ĐẠI TẠNG KINH TUỆ QUANG 25,釋經論部,1507 ,
5,分別功德論 ,【失譯附後漢錄】
|
||
SỐ 1507/5 LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC Hán dịch: Mất tên người dịch. Nay dựa vào bản sao chép đời Hậu Hán. QUYỂN 1 * Kệ thứ nhất được lập đã nói: “Tôn giả Ca-diếp đã tư duy về gốc của chánh pháp” (Ca-diếp tư duy chánh pháp bản): Nghĩa là tư duy về ngôn giáo của kinh pháp là hết sức nhiều. Lấy gì để nhận biết? Tôn giả Ca-diếp tức dùng sự đối chiếu để làm sáng rõ về chỗ nhiều ít. Pháp so sánh khởi đầu từ mười con lừa, nói: Sức của mười con lừa không bằng sức của một con lạc đà thường. Sức của mười con lạc đà thường không bằng sức của một con voi thường. Sức của mười con voi thường không bằng sức của con voi Tế cước. Sức của mười con voi Tế cước không bằng sức của một con voi Đạo thực. Sức của mười con voi Đạo thực không bằng sức của một con voi Liên hoa. Sức của mười con voi Liên hoa không bằng sức của một con voi Thanh liên hoa. Sức của mười con voi Thanh liên hoa không bằng sức của một con voi Hồng liên hoa. Sức của mười con voi Hồng liên hoa không bằng sức của một con voi Bạch liên hoa. Sức của mười con voi Bạch liên hoa không bằng sức của một con voi Tuyết sơn. Sức của mười con voi Tuyết sơn không bằng sức của một Hương tượng. Từ lừa đến Hương tượng là một phần. Tám vạn bốn ngàn Hương tượng như thế là để so sánh với phần bên ngoài, bên trong nơi kinh sách. Đầy đủ số lượng Hương tượng như vậy là để đối chiếu với các sự việc được ghi chép mà Tôn giả A-nan đã nghe, đã nhận biết. Về phần thô là có thể cùng so sánh để nhận biết về số lượng lớn. Còn muốn mỗi mỗi thứ được diễn đạt bằng văn tự thì trọn đời cũng không thể thông suốt. Tư duy về kinh pháp là hết sức rộng lớn. Làm sao sẽ khiến chúng được lưu hành rộng khắp thiên hạ để cho ngàn đời chúng sinh nhận được ân ích của chánh pháp? Xét sâu đạt lý. Ai có thể soạn thuật pháp? Chỉ có Tôn giả A-nan mới có thể kết tập được. Tôn giả Ca-diếp tức thì đánh kiền chùy tập hợp chúng. Bấy giờ, liền có tám vạn bốn ngàn chư vị A-la-hán, vâng lệnh đến họp. Những vị nầy đều là bậc vô lậu, là câu giải thoát. Sở dĩ triệu tập các bậc Hiền Thánh ấy là để chư vị đều có thể nhập định diệt tận. Các vị nhập định diệt tận là có thể khiến cho chúng sinh hiện đời được phước, cứu độ mọi thứ khổ ách. Các bậc A-la-hán trong đại thiên thế giới, số lượng khó có thể nêu tính, trừ các vị ở ba đường, mỗi mỗi đều gấp bội. Nay chỉ chọn lấy hàng câu giải thoát lợi căn, có thể dùng định diệt tận độ thoát chúng sinh. Do đó xưng là phước điền. Lấy gì để làm rõ? Ngày xưa, Thiên Đế-thích phước hết sắp mạng chung, năm điềm suy hiện ra, tâm liền sợ hãi, muốn cầu cứu giúp, đang muốn đi đến chỗ Phật để cầu cứu. Nhớ nghĩ về ân Phật vốn rộng lớn khoan hòa, sợ không kịp để hóa giải thọ mạng. Liền nghĩ tới Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, cũng sợ là không thể cứu mạng. Chỉ có Tôn giả Đại Ca-diếp, do diệu lực của định diệt tận, có thể tức thì cứu kịp nguy ách. Liền đi đến trụ xứ của Tôn giả Ca-diếp. Lúc nầy, Tôn giả Ca-diếp sắp sửa đi tới các nhà nghèo. Phước độ nhớ nghĩ kỹ, đang muốn hiện ra thân trời, nhưng e sợ Tôn giả không nhận vật thí của mình, nên ở giữa đường hiện làm túp lều cỏ, với người bệnh ốm yếu ở trong ấy. Tôn giả Ca-diếp đến khất thực. Người bệnh liền duỗi cánh tay để cho thức ăn. Tôn giả Ca-diếp dùng bát nhận lấy, biến thành cam lồ, Đế-thích bèn hiện trở lại thân trời, ở trong hư không, Tôn giả Ca-diếp bảo: Sao lại vọng ngữ, lừa dối ta chăng? Trời đáp: Không vọng ngữ. Tôi chí thành dâng thí. Tôi là Thiên Đế, năm điềm suy hiện đến, mạng sắp chấm dứt, nên tới đây để cầu nguyện, xin cứu giúp mạng tôi. Tôn giả Ca-diếp liền im lặng nhận lời. Thiên Đế đến chỗ Phật nghe pháp, chốc lát liền ngủ, ngủ rồi liền thức, Phật bảo Thiên Đế: Vừa rồi ông đã chết, nay đã sống trở lại, không còn mạng chung nữa. Trở lại thân như cũ. Đây tức là chỗ cảm ứng từ diệu lực nơi định diệt tận của Tôn giả Ca-diếp. Tôn giả Ca-diếp sở dĩ xem diệu lực của định diệt tận là tối thắng, vì Tôn giả vốn là Phật Bích-chi. Phàm là pháp của Phật Bích-chi thì không thuyết pháp để giáo hóa, chỉ chuyên dùng thần túc để cảm ứng, biến hiện từ Tam-muội. Tôn giả Đại Ca-diếp tuy đã thủ chứng A-la-hán, nhưng thức gốc vẫn còn, nên vừa chọn lấy tám vạn bốn ngàn chúng đức, công sức có thể tạo được cảm ứng ngang với mình. Vấn nạn: Tôn giả Ca-diếp, do gốc là Phật Bích-chi nên nói diệu lực của định kia là thù thắng. Còn các vị A-la-hán nầy cũng đều là Phật Bích-chi chăng? Đáp: Tuy không phải là Phật Bích-chi, nhưng đã hành tập khắp về định diệt tận, nên nơi diệu lực là đồng, nên nói Tôn giả Ca-diếp và chúng Tăng là ruộng phước của chúng sinh. * Kệ viết: Đều đắc La-hán, tâm giải thoát: Là bậc Câu giải thoát. * Kệ viết: Đã thoát buộc chấp, làm phước điền: Nghĩa là Tôn giả Ca-diếp đã triệu tập tám vạn bốn ngàn chúng, đều chứng đắc Câu giải thoát. Do định diệt tận có thể khiến chúng sinh nơi đời hiện tại thoát khổ, về sau đạt được Niết-bàn, nên viết là: Làm phước điền. * Kệ viết: Tập bốn bộ: Là nói lược, lý hợp bốn bộ là tiêu biểu. Lại có tám bộ người trời: Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Sa-môn, Tứ Đại vương, Tam Thập Tam thiên, Ma vương, Phạm vương. Đó là tám bộ, cộng có mười hai bộ. * Nói bốn bộ: Là bước đầu nêu phần chính yếu. * Các pháp thâm diệu: Nghĩa là mười hai nhân duyên. Đức Phật vì Tôn giả A-nan nói mười hai nhân duyên là hết sức sâu xa vi diệu. Tôn giả A-nan thưa: Nhân duyên nầy có gì là thâm diệu? Phật bảo: Chớ nói là không thâm diệu. Chính ông, có lúc vào đời trước cũng nói là không thâm diệu. Xưa có vua A-tu-luân thân cao tám vạn do-tuần, hai môi trên dưới cách nhau ngàn do-tuần. Vua có con trai nhỏ, luôn yêu quý đứa bé nầy, bế để ngồi trên đầu gối. Biển sâu ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, vua A-tu-luân đứng trong ấy nước chỉ ngang nơi rốn của bụng. Đứa bé thấy cha như thế nên cho biển là cạn, muốn được đi vào nước. Vua cha bảo: Không thể! Vì biển sâu khiến con bị chìm. Đứa bé cứ muốn được vào nước. Vua cha liền buông đứa con, chìm tận đáy biển, nên hoảng sợ kêu la. Người cha bèn đưa cánh tay nắm lấy trở lại kéo ra khỏi nước. Bảo: Ta đã nói là con không thể vào được, mà con không tin. Hiện tại những gì là tương tợ? Vua A-tu-luân thời ấy nay là thân Ta. Đứa bé chính là ông (A-nan). Ngày trước không tin về biển sâu, nên nay không tin. Ông chỉ tư duy vô minh duyên hành, hãy còn không thể hiểu rõ, huống hồ là hiểu rõ về ba mươi bảy phẩm. Đức Như Lai đã nói về bốn thứ không thể nghĩ bàn. Những gì là bốn? Đó là, chúng sinh không thể nghĩ bàn. Thế giới không thể nghĩ bàn. Loài rồng không thể nghĩ bàn. Phật không thể nghĩ bàn. Sở dĩ thế giới không thể nghĩ bàn: Ngày trước, Tôn giả Mãn-nguyện-tử và một Phạm-chí cùng luận bàn. Phạm-chí tự nói: Tôi từng đi đến một ao nước, ngồi nơi bờ suy nghĩ, thấy có bốn thứ quân binh kéo tới, đi vào trong khoảng trống của đóa hoa sen. Liền tự kinh ngạc, không biết mình bị hoa mắt hay là thật có. Nói với người khác, họ đều không tin, tôi bèn đi tới trụ xứ của Phật thưa lại sự việc đã thấy như thế, Phật bảo: Đấy là sự thật không phải là hư vọng. A-tu-luân khởi bốn thứ binh đánh nhau với chư Thiên. A-tu-luân không thắng nổi nên thối chạy vào trong khoảng trống của hoa sen tự ẩn nấp. Đây không phải là chỗ suy lường có thể đạt tới, nên nói là thế giới không thể nghĩ bàn. Thế giới, hoặc cho là Phạm-thiên tạo ra, hoặc cho là do sáu trời tạo nên. Phạm-chí lại nói: Phạm-thiên do ai tạo? Hoặc nói: Phạm-thiên có cha. Hoặc nói là tự tạo. Nói có cha: Tức cha là hoa sen. Có chỗ nói: Hoa sen từ đâu sinh ra? Đáp: Từ trong rốn của Ưu-đà-duyên sinh ra. Ưu-đà-duyên từ đâu sinh ra? Đáp: Từ nơi vua Tán-sa sinh ra. Lại nói: Vua Tán-sa sinh ra từ tộc họ nào? Đáp: Sinh ra từ chủng tộc Sát-đế-lợi. Lại nói: Phạm-thiên là chủng tộc Bà-la-môn, nay nói do Sát-đế-lợi sinh ra, có thể nói như thế được chăng? Lại nói: Thời gian kiếp thiêu đốt, phần thô có thể được riêng. Do đâu nói như thế? Đáp: Vào lúc kiếp thiêu đốt, từ biên giới của đất trở lên đến mười lăm cõi trời, hoàn toàn bị thiêu rụi hết. Điều tương tợ như thế có thể nhận biết. Nhưng lại có từ tầng trời mười sáu trở lên đến cõi trời Ba Mươi Ba thì còn. Khoảng nầy, tuy thế giới khác bị thiêu đốt, vẫn còn. Do đấy mà nói lại không thể nhận biết. Đó là thế giới không thể nghĩ bàn. Hoặc nói: Sau kiếp thiêu đốt, nước bổ sung cho xứ lửa. Gió Tùy-lam thổi, tạo ra cung điện xong, dưới thấp có đất màu mỡ, đám chư Thiên trên cõi trời Quang Âm du hành vui chơi tới vùng đất kia, dần dần nếm thử thứ đất màu mỡ ấy, thân tướng bèn trở nên nặng nề, không thể quay lại trụ xứ. Ăn nhiều đất đó thì hóa làm người nữ, chuyển giảm trở thành mảnh mai, thích ăn bánh làm bằng bột gạo lấy từ đất. Mất thần túc, ánh sáng, đám chư Thiên kia trở lại làm người, hành thiện sinh cõi trời, hành ác bị đọa vào ba đường dữ, lưu chuyển nơi năm nẻo, không có thường định. Giả sử muốn biết cùng tận về nguyên do, cội rễ của một người hãy còn không thể nhận biết, huống chi là hết thảy chúng sinh mà có thể lường xét được? Đó là chúng sinh không thể nghĩ bàn. Do đâu nói loài rồng là không thể nghĩ bàn? Phàm khởi mây, tuôn mưa đều do nơi rồng. Mưa là từ mắt tai mũi miệng của rồng phát ra, hay là từ nơi thân phát ra? Hoặc là từ nơi tâm xuất phát? Dựa vào núi Tu-di để trụ có năm loại trời, cũng có thể tuôn mưa. Vì sao riêng rồng tuôn mưa trời? Mưa trời là sương mù mịn rơi xuống. Hạt to rơi xuống là “Mưa rồng”. Những gì là năm loại trời? Thứ nhất là trời Khúc cước. Thứ hai là trời Đảnh thượng. Thứ ba là trời Phóng dật. Thứ tư là trời Nhiêu lực. Thứ năm là trời Tứ vương. Lúc A-tu-luân dấy binh lên đánh với trời, trước là cùng với trời Khúc cước đánh nhau, chẳng được, sau đấy mới đến trời Đảnh thượng. Tiếp theo tới trời Phóng dật cùng trời Tứ vương, cho đến trời Ba Mươi Ba. Bên dưới trời Tứ vương, lúc muốn chiến đấu thì dùng mưa để cự địch, lại không có binh khí. Có hai loại mưa: Có mưa hoan hỷ. Có mưa giận dữ. Mưa tuôn điều hòa là hoan hỷ. Sấm chớp, sét đánh liên hồi là giận dữ. A-tu-luân cũng tuôn mưa. Trời cũng tuôn mưa. Rồng cũng tuôn mưa. Mỗi mỗi thứ đều tạo ra mưa, lý không thể định, nên nói rồng tuôn mưa là không thể nghĩ bàn. Phật là không thể nghĩ bàn: Thời trước, Phật ở tại tĩnh thất, các vị Phạm-thiên đông nhiều như Hằng hà sa, đi đến trụ xứ của Phật, muốn biết Phật đang an trú trong Tam-muội nào, nhưng không thể biết được. Thần túc như thế là đã biến hiện các sự việc bí mật. Hàng Nhị thừa đã không thể nghĩ bàn, huống chi là hàng phàm phu há có thể xét đoán được! Tôn giả A-nan suy cử trước hết là Tôn giả Ca-diếp, nói: Bậc Niên trưởng có thể đảm nhận công việc vì chúng sinh diễn nói pháp. Sở dĩ như thế vì Đại đức là bậc Tôn trưởng cựu học, hiểu biết nhiều, được Đức Thế Tôn ủy thác, vì chúng sinh đời vị lai, nhằm khiến cho chánh pháp trụ lâu ở đời, do đấy Đức Như Lai đã dành cho nửa tòa ngồi. Tôn giả đã là vị Thượng tọa của chúng Tăng, trí tuệ lại gồm rộng. Xin Tôn giả rủ lòng từ bi tuyên thuyết Pháp bảo! Các Sư nước ngoài nói: Tôn giả Ca-diếp sở dĩ không thuyết pháp là vì trong bốn biện tài, Tôn giả không có từ biện. Lại nói: Tôn giả vốn là Phật Bích-chi, chỉ dùng thần túc hóa hiện. Lần đầu không diễn nói pháp, Tôn giả Ca-diếp đáp: Xin nhường. Tự bảo: Mình già yếu, các căn tối tăm, phần nhiều đều quên cả. Thưa: Pháp chân thật của bốn đế há có thể suy vong chăng? Ví như kim cương không thể hao tổn. Bốn đại sinh tử mới có tăng giảm thôi. Các nhà thuộc Tát-bà-đa lại nói: Chín loại A-la-hán có thối chuyển. Do bao nhiêu sự nên thối chuyển? Có bốn sự: 1. Tuổi tác già cả. 2. Bệnh tật khổ bức. 3. Thích du hành phương xa. 4. Dùng thuốc không thuận hợp. Do bốn sự nầy mới có việc nhầm, quên. Bậc diệu tuệ của Chân đế há có thể quên sao? Tôn giả Ca-diếp khuyên Tôn giả A-nan: Ông nay đang lúc còn trẻ trung, khỏe mạnh, lại thêm có nhiều trí như văn trí v.v…, nắm giữ chung, ghi nhớ giỏi, Đức Phật mỗi lẫn thuyết giảng kinh thường giao phó dặn dò ông. Thế nên ông nên tuyên thuyết kinh pháp rộng khắp. Do đâu biết Tôn giả A-nan có nhiều trí? Thời trước, phía Đông thành Xá-vệ, có cây Ni-câu-loại to lớn, bóng mát che trùm năm trăm cỗ xe. Trong thành có Phạm-chí thông thạo về toán thuật, ở trong chín mươi lăm loại là bậc nhất. Một hôm, Phạm-chí gặp Tôn giả A-nan tại dưới bóng cây Ni-câu-loại ấy, nói với Tôn giả: Người ta nói: Trong số đệ tử của Cù-đàm, thầy là vị có trí tuệ bậc nhất, có việc ấy chăng? Tôn giả A-nan đáp: Cũng có hiểu biết ít nhiều. Phạm-chí nói: Xin được hỏi một việc: Cây to nầy, thân, đoạn, cành, lá mỗi thứ có bao nhiêu? Tôn giả A-nan ngẩng đầu nhìn lên cây, liền đáp: Cây nầy, thân, đoạn, cành, lá đều có từng ấy. Nói xong liền ra đi. Phạm-chí ở sau, suy nghĩ: Sa-môn nầy tất không biết về số lượng nên mới đáp như thế. Nay nên thử xem. Liền leo lên cây, ở mấy chỗ hái lá, tất cả có sáu mươi lá, đem giấu nơi mô đất. Tôn giả A-nan khất thực trở về. Phạm-chí lại hỏi: Tôi vừa quên mất số lượng thầy đã nói trước đây, Tôn giả A-nan ngẩng đầu nhìn lên cây, lại nhìn khắp, rồi nói: Cây nầy số lá vì sao bị thiếu? Phạm-chí hỏi: Thiếu bao nhiêu lá? Tôn giả A-nan bảo: Thiếu sáu mươi lá. Phạm-chí liền chấp tay bái tạ: Thật chưa từng có! Lại hỏi: Thầy là A-la-hán chăng? Đáp: Không phải. Là A-na-hàm, Tư-đà-hàm chăng? Đáp: Cũng không phải. Là Tu-đà-hoàn chăng? Đáp: Vì sao hỏi như thế? Phạm-chí lại hỏi: Thầy có Thầy dạy chăng? Tôn giả A-nan đáp: Có chứ. Thái tử con vua Chân Tịnh xuất gia tu thành Phật, tức là Thầy của tôi. Phạm-chí tâm niệm: Đây là nhờ trí của Thầy, không phải là chỗ nhận biết của chính mình. Bèn đi theo Tôn giả A-nan đến chỗ Phật, cầu làm Sa-môn, liền chứng đắc A-la-hán. Do đấy nên biết Tôn giả A-nan có nhiều trí. Tôn giả A-nan sở dĩ suy tôn Tôn giả Ca-diếp trước tiên, vì Tôn giả Đại Ca-diếp đã là Thượng tọa, lại là chỗ tôn kính, thời xưa, trong năm trăm đời luôn là cha của mình. Túc mạng đã biết kính ngưỡng, gắn bó nên tình nghĩa càng sâu. Tôn giả Đại Ca-diếp sở dĩ luôn ân cần đối với Tôn giả A-nan, là do từ xa xưa, duyên tích chứa sâu dày, ân còn chưa báo đáp hết. Lại thêm Tôn giả A-nan vốn đa văn, nhiều trí, ghi nhớ giỏi, đối với chúng là hơn hết, nối hợp các sách vở đến tám vạn loại chẳng ai hơn. Hai vị cùng cần nương dựa nhau đề cùng tạo lợi ích. Nếu hai vị bỗng dưng gặp được ngàn cân vàng thẻ, lúc ấy cùng bàn tạo thế, hợp sức để mang về thì được dụng lớn. Có thể cho hai Tôn giả Ca-diếp, A-nan, kết hợp trí là đúng với dụ kia. Hai người cùng hợp sức thì Pháp bảo trường tồn. Lúc nầy, Tôn giả A-nan nói kinh là vô lượng, ai là người có thể gôm hợp lại đầy đủ làm một nhóm? (Kinh vô lượng là mười hai bộ kinh) Bèn gọi là mười sự. Hoặc nói mười sự, bèn luận hai sự. Hoặc nói ba sự, mới luận mười một sự. Trên dưới không thứ lớp, không tạo được một nhóm. Hoặc có người nói: Đức Như Lai thuyết pháp, hoặc nói về giáo pháp khuyên dạy. Hoặc nói về việc đoạn trừ kiết. Hoặc nói về việc sinh trong cõi trời, người. Theo đấy mà nói, lại không thể làm một nhóm. Tôn giả A-nan suy nghĩ: Một nên theo một. Hai theo hai. Ba, bốn, năm, sáu cho đến mười, đều khiến sự loại cùng bày rõ. Hoặc có người bảo: Lý không thể như thế. Xét như lời Phật nói không thể theo thứ lớp đối chiếu. Tôn giả A-nan lại suy xét: Kinh pháp là vô cùng rộng lớn, nên phân làm ba nhóm. Tôn giả A-nan riêng khởi ý nghĩ nầy. Trời Thủ-đà-hội mật báo với Tôn giả A-nan: Đúng là nên tạo làm ba phần. Liền như lời trời đã báo cho biết, phân làm ba phần: Một phần là Khế kinh. Phần hai là Tỳ-ni. Phần ba là A-tỳ-đàm. Khế kinh là pháp do Phật thuyết giảng. Hoặc vì chư Thiên, Đế vương. Hoặc vì các đám ngoại đạo, dị học, theo sự mà phân biệt, đều được mở bày, lãnh hội. Khế kinh cũng như sợi chỉ khâu nối kết nghĩa lý khiến thành pháp hành, nên gọi là Khế kinh. Tỳ-ni là luật ngăn cấm. Vì hai bộ Tăng, nói về việc ngăn chận điều ác, thâu giữ điều sai trái. Hoặc có hai trăm năm mươi sự, hoặc có năm trăm sự. Dẫn pháp để phòng gian, như kho bí mật của nhà vua, không phải Sở ty của các quan bên ngoài, nên gọi là Nội tạng. Tạng Giới luật nầy cũng như thế, không phải là chỗ nghe thấy của các Sa-di, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ (Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di), nên xưng là Luật tạng. A-tỳ-đàm là pháp lớn. Sở dĩ nói lớn vì đại tuệ của bốn đế, dấu hiệu của các pháp, đoạn trừ các thứ tà kiến, vô minh, si mê sâu dày, nên viết là pháp lớn. Cũng gọi là pháp không gì sánh bằng (vô tỷ). Tám trí, mười tuệ, chánh kiến vô lậu, vượt chướng ngại của ba cõi, không gì sánh kịp nên gọi là Pháp vô tỷ. Tôn giả Ca-chiên-diên-tử soạn tập các kinh, rút tóm tuệ chính yếu, trình lên Phật và được chấp thuận nên gọi là Pháp tạng lớn. Tôn giả A-nan lại tư duy: Nghĩa của ba Tạng nầy cùng với ba giải thoát tương ưng. Thế nào là Khế kinh? Lý của diệu tuệ cùng với không thuận hợp. Tỳ-ni chế ngự ác, lẽ sâu xa ngang với vô tướng. Chánh kiến của pháp lớn, dấu vết đúng với vô nguyện. Nên gọi là ba Tạng, ba giải thoát, dấu nẻo sâu xa diệu hợp. Tôn giả A-nan lại suy xét: Khế kinh là gốc lớn, nghĩa phân bốn đoạn, vì sao văn nghĩa lẫn lộn? Phải nên dùng sự, lý cùng đến, lớn nhỏ cùng theo thứ lớp. Thứ nhất là Tăng nhất, tiếp đến gọi là Trung, thứ ba gọi là Trường, Thứ tư gọi là Tạp. Dùng một làm gốc, lần lượt đến mười. Một, hai, ba theo sự tăng lên nên gọi là Tăng nhất. Trung là không lớn, không nhỏ, không dài, không ngắn, sự hợp ở trung nên gọi là Trung. Trường là nói sự lâu xa, qua kiếp không dứt, gốc ngọn nguyên do, sự trải bảy Phật, Thánh vương bảy báu, nên gọi là Trường. Tạp là các kinh đoạn, kết, khó tụng khó nhớ, sự nhiều chi li, vui thích khiến quên, nên gọi là Tạp. Tôn giả A-nan soạn hợp ba Tạng xong, chọn lấy mười kinh làm một kệ. Sở dĩ như thế là vì người tụng tập của đời vị lai, e sẽ quên, nhầm, thấy tên gọi nhớ gốc, suy xét tự tỏ, nên dùng mười kinh làm một kệ. Gọi là Tạp tạng, vì không phải một người nói. Hoặc Đức Phật thuyết giảng, hoặc các đệ tử thuyết giảng, hoặc chư Thiên tán tụng. Hoặc nói về túc duyên đã sinh khởi của Bồ-tát trong ba A-tăng-kỳ, văn nghĩa chẳng phải là một mà nhiều hơn nơi ba Tạng, nên xưng là Tạp tạng. Lúc Phật tại thế, vua A-xà-thế hỏi Phật về hành sự của Bồ-tát, Đức Như Lai đã vì nhà vua thuyết pháp đầy đủ. Ví như vua hỏi Phật: Sao gọi là pháp? Đáp: Pháp tức là Bồ-tát tạng. Các chánh kinh Phương Đẳng, đều là sự trong Bồ-tát tạng. Ngày trước, thời Phật tại thế đã gọi là Đại sĩ tạng. Tôn giả A-nan soạn tập tức nay là bốn Tạng, hợp lại mà nói là năm Tạng. Hoặc có nghĩa của một pháp, cũng sâu xa khó trì khó tụng, không thể nhớ nghĩ (một pháp tức là pháp không), vắng lặng không tiếng không vang, không tâm, không niệm, an nhiên không tưởng, là “tối đệ nhất không”, nghĩa không hai. Không dung nạp để có thể xét lường, nên viết là khó trì. Không ngôn từ để có thể đối đáp, nên gọi là khó tụng. Không ý để có thể tư duy nên nói là không thể nhớ. Gọi là nghĩa sâu xa, sự việc là như thế. Lại nữa, một pháp là gốc của các số. Một là số đầu, mười là số sau cùng. Sau cùng nơi mười lại từ một khởi. Hiện đến ngàn vạn luôn bắt đầu nơi một. Như thế, các số một không thể cùng tận. Trong các kinh, hoặc một nghĩa một pháp một hành một sự, mỗi mỗi đều cùng hợp theo, không mất đầu mối, nên nói như vậy. Hai pháp là theo hai: Hoặc nói thiện ác, hoặc nêu chỉ, quán, hoặc gọi danh, sắc. Chỉ là hư, quán là thật. Chỉ là định của Tam-muội, an nhiên diệt tưởng, mênh mông bặt nghĩa, nên gọi là hư. Quán sở dĩ nói là thật, là do phân biệt có hành, thị phi tốt xấu, thức riêng biết rõ, ý không lẫn lộn, nên gọi là thật. Ba pháp là dựa theo ba. Ba là bố thí, công đức, tư duy. Ba hành nầy là pháp thế tục sinh thiên. Hành ba môn giải thoát là pháp đi đến Niết-bàn. Có ba pháp, ba hành, ba phước, ba phần pháp thân, ba, ba cùng hợp theo, dụ như những viên ngọc nối kết. Bốn pháp căn cứ nơi bốn. Năm cũng thế. Năm pháp tiếp đến sáu. Sáu tiếp đến bảy, tám pháp nghĩa rộng, chín tiếp tới thứ mười. Pháp từ mười đến mười một. Các số như thế đều đồng hai, ba loại sự hợp theo. Tôn giả A-nan tức thì lên tòa. Tòa là tòa Sư tử. Trong kinh sở dĩ dùng dụ về tòa Sư tử, vì sư tử là vua trong loài thú, thường ở nơi vùng đất cao, không trú nơi chốn thấp trũng, nên dụ cho tòa cao. Lại chọn lấy tính chất vô úy. Tôn giả A-nan nghe biết rộng vô lượng, ở trong hàng Thanh-văn là một mình cất bước không sợ, nên nói là tòa vô úy. (Tôn giả A-nan lên tòa cao như thế). Bồ-tát Di-lặc khen: Lành thay! Vui thay! (Bồ-tát Di-lặc sở dĩ hiện xuống là sợ Tôn giả A-nan kết hợp pháp Bồ-tát tại ba Tạng, là Đại, Tiểu không riêng), nói vàng, thâu thạch cùng xâu kết, do đấy ân cần khuyến thỉnh phân bộ. Xưa, Thánh vương Đại thiên có đủ bốn Phạm đường, lần lượt được nối tiếp, cho đến tám vạn bốn ngàn vua, đều có Phạm đường, duy chỉ có một người Đại thiên là bậc Đại sĩ, số còn lại đều là “Tiểu tiết”. Theo đấy mà nói, Đại thừa khó thực hiện, phần nhiều là hướng về Thanh-văn. Bồ-tát Di-lặc cũng nhận biết Tôn giả A-nan phân làm ba Tạng, nhưng còn sợ hàng hậu học chuyên tập pháp không, đoạn kiết thủ chứng, do đấy đã hiển dương Đại thừa, phân làm Tạng riêng, nên giảng nói về các hành của sáu Độ, là đề mục chính yếu của hàng Đại sĩ. Giảng: Thí có hai loại: Có tín thí. Có khủng bố thí. Lập căn được nhẫn tức gọi tín thí. Uy lực bức bách, không do bản tâm gọi là khủng bố thí. Tín thì thành độ. Sợ tức cầu phước. Đạo tục khác nhau, không đợi ngôn từ mà tự riêng khác. Người kia bảo: Người thí đầu mắt là bảy trụ trở lên. Thí của cải vật dụng, là sáu trụ trở xuống. Từ đấy thối chuyển, không rơi vào sinh tử mà mong tới Niết-bàn. Lấy gì để làm rõ? Trong Đại Phẩm Bản Vô, nói: Sáu mươi Bồ-tát đắc đạo La-hán, chính là sự việc ấy. Giới như kim cương là giới Đại thừa. Giới như gạch ngói là giới Tiểu thừa. Vì sao? Vì kim cương là không thể hủy hoại. Thời trước, có Bồ-tát là một Tỳ-kheo đoan nghiêm hơn người, ra đi khất thực, giữa đường gặp một cô gái xinh đẹp. Cô gái nhìn Bồ-tát liền khởi tâm dục, mong làm vợ chồng, lại tự suy nghĩ: Ở đây cùng nhau nêu bày thì không thể được, chỉ cùng ngồi gần, ta liền phát tâm vô thượng. Bồ-tát nhận biết tâm của người nữ, nên tiến đến trước, cùng ngồi. Chốc lát, người nữ như muốn xích gần tới trước. Tỳ-kheo im lặng không đáp. Lại xích gần lần nữa. Như cố ý thản nhiên, Tỳ-kheo tức vì người nữ thuyết giảng pháp không: Mắt vốn từ đâu tới, rồi đi về chốn nào? Muốn nói là từ cha mẹ đến chăng? Lúc chưa hội hợp, cũng không có mắt nầy, về sau đến khi tan hoại lại đi về nơi đâu? Theo đấy mà nói, mắt không thật có. Năm căn cũng thế. Cô gái hoát nhiên hiểu rõ không, đắc Tu-đà-hoàn. Đáng lẽ cùng nói có mới lại nêu giảng về không. Pháp của Bồ-tát là nên vào có mà nói về không, do đấy là không hoàn toàn hợp với bản ý. Tôn giả A-nan lúc ấy thấy Tỳ-kheo nầy cùng ngồi với người nữ là phạm oai nghi của Tỳ-kheo, liền trở về bạch Phật: Con vừa thấy có Tỳ-kheo cùng ngồi với người nữ. Đức Phật do đã biết trước nên chỉ im lặng. Tỳ-kheo kia biết Tôn giả A-nan đã thưa với Đức Thế Tôn, nên nghĩ mình đúng ra là không đi đến, nhưng sợ có kẻ phỉ báng sẽ mắc tội, đang muốn hiện biến hóa, vì Phật vốn không cho phép, nên Tỳ-kheo ấy bèn bay thẳng tới chỗ Phật. Phật bảo Tôn giả A-nan: Vị Tỳ-kheo ông vừa thấy phạm luật, hiện là vị Tỳ-kheo đã bay đến đây. Ông từng thấy người phạm dục có thể bay được chăng? Tỳ-kheo nầy vừa rồi đã cùng với người nữ cùng ngồi một chỗ, vì lúc đó do người nữ tâm niệm: Nếu Tỳ-kheo nầy cùng ngồi với ta, ta sẽ phát tâm vô thượng! Tỳ-kheo ấy đã nhận biết tâm ý của người nữ, nên cùng ngồi, tức thì thuyết giảng về pháp không, phân biệt mắt không, năm căn còn lại cũng thế. Người nữ tức sợ hãi nên đắc quả Đạo tích (Tu-đà-hoàn). Do tâm sinh sợ hãi, sợ sinh tử nên chứng đắc Tiểu thừa. Nếu Tỳ-kheo kia, vừa rồi vì người nữ nói về hành có, hoàn thành bản tâm. Do sự việc nầy nên biết, Bồ-tát đó chưa thành nhưng không thối chuyển đối với việc quán xét người, tâm chưa hoàn toàn khéo léo. Đó gọi là giới kim cương. Gọi là người hành nhẫn độ là gặp mắng nhiếc, hủy báng đều im lặng thọ nhận, không đáp trả. Bồ-tát hành nhẫn, thường dùng từ v.v… bình đẳng với mình, người. Mình người đã bình đẳng thì oán thân không hai. Nên kinh nói: Từ của Tiểu thừa là từ ở ngoài da. Từ của Đại sĩ là thấu đến xương tủy. Lấy gì để làm rõ? Như có người chặt đứt chân tay của Bồ-tát, máu tuôn ra kia liền biến thành sữa, tức là chứng cớ của tâm từ. Tỳ-kheo hành nhẫn nhục đạt được sự việc như vậy. Dụ như người mẹ sinh con, liền có sữa xuất hiện. Từ ấy do niệm đã cảm ứng, tự nhiên biến thành. Đại sĩ như thế, nhập Tam-muội Từ, nên có thể cảm ứng thành sữa. Hành từ tột cùng, tuy cầm nắm cung tên, nhưng chúng sinh lại đến nương dựa nơi mình. Hành từ không thấu đáo, tuy không cầm đao gậy, nhưng kẻ trông thấy đều bỏ chạy. Do chứng cớ ấy, nên Đại, Tiểu có khác nhau đã tự tìm tới. Bồ-tát tạo hành thiện ác, nghĩa là tinh tấn làm các công đức thiện, còn hành ác, cũng như ngày xưa Đồng tử Hỏa Man phỉ báng Phật Ca-diếp, nói: Sa-môn đầu trọc có đạo gì. Đạo khó chứng đắc đã có thể đắc đạo. Do đấy, nên về sau phải thọ nhận sáu năm khổ nhọc rồi mới đắc đạo. Trong giáo pháp để lại, các Tỳ-kheo thường tranh luận về việc nầy. Cũng như miệng không thể nói mà phải nói để đáp lại. Sáu năm khổ hạnh là không thể hành mà hành báo. Đó là Bồ-tát thân miệng hành ác. Thiền định là đi vào nẻo tịch tĩnh, an nhiên bất động. Trí tuệ nhận biết số lượng như vi trần cùng Hằng hà sa số. Nhớ nghĩ, ghi chép là không thể tính kể. Tuệ sáng hiểu rõ là không thể cùng tận. Sự việc của sáu Độ vô cực (Ba-la-mật) nầy đều ở tại Bồ-tát tạng, không nên hợp với ba Tạng. Tôn giả A-nan muốn khiến Đại, Tiểu khác nhau là có nhân duyên. Những người kia không cùng biết, lý ấy tự không, khó có thể làm sáng rõ. Đại sĩ nghi về không: là không thủ chứng, nên gọi là hồ nghi. HẾT - QUYỂN 1 LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC QUYỂN 2 * Bồ-tát Di-lặc khen ngợi: Lành thay! Là do việc tập hợp pháp lớn của sáu độ làm một phần. Đây tức là Bồ-tát tạng. * Đoạn kiết: Là đoạn trừ các kiết sử của kiến chấp sai lầm. Là sự việc thành tựu đạo quả Đại thừa với Nhất thiết trí. * Tôn giả A-nan chỉ nói là nghe, không nói là thấy: Tức há có thể không thấy Đức Như Lai thuyết pháp? Sở dĩ không nói thấy là vì tương lai nơi bốn bộ. Nếu như nói thấy thì bốn bộ chúng sau nầy lại vâng theo Tôn giả A-nan, nói thấy tức là hư vọng. Do đấy, nên chỉ xưng là nghe, không nói thấy. Đầu tiên thuyết pháp, độ năm người như A-nhã-câu-lân v.v… Nơi nước Ma-kiệt hàng phục ba anh em Ca-diếp. Thích-sí tức là Ca-tỳ-la-vệ. * Nếu không biết được xứ thuyết giảng kinh, chỉ xưng tại Xá-vệ: Là do Phật ở tại Xá-vệ trải qua hai mươi lăm năm, so với thời gian ở tại các nước khác là lâu hơn cả. Sở dĩ lâu là vì nước ấy cảnh quan tươi đẹp bậc nhất, có nhiều châu báu kỳ lạ, dân chúng đông đúc, hiểu biết nghĩa lý. Tinh xá nơi khu lâm viên Kỳ-đà – Cấp Cô Độc có dị thần chứng nghiệm, nên khi chúng Tăng tập hợp tại giảng đường, đám khỉ vượn hàng ngàn con kéo tới, lân la khắp chốn, xem xét, lắng nghe, hoàn toàn vắng lặng, không một tiếng ồn. Đám chim chóc thì hầu như từ khắp nơi bay về tụ tập. Chúng Tăng chính thức nghỉ ngơi thì các bầy chim kia đều trở về nơi trú ngụ. Kiền chùy vừa gióng lên thì chúng đã lại vân tập. Đây là do đất nước có nhiều bậc nhân từ, nên các loài khác cùng nương bóng. Đức Phật, hoặc có thể tạm thời hành hóa vì thọ thỉnh, hoặc có thể dùng thần lực, vừa giáo hóa xong liền trở lại bổn xứ. Do đấy chỉ xưng là Xá-vệ, đủ biết về chỗ chính yếu. * Sở dĩ xưng riêng Kỳ-hoàn, Cô Độc, là tên của hai người: Là vì hai vị nầy qua đời trước đây, nay ở tại cõi trời, cũng tập hợp chư Thiên thuyết pháp giáo hóa. Lúc ấy, tâm niệm, nói: Chúng ta vốn là Đàn-việt của chúng Tăng, là hạng đầu tiên, lại không xưng tên họ của chúng ta sao? Nhằm thích ứng với tâm niệm kia, nên lại xưng riêng tên của hai vị. * Nói: Nên tu một pháp: Là cũng không nói về thứ lớp. Nếu xét về thời gian mới thành đạo thuyết pháp, thì phải từ vườn Lộc-dã thành Ba-la-nại, thuyết giảng tứ đế là đầu tiên. Tiếp theo, đến nước Ma-kiệt hàng phục ba anh em ông Ca-diếp. Nhân việc gọi tên vị chủ Tinh xá, liền nói là: Nên tu một pháp. Do một pháp ấy so với bốn pháp, về vị của lý không khác. Một pháp cũng đoạn trừ kiết, bốn pháp cũng đoạn trừ kiết, cùng đạt đến Niết-bàn, tức “Thù đồ mà đồng quy”. Tóm hai mươi mốt kiết diễn làm ba mươi sáu, số tuy thừa thiếu, nhưng cùng là kiết. Sự thường có trăm lẻ một, mở ra lại là tám vạn bốn ngàn. Do đấy một pháp cùng với ngàn vạn đồng là con đường đến với đạo. Do về nghĩa lý sâu xa là không khác, nên khởi đầu từ một pháp. * Không phóng dật: Là tông chỉ của một pháp. Hoặc hỏi: Giới nên ở trước. Trước phải trì giới, sau đấy mới niệm Tam Tôn. Hoặc nói: Đây là người mới học, trước niệm Tam Tôn, tức ba tự quy, nối kết ý tại Phật, Pháp, chúng Tăng, do tiếp đến là thọ giới. Theo đấy mà nói, giới nên ở thứ tư, niệm hơi thở ở sau cùng. * Giải thích: Thân tĩnh lặng, niệm khổ: Nghĩa là quán thân có ba mươi sáu vật bất tịnh, hiện rõ sự xấu, ác, để tự giác ngộ, có thể do đấy mà thành tựu đạo. Lấy gì để làm rõ? Xưa có vị Tỳ-kheo, tạo A-luyện-nhã, hành khất thực, gặp một nữ Trưởng giả, nên theo cô ta khất thực. Vị Tỳ-kheo và nữ Trưởng giả đều đoan nghiêm, xinh đẹp. Người nữ thấy Tỳ-kheo liền khởi tưởng dục. Tỳ-kheo thấy người nữ cũng dấy ý dục. Ý động khiến tay run, đưa cơm vào bát lại để rơi xuống đất. Người nữ tự cười lạ. Tỳ-kheo thấy răng của người nữ trắng, tức tự giác ngộ: Trong miệng của người nữ chỉ là xương thôi. Như Đức Phật đã dạy: Nơi thân người có ba trăm hai mươi xương, có sáu trăm đốt, bảy mươi vạn mạch máu, chín mươi vạn lỗ chân lông, một lỗ nhập, chín lỗ xuất, tiết ra chất bất tịnh, không một thứ gì đáng tham ái. Quán xét kỹ về thân người nữ với ba mươi sáu vật bất tịnh, thốt nhiên xót xa, lông tóc dựng đứng, chuyên tự nghĩ xét, liền hiểu rõ thân không, đắc đạo Tu-đà-hoàn. Lại tự niệm, nói: Ta nhân nơi người nữ nầy mà thấy pháp, tức người ấy là thiện tri thức của ta. Nay nên báo ân. Tức lại vì người nữ nói pháp quán thân vừa được tỏ ngộ, người nữ tâm mở, cũng chứng được đạo Tu-đà-hoàn. Do đấy mà nói, niệm thân là hơn hết. * Niệm tử: Là niệm người lúc phước hết, mạng chung, hiện điềm thấy địa ngục kinh sợ hết mực. Hoặc thấy ngạ quỷ, hoặc thấy súc sinh, tùy theo hành nghiệp, gắn liền với chỗ thấy đều là sợ hãi, ý muốn bỏ đi, lại bị phía đối diện dẫn dắt. Hoặc là người sẽ sinh, duyên nơi việc hội hợp của cha mẹ. Nếu mang thai là nam thì tham ái người nữ, nếu mang thai là nữ, thì lại tham ái người nam kia. Ngoại trừ tật nạn, ba sự không sai, liền được nhập thai. Đã thọ rồi, lại cho là vì mình nên có. Bảy ngày một lần biến đổi khéo léo, hơi gió như khắc, chạm, đến ba mươi tám thất mới thành hình. Nếu sinh nơi cõi trời thì có nhạc trời tiếp đón, vui thích không thù thắng tức mất tiện lợi nhỏ. Năm đường ấy hiện điềm, đều có chỗ thấy. Việc chết đó nên thuận theo, do đã nêu rõ nơi giới, suy xét sâu về vô thường, mạng sống mau chóng như ánh chớp, như bóng mây bay qua sân trước. Già, bệnh, chết ập tới, không gì là không dẫn đến thất tán. Nhớ nghĩ về sự biến đổi ấy để tự giác ngộ, nên gọi là Niệm tử. Mười niệm trước, Đức Phật tự thuyết giảng, chưa có người hỏi nên không giải thích. Mười niệm sau, Tỳ-kheo thưa hỏi, Phật lại vì họ diễn nói, nên mỗi mỗi niệm đều giải thích đầy đủ. * Tôn đệ tử: Nghĩa là năm trăm vị A-la-hán, mỗi vị đều có sở trường: Hoặc trí tuệ bậc nhất. Hoặc thần túc. Hoặc biện tài. Hoặc phước đức. Hoặc giữ giới. Hoặc biết đủ. Hoặc thuyết pháp, đều đạt được bậc nhất. * Muốn luận bàn anh trước, em sau: Là do A-nhã-câu-lân là lớn hơn hết, còn Tu-bạt là nhỏ nhất. Đây là chỗ chính yếu theo thứ bậc của pháp Phật. Nếu lấy trí thông tỏ, biết rộng làm đầu thì đấy chính là pháp của Bà-la-môn. * Nói một ngàn hai trăm năm mươi: Là nêu số lượng thường theo hầu Đức Phật. Hoặc nói: Năm trăm người: Tức lúc Phật nhận lời thỉnh của Long vương A-nậu-đạt, chỉ chọn năm trăm vị có thể tức thì tháp tùng đến cung Long vương. Vì sao? Vì suối A-nậu-đạt ấy không phải là nơi chốn dành cho hàng hữu lậu, hình tướng bị vướng mắc, có thể tới lui thuận hợp được. Thời gian Tôn giả A-nan “xuất kinh”, đã tập hợp tám vạn bốn ngàn vị A-la-hán, theo đấy mà nói, số lượng là không thể tính kể. Kinh nầy nay nêu ra bậc lớn nhất là một trăm người. Thứ nhất là thông tỏ về bốn bộ chúng. Hai trăm hai mươi vị, đều là bậc nhất. Số còn lại há lại có thể kể ra? Vị kia nói: Kinh nầy vốn có một trăm sự, Tôn giả A-nan phó chúc cho Tôn giả Ưu-đa-la, như Tăng-nhất A-hàm đã nêu, trải qua mười hai năm sau, Tôn giả A-nan Bát-Niết-bàn. Các vị Tỳ-kheo đều hành tập tọa thiền, không còn tụng tập, cho Phật có ba việc làm, tọa thiền là thứ nhất, bèn phế bỏ việc đọc tụng kinh trong mười hai năm, rồi Tỳ-kheo Ưu-đa-la lại Bát-Niết-bàn, do đấy kinh nầy bị mất chín mươi sự. Pháp nước ngoài, thầy trò truyền cho nhau, do khẩu truyền cùng giao phó, không cho phép chép thành văn. Bấy giờ, công việc truyền kinh nầy đều chỉ mười một sự mà thôi. Từ đấy nối tiếp truyền thừa chính là văn bản hiện có. Tuy nhiên, phái Tát-bà-đa không có phần Tự và sự mười một sau cùng. Kinh điển lưu truyền, trôi nổi, trải qua thời gian lâu dài, phần bị mất mát càng nhiều. Sở dĩ phải phó chúc riêng cho đệ tử nầy về Kinh Tăng Nhất: Là do vị kia được thấy từ bảy Phật trở đi, đã hợp tập riêng về Tăng-nhất A-hàm. Các vị Thánh trước, cũng đều phó chúc về kinh nầy. Do đấy, Đức Năng Nhân lúc chuyển pháp luân lại càng tinh tấn, và vị Tỳ-kheo ấy cũng thế. Lúc nầy, đệ tử của Tôn giả Ưu-đa-la tên là Thiện Giác, theo thầy thọ học, tụng Tăng Nhất đúng là được mười một sự. Tôn giả Ưu-đa-la Bát-Niết-bàn, ba Tạng hiện nay của nước ngoài đều được truyền từ Tôn giả Thiện Giác. Thầy trò cùng trao cho nhau, đến nay là không thay thế. Sở dĩ Tôn giả Ca-diếp thường gọi Tôn giả A-nan là “Đứa trẻ con”: Là do từ nhiều kiếp đến nay, ý của người cha cùng tăng thêm. Khi ấy, em gái của Tôn giả A-nan là một Tỳ-kheo-ni, nghe Tôn giả Ca-diếp nói như thế thì rất tức giận, nói: A-nan là bậc thông tuệ, hiểu biết rộng, mọi người đều trông cậy, mà Tôn giả cho là “Đứa trẻ con” sao? Tôn giả Ca-diếp bảo Tỳ-kheo-ni: Đại muội! A-nan có hai sự việc đáng xấu hổ. Vậy cớ gì mà cô phải giận? Chánh tọa A-nan đã khuyên Phật độ cho người mẹ, khiến pháp Phật bị giảm mất ngàn năm, là việc thứ nhất. A-nan có sáu mươi đệ tử, gần đây, ba mươi Tỳ-kheo đã trở về làm bạch y. Phật dạy, pháp độ đệ tử, nếu là hàng tại gia có tín tâm, đến cầu đạo thì nên “thử việc” trong bảy ngày. Nếu là hàng ngoại học tới cầu đạo, thì thời gian “thử việc” là bốn tháng. Vì sao thời gian không như nhau? Là do nơi nhà ngoại đạo, hoặc vì tâm ác muốn tìm kiếm chỗ hơn kém. Vì thế, trước cần “thử việc” để biết có chí thành hay không. A-nan thì không như vậy, có người đến cầu đạo thì độ ngay, là điều đáng xấu hổ thứ hai. Ba mươi Tỳ-kheo nầy sở dĩ hoàn tục là vì vốn nghe Tôn giả A-nan ở trong chín mươi sáu thứ đạo, là vị “Đẳng trí” bậc nhất, nên theo Tôn giả cầu được xuất gia, muốn thưa hỏi về trí ấy. Nhưng A-nan đã đã không vì họ giảng nói, do đấy không hợp với bản tâm của họ, thế là hoàn tục. Hoàn tục tất chê bai A-nan, cho là không có Đẳng trí. Độ đệ tử dụ như cá sinh con hàng ngàn ức vạn, nếu tâm niệm, liền sinh, không niệm thì hủy hoại hết. Đệ tử cũng như vậy, nếu lưu tâm dạy bảo thì thành tựu, không lưu tâm tức thối lui. Đây há không phải là điều đáng xấu hổ sao? Tỳ-kheo-ni nầy, do tâm giận dữ hướng tới Tôn giả Ca-diếp nên hiện thân bị vào địa ngục. Do Tôn giả A-nan có khuyết điểm ấy nên Tôn giả Ca-diếp gọi là “Đứa trẻ con”. Tôn giả A-nan biện bạch với việc dẫn chuyện xa xưa từng là Chuyển luân Thánh vương tên là Trường Thọ, nhận “Di giáo” của vua cha nối ngôi vua cai trị, giáo hóa muôn dân. Vì nhằm xuất gia, nên lại phó chúc cho Thái tử Thiện Quán, ủy thác chánh sự. Lần lượt cùng trao truyền, chưa từng thay đổi. Xưa do cha con tương thừa, nay thì thầy trò cùng nối nghiệp. Ngày xưa, hãy còn không làm mất giáo pháp hữu lậu, huống hồ là nay lại để mất diệu pháp chí chân sao? Tức dẫn chuyện để tự chứng minh các vị đệ tử tất có thể thọ nhận kinh điển truyền lại. * Đối với pháp nên nhớ nghĩ tôn kính: Là trong kệ trên đã nhận định về ba Tạng, bốn A-hàm, nơi phần văn xuôi lại nói: Trong một kệ mà có thể gồm thâu các pháp của ba Tạng, huống chi lại “Tăng Nhất” mà không gồm thâu các pháp sao? Sở dĩ lại nói có một đoạn kệ nầy, là do trong tâm của các Thiên tử khởi niệm: Tôn giả A-nan không thể làm kệ để thuyết pháp chăng? Vì sao lại tạo ra lời nói mơ hồ ấy? Tôn giả A-nan đã nhận biết tâm niệm của chư Thiên như vậy, nên nói với các vị Thiên tử: Giả sử số kinh được tám vạn bốn ngàn thớt voi chuyên chở đều viết bằng kệ tụng, tôi hoàn toàn có thể làm kệ tụng, huống hồ là một ít pháp mà không thể làm được sao! Là nhằm thích ứng với tâm ý của chư Thiên, nên lại dùng kệ, tụng về các pháp, khuyến dụ chư Thiên cùng các chúng sinh lợi căn, nên nghe kệ để hiểu rõ. Pháp tức chương trên đã nêu: Các ác chớ tạo Các thiện phụng hành Tự tịnh tâm ý Là chư Phật dạy. Nên nói pháp nầy có thể thành tựu ba thừa, dứt trừ ba nẻo ác, gồm thâu các quả thật, hai đời thọ nhận báo, do năng lực có hơn kém, nên dẫn khuyên để tiến tới. Tụng viết: Bậc thượng trì ba Tạng Thứ đến bốn A-hàm Hoặc thọ trì Luật tạng Tức là Như Lai bảo. * Sở dĩ gọi là báu (bảo): Là dụ như vua có kho báu, không khiến kẻ ngoài biết. Chỉ có các quan nơi nội cung cùng nhà vua đồng tâm, thì mới giao cho việc trông coi. Giới luật cũng như thế. Nếu người có thể thọ trì hai trăm năm mươi cùng năm trăm sự, thì mới trao cho họ, không thể khiến hàng Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ bên ngoài có thể xem xét, nên dụ cho kho báu của vua. Nếu năng lực không đạt tới hai Tạng, chỉ thọ trì A-tỳ-đàm, cũng có thể hàng phục ngoại đạo, chín mươi sáu thứ đường hẹp không gì là không quy về gốc lớn. Vì sao? Vì đây là tuệ diệu không gì sánh bằng có thể quyết đoán những vướng mắc sâu xa nhất, khiến thông suốt cùng với nẻo thật. Tuy lại là năm thông trụ kiếp, nhưng chưa tránh khỏi sự chế ngự của bốn ngựa phóng nhanh. Thế nên hàng ngoại học không dám dòm ngó. Tôn giả A-nan xướng: Lời khuyên tốt đẹp nhất của mười kệ nầy chính là vì ba vạn người, trời ở đây. Ngày trước, Đức Phật mới thành đạo, nơi vườn Lộc-dã, thành Ba-la-nại, đã vì năm người như A-nhã-câu-lân chuyển pháp luân thuyết giảng bốn đế. Phật nói: Câu-lân nên biết! Đây là khổ đế, khổ tập đế, khổ tận (diệt) đế, khổ xuất yếu (đạo) đế. Là nói thẳng về bốn đế ấy. Câu-lân từ lâu đã vướng mắc về hữu, nghe nói về trí tuệ, ý cũng không tỏ ngộ, Đức Phật liền vì ông giảng nói về không: Câu-lân nên biết! Chỗ vướng mắc của bốn tuệ, tất cả đều không, cũng lại vô thường, dụ như huyễn hóa, chẳng thật, chẳng có! Câu-lân liền lãnh hội, được thấy “Đạo tích”. Bốn người kia chưa hiểu, Đức Như Lai lại quán về gốc tâm: Hai người bệnh tại tưởng chấp nơi xúc, nghĩ nhớ về tại gia, năm dục tự vui thích, luyến chấp không xả. Nên theo bệnh cho thuốc, liền giảng nói về Tam-muội vô tưởng: Chỗ tưởng của ông đều quy về diệt tận. Tưởng chấp chưa bỏ, nên bị tâm là ngựa dong ruổi phóng nhanh nơi chốn hoan lạc. Chỗ tưởng liền mở, hai người lại đắc “Đạo tích”. Hai vị còn lại, tâm thường mong sinh cõi Phạm-thiên, nơi Phạm làm vua, chỗ vướng mắc không cởi bỏ, lại do đấy thêm trói buộc, Đức Như Lai thấy rõ tâm niệm đang có, nên vì họ thuyết giảng về vô nguyện: Chỗ nguyện của ông là cầu Phạm-thiên vương, tức không thể xuất yếu, đều quy về diệt tận, là không thường còn, có thể xả bỏ chỗ mong cầu, trước hết là chọn lấy nẻo xuất yếu. Lại liền được mở bày, thành tựu “Đạo tích”. Chỗ vướng mắc của năm người đều khác, nên cởi mở không đồng. * Điều gọi là ba luân bốn đế: Là trong không, vô tướng, vô nguyện đều có bốn đế. Đế tức là quán. Định tức là chỉ. Chỉ, quán song hành là cùng đối trị bệnh si, ái trong ấm, trì, nhập. Mười hai là phá trừ mười hai nhân duyên. Thời trước, lúc Phật tại thế, vì bốn bộ chúng thuyết pháp, hoặc thuyết giảng bốn đế, hoặc thuyết giảng về sáu độ, tùy theo chỗ có thể lãnh hội được của chúng sinh được hóa độ, Đức Phật đều vì họ giảng nói rộng về vô thường v.v… Hoặc có các Quốc vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Phạm-chí, cung thỉnh cúng dường, hoặc đến thỉnh vấn. Các trường hợp có thể thuyết giảng, Tôn giả A-nan hỏi Phật: Vì sao gọi như thế? Nên nói về văn (nghe)? Nên nói về kiến? Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Về sau nầy, lúc vì bốn bộ chúng thuyết pháp, nên nói về văn, không được nói về kiến. Nếu nói về kiến tức là hư vọng. Vì sao? Vì văn là quá khứ đã qua. Kiến là hiện tại. Như bảy Phật quá khứ, chính có thể nói là văn, không được nói là kiến. Ông đối với việc sau nầy cũng lại như vậy. Nên nói là “Nghe như vầy”. * Ta sở dĩ ân cần phó chúc, dặn dò A-nan: Là chư Phật quá khứ tuy có thị giả, nhưng không có vị nào như Tôn giả A-nan biết rõ ý thú của Phật. Từ thời xa xưa, đã từng cúng dường hai mươi ức Phật, luôn làm thị giả, không cầu dứt hết các lậu, thường nguyện đạt được Đẳng trí, nhận biết ý thú của Phật, do đấy nên nay có được phước báo kia. Nhìn mắt thấu ý không mất phép tắc. Trong chư Phật, tinh tấn dũng mãnh, không vị nào vượt hơn Đức Thích-ca-văn. Trong số anh em, Di-lặc lẽ ra nên ở trước, nay lại đứng sau. Vì sao? Thời xa xưa, ba mươi kiếp về trước, lúc ấy có ba vị Bồ-tát cùng du hành nơi vùng núi rừng, trông thấy một con cọp đói muốn ăn thịt con nó. Một vị suy nghĩ: Cọp nầy đã là súc sinh, lại muốn ăn thịt con mình, chết tất thọ khổ, vì làm mẹ lại chẳng có lòng từ. Ta nay thân nầy, bốn đại hợp thành, rốt cuộc phải quy về nẻo chết. Phải nên dùng thân để cứu mạng các cọp con kia. Vị thứ hai không đồng ý, mới muốn đi đến chợ mua thịt dùng thay cho mạng đám cọp con. Vị còn lại suy nghĩ, nói: Nếu từ đây đến chợ, đi về thì mạng của các cọp con không vẹn toàn. Phải nên xả thân để cứu đám cọp con ấy. Liền từ nơi núi cao buông thân rơi xuống chỗ thấp, ngay vào miệng cọp mẹ. Thân vẫn an ổn, cọp mẹ không dám ăn. Sở dĩ như thế là vì, phàm nhập Tam-muội Từ, thì các vật không thể hại. Bồ-tát cố ý dùng gai tre tự chích vào thân, cọp quen mùi máu nên được ăn. Dũng mãnh như thế tức vượt qua chín kiếp, nên nay ở trước Di-lặc. Theo đấy mà nói, đạo không có trước sau, ý quyết là trước. Do đấy, Ta nay thành Phật, nên đem kinh điển để lại giao phó cho A-nan. Ông, nơi đời vị lai, xưng: Nghe như vầy. Vì sao lại nói Một thời? Là vì số lượng của ngày tháng hay là nói về tên người? Đáp: Cũng là số lượng của thời tiết. Cũng là ở nơi tên người. Hoặc nói: Lại có hai tên gọi: Hoặc Sát-đế-lợi, hoặc Bà-la-môn. Lại có hai tên gọi: Hoặc tộc họ Trưởng giả, hoặc tộc họ Cư sĩ. Hoặc tại cõi trời, hoặc tại nhân gian. Các hoặc như thế không phải là một xứ, nên cho là một thời. * Bà-già-bà: Là xưng về Đức Thế Tôn. Kiết sử đều dứt hết, không ai có thể vượt hơn nên xưng là Tôn. Chư Thiên, ba cõi đều đến quy ngưỡng, tám bộ quỷ thần cũng đều kính chủ, nên xưng là Thế Tôn. Có thể hàng phục ma, tức lại là Tôn. Chỗ xưng tụng như vậy là không thể lường tính, nên hiệu là Thế Tôn. * Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên: (Khu lâm viên Kỳ-đà – Cấp Cô Độc): Thái tử Kỳ-đà: Là con vợ cả của vua Ba-tư-nặc, có khu vườn lớn rộng tám mươi khoảnh, đất bằng phẳng, cây cối um tùm, nhiều loại chim thú, mặt trời hiện ra thì cùng tập hợp. Kỳ-đà, tâm luôn nhớ tới Phật, thường muốn dâng Phật để làm Tinh xá. Không bao lâu, Trưởng giả Tu-đạt (Cấp Cô Độc) lại tìm đến xin mua khu vườn ấy. Kỳ vốn ít có dịp thân thiện với Trưởng giả, mỗi khi vui vẻ hay đùa cợt, đùa bảo là đồng ý bán. Tu-đạt nghe được, ý quyết nên rất vui mừng, quay sang bảo người hầu mau chóng đóng ngựa vào xe, cả voi, để chở vàng tới trải kín khắp khu vườn. Kẻ hầu vâng lời, công việc được tiến hành, chỉ trong chốc lát đã đầy bốn mươi khoảnh. Thái tử Kỳ-đà nói: Thôi thôi! Tôi chỉ nói đùa mà làm thật. Không cần phải trải vàng nữa. Tu-đạt tức cùng với Thái tử đi tới chỗ vua, tâu lại sự việc. Vua bảo: Pháp không hai lời, hứa quyết đã định, lý không được hối. Kỳ-đà nói với Tu-đạt: Tôi lấy phần cây, ông thì lấy phần đất. Hai người hợp công có thể cùng lập Tinh xá. Tinh xá được dựng lên, có bảy mươi hai giảng đường, một ngàn hai trăm năm mươi phòng ốc. Xung quanh, lối đi phẳng lặng, cây trái xanh tươi, trĩu cành, suối chảy ao tắm, lạnh ấm luôn thích hợp, bốn tháng cùng bày rõ trong lành, hai mùa Đông Hạ đều không đổi. Mọi việc xong xuôi, cùng thỉnh Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn liền cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đi đến, an trụ ở đấy, Đàn-việt cúng dường, bốn sự không thiếu. A-nan-bân-để do là quan của nước, nhường cao ở trước, thế nên các kinh thường xưng Kỳ đứng đầu. Do công đức cùng liên kết, nên tên gọi cũng không được lìa nhau, thường hợp dùng để xưng gọi. * Phật bảo các Tỳ-kheo: Vì sao không bảo với các Cư sĩ nam, nữ, chỉ bảo với các Tỳ-kheo, là vì đối với bốn bộ chúng, Tỳ-kheo là đứng đầu. Lại là chủ của việc phá ác, dùng pháp vô lậu đoạn trừ các thứ hữu lậu. Do đấy, nên trước là nói với Tỳ-kheo. Cũng gọi là Sa-môn. Sa-môn là tâm được dừng dứt. Dứt chuyển hữu dục, vắng lặng, không vướng mắc. Cũng gọi là trừ cận. Người đời đói khát nơi sắc dục. Tỳ-kheo là dứt trừ tưởng đói khát của ái dục ấy. Đức Thế Tôn thuyết pháp, Tỳ-kheo có thể thọ nhận, nhằm đoạn dứt sinh tử, đi tới cửa Niết-bàn. Vì vậy nên bảo với các Tỳ-kheo. * Nên tu hành một pháp: Nghĩa là niệm Phật. Niệm Phật là những sự việc gì? Thân Phật là kim cương không có các lậu. Nếu khi đi, bàn chân cách mặt đất bốn tấc, tướng “Thiên bức” dấu vết hiện rõ nơi đất. Dưới bàn chân, các loài trùng kiến được an ổn bảy ngày, nếu chúng mạng chung đều được sinh lên cõi trời. Xưa có một Tỳ-kheo ác, gốc là ngoại đạo, muốn giả phục tùng để phỉ báng, nên theo đường Phật đi, giết nhiều loài trùng bay đặt nơi dấu chân Phật, bảo là đạp chết loài trùng. Nhưng loài trùng tuy chết gặp chỗ có dấu chân Phật, tức thì được sống trở lại. Nếu đi vào thành ấp, bàn chân vừa giẫm lên ngưỡng cửa, thì trời đất chấn động, trăm loại âm nhạc không tấu mà tự vang lên. Những kẻ điếc mù câm ngọng, trăm thứ bệnh tật tự nhiên dứt khỏi. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, nếu có người trông thấy, theo bước đi được độ, công đức giáo hóa, cứu giúp không thể tính kể. Tuệ sáng tỏa chiếu, há có thể chê trách được sao! Phật là chủ của các pháp, hợp chung của muôn hành, do chuyên chở là trước tiên. Gọi là niệm Phật, về nghĩa là như thế. * Niệm Pháp là thế nào? Pháp là pháp vô lậu, pháp vô dục, pháp của đạo, pháp vô vi, là từ dục đến vô dục. Phật là chủ của các pháp. Pháp là chủ của các kiết sử. Hoặc có người hỏi: Pháp là trước hay Phật là trước? Đáp: Pháp ở trước. Làm sao nhận biết? Kinh viết: Pháp sinh ra chư Phật. Pháp sinh Phật đạo. Theo đấy mà nói thì pháp ở trước. Lại hỏi: Nếu như thế, vì sao không niệm Pháp trước, mà lại niệm Phật trước? Đáp: Pháp tuy vi diệu, nếu không người có thể nhận biết thì cũng như trong lòng đất có kho tàng chứa nhiều châu báu, không xứ nào là không có, mà bao người nghèo khổ vẫn thiếu thốn của cải, vật dụng. Như được người có thần thông chỉ rõ nơi chốn, có được châu báu mới tự cung cấp, cứu giúp kẻ nghèo thiếu. Hoặc lại hỏi: Báu là hơn hay người là hơn? Đáp: Người là hơn. Do đâu nói là hơn? Kho tàng nơi lòng đất tuy nhiều nhưng nếu không có thần thông thì chẳng thể thấy. Do người nên có được của cải, há kho báu ở trong lòng đất tự cho là quý chăng? Pháp cũng như thế. Lý tuy huyền diệu, nhưng nếu không có Đức Như Lai thì không được biện giải, nếu không có Đức Thế Tôn thì không thể thông suốt. Thế nên niệm Phật ở trước, tiếp theo là niệm Pháp. * Thế nào là niệm Tăng? Tăng là bốn hướng bốn quả, mười hai Hiền sĩ, xả bỏ mọi tham tranh của thế tục, mở phước dẫn đầu, thông đường trời, người, không gì là không do đấy, tức là ruộng phước tốt đẹp bậc nhất của chúng sinh. Lấy gì để làm sáng rõ chúng Tăng là ruộng phước tốt đẹp? Ngày trước, có một Tỳ-kheo phước mỏng tên là Phạm-ma-đạt, ở trong chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị khiến chúng Tăng không được thọ thực, mà không biết ai có lỗi. Đức Phật liền phân chúng Tăng làm hai bộ, trong một bộ lại khiến một bộ phận không được ăn. Lại phân một bộ phận nầy làm đôi, một nửa khiến theo nửa kia, lại khiến nửa nầy không được ăn. Như vậy lần lượt phân nửa, cho đến hai người cũng không được ăn. Rốt cuộc, còn chỉ riêng một người mới nhận biết kẻ vô phước. Ở chỗ hành thì có thức ăn, tiếp đến nơi bát thì tự nhiên tiêu mất. Phật thương xót ách nạn nầy nên tự tay trao cho thức ăn, ngay trong bát, do thần lực chế ngự nên thức ăn không bị biến mất nữa. Phật muốn khiến cho Tỳ-kheo kia thân hiện tại có được phước, nên khiến hai Tỳ-kheo nhập định diệt tận ở hai bên Tỳ-kheo kia, dùng thức ăn thí cho hai Tỳ-kheo hành định diệt tận. Phàm hành Tam-muội diệt tận đều tức thì được phước. Tiếp theo, khiến hai Tỳ-kheo ở hai bên nhập Tam-muội Từ. Rồi khiến cả hai nhập Tam-muội Bi, Hỷ, Hộ (Xả), mỗi mỗi thứ đều thay khắp khiến thực hiện xong bốn tâm vô lượng. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc, nghe Tỳ-kheo ấy phước mỏng, Phật đã thương xót ban cho thức ăn, nên nghĩ: Ta nay cũng nên vì vị ấy tạo phước. Liền sai kẻ hầu lo việc giã gạo cho trắng. Lúc ấy, có một con quạ bay tới tha một hạt gạo bay đi. Kẻ hầu vua trách cứ: Nhà vua đã vì Tỳ-kheo Phạm-ma-đạt tạo phước, mày vì sao lại tha gạo đi? Quạ liền mang hạt gạo trả lại chỗ cũ. Sở dĩ như thế là vì Tỳ-kheo nầy đã nhờ phước lực của chúng Tăng, do đấy các thứ chim thú không thể xâm hại. Dùng sự việc ấy để chứng tỏ, biết chúng Tăng là phước điền tốt đẹp. Do đã tự độ, lại có thể độ người đến đạo ba thừa. Pháp niệm chúng Tăng, về nghĩa là như thế. * Tiếp đến là niệm giới: Về nghĩa là thế nào? Từ năm giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới, đến năm trăm giới, đều là để cấm chế thân miệng, ngăn chận các thứ tà vạy, sai trái, điều phục sáu căn, dứt các niệm dục, bên trong biểu hiện thanh tịnh là ứng hợp với giới tánh. Xưa có hai Tỳ-kheo cùng đi đến trú xứ của Phật, trên đường phải đi qua vùng đầm rộng khô hạn, không có nước uống, chỉ còn một vũng nước nhỏ, trong nước ấy đầy những trùng. Một Tỳ-kheo suy nghĩ sâu xa về giới luật, lấy việc không phạm làm đầu, nếu uống nước nầy là giết hại rất nhiều mạng sống. Ta thà giữ toàn giới mà bỏ mạng, cũng không ân hận. Thế rồi mạng chung, liền được sinh lên cõi trời. Tỳ-kheo kia thì tự nghĩ: Phải nên uống nước để bảo toàn mạng sống mới có thể đi đến chỗ Phật. Đâu biết Tỳ-kheo bạn, sau khi qua đời, sinh nơi xứ nào. Tức uống nước có trùng, hại rất nhiều trùng, tuy được thấy Phật nhưng cách giáo pháp của Ngài rất xa. Tỳ-kheo nầy khóc lóc, hướng về Phật, tự thưa: Đồng bạn của con đã mạng chung. Phật chỉ tay lên trời, bảo: Ông biết vị trời nầy chăng? Đấy là bạn của ông. Do công đức giữ giới, nên sau khi mạng chung liền được sinh lên cõi trời, nay lại có mặt ở đây. Ông tuy được thấy Ta, nhưng lại cách Ta rất xa. Tỳ-kheo nầy tuy đã qua đời, nhưng luôn ở nơi chỗ Ta. Ông nay đến đây thấy Ta, nhưng thật sự là chỉ thấy nhục thân của Ta, đâu biết được diệu giới chí chân! Do đấy mà nói, trì giới không phạm thì sở nguyện đạt được. Trong mười niệm, thì giới ở trước, còn theo sáu độ mà nói, thì thí đứng trước. Sở dĩ trước sau không đồng, vì trong mười niệm, giới là giới của hàng Thanh-văn, pháp của hàng Thanh-văn lấy việc kìm chế, điều phục thân là trước tiên, thế nên giới đứng trước. Pháp của hàng Đại sĩ lấy tuệ thí làm trọng. Vì sao? Vì phàm là hàng Đại sĩ sinh trong cõi trời người, tâm luôn nhớ nghĩ đến việc tế độ, tạo lợi ích. Chính yếu của việc tế độ, tạo lợi ích, nếu không thí thì chẳng cứu. Phàm là chúng sinh sinh sống, thì thức ăn, y phục là trước hết. Nên dùng tài thí để trước cứu giúp về thân xác, sau đấy dùng pháp để thâu phục, dẫn dắt về tinh thần. Do vậy hàng Đại sĩ lấy thí làm trước. Giới có hai: Có giới của tục, có giới của đạo. Năm giới, mười thiện là giới của tục (thế gian). Ba Tam-muội là giới của đạo (xuất thế gian). Hai trăm năm mươi giới, đến năm trăm giới cũng là giới của tục. Diệu tuệ của bốn đế là giới của đạo. Chỉ hành giới an, không ra ngoài ba cõi. Dùng tuệ dẫn dắt giới khiến thành vô lậu mới hợp giới của đạo. Giới của hàng Thanh-văn dụ như hoa để trên đầu gối, có động tức rơi ngay. Giới của hàng Đại sĩ dụ như hoa cài trên đầu, đi đứng chẳng động. Vì sao? Vì Tiểu thừa bó buộc về hình tướng, động tức vượt oai nghi. Đại sĩ thì thống lãnh tâm, không câu nệ phép tắc bên ngoài. Khuôn mẫu của Đại, Tiểu có dị biệt, do hình tướng, nội tâm làm khác. Ngoài, trong tuy khác nhưng cùng đi tới Niết-bàn, nên gọi là niệm giới. * Niệm thí sở dĩ đạt được Niết-bàn: Là do thí có tài thí, pháp thí. Nhân nơi tài thí mà đạt được pháp thí, thành tựu Đàn độ vô cực (Thí Ba-la-mật) nên được đến Niết-bàn. * Niệm thiên: Là thiên (trời) của ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Thiên có hai loại: Thiên có thọ phước và thiên có đạo đức. Các thiên Tu-đà-hoàn của cõi Dục, vĩnh viễn lìa ba nẻo ác, tiến lên chốn đạo. Thiên của tám Tịnh cư thuộc sắc giới, không giới, tăng tu chỉ, quán, tiến thành vô lậu, tức Niết-bàn kia không trở lại thế gian. Thiên phàm phu: Là mười thiện, bốn thiền, bốn không, nơi cõi ấy thọ phước, phước hết, trở lại rơi vào nẻo lưu chuyển không dừng. Gọi là niệm thiên, là niệm các vị thiên đắc đạo kia, chuyên tâm học theo chư vị, kính ngưỡng nẻo hành, ý không dong ruổi phân tán, cũng đạt tới Niết-bàn. Nên gọi là niệm thiên. * Niệm dừng dứt: Nghĩa là tưởng của tâm ý dứt, năm dục không khởi. Vắng lặng, hoàn toàn định, nên gọi là dứt. Dứt cũng có hai thứ: Phạm-chí của ngoại đạo trói buộc thân hình cầu phước, cũng cho là dứt. Bốn quả Sa-môn, các kiết vĩnh viễn tiêu trừ, mới là dứt chân thật. Do đâu nhận biết như thế? Xưa có vị Tỳ-kheo tên Tu-la-đà, đi đến thành Xá-vệ, giáo hóa khắp chốn. Lúc đó, phía Tây thành Xá-vệ là xứ của Ương-quật-ma có thể giết hại người. Đất bằng phẳng, rộng rãi, có nhiều cây cối. Bấy giờ, có một Phạm-chí đang tọa thiền dưới một bóng cây không ăn năm thứ lúa thóc, chỉ ăn các thứ trái cây, cỏ, nếu không có trái cây thì ăn cỏ rau, để tinh khí được nối tiếp. Thân mặc áo lá cây, hình tướng ốm gầy, giảm thiểu để tự chống giữ. Khi ấy, Tu-la-đà đi ngang qua, từ xa trông thấy, cho là Đạo sĩ, bèn ngồi thiền, quán dò thử biết tâm của vị kia là định chăng? Thấy tâm của kẻ ấy vốn là cầu làm Quốc vương xứ nầy, nên nghĩ: Đây là tên giặc lớn chăng? Đang muốn bỏ đi, e về sau lại rơi vào tội lỗi. Đang muốn giáo hóa, nhưng ắt là không theo lời ta, nên tạo phương tiện để độ người nầy. Bèn đi tới bên một gốc cây tọa thiền, cách vị kia không xa, trải qua bảy ngày chẳng hề dao động. Sau bảy ngày, Tu-la-đà đứng dậy, đi đến trước Phạm-chí, búng ngón tay cho biết, nói: Đồng bạn thấy trong người thế nào? Hồi lâu, Phạm-chí mới từ từ ngẩng đầu, đáp: Kẻ nghèo thiếu đâu có gì để cùng trao cho nhau. Tỳ-kheo lại bảo: Tôi nay sẽ trao cho ông một vật. Liền hóa ra một con gà. Ông có thể giết con gà nầy để ăn. Phạm-chí kinh sợ nói: Đến loài chấy rận tôi hãy còn không giết hại, huống hồ là sẽ giết con gà nầy sao? Tỳ-kheo bảo: Bản tâm của ông chính là muốn giết hại vô số người, nay giết một con gà nầy thì đâu đủ để nói. Phạm-chí lại bảo: Tôi vì sao lại giết hại vô số người? Tỳ-kheo đáp: Ông vào lúc ngồi thiền, bản tâm chính là muốn cầu làm Quốc vương xứ nầy. Làm vua, cai trị, mỗi ngày có thể giết bao nhiêu người, sao bảo là không giết? Con gà nầy tức là phần thức trong tâm của ông. Gà mới có thể đắc đại đạo vô vi, chứ không phải làm vua mà đạt được. Phạm-chí liền tư duy: Tỳ-kheo nầy đã nhận biết tâm niệm ta, tất là Thánh nhân, nên đi theo giáo pháp của vị ấy. Tỳ-kheo lại vì Phạm-chí giảng nói pháp, liền chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Phạm-chí nầy thân hình tuy tĩnh nhưng tâm không dừng dứt. Tự giết được con gà thức rồi mới có thể gọi là dừng dứt. Nên tiếp sau, giải thích, gọi là tưởng của tâm ý dứt. * Niệm thân: Là quán thân có ba mươi sáu vật bất tịnh, bày rõ sự xấu ác. Niệm xét đúng đắn, không loạn, cũng chứng đắc Niết-bàn. Do đâu biết được? Xưa có vị Tỳ-kheo tạo lập A-luyện-nhã, thường hành khất thực, thọ thực nơi bờ sông, xong thì rửa bát. Bấy giờ, bên bờ vùng thượng lưu sông là một nghĩa địa, có người nữ mới chết, gió thổi tóc trên đầu hốt nhiên rơi trong bát. Tỳ-kheo dùng tay cầm lấy mớ tóc ấy, xem kỹ là hết sức mượt mà, tâm miệng riêng nói: Nếu là đuôi ngựa thì đuôi nầy rất nhỏ. Nếu là tóc của người nam thì lại càng nhỏ mịn. Nếu buộc lại không bung ra thì tất là tóc người nữ. Tức liền buộc lại, không bung ra, nên sinh nghĩ tưởng: Người có tóc như thế ắt là xinh đẹp. Mặt như sắc hoa đào, mắt như hạt ngọc sáng, mũi như ống trúc chuốt gọn, miệng như ngậm son, mày ngài má phấn. Tạo sự phân biệt như vậy rồi, liền khởi tâm dục, theo dòng nước tìm cầu, tưởng sẽ thấy một nhan sắc cho bõ công sức, nhưng chỉ thấy một người nữ bị chồn sói ăn mất một nửa, thân hình thối rữa, riêng tóc vẫn còn. Cầm tóc so sánh thì ngắn dài tương tợ, tưởng dục vừa có tự dưng tiêu tan. Tỳ-kheo lại quán lần nữa, suy xét, phân biệt: Người nầy lúc còn sống hình dung đẹp đẽ, nay thì tan hoại, ai cũng thấy rõ. Ta vừa khởi tưởng chỉ muốn tham thân ái dục, nên sinh niệm ấy. Thân kia đã như vậy, thân ta khác gì? Xét kỹ về thân nầy là bốn đại hợp thành, phước hết duyên lìa, tự nhiên tiêu tán. Thấy chuyển, tâm ngộ, tức đắc Tu-đà-hoàn. Do đấy mà nói, niệm thân đạt quả Sa-môn. * Niệm về chết: Là niệm về hành nhân, mạng sống trôi đi không dừng, các căn hư hoại, như cây gỗ mục, mạng căn đoạn dứt, nên nhớ nghĩ về vô thường để tự giác ngộ. Xưa có Tỳ-kheo tên Bà-cát-lê, hành đạo tọa thiền, trải qua nhiều năm mà hữu lậu chẳng trừ. Tự lo về thân mình, cho là lụy lớn, mỗi khi tư duy, tự ghét bỏ: Sở dĩ con người không chứng đắc được đạo vô thượng chính là vì thân nầy lưu chuyển triền miên, biết lúc nào có thể dứt? Tức dùng tay cầm dao sắp sửa tự đâm vào cổ. Lại tư duy lần nữa: Đức Thế Tôn có dạy khuyên: Các đệ tử không được tự sát hại. Tuy vậy, ta nay muốn cầu Niết-bàn, trong Niết-bàn không có thân, do đó trước trừ bỏ thân, chính là chọn lấy giải thoát. Bèn đưa dao lên tự đâm vào cổ, đầu cũng rơi, tim cũng thủng, tức đắc A-la-hán. Đức Phật biết Tỳ-kheo kia đắc đạo, nên sai các Tỳ-kheo hỏa táng thi thể. Vì thế, niệm về chết cũng đạt Niết-bàn. Mười niệm trước Đức Phật giảng nói chung, vì các chúng sinh lợi căn. Sau lại nói lần nữa, vì các chúng sinh độn căn, nên đã giải thích rõ về nghĩa. * Danh dự: Là về sau được làm Chuyển luân Thánh vương. * Được quả báo lớn: Là về sau được làm Thiên Đế-thích. * Các thiện khắp nơi cùng đến: Là về sau được quả báo Phạm-thiên. * Được vị cam lồ: Là về sau được quả Phật Bích-chi. * Đến xứ vô vi: Là về sau đạt được quả A-la-hán. Trên nói mười niệm không có năm câu nầy. Nay sở dĩ thêm các quả báo, là muốn làm rõ về lý thâm diệu của nghĩa niệm Phật. Phật nói: Các đệ tử Bát-Niết-bàn đều do sự đền trả của túc duyên, đối nhân mà giữ lấy Niết-bàn. Tôn giả Mục-kiền-liên bị đánh đập. Tôn giả Xá-lợi-phất bị đau đường ruột. Như thế, năm trăm vị đệ tử của Đức Phật đều do túc duyên mà giữ lấy diệt độ, chỉ có Tôn giả A-nan nhập Niết-bàn là tốt đẹp hơn hết. Lúc Tôn giả A-nan sắp vào Niết-bàn, trước hiện điềm lành là ánh sáng. Có Phạm-chí theo Tôn giả A-nan học toán thuật, thấy sắc diện của Tôn giả phát sáng, liền báo với vua A-xà-thế: Tôn giả A-nan sắc diện khác thường, là sắp sửa Bát-Niết-bàn chăng? Vua liền sai người đi tìm Tôn giả A-nan. Tôn giả lúc nầy đã dẫn năm trăm đệ tử đi đến quãng giữa trên bờ sông Hằng, lên thuyền sắp qua sông, vừa ra giữa dòng, người của vua A-xà-thế cũng đã tới bờ. Tỳ-xá-ly biết Tôn giả A-nan tới cũng khiến năm trăm Đồng tử nghinh đón. Muốn vừa ý cả hai nước, nên Tôn giả A-nan dùng thần lực chế ngự thuyền khiến đứng yên giữa sông. Lúc nầy, đệ tử được độ, một người tên Ma-thiền-đề, người thứ hai tên Ma-thân-đề, Tôn giả A-nan bảo Ma-thiền-đề: Ông đi tới nước Yết-tân hưng khởi pháp Phật, đất ấy chưa có chánh pháp, khéo làm cho pháp Phật truyền bá rộng khắp. Lại bảo Ma-thân-đề: Ông đi đến nước Sư-tử-chử hoằng dương làm cho Phật pháp hưng thịnh. Dặn dò như vậy xong, Tôn giả hiện mười tám thần biến, phát ra lửa thiêu thân, ở giữa phân Xá-lợi, khiến hai nước đều được cúng dường. Đây là do diệu lực của niệm Phật, nên được tự tại. HẾT - QUYỂN 2 LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC QUYỂN 3 * Đức Phật nói với các Tỳ-kheo: Đức Phật là bậc Đại từ, muốn khiến cho các đệ tử nhận biết đầy đủ về nghĩa của niệm Phật. Cũng như người cha dựa theo lời khuyên răn để dạy bảo con cháu, nhằm khiến chúng thành tựu, không nhằm báo đáp cho mình. Đệ tử đã chuyên tinh niệm Phật, quán hình tướng của Như Lai mắt chưa từng rời. Cũng như Tôn giả A-nan quán Phật không chán, tâm niệm không dừng. Lúc nầy, Tôn giả A-nan trên lưng sinh mụt nhọt, Đức Phật sai Kỳ-bà chữa trị. Kỳ-bà bạch Phật: Không dám chạm tay lên lưng Tôn giả A-nan. Đức Phật bảo Kỳ-bà: Chỉ chữa trị, chớ nghi. Tự Ta sẽ vì Tôn giả A-nan thuyết pháp, khiến không còn biết đau. Đức Như Lai khiến Tôn giả A-nan luôn chiêm ngưỡng tướng hảo của Phật, Phật vì Tôn giả mà thuyết pháp. Thân Như Lai là thuộc về kim cương không thể hủy hoại. Ba ngàn hai trăm công đức của phước báo tạo thành, Tôn giả A-nan mắt nhìn không biết mỏi, tai lắng nghe không biết chán, tâm nhớ nghĩ không buông. Bấy giờ, Kỳ-bà phá vỡ mụt nhọt trên lưng Tôn giả A-nan rồi bôi thuốc. Đức Phật hỏi Tôn giả A-nan: Ông có thấy đau trên lưng không? Tôn giả A-nan thưa: Không thấy đau. Không thấy đau là do niệm Phật. Mười lực tạo thành cùng bốn vô sở úy. Xưa, có vị Trưởng giả dẫn theo kẻ hầu nữ đi lễ Thâu-bà (Tháp), đọc: Nam-mô Đức Thế Tôn mười lực! Kẻ hầu nữ đứng sau lễ, đọc: Nam-mô Đức Như Lai mười một lực. Trưởng giả bảo: Như Lai chính là có mười lực, vì sao lại đọc mười một? Kẻ hầu nữ thưa: Mười một lực lại có trở ngại gì sao? Chỉ không nên nói chín lực. Nói mười một lực là thêm một lực, đâu có lỗi lầm gì. Ông Trưởng giả im lặng trở về nhà. Lại hỏi các vị Pháp sư: Đức Như Lai có bao nhiêu lực? Đáp: Hoặc có ba lực. Hoặc có mười lực. Hoặc nói là vô số. Theo đấy mà nói thì không hạn định nơi mười chăng? Trưởng giả liền xuất gia học đạo, cho kẻ hầu nữ khỏi hầu chủ nhà. Nói bốn chẳng phải là không đủ. Nói vô số chẳng phải là có thừa. Hợp thời, ứng vật, không có lượng cố định. * Niệm Pháp: Từ dục đến không dục. Từ dục đến đạo. Từ lậu đến vô lậu. Từ hữu vi đến vô vi. Do đâu nhận biết như thế? Ngày trước, Đức Thế Tôn ở tại nước của vua Ưu-điền thuyết pháp, giáo hóa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lên cõi trời Ba Mươi Ba (Trời Đao-lợi) vì mẹ là Ma-da, thuyết pháp, chín mươi ngày mới trở về trần gian, từ nơi phía Bắc thành Ca-thi đi xuống. Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-liên-hoa tâm niệm muốn riêng mình được thấy Phật trước. Các vị Quốc vương không trông thấy Phật đã chín mươi ngày, đều có tình cảm khao khát, ngưỡng mộ, nên cùng tề tựu đông đủ. Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-liên-hoa suy nghĩ: Ta là Tỳ-kheo-ni, không nên ở trong chỗ đông đảo, ồn ào nầy. Cần tạo ra phương tiện thích hợp để được đón Phật trước. Liền hóa làm vị Chuyển luân Thánh vương, đám tùy tùng đều đúng theo pháp của Thánh vương. Các Tiểu vương quốc trông thấy Thánh vương thảy đều tự tránh xa. Tỳ-kheo-ni liền hiện trở lại hình tướng như trước, gặp Phật, lễ bái, vấn an. Các vị vua đều đến yết kiến Đức Phật, không còn thấy Chuyển luân vương, mới biết là do Tỳ-kheo-ni nầy hóa ra, bèn nói: Điều trông thấy vừa rồi là lừa dối như thế chăng? Lúc nầy, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-liên-hoa tâm niệm tự cho mình là người thấy Phật trước nhất. Đức Phật bảo Ưu-bát-liên-hoa: Cô tự cho mình là người thấy Phật trước tiên, nhưng lại có người thấy Phật trước cô đấy. Cô biết rõ là vị nào chăng? Đức Phật nói: Nơi mé núi phía Đông thành La-duyệt (Vương-xá), Tôn giả Tu-bồ-đề đang vá y ở đấy. Có vị trời báo cho biết: Đức Phật đã trở lại trần gian. Tu-bồ-đề nói: Tôi là đệ tử, theo pháp là phải đi đến lễ bái, thưa hỏi. Lại tự tư duy: Phật hiện ở tại chốn nào? Hoặc sắc vàng óng là Phật chăng? Vàng lại có hạn lượng nào? Đức Phật đã dạy: Tất cả các pháp là không, là vô sở hữu, nếu hiểu rõ mười hai nhân là không, không tạo, không tác, không người, không sĩ phu, không thọ mạng, không kẻ thọ mạng, tức là thấy pháp. Thấy pháp không mạng, chẳng phải là mạng là thấy ta. Liền chấp tay, đọc: Bà nam! Đúng là như thế! Liền ngồi trở lại để vá y. Theo đấy mà nói, Tu-bồ-đề là người thấy Phật trước cô! Phật là chủ của các pháp. Hiểu rõ pháp không tức là niệm Pháp. * Niệm Chúng (Tăng): Là chúng Hiền Thánh. Phàm là chúng, tức có từng ấy loại. Chín mươi lăm thứ ngoại đạo, mỗi thứ cũng đều có chúng. Hoặc có thứ hòa hợp. Hoặc có thứ chẳng đồng. Cũng dùng giới luật để tự ngăn cấm. Hoặc hành thiền định. Hoặc cho vô tưởng là vi diệu tột bậc. Đều tin nơi việc làm của mình, tự cho là chân thật. Song không đạt được bát Thánh đạo phẩm đích thực, do đấy không thể đạt đến Niết-bàn. Tuy lại có kẻ chứng đắc năm thông, sống lâu cùng nhập vô tưởng kéo dài hàng kiếp, đều không tránh khỏi sinh tử. Chỉ có Thánh chúng của Như Lai gồm các vị đã đắc bốn hướng bốn quả là không còn bị bốn thứ nhanh chóng (bốn Bộc lưu?) làm cho nổi trôi, chín thứ dứt dừng khiến cho tan tác. Nên kinh nói: Chín mươi sáu thứ Tăng, Tăng của Đức Phật là chân thật hơn hết. Bốn bộ chúng của Như Lai đều là đồng Thích chủng. Dụ như bốn dòng sông Hằng đều có riêng năm trăm nhánh, đều hợp nhập nơi biển cả để cùng một vị. Chúng cũng như thế. Có người là chủng tộc Sát-đế-lợi. Có người là chủng tộc Bà-la-môn. Có vị là chủng tộc Trưởng giả, Cư sĩ. Trong bốn chủng tánh, có người xuất gia học đạo đều đồng là Thích chủng, là một họ, không có các tên gọi riêng như thế. Do phạm vi bao quát càng xa, nên về nghĩa càng sâu rộng. Chúng Tăng chính là đều thọ nhận nơi ba thừa. Tăng A-la-hán cũng xuất sinh từ đấy. Hàng Duyên giác cũng ở trong đó. Tăng Đại thừa cũng vậy. Thế nên gọi là ruộng phước tốt đẹp bậc nhất. Cứu giúp chúng sinh trong ba cõi, không gì vượt hơn loại “Ruộng đất” tốt đẹp ấy. Đức Như Lai tuy đã thành Chánh giác, vẫn thường hướng trở lại đến chúng Tăng để sám hối. Là do “đất” của Tăng dày, nặng. Ba đời chư Phật, Duyên giác, Thanh-văn, không bậc nào là không do Tăng mà được diệt độ. Cũng như Tỳ-kheo Phạm-ma-đạt, nhờ nơi Thánh chúng mà được cứu độ vẹn toàn. * Niệm giới: Nghĩa là hành trì giới tịnh gồm thâu các luật nghi. Cũng như người thợ gốm sử dụng các thứ đất thó, bùn v.v… tạo thành những đồ chứa đựng lớn nhỏ, vuông tròn, đều thích hợp với sự mong muốn của người tiêu dùng. Giới cũng như vậy. Hoặc nguyện sinh thiên, thọ phước của ba cõi. Hoặc muốn đoạn trừ kiết cầu đạo, sở nguyện đều hợp ý. Giống như chiếc bình Cát tường, tùy theo ý muốn của người giữ lấy, tức được như ý. Dùng giới làm gốc, hành trì luôn ba mươi bảy phẩm và các Tam-muội, định, đoạn bảy sử, chín kiết, tiến đến thành Niết-bàn, dụ như đất thó thành đồ đựng, không thể bị hư hoại nữa. * Niệm thí: Tức thí có hai sự: Hoặc có chủ thí, hoặc không chủ thí. Lại có hai thí: Một gọi là cho. Hai gọi là xả. Lại có hai thí: Một là của cải. Hai là giáo pháp. Cho tức là thí có chủ. Xả là thí không chủ. Xả tức là xả bỏ kiết. Cho tức người trước mặt thọ nhận của cải, giáo pháp. Sở dĩ thí đạt đến Niết-bàn: Là nếu lúc cho người của cải, giáo pháp, tâm không mong cầu quả báo, không chấp mình, người, do ba sự vô ngại tức đồng với giải thoát. Hoặc có thể xả bỏ kiết, cũng là Niết-bàn. Xả, cho cùng đạt đến Niết-bàn. Cũng như chú voi tuân theo đứa trẻ mạnh mẽ, tiến tới cùng thối lui. Nếu cả hai được thịt, tiến tới thì phá trừ quân binh, thối lui thì mất việc ăn thịt, tất nhiên là thế. * Niệm thiên: Có ba loại thiên (trời): Có Thiên cử, có Thiên sinh, có Thiên thanh tịnh. Thế nào là Thiên cử? Nghĩa là Chuyển luân Thánh vương, được mọi người suy cử. Sở dĩ gọi là thiên: Là do Thánh vương có mười thiện giáo hóa ở đời, khiến người đều sinh thiên. Vì ở trên con người nên gọi là Thiên. Hoặc có người nói: Thánh vương hơn Phật. Do đâu mà nói như thế? Vì Thánh vương trị đời, người không bị đọa vào đường ác. Lúc Phật xuất hiện nơi thế gian, ba đường ác không dứt. Do đấy nên là hơn. Hoặc lại có thuyết nói: Phật hơn Thánh vương. Sở dĩ nói hơn là vì Thánh vương dùng mười thiện giáo hóa ở đời, không hơn người, trời. Phật xuất hiện, giáo hóa thế gian đạt đến Niết-bàn. Do đấy nên là hơn. Thế nào là Thiên sinh? Là từ bốn Thiên vương cho đến hai mươi tám cõi trời, những người thọ nhận phước, đều là Thiên sinh, do đó nói Thiên sinh. Lưu chuyển không dứt, chẳng lìa sinh tử, nên gọi là Thiên sinh. Thế nào là Thiên thanh tịnh? Là ba bậc Phật, Duyên giác, Thanh-văn, đều dứt hết kiết sử, ra khỏi ba cõi, thanh tịnh không dục, nên nói là Thiên thanh tịnh. Tám Tịnh cư thiên: Là vượt hơn Thiên sinh, Thiên cử, không bằng xứ thanh tịnh, ở khoảng giữa ấy, là chỗ kính mộ của người niệm thiên. Nhân niệm về sinh, cử, cũng có lý đạt đến Niết-bàn. Vì sao? Chuyện kể trong thành Xá-vệ có đôi vợ chồng là Thanh tín sĩ (Ưu-bà-tắc) không có con cháu, cả hai đều tinh tấn, tâm luôn nhớ nghĩ đến Tam bảo. Bấy giờ, người vợ mất sớm, được sinh lên cõi trời Tam Thập Tam, làm thiên nữ, nhan sắc tuyệt trần, trong cõi trời ít ai sánh bằng. Thiên nữ nầy tự suy nghĩ: Chồng của ta đang làm gì? Bèn dùng thiên nhãn xem xét thế gian, thấy người chồng cũ của mình đã xuất gia học đạo, do tuổi cao trí kém, chỉ chuyên tin tưởng mà thôi, công việc thường làm là dùng chổi quét dọn tháp miếu. Thấy sự siêng năng ấy, lý nên sinh thiên, tất trở lại làm chồng mình. Lúc nầy, người chồng cũ đang ở tĩnh thất, ngồi một mình suy nghĩ, bất chợt có ánh sáng hiện ra, cho là điều lạ, nên ngẩng đầu lên nhìn, thấy có thiên nữ, liền hỏi nàng là ai, từ đâu đến? Thiên nữ đáp: Tôi từ nơi cõi trời Ba Mươi Ba tới đây, vốn là vợ của chàng, nay là thiên nữ. Trên cõi trời ấy, không ai nhận làm chồng tôi. Xem thấy chàng luôn tinh tấn với công việc, nên trở lại làm chồng tôi. Vì thế nên đến đây để nêu bày ý mình. Nói xong, hốt nhiên biến mất, quay trở về cõi trời. Từ đấy trở về sau, người Tỳ-kheo già càng thêm siêng năng, lại gồm luôn việc tu bổ tháp miếu cũ, sớm chiều không biếng trễ. Do tích chứa công sức, khiến phước đức càng hơn, nên được sinh lên cõi trời thứ tư là Đâu-suất. Thiên nữ lại dùng thiên nhãn xem xét, thấy người chồng cũ được sinh nơi cõi trời Đâu-suất, lại đi tới, bảo: Chàng tích chứa tinh tấn, nên đã vượt qua cảnh giới của tôi. Tôi lại không có được chàng để làm chồng. Nói xong liền lui gót. Tỳ-kheo nầy lại càng tinh tấn, hơn cả thời gian trước. Ngày thì kinh hành, đêm thì tọa thiền, tâm ý chuyển sáng, tư duy về bốn đế. Như vậy không lâu, bèn chứng đắc A-la-hán. Đó là nhân niệm thiên mà đạt đến Niết-bàn. * Niệm dừng dứt: Nghĩa là đạt được định. Dừng dứt có hai: Có dừng dứt của thế tục. Có dừng dứt của đạo. Dừng dứt của thế tục: Cũng như hành tác mệt nhọc để dứt bỏ biếng nhác, nhưng an trụ rất nhỏ. Dừng dứt của đạo: Là người hành định. Do đâu nhận biết điều ấy? Xưa có Tỳ-kheo tên là Đẳng Hội, tọa thiện nhập định gần mé đường lớn. Lúc ấy, có năm trăm cỗ xe chạy ngang qua, tiếng động rất dữ, nhưng người tọa thiền vẫn hoàn toàn không hay biết gì. Rồi trời lại nổi sấm sét liên hồi, phút chốc mặt đất rúng động, nhưng Tỳ-kheo nhập định thảy đều không nghe biết. Người đi qua, các thứ bụi đất càng nhiều phủ bám đầy nơi y. Có kẻ tới gần, thấy Tỳ-kheo nầy ngồi thẳng người, bất động, bụi đất bám đầy y, đều không hay biết. Tỳ-kheo xuất định, vui vẻ phủi đập bụi đất. Người qua đường hỏi: Vừa rồi thầy ngủ chăng? Đáp: Không. Lại hỏi: Nếu không ngủ, thì sao vừa rồi có đoàn xe chạy qua, trời lại sấm sét, mặt đất rúng động, mà thầy không hay biết, kinh hãi? Tỳ-kheo đáp: Khi đó tôi nhập Tam-muội dừng dứt, nên đều không nghe biết gì. Do đấy mà nói, người đắc định dừng dứt, tuy trời đất có ụp xuống cũng không thay đổi ý chí. Nên gọi là định dừng dứt. * Niệm hơi thở: Là dứt các thứ dong ruổi lúc tọa thiền. Con đường hướng tới đạo không phải chỉ một nẻo. Phương, hướng của sự tỏ ngộ đều có nơi chốn. Do đâu nhận biết như thế? Chuyện kể Tôn giả Thân Tử (Xá-lợi-phất) thời xa xưa từng cúng dường mười bốn ức Đức Phật, theo Phật nghe pháp, nhưng chưa từng hành tập pháp niệm hơi thở. Đến đời Phật Thích-ca-văn, theo Tỳ-kheo Mã Sư, mới đạt pháp không, tức thấy “Dấu vết đạo”. Đức Phật diễn nói đủ, tuệ đầy, kiết hết, lãnh hội thông suốt, nay là trí tuệ bậc nhất, không do pháp niệm hơi thở mà đắc Niết-bàn. Tôn giả Mục-kiền-liên, xưa, trong ba mươi kiếp cúng dường chư Phật, tu hạnh Đại thừa, không thể trọn vẹn, được gặp Đức Thế Tôn, lui giữ lấy bậc “Lậu dứt hết”. Từ xưa đến nay chưa từng hành tập pháp niệm hơi thở. Tỳ-kheo Ca-diếp, xưa cũng từng cúng dường ba vạn Như Lai, cũng chưa từng tu tập pháp niệm hơi thở, nên đắc quả Phật Bích-chi, nay thối chuyển làm A-la-hán. Tỳ-kheo Mã Sư, ngày xưa cũng cúng dường bảy Phật, cũng không tu tập pháp niệm hơi thở, nay cũng dứt hết các lậu. Tôn giả A-nan xưa từng cúng dường hai vạn Đức Như Lai, đã theo chư Phật hỏi, nhận giáo pháp, cũng không hành tập sổ tức. Chỉ có La Vân, Ma-kha-kiếp-thất-la, từ ngày xưa đến nay luôn hành tập pháp ấy, nay cũng đạt đạo. Theo đấy mà nói, đường hướng tới đạo không phải chỉ một nẻo. Niệm hơi thở: Là nhận biết hơi thở dài ngắn, lạnh nóng, chậm mau, từ thô đến tế, dần dần chế ngự tưởng loạn, đạt tới vi diệu. Hoặc nhân nơi hơi thở để tỏ ngộ. Hoặc phân biệt để hiểu rõ. Hoặc hành hạnh Đầu-đà để giữ khí tiết. Hoặc đa văn ghi nhớ giỏi. Hoặc thần túc nhận biết sâu xa. Hoặc tẩy tịnh, hoặc giáo huấn, để tỏ ngộ. Đó gọi là “Đường đi khác nhau” (Thù đồ) mà cùng quy về một chốn (đồng quy). * Niệm thân: Nghĩa là phân biệt về bốn đại, hiểu rõ về năm ấm, đều đồng là huyễn mộng. Do đâu biết được niệm thân đạt đến Niết-bàn? Xưa, sau thời Phật nhập Niết-bàn khoảng trăm năm, có vua A-dục, làm chủ cõi Diêm-phù-đề, quần thần, phu nhân, voi ngựa, mỗi thứ đều có tám vạn bốn ngàn. Bấy giờ, vua tuần hành khắp nước, thấy vua Diêm-la có mười tám địa ngục, cũng có quan chức làm công việc họp, hỏi tội nhân. Vua A-dục hỏi kẻ tả hữu: Đây là những người gì? Đáp: Đây là vua của những người chết, chủ việc phân biệt thiện ác. Vua bảo: Vua của người chết hãy còn có thể tạo địa ngục để xử trị tội nhân. Ta là vua của người sống, lại không thể tạo địa ngục sao? Liền hỏi các quan ai có thể làm được công việc ấy? Các quan tâu: Chỉ có người cực ác mới có thể tạo địa ngục. Vua lệnh cho các quan đi hỏi tìm người ác. Các quan vâng mệnh đi tìm khắp, thấy có một người ngồi trên đất dệt len, bên cạnh có cung tên, cùng các vật dụng câu bắt cá. Lại dùng cơm trộm độc để nhử chim sẻ. Vừa dệt len, vừa câu cá, bắn chim, bắt sẻ. Các quan trở về cung tâu vua hiện có kẻ ác như thế. Vua bảo: Người nầy cực ác, tất có thể thực hiện được các sự việc của địa ngục. Vua sai người đến nói với anh ta: Đại vương muốn gặp ông! Kẻ ác đáp: Ta là hàng tiểu nhân, không có hiểu biết. Vua dùng ta làm gì? Quan nói: Vua đang muốn được ông để xử trị công việc nơi địa ngục. Người ác liền trở về nhà có mẹ già, nói với mẹ: Vua cho người gọi con. Bà mẹ hỏi: Vua cho gọi con làm gì? Người con thưa: Vua muốn sai con xử trị việc ở địa ngục. Mẹ bảo: Con đi rồi, mẹ làm sao sống được? Nói xong bà mẹ liền ôm chặt lấy chân con không buông ra. Người con ý đã muốn đi, tức rút dao chém chết mẹ, rồi đi tới chỗ vua. Vua hỏi: Mẹ không buông tha ngươi, do đâu đến được đây? Tâu: Giết chết mẹ mà đến. Vua phán: Đúng là người ác, tất có thể làm tốt công việc ở địa ngục. Liền giao cho người nầy làm tường địa ngục, đặt vạc nước sôi, rừng kiếm, lạy tôn làm vua địa ngục, cùng lập quan phụ tá, đều đúng phép tắc như vua Diêm-la. Vua dặn kỹ: Nếu có người vào thành nầy, không cần hỏi sang hèn, được toàn quyền trị tội. Vua bảo tiếp: Giả sử ta có vào trong ấy, cũng chớ cho ra. Lúc nầy, có Tỳ-kheo lớn tuổi, tên là Thiện Giác, thường đi khất thực, đến cửa thành nầy, đứng bên ngoài thấy hoa đẹp tỏa hương, cho là bên trong có người, liền đi vào, chỉ thấy tội nhân bị xử trị, kinh sợ muốn trở ra, nhưng ngục tốt không cho, lại dẫn tới chỗ vạc nước sôi. Đạo nhân cầu cứu, nói: Xin tha cho tôi đến giữa trưa. Trong chốc lát có hai người nam nữ vì phạm dâm dục nên bị dẫn vào đây trị tội. Cả hai bị đặt trong cối lớn, ngục tốt dùng chày đâm giã, phút chốc biến thành đống bọt. Đạo nhân trông thấy mới nghĩ tới lời Đức Phật dạy: Thân người như đống bọt tụ lại. Đúng thay lời dạy ấy! Khoảnh khắc lại biến làm sắc trắng. Đạo nhân lại niệm: Thân người như mớ tro trắng, biến đổi chẳng phải một, như huyễn như hóa, xét kỹ chẳng thật. Tức thì ý ngộ, lậu hết, kiết tận. Ngục tốt lại thôi thúc đưa vào vạc nước sôi. Tỳ-kheo già mỉm cười. Ngục tốt giận dữ sai bốn người xốc giữ chặt hai bên nách, đưa lộn ngược vào trong vạc, nước sôi tức thì thành nước lạnh. Tỳ-kheo liền hóa ra ngàn đóa hoa sen, ở trong hoa sen ngồi kiết già. Ngục tốt kinh hãi, tâu vua A-dục: Nay trong ngục có sự việc kỳ quái, cúi xin nhà vua phí chút thì giờ đến xem qua. Vua bảo: Ta trước đã dặn kỳ: Giả sử ta có vào trong ấy cũng không cho ra. Ta nay đâu được vào trong đó. Quan tâu: Chỉ vào thôi, không thọ khổ. Vua liền theo vào, thấy Đạo nhân ngồi yên trên hoa sen. Vua hỏi: Ông là ai? Đáp: Tôi là Đạo nhân. Đạo nhân nói với vua: Vua là kẻ si mê. Vua hỏi: Vì sao gọi ta là kẻ si mê? Đạo nhân nói: Ông vào thời xưa lúc làm Đồng tử, dùng một nắm đất lớn dâng lên Phật, Phật nhận và chú nguyện: Con về sau sẽ làm vua châu Diêm-phù-đề, là bậc Thiết luân vương, tên A-dục, trong một ngày sẽ dựng tám vạn bốn ngàn tháp Phật. Ngục nầy là tháp Phật chăng? Tâm ý vua liền tỏ ngộ, nên sám hối lỗi lầm trước, dùng Thiện Giác làm thầy, bãi bỏ ngục, hưng phước, dựng tám vạn bốn ngàn tháp miếu. Do đấy mà nói, niệm thân đạt được Niết-bàn, nghĩa ấy là như thế. Thế nào là niệm tử đạt đến Niết-bàn? Xưa, vua A-dục phụng pháp tinh tấn, thường cúng dường năm trăm chúng Tăng nơi cung nội, bốn sự không thiếu. Bên ngoài, gồm luôn việc cung cấp cho năm trăm vị khất thực, trụ nơi A-luyện-nhã. Lại biếu tặng vật dụng cho năm trăm người, theo đấy mà cúng dường. Ở trong bốn cửa thành đều lập nơi chốn cung cấp cho những người nghèo thiếu. Cúng dường, cung cấp nhiều và lâu dài như thế nên tài sản, châu báu giảm dần. Lúc ấy, người em vua tên Tu-già-đố-lộ không tin Tam bảo. Đại thần Da-xá, phu nhân Thiện Dung cũng cùng không tin. Ba người đồng tâm gây vạ cho vua, thường xuyên can gián: Cúng dường Đạo sĩ khiến tài sản của quốc gia khánh kiệt, sao lại làm công việc như thế. Vua bảo: Người nên khéo giữ lời. Phàm kẻ sĩ xử thế, sở dĩ thân bị chém là do lời nói ác. Tu-già-đố-lộ tâu vua: Những Đạo sĩ nầy đều là tuổi trẻ, ăn uống luôn ngon miệng, tình dục càng dấy mạnh, lại ở trong cung sâu, nơi có nhiều người nữ, há có thể tin được? Vua nói: Đạo sĩ luôn chế ngự hình tướng, dùng pháp tự ngăn giữ, giảm thân giữ giới, không bị sắc dục sai khiến. Sau đấy, Tu-già-đố-lộ đi săn, trông thấy bầy nai, ở giữa có một người giăng lưới vây bắt. Tu-già-đố-lộ gặp người ấy, hỏi: Ông là ai? Đáp: Tôi vào lúc được tám tuổi, mất hết cha mẹ, chạy trốn vào trong núi, được uống sữa nai, từ đấy tới giờ. Lại hỏi: Lúc nai không sữa thì lấy gì để ăn? Đáp: Tôi theo bầy nai ăn cỏ lá để tự nuôi sống. Lại hỏi: Từng có ý dục chăng? Đáp: Có. Tu-già-đố-lộ trở về cung, đem sự việc tâu vua: Kẻ ấy ăn cỏ lá, thân hình gầy ốm, hãy còn có dục tình, huống chi là các Đạo sĩ ăn uống ngon miệng, thân thể khỏe mạnh, đâu lại không có dục tình? Vua tâm niệm: Nên tạo phương tiện gì để hóa độ người em nầy? Tức lập quyền mưu, dối bảo là sắp xuất du, tập hợp đông đảo quân binh, kẻ hầu, chỉnh đốn để lên đường. Vua lén trở về cung, ẩn mình không hiện. Nhà vua trước đã cùng với các quan bàn luận: Nếu ta xuất du, sau đấy nên suy cử người em mình làm vua. Các quan liền khuyên người em vua mặc thử vương phục. Người em dối giả vờ không chịu. Các quan nói: Chỉ mặc thử trước chúng tôi thôi. Người em liền mặc vương phục, đội mão vua, các quan cùng hô: Vạn tuế, tả hữu đứng hầu, như pháp của Thánh vương. Vua A-dục trông thấy sự việc đã rõ, liền từ bên ngoài đi vào, bảo: Ai như là đại vương? Người em thấy vua, hổ thẹn đỏ mặt, không biết phải làm gì. Vua A-dục nói: Ta vừa xuất du thì khanh vì sao liền làm sự việc nầy? Thiết luân của ta không còn chăng, nên chỉ mới như thế mà đã xem như không có ai? Chỉ trong chốc lát ta sẽ xử chém ngươi. Bèn lệnh cho các quan bắt giữ, tra vào gông cùm, ngầm sai kẻ thân tín thưa với Đạo nhân: Thiện Niệm có ý ấy, nên đến để giải cứu. Đang muốn giết ngươi, nhưng nghĩ ngươi làm vua quá ít, chưa được thỏa ý, nên nay ta lại nhờ ngươi làm vua bảy ngày, đúng như vương pháp của ta, quần thần theo hầu, cung nhân kỹ nữ, ăn uống tiến dâng. Thỏa ý trong bảy ngày sẽ chịu hình pháp. Tức như lời dạy thi hành, nhưng Tu-già-đố-lộ không còn tâm để tự vui. Đạo nhân tới thỉnh cầu, cầm bát, chống tích trượng, đi đến cửa cung vua. Vua hỏi: Thầy tới đây muốn thỉnh cầu điều gì? Đáp: Muốn xin người chết. Vua nói: Tội nhân nầy đáng chết, Đạo nhân không được xin. Đạo nhân lại thưa: Chỉ xin làm người tu hành, sẽ khiến học đạo. Vua nói: Hỏi kẻ ấy xem có thể học đạo được không? Đạo nhân liền đến chỗ tội nhân hỏi: Nay xin ông làm Sa-di, có thể được chăng? Đáp: Giả sử làm nô tỳ cũng chấp nhận, huống chi lại làm Sa-di. Vua phán: Làm Đạo nhân rất khó, phải xét kỹ xem mình có thể làm được hay không. Pháp của người tu hành là mặc áo thô, ăn uống kham khổ chỉ nhằm giữ lấy thân mạng mà hành đạo. Ngươi quen với vui nhiều, sao có thể kham nổi khổ hạnh ấy? Đáp: Nên đáng chết, được sống, há không kham nổi khổ hạnh. Vua bảo: Nếu kham nổi thì cho phép. Khiến bảy ngày khất thực. Vua dặn những người trong cung: Lúc Tu-già-đố-lộ tới khất thực, thì chỉ cho các thức ăn rất dở, hoặc các thứ dư thừa, hôi thiu. Tu-già-đố-lộ mặc y cũ rách, tới các phòng khất thực, nơi nơi đều chỉ được thức ăn dở. Do tình nặng của việc thoát khỏi chết, nên cam tâm ăn những thức ăn dở? Đủ bảy ngày rồi, vua thấy người em không có hối hận, liền cho phép tu đạo, bảo: Ông thường nói: Đạo nhân nhàn lạc, có nhiều dục tình, khó tin. Chỗ khất thực của ông vừa qua tại cung nội của vua, cũng hãy còn tinh tế. Đạo nhân khất thực, còn tệ hơn nhiều so với đấy, việc ăn uống như thế, há có thể có tình dục chăng? Tức giao phó cho Thiện Niệm làm Sa-môn, sai khiến đến thành Thạch Thất. Ở trong thành ấy hành các thiền quán. Hoặc ở nơi nghĩa địa, hoặc ở bên gốc cây. Lúc đó, tại nơi nghĩa địa quán thây người chết, ban đêm thấy có ngạ quỷ đánh đập một thây người chết. Sa-môn Tu-già-đố-lộ hỏi: Vì sao lại đánh thây chết nầy? Đáp: Vì nó đã làm khốn khổ tôi như thế, do đấy nên đánh nó. Đạo nhân nói: Vì sao không đánh vào tâm ông? Đánh thây chết ấy thì có ích gì? Trong chốc lát lại có một vị trời, dùng hoa trời Văn-đà-la tung rải lên thây chết. Đạo nhân lại hỏi: Vì sao lại tung rải hoa nơi thân chết xú uế nầy? Đáp: Tôi do thây chết nầy mà được sinh lên cõi trời. Thây chết ấy tức là thiện hữu của tôi, nên đến đây rải hoa báo đáp ân ngày trước. Đạo nhân nói: Vì sao không rải hoa ở trong tâm của ông, mà lại rải hoa nơi thây chết xú uế ấy? Phàm gốc của thiện ác, đều ở nơi tâm, các ông lại bỏ gốc để chọn lấy ngọn chăng. Bấy giờ, Tu-già-đố-lộ tự nghĩ: Ta từ chết được sống, do nhân duyên ấy nên được giải thoát. Đối với việc quán thân, niệm tử ấy, tư duy, phân biệt, hiểu rõ về vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã), tức đắc La-hán. Theo đấy mà nói, niệm tử cũng đạt đến Niết-bàn. HẾT - QUYỂN 3 LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC QUYỂN 4 Đức Như Lai sở dĩ đã rộng vì bốn bộ, mỗi mỗi bộ đều nói về bậc nhất, chính là vì trong pháp để lại cho đời cuối của thời vị lai, hoặc có bốn chủng tánh, Phạm-chí ngoại học và bốn chúng đệ tử, cùng nêu bày về thị phi, tự cho là tôn quý, người khác là thấp kém. Những hạng, loại như vậy là không thể tính kể. Thế nên, cần dự phòng cho việc chưa xảy đến ấy, phải mở ra con đường tự biết đủ. * Nay gọi A-nhã-câu-lân là bậc nhất, vì vị ấy thuộc hàng hào tộc của giòng họ Thích, được vua chọn sai theo hầu Thái tử Tất-đạt-đa, công sức khó nhọc đã được báo đáp, nên xếp là bậc nhất. Lại, buổi đầu giáo hóa, việc thọ nhận chánh pháp, không ai có thể được chọn trước hơn mình, cũng là bậc nhất, vì khéo có thể khuyến khích, dẫn dắt, nuôi dưỡng Thánh chúng. Là người nhận lời khen “Thiện lai!” trước tiên, nên lại là bậc nhất. Vì chỗ quy ngưỡng trong loài người, Già-gia-việt là hơn hết. Trong ánh sáng thì ánh sáng của mặt trời là hơn hết. Trong hàng tinh tú thì trăng là hơn hết. Nơi vạn dòng sông thì biển là hơn hết. Trong bốn Thiên vương thì Thiên vương Đề-đầu-lại là hơn hết. Nơi cõi trời Tam Thập Tam, Thích-đề-hoàn-nhân là hơn hết. Trong sáu cõi trời thuộc Dục giới, Ba-tuần được xem là hơn hết. Nơi mười tám cõi trời thuộc Sắc giới, thì Tịnh Cư là hơn hết. Trong chín mươi sáu bộ Tăng, Tăng chúng của Đức Thích-ca là hơn hết. Nơi chín mươi sáu thứ đạo, Phật đạo là tối thượng. Trong số năm người như Tỳ-kheo A-nhã-câu-lân v.v…, thì Tỳ-kheo ấy là hơn hết. Do đấy nói A-nhã-câu-lân là bậc nhất. * Tỳ-kheo Ưu-đà-di, về việc khuyến khích, dẫn dắt là hơn hết. Tỳ-kheo đều làm công việc khuyến khích, dẫn dắt, sở dĩ gọi là hơn hết, vì Đức Phật sắp trở về hóa độ dân chúng ở quê hương, Tỳ-kheo Ưu-đà-di được Đức Thế Tôn sai hiện thần biến trước tiên, cùng với vua Tịnh Phạn đối đáp, mỗi mỗi đều giải thích, số người được độ trong lần nầy là vô số, nên nói về việc khuyên dẫn là hơn hết. * Tỳ-kheo Ma-ha-đàm, là hạng lợi căn, mẫn tiệp. Các Tỳ-kheo khác đều lậu dứt hết, rồi thành tựu thần thông. Tỳ-kheo nầy thì lậu chưa dứt hết mà đã thành tựu thần thông, nên gọi là bậc nhất. Phàm đi lại nơi hư không đều do thần túc. Tỳ-kheo nầy có thể đi trên không như đi nơi đất, đó là khả năng của Tỳ-kheo Thiện Chửu, nên xưng là bậc nhất. * Thần túc của Tôn giả Mục-liên im lặng đi đến cõi khác. Thần túc của Tỳ-kheo Bà Phá vượt qua hư không, tiếng tăm chấn động xa gần, có thể thâu phục ngoại đạo, nên gọi là bậc nhất. * Tỳ-kheo Ngưu Cước, do hai việc, nên không được ở nơi thế gian. Vì sao? Vì Tỳ-kheo nầy có đôi chân giống như chân bò. Ăn no thì phải nhai lại. Nếu Phạm-chí của ngoại đạo trông thấy Tỳ-kheo đang nhai lại tức cho là Sa-môn ăn uống không có giờ giấc, sinh tâm phỉ báng. Do đấy, Phật sai lên cõi trời, tại giảng đường Thiện Pháp tọa thiền, nhập định. Tỳ-kheo Thiện Giác thường được chúng Tăng cử lên cõi trời. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả Ca-diếp đánh kiền chùy tập hợp toàn bộ chúng Tăng, sai Tôn giả A-na-luật quán khắp thế giới xem ai không vân tập tới. Tôn giả A-na-luật liền quán khắp, chư vị đều đến cả, chỉ có Tỳ-kheo Kiều-tu-hoàn hiện còn ở tại cõi trời. Tôn giả Ca-diếp bèn sai Tỳ-kheo Thiện Giác lên triệu về. Thiện Giác đến cõi trời Ba Mươi Ba, thấy Tỳ-kheo ấy đang nhập định diệt tận tại giảng đường Thiện Pháp, liền búng ngón tay đánh thức, bảo: Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn đã mười bốn ngày, Tôn giả Ca-diếp tập hợp đại chúng, sai tôi lên đây thỉnh thầy về lại thế gian, cùng đại chúng tập hội. Kiều-tu-hoàn nói: Thế gian đã là không, ngã pháp làm sao có? Không chịu trở về thế gian, muốn nhập Niết-bàn, tức đem y bát giao cho Thiện Giác, trở về với chúng Tăng, còn mình thì Bát-Niết-bàn. Do nhân duyên ấy là khéo ở nơi cõi trời, nên gọi là bậc nhất. * Tỳ-kheo Thiện Thắng vốn là con của gia đình quý tộc, lúc mới sinh, tự nhiên có giày vàng mang nơi chân mà sinh. Cha mẹ yêu quý vô cùng, vì con dựng lầu gác hợp ba mùa, kỹ nữ vui chơi không lúc nào rời. Bấy giờ, người vợ ngủ say, Thiện Thắng trông thấy hàm răng trắng, thân hình tuy đẹp nhưng chỉ là xương da. Quán đầy đủ về những thứ lộ rõ mọi xấu ác, thốt nhiên rợn người, quay nhìn lâu đài nhà cửa giống như chốn mộ địa. Kinh hãi chạy ra khỏi cửa, hai vị thần nghinh tiếp. Hỏi hai vị thần: Hiện tại, ai có thể cứu vớt để trừ bỏ ách nạn nầy? Hai vị thần đáp: Chỉ có Đức Thế Tôn là hoàn toàn có thể cứu độ ách nạn. Thiện Thắng hỏi: Đức Thế Tôn hiện đang ở đâu? Đáp: Ở tại Kỳ-hoàn, gần đây thôi, có thể tới đó thưa thỉnh. Cầu tìm ánh sáng nên đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ nơi chân Phật. Đức Thế Tôn nhân nơi bản tâm, vì Thiện Thắng diễn nói pháp diệu, tức thì tâm mở, lậu dứt, kiết tan. Do nhân duyên nầy, nên Tỳ-kheo Thiện Thắng là người quán xét về các chốn hiện rõ sự xấu ác, bậc nhất. * Ưu-lưu-tỳ Ca-diếp sở dĩ được gọi là bậc nhất, vì từ nơi đời trước đến nay, anh em ba người luôn có một ngàn đệ tử cùng theo. Nay gặp Phật Thích-ca-văn xuất hiện ở đời, Đức Phật dùng mười tám thứ thần biến để độ Ca-diếp và ngàn người. Đại chúng của Phật được thành, bốn sự cúng dường cũng từ đây mà hưng thịnh. Theo đấy mà nói, Ưu-lưu-tỳ Ca-diếp có thể sắp xếp, hộ trì việc cúng dường Thánh chúng, là bậc nhất. * Giang Ca-diếp sở dĩ được gọi là bậc nhất, vì khi Đức Phật thuyết pháp, ông luôn nhất tâm lắng nghe, thọ nhận, tinh nghĩa nhập thần, các kiết dứt hết, đức thật bên trong sung mãn, vì thấu triệt phần cốt lõi, nên sự tinh túy hiện ra bên ngoài, giống như đổ mồ hôi. Do đó mà nói, tâm ý vắng lặng, có thể hàng phục các kiết, nên gọi là bậc nhất. * Tỳ-kheo Mã Sư, theo Phật thọ học, mới trải qua bảy ngày liền đạt đủ oai nghi. Sắp vào thành Tỳ-xá-ly khất thực, nơi bên ngoài cửa thành gặp Ưu-ba-đề-xá. Từ xa, Ưu-ba-đề-xá trông thấy Tỳ-kheo Mã Sư oai nghi thư thái, ung dung, pháp phục chỉnh tề, trong tâm rất vui thích. Gặp nhau, Ưu-ba-đề-xá hỏi: Anh là người gì? Đáp: Tôi là Sa-môn. Hỏi: Anh là do tự mình nhận biết, hay có thầy dạy? Đáp: Có thầy dạy. Hỏi: Thầy anh tên là gì, giảng nói pháp như thế nào? Đáp: Thầy tôi tên là Thích-ca-văn, là bậc trời trong các trời, tôn quý bậc nhất trong ba cõi. Chỗ chỉ dạy của Thầy tôi lấy không, giải thoát làm chính. Dứt tâm đạt gốc, nên gọi là Sa-môn. Ưu-ba-đề-xá nghe những diệu ngữ, liền đạt “Dấu vết đạo” (Dự lưu). Đề-xá đồng học với Câu-luật-đà, cả hai vốn có thệ ước: Nếu người nào được pháp cam lồ trước thì cùng báo cho nhau. Đề-xá liền từ giã Mã Sư, đi đến chỗ Câu-luật-đà. Câu-luật-đà thấy bạn tới, sắc diện có vẻ khác thường, ngờ là đã được cam lồ, liền hỏi: Được pháp cam lồ chăng? Đáp: Được rồi. Hỏi: Cam lồ như thế nào? Đáp: Cam lồ là đạt được các pháp không, giải thoát. Câu-luật-đà tư duy, lại đắc “Dấu vết đạo”. Tỳ-kheo Mã Sư sở dĩ có oai nghi bậc nhất, là do trong năm trăm đời trước làm khỉ, vượn, nay được làm người, tánh vẫn còn nóng nảy, vội vã. Xuất gia bảy ngày liền thay đổi tận gốc. Học tuy cạn, ít, nhưng khéo nêu bày giáo pháp tôn quý, khiến kẻ ở trước mình trông thấy thì mặt vui, hiểu đạo, dùng oai nghi để cảm hóa khiến tỏ ngộ, nên xưng là bậc nhất. * Tôn giả Thân Tử (Xá-lợi-phất) sở dĩ xưng là trí tuệ bậc nhất: Vì như Đức Thế Tôn đã nói: Muốn nhận biết trí tuệ của Thân Tử nhiều ít, thì dùng núi Tu-di làm nghiên mài mực, nước của bốn biển lớn làm nước mực để biên chép, dùng gỗ tre trong bốn châu thiên hạ làm bút viết, toàn bộ số người có trong bốn thiên hạ ấy làm thầy viết, nhằm biên chép về trí tuệ của Thân Tử, cũng hãy còn không thể hết, huống chi là hàng phàm phu, hàng năm thông mà có thể lường tính. * Tôn giả Mục-liên sở dĩ gọi là thần túc bậc nhất: Vì Đức Thế Tôn cũng nói có chứng: Ngày trước, vào lúc ba tại họa hoành hành khắp, dân chúng hầu hết bị đói, Tôn giả Mục-liên tâm niệm: Bên dưới mặt đất nầy, từ xưa đã có sẵn một lớp đất mầu mỡ ở giữa. Nay dân chúng đói kém, ý muốn lật ngược mặt đất nầy để lấy lớp đất béo bên dưới, dùng cung cấp nuôi sống cho dân chúng. Suy nghĩ như thế rồi, Tôn giả đến bạch Phật, thưa lại ý định của mình, xin Đức Phật cho phép. Đức Thế Tôn nói: Thôi thôi! Thần túc của Tôn giả tuy có thể lật ngược mặt đất nầy không khó, nhưng trong ấy còn có vô số chúng sinh bé nhỏ. Tôn giả Mục-liên thưa: Con có thể dùng một tay nắm giữ các loài trùng, một tay thì lật ngược mặt đất. Đức Phật bảo: Không thể. Sở dĩ như thế là vì Tỳ-kheo nơi đời sau phần nhiều không có thần túc. Giả như vào đời sau, khi có nạn đói, Quốc vương, các quan, dân chúng nhờ các Sa-môn lật ngược mặt đất, nếu họ không thể làm được, sẽ cho không phải là Sa-môn. Dùng thần túc ấy làm chứng cớ, nên gọi Tôn giả Mục-liên là bậc nhất. * Tỳ-kheo Nhị Thập Ức Nhĩ sở dĩ xưng là khổ hạnh bậc nhất: Vì ngày trước, tại nước Chiêm-ba có vị Đại Trưởng giả sinh được một bé trai, khôi ngôi, tuấn tú, dưới bàn chân có lông dài bốn tấc, chân chưa từng đạp đất. Sở dĩ dưới bàn chân sinh lông như thế là vì về thời quá khứ xa xưa, lúc Đức Phật Ca-diếp xuất thế, đứa bè nầy là một Đại Trưởng giả, tài sản, châu báu vô số, đã vì chúng Tăng xây dựng Tinh xá, giảng đường, xong xuôi thì dùng vải dệt bằng lông mịn trải khắp các phòng, khiến chúng Tăng đi lên trên. Do nhân duyên ấy nên có được phước tướng dưới bàn chân sinh lông. Sở dĩ có tên là Nhị Thập Ức Nhĩ: Là vì lúc sinh ra tự nhiên trong lỗ tai sinh ngọc báu, trị giá hai mươi ức, nên lấy đó đặt tên. Bấy giờ, vua Bình-sa nghe điều kỳ lạ, muốn được trông thấy nên sai sứ cho triệu Ức Nhĩ yết kiến vua. Đường dài, đi xe phải mất mười lăm ngày mới tới, sắp sửa xuống xe, liền có vải dệt bằng lông mịn trải khắp đất, sau đó, Ức Nhĩ đi lên trên. Đã đến cung vua, vua bảo an tọa, hỏa thăm về công việc đi đường, nghe có thể sử dụng đàn, tức lệnh cho Ức Nhĩ đánh đàn. Vui vẻ xong, vua và Ức Nhĩ cùng đến chỗ Đức Phật. Lúc nầy, Đức Thế Tôn đang vì đại chúng diễn nói pháp diệu. Ức Nhĩ thấy Phật, tâm ý hoan hỷ, đầu mặt đảnh lễ nơi chân Phật. Phật cho phép ngồi yên. Ức Nhĩ nghe pháp rất vui thích, liền cầu xuất gia. Phật chấp thuận theo chí hướng ấy, tức làm Sa-môn. Ức Nhĩ tinh tấn dũng mãnh, kinh hành không chút biếng trễ, da thịt như mềm nhũn, bên dưới bàn chân nứt nẻ, máu túa ra, nơi chỗ kinh hành máu đọng thành bùn. Tu tập đã lâu, nhưng lậu vẫn chưa trừ diệt. Tâm sinh biếng, mệt, nên muốn trở về đời sống bạch y. Suy nghĩ: Nhà mình tiền của mặc ý tiêu dùng, rộng làm phước đức cũng tránh khỏi ba đường ác. Đức Thế Tôn nhận biết tâm niệm của Ức Nhĩ, hốt nhiên từ nơi đất vọt lên, hiện ra trước mặt Ức Nhĩ, hỏi: Ông vốn biết đành đàn, vậy lúc chơi đàn các dây đàn thẳng quá hoặc chùng quá thì có thể tạo thành khúc nhạc hay chăng? Ưùc Nhĩ thưa: Không thành. Nếu các dây đàn không thẳng quá, không chùng quá, phím đàn tương hợp thì khúc nhạc hay được thành, âm thanh thánh thót chăng? Đáp: Dạ, đúng vậy. Đức Phật dạy: Hành đạo cũng như thế, không quá gấp vội, cũng không quá chậm chạp, hành xứ theo nẻo giữa, thích hợp, tương ưng thì mới có thể chứng đạo. Ức Nhĩ tư duy về lời Phật dạy, tâm chợt mở bày, tỏ ngộ, liền đắc A-la-hán. Do nhân duyên ấy, nên gọi là khổ hạnh bậc nhất. * Tôn giả A-na-luật sở dĩ xưng là Thiên nhãn bậc nhất: Là do lúc Đức Thế Tôn vì đại hội thuyết pháp, A-na-luật ngồi nơi tòa ngủ say, Phật trông thấy, bảo: Nay, Như Lai giảng nói pháp, ông vì sao lại ngủ như thế? Phàm là người ham ngủ nghỉ, tâm ý bị bít lấp, so với kẻ chết đâu có khác gì! A-na-luật xấu hổ, ghi sâu vào tâm, tự thệ: Từ nay về sau quyết không dám ngủ nghỉ nữa. Quá lâu không ngủ, nên mắt liền mất ánh sáng. Sở dĩ như thế là vì, gồm có sáu thức “ăn”, thì mắt đã có hai: Một là trông thấy sắc, hai là ngủ nghỉ. Năm căn còn lại cũng đều có hai thức ăn. Được ăn thì sáu căn mới bảo toàn. Do mắt mất thức ăn là ngủ nghỉ, nên mất nhãn căn. Phật sai Kỳ-vực chữa trị cho A-na-luật. Kỳ-vực nói với A-na-luật: Không ngủ thì không thể chữa trị. Đã mất nhục nhãn thì không còn có thể thấy trở lại được. Năm trăm đệ tử đều bỏ đi tứ tản. Phải nhờ người xỏ kim, sờ soạng, mò mẫn để vá y, chỉ hết, phải xỏ kim lần nữa, không người để nhờ, A-na-luật gọi lớn cho xa gần có thể nghe: Ai muốn cầu phước, nên giúp ta xỏ kim. Đức Thế Tôn bỗng dưng hiện đến trước A-na-luật, nói: Tôi xỏ kim giúp thầy. Hỏi: Thầy là ai? Đáp: Tôi là Phật. Hỏi: Phật, phước đức đã đủ, lại còn muốn cầu phước chăng? Đáp: Phước đức mà có thể chán sao? A-na-luật suy nghĩ: Phật hãy còn cầu phước, huống chi là đối với người thường. Trong tâm cảm kết, vội hướng về phía Phật để nhìn, do chí tâm nên hốt nhiên chứng đắc thiên nhãn. Do đắc thiên nhãn, lại tư duy thêm, liền đắc A-la-hán. Phàm là A-la-hán đều có ba thứ mắt: Nhục nhãn, Thiên nhãn và Tuệ nhãn. A-na-luật hiện có hai thứ mắt là Tuệ nhãn, Thiên nhãn. Ba mắt cùng trông, thì loạn giữa nhục nhãn, thiên nhãn, tạo sự tranh công. Loạn là tinh thô cùng quán lẫn lộn. A-na-luật chuyên dùng thiên nhãn, quán khắp đại thiên thế giới, tinh thô đều thấy, hình riêng trong chất, có thức, không thức, thảy đều nhận biết rõ. Đối tượng nhận biết là hàng trời, người, hoặc có tịnh, chẳng tịnh. Quán cực tịnh: Thấy trong thế giới, các loài hữu tình, có thức, không thức, thấy đều cử động, nghi cho là loài trùng, nhưng không phải là loài trùng. Quán chẳng tịnh: Thấy hạt cơm lay động, đều cho là loài trùng. Chỗ khác nhau của hơn kém đã có từ đấy. Do đó mà nói Tôn giả A-na-luật là thiên nhãn bậc nhất. * Tỳ-kheo Ly-việt ngồi thiền nhập định, sở dĩ xưng là bậc nhất: Vì ngày trước, Tôn giả được vua Ba-tư-nặc cung thỉnh vào cung thọ thực, sau đấy thì Tôn giả tọa thiền dưới một bóng cây, trải qua sáu năm không dời đổi. Đang muốn dời sang bên cội cây khác, nhưng Thần cây không đồng ý. Lấy gì để chứng nghiệm? Lúc sắp sửa dời, Thần cây liền tung rải hoa cúng dường. Lấy đó làm chứng nghiệm để biết là Thần cây không đồng ý. Do đâu biết được ý của Tôn giả kia không có niệm khác? Bấy giờ, Tôn giả Câu-hy-la đi tới chỗ Tôn giả Ly-việt, nói: Sao thầy không ngồi bên cội cây tươi tốt, lại ngồi bên cội cây khô nầy? Đáp: Gọi là người đạt bốn biện tài bậc nhất, có thể phân biệt pháp nghĩa cùng do ứng từ. Không rõ phân biệt về cây khô là ở trong biện tài nào? Tôi từ tọa thiền ở đây đến nay vừa đúng sáu năm, không có phân biệt khô, tươi. Tôn giả mới tới mà liền phân biệt chăng? Vua thỉnh vào cung ngày ngày cúng dường, sai các phu nhân đều tự trông coi công việc ấy. Sáu năm đã đủ, liền thực hành bố thí, phân phát khắp. Lúc nhận được vật cúng dường, không biết tên của chủ nhân. Vua nói: Sáu năm thọ thỉnh, không biết tên người cúng dường, định gì mới như thế? Tôn giả đáp: Tôi tọa thiền bên cội cây, hãy còn không biết cây khô, tươi, huống hồ là biết tên người. Phước của sự cúng dường thiền định, đức ấy là hết sức tinh thuần. Tùy theo sở nguyện của vua, có thể đạt đến Niết-bàn, là phước điền tốt đẹp, do đó gọi là vui thích thiền bậc nhất. * Tỳ-kheo Tha-la-bà-ma, khuyên nên thuận theo việc đã làm để lập Trai giảng. Phật giao trông coi công việc của chúng Tăng, đã phân bộ thích hợp. Người chuyên về Khế kinh với Khế kinh làm một xứ. Người chuyên về Tỳ-ni với Tỳ-ni làm một xứ. Đại pháp (Luận) với Đại pháp làm một xứ. Tọa thiền với tọa thiền làm một xứ. Cao tòa với cao tòa làm một xứ. Khất thực với khất thực làm một xứ. Giáo hóa với giáo hóa làm một xứ. Tùy việc nơi bộ phận đều khiến cùng theo. Nếu có Đàn-việt đến thỉnh thì theo thứ lớp sai đi, không hỏi cao thấp. Hoặc có thỉnh riêng thì không cho phép ở đây cử đi. Lúc nầy, Đàn-việt thỉnh hết, nhóm Tỳ-kheo “Lục quần” theo thứ lớp, gặp phải nhà nghèo, nên ôm giận trở về, hướng tới Phật tả oán: Ma-la xem thường mọi người, tự nhận nơi tốt, bỏ lại toàn nhà nghèo, há là bình đẳng chăng? Phật cho gọi Ma-la, hỏi: Thầy thật có như vậy không? Đáp: Dạ không. Khi ấy, Ma-la không ăn, chờ cho mặt trời qua khỏi giờ ngọ, liền hòa phân bò uống, xem như vừa thọ trai, nghe các vị “Lục quần” nói, không muốn tự biện bạch, liền tới trước Đức Thế Tôn, nôn ra hết thứ nước phân ấy. Đám Lục quần hổ thẹn, hai người cảm kết, lậu dứt sạch, hai người trở về làm bạch y, hai người từ các lỗ trên mặt túa ra máu nóng, mạng chung, bị đọa nơi A-tỳ. Trai giảng: Là các bộ chúng tập hợp thọ trai gồm luôn việc hành tập thích ứng, khéo có thể khuyên thành, nên gọi là bậc nhất. Tiểu-đà-la-bà: Là chủ lập phòng ốc, dấy khởi Tăng-chiêu-đề (Tăng bốn phương), công sức cùng thành, không nêu riêng ra nữa. * Tỳ-kheo Lại-trá-bà-la, sở dĩ xưng là hào quý, vì thuộc chủng tộc vương giả, là người thông sáng, hiểu biết rộng, từ trẻ đã ham học hỏi, nghe Đức Phật xuất hiện ở đời giáo hóa kẻ ngu tối, liền đi đến Tinh xá Kỳ-hoàn, nghe nhận lời pháp, giáo nghĩa nhập thần, suy xét muốn xuất gia, trở về nhà thưa cha mẹ. Cha mẹ không đồng ý, tâm tự nghĩ ngợi: Hết thảy chúng sinh đều là cha mẹ, đâu chỉ riêng là hai vị nầy. Nghĩ rồi liền đến chỗ Phật, cầu làm Sa-môn. Đức Phật hỏi: Cha mẹ đã cho phép chưa? Đáp: Không cho phép. Anh làm Quốc vương, lại chỗ anh thưa xin tu đạo. Anh cũng không thuận. Tâm lại suy nghĩ: Nên tạo phương tiện để xuất gia học đạo. Cha mẹ hiện chỉ một người con, không muốn lìa con nửa bước. Trong chốt lát, Lại-trá-bà-la bảo người nhà đặt chiếc giường hẹp phía trước cha mẹ, rồi ngồi yên ở đấy, không uống chẳng ăn, trải qua sáu ngày. Cha mẹ hoảng sợ, e đứa con mình sẽ chết mất. Nếu đứa con nầy chết thì chẳng được việc gì cả! Nên cho phép nó xuất gia học đạo còn hơn. Lại dặn con: Xuất gia rồi, con nên thường xuyên trở về thăm cha mẹ. Cha mẹ đã đồng ý, Lại-trá-bà-la vội đi tới chỗ Phật. Hỏi: Cha mẹ đã cho phép chăng? Đáp: Đã chấp thuận. Đức Phật bảo: “Thiện lai Tỳ-kheo!” và đưa tay xoa lên đầu, râu tóc tự rụng, như người đã cạo tóc được bảy ngày. Cà-sa mặc vào thân, liền thành Sa-môn. Đức Thế Tôn vì Lại-trá-bà-la giảng nói về bốn Đế, liền thành A-la-hán. Do mong muốn của cha mẹ, nên liền trở về nhà, mặc y cầm bát, đứng phía trước cửa. Lúc ấy, người hầu nữ đang vo gạo, sắp sửa đổ nước đã vo xong, Lại-trá-bà-la đưa bát ra xin, người nữ ngước đầu lên nhìn, biết là gia chủ, liền vào nhà báo cho mọi người biết. Cha mẹ rất vui mừng, xem kỹ lại con mình, đúng là đã làm người tốt, liền ra đón vào nhà, bày biện mâm cỗ thịnh soạn. Lại-trá-bà-la nói: Giờ ăn đã quá, đúng pháp là không được ăn. Cha mẹ nói: Hôm nay đã thế rồi, ngày mai con nên đến sớm. Lại-trá-bà-la liền trở về trụ xứ. Người con đi rồi, cha mẹ dặn kỹ mấy người nữ: Sáng mai, Lại-trá-bà-la sẽ đến, các chị phải tự trang điểm, mặc y phục đẹp đẽ, có thể khiến con trai ta trở về làm người bạch y, đối với các chị là phước lớn. Lại sai kẻ giữ kho xuất các thứ châu báu, bảy báu như vàng bạc v.v…, mỗi mỗi thứ đều để thành từng nhóm riêng, muốn cho tâm ý của người con động nhiễm trở lại nơi thế tục. Hôm sau, vào giờ ăn, Lại-trá-bà-la mặc y cầm bát trở về nhà cũ, an tọa nơi tòa ngồi, xong xuôi, các người nữ, kẻ hầu, ai cũng xinh tươi vui vẻ, hoặc tung rải hoa hương, hoặc rũ áo, khua giày. Bà-la bảo: Các em đâu đủ để thành phiền não! Những người nữ suy nghĩ: Xem chúng ta là em tức sẽ không có lý trở về. Bà-la nói với cha mẹ: Dùng các thứ vật báu nầy làm gì? Chúng chỉ khiến con người bị mê hoặc, do đấy dẫn tới tai họa, sao không đem vất bỏ nơi núi, đầm. Cha mẹ can ngăn: Đạo đức tại tâm, hà tất phải xuất gia. Trưởng giả Chất-đa, cũng là tại gia đắc đạo đấy thôi. Bà-la nói: Chưa hề nghe nói tại gia đạt được lậu tận. Chỗ chứng đắc của Trưởng giả Chất-đa chỉ do có một phần đời là tại gia, đâu đủ để cho là quý. Lại-trá-bà-la tuy ở nơi gia đình hào quý, châu báu đầy dẫy, nhưng đều từ bỏ, nên gọi là quyết chí xuất gia bậc nhất. * Tôn giả Ca-chiên-diên, sở dĩ gọi là khéo phân biệt nghĩa: Vì thường khi chuẩn bị soạn tập giáo pháp, trong tâm luôn nghĩ: Nhân gian quen với sự ồn ào, không chuyên tinh tấn tư duy, nên ẩn thân trong lòng đất bảy ngày, soạn tập Đại pháp, xong thì trình lên Phật. Phật khen: Lành thay! Được bậc Thánh đồng ý cho làm một Tạng. Nghĩa ấy vi diệu, có thể hàng phục ngoại đạo, nên gọi là bậc nhất. Lại nữa, xưng là bậc nhất: Vì Đức Thế Tôn lúc ấy đi tới nước Thích-sí, an tọa bên một cội cây. Phạm-chí Chấp Nhất Trượng cùng với các người họ Thích đến xem Phật. Phạm-chí nói: Trước đây, ông đã bỏ, không nhận con gái tôi, thuộc loại có nhan sắc hơn hết. Nay thì ý thế nào? Đức Phật đáp: Ý không vướng mắc thế gian, không nhiễm nơi tục. Phạm-chí nói: Lành thay! Ra vẻ nhận hiểu rồi trở về. Sau đấy, các Tỳ-kheo không hiểu lời Phật nói, nên hỏi Tôn giả Ca-chiên-diên: Đức Thế Tôn gọi thầy là biện tài nắm lý, hiểu nghĩa bậc nhất. Đức Thế Tôn đã đáp lại Phạm-chí, nói không nhiễm không vướng, nghĩa ấy là thế nào? Tôn giả Ca-chiên-diên giải thích: Các Tỳ-kheo nên biết! Mắt duyên nơi sắc khởi thọ, duyên nơi thọ khởi tưởng, duyên nơi tưởng qua lại, sinh thức phân biệt khởi tâm nhiễm vướng. Đức Thế Tôn đối với sự nhiễm vướng ấy đã vĩnh viễn lìa bỏ. Các Tỳ-kheo nghe giảng nói như thế, ý cũng vui vẻ. Tôn giả Ca-chiên-diên quán ý của các Tỳ-kheo, biết là chưa hiểu rõ, liền dẫn dụ nói: Có người đối với chỗ nhiễm vướng ấy, muốn cầu tìm được vật bền chắc, lại bỏ gốc rễ mà lấy lá cành, thì có được vật bền chắc chăng? Đáp: Không được. Tôn giả Ca-chiên-diên nói: Các thầy cũng như thế. Đức Phật ở gần đây, lại không đến thưa hỏi, há chẳng phải là bỏ gốc lấy ngọn sao? Các Tỳ-kheo liền đến thưa hỏi Phật, nói lại những lời giải thích của Tôn giả Ca-chiên-diên, như vậy là có xét kỹ, đúng lý chăng? Đức Phật nói: Đúng như những điều Tôn giả Ca-chiên-diên đã giải thích. Do nhân duyên ấy nên lại gọi là bậc nhất. * Tôn giả Quân-đầu-ba-thán sở dĩ xưng là hành trù bậc nhất: Vì phàm là người hành trù phải ghi chép số lượng người, nhận biết họ là thành thật hay không. Thọ nhận “Trù” thì được phước, thọ nhận giả dối thì tội chứa càng lớn. Chữ Hán gọi là Trù, Thiên Trúc gọi là Xá-la. Xá-la cũng gọi là hoại tận. Phước tức tội hết. Tội tức phước hết. Lấy gì để nhận biết về điều ấy? Chuyện kể, Trưởng giả A-nan-bân-nậu gả con gái về làm dâu ở nước Ni-kiền, đã đến hỏi Đức Phật việc ấy nên chăng. Đức Phật bảo: Nên biết là đúng lúc. Về xứ ấy tất có ích. Người nữ đã về nhà chồng, từ xa vọng thỉnh Đức Thế Tôn. Đức Phật nhận biết ý nguyện ấy nên im lặng nhận lời, bảo Tôn giả A-nan: Sáng mai ông sẽ thọ thỉnh của Thích-ma-nam. Rồi sai người đánh kiền chùy, tập hợp chúng, hành thần thông. Xá-la luôn là Thượng tọa. Quân-đầu-ba-thán chưa được thần thông, nghe thỉnh hành trù, tự khinh chê mình chưa chứng đắc thần túc, ngắm nhìm, suy xét về hình ảnh đứng đầu các tòa, giống như loài chồn hoang già nơi núi Tử Kim, tiến lui lưỡng lự. Đang muốn nhận “Trù” không theo thông lệ. Đang muốn không nhận sự việc chiếm làm Thượng tọa. Sa-di tám tuổi hãy còn đắc thần thông, công sức tích lũy bao năm mà chẳng đạt được gì cả! Tính nghĩ như thế, thì nên làm những gì? Cảm kết việc nhận “Trù”, thời gian trở lại trao, hốt nhiên lậu dứt hết. Nếu do giả dối nhận “Trù”, thì nơi thân người có chín mươi vạn lỗ chân lông, dùng số ấy làm số lượng, cũng không nhận được số lượng như thế về thân người. Nếu do tinh thành thọ nhận, tức có thể chứng đắc lậu tận. Do Thượng tọa nầy có thể là minh chứng. Sở dĩ lại làm Thượng tọa, là do khéo có thể thuyết pháp thích hợp với nhiều người, được đại chúng suy cử làm Thượng tọa. Do nhân duyên ấy, nên gọi là Thượng tọa thọ trù bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tôn giả Tân-đầu-lô là hay hàng phục ngoại đạo, vì như chuyện kể: Trong thành Tỳ-xá-ly có Trưởng giả Chất-đa thường hay lo lắng vì đám Lục sư cao ngạo, tự đại, nói: Sa-môn Cù-đàm tự xưng là tôn quý, nên cùng với chúng ta thi đấu về tài năng. Nếu ông ấy hiện ra một, ta sẽ hiện ra hai, như thế chuyển tăng đến ba mươi hai. Bấy giờ, Trưởng giả thỉnh khắp chúng Tăng trong ngoài để cúng dường xong, lại dựng một cột cờ lớn, cao bốn trượng chín thước, đặt bát Chiên-đàn trên ấy, sai người xướng: Ai có thể đưa tay lấy bát nầy, tức được tôn xưng là bậc nhất. Lúc nầy, Tôn giả Tân-đầu-lô tự suy niệm: Nay nên hiện thần túc, khiến cho đám Lục sư được hàng phục phải im miệng. Lại nghĩ: Đức Thế Tôn thường khuyên dạy các đệ tử không được hiện bày thần túc. Nếu hôm nay không hiện bày thì e là đám Lục sư kia vĩnh viễn chỉ mắc tội. Còn nếu hiện thì sợ trái với lời dạy của Đức Thế Tôn. Do dự một hồi, liền hiện thần túc, duỗi cánh tay lên cao lấy chiếc bát Chiên-đàn, rồi vụt lên hư không, bay quanh thành bảy vòng, trở lại nơi tòa ngồi, nói với các Phạm-chí: Xin các vị lại hiện ra gấp hai. Đám Lục sư im lặng. Khi đó, tướng quân Đại quỷ tên là Bán Sư bảo đám Lục sư: Hiện gấp đi! Đồ chúng của đám Lục sư hiện có không biết nên nhóm họp ở đâu. Theo đấy mà nói, nên biết Tôn giả Tân-đầu-lô hàng phục ngoại đạo là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Sấm là người hay thăm bệnh bậc nhất: Vì bấy giờ tại Tinh xá Kỳ-hoàn có một Tỳ-kheo bị bệnh nặng khổ sở. Do nằm dài trên giường nệm lâu ngày, nên bên dưới sống lưng của Tỳ-kheo bệnh thịt rữa, có giòi bọ, đau nhức khiến rên rỉ cả ngày. Đức Phật cùng các Tỳ-kheo lần lượt đi tới các phòng xá, thấy Tỳ-kheo nầy bệnh nặng như vậy. Đức Thế Tôn hỏi: Có người đến thăm bệnh ông chăng? Đáp: Không có. Lại hỏi: Ông lúc trước có thường đi thăm các Tỳ-kheo bị bệnh không? Đáp: Không. Phật bảo: Ông không đi thăm người khác bị bệnh, vì sao lại mong người khác tới thăm bệnh mình? Khi ấy, Đức Như Lai vén y Tăng-già-lê, tự tay xoa nắn trên người Tỳ-kheo bệnh, rồi lại rửa lau, giặt giũ. Thiên Đế-thích liền hiện đến trợ giúp. Đức Thế Tôn chăm sóc người bệnh, Tỳ-kheo bị bệnh nầy nhờ ân đức của Phật nên bệnh được dứt trừ. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay trở về sau, nếu có người bệnh, phải cùng thăm hỏi, chăm sóc lẫn nhau. Đức Thế Tôn lại nhìn khắp các Tỳ-kheo, nói: Ai là người thường có thể thăm hỏi, chăm sóc người bệnh? Chỉ có Tỳ-kheo Sấm là hay làm công việc ấy. Tỳ-kheo Sấm thường dùng năm sự để thăm hỏi chăm sóc người bệnh. Đó là: Phân biệt các loại thuốc hay, cũng không biếng trễ, trước đứng sau nằm, thường vui vẻ chuyện trò, ít khi ngủ nghỉ. Dùng pháp cúng dường, không tham ăn uống, có thể kham nhận việc giảng nói pháp cho người bệnh. Đấy gọi là Tỳ-kheo Sấm dùng năm pháp ấy để thăm viếng, chăm sóc những người bệnh, chưa từng có Tỳ-kheo bệnh nào không thuyên giảm. Sở dĩ như thế là vì Tỳ-kheo Sấm trong vô số đời trước, từng năm trăm đời làm thầy thuốc, thông hiểu về phương dược, nghe tiếng nói, xem sắc diện là nhận biết căn nguyên của bệnh, lại dùng bốn sự để hết lòng nuôi chữa kẻ bệnh. Do nhân duyên ấy, nên gọi Tỳ-kheo Sấm là người hết lòng với người bệnh bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bằng-kỳ-xa là người có khả năng tạo ra kệ tụng: Là vì Tỳ-kheo nầy, lúc trước là con của một Trưởng giả, thường được hàng người, trời tài ba, thông sáng dẫn dạy, tiếp xúc vật, tán tụng. Bấy giờ, xuất hành dạo chơi, gặp một cô gái nhiều tài năng, dung nhan đẹp đẽ, thế gian ít có. Bằng-kỳ-xa trông thấy, tâm ý vui thích liền muốn thâu nạp, bèn trở về nhà thưa với cha mẹ về ý định của mình. Cha mẹ không thuận, bảo: Tộc họ của con là thế nào, sao lại đổi chí hướng, hủy bỏ gia phong của người trước? Tâm ý của người con đã quyết nên thưa lần nữa: Nếu không vì con cưới cô ấy làm vợ thì con không thể sống ở đời. Cha mẹ thấy con nói như vậy thì lại không nhẫn tâm trách cứ, ngăn cản, liền bảo: Tùy ý của con, cha mẹ coi như không biết tới. Bằng-kỳ-xa liền tự sai người cùng báo cho phía cô gái biết. Cô gái thuộc chủng tánh nhiều tài nghệ nên chỉ chú trọng về khía cạnh nầy, liền đáp lại với người được sai tới, nói: Tôi không tham của cải của ông ấy, chỉ ưng thuận khi gồm đủ các thứ tài nghệ thôi. Bằng-kỳ-xa nghe thưa lại như thế, tức thì tìm đến chỗ thầy dạy để học. Không đầy mấy tuần, các nghề đã gồm đủ. Lại sai người báo tin: Việc học đã đầy đủ, nên có thể ban ơn cho nhau. Chủ nhân đáp: Nếu tài nghệ đã gồm đủ thì nên đi tới cung vua để thi thố hơn kém. Lúc nầy, đang là chánh tiết, vua tập hợp đủ khắp các người tài nghệ để tỉ thí xem ai thắng, thua. Nếu hơn hết, thì được vua ban cho ngàn lượng vàng. Vua cũng nghe tiếng cô gái xinh đẹp, nhiều tài nghệ ấy, và muốn thâu nạp vào nội cung. Pháp tỉ thí về tài nghệ, thì leo lên cột cờ là hơn hết, nên cho dựng cột cờ cao bốn trượng chín thước, bên dưới đặt đao kiếm, mũi nhọn đều hướng lên trên, khoảng cách chỉ vừa đủ để chân vào. Khi đó, Bằng-kỳ-xa leo lên cột cờ đã tới đỉnh, quay bảy vòng, liền trở lui, lao người xuống khoảng đất trống. Vua sợ mất cô gái, nên giả vờ bảo là không thấy. Mọi người đều khen: Rất giỏi, nhưng vua vẫn bảo là không thấy. Nếu xét kỹ để được cho là giỏi, lại phải thực hiện lần nữa. Bằng-kỳ-xa suy nghĩ: Nếu lần nầy ta không thuận theo lệnh vua, tất sẽ mất người nữ ấy. Tình phải quyết đạt được. Bằng-kỳ-xa liều chết leo lên lần nữa, đã tới đầu cột cờ, ngắm nhìn thấy gương mặt người nữ, tâm tự suy nghĩ: Sao kẻ ấy có vẻ điềm nhiên đối với ta đang khốn khổ như vầy? Tâm sợ thân run, e chẳng tự bảo toàn. Người nữ giả dối đâu cần công việc nầy. Đức Phật nhận biết Bằng-kỳ-xa tất có thể tế độ, nếu không cứu giúp sẽ rơi vào ba đường dữ. Liền bảo Tôn giả Mục-liên: Tôn giả nên dùng thần túc cứu độ ách nạn kia. Tôn giả Mục-liên vâng theo lời dạy, tức thì đi đến nơi, hiện thần biến, ở trong hư không ngồi kiết già, lại tại bên dưới cột cờ, hiện ra bậc thang bằng bảy báu, người khác không thấy, chỉ riêng Bằng-kỳ-xa thấy rõ, nên thong thả theo bậc thang gồm bảy vòng đi xuống, được thần lực tiếp dẫn, trong an ngoài hiểu. Vua cùng với mọi người đều cho là kỳ lạ. Vua tự tay dẫn người nữ giao cho Bằng-kỳ-xa. Chàng nói: Không dùng vật dối trá nầy, vì chỉ lừa gạt người đời mê lầm cho là trong thật. Nước mất nhà tan không gì là không do đấy. Liền tìm Tôn giả Mục-liên và cùng đi đến chỗ Phật. Đức Thế Tôn nhìn Bằng-kỳ-xa, nói: Thiện lai, Tỳ-kheo! Thế là thành Sa-môn, lại vì Bằng-kỳ thuyết giảng về bốn đế, tức chứng đắc Ứng chân (A-la-hán). Trong lòng vui vẻ phát khởi mà hiện ra thành lời, bèn làm tụng kệ tán thán Đức Thế Tôn: Ngày mười lăm thanh tịnh Năm trăm Tỳ-kheo hợp Đã đoạn các kiết sử Tiên nhân không thọ tập. Cũng như Chuyển luân vương Trăm quan đều vây quanh Bốn biển cùng đại địa Nắm giữ không hiện bày Hàng phục người như thế Đạo sư không gì hơn Dẫn giúp các Thanh-văn Ba minh trừ tánh kiết. Tất cả con Thế Tôn Không có nhiễm trần cấu Đã phá lưới ái dục Nay lễ trăng trong sao. Do nhân duyên ấy, nên gọi Bằng-kỳ-xa là người có thể tạo ra kệ tụng tán thán công đức của Như Lai, là bậc nhất. * Sở dĩ xưng Tôn giả Câu-hy-la là bốn biện tài bậc nhất: Vì phàm là Thanh-văn bốn biện tài bất tất gồm đủ. Hoặc có pháp biện nhưng không có nghĩa biện. Hoặc có nghĩa biện mà không có pháp biện. Hoặc có ứng biện nhưng không có từ biện. Hoặc có từ biện mà không có ứng biện. Tôn giả Câu-hy-la đều có đủ bốn biện ấy. Tôn giả Xá-lợi-phất, Ca-chiên-diên cũng có đủ bốn biện, sở dĩ không xưng là hơn hết, vì Tôn giả Thân Tử đã lấy trí tuệ làm chính, Tôn giả Ca-chiên-diên đã lấy việc soạn tập làm chính, nên hai vị đều không xưng về bốn biện tài. Tuy có bốn biện tài, nhưng cũng không bằng Tôn giả Câu-hy-la. Tôn giả chỉ biện giải về nghĩa của một câu, bảy ngày không hết, huống chi là bốn biện, há có thể lường tính được sao! Do sự việc ấy, nên Tôn giả Câu-hy-la được xưng là bốn biện tài bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nan-đề là khất thực bậc nhất: Vì các Tỳ-kheo khác tuy cũng khất thực, nhưng hoặc không đủ giới, hoặc có tâm tham, hoặc hay nhìn ngắm hai bên, tâm không chuyên nhất, hoặc tránh lạnh nóng, còn Tỳ-kheo Nan-đề thì lúc đang khất thực đều không có các sự việc ấy. Khất thực đã tinh, người dâng cúng được nhiều phước. Nay nên dẫn dụ để so sánh lớn nhỏ. Có người hỏi về phép bắn tên: Một người đứng cách trăm bước bắn vào sợi lông treo cao. Một người bắn vào đất khiến bụi bốc lên, trường hợp nào là khó? Đáp: Bắn vào sợi lông treo cao là khó, tuy bắn mà không đến nơi đất. Còn trường hợp sau thì không cần nói thêm. Hoặc thí cho khất thực, hoặc thí cho chúng Tăng, trường hợp nào là lớn? Hoặc là thí đích thực nơi A-luyện-nhã? Trong dụ, bắn vào sợi lông treo cao là chỉ cho thí không được thật, là dụ cho bắn vào hư không, sự việc tuy khó, nhưng có được có mất. Tên găm vào đất là dụ cho thí chúng Tăng. Bắn vào sợi lông treo cao tuy tinh, nhưng số bị mất là nhiều. Bắn vào đất tuy dễ nhưng chưa từng mất đất. Đất của phước điền dày nên không tăng giảm. A-luyện-nhã có tinh thô nên có được mất. Tôn giả Nan-đề được tinh nên gọi là bậc nhất. * Sở dĩ xưng Tỳ-kheo Thí-la là “Một tọa một thực”, vì đây là một hạnh Đầu-đà. Phàm là pháp của A-luyện-nhã, tức hoặc khất thực, hoặc tọa thiền bên gốc cây, hoặc ở riêng một mình nơi vắng lặng. Nay “Một tọa một thực” nầy, là từ sáng sớm thức dậy đến giữa ngày, nếu Đàn-việt thí thực, thì không hỏi nhiều ít, chỉ ở nơi một xứ, tọa thực mà thôi. Nếu ăn chưa no, nhưng chỗ ngồi chưa dời thì có thể ăn lần nữa. Nếu đã đứng dậy, thì không được ăn trở lại. Luôn ở nơi một xứ thọ thực mà không lìa bỏ, nên gọi thí là là bậc nhất. * Sở dĩ nói Tỳ-kheo Kim-tỳ-la thường đi đến bảy nhà để khất thực, không được quá bảy, nguyên do của sự việc ấy là vì đã lập thệ giới hạn nơi bảy. Lúc khất thực, muốn dùng phước để hóa độ chúng sinh, nên chuyên tâm niệm đạo, không có tưởng tham. Nếu được thức ăn ngon dở, không lấy đó để thêm, bớt. Theo thứ lớp khất thực không có lựa chọn nghèo giàu. Nếu khi ở một nhà, hai nhà được thức ăn, lại có người bố thí, đã đủ thì dừng, không đủ mới nhận. Nếu đến bảy nhà, không được thức ăn, thì nên trở về trụ xứ, tư duy hành đạo, không nghĩ ngày hôm sau nên đến nhà nầy, không nên đến nhà kia, đều không có tưởng phân biệt, nên gọi là Sa-môn bảy nhà. Trở về thì tĩnh tọa, thâu giữ tâm nơi đạo, nên xưng Kim-tỳ-la nơi bảy nhà khất thực là bậc nhất. * Tỳ-kheo Kiên Lao, do thường cư trú nơi chốn núi, đầm vắng lặng để hành đạo. Tỳ-kheo Nan-đề thường dùng việc khất thực, nhẫn nại để hành đạo. Tỳ-kheo Kim-tỳ-la dùng việc khất thực bảy nhà để hành đạo. Thí-la dùng một xứ thực để hành đạo, mười hai hạnh Đầu-đà đều chọn lấy một hạnh. * Tỳ-kheo Phù-di nhận giữ ba y, ăn, ngủ không lìa. Hoặc nói: Tạo ra ba y, là do ba lượt chuyển pháp luân, hoặc cho là ba đời, hoặc nói là ba thời (mùa), nên đặt ra ba y. Mùa đông thì mặc dày, nặng, mùa hạ thì mặc nhẹ, mùa xuân thu thì mặc trung bình, đó là ba mùa, nên đủ ba y. Dày là năm điều, vừa là bảy điều, mỏng là mười lăm điều. Nếu là mùa lạnh dữ thì mặc ba y chồng lên nhau, có thể ngăn lạnh. Hoặc nói: Cũng do các thứ ruồi, muỗi v.v… nên chế ra ba y. Do duyên ấy, nên thường nhận giữ không quên. Vì thế gọi là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-sai là tọa thiền nơi khoảng đất trống bậc nhất: Vì lúc còn tại gia thường cho gia đình là mối lo. Xuất gia cầu đạo luôn an tọa nơi khoảng đất trống. Nếu vào phòng ốc thì luôn khổ vì hơi thở như bị chận lại, giống như bịt miệng. Do đấy luôn cầu được ngồi nơi khoảng đất trống, tư duy hành đạo. Sau đó thân thể điều hòa, hơi thở thông suốt, hành đạo không trở ngại. Do nhân duyên ấy, nên gọi Tỳ-kheo Bà Sai là tọa thiền nơi khoảng đất trống bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tôn giả Ly-việt thường ở bên cội cây: Là vì tại địa phàm phu muốn cầu thiền định, ở tại bên gốc cây, nương dựa nhằm buộc giữ tâm ý, để dứt trừ kiết phược. Các Tỳ-kheo khác cũng tọa thiền cạnh gốc cây, sở dĩ không gọi như thế là do họ không thể một lần nghe mà tự chuyên tâm tư duy. Tỳ-kheo nầy một lần nghe Phật chỉ dạy, liền có thể thực hành, chuyên ý không rời, sáu năm dứt hết kiết. Trước Tôn giả Ly-việt, nhiều vị thích thiền định du hành, đi dừng không khác, nhưng vui thích việc hành tập thì khác, nên đều gọi là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Đà-đa-sách là vui thích không: Vì Tỳ-kheo nầy vào phòng thì hiểu nội không, ra khỏi phòng thì hiểu ngoại không. Nội không dụ cho thức, ngoại không dụ cho thân. Vào phòng thấu tỏ thức không. Ra khỏi phòng hiểu rõ thân không. Đã hiểu rõ nội ngoại không thì các pháp cũng như thế. Tỳ-kheo nầy nghe nói về giáo pháp không, liền thâu giữ vào trong tâm. Vào phòng thấy không tức thấu đạt về thân thức. Các Tỳ-kheo khác, kiết dứt hết, sau đấy mới đạt không. Tâm không khó đạt, quý ở chỗ được trước, nên xưng là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ni-bà dùng y Ngũ nạp là hơn hết: Vì Tỳ-kheo nầy quán thân với ba mươi sáu vật uế lậu, không thể tham chuộng, chán ghét thân nầy nên cho là do vật hèn kém tự làm chướng ngại. Hoặc nói: Phàm là y, có thứ có thể gần gũi, có thứ không thể gần gũi. Thế nào là có thể gần gũi? Mặc y xấu cũ khiến người xấu hổ, tự thẹn, là có thể gần gũi. Mặc y tốt đẹp khiến người tự đại cho là đẹp, nhã, là không thể gần gũi. Y xấu hổ trợ việc hành đạo, do đấy mặc y Ngũ nạp. Tỳ-kheo nầy khéo có thể trong ngoài cùng đối chiếu, nên gọi là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-đa-la thường vui thích tọa thiền nơi nghĩa địa: Vì Tỳ-kheo nầy là đệ tử của Tôn giả A-nan, đắc đạo trước thầy, tâm tự suy nghĩ: Thân nầy lưu chuyển, không chốn nào là không lui tới. Lúc tại cõi trời, ăn mặc, cỡi xe tự nhiên, nay nên xả bỏ. Hoặc ở nơi nhân gian làm Chuyển luân Thánh vương, bảy báu cùng theo, cũng lại là quá khứ. Hoặc ở nơi súc sinh luôn phải ăn cỏ gai, đây cũng là quá khứ. Hoặc ở chốn ngạ quỷ, nước đồng sôi là thức ăn. Hoặc ở nơi địa ngục, đao kiếm luôn đối diện. Các tội hình ấy đều do nghiệp tạo từ quá khứ. Nay được làm thân người, ngang với phần nầy là đủ hết. Xưa nay, chỗ đáng quý đều là từ bỏ hình tướng sắc huyễn của mọi vật, không một thứ gì đáng để tham luyến, đều nên dứt bỏ, tức nên trụ nơi nghĩa địa. Lại suy niệm: Đang muốn tọa thiền bên cội cây, nơi núi rừng, đầm rộng vắng, đều sinh khởi tham ái, chỉ có nơi nghĩa địa là chốn con người không vui thích, do đó nên trụ ở đấy. Vui thích nơi mộ địa chỉ có loài quỷ cùng đám chồn, sói, quạ, diều hâu v.v… nay nên nhập Tam-muội từ để cứu độ các loài ấy, vì thế nên lại trụ nơi mộ địa. Do nhân duyên nầy Tỳ-kheo Ưu-đa-la tức thường vui thích tọa thiền nơi nghĩa địa, không ở nơi chỗ có người, nên xưng là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Lô-hê-ninh luôn an tọa trên đệm cỏ bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy thường ngồi trên đệm cỏ để trừ bỏ tâm tham ái. Thế nào là trừ bỏ tâm tham ái? Tức tuy có giường vàng gối ngọc, nhưng đều không tham ái, chấp trước. Hoặc lại nói: Nếu có người thí tòa ngồi tốt đẹp cũng như thí đệm cỏ, không khác. Tâm tham ái đã dứt, các kiết cũng hết. Liền đưa tay nắm lấy cỏ, hướng tới cỏ làm lễ. Có người hỏi: Vì sao hướng tới cỏ làm lễ? Đáp: Ta nhờ nơi cỏ ấy mà tâm ưa đẹp tươi đã dứt hết. Đắc đạo do đấy tức là thầy ta, nên hướng đến làm lễ. Năm trăm con khỉ được sinh lên cõi trời, cũng đã dùng hoa trời Văn-đà-la tung rải nơi tử thi, vì do tử thi mà sinh thiên, nên đến rải hoa. Phàm là sang tất do hèn làm gốc. Do nhân duyên nầy nên gọi Tỳ-kheo Lô-hê-ninh tọa thiền trên đệm cỏ là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-kìm-ma không cùng nói chuyện với người khác, chỉ nhìn nơi đất mà đi là bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy thường lo về lỗi lầm của miệng, nên muốn sửa đổi. Tự suy nghĩ: Chính là do nơi miệng nầy mà sinh trong cõi người, trời, hay nơi ba đường ác, như địa ngục có nhiều loại, khốn đủ nơi năm đường, khổ thật là vô lượng. Ta nay nên như Thái tử Mộ Phách kết thệ không nói. Bốn lỗi ba họa do đâu mà sinh, nên đã không nói, cứ nhìn thẳng mà đi. Đức Phật cho khả năng ấy là hiếm có, mỗi khi hướng về các Tỳ-kheo đều khen ngợi về đức ấy. Nói với Tôn giả A-nan: Tỳ-kheo như thế nên ghi chép để nhiều người được biết, noi theo. Do nhân duyên ấy, nên xưng là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nhất Tâm là hành Tam-muội bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy ngày trước từng tập định, cứu xét từ thô đến tinh, nay công năng của định đã lập, hành như dạo cảnh, ngồi mà quên tưởng. Quên tưởng lý đủ, về dụ thì như thế nào? Cũng như có người ăn trăm vị thức ăn, ý do quá no đủ, nên lại không còn tưởng ăn. Tuy lại bước đi, tiến dừng càng cảm, về sau nên thưa bày, hoạt động. Dựa nơi định lập tên, nên gọi ngồi, đứng, bước đi đều nhập Tam-muội là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Trưởng giả Đàm-ma-lưu-chi ưa thích viễn du bậc nhất: Tức sự việc ấy có nguyên do. Lúc Phật tại thế, có một Trưởng giả tên Đàm-ma-lưu-chi, đi đến chỗ Phật, lễ bái xong thì vấn an. Đức Phật nói: Đàm-ma-lưu-chi riêng đến đã rất lâu, mới có thể tương kiến. Có người hỏi Phật: Không rõ do đâu Đức Thế Tôn nói: Riêng đến đã rất lâu? Đức Phật đáp: Ông muốn biết chăng? Đáp: Muốn biết. Đức Phật nói: Vào thời A-tăng-kỳ kiếp xa xưa, thế gian có một vị Phật hiệu là Định Quang, Ta bấy giờ là Phạm-chí tên Siêu Thuật. Lúc ấy, Phật Định Quang sắp sửa vào thành, Ta nơi giữa đường được gặp, trông thấy tướng ánh sáng của Phật tỏa chiếu khắp, liền tán thán: Tướng ánh sáng của Đức Thế Tôn tỏa sáng hơn cả mặt trời mặt trăng. Công đức của Đức Thế Tôn thịnh dày như hai nghi. Tâm của Đức Thế Tôn nhân từ hơn cả mẹ hiền. Xem xét hình ảnh, không gì để cúng dường. Nay chính là đúng lúc, phước điền tốt đẹp, có thể gieo trồng căn lành. Thấy nơi đất có một ít bùn, sợ làm bẩn chân Đức Phật, Ta liền trải tóc phủ lên chỗ bùn ấy khiến Đức Phật Định Quang giẫm lên mà đi qua. Đức Phật liền thọ ký, nói: Ông đã dũng mãnh như thế, vào A-tăng-kỳ kiếp về sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca-văn. Khi đó, bên đường đi cũng có một Phạm-chí, tâm liền khởi giận dữ, nói: Kẻ nầy cùng với súc sinh không khác! Bèn đạp lên trên đầu tóc kẻ khác mà đi qua. Từ đấy trở về sau, trong vô lượng vô số kiếp luôn bị đọa trong loài súc sinh. Lại ở trong biển lớn làm cá Ma-kiệt, thân dài bảy ngàn do-tuần. Bấy giờ, có năm trăm khách buôn đi thuyền vào biển lớn để tìm kiếm châu báu, gặp phải cá Ma-kiệt nầy dùng miệng lật thuyền, sắp muốn nuốt vào miệng, năm trăm người kia hoảng sợ đều xưng niệm các bậc mình tôn thờ. Người chủ của đám khách buôn nói với mọi người: Nay thế gian có Phật hiệu là Thích-ca-văn, cứu độ người bị nguy ách, không ai hơn Ngài. Chúng ta nên xưng niệm danh hiệu Ngài cầu mong được thoát khỏi nạn. Tức thì đồng thanh xưng niệm. Cá Ma-kiệt nghe danh hiệu Phật, thức gốc vẫn còn, liền tự nghĩ xét: Phật Thích-ca-văn đã xuất hiện nơi thế gian, thân ta vì sao còn ở trong loài cá? Bèn lặn sâu xuống nước. Năm trăm khách buôn an ổn trở về. Lúc nầy, cá Ma-kiệt liền bày nửa thân hình lên bãi cát, không ăn uống, trải qua hai mươi bảy ngày thì chết, sinh làm con trai nhà Trưởng giả, tên là Đàm-ma-lưu-chi, nay mới đến được cùng ta tương kiến. Do đấy, nên gọi là “Lâu xa”. Đàm-ma-lưu-chi nghe đầu đuôi như thế, liền đi về bờ biển tìm xác chết cũ, thấy nơi bờ biển ấy có bộ xương cá lớn, da thịt đều hết, liền bước đi trên mảng xương sườn, suy nghĩ: Đây là thây chết cũ của ta. Bèn dùng hoa tung rải trên thây chết cũ ấy, lại xét về sự việc đã qua, hốt nhiên đạo thành. Do nhân duyên ấy, nên gọi Trưởng giả Đàm-ma-lưu-chi là viễn du bậc nhất. * Sở dĩ xưng Tỳ-kheo Ca Cừ là tập hợp chúng thuyết pháp bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy âm từ sáng rõ, tiếng vang rất xa, nghe âm thanh ấy, chúng tập hợp vô số, liền vì họ diễn nói pháp sâu xa. Các vị nên biết: Đức Như Lai xuất hiện ở đời, khó có thể được gặp, bốn đế là pháp cam lồ cũng khó được nghe. Các vị vào lúc thư thả, nên tư duy về chân đế, dứt trừ mười hai thứ trói buộc, dẫn dắt, có thể đạt được Niết-bàn. Tỳ-kheo nầy luôn trợ giúp Đức Phật hoằng dương giáo hóa, thường đem giáo pháp ấy truyền bá rộng khắp. Do nhân duyên ấy, nên xưng là tập hợp chúng thuyết pháp, âm thanh bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-câu-la thọ mạng rất lâu dài, là do thời xa xưa đã từng cúng dường sáu vạn Đức Phật, ở nơi trụ xứ của chư Phật luôn hành tâm từ. Đối với các loài vật có hình sắc, thọ mạng, dù là rất nhỏ bé, đều luôn gia tăng tâm thương xót, không hề có mảy may tưởng sát hại. Do phước của tâm từ ấy, nên nay có được báo kia. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Như Ta hôm nay, thân tướng thanh tịnh, không có ai hơn, cũng như hoa sen chẳng vướng nơi bùn nước, chính là thọ tám mươi, không như Bà-câu-la thọ một trăm sáu mươi tuổi. Như Lai tùy theo thế gian, muốn thích ứng với chúng sinh, không hiện điều dị biệt, nên thọ mạng tám mươi. Tỳ-kheo Bà-câu-la thọ phước của tâm từ nơi đời trước nên có được quả báo gia tăng về tuổi thọ. Hoặc có người hỏi: Chỉ do tâm từ nên đạt được thọ mạng như thế chăng, hay lại còn có nguyên do khác chăng? Đáp: Có. Vào thời xưa, Đức Như Lai Tỳ-bà-thi xuất hiện ở đời, bấy giờ có mười sáu vạn tám ngàn Tỳ-kheo du hành giáo hóa. Khi ấy, có Trưởng giả, sống theo nẻo sáng suốt, tu tập thuần thành, bẩm tánh lương thiện, khiêm tốn, không ưa rượu chè. Vào ngày hội hàng năm, do những người trẻ tuổi khuyên mời, nên đã uống ít nhiều. Liền do thế của rượu, nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn, lễ bái, vấn an xong, bèn thỉnh Phật cùng các đệ tử thọ nhận sự cúng dường của ông và gia đình trong chín mươi ngày. Những Tỳ-kheo bị bệnh đều được mời đến nhà ông nhận các thứ thuốc men, vật dụng cần thiết đều xin cung cấp đầy đủ. Thưa thỉnh xong, ông trở về nhà, sai bảo mọi người trong gia đình: Ta đã thỉnh Đức Phật cùng các vị đệ tử cúng dường chín mươi ngày, vậy bốn sự đều phải lo liệu cho đầy đủ. Sai bảo, dặn dò xong liền đi ngủ. Ngủ rất lâu mới thức, người vợ nói: Trước đây ông có sai bảo sắm sửa đầy đủ các vật dụng cúng dường, sao bây giờ im lặng không thấy nhắc đến? Trưởng giả ngạc nhiên hỏi: Vừa rồi tôi đã nói năng, sai bảo những gì? Người vợ thưa lại: Lúc chưa ngủ, ông không nói gì sao? Trưởng giả bảo: Tôi không nhớ rõ là mình đã nói những gì. Bà vợ nói: Lúc ấy, ông bảo: Ta đã thỉnh Phật cùng các vị đệ tử cúng dường trong chín mươi ngày, mỗi thứ cần dùng đều không được thiếu. Ông chẳng đã nói như thế là gì? Trưởng giả suy nghĩ, nói: Là do rượu khiến con người nhầm lẫn mới dẫn đến sự việc như thế. Cảm thấy hổ thẹn nên quyết định thực hiện việc cung thỉnh ấy. Sáng sớm hôm sau, ở tại nhà mình, ông Trưởng giả đốt hương, từ xa đảnh lễ cung thỉnh Đức Thế Tôn và đại chúng. Có một Tỳ-kheo tới xin thuốc. Trưởng giả hỏi: Thầy bị đau gì? Đáp: Đau đầu. Trưởng giả nói: Đây tất là do phần trên của mạng ngực có nước, xông mạnh lên đầu. Do đấy nên đầu bị đau. Bèn cho một quả Ha-lê-lặc, nói: Chỉ uống thuốc nầy là đủ để dứt bệnh ấy. Tỳ-kheo uống thuốc, bệnh liền khỏi. Do phước báo ấy, nên trong chín mươi mốt kiếp chưa từng bị bệnh, sinh vào nhà Trưởng giả, đến tuổi tám mươi, xuất gia học đạo, trải qua tám mươi năm, đạo tục hợp lại là một trăm sáu mươi năm. Lúc còn tại gia, từng thi đấu sức, giây lát đầu bị đau, tức tìm cách trừ khỏi, từ đấy thường không bệnh tật. Do đó nên nói Bà-câu-la là trường thọ bậc nhất. Ở trong mức thọ mạng một trăm năm mà tăng thêm sáu mươi năm, người nầy, nơi đời năm trược mà thọ mạng như thế là rất đặc biệt. Dụ như trong chốn uế trược mà sinh ra hoa sen. Tôn giả A-nan hỏi Bà-câu-la: Do đâu không vì người giảng nói pháp? Vì không có bốn biện tài hay là vì thiếu trí tuệ? Đáp: Tôi đối với bốn biện tài, trí đều mẫn tiệp, không phải là không đủ. Nhưng chính là tự vui thích tịch tĩnh, không ưa chốn đông đúc ồn ào, nên không thuyết pháp. Vấn nạn: Tôn giả Bà-câu-la trường thọ, vì sao không sinh ba phương (ba châu)? Đáp: Chư Phật sở dĩ không sinh là do người của cõi ấy khó hóa độ. Nơi cõi nầy chúng sinh lợi căn, nhanh nhẹn, tuy rất xấu ác, nhưng dũng mãnh giữ đạo không ngại khó khăn. Thế nên, từ xa xưa chư Phật đều sinh trong cõi nầy. Tôn giả Bà-câu-la ứng hợp tại cõi nầy thành tựu đạo, nên không sinh nơi ba phương kia. * Sở dĩ gọi Tôn giả Mãn-nguyện-tử là thuyết pháp bậc nhất: Vì có ba sự việc nên được gọi là bậc nhất. Các Tỳ-kheo khác cũng thuyết pháp, nhưng không có ba sự việc đáng ghi, nên không gọi là bậc nhất. Tôn giả Mãn-nguyện-tử lúc thuyết pháp, trước hết dùng biện tài xướng phát âm thanh vi diệu, khiến mọi người nghe đều cùng hoan hỷ hướng về mình. Tiếp theo, dùng ngôn từ “khổ sở” để trách cứ nơi tâm khiến cho phần không thông đạt bên trong kịp sợ hãi, phát khởi tưởng khó gặp. Sau cùng thì dùng tuệ sáng để chỉ dạy về vô thường, không, vô ngã. Người nghe kiết tan, sử lặng, trí kết hợp, phát triển. Đức Thế Tôn diễn nói pháp đầu giữa cuối đều thiện. Tôn giả Mãn-nguyện-tử cũng vậy, ba sự cùng thiện (hoàn hảo). Tự lìa Đức Như Lai để giảng nói pháp, không vị nào có thể hơn mình. Tôn giả Thân Tử tự thệ: Từ sáng sớm đến giữa ngày, phải độ một người khiến đạt đến Đạo tích. Tôn giả Mục-liên cũng thệ nguyện độ người, ở trong bốn hướng định tính tiến một bậc, sau đấy mới thọ thực. Các Tỳ-kheo khác đều cũng độ người, nhưng so với Tôn giả Mãn-nguyện-tử thì không bằng một phần trăm. Tôn giả nầy từ lúc thành đạo cho đến Niết-bàn, đã độ chín vạn chín ngàn người, trong hàng Thanh-văn là vị hóa độ chúng sinh nhiều hơn hết, nên gọi là thuyết pháp bậc nhất. * Sở dĩ xưng Tôn giả Ưu-ba-ly là trì luật bậc nhất: Vì vào thời trước, Đức Thế Tôn trở về thăm quê hương, theo lời thỉnh của vua cha là Tịnh Phạn. Số lượng các Tỳ-kheo đi cùng với Đức Phật, tuy tâm đều tinh thuần, nhưng dung mạo thì chưa tiêu biểu. Khi ấy, vua Tịnh Phạn muốn khuyên con em thuộc hào tộc họ Thích xuất gia làm Tỳ-kheo, để theo hầu Đức Phật, liền tuyên lệnh: Những gia đình họ Thích, nếu có hai anh em thì đều phải cho một người xuất gia tu đạo. Nếu không tuân lệnh thì sẽ bị phạt nặng. Lúc nầy, có một nam tử thuộc họ Thích, tên Diện Vương, là người lớn tuổi nhất trong đám con em họ Thích được xuất gia, theo thứ tự thì được xuống tóc trước. Đức Phật bảo Ưu-ba-ly cạo tóc cho người nầy. Lại dặn: Các người họ Thích thường hay kiêu ngạo, thân thể vốn mềm mại, ông nên từ từ, nhẹ tay trong việc cạo tóc. Ưu-ba-ly vâng lời, cạo nhẹ tay, lại quá nhẹ tay, hầu như không chạm vào da. Ưu-ba-ly lại lật ngược lưỡi dao, dùng sống lưng dao để cạo tóc. Đức Phật bảo: Không thể dùng mãi phần bụng của dao để cạo như thế. Cũng nói: Không thể tức thì cạo từ trên đảnh trở xuống một lượt hết nhẵn, nên từ từ. Năm trăm nam tử họ Thích thảy đều được cạo như vậy. Đức Phật bảo Ưu-ba-ly: Thiện lai Tỳ-kheo! Liền thành Sa-môn. Phật bèn trao giới tức đắc A-la-hán. Tiếp theo, trao giới cho năm trăm con em họ Thích. Ưu-ba-ly làm Thượng tọa, dùng tay xoa lên đầu năm trăm người kia là đệ tử. Thọ giới xong, lần lượt phải lễ bái Ưu-ba-ly. Những nam tử họ Thích ngày trước vốn thường kiêu ngạo, cho là hơn người, không thể hạ mình, lại thêm Ưu-ba-ly là “con em” của họ, nên đều nói: Đây là kẻ giúp việc cho gia đình chúng tôi, duyên cớ gì phải lạy. Đức Phật bảo: Không phải thế. Pháp không có sang hèn, ai đạt trước là anh, sau là em. Do dự một lát, chế ngự tâm ý rồi lễ bái. Tức thì trời đất chấn động lớn. Chư Thiên nơi hư không tán thán: Lành thay! Lành thay! Hôm nay các người họ Thích đã hàng phục được tâm ý cao ngạo. Ý ấy khó thắng nên đại địa chấn động. Cùng lúc với năm trăm nam tử họ Thích xuất gia hành đạo, cũng có chín vạn chín ngàn người xuất gia tu đạo. Tôn giả Ưu-ba-ly từ lúc theo Phật thọ giới trở đi, chưa từng vi phạm dù là mảy may. Do nhân duyên ấy, nên gọi là trì giới bậc nhất. Chỉ do như thế hay còn có sự việc khác? Phía Bắc Tinh xá Kỳ-viên có một Tỳ-kheo mắc bệnh, trải qua sáu năm vẫn chưa khỏi. Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly đến thăm hỏi Tỳ-kheo ấy: Thầy đau ốm đã lâu, có điều gì cần, nên nói ra. Thưa: Điều tôi cần thì không thể nói được. Hỏi: Thầy muốn cần vật gì? Nếu ở đây không có, tôi sẽ cho người đi khắp nơi tìm. Giả như ở thế gian không tìm ra thì lên cõi trời tìm. Đáp: Thứ tôi cần, trong thành Xá-vệ có, do trái với lời Phật dạy nên không thể nói. Hỏi: Song nói ra thì không khổ. Đáp: Tôi chỉ nghĩ nhớ về rượu. Được năm thăng rượu thì bệnh liền hết ngay. Tôn giả Ưu-ba-ly bảo: Hãy chờ đấy. Tôi sẽ vì thầy nên thưa hỏi Đức Phật. Tôn giả trở về chỗ Đức Phật, thưa: Tỳ-kheo bị bệnh cần rượu làm thuốc, không rõ có thể được uống chăng? Đức Thế Tôn dạy: Pháp Ta chế ra là để trừ bệnh. Tôn giả Ưu-ba-ly bèn đi lấy rượu cho Tỳ-kheo bệnh uống, bệnh liền khỏi. Lại nói pháp cho Tỳ-kheo đó, khiến chứng đắc A-la-hán. Đức Thế Tôn khen ngợi Tôn giả Ưu-ba-ly: Tôn giả đã thưa hỏi Như Lai về việc ấy, khiến cho Tỳ-kheo bệnh nhờ đấy mà khỏi, lại khiến đắc đạo. Tỳ-kheo nầy nếu không được độ, về sau sẽ bị đọa nơi ba đường dữ, không có kỳ hạn ra khỏi. Tôn giả nên vì các Tỳ-kheo vị lai nói về giới cấm, khiến họ nhận biết chỗ khinh, trọng, để được cứu độ nguy ách. Tôn giả đích thực là có thể trì luật, nên đem Luật tạng giao phó cho Tôn giả, chớ khiến bị thất tán. Trong các Tạng, Tạng nầy là tối tôn, không nên để cho hàng Sa-di cùng bạch y xen vào. Do nhân duyên ấy, nên lại xưng là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-ca-lợi đạt được tín giải thoát, vị Tỳ-kheo nầy bị bệnh đã lâu, nằm mãi nơi giường trải qua sáu năm, những người chăm nuôi thảy đều bỏ đi. Tỳ-kheo bệnh tự nghĩ: Ta bị bệnh quá lâu, những người chăm nuôi đều mỏi mệt rất có thể chán nản, lại không được Đức Như Lai rủ lòng thương xót! Nên tự xử để dứt trừ bệnh khổ. Liền tìm lấy đao, hướng về đao, nói: Chỉ cần giết ta, là cũng sẽ đoạn trừ kiết chăng? Nói xong thì cầm dao tự đâm vào cổ, mũi dao vừa vào tới nửa yết hầu, đã được lậu tận, kịp khi đầu bị đứt, là chứng đắc Niết-bàn. Lúc ấy, đại địa chấn động, âm vang đến tận trú xứ của Ba-tuần. Ba-tuần nghĩ: Đây chắc là điềm gì ứng hiện nên đại địa mới chấn động như thế. Liền dùng “Thiên nhãn” xem khắp, thấy một Tỳ-kheo vừa tự hại, nhưng không biết thần túc của vị ấy đã đi về nẻo nào. Quán khắp các cõi trời, không thấy. Lại xem trong cõi người cũng không gặp. Lại xem nơi ba đường ác, cũng đều không thấy đâu. Bấy giờ, Đức Phật dẫn các Tỳ-kheo đến chỗ Tỳ-kheo vừa qua đời, chuẩn bị hỏa thiêu, thấy nơi tử thi có lửa hiện lên. Đây là do Ba-tuần phóng lửa để tìm thần thức của vị ấy, nhưng đều không biết hiện ở đâu. Sở dĩ Ba-tuần tìm kiếm là muốn biết nẻo thần thức tiến tới để hủy hoại, khiến không thành. Các Tỳ-kheo liền thực hiện việc hỏa thiêu. Đức Phật khen Tỳ-kheo nầy đã đạt được tín giải thoát. Hoặc nói: Phàm người tín tâm chí thành, mạng phó cho tự nhiên, hãy còn không cầm gậy để tự phòng hộ, huống chi là lại tự hại sao? Đáp: Tín, sở dĩ cầm đao, vì đao là tuệ kiếm, muốn dùng đấy để đoạn trừ các kiết. Thân tức là gốc của kiết. Căn phát triển tức là nhánh cành. Thân đoạn thì kiết trừ. Do đấy, người cầm đao không bị ngăn ngại. Cầm đao tín, chặt đứt cây nghi hoặc, nên câu tiếp theo viết: Ý không do dự. Từ tín giải thoát đến giải thoát không nghi, tức chuyển độn làm lợi. Do nghĩa ấy, nên gọi Tỳ-kheo Bà-ca-lợi là tín giải thoát bậc nhất. HẾT - QUYỂN 4 LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC QUYỂN 5 * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nan-đà là đoan nghiêm bậc nhất: Vì các Tỳ-kheo mỗi mỗi vị đều có các tướng. Tôn giả Thân Tử có bảy. Tôn giả Mục-liên có năm. Tôn giả A-nan có hai mươi. Chỉ riêng Tôn giả Nan-đà có ba mươi tướng. Tôn giả Nan-đà sắc vàng. Tôn giả A-nan sắc bạc. Tôn giả Nan-đà mặc y phục sáng rỡ, giày dép viền tua vàng, cầm bát lưu ly, vào thành khất thực, những người trông thấy không ai là không vui thích. Tự lìa Đức Như Lai để giảng nói pháp, hành hóa, các vị đệ tử khác không vị nào có thể sánh kịp, nên gọi là đoan nghiêm bậc nhất. Cũng gọi là các căn tịch tĩnh: Đức Phật dẫn các đệ tử đi đến Tinh xá của Nại-nữ ở thành Tỳ-xá-ly. Lúc ấy, Tôn giả Nan-đà kinh hành ở bên ngoài. Nại-nữ nghe Đức Phật đến, trong tâm vô cùng vui vẻ, muốn bày biện sự cúng dường, tức đi tới thỉnh Phật, thấy Tôn giả Nan-đà đang kinh hành bên ngoài Tinh xá, tình cảm yêu thích dấy mạnh, đảnh lễ tiếp giáp chân, lấy tay xoa lên chân Tôn giả. Tuy nhìn thấy người nữ xinh đẹp, dịu dàng, nhưng Tôn giả Nan-đà hoàn toàn không có tưởng dục. Do hai hình cùng cảm, nên liền xuất “bất tịnh”. Vị ngọt thấm nhuần nơi thân thể, thân thể đầy đủ thì dư thừa. Chỗ dư thừa của bất tịnh, há là do tâm? Nại-nữ không rõ, nghi là có tưởng dục. Đức Phật nhận biết ý ấy, nên nói với nàng: Chớ sinh tâm nghi! Bảy ngày sau đấy, Tôn giả Nan-đà sẽ chứng đắc A-la-hán. Theo đó mà nói, tức biết tâm của Tôn giả không biến đổi. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-đà khéo giải nghi vướng của người: Là vì chư Phật trong ba đời đều cùng lấy số lượng tám vạn bốn ngàn dùng làm pháp hành. Chúng sinh đạt đạo bất tất phải hành khắp. Các hành tùy theo xứ tỏ ngộ, dùng làm tông chỉ, vì sao kiết sử của chúng sinh chẳng đồng? Bệnh có nhiều, ít, cấu uế có dày mỏng, thế nên Đức Như Lai thiết lập giáo pháp có từng ấy. Hoặc có một loại thuốc trị nhiều bệnh. Hoặc có nhiều loại thuốc trị một bệnh. Cũng như sáu độ cùng hợp lại. Một hành làm chủ thì các hành đều theo. Một hành không chuyên, thường gọi là theo bệnh đã khởi, đối thuốc ứng hợp. Nếu khởi chấp thường thì dùng vô thường đối trừ. Nếu tâm chấp có khởi thì dùng tâm không đối trừ. Nên hiểu rõ về hành vô thường, vì muôn hành đều là vô thường. Cũng như thí tạo ra tám vạn thứ, tám vạn đều là thí, đó gọi là lược nói. Cũng như trong tám âm của Đức Như Lai, một âm hợp với tám tiếng vang, một tiếng vang hợp với trăm giáo pháp, một giáo pháp hợp với trăm nghĩa, mỗi mỗi cùng hợp lại đến ngàn vạn ức. Một âm báo đến vạn ức. Sự biến chuyển như vậy là lược nói về các hành hợp lại. Về dụ cũng thế. Tỳ-kheo nầy chuyên dùng lược nói làm chủ, nên gọi là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Tư-ni là có thể thuyết pháp rộng khắp: Vì Tỳ-kheo nầy, ba mươi năm, ở trong địa phàm phu đã rộng vì mọi người thuyết giảng pháp, phân biệt về nghĩa lý. Thế nào là thuyết giảng rộng? Hoặc nhân một hành mà làm tăng trưởng các hành, chi tiết càng dồi dào cho đến vô số. Cũng như bệnh có cùng nhân mà sinh, do đấy nên đặt các thứ thuốc cùng thuận mà thành. Tỳ-kheo nầy chuyên dùng phân tích, phán đoán làm chủ, không ưu tiên cho việc đoạn dứt lậu, vì thế phải trải qua ba mươi năm mới chứng đạo. Tĩnh lặng, quên lời, nên bỏ sót dấu vết từ trước. Sao chép từ gốc để nối tiếp, nên gọi là thuyết giảng rộng bậc nhất. * Sở dĩ gọi Thiên Tu-bồ-đề là người mặc y đẹp đẽ bậc nhất: Trong số năm trăm đệ tử của Phật có hai vị Tu-bồ-đề: Một vị thuộc chủng tánh vương giả, một vị thuộc chủng tánh Trưởng giả. Thiên Tu-bồ-đề xuất thân từ hàng vương giả. Sở dĩ gọi là Thiên vì trong năm trăm đời thường sinh nơi cõi trời Hóa ứng thanh, sau sinh vào nhà vương giả, hưởng phước tự nhiên chưa từng thiếu thốn. Thời gian Đức Thế Tôn trở về quê hương, vua Tịnh Phạn khuyến khích năm trăm nam tử họ Thích xuất gia học đạo, theo hầu Đức Phật, Tỳ-kheo nầy là một vị trong số ấy. Bấy giờ, Đức Phật khuyên bảo các Tỳ-kheo: Phàm là người học đạo, đều phải bó buộc thân, giữ hạnh, y thô, ăn dở, nệm cỏ làm giường, thuốc thang dùng theo dân dã. Tỳ-kheo nầy nghe lời Phật dạy, tâm tự tư duy: Ta sinh trong gia đình giàu sang, y phục, thức ăn luôn dồi dào, lầu gác, phòng ốc đều cao rộng, giường nệm, giày dép, các thứ vật dụng quanh người đều quý giá, ít có, thế nhưng cũng còn không thỏa mãn ý ta, huống hồ là nay sẽ mặc y Ngũ nạp! Phải nên trở về nhà là hợp với bản ý của mình. Suy nghĩ rồi muốn trở về. Lúc nầy, Đức Thế Tôn đang ở tại Tinh xá Xá-vệ, thọ thỉnh của vua Ba-tư-nặc, Thiên Tu-bồ-đề liền đi tới chỗ Phật lễ bái, từ tạ mà trở về. Tôn giả A-nan nói: Xin hãy nán lại một đêm. Thiên Tu-bồ-đề bảo: Phòng ốc, giường nệm của Đạo nhân như thế, làm sao có thể ở lại được, chắc phải đến nhà bạch y ngủ nhờ một đêm, sáng hôm sau sẽ trở lại đây thôi. Tôn giả A-nan nói: Nên ở lại. Nay sẽ bày biện khéo đẹp và đủ cả. Tôn giả liền đi tới chỗ vua, các thứ tọa cụ, cờ lọng, hoa hương, bốn thứ đèn dầu, mỗi mỗi sự đều mang về đầy đủ, đẹp đẽ, sang trọng. Tỳ-kheo nầy bèn nghỉ đêm trong căn phòng như thế. Do hợp với bản tâm nên ý liền được định, tư duy về bốn đế, cho đến cuối đêm tức đắc A-la-hán, bay lên hư không. Tôn giả A-nan tâm niệm: Tỳ-kheo nầy chắc là đã bỏ phòng mà đi rồi, các thứ vật dụng mượn ở chỗ vua sợ có người lấy mất, nên vội tới xem thử. Trong phòng chẳng thấy, ngước nhìn lên cao, thấy Tỳ-kheo ấy đang bay nơi không trung. Tôn giả A-nan bạch Phật: Tỳ-kheo Thiên Tu-bồ-đề đã đắc A-la-hán, hiện đang bay nơi hư không. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Y có hai loại: Loại có thể gần gũi, loại không thể gần gũi. Thế nào là có thể gần gũi? Là lúc mặc y đẹp, làm tăng trưởng tâm đạo, đây là có thể gần gũi. Khi mặc y đẹp, làm tổn giảm tâm đạo, đấy là không thể gần gũi. Nầy A-nan! Vì thế, hoặc từ nơi y tốt đẹp đắc đạo, hoặc từ nơi y Ngũ nạp cũ rách mà đắc đạo. Chỗ tỏ ngộ là tại tâm, không câu nệ nơi y phục, hình tướng. Theo đó mà nói, Thiên Tu-bồ-đề là người mặc y đẹp đẽ bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nan-đà-ca là giáo thọ bậc nhất: Vì như Tôn giả Xá-lợi-phất cũng giáo thọ, tức chỉ dạy trao truyền khắp bốn chúng đệ tử, từ sáng sớm đến giữa ngày, nên khiến một người đạt đến “Đạo tích”. Còn Tỳ-kheo nầy chuyên giáo thọ các Tỳ-kheo, khiến chứng đắc A-la-hán. Ví như người bắn tên giỏi, dùng một phát tên bắn trúng kẻ giặc kia, tức trúng nơi chính yếu nên khiến không còn dấy khởi. Dụ cho Tỳ-kheo nầy, khéo chỉ dạy về tuệ chính, người nghe kiết dứt trừ, đạt đến giải thoát. Người bắn tên không giỏi, tuy dùng nhiều mũi tên mà chỉ có thể một phát bắn trúng. Dụ như Thân Tử tuy diễn nói rộng về tuệ, chung cuộc chỉ thành một bậc. Hơn kém đã khác, xét kỹ dễ thấy. Thế nên nói giáo thọ hàng hậu học là bậc nhất. * Tỳ-kheo Tu-ma-na sở dĩ gọi là người khéo khuyên dạy Tỳ-kheo ni: Vì Tỳ-kheo nầy thường dùng những lời khổ bức để khuyên bảo các Tỳ-kheo-ni: Phàm là người nữ thì có nhiều tình cảm, dáng dấp xinh đẹp được tô điểm luôn huyễn hoặc người đời. Thân hình uế lậu, chín chốn bất tịnh, ba mươi sáu vật, không một thứ nào đáng để tham ái. Sở dĩ gọi Tu-ma-na, tức là dùng tên của hoa. Do lúc sinh ra, trên tai tự nhiên có hoa nầy, nên dùng hoa làm tên người. Bấy giờ, vua Tần-bà-sa-la đi đến chỗ Phật, thấy Tỳ-kheo ấy trên tai có hoa, cho là lạ, liền hỏi Phật: Pháp của Tỳ-kheo được đeo hoa chăng? Đức Phật nói với vua: Nhà vua nên tự tay thâu lấy hoa ấy. Vua liền dùng tay rút nắm lấy hoa, hoa lại sinh ra như cũ, cứ như thế không dừng, bèn thành một đống hoa. Vua càng cho là lạ, nên hỏi nguyên do. Đức Phật nói: Về thời xa xưa, lúc Đức Phật Tỳ-bà-thi xuất hiện ở đời, Tỳ-kheo ấy là một Trưởng giả trẻ tuổi. Lúc nầy là lễ hội hàng năm, Trưởng giả tham dự, đánh đàn, ca hát vui chơi xong, liền đi tới chỗ Đức Phật. Trưởng giả trông thấy Phật hoan hỷ, bèn lấy hoa trên tai mình dâng đặt lên trên tai Đức Phật. Phật tức dùng thần túc, hóa ra hoa ấy, ở trong hư không biến làm đài có bốn trụ, hoa trên tai vẫn như cũ. Trưởng giả trông thấy những biến hóa như thế, liền phát thệ nguyện: Nguyện nơi đời vị lai của con đời đời được gặp Phật, thân tướng sinh ra được đoan nghiêm, trên tai sinh hoa. Do phước nguyện từ xưa, nên nay có được báo đó. Vua nghe Đức Phật giảng nói, tâm tức mở bày, hiểu rõ, nên đến trước đảnh lễ Phật rồi cáo lui, trở về hoàng cung. Sở dĩ khéo khuyên dạy Tỳ-kheo-ni, vì các Tỳ-kheo-ni vốn là những người có nhiều tình cảm. Nhiều người trông thấy Tỳ-kheo Tu-ma-na đoan nghiêm, trên tai có hoa, tâm cũng còn yêu thích. Duyên nơi tình cảm yêu thích ấy để dẫn dạy, nhiếp phục, dùng lời nói khổ bức nên mọi tham ái liền tiêu tan, vì thế nên gọi Tỳ-kheo Tu-ma-na là khéo khuyên dạy Tỳ-kheo-ni về giới cấm là bậc nhất. * Sở dĩ xưng Tỳ-kheo Thi-bà-la là phước đức bậc nhất: Vì lúc Thi-bà-la mới sinh, tay cầm ngọc báu Ma-ni vô giá. Thân vừa chạm đất liền nói: Thế gian có đủ bảy báu như vàng bạc v.v… để có thể đem bố thí chăng? Ta nay muốn hành bố thí lớn. Nói lời như vậy rồi, khiến cha mẹ, người nhà đều hoảng sợ, bỏ đấy mà chạy, hoặc nói là quỷ La-sát, hoặc cho là thiên thần. Phàm là trẻ con, lúc sinh cần phải đủ ngày tháng mới nói được. Nay vừa chạm đất liền nói, là điều rất kỳ lạ. Tình mẹ không nỡ bỏ con, nên trở lại để xem. Đứa con nói với mẹ: Chớ sợ! Con không phải là quỷ. Con đúng là con của mẹ. Người cha là Nguyệt Quang bảo vợ: Nay nên ẳm đứa bé tới chỗ các Sư Ni-kiền-tử, để hỏi về chỗ dữ, lành. Liền cùng vợ bế con đi đến trụ xứ của các thầy Ni-kiền, thưa lại mọi việc. Sư nói: Đứa bé nầy vô phước, về sau sẽ dẫn tới tai họa. Trưởng giả thưa: Trong tay đứa bé có ngọc báu Ma-ni, vì sao nói là không phước? Ni-kiền bảo: Đến năm đứa bé tám tuổi, tài sản, vật báu trong nhà ông đều hết sạch, chính là do trong tay đứa bé nầy hiện có ngọc báu sẽ tiêu diệt hết, cả nhà đều sẽ chết đói. Trưởng giả sợ hãi, nhưng nghĩ kỹ có chỗ nghi hoặc. Nghe đời có vị Đại Sa-môn, hẳn có thể biết được chuyện lành dữ, nên đi đến nơi ấy để hỏi về việc nầy chăng? Tức đi tới chỗ Đức Thế Tôn. Giữa đường lại nghĩ: Đại Sa-môn là chủng tộc Trưởng giả, sinh trưởng nơi thâm cung, lại không học vấn. Các Bà-la-môn, ngay từ lúc còn trẻ đã học rộng, hãy còn không thể biết về lành dữ, Đại Sa-môn há có thể biết được? Liền muốn trở về nhà. Chư Thiên nơi hư không nói với Trưởng giả: Chỉ nên đi tới trước, sao lại tính trở về? Như Lai là bậc Đại Thánh, không điều gì là không thông đạt, đi tới đó, mọi nghi ngờ sẽ được tỏ rõ, phải trái mau hiện ra. Vợ chồng Trưởng giả y lời, bèn đi đến trụ xứ của Đức Phật, lễ bái, vấn an xong, liền thưa về các sự việc như vừa nói, không tường dữ lành. Đức Phật dạy: Hoàn toàn lành và lợi mới sinh được người con phước đức ấy. Đứa bé nầy, năm hai mươi tuổi sẽ xuất gia tu đạo, thường có năm trăm Đồng tử cùng theo, sẽ chứng đắc A-la-hán, trở về độ cha mẹ. Trưởng giả nghe Đức Thế Tôn giảng nói như thế thì vô cùng vui mừng, không thể tự kìm chế, liền đảnh lễ Phật rồi trở về nhà, cho sắm sửa đủ các thức ăn uống ngon quý, thỉnh Phật cùng chúng đệ tử đến nhà thọ thực, xin Phật đặt tên cho con mình. Đức Phật nói với Trưởng giả: Nếu muốn mang tên là chư Thiên thì con người không hiểu. Nếu muốn mang tên Hiền Thánh thì hàng phàm phu không hiểu. Thời Đức Phật Ca-diếp gọi quỷ là Thi-bà-la, nay nên đặt tên là Thi-bà-la. Thi-bà-la là khai thông âm thanh, ngôn ngữ của quỷ thần, thế nên đặt tên là Thi-bà-la. Tôn giả A-nan, lúc sắp nhập Niết-bàn đã độ hai vị đệ tử, vị thứ nhất tên Ma-thiền-đề, vị thứ hai tên Ma-thân-đề-lợi. Ma-thân-đề-lợi là Địa vương, nếu không làm Đạo nhân, sẽ làm vua châu Diêm-phù-đề cùng ba thiên hạ, nên gọi là Ma-thân-đề-lợi. Tôn giả A-nan dạy vị đệ tử nầy: Con đi đến nước Sư Tử Chử để truyền bá, hiển dương pháp Phật. Người ở nước ấy cùng với La-sát chung nhau. Chính là cần có văn tự, sau đấy mới giao tiếp. Theo “Thị dịch” hiện có sáu mươi thứ sách, trong số ấy có sách của quỷ gọi là A-phù, sách của người gọi là A-la. Ma-thân-đề-lợi vâng theo lời dạy, đi tới nước ấy hiển dương Phật pháp, từ đó, dấu vết của sự giáo hóa ngày nay hiện còn. Thi-bà-la khai thông quỷ thần cũng như thế, nên gọi là Thi-bà-la. * Sở dĩ xưng Thi-bà-la là phước đức bậc nhất, tức lúc mới sinh, trong hai tay tự nhiên cầm lấy ngọc Ma-ni. Chuyện kể về thời xa xưa, lúc Đức Như Lai Tỳ-bà-thi xuất thế, Tỳ-kheo nầy là khách buôn đi thuyền vào biển tìm châu báu, trải qua năm nạn mới đến được nơi có châu báu, tìm được một ngọc báu liền trở về, đem dâng lên Đức Phật, nguyện xứ xứ mình sinh ra đều đạt được phước báo tự nhiên. Do nhân duyên ấy, nên lúc sinh có tướng kỳ lạ. Tỳ-kheo Giá Nhị Thập Ức, lúc mới sinh, tự nhiên có ngọc báu hiện rõ nơi tai. Người cha tập hợp các người mua bán, hỏi về giá trị của ngọc báu kia. Cả đám cân nhắc rồi đáp: Giá trị hai mươi ức. Ngọc báu nơi tay của Thi-bà-la không có hạn lượng, nên gọi là vô giá. Báu ấy đã thấm nhuần đến những bảy đời. Trong bảy đời nầy, không hề đói khổ, thiếu thốn, nên gọi là phước đức bậc nhất. Đến năm hai mươi tuổi, Thi-bà-la xuất gia học đạo, đến chỗ Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo: “Thiện lai!”, tức thành Sa-môn, tư duy về bốn đế liền đắc A-la-hán. Lúc ấy, có năm trăm Đồng tử, cũng xuất gia tu đạo, thường theo hầu Thi-bà-la. Thi-bà-la cung cấp y phục, thức ăn uống cho năm trăm vị nầy. Nơi chốn vừa đến ngụ, cúng dường đầy đủ, nơi chốn du hành hóa độ, đều cúng dường kịp thời. Thi-bà-la và năm trăm vị ấy cùng đi tới thành Vương-xá. Phía Nam thành nầy có ngọn núi lớn, thuộc loại “thâm sơn”, trong núi có nhiều loài rắn độc, cọp, sói, La-sát. Thi-bà-la liền tự nghĩ: Muốn ở trong núi nầy ẩn dật một mùa. Khi đó, Thiên Đế-thích nhận biết tâm niệm của Thi-bà-la liền sai tả hữu đến núi ấy tạo dựng năm trăm phòng cùng Tăng-già-lam và đủ thứ vật cúng dường. Lại trải qua một mùa, kiết hạ đã xong, Thi-bà-la tâm niệm: Xa cách Đức Thế Tôn đã lâu, nên trở về lễ bái, hầu hạ. Thời tiết lúc đó rất nóng, Thi-bà-la nghĩ muốn được mát mẻ, Thiên Đế nhận biết, liền cho tuôn mây mưa. Vừa nghĩ về nước uống, tức mưa cam lồ. Mọi tâm niệm mong muốn, hợp ý liền đến, nên gọi là phước đức bậc nhất. Thi-bà-la có người chú, thờ Phạm-chí ngoại đạo, vì người ấy vốn keo kiệt không thích bố thí. Có ông bạn thân khuyên nên tạo “của cải” cho đời sau, liền thỉnh Phạm-chí đến ngàn người, dâng thí trăm ngàn lượng vàng. Thi-bà-la nghĩ: Người chú tham lam bỏn sẻn, sống không tạo phước, giờ lại tuệ thí không gặp phước điền, ta không cứu độ thì vĩnh viễn là hạng vất bỏ. Liền đi tới nhà người chú, cầm bát khất thực. Chú nói: Cháu sao đến muộn thế. Ngày hôm qua ta hành thí lớn. Nếu ngày hôm qua cháu tới, có thể được Tăng-kiệt-chi. Thi-bà-la nói: Cháu tự có Kiệt chi, cũng không cần thứ ấy. Chú hỏi: Vậy cháu đến làm gì? Đáp: Cháu muốn khất thực. Người chú không cho. Thi-bà-la liền hiện thân ở trong hư không, tạo ra mười tám thứ biến hóa, thân phát ra nước, lửa. Trưởng giả nghĩ: Đây tất là giận dữ, chắc sẽ đốt cháy nhà ta. Bèn gọi khiến hạ xuống nơi tòa ngồi. Thi-bà-la an tọa, nói: Cháu muốn được ăn. Người chú sai đem các thứ thức ăn dở, thiu, hôi, Thi-bà-la nhận lấy, chú nguyện rồi ăn. Thức ăn vào trong bát, do phước đức cảm ứng nên biến thành cam lồ. Có vị trời nơi hư không tán thán: Lành thay, Trưởng giả! Nay đã tạo thí lớn ấy, phước đức của thí nầy, không ai có thể vượt hơn! Trưởng giả tâm niệm: Ta trước thí cho các Phạm-chí trăm ngàn lượng vàng, mà không ai khen ngợi ta. Nay thí cho người nầy một ít thức ăn dở, mà được khen là thiện, là không vọng ngữ chăng? Vị trời lại bảo: Chỗ bố thí tuy ít nhưng đúng nơi phước điền tốt đẹp, nên gọi là thí lớn. Trưởng giả lại nghĩ: Vị trời tất chân thật, vì đã hai lần báo cho ta biết. Liền đem trăm ngàn lượng vàng thí cho Thi-bà-la. Thi-bà-la nói: Cháu là Tỳ-kheo, pháp không được nhận vàng. Tức thì đi tới chỗ Đức Phật thưa hỏi về việc ấy. Đức Phật: Có thể nhận lấy rồi tùy ý chuyển thí cho người khác. Thi-bà-la bèn nhận số vàng đó và đem thí cho các đồng học, lại vì người chú thuyết pháp khiến chú liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Do có thể biến các thứ xú uế thành cam lồ, nên gọi là phước đức bậc nhất. Từ lúc sinh cho đến nhập Niết-bàn, chưa từng thiếu thốn. Lúc Bát-Niết-bàn, có vô số thức ăn uống ngon quý mưa xuống trên thân. Sở dĩ được như thế vì nơi tự thân đã đủ, lại muốn cho các chúng sinh cũng được dồi dào, do đấy nên lại gọi là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-ba-tiên là người đầy đủ các hạnh bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy, bên trong đức hạnh viên mãn, bên ngoài hình tướng đoan nghiêm, trong ngoài tương ưng, mọi sự ưa thích đều vui vẻ. Tôn giả Nan-đà có ba mươi tướng. Tôn giả A-nan có hai mươi tướng. Tướng biểu hiện tuy nhiều, nhưng đối với oai nghi của Sa-môn không thể đều hoàn bị. Tỳ-kheo nầy, tướng tuy chỉ có mười một, nhưng lễ nghi đều đủ. Do đủ nên tạo thích hợp, không nơi nào đi đến mà không ứng kết. Người lớn, trung niên, trẻ em trông thấy thảy đều hoan hỷ. Gọi là bên trong sung mãn, tức bốn đế như có tám chánh chân vi diệu. “Ngôi nhà tinh thần” (Tâm) thật sự sung mãn, chưa từng hao tổn. Thế nên xưng là đầy đủ các hạnh nơi pháp của đạo phẩm là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà-đà-tiên thuyết giảng vui vẻ, không làm tổn thương ý người khác: Là vì Tỳ-kheo nầy luôn thận trọng nơi miệng, không phạm bốn lỗi lầm. Phàm kẻ sĩ xử thế, búa rìu ở trong miệng, sở dĩ chém thân là do nơi lời nói thô ác. Tỳ-kheo nầy đối với các lời nói xấu ác ấy đã vĩnh viễn dứt trừ, luôn chọn lời, từ từ, suy xét rồi sau mới bày tỏ. Ngôn từ phát ra hợp ý tất khiến hoan hỷ. Hoặc ở nơi người lớn tuổi, trung niên, trẻ con, theo chỗ ưa thích, đều có thể vừa ý. Sở dĩ gọi Tỳ-kheo ấy là có thể khéo nói năng, vì có Tỳ-kheo đã chứng đắc A-la-hán, tuy lậu đã dứt hết, vẫn còn có lỗi lầm của miệng. Nhân đi qua sông, nước dần dần thêm sâu, liền buông lời ác nói: Đúng là thứ nô tỳ xấu xa, thuộc giống dâm dật! Lúc ấy, thần sông là nữ nghe lời ác đó, tâm niệm: Tỳ-kheo nầy vừa buông lời ác như thế là muốn bước sâu vào trong nước. Do Tỳ-kheo ấy, ta nên thưa hỏi Đức Phật. Liền đi đến hỏi Phật: Có Tỳ-kheo đi qua sông, nước mới sâu một tí liền mạ lỵ, nói: Đúng là thứ nô tỳ xấu xa, thuộc giống dâm dật! Theo pháp của Tỳ-kheo có nên mạ lỵ không? Đức Thế Tôn bèn sai một Tỳ-kheo tới gọi Tỳ-kheo mạ lỵ kia đến chỗ Phật. Tỳ-kheo kia liền tới. Đức Phật bảo: Ông là Sa-môn, vì sao lại mạ lỵ như vậy. Thưa: Đệ tử không mạ lỵ, chỉ nói: Nô tỳ là loài dâm dật. Thần sông nữ nói: Thực sự là Tỳ-kheo đó đã mạ lỵ. Xin Đức Thế Tôn nói rõ về gốc ngọn của sự việc nầy: A-la-hán có còn giận dữ không? Vì sao lại mạ lỵ? Đức Thế Tôn nói: A-la-hán không còn giận dữ, chỉ do thói quen của miệng. Tỳ-kheo nầy từng là Bà-la-môn. Pháp của Bà-la-môn là thích mạ lỵ, như nói: Nô tỳ trong thai, không hẳn là giận dữ, mạ lỵ, chính là do tập quán của miệng mình. Thêm nữa, Tỳ-kheo ấy, trong năm trăm đời trước là chồng của cô, bấy giờ thường hay mắng cô là nô tỳ! Ở đây là do thức của đời trước chưa dứt trừ, nên lại mạ lỵ. Thần sông nữ thưa: Tuy đã là A-la-hán, mà còn có lỗi lầm của miệng, con không nhờ vào A-la-hán. Con nguyện về sau sẽ cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, độ thoát tất cả chúng sinh, như Đức Phật, không khác. Đức Phật nói với Tỳ-kheo: Ông nên hướng tới thần sông nữ kia xin sám hối. Tỳ-kheo vâng lời. Thần sông nữ cũng nên hướng tới Tỳ-kheo để sám hối, lễ bái, xong xuôi thì đều ra đi. Tuy đã dứt hết lậu, nhưng vẫn còn có lời nói thô ác, huống chi là đối với phàm phu mà không thận trọng nơi lời nói sao! Do nhân duyên nầy nên biết Tỳ-kheo Bà-đà-tiên là người giữ gìn lời nói bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ma-ha Ca-diên-na là hành An ban (niệm hơi thở) bậc nhất: Vì trong số một ngàn hai trăm vị đệ tử, chỉ có Tỳ-kheo nầy cùng với La Vân (La-hầu-la) là có thể hành An ban bậc nhất. Do đâu nhận biết được? Chuyện kể ngày trước La Vân đi theo Đức Phật. Đức Phật dùng phương tiện khéo léo hiện bày phần bụng của cổ chân cho La Vân trông thấy. La Vân thấy rồi, liền nghĩ: Ông già nầy đã bỏ ngôi vị Chuyển luân vương để mang hình tướng như thế, tu đạo, hành khất thực, cớ sao không xấu hổ. Ta không thể lại hành khất thực, mà nên trở về. Ông nội ta là vua Tịnh Phạn vẫn còn ở ngôi, ta sao có thể làm công việc khổ nhọc nầy! Đức Phật nhận biết những ý nghĩ trong tâm của La Vân, nên bảo La Vân: Con nên biết! Trời đất hãy còn vô thường, huống chi là ngôi vị Chuyển luân vương của con, há có thể trường tồn! Nên hiểu rõ về vô thường, có hình tướng đều là khổ, thân vô ngã, đều sẽ hao mòn, hoại diệt, không thể trụ mãi. La Vân tư duy về bốn vô thường, ý cũng chưa tỏ ngộ. Đức Phật dạy hành An ban thủ ý (Quán sổ tức). An ban là hơi thở vào ra. Hơi thở dài cũng biết. Hơi thở ngắn cũng rõ. Hơi thở ngắn là từ tim trở lại. Hơi thở dài là từ giữa gót chân đến. Lại nhận biết về lạnh, ấm. Hơi thở vào là lạnh. Hơi thở ra là ấm. Sở dĩ nhận biết dài ngắn, lạnh ấm, là muốn biết chỗ hướng tới của năm ấm là sâu, cạn. Theo hơi thở ra vào để tìm biết gốc ngọn của nó, cũng biết nguyên do của bệnh. Nếu lúc hơi thở vào, không biết nó từ đâu tới, hoặc khi hơi thở ra, cũng không biết nó đi đến nơi nào, là hiểu rõ về không đến đi. Bệnh cũng lại như thế. La Vân tư duy như vậy bèn chứng đắc A-la-hán. Ma-ha Ca-diên-na hành An ban không giống với La Vân. Đối với hơi thở luôn tự tại, hoặc muốn từ mắt, từ tai, tùy ý ra vào. Lại nhắm mắt, ngăn tai, mũi, miệng, hơi thở liền theo chín mươi vạn lỗ chân lông mà ra. Do đâu nhận biết hơi thở đã theo lỗ chân lông ra ngoài? Tỳ-kheo nầy vốn là tộc họ của vua, anh em hai người, người em đoan nghiêm, đẹp đẽ. Lúc ấy, vua cha băng hà, người anh tức nên nối ngôi. Người em tự cho mình là hơn, nên ngầm mong các quan suy cử. Nhưng phép nước theo lệ không được vượt thứ bậc, liền tôn người anh lên ngôi. Người em tâm không phục, không chịu xưng thần, tự cầu ra khỏi nước. Vua tức đồng ý. Lại cầu xin quân binh, vua cũng cho tự ý. Bèn tuyển chọn tám vạn voi lớn, trang bị áo giáp, đao kiếm, xong xuôi thì nghĩ: Nước nào là hùng mạnh nhất, ta muốn tiến đánh nước ấy. Nước Tỳ-xá-ly là quốc gia mạnh nhất trong các nước, nên đem binh đánh lấy, nhằm làm chỗ dùng cho mình. Người em liền dẫn quân binh tiến tới. Được nửa đường, khi đó, có năm trăm khách buôn đi tìm châu báu trở về, muốn đến nước Ma-kiệt, giữa đường thì gặp đoàn quân binh kia. Người em hỏi đám khách buôn: Người trong thiên hạ, về hình tướng, dung mạo, đã từng có ai hơn ta chăng? Các khách buôn liền cười. Vua em hỏi: Vì sao mà cười? Đáp: Là chúng tôi tự cười mà thôi. Lại hỏi: Cười chính là có ý gì? Vì sao không nói ra? Đáp: Vua nếu không giận, thì mới dám nói. Vua em bảo: Nên nói ra, hoàn toàn không giận các ngươi. Khách buôn nói: Tôi nghe có vương tử của vua Bạch Tịnh, tên là Tất-đạt, thân cao một trượng sáu, sắc thuần là vàng ròng, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Bấy giờ, vua em – tức là Ca-diên-na – nghe đám khách buôn nói như thế, tâm ý kinh sợ: Tất-đạt nếu biết ta đến đây, ắt sẽ hưng binh đón đường về hiện ra mà đánh. Tức thì cho quân binh dừng lại giữa đường, không dám tiến lên trước nữa. Người nước Tỳ-xá-ly nghe vua kia hưng binh kéo tới đánh nước mình, không thể tự yên tâm, nên đến thưa hỏi Phật: Làm sao để tai ương nầy được qua khỏi? Đức Phật bảo: Không khổ. Ta tự hóa giải. Đêm ấy, Đức Thế Tôn liền đi đến chỗ có quân binh hiện thần biến, ở trong hư không ngồi kiết già, ánh sáng như núi vàng tỏa chiếu khắp đại chúng. Ca-diên-na ngẩng đầu nhìn thấy, hỏi: Ông là người gì? Đáp: Ta là người mà đám khách buôn đã nói với ông đấy. Liền nói: Khách buôn đã dối ta. Vừa rồi họ không nói ông có thể phi hành, mà nay hiện bày phi hành nơi hư không. Ca-diên-na càng lo sợ vì có thể bị hại, nên chấp tay hỏi: Không rõ đến đây là muốn dạy bảo điều gì? Đức Thế Tôn đáp: Chớ nên sợ hãi! Ta không hại ông đâu. Ta gọi là Phật, luôn cứu độ tất cả. Ta có pháp cam lồ vi diệu, ông muốn nghe chăng? Đáp: Xin được nghe. Phật quán xét về căn của Ca-diên-na, nên theo pháp An ban mà được độ, liền vì Ca-diên-na nói về pháp giữ hơi thở ra vào, nhận biết hơi thở dài ngắn, ấm lạnh. Ca-diên-na nghe Đức Phật thuyết giảng, tâm liền tỏ ngộ, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền giải tán quân binh, cầu làm Đạo nhân, Phật liền thâu nhận, nói: “Thiện lai Tỳ-kheo!”, tức thành Sa-môn. Lại tư duy về An ban, phân biệt về thân bốn đại, có ba mươi sáu vật bày rõ xấu ác, bất tịnh, tức thì đạt được quả vô lậu cực diệu. Thế nên gọi trong các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ma-ha Ca-diên-na là người hành An ban bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-đầu-bàn là người luôn suy xét về ngã, vô thường bậc nhất: Vì Tỳ-kheo nầy thường giữ hạnh cung kính. Nếu gặp các vị Trưởng lão, Sư phụ, thì thờ lạy. Hoặc gặp người trung niên thì kính xem như anh. Đối với người nhỏ tuổi thua mình thì yêu mến, xem như em. Luôn khiêm cung hết mực, nên thọ báo là thân tướng cao lớn, đẹp đẽ, được làm Tỳ-kheo hầu cận gần Phật. Tuy có hình tướng cao lớn nhưng không hề tự thị, luôn suy xét về thân vô ngã, vô thường, tuệ sáng thấu đạt, tâm dứt hết thị phi nên có thể bỏ hình tướng, diệt kiêu mạn, khiêm tốn đứng đầu. Do đâu nhận biết là hình thể cao lớn, đẹp đẽ? Thời gian Đức Phật mới thành đạo, hóa độ ba anh em ông Ca-diếp, có ngàn Tỳ-kheo. Du hóa đến nước Ma-kiệt, độ vua Bình-sa, sắp trở về bản quốc. Trước sai Ưu-đà-di báo cho vua Tịnh Phạn biết: Sau bảy ngày nữa, Đức Phật và đại chúng sẽ về thăm. Vua cha nghe tin ấy, vui mừng khôn xiết, liền ban lệnh chuẩn bị xe, ngựa, sửa sang đường sá bằng phẳng, quét dọn, rưới nước, đốt hương, để đợi Đức Như Lai. Đức Phật dẫn một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đi qua thành Ca-tỳ-la-vệ. Như Lai tâm niệm: Nay phụ vương tất sẽ tới nghênh đón, không thể khiến phụ vương vì tôn kính Phật mà thân phải cúi lạy. Nên hiện thần túc, bay lên không mà đi, cách mặt đất khoảng ngang đầu người, nhằm khiến tay của vua cha chạm vào chân Như Lai mà thôi. Sở dĩ như thế là vì Phật tuy đức quý, nhưng không muốn cha mẹ phải lễ lạy mình. Lúc nầy, Tỳ-kheo Ưu-đầu-bàn đứng bên phải Đức Như Lai, Lực sĩ Mật Tích đứng bên trái, thân Như Lai chỉ cao tới vai Tỳ-kheo nầy. Vua cha hỏi: Các vị hầu hai bên Phật là những người gì mà cao lớn như vậy? Đáp: Bên phải là Tỳ-kheo Ưu-đầu-bàn, bên trái là Kim cang Lực sĩ, quỷ Duyệt-xoa. Lại hỏi: Họ là người của những nước nào mà khác lạ như thế? Đáp: Là người nước Ma-kiệt. Lại hỏi: Đó là thân do thần túc hay là thân do cha mẹ sinh ra? Đáp: Là thân do cha mẹ sinh ra, không phải là thân thần túc. Những người họ Thích suy nghĩ: Thần đức của Đức Như Lai là không thể nghĩ bàn, mới khiến quỷ ác La-sát, người cao lớn hộ vệ hai bên. Do nhân duyên ấy, nên biết thân của Tỳ-kheo đó là cao thấp. Tỳ-kheo nầy hầu cận hai bên Đức Phật, luôn muốn ngăn che Như Lai. Chư Thiên, người đời do đấy đều lo. Như Lai có hai thứ thân: Một là Pháp thân. Hai là Nhục thân. Tỳ-kheo nầy chỉ yêu quý nhục thân sắc vàng ròng, không yêu quý Pháp thân vô lậu. Pháp của đệ tử thân cận là nên dặn dò, e bỏ mất Pháp thân, sẽ thiếu sót đối với vị lai. Do hai sự ấy nên Đức Như Lai đã mở bày để bằng Tôn giả A-nan. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Câu-ma-la Ca-diếp có thể luận bàn đủ loại: Vì Tỳ-kheo nầy thường vì mọi người diễn nói rộng về bốn đế. Lúc ấy, gồm luôn việc tán tụng, dẫn thí dụ để so sánh. Nêu một đế là một kệ tán rồi dẫn một dụ, cho đến bốn đế cũng đều như thế. Do đấy nên gọi là luận bàn xen lẫn bậc nhất. Câu-ma-la là trẻ thơ. Ca-diếp là họ. Câu-ma-la Ca-diếp tức là con trai của đồng nữ. Do đâu nhận biết như thế? Chuyện kể thời xưa có một Trưởng giả tên là Thiện Thí, giàu có vô lượng. Nhà có người con gái chưa xuất giá, một hôm ở nhà ngồi gần lửa, hơi nóng nhập vào thân bèn thành có thai. Cha mẹ kinh ngạc mới vặn hỏi về nguyên do. Cô gái thành thực thưa là không biết vì sao như vậy. Cha mẹ lại hỏi lần nữa và dùng gậy đánh đập, nhưng người con vẫn không đổi lời. Cha mẹ bèn tâu lên vua. Vua lại cật vấn, cô gái cũng thưa như đã thưa với cha mẹ không khác. Vua phán là sẽ giết chết, cô gái tức thì than oán: Thiên hạ đúng là đang có vua vô đạo, giết oan kẻ vô tội. Tôi nếu là bất lương thì tự có thể giữ lấy để tra xét lại. Thấy kẻ oan như thế, vua liền cho kiểm lại, trình lên như lời cô gái đã nói, không thêm bớt gì khác. Vua nói với cha mẹ cô gái: Ta muốn thâu nạp. Cha mẹ cô gái thưa: Tùy ý nhà vua thâu dụng đứa con gái đã chết ấy. Vua liền cho vào nội cung, tùy thời chăm sóc. Ngày tháng đã đủ, sinh được một bé trai, khôi ngô khác thường, theo thời gian khôn lớn, xuất gia học đạo, thông sáng rộng hiểu, tinh tấn không dừng, nên sau đấy đắc đạo A-la-hán trở về độ cha mẹ. Bấy giờ, có quốc vương tên là Ba Tiết, tin theo tà kiến điên đảo, không biết đời nầy đời sau, làm thiện được phước, làm ác nhận tai ương, cho chết thần thức diệt, không còn thọ sinh, không tin có Phật, không biết Niết-bàn. Vua dùng lá sắt lá đồng quấn quanh bụng, sợ trí tràn ra ngoài, khoe khoang, suy tính riêng tự cho là không ai bằng. Lúc nầy, Đồng Ca-diếp đi đến cửa hoàng cung. Vua thấy Ca-diếp y phục khác thường, bước đi ung dung, oai nghi chỉnh tề, bèn đến gần vấn an, bàn luận. Vua hỏi Đạo nhân: Đạo nhân thường nói: Làm thiện có phước, tạo ác phải nhận tai ương. Như nay trong tộc họ nhà tôi có một người hết lòng làm thiện, lúc lâm chung, tôi và nhiều người cùng đến đứng bên cạnh, nói với người kia: Như những việc ông đã làm thì sau khi qua đời phải được sinh thiên. Vậy nếu sinh lên cõi trời, ông phải trở về báo cho chúng tôi biết. Ông ấy chết đã lâu rồi, nhưng chẳng thấy trở về báo cho hay. Theo đấy tôi nhận biết làm thiện là không có phước. Đạo nhân đáp lời vua: Phàm là người trí thì nêu thí dụ tức tự hiểu. Ví như có một người bị rơi vào hầm nhà xí đầy phân dơ, được người kéo ra, tắm gội sạch sẽ xong, cho mặc y phục đẹp đẽ, dùng hương xông ướp thân, an tọa nơi giường cao. Có kẻ nói với người ấy: Ông nên trở lại trong hầm nhà xí ấy đi! Thế người đó có chịu vào chăng? Vua bảo: Không chịu. Đạo nhân nói: Người sinh lên cõi trời so với dụ cũng như vậy. Nơi cõi trời hoan lạc với năm dục tự mặc ý, dùng cam lồ làm thức ăn, ăn uống tự tiêu hóa không lo về đường bài tiết, thân thể thanh khiết, hơi miệng thơm tho, nhìn xuống thế gian cũng như chuồng trại nuôi heo, giả sử muốn đi đến, chỉ ngửi mùi hôi thối là liền quay trở về. Theo đấy mà nói thì sao có thể cùng báo cho biết? Thí dụ như thế đã so sánh nêu ra mười thứ sự, tâm ý của vua được mở bày, thông tỏ, tin nơi tam tôn. Do nhân duyên ấy, nên gọi Tỳ-kheo Đồng Ca-diếp có thể bàn luận nhiều loại bậc nhất. * Sở dĩ xưng Tỳ-kheo Diện Vương mặc y xấu rách, không hề xấu hổ. Có thể gọi là đã hành mười một hạnh Đầu-đà chăng? Hoặc có người nói: Không phải. Vậy do đâu cho là bậc nhất? Tỳ-kheo ấy mặc một thứ y, trọn đời không đổi. Làm sao nhận biết việc đó? Tỳ-kheo nầy vốn là con cái thuộc họ Thích, lúc mới sinh có thần đức dị thường. Người mẹ khi mới mang thai, đã thỉnh Phạm-chí đến xem tướng. Phạm-chí bảo: Đứa bé nầy trên đầu có tướng “mũ trời”. Bà mẹ nghe Phạm-chí nói như thế thì vui mừng, nhưng giả vờ không vui, suy nghĩ: Phàm là “mũ trời” là tướng của vương giả. Trong một nước không thể có hai vua, sợ nhà vua sẽ hại đứa bé, do đấy nên không vui. Sở dĩ trong lòng vui vẻ vì nếu thật là bậc vương giả thì tự nhiên sẽ có che chở, đâu còn lo không ai cứu giúp. Ngày tháng vừa đủ, sinh được một bé trai, trên đầu có bóng của “mũ trời”. Lại thỉnh Phạm-chí đến đặt tên. Phạm-chí nói: Trên đầu có tướng vua, lại không thể lìa tướng ấy, nên đặt tên là Diện Vương. Vua Tịnh Phạn nghe được, tâm mang sầu lo: Đứa bé nầy có tướng vương giả, về sau tất đoạt ngôi vị của ta, nên như thế nào đây? Nếu muốn giết ngay thì tội không đáng chết, còn như muốn bỏ qua thì sợ tất sẽ đoạt ngôi ta. Do dự, lo buồn không thể tự an. Thời gian Đức Thế Tôn trở về thành Ca-tỳ-la-vệ, vua tuyên lệnh cho các gia đình họ Thích, nếu có anh em hai người phải khiến một người xuất gia hành đạo theo hầu Đức Phật. Đứa trẻ nầy lại chỉ có một, nên không thể khiến xuất gia trong số năm trăm nam tử họ Thích. Thế nên vua càng sầu lo. Năm Diện Vương được mười tuổi, tâm tự suy niệm: Giả sử là Chuyển luân Thánh vương cũng lại vô thường, lại không bằng những nam tử họ Thích đã xuất gia hành đạo. Thân người khó được, Phật xuất hiện ở thế gian khó gặp. Thốt nhiên được gặp ra đời, phải nên xuất gia học đạo. Liền thưa với mẹ: Con muốn xuất gia hành đạo. Mẹ bảo: Mẹ chỉ có một mình con, nếu bỏ mẹ đi xuất gia thì mẹ sao sống nổi. Diện Vương bèn tâu với vua Tịnh Phạn: Con muốn xuất gia, vua sẽ cho phép chăng? Vua Tịnh Phạn hoan hỷ bảo: Rất nên như thế. Diện Vương thưa: Tự xét chỉ một mình, nếu xuất gia thì mẹ không ai nương cậy. Lấy đó làm buồn! Vua nói: Con nếu có thể xuất gia, ta sẽ xem mẹ của con như chị gái, phân nửa nước để cung cấp. Diện Vương hoan hỷ, liền trở về nhà thưa lại với mẹ mọi sự việc, mẹ tức đồng ý. Lúc sắp xuất gia, Diện Vương mặc một lớp y phục bằng dạ trắng, đi tới chỗ Đức Thế Tôn xin được xuất gia. Đức Phật bảo: “Thiện lai Tỳ-kheo!”, liền thành Sa-môn. Phật chế Tỳ-kheo có ba y. Tỳ-kheo Diện Vương nầy tự tay nhuộm y phục dạ trắng ấy, dùng làm cà-sa, ngoài ra đều không dùng y khác. Bạch Phật: Đệ tử chỉ muốn trọn đời mặc một y nầy, xin Đức Thế Tôn cho phép. Đức Phật im lặng chấp thuận. Từ đấy trở đi, luôn mặc một y ấy, nên Đức Thế Tôn nói: Trong số các đệ tử của Ta, người mặc y xấu, rách, không ai hơn Tỳ-kheo Diện Vương. Ở trong tám điều suy niệm của bậc Đại nhân, vị ấy là người thiểu dục, tri túc bậc nhất. * Sở dĩ gọi La Vân là người trì giới, không hủy phạm. Hoặc có người nói: La Vân vui thích nói dối, vì sao bảo là trì giới. Hoặc có người nói: La Vân không nói dối, chỉ là tự giận Đức Phật. Do đâu giận Phật? Do Phật không làm Chuyển luân Thánh vương. Nếu làm Thánh vương sẽ có tám vạn bốn ngàn đại thần, tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, voi, ngựa, xe cộ, mỗi sự đều có tám vạn bốn ngàn. Bỏ ngôi vị như thế mà làm Sa-môn, hành khất khắp chốn đây đó, không đáng xấu hổ sao? Vì xét cái lợi của Thánh vương, nên La Vân giận trách Đức Như Lai, tạo nói dối. Có người hỏi La Vân: Đức Như Lai hiện ở đâu? Như Lai thật sự đang ở tại Tinh xá Kỳ Thọ, nhưng La Vân đáp: Ở tại vườn Trú Ám. Thật sự đang ở tại vườn Trú Ám thì nói dối là ở tại Kỳ Viên. Vọng ngữ thường xuyên, lừa dối người lui tới. Tôn giả A-nan bạch Phật: La Vân vọng ngữ. Phật cho gọi La Vân tới, hỏi: Con thật có vọng ngữ chăng? La Vân thưa: Thật có. Đức Phật bảo: Nầy La Vân, vì sao con lại tạo vọng ngữ như thế? Ta sở dĩ bỏ ngôi vị Thánh vương là vì ngôi vị ấy không thể làm nơi chốn nương dựa, đều quy về vô thường, không trường tồn. Cho dù là Đế-thích, Phạm vương đều cũng không thể giữ lấy mãi, huống chi là Thánh vương mà có thể dựa cậy mãi được sao? Nầy La Vân! Ta trước sau đã xả bỏ ngôi vị ấy là không thể tính kể, mà con thì chỉ mới buồn giận! Đức Phật bảo La Vân: Con đi lấy nước đem lại đây. La Vân liền múc đầy bát nước trao cho Như Lai. Đức Phật bưng lấy bát nước, nói với La Vân: Con thấy nước nầy chăng? Thưa: Đã thấy. Đức Phật nói: Nước nầy hiện đầy nơi bát không thiếu, giảm, dụ cho việc trì giới đầy đủ, không giảm, mất. Đức Phật đổ bớt một nửa nước trong bát, nói với La Vân: Con thấy nước nầy chăng? Thưa: Đã thấy. Đức Phật bảo: Nước nầy đã mất một nửa, dụ cho giới không đầy đủ. Lại đổ hết nước trong bát ra ngoài, chỉ cho La Vân thấy và hỏi: Con thấy bát không chăng? Thưa: Đã thấy. Đức Phật bảo: Phạm giới hoàn toàn, dụ như bát không. Lại đem bát úp lên đất, chỉ cho thấy, bảo: Con thấy chăng? Thưa: Dạ thấy. Đức Phật dạy: Người đã phạm giới hoàn toàn sẽ bị đọa nơi địa ngục, dụ như miệng bát áp sát nơi đất. La Vân từ khi được Đức Phật khuyên dạy trở về sau, chưa từng phạm lần nữa, dù là mảy may, thế nên gọi là trì giới bậc nhất. Hoặc nói: Lại còn có sự việc khác. Tôn giả Thân Tử (Xá-lợi-phất) dẫn La Vân vào thành Xá-vệ khất thực. Lúc ấy, có Bà-la-môn thấy La Vân đi sau, liền khởi ý ác đánh vào đầu La Vân, máu chảy ướt cả mặt. La Vân tức sinh niệm ác: Quyết phải tạo phương tiện để báo oán nầy. Tôn giả Thân Tử nhận biết tâm niệm vừa sinh của La Vân, liền lau sạch máu nơi đầu mặt của La Vân, rồi bảo: Nên nhớ nghĩ đến cha mình là Đức Thế Tôn, thời xưa, lúc làm vua Tu Niệm, có kẻ tới xin mắt, liền móc mắt thí cho, cũng không hối hận. Khi tọa thiền trong vườn, bị vua chặt đứt tay chân, cũng không khởi giận. Hoặc lúc làm voi, lấy ngà cho người, cũng không chán mệt. Nay con vì sao lại khởi niệm ác ấy? La Vân nghe thầy nói như thế, liền tự trách mình: Ta nay vì sao lại có tâm ác hướng tới kẻ kia? Tức hành nhẫn như đất, không hề khởi tâm hại, dù chỉ là mảy may. Bấy giờ, kẻ đánh vào đầu La Vân bị đọa vào địa ngục Vô Trạch. Do nhân duyên như trên, nên biết La Vân là trì giới bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bàn-tha có thể ẩn hình không hiện: Vì Bàn-tha nghĩa là đạo (đường đi). Có hai đứa bé song sinh đem bỏ nơi đường đi, được người nhận lấy đem về nuôi đến khôn lớn, đều xuất gia học đạo. Không có người đặt tên cho, nên mang tên là “Sinh nơi đường đi”, tiếng Ấn Độ gọi là Bàn-tha. Bấy giờ, nước Ma-kiệt thường hay có sấm sét, mưa dữ dội, năm thứ lúa thóc bị mất mùa. Vua tên là Tần-đầu-đồ-la, là tổ phụ của vua A-xà-thế, chiêu mộ khắp bốn phương, nói: Người nào có thể đẩy lùi được mưa dữ, vua sẽ ban tặng nhiều tài sản, châu báu. Lúc ấy, có Bà-la-môn tên Phạm-chí, giỏi về chú thuật, đến ứng mộ, thưa: Tôi có thể đẩy lùi mưa gió dữ. Vua liền chấp thuận, khiến hiện bày pháp thuật làm dứt mưa. Khi đó, thời tiết điều hòa, lúa thóc được mùa lớn, Phạm-chí tâu vua xin trả công cho việc đẩy lùi mưa gió dữ. Vua tuy miệng hứa nhưng rốt cuộc không ban tặng gì cả. Các quan, dân chúng thấy vua không giữ lời hứa, họ đều hứa báo đáp. Gia cảnh của Phạm-chí thiếu hụt, nên thường đến từng nhà để cầu xin. Nhiều nhà không cho nên cầu xin khắp đều không được. Phạm-chí rất tức giận, thề làm Rồng độc, để phá hoại lúa má, hoa màu của con người: Nếu có kẻ nào gieo trồng năm thứ lúa thóc, hoa màu, lúa má tươi tốt, thì sẽ hiện mưa đá giội xuống, tàn hại, khiến cho gốc, cành, thân, lá đều ngã rạp, tan tác. Thế rồi thì mạng chung liền sinh trong loài Rồng, tên là Vô Diệp. Bấy giờ, dân chúng nước Ma-kiệt gieo trồng lúa mạ vừa mọc, Rồng liền tuôn mưa đá làm hại. Như thế, trải qua mấy năm, dân chúng mất mùa, đói khổ, số người chết càng nhiều. Đức Phật thương xót, muốn hóa độ Rồng ấy, liền dẫn Mật Tích, A-nan, Bàn-tha, đi tới nước Câu Trì, tới thẳng chỗ trú của Rồng. Rồng độc thấy Phật tới, tâm ác dấy khởi, nói: Nay sẽ tuôn mưa đá sát hại Sa-môn nầy. Bèn mưa xuống toàn đá núi. Đức Phật quay sang bên trái nhìn Mật Tích. Mật Tích nhận biết ý Phật, tức dùng chày kim cang hướng tới đỡ lấy, khiến chúng rơi xuống thành núi đá lớn, lấp đầy vực sâu của Rồng. Rồng càng phẫn nộ, lửa từ trong mắt túa ra. Đức Phật quy sang bên phải nhìn Tỳ-kheo Bàn-tha, Tỳ-kheo Bàn-tha nhận biết ý Phật, muốn hàng phục Rồng, liền dùng thần túc ẩn hình, lấy nước dập tắt lửa từ mắt Rồng. Rồng lại từ trong tai, mũi, miệng tuôn ra lửa dữ, Bàn-tha cũng dùng nước dập tắt hết. Tỳ-kheo lại dùng thần lực, ở trong mắt tai mũi miệng của Rồng lần lượt ra vào, nhưng Rồng không thấy. Ẩn hình bên trong, lại hiện tay ra bên ngoài. Rồng thấy những biến hiện ấy, tức liền tâm phục. Đức Phật lại cùng với ba người kinh hành lui tới nơi phía trước. Trên đá có dấu vết của bốn người, nhưng chỉ có ba người hiện, Rồng liền thưa hỏi Phật còn một người hiện ở đâu. Đức Phật bảo: Là dấu vết của thầy ngươi. Lại hỏi: Thầy tên là gì, nay sao không hiện? Đáp: Tên là Bàn-tha. Phật muốn Bàn-tha hiện ra nơi xa. Tỳ-kheo nầy nhận biết ý Phật, liền hiện hình cách một trăm bước, Rồng từ xa trông thấy, hoan hỷ đảnh lễ. Phật bèn trao pháp Bát quan trai cho Rồng, từ đấy trở đi, gió mưa hòa thuận, mùa màng luôn được, muôn dân an ổn. Do nhân duyên như trên, nên biết Bàn-tha hiện thần túc ẩn hình là bậc nhất. * Sở dĩ gọi Chúc-lợi-bàn-tha có thể hóa hiện hình tướng, tạo từng ấy biến hóa: Vì Chúc-lợi nghĩa là rất tối tăm. Tỳ-kheo nầy tâm ý chậm, tối. Đức Phật dạy tụng hai chữ: Tảo chửu (Dùng chổi quét dọn) nhớ được chữ trước thì quên chữ sau, nhớ được chữ sau thì quên chữ trước. Trong sáu năm chuyên tâm tụng hai chữ ấy, ý bèn tỏ ngộ, tự lý giải: Chửu là cây chổi. Chửu là trừ bỏ. Cây chổi là dụ cho tám chánh đạo. Phân rác là cấu uế của ba độc. Dùng tám cây chổi chân chánh để quét trừ cấu uế của ba độc. Gọi là ý nghĩa của “Tảo chửu”, chính là như thế chăng? Nghĩ sâu về lý ấy, tâm tức mở bày, đắc quả A-la-hán. Gọi là hóa hiện hình tướng: Là dùng diệu tuệ của bốn đế hóa hiện hình tướng năm ấm. Nếu như có hóa hiện nầy, lại còn có trường hợp khác. Chuyện kể, có một Bà-la-môn tên là Phạm-thiên, cũng gọi là Thế Điển. Sở dĩ gọi là Thế Điển, vì người ấy xem rộng khắp các thứ sách vỡ, đồ tượng, bí sấm. Thiên văn, địa lý, không gì là không tham cứu, hành tập. Vì vậy gọi là Thế Điển. Tự cho là đức cao, mạng ở trên, là chủ mà đi, ai có thể cùng ta bàn luận, tranh luận? Nghe trong số các Tỳ-kheo họ Thích, kém nhất có Chúc-lợi-bàn-tha, trong đám Ưu-bà-tắc, kém nhất có Cù-mật-đa-la, Thế Điển bảo: Ta sẽ cùng với hai người nầy cùng luận bàn. Liền đi tới chỗ Bàn-tha nhằm cùng bàn luận, nói với Tỳ-kheo kia: Có thể cùng với tôi tranh luận chăng? Bàn-tha nói: Ta hãy còn có thể cùng với tổ phụ của ông là Phạm-thiên cùng tranh luận, huống chi ông là kẻ mù không mắt. Phạm-chí liền dựa theo lời nói hỏi vặn: Người mù và không mắt có những gì khác nhau? Bàn-tha im lặng không đáp, tâm niệm: Không dùng ngôn từ để cùng đối đáp. Nên dùng thần túc để cùng đáp. Liền dùng thần túc bay vụt lên hư không, cách mặt đất bốn trượng chín thước, ngồi kiết già. Phạm-chí ngẩng đầu nhìn thấy Bàn-tha hiện thần biến, trong lòng phát khởi tình cung kính, mong được đối đáp giản lược. Lúc nầy, Tôn giả Xá-lợi-phất đang kinh hành bên ngoài Tinh xá Kỳ-hoàn, dùng thiên nhĩ nghe Phạm-chí cùng với Bàn-tha tranh luận, biết là Tỳ-kheo kia ngôn từ không đủ, nên đã hiện thần biến để đáp lại, liền nghĩ: Ta nếu không đến nơi, Tỳ-kheo kia phải chịu thua, Phạm-chí không được độ. Tức thì dùng thần túc hiện thành hình Bàn-tha, khiến hình gốc của Bàn-tha không hiện. Hình hóa hiện hỏi Phạm-chí: Ông là trời hay là người? Đáp: Là người. Lại hỏi: Người, là nam tử chăng? Đáp: Là nam tử. Lại hỏi: Nam tử cùng với người có những gì khác nhau? Đáp: Không khác. Lại hỏi: Người là tên gọi được hợp lại. Nam tử là căn cứ theo hình tướng mà nói, sao cho là không khác? Ông vừa nói người mù, tức là không thấy đời nay đời sau có báo của thiện ác. Còn người không mắt tức là không có mắt trí tuệ để đoạn trừ kiết sử. Phạm-chí nghe biện giải như thế, tâm ý thông tỏ, liền được pháp nhãn thanh tịnh. Do nhân duyên như trên, nên biết Chúc-lợi-bàn-tha là biến hình bậc nhất. * Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Thích Vương thuộc tộc họ giàu sang, thiên tánh hòa nhã, dịu dàng: Vì chủng tánh gồm có bốn: Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Sở dĩ nói sang: Vì do làm Sa-môn, đồng một họ Thích, do đấy gọi là sang. Ví như bốn sông Hằng: Miệng bò, miệng sư tử, miệng ngựa, miệng voi, mỗi dòng đều có năm trăm nhánh, hội nhập vào biển lớn, cùng là một loại nước, không có từng ấy vị khác nhau, nên biển được gọi là lớn, là rất quý đối với trăm sông. Họ Thích cũng như thế, nên gọi là hào quý bậc nhất. Vua Chân Tịnh (Tịnh Phạn) có ba người em trai: Người em nhỏ nhất tên là Ngộ Tịnh, có đứa bé trai được bốn tuổi. Bấy giờ, vua Chân Tịnh đang ngồi tại cung điện chánh, họp trăm quan, vua tự suy nghĩ, nói: Con trai ta nếu không xuất gia, ta phải nên làm Thánh vương. Con trai ta đã sinh, phải nên làm Thánh vương, nhưng lại xuất gia rồi, ta còn dùng mũ “Thiên quan” nầy làm gì. Liền cởi mũ Thiên quan ném xuống đất, bảo: Có người nào nên làm thì làm. Các quan buồn bã, áy náy, tâm đều không vui. Lúc nầy, đứa bé trai con của Ngộ Tịnh, là Thích Vương đang dạo bước ở phía trước, trông thấy mũ Thiên quan nơi đất, liền cầm lên đội vào đầu, ngồi yên trên đất, dùng tay trái đỡ vai, tay phải xoa vuốt các tua nơi mũ. Vua Chân Tịnh cùng các quan đều ngạc nhiên, cho là lạ. Vì thế vua nói: Đứa bé nầy đúng là thiên sứ, hoặc có thể làm Thánh vương. Tướng Thánh vương của con trai ta đều thuận có nơi đứa bé nầy, nên mới khiến như thế. Các quan đều cùng tâu: Hoặc có thể như đại vương đã nói. Vua nghĩ ngợi, bảo: Tất-đạt đã xuất gia, lại thấy tướng của đứa bé nầy. Tức tự phế bỏ ngôi vua. Trải qua tám năm, nghe Tất-đạt đã thành Phật, hóa độ ba anh em ông Ca-diếp, đám đệ tử của ba người nầy được một ngàn Tỳ-kheo. Lại độ Ưu-ba-đề-xá, Câu-luật-đà, môn đồ của hai vị nầy được hai trăm năm mươi người, hợp thành một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, từ nước Ma-kiệt, muốn trở về Thích-sí-xá, trước sai Ưu-đà-di về thưa lại mọi tin tức. Vua Chân Tịnh nghe tin thì vô cùng hoan hỷ, liền đội mũ Thiên quan trở lại, cho người sửa sang đường sá thêm bằng phẳng, quét dọn, đốt hương để đón Đức Như Lai. Đức Phật đã về tới nơi, vua thấy các Tỳ-kheo, tuy tâm ý tinh thuần, nhưng dung mạo không được hiện rõ, nên đã cho tuyển chọn năm trăm người thuộc họ Thích, hình tướng đoan nghiêm, xuất gia làm Sa-môn, theo hầu Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Thích Vương là người có mặt trước nhất trong số ấy. Khi đó, Đức Phật ở tại Tinh xá, đại chúng vây quanh. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Luận khắp về chúng tánh, nên có ý tưởng về hào quý. Vua Chân Tịnh cũng đến đứng trong đại chúng hướng về Tỳ-kheo Thích Vương làm lễ. Các Tỳ-kheo đều ngạc nhiên về sự việc ấy. Đức Phật nhận biết ý của vua cha, muốn giải điều nghi của đại chúng, nên hỏi vua cha: Vì sao phụ vương lễ Tỳ-kheo nầy? Vua đáp: Sở dĩ lễ là do Tỳ-kheo nầy có hai việc hơn ta. Phàm là thiên (trời) có ba: Cử thiên, Sinh thiên và Thanh tịnh thiên. Ta chỉ có Cử thiên, Tỳ-kheo nầy còn có Sinh thiên, Thanh tịnh thiên. Sở dĩ nói Sinh thiên, là do lúc mới bốn tuổi, đã cầm mũ Thiên quan của ta đội lên đầu mình, ý tự nhiên sinh, không có người trao cho, nên gọi là Sinh thiên. Thanh tịnh thiên là nay đã lậu tận, kiết tận, không còn phiền não cấu nhiễm, nên gọi là Thanh tịnh thiên. Do hai việc nầy hơn ta, nên ta làm lễ. Do nhân duyên như thế, nên biết Tỳ-kheo Thích Vương thuộc tộc họ hào quý bậc nhất. HẾT - QUYỂN 5
|