi giới, thời giới<註 n="1389"/>126.” Phật lại nói với Lộ-già: “Hạng thầy thứ hai, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, để rồi ngay trong đời này mà có thể trừ các thứ phiền não, lại có thể tăng trưởng được pháp thượng nhân. Nhưng vị ấy ở trong đời này mà khơng thể trừ các phiền não; tuy có chứng đắc một ít pháp thượng nhân, nhưng đạo nghiệp của mình chưa thành tựu mà lại thuyết pháp cho đệ tử. Các đệ tử ấy khơng cung kính phụng thờ, nhưng lại chỉ nương tựa, cùng sống chung với nhau mà thơi. Này Lộ-già! Các đệ tử ấy nói với thầy rằng: ‘Thầy nay đã cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, đáng lẽ ở trong đời này đã có thể trừ được các phiền não, được pháp thượng nhân; nay ở trong đời này mà lại khơng thể trừ các phiền não, tuy đã có chứng đắc một ít pháp thượng nhân, nhưng đạo nghiệp của mình chưa thành tựu, mà lại nói pháp cho đệ tử, khiến các đệ tử chẳng cung kính, thờ phụng, cúng dường, mà chỉ cùng sống chung, nương tựa nhau mà thơi’.” Phật nói: “Này Lộ-già! Giống như có người đi theo sau người khác, đưa tay xoa lưng kẻ ấy, đây gọi là pháp tham, ơ trược, xấu xa. Đó là hạng thầy thứ hai, có thể lấy đó tự răn dạy. Đó là giới của Hiền thánh, luật giới, nghi giới, thời giới.” Lại bảo Lộ-già: “Hạng thầy thứ ba là, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, ở trong đời này, đáng lẽ có thể trừ phiền não, lại có thể tăng trưởng được pháp thượng nhân; nhưng ở trong đời này lại khơng thể trừ các thứ phiền não; tuy có chứng đắc một ít pháp thượng nhân, nhưng việc lợi mình chưa thành tựu, mà lại nói pháp cho đệ tử. Các đệ tử ấy khơng cung kính phụng thờ, mà chỉ là nương tựa, cùng sống chung vậy thơi. Này Lộ-già, các đệ tử kia nói với thầy rằng: ‘Thầy nay đã cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, ở trong đời này đáng lẽ có thể trừ được các thứ phiền não, được ít nhiều pháp thượng nhân; nhưng nay ở trong đời này đã chẳng thể trừ các phiền não, tuy được ít nhiều pháp thượng nhân, nhưng việc lợi mình chưa thành tựu mà lại nói pháp cho đệ tử. Các đệ tử khơng cung kính phụng thờ, mà chỉ nương tựa, cùng sống chung thơi’.” Phật nói: “Lộ-già, cũng như có người bỏ lúa của mình, đi cày ruộng người khác. Đó gọi là pháp tham ơ trược, xấu xa. Đó là hạng thầy thứ ba, có thể lấy đó tự răn dạy. Đó là giới của Hiền thánh, luật giới, nghi giới, thời giới. “Này Lộ-già một Thế Tơn chẳng ở thế gian, chẳng thể khuynh động<註 n="1390"/>127. Sao gọi là một? Nếu Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời,… cho đến, chứng đắc ba minh, diệt trừ vơ minh, sanh trí tuệ minh, trừ bỏ các tối tăm, phát sanh ánh sáng đại pháp; gọi là lậu tận trí chứng. Vì sao? Vì đây là do tinh cần, chuyên niệm khơng quên, ưa một mình ở chỗ thanh vắng mà sở đắc. Này Lộ-già, đó là một Đức Thế Tơn chẳng ở thế gian, chẳng thể khuynh động. “Lộ-già, có bốn quả Sa-mơn. Những gì là bốn? Đó là quả Tu-đà-hồn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. “Lộ-già, ý ngươi nghó sao? Có người nghe pháp, có thể chứng đắc bốn quả Sa-mơn này; nếu có người ngăn lại nói: ‘Chớ nói pháp cho người này.’ Giả sử nghe theo lời ấy thì người nghe pháp có chứng đắc quả chăng? Đáp: “Khơng được”. Phật lại hỏi: “Nếu khơng chứng đắc quả, nhưng có thể sanh thiên chăng? Đáp: “Khơng thể”. Lại hỏi: “Ngăn người khác nói pháp, khiến người khơng chứng đắc quả, khiến người chẳng được sanh thiên; đó là thiện tâm chăng? Hay là bất thiện tâm?” Đáp: “Bất thiện tâm”. Lại hỏi: “Người có tâm bất thiện, sanh về cõi thiện hay sanh cõi ác?” Đáp: “Sanh cõi ác”. Phật nói: “Lộ-già, cũng như có người nói với vua Ba-tư-nặc: “Tất cả tài vật thuộc trong lãnh thổ mà Đại vương sở hữu, thảy đều do Đại vương tự mình sử dụng, chớ ban phát cho người khác.’ Lộ-già, ý ngươi nghó sao, nếu nghe theo lời người kia thì có cắt đứt sự cung cấp cho người khác chăng?” Đáp: “Sẽ cắt đứt”. Lại hỏi: “Cắt đứt sự cung cấp cho người là tâm thiện hay là tâm bất thiện?” Đáp: “Tâm bất thiện”. Lại hỏi: “Người có tâm bất thiện sẽ sanh vào cõi thiện hay đọa vào đường ác?” Đáp: “Đọa vào đường ác”. Phật nói: “Lộ-già, người kia cũng vậy. Có người nghe pháp, có thể chứng đắc bốn quả Sa-mơn, nhưng nếu có người nói: ‘Chớ nên nói pháp cho nó.’ Nếu nghe theo lời nói ấy, thì người kia có thể nghe pháp để chứng đắc quả chăng?” Đáp: “Khơng được”. Lại hỏi: “Nếu khơng chứng đắc quả, nhưng có được sanh thiên chăng?” Đáp: “Khơng được”. Lại hỏi: “Ngăn người khác nói pháp, khiến người khơng chứng đắc đạo quả, chẳng được sanh thiên, thì người ấy có tâm thiện, hay là tâm bất thiện?” Đáp: “Bất thiện”. Lại hỏi: “Người có tâm bất thiện sẽ sanh cõi thiện chăng? Sẽ đọa vào ác đạo chăng?” Đáp: “Đọa vào ác đạo”. “Lộ-già, nếu có người nói với ngươi rằng: ‘Trong thơn Bà-la-bà-đề này, tất cả những tài vật được phong tặng kia, này ơng Lộ-già, hãy nên tự mình dùng, chớ có cấp phát cho người khác. Có tài vật thì nên tự mình dùng, sao lại cấp phát cho người? Ý ngươi nghó sao, Lộ-già, nếu nghe lời khuyên của người ấy, có phải là cắt đứt sự cung cấp cho các người khác chăng?” Đáp: “Sẽ cắt đứt”. Lại hỏi: “Khiến người cắt đứt sự cung cấp cho người khác là tâm thiện hay tâm bất thiện?” Đáp: “Bất thiện”. Lại hỏi: “Người có tâm bất thiện được sanh cõi thiện hay đọa đường ác?” Đáp rằng: “Đọa đường ác”. Phật nói: “Lộ-già, người kia cũng vậy. Có người nghe pháp, đáng lẽ chứng đắc bốn quả Sa-mơn. Nhưng nếu có người nói: ‘Chớ có nói.’ Nếu nghe lời ấy, thì người kia có thể nghe pháp, chứng đắc quả chăng?” Đáp: “Khơng thể”. Lại hỏi: “Nếu khơng đắc quả, nhưng có được sanh thiên chăng?” Đáp: “Khơng được”. Lại hỏi: “Ngăn người khác nói pháp, khiến người khơng đắc quả, khơng được sanh thiên, là tâm thiện hay tâm bất thiện?” Đáp: “Bất thiện”. Lại hỏi: “Người có tâm bất thiện sanh cõi thiện hay đọa ác đạo?” Đáp: “Đọa ác đạo”. Bấy giờ, Bà-la-mơn Lộ-già bạch Phật: “Con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin nhận con ở trong Chánh pháp làm Ưu-bà-tắc! Từ nay về sau, trọn đời, khơng giết, khơng trộm, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu.” Phật nói pháp này rồi, Bà-la-mơn Lộ-già nghe những điều Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành. <卷 id="485140892">PHẦN IV <詞 id="485140893">30. KINH THẾ KÝ PHẨM 1. DIÊM-PHÙ-ĐỀ PHẨM 2. UẤT-ĐAN-VIẾT PHẨM 3. CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG PHẨM 4. ĐỊA NGỤC PHẨM 5. LONG ĐIỂU PHẨM 6. A-TU-LUÂN PHẨM 7. TỨ THIÊN VƯƠNG PHẨM 8. ĐAO-LỢI THIÊN PHẨM 9. TAM TAI PHẨM 10. CHIẾN ĐẤU PHẨM 11. BA TRUNG KIẾP PHẨM 12. THẾ BẢN DUYÊN <詞>30. KINH THẾ KÝ<註 n="1391"/>1 <章 id="485140895">Phẩm 1: CHÂU DIÊM-PHÙ-ĐỀ Tơi nghe như vầy: Một thời, Phật ở trong hang Câu-lî<註 n="1392"/>2, rừng Kỳ thọ, vườn Cấp cơ độc, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, số đơng Tỳ-kheo, sau bữa ăn<註 n="1393"/>3, tập trung trên giảng đường cùng bàn luận rằng: “Chư Hiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâu mà tan hoại? Do đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúng sanh ở là như thế nào?” Khi ấy, Thế Tơn ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhó nghe suốt, nghe các Tỳ-kheo, sau bữa ăn, tập trung tại giảng đường, bàn luận như thế. Rồi thì, Thế Tơn rời tónh thất, đi đến giảng đường và ngồi xuống. Tuy đã biết nhưng Thế Tơn vẫn hỏi các Tỳ-kheo: “Vừa rồi các thầy đang bàn luận về vấn đề gì?” Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Sau bữa ăn, chúng con tập trung tại pháp giảng đường bàn luận rằng: ‘Chư Hiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâu mà tan hoại? do đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúng sanh ở là như thế nào?’ Chúng con tập trung tại giảng đường bàn luận vấn đề như thế.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Lành thay! Lành thay! Phàm người xuất gia nên hành hai pháp: một là sự im lặng của Hiền thánh, hai là giảng luận pháp ngữ. Các thầy tập trung tại giảng đường cũng nên hành sự im lặng của Hiền thánh hoặc giảng luận Chánh pháp. Này các Tỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về việc trời đất thành, hoại và quốc độ mà chúng sanh ở chăng?” Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật: “Kính vângï, bạch Thế Tơn! Nay thật là phải thời. Chúng con mong ước được nghe. Thế Tơn nói xong, chúng con sẽ phụng trì!” Phật nói: “Này các Tỳ-kheo! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Hãy suy nghó chính chắn. Ta sẽ nói cho các thầy nghe.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Như trong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốn thiên hạ<註 n="1394"/>4, tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới như vậy. Trong ngàn thế giới có một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di<註 n="1395"/>5; có bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng<註 n="1396"/>6, bốn ngàn chim cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác<註 n="1397"/>7, bốn ngàn đường ác lớn, bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn<註 n="1398"/>8, mười ngàn núi lớn, ngàn Diêm-la vương<註 n="1399"/>9, ngàn Tứ thiên vương<註 n="1400"/>10, ngàn trời Đao-lợi<註 n="1401"/>11, ngàn trời Diệm-ma<註 n="1402"/>12, ngàn trời Đâu-suất<註 n="1403"/>13, ngàn trời Hóa tự tại<註 n="1404"/>14, ngàn trời Tha hóa tự tại<註 n="1405"/>15, ngàn trời Phạm<註 n="1406"/>16; đó là tiểu thiên thế giới<註 n="1407"/>17. Như một tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là một trung thiên thế giới<註 n="1408"/>18. Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới như vậy là một tam thiên đại thiên thế giới<註 n="1409"/>19. Phạm vi thế giới thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật<註 n="1410"/>20.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Cõi đất này dày mười sáu vạn tám ngàn do-tuần<註 n="1411"/>21, biên giới vơ hạn. Đất nương trên nước. Nước sâu ba ngàn ba mươi do-tuần, biên giới vơ hạn. Nước ở trên gió; gió dày sáu ngàn bốn mươi do-tuần, biên giới vơ hạn. “Này các Tỳ-kheo! Nước của biển lớn ấy sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, biên giới vơ hạn. Núi chúa Tu-di, phần chìm xuống biển là tám vạn bốn ngàn do-tuần; phần trên mặt nước cao tám vạn bốn ngàn do-tuần; chân núi sát đất, phần lớn là phần đất cứng chắc. Núi ấy thẳng đứng, khơng có lồi lõm, sanh các loại cây; cây tỏa ra các mùi hương, thơm khắp núi rừng, là nơi mà phần nhiều các Hiền thánh, các trời đại thần diệu. Móng chân núi tồn là cát vàng rịng. Bốn phía núi có bốn mơ đất rắn doi ra, cao bảy trăm do-tuần, nhiều màu đan xen, được tạo thành bởi bảy báu. Bốn mơ đất thoai thoải, uốn cong sát mặt biển. “Núi chúa Tu-di có đường cấp<註 n="1412"/>22 bằng bảy báu; đường cấp ở dưới núi rộng sáu mươi do-tuần; sát hai bên đường có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can<註 n="1413"/>23, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây; tường vàng thì cửa bạc, tường bạc thì cửa vàng; tường thủy tinh thì cửa lưu ly, tường lưu ly thì cửa thủy tinh; tường xích châu thì cửa mã não; tường mã não thì cửa xích châu; tường xa cừ thì cửa các báu. Cịn lan can thì cây ngang vàng thì cây dọc bạc, cây ngang bạc thì cây dọc vàng; cây ngang thủy tinh thì cây dọc lưu ly, cây ngang lưu ly thì cây dọc thủy tinh; cây ngang xích châu thì cây dọc mã não, cây ngang mã não thì cây dọc xích châu; cây ngang xa cừ thì cây dọc các báu. Trên lan can ấy, có lưới báu. Ở dưới lưới vàng ấy có treo linh bạc. Dưới lưới bạc, treo linh vàng. Dưới lưới lưu ly treo linh thủy tinh. Dưới lưới thủy tinh treo linh lưu ly. Dưới lưới xích châu treo linh mã não. Dưới lưới mã não treo linh xích châu. Dưới lưới xa cừ treo linh các báu. Cịn cây vàng thì rễ vàng, nhánh vàng, lá, hoa, quả bạc. Cịn cây bạc thì rễ bạc, cành bạc, lá hoa quả vàng. Cịn cây thủy tinh thì rễ, nhánh thủy tinh; hoa, lá, lưu ly. Cịn cây lưu ly thì rễ, nhánh lưu ly; hoa, lá thủy tinh. Cịn cây xích châu thì rễ, nhánh xích châu; hoa, lá mã não. Cịn cây mã não thì rễ nhánh mã não; hoa, lá xích châu. Cịn cây xa cừ thì rễ, nhánh xa cừ; hoa lá các báu. “Về bảy lớp tường ấy, tường có bốn cửa; cửa có lan can. Trên bảy lớp tường đều có lầu, gác, đài, quán; bao bọc chung quanh là vườn cảnh, ao tắm, mọc các lồi hoa lá báu. Cây báu sắp thành hàng. Hoa quả tốt tươi. Gió hương tỏa bốn phía làm vui lịng người. Chim le le, nhạn, uyên ương, các loại chim kỳ lạ, có hàng ngàn giống loại khơng kể xiết, cùng hịa âm kêu hót. Lại nữa, đường cấp ở giữa núi chúa Tu-di rộng bốn mươi do-tuần, sát hai bên đường có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót, cũng như đường cấp ở dưới núi. Cịn đường cấp ở trên rộng hai mươi do-tuần, sát hai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây báu… cho đến vơ số các lồi chim, cùng nhau ca hót, cũng như đường cấp ở giữa.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Đường cấp ở dưới có quỷ thần tên là Già-lâu-la Túc<註 n="1414"/>24 ở. Đường cấp ở giữa có quỷ thần tên là Trì Man<註 n="1415"/>25 ở. Đường cấp ở trên có quỷ thần tên là Hỷ Lạc<註 n="1416"/>26 ở. Bốn doi đất cao bốn vạn hai ngàn do-tuần. Ở đó có cung điện, chỗ ở của Tứ thiên vương; có bảy hàng thành, bảy hàng lan can, bảy hàng lưới, bảy hàng cây báu, các linh báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế. “Trên đảnh núi Tu-di có cung trời Tam thập tam<註 n="1417"/>27, có bảy vịng thành, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế. “Vượt lên trời Tam thập tam một do-tuần, lại có cung trời Diệm-ma; qua khỏi cung trời Diệm-ma một do-tuần, lại có cung trời Đâu-suất; qua khỏi cung trời Đâu-suất một do-tuần, lại có cung trời Hóa tự tại; qua khỏi cung trời Hóa tự tại một do-tuần, lại có cung trời Tha hóa tự tại; qua khỏi trời Tha hóa tự tại một do-tuần, lại có cung trời Phạm-gia-di<註 n="1418"/>28. “Khoảng giữa trời Tha hóa tự tại và trời Phạm-gia-di có cung điện Ma thiên<註 n="1419"/>29, cao rộng sáu ngàn do-tuần, có bảy lớp tường cung, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót cũng lại như thế. Qua khỏi cung trời Phạm-gia-di một do-tuần, lại có cung trời Quang âm<註 n="1420"/>30; qua khỏi cung trời Quang âm một do-tuần lại có cung trời Biến tịnh<註 n="1421"/>31; qua khỏi cung trời Biến tịnh một do-tuần, lại có cung trời Quả thật<註 n="1422"/>32; qua khỏi cung trời Quả thật một do-tuần, lại có cung trời Vơ tưởng<註 n="1423"/>33; qua khỏi cung trời Vơ tưởng một do-tuần, lại có cung trời Vơ tạo<註 n="1424"/>34; qua khỏi cung trời Vơ tạo một do-tuần, lại có cung trời Vơ nhiệt<註 n="1425"/>35; qua khỏi cung trời Vơ nhiệt một do-tuần, lại có cung trời Thiện hiện<註 n="1426"/>36; qua khỏi cung trời Thiện hiện một do-tuần, lại có cung trời Đại thiện hiện<註 n="1427"/>37; qua khỏi cung trời Đại thiện hiện một do-tuần, lại có cung trời Sắc cứu cánh<註 n="1428"/>38, qua khỏi trời Sắc cứu cánh, trên có trời Khơng xứ trí<註 n="1429"/>39, trời Thức xứ trí<註 n="1430"/>40, trời Vơ sở hữu xứ trí<註 n="1431"/>41, trời Hữu tưởng vơ tưởng xứ trí<註 n="1432"/>42, ngang đây gọi là giới hạn của chúng sanh, thế giới chúng sanh, tất cả chúng sanh sanh, lão, bệnh, tử, thọ ấm, thọ hữu ngang đây, khơng vượt qua. Phật bảo các Tỳ-kheo: Phía Bắc núi Tu-di có một thiên hạ tên là Uất-đan-viết<註 n="1433"/>43. Lãnh thổ vuơng vức, ngang rộng một vạn do-tuần; mặt người cũng vuơng, giống như hình đất. “Phía Đơng núi Tu-di có một thiên hạ tên là Phất-vu-đãi<註 n="1434"/>44; lãnh thổ trịn trịa, ngang rộng chín ngàn do-tuần. Mặt người cũng trịn, giống như hình đất. “Phía Tây núi Tu-di có thiên hạ tên là Câu-da-ni<註 n="1435"/>45, địa hình như nửa mặt trăng, ngang rộng tám ngàn do-tuần; mặt người cũng vậy, giống như hình đất. “Phía Nam núi Tu-di có thiên hạ tên là Diêm-phù-đề<註 n="1436"/>46, đất đai phía Nam hẹp, phía Bắc rộng, ngang rộng bảy ngàn do-tuần, mặt người cũng vậy, giống như hình đất. “Mặt Bắc núi Tu-di có ánh sáng được tạo thành do bởi vàng chiếu sáng phương Bắc. Mặt Đơng núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi bạc chiếu sáng phương Đơng. Mặt Tây núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi thủy tinh chiếu sáng phương Tây. Mặt Nam núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi lưu ly chiếu sáng phương Nam. “Ở Uất-đan-viết có một đại thọ chúa tên gọi là Am-bà-la<註 n="1437"/>47, vịng thân bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. Cõi Phất-vu-đãi có một đại thọ, tên là Gia-lam-phù<註 n="1438"/>48, vịng thân bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. Cõi Câu-da-ni có một đại thọ, tên là Cân-đề<註 n="1439"/>49, vịng thân bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần; dưới cây ấy, có tảng thạch ngưu tràng<註 n="1440"/>50, cao một do-tuần. Cõi Diêm-phù-đề có một đại thọ tên là Diêm-phù<註 n="1441"/>51, vịng thân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. Điểu vương cánh vàng và Long vương có cây tên là Câu-lợi-thiểm-bà-la<註 n="1442"/>52, vịng thân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. A-tu-la vương có cây tên là Thiện-trú<註 n="1443"/>53, vịng thân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. Trời Đao-lợi có cây tên là Trú-độ<註 n="1444"/>54, vịng thân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. “Bên núi Tu-di có núi tên là Già-đà-la<註 n="1445"/>55, cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc bốn vạn hai ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành; núi này cách núi Tu-di tám vạn bốn ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc tồn hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lî<註 n="1446"/>56, lau, tùng, trúc mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Khư-đà-la<註 n="1447"/>57 khơng xa, có núi tên là Y-sa-đà-la<註 n="1448"/>58, cao hai vạn một ngàn do-tuần, ngang dọc hai vạn một ngàn do-tuần, hai bên rất rộng nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi Khư-đà-la bốn vạn hai ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc tồn hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lî; lau, tùng, trúc mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Y-sa-đà-la khơng xa, có núi tên là Thọ-cự-đà-la<註 n="1449"/>59, cao một vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc một vạn hai ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi Y-sa-đà-la hai vạn một ngàn do-tuần, khoảûng giữa mọc thuần bốn lồi hoa tạp; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Thọ-cự-đà-la khơng xa, có núi tên là Thiện kiến<註 n="1450"/>60, cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành, cách núi Thọ-cự-đà-la một vạn hai ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc tồn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương xơng khắp. “Cách núi Thiện kiến khơng xa, có núi tên là Mã thực<註 n="1451"/>61, cao ba ngàn do-tuần, ngang dọc ba ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi Thiện kiến sáu ngàn do-tuần, ở khoảng giữa mọc tồn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Mã thực khơng xa, có núi tên là Ni-dân-đà-la<註 n="1452"/>62, cao một ngàn hai trăm do-tuần, ngang dọc một ngàn hai trăm do-tuần, bảy báu tạo thành; cách núi Mã thực ba ngàn do-tuần, ở khoảng giữa mọc tồn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Ni-dân-đà-la khơng xa, có núi tên là Điều phục<註 n="1453"/>63, cao sáu trăm do-tuần, ngang dọc sáu trăm do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi Ni-dân-đà-la một ngàn hai trăm do-tuần, khoảng giữa mọc tồn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Điều phục khơng xa, có núi tên là Kim cang vi<註 n="1454"/>64, cao ba trăm do-tuần, ngang dọc ba trăm do-tuần; hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi Điều phục sáu trăm do-tuần, khoảûng giữa mọc tồn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương mùi thơm lan khắp. “Cách núi Đại kim cang<註 n="1455"/>65 khơng xa, có biển lớn, bờ phía Bắc của biển lớn có cây đại thọ vương tên là Diêm-phù<註 n="1456"/>66, vịng thân bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần, khoảng đất trống hai bên lại có khu rừng tên là Am-bà-la<註 n="1457"/>67, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Diêm-bà<註 n="1458"/>68, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Sa-la<註 n="1459"/>69, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Đa-la<註 n="1460"/>70, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Na-đa-la<註 n="1461"/>71, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nam<註 n="1462"/>72, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nữ<註 n="1463"/>73, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tán-na<註 n="1464"/>74, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Chiên-đàn<註 n="1465"/>75, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Khư-châu-la<註 n="1466"/>76, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Ba-nại-bà-la<註 n="1467"/>77, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tỳ-la<註 n="1468"/>78, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Hương nại<註 n="1469"/>79, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Lê<註 n="1470"/>80, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là An-thạch-lưu<註 n="1471"/>81, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Cam<註 n="1472"/>82, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Ha-lê-lặc<註 n="1473"/>83, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tỳ-hê-lặc<註 n="1474"/>84, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là A-ma-lặc<註 n="1475"/>85, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là A-ma-lê<註 n="1476"/>86, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nại<註 n="1477"/>87, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Cam-giá<註 n="1478"/>88, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Vi<註 n="1479"/>89, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Trúc<註 n="1480"/>90, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Xá-la<註 n="1481"/>91, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Xá-la-nghiệp<註 n="1482"/>92, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Mộc qua<註 n="1483"/>93, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên Đại mộc qua<註 n="1484"/>94, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Giải thốt hoa<註 n="1485"/>95, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Chiêm-bà<註 n="1486"/>96, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Bà-la-la<註 n="1487"/>97, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tu-ma-na<註 n="1488"/>98, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Bà-sư<註 n="1489"/>99, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên Đa-la-lê<註 n="1490"/>100, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Già-da<註 n="1491"/>101, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Bồ-đào<註 n="1492"/>102, ngang dọc năm mươi do-tuần. “Qua khỏi đó thì đất trống. Trong khoảng đất trống ấy lại có ao hoa, ngang dọc năm mươi do-tuần. Lại có ao hoa Bát-đầu-ma, ao hoa Câu-vật-đầu, ao hoa Phân-đà-lî; rắn độc đầy trong đó. Mỗi ao ngang dọc năm mươi do-tuần. “Qua khỏi đó, đất trống. Trong khoảng đất trống ấy có biển lớn tên là Uất-thiền-na<註 n="1493"/>103. Dưới biển này có con đường của Chuyển luân thánh vương, rộng mười hai do-tuần; sát hai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây. Các trang hồng chung quanh đều do bảy báu tạo thành. Khi Chuyển luân thánh vương ra đời trên cõi Diêm-phù-đề thì nước tự nhiên rút đi, đường ấy hiện ra. “Cách biển khơng xa, có núi tên là Kim bích<註 n="1494"/>104. Trong núi có tám vạn cái hang. Tám vạn tượng vương sống ở trong hang ấy. Thân chúng thuần trắng; đầu có nhiều màu; miệng có sáu ngà, giữa các răng có trám vàng. “Qua khỏi núi Kim bích rồi, có núi tên là Tuyết sơn<註 n="1495"/>105, ngang dọc năm trăm do-tuần, sâu năm trăm do-tuần, phía Đơng và Tây nhập vào biển. Ở giữa núi Tuyết có núi báu, cao hai mươi do-tuần. “Doi đất núi Tuyết trồi lên một trăm do-tuần, trên đảnh núi ấy có ao A-nậu-đạt<註 n="1496"/>106, ngang dọc năm mươi do-tuần; nước ao trong mát, lóng sạch khơng cáu bẩn; có bảy bậc bờ thềm, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, nhiều loại màu sắc khác lạ, do bảy báu tạo thành. Lan can thì trụ vàng, tay nắm bạc; trụ bạc, tay nắm vàng; trụ lưu ly, tay nắm thủy tinh; trụ thủy tinh, tay nắm lưu ly; trụ xích châu, tay nắm mã não; trụ mã não, tay nắm xích châu; trụ xa cừ, tay nắm bằng các báu. Lưới vàng, linh bạc; lưới bạc, linh vàng; lưới lưu ly, linh thủy tinh; lưới thủy tinh, linh lưu ly; lưới xa cừ, linh bằng bảy báu. Cây Đa-la<註 n="1497"/>107 vàng, gốc vàng, nhánh vàng, lá bạc, quả bạc; cây Đa-la bạc, gốc bạc, nhánh bạc, lá vàng, quả vàng; cây thủy tinh, gốc, nhánh thủy tinh, hoa, quả lưu ly; cây xích châu, gốc, nhánh xích châu, lá mã não, hoa, quả mã não; cây xa cừ, gốc, nhánh xa cừ, hoa, quả bằng các báu. Bên cạnh ao A-nậu-đạt có vườn cảnh, ao tắm, các hoa tích tụ, các loại cây lá hoa quả đều tốt tươi; các loại hương thơm, lan tỏa bốn phương, các lồi chim lạ cùng cất tiếng hót họa nhau buồn bã. Dưới đáy ao A-nậu-đạt cát vàng đầy ắp, bốn phía ao đều có thềm bậc; bậc vàng, thềm bạc, bậc bạc, thềm vàng; bậc lưu ly, thềm thủy tinh, bậc thủy tinh, thềm lưu ly; bậc xích châu, thềm mã não, bậc mã não, thềm xích châu; bậc xa cừ, thềm bằng các báu, bao bọc chung quanh đều có lan can, có bốn lồi hoa: xanh, vàng, đỏ, trắng nhiều màu đan xen; hoa như bánh xe, rễ như ổ trục xe; rễ hoa ra nhựa màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Phía Đơng ao A-nậu-đạt có sơng Hằng-già<註 n="1498"/>108, từ miệng trâu chảy ra, dẫn theo năm trăm con sơng, chảy vào biển Đơng. Phía Nam ao A-nậu-đạt, có sơng Tân-đầu<註 n="1499"/>109, từ miệng sư tử chảy ra, dẫn theo năm trăm dịng sơng chảy vào biển Nam. Phía Tây ao A-nậu-đạt có sơng Bà-xoa<註 n="1500"/>110, từ miệng ngựa chảy ra, dẫn theo năm trăm dịng sơng nhập vào biển Tây. Phía Bắc ao A-nậu đạt có sơng Tư-đà<註 n="1501"/>111, từ miệng voi chảy ra, dẫn theo năm trăm dịng sơng chảy vào biển Bắc. Trong cung A-nậu-đạt có nhà năm cột, Long vương A-nậu-đạt<註 n="1502"/>112 thường ở trong đó.” Phật nói: “Vì sao gọi là A-nậu-đạt? A-nậu-đạt nghóa là gì? Các Long vương ở Diêm-phù-đề này có đủ ba hoạn nạn, chỉ có A-nậu-đạt khơng có ba hoạn nạn. Những gì là ba? Một là, tồn thể Long vương ở Diêm-phù-đề đều bị gió nóng, cát nóng chạm vào thân, thiêu đốt da thịt và thiêu đốt xương tủy làm cho khổ não; chỉ có Long vương A-nậu-đạt khơng có hoạn này. Hai là, tồn thể long cung ở Diêm-phù-đề bị gió dữ thổi mạnh, thổi vào trong cung, làm mất y báu phục sức, thân rồng lộ ra, làm cho khổ não; chỉ có Long vương A-nậu-đạt khơng có hoạn nạn như thế. Ba là tồn thể Long vương ở Diêm-phù-đề, khi ở trong cung vui chơi đều bị chim lớn cánh vàng bay vào cung dắt đi, hoặc mới nghó cách muốn bắt rồng để ăn thịt; các rồng sợ hãi, thường ơm lịng lo sầu; chỉ có Long vương A-nậu-đạt khơng bị hoạn này; nếu chim cánh vàng khởi niệm muốn ở thì liền mạng chung, cho nên gọi là A-nậu-đạt.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Bên phải núi Tuyết có thành tên là Tỳ-xá-ly<註 n="1503"/>113, phía Bắc của thành ấy có bảy núi đen<註 n="1504"/>114. Phía Bắc của bảy núi đen có núi Hương<註 n="1505"/>115, núi ấy thường có tiếng âm nhạc, ca xướng, kỹ nhạc. Núi có hai hang<註 n="1506"/>116, một hang tên là Trú<註 n="1507"/>117, hang thứ hai tên là Thiện trụ<註 n="1508"/>118, do bảy báu trời tạo thành, mềm mại thơm sạch, giống như áo trời. Diệu âm Càn-thát-bà<註 n="1509"/>119 vương cùng năm trăm Càn-thát-bà ở trong hang Trú đó. Phía Bắc hang Thiện trú có cây đại thọ vương Ta-la, tên là Thiện trụ<註 n="1510"/>120, có bốn ngàn thọ vương vây quanh bốn phía. Dưới Thiện trụ thọ vương có tượng vương, cũng tên là Thiện trụ<註 n="1511"/>121, ở dưới cây này, thân thể tồn trắng, bảy chỗ đầy đặn<註 n="1512"/>122, có thể bay đi; đầu nó màu đỏ, lơng có nhiều màu; sáu ngà đều thon, giữa được trám vàng, có tám ngàn voi vây quanh tùy tùng. Dưới tám ngàn thọ vương ấy, có tám ngàn voi, cũng lại như thế. “Phía Bắc thọ vương Thiện trụ có ao tắm lớn, tên là Ma-đà-diên<註 n="1513"/>123; ngang dọc năm mươi do-tuần; có tám ngàn ao tắm bao bọc chung quanh, nước ao trong mát, khơng có cáu bẩn, được bao quanh các bờ lũy đắp bằng bảy báu. Ao có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây đều do bảy báu tạo thành: tay nắm vàng thì trụ bạc, tay nắm bạc thì trụ vàng; tay nắm thủy tinh thì trụ lưu ly, tay nắm lưu ly thì trụ thủy tinh; tay nắm xích châu thì trụ mã não, tay nắm mã não thì trụ xích châu; tay nắm xa cừ thì trụ bằng các báu; dưới lưới vàng treo linh bạc, dưới lưới bạc treo linh vàng; lưới thủy tinh treo linh lưu ly, lưới lưu ly treo linh thủy tinh; lưới xích châu treo linh mã não, lưới mã não treo linh xích châu; lưới xa cừ treo linh các báu. Cây vàng thì rễ vàng, nhánh vàng, lá hoa quả bạc; cây bạc thì rễ bạc, nhánh bạc, lá hoa quả vàng; cây thủy tinh thì rễ, nhánh thủy tinh, hoa quả lưu ly; cây lưu ly thì rễ, nhánh lưu ly, hoa quả thủy tinh; cây xích châu thì rễ, nhánh xích châu, hoa quả mã não; cây mã não thì rễ, nhánh mã não, hoa quả xích châu; cây xa cừ thì rễ nhánh xa cừ, hoa, quả các báu. “Lại nữa, dưới đáy ao ấy, cát vàng rải khắp, bọc chung quanh ao có đường thềm cấp bằng bảy báu; thềm vàng cấp bạc, thềm bạc cấp vàng; thềm thủy tinh cấp lưu ly, thềm lưu ly cấp thủy tinh; thềm xích châu, cấp mã não, thềm mã não, cấp xích châu; thềm xa cừ, cấp các báu. Sát hai bên thềm có lan can báu. Lại trong ao ấy, sanh bốn lồi hoa: xanh, vàng, đỏ, trắng nhiều màu đan xen; hoa như bánh xe, rễ như ổ trục xe. Rễ hoa ra nhựa màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Vịng quanh bốn phía ao có vườn cảnh, rừng, ao tắm, mọc đủ các loại hoa; cây cối xanh tươi, hoa quả dồi dào, vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót, cũng giống như trước. Tượng vương Thiện trụ khi nghó muốn dạo chơi vào ao tắm thì liền nghó đến tám ngàn voi khác. Khi ấy tám ngàn voi lại tự nghó: “Tượng vương Thiện trụ đang nghó đến chúng ta, chúng ta nên đến chỗ tượng vương”. Bầy voi liền đi đến đứng trước tượng vương. “Bấy giờ, tám ngàn voi theo tượng vương Thiện trụ đến ao Ma-đà-diên. Trong bầy voi ấy, có con cầm lọng che tượng vương, có con cầm quạt báu quạt tượng vương; trong đó có con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở đường. Tượng vương Thiện trụ vào ao tắm rửa, tấu xướng kỹ nhạc, cùng nhau vui chơi; có con rửa vịi cho tượng vương, có con rửa miệng, gội đầu; rửa ngà, rửa tai, rửa bụng, kỳ lưng, rửa đuơi, rửa chân; trong đó có con nhổ gốc hoa rửa sạch dâng voi ăn, có con lấy bốn loại hoa rải trên voi. “Tượng vương Thiện trụ tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vui chơi xong, liền lên bờ, đi đến đứng ở cây Thiện trụ. Tám ngàn con voi, sau đó, mới vào ao tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vui chơi, xong rồi trở ra, đến chỗ tượng vương. “Khi ấy, tượng vương cùng tám ngàn voi tùy tùng sau trước, đến chỗ thọ vương Thiện trụ; trong đó có con cầm lọng che tượng vương; có con cầm quạt quạt tượng vương; trong đó có con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở đường. Khi tượng vương Thiện trụ đến chỗ thọ vương rồi, ngồi nằm đi đứng tùy ý, tám ngàn voi khác ở dưới các cây, tự do ngồi nằm đi đứng tùy ý. Trong rừng cây ấy, có cây chu vi tám tầm, có cây chu vi chín tầm, cho đến mười tầm, mười lăm tầm, chỉ có thọ vương Ta-la của voi chúa Thiện trụ chu vi mười sáu tầm. Khi cành lá của tám ngàn cây Ta-la rơi rụng thì có luồng gió mát thổi bay xa ra ngồi khu rừng. Lại khi tám ngàn voi đại tiểu tiện thì các quỷ Dạ-xoa hốt bỏ ngồi rừng.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Tượng vương Thiện trụ có đại thần lực, cơng đức như thế; tuy là lồi súc sanh mà hưởng phước như vậy.” <章 id="485140897">Phẩm 2: UẤT-ĐAN-VIẾT Phật bảo Tỳ-kheo: “Cõi Uất-đan-viết có nhiều núi. Bên cạnh các núi ấy, có các vườn cảnh, ao tắm, mọc nhiều lồi hoa, cây cối mát mẻ, hoa quả dồi dào, vơ số các lồi chim cùng nhau hót. Lại trong các núi ấy có nhiều dịng nước; nước ấy xuơi dịng ra biển, khơng chảy xiết; các loại hoa phủ trên mặt nước, chảy bình lặng êm ả. Sát hai bên bờ, có nhiều cây cối, cành nhánh mềm mại, hoa quả sum suê. Đất mọc cỏ mềm xoay về bên phải, màu như đuơi cơng<註 n="1514"/>124, mùi thơm như bà-sư<註 n="1515"/>125, mềm như áo trời. Đất ở đó mềm; dùng chân đạp đất, đất lún bốn tấc, dở chân lên, trở lại như cũ, mặt đất bằng như bàn tay, khơng có cao thấp. “Này Tỳ-kheo! Cõi Uất-đan-viết kia bốn phía có bốn ao A-nậu-đạt; mỗi ao ngang dọc một trăm do-tuần. Nước ao lắng trong, khơng có cáu bẩn. Có hào cùng bậc thềm bằng bảy báu chung quanh… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau cất tiếng hót buồn bã, giống như sự trang trí của ao Ma-đà-diên khơng khác. Bốn ao lớn ấy, rộng mười do-tuần, nước sơng xuơi dịng ra biển, khơng có xiết; các loại hoa phủ trên mặt nước, chảy từ từ êm ả. Sát hai bên bờ sơng có nhiều cây cối, cành nhánh mềm mại, hoa quả dồi dào. Đất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như đuơi cơng, hương như bà-sư, mềm mại như áo trời. Đất đó mềm mại, dùng chân đạp đất, đất lún bốn tấc, giở chân lên, trở lại như cũ. Đất bằng như bàn tay, khơng có cao thấp. Lại đất đai kia khơng có ngịi rãnh, khe suối, hầm hố, gai góc, gốc cây, cũng khơng có muỗi mịng, rắn, rết, ong, bị cạp, cọp, beo, thú dữ. Đất thuần châu báu, khơng có đất cát; âm dương điều độ, bốn mùa thuận hịa, chẳng lạnh chẳng nóng, khơng có các sự não hoạn. Đất đai thấm ướt, bụi dơ khơng dậy, như dầu bơi trên đất, khơng có bụi bay. Trăm thứ cây cỏ thường mọc, khơng có mùa Đơng rét mướt, mùa Hạ nóng bức. Cây cối tốt tươi; hoa trái xum xuê. Đất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như lơng cơng, hương như bà-sư, mềm như áo trời. Đất ở đó mềm mại; dùng chân đạp đất, đất lún bốn tấc, dở chân lên lại, trở lại như cũ. Đất bằng như bàn tay, khơng có chỗ cao, chỗ thấp. “Cõi ấy thường có lúa thơm tự nhiên, chẳng gieo trồng mà tự mọc, khơng có vỏ trấu, như đóa hoa trắng, giống như thức ăn trời Đao-lợi, đầy đủ các vị. Cõi ấy luơn có nồi, vạc tự nhiên; có ngọc ma-ni tên là Diệm quang<註 n="1516"/>126 được đặt dưới nồi nấu. Khi cơm chín thì ánh sáng tắt, chẳng cần lửa củi, khơng nhọc sức người. Cõi ấy có cây tên là Khúc cung<註 n="1517"/>127, lá cây dày đặc chồng lên nhau theo thứ lớp, trời mưa khơng dột. Đàn ơng, đàn bà cư ngụ dưới cây đó. Lại có cây hương<註 n="1518"/>128 cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành. Khi quả ấy chín, vỏ nó tự nứt, tự nhiên xuất ra các loại hương. Hoặc có cây cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, bốn mươi dặm; cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đầy cành. Khi quả ấy chín, vỏ nó tự nứt, tự nhiên hương tỏa. “Lại có cây Y<註 n="1519"/>129 cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín vỏ tự nứt ra, tuơn ra các loại y phục; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, nhỏ nhất là năm dặm, hoa quả đầy cành, tuơn ra các loại y phục. Lại có cây trang nghiêm<註 n="1520"/>130, cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, tuơn ra các thứ đồ trang nghiêm thân thể; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi dặm, đều đầy cành hoa quả, tuơn ra đủ các đồ trang nghiêm thân thể. Lại có cây hoa man<註 n="1521"/>131 cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại tràng hoa; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả cũng đầy cành, xuất ra các loại tràng hoa. Lại có cây khí<註 n="1522"/>132, cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành. Khi quả ấy chín vỏ tự nứt ra. Xuất ra các khí cụ; hoặc có cây sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đều đầy cành, xuất ra các loại khí cụ. Lại có cây quả<註 n="1523"/>133 cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại quả; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đều đầy cành, xuất ra các loại quả. Lại có cây nhạc khí<註 n="1524"/>134 cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; quả ấy khi chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại nhạc khí, hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, đều đầy cành hoa quả, xuất ra các loại nhạc khí. “Cõi ấy có ao tên là Thiện kiến<註 n="1525"/>135, ngang dọc một trăm do-tuần, nước ao trong vắt, khơng có cáu bẩn. Các bên ao được xây lát bằng hào bảy báu. Bốn mặt quanh ao có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót, cũng giống như trước. “Phía Bắc ao Thiện kiến có cây tên là Am-bà-la<註 n="1526"/>136, vịng thân bảy dặm, cao một trăm dặm, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi dặm. Phía Đơng của ao Thiện kiến phát xuất sơng Thiện đạo<註 n="1527"/>137, rộng một do-tuần, nước sơng chảy chậm, khơng có dịng xốy, có nhiều loại hoa phủ trên mặt nước; sát hai bên bờ cây cối tốt tươi, cành nhánh mềm mại, hoa quả đầy cành; đất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như lơng cơng, hương như bà-sư, mềm như áo trời; đất ở đó mềm mại, khi đạp chân xuống, đất lún bốn tấc, dở chân lên, trở lại như cũ; đất bằng như bàn tay, khơng có cao thấp. “Lại nữa, trong sơng ấy, có các thuyền báu. Nhân dân ở nơi ấy khi muốn vào sơng tắm rửa vui chơi, cởi y phục để trên bờ. Lên thuyền ra giữa dịng; nơ đùa vui vẻ xong, lên bờ gặp y phục thì mặc, lên trước mặc trước, lên sau mặc sau, chẳng tìm lại y phục cũ. Sau đó, đi đến cây hương. Cây cong mình xuống; những người ấy lấy các loại tạp hương để xoa trên mình. Rồi đến cây y phục. Cây cong mình xuống; những người ấy lấy các loại y phục, tùy ý mặc vào. Tiếp đến, đi đến cây trang nghiêm, cây cong mình xuống, những người ấy lấy các thứ trang nghiêm để tự trang sức. Xong, đến cây hoa man; cây cong mình xuống, những người ấy lấy các thứ tràng hoa, để đội trên đầu. Rồi đến cây khí, cây cong mình xuống; những người ấy lấy các loại khí vật báu; lấy khí vật báu xong, tiếp theo, đến cây quả, cây cong mình xuống, những người ấy hái các quả đẹp, hoặc có người ăn nuốt, có người ngậm, có người vắt nước uống. Kế tiếp, đến cây nhạc khí; cây cong mình xuống, những người ấy lấy các loại nhạc khí, chơi đàn, đánh trống và dùng âm thanh vi diệu hịa với tiếng đàn mà đi đến khu vườn, tùy ý vui chơi, hoặc một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, sau đó lại đi, khơng có chỗ nhất định. “Phía Nam ao Thiện kiến, phát xuất sơng Diệu thể<註 n="1528"/>138. Phía Tây ao Thiện kiến, phát xuất sơng Diệu vị<註 n="1529"/>139. Phía Bắc ao Thiện kiến, phát xuất sơng Quang ảnh<註 n="1530"/>140, cũng giống như trên. Phía Đơng ao Thiện kiến có khu vườn tên là Thiện kiến<註 n="1531"/>141, ngang dọc một trăm do-tuần; vịng quanh bốn bên khu vườn có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, nhiều màu đan xen bảy báu tạo thành. Bốn phía vườn ấy có bốn cửa lớn, lan can bao quanh, đều do bảy báu tạo thành; trong vườn sạch sẽ, khơng có gai góc, đất đai bằng phẳng, khơng có ngịi rãnh khe suối, hầm hố, đồi gị, cũng khơng có muỗi mịng, ruồi, rệp, rận, rắn rết, ong, bị cạp, hổ báo, ác thú; đất tồn các báu, khơng có cát, âm dương điều độ, bốn mùa thuận hịa, chẳng lạnh chẳng nóng, khơng có các hoạn nạn; đất đai nhuận thấm, khơng có bụi bặm, như có dầu xoa đất, đi bụi khơng bốc lên, hằng trăm lồi cỏ thường mọc, khơng có Đơng rét Hạ bức; cây cối tươi tốt, hoa quả đầy cành; đất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như lơng cơng, hương như bà-sư, mềm như áo trời; đất đai mềm mại, khi đạp chân xuống, đất lún bốn tấc, dở chân lên, đất lại như cũ. “Vườn ấy thường mọc lúa thơm tự nhiên, khơng có vỏ trấu, trắng như đóa hoa, đầy đủ các vị, như cơm trời Đao-lợi. Vườn ấy thường có nồi chõ tự nhiên; có ngọc ma-ni, tên là Diệm quang đặt dưới nồi chõ; khi cơm chín, ánh sáng tắt, chẳng cần lửa củi, chẳng nhọc cơng người. Vườn ấy có cây tên là khúc cung, lá chồng lên nhau theo thứ lớp, trời mưa khơng dột. Các nam nữ ấy cư ngụ ở đó. Lại có cây hương, cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại hương, có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cho đến cao năm dặm, hoa quả đầy cành, xuất ra các lồi hương… cho đến cây khí, cũng giống như trên. “Nhân dân ở cõi ấy đến vườn ấy vui chơi giải trí, một ngày, hai ngày… cho đến bảy ngày. Vườn Thiện kiến ấy khơng người bảo vệ, tùy ý dạo chơi, sau đó lại đi. “Phía Nam ao Thiện kiến có khu vườn tên là Đại thiện kiến, phía Tây ao Thiện kiến có khu vườn tên là Ngu lạc<註 n="1532"/>142; phía Bắc ao Thiện kiến có khu vườn tên là Đẳng hoa<註 n="1533"/>143, cũng giống như thế. “Ở cõi ấy, vào nửa đêm, cuối đêm, Long vương A-nậu-đạt thường thường vào lúc thích hợp khởi mây lành cùng khắp thế giới rồi mưa nước ngọt xuống, giống như khi vắt sữa bị; nước đủ tám vị, thấm nhuận khắp nơi; nước khơng đọng lại, đất khơng bùn lầy. Giống như thợ làm tràng hoa dùng nước rưới hoa, khiến khơng khơ héo, thấm ướt tốt tươi. Khi ấy, ở cõi đó vào lúc gần sáng khơng có mây che, bầu trời trong vắt; biển nổi gió mát, trong lành hiu hiu, chạm nhẹ vào người, tồn thân sảng khối. “Cõi ấy trù mật, nhân dân sung túc. Nếu khi cần ăn thì dùng gạo thơm tự nhiên bỏ vào trong chõ, dùng ngọc Diệm quang để ở dưới chõ; cơm tự nhiên chín, ánh sáng ngọc tự tắt. Các người đi đến, tự do ăn cơm. Người ăn khơng đứng dậy thì cơm khơng hết; người ăn đứng dậy thì cơm cũng hết. Cơm ấy tinh khiết như đóa hoa trắng, đầy đủ mùi vị như cơm cõi trời Đao-lợi. Người ăn cơm đó khơng có các bệnh, khí lực dồi dào, nhan sắc tươi vui, khơng có gầy cịm. “Lại ở cõi ấy, thân thể con người như nhau, hình mạo giống nhau, khơng thể phân biệt. Dáng người trẻ trung, như người khoảng hai mươi tuổi ở Diêm-phù-đề. Người cõi ấy, răng họ bằng đều, trắng sạch, kín sát khơng hở; tóc màu xanh biếc, khơng có cáu bẩn; tóc xõa xuống bằng tám ngón tay, ngang vai thì dừng, khơng dài khơng ngắn. Người ở cõi đó nếu khi khởi tâm dục thì nhìn chăm chăm nữ nhân rồi bỏ đi; người nữ ấy theo sau vào trong vườn. Nếu nữ nhân và người nam kia là cha, mẹ hoặc liên hệ trong cốt nhục, khơng phải là người nên hành dục thì cây khơng cong xuống che lại, thì họ tự chia tay. Nếu chẳng phải cha, mẹ và nhiều liên hệ đến cốt nhục, đúng là đối tượng hành dâm thì cây cong xuống che phủ thân họ, tùy ý hưởng lạc, một ngày, hai ngày… hoặc đến bảy ngày, khi ấy mới thơi. Người nữ ấy mang thai; bảy hoặc tám ngày thì sanh. Sanh ra con trai hay con gái, cũng mang đặt ở ngã tư đường, đầu trục lộ giao thơng, bỏ đó rồi đi. Các người đi đường, đi ngang qua bên nó, đưa ngón tay cho nó mút, ngón tay chảy ra sữa ngọt, nuơi lớn thân bé. Qua bảy ngày rồi, bé ấy trưởng thành, bằng với người lớn; nam thì theo nhóm nam, nữ thì theo nhóm nữ. “Người cõi ấy khi mạng chung, khơng ai khóc lóc, trang nghiêm tử thi, đặt ở ngã tư đường, bỏ đó rồi đi. Có lồi chim tên là Ưu-úy thiền-già<註 n="1534"/>144 gắp tử thi ấy để ở phương khác. “Lại nữa, người ở cõi ấy khi đại tiểu tiện, đất liền nẻ ra; đại tiểu tiện rồi, đất khép trở lại. Nhân dân cõi ấy khơng lệ thuộc sự tham luyến, cũng khơng cất chứa, thọ mạng có hạn định; chết rồi sanh lên trời. Vì sao người cõi ấy thọ mạng luơn có hạn định? Đời trước người cõi ấy tu mười hạnh thiện, khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn tuổi, chẳng hơn chẳng kém. Vì thế, người cõi ấy thọ mạng như nhau. “Lại nữa, người sát sanh đọa vào đường ác; người khơng sát sanh sanh vào nẻo thiện. Kẻ trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, tham lam, ganh ghét, tà kiến đều đọa vào đường ác. Người khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng hai lưỡi, khơng ác khẩu, khơng nói dối, khơng nói thêu dệt, khơng tham lam, khơng ganh ghét, khơng tà kiến thì khi thân hoại mạng chung sanh cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn năm, chẳng hơn chẳng kém. Vì vậy, người ở cõi kia thọ mạng bằng nhau. Lại nữa, tham lam keo kiệt chẳng thường bố thí thì chết đọa đường ác; tâm thống khơng keo thường hành bố thí sanh chốn thiện. Có người bố thí cho Sa-mơn, Bà-la-mơn và bố thí cho người bần cùng, ăn xin, bệnh ghẻ, khốn khổ, cho họ y phục, thức ăn uống, xe cộ, tràng hoa, hương thơm, giường chõng, phịng xá; lại tạo lập tháp miếu, đèn đuốc cúng dường, thì người ấy khi mạng chung sanh vào cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn tuổi, chẳng hơn chẳng kém, vì vậy, người cõi kia thọ mạng bằng nhau. Vì sao gọi người Uất-đan-viết là hơn hết? Vì nhân dân cõi ấy chẳng thọ thập thiện nhưng tồn bộ hành động của họ tự nhiên hợp với thập thiện, khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi lành. Vì vậy, người ở đó được khen là Uất-đan-viết hơn hết. Uất-đan-viết, ý nghóa như thế nào? Đối với ba cõi kia, cõi này là tối thắng, tối thượng cho nên gọi là Uất-đan-viết<註 n="1535"/>145. <章 id="485140899">Phẩm 3: CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG<註 n="1536"/>146 Phật nói với các Tỳ-kheo: “Thế gian có Chuyển luân thánh vương<註 n="1537"/>147, thành tựu bảy báu, có bốn thần đức. “Những gì là bảy báu mà Chuyển luân thánh vương thành tựu<註 n="1538"/>148? Một, báu bánh xe vàng; hai, báu voi trắng; ba, báu ngựa xanh; bốn, báu thần châu; năm, báu ngọc nữ; sáu, báu cư só; bảy, báu chủ binh. “Chuyển luân thánh vương thành tựu báu bánh xe vàng như thế nào? Nếu Chuyển luân thánh vương hiện trong cõi đất Diêm-phù-đề; khi ấy, vua Quán đảnh thuộc dịng Sát-lî<註 n="1539"/>149, vào ngày rằm trăng trịn, tắm gội bằng nước thơm, rồi lên điện cao, cùng với thể nữ hưởng thụ hoan lạc. Bảo vật là bánh xe trời bằng vàng<註 n="1540"/>150 bỗng nhiên xuất hiện trước mặt. Bánh xe có ngàn căm, với màu sắc sáng chói, được làm bằng vàng trời, do thợ trời chế tạo, khơng phải người đời làm được. Đường kính bánh xe là bốn trượng. Khi nhìn thấy bánh xe, Chuyển luân thánh vương thầm nghó: Ta từng nghe từ các bậc tiên túc, kỳ cựu nói rằng: ‘Nếu vua Sát-lî quán đảnh, vào ngày rằm lúc trăng đầy, tắm gội bằng nước thơm, lên ngồi trên Pháp điện, với thể nữ vây quanh. Bánh xe vàng tự nhiên xuất hiện trước mặt. Bánh xe có ngàn căm, với màu sắc sáng chói, được làm bằng vàng trời, do thợ trời chế tạo, khơng phải người đời làm được. Đường kính bánh xe là bốn trượng. Bấy giờ được gọi là Chuyển luân thánh vương.’ Nay bánh xe này xuất hiện, há khơng phải là điều ấy chăng? Ta nay hãy thử bảo vật là bánh xe này. “Rồi Chuyển luân vương bèn triệu tập bốn binh chủng, hướng về bảo vật bánh xe vàng, bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất, lấy tay phải sờ bánh xe vàng mà nói rằng: ‘Ngươi hãy nhắm hướng Đơng, đúng như pháp mà chuyển, chớ có trái qui tắc thơng thường’. Bánh xe liền chuyển về phương Đơng. Khi ấy Chuyển luân vương liền dẫn bốn binh chủng đi theo sau. Phía trước bảo vật bánh xe vàng có bốn vị thần dẫn đường. Bánh xe ngừng chỗ nào, vua đình giá chỗ đó. Bấy giờ các Tiểu quốc vương thấy Đại vương đến, lấy bát vàng đựng đầy thóc bạc; bát bạc đựng đầy thóc vàng đi đến chỗ Đại vương, cúi đầu bạch rằng: ‘Lành thay, Đại vương! Nay, ở phương Đơng này, đất đai phong phú, vui tươi, có nhiều trân bảo, nhân dân đơng đúc, tâm chí nhân ái, hịa thuận, từ hiếu, trung thuận. Cúi nguyện Thánh vương hãy ở đây mà trị chính. Chúng tơi sẽ gần gũi hầu hạ, cung cấp những thứ cần dùng.’ Khi ấy, Chuyển luân vương nói với các Tiểu vương: ‘Thơi, thơi! Này các hiền, các người như vậy là đã cúng dường ta rồi. Nhưng hãy theo chánh pháp mà cai trị giáo hóa, chớ để thiên lệch; khơng để quốc nội có hành vi phi pháp. Tự mình khơng sát sanh; khuyên bảo người khác khơng sát sanh, trộm cướp, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, thêu dệt, tham lam, tật đố, tà kiến. Đó gọi là sự cai trị của ta vậy.’ “Các Tiểu vương sau khi nghe lời dạy, liền đi theo Đại vương, tuần hành các nước. Cho đến tận cùng bờ biển<註 n="1541"/>151 phía Đơng. “Sao đó, lần lượt đi về phương Nam, phương Tây, phương Bắc. Bất cứ chỗ nào mà bánh xe lăn đến, các Quốc vương ở đó đều dâng hiến quốc thổ; cũng như các Tiểu vương ở phương Đơng vậy. “Tất cả đất đai có trong Diêm-phù-đề này, màu mỡ, phong phú, sản xuất nhiều trân bảo, những nơi có rừng, có nước trong sạch, bánh xe đều lăn khắp; ấn định biên giới, vẽ bản đồ<註 n="1542"/>152, Đơng Tây mười hai do-tuần, Nam Bắc mười do-tuần. Vào ban đêm, các thần ở trong đó xây dựng thành quách. Thành có bảy lớp, với bảy lớp lan can<註 n="1543"/>153, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, những trang hồng chung quanh, đều được làm bằng bảy báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng họa nhau mà hót. Thành được xây xong, bánh xe vàng lại xuất hiện trong thành, qui định địa giới Đơng Tây bốn do-tuần, Nam Bắc hai do-tuần. Vào ban đêm, các thần ở trong đó xây dựng cung điện. Tường cung có bảy lớp, được làm bằng bảy báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng họa nhau mà hót, như đã kể trên. “Cung điện được dựng xong, khi ấy bảo vật bánh xe vàng trụ giữa hư khơng, ngay phía trước cung điện, hồn tồn khơng chuyển động. Chuyển luân vương phấn khởi nói: ‘Nay bảo vật bánh xe vàng này thật sự là điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ “Đó là sự thành tựu bánh xe vàng. “Voi trắng được thành tựu<註 n="1544"/>154 như thế nào? Chuyểân luân thánh vương, vào buổi sáng sớm, ngồi trên chánh điện. Tự nhiên voi trắng bỗng xuất hiện trước mặt. Lơng của nó thuần trắng, bảy chỗ bằng phẳng<註 n="1545"/>155, có khả năng phi hành. Đầu của có nhiều màu; sáu ngà thon dài được cẩn bằng vàng rịng. Thấy thế vua liền nghó thầm: ‘Con voi này khơn. Nếu khéo huấn luyện, có thể cưỡi.’ Bèn cho huấn luyện thử, đầy đủ các kỹ năng. Khi ấy, Chuyển luân vương muốn thử voi, bèn cưỡi lên nó, vào buổi sáng sớm, xuất thành, đi quanh khắp bốn biển. Cho đến giờ ăn trưa thì trở về. Chuyển luân vương phấn khởi nói: ‘Bảo vật voi trắng này thật sự là một điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ “Đó là sự thành tựu báu voi. “Thế nào là sự thành tựu ngựa xanh<註 n="1546"/>156 của Chuyển luân vương? Khi ấy, Chuyển luân thánh vương, vào buổi sáng sớm, ngồi tại chánh điện, tự nhiên bảo vật là ngựa bỗng xuất hiện trước mặt. Màu nó xanh thẫm, bờm và đuơi đỏ<註 n="1547"/>157. Thấy thế, vua liền nghó thầm: ‘Con ngựa này khơn. Nếu khéo huấn luyện, có thể cưỡi.’ Bèn cho huấn luyện thử, đầy đủ các kỹ năng. Khi ấy, Chuyển luân vương muốn thử ngựa, bèn cưỡi lên nó, vào buổi sáng sớm, xuất thành, đi quanh khắp bốn biển. Cho đến giờ ăn trưa thì trở về. Chuyển luân vương phấn khởi nói: ‘Bảo vật ngựa xanh này thật sự là một điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ “Đó là sự thành tựu ngựa xanh. “Báu thần châu được thành tựu<註 n="1548"/>158 như thế nào? Chuyểân luân Thánh vương, vào buổi sáng sớm, ngồi trên chánh điện. Tự nhiên thần châu bỗng xuất hiện trước mặt. Màu chất<註 n="1549"/>159 trong suốt, khơng có tỳ vết. Sau khi thấy, vua tự nghó: ‘Châu này thật tuyệt vời. Nếu có ánh sáng, có thể rọi cung nội.’ Rồi Chuyển luân thánh vương muốn thử hạt châu này, bèn triệu tập bốn binh chủng. Đặt bảo châu trên cây phướn cao. Trong lúc đêm tối, cầm cây phướn xuất thành. Ánh sáng của hạt châu này rọi đến một do-tuần. Những người ở trong thành đều thức dậy làm việc, cho rằng bây giờ là ban ngày. Chuyển luân vương khi ấy phấn khởi nói: ‘Nay thần châu này thật sự là điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương’. “Đó là sự thành tựu báu thần châu. “Báu ngọc nữ được thành tựu<註 n="1550"/>160 như thế nào? Khi ấy, báu ngọc nữ bỗng nhiên xuất hiện, nhan sắc thung dung, diện mạo đoan chánh; khơng dài, khơng vắn; khơng thơ, khơng nhỏ; khơng trắng, khơng đen; khơng cương, khơng nhu; mùa đơng thì thân ấm, mùa hè thì thân mát. Từ các lỗ chân lơng khắp mình phát ra mùi hương Chiên-đàn; miệng phát ra mùi hương của hoa Ưu-bát-la; nói năng dịu dàng; cử động khoan thai; đứng dậy trước (vua) nhưng ngồi xuống sau (vua), khơng mất nghi tắc. Chuyển luân thánh vương sau khi thấy, tâm khơng mê đắm, khơng chút mơ tưởng, huống hồ gần gũi. Chuyển luân vương sau khi thấy, phấn khởi mà nói: ‘Báu ngọc nữ này thật sự là điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ “Đó là sự thành tựu báu ngọc nữ. “Báu cư só được thành tựu<註 n="1551"/>161 như thế nào? Khi ấy, người đàn ơng cư só<註 n="1552"/>162 bỗng nhiên tự xuất hiện; kho báu tự nhiên, tài sản vơ lượng. Cư só do phước báu đời trước có cặp mắt có thể nhìn thấu suốt các hầm mỏ<註 n="1553"/>163 dưới lịng đất; biết rõ hết thảy có chủ hay vơ chủ. Kho nào có chủ, ơng có thể giữ gìn hộ. Kho nào vơ chủ, ơng lấy lên cho vua tiêu dùng. Rồi thì, báu cư só đi đến tâu vua: ‘Đại vương, cần cung cấp thứ gì, xin đừng lo lắng. Tơi tự mình có thể giải quyết.’ “Khi ấy, Chuyển luân thánh vương muốn thử báu cư só, bèn ra lệnh sửa soạn thuyền để du ngoạn thủy, bảo cư só rằng: ‘Ta cần bảo vật vàng, ngươi hãy đưa nhanh đến cho.’ Báu cư só tâu rằng: ‘Đại vương đợi một chút; cần phải lên bờ đã.’ Vua lại hối thúc: ‘Ta nay đang cần dùng. Ngươi hãy mang đến liền cho ta.’ Khi báu cư só bị vua ra nghiêm lệnh, bèn quỳ mọp trên thuyền, dùng tay mặt thọc xuống nước. Khi ơng rút tay lên thì một cái bình báu từ trong nước cũng lên theo. Giống như con sâu leo cây. Báu cư só kia cũng vậy. Khi rút bàn tay lên khỏi nước thì bình báu cũng lên theo, để đầy cả thuyền. Rồi ơng tâu vua: ‘Vừa rồi vua cần bảo vật để dùng. Mà cần bao nhiêu?’ Chuyển luân thánh vương khi ấy nói với cư só: ‘Thơi, thơi! Ta khơng cần dùng gì. Vừa rồi, ta chỉ muốn thử mà thơi. Ngươi nay như thế là đã cúng dường ta rồi.’ Cư só nghe vua nói như vậy, liền đem bảo vật trả lại trong nước. Khi ấy, Chuyển luân thánh vương phấn khởi nói rằng: ‘Báu cư só này thật sự là điềm lành của ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ “Đó là sự thành tựu báu cư só. “Báu chủ binh được thành tựu<註 n="1554"/>164 như thế nào? Khi ấy, báu chủ binh bỗng nhiên xuất hiện, đủ trí mưu, hùng mãnh, sách lược sáng suốt, quyết đốn; đi ngay đến chỗ vua, tâu rằng: ‘Đại vương, cần chinh phạt chỗ nào, xin đừng lo. Tơi có thể đảm trách.’ Rồi Chuyển luân thánh vương muốn thử báu chủ binh, bèn tập hợp bốn binh chủng, bảo rằng: ‘Ngươi nay hãy điều binh. Chưa tập họp thì tập họp lại. Đã tập họp thì giải tán. Chưa nghiêm, hãy làm cho nghiêm. Đã nghiêm, hãy cởi mở. Chưa đi, hãy khiến đi. Đã đi, hãy khiến dừng.’ Báu chủ binh nghe vua nói xong, bèn điều động bốn binh chủng, Chưa tập họp thì tập họp lại. Đã tập họp thì giải tán. Chưa nghiêm, làm cho nghiêm. Đã nghiêm, thì cởi mở. Chưa đi, thì khiến đi. Đã đi, thì khiến dừng. Khi ấy Chuyển luân thánh vương phấn khởi nói rằng: ‘Báu chủ binh này thật sự là điềm lành của ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.’ “Đó là sự thành tựu báu chủ binh. “Thế nào là bốn thần đức<註 n="1555"/>165? Một là khơng ai bì kịp về tuổi thọ, khơng yểu số. Hai, khơng ai bì kịp về thân thể cường tráng, khơng bệnh hoạn. Ba, khơng ai bì kịp về nhan mạo đoan chánh. Bốn, khơng ai bì kịp về sự giàu có, kho tàng châu báu đầy dẫy. “Đó là Chuyển luân thánh vương thành tựu bảy báu và bốn thần đức. “Vào một lúc, rất lâu về sau, Chuyển luân thánh vương ra lệnh ngự giá xuất du ở hậu viên, bèn bảo người đánh xe: ‘Ngươi hãy đánh xe đi cho khéo. Ta muốn quan sát rõ nhân dân trong quốc thổ có an lạc, khơng tai họa gì chăng.’ “Bấy giờ nhân dân trong nước đứng dọc các con đường, nói với người đánh xe rằng: ‘Ơng cho xe đi chậm lại. Chúng tơi muốn nhìn ngắm rõ uy nhan của Thánh vương.’ “Chuyển luân thánh vương thương yêu chăm sóc nhân dân như cha yêu con. Quốc dân mến mộ vua cũng như con trơng lên cha. Có những gì trân quý đều đem cống vua, tâu rằng: ‘Xin nguyện hạ cố thọ nhận, tùy ý sử dụng.’ Khi ấy vua trả lời: ‘Thơi đủ rồi, các người! Ta tự mình có đủ tài bảo. Các người hãy tự thọ dụng của mình.’ “Khi Chuyển luân thánh vương cai trị Diêm-phù-đề này, cõi đất ấy bằng phẳng, khơng có gai góc, hầm hố, gị nổng; cũng khơng có muỗi mịng, ruồi nhặng, ong, bị cạp, rắn rết, sâu độc, đá cát, sạn sỏi; tất cả lặn mất. Vàng, bạc, báu ngọc hiện lên mặt đất. Bốn mùa điều hịa, khơng nóng, khơng lạnh. Đất ấy mềm mại, khơng có bụi bẩn. Như đất được bơi dầu, sạch sẽ, trơn láng, khơng có bụi bẩn. Khi Chuyển luân thánh vương cai trị ở đời, cõi đất cũng như vậy. Từ đất tuơn ra các dịng suối, trong sạch, khơng bao giờ cạn, sanh loại cỏ mềm mại, mùa đơng vẫn xanh tươi. Cây cối sầm uất, hoa trái xum xuê. Đất sanh cỏ mềm, màu như đuơi lơng cơng, mùi hương hoa bà-sư<註 n="1556"/>166, mềm mại như lụa trời. Khi đạp chân xuống đất; đất lõm xuống bốn tấc. Khi dở chân lên, đất trở lại như cũ, khơng có chỗ khuyết rỗng. Có loại lúa tẻ mọc tự nhiên<註 n="1557"/>167, khơng có vỏ trấu<註 n="1558"/>168, đủ các mùi vị. Bấy giờ có cây hương, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, trái tự nhiên nứt, tỏa ra mùi hương tự nhiên; hương thơm sực nức. Lại có cây vải, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra các loại vải khác nhau. Lại có cây trang sức, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra các đồ trang sức khác nhau. Lại có cây tràng hoa, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra các loại tràng hoa khác nhau. Lại có cây dụng cụ, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra các thứ dụng cụ khác nhau. Lại có cây nhạc cụ, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra các loại nhạc cụ khác nhau. “Khi Chuyển luân thánh vương cai trị ở đời, Long vương A-nậu-đạt<註 n="1559"/>169, vào lúc giữa đêm và cuối đêm, nổi lên đám mây lớn dày đặc, giăng bủa khắp cả thế giới, trút xuống cơn mưa lớn. Như trong khoảng thời gian vắt sữa bị; mưa xuống thứ nước có tám vị, thấm ướt khắp nơi. Đất khơng đọng nước, cũng khơng bùn sình<註 n="1560"/>170, thấm nhuần, đẫm ướt, sanh trưởng các loại cỏ cây. Cũng như thợ hớt tóc, rưới nước tràng hoa, khiến hoa tươi thắm, khơng để héo úa. Những cơn mưa phải thời thấm nhuần cũng như vậy. “Lại nữa, bấy giờ vào lúc giữa đêm và cuối đêm, bầu trời trong sáng, tịnh khơng chút mây, từ biển nổi cơn gió mát, trong sạch mát dịu, chạm đến thân thể khiến sanh khoan khối. “Khi Thánh vương cai trị, trong cõi Diêm-phù-đề này ngũ cốc dồi dào, nhân dân đơng đúc, tài bảo phong phú, khơng thiếu thốn thứ gì. “Đương thời, Chuyển luân thánh vương trị nước bằng Chánh pháp, khơng có dua vạy, tu mười hành vi thiện. Lúc bấy giờ, nhân dân cũng tu chánh kiến, đủ mười hành vi thiện. “Một thời gian lâu, rất lâu về sau, vua nhuốm bệnh nặng mà mạng chung. Cũng như một người do sung sướng mà ăn hơi nhiều, thân thể có hơi khơng thích hợp<註 n="1561"/>171, cho nên mạng chung, sanh lên cõi trời. Khi ấy, báu ngọc nữ, báu cư só, báu chủ binh, cùng nhân dân trong nước tấu các kỹ nhạc, làm lễ tẩn táng thân vua. Rồi báu ngọc nữ, báu cư só, báu chủ binh và só dân trong nước, tắm gội thân thể vua bằng nước thơm, quấn quanh bằng năm trăm tấm lụa kiếp-bối; theo thứ lớp mà quấn. Rồi khiêng thi thể vua đặt vào quan tài bằng vàng, rưới lên dầu thơm, bọc bên ngồi cỗ quách bằng sắt; rồi lại dùng một cỗ quách bằng gỗ bao ngồi bằng lớp vải. Chất các củi thơm, phủ lên nhiều lớp vải. Sau đó thì hỏa táng<註 n="1562"/>172. Ở ngã tư đường dựng tháp bảy báu<註 n="1563"/>173, dọc ngang một do-tuần, xen kẽ nhiều màu sắc được tạo thành bởi bảy báu. Ở bốn mặt tháp, mỗi mặt có một cửa, bao quanh bằng lan can được làm bằng bảy báu. Khoảng đất trống chung quanh bốn mặt tháp dọc ngang năm do-tuần. Có bảy lớp tường bao quanh vườn, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây. Tường bằng vàng, cửa bằng bạc; tường bằng bạc, cửa bằng vàng. Tường lưu ly, cửa thủy tinh; tường thủy tinh, cửa lưu ly. Tường xích châu, cửa mã não; tường mã não, cửa xích châu. Tường xa cừ, cửa bằng các loại báu. “Về lan can, thanh ngang bằng vàng, thanh đứng bằng bạc; thanh ngang bằng bạc, thanh đứng bằng vàng. Thanh ngang thủy tinh, thanh đứng lưu ly; thanh ngang lưu ly, thanh đứng thủy tinh. Thanh ngang xích châu, thanh đứng mã não; thanh ngang mã não, thanh đứng xích châu. Thanh ngang bằng xa cừ, thanh đứng bằng các thứ báu khác. “Dưới lớp lưới bằng vàng treo linh bằng bạc, dưới lưới bạc treo linh vàng. Dưới lưới lưu ly treo linh thủy tinh, dưới lưới thủy tinh treo linh lưu ly. Dưới lưới xích châu treo linh mã não, dưới lưới mã não treo linh xích châu. Dưới lưới xa cừ treo linh bằng các thứ báu khác. “Cây bằng vàng thì lá, hoa, trái bằng bạc. Cây bạc thì lá, hoa, trái vàng. Cây lưu ly, hoa lá thủy tinh; cây thủy tinh, hoa lá lưu ly. Cây xích châu, hoa lá mã não; cây mã não, hoa lá xích châu. Cây xa cừ, hoa lá bằng các thứ báu khác. “Bốn vách tường của vườn lại có bốn cửa, bao quanh bằêng lan can. Trên tường đều có lầu các, đài báu. Bốn mặt tường có các vườn cây, suối, hồ tắm, sinh nhiều loại hoa khác nhau; cây cối sầm uất, hoa trái xum xuê, các loại hương thơm sực nức. Nhiều giống chim lạ ca hót điệu buồn. Khi tháp được dựng xong, báu ngọc nữ, báu cư só, báu điển binh và só dân cả nước đều đến cúng dường tháp này. Họ bố thí cho những người nghèo khốn, cần ăn thì cho ăn; cần mặc thì cho mặc. Voi, ngựa, xe cộ, các thứ cần dùng đều được chu cấp, tùy ý mà cho. “Cơng đức oai thần của Chuyển luân thánh vương, sự tích là như vậy.” <章 id="485140900">Phẩm 4: ĐỊA NGỤC Phật bảo các Tỳ-kheo: “Bên ngồi của bốn châu thiên hạ này, có tám ngàn thiên hạ bao quanh. Lại có biển lớn bao quanh tám ngàn thiên hạ. Kế đó có núi Đại Kim cang<註 n="1564"/>174 bao bọc biển lớn. Bên ngồi núi Đại kim cang này lại có núi Đại kim cang thứ hai. Giữa hai núi này là một cảnh giới mờ mịt, tối tăm; mặt trời, mặt trăng, các vị thần, trời dù có uy lực cũng khơng thể dùng ánh sáng soi chiếu đến đó được. “Ở nơi này có tám địa ngục lớn<註 n="1565"/>175, mỗi địa ngục lớn có mười sáu địa ngục nhỏ. Địa ngục lớn thứ nhất gọi là Tưởng<註 n="1566"/>176. Thứ hai là địa ngục Hắc thằng<註 n="1567"/>177. Thứ ba là địa ngục Đơi áp<註 n="1568"/>178. Thứ tư là địa ngục Khiếu hốn<註 n="1569"/>179. Thứ năm là địa ngục Đại khiếu hốn<註 n="1570"/>180. Thứ sáu là địa ngục Thiêu chích<註 n="1571"/>181. Thứ bảy là địa ngục Đại thiêu chích<註 n="1572"/>182. Thứ tám là địa ngục Vơ gián<註 n="1573"/>183. “Trong địa ngục Tưởng có mười sáu ngục nhỏ<註 n="1574"/>184; mỗi địa ngục nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Ngục nhỏ thứ nhất là Hắc sa, hai là Phất thỉ, ba là Ngũ bách đinh, bốn là Cơ, năm là Khát, sáu là một Đồng phủ, bảy là Đa đồng phủ, tám là Thạch ma, chín là Nùng huyết, mười là Lượng hỏa, mười một là Hơi hà, mười hai là Thiết hồn, mười ba là Cân phủ, mười bốn là Sài lang, mười lăm là Kiếm thọ, mười sáu là Hàn băng. “Vì sao gọi là địa ngục Tưởng? Vì chúng sanh ở trong đó, trên tay của chúng mọc móng sắt; móng này vừa dài vừa bén. Chúng thù hận nhau, luơn có ý tưởng độc hại, dùng móng tay cào cấu lẫn nhau, chạm tay vào chỗ nào là chỗ đó thịt rớt xuống, tưởng là đã chết; có cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sinh ra trở lại, giây lát chúng sống lại, đứng dậy, tự mình có ý tưởng rằng: ‘Ta nay đã sống lại.’ Chúng sanh khác nói: ‘Ta có ý tưởng ngươi đang sống.’ Vì sự tưởng này cho nên gọi là địa ngục Tưởng<註 n="1575"/>185. “Lại nữa, chúng sanh ở trong địa ngục Tưởng này, lúc nào cũng nghó đến sự độc hại, phá hại lẫn nhau. Tay họ cầm một loại đao kiếm tự nhiên, vừa nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt, bằm nát thân thể rớt xuống đất và họ tưởng mình đã chết, nhưng bỗng một cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sanh ra lại, làm cho họ sống lại đứng dậy, tự nghó và nói: ‘Ta nay đã sống lại.’ Chúng sanh khác nói: ‘Ta cũng nghó là ngươi đã sống lại.’ Vì lý do đó nên gọi là địa ngục Tưởng. “Lại nữa, những chúng sanh ở trong địa ngục Tưởng đó, lúc nào cũng ơm trong lịng ý tưởng độc hại; chúng quấy phá lẫn nhau. Tay chúngï cầm một loại đao kiếm tự nhiên<註 n="1576"/>186, vừa nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt, thân thể rã rời dưới đất, tưởng là đã chết, nhưng một cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sanh ra lại, giây lát sống lại, đứng dậy, tự có ý tưởng rằng: ‘Ta nay đã sống lại.’ Chúng sanh khác nói: ‘Ta có ý tưởng ngươi đang sống.’ Vì lý do đó nên gọi là địa ngục Tưởng. “Lại nữa, địa ngục Tưởng là nơi mà những chúng sanh lúc nào cũng ơm lịng độc hại, quấy phá lẫn nhau. Tay chúngï cầm một loại đao kiếm, vừa nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt và tưởng là đã chết, nhưng bỗng một cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sanh ra lại, giây lát sống lại đứng dậy, tự có ý tưởng rằng: ‘Ta nay đã sống lại.’ Chúng sanh khác nói: ‘Ta có ý tưởng ngươi đang sống.’ Vì lý do đó nên gọi là địa ngục Tưởng. “Lại nữa, địa ngục Tưởng là nơi mà những chúng sanh lúc nào cũng ơm ý tưởng độc hại, quấy phá lẫn nhau. Tay chúngï cầm một loại dao bóng dầu<註 n="1577"/>187, vừa nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt, tưởng là đã chết, nhưng bỗng một cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sanh ra lại, giây lát sống lại, đứng dậy, tự có ý tưởng rằng: ‘Ta nay đã sống lại.’ Chúng sanh khác nói: ‘Ta có ý tưởng ngươi đang sống.’ Vì lý do đó nên gọi là địa ngục Tưởng. “Lại nữa, địa ngục Tưởng là nơi mà những chúng sanh lúc nào cũng ơm ý tưởng độc hại, quấy phá lẫn nhau. Tay chúngï cầm một loại dao nhỏ, vừa nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt, tưởng là đã chết, nhưng bỗng một cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sanh ra lại, giây lát sống lại, đứng dậy, tự mình có ý tưởng rằng: ‘Ta nay đã sống lại.’ Chúng sanh khác nói: ‘Ta có ý tưởng ngươi đang sống.’ Vì lý do đó nên gọi là địa ngục Tưởng. “Những chúng sanh ở trong đó, sau khi chịu khổ lâu, ra khỏi địa ngục Tưởng, hoảng hốt chạy càn để tự cứu mình. Nhưng vì tội quá khứ lơi kéo, nên bất ngờ lại đến địa ngục Hắc sa. Bấy giờ, có một cơn gió nóng dữ dội bốc lên, thổi cát đen nóng dính vào thân nó, khiến tồn thân đều đen, giống như đám mây đen. Cát nóng đốt da, hết thịt, vào tận xương. Sau đó, trong thân tội nhân có một ngọn lửa đen bộc phát, đốt cháy quanh thân rồi vào bên trong, chịu các khổ não, bị thiêu nướng, cháy nám. Vì nhân duyên tội, nên chịu khổ báo này. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ khá lâu ở trong đó, nó ra khỏi địa ngục Hắc sa, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình. Nhưng vì tội quá khứ lơi kéo, nên bất ngờ lại đến địa ngục Phất thỉ. Trong địa ngục này có những hịn sắt là phân sơi tự nhiên đầy dẫy trước mặt, đuổi bức tội nhân phải ơm hịn sắt nóng, đốt cháy thân và tay, đến đầu và mặt tội nhân; khơng đâu là khơng bị đốt cháy; lại khiến cho tội nhân bốc hịn sắt bỏ vào miệng, đốt cháy cả mơi, lưỡi, từ yết hầu đến bụng, từ trên đến dưới đều bị cháy tiêu hết. Có một lồi trùng mỏ sắt ăn da thịt, tận cả xương tủy, đau đớn nhức nhối, lo sợ vơ cùng. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu ở trong địa ngục Phất thỉ, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, khơng ngờ lại đến địa ngục Thiết đinh<註 n="1578"/>188. Sau khi đã vào đó, ngục tốt đánh tội nhân cho té xuống, nằm mọp trên sắt nóng, căng thẳng thân thể nó ra, dùng đinh đóng tay, đóng chân, đóng vào tim. Tồn thân bị đóng hết thảy năm trăm cái đinh. Nó đau đớn nhức nhối, kêu la rên xiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Thiết đinh, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, khơng ngờ lại đến địa ngục Cơ. Ngục tốt đến hỏi: ‘Các người đến đây muốn điều gì?’ Tội nhân đáp: ‘Tơi đói quá.’ Tức thì ngục tốt bắt tội nhân quăng lên bàn sắt nóng, căng thân thể ra, dùng móc câu cạy miệng cho mở ra, rồi lấy hịn sắt nóng bỏ vào trong miệng, đốt cháy mơi lưỡi, từ cổ cho đến bụng, chạy tuốt xuống dưới, khơng chỗ nào khơng đốt cháy, đau rát nhức nhối, khóc la rên xiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Cơ, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, khơng ngờ lại đến địa ngục Khát. Ngục tốt liền hỏi: ‘Các ngươi đến đây, muốn cầu điều gì?’ Tội nhân đáp: ‘Tơi khát quá.’ Ngục tốt liền bắt tội nhân quăng lên bàn sắt nóng, căng thân thể ra rồi dùng móc câu cạy miệng tội nhân ra, lấy nước đồng sơi rót vào trong miệng đốt cháy mơi, lưỡi, từ cổ cho đến bụng, suốt từ trên xuống dưới, khơng chỗ nào khơng đốt cháy, đau rát nhức nhối, khóc la rên xiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Khát, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, khơng ngờ lại đến địa ngục một Đồng phúc<註 n="1579"/>189. Ngục tốt trợn mắt giận dữ, nắm chân tội nhân ném vào trong vạc đồng, theo nước sơi sùng sục, trồi lên hụp xuống, từ đáy đến miệng, rồi từ miệng cho đến đáy, hoặc ở giữa vạc, cả thân thể bị nấu nhừ. Cũng như nấu đậu, hạt đậu tùy theo nước sơi, trào lên lộn xuống, các hạt đậu cả trong ngồi đều được nấu nhừ. Tội nhân trồi lên sụp xuống trong vạc dầu sơi cũng như vậy. Kêu gào bi thảm, hàng vạn độc hại cùng đến; nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục một Đồng phúc, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lơi kéo, bất ngờ lại rơi vào địa ngục Đa đồng phúc. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Ngục tốt trợn mắt giận dữ, nắm chân tội nhân ném vào trong vạc đồng, theo nước sơi sùng sục, trồi lên hụp xuống, từ đáy đến miệng, rồi từ miệng cho đến đáy, hoặc ở giữa vạc, cả thân thể bị nấu nhừ. Cũng như nấu đậu, hạt đậu tùy theo nước sơi, trào lên lộn xuống, các hạt đậu cả trong ngồi đều được nấu nhừ. Tội nhân trồi lên sụp xuống trong vạc dầu sơi cũng như vậy, tùy theo nước sơi mà trồi lên sụp xuống, từ miệng vạc cho đến đáy vạc, rồi từ đáy cho đến miệng, hoặc tay chân nổi lên, hoặc lưng bụng nổi lên, hoặc đầu mặt nổi lên. Ngục tốt dùng lưỡi câu móc để trong vạc đồng khác. Nó kêu khóc thảm thiết, đau đớn nhức nhối. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Đa đồng phúc, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lơi kéo, khơng ngờ lại rơi vào địa ngục Thạch ma. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Ngục tốt thịnh nộ, bắt tội nhân quăng lên tảng đá nóng, căng tay chân ra, dùng đá tảng nóng lớn đè trên thân tội nhân, mài tới mài lui làm cho xương nát vụn, máu mủ chảy ra, đau đớn nhức nhối, khóc la thảm thiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Thạch ma, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lơi kéo, khơng ngờ lại rơi vào địa ngục Nùng huyết. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Trong địa ngục này tự nhiên có máu mủ nóng sơi sục trào vọt. Tội nhân ở trong đó chạy Đơng, chạy Tây, bị máu mủ sơi nóng luộc chín tồn thân, đầu, mặt, tay, chân, tất cả đều nát nhừ. Tội nhân cịn phải ăn máu mủ nóng, miệng, mơi đều bị bỏng, từ cổ cho đến bụng, suốt trên xuống dưới khơng chỗ nào khơng nát nhừ, đau đớn nhức nhối, khơng thể chịu nổi. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Nùng huyết, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lơi kéo, khơng ngờ lại rơi vào địa ngục Lượng hỏa. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Trong địa ngục này có một đống lửa lớn, tự nhiên xuất hiện trước mặt, lửa cháy hừng hực. Ngục tốt hung dữ, bắt tội nhân tay cầm cái đấu bằng sắt, để đong đống lửa ấy. Khi họ đong lửa, thì lửa đốt cháy tay chân và cả tồn thân, họ đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Lượng hỏa, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lơi kéo, khơng ngờ lại rơi vào địa ngục Hơi hà. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần, sâu năm trăm do-tuần. Tro sơi sùng sục, độc khí xơng lên phừng phực, các dịng xốy vỗ nhau, âm vang thật đáng sợ, từ đáy lên bên trên có gai sắt dọc ngang với mũi nhọn dài tám tấc. Bên bờ sơng lại có một loại dao kiếm dài, có cả ngục tốt, sài lang. Hai bên bờ sơng mọc những đao kiếm dài, nhánh, lá, hoa, trái đều là đao kiếm, vừa nhọn vừa bén, cỡ tám tấc, đứng bên là những ngục tốt, sài lang. Trên bờ sơng có rừng mà cây là gươm với cành, lá, hoa, trái đều là đao kiếm, mũi nhọn tám tấc. Tội nhân vào trong sơng, tùy theo lượn sóng lên xuống, mà trồi lên hụp xuống. Tồn thân đều bị gai sắt đâm thủng từ trong ra ngồi, da thịt nát bét, máu mủ dầm dề, đau đớn muơn chiều, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Hơi hà, lên được trên bờ, nhưng ở trên bờ lại có nhiều gươm giáo sắc bén đâm thủng tồn thân, tay chân bị thương tổn. Bấy giờ quỷ sứ hỏi tội nhân: ‘Các ngươi đến đây muốn cầu điều chi? Tội nhân đáp: ‘Chúng tơi đói quá.’ Ngục tốt liền bắt tội nhân quăng lên sắt nóng, căng thân thể ra rồi dùng móc câu cạy miệng tội nhân ra, lấy nước đồng sơi rót vào, cháy bỏng mơi, lưỡi, từ cổ đến bụng, suốt trên xuống dưới, khơng chỗ nào khơng rục. Lại có lồi lang sói răng nanh vừa dài vừa bén đến cắn tội nhân, ăn thịt khi tội nhân đang sống. Rồi thì, tội nhân bị sơng tro đun nấu, bị gai nhọn đâm thủng, bị rót nước đồng sơi vào miệng và bị sài lang ăn thịt xong, thì lại leo lên rừng kiếm; khi leo lên rừng kiếm thì bị đao kiếm chỉa xuống; khi tuột xuống rừng kiếm thì bị đao kiếm chỉa lên, khi tay nắm thì cụt tay, chân dẫm lên thì cụt chân; mũi nhọn đâm thủng tồn thân từ trong ra ngồi, da thịt rơi xuống, máu mủ đầm đìa, chỉ cịn xương trắng, gân cốt liên kết với nhau. Bấy giờ, trên cây kiếm có một loại quạ mỏ sắt đến mổ nát đầu và xương để ăn não của tội nhân. Nó đau đớn nhức nhối kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được, lại bị trở lại địa ngục Hơi hà. Tội nhân này theo lượn sóng lên xuống, mà trồi lên sụp xuống, gươm giáo đâm thủng tồn thân trong ngồi, da thịt tan nát, máu mủ đầm đìa, chỉ cịn xương trắng trơi nổi bên ngồi. Bấy giờ, có một cơn gió lạnh thổi đến làm cho da thịt phục hồi, giây lát nó đứng dậy đi, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng vì tội quá khứ lơi kéo, tội nhân lại khơng ngờ sa vào địa ngục Thiết hồn. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào đây, thì tự nhiên có những hịn sắt nóng hiện ra trước mặt. Ngục quỷ cưỡng bức tội nhân nắm bắt, tay chân rã rời, tồn thân lửa đốt, đau đớn kêu la thảm, muơn vàn khổ độc dồn đến chết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân khơng chết được. “Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Thiết hồn, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Cân phủ. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào địa ngục này, ngục tốt hung dữ, bắt tội nhân để trên bàn sắt nóng, dùng búa rìu bằng sắt nóng chặt thân thể, tay, chân, cắt tai, xẻo mũi, làm cho đau đớn nhức nhối, kêu la thảm thiết; nhưng vì tội chưa hết, nên họ khơng chết được. “Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Cân phủ, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân khơng ngờ lại sa vào địa ngục Sài lang. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào địa ngục này, thì có bầy lang sói tranh nhau cắn xé tội nhân, làm cho da thịt nhầy nhụa, xương gãy, thịt rơi, máu chảy đầm đìa, làm đau đớn muơn vàn, kêu la thảm thiết; nhưng vì tội cũ chưa hết, nên họ khơng chết được. “Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Sài lang, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Kiếm thọ. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào địa ngục này, thì có một cơn gió mãnh liệt, thổi lá cây bằng gươm dao rớt trên thân thể tội nhân, hễ chạm vào tay thì cụt tay, dính vào chân thì cụt chân, thân thể, đầu mặt khơng đâu là khơng bị thương hoại. Có một loại quạ mỏ sắt, đứng trên đầu mổ đơi mắt tội nhân, làm cho đau đớn muơn vàn, kêu la thảm thiết; nhưng vì tội cũ chưa hết, nên khơng chết được. “Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Kiếm thọ, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hàn băng. Địa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào địa ngục này, thì có một cơn gió lạnh buốt, thổi đến làm cho thân thể bị lạnh cóng, máu huyết đơng đặc, da thịt nứt nẻ, rớt ra từng mảnh, làm họ đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Sau đó thì mạng chung.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Địa ngục lớn Hắc thằng có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh, mỗi địa ngục ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Hắc thằng? Vì ở đó các ngục tốt bắt tội nhân quăng lên bàn sắt nóng, căng thân hình ra rồi dùng sợi dây sắt kéo ra cho thẳng, rồi dùng búa bằng sắt nóng xẻ theo đường sợi dây, xẻ tội nhân kia thành trăm ngàn đoạn. Giống như thợ mộc dùng dây kẻ vào cây rồi dùng búa bén theo đường mực mà bổ ra thành trăm ngàn đoạn, thì cách hành hạ tội nhân ở đây cũng như vậy, đau đớn vơ cùng, khơng thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì thế nên gọi là địa ngục Hắc thằng. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Hắc thằng bắt tội nhân quăng lên bàn sắt nóng, căng thân hình ra, dùng dây sắt nóng kéo ra cho thẳng, dùng cưa để cưa tội nhân. Giống như người thợ mộc dùng dây mực kẻ trên thân cây, rồi dùng cưa để cưa cây, thì cách hành hạ tội nhân ở đây cũng như vậy, đau đớn vơ cùng, khơng thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì thế gọi là địa ngục Hắc thằng. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Hắc thằng bắt tội nhân quăng lên bàn sắt nóng, căng thân thể ra, dùng dây sắt nóng để trên thân tội nhân, làm cho da thịt bị thiêu đốt, tiêu xương chảy tủy đau đớn vơ cùng, khơng thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì thế gọi là địa ngục Hắc thằng. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Hắc thằng dùng vơ số dây sắt nóng treo ngang, rồi bắt tội nhân đi giữa những sợi dây này, lúc đó lại có cơn gió lốc nổi lên, thổi những sợi dây sắt nóng quấn vào thân, đốt cháy da thịt, tiêu xương chảy tủy đau đớn vơ cùng, khơng thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì thế gọi là địa ngục Hắc thằng. “Lại nữa, ngục tốt ở trong địa ngục Hắc thằng buộc tội nhân mặc áo bằng dây sắt nóng, đốt cháy da thịt, tiêu xương chảy tủy đau đớn vơ cùng, khơng thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì thế gọi là địa ngục Hắc thằng. “Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Hắc thằng, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa… cho đến địa ngục Hàn băng. Sau đó thì tội nhân mạng chung.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Địa ngục lớn Đơi áp có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh; mỗi ngục nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Đơi áp? Vì trong ngục đó có núi đá lớn, từng cặp đối nhau. Khi tội nhân vào giữa thì hai hịn núi tự nhiên khép lại, ép thân thể tội nhân, xương thịt nát vụn, xong rồi trở lại vị trí cũ, giống như hai thanh củi cọ vào nhau, khi cọ xong dang ra, thì cách trị tội nhân của địa ngục này cũng như vậy, đau đớn vơ cùng, khơng thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đơi áp. “Lại nữa, ở địa ngục Đơi áp, có voi sắt lớn, tồn thân bốc lửa, vừa kêu rống, vừa chạy đến dày xéo thân thể tội nhân, dẫm đi dẫm lại, làm cho thân thể bị nghiền nát, máu mủ tuơn chảy, đau đớn muơn vàn, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đơi áp. “Lại nữa, các ngục tốt ở địa ngục Đơi áp, bắt tội nhân đặt lên bàn đá mài, rồi lấy đá mài mà mài, làm cho xương thịt vụn nát, máu mủ chảy dầm dề, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đơi áp. “Lại nữa, các ngục tốt ở địa ngục Đơi áp, bắt tội nhân nằm trên tảng đá lớn, rồi lấy một tảng đá khác đè lên, làm cho xương thịt vụn nát, máu mủ chảy đầm đìa, đau đớn nhức nhối, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đơi áp. “Lại nữa, các ngục tốt ở địa ngục Đơi áp, bắt tội nhân nằm trong các cối sắt, rồi dùng chày sắt để giã tội nhân, từ đầu đến chân, làm cho xương thịt vụn nát, máu mủ chảy đầm đìa, đau đớn nhức nhối, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đơi áp. “Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Đơi áp, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa… cho đến địa ngục Hàn băng, rồi sau đó thì tội nhân mạng chung.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Địa ngục lớn Khiếu hốn có mười sáu địa ngục nhỏ bao quanh; mỗi ngục nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Khiếu hốn? Vì các ngục tốt trong ngục này bắt tội nhân bỏ vào trong vạc lớn, với nước nóng sơi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng kêu la gào thét, đau đớn nhức nhối, muơn vàn độc hại. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Khiếu hốn. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Khiếu hốn bắt tội nhân bỏ vào trong vị sắt lớn, dùng nước nóng sơi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúngï đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Khiếu hốn. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Khiếu hốn bắt tội nhân bỏ vào trong nồi sắt lớn, dùng nước nóng sơi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến họ đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì thế nên gọi là địa ngục Khiếu hốn. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Khiếu hốn bắt tội nhân ném vào trong nồi nhỏ, dùng nước nóng sơi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Khiếu hốn. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Khiếu hốn bắt tội nhân bỏ lên trên cái nồi hầm, hầm đi hầm lại, khiến cho kêu gào, la thét, đau đớn vơ cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Khiếu hốn. “Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân khơng ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa… cho đến địa ngục Hàn băng và sau đó thì tội nhân mạng chung.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Địa ngục Đại khiếu hốn lớn có mười sáu địa ngục nhỏ bao quanh; mỗi ngục nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Đại khiếu hốn? Vì các ngục tốt trong ngục này bắt tội nhân bỏ vào trong nồi sắt lớn, dùng nước nóng sơi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng kêu la gào thét, khóc lóc thảm thiết, đau đớn vơ cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại khiếu hốn. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Đại khiếu hốn bắt tội nhân bỏ vào trong vị sắt lớn, dùng nước sơi sùng sục, nấu nhừ tội nhân, khiến họ đau đớn vơ cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại khiếu hốn. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Đại khiếu hốn bắt tội nhân bỏ vào trong vạc sắt, dùng nước sơi sùng sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng đau đớn vơ cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại khiếu hốn. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Đại khiếu hốn bắt tội nhân bỏ vào trong nồi nhỏ, dùng nước sơi sùng sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng đau đớn vơ cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại khiếu hốn. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Đại khiếu hốn, bắt tội nhân ném lên trên chảo lớn, rồi trở qua trở lại tội nhân, khiến kêu la gào thét, kêu la lớn, đau đớn vơ cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại khiếu hốn. “Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa… cho đến địa ngục Hàn băng, rồi sau đó thì tội nhân mạng chung.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Địa ngục lớn Thiêu chích, có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh. Vì sao gọi là địa ngục lớn Thiêu chích? Vì các ngục tốt trong địa ngục đó bắt tội nhân vào trong thành sắt. Thành này bốc cháy, cả trong lẫn ngồi đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy gọi là địa ngục Thiêu chích. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong nhà sắt, rồi cho nhà này bốc cháy, trong ngồi đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Thiêu chích. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trên lầu sắt, rồi cho lầu bốc cháy, trong ngồi đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Thiêu chích. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong lị gốm sắt lớn, rồi cho lị này cháy, trong ngồi đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Thiêu chích. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong nồi hầm lớn, rồi cho nồi này bốc cháy, trong ngồi đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Thiêu chích. “Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa… cho đến địa ngục Hàn băng và sau đó thì tội nhân mạng chung.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Địa ngục Đại thiêu chích có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh; mỗi ngục nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Đại thiêu chích? Vì các ngục tốt trong địa ngục này, bắt tội nhân vào trong thành sắt, rồi cho thành này bốc cháy, cả trong lẫn ngồi đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại thiêu chích. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong nhà sắt, rồi cho nhà này bốc cháy, trong ngồi đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, khiến họ đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại thiêu chích. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trên lầu sắt, rồi cho lầu bốc cháy, trong ngồi đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại thiêu chích. “Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong lị gốm sắt lớn, rồi cho lị này bốc cháy, trong ngồi đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại thiêu chích. “Lại nữa, ở địa ngục này, thiêu nướng nhiều lần, tự nhiên có hầm lửa lớn, lửa cháy phừng phừng, hai bên bờ hầm có núi lửa lớn. Các ngục tốt ở đây bắt tội nhân ghim vào trên chóa sắt, rồi dựng đứng trong lửa đỏ, làm cho thân thể bị thiêu nướng, thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Đại thiêu chích. “Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa… cho đến địa ngục Hàn băng và sau đó thì tội nhân mạng chung.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Địa ngục lớn Vơ gián, có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh, mỗi địa ngục ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục lớn Vơ gián? Vì các ngục tốt trong địa ngục này, bắt tội nhân lột da từ đầu đến chân, rồi dùng da ấy cột thân tội nhân vào bánh xe lửa, rồi cho xe lửa chạy đi chạy lại trên nền sắt nóng, làm cho thân thể nát tan, da thịt rời ra từng mảnh, khiến đau đớn vơ cùng kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vơ gián. “Lại nữa, ở địa ngục này, có thành sắt lớn<註 n="1580"/>190, bốn mặt thành lửa cháy dữ dội, ngọn lửa từ Đơng lan sang Tây, ngọn lửa từ Tây lan sang Đơng, ngọn lửa từ Nam lan đến Bắc, ngọn lửa từ Bắc lan đến Nam, ngọn lửa từ trên lan xuống dưới, ngọn lửa từ dưới lan lên trên, lửa cháy vịng quanh, khơng có một chỗ nào trống. Tội nhân ở trong đây cứ chạy Đơng chạy Tây, tồn thân bị thiêu nướng, da thịt cháy nám, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vơ gián. “Lại nữa, ở địa ngục Vơ gián này có thành bằng sắt, lửa cháy hừng hực, tội nhân bị lửa đốt thân, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vơ gián. “Lại nữa, tội nhân ở địa ngục Vơ gián này, sau thời gian chịu khổ lâu, thì cửa mở và tội nhân liền chạy về hướng cửa mở, trong khi chạy thì các bộ phận của thân đều bốc lửa, cũng như chàng lực só tay cầm bó đuốc lớn bằng cỏ, chạy ngược gió, lửa ấy cháy phừng phực, thì khi tội nhân chạy lửa cũng bộc phát như vậy. Khi chạy đến gần cửa, thì tự nhiên cửa khép lại. Tội nhân bị càng, nằm phục trên nền sắt nóng, tồn thân bị thiêu nướng, da thịt tiêu tan, đau đớn vơ cùng, như muơn thứ độc cùng kéo đến một lúc. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân khơng thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vơ gián. “Lại nữa, tội nhân ở địa ngục Vơ gián này, những gì mà mắt thấy, chỉ thấy tồn là màu ác; những gì tai nghe, tồn là âm thanh ác; những gì mũi ngửi, tồn là mùi thối ác; những gì thân xúc chạm, tồn là những sự đau đớn; những gì ý nhớ, chỉ nghó điều ác. Lại nữa, tội nhân ở nơi đây, trong khoảnh khắc búng tay, khơng có một giây phút nào là khơng khổ. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vơ gián. “Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lơi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa… cho đến địa ngục Hàn băng lạnh và sau đó thì tội nhân mạng chung.” Bấy giờ Đức Thế Tơn liền nói bài kệ: Thân làm nghiệp bất thiện, Miệng, ý cũng bất thiẹân, Đều vào địa ngục Tưởng, Sợ hãi, lơng dựng đứng. Ý ác đối cha mẹ, Phật và hàng Thanh văn, Thì vào ngục Hắc thằng, Khổ đau khơng thể tả. Chỉ tạo ba nghiệp ác, Khơng tu ba hạnh lành, Thì vào ngục Đơi áp, Khổ đau nào tả được. Ơm lịng sân độc hại, Sát sanh máu nhơ tay, Tạo linh tinh hạnh ác, Vào địa ngục Khiếu hốn. Thường tạo những tà kiến, Bị lưới ái phủ kín; Tạo hạnh thấp hèn này, Vào ngục Đại khiếu hốn. Thường làm việc thiêu nướng, Thiêu nướng các chúng sanh; Sẽ vào ngục Thiêu chích, Bị thiêu nướng luơn luơn. Từ bỏ nghiệp thiện quả, Quả thiện, đạo thanh tịnh; Làm các hạnh tệ ác, Vào ngục Đại thiêu chích. Tạo tác tội cực nặng, Tất sinh nghiệp đường ác; Vào địa ngục Vơ gián, Chịu tội khơng thể tả. Ngục Tưởng và Hắc thằng, Đơi áp, hai Khiếu hốn; Thiêu chích, Đại thiêu chích, Vơ gián là thứ tám. Tám địa ngục lớn này, Hồn tồn rực màu lửa; Tai họa do ác xưa, Có mười sáu ngục nhỏ. Phật bảo Tỳ-kheo: “Giữa hai ngọn núi Đại kim cương kia có cơn gió lớn trỗi lên, tên là Tăng-khư<註 n="1581"/>191. Nếu như ngọn gió này thổi đến bốn châu thiên hạ và tám mươi ngàn thiên hạ khác, thì gió sẽ thổi đại địa này và các danh sơn cùng chúa Tu-di bay khỏi mặt đất từ mười dặm cho đến trăm dặm, tung lên bay liệng giữa trời; tất cả thảy đều vỡ vụn. Giống như tráng só tay nắm một nắm trấu nhẹ tung lên giữa hư khơng. Dưới ngọn gió lớn kia, giả sử thổi vào thiên hạ này, cũng giống như vậy. Vì có hai ngọn núi Đại kim cương ngăn chận ngọn gió ấy, nên gió khơng đến được. Này Tỳ-kheo, nên biết, hai ngọn núi Đại kim cương này có rất nhiều lợi ích và cũng do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm nên. “Lại nữa, gió ở khoảng giữa hai núi này nóng hừng hực; nếu như gió này thổi đến bốn châu thiên hạ, thì những chúng sanh trong đó và những núi non, biển cả, sơng ngịi, cây cối, rừng rậm đều sẽ bị cháy khơ. Cũng như giữa cơn nắng mùa hè, cắt một nắm cỏ non để ngay dưới mặt trời, cỏ liền khơ héo, thì ngọn gió kia cũng như vậy; nếu ngọn gió đó thổi đến thế giới này, thì sức nóng đó sẽ tiêu rụi tất cả. Vì có hai ngọn núi Kim cương này ngăn chận được ngọn gió đó, nên khơng thể đến đây được. Các Tỳ-kheo, nên biết, ngọn núi Kim cương này có rất nhiều lợi ích và cũng do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm nên vậy. “Lại nữa, gió giữa hai núi này hơi thối, bất tịnh, tanh tưởi nồng nặc; nếu như ngọn gió này thổi đến bốn châu thiên hạ này, thì sẽ xơng lên làm cho chúng sanh bị mù lịa. Nhưng vì có hai núi Đại kim cương này ngăn chận nên ngọn gió ấy khơng thể đến được. Tỳ-kheo, nên biết, núi Kim cương này có rất nhiều lợi ích và cũng do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm nên vậy. “Lại nữa, giữa hai núi này lại có mười địa ngục<註 n="1582"/>192: một là Hậu vân, hai là Vơ vân, ba là Ha ha, bốn là Nại hà, năm là Dương minh, sáu là Tu-càn-đề, bảy là Ưu-bát-la, tám là Câu-vật-đầu, chín là Phân-đà-lî, mười là Bát-đầu-ma. Vì sao gọi là địa ngục Hậu vân<註 n="1583"/>193? Vì tội nhân trong ngục này tự nhiên sinh ra thân thể như đám mây dày, cho nên gọi là Hậu vân. Vì sao gọi là Vơ vân? Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, tự nhiên thân thể sinh ra như một cục thịt nên gọi là Vơ vân<註 n="1584"/>194. Vì sao gọi là Ha ha? Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, thường thì thân thể đau đớn, rồi rên la ‘ối ối!’, nên gọi là Ha ha. Vì sao gọi là Nại hà? Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, thường thân thể đau khổ vơ cùng, khơng có nơi nương tựa, nên thốt lên ‘Sao bây giờø!’, nên gọi là Nại hà! Vì sao gọi là Dương minh? Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, thường thân thể, đau đớn vơ cùng, muốn thốt lên lời nhưng lưỡi khơng cử động được, chỉ giống như dê kêu, nên gọi là Dương minh. Vì sao gọi là Tu-càn-đề<註 n="1585"/>195? Vì trong ngục này chỉ tồn là màu đen, cũng như màu hoa Tu-càn-đề, nên gọi là Tu-càn-đề. Vì sao gọi là Ưu-bát-la? Vì trong ngục này chỉ tồn là màu xanh, như màu hoa Ưu-bát-la, nên gọi là Ưu-bát-la. Vì sao gọi là Câu-vật-đầu? Vì trong ngục này tồn là màu hồng, như màu hoa Câu-vật-đầu, nên gọi là Câu-vật-đầu. Vì sao gọi là Phân-đà-lî? Vì trong ngục này tồn là màu trắng, như màu hoa Phân-đà-lî, nên gọi là Phân-đà-lî. Vì sao gọi là Bát-đầu-ma? Vì trong ngục này tồn là màu đỏ, cũng như màu hoa Bát-đầu-ma, nên gọi là Bát-đầu-ma.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Thí dụ<註 n="1586"/>196 như có một cái thùng có sáu mươi bốn hộc, mỗi hộc đựng đầy hạt mè và có một người cứ một trăm năm lấy đi một hột, như vậy cho đến hết. Thời gian này vẫn chưa bằng thời gian chịu tội trong địa ngục Hậu vân. Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Hậu vân bằng một tuổi ở địa ngục Vơ vân; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Vơ vân bằng chúng sanh một tuổi ở địa ngục Ha ha; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Ha ha, bằng chúng sanh một tuổi ở địa ngục Nại hà; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Nại hà, bằng chúng sanh một tuổi ở địa ngục Dương minh; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Dương minh bằng một tuổi ở ngục Tu-càn-đề; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Tu-càn-đề, bằng một tuổi ở địa ngục Ưu-bát-la; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Ưu-bát-la, bằng một tuổi ở địa ngục Câu-vật-đầu; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Câu-vật-đầu, bằng một tuổi ở địa ngục Phân-đà-lî; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Phân-đà-lî, bằng mợt tuổi ở địa ngục Bát-đầu-ma; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Bát-đầu-ma, thì gọi là một trung kiếp; hai mươi trung kiếp thì gọi là một đại kiếp. “Trong địa ngục Bát-đầu-ma lửa cháy hừng hực, dù tội nhân cịn cách ngọn lửa khoảng trăm do-tuần cũng đã bị lửa thiêu nướng; nếu cách tội nhân sáu mươi do-tuần, thì hai tai bị điếc, khơng cịn nghe gì cả; nếu cách năm mươi do-tuần, thì đơi mắt bị mù lịa, khơng cịn thấy gì cả. Tỳ-kheo Cù-ba-lê<註 n="1587"/>197 dùng tâm độc ác, hủy báng Tơn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, nên sau khi mạng chung phải đọa vào địa ngục Bát-đầu-ma này.” Bấy giờ, vị Phạm vương<註 n="1588"/>198 liền nói bài kệ: Phàm con người ở đời, Búa rìu từ cửa miệng; Sở dó giết chết mình, Là do lời nói độc. Người đáng chê thì khen, Người đáng khen thì chê; Miệng làm theo nghiệp ác. Thân phải chịu tội ấy. Mánh lới cướp của cải, Tội ấy cũng cịn nhẹ; Nếu hủy báng Thánh hiền, Thì tội ấy rất nặng. Vơ vân, tuổi trăm ngàn, Hậu vân, tuổi bốn mốt; Hủy Thánh mắc tội này, Do tâm, miệng làm ác. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Vị Phạm thiên đã nói bài kệ như vậy, đó là lời nói chân chánh, được Đức Phật ấn khả. Vì sao? Vì nay Ta là Đấng Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, cũng nói ý nghóa như vậy: Phàm con người ở đời, Búa rìu từ cửa miệng; Sở dó giết chết mình, Là do lời nói độc. Người đáng chê thì khen, Người đáng khen thì chê; Miệng làm theo nghiệp ác. Thân phải chịu tội ấy. Mánh lới cướp của cải, Tội ấy cũng cịn nhẹ; Nếu hủy báng Thánh hiền, Thì tội ấy rất nặng. Vơ vân, tuổi trăm ngàn, Hậu vân, tuổi bốn mốt; Hủy Thánh mắc tội này, Do tâm, miệng làm ác”. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Về phía Nam cõi Diêm-phù-đề, trong núi Đại kim cương có cung điện của vua Diêm-la, chỗ vua cai trị ngang dọc sáu ngàn do-tuần. Thành này có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây và vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Tại chỗ vua Diêm-la cai trị, ngày đêm ba thời đều có vạc đồng lớn, tự nhiên xuất hiện trước mặt. Nếu vạc đồng đã xuất hiện ở trong cung thì nhà vua cảm thấy sợ hãi, liền bỏ ra ngồi cung; nếu vạc đồng xuất hiện ngồi cung thì vua cảm thấy sợ hãi, liền bỏ vào trong cung. Có ngục tốt to lớn bắt vua Diêm-la nằm trên bàn sắt nóng, dùng móc sắt cạy miệng cho mở ra rồi rót nước đồng sơi vào, làm cháy bỏng mơi, lưỡi từ cổ đến bụng, thơng suốt xuống dưới, khơng chỗ nào khơng chín nhừ. Sau khi chịu tội xong, nhà vua cùng thể nữ vui đùa. Các vị đại thần ở đây lại cũng cùng hưởng phúc báo như vậy.” Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Có ba vị sứ giả. Những gì là ba? Một là già, hai là bệnh, ba là chết. Nếu có chúng sanh nào thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghó điều ác, thì sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục. Lúc này, ngục tốt dẫn tội nhân đến chỗ vua Diêm-la. Đến nơi rồi, thưa rằng: ‘Đây là người Thiên sứ cho địi. Vậy xin Đại vương hỏi cung hắn.’ Vua Diêm-la hỏi người bị tội: ‘Ngươi khơng thấy sứ giả thứ nhất sao?’ Người bị tội đáp: ‘Tơi khơng thấy.’ Vua Diêm-la nói tiếp: ‘Khi nhà ngươi cịn ở trong lồi người, có thấy người nào già nua, đầu bạc, răng rụng, mắt lờ, da thịt nhăn nheo, lưng cịm chống gậy, rên rỉ mà đi, hay thân thể run rẩy, vì khí lực hao mịn; ngươi có thấy người này khơng?’ Người bị tội đáp: ‘Có thấy.’ Vua Diêm-la nói tiếp: ‘Tại sao ngươi khơng tự nghó rằng mình cũng sẽ như vậy?’ Người kia đáp: ‘Vì lúc đó tơi buơng lung, khơng tự hay biết được.’ Vua Diêm-la nói: ‘Ngươi buơng lung khơng tu tập thân, miệng và ý, bỏ ác mà làm lành. Nay Ta sẽ cho ngươi biết cái khổ của sự buơng lung.’ Vua lại nói tiếp: ‘Nay ngươi phải chịu tội, khơng phải là lỗi của cha mẹ, khơng phải là lỗi của anh em, cũng khơng phải là lỗi của Thiên đế, cũng khơng phải là lỗi của tổ tiên, cũng khơng phải là lỗi của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả; cũng khơng phải là lỗi của Sa-mơn, Bà-la-mơn. Chính ngươi làm ác, nên chính ngươi phải chịu tội’. “Bấy giờ, vua Diêm-la cho hỏi tội nhân về vị Thiên sứ thứ nhất xong, lại hỏi về Thiên sứ thứ hai: ‘Thế nào, nhà ngươi có thấy vị Thiên sứ thứ hai khơng?’ Đáp rằng: ‘Khơng thấy.’ Vua lại hỏi: ‘Khi nhà ngươi cịn ở trong lồi người, ngươi có thấy kẻ bị bệnh tật, khốn đốn, nằm lăn lóc trên giường, thân thể lăn lộn trên phẩn dãi hơi thối, khơng thể đứng dậy được; cần phải có người đút cơm cho; đau nhức từng lóng xương, nước mắt chảy, rên rỉ, khơng thể nói năng được; ngươi có thấy người như thế chăng?’ Tội nhân đáp: ‘Có thấy.’ Vua Diêm-la nói tiếp: ‘Tại sao nhà ngươi khơng tự nghó: rồi đây ta cũng sẽ bị tai hoạn như vậy?’ Tội nhân đáp: ‘Vì khi ấy buơng lung tơi khơng tự hay biết được.’ Vua Diêm-la nói tiếp: ‘Vì chính ngươi buơng lung, nên khơng thể tu tập thân, miệng và ý, khơng bỏ việc ác mà làm điều lành. Nay ta sẽ cho ngươi biết thế nào là cái khổ của sự buơng lung.’ Vua lại nói: ‘Nay ngươi phải chịu tội, khơng phải là lỗi của cha mẹ, khơng phải là lỗi của anh em, cũng khơng phải là lỗi của Thiên đế, cũng khơng phải là lỗi của tổ tiên, cũng khơng phải là lỗi của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả, cũng khơng phải là lỗi của Sa-mơn, Bà-la-mơn. Chính ngươi làm ác, nên chính ngươi phải chịu tội.’ “Khi vua Diêm-la hỏi người bị tội về Thiên sứ thứ hai xong, bấy giờ lại hỏi về Thiên sứ thứ ba: ‘Thế nào, nhà ngươi khơng thấy vị Thiên sứ thứ ba chứ?’ Đáp: ‘Khơng thấy.’ Vua Diêm-la hỏi tiếp: ‘Khi cịn làm người, ngươi có thấy người chết, thân hư hoại, mạng chung, các giác quan đều bị diệt hẳn, thân thể ngay đơ cũng như cây khơ, vứt bỏ ngồi gị mả để cho cầm thú ăn thịt, hoặc để trong quan tài, hoặc dùng lửa thiêu đốt chăng?’ Tội nhân đáp: ‘Có thấy.’ Vua Diêm-la nói tiếp: ‘Tại sao nhà ngươi khơng tự nghó: rồi đây ta cũng sẽ bị chết như người đó khơng khác gì?’ Người bị tội đáp: ‘Vì khi ấy buơng lung tơi khơng tự hay biết được.’ Vua Diêm-la nói tiếp: ‘Vì chính ngươi buơng lung, nên khơng thể tu tập thân, miệng và ý, khơng cải đổi việc ác mà thực hành điều thiện. Nay ta sẽ cho ngươi biết thế nào là cái khổ của sự buơng lung.’ Vua lại nói: ‘Nay ngươi phải chịu tội, khơng phải là lỗi của cha mẹ, khơng phải là lỗi của anh em, cũng khơng phải là lỗi của Thiên đế, cũng khơng phải là lỗi của tổ tiên, cũng khơng phải là lỗi của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả, cũng khơng phải là lỗi của Sa-mơn, Bà-la-mơn. Chính ngươi làm ác, nên chính ngươi phải chịu tội.’ Bấy giờ, vua Diêm-la hỏi về Thiên sứ thứ ba xong, bèn giao lại cho ngục tốt. Khi đó ngục tốt liền dẫn đến địa ngục lớn. Địa ngục lớn này ngang dọc một trăm do-tuần, sâu một trăm do-tuần.” Bấy giờ Đức Thế Tơn liền nói bài kệ: Bốn hướng có bốn cửa, Ngõ ngách đều như nhau; Dùng sắt làm tường ngục, Trên che võng lưới sắt; Dùng sắt làm nền ngục, Tự nhiên lửa bốc cháy; Ngang dọc trăm do-tuần, Đứng yên khơng lay động. Lửa đen phừng phực cháy, Dữ dội khó mà nhìn; Có mười sáu ngục nhỏ, Lửa cháy do ác hạnh. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Khi ấy vua Diêm-la tự nghó: ‘Chúng sanh ở thế gian, vì mê lầm khơng ý thức, nên thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghó điều ác. Do đó sau khi lâm chung, ít có ai khơng chịu khổ này. Nếu như những chúng sanh ở thế gian, sửa đổi điều ác, sửa thân, miệng, ý để thực hành theo điều lành, thì sau khi lâm chung sẽ được an vui như hàng chư Thiên vậy. Sau khi ta lâm chung được sinh vào trong cõi người, nếu gặp được Đức Như Lai, thì sẽ ở trong Chánh pháp, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, đem lịng tin trong sạch để tu hành Phạm hạnh thanh tịnh. Những điều cần làm đã làm xong, đã đoạn trừ sanh tử, tự mình tác chứng ngay trong hiện tại, khơng cịn tái sinh’.” Bấy giờ, Đức Thế Tơn đọc bài kệ: Tuy là thấy Thiên sứ, Nhưng vẫn cịn buơng lung; Người ấy thường âu lo, Sanh vào nơi ti tiện. Nếu người có trí tuệ, Khi gặp thấy Thiên sứ, Gần gũi pháp Hiền thánh, Mà khơng cịn buơng lung. Thấy thụ sinh mà sợ, Do sanh, già, bệnh, chết. Khơng thụ sinh, giải thốt, Hết sanh, già, bệnh, chết. Người đó được an ổn. Hiện tại chứng vơ vi, Đã vượt qua lo sợ, Chắc chắn nhập Niết-bàn. <章 id="485140907">Phẩm 5: LONG ĐIỂU Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Có bốn loại rồng<註 n="1589"/>199. Những gì là bốn? Một, sanh ra từ trứng; hai, sanh ra từ bào thai; ba, sanh ra từ nơi ẩm thấp; bốn, sanh ra từ hóa sinh. Đó là bốn loại rồng. “Có bốn loại Kim sí điểu<註 n="1590"/>200. Những gì là bốn? Một, sinh ra từ trứng; hai, sinh ra từ bào thai; ba, sinh ra từ nơi ẩm thấp; bốn, sinh ra từ hóa sinh. Đó là bốn loại Kim sí điểu. “Ở dưới đáy nước đại dương có cung điện của vua rồng Ta-kiệt<註 n="1591"/>201, ngang dọc là tám vạn do-tuần. Tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hồng bằng bảy thứ báu, … cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, lại cũng như vậy. “Giữa hai ngọn núi chúa Tu-di cùng núi Khư-đà-la<註 n="1592"/>202 có hai cung điện của vua rồng Nan-đà và Bạt-nan-đà<註 n="1593"/>203. Mỗi cung điện ngang dọc sáu mươi do-tuần. Tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hồng bằng bảy thứ báu… cho đến, vơ số các lồi chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy. “Phía Bắc bờ đại dương có một cây lớn tên là Cứu-la-thiểm-ma-la<註 n="1594"/>204. Loại cây này cả vua rồng và Kim sí điểu cũng có, gốc cây to bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, tàn cây phủ chung quanh năm mươi do-tuần. Phía Đơng của cây lớn này có cung điện của lồi vua rồng sinh ra từ trứng và cung điện của lồi Kim sí điểu sinh ra từ trứng. Mỗi cung điện ngang dọc là sáu ngàn do-tuần, tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hồng bằng bảy thứ báu, … cho đến, vơ số các lồi chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy. “Phía Nam của cây lớn này có cung điện của lồi vua rồng sinh ra từ thai và cung điện của lồi Kim sí điểu sinh ra từ thai. Mỗi cung điện ngang dọc là sáu ngàn do-tuần; tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hồng bằng bảy thứ báu, … cho đến, vơ số các lồi chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy. “Phía Tây của cây lớn này có cung điện của lồi vua rồng sinh ra từ nơi ẩm thấp và cung điện của lồi Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp. Mỗi cung điện ngang dọc sáu ngàn do-tuần; tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hồng bằng bảy thứ báu, … cho đến, vơ số các lồi chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy. “Phía Bắc của cây lớn này có cung điện của lồi vua rồng sinh ra từ hóa sinh và cung điện của lồi Kim sí điểu sinh ra từ hóa sinh. Mỗi cung điện ngang dọc là sáu ngàn do-tuần; tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hồng bằng bảy thứ báu, … cho đến, vơ số các lồi chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy. “Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ trứng, nếu muốn bắt lồi rồng để ăn, thì từ nhánh phía Đơng của cây Cứu-la-thiểm-ma-la bay xuống, dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai trăm do-tuần, mới bắt lồi rồng cũng sinh ra từ trứng để ăn một cách tùy ý tự tại. Nhưng khơng thể bắt lồi rồng được sinh ra từ thai, từ nơi ẩm thấp, từ hóa sinh được. “Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ thai, nếu muốn bắt lồi rồng sinh ra từ trứng để ăn, thì từ nhánh phía Đơng cây này bay xuống, dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai trăm do-tuần, mới bắt lồi rồng sinh ra từ trứng để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ thai muốn ăn lồi rồng sinh ra từ thai, thì từ nhánh phía Nam của cây này bay xuống và dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm do-tuần, mới bắt lồi rồng cũng sinh ra từ thai để ăn một cách tùy ý tự tại. Nhưng khơng thể bắt lồi rồng sinh ra từ ẩm thấp, từ hóa sinh được. “Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp, nếu muốn bắt lồi rồng sinh ra từ trứng để ăn, thì từ nhánh phía Đơng bay xuống, dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai trăm do-tuần, mới bắt lồi rồng sinh ra từ trứng để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp, nếu muốn bắt lồi rồng sinh ra từ thai để ăn, thì từ nhánh phía Nam cây này bay xuống, dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm do-tuần, thì bắt lồi rồng sinh ra từ thai để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp muốn ăn lồi rồng sinh ra từ nơi ẩm thấp, thì từ nhánh phía Tây của cây này bay xuống và dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng tám trăm do-tuần, thì bắt lồi rồng cũng sinh ra từ nơi ẩm thấp để ăn một cách tùy ý tự tại. Nhưng khơng thể bắt lồi rồng sinh ra từ hóa sinh được. “Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ biến hóa, nếu muốn bắt lồi rồng sinh ra từ trứng để ăn, thì từ nhánh phía Đơng bay xuống, dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai trăm do-tuần, thì bắt lồi rồng sinh ra từ trứng để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ biến hóa, nếu muốn bắt lồi rồng sinh ra từ thai để ăn, thì từ nhánh phía Nam cây này bay xuống, dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm do-tuần, thì bắt lồi rồng sinh ra từ thai để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào lồi Kim sí điểu sinh ra từ biến hóa muốn ăn lồi rồng sinh ra từ nơi ẩm thấp, thì từ nhánh phía Tây của cây này bay xuống và dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng tám trăm do-tuần, thì bắt lồi rồng sinh ra từ nơi ẩm thấp để ăn. Khi nào Kim sí điểu sinh ra từ biến hóa, nếu muốn ăn lồi rồng sinh ra từ biến hóa, thì từ nhánh phía Bắc cây này bay xuống, dùng đơi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng một ngàn sáu trăm do-tuần, thì bắt lồi rồng sanh ra từ biến hóa để ăn một cách tùy ý tự tại. Đó là lồi rồng bị lồi Kim sí điểu ăn thịt. “Tuy nhiên có những loại rồng lớn mà lồi Kim sí điểu khơng thể ăn thịt được. Đó là<註 n="1595"/>205: Vua rồng Ta-kiệt-la, Nan-đà, Bạt-nan-đà, Y-na-bà-la, Đề-đầu-lại-tra, Thiện-kiến, A-lơ, Ca-câu-la, Ca-tỳ-la, A-ba-la, A-nậu-đạt, Thiện-trú, Ưu-diệm-ca-bà-đầu, Đắc-xoa-ca. Đó là các lồi vua rồng lớn khơng bị lồi Kim sí điểu bắt ăn thịt.” Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nếu có chúng sanh nào thọ trì giới rồng<註 n="1596"/>206, tâm ý nghó đến lồi rồng, đầy đủ pháp của rồng, thì sẽ sinh về trong lồi rồng. Nếu có chúng sanh nào trì giới Kim sí điểu, tâm ý nghó đến lồi Kim sí điểu, đầy đủ pháùp của Kim sí điểu, thì sẽ sinh về trong lồi Kim sí điểu. Hoặc có chúng sanh trì giới của thỏ, tâm ý nghó về lồi thỏ, cắt<註 n="1597"/>207; đầy đủ pháùp của thỏ, thì sẽ sinh vào lồi thỏ, cắt. Hoặc có chúng sanh trì giới của chó, hoặc trì giới của trâu, hoặc trì giới của nai, hoặc trì giới câm, hoặc trì giới Ma-ni-bà-đà<註 n="1598"/>208, hoặc trì giới lửa, hoặc trì giới mặt trăng, hoặc trì giới mặt trời, hoặc trì giới nước, hoặc trì giới cúng dường lửa, hoặc trì pháp khổ hạnh ơ uế<註 n="1599"/>209. Những người ấy nghó rằng: ‘Ta trì pháp câm này, pháp Ma-ni-bà-đà, pháp lửa, pháp mặt trăng, mặt trời, pháp nước, pháp cúng dường lửa, các pháp khổ hạnh; ta trì cơng đức này là để sinh lên cõi Trời.’ Đây là những thứ tà kiến.” Phật dạy: “Ta nói những người tà kiến này chắc chắn sẽ đi vào hai nơi: Hoặc sinh vào địa ngục, hay sinh vào hàng súc sanh. Nếu có Sa-mơn, Bà-la-mơn nào có những lý luận như vầy, những quan điểm như vầy: ‘Ngã và thế gian là thường cịn, đây là thật, ngồi ra đều hư dối’, hoặc ‘Ngã và thế gian là vơ thường, đây là thật, ngồi ra đều hư dối’, hoặc ‘Ngã và thế gian vừa thường vừa là vơ thường, đây là thật ngồi ra đều hư dối’, hoặc ‘Ngã và thế gian chẳng phải thường cũng chẳng phải vơ thường, đây là thật ngồi ra đều hư dối’; ‘Ngã và thế gian là hữu biên, đây là thật ngồi ra đều hư dối’, hoặc ‘Ngã và thế gian là vơ biên, đây là thật ngồi ra đều hư dối’, hoặc ‘Ngã và thế gian vừa hữu biên vừa vơ biên, đây là thật ngồi ra đều hư dối’, hoặc ‘Ngã và thế gian chẳng phải hữu biên cũng chẳng phải vơ biên, đây là thật ngồi ra đều hư dối’; ‘Thân tức mạng<註 n="1600"/>210, đây là thật ngồi ra đều hư dối’ hoặc ‘Thân khác mạng khác, đây là thật ngồi ra đều hư dối’, hoặc ‘Chẳng phải có mạng chẳng phải khơng mạng, đây là chắc thật ngồi ra đều là hư dối’; hoặc ‘Khơng mạng khơng thân, đây là thật ngồi ra đều là hư dối.’ “Hoặc có người nói: ‘Có cái chết của đời khác như vậy<註 n="1601"/>211, đây là thật ngồi ra đều là hư dối.’ Có người nói: ‘Khơng có cái chết của đời khác như vậy, đây là thật ngồi ra đều là hư dối.’ Hoặc có người nói: ‘Vừa có cái chết đời khác như vậy và khơng có cái chết đời khác như vậy, đây là thật ngồi ra đều hư dối.’ Lại có người nói: ‘Chẳng phải có chẳng phải khơng cái chết đời khác như vậy, đây là thật ngồi ra đều hư dối.’ “Nếu Sa-mơn, Bà-la-mơn nào có những lý luận như vầy, những kiến giải như vầy: ‘Thế gian là thường, đây là lời nói chắc thật ngồi ra đều hư dối’, những người ấy hành với<註 n="1602"/>212 kiến chấp về ngã, kiến chấp về thân, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: ‘Ngã và thế gian là thường’. Những ai chủ trương là vơ thường, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian cho nên nói rằng: ‘Ngã và thế gian là vơ thường’. Những ai chủ trương là vừa thường vừa vơ thường, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: ‘Thế gian vừa thường vừa vơ thường’. Những ai chủ trương rằng chẳng phải thường cũng chẳng phải vơ thường, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, có kiến chấp về mạng, có kiến chấp về thân, có kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: ‘Ngã và thế gian chẳng phải thường chẳng phải vơ thường’. “Những ai chủ trương thế gian là hữu biên, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: ‘Mạng là hữu biên; thân là hữu biên; thế gian là hữu biên’. Từ lúc mới thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gị mả, thì những gì thuộc về thân bốn đại đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành thân, mạng đã hết thì ngã nhập vào thanh tịnh tụ<註 n="1603"/>213, cho nên nói rằng: ‘Ngã là có biên’. Những người chủ trương ngã và thế gian là vơ biên, những người này hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: ‘Mạng là vơ biên, thân là vơ biên, thế gian là vơ biên.’ Từ lúc mới thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gị mả, những gì thuộc về thân bốn đại đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành thân, mạng đã hết thì ngã nhập thanh tịnh tụ, cho nên nói rằng: ‘Ngã và thế gian là vơ biên’. Những ai chủ trương thế gian này vừa hữu biên vừa vơ biên, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: ‘Mạng vừa hữu biên vừa vơ biên.’ Từ lúc mới thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gị mả, những gì thuộc về thân bốn đại đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành thân, mạng đã hết thì ngã nhập thanh tịnh tụ, cho nên nói rằng: ‘Ngã vừa hữu biên vừa vơ biên’. Những ai chủ trương ngã và thế gian là khơng phải hữu biên khơng phải vơ biên, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: ‘Mạng và thân chẳng phải hữu biên chẳng phải vơ biên.’ Từ lúc mới thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gị mả, những gì thuộc về thân bốn đại đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành thân, mạng đã hết thì ngã nhập thanh tịnh tụ, cho nên nói rằng: ‘Ngã chẳng phải hữu biên chẳng phải là vơ biên’. “Những người chủ trương mạng tức là thân, thì đối với thân này có kiến chấp về mạng; đối với thân khác, có kiến chấp về mạng, cho nên nói rằng: ‘Mạng tức là thân’. Những người chủ trương mạng khác với thân, thì đối với thân này có kiến chấp về mạng, đối với thân khác khơng có kiến chấp về mạng, cho nên nói rằng: ‘Mạng khác với thân’. Những ai chủ trương mạng chẳng phải có, chẳng phải khơng, thì đối với thân này khơng có kiến chấp về mạng, đối với thân khác lại có kiến chấp về mạng, cho nên nói rằng: ‘Chẳng phải có, chẳng phải khơng’. Những ai chủ trương khơng có thân, mạng, thì đối với thân này họ khơng có kiến chấp về mạng, cho nên nói rằng: ‘Khơng có mạng, khơng có thân’. “Có người bảo: ‘Có cái chết của đời khác như vậy<註 n="1604"/>214, vì thấy hiện tại có thân mạng và đời sau cũng có thân mạng du hành<註 n="1605"/>215, cho nên họ bảo rằng: ‘Có cái chết đời khác như vậy.’ Có người bảo: ‘Khơng có cái chết của đời khác như vậy’, vì người này bảo đời hiện tại có mạng, nhưng đời sau khơng có mạng, cho nên nói rằng: ‘Khơng có cái chết của đời khác như vậy.’ Có người bảo: ‘Vừa có cái chết của đời khác như vậy, vừa khơng có cái chết của đời khác như vậy’, vì người ấy bảo đời hiện tại mạng bị đoạn diệt, đời sau mạng du hành<註 n="1606"/>216, cho nên nói rằng: ‘Vừa có mạng<註 n="1607"/>217 của đời khác như vậy, khơng có mạng của đời khác như vậy.’ Có người bảo: ‘Chẳng phải có, chẳng phải khơng cái chết của đời khác như vậy’, vì người ấy bảo thân, mạng hiện tại bị đoạn diệt; thân, mạng đời sau bị đoạn diệt, cho nên bảo rằng: ‘Chẳng phải có, chẳng phải khơng cái chết của đời khác như vậy’.” Bấy giờ, Đức Thế Tơn bảo các Tỳ-kheo: “Lâu xa về thời quá khứ có vị vua tên là Kính Diện<註 n="1608"/>218. Một hơm nhà vua tập họp những người mù lại một chỗ và hỏi: ‘Này những người mù từ khi mới sinh, các ngươi có biết con voi khơng?’ Họ đáp: ‘Tâu đại vương, chúng tơi khơng biết!’ Nhà vua lại hỏi: ‘Các ngươi có muốn biết hình loại con voi ra sao khơng?’ Họ đáp: ‘Muốn biết.’ Bấy giờ nhà vua ra lệnh cho người hầu dắt con voi đến và bảo những người mù này dùng tay của mình sờ thử. Trong đó có người sờ trúng vịi voi, thì vua nói rằng đấy là con voi; có người sờ trúng ngà voi, có người sờ trúng tai voi, có người sờ trúng đầu voi, có người sờ trúng lưng voi, có người sờ trúng bụng voi, có người sờ trúng bắp đùi voi, có người sờ trúng chân voi, có người sờ trúng bàn chân voi, có người sờ trúng đuơi voi, thì vua cứ theo chỗ sờ được của họ mà bảo: ‘Đó là con voi.’ “Rồi vua Kính Diện liền ra lệnh dắt voi lui và hỏi những người mù: ‘Voi giống như cái gì?’ Trong những người mù này, người sờ trúng vịi thì bảo voi giống như cái càng xe bị cong; người sờ trúng ngà thì bảo voi giống như cái chày; người sờ trúng tai thì bảo voi giống như cái nia; người sờ trúng đầu thì bảo voi giống như cái vạc; người sờ trúng lưng thì bảo voi giống như gị đất; người sờ trúng bụng thì bảo voi giống như bức tường; người sờ trúng bắp đùi thì bảo voi giống như gốc cây; người sờ trúng cái chân thì bảo voi giống như trụ cột; người sờ trúng bàn chân thì bảo voi giống như cái cối; người sờ trúng đuơi thì bảo voi giống như cây chổi. Họ tranh cãi nhau về việc đúng sai, người này bảo như vậy, người kia bảo khơng phải như vậy, vân vân và vân vân khơng dứt, đưa đến việc đấu tranh nhau. Lúc ấy nhà vua thấy vậy, hoan hỷ cười to. Rồi thì, vua Kính Diện nói bài tụng: Những người mù tụ tập, Tranh cãi tại nơi này, Thân voi vốn một thể, Tưởng khác sinh thị phi”. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các dị học ngoại đạo lại cũng như vậy; khơng biết Khổ đế, khơng biết Tập đế, Tận đế và Đạo đế, sinh ra những kiến giải khác nhau, tranh chấp thị phi với nhau, họ tự cho mình là đúng, nên đưa đến mọi việc tranh tụng. Nếu có Sa-mơn, Bà-la-mơn nào có thể biết như thật về Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế và Khổ xuất yếu thánh đế, những vị ấỵ sẽ tự tư duy và khéo cùng nhau hịa hợp, cùng một lãnh thọ, cùng một Thầy học, như nước với sữa, thì pháp Phật mới rực rỡ, sống an lạc lâu dài.” Bấy giờ Đức Thế Tơn nói bài kệ: Nếu người khơng biết khổ, Khơng biết chỗ khổ sinh; Lại cũng khơng biết khổ, Sẽ diệt tận ở đâu; Lại cũng khơng thể biết, Con đường diệt khổ tập; Thì mất tâm giải thốt, Tuệ giải thốt cũng mất; Khơng thể biết gốc khổ, Nguồn sanh, già, bệnh, chết. Nếu biết thật về khổ, Biết nhân sinh ra khổ; Cũng biết rõ khổ kia, Sẽ diệt tận nơi nào; Lại hay khéo phân biệt, Con đường diệt khổ tập; Thì được tâm giải thốt, Tuệ giải thốt cũng vậy. Người này chấm dứt được, Cội gốc của khổ ấm; Hết sanh, già, bệnh, chết, Nguồn gốc của thọ, hữu<註 n="1609"/>219.” Này các Tỳ-kheo, cho nên các Thầy nên siêng cầu phương tiện tư duy về Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế và Khổ xuất yếu thánh đế. <章 id="485140910">Phẩm 6: A-TU-LUÂN <註 n="1610"/>220 Phật bảo các Tỳø-kheo: “Trong đáy nước biển lớn ở phía Bắc của núi Tu-di, có một thành của La-ha A-tu-luân<註 n="1611"/>221, bề ngang rộng khoảng tám vạn do-tuần, thành của nó có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang điểm chung quanh đều bằng bảy thứ báu tạo thành. Chiều cao của thành là ba ngàn do-tuần, rộng hai ngàn do-tuần. Cửa thành của nó cao một ngàn do-tuần, rộng cũng một ngàn do-tuần. Thành vàng thì cửa bạc, thành bạc thì cửa vàng,… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau ríu rít cũng lại như trên<註 n="1612"/>222. Tiểu thành, chỗ ngự trị của vị vua A-tu-luân này ở ngay trong thành lớn có tên là Luân-thâu-ma-bạt-tra<註 n="1613"/>223, dọc ngang sáu vạn do-tuần. Thành của nó gồm bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang điểm chung quang bằng bảy thứ báu tạo thành. Thành cao ba ngàn do-tuần, rộng hai ngàn do-tuần. Cửa thành của nó cao hai ngàn do-tuần, rộng một ngàn do-tuần. Thành vàng thì cửa bạc, cửa bạc thì thành vàng,… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau ríu rít cũng lại như trên. “Ở trong thành này, xây dựng riêng nhà hội nghị có tên là Thất-thi-lợi-sa<註 n="1614"/>224, bảy lớp tường hào, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang điểm chung quanh bằng bảy thứ báu tạo thành. Nền nhà hội nghị hồn tồn dùng bằng xa cừ; cột nhà, sà nhà hồn tồn đều dùng bảy báu. Chu vi những trụ cột ở chính giữa một ngàn do-tuần, cao một vạn do-tuần. Ở dưới những trụ cột này có tịa Chánh pháp<註 n="1615"/>225, dọc ngang bảy trăm do-tuần, đều dùng bảy báu chạm trổ mà thành. Nhà này có bốn cửa, được bao quanh bằng bảy lớp đình thềm lan can<註 n="1616"/>226, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy báu,… cho đến, các lồi chim cùng nhau ríu rít, cũng lại như đã kể. “Ở phía Bắc nhà hội nghị này có cung điện A-tu-luân, dọc ngang một vạn do-tuần. Cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy báu, cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau ríu rít, cũng như đã kể. “Phía Đơng nhà hội nghị này có một khu rừng vườn tên là Sa-la<註 n="1617"/>227, dọc ngang một vạn do-tuần. Vườn có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy báu,… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau ríu rít, cũng lại như đã kể. “Phía Nam nhà hội nghị này có một khu vườn rừng tên là Cực diệu<註 n="1618"/>228, dọc ngang một vạn do-tuần như vườn Sa-la. “Phía Tây nhà hội nghị có một khu vườn rừng tên là Thiểm-ma<註 n="1619"/>229, dọc ngang một vạn do-tuần cũng như vườn rừng Ta la. “Phía Bắc nhà hội nghị này có một khu vườn rừng, tên là Nhạc lâm<註 n="1620"/>230, bề ngang một vạn do-tuần cũng như vườn rừng Sa-la. “Giữa hai khu vườn Sa-la và Cực diệu có cây Trú độ<註 n="1621"/>231, thấp là bảy do-tuần, cao thì một trăm do-tuần, cành lá vươn ra bốn phía cỡ năm mươi do-tuần, cây có bảy lớp bờ tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy báu,… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau ríu rít, cũng lại như đã kể. Lại nữa, giữa hai khu vườn Thiểm-ma và Nhạc lâm này có ao Bạt-nan-đà<註 n="1622"/>232, nước của nó trong mát, khơng có cáu bẩn, hào báu bảy lớp, chung quanh cạnh thềm là bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu. Ở trong ao này sinh ra bốn lồi hoa, lá hoa bề ngang rộng một do-tuần, hương thơm bay phảng phất cũng một do-tuần; rễ như ổ trục xe, nhựa của nó lưu xuất ra có màu trắng như sữa, vị ngọt như mật và vơ số các lồi chim cùng nhau hót líu lo. Hơn nữa, bên cạnh ao này có bảy lớp đình thềm, bảy lớp tường cửa, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu,… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau hót líu lo, cũng lại như vậy. “Cung điện thần hạ của vua A-tu-luân, dọc ngang một vạn do-tuần, rồi chín ngàn, tám ngàn và cho đến cung điện nhỏ nhất là một ngàn do-tuần. Cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu,… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau hót líu lo, cũng lại như vậy. “Cung điện của Tiểu A-tu-luân, dọc ngang một ngàn do-tuần, rồi chín trăm, tám trăm và cho đến cung điện cực nhỏ là một trăm do-tuần. Cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu,… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau hót líu lo, cũng lại như vậy. “Phía Bắc nhà hội nghị có bảy đường cấp báu dẫn vào trong cung điện; lại có đường cấp dẫn đến vườn Sa-la; có đường cấp dẫn đến vườn Cực diệu; có đường dẫn đến vườn Thiểm-ma; có đường cấp dẫn đến vườn Nhạc lâm; có đường cấp dẫn đến cây Trú độ; có đường cấp dẫn đến ao Bạt-nan-đà; có đường cấp dẫn đến cung điện đại thần; có đường cấp dẫn đến cung điện của Tiểu A-tu-luân. “Nếu khi nào vua A-tu-luân muốn đến vườn Sa-la để ngoạn cảnh, chỉ cần nghó đến vua Tỳ-ma-chất-đa A-tu-luân<註 n="1623"/>233, thì vua Tỳ-ma-chất-đa A-tu-luân lại tự nghó rằng: ‘vua La-ha A-tu-luân đang nghó đến ta.’ Liền tự sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng vơ số người hầu kẻ hạ vây quanh theo sau, đến trước vua La-ha A-tu-luân, đứng một bên. “Lại khi vua A-tu-luân lại nghó đến vua Ba-la-ha A-tu-luân<註 n="1624"/>234, thì vua Ba-la-ha A-tu-luân nghó rằng: ‘Nay vua đang nghó đến ta.’ Liền tự sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng với vơ số kẻ hầu người hạ vây quanh theo sau đến đứng một bên trước vua La-ha. “Khi vua A-tu-luân lại nghó đến vua Thiểm-ma A-tu-luân<註 n="1625"/>235, thì vua Thiểm-ma A-tu-luân lại tự nghó rằng: ‘Hiện nay vua đang nghó đến ta.’ Liền tự sửa soạn trang bị đóng ngựa vào xe báu, cùng vơ số kẻ hầu người hạ vây quanh theo sau, đến đứng một bên trước vua La-ha. “Khi vua lại nghó đến đại thần của vua A-tu-luân, thì đại thần của A-tu-luân lại nghó rằng: ‘Nay vua đang nghó đến ta.’ Liền tự sửa soạn trang bị đóng ngựa vào xe báu, cùng vơ số kẻ hầu người hạ vây quanh theo sau, đến đứng một bên trước vua La-ha. Lúc này, vua lại nghó đến Tiểu A-tu-luân, thì Tiểu A-tu-luân lại nghó rằng: ‘Nay vua đang nghó đến ta.’ Liền tự sửa soạn trang bị cùng mọi người đến đứng một bên trước vua La-ha. “Lúc này, vua La-ha mình mặc áo báu, đóng ngựa vào xe báu, cùng với vơ số mọi người vây quanh trước sau đến trong rừng Sa-la, thì tự nhiên có gió thổi cửa tự mở, tự nhiên gió thổi đất sạch, tự nhiên gió thổi hoa rụng xuống đất, ngập đến đầu gối. Sau khi vua La-ha vào vườn này rồi, thì cùng nhau vui đùa từ một ngày, hai ngày, … cho đến bảy ngày. Sau khi vua đùa xong, liền trở về lại cung điện mình. Sau đó việc ngoạn cảnh đối với vườn Cực diệu, vườn Thiểm-ma, vườn Nhạc lâm, thì cũng lại như vậy. Lúc này, vua La-ha luơn luơn có năm Đại A-tu-luân hầu cận và bảo vệ hai bên: một tên là Đề Trì, hai tên là Hùng Lực, ba tên là Võ Di, bốn tên là Đầu Thủ, năm tên là Tồi Phục<註 n="1626"/>236. Năm Đại A-tu-luân này luơn luơn hầu cận bảo vệ hai bên. Cung điện của vua La-ha này ở dưới nước biển lớn. Nước biển ở trên được duy trì bởi bốn thứ gió: một là trụ phong, hai là trì phong, ba là bất động, bốn là kiên cố<註 n="1627"/>237; chúng giữ cho nước biển lớn, treo ngược giữa hư khơng, giống như mây nổi, cách cung điện A-tu-luân một vạn do-tuần, khơng bao giờ bị rớt. Oai thần, cơng đức và phước báo của vua A-tu-luân là như vậy.” <章 id="485140911">Phẩm 7: TỨ THIÊN VƯƠNG<註 n="1628"/>238 Phật bảo Tỳ-kheo: “Cách phía Đơng Tu-di sơn vương một ngàn do-tuần có thành của Đề-đầu-lại-tra<註 n="1629"/>239 Thiên vương, tên là Hiền thượng<註 n="1630"/>240, dọc ngang sáu ngàn do-tuần. Thành này có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu, … cho đến, có vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như đã kể. “Cách phía Nam Tu-di sơn vương một ngàn do-tuần có thành của Tỳ-lâu-lặc<註 n="1631"/>241 Thiên vương, tên là Thiện kiến<註 n="1632"/>242, dọc ngang sáu ngàn do-tuần. Thành này có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu, … cho đến, có vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Cách phía Tây Tu-di sơn vương một ngàn do-tuần có thành Tỳ-lâu-bà-xoa<註 n="1633"/>243 Thiên vương, tên là Chu-la Thiện kiến<註 n="1634"/>244, dọc ngang sáu ngàn do-tuần. Thành có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu, … cho đến, có vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Cách phía Bắc Tu-di sơn vương một ngàn do-tuần có thành của Tỳ-sa-mơn<註 n="1635"/>245 Thiên vương. Vua có ba thành<註 n="1636"/>246: một tên là Khả úy, hai là Thiên kính, ba là Chúng quy; mỗi thành dọc ngang sáu ngàn do-tuần. Thành này có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu, … cho đến, có vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Phía Bắc thành Chúng quy có vườn rừng, tên là Già-tỳ-diên-đầu<註 n="1637"/>247, dọc ngang bốn ngàn do-tuần, tường của vườn có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu, … cho đến, có vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Ở quãng giữa vườn và thành có ao tên là Na-lân-ni<註 n="1638"/>248 rộng bốn mươi do-tuần. Nước của nó lắng trong khơng bợn nhơ. Ven hồ được lát bằng bảy báu làm thành mương nước; bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu; hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, lẫn lộn màu sắc ở trong đó, ánh sáng phản chiếu cả nửa do-tuần, hương thơm phảng phất nghe khắp cả nửa do-tuần. Vả lại rễ của nó lớn như ổ trục xe. Nhựa của nó lưu xuất ra màu trắng như sữa và có vị ngọt như mật, … cho đến, có vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, lại cũng như vậy. “Trừ cung điện mặt trời, mặt trăng ra, cung điện của các Tứ thiên vương, rộng độ bốn mươi do-tuần. Tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu, … cho đến có vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Các cung điện này rộng bốn mươi do-tuần, hai mươi do-tuần và nhỏ nhất bề ngang rộng năm do-tuần. Từ thành Chúng quy có đường cấp báu dẫn đến thành Hiền thượng; lại có đường cấp dẫn đến thành Thiện kiến; lại có đường cấp dẫn đến thành Chu-la Thiện kiến; lại có đường cấp dẫn đến thành Khả úy, thành Thiên kính; lại có đường cấp dẫn đến vườn Già-tỳ-diên-đầu; lại có đường cấp dẫn đến ao Na-lân-ni, lại có đường cấp dẫn đến cung điện đại thần của Tứ thiên vương. “Khi Tỳ-sa-mơn Thiên vương muốn đến ngoạn cảnh tại vườn Già-tỳ-diên-đầu, thì lập tức nghó đến Đề-đầu-lại-tra Thiên vương; Đề-đầu-lại-tra Thiên vương lại nghó rằng: ‘Hiện tại Tỳ-sa-mơn Thiên vương đang nghó đến ta.’ Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng với vơ số thần Kiền-đạp-hịa<註 n="1639"/>249 vây quanh trước sau, đến đứng một bên trước Tỳ-sa-mơn Thiên vương. Khi vua Tỳ-sa-mơn nghó đến Tỳ-lâu-lặc Thiên vương, thì Tỳ-lâu-lặc Thiên vương lại tự nghó rằng: ‘Nay vua Tỳ-sa-mơn đang nghó đến ta.’ Liền tự mình sửa soạn trang bị đóng ngựa vào xe báu, cùng với vơ số thần Cứu-bàn-trà<註 n="1640"/>250 vây quanh trước sau, đến đứng một bên trước Tỳ-sa-mơn Thiên vương. Khi vua Tỳ-sa-mơn nghó đến Tỳ-lâu-bà-xoa, thì Tỳ-lâu-bà-xoa lại tự nghó rằng: ‘Hiện tại Tỳ-sa-mơn Thiên vương đang nghó đến ta.’ Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng với vơ số Long thần vây quanh trước sau, đến đứng một bên trước vua Tỳ-sa-mơn. Khi vua Tỳ-sa-mơn nghó đến đại thần của Tứ thiên vương, thì đại thần của Tứ thiên vương lại tự nghó rằng: ‘Nay vua Tỳ-sa-mơn đang nghó đến ta.’ Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng dẫn theo với vơ số chư Thiên, đến đứng một bên trước Tỳ-sa-mơn Thiên vương. “Lúc này, Tỳ-sa-mơn Thiên vương liền sửa soạn trang bị, mặc y báu, đóng ngựa vào xe báu, cùng với vơ số trăm ngàn Thiên thần đến vườn Tỳ-diên-đầu, tự nhiên có gió thổi cửa tự mở, tự nhiên có gió thổi sạch đất, tự nhiên có gió thổi hoa rụng khắp mặt đất, ngập đến đầu gối. Nhà vua ở trong vườn này cùng nhau vui đùa, từ một ngày, hai ngày, … cho đến bảy ngày; sau khi ngoạn cảnh xong trở về cung điện của mình. Vua Tỳ-sa-mơn luơn luơn có năm vị đại quỷ thần<註 n="1641"/>251 hầu cận bảo vệ hai bên: một là Bát-xà-lâu, hai là Đàn-đà-la, ba là Hê-ma-bạt-đề, bốn là Đề-kệ-la, năm là Tu-dật-lộ-ma, năm vị quỷ thần này luơn luơn theo hầu bảo vệ. Oai thần, cơng đức, phước báo của vua Tỳ-sa-mơn là như vậy.” <章 id="485140912">Phẩm 8: ĐAO-LỢI THIÊN<註 n="1642"/>252 Phật bảo Tỳ-kheo: “Trên đỉnh Tu-di sơn vương có thành của trời Tam thập tam. Thành dọc ngang rộng tám vạn do-tuần; có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu. Thành cao một trăm do-tuần, phần trên rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cao sáu mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần. Cách nhau năm trăm do-tuần là có một cái cửa; tại mỗi cửa này có năm trăm quỷ thần giữ gìn bảo vệ trời Tam thập tam. Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bạc thì cửa vàng… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót bi thương, cũng lại như vậy. “Trong thành lớn này lại có thành nhỏ, dọc ngang rộng sáu vạn do-tuần. Thành có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu. Thành cao một trăm do-tuần, rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cách nhau năm trăm do-tuần, cao sáu mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần; tại mỗi cửa thành có năm trăm quỷ thần thị vệ tại bên cửa, để giữ gìn trời Tam thập tam. Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng bạc thì cửa bằng vàng; thành bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly, thành bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh; thành bằng xích châu thì cửa bằng mã não, thành bằng mã não thì cửa bằng xích châu; thành bằng xa cừ thì cửa bằng các thứ báu khác. “Về lan can này: nếu lan can bằng vàng thì tam cấp bằng bạc, lan can bằng bạc thì tam cấp bằng vàng; lan can bằng thủy tinh thì tam cấp bằng lưu ly, lan can bằng lưu ly thì tam cấp bằng thủy tinh; lan can bằng xích châu thì tam cấp bằng mã não, lan can bằng mã não thì tam cấp bằng xích châu; lan can bằng xa cừ thì tam cấp bằng các thứ báu khác. Trên những lan can này có lưới báu; dưới lưới vàng thì treo linh bạc, dưới lưới bạc thì treo linh vàng; lưới bằng lưu ly thì treo linh bằng thủy tinh, lưới bằng thủy tinh thì treo linh bằng lưu ly; lưới bằng xích châu thì treo linh bằng mã não, lưới bằng mã não thì treo linh bằng xích châu; lưới bằng xa cừ thì treo linh bằng các thứ báu khác. Về cây vàng: nếu rễ vàng, cành vàng thì lá hoa bằng bạc rịng. Về cây bạc: nếu rễ bạc, cành bạc thì lá hoa bằng vàng rịng. Về cây thủy tinh: nếu rễ, cành bằng thủy tinh thì lá, hoa bằng lưu ly. Về cây lưu ly: nếu rễ, cành bằng lưu ly thì lá hoa bằng thủy tinh. Về cây xích châu: nếu rễ, cành bằng xích châu thì lá hoa bằng mã não. Về cây mã não: nếu rễ, cành bằng mã não thì lá hoa bằng xích châu. Về cây xa cừ: nếu rễ, cành bằng xa cừ thì lá hoa bằng các thứ báu khác. “Về bảy lớp thành này: thành có bốn cửa, cửa có lan can. Trên bảy lớp thành đều có đền đài, lầu các bao bọc chung quanh, có vườn rừng ao tắm, sinh ra các lồi hoa quý nhiều màu sắc xen lẫn nhau, cây báu thành hàng, hoa trái tốt tươi đầy dẫy, hương thơm bay phảng phất khắp nơi làm đẹp lịng mọi người. Có chim le, chim nhạn, uyên ương, cùng các lồi chim kỳ lạ, vơ số hàng ngàn loại, cùng nhau ca hót. “Khoảng giữa bên ngồi thành nhỏ này có cung điện của Long vương Y-la-bát<註 n="1643"/>253, dọc ngang rộng sáu ngàn do-tuần. Vách tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu … cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Trong thành Thiện kiến<註 n="1644"/>254 này có Thiện pháp đường<註 n="1645"/>255, dọc ngang một trăm do-tuần; có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu. Nền nhà hồn tồn bằng vàng rịng, trên mặt phủ lưu ly. Chu vi những cây cột trong nhà này là mười do-tuần, cao một trăm do-tuần, dưới những trụ cột của ngơi nhà này là nơi đặt ngự tịa của Thiên đế<註 n="1646"/>256, bề ngang rộng độ một do-tuần, có nhiều màu sắc xen lẫn nhau được tạo thành bởi bảy thứ báu. Ngự tịa này êm ái, mềm mại như lụa trời và bên tả bên hữu, giáp hai bên tịa, có mười sáu chỗ ngồi. “Pháp đường này có bốn cửa; chung quanh là lan can bằng bảy thứ báu. Đường cấp của ngơi nhà này dọc ngang năm trăm do-tuần, có bảy lớp cửa ngồi, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Phía Bắc ngơi nhà Thiện kiến có cung điện Đế Thích, dọc ngang một ngàn do-tuần; tường vách cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến, vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Phía Đơng ngơi nhà Thiện kiến có vườn rừng tên là Thơ sáp<註 n="1647"/>257, ngang rộng độ một ngàn do-tuần; tường vách cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Trong vườn Thơ sáp có hai ụ đá do vàng trời trang sức, một gọi là Hiền, hai gọi là Thiện hiền<註 n="1648"/>258, bề ngang mỗi ụ rộng năm mươi do-tuần, đá này mềm mại, độ mềm mại của nó như vải trời. “Phía Nam cung điện Thiện kiến có khu vườn tên là Họa lạc<註 n="1649"/>259, ngang rộng một ngàn do-tuần; vách tường của khu vườn có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Trong vườn này có hai ụ đá bằng bảy thứ báu, một là Họa, hai là Thiện họa<註 n="1650"/>260, bề ngang mỗi ụ rộng độ năm mươi do-tuần, ụ đá này mềm mại, độ mềm mại của nó như thiên y. “Phía Tây ngơi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Tạp<註 n="1651"/>261, ngang rộng một ngàn do-tuần, bờ tường của khu vườn có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Trong khu vườn này có hai ụ đá, một là Thiện kiến, hai là Thuận thiện kiến, do vàng trời trang sức và do bảy báu tạo thành, bề ngang mỗi ụ rộng độ năm mươi do-tuần, ụ đá này mềm mại và độ mềm mại của nó như thiên y. “Phía Bắc ngơi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Đại hỷ<註 n="1652"/>262, ngang rộng một ngàn do-tuần, bờ tường của khu vườn có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Trong vườn này có hai ụ đá, một gọi là Hỷ, hai gọi là Đại hỷ, do xa cừ trang sức, ngang rộng năm mươi do-tuần, ụ đá này mềm mại, độ mềm mại của nó như thiên y. “Ở quãng giữa vườn Thơ sáp và vườn Họa nhạc có ao Nan-đà<註 n="1653"/>263, ngang rộng một trăm do-tuần; nước của nó lắng trong, khơng có một chút bợn nhơ, chung quanh bên cạnh thềm là bảy lớp hào báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu. Bốn phía hồ này có bốn bậc thang, chung quanh lan can làm bằng bảy báu, … cho đến có vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, lại cũng như vậy. “Lại nữa trong ao này lại sinh ra bốn loại hoa xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, xanh nhạt, nhiều màu xen lẫn nhau; bóng rợp của một lá hoa này che một do-tuần; hương thơm phảng phất khắp một do-tuần; rễ của nó như ổ trục xe, nhựa của nó lưu xuất ra có màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Bốn phía ao này lại có những khu vườn. “Giữa hai khu vườn Tạp và khu vườn Đại hỷ có cây tên là Trú độ<註 n="1654"/>264, chu vi độ bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá bao trùm ra bốn phía độ năm mươi do-tuần, ngồi cây có ngơi đình trống, bề ngang rộng năm trăm do-tuần, bờ tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Ngồi ra các cung điện khác của Đao-lợi thiên, ngang rộng một ngàn do-tuần, tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Những cung điện này ngang rộng từ chín trăm, tám trăm cho đến nhỏ nhất là một trăm do-tuần, bờ tường cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Những cung điện nhỏ, ngang rộng từ một trăm do-tuần, chín mươi, tám mươi, cho đến cực nhỏ là mười hai do-tuần, bờ tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hồng chung quanh bằng bảy thứ báu… cho đến vơ số các lồi chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. “Phía Bắc ngơi nhà Thiện kiến có hai đường cấp dẫn đến cung điện Đế Thích. Phía Đơng ngơi nhà Thiện kiến có hai đường cấp dẫn đến khu vườn Thơ sáp; lại có hai đường cấp dẫn đến vườn Họa lạc; lại có đường cấp dẫn đến trong khu vườn Tạp; lại có đường cấp dẫn đến khu vườn Đại hỷ; lại có đường cấp dẫn đến ao Đại hỷ<註 n="1655"/>265; lại có đường cấp dẫn đến cây Trú độ; lại có đường cấp dẫn đến cung điện Tam thập tam thiên; lại có đường cấp dẫn đến cung điện chư Thiên; lại có đường cấp dẫn đến cung điện Y-la-bát Long vương. Nếu khi Thiên Đế Thích muốn du ngoạn đến trong vườn Thơ sáp, liền nghó đến vị đại thần của trời Tam thập tam, thì đại thần Tam thập tam thiên lại tự nghó rằng: ‘Hiện nay Đế Thích đang nghó đến ta.’ Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng với vơ số mọi người vây quanh trước sau đến đứng một bên trước Đế Thích. Khi Đế Thích nghó đến chư Thiên khác, thì chư Thiên nghó rằng: ‘Hiện nay Đế Thích đang nghó đến ta.’ Liền tự mình sửa soạn trang bị, cùng với vơ số chúng chư Thiên theo nhau đến đứng một bên trước Đế Thích. Khi Đế Thích nghó đến Y-la-bát Long vương, thì Y-la-bát Long vương lại tự nghó rằng: ‘Hiện nay Đế Thích đang nghó đến ta.’ Long vương liền tự biến hóa thân hình ra ba mươi ba cái đầu, mỗi cái đầu có sáu cái răng, mỗi cái răng có bảy hồ tắm, mỗi hồ tắm có bảy hoa sen lớn, mỗi hoa sen có một trăm lá, mỗi lá hoa có bảy ngọc nữ, ca nhạc, múa xướng, đánh trống, khảy đàn, vỗ nhịp ở trên đó. Sau khi vị Long vương biến hóa như vậy rồi, đi đến đứng một bên trước Đế Thích. “Lúc này, Thích-đề-hồn Nhân mặc vào thân mình những đồ trang sức quý báu cùng anh lạc, ngồi trên đầu thứ nhất của Y-la-bát Long vương, kế đó, hai bên mỗi đầu cịn có mười sáu vị Thiên vương ở trên đỉnh đầu Long vương này, theo thứ tự mà ngồi. Bấy giờ, Thiên Đế Thích cùng với vơ số quyến thuộc chư Thiên vây quanh đến vườn Thơ sáp, tự nhiên có gió thổi cửa tự động mở, tự nhiên có gió thổi khiến cho đất sạch; tự nhiên có gió thổi làm những đóa hoa rơi khắp mặt đất và tích tụ hoa rụng lại ngập đến cả đầu gối. Lúc này Thiên Đế Thích ngồi trên hai ụ đá Hiền và Thiện hiền theo ý thích, cịn Ba mươi ba vị Thiên vương mỗi người tự theo thứ tự mà ngồi. Lại nữa, có những chư Thiên khơng được phép theo hầu để đến tham quan viên quán này, khơng được vào vườn để vui đùa ngũ dục. Vì sao? Vì cơng đức mà họ vốn thực hành khơng đồng. Lại có những chư Thiên thấy được khu vườn mà khơng vào được và khơng được cùng nhau vui đùa ngũ dục. Vì sao? Vì cơng đức mà họ vốn thực hành khơng đồng. Lại có những chư Thiên thấy được, vào được, nhưng khơng được cùng nhau vui đùa ngũ dục. Vì sao? Vì cơng đức mà họ vốn thực hành khơng đồng. Lại có những chư Thiên vào được, thấy được và vui đùa ngũ dục được. Vì sao? Vì cơng đức mà họ vốn thực hành đồng nhau. “Sau thời gian du hí trong vườn, chư Thiên đã tự vui ngũ dục, từ một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, họ đã cùng nhau vui đùa xong và mỗi người tự trở về cung điện. Khi Thiên Đế Thích du ngoạn vườn Họa lạc, vườn Tạp, vườn Đại hỷ cũng lại như vậy. “Vì sao gọi là vườn Thơ sáp? Vì lúc vào trong vườn này, thì thân thể trở nên thơ nhám<註 n="1656"/>266. Vì sao gọi là vườn Họa lạc? Vì lúc vào vườn này, thì thân thể tự nhiên có những sắc màu như vẽ<註 n="1657"/>267 dùng để vui đùa. Vì sao gọi là vườn Tạp? Vì thường những ngày mùng tám, ngày mười bốn, ngày mười lăm của mỗi tháng, ngoại trừ người nữ A-tu-luân, các thể nữ được thả tự do để cùng các Thiên tử ở trong vườn này cùng du hí hỗn tạp<註 n="1658"/>268 với nhau, cho nên gọi là vườn Tạp. Vì sao gọi là vườn Đại hỷ? Vì lúc vào vườn này, thì có thể vui đùa một cách hoan hỷ, cho nên gọi là Đại hỷ<註 n="1659"/>269. Vì sao gọi là nhà Thiện pháp? Vì ở trên ngơi nhà này mà tư duy về pháp vi diệu<註 n="1660"/>270, nhận lãnh cái vui thanh tịnh, cho nên gọi là nhà Thiện pháp. Vì sao gọi là cây Trú độ? Vì cây này có vị thần tên là Mạn-đà<註 n="1661"/>271 thường thường tấu nhạc để tự vui đùa, cho nên gọi là Trú độ. Lại nữa, cành nhánh của cây lớn này vươn ra bốn phía, hoa lá rậm rạp tốt tươi như đám mây báu lớn, cho nên gọi là Trú độ<註 n="1662"/>272. “Hai bên tả hữu của Thích Đề-hồn Nhân thường có mười đại Thiên tử<註 n="1663"/>273 theo sau để hầu hạ và bảo vệ đó là: một tên là Nhân-đà-la, hai tên là Cù-di, ba tên là Tỳ-lâu, bốn tên là Tỳ-lâu-bà-đề, năm tên là Đà-la, sáu tên là Bà-la, bảy tên là Kỳ-bà, tám tên là Linh-hê-nậu, chín tên là Vật-la, mười tên là Nan-đầu. Thích Đề-hồn Nhân có thần lực lớn và oai đức như vậy. Các loại hoa mọc trong nước mà người Diêm-phù-đề quý như: Ưu-bát-la, Bát-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lî, Tu-càn-đầu, hương thơm của chúng thanh khiết nhẹ nhàng. Cũng vậy, các loại hoa mọc ra trên đất liền; đó là: Giải thốt hoa, Đảm-bặc-hoa, Bà-la-đà-hoa, Tu-mạn-châu-na hoa, Bà-sư hoa, Đồng nữ hoa. Giống như những hoa sinh ra ở nước, ở đất liền, thì những hoa sinh ra ở Câu-da-ni, Uất-đan-viết, Phất-vu-đãi, Long cung, Kim sí điểu cung cũng lại như vậy. Những hoa sinh ra ở trong thủy cung của A-tu-luân: hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lî, hương thơm của chúng nhẹ nhàng thanh khiết. Những hoa sinh ra nơi đất liền: hoa Thù-hảo, hoa Tần-phù, hoa đại Tần-phù, hoa Già-già-lợi, hoa đại Già-già-lợi, hoa Mạn-đà-la, hoa đại Mạn-đà-la. Những hoa sinh ra ở nước, ở đất liền này được Tứ thiên vương, Tam thập tam thiên, Diễm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên yêu quý cũng lại như vậy. “Cõi Trời có mười loại pháp; đó là: một, bay đi khơng hạn số; hai, bay đến khơng hạn số; ba, đi vơ ngại; bốn, đến vơ ngại; năm, thân Trời khơng có da, xương, gân, mạch, máu, thịt; sáu, thân khơng có việc đại, tiểu tiện bất tịnh; bảy, thân khơng mệt nhọc; tám, Thiên nữ khơng sinh đẻ; chín, mắt Trời khơng nháy; mười, thân tùy thuộc vào màu sắc của ý mình, như thích xanh thì hiện xanh, thích vàng thì vàng, đỏ, trắng và các màu khác tùy theo ý mình mà hiện. Đó là mười pháp của chư Thiên. “Con người có bảy màu sắc, đó là: có người màu lửa, có người màu xanh, có người màu vàng, có người màu đỏ, có người màu đen, có người màu trắng. Chư Thiên, A-tu-luân cũng có bảy màu sắc như vậy. “Các Tỳ-kheo, ánh sáng của con đom đóm khơng bằng đèn, nến; ánh sáng của đèn, nến khơng bằng bó đuốc; ánh sáng của bó đuốc khơng bằng đống lửa; ánh sáng của đống lửa khơng bằng ánh sáng của sắc thân, y phục, anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương; ánh sáng của sắc thân, y phục, anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương khơng bằng ánh sáng của Tam thập tam thiên; ánh sáng của Tam thập tam thiên khơng bằng ánh sáng của Diệm-ma thiên; ánh sáng của Diệm-ma thiên khơng bằng ánh sáng của Đâu-suất thiên, ánh sáng của Đâu-suất thiên khơng bằng ánh sáng của Hóa tự tại thiên; ánh sáng của Hóa tự tại thiên khơng bằng ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên; ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên khơng bằng ánh sáng của sắc thân, y phục, cung điện Phạm-ca-di thiên; ánh sáng của sắc thân, y phục, cung điện Phạm-ca-di thiên khơng bằng ánh sáng của Quang âm thiên; ánh sáng của Quang âm thiên khơng bằng ánh sáng của Biến tịnh thiên; ánh sáng của Biến tịnh thiên khơng bằng ánh sáng của Quả thật thiên; ánh sáng của Quả thật thiên khơng bằng ánh sáng của Vơ tưởng thiên; ánh sáng của Vơ tưởng thiên khơng bằng ánh sáng của Vơ tạo thiên; ánh sáng của Vơ tạo thiên khơng bằng ánh sáng của Vơ nhiệt thiên; ánh sáng của Vơ nhiệt thiên khơng bằng ánh sáng của Thiện kiến thiên; ánh sáng của Thiện kiến thiên khơng bằng ánh sáng của Đại Thiện kiến thiên; ánh sáng của Đại Thiện kiến thiên khơng bằng ánh sáng của Cứu cánh thiên; ánh sáng của Cứu cánh thiên khơng bằng ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên; ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên khơng bằng ánh sáng của Phật. Từ ánh sáng của con đom đóm đến ánh sáng của Phật, mà kết hợp những thứ ánh sáng như vậy lại, thì cũng khơng bằng ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Cho nên, các Tỳ-kheo! Muốn tìm cầu ánh sáng, thì phải cầu ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Các ngươi nên như vậy mà tu hành. “Thân người ở cõi Diêm-phù-đề cao ba khuỷu tay rưỡi; y dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi<註 n="1664"/>274. Thân người ở Cù-da-ni, Phất-vu-đãi cũng cao ba khuỷu tay; y dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người Uất-đan-viết cao bảy khuỷu tay; y dài mười bốn khuỷu tay, rộng bảy khuỷu tay. Thân A-tu-luân cao một do-tuần; y dài hai do-tuần, rộng một do-tuần, y dày sáu lạng. Thân của Tứ thiên vương cao nửa do-tuần; y dài một do-tuần, rộng nửa do-tuần, y dày nửa lạng. Thân của Đao-lợi thiên cao một do-tuần; y dài hai do-tuần, rộng một do-tuần, y dày sáu lạng. Thân của Diệm-ma thiên cao hai do-tuần; y dài bốn do-tuần, rộng hai do-tuần, y dày ba lạng. Thân của Đâu-suất thiên cao bốn do-tuần; y dài tám do-tuần, rộng bốn do-tuần, y dày một lạng rưỡi. Hóa tự tại thiên cao tám do-tuần; y dài mười sáu do-tuần, rộng tám do-tuần, y dày một lạng. Thân của Tha hóa tự tại thiên cao mười sáu do-tuần; y dài ba mươi hai do-tuần, rộng mười sáu do-tuần, y dày nửa lạng. Từ chư Thiên trở lên, mỗi nơi tùy theo thân hình của họ mà mặc y phục. “Tuổi thọ của người Diêm-phù-đề là một trăm năm, ít ai vượt qua khỏi; mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của người Câu-da-ni là hai trăm năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của người Phất-vu-đãi là ba trăm năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của người Uất-đan-viết là một ngàn năm, khơng có tăng hay giảm. Tuổi thọ của ngạ quỷ là bảy vạn năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của lồi rồng và Kim sí điểu là một kiếp, hoặc có giảm đi. Tuổi thọ của A-tu-luân là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Tứ thiên vương là năm trăm năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Đao-lợi thiên là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Diệm-ma thiên là hai ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Đâu-suất thiên là bốn ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Hóa tự tại thiên là tám ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Tha hóa tự tại thiên là sáu ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Phạm-ca-di thiên là một kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Quang âm thiên là hai kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Biến tịnh thiên là ba kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Quả thật thiên là bốn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vơ tưởng thiên là năm trăm kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vơ tạo thiên là một ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vơ nhiệt thiên là hai ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Thiện kiến thiên là ba ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Đại Thiện kiến thiên là bốn ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Sắc cứu cánh thiên là năm ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Khơng xứ thiên là một vạn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Thức xứ thiên là hai vạn một ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Bất dụng xứ thiên là bốn vạn hai ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Hữu tưởng vơ tưởng thiên là tám vạn bốn ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Trong giới hạn ấy, được gọi là chúng sanh; trong giới hạn ấy được gọi là tuổi thọ; trong giới hạn ấy được gọi là thế giới; trong giới hạn ấy là sự luân chuyển của tập hợp uẩn, xứ, giới, qua lại trong các cõi, sanh, già, bệnh, chết.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Tất cả chúng sanh do bốn loại thức ăn mà tồn tại. Một là đồn tế hoạt thực<註 n="1665"/>275. Hai là xúc thực. Ba là niệm thực. Bốn là thức thực. Những loại thức ăn này chúng sanh ăn khơng giống nhau. Như người cõi Diêm-phù-đề dùng các loại cơm, bún mì, cá thịt, gọi là loại đồn thực<註 n="1666"/>276. Y phục, tắm giặt, được gọi là tế hoạt thực<註 n="1667"/>277. Người Câu-da-ni, Phất-vu-đãi cũng ăn các loại cơm, bún mì, cá thịt được gọi là đồn thực; y phục, tắm giặt là tế hoạt thực. Người Uất-đan-viết thì chỉ ăn lúa gạo chín tự nhiên, đầy đủ vị trời lấy là đồn thực; cũng lấy y phục, tắm giặt làm tế hoạt thực. Lồi rồng, Kim sí điểu, thì ăn các con giải, con đà, con cá, con ba-ba lấy làm đồn thực và tắm gội, y phục làm tế hoạt thực. A-tu-luân thì ăn đồn thực sạch<註 n="1668"/>278 lấy làm đồn thực và lấy tắm giặt, y phục làm tế hoạt thực. Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên ăn loại đồn thực sạch lấy làm đồn thực và tắm giặt, y phục làm tế hoạt thực. Chư Thiên từ đây trở lên dùng hỷ lạc thiền định làm thức ăn. “Những chúng sanh nào dùng xúc thực? Những chúng sanh, sinh ra từ trứng dùng xúc thực. “Những chúng sanh nào dùng niệm thực? Có chúng sanh nhờ vào niệm thực mà được tồn tại, tăng trưởng các căn, tuổi thọ khơng dứt, đó là niệm thực. “Những chúng sanh nào dùng thức thực? Những chúng sanh ở địa ngục và cõi Vơ sắc thiên, những loại chúng sanh này dùng thức thực. “Người cõi Diêm-phù-đề dùng các thứ vàng bạc, đồ quý báu, lúa gạo, lụa là, nơ bộc để mưu sinh buơn bán mà tự nuơi sống. Người Câu-da-ni dùng bị, dê, châu báu để trao đổi mà nuơi sống. Người Phất-vu-đãi dùng thóc, vải, châu ngọc<註 n="1669"/>279 để trao đổi mà tự nuơi sống. Người Uất-đan-viết tuy khơng dùng cách trao đổi nhưng cũng mưu sinh để tự nuơi sống. “Người cõi Diêm-phù-đề có sự mai mối hơn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Người Câu-da-ni và người Phất-vu-đãi, cũng có mai mối hơn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Người Uất-đan-viết, thì khơng có vấn đề hơn nhân, khơng có sự lấy chồng, lấy vợ của con trai và con gái. Lồi rồng và Kim sí điểu cùng A-tu-luân, thì cũng có hơn nhân, có giá thú giữa con trai và con gái. Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên… cho đến Tha hóa tự tại thiên cũng có hơn nhân và có giá thú giữa người nam và người nữ. Chư Thiên từ đây trở lên khơng cịn có nam và nữ. “Người cõi Diêm-phù-đề, vì giữa nam và nữ giao hội nhau, thân và thân xúc chạm nhau, nên sanh ra âm dương. Những người Câu-da-ni, người Phất-vu-đãi, người Uất-đan-viết cũng dùng thân với thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Các lồi rồng, Kim sí điểu cũng dùng thân với thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Lồi A-tu-luân thì thân với thân gần gũi nhau phát sanh khí mà trở thành âm dương. Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên thì cũng lại như vậy. Diệm-ma thiên, thì gần gũi nhau mà thành âm dương. Đâu-suất thiên thì cầm tay nhau mà thành âm dương. Hóa tự tại thiên thì nhìn kỹ nhau mà thành âm dương. Tha hóa tự tại thiên thì láy mắt nhìn nhau mà thành âm dương. Chư Thiên từ đây trở lên thì khơng cịn dâm dục nữa. “Nếu có chúng sanh nào, với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghó điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, thức người đời diệt mất; thức nê-lê bắt đầu sinh ra. Nhân thức nên có danh sắc. Nhân danh sắc nên có sáu nhập. Hoặc có chúng sanh với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghó điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, bị đọa vào trong lồi súc sanh; sau đó thức người đời bị diệt; thức súc sanh bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập. Hoặc có chúng sanh với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghó điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đọa vào trong ngạ quỷ; sau đó thức người đời bị diệt, thức ngạ quỷ bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập. Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói những lời thiện, ý nghó điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sinh vào trong cõi người; sau đó thức đời trước diệt, thức lồi người bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập. “Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói lời thiện, ý nghó điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sinh về cõi Tứ thiên vương; sau đó thức đời trước diệt; thức lồi trời Tứ thiên vương bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập. “Lúc bắt đầu sinh ở cõi Trời, hình dạng cũng giống hệt như con nít chừng hai, ba tuổi của cõi người này, tự nhiên hóa hiện, ngồi trên đầu gối Trời. Vị Trời ấy liền nói: ‘Đây là con ta.’ Do quả báo của hành vi, nên tự nhiên mà có nhận thức; liền tự nghó rằng: ‘Ta do đã làm những gì, mà nay ta sinh ra nơi này?’ Rồi tự nhớ lại: ‘Đời trước ta ở nhân gian, thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghó điều thiện. Vì đã làm những việc này nên nay được sanh về cõi Trời. Giả như ở đây ta mạng chung, mà sinh vào cõi nhân gian trở lại, thì phải thanh tịnh thân, khẩu, ý và siêng năng gấp đơi trong việc tu tập các hạnh lành.’ Sau khi sinh ra chưa lâu, hài nhi tự biết đói, thì tự nhiên trước mặt hài nhi này có đồ đựng quý, trong đó đựng thức ăn thanh tịnh của cõi Trời, tự nhiên có, đủ cả trăm mùi vị. Nếu phước báo nhiều thì thức ăn màu trắng. Nếu phước báo vừa thì thức ăn có màu xanh. Cịn nếu phước báo ít thì thức ăn có màu đỏ. Đứa trẻ này dùng tay lấy thức ăn đưa vào miệng, thức ăn tự nhiên tiêu mất, như váng sữa được chế vào trong lửa. Khi đứa trẻ ăn xong, mới tự cảm thấy khát, thì tự nhiên có đồ đựng quý, đựng đầy nước cam lồ. Nếu là người có nhiều phước báo thì nước này có màu trắng; nếu người này phước báo vừa vừa thì nước này có màu xanh; nếu là ngưới có phước báo ít thì nước này có màu đỏ. Đứa trẻ này lấy nước uống; nước tự động tiêu mất như váng sữa được chế vào lửa vậy. “Đứa trẻ này sau khi ăn uống xong, thì thân thể cao lớn cũng như các chư Thiên khác, liền vào trong hồ nước mà tự mình thưởng thức sự tắm gội rửa ráy. Khi đã tự mình thưởng thức xong thì ra khỏi hồ tắm, đến dưới cây hương. Cây hương sẽ cong xuống; nó dùng tay lấy các loại hương tự thoa vào thân mình. Sau đó lại đến cây y-kiếp-bối. Cây cong xuống, nó lấy các loại y mặc vào thân mình. Tiếp đến nơi cây trang nghiêm. Cây cong xuống, nó lấy các thứ đồ trang sức, để tự trang điểm thân. Tiếp đến cây Hoa man<註 n="1670"/>280, cây nghiêng xuống mợt bên, lấy tràng hoa đội lên đầu. Tiếp đến cây đồ vật, cây nghiêng xuống một bên, để lấy các thứ đồ vật báu. Tiếp đến cây có trái, cây nghiêng xuống một bên, hái trái tự nhiên, hoặc ăn hay ngậm, hoặc lọc nước mà uống. Tiếp đến cây nhạc khí, cây nghiêng xuống một bên, lấy nhạc khí Trời, khảy lên âm thanh trong trẻo vi diệu hịa cùng lời ca. Khi đứa trẻ cõi Trời hướng đến các khu vườn, thì thấy vơ số Thiên nữ đang khảy đàn đánh trống ca hát nói cười với nhau. Bấy giờ đứa trẻ cõi Trời dạo chơi thấy những cảnh như vậy, bèn sinh lịng đắm nhiễm, nhìn Đơng mà quên Tây, nhìn Tây mà quên Đơng. Lúc mà đứa trẻ này mới sinh, tự biết mà tự nghó rằng: ‘Do hành vi gì mà nay ta được sinh ra nơi này? Khi đang dạo chơi xem cảnh nơi kia, thì lại quên hết ý nghó này. Thế rồi, liền có thể nữ theo hầu. “Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói lời thiện, ý nghó điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Đao-lợi thiên; sau đó thức đời trước diệt; thức kia bắt đầu sinh ra; nhân thức này nên có danh sắc, nhân danh sắc nên có sáu nhập. Kẻ mới bắt đầu sinh của cõi Trời kia, giống như đứa trẻ hai hay ba tuổi ở cõi Diêm-phù-đề, tự nhiên biến hiện ra ở trên đầu gối của Trời và vị Trời ấy nói: ‘Đây là con trai của ta. Đây là con gái của ta.’ Cũng lại như đã kể trên. “Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Diệm-ma thiên; kẻ mới bắt đầu sinh của cõi trời kia, giống như đứa trẻ ba, bốn tuổi ở cõi Diêm-phù-đề này. “Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Đâu-suất thiên; kẻ mới sinh ở cõi Trời này, giống như đứa trẻ bốn, năm tuổi ở thế gian này. “Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Hóa tự tại thiên; kẻ mới sinh ở cõi trời này, giống như đứa trẻ năm, sáu tuổi ở thế gian này. “Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Tha hóa tự tại thiên; kẻ mới sinh ở cõi Trời này, giống như đứa trẻ sáu, bảy tuổi ở thế gian này, cũng lại như vậy.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Mỗi nửa tháng có ba ngày trai<註 n="1671"/>281, đó là: ngày mồng tám, ngày mười bốn và ngày mười lăm. Đó là ba ngày trai. Vì sao trong mỗi nửa tháng lấy ngày mùng tám làm ngày trai? Vì vào ngày mồng tám của mỗi nửa tháng là ngày Tứ thiên vương thường bảo sứ giả rằng: ‘Các ngươi nên đi khảo sát thế gian, xem xét mọi người, có biết hiếu thuận với cha mẹ, có kính thuận với Sa-mơn, Bà-la-mơn, có tơn kính các bậc trưởng lão, có trai giới, bố thí, có cứu giúp người nghèo thiếu hay khơng?’ Sau khi sứ giả nghe những lời dạy này rồi, liền đi khảo sát khắp trong thiên hạ, để biết có người hiếu thuận với cha mẹ, tơn kính Sa-mơn, Bà-la-mơn, kính trọng các bậc trưởng lão, trì giới giữ trai, bố thí cho người nghèo thiếu. Sau khi xem xét đầy đủ rồi, thấy có những người bất hiếu với cha mẹ, bất kính sư trưởng, khơng tu trai giới, khơng cứu giúp người nghèo thiếu, về thưa với nhà vua rằng: ‘Tâu Thiên vương, ở thế gian những người hiếu thuận với cha mẹ, kính trọng sư trưởng, tịnh tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu thì rất ít! rất ít!’ Sau khi Tứ thiên vương nghe xong, sầu lo khơng vui, đáp rằng: ‘Than ơi! nếu người thế gian, có nhiều kẻ ác, bất hiếu với cha mẹ, khơng kính trọng sư trưởng, khơng tu tập trai giới, khơng giúp đỡ người nghèo thiếu! thì chúng chư Thiên sẽ tổn giảm và chúng A-tu-luân sẽ tăng thêm.’ Trường hợp nếu sứ giả thấy ở thế gian mà có người hiếu kính mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ người nghèo, thì trở về bạch với Thiên vương rằng: ‘Ở thế gian có người hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ người nghèo thiếu.’ Thì Tứ thiên vương sau khi nghe xong rất là hoan hỷ, xướng lên rằng: ‘Lành thay! Ta đã nghe những lời tốt lành, thế gian nếu có những người có thể hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ tăng thêm và chúng A-tu-luân sẽ giảm bớt.’ “Vì sao lấy ngày mười bốn làm ngày trai? Vì ngày mười bốn là ngày mà Tứ thiên vương bảo thái tử rằng: ‘Ngươi nên đi khảo sát khắp thiên hạ, xem xét mọi người, để biết có người hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ người nghèo thiếu hay khơng?’ Sau khi vâng lời dạy của vua xong, thái tử liền đi khảo sát thiên hạ, xem xét mọi người, có biết hiếu thuận mẹ cha, tơn trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ người nghèo thiếu hay khơng. Khi đã quán sát tất cả rồi, nhận thấy thế gian có người khơng hiếu thuận mẹ cha, khơng kính sư trưởng, khơng tu trai giới, khơng giúp đỡ người nghèo thiếu, trở về thưa vua rằng: ‘Tâu Thiên vương, ở thế gian người hiếu thuận với cha mẹ, tơn kính sư trưởng, tu hành trai giới thanh tịnh, giúp đỡ những người nghèo thiếu thì rất ít! rất ít!’ Tứ thiên vương nghe xong, sầu lo khơng vui, bảo rằng: ‘Than ơi! Nếu thế gian có nhiều kẻ ác, khơng hiếu thuận mẹ cha, khơng tơn trọng sư trưởng, khơng tu tập trai giới, khơng giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ giảm bớt, chúng A-tu-luân sẽ tăng thêm.’ Nếu thái tử nhận thấy thế gian có người hiếu thuận mẹ cha, tơn kính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì liền trở về thưa vua rằng: ‘Tâu Thiên vương, ở thế gian có người hiếu thuận với mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu.’ Tứ thiên vương nghe xong, lịng rất vui mừng, xướng lên rằng: ‘Lành thay! Ta nghe được những lời tốt lành, là ở thế gian nếu có những người hiếu thuận với mẹ cha, tơn trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ tăng thêm, chúng A-tu-luân sẽ giảm bớt.’ Cho nên ngày mười bốn là ngày trai. “Vì sao lấy ngày mười lăm làm ngày trai? Vì ngày mười lăm là ngày Tứ thiên vương đích thân tự đi khảo sát thiên hạ, xem xét mọi người ở trong thế gian, có hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu hay khơng? Nếu nhận thấy người thế gian phần nhiều bất hiếu với mẹ cha, khơng tơn trọng sư trưởng, khơng siêng trai giới, khơng giúp đỡ kẻ nghèo thiếu, thì Tứ thiên vương đến điện Thiện pháp thưa với Đế Thích: ‘Đại vương biết cho, chúng sanh ở thế gian phần nhiều bất hiếu với mẹ cha, khơng kính trọng sư trưởng, khơng tu trai giới, khơng giúp đỡ kẻ nghèo thiếu!’ Sau khi Đế Thích và chư Thiên Đao-lợi nghe xong lịng buồn lo khơng vui nói rằng: ‘Than ơi! Nếu chúng sanh ở thế gian phần nhiều là ác, khơng hiếu thuận mẹ cha, khơng tơn kính sư trưởng, khơng tu trai giới, khơng giúp kẻ nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ giảm bớt, chúng A-tu-luân sẽ tăng lên.’ Nếu Tứ thiên vương nhận thấy thế gian có người hiếu thuận với mẹ cha, tơn kính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ kẻ nghèo thiếu, thì trở về điện Thiện pháp tâu với Đế Thích: ‘Người thế gian có kẻ hiếu thuận với mẹ cha, tơn kính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp kẻ nghèo thiếu.’ Sau khi Đế Thích và chư Thiên Đao-lợi nghe xong lịng rất là hoan hỷ, xướng lên rằng: ‘Lành thay! Nếu ở thế gian mà có kẻ hiếu thuận mẹ cha, tơn kính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp kẻ nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ tăng, chúng A-tu-luân sẽ giảm.’ Cho nên lấy ngày mười lăm là ngày trai giới. Vì lý do trên nên có ba ngày trai. Bấy giờ, Đế Thích muốn cho chư Thiên càng thêm hoan hỷ hơn, liền nói bài kệ: Thường lấy ngày mồng tám, Mười bốn, rằm mỗi tháng, Cải hóa, tu trai giới, Người này đồng với Ta.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Đế Thích nói bài kệ này, khơng phải là khéo thọ, khơng phải là khéo nói; Ta cũng khơng ấn khả. Vì sao? Vì Đế Thích chưa dứt hết dâm dục, sân hận, si mê, chưa thốt khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ não. Ta bảo người này chưa lìa khỏi gốc khổ. Tỳ-kheo nào của Ta, nếu lậu hoặc đã hết, được A-la-hán, những gì cần làm đã làm xong, đã trút bỏ gánh nặng, đã được tự lợi, đã hết kết sử các hữu, bình đẳng giải thốt, thì Tỳ-kheo đó mới đáng nói bài kệ này: Thường lấy ngày mồng tám, Mười bốn, rằm mỗi tháng, Vâng lời tu trai giới, Người này đồng với Ta.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Tỳ-kheo kia nói bài kệ này mới gọi là khéo thọ, mới gọi là khéo nói, được Ta ấn khả. Vì sao? Vì Tỳ-kheo kia đã dứt sạch dâm dục, sân hận, si mê, đã thốt khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ não. Ta bảo người kia đã lìa khỏi gốc khổ.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Tất cả chỗ ở như nhà cửa của mọi người đều có quỷ thần, khơng có chỗ nào là khơng có cả. Tất cả mọi đường sá, mọi ngã tư, hàng thịt, chợ búa, cùng bãi tha ma đều có quỷ thần, khơng có chỗ nào là khơng có cả. Phàm các lồi quỷ thần đều tùy thuộc vào chỗ nương náu mà có tên. Như nếu nương vào người thì gọi là người; nương vào thơn thì gọi là thơn; nương vào thành thì gọi là thành; nương vào nước thì gọi là nước; nương vào đất thì gọi là đất; nương vào núi thì gọi là núi, nương vào sơng thì gọi là sơng.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, khơng có chỗ nào là khơng có. Tất cả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu khi nào họ chết thì quỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên người này sẽ chết ngay.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Giả như có Phạm-chí ngoại đạo hỏi rằng: ‘Chư Hiền! Nếu như tất cả nam nữ khi bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên giữ gìn, ủng hộ; khi người kia sắp chết, quỷ thần giữ gìn ủng hộ kia sẽ thu nhiếp tinh khí họ, thì người này chết. Nhưng tại sao người hiện nay lại có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người khơng bị quỷ thần quấy nhiễu?’ Nếu có người hỏi câu này, thì các Thầy nên trả lời cho họ rằng: ‘Người thế gian hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, những người như vậy, thì trong trăm hay ngàn mới có một thần theo bảo hộ thơi. Giống như đàn bị, đàn dê, trong trăm hay ngàn con cũng chỉ có một người chăn giữ; thì việc này cũng như vậy, vì hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, nên những người như vậy, trong trăm hay ngàn người mới có một thần bảo hộ thơi. Nếu có người nào tu hành pháp thiện, chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, chỉ một người như vậy, thì cũng có trăm ngàn thần bảo hộ rồi. Giống như quốc vương, đại thần của quốc vương có trăm ngàn người hộ vệ một người; thì việc này cũng như vậy, người tu hành pháp thiện, đầy đủ mười nghiệp thiện, như một người có trăm ngàn thần hộ vệ. Vì nhân duyên này cho nên, người thế gian có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người khơng bị quỷ thần quấy nhiễu. “Người cõi Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Câu-da-ni, đó là: một, dõng mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo nghiệp hành; hai, dõng mãnh, nhớ dai, siêng tu phạm hạnh; ba, vì dõng mãnh, nhớ dai, nên Phật ra đời ở cõi này. Do có ba điều này nên hơn người Câu-da-ni. Người Câu-da-ni có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, nhiều bị; hai, nhiều dê; ba, nhiều châu ngọc. Do có ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề. “Người Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Phất-vu-đãi, đó là: một, dõng mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo ra nghiệp hành; hai, dõng mãnh, nhớ dai, thường tu phạm hạnh; ba, dõng mãnh, nhớ dai, Phật ra đời ở cõi này. Vì ba điều này nên hơn Phất-vu-đãi. Người Phất-vu-đãi có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, cõi này rất rộng; hai, cõi này rất lớn; ba, đất đai cõi này rất vi diệu. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề. “Người Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Uất-đan-viết, đó là: một, mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tạo ra hành nghiệp; hai, mạnh mẽ, nhớ dai, thường tu hành phạm hạnh; ba, mạnh mẽ, nhớ dai, Phật ra đời ở cõi này. Đó là ba điều hơn người Uất-đan-viết. Người Uất-đan-viết có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, khơng bị ràng buộc lệ thuộc; hai, khơng có vật sở hữu của ngã; ba, tuổi thọ cố định là ngàn năm. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề. Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên mà hơn đường ngạ quỷ. Đường ngạ quỷ có ba điều hơn Diêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai, thân to lớn; ba, người khác làm mà mình chịu. Vì ba điều này nên hơn Diêm-phù-đề. “Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên nên hơn lồi rồng, Kim sí điểu. Lồi rồng, Kim sí điểu lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai, thân to lớn; ba, cung điện. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề. “Người Diêm-phù-đề vì ba điều trên nên hơn A-tu-luân. A-tu-luân lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, cung điện cao, rộng; hai, cung điện trang nhiêm; ba, cung điện thanh tịnh. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề. “Người Diêm-phù-đề vì ba điều trên mà hơn Tứ thiên vương. Tứ thiên vương lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai, đoan chánh; ba, an vui nhiều; vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề. “Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên mà hơn Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên. Các hàng chư Thiên này lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai, đoan chánh; ba, an vui nhiều.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Chúng sanh cõi Dục có mười hai loại, đó là: “1. Địa ngục. “2. Súc sanh. “3. Ngạ quỷ. “4. Người. “5. A-tu-luân. “6. Tứ thiên vương. “7. Đao-lợi thiên. “8. Diệm-ma thiên. “9. Đâu-suất thiên. “10. Hóa tự tại thiên. “11. Tha hóa tự tại thiên. “12. Ma thiên. “Chúng sanh cõi Sắc có hai mươi hai loại, đó là: “1. Phạm thân thiên. “2. Phạm phụ thiên. “3. Phạm chúng thiên. “4. Đại Phạm thiên. “5. Quang thiên. “6. Thiểu quang thiên. “7. Vơ lượng quang thiên. “8. Quang âm thiên. “9. Tịnh thiên. “10. Thiểu tịnh thiên. “11. Vơ lượng tịnh thiên. “12. Biến tịnh thiên. “13. Nghiêm sức thiên. “14. Tiểu nghiêm sức thiên. “15. Vơ lượng nghiêm sức thiên. “16. Nghiêm thắng quả thật thiên. “17. Vơ tưởng thiên. “18. Vơ phiền thiên. “19. Vơ nhiệt thiên. “20. Thiện kiến thiên. “21. Đại Thiện kiến thiên. “22. A-ca-nị-trá thiên. “Chúng sanh cõi Vơ sắc có bốn loại, đó là: “1. Khơng trí thiên. “2. Thức trí thiên. “3. Vơ sở hữu trí thiên. “4. Hữu tưởng vơ tưởng trí thiên.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Có bốn loại Đại Thiên thần, đó là: “1. Địa thần. “2. Thủy thần. “3. Phong thần. “4. Hỏa thần. Xưa kia Địa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm rằng: ‘Trong đất khơng có nước, lửa và gió.’ Lúc đó Ta biết rõ tâm niệm của thần đất này, liền đến bảo rằng: Ngươi đang nảy sanh ra ý nghó: ‘Trong đất khơng có nước, lửa và gió phải khơng?’ Địa thần đáp: ‘Trong đất quả thực khơng có nước, lửa và gió.’ Lúc ấy Ta bảo rằng: ‘Ngươi chớ nảy sanh ý niệm này là trong đất khơng có nước, lửa và gió. Vì sao? Vì trong đất có nước, lửa và gió, chỉ vì yếu tố đất nhiều nên lấy đất mà gọi tên’.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Lúc ấy Ta vì Địa thần mà lần lượt nói pháp, để dứt trừ nhận thức sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ơ nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh. Lúc ấy Ta biết rõ tâm niệm Địa thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, khơng cịn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của chư Phật, Ta chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ Địa thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ được nhuộm màu, Địa thần cũng như vậy, lịng tin đã thanh tịnh, nên được mắt pháp, khơng cịn hồ nghi, thấy pháp quyết định, khơng cịn rơi vào đường ác, khơng theo đường khác, thành tựu được pháp vơ úy, mà bạch với Ta rằng: ‘Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời khơng sát sanh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu, cho phép con được làm Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp’.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Xưa kia, Thủy thần nảy sanh ác kiến, nói rằng: ‘Trong nước khơng có đất, lửa và gió.’ Lúc ấy Địa thần biết rõ tâm niệm Thủy thần sinh ra nhận thức này, nên đến nói với Thủy thần rằng: ‘Thật sự ngươi có sinh ra kiến giải này, là trong nước khơng có đất, lửa và gió phải khơng?’ Đáp rằng: ‘Có thật như vậy.’ Địa thần nói: ‘Ngươi chớ sinh ra kiến giải này, là trong nước khơng có đất, lửa và gió. Vì sao? Vì trong nước có đất, lửa và gió, nhưng chỉ vì yếu tố nước nhiều quá, nên dùng yếu tố nước để gọi tên.’ Bấy giờ, Địa thần liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ơ nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh. Lúc ấy Địa thần biết rõ tâm niệm Thủy thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, khơng cịn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của chư Phật, chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ Thủy thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ được nhuộm màu, Thủy thần cũng như vậy, lịng tin đã thanh tịnh, nên được mắt pháp, khơng cịn hồ nghi, thấy pháp quyết định, khơng cịn rơi vào đường ác, khơng theo đường khác, thành tựu được pháp vơ úy, mà bạch với Địa thần rằng: ‘Nay tơi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời khơng sát sanh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu, xin nhận tơi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp’.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Xưa kia Hỏa thần nảy sanh ra ác kiến, nói rằng: ‘Trong lửa khơng có đất, nước và gió.’ Lúc ấy Địa thần và Thủy thần biết rõ tâm niệm Hỏa thần sinh ra nhận thức này, nên cùng nói với Hỏa thần rằng: ‘Thật sự ngươi có sinh ra kiến giải này phải khơng?’ Đáp rằng: ‘Có thật như vậy.’ Hai thần nói: ‘Ngươi chớ sinh ra kiến giải này. Vì sao? Vì trong lửa có đất, nước và gió, nhưng chỉ vì yếu tố lửa nhiều quá, nên dùng yếu tố lửa để gọi tên.’ Bấy giờ, hai vị thần Địa và Thủy liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ơ nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh. Lúc ấy hai thần biết rõ tâm niệm Hỏa thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, khơng cịn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của chư Phật, chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ Hỏa thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ được nhuộm màu, Hỏa thần cũng như vậy, lịng tin đã thanh tịnh, nên được mắt pháp, khơng cịn hồ nghi, thấy pháp quyết định, khơng cịn rơi vào đường ác, khơng theo đường khác, thành tựu được pháp vơ úy, mà bạch với hai thần rằng: ‘Nay tơi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời khơng sát sanh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu, xin nhận tơi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp’.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Xưa kia Phong thần nảy sanh ra nhận thức sai lầm rằng: ‘Trong gió khơng có đất, nước và lửa.’ Lúc ấy Địa thần, Thủy thần, Hỏa thần biết rõ tâm niệm Phong thần sinh ra nhận thức này, nên đến nói rằng: ‘Thật sự ngươi có sinh ra kiến giải này phải khơng?’ Đáp rằng: ‘Có thật như vậy.’ Ba vị thần nói: ‘Ngươi chớ sinh ra kiến giải này. Vì sao? Vì trong gió có đất, nước và lửa, nhưng chỉ vì yếu tố gió nhiều quá, nên dùng yếu tố gió để gọi tên.’ Bấy giờ, ba vị thần liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ơ nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh. Lúc ấy ba thần biết rõ tâm niệm của Phong thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, khơng cịn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của chư Phật, chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ Phong thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như tấm vải trắng sạch sẽ dễ được nhuộm màu, Phong thần cũng như vậy, lịng tin đã thanh tịnh, nên được mắt pháp, khơng cịn hồ nghi, thấy pháp quyết định, khơng cịn rơi vào đường ác, khơng theo đường khác, thành tựu được pháp vơ úy, mà bạch với ba thần rằng: ‘Nay tơi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời khơng sát sanh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu, xin nhận tơi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp’.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Mây có bốn thứ, đó là: một là màu trắng; hai là màu đen; ba là màu đỏ; bốn là màu hồng. Mây có màu trắng vì yếu tố đất đặc biệt nhiều; mây có màu đen vì yếu tố nước đặc biệt nhiều hơn; mây có màu đỏ vì yếu tố lửa đặc biệt nhiều hơn; mây có màu hồng vì yếu tố gió đặc biệt nhiều hơn. Mây cách mặt đất từ hai mươi dặm, ba mươi dặm, bốn mươi dặm… cho đến bốn ngàn dặm; ngoại trừ kiếp sơ, cịn sau đó thì mây lên đến cõi Quang âm thiên. Chớp có bốn loại, đó là: Chớp ở phương Đơng gọi là thân quang; chớp ở phương Nam gọi là nan hủy; chớp ở phương Tây gọi là lưu diễm; chớp ở phương Bắc gọi là định minh<註 n="1672"/>282. Vì sao mây ở trong hư khơng có hiện tượng ánh chớp này? Có lúc thân quang cùng nan hủy chạm nhau, có khi thân quang cùng với lưu diễm chạm nhau, có khi thân quang cùng với định minh chạm nhau, có khi nan hủy cùng với lưu diễm chạm nhau, có khi nan hủy cùng với định minh chạm nhau, có khi lưu diễm cùng với định minh chạm nhau; vì những nhân duyên này nên mây giữa hư khơng sinh ra ánh chớp. Và vì sao mây ở giữa hư khơng lại sinh ra sấm chớp? Vì ở giữa hư khơng có khi địa đại cùng với thủy đại chạm nhau, có khi địa đại cùng với hỏa đại chạm nhau, có khi địa đại cùng với phong đại chạm nhau, có khi thủy đại cùng với hỏa đại chạm nhau, có khi thủy đại cùng với phong đại chạm nhau; vì những nhân duyên này mà mây giữa hư khơng sinh ra sấm chớp. “Có năm lý do mà các thầy tướng khơng thể tiên đốn và khơng thể biết được một cách chắc chắn về mưa nên dẫn đến việc sai lầm trong lúc đốn, đó là: một, trong mây có sấm chớp, đốn rằng sắp mưa; nhưng vì hỏa đại nhiều nên nó thiêu hủy mây đi, vì vậy mà khơng mưa. Đó là lý do thứ nhất khiến cho các thầy tướng đốn sai lầm. Hai, trong mây có sấm chớp, đốn rằng sắp mưa, nhưng vì phong đại nổi lên, thổi mây bay tứ tán vào trong các núi, vì lý do này nên khiến cho các thầy tướng đốn sai lầm. Ba, trong mây có sấm chớp, đốn rằng sắp mưa, nhưng bấy giờ Đại A-tu-luân đem phù vân đặt giữa biển cả, vì lý do này mà thầy tướng đốn sai lầm. Bốn, trong mây có sấm chớp,ï đốn rằng sắp mưa, nhưng vì thần mây, thần mưa đang buơng lung dâm loạn, nên rốt cùng khơng làm mưa, vì lý do này nên thầy tướng đốn sai lầm. Năm, trong mây có sấm chớp, đốn rằng sắp mưa, nhưng vì mọi người trong thế gian hành động buơng lung phi pháp, làm hạnh bất tịnh, tham lam, keo kiệt, ghen ghét, kiến giải điên đảo, nên khiến trời khơng mưa xuống, vì lý do này nên thầy tướng đốn sai. Đó là năm lý do làm cho các thầy tướng khơng thể biết để đốn mưa một cách chắc chắn được.” <類> <章 id="485140916">Phẩm 9: TAM TAI<註 n="1673"/>283 Phật bảo Tỳ-kheo: “Có bốn sự kiện<註 n="1674"/>284 trường cửu, khơng lường, khơng giới hạn, khơng thể dùng năm, tháng, ngày để mà tính kể được. Bốn sự kiện, đó là: Một, ở thế gian có những thứ tai nạn khởi lên từ từ; khi thế giới này tan hoại, trung gian là một khoảng thời gian trường cửu, khơng lường, khơng giới hạn, khơng thể dùng năm, tháng, ngày để mà tính kể được. Hai, sau khi thế giới này tan hoại rồi, thì trung gian là một khoảng trống vắng mênh mơng, khơng có thế giới; thời gian này là mịt mù trường cửu, khơng thể dùng số lượng năm, tháng, ngày để mà tính được. Ba, khi trời đất mới bắt đầu khởi hướng nhắm đến sự hình thành tựu, thì khoảng thời gian này là trường cửu, khơng thể dùng số lượng năm, tháng, ngày để mà tính được. Bốn, sau khi trời đất đã hồn thành rồi, tồn tại lâu dài khơng hoại, khơng thể dùng số lượng năm, tháng, ngày để mà tính được. Đó là bốn sự kiện trường cửu, khơng lường, khơng có giới hạn, khơng thể dùng số lượng năm, tháng, ngày để tính tốn được.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Ở thế gian có ba thứ tai kiếp<註 n="1675"/>285; đó là: Một, tai kiếp lửa. Hai, tai kiếp nước. Ba, tai kiếp gió. Có giới hạn phía trên của ba tai kiếp. Thế nào là ba? Đó là: một, Quang âm thiên<註 n="1676"/>286; hai, Biến tịnh thiên<註 n="1677"/>287; ba, Quả thật thiên<註 n="1678"/>288. Khi tai kiếp lửa khởi lên, cháy lên cho đến Quang âm thiên, thì Quang âm thiên là giới hạn. Khi tai kiếp nước khởi lên, ngập cho đến Biến tịnh thiên, thì Biến tịnh thiên là giới hạn. Khi tai kiếp gió khởi lên, thổi cho đến Quả thật thiên, thì Quả thật thiên là giới hạn. “Thế nào là tai kiếp lửa? Khi tai kiếp lửa bắt đầu sắp sửa khởi, thì con người thế gian này lúc đó đều thực hành chánh pháp, đều chánh kiến khơng điên đảo, đều tu thập thiện hành<註 n="1679"/>289. Khi thực hành pháp này, có người đạt được Nhị thiền, liền có thể cất mình bay lên ở giữa hư khơng, trụ vào Thánh nhơn đạo, Thiên đạo, Phạm đạo<註 n="1680"/>290 và lớn tiếng xướng lên rằng: ‘Các Hiền giả! Sung sướng thay, đệ Nhị thiền khơng giác khơng quán! Sung sướng thay, đệ Nhị thiền!<註 n="1681"/>291’ Lúc ấy, người thế gian nghe những lời này rồi, liền ngửa mặt lên trời nói với họ rằng: ‘Lành thay! Lành thay! xin vì tơi mà nói đạo của đệ Nhị thiền khơng giác, khơng quán.’ Lúc này, người ở giữa hư khơng nghe những lời của người kia rồi liền nói về đạo của Nhị thiền khơng giác, khơng quán. Sau khi người thế gian nghe nói rồi, liền tu đạo của Nhị thiền khơng giác, khơng quán, nên khi thân hoại mạng chung được sinh về Quang âm thiên. “Lúc ấy, những chúng sanh có tội trong địa ngục, sau khi mạng chung lại được sinh vào cõi người và tu tập pháp của đệ Nhị thiền khơng giác, khơng quán, nên sau khi thân hoại mạng chung được sinh về Quang âm thiên. Những chúng sanh ở trong các lồi Súc sanh, Ngạ quỷ, A-tu-la, Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm thiên, sau khi thân hoại mạng chung sanh lại cõi nhân gian; sau đó tu tập Nhị thiền khơng giác, khơng quán, thì sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về Quang âm thiên. Vì những nhân duyên này nên đường địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-la, cho đến Phạm thiên tất cả đều diệt. Ngay lúc bấy giờ, trước tiên là địa ngục diệt, sau đó súc sanh diệt; súc sanh diệt rồi thì ngạ quỷ diệt; ngạ quỷ diệt rồi thì A-tu-la diệt; A-tu-la diệt rồi thì Tứ thiên vương diệt; Tứ thiên vương diệt rồi thì Đao-lợi thiên diệt; Đao-lợi thiên diệt rồi thì Diệm-ma thiên diệt; Diệm-ma thiên diệt rồi thì Đâu-suất thiên diệt; Đâu-suất thiên diệt rồi thì Hóa tự tại thiên diệt; Hóa tự tại thiên diệt rồi thì Tha hóa tự tại thiên diệt; Tha hóa tự tại thiên diệt rồi thì Phạm thiên diệt; Phạm thiên diệt rồi thì sau đó con người diệt, khơng cịn sót gì lại sau này. Khi con người đã diệt, khơng cịn gì nữa, thì thế gian này sẽ hủy hoại cho đến thành là tai nạn. Sau đó trời khơng mưa, trăm thứ lúa thóc, cỏ cây tự nhiên chết khơ.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt, vượt qua thế gian. “Sau đó, qua một thời gian rất lâu, có một trận bão lớn<註 n="1682"/>292 bạo khởi, thổi nước biển lớn, làm cho nước biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị tách làm hai; mang cung điện mặt trời đem đặt lưng chừng núi Tu-di; cách mặt đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, đặt làm quỹ đạo của mặt trời<註 n="1683"/>293. Do nhân duyên này mà thế gian có hai mặt trời xuất hiện. Sau khi hai mặt trời xuất hiện, thì những giịng sơng, ngịi, kênh, rạch nhỏ có được trên thế gian này, đều khơ kiệt.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau đó một thời gian rất lâu có một trận bão lớn bạo khởi, thổi nước biển lớn, làm cho nước biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị tách làm hai; mang cung điện mặt trời, đem đặt lưng chừng núi Tu-di; cách mặt đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, an trí quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có ba mặt trời xuất hiện. Sau khi ba mặt trời xuất hiện, thì những nơi có nước nhiều như: sơng Hằng, sơng Da-bà-na, sơng Bà-la, sơng A-di-la-bà-đề, sơng A-ma-khiếp, sơng Tân-đà, sơng Cố-xá tất cả đều khơ cạn, khơng cịn một giọt. “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ, Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau đó một thời gian rất lâu có một trận bão lớn bạo khởi, thổi nước biển lớn, làm cho nước biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị tách làm hai; mang cung điện mặt trời, đem đặt lưng chừng núi Tu-di; cách mặt đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, an trí quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có bốn mặt trời xuất hiện. Sau khi bốn mặt trời xuất hiện, thì những con suối, nguồn nước, hồ, vực, trong thế gian như ao lớn Thiện kiến, ao lớn A-nậu-đạt, ao Tứ-phương-đà-diên, ao Ưu-bát-la, ao Câu-vật-đầu, ao Phân-đà-lî, ao Ly; dọc ngang rộng năm mươi do-tuần, thảy đều khơ cạn hết. “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau đó, một thời gian lâu dài, có một trận bão lớn bạo khởi, thổi nước biển lớn, làm cho nước biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị tách làm hai; mang cung điện mặt trời, đem đặt lưng chừng núi Tu-di; cách mặt đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, an trí quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có năm mặt trời xuất hiện. Sau khi năm mặt trời xuất hiện, thì nước trong biển lớn bị vơi dần từ một trăm do-tuần cho đến bảy trăm do-tuần. “Vì vậy nên biết rằng: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Bấy giờ, nước biển lớn vơi dần hết chỉ cịn có từ bảy trăm do-tuần, rồi sáu trăm do-tuần, rồi năm trăm do-tuần, rồi bốn trăm do-tuần, và… cho đến chỉ tồn tại một trăm do-tuần. Vì vậy nên biết rằng: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Bấy giờ, nước biển lớn từ từ vơi dần chỉ cịn từ bảy do-tuần, rồi sáu do-tuần, rồi năm do-tuần và… cho đến chỉ cịn tồn tại một do-tuần.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: ‘Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau đó nước biển vơi dần chỉ cịn từ bảy cây Đa-la, rồi sáu cây Đa-la, và… cho đến chỉ cịn bằng một cây Đa-la.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy, nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau đó nước biển chuyển cạn dần từ bảy người, rồi sáu người, rồi năm người, rồi bốn người, rồi ba người, rồi hai người, rồi một người, cho đến chỉ cịn từ thắt lưng, rồi đầu gối, rồi đến … mắt cá chân người.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng để cho con người chán nản và lo sợ, nên tìm đạo giải thốt độ thế gian. “Sau đó, nước biển chỉ cịn giống như sau cơn mưa xuân; cũng giống như nước trong dấu chân trâu, từ từ cạn hết, khơng đủ thấm ướt ngón tay người’.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau đó, qua một thời gian lâu dài, có trận bão lớn bạo khởi, thổi cát đáy biển, độ sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, dạt lên hai bờ; mang cung điện mặt trời đem đặt lưng chừng núi Tu-di, an trí quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có sáu mặt trời xuất hiện. Sau khi sáu mặt trời xuất hiện, thì bốn châu thiên hạ, cùng tám vạn núi trong thiên hạ, núi lớn, Tu-di sơn vương… đều bốc khói cháy xém, giống như thợ gốm khi bắt đầu đun đồ gốm, thì lúc sáu mặt trời xuất hiêïn lại cũng như vậy.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau đó, qua một thời gian lâu dài, có trận bão lớn bạo khởi, thổi cát đáy biển, độ sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, dạt lên hai bờ; mang cung điện mặt trời đem đặt lưng chừng núi Tu-di, an trí quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có bảy mặt trời xuất hiện. Sau khi bảy mặt trời xuất hiện, thì bốn châu thiên hạ này, cùng tám vạn núi trong thiên hạ, các núi lớn, Tu-di sơn vương… tất cả đều rực lửa. Cũng như thợ gốm khi đốt to, ngọn lửa bốc lên, lúc bảy mặt trời xuất hiêïn lại cũng như vậy.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. Bốn châu thiên hạ này, cùng tám vạn núi trong thiên hạ, các núi lớn, Tu-di sơn vương… tất cả đều rực lửa. Cùng lúc, cung điện Tứ thiên vương, cung điện Đao-lợi thiên, cung điện Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên, cung điện Phạm thiên cũng đều rực lửa.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau khi bốn châu thiên hạ này… cho đến Phạm thiên, thảy đều rực lửa, gió thổi ngọn lửa đến cõi Quang âm thiên. Các Thiên tử sơ sinh khi thấy ngọn lửa này đều sanh lịng sợ hãi, nói rằng: ‘Ối! Vật gì đây?’ Chư Thiên sinh trước nói với chư Thiên sinh sau rằng: ‘Chớ sợ hãi! Lửa kia đã từng đến và dừng lại ngang đó.’ Vì nghó đến ánh lửa trước nên gọi là Quang niệm thiên<註 n="1684"/>294. “Khi bốn thiên hạ này, … cho đến Phạm thiên, bốc lửa, thì Tu-di sơn vương dần dần sụp lở, từ một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần… cho đến bảy trăm do-tuần.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian. “Sau khi bốn châu thiên hạ này… cho đến Phạm thiên đều bị lửa đốt sạch, sau đó đại địa cùng Tu-di sơn khơng cịn chút tro tàn nào hết. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian.” “Sau khi đại địa bị lửa đốt cháy sạch rồi, thì nước ở bên dưới đất cũng hết; gió ở bên dưới nước cũng hết. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, biến dịch, mục nát hư hoại, khơng thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt qua thế gian.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Khi tai kiếp lửa khởi lên, thì trời khơng mưa xuống, trăm thứ lúa, cỏ, cây tự nhiên bị khơ chết. Ai sẽ tin? Chỉ có ai đã thấy thì sẽ tự biết mà thơi! Cũng vậy, cho đến, nước ở bên dưới đất hết, gió ở bên dưới nước cũng hết; ai sẽ tin? Chỉ có ai đã thấy thì sẽ tự biết mà thơi! “Đó là tai kiếp lửa. “Thế nào là sự phục hồi của kiếp lửa<註 n="1685"/>295 ? Sau đó rất lâu, rất lâu, có đám mây đen lớn ở giữa hư khơng, cho đến cõi Quang âm thiên; mưa đổ xuống khắp nơi, giọt mưa như bánh xe. Mưa như vậy trải qua vơ số trăm ngàn năm, nước mưa lớn dần, cao đến vơ số trăm ngàn do-tuần, cho đến cõi Quang âm thiên. “Bấy giờ, có bốn trận gió lớn nổi lên, giữ nước này trụ lại. Những gì là bốn? Một là Trụ phong, hai là Trì phong, ba là Bất động, bốn là Kiên cố<註 n="1686"/>296. Sau đó nước này vơi bớt một trăm ngàn do-tuần, rồi vơ số trăm ngàn vạn do-tuần. Bốn mặt của nước này khởi lên trận gió lớn tên gió là Tăng già<註 n="1687"/>297, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên cung. Thiên cung trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có thiên cung Phạm-ca-di<註 n="1688"/>298. Khi nước kia vơi mãi cho đến vơ số trăm ngàn vạn do-tuần, thì bốn mặt của nước này lại nổi lên gió lớn, được gọi là tăng già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên cung. Thiên cung này trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có thiên cung Tha hóa tự tại. “Khi nước kia vơi bớt mãi cho đến vơ số ngàn vạn do-tuần, thì bốn mặt nước này nổi lên gió lớn, có gió tên là tăng già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên cung. Thiên cung này trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có thiên cung Hóa tự tại. “Khi nước kia rút xuống vơ số trăm ngàn do-tuần, thì có gió tên là tăng già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên cung. Thiên cung này trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có thiên cung Đâu-suất. “Khi nước kia rút xuống vơ số trăm ngàn do-tuần, thì có gió tên là tăng già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên cung. Thiên cung này trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có thiên cung Diệm-ma. “Khi nước kia rút xuống vơ số trăm ngàn do-tuần, thì trên nước có bọt và sâu sáu mươi vạn tám ngàn do-tuần, các biên của nó khơng có bờ mé. Cũng như dịng nước, suối, nguồn, hang, động ở thế gian này, trên nước của nó có bọt; thì kia cũng như vậy. “Vì nhân duyên gì mà có núi Tu-di? Vì có cuồng phong nổi dậy, nên thổi bọt nước này tạo thành núi Tu-di, cao sáu mươi vạn tám ngàn do-tuần, dọc ngang tám vạn bốn ngàn do-tuần và do bốn báu tạo thành: vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly. “Vì nhân duyên gì mà có bốn cung điện A-tu-luân? Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn, ở tại bốn mặt của núi Tu-di nổi lên cung điện lớn; mỗi cung điện dọc ngang tám vạn do-tuần, tự nhiên biến thành cung điện bảy báu. “Lại vì nhân duyên gì mà có cung điện của Tứ thiên vương? Về sau, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên lưng chừng nửa núi Tu-di, độ bốn vạn hai ngàn do-tuần, tự nhiên biến thành cung điện bảy báu. Vì vậy cho nên gọi là cung điện Tứ thiên vương. “Vì nhân duyên gì có cung điện Đao-lợi thiên? Về sau, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên tới đỉnh núi Tu-di, tự nhiên biến thành cung điện bảy báu. “Lại vì nhân duyên gì mà có núi Già-đà-la<註 n="1689"/>299? Về sau, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Tu-di khơng xa, tự nhiên hóa thành núi báu, chân núi ăn sâu vào trong đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, dọc ngang bốn vạn hai ngàn do-tuần, biên ngồi thì khơng hạn, sắc tạp bên cạnh do bảy báu mà thành, vì nhân duyên này nên có núi Già-đà-la. “Lại vì nhân duyên gì mà có núi Y-sa<註 n="1690"/>300? Về sau, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Già-đà-la khơng xa, tự nhiên hóa thành núi Y-sa, cao hai vạn một ngàn do-tuần, dọc ngang hai vạn một ngàn do-tuần, ngồi biên thì khơng hạn, nhiều màu sắc xen nhau, do bảy báu mà thành. Vì nhân duyên này nên có núi Y-sa. Sau khi cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Y-sa khơng xa, tự nhiên hóa thành núi Thọ-thần-đà-la<註 n="1691"/>301, cao một vạn hai ngàn do-tuần, dọc ngang một vạn hai ngàn do-tuần, ngồi biên thì khơng hạn, nhiều màu xen nhau, do bảy báu mà thành. Vì nhân duyên này nên có núi Thọ-thần-đà-la. “Về sau, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Thọ thần-đà-la khơng xa, tự nhiên hóa thành núi A-bát-ni-lâu<註 n="1692"/>302, cao sáu ngàn do-tuần, dọc ngang sáu ngàn do-tuần, biên ngồi thì khơng hạn, nhiều sắc xen nhau, do bảy báu mà thành. Vì nhân duyên này nên có núi A-bát-ni-lâu. “Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi A-bát-ni-lâu khơng xa, tự nhiên hóa thành núi Ni-lân-đà-la<註 n="1693"/>303, cao ba ngàn do-tuần, dọc ngang ba ngàn do-tuần, biên ngồi thì khơng hạn, nhiều sắc tạp xen, do bảy báu mà thành. Vì nhân duyên này nên có núi Ni-lân-đà-la. “Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Ni-lân-đà-la khơng xa, tự nhiên hóa thành núi Tỳ-ni-đà<註 n="1694"/>304, cao một ngàn hai trăm do-tuần, dọc ngang một ngàn hai trăm do-tuần, biên ngồi thì khơng hạn, sắc tạp xen nhau, do bảy báu mà thành, vì nhân duyên này nên có núi Tỳ-ni-đà. “Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Tỳ-ni-đà khơng xa, tự nhiên hóa thành núi Kim cương luân<註 n="1695"/>305, cao ba trăm do-tuần, dọc ngang ba trăm do-tuần, biên ngồi thì khơng hạn, sắc tạp xen nhau, do bảy báu mà thành, vì nhân duyên này nên có núi Kim cương luân. “Vì sao có một cung điện mặt trăng, bảy cung điện mặt trời? Một thời gian sau, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn, thì tự nhiên biến thành một cung điện mặt trăng, bảy cung điện mặt trời, sắc tạp xen nhau, do bảy báu mà thành, vì bị bão thổi ngược trở lại chỗ cũ nên vì nhân duyên này mà có cung điện mặt trời và cung điện mặt trăng. “Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn, thì tự nhiên biến thành bốn châu thiên hạ, cùng tám vạn thiên hạ. Vì nhân duyên này nên có bốn châu thiên hạ cùng tám vạn thiên hạ. “Sau đó, cuồng phong thổi bọt nước lớn, thì tại tứ thiên hạ cùng tám vạn thiên hạ, tự nhiên biến thành núi Đại Kim cương luân, cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, dọc ngang rộng mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, biên giới của nó thì khơng có hạn; kim cương rắn chắc khơng thể hủy hoại. Vì nhân duyên này nên có núi Đại Kim cương luân. “Sau đó một thời gian rất lâu, rất lâu, có mây tự nhiên phủ đầy khơng trung và mưa lớn khắp nơi, những giọt nước mưa như bánh xe; nước này tràn đầy khắp nơi dìm bốn châu thiên hạ cùng núi Tu-di v.v… “Sau đó, cuồng phong thổi đất làm thành hầm hố lớn; nước khe suối đều chảy vào hết trong đó, nhân đây mà làm thành biển. Vì nhân duyên này nên có bốn biển nước lớn. Nước biển mặn đắng có ba nhân duyên. Những gì là ba? Một, mây tự nhiên giăng khắp hư khơng cho đến Quang âm thiên, mưa khắp mọi nơi, tẩy rửa cung trời, rửa sạch thiên hạ; từ cung trời Phạm-ca-di, cung trời Tha hóa tự tại xuống đến cung trời Diệm-ma, bốn thiên hạ, tám vạn thiên hạ, các núi, núi lớn, Tu-di sơn vương, thảy đều được tẩy rửa sạch sẽ; trong những nơi này, tất cả các thứ nước dịch bất tịnh, dơ dáy và mặn, đều trơi xuơi xuống mà vào trong biển cả hợp thành một vị, nên nước biển có vị mặn. Hai, vì xưa kia có vị Đại tiên trì cấm chú vào nước biển, muốn cho lúc nào nó cũng mặn đắng, người khơng uống được, cho nên chúng mặn đắng. Ba, vì trong nước biển lớn này có nhiều loại chúng sanh cư trú, thân hình chúng to dài đến, hoặc trăm do-tuần, hai trăm do-tuần… cho đến bảy trăm do-tuần, thở hít, ăn vào mửa ra, đại tiểu tiện đều ở trong đó, nên nước biển mặn. “Đó là tai kiếp lửa<註 n="1696"/>306.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Thế nào là tai kiếp nước? “Khi tai kiếp nước bắt đầu, con người trong thế gian này đều phụng hành chánh pháp, đều chánh kiến, khơng theo tà kiến, mà tu tập mười thiện nghiệp. Sau khi tu tập thiện hành, có người đạt được đệ Tam thiền khơng có hỷ, thân họ có thể cất lên ở giữa hư khơng, an trụ Thánh nhơn đạo, Thiên đạo, Phạm đạo và lớn tiếng xướng lên rằng: ‘Các Hiền giả! Sung sướng thay, đệ Tam thiền khơng có hỷ!’ Lúc ấy, người thế gian nghe những lời này rồi, liền ngửa mặt lên trời nói với họ rằng: ‘Lành thay! Lành thay! xin vì tơi mà nói đạo của Tam thiền khơng có hỷ.’ Lúc này, người ở giữa hư khơng nghe những lời của người kia rồi liền nói về đạo của Tam thiền khơng có hỷ. Sau khi người thế gian nghe nói rồi, liền tu đạo của Tam thiền khơng có hỷ, nên khi thân hoại mạng chung họ được sinh về Biến tịnh thiên. “Bấy giờ, những chúng sanh ở trong địa ngục, sau khi tội nghiệp của họ đã mãn, thân hoại mạng chung tái sinh vào nhân gian. Rồi cũng tu tập đạo của đệ Tam thiền; sau khi tu tập đạo thiền, thân hoại mạng chung, được sinh về Biến tịnh thiên. Những chúng sanh của các lồi súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-luân, Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm thiên, Quang âm thiên sau khi thân hoại mạng chung cũng tái sinh vào cõi nhân gian; nếu họ cũng tu tập đạo của đệ Tam thiền, khi thân hoại mạng chung họ cũng sẽ được sinh về Biến tịnh thiên. Vì nhân duyên này nên đạo địa ngục bị diệt tận và súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-luân, Tứ thiên vương… cho đến cõi Quang âm thiên cũng đều diệt tận. Vào lúc bấy giờ, trước tiên là địa ngục biến mất, sau đó súc sanh biến mất; súc sanh biến mất rồi, thì ngạ quỷ biến mất; ngạ quỷ biến mất rồi, thì A-tu-luân biến mất; khi A-tu-luân biến mất rồi, thì Tứ thiên vương biến mất; khi Tứ thiên vương biến mất rồi, thì Đao-lợi thiên biến mất, khi Đao-lợi thiên biến mất rồi, thì Diệm-ma thiên biến mất; Diệm-ma thiên biến mất rồi, thì Đâu-suất thiên biến mất; khi Đâu-suất thiên biến mất rồi, thì Hóa tự tại thiên biến mất; khi Hóa tự tại thiên biến mất rồi, thì Tha hóa tự tại thiên biến mất; khi Tha hóa tự tại thiên biến mất rồi, thì Phạm thiên biến mất; khi Phạm thiên biến mất rồi, thì Quang âm thiên biến mất; khi Quang âm thiên biến mất, sau đó thì lồi người hồn tồn biến mất. Sau khi lồi người hồn tồn biến mất, thế gian này hủy diệt. Như thế là hồn thành tai kiếp<註 n="1697"/>307. “Rất lâu sau đó, rất lâu, có đám mây đen lớn bạo khởi, trên cho đến Biến tịnh thiên, mưa khắp mọi nơi, mưa xuống hồn tồn là nước nóng. Thứ nước này sơi sục, đun nấu thiên hạ, làm cho các cung điện cõi trời thảy đều bị tiêu hết, khơng cịn sót thứ gì, giống như đặt chất béo váng sữa<註 n="1698"/>308 vào trong lửa, đều bị chảy tiêu hết, khơng cịn sót thứ gì, thì cung điện Quang âm thiên cũng lại như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, là pháp biến dịch, khơng đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt khỏi thế gian. “Sau đó, mưa này lại xâm phạm đến cung điện cõi trời Phạm-ca-di, cũng đun chảy tiêu hết, khơng sót thứ gì, giống như chất béo váng sữa đem đặt vào trong lửa, khơng cịn sót thứ gì, thì cung điện Phạm-ca-di lại cũng như vậy. “Sau đó, nước mưa này lại xâm phạm đến các cung điện Tha hóa tự tại thiên, Hóa tự tại thiên, Đâu-suất thiên, Diệm-ma thiên, cũng bị đun chảy tiêu hết, khơng cịn sót thứ gì, giống như chất béo váng sữa đem đặt vào trong lửa, khơng cịn sót thứ gì, thì các cung điện chư Thiên lại cũng như vậy. “Sau đó, nước mưa này lại xâm phạm đến bốn châu thiên hạ, cùng tám vạn thiên hạ, các núi, núi lớn, Tu-di sơn vương cũng đều bị đun nấu tiêu hết, khơng cịn sót thứ gì, giống như chất béo váng sữa đem đặt vào trong lửa, đều bị nung chảy tiêu hết, khơng cịn sót thứ gì, thì những thứ này lại cũng như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, là pháp biến dịch, khơng đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt khỏi thế gian. “Sau đó, nước này đã đun nấu đại địa khơng cịn sót gì nữa rồi, thì nước bên dưới đất cũng hết, gió bên dưới nước cũng hết. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, là pháp biến dịch, khơng đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm đạo giải thốt vượt khỏi thế gian.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Sự nung chảy, tiến tận ngang đến cung điện Biến tịnh thiên này, ai là người có thể tin? Chỉ có ai thấy mới có thể biết mà thơi! “Từ cung điện Phạm-ca-di bị nung chảy tiêu hết… cho đến, nước bên dưới đất cũng hết, gió bên dưới nước cũng hết, ai là người có thể tin? Chỉ có ai thấy, mới có thể biết mà thơi! “Đó là tai họa do nước. “Thế nào là sự hồi phục của tai kiếp nước? Sau đó một thời gian rất lâu, rất lâu, xuất hiện đám mây đen lớn bao phủ khắp hư khơng, lên đến cõi Biến tịnh thiên, mưa khắp nơi, những giọt nước mưa như bánh xe. Mưa kéo dài vơ số trăm ngàn vạn năm như vậy, nước mưa này lớn dần dần cho đến cõi Biến tịnh thiên. Có bốn loại gió lớn giữ nước này lại một chỗ đó là: một là trụ phong, hai là trì phong, ba là bất động, bốn là kiên cố<註 n="1699"/>309. “Sau đó, nước này vơi giảm vơ số trăm ngàn do-tuần, bốn mặt gió lớn nổi dậy gọi là tăng-già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại, rồi bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng biến thành cung điện Quang âm thiên, trang sức bằng bảy báu. Vì nhân duyên này mà có cung điện Quang âm thiên. “Khi nước kia vơi giảm dần cho đến vơ số trăm ngàn do-tuần, thì gió tăng già thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại, rồi bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng biến thành cung điện Phạm-ca-di, trang sức bằng bảy báu. Như đã kể, cho đến, nước biển có cùng một vị mặn đắng, cũng như lúc tai họa do lửa phục hồi, đó là tai kiếp nước.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Thế nào là tai kiếp gió<註 n="1700"/>310? Khi tai kiếp gió bắt đầu khởi, con người trong thế gian này đều phụng hành chánh pháp, đều chánh kiến, khơng theo tà kiến, mà tu tập mười thiện nghiệp. Khi tu tập hành vi thiện, thì có người đạt được đệ Tứ thiền với xả và niệm thanh tịnh<註 n="1701"/>311, họ ở giữa hư khơng, trụ vào Thánh nhơn đạo, Thiên đạo, Phạm đạo và lớn tiếng xướng lên rằng: ‘Các Hiền giả! Nên biết, sung sướng thay, đệ Tứ thiền với xả và niệm thanh tịnh! Sung sướng thay, đệ Tứ thiền với xả và niệm thanh tịnh!’ Lúc ấy, người thế gian nghe những lời này rồi, liền ngửa mặt lên trời nói với họ rằng: ‘Lành thay! Lành thay! Xin vì tơi mà nói về đạo của Tứ thiền với xả và niệm thanh tịnh!’ Lúc này, người ở giữa hư khơng nghe những lời của người kia rồi liền nói về đạo của Tứ thiền. Sau khi người thế gian nghe nói rồi, liền tu đạo của Tứ thiền, nên khi thân hoại mạng chung được sinh về Quả thật thiên<註 n="1702"/>312. “Bấy giờ, những chúng sanh ở trong địa ngục, sau khi tội nghiệpï đã mãn, thân hoại mạng chung, tái sinh vào nhân gian. Rồi cũng tu tập đạo của đệ Tứ thiền; sau khi tu tập đạo thiền, thân hoại mạng chung, tái sinh về Quả thật thiên. Cịn những chúng sanh của các lồi súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-luân, Tứ thiên vương, … cho đến Biến tịnh thiên, sau khi thân hoại mạng chung cũng sẽ tái sinh vào cõi nhân gian; nếu cũng tu tập đạo của đệ Tứ thiền, khi thân hoại mạng chung cũng sẽ tái sinh về Quả thật thiên. Vì nhân duyên này nên đạo địa ngục được diệt tận và súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-luân, Tứ thiên vương… cho đến cõi Biến tịnh thiên cũng đều diệt tận. “Vào lúc bấy giờ, trước tiên là địa ngục diệt tận, sau đó súc sanh diệt tận; súc sanh diệt tận rồi, thì ngạ quỷ diệt tận; khi ngạ quỷ diệt tận rồi, thì A-tu-luân diệt tận; khi A-tu-luân diệt tận rồi, thì Tứ thiên vương diệt tận; khi Tứ thiên vương diệt tận rồi… như vậy lần lượt cho đến Biến tịnh thiên diệt tận; khi Biến tịnh thiên diệt tận rồi, thì sau đó, con người bị diệt tận khơng cịn sót. Khi con người đã bị diệt tận khơng cịn sót, thì thế gian này bị tan hoại, thế là hồn thành tai kiếp. “Rất lâu, rất lâu sau đó, có gió lớn nổi lên, tên là đại tăng già, … cho đến Quả thật thiên. Gió lan khắp mọi nơi, thổi cung điện Biến tịnh thiên, Quang âm thiên, khiến cho các cung điện va chạm nhau tan vỡ ra thành phấn bụi, giống như lực só cầm hai cái chày đồng, làm cho chúng va chạm nhau, cả hai đều vỡ vụn khơng cịn gì hết, thì hai cung điện va chạm nhau cũng lại như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, là pháp biến dịch, khơng đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm đạo giải thốt vượt khỏi thế gian.’ “Sau đó, gió này thổi cung điện Phạm-ca-di thiên, Tha hóa tự tại thiên, các cung điện va chạm nhau, tan vỡ ra thành phấn bụi khơng cịn gì hết, giống như lực só cầm hai cái chày đồng, làm cho chúng va chạm nhau, cả hai đều vỡ khơng cịn gì hết, thì hai cung điện va chạm nhau cũng lại như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, là pháp biến dịch, khơng đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm đạo giải thốt vượt thế gian. “Sau đó, gió này thổi cung điện Hóa tự tại thiên, Đâu-suất thiên, Diệm-ma thiên, các cung điện này va chạm nhau, tan vỡ ra thành phấn bụi khơng cịn lại gì hết, giống như lực só cầm hai cái chày đồng, làm cho chúng va chạm nhau, cả hai đều vỡ vụn khơng cịn gì hết, thì những cung điện này va chạm nhau khơng cịn gì hết cũng lại như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, là pháp biến dịch, khơng đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt khỏi thế gian.’ “Sau đó, gió này thổi bốn thiên hạ, cùng tám vạn thiên hạ, các núi, núi lớn, Tu-di sơn vương đem đặt giữa hư khơng, cao trăm ngàn do-tuần, những ngọn núi này va chạm nhau, tan vỡ ra thành phấn bụi, giống như lực só tay cầm vỏ trấu nhẹ rải vào khơng trung, thì tứ châu thiên hạ, Tu-di, các núi này vỡ vụn, phân tán ra, cũng lại như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vơ thường, là pháp biến dịch, khơng đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thốt vượt khỏi thế gian. “Sau đó, gió thổi đại địa; nước bên dưới đất hết, gió bên dưới nước hết. Cho nên phải biết: Tất cả hành là vơ thường, là pháp biến dịch, khơng đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm nên tìm con đường giải thốt vượt khỏi thế gian.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Khi hai cung điện Biến tịnh thiên và Quang âm thiên va chạm nhau, tan vỡ ra thành phấn bụi, ai là người có thể tin? Chỉ có độc nhất người thấy mới có thể biết mà thơi. Như vậy cho đến nước bên dưới đất hết, gió bên dưới nước hết, ai là người sẽ tin? Chỉ có độc nhất người thấy mới có thể biết mà thơi. “Đó là tai kiếp gió. “Thế nào là sự hồi phục của tai kiếp? “Sau một thời gian rất lâu xuất hiện đám mây đen lớn bao phủ khắp hư khơng, lên đến cõi Quả thật thiên. Rồi mưa xuống khắp nơi; những giọt nước mưa như bánh xe, mưa kéo dài vơ số trăm ngàn vạn năm, nước này lớn dần, cho đến Quả thật thiên. Lúc bấy giờ, có bốn loại gió lớn giữ nước này lại một chỗ. Những gì là bốn? Một là trụ phong, hai là trì phong, ba là bất động, bốn là kiên cố. Sau đó, nước này dần dần rút xuống vơ số trăm ngàn do-tuần; bốn phía mặt nước gió lớn nổi dậy, gọi là tăng già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại, bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng biến thành cung điện Biến tịnh thiên, được trang sức bằng bảy báu, xen lẫn các loại tạp sắc. Vì nhân duyên này mà có cung điện Biến tịnh thiên. “Khi nước kia rút dần cho đến vơ số trăm ngàn do-tuần, thì gió tăng già kia thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại, bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên khơng trung và tự nhiên chúng biến thành cung điện Quang âm thiên, được trang sức bằng bảy báu, xen lẫn các loại tạp sắc… cho đến nước biển có cùng một vị mặn đắng, cũng như đã nói về tai kiếp lửa. “Đó là tai kiếp gió. Đó là ba tai kiếp và là ba lần phục hồi<註 n="1703"/>313.” <章 id="485140917">Phẩm 10: CHIẾN ĐẤU Phật bảo Tỳ-kheo: “Vào thuở xưa, khi chư Thiên cùng A-tu-luân chiến đấu. Bấy giờ Thích Đề-hồn Nhân<註 n="1704"/>314 lệnh gọi chư Thiên Đao-lợi đến bảo rằng: ‘Nay các ngươi đi đánh nhau với bọn chúng. Nếu thắng, hãy bắt A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la<註 n="1705"/>315, trói với năm chỗ trói<註 n="1706"/>316, rồi mang đến giảng đường Thiện pháp<註 n="1707"/>317. Ta muốn nhìn thấy.’ Rồi, chư Thiên Đao-lợi sau khi vâng lệnh Đế Thích, mỗi người tự trang bị cho mình. “Lúc bấy giờ, A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la ra lệnh các A-tu-luân rằng: ‘Nay các ngươi hãy đi đánh nhau với bọn chúng. Nếu thắng, hãy bắt Thích Đề-hồn Nhân, trói với năm chỗ trói, rồi mang đến giảng đường Thất diệp<註 n="1708"/>318. Ta muốn nhìn thấy.’ Rồi, các A-tu-luân sau khi vâng lệnh của A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa, mỗi người tự trang bị cho mình. “Bấy giờ, chư Thiên cùng chúng A-tu-luân chiến đấu với nhau. Chư Thiên đắc thắng và A-tu-luân bại trận. Chư Thiên Đao-lợi bắt vua A-tu-luân trói lại với năm chỗ trói, mang về chỗ Thiện pháp đường, cho Thiên Đế Thích nhìn thấy. Khi ấy vua A-tu-luân thấy sự khối lạc ở trên Trời, sanh lịng quyến luyến vui thích, liềân tự nghó: ‘Nơi này thù thắng, khả dó ở được; trở lại cung điện A-tu-luân làm gì?’ Khi khởi lên ý nghó này, thì năm nơi đang bị trói trên thân lập tức được mở ra và năm thứ dục lạc ở trên Trời hiện ra trước mắt. Nhưng nếu A-tu-luân nghó đến việc trở lại cung điện trước kia, thì năm nơi trên thân liền bị trói chặt trở lại và năm thứ dục lạc tự biến mất. Khi ấy những nơi bị trói buộc trên thân của A-tu-luân trở nên bền chắc hơn. Sự trói buộc của Ma cịn hơn thế nữa. Chấp ta và người, là sự trói buộc của Ma. Khơng chấp ta và người thì sự trói buộc của Ma được cởi mở. Chấp thủ ngã<註 n="1709"/>319 là bị trói, chấp thủ ái là bị trói, ‘tự ngã sẽ tồn tại’ là bị trói, ‘tự ngã sẽ khơng tồn tại’ là bị trói; ‘tự ngã có sắc<註 n="1710"/>320 ’ là bị trói, ‘tự ngã khơng sắc’ là bị trói, ‘tự ngã vừa có sắc vừa khơng có sắc’ là bị trói, ‘tự ngã có tưởng’ là bị trói, ‘tự ngã khơng có tưởng’ là bị trói, ‘tự ngã vừa có tưởng vừa khơng có tưởng’ là bị trói; tự ngã là tai hoạn lớn, là ung nhọt, là gai nhọn. Cho nên, đệ tử Hiền thánh biết rằng tự ngã là tai hoạn lớn, là ung nhọt, là gai nhọn, nên xả bỏ ý tưởng về tự ngã mà tu vơ ngã hành<註 n="1711"/>321. Hãy quán sát tự ngã kia là một gánh nặng, là buơng lung, là hữu<註 n="1712"/>322; ‘sẽ tồn tại tự ngã’ là hữu vi, ‘sẽ khơng tồn tại tự ngã’ là hữu vi; ‘tự ngã có sắc’ là hữu vi, ‘tự ngã khơng có sắc’ là hữu vi, ‘tự ngã vừa có sắc vừa khơng có sắc’ là hữu vi; ‘tự ngã có tưởng’ là hữu vi; ‘ tự ngã khơng có tưởng’ là hữu vi; ‘tự ngã vừa có tưởng vừa khơng có tưởng’ là hữu vi; hữu vi là tai hoạn lớn, là ung nhọt, là gai nhọn. Cho nên, đệ tử Hiền thánh biết rằng hữu vi là tai hoạn lớn, là ung nhọt, là gai nhọn, nên xả bỏ hữu vi mà thực hành vơ vi hành.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Vào thuở xưa, khi chư Thiên cùng A-tu-luân chiến đấu. Bấy giờ Thích Đề-hồn Nhân lệnh gọi chư Thiên Đao-lợi đến bảo rằng: ‘Nay các ngươi đi đánh nhau với bọn chúng. Nếu thắng, hãy bắt A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la, trói với năm chỗ trói, rồi mang đến giảng đường thiện pháp. Ta muốn nhìn thấy.’ Rồi, chư Thiên Đao-lợi sau khi vâng lệnh Đế Thích, mỗi người tự trang bị cho mình. “Lúc bấy giờ, A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la ra lệnh các A-tu-luân rằng: ‘Nay các ngươi hãy đi đánh nhau với bọn chúng. Nếu thắng, hãy bắt Thích Đề-hồn Nhân, trói với năm chỗ trói, rồi mang đến giảng đường Thất diệp. Ta muốn nhìn thấy.’Rồi, các A-tu-luân sau khi vâng lệnh của A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la, mỗi người tự trang bị cho mình. “Rồi thì, chư Thiên cùng chúng A-tu-luân chiến đấu với nhau. Chư Thiên đắc thắng và A-tu-luân bại trận. Chư Thiên Đao-lợi bắt vua A-tu-luân trói chặt với năm chỗ trói, mang về chỗ Thiện pháp đường, cho Thiên Đế Thích nhìn thấy. Lúc ấy, Thiên Đế Thích thong thả dạo trên Thiện pháp đường. Vua A-tu-luân từ xa trơng thấy Đế Thích, tuy đang bị trói chặt với năm chỗ trói, mở miệng mắng chửi. “Lúc đó, người hầu của Thiên đế, ở trước mặt Thiên đế liền nói kệ rằng: Việc gì Thiên đế sợ, Tự lộ yếu kém mình. Bị mắng thẳng vào mặt, Sao lặng nghe lời ác?” “Bấy giờ, Thiên Đế Thích đáp lại người hầu bằng bài kệ rằng: Nó cũng khơng sức mạnh, Ta cũng khơng sợ hãi. Việc gì, người đại trí, Hơn thua với kẻ ngu. “Lúc bấy giờ, người hầu lại làm bài tụng tâu Đế Thích rằng: Nay khơng bẻ đứa ngu, E sau càng khó nhịn. Hãy đánh nó bằng gậy, Khiến kẻ ngu hối lỗi. “Bấy giờ, Thiên Đế Thích lại làm bài tụng trả lời người hầu rằng: Ta thường bảo, người trí Khơng tranh cùng kẻ ngu; Nếu ngu mắng, trí im, Thì thắng kẻ ngu này. “Khi ấy, người hầu lại làm bài tụng tâu Đế Thích rằng: Thiên vương sở dó im, Vì e giảm đức trí; Nhưng kẻ ngu độn kia, Cho vua lịng sợ hãi. Kẻ ngu khơng tự lượng, Cho có thể địch vua; Liều chết đến xúc phạm, Muốn vua lui như trâu. “Bấy giờ, Thiên Đế Thích lại làm bài tụng trả lời người hầu rằng: Người ngu khơng tri kiến, Bảo ta lịng sợ hãi. Ta quán đệ nhất nghóa: Nhẫn nhục là tối thượng. Điều xấu trong các xấu: Trong sân lại nổi sân; Ở trong sân khơng sân, Là chiến đấu tối thượng. Con người có hai duyên, Vì mình cũng vì người; Mọi người có tranh tụng, Ai khơng tranh là thắng. Con người có hai duyên, Vì mình cũng vì người; Thấy người khơng tranh tụng, Lại cho là ngu đần. Nếu người có sức lớn, Nhịn được người khơng sức; Sức này là đệ nhất, Là tối thượng trong nhẫn. Ngu tự cho mình mạnh, Sức này chẳng là sức; Người mạnh nhẫn như pháp, Sức này khơng ngăn được. Phật bảo Tỳ-kheo: “Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích há là người nào khác sao? Khơng nên có ý nghó như vậy. Lúc ấy, Thiên Đế Thích chính là bản thân Ta vậy. Vào lúc bấy giờ, Ta tu tập nhẫn nhục, khơng hành động nóng vội, thường thường khen ngợi người hay nhẫn nhục. Nếu có người trí nào muốn hoằng dương đạo của Ta, thì phải tu tập nhẫn nhục im lặng, chớ ơm lịng phẫn hận đấu tranh.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Thuở xa xưa, chư Thiên Đao-lợi cùng A-tu-luân đánh nhau. Bấy giờ Thích Đề-hồn Nhân nói với A-tu-luân Chất-đa rằng: ‘Tại sao các khanh lại ơm lịng sân hại, trang bị binh khí, đánh nhau để làm gì? Nay sẽ cùng ngươi giảng luận đạo lý, để biết rõ thắng thua.’ Lúc ấy, Chất-đa A-tu-luân kia nói với Đế Thích rằng: ‘Giả sử, nếu vất bỏ binh khí, chỉ bàn luận tranh tụng về nghóa lý thơi, vậy thì ai biết thắng bại?’ Đế Thích dạy rằng: ‘Chỉ cần bàn luận thơi, hiện tại trong chúng của ngươi và trong chúng chư Thiên của Ta, tự có người có trí tuệ biết rằng ai thắng, ai bại.’ Lúc ấy, A-tu-luân nói với Đế Thích rằng: ‘Nhà ngươi nói kệ trước đi.’ Đế Thích trả lời: ‘Nhà ngươi là Cựu thiên<註 n="1713"/>323, nhà ngươi nên nói trước đi.’ Bấy giờ, Chất-đa A-tu-luân liền vì Đế Thích mà làm kệ: Nay khơng bẻ đứa ngu, E sau càng khó nhịn. Hãy đánh nó bằng gậy, Khiến kẻ ngu hối lỗi. “Sau khi A-tu-luân nói bài kệ này xong, thì chúng A-tu-luân phấn khởi vui mừng, cao tiếng khen hay. Chỉ có chúng chư Thiên là im lặng khơng nói. Rồi vua của A-tu-luân nói với Đế Thích rằng: ‘Đến lượt ngươi nói kệ’. Bấy giờ, Đế Thích liền nói kệ cho A-tu-luân nghe: Ta thường bảo, người trí Khơng tranh cùng kẻ ngu; Nếu ngu mắng, trí im, Thì thắng kẻ ngu này. “Sau khi Thiên Đế Thích nói bài kệ này xong, thì chư Thiên Đao-lợi đều rất đỗi vui mừng, cất tiếng khen hay. Lúc này chúng A-tu-luân im lặng khơng nói. Bấy giờ, Thiên Đế Thích nói với A-tu-luân rằng: ‘Đến lượt nhà ngươi nói kệ.’ Lúc này, A-tu-luân lại nói kệ: Thiên vương sở dó im, Vì e giảm đức trí; Nhưng kẻ ngu độn kia, Cho vua lịng sợ hãi. Kẻ ngu khơng tự lượng, Cho có thể địch vua; Liều chết đến xúc phạm, Muốn vua lui như trâu. “Sau khi A-tu-luân nói bài kệ này xong, thì chúng A-tu-luân nhảy nhót vui mừng, lớn tiếng khen hay. Lúc này chúng Đao-lợi thiên im lặng khơng nói. Bấy giờ, A-tu-luân vương nói với Đế Thích rằng: ‘Đến lượt nhà ngươi nói kệ.’ Thiên Đế Thích bèn nói kệ cho A-tu-luân nghe rằng: Người ngu khơng tri kiến, Bảo Ta lịng sợ hãi. Ta quán đệ nhất nghóa: Nhẫn nhục là tối thượng. Điều xấu trong các xấu: Trong sân lại nổi sân; Ở trong sân khơng sân, Là chiến đấu tối thượng. Con người có hai duyên, Vì mình cũng vì người; Mọi người có tranh tụng, Ai khơng tranh là thắng. Con người có hai duyên, Vì mình cũng vì người; Thấy người khơng tranh tụng, Lại cho là ngu đần. Nếu người có sức lớn, Nhịn được người khơng sức; Sức này là đệ nhất, Là tối thượng trong nhẫn. Ngu tự cho mình mạnh, Sức này chẳng là sức; Người mạnh nhẫn như pháp, Sức này khơng ngăn được. “Sau khi Thích Đề-hồn Nhân nói bài kệ này xong, thì chúng Đao-lợi thiên nhảy nhót vui mừng, cất tiếng khen hay; chúng A-tu-luân thì im lặng khơng nói. Lúc này, chúng Trời và chúng A-tu-luân, tạm thời tự rút lui, cùng bảo nhau rằng: ‘Những bài kệ tụng của A-tu-luân nói ra có điều xúc phạm, dấy lên sự đáp trả bằng đao kiếm, làm nảy sinh ra gốc rễ của đấu tranh và kiện tụng, nuơi lớn các ốn kết, dựng lập gốc cây tam hữu. Cịn những bài kệ tụng của Thiên Đế Thích nói ra khơng gây xúc nhiễu, khơng đưa đến đao kiếm, khơng sinh ra tranh đấu kiện tụng, khơng nuơi lớn ốn kết, tuyệt gốc tam hữu. Những lời nói của Thiên Đế Thích là tốt lành; chư Thiên đã thắng, A-tu-luân đã bại.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích là người nào khác sao? Chớ có quan niệm này! Vì sao? Vì đó chính là bản thân Ta. Vào lúc bấy giờ, Ta dùng những lời nhu hịa mà thắng chúng A-tu-luân.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Thuở xa xưa, khi chư Thiên lại đánh nhau với A-tu-luân lần nữa. Bấy giờ A-tu-luân thắng, chư Thiên bại. Lúc ấy, Thích Đề-hồn Nhân sợ hãi cưỡi xe báu ngàn căm bỏ chạy; giữa đường thấy trên cây Thiểm-bà-la có một tổ chim, trong tổ có hai con chim con, liền dùng kệ tụng bảo người điều khiển xe rằng: Cây này có hai chim, Người nên lui xe tránh, Chẳng thà giặc hại ta, Chớ thương tổn hại chim. “Sau khi người điều khiển xe nghe Đế Thích nói kệ, liền dừng xe và quay xe tránh chim trên cây. Khi ấy, đầu xe quay về phía A-tu-luân. Chúng A-tu-luân từ xa nhìn thấy xe báu quay đầu lại, quân của chúng bảo nhau: ‘Giờ Thiên Đế Thích cưỡi xe báu ngàn căm quay đầu nhắm về phía chúng ta, có lẽ muốn giao đấu trở lại. Chúng ta khơng thể đượng cự được!’ Chúng A-tu-luân liền thối lui và tan rã, nhân đây mà chư Thiên chiến thắng và A-tu-luân bại tẩu.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Lúc bấy giờ, Đế Thích há là người nào khác sao? Chớ có quan niệm như vậy! Vì sao? Vì chính đó là bản thân Ta. Vào lúc bấy giờ, Ta đối với chúng sanh phát khởi lịng thương xót. Này các Tỳ-kheo, các Thầy ở trong pháp của Ta xuất gia tu đạo, thì nên phát khởi lịng từ bi, thương xót chúng sanh.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Thuở xa xưa, khi chư Thiên cùng A-tu-luân đánh nhau. Bấy giờ chư Thiên đắc thắng và A-tu-luân bại trận. Sau khi chiến thắng, Thiên Đế Thích trở về cung, xây dựng một ngơi nhà đặt tên là Tối thắng<註 n="1714"/>324, Đơng Tây dài một trăm do-tuần, Nam Bắc rộng sáu mươi do-tuần. Ngơi nhà này gồm trăm gian, trong mỗi gian có bảy đài giao lộ<註 n="1715"/>325. Trên mỗi đài có bảy ngọc nữ; mỗi ngọc nữ có bảy người để sai. Thích Đề-hồn Nhân cũng khơng lo cung cấp các thứ trang điểm, áo chăn, đồ ăn thức uống; mà tất cả tùy theo hành vi đã tạo từ trước, mỗi người tự thọ lãnh phước báo ấy. Do chiến thắng A-tu-luân, nên nhân đây lịng sinh vui mừng mà xây dựng ngơi nhà này, cho nên gọi là Tối thắng đường. Lại nữa, những ngơi nhà có được trong ngàn thế giới xem ra khơng có ngơi nhà nào bằng ngơi nhà này, cho nên gọi là Tối thắng.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Thuở xa xưa, A-tu-luân tự nghó rằng: ‘Ta có oai đức lớn, thần lực khơng phải ít, nhưng Đao-lợi thiên, mặt trời, mặt trăng, chư Thiên thường ở nơi hư khơng, du hành tự tại trên đỉnh đầu ta. Nay ta hãy lấy mặt trời, mặt trăng này làm ngọc đeo tai, thử chúng có cịn du hành tự tại được khơng?’ “Rồi, vua A-tu-luân nổi lịng sân hận cực độ, liền nghó đến A-tu-luân Chùy Đỏa<註 n="1716"/>326; A-tu-luân Chùy Đỏa lại nghó rằng: ‘Hiện nay, vua A-tu-luân đã nghó đến ta, chúng ta nên nhanh chóng trang bị.’ Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu, cùng với vơ số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau, đến trước vua A-tu-luân, đứng một bên. “Bấy giờ, vua lại nghó đến A-tu-luân Xá-ma-lê<註 n="1717"/>327. A-tu-luân Xá-ma-lê lại tự nghó rằng: ‘Hiện nay, vua đã nghó đến ta, chúng ta nên nhanh chóng trang bị.’ Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu, cùng với vơ số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau, đến trước chỗ vua A-tu-luân, đứng một bên. “Bấy giờ, vua lại nghó đến Tỳ-ma-chất-đa A-tu-luân<註 n="1718"/>328. Tỳ-ma-chất-đa A-tu-luân lại tự nghó rằng: ‘Hiện nay, vua đang nghó đến ta, chúng ta nên nhanh chóng trang bị.’ Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu, cùng với vơ số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau, đến trước chỗ vua A-tu-luân, đứng một bên. “Bấy giờ, vua lại nghó đến Đại thần A-tu-luân; Đại thần A-tu-luân lại tự nghó rằng: ‘Hiện nay, vua đang nghó đến ta. Chúng ta nên nhanh chóng trang bị.’ Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu, cùng với vơ số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau, đến trước vua A-tu-luân, đứng một bên. “Bấy giờ, vua lại nghó đến các Tiểu A-tu-luân. Các Tiểu A-tu-luân lại tự nghó rằng: ‘Hiện nay, vua đang nghó đến ta. Chúng ta nên nhanh chóng trang bị.’ Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu, cùng với vơ số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau, đến trước vua A-tu-luân, đứng một bên. “Bấy giờ, vua A-tu-luân là La-ha<註 n="1719"/>329 liền tự mình trang bị, mình mặc áo giáp đồng báu, đóng ngựa vào các cỗ xe báu, cùng với vơ số trăm ngàn chúng A-tu-luân và binh khí trang bị, vây quanh trước sau, ra khỏi chỗ ở của chúng,ï muốn đến đánh nhau cùng chư Thiên. “Bấy giờ, Nan-đà Long vương<註 n="1720"/>330 và Bạt-nan-đà Long vương<註 n="1721"/>331 dùng thân mình quấn quanh núi Tu-di bảy vịng làm chấn động cả sơn cốc, trải một lớp mỏng mây mờ, lơ thơ từng giọt mưa rơi và dùng đuơi đập vào nước biển làm cho nước biển dậy sóng, dâng đến đỉnh núi Tu-di. Lúc bấy giờ, Đao-lợi thiên liền tự nghó: ‘Nay, mây mờø giăng mỏng, lơ thơ từng giọt mưa rơi, nước biển dậy sóng, lên đến tận nơi này, chắc thế nào A-tu-luân cũng muốn đến đây gây chiến, nên có những điềm lạ này chăng!’ “Lúc này, nhiều vơ số ức vạn binh chúng các lồi rồng trong biển, đều cầm giáo mác, cung tên, đao kiếm, áo giáp đồng dày và trang bị binh khí tề chỉnh, đối đầu cùng quân binh A-tu-luân chiến đấu. Khi binh chúng các lồi rồng mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân vào trong cung điện của chúng. Nếu các lồi rồng mà bị bại, thì các lồi rồng khơng trở lại cung điện, mà sẽ chạy đến chỗ quỷ thần Già-lâu-la<註 n="1722"/>332 báo cáo rằng: ‘Chúng A-tu-luân muốn đánh nhau với chư Thiên. Chúng tơi đã đón đánh, nhưng hiện chúng đang đắc thắng. Các ngươi nên chuẩn bị các thứ binh khí, binh chúng cùng sức mạnh, để chiến đấu cùng với chúngï.’ Sau khi các quỷ thần nghe xong, liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, cùng các lồi rồng hợp tác chiến đấu chống lại A-tu-luân. Nếu mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân vào trong cung điện của chúng. Nếu mà bị bại, thì khơng trở lại cung điện, mà sẽ chạy lui đến chỗ quỷ thần Trì Hoa<註 n="1723"/>333 báo cáo rằng: ‘Chúng A-tu-luân muốn chiến đấu cùng chư Thiên. Chúng tơi đã đón đánh. Nhưng hiện chúng đang thắng. Các ngươi nên chuẩn bị các thứ binh khí, binh chúng cùng sức mạnh, để đánh nhau với chúngï.’ “Sau khi các quỷ thần Trì Hoa nghe các lồi rồng nói rồi, liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, binh chúng cùng sức mạnh, cùng chiến đấu lại A-tu-luân. Nếu mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân vào trong cung điện của chúng. Nếu mà bị bại, thì khơng trở lại cung điện, mà sẽ chạy đến chỗ quỷ thần Thường Lạc<註 n="1724"/>334 báo cáo rằng: ‘Chúng A-tu-luân muốn đánh nhau cùng chư Thiên. Chúng tơi đã đón đánh. Nhưng hiện chúng đang thắng. Các ngươi nên chuẩn bị các thứ binh khí, cùng sức mạnh, để đánh nhau với chúngï.’ “Sau khi các quỷ thần Thường Lạc nghe nói rồi, liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, binh chúng cùng sức mạnh, cùng chiến đấu lại A-tu-luân. Nếu mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân vào trong cung điện của chúng. Nếu mà bị bại, thì khơng trở lại cung điện, mà sẽ chạy đến Tứ thiên vương báo cáo rằng: ‘Chúng A-tu-luân muốn chiến đấu cùng chư Thiên. Chúng tơi đã đón đánh. Nhưng hiện chúng đang thắng. Các ngài nên chuẩn bị các thứ binh khí, binh chúng cùng sức mạnh, để đánh nhau với chúngï.’ “Sau khi Tứ thiên vương nghe những lời này rồi, liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, binh chúng cùng sức mạnh, cùng chiến đấu lại A-tu-luân. Nếu mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân vào trong cung điện của chúng. Nếu khơng thì Tứ thiên vương sẽ đến giảng đường Thiện pháp, tâu Thiên Đế Thích và chư Thiên Đao-lợi rằng: ‘Chúng A-tu-luân muốn chiến đấu cùng chư Thiên. Nay chư Thiên Đao-lợi hãy tự trang bị, chuẩn bị binh khí, binh chúng cùng sức mạnh, để đi đánh nhau với chúng.’ “Bấy giờ, Thiên Đế Thích ra lệnh cho người hầu rằng: ‘Ngươi đem lời nói của ta đến báo lại cho Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên rằng: ‘A-tu-luân cùng vơ số chúng muốn đến chiến đấu. Nay chư Thiên nên tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí để hỗ trợ ta chiến đấu.’ “Bấy giờ, người hầu này vâng lệnh của Đế Thích, liền đến Diệm-ma thiên… cho đến Tha hóa tự tại thiên, đem những lời của Đế Thích mà báo cáo rằng: ‘A-tu-luân cùng vơ số chúng muốn đến chiến đấu. Nay chư Thiên nên tự trang bị, chuẩn bị binh khí để hỗ trợ ta chiến đấu.’ “Sau khi Diệm-ma thiên nghe những lời này rồi, liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, đóng xe báu vào ngựa, cùng vơ số trăm ngàn Thiên chúng trước sau vây quanh, đóng binh tại phía Đơng của núi Tu-di. Sau khi thiên tử Đâu-suất nghe những lời này rồi, cũng liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, đóng xe báu vào ngựa, cùng vơ số trăm ngàn Thiên chúng, đóng binh tại phía Nam của núi Tu-di. Sau khi thiên tử Hóa tự tại thiên nghe những lời này rồi, cũng trang bị binh chúng, đóng binh tại phía Tây của núi Tu-di. Sau khi thiên tử Tha hóa tự tại thiên nghe những lời này rồi, cũng trang bị binh chúng, đóng binh tại phía Bắc của núi Tu-di. “Khi Thiên Đế Thích nghó đến ba mươi ba vị Thiên thần của Đao-lợi thiên, thì ba mươi ba vị Thiên thần của Đao-lợi thiên tự nghó rằng: ‘Hiện tại Thiên Đế Thích đang nghó đến ta. Vậy chúng ta nên nhanh chóng trang bị.’ Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị các đồ binh khí, cưỡi cỗ xe báu, cùng vơ số chúng chư Thiên trước sau vây quanh, đến trước Thiên Đế Thích, đứng một bên. “Khi Thiên Đế Thích nghó đến các Thiên thần khác của Đao-lợi, thì các Thiên thần khác của Đao-lợi liền tự nghó rằng: ‘Hiện tại Đế Thích đang nghó đến ta. Vậy chúng ta nên nhanh chóng trang bị.’ Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị các đồ binh khí, đóng xe báu vào ngựa, cùng vơ số chúng chư Thiên trước sau vây quanh, đến trước Đế Thích, đứng một bên. “Khi Thiên Đế Thích nghó đến quỷ thần Diệu Tượng<註 n="1725"/>335, thì quỷ thần Diệu Tượng liền tự nghó rằng: ‘Hiện tại Đế Thích đã nghó đến ta. Vậy chúng ta nên nhanh chóng trang bị.’ Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị các đồ binh khí, đóng xe báu vào ngựa, cùng vơ số Thiên chúng trước sau vây quanh, đến đứng trước Đế Thích. “Khi Đế Thích nghó đến Long vương Thiện Trụ<註 n="1726"/>336, thì Long vương Thiện Trụ tự nghó rằng: ‘Nay Thiên Đế Thích nghó đến ta, nay ta nên đến.’ Long vương Thiện Trụ liền đi đến đứng trước Đế Thích. “Lúc này, Đế Thích liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, mình mặc áo giáp đồng báu, cưỡi trên đỉnh đầu Long vương Thiện Trụ, cùng vơ số chư Thiên, quỷ thần trước sau vây quanh, tự ra khỏi thiên cung, đánh nhau với A-tu-luân. Đồ vật trang bị như các thứ binh khí, đao kiếm, giáo, mác, cung tên, rìu, đục, búa lớn, búa nhỏ, bánh xe quay, dây tơ cột, binh khí, áo giáp đồng, tất cả đều dùng bảy báu để tạo thành. Lại dùng mũi nhọn đâm thêm vào người A-tu-luân, nhưng thân ơng ta vẫn khơng bị thương tổn, chỉ chạm vào bên ngồi khi đâm mà thơi. Chúng A-tu-luân tay cũng cầm đao kiếm bảy báu, giáo mác, cung tên, rìu đục, búa lớn, búa nhỏ, bánh xe quay, dây cột bằng tơ và dùng mũi nhọn đâm thêm vào thân chư Thiên, nhưng cũng chỉ chạm đến bên ngồi mà thơi, khơng gây bất cứ thương tổn nào. “Như vậy, dục khiến chư Thiên cùng A-tu-luân đánh nhau; do bởi nhân là dục như vậy.” <章 id="485140929">Phẩm 11: BA TRUNG KIẾP Phật bảo Tỳ-kheo: “Có ba trung kiếp<註 n="1727"/>337. Những gì là ba? Một là kiếp đao binh. Hai là kiếp đói kém. Ba là kiếp tật dịch<註 n="1728"/>338. “Thế nào là kiếp đao binh<註 n="1729"/>339? “Người thế gian này vốn thọ bốn vạn tuổi. Sau đó giảm xuống, thọ hai vạn tuổi. Sau đó lại giảm nữa, thọ một vạn tuổi. Lần lượt giảm, thọ một ngàn năm, năm trăm năm, ba trăm năm, hai trăm năm. Như nay con người thọ một trăm tuổi, với số ít vượt quá, mà phần nhiều là dưới. Sau đó, tuổi thọ con người giảm dần xuống cịn mười tuổi. Khi đó, người nữ sinh ra chừng năm tháng là đi lấy chồng. Bấy giờ, các loại mỹ vị có được trong thế gian như bơ sữa, mật, đường thẻ, đường đen<註 n="1730"/>340, những gì có vị ngon, tự nhiên biến mất; ngũ cốc khơng sinh sản, chỉ cịn có loại lúa hoang<註 n="1731"/>341 mà thơi. Lúc này, các loại y phục cao cấp như gấm vóc, lụa là<註 n="1732"/>342, kiếp-bối<註 n="1733"/>343, sơ-ma<註 n="1734"/>344, tất cả đều khơng cịn nữa, mà chỉ cịn có loại vải dệt thơ sơ bằng cỏ. Bấy giờ, mặt đất này hồn tồn chỉ sinh gai góc, muỗi mịng, ong, bọ cạp, rắn, rết, trùng độc; cịn vàng bạc, lưu ly, bảy báu, châu ngọc, tự nhiên chúng bị vùi vào đất hết và chỉ có đá, cát, các thứ xấu xí là dẫy đầy. Lúc này chúng sanh chỉ làm mười điều ác càng ngày càng tăng, khơng cịn nghe đến danh từ mười điều thiện, cho đến khơng có cả danh từ thiện, huống chi là có người làm việc thiện? Bấy giờ, trong lồi người ai khơng có hiếu với cha mẹ, khơng kính trọng sư trưởng, hay làm việc ác thì được cúng dường, được mọi người cung kính hầu hạ. Cũng như người nay ai hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, thường làm việc lành, thì được cúng dường, được mọi người cung kính hầu hạ, thì người làm việc ác kia lại cũng được cúng dường như vậy. Bây giờ, con người thân hoại mạng chung bị đọa vào trong súc sanh, cũng như con người hiện tại được sinh lên cõi trời. Lúc đó con người gặp nhau thường ơm lịng độc hại, chỉ muốn giết nhau; cũng giống như thợ săn gặp được đàn nai, chỉ muốn giết chúng, khơng có bất cứ một ý nghó thiện nào; con người lúc đó cũng như vậy, chỉ muốn giết nhau, khơng có một chút ý nghó thiện nào. Bấy giờ, mặt đất này chỉ là sơng ngịi, khe suối, núi đồi, đất đống, khơng có chỗ đất nào bằng phẳng cả. Khi có người đi đến, tức thì kinh sợ, run rẩy, lơng tóc dựng đứng. “Bấy giờ, trong vịng bảy ngày có sự nổi lên của kiếp đao kiếm. Lúc ấy, những thứ cỏ, cây, ngói, đá mà con người cầm trong tay đều biến thành đao kiếm; những thứ đao kiếm này rất bén nhọn, đụng đến vật gì thì vật đó đều sẽ bị cắt đứt. Chúng sát hại lẫn nhau. Trong lúc này có người có trí tuệ thấy đao binh sát hại nhau nên hoảng sợ tránh vào núi rừng, hang động, khe suối, những chỗ khơng người. Trốn tránh trong vịng bảy ngày, tâm nghó miệng tự nói: ‘Ta khơng hại người, người chớ hại ta.’ Trong vịng bảy ngày người này chỉ ăn rễ cây cỏ để tự nuơi sống mình. Qua bảy ngày, sau đó mới lại ra khỏi rừng núi. Lúc này, gặp được một người, vui mừng nói rằng: ‘Nay gặp được người cịn sống! Nay gặp được người cịn sống!’ Cũng giống như cha mẹ vì gặp lại một người con bị thất lạc lâu ngày khơng thấy nhau, nên vui mừng nhảy nhót mà khơng thể tự kiềm chế chính mình được, thì sự kiện người này cũng như vậy, vì sự vui mừng nên nhảy nhót mà khơng thể tự kiềm chế được cảm xúc vui nơi chính mình. Khi ấy thì người dân trong vịng bảy ngày chỉ có khóc lóc mà thơi; cũng trong vịng bảy ngày này họ lại cùng gặp vui nên vui vẻ chúc mừng nhau. Người lúc bấy giờ khi thân hoại mạng chung đều đọa vào địa ngục. Vì sao? Vì con người ấy luơn luơn ơm lịng sân hận và phẫn nộ, họ chỉ có một tâm hại nhau mà thơi, vì khơng có tâm nhân từ nên gọi là kiếp đao binh.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Thế nào gọi là kiếp đói kém<註 n="1735"/>345? Con người bấy giờ phần nhiều làm những việc phi pháp, tà kiến điên đảo, làm mười nghiệp ác. Vì làm mười nghiệp ác nên trời khơng mưa xuống, làm cho trăm thứ cỏ cây chết khơ, ngũ cốc khơng thành, mà chỉ có gốc rạ mà thơi. “Thế nào gọi là đói kém? Vì lúc bấy giờ, người dân phải thu quét những hạt thóc cịn rơi rớt lại các nơi như ruộng vườn, đường sá, đầu ngõ và trong phân đất để tự sống cịn, nên mới gọi là đói kém<註 n="1736"/>346. “Lại nữa, lúc đói kém, người bấy giờ lượm nhặt xương cốt từ những nơi như lị sát sanh, chợ búa, các đường sá và các bãi tha ma, rồi nấu nước trấp mà uống, nhờ vậy mà họ sống, nên gọi là ‘đói xương trắng’<註 n="1737"/>347. ‘Lại nữa, vào kiếp đói kém, ngũ cốc được gieo trồng đều biến thành cỏ cây. Con người lúc này lấy bơng nấu nước trấp để uống. Lại nữa, vào thời đói kém, bơng của các lồi cây cỏ rụng phủ kín cả mặt đất, lúc ấy mọi người phải đào đất lấy bơng để nấu ăn, nhờ vậy mà tự tồn tại, nên gọi là ‘đói cây cỏ<註 n="1738"/>348’. Bấy giờ, chúng sanh thân hoại mạng chung đọa vào trong ngạ quỷ. Sao vậy? Vì những người sống trong kiếp đói kém này, thường ơm lịng tham lam keo bẩn, khơng có lịng bố thí nhân ái, khơng chịu chia xẻ cùng người và khơng nhớ nghó đến những tai ách của người khác. “Đấy là kiếp đói kém.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Thế nào là kiếp tật dịch<註 n="1739"/>349? Người đời bấy giờ, tu hành chánh pháp, chánh kiến khơng điên đảo, đầy đủ thập thiện hành. Có quỷ thần thế giới phương khác đến, mà quỷ thần ở đây thì buơng lung dâm loạn, khơng thể hộ vệ con người được. Quỷ thần thế giới khác xâm lấn, nhiễu loạn con người thế gian này, họ dùng tay đánh đập, dùng gậy quật ngã, rồi hút lấy tinh khí, khiến cho tâm người loạn lên, rồi cưỡng bức mang đi. Giống như quốc vương ra lệnh cho các tướng sối những thứ phải bảo vệ, nhưng giặc cướp ở phương khác đến xâm phạm quấy nhiễu, mà các tướng sối ở đây lại buơng lung, nên nước nhà bị chúng cướp mất. Ở đây cũng vậy, những quỷ thần ở thế giới khác đến bắt giữ mọi người ở thế gian này, chúng đánh đập, quật ngã, rồi hút lấy tinh khí mọi người và cưỡng bức mang đi.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Giả sử quỷ thần ở thế gian này dù khơng buơng lung dâm loạn, nhưng khi quỷ thần có sức mạnh lớn ở thế giới khác đến, thì quỷ thần ở thế gian này cũng phải sợ hãi mà đi trốn. Các đại quỷ thần kia bèn xâm lấn, quấy nhiễu người ở đây, đánh đập, quật ngã, hút lấy tinh khí, giết chết rồi bỏ đi. Giống như quốc vương, hay đại thần của quốc vương sai khiến các tướng sối bảo vệ nhơn dân; tuy tất cả các tướng lãnh này đều trong sạch thận trọng, khơng buơng lung, nhưng khi các tướng sối mạnh bạo, có binh lính đơng đảo kia lại đến khuấy phá thành ấp, làng xóm, mà cướp đoạt người vật. Thì ở đây lại cũng như vậy, nếu quỷ thần ở thế gian này dù khơng dám buơng lung đi nữa, nhưng khi các quỷ thần có sức mạnh lớn ở thế giới khác đến, thì các quỷ thần thế gian này cũng sẽ sợ hãi tránh đi và những hàng quỷ thần lớn mạnh kia sẽ xâm đoạt, nhiễu hại người thế gian này; đánh đập, quật ngã, hút lấy tinh khí và giết hại mọi người rồi bỏ đi. “Khi ấy, người dân trong kiếp tật dịch, sau khi thân hoại mạng chung đều sinh lên cõi trời. Vì sao? Vì con người lúc ấy đều hướng tâm từ bi đến nhau, thăm hỏi nhau: ‘Bệnh tật của bạn có giảm khơng? Thân thể có được an ổn khơng?’ Vì những nhân duyên này, nên họ được sinh lên cõi trời. Cho nên gọi là kiếp tật dịch. “Đó là ba trung kiếp.” <章 id="485140931">Phẩm 12: THẾ BỔN DUYÊN <註 n="1740"/>350 Phật bảo Tỳ-kheo: “Sau khi qua khỏi hỏa tai, khi trời đất của thế gian này sắp sửa thành tựu trở lại, một số chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, mạng chung ở cõi trời Quang âm thiên, sinh vào cung điện Phạm thiên trống khơng<註 n="1741"/>351, rồi sinh tâm đắm nhiễm chỗ đó, yêu thích chỗ đó, nên nguyện cho chúng sanh khác cũng sinh vào nơi này. Sau khi phát sanh ý nghó này rồi, thì những chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, từ cõi trời Quang âm thiên, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cung điện Phạm thiên trống khơng. Bấy giờ, vị Phạm thiên sinh ra trước liền tự nghó rằng: ‘Ta là Phạm vương, là Đại Phạm thiên vương, khơng có ai sáng tạo ra ta, ta tự nhiên mà có, khơng bẩm thọ cái gì từ ai hết; ở trong một ngàn thế giới ta hồn tồn tự tại, thơng rõ các nghóa lý, giàu có sung mãn, có khả năng tạo hóa vạn vật; ta là cha mẹ của tất cả chúng sanh.’ “Các Phạm thiên sanh sau lại tự nghó rằng: ‘Vị Phạm thiên sanh trước kia là Phạm vương, là Đại Phạm thiên vương. Vị ấy tự nhiên mà có, khơng do ai có sáng tạo; là đấng Tối tơn ở trong một ngàn thế giới, khơng bẩm thọ từ ai cái gì, thơng rõ các nghóa lýù, giàu có sung mãn, có khả năng sáng tạo vạn vật, là cha mẹ của tất cả chúng sanh. Ta từ vị ấy mà có.’ “Nhan sắc dung mạo của vị Phạm thiên vương này thường như đồng tử, cho nên Phạm vương được gọi làø Đồng tử<註 n="1742"/>352. “Hoặc có lúc, khi thế giới này chuyển thành trở lại<註 n="1743"/>353, phần lớn chúng sanh có kẻ sinh về Quang âm thiên, bằng hóa sinh tự nhiên<註 n="1744"/>354, sống bằng thức ăn là sự hoan hỷ<註 n="1745"/>355, mình phát ra ánh sáng<註 n="1746"/>356, có thần túc bay trong hư khơng, an vui khơng ngại, mạng sống lâu dài. Sau đó thế gian này biến thành đại hồng thủy, tràn ngập khắp nơi. Vào lúc bấy giờ thiên hạ hồn tồn tối tăm, khơng có mặt trời, mặt trăng, tinh tú, ngày đêm và cũng khơng có năm tháng hay con số bốn mùa. Sau đó, khi thế gian này bắt đầu sắp chuyển biến, một số chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, từ cõi Quang âm thiên sau khi mạng chung sinh đến thế gian này, bằng hóa sinh và ăn bằng sự hoan hỷ, tự thân phát sáng, có thần túc bay trong hư khơng, an vui khơng ngại, sống lâu dài ở đây. Khi ấy, khơng có nam nữ, tơn ty, trên dưới, cũng khơng có những tên khác nhau. Các chúng cùng sinh ở thế gian này, cho nên gọi là chúng sanh. “Bấy giờ, đất này tự nhiên phát sinh ra vị đất<註 n="1747"/>357, ngưng tụ trong đất. Cũng như đề hồ<註 n="1748"/>358, vị đất khi xuất hiện cũng như vậy; giống như sanh tơ<註 n="1749"/>359, vị ngọt như mật. Sau đó chúng sanh dùng tay nếm thử để biết vị ra sao. Vừa mới nếm, liền có cảm giác ngon, nên sanh ra mê đắm vị ấy. Như vậy, lần lượt nếm mãi khơng thơi nên sanh ra tham đắm, bèn lấy bàn tay mà vốc, dần thành thói ăn bốc<註 n="1750"/>360. Ăn bốc mãi như thế, những chúng sanh khác thấy vậy lại bắt chước ăn và cách ăn này khơng bao giờ chấm dứt. Khi ấy, những chúng sanh này thân thể trở nên thơ kệch, ánh sáng mất dần, khơng cịn có thần túc, khơng thể bay đi. Bấy giờ, chưa có mặt trời mặt trăng. Ánh sáng của chúng sanh biến mất. Khi ấy, trời đất hồn tồn tối om, khơng khác như trước. Một thời gian lâu, rất lâu về sau, có một trận cuồng phong mạnh nổi lên thổi nước biển lớn, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, khiến cho biển bị tách làm hai, mang cung điện mặt trời đặt ở lưng núi Tu-di, an trí quỹ đạo mặt trời, mọc ở phương Đơng và lặn ở phương Tây, đi quanh khắp thiên hạ. “Nhật cung điện thứ hai mọc từ phương Đơng, lặn phương Tây. Chúng sanh khi ấy nói: ‘Đấy là ngày hơm qua’<註 n="1751"/>361 hoặc nói: ‘Khơng phải ngày hơm qua.’ “Nhật cung điện thứ ba đi quanh núi Tu-di, mọc ở phương Đơng, lặn ở phương Tây. Chúng sanh khi ấy bảo rằng: ‘Nhất định là một ngày’. Ngày, có nghóa là nhân của ánh sáng đi trước<註 n="1752"/>362, do đó gọi là ngày. Mặt trời có hai nghóa: một, trụ thường độä<註 n="1753"/>363; hai, cung điện<註 n="1754"/>364. Nhìn xa từ bốn hướng, cung điện có hình trịn. Nóng lạnh dễ chịu, được tạo thành bởi vàng của trời; được xen bằng pha lê. Hai phần là vàng trời, thuần chân khơng pha tạp; trong suốt từ trong ra ngồi, áùnh sáng rọi xa. Một phần là pha lê, thuần chân khơng tạp, trong suốt từ trong ra ngồi, ánh sáng rọi xa. “Nhật cung điện rộng năm mươi mốt do-tuần. Đất và vách tường của cung điện mỏng như bẹ lau<註 n="1755"/>365. “Tường cung điện có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp chuơng báu, bảy lớp hàng cây, các trang trí chung quanh đều được làm bằng bảy báu. Tường bằng vàng thì cửa bằng bạc, tường bạc thì cửa vàng; tường lưu ly thì cửa thủy tinh, tường thủy tinh thì cửa lưu ly; tường ngọc đỏ thì cửa mã não, tường mã não thì cửa ngọc đỏ; tường xa cừ thì cửa bằng các thứ báu, tường bằng các thứ báu thì cửa xa cừ. Lại nữa, các lan can kia, nếu thanh ngang bằng vàng thì cọc bằng bạc, thanh ngang bạc thì cọc vàng; thanh ngang lưu ly thì cọc thủy tinh, thanh ngang thủy tinh thì cọc lưu ly; thanh ngang ngọc đỏ thì cọc mã não, thanh ngang mã não thì cọc ngọc đỏ; thanh ngang bằng các loại báu thì cọc bằng xa cừ, thanh ngang xa cừ thì cọc là các loại báu. Lưới vàng thì linh bạc, lưới bạc thì linh vàng; lưới thủy tinh thì linh lưu ly, lưới lưu ly thì linh thủy tinh; lưới ngọc đỏ thì linh mã não, lưới mã não thì linh ngọc đỏ; lưới xa cừ thì linh bằng các loại báu, lưới bằng các loại báu thì linh xa cừ. Những cây bằng vàng này thì lá, hoa quả bạc; cây bằng bạc thì lá, hoa quả vàng; cây bằng lưu ly thì hoa quả thủy tinh, cây thủy tinh thì hoa quả lưu ly; cây bằng ngọc đỏ thì hoa quả mã não, cây mã não thì hoa quả ngọc đỏ; cây bằng xa cừ thì hoa quả các loại báu, cây là các loại báu thì hoa quả là xa cừ. Tường của cung điện có bốn cửa, cửa của nó có bảy bậc thềm, bao quanh bằng lan can; có lầu các đền đài, ao tắm, vườn rừng đều theo thứ lớp đối nhau, sanh các loại hoa báu, hàng nào hàng nấy đều xứng nhau; có nhiều loại cây ăn trái, hoa lá nhiều màu sắc, hương thơm ngạt ngào của cây cỏ lan tỏa xa khắp bốn phương, cùng các lồi chim ríu rít hịa vang. “Nhật cung điện kia, được duy trì bởi năm loại gió<註 n="1756"/>366. Một là trì phong, hai là dưỡng phong, ba là thọ phong, bốn là chuyển phong, năm là điều phong. Điện chính, nơi Nhật thiên tử ngự, hồn tồn được xây dựng bằng vàng rịng, cao mười sáu do-tuần. Điện có bốn cửa, đều có lan can bao quanh. Tịa của Nhật thiên tử rộng nửa do-tuần, làm bằng bảy báu, trong sạch mềm mại, giống như thiên y. Nhật thiên tử tự thân phóng ra ánh sáng chiếu điện vàng; ánh sáng điện vàng chiếu khắp nhật cung; ánh sáng của nhật cung lại chiếu ra khắp bốn phương thiên hạ. Tuổi thọ của Nhật thiên tử năm trăm năm nhà trời; con cháu đều kế thừa nhau khơng bao giờ gián đoạn. Cung điện này khơng bao giờ bị hoại diệt, trong vịng thời gian là một kiếp. Khi cung điện mặt trời di chuyển, thì Nhật thiên tử khơng có ý di chuyển rằng: ‘Ta đi. Ta dừng.’ Mà chỉ luơn luơn hưởng thụ ngũ dục. Lúc mà cung điện mặt trời vận hành thì vơ số trăm ngàn chư Thiên, Thiên thần đi theo dẫn đường trước, hoan hỷ khơng mệt mỏi, thích đi nhanh nhẹn, vì vậy Nhật thiên tử được gọi là ‘Nhanh nhẹn’<註 n="1757"/>367. “Thân Nhật thiên tử phát ra ngàn tia sáng; năm trăm tia sáng chiếu xuống và năm trăm tia sáng chiếu chung quanh, đó là vì cơng đức của nghiệp đời trước nên có ngàn tia sáng này. Thế nên Nhật thiên tử cịn gọi là Thiên Quang<註 n="1758"/>368. Thế nào là cơng đức của nghiệp đời trước? Hoặc có một người phát tâm cúng dường Sa-mơn, Bà-la-mơn, cùng cứu giúp những người đói khát cùng khốn, cho họ đồ ăn thức uống, y phục, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, phịng xá, đèn đuốc, tùy thời ban phát, tùy theo nhu cầu, khơng trái ý người và cúng dường cho các vị Hiền thánh trì giới. Do bởi nhân duyên vơ số pháp hỷ quang minh khác nhau kia, mà thiện hoan hỷ. Như vua Quán đảnh dịng Sát-lî lúc bắt đầu lên ngơi, thiện tâm hoan hỷ cũng lại như vậy. Do nhân duyên này, thân hoại mạng chung làm Nhật thiên tử, được Nhật cung điện, có ngàn tia sáng, cho nên nói là nghiệp lành được ngàn tia sáng. “Lại nữa, do duyên gì mà gọi là ánh sáng của nghiệp đời trước? Hoặc có người khơng sát sanh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng hai lưỡi, khơng ác khẩu, khơng nói dối, khơng thêu dệt, khơng tham giữ, khơng sân nhuế, khơng tà kiến, vì những nhân duyên này mà tâm lành hoan hỷ. Giống như đầu ngã tư đường có hồ tắm lớn trong mát khơng nhơ, có người đi xa, mệt mỏi nóng khát, lại vào trong hồ nước này tắm rửa cho mát mẻ rồi cảm thấy vui mừng yêu thích; thì người thực hành mười điều lành, tâm lành vui mừng của họ lại cũng như vậy. Thân người này sau khi thân hoại mạng chung, làm Nhật thiên tử, sống ở Nhật cung điện, có ngàn tia sáng, vì nhân duyên này cho nên gọi là ánh sáng nghiệp lành. “Lại nữa, vì duyên gì gọi là ngàn tia sáng? Hoặc có người khơng sát sanh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng dối, khơng uống rượu; do những nhân duyên này, mà thiện tâm hoan hỷ; thân hoại mạng chung, làm Nhật thiên tử, sống ở Nhật cung điện, có ngàn tia sáng. Do những nhân duyên như vậy nên gọi là ngàn tia sáng nghiệp lành. “Trong sáu mươi niệm khoảnh<註 n="1759"/>369 gọi là một la-da<註 n="1760"/>370, ba mươi la-da gọi là ma-hầu-đa<註 n="1761"/>371, trăm ma-hầu-đa gọi là ưu-ba-ma<註 n="1762"/>372. Nhật cung điện mỗi năm có sáu tháng đi theo hướng Nam, mỗi ngày di chuyển ba mươi dặm; cực Nam khơng vượt qua khỏi Diêm-phù-đề. Mặt trời di chuyển về hướng Bắc, cũng vậy. “Vì duyên gì nên ánh sánh mặt trời nóng bức? Có mười nhân duyên. Những gì là mười? “1. Ngồi núi Tu-di có núi Khư-đà-la<註 n="1763"/>373 cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, rộng bốn vạn hai ngàn do-tuần, biên núi khơng ước lượng được; núi được tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt. Đây là duyên thứ nhất ánh sáng mặt trời nóng bức. “2. Bên ngồi núi Khư-đà-la có núi Y-sa-đà<註 n="1764"/>374 cao hai vạn một ngàn do-tuần, rộng cũng hai vạn một ngàn do-tuần, chu vi là vơ lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi ánh sáng chiếu đến núi này, xúùc chạm mà phát sinh ra nhiệt. Đó là duyên thứ hai ánh sáng mặt trời nóng bức. “3. Bên ngồi núi Y-sa-đà có núi Thọ-đề-đà-la<註 n="1765"/>375, bên trên cao một vạn hai ngàn do-tuần, rộng một vạn hai ngàn do-tuần, chu vi là vơ lượng, tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt. Đó là duyên thứ ba ánh sáng mặt trời nóng bức. “4. Ở ngồi cách núi Thọ-đề-đa-la khơng xa có núi gọi là Thiện kiến<註 n="1766"/>376, cao sáu ngàn do-tuần, rộng sáu ngàn do-tuần, chu vi là vơ lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt, đó là duyên thứ tư để ánh sáng mặt trời nóng bức. “5. Ở ngồi núi Thiện kiến có núi Mã tự<註 n="1767"/>377 cao ba ngàn do-tuần, ngang rộng cũng ba ngàn do-tuần, chu vi là vơ lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt, đó là duyên thứ năm để ánh sáng mặt trời nóng bức. “6. Ở ngồi cách núi Mã tự khơng xa có núi Ni-di-đà-la<註 n="1768"/>378, cao một ngàn hai trăm do-tuần, rộng một ngàn hai trăm do-tuần, chu vi thì vơ lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt, đó là duyên thứ sáu để ánh sáng mặt trời nóng bức. “7. Ở ngồi cách núi Ni-di-đà-la khơng xa có núi Điều phục<註 n="1769"/>379, cao sáu trăm do-tuần, rộng cũng sáu trăm do-tuần, chu vi thì vơ lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi áng sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt. Đó là duyên thứ bảy để ánh sáng mặt trời nóng bức. “8. Ở ngồi núi Điều phục có núi Kim cương luân<註 n="1770"/>380, cao ba trăm do-tuần, rộng ba trăm do-tuần, chu vi thì vơ lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát ra nhiệt. Đó là duyên thứ tám để ánh sáng mặt trời nóng bức. “9. Lại nữa, bên trên một vạn do-tuần có cung điện Trời gọi là Tinh tú, tạo thành bởi lưu ly. Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào nó, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt. Đó là duyên thứ chín để ánh sáng mặt trời nóng bức. “10. Lại nữa, ánh sáng cung điện mặt trời chiếu xuống đại địa, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt. “Đó là mười duyên thứ mười làm cho ánh sáng mặt trời nóng bức.” Bấy giờ, Thế Tơn nói bài tụng: Do mười nhân duyên này, Mặt trời gọi Thiên quang; Ánh sáng phát nóng bức: Được nói mặt trời Phật. Phật bảo Tỳ-kheo: “Tại sao cung điện mặt trời mùa đơng thì lạnh để khơng thể ở gần được? Có ánh sáng mà sao lạnh? Có mười ba duyên, tuy có ánh sáng nhưng vẫn lạnh. Những gì là mười ba? “1. Giữa hai núi Tu-di và Khư-đà-la có nước, rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần, chu vi thì vơ lượng. Nước này sinh ra rất nhiều loại hoa khác nhau như: hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Bát-đầu-ma, hoa Phân-đà-lî, hoa Tu-kiền-đề; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ nhất để ánh sáng mặt trời lạnh. “2. Khoảng cách giữa hai núi Khư-đà-la và Y-sa-đà-la có nước, rộng bốn vạn hai ngàn do-tuần, dọc ngang bốn vạn hai ngàn do-tuần, chu vi thì vơ lượng. Nước này sinh ra các lồi hoa khác nhau. Khi ánh sáng chiếu đến, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ hai để ánh sáng mặt trời lạnh. “3. Giữa hai núi Y-sa-đà-la và Thọ-đề-đà-la có nước, rộng hai vạn một ngàn do-tuần, chu vi thì vơ lượng, sinh ra các lồi hoa khác nhau. Khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ ba ánh sáng mặt trời lạnh. “4. Giữa hai núi Thiện kiến và núi Thọ-đề có nước, rộng hai ngàn do-tuần, chu vi thì vơ lượng, nơi này có nước, sinh ra các lồi hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ tư để ánh sáng mặt trời lạnh. “5. Giữa hai núi Thiện kiến và núi Mã tự có nước, rộng sáu ngàn do-tuần, sinh ra các lồi hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ năm để ánh sáng mặt trời lạnh. “6. Giữa hai núi Mã tự và núi Ni-di-đà-la có nước, rộng một ngàn hai trăm do-tuần, chu vi thì vơ lượng, sinh ra các lồi hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ sáu để ánh sáng mặt trời lạnh. “7. Giữa hai núi Ni-di-đà-la và núi Điều phục rộng sáu trăm do-tuần, chu vi thì vơ lượng, sinh ra các lồi hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ bảy để sinh ra ánh sáng mặt trời lạnh. “8. Giữa hai núi Điều phục và núi Kim cương luân có nước, rộng ba trăm do-tuần, chu vi thì vơ lượng, sinh ra các lồi hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ tám để ánh sáng mặt trời lạnh. “9. Giữa núi Kim cang luân và đất Diêm-phù-đề có nước<註 n="1771"/>381, khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống một lần chạm nhau thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ chín để ánh sáng mặt trời lạnh. “10. Đất Diêm-phù-đề có sơng ít, đất Câu-da-ni có nước nhiều. Khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ mười để ánh sáng mặt trời lạnh. “11. Sơng ngịi của cõi Câu-da-ni thì ít, nước của cõi Phất-vu-đãi thì nhiều; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ mười một để ánh sáng mặt trời lạnh. “12. Sơng ngịi của Phất-vu-đãi thì ít, sơng ngịi của Uất-đơn-viết thì nhiều; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm nhau thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ mười hai để ánh sáng mặt trời lạnh. “13. Ánh sáng của cung điện mặt trời chiếu xuống nước của biển cả, thì khi ánh sáng mặt trời chiếu, xúc chạm mà sinh ra lạnh, đó là duyên thứ mười ba để ánh sáng mặt trời lạnh.” Bấy giờ, Phật nói bài tụng: Do mười ba duyên này. Mặt trời gọi Thiên quang Ánh sáng này lạnh trong: Được nói Mặt trời Phật. Phật bảo Tỳ-kheo: “Cung điện mặt trăng, chất trịn khi đầy khi vơi<註 n="1772"/>382, ánh sáng sút giảm, cho nên nguyệt cung được gọi là Tổn<註 n="1773"/>383. Mặt trăng có hai nghóa: một là trụ thường độ, hai gọi là cung điện<註 n="1774"/>384. Do từ bốn phương xa mà nhìn, thấy là trịn. Lạnh ấm điều hịa, được tạo thành bởi bạc trời và lưu ly. Hai phần là thuần bạc trời rịng khơng pha tạp, trong suốt trong ngồi, ánh sánh chiếu xa; một phần bằng lưu ly rịng khơng pha tạp, trong suốt trong ngồi, ánh sáng chiếu xa. Cung điện mặt trăng, rộng bốn mươi chín do-tuần, tường cung điện cùng đất mỏng như tử bách<註 n="1775"/>385. Tường cung điện có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp linh báu, bảy lớp hàng cây, trang sức chung quanh bằng bảy báu… cho đến, vơ số các lồi chim ríu rít hịa vang. “Cung điện mặt trăng này được năm thứ gió giữ gìn<註 n="1776"/>386: một là trì phong, hai là dưỡng phong, ba là thụ phong, bốn là chuyển phong, năm là điều phong. Chánh điện, nơi ngự của Nguyệt thiên tử, làm bằng lưu ly, cao mười sáu do-tuần. Điện có bốn cửa, chung quanh là lan can. Tịa của Nguyệt thiên tử, rộng nửa do-tuần, được làm thành bởi bảy báu, trong sạch và mềm mại, giống như thiên y. Nguyệt thiên tử trên thân phóng ra ánh sáng, chiếu soi điệân lưu ly; ánh sáng của điện lưu ly chiếu soi cung điện mặt trăng và ánh sáng cung điện mặt trăng chiếu soi bốn cõi thiên hạ. Tuổi thọ của Nguyệt thiên tử là năm trăm năm, con cháu thừa kế nhau khơng hề khác<註 n="1777"/>387. Cung điện này khơng bị hủy hoại trong vịng một kiếp. Lúc cung điện mặt trăng di chuyển, Nguyệt thiên tử này khơng có ý niệm di chuyển, rằng: ‘Ta đi. Ta dừng.’ Mà chỉ luơn luơn hưởng thụ ngũ dục. Khi cung điện mặt trăng di chuyển, thì có vơ số trăm ngàn các Đại Thiên thần, thường ở trước dẫn đường, hoan hỷ khơng mệt mỏi, ưa thích nhanh nhẹn, vì vậy nên Nguyệt thiên tử được gọi là ‘Nhanh nhẹn’<註 n="1778"/>388. “Thân Nguyệt thiên tử phát ra ngàn tia sáng, năm trăm tia sáng chiếu xuống và năm trăm tia sáng chiếu hai bên. Đó là do cơng đức của nghiệp đời trước nên có ánh sáng này, thế nên Nguyệt thiên tử cịn gọi là Thiên Quang<註 n="1779"/>389. Thế nào là cơng đức nghiệp đời trước? Thế gian có một người phát tâm cúng dường Sa-mơn, Bà-la-mơn, cùng bố thí cho những người đói khát cùng cực, cho họ đồ ăn thức uống, y phục, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, phịng xá, đèn đuốc, tùy thời ban phát, tùy theo nhu cầu, mà khơng trái ý người và cúng dường cho các vị Hiền thánh trì giới. Do vơ số pháp hỷ khác nhau ấy, thiện tâm quang minh. Như vị vua Quán đảnh dịng Sát-lî, khi mới đang vương vị, thiện tâm hoan hỷ, cũng lại như vậy. Vì nhân duyên này, nên thân hoại mạng chung làm Nguyệt thiên tử, cung điện mặt trăng có ngàn tia sáng, cho nên nói là nghiệp lành được ngàn tia sáng. “Lại nữa, do nghiệp gì được ngàn ánh sáng? Thế gian có người khơng sát sanh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng hai lưỡi, khơng ác khẩu, khơng nói dối, khơng thêu dệt, khơng tham giữ, khơng sân nhuế, khơng tà kiến; do những nhân duyên này mà thiện tâm hoan hỷ. Giống như đầu ngã tư đường có hồ tắm lớn trong mát khơng nhơ, có người đi xa, mệt mỏi nóng khát, vào trong hồ nước này, tắm rửa mát mẻ, hoan hỷ khối lạc; người thực hành mười điều lành, thiện tâm hoan hỷ, lại cũng như vậy. Người này sau khi thân hoại mạng chung, sẽ làm Nguyệt thiên tử, sống ở cung điện mặt trăng, có ngàn tia sáng. Do nhân duyên này cho nên gọi là ngàn ánh sáng nghiệp lành. “Lại nữa, do duyên gì được ngàn tia sáng? Thế gian có người khơng sát sanh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng lừa dối, khơng uống rượu, vì những nhân duyên này, thiện tâm hoan hỷ; thân hoại mạng chung, làm Nguyệt thiên tử, sống ở cung điện mặt trăng, có ngàn tia sáng. Do những nhân duyên như vậy nên gọi là ngàn tia sáng nghiệp lành. “Trong sáu mươi niệm khoảnh<註 n="1780"/>390 gọi là một la-da, ba mươi la-da gọi là ma-hầu-đa, trăm ma-hầu đa gọi là ưu-bà-ma. Nếu cung điện mặt trời mỗi năm có sáu tháng đi về phía Nam, mỗi ngày di chuyển ba mươi dặm, cực Nam khơng vượt qua khỏi Diêm-phù-đề; thời gian ấy, cung điện mặt trăng nửa năm đi về phía Nam, khơng vượt qua khỏi Diêm-phù-đề. Nguyệt Bắc hành cũng như vậy. “Vì duyên gì mà cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít? Có ba nhân duyên nên cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít: Một, mặt trăng phát xuất từ phương góc, là duyên thứ nhất để mặt trăng tổn giảm. Lại nữa, trong cung điện mặt trăng có các đại thần đều mặc y phục màu xanh, theo thứ tự mà lên, trú xứ cũng trở thành xanh, cho nên mặt trăng bị tổn giảm; đó là duyên thứ hai để mặt trăng mỗi ngày mỗi giảm. Lại nữa, cung điện mặt trời có sáu mươi tia sáng, tia sáng này chiếu vào cung điện mặt trăng, ánh chiếu khiến cho khơng hiện, do đó nơi có ánh chiếu, nơi ấy của mặt trăng bị tổn giảm; đó là duyên thứ ba để ánh sáng mặt trăng tổn giảm. “Lại nữa, vì duyên gì mà ánh sáng cung điện mặt trăng đầy dần? Có ba nhân duyên khiến cho ánh sáng mặt trăng đầy dần. Những gì là ba? Một, mặt trăng hướng về phương vị chánh cho nên ánh sáng mặt trăng đầy. Hai, các thần cung điện mặt trăng hết thảy đều mặt y phục màu xanh và Nguyệt thiên tử vào ngày rằm ngồi vào giữa, cùng nhau hưởng lạc, ánh sáng chiếu khắp, lấn át ánh sáng chư Thiên, nên ánh sáng đầy khắp. Giống như bó đuốc lớn được đốt lên trong đám đèn đuốc, sẽ át hẳn ánh sáng các ngọn đèn. Nguyệt thiên tử cũng lại như vậy. Vào ngày rằm, ở giữa chúng chư Thiên, át hẳn tất cả các ánh sáng khác, chỉ có ánh sáng của ơng độc chiếu, cũng như vậy. Đó là duyên thứ hai. Ba, Nhật thiên tử tuy đã có sáu mươi tia sáng chiếu soi cung điện mặt trăng, nhưng trong vào ngày rằm, Nguyệt thiên tử cũng có thể dùng ánh sáng chiếu nghịch lại, khiến cho nó khơng thể che khuất được. Đó là ba nhân duyên cho cung điện mặt trăng trịn đầy mà khơng bị tổn giảm. “Lại nữa vì duyên gì mà mặt trăng có bóng đen? Vì cái bóng cây Diêm-phù in vào trong mặt trăng, nên mặt trăng có bóng.” Phật bảo Tỳ-kheo: “Tâm hãy như mặt trăng, trong mát khơng nóng bức, khi đến nhà đàn-việt<註 n="1781"/>391, chuyên niệm khơng tán loạn. “Lại vì duyên gì mà có các sơng ngịi? Vì mặt trời mặt trăng có độ nóng. Do độ nóng này mà có nung đốt. Do có nung đốt nên có mồ hơi. Do mồ hơi mà thành sơng ngịi. Do đó thế gian có sơng ngịi. “Vì nhân duyên gì mà thế gian có năm loại hạt giống? Có cuồng phong dữ từ thế giới chưa bị hủy diệt thổi hạt giống đến sanh ở quốc độ này. Một là hạt từ rễ; hai, hạt từ cọng; ba, hạt từ đốt; bốn, hạt từ ruột rỗng; năm, hạt từ hạt. Đó là năm loại hạt. Vì nhân duyên này mà thế gian có năm loại hạt giống xuất hiện. “Lúc ở Diêm-phù-đề đang là giữa trưa thì ở Phất-vu-đãi mặt trời lặn. Ở Câu-da-ni mặt trời mọc, ở Uất-đơn-viết là nửa đêm. Câu-da-ni giữa trưa thì ở Diêm-phù-đề mặt trời lặn. Uất-đơn-viết mặt trời mọc, ở Phất-vu-đãi là nửa đêm; ở Uất-đơn-viết giữa trưa thì ở Câu-da-ni mặt trời lặn; ở Phất-vu-đãi mặt trời mọc, thì Diêm-phù-đề là nửa đêm. Nếu ở Phất-vu-đãi là giữa trưa, thì ở Uất-đơn-viết mặt trời lặn; ở Diêm-phù-đề mặt trời mọc, thì ở Câu-da-ni là nửa đêm. Phương Đơng của Diêm-phù-đề, thì là phương Tây ở Phất-vu-đãi; phương Tây của Diêm-phù-đề là phương Đơng của Câu-da-ni; phương Tây của Câu-da-ni là phương Đơng của Uất-đơn-viết; phương Tây của Uất-đơn-viết là phương Đơng của Phất-vu-đãi. “Diêm-phù-đề<註 n="1782"/>392, sở dó được gọi là Diêm-phù vì ở dưới có núi vàng cao ba mươi do-tuần, do cây Diêm-phù<註 n="1783"/>393 sanh ra nên được gọi là vàng Diêm-phù<註 n="1784"/>394. Cây Diêm-phù có trái của nó như tai nấm<註 n="1785"/>395, vị của nó như mật; cây có năm góc<註 n="1786"/>396 lớn, bốn mặt bốn góc, ở trên có một góc. Những trái ở bên góc phía Đơng của nó được Càn-thát-bà<註 n="1787"/>397ăn. Trái ở góc phía Nam của nó được người bảy nước ăn. Bảy nước<註 n="1788"/>398 là: một, nước Câu-lâu; hai, Câu-la-ba; ba, Tỳ-đề; bốn, Thiện-tỳ-đề; năm, Mạn-đà; sáu, Bà-la; bảy, Bà-lệ. Trái ở góc phía Tây được hải trùng<註 n="1789"/>399 ăn. Trái ở góc phía Bắc được cầm thú ăn. Trái ở phía góc trên được Tinh tú thiên ăn. Phía Bắc của bảy nước lớn có bảy hịn núi đen lớn<註 n="1790"/>400, một là Lõa thổ, hai là Bạch hạc, ba là Thủ cung, bốn là Tiên sơn, năm là Cao sơn, sáu là Thiền sơn, bảy là Thổ sơn. Trên mặt của bảy núi đen này có bảy vị Tiên nhơn Bà-la-mơn. Trú xứ của bảy Tiên nhơn<註 n="1791"/>401 này, một là Thiện đế, hai là Thiện quang, ba là Thủ cung, bốn là Tiên nhơn, năm là Hộ cung, sáu là Già-na-na, bảy là Tăng ích.” Phật bảo Tỳ-kheo<註 n="1792"/>402: “Khi kiếp sơ<註 n="1793"/>403, chúng sanh sau khi nếm vị đất, rồi tồn tại một thời gian lâu dài. Những ai ăn nhiều, nhan sắc trở nên thơ kệch, khơ héo. Những ai ăn ít, nhan sắc tươi sáng, mịn màng. Từ đó về sau mới phân biệt nhan sắc tướng mạo của chúng sanh có hơn có kém và sinh ra thị phi với nhau, nói rằng: ‘Ta hơn ngươi; ngươi khơng bằng ta.’ Do tâm của chúng phân biệt kia và ta, ơm lịng cạnh tranh, cho nên vị đất tiêu hết. Sau đó sinh ra một loại da đất<註 n="1794"/>404, hình dáng giốâng như cái bánh mỏng; màu sắc, hương vị của nó rất là thanh khiết. Bấy giờ chúng sanh tụ tập lại một chỗ, tất cả đều áo não buồn khóc, đấm ngực mà nói: ‘Ối chao là tai họa! Vị đất nay bỗng biến mất.’ Giống như hiện nay người được đầy ắp vị ngon, bảo là ngon lành, nhưng sau đó lại bị mất đi nên lấy làm buồn lo. Kia cũng như vậy buồn lo hối tiếc. Sau đó, chúng ăn lớp da đất, dần quen cái vị của nó. Những ai ăn nhiều thì nhan sắc trở thành thơ kệch khơ héo. Những ai ăn ít thì nhan sắc tươi sáng mịn màng. Từ đó mới phân biệt nhan sắc tướng mạo của chúng sanh có xấu có đẹp và sinh chuyện thị phi với nhau, nói rằng: ‘Ta hơn ngươi. Ngươi khơng bằng ta.’ Do tâm chúng phân biệt kia và ta, ơm lịng cạnh tranh, nên nấm đất cạn tiêu hết. “Sau đó lại xuất hiện một loại da ngồi của đất<註 n="1795"/>405, càng lúc càng dày thêm, màu của nó như thiên hoa<註 n="1796"/>406, mềm mại của nó như thiên y, vị của nó như mật. Bấy giờ, các chúng sanh lại lấy nó cùng ăn, sống lâu ngày ở thế gian. Những ai càng ăn nhiều thì nhan sắc càng sút kém. Những ai ăn ít thì nhan sắc tươi sáng mịn màng. Từ đó phân biệt nhan sắc tướng mạo của chúng sanh có xấu có đẹp và do thế mà sinh chuyện thị phi với nhau rằng: ‘Ta hơn ngươi. Ngươi khơng bằng ta.’ Vì tâm chúng phân biệt ta và người, sinh lịng cạnh tranh, nên lớp da ngồi của đất tiêu hết. “Sau đó, lại xuất hiện loại lúa tẻ<註 n="1797"/>407 mọc tự nhiên, khơng có vỏ trấu<註 n="1798"/>408, khơng cần phải gia thêm chế biến mà chúng đã đầy đủ các thứ mỹ vị. Bấy giờ, chúng sanh tụ tập nhau lại nói: ‘Ối chao là tai họa! Nay màng đất bỗng nhiên biến mất.’ Giống như hiện tại người gặp họa gặp nạn thì than rằng: ‘Khổ thay!’ Bấy giờ chúng sanh áo não, buồn than, cũng lại như vậy. “Sau đó, chúng sanh cùng nhau lấy lúa tẻ tự nhiên này ăn và thân thể chúng, trở nên thơ xấu, có hình dáng nam nữ, nhìn ngắm nhau, sinh ra dục tưởng; họ cùng nhau tìm nơi vắng làm hành vi bất tịnh, các chúng sanh khác thấy than rằng: ‘Ơi, việc làm này quấy! Tại sao chúng sanh cùng nhau sinh ra chuyện này?’ Người nam làm việc bất tịnh kia, khi bị người khác quở trách, tự hối hận mà nói rằng: ‘Tơi đã làm quấy.’Rồi nó gieo mình xuống đất. Người nữ kia thấy người nam này vì hối lỗi mà gieo mình xuống đất, khơng đứng lên, liền đưa thức ăn đến. Chúng sanh khác thấy vậy, hỏi người nữ rằng: ‘Ngươi đem thức ăn này để cho ai?’ Đáp: ‘Chúng sanh hối lỗi kia đọa lạc<註 n="1799"/>409 thành kẻ làm điều bất thiện, tơi đưa thức ăn cho nó.’ Nhân lời nói này, nên thế gian liền có danh từø ‘người chồng bất thiện’<註 n="1800"/>410 và vì việc đưa cơm cho chồng nên được gọi là vợ<註 n="1801"/>411. “Sau đó, chúng sanh bèn làm chuyện dâm dật, pháp bất thiện tăng. Để tự che giấu, chúng tạo ra nhà cửa. Do vì nhân duyên này, bắt đầu có danh từ ‘nhà’<註 n="1802"/>412. “Sau đó, sự dâm dật của chúng sanh càng ngày càng tăng, nhân đây đã trở thành chồng vợ. Có các chúng sanh khác, khi tuổi thọ hết, hành hết, phước hết, từ cõi trời Quang âm sau khi mạng chung lại sinh vào thế gian này, ở trong thai mẹ, nhân đây thế gian có danh từ ‘mang thai’<註 n="1803"/>413. “Bấy giờ, trước tiên tạo thành Chiêm-bà, kế đến tạo thành Già-thi, Ba-la-nại và tiếp theo là thành Vương xá<註 n="1804"/>414. Lúc mặt trời mọc thì bắt đầu kiến tạo, tức thì lúc mặt trời mọc hồn thành<註 n="1805"/>415. Do nhân duyên này nên thế gian liền có tên thành, quách, quận, ấp, là chỗ nhà vua cai trị. “Bấy giờ, khi chúng sanh bắt đầu ăn lúa tẻ mọc tự nhiên, sáng sớm gặt thì chiều tối lại chín, chiều tối gặt thì sáng sớm lại chín. Sau khi được gặt, lúa sinh trở lại, hồn tồn khơng có thân cuống lúa. “Rồi thì, có chúng sanh thầm nghó rằng: ‘Sao ta mỗi ngày mỗi gặt chi cho mệt nhọc? Nay hãy gom lấy đủ cho nhiều ngày.’ Nó bèn gặêt gộp lại, chứa số lương đủ cho nhiều ngày. Người khác sau đó gọi nó: ‘Nay chúng ta hãy cùng đi lấy lúa.’ Người này bèn trả lời: ‘Tơi đã chứa đủ sẵn rồi, khơng cần lấy thêm nữa. Anh muốn lấy, cứ tùy ý đi lấy một mình.’ Người kia bèn nghó thầm: ‘Gã này có thể lấy đủ lương cho hai ngày, sao ta khơng thể lấy đủ cho ba ngày?’ Người ấy bèn chứa dư ba ngày lương. Lại có những người khác gọi nó: ‘Hãy cùng đi lấy lương.’ Nó liền đáp: ‘Ta đã lấy dư ba ngày lương rồi. Các người muốn lấy, tùy ý đi mà lấy.’ Các người kia bèn nghó: ‘Người kia có thể lấy ba ngày lương, sao ta khơng thể lấy năm ngày lương?’ Rồi chúng lấy năm ngày lương. Bấy giờ, chúng sanh tranh nhau cất chứa lương dư, nên lúa tẻ ấy bèn sanh ra vỏ trấu; sau khi được gặt, khơng mọc trở lại nữa; chỉ cịn trơ cọng khơ mà thơi. “Bấy giờ chúng sanh tụ tập lại một chỗ, áo não buồn khóc, đấm ngực than: ‘Ơi, đây là một tai họa!’ và tự thương trách rằng: ‘Chúng ta vốn đều do biến hóa mà sinh, ăn bằng niệm, tự thân phát ánh sáng, có thần túc bay trên khơng, an vui khơng ngại. Sau đó vị đất bắt đầu sinh ra, sắc vị đầy đủ. Khi ấy chúng ta nếm thử vị đất này, rồi tồn tại lâu trong đời này. Những ai ăn nhiều thì nhan sắc trở thành thơ xấu. Những ai ăn nó ít thì nhan sắc tươi sáng, mịn màng; từ đó tâm chúng sanh có phân biệt ta và người, sinh tâm kiêu mạn, bảo rằng: ‘Sắc ta hơn. Sắc ngươi khơng bằng.’ Do kiêu mạn, tranh nhau sắc, nên vị đất tiêu diệt. Lại sanh ra lớp da đất, có đầy đủ sắc hương vị. Chúng ta lúc ấy cùng thu lấy để ăn, tồn tại lâu dài ở thếá gian. Những ai ăn nhiều thì da sắc trở thành thơ xấu. Những ai ăn ít đi thì da sắc tươi sáng mịn màng, từ đó có phân biệt ta và người, sinh tâm kiêu mạn bảo rằng: ‘Sắc ta hơn, sắc ngươi khơng bằng.’ Vì tranh nhau về sắc mà kiêu mạn nên lớp da đất biến mất và xuất hiện lớp da ngồi của đất, càng lúc càng dày lên, đủ cả sắc, hương, mùi vị. Chúng ta khi ấy lại cùng nhau thu lấy ăn, tồn tại dài ở thế gian. Những ai ăn nhiều thì sắc da trở thành thơ xấu. Những ai ăn ít thì sắc da tươi sáng mịn màng, từ đó có phân biệt ta và người, sinh tâm kiêu mạn bảo rằng: ‘Sắc ta hơn, sắc ngươi khơng bằng.’ Vì sắc tranh nhau mà kiêu mạn, nên lớp da ngồi của đất biến mất, để rồi sinh ra loại lúa tẻ mọc tự nhiên, đầy đủ sắc, hương, vị. Chúng ta lúc ấy lại cùng nhau thu lấy ăn, sớm mai thu hoạch buổi chiều lại chín, buổi chiều thu hoạch sáng mai lại chín, vì thu hoạch xong thì sinh trở lại nên khơng cần phải gom thu. Nhưng vì chúng ta lúc này tranh nhau tích lũy, nên lúa này sinh ra vỏ trấu và sau khi thu gặt xong khơng sinh trở lại nữa, mà hiện tại chỉ cịn có rễ và thân mà thơi. Nay chúng ta hãy cùng nhau phân phối ruọâng nhà, phân chia bờ cõi.’ “Rồi chúng phân chia ruộng đất, vạch bờ cõi khác nhau, phân biệt của người và của ta. Sau đó mọi người tự cất giấu lúa thóc của mình, trộm lấy lúa ruộng người khác. Các chúng sanh khác trơng thấy, nên nói: ‘Việc ngươi làm là quấy! Việc ngươi làm là quấy! Tại sao cất giấu vật của chính mình, mà đi trộm tài vật của người?’ Liền quở trách rằng: ‘Từ nay về sau khơng được tái phạm việc trộm cắp nữa!’ Nhưng những việc trộm cắp như vậy vẫn tái phạm khơng dứt, mọi người lại phải quở trách: ‘Việc ngươi làm sai quấy! Tại sao khơng chịu bỏ?’ Bèn lấy tay mà đánh, lơi đến giữa đám đơng, báo cáo cùng mọi người rằng: ‘Người này tự cất giấu thóc lúa, đi trộm lúa ruộng của người.’ Người ăn trộm nói lại: ‘Người kia đã đánh tơi.’ Mọi người nghe xong, ấm ức rơi lệ, đấm ngực nói rằng: ‘Thế gian trở nên xấu ác, nên đã sinh ra pháp ác này chăng?’ Nhân đấây mà sinh ra ưu kết nhiệt não khổ báo; rằng: ‘Đây là cội nguồn của của sinh, già, bệnh, chết; là nguyên nhân rơi vào đường ác. Do có ruộng nhà, bờ cõi riêng khác, nên sinh ra tranh giành kiện tụng, đưa đến ốn thù, khơng ai có thể giải quyết. Nay chúng ta hãy lập lên một người chủ bình đẳng<註 n="1806"/>416, để khéo léo giữ gìn nhơn dân, thưởng thiện phạt ác. Mọi người trong chúng ta đều cùng nhau giảm bớt phần của mình để cung cấp cho người chủ này.’ “Lúc đó, trong chúng có một người hình thể vạm vỡ, dung mạo đoan chánh, rất có oai đức. Mọi người bảo rằng: ‘Nay, chúng tơi muốn tơn bạn lên làm chủ, để khéo léo giữ gìn nhơn dân, thưởng thiện phạt ác. Chúng tơi sẽ giảm bớt phần của mình mà cung cấp.’ Người này nghe xong, liền nhận làm chủ. Ai đáng thưởng thì thưởng; ai đáng phạt thì phạt. Từ đây mới bắt đầu có danh từ dân chủ<註 n="1807"/>417. Dân chủ ban đầu có con tên là Trân Bảo<註 n="1808"/>418; Trân Bảo có con tên là Hảo Vị; Hảo Vị có con tên là Tónh Trai; Tónh Trai có con tên là Đảnh Sanh; Đảnh Sanh có con tên là Thiện Hành; Thiện Hành có con tên là Trạch Hành; Trạch Hành có con tên là Diệu Vị; Diệu Vị có con tên là Vị Đế; Vị Đế có con tên là Thủy Tiên; Thủy Tiên có con tên là Bách Trí; Bách Trí có con tên là Thị Dục; Thị Dục có con tên là Thiện Dục; Thiện Dục có con tên là Đoạn Kết; Đoạn Kết có con tên là Đại Đoạn Kết; Đại Đoạn Kết có con tên là Bảo Tạng; Bảo Tạng có con tên là Đại Bảo Tạng; Đại Bảo Tạng có con tên là Thiện Kiến; Thiện Kiến có con tên là Đại Thiện Kiến; Đại Thiện Kiến có con tên là Vơ Ưu; Vơ Ưu có con tên là Châu Chử; Châu Chử có con tên là Thực Sanh; Thực Sanh có con tên là Sơn Nhạc; Sơn Nhạc có con tên là Thần Thiên; Thần Thiên có con tên là Khiển Lực; Khiển Lực có con tên là Lao Xa; Lao Xa có con tên là Thập Xa; Thập Xa có con tên là Bách Xa; Bách Xa có con tên là Lao Cung; Lao Cung có con tên là Bách Cung; Bách Cung có con tên là Dưỡng Mục; Dưỡng Mục có con tên là Thiện Tư. “Từ Thiện Tư trở về sau có mười họ, Chuyển luân thánh vương nối tiếp nhau khơng dứt: Một tên là Già-nậâu-thơ, hai tên là Đa-la-bà, ba tên là A-diệp-ma, bốn tên là Trì-thí, năm tên là Già-lăng-già, sáu tên là Chiêm-bà, bảy tên là Câu-la-bà, tám tên là Bác-đồ-la, chín tên là Di-tư-la, mười tên là Thanh Ma. “Giịng Vua Già-nậâu-thơ có năm vị Chuyển luân thánh vương. Giịng vua Đa-la-bà có năm vị Chuyển luân thánh vương. Giịng vua A-diếp-ma có bảy vị Chuyển luân thánh vương. Giịng vua Trì-thí có bảy vị vua Chuyển luân thánh vương. Giịng vua Già-lăng-già có chín vị vua Chuyển luân thánh vương. Giịng vua Chiêm-bà có mười bốn vị Chuyển luân thánh vương. Giịng vua Câu-la-bà có ba mươi mốt vị Chuyển luân thánh vương. Giịng vua Bát-xà-la có ba mươi hai vị Chuyển luân thánh vương. Giịng vua Di-tư-la có tám vạn bốn ngàn vị Chuyển luân thánh vương. Giịng vua Thanh Ma có một trăm lẻ một vị Chuyển luân thánh vương. Và vị vua cuối cùng có tên là Đại Thiện Sanh Tùng. “Vua Thanh Ma<註 n="1809"/>419 của giịng thứ mười có vương tử tên là Ơ-la-bà. Vua Ơ-la-bà có vương tử tên là Cừ-la-bà. Vua Cừ-la-bà có vương tử tên là Ni-cầu-la. Vua Ni-cầu-la có vương tử tên là Sư Tử Giáp. Vua Sư tử Giáp có vương tử tên là Bạch Tịnh vương<註 n="1810"/>420. Vua Bạch Tịnh vương có vương tử tên là Bồ-tát<註 n="1811"/>421. Bồ-tát có con tên là La-hầu-la. Do bản duyên này mà có tên gọi Sát-lî<註 n="1812"/>422. “Bấy giờ, có một chúng sanh suy nghó như vầy: ‘Tất cả mọi sở hữu như gia đình, quyến thuộc, muơn vật ở thế gian đều là gai nhọn, ung nhọt, nay nên lìa bỏ, vào núi hành đạo, ở nơi vắng vẻ mà tư duy.’ Rồi thì, người liền lìa bỏ gai nhọn là gia đình, vào núi, ở nơi vắng vẻ, ngồi dưới gốc cây mà tư duy, hằng ngày ra khỏi núi, vào thơn xóm mà khất thực. Mọi người trong thơn thấy vậy, càng cung kính cúng dường. Mọi người đều cùng khen ngợi rằng: ‘Người này có thể lìa bỏ hệ lụy của gia đình để vào núi tìm đạo.’ Vì người này có thể xa lìa được pháp ác bất thiện, nên nhân đó mà gọi là Bà-la-mơn<註 n="1813"/>423. “Trong chúng Bà-la-mơn có người khơng hành Thiền được, nên ra khỏi rừng núi, du hành trong nhân gian và tự nói: ‘Ta khơng thể tọa thiền.’ Nhân đó gọi là Vơ Thiền Bà-la-mơn<註 n="1814"/>424. Rồi đi qua các thơn xóm, nó làm pháp bất thiện, thi hành pháp độc, nhân đó tương sinh, nên được gọi đó là độc<註 n="1815"/>425. Do nhân duyên này mà có chủng tánh Bà-la-mơn ở thế gian. “Trong chúng sanh kia, chúng học tập các thứ nghề để tự mưu sống, nhân đây nên có chủng tánh Cư só ở thế gian. “Trong chúng sanh kia, chúng học tập các kỹ nghệ để tự nuơi sống, nhân đây mới có chủng tánh Thủ-đà-la ở thế gian. “Trước đó trong thế gian đã có giịng họ Thích này xuất hiện rồi, sau đó mới có giịng Sa-mơn. Trong giịng Sát-lî có người tự tư duy: ‘Thế gian ân ái là ơ uế, bất tịnh, đáng gì mà tham đắm?’ Rồi người ấy lìa bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục mà cầu đạo và nói: ‘Ta là Sa-mơn! Ta là Sa-mơn!’ “Trong chủng tánh Bà-la-mơn, chủng tánh Cư só, chủng tánh Thủ-đà-la, có người suy nghó: ‘Thế gian ân ái là ơ uế, bất tịnh, đáng gì mà tham đắm?’ Rồi người ấy lìa bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục mà cầu đạo và nói: ‘Ta là Sa-mơn! Ta là Sa-mơn! “Nếu trong chúng Sát-lî, có người thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện; sau khi hành bất thiện rồi, thân hoại mạng chung nhất định sẽ phải thọ khổ. Hoặc có Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện; sau khi hành bất thiện rồi, thân hoại mạng chung nhất định sẽ phải thọ khổ. “Chủng tánh Sát-lî thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, khi thân hoại mạng chung nhất định sẽ thọ lạc. Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, khi thân hoại mạng chung nhất định sẽ được thọ lạc. “Thân của người Sát-lî thân có hai loại hành, miệng và ý cũng có hai loại hành. Sau khi thân, miệng và ý đã hành hai loại ấy rồi, thân hoại mạng chung nhất định sẽ thọ báo hoặc khổ hoặc lạc. Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la, thân, miệng, ý có hai loại hành. Sau khi thân, miệng và ý đã hành hai loại này rồi, thân hoại mạng chung chắc chắn sẽ thọ báo hoặc khổ hoặc vui. “Trong chúng Sát-lî, như có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia cầu đạo. Vị ấy tu tập bảy giác ý. Với tín tâm kiên cố vị ấỵ xuất gia hành đạo, tu phạm hạnh vơ thượng, ngay trong đời này, tự thân tác chứng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, tự biết khơng cịn tái sanh đời sau nữa.’ “Ở trong chúng Bà-la-mơn, Cư só, Thủ-đà-la, có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia cầu đạo. Vị ấy tu tập bảy giác ý. Vị ấy do lịng tin kiên cố mà xuất gia hành đạo, tu phạm hạnh vơ thượng, ở ngay trong đời này mà tự thân tác chứng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, tự biết khơng cịn tái sanh đời sau nữa.’ “Trong bốn chủng tánh này, đều có thể thành tựu Minh và Hành, chứng đắc A-la-hán, là đệ nhất tối thượng.” Bấy giờ, Phạm thiên liền nói kệ: Thọ sanh, Sát-lî nhất, Hay tập các chủng tánh. Minh Hạnh thành đầy đủ, Là nhất trong Trời, Người.” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Phạm thiên kia nói bài kệ này rất hay, chứ khơng phải khơng hay; là khéo lãnh thọ, chứ khơng phải khơng khéo lãnh thọ, được Ta ấn chứng. Vì sao? Vì Ta nay, là Như Lai, Chí Chân, là Đẳng Chánh Giác, cũng nói như bài kệ này: “Sát-lî sanh là nhất, Hay tập các chủng tánh, Minh Hạnh thành đầy đủ, Là nhất trong trời, người.” Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ thực hành. Trường A-hàm hồn tất. Quy mạng Nhất thiết trí. Tất cả chúng an vui. Chúng sanh trú vơ vi, Tơi cũng ở trong đó.