ĐẠI TẠNG KINH TUỆ QUANG

25,釋經論部,1506 , 3,三法度論 ,【東晉 僧伽提婆譯】

Tập 25, Thích Kinh Luận Bộ ,số 1506 , 3 quyển, Tam Pháp Độ Luận , [ Đông Tấn Tăng Ca Đề Bà dịch ], Nguyên Huệ Việt dịch

 

 
 

SỐ 1506/3

LUẬN TAM PHÁP ĐỘ

Tác giả: Tôn giả Sơn Hiền.

Hán dịch: Đời Đông Tấn, Đại sư Cù Đàm Tăng Già Đề Bà.

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: ĐỨC

Biết sinh khổ vô lượng

Thiện tịch hướng an lạc

Do thương xót chúng sinh

Luân chuyển nơi nhiều kiếp.

Xả bỏ thân diệu thiện

Vì hết thảy thuyết pháp

Trí khắp diệt các nẻo

Cung kính lễ Tối giác.

Mở ba pháp môn nầy

Chốn công đức quy về

An lạc mọi chúng sinh

Lìa xa tất cả khổ.

Trước lễ bậc Thiện Thệ

Pháp cùng chúng vô thượng

Nay nói pháp Chân đế

Ba ba như diệu nghĩa.

Luận nêu: Nay nói ba pháp, xin hỏi bậc Tôn trưởng: Vì sao nói ba pháp? Ba pháp có nghĩa gì?

Đáp: Kinh nầy nhân nơi pháp, chỉ nêu bày về ba thứ tương tục. Ba pháp là giả tưởng.

Hỏi: Do đâu ba pháp được nêu bày?

Đáp: Kinh Phật nầy dựa nơi vô lượng tưởng. Chúng sinh luôn bị đời ác trược hủy hoại, thọ mạng do ăn uống mới tồn tại, muốn cầu nẻo chân, nên vì họ mà mở bày các tưởng, cùng khéo duy trì. Ba pháp nầy được nêu dẫn, vì tất cả thế gian cũng dựa nơi chân tưởng và giả tưởng. Do để mở bày tưởng nên ba pháp được nêu.

Hỏi: Đã đáp về việc nêu bày ba pháp, vậy xin nói rõ về ba pháp?

Đáp: Đức, Ác, Nương dựa, nhận biết rõ là pháp môn thiện thắng. Nhận biết rõ về chúng, tức biết rõ pháp môn thiện thắng. Ba pháp nầy là ba thứ căn bản của kinh nơi ba Phẩm, nên nói mỗi phẩm đều có ba Chân độ.

Hỏi: Có thể nói về ba phẩm, chỉ nêu như thế là có lỗi. Vì sao? Vì thiện thắng thì nên nói trước, sau đấy mới nói về Đức, Ác, Nương dựa, cần nhận biết rõ.

Đáp: Đã vui thích với chỗ hướng tới thì không nên nói. Ở đây, tất cả thế gian đều vui thích hướng đến thiện thắng, cho đến loài côn trùng cũng vui thích hướng tới an lạc. Vì sao? Vì cần ăn uống nên có chỗ cầu mong. Thiện thắng là vui thích, yêu mến tốt đẹp. Như vậy, nghĩa được so sánh để nói về thiện thắng. Thế gian có nhiều vui thích, hướng đến an lạc mà lại từ bỏ nhân của an lạc. An lạc là Đại Niết-bàn.

Lại không bệnh tật là nhiều an vui, hướng đến song lại từ bỏ nhân ấy. Như đã vui thích hướng tới thì không nên vì điều đó mà nói nữa. Ví như người hướng tới đạo, nếu đã biết rõ đạo thì không còn nói về đạo nữa, trường hợp kia cũng như thế, do đấy không có lỗi.

Hỏi: Vì sao nhận biết rõ về Đức, Ác, Nương dựa thì liền có thiện thắng? Đã từng có trường hợp thấy vàng được giàu sang, thấy thuốc thì bệnh không còn chăng? Thế nên không thể nói nhận biết rõ về Đức, Ác, Nương dựa mà có thiện thắng.

Đáp: Tuy có lời ấy, nhưng nghĩa thì không phải thế. Nên lấy thí dụ như đèn sáng. Như đốt đèn tức thì hủy hoại bóng tối, không phải đốt đèn rồi sau mới hủy hoại bóng tối. Như thế trí sinh tức có trí nhận biết về thiện thắng, là một nghĩa.

Hỏi: Đức gọi là những gì? Là số lượng chúng sinh, là sắc hương vị, đối chiếu để gồm thâu, vì tranh chấp, hàng phục?

Đáp: Ta muốn không vui thích từ tưởng tạo tác kinh, nhưng ở đây, đức là Phước, Căn, Không ác. Phước, căn, không ác, ba thứ ấy là tưởng của đức. Pháp bạch tịnh cùng quả của pháp, Ta cho đó là tưởng của đức, là tất cả được gồm thâu trong ba thứ ấy, nay nên nối tiếp hiển thị.

Hỏi: Đã nói về phước, căn, không ác. Vậy những gì là Phước?

Đáp: Phước là Tu, Thí, Giới, luôn luôn ở nơi thiện thắng, đó là phước. Cũng nêu rõ việc trừ bỏ kẻ ác, đó là phước. Là ba thứ tu, thí, giới, như đã nói.

Hỏi: Đã nói phước là thí, giới, tu. Vậy những gì là Thí?

Đáp: Vì đã gồm thâu kẻ khác, nên lúc xả bỏ của cải cùng tư nguyện và vô giáo (vô biểu) là ba thứ thí.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Thí là pháp, vô úy, tài. Tức pháp thí, vô úy thí và tài thí, ba thứ ấy là nói về thí. Pháp thí là thuyết giảng kinh, khiến ra khỏi thế gian. Vô úy thí là tám thứ, ba quy mạng đứng đầu. Như Đức Thế Tôn nói, quy y Phật là thí vô úy cho vô lượng chúng sinh. Không kết hận, không tạo pháp ác, chúng sinh cũng như thế.

Hỏi: Như có người nhận ba quy y cũng sát sinh, làm sao nói thí là vô úy đứng đầu?

Đáp: Không nói hết thảy chúng sinh, chỉ như ở đây tà kiến là si mê, nên sát sinh, trộm cắp tài sản kẻ khác, tạo các thứ ác. Người nhận ba quy y thì không làm các điều ấy, tức đã được chánh kiến. Nếu nhận ba quy y mà không có chánh kiến thì không phải là ba quy y. Thế nên thí cho vô lượng chúng sinh, thì vô úy đứng đầu. Không tiếc lẫn, hành tài thí, thì ăn uống là đứng đầu, vì gồm thâu kẻ khác nên thí. Cúng dường v.v… thì dùng hương hoa là đứng đầu. Tự mình làm, hoặc lại cùng làm, là mình, người cùng tạo đức nên được quả báo lớn. Ở đây là thí tịnh, nên phân biệt rộng, như kệ đã nói:

Ví như cây dùng gốc

Lúc lại dùng nơi cành

Hoặc cùng dùng cả hai

Là việc thường ở đời.

Như vậy phương tiện thành

Thí ấy được quả lớn

Có từ nhân duyên tịnh

Cùng công đức cũng thế.

Hỏi: Thế nào là Giới?

Đáp: Giới là hai thứ thân miệng được thâu giữ, không nhiễu hại kẻ khác. Giới tạo lợi ích có ba tướng, từ nơi thân miệng sinh.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Gồm thâu kẻ khác, không nhiễu hại kẻ khác. Cùng tạo lợi ích gồm thâu kẻ khác: Lúc đói khát, thiếu thốn, chúng sinh yêu quý mạng sống, nên rộng lòng tha thứ, không mưu hại. Lìa bỏ việc chiếm đoạt tài sản, thê thiếp của kẻ khác cũng như thế. Đây là việc gồm thâu kẻ khác. Lìa bỏ nói lời hai chiều, nói lời thô ác, nói dối, nói lời thêu dệt, là không nhiễu hại kẻ khác.

Lại nữa, bảy chi không bức bách kẻ khác, là không nhiễu hại họ. Bị các khổ bức bách, không có nơi chốn quy ngưỡng, nương dựa, thương xót cứu giúp họ là nhiếp phục kẻ khác. Thọ trì hai pháp ấy, hoặc phước nối tiếp sinh là tạo lợi ích. Ta từ nay lìa bỏ sát sinh, phát tâm, tức tạo lợi ích được tăng trưởng. Ví như tạo ra các vật dụng thì ngày càng có lời. Thọ giới tâm sinh thiện nên thọ nhận tương tục. Hạt đã diệt như khi gieo trồng có mầm, tạo lợi ích. Nếu không xả bỏ hành thiện tương tục, cho đến ngủ nghỉ cũng tăng ích phước, đây là tạo lợi ích, gọi là giới.

Hỏi: Thế nào là Tu?

Đáp: Tu là tu tập thiền, vô lượng, vô sắc. Tu ấy là đối với hành thiện, thế nên tu như hoa tỏa hơi thơm. Tập là tu như hành tập gần gũi vua. Ví như vua, quan khéo hành tập gần nhau, tất có kết quả. Như vậy tu tập tất được quả bạch tịnh.

Nói tu thiền, là nhớ nghĩ về nghĩa nơi bốn thứ ấy.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Thiền là lìa dục, quán, hỷ, khổ, lạc, là bốn thiền. Thứ nhất là đã lìa pháp dục ác, bất thiện. Duyên nơi thiện, buộc giữ tâm an trụ, đó là lìa dục. Thứ hai là lìa quán. Quán là hành vi tế đối với giác, như chuông rung có âm thanh khác, ở đây không còn nữa, gọi là lìa quán. Dục thì trước đã lìa. Thứ ba là lìa hỷ. Hỷ là tâm vui vẻ, như biển có sóng vọt lên, ở đây không còn cùng với dục, quán, nên nói lìa hỷ. Thứ tư là lìa khổ, lạc. Lạc là thân tâm không bị bức bách. Khổ là bị bức bách. Ở đây đều không còn, cùng với dục, quán, hỷ, nên gọi là lìa khổ, lạc. Bốn thứ ấy gọi là thiền.

Hỏi: Thế nào là vô lượng?

Đáp: Vô lượng là Từ, Bi, Hỷ, Hộ (Xả), là bốn quả giả tưởng làm vô lượng. Duyên nơi vô lượng chúng sinh nên là vô lượng. Cũng không thể tính kể về công đức, nên là vô lượng. Từ là tâm hành thương xót tất cả chúng sinh. Hết thảy chúng sinh luôn được hiện rõ nơi trước niệm, là Từ. Bi là thương xót các chúng sinh khổ não luôn ở trước mắt mình, nhớ nghĩ khiến họ lìa sầu não, là Bi. Hỷ là đối với chúng sinh có nhiều an vui, hạn chế mọi vui thích quá mức, là Hỷ. Hộ (xả) là không cầu, không nóng giận, nên tha thứ đối với các chúng sinh có lỗi lầm. Nếu chúng sinh làm ác thì không vui thích với điều ấy, là lại quán xét tự nghiệp của chúng sinh. Như thế là tha thứ đối với lỗi lầm, gọi đó là Hộ (xả).

Hỏi: Đã nói về vô lượng, còn vô sắc là thế nào?

Đáp: Vô sắc là Không, Thức, Vô sở hữu và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xứ là nương dựa, là bốn thứ. Không là trừ sắc, thấy vượt quá sắc, là lìa dục, nhất tâm duyên nơi không. Nơi không, buộc giữ tưởng là Không xứ. Chẳng nương nơi không, chỉ có thức, duyên nơi thức nên có Thức xứ, đó cũng là nương dựa. Không nương dựa nên hơn, như vô sở hữu, đấy gọi là Vô sở hữu xứ. Đối với tưởng thấy vượt quá, diệt tưởng thấy sợ hãi, nhất tâm là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, là cõi Vô sắc. Đó gọi là tất cả phước.

Hỏi: Căn là gì?

Đáp: Căn là không tham, không giận, không ngu si. Không tham, không sân, không si, đây là ba tướng của căn.

Hỏi: Đây là căn gì?

Đáp: Không phải là trước đã nói về gốc của đức, chỗ nào là tất cả hướng về gốc của pháp thiện thắng. Tùy nơi nghĩa, một thứ tăng thì phần còn lại cũng theo. Như không tham đối với thí tăng, không giận đối với giới tăng, không si đối với tu tăng. Lại nữa, không tham đối với tài thí tăng, không giận đối với vô úy thí tăng, không ngu si đối với pháp thí tăng. Đó gọi là ba thứ thí tăng trưởng.

Lại nữa, không tham đối với việc thâu phục kẻ khác tăng, không giận dữ đối với việc không nhiễu hại kẻ khác tăng, không ngu si đối với việc tạo lợi ích tăng. Đó gọi là ba thứ giới tăng trưởng.

Lại nữa, không tham đối với thiền định tăng, không giận dữ đối với vô lượng tăng, không ngu si đối với vô sắc tăng. Đó gọi là ba thứ tu tăng trưởng.

Lại nữa, không tham đối với không ác tăng, không giận dữ đối với nhẫn nhục tăng, không ngu si đối với đa văn tăng. Như vậy đối với lực, căn là như thế, nên biết về căn của tất cả hành thiện. Không tham là đối với các vật dụng hiện có không thấy lợi, không vướng chấp. Ý không giận dữ là diệt trừ mọi giận dữ. Không ngu si là dứt trừ si mê, nên gọi là căn.

Hỏi: Thế nào là Không ác?

Đáp: Không ác là nhẫn nhục, đa văn. Không ác, không có kẻ ác là giả tưởng theo thế tục.

Lại nữa, ác là tăng trưởng ác. Là không tăng trưởng ác, nên gọi là không ác, như đã nói. Không ác là nói về diệu thiện. Nhẫn nhục là chịu khổ. Sang, hèn, lực tự kìm chế, không giận dữ. Nhẫn nhục là chịu khổ. Sức mạnh của sang, hèn, tùy theo sự việc nên tự kìm chế, không phẫn nộ. Bị khổ bức bách mà tự kìm chế, là nghĩa gắng nhẫn nại. Bị sức mạnh của giàu sang bức bách, giận dữ nhưng không thể đáp trả, chỉ đối với kẻ tệ ác nên khởi giận dữ. Nếu đối với sức mạnh lớn đã bức bách, không dấy khởi phẫn nộ là nhẫn nhục. Bị sức mạnh của kẻ hèn kém gia hại thì tha thứ. Oán gia có thể đáp trả, nếu không đáp trả là tha thứ. Như thế, chúng sinh cóloi cùng hành lỗi lầm, đều gắng nhẫn nại. Nghĩa nầy nay sẽ nói. Khổ là lạnh nóng gió nắng, cực nhọc, bị các thứ khổ bức bách, phải tự kìm chế khổ ấy. Từ hai sự việc dấy khởi sầu não, đối với thân không nổi giận, đối với loài vô tình nổi tình, chúng sinh theo nhân duyên nêu bày, do đấy dựa nơi hai thứ bức bách thân, nên gắng nhẫn.

Hỏi: Đã nói về nhẫn nhục, còn đa văn là thế nào?

Đáp: Đa văn là đối với Khế kinh, A-tỳ-đàm, Luật. Người đa văn là nếu có thể trừ bỏ tham sân si, đó là đa văn, phần khác không phải là đa văn. Ba thứ Khế kinh, A-tỳ-đàm, Luật, trong đó Khế kinh là do bậc Nhất thiết trí thuyết giảng hoặc ấn chứng, hiển bày nẻo bạch tịnh, uế nhiễm, làm sáng rõ bốn Thánh đế, lìa vô lượng ác. A-tỳ-đàm (Luận) là phân biệt đầy đủ những thứ hiện có nơi Khế kinh. Luật là nói về oai nghi, phép tắc khiến được thanh tịnh. Đó gọi là ba thứ đa văn. Ở đây, luật là chú trọng chế ngự tham dục, A-tỳ-đàm chú trọng chế ngự giận dữ. A-tỳ-đàm là nói về tánh của các nghiệp, do đấy đoạn dứt giận dữ. Nhân nơi giận dữ dấy khởi phạm giới, do phạm giới nên bị đọa vào địa ngục. Khế kinh chú trọng chế ngự si mê. Khế kinh là nói về mười hai nhân duyên.

Hỏi: Đa văn ấy vì sao không ác?

Đáp: Không ác là nhận biết đúng đắn về nguyên do để chế ngự tâm ý. Nhận biết đúng đắn về nguyên do đúng đắn để chế ngự đúng đắn nơi tâm ý, đó gọi là không ác.

Nhận biết đúng đắn là thầy, đệ tử, đồng học có thể hành từ thiện. Nếu có thể hành từ thiện, đó gọi là nhận biết đúng đắn, là ba thứ thầy, đệ tử, đồng học ấy.

Hỏi: Thế nào là, hoặc từ là thầy, thiện là đệ tử, khả năng là đồng học, có thể nói như thế chăng?

Đáp: Không phải. Vì sao? Vì nêu bày không thích hợp. Từ, thiện, năng lực, là tướng của tri thức chân thật, là nói về chỗ nên quán xét nơi thầy, đệ tử, đồng học. Ở đây, tướng từ là tối thắng, hai thứ còn lại là cành nhánh được tạo thành. Hoặc từ là chỉ không thiện, nhận biết sự việc nhưng cũng không thể nói, như người cha tuổi già, không đức. Hoặc có năng lực, cũng không thiện. Hoặc tuy có từ, không thiện, nên chỉ dạy điều ác, như đám Lục sư v.v… Nếu có đầy đủ thì ba tướng thành tựu, nên biết đấy là tri thức chân thật.

Hoặc có thầy tạo lỗi lầm nên bị hoại. Hoặc đệ tử lỗi lầm. Hoặc đồng học tạo lỗi lầm. Do đó, thành tựu đầy đủ ba tướng, phải cầu tri thức chân thật.

Hỏi: Tri thức chân thật ấy, làm thế nào để chế ngự đúng đắn tâm ý?

Đáp: Chế ngự đúng đắn tâm ý là dừng dứt tưởng cử, hộ (xả) dừng dứt tưởng mạnh mẽ. Hướng tới tưởng cử, tưởng hộ là mạnh mẽ. Ở đây, dừng dứt là đình chỉ tâm ý buông lung. Kém so với đây là quán xét tướng mà nói. Dừng dứt cử là tâm ý nhu hòa. Sức lực thấp thì trợ giúp khiến tăng cao, ở đây là quán xét tướng mà nói. Cử, hộ là do tâm ý bình đẳng nên nhận giữ nẻo hành. Như khéo điều khiển xe, chậm thì khiến nhanh, gấp thì kìm chế lại, cùng hành mà hộ. Đây cũng như thế. Trong bốn vô lượng thì Hộ là không hợp ý. Đối với chúng sinh, dùng Từ đứng đầu để Hộ, trong ấy, ý bình đẳng Hộ.

Hỏi: Thế nào là nhận biết? Như tâm ý kém nên đề cao, tâm ý được để cao nên chế ngự, bình đẳng là Hộ (xả)?

Đáp: Không phải là tự theo chỗ mong muốn là chế ngự đúng đắn tâm ý. Do đó ở đây là tự tùy theo chỗ mong muốn là nghĩa tùy thời, tùy phương tiện, nếu có cao thấp thì đấy không phải là chế ngự đúng đắn về tâm ý.

Hỏi: Là chế ngự đúng đắn về tâm ý, còn thế nào là nguyên do đúng đắn?

Đáp: Nguyên do đúng đắn là có đủ phương tiện nơi quả. Nguyên do đích thực là hướng tới nẻo kia, hoặc nói về sự tu tập, có đủ phương tiện tạo quả là nguyên do đích thực.

Hỏi: Cái gì là gồm đủ?

Đáp: Trước đã nói về thiện thắng.

Hỏi: Những gì gọi là gồm đủ?

Đáp: Gồm đủ là khéo giảm bớt, chế phục căn và tiếp cận hành thiền. Đây là tư lương đối với hành thiện, nên gọi là gồm đủ, như hành đầy đủ các vật dụng. Gồm đủ là nghĩa cành nhánh. Ở đây là gồm đủ ba thứ: khéo giảm bớt, chế phục căn và tiếp cận hành thiền.

Hỏi: Thế nào là khéo giảm bớt?

Đáp: Khéo tổn giảm là mặc y phấn tảo, khất thực vô sự. Trong các xóm làng, giảm bớt gọi là khéo tổn giảm. Khéo tổn giảm là nghĩa thanh bạch, đạm bạc. Người thợ giỏi tạo ra hai thứ hình tượng, có tăng, có giảm. Giảm là công sức của đá, gỗ. Tăng là công sức của bùn đất, công sức tô vẽ. Người thợ hình thành hai thứ tượng. Nếu theo giảm là có thể chịu đựng được mưa gió. Thứ còn lại tuy có sắc đẹp nhưng không chịu đựng được gió mưa. Hai thứ người như thế là hàng tại gia, xuất gia. Hàng xuất gia tâm ý được giải thoát đối với những hệ lụy của gia đình, đã xả bỏ các thứ vật dụng, lấy giảm bớt làm điều tốt đẹp. Hàng tại gia, nhân nơi vợ con, thân tộc là tăng thêm, các sự việc được thành. Hàng tại gia tuy có các vật dụng làm mỹ vị, song ái cùng biệt ly thì sầu bi, tranh chấp v.v… Vì không phải pháp, nên bị mưa gió hủy hoại, tâm ý không nơi chịu đựng, như hình tượng tô vẽ bị gió mưa hủy hoại, không phải là hàng xuất gia. Như Đức Thế Tôn nói:

Như chim sức khí

Cổ xanh sắc đẹp

Trọn không thể bằng

Ngỗng, nhạn bay đi.

Tại gia như thế

Không bằng Tỳ-kheo

Mâu-ni xa lìa

Tọa thiền chốn vắng.

Đó gọi là khéo tổn giảm: Mặc y phấn tảo, khất thực, vô sự. Ba công đức tịnh nầy là gốc của mười hai thứ, chín thứ còn lại là quyến thuộc, nên nói riêng. Đức Thế Tôn muốn khiến cho Nan-đà hoan hỷ, nên cũng nói ba thứ ấy:

Nan-đà sao thấy ngươi

Y phấn tảo, vô sự

Biết rồi, vui nơi cao

Lìa bỏ dục, không nhiễm.

Do đấy nên biết ba thứ ấy là gốc.

Lại nữa, bốn ái sinh là y phục, thức ăn uống, vật nằm ngồi, và cõi. Trong ấy, vì do tham ái về y phục nắm giữ, nên nói về y phấn tảo. Vì do tham ái về thức ăn uống nắm giữ nên nói về khất thực. Vì do tham ái về vật dụng nằm ngồi, nên nói về vô sự. Nếu thành tựu ba công đức ấy là phương tiện diệt trừ ái cõi, là do khéo tổn giảm.

Lại nữa, có hai thứ chấp trước là ngã hành và ngã sở tạo tác. Trong đó, vì tham ái y phục, thức ăn uống, chỗ ngồi nằm, nên sinh khởi chấp trước về ngã sở tạo tác. Hành giả dùng ba công đức tịnh ấy để dứt trừ. Nếu diệt một sự, tất đoạn trừ chấp ngã, thế nên gọi là công đức tịnh.

Hỏi: Thế nào là y phấn tảo?

Đáp: Y phấn tảo là ba y, như y dệt bằng lông, tùy theo chỗ ngồi. Y phấn tảo nầy là một trong ba thứ kia. Có đủ ba y như y dệt bằng lông tùy theo chỗ ngồi. Nếu ba y chỉ là y phấn tảo, tức nên có chín công đức tịnh. Như vậy thì cùng trái với kinh chăng? Y phấn tảo là từ nơi vùng gò mả, nơi ngõ xóm làng, nhặt nhạnh các tấm vải cũ, hoại màu, giặt sạch để may thành. Ba y là Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-la-hội. Hoặc có trường hợp trì ba y, vì yêu thích y, nhân đấy miệt mài tìm cầu, do ái ấy nên là hết sức cực nhọc. Nếu không được nhiều thì ba y nên biết là đủ, tốt. Ái có hai thứ: ái tốt đẹp và ái nhiều. Ví như cầu tìm một người nữ đẹp đẽ hơn hết, hoặc tìm cầu hàng ngàn người nữ không xinh đẹp. Như vậy tham ái nhiều, dùng ba y chế ngự sinh ái tốt đẹp. Đức Thế Tôn vì hạng người ấy nói trì ba y có sáu loại: kiếp bối, tất cánh, tơ lụa, vải vỏ gai, vải dệt bằng vỏ cây, sợi gai, trong ấy nên dùng một thứ. Người kia thấy rồi thì ưa thích, việc đó gây nhiều cực nhọc, nên vì họ nói về y dệt bằng lông, kẻ ấy như thế là trì ba y dệt bằng lông. Hoặc ở trong chúng, hoặc tại giường tòa nơi gia đình, nếu thấy tòa ngồi tốt đẹp khác, liền dời đến để ngồi, thì vì những người ấy nói, cứ theo tòa đã ngồi, không nên vì tốt đẹp mà dời đổi tòa ngồi. Do mình là lớn nên dấy khởi ý cho kẻ khác là phải tùy theo tòa ngồi. Như vậy, đầy đủ ba thứ là y phấn tảo.

Hỏi: Vô sự là thế nào?

Đáp: Vô sự là ngồi nơi gốc cây, dưới bóng cây, hiện rõ. Thực hiện ngồi ngay ngắn, ngồi nơi gốc cây, dưới bóng cây, ngồi hiện rõ, hành đủ ba thứ ấy là vô sự. Bốn thứ nầy là để diệt trừ tham ái về nơi chốn. Ở đây, người tinh tấn thì hàng tín thí tạo nhà, các thứ giường tòa lớn, vật trải mềm mại. Kẻ giáo hóa tham chấp, Đức Thế Tôn biết rồi, vì họ nên giảng nói sự việc ấy. Không nên xả bỏ nhà của mình để tham vướng nhà kẻ khác. Nên xả bỏ nhà nầy để vui nơi vô sự. Kẻ kia đã ở nơi vô sự, lại tạo phòng ốc lầu gác cao lớn, đây cũng là điều không nên làm. Ở trong chỗ vô sự lại yêu thích phòng gác cao rộng, như dùng xe ngựa mà gồm đủ cả lừa. Do đó, nên thực hiện việc ngồi dưới bóng cây, bên gốc cây. Người kia đã thọ trì rồi, nhưng không thích cây nhỏ, xấu xí, mà lại cầu cây to lớn, tươi tốt, nhiều hoa quả. Đức Thế Tôn chỉ dạy những người ấy nên thọ trì việc ngồi nơi khoảng đất trống. Thí chủ của ông đã nuôi lớn thân ấy, sao lại làm sự việc như thế, nên học theo sự an lạc của bậc Thần tiên. Nơi khoảng đất trống, ông không có nhà cửa, không bị tham ái bức bách. Người kia đã ở nơi khoảng đất trống, liền khởi suy nghĩ: Ta đã làm được việc khó làm. Do xả bỏ ấy nên tư duy đúng đắn, tức liền nằm nghiêng ngủ cho đến mặt trời mọc.

Đức Thế Tôn chỉ dạy kẻ kia sự việc như thế, không thể như người cắt tai để trang sức nơi đầu. Do đấy, ông nên thọ trì việc ngồi ngay ngắn trên thảm cỏ, ngồi theo tư thế kiết già, quán xét thế gian đúng như thật mà tạo tự nghiệp. Như thế là gồm đủ vô sự.

Hỏi: Đã nói về vô sự, vậy thế nào là khất thực?

Đáp: Khất thực là ăn ngày một bữa, quá giờ thì không được uống các thứ nước khác ở nơi nghĩa địa. Người xuất gia có hai loại thọ thực: Thọ thực với chúng Tăng và khất thực. Thọ thực cùng với chúng Tăng là ngôi nhà luôn tinh tấn, được thọ thực đầy đủ, hoặc lại luôn tinh tấn vì để diệt trừ phiền não. Đối với bên ngoài, xây dựng phòng ốc, phân phát các thức ăn uống. Khất thực là lần lượt đi tới từng nhà để xin nhận thức ăn, kể cả có lúc nhận rất ít. Đó gọi là khất thực. Những cách sống khác là tà mạng. Người kia thọ thực với chúng Tăng, khởi suy nghĩ: Ta có thể đi đến nhà thí chủ kia để thọ thực. Liền dấy ngã mạn, cao ngạo. Đức Thế Tôn vì kẻ ấy nên chỉ dạy: Phải nên khất thực. Người kia khất thực rồi thì thường xuyên ăn uống trong nhiều thời gian, do đó bỏ phế việc tu học. Đức Thế Tôn chỉ dạy kẻ kia nên thọ thực một lần, như kệ nói:

Người nên khởi tâm niệm

Mỗi lần ăn, biết ít

Tức là thọ dụng giảm

Hạn chế, giữ mạng sống.

Người kia thọ thực ngày một lần rồi, chấp trước nơi thức ăn, liền dấy khởi suy niệm: Đức Thế Tôn chỉ cho phép uống nước, vậy nên tìm cầu đủ các thứ nước uống, do đấy bỏ phế việc tu học. Đức Thế Tôn chỉ dạy kẻ kia: Ông đã có được xứ khổ như thế, nên bỏ việc uống nhiều thứ nước. Lúc khát nước thường cũng có thể dứt trừ. Nên thọ trì việc quá giờ thì không uống các thứ nước khác. Người kia như vậy là thọ thực ít, biết đủ rồi, lại ưa thích tắm gội xoa chà thân thể. Đức Thế Tôn chỉ dạy kẻ ấy: Đây cũng là việc cao ngạo của tưởng thọ thực. Vì sao? Vì thân thể là từ trong việc ăn uống sinh ra, tuy có béo mập hết sức cũng sẽ đem bỏ nơi nghĩa địa. Do vậy, ông nên vui thích nơi nghĩa địa, quán xét về nơi ấy, từ chỗ thọ thực dẫn đến thân thể sình trướng, rữa nát, tan hoại, mỡ máu chảy tràn. Thấy rồi thì diệt trừ tưởng kiêu mạn kia. Như thế là khất thực đầy đủ. Đó gọi là khéo tổn giảm.

Hỏi: Thế nào là chế phục căn?

Đáp: Chế phục căn là không hại, giữ gìn, hàng phục. Chế phục căn là có thể chế ngự các căn, là hàng phục căn. Ba thứ ấy là không hại, giữ gìn, hàng phục.

Hỏi: Không hại những gì?

Đáp: Trước đã nói về căn. Hại căn là không thể điều khiển căn. Như loài ngựa tuy đoạn dứt nước, lúa thóc, nhưng không đường nào là không chạy điều hòa. Ăn no do lúa thóc, nước thì theo đường đi tức điều hòa chạy tốt. Như vậy, hại căn là không điều khiển được. Thâu giữ các căn tức điều khiển được. Nếu hại căn, cho đó là điều khiển được thì là người mù mà lìa dục, thế nên chớ hại căn, chỉ chế ngự đúng đắn đối với cảnh giới. Tư duy đúng đắn để thâu tóm, tức có thể giữ gìn, như kệ nói:

Các căn đến cảnh giới

Nên xa lìa các tưởng

Không thể hại cảnh giới

Chỉ trừ bỏ nhiễm chấp.

Hàng phục căn là nếu thấy người nữ nhan sắc đẹp đẽ, liền khởi tưởng như mẹ. Đó gọi là ba thứ chế phục căn.

Tiếp cận hành thiền: Là tiếp nhận danh tưởng, gần nơi tư duy nên gọi là gần hành thiền.

Hỏi: Là gần thứ gì?

Đáp: Như trước đã nói về thiện thắng.

Hỏi: Như trước đã nói về bốn thiền, vì sao lại nói lần nữa?

Đáp: Trước là nói về thiền, là hướng tới việc thắng vượt sinh tử. Ở đây là hướng đến nẻo xuất yếu, thắng vượt điều ấy, thứ lớp quán Chân đế. Như người lần đầu đi qua vùng đồng rộng, thấy ao nước với đủ các thứ hoa tươi đẹp, lại có từng ấy suối nước trong theo dòng chảy tràn trề, cùng vườn cây, lầu gác, trồng nhiều loại cây hoa xinh xắn. Thấy rồi, khởi suy nghĩ: Đây chẳng phải là trong vùng đồng rộng vắng vẻ mà có thể có được, tất là phải gần với thành ấp. Như vậy, Hành giả ở tại quãng đồng rộng sinh tử, có đủ phiền não tham sân si, đạt được nhận biết chân thật nên chánh tư duy, lúc quán xét ấm, giới, nhập là vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu mong muốn, vui thích, đó gọi là nhẫn. Chánh tư duy, tâm ý không động, đó gọi là như trong mộng thấy người thân, như trong gương thấy hình bóng. Như vậy, tưởng quán khổ, là pháp đệ nhất của thế gian. Do tưởng Đức Thế Tôn, đó gọi là gần hành thiền. Hành giả kia thứ lớp như từ mộng tỉnh giấc, thấy người thân, sau đạt được quán Thánh đế cũng như thế.

Phần thứ nhất của phẩm Đức nơi Chân độ đã nêu bày xong.

 

Hỏi: Thế nào gọi là Phương tiện?

Đáp: Phương tiện là Giới, Thượng chỉ, Trí. Phương tiện là đạo (đường đi), là hướng đến thiện thắng, nên nói là phương tiện, là ba thứ giới, thượng chỉ, trí.

Hỏi: Chẳng phải là nói lần nữa về Giới chăng?

Đáp: Trước đã nói. Thiện thắng có hai thứ: Một là thọ sinh. Hai là xuất yếu. Giới nói trước là thọ sinh, đây là xuất yếu. Nghĩa của giới là nghĩa hành tập.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Giới là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, ba thứ ấy gọi là giới. Chánh ngữ là lìa bỏ nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói dối và nói lời thêu dệt. Chánh nghiệp là lìa sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Chánh mạng là Tỳ-kheo thọ thực cùng chúng Tăng hoặc khất thực, y phục, thuốc men đầy đủ, đó là chánh mạng, các lối sống khác là tà mạng. Hàng Ưu-bà-tắc lìa năm nghiệp, đao gậy, rượu độc, thịt chúng sinh. Đó gọi là chánh mạng.

Hỏi: Thế nào là Thượng chỉ?

Đáp: Thượng chỉ là tấn, niệm, định. Thượng chỉ là đầy đủ, viên mãn. Lại nữa, diệt trừ tham sân si, đó là thượng chỉ. Hướng đến nẻo kia để an trụ, nên nói là thượng chỉ, là ba thứ tấn, niệm, định. Trong đó, tấn là lực, nếu nói tấn nên biết là đã nói về lực.

Lại nữa, có thể tạo tác, nên nói là tấn. Tấn là hành. Pháp ấy có thể tiến đến thiện thắng nên gọi là tấn.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Tấn là tín, cần, không xả. Tín, cần, không xả là ba giả danh nơi tấn. Vì sao? Vì tín làm tăng trưởng tất cả hành thiện, luôn ở trước tất cả pháp thiện, đối với hết thảy các pháp là bậc nhất, hơn hết. Như kệ nói:

Sĩ có hành tín

Được bậc Thánh khen

Vui thích giải thoát

Mọi trói buộc mở.

Là ba thứ tín.

Hỏi: Thế nào là ba thứ?

Đáp: Tín là tịnh, dục, giải. Tịnh, dục, giải là tín. Trong ấy, tịnh là trừ bỏ ô trược. Ô trược là chỗ tạo ác của con người, như sân hận, kiêu mạn, không hổ, không thẹn. Ví như voi, trâu làm đục loạn nước suối, là nói về ô trược. Khiến dừng lại nên nước sẽ lặng trong. Như thế, người tạo ác, sân hận, kiêu mạn, không hổ, không thẹn, so sánh với tâm ý loạn động, gọi đó là ô trược. Không còn ô trược, gọi là tịnh.

Dục là yêu thích nơi thù thắng. Như người bị bệnh làm cho khốn khổ, nên không muốn ăn ngon. Bệnh khỏi rồi, thì mong muốn có được các món ăn ngon. Người ấy bị các pháp ác bức bách nên không vui thích muốn nghe pháp. Có được thiện tri thức rồi thì vui thích nơi pháp. Liền khởi suy nghĩ: Pháp nầy là vô cùng vi diệu. Đó gọi là dục.

Giải là nắm giữ. Ví như người bị rắn độc cắn, lúc thầy chú nguyện đối với độc, người kia tâm ý chí thành, liền suy nghĩ: Thật như là nói chú. Từ đấy tất bớt dần, ý hiểu rõ nên tìm thuốc. Như vậy, con người bị rắn tham sân si cắn mổ, Đức Thế Tôn với tâm từ, vì họ giảng nói chánh pháp. Người kia nếu ý hiểu rõ, thì không khác với dụ trên. Tâm của người kia dứt trừ được tham sân si. Trường hợp khác thì không dứt trừ được. Đó là giải.

Hỏi: Thế nào là cần?

Đáp: Cần là phát khởi chuyên hành tập. Khởi, tập, chuyên, ba thứ ấy gọi là cần.

Khởi là bắt đầu tạo thiện. Như lúc dùi lửa thì phải tạo các vật dụng của lửa. Tập là thường xuyên hành tác. Chuyên là gắn liền, không bỏ, không phân tán khiến ý thành một duyên, như cứu lửa cháy đầu. Ba thứ ấy gọi là cần.

Hỏi: Thế nào là không xả?

Đáp: Không xả là không dừng, không chán, không lìa. Ba thứ ấy gọi là không xả.

Không dừng: Là trong tất cả thời gian không rời. Ta hết sức tinh tấn không bỏ phế, là không chán. Ta hoàn toàn siêng năng, dù trong thời gian lâu dài có nhiều phiền não, là không lìa. Hoặc có quả, hoặc không, nếu xả thì có được công dụng gì? Hoặc do đấy nên không bỏ tinh tấn, đó gọi là không xả. Ba sự việc nầy tất đạt được quả. Như người đi đường, vui thích với nơi chốn đi đến.

Hỏi: Đã nói về tấn, thế nào là niệm?

Đáp: Niệm là thân, thống (thọ), tâm, pháp, trong ngoài đều không quên. Trong, ngoài, cùng không quên là ba thứ niệm. Vì tự mình là trong, phần còn lại là ngoài. Hai sự là cùng.

Lại nữa, trong là thọ nhận ấm, giới, nhập. Ngoài là kẻ khác thọ nhận. Không thọ nhận là cùng.

Lại nữa, ba thứ phiền não ở bên trong, ở bên ngoài, cùng. Ở bên trong là dục. Ở bên ngoài là giận dữ. Giận dữ là vì kẻ khác, không phải là tự sân giận. Hoặc khởi suy nghĩ: Dục cũng là vì kẻ khác. Điều nầy không đúng. Vì sao? Vì bên trong là nhiễm, bên ngoài là kẻ khác sinh dục, do bên trong chấp trước, như kinh đã nói. Người thấy người nữ như nội căn si ám cùng hành. Nếu diệt trừ ba thứ phiền não nầy, là ba thứ niệm. Ba thứ thọ, tâm, pháp, cũng như thân kia, mỗi thứ có ba, là mười hai thứ niệm.

Hỏi: Đã nói về niệm, thế nào là định?

Đáp: Định là không, vô nguyện, vô tưởng. Đó là ba thứ định. Sự không nên gọi là không.

Hỏi: Có nhiều thứ không như thôn xóm không, nhà không. Như vậy so với ở đây thì nói về những không gì?

Đáp: Không là ngã hành, ngã tạo tác đều không thấy. Ngã hành, ngã tạo tác đều không thấy, đó gọi là không.

Hỏi: Vì sao ngã hành, ngã tạo tác không thể thấy? Như Đức Thế Tôn nói: Ta bấy giờ gọi là Phạm-chí Tùy-lam. Lại như có chỗ nói: Tỳ-kheo! Tay Ta giơ lên nơi hư không.

Đáp: Không phải như thế. Ngã hành, ngã tạo tác là giả hiệu, chỉ ở trong năm ấm chấp ngã là ngã hành. Đức Thế Tôn không hành điều ấy. Nếu đối với cảnh giới chấp trước ngã thuận theo, đó gọi là ngã tạo tác. Điều nầy Đức Thế Tôn cũng không. Như Kinh Thánh Pháp Ấn nói, không là quán thế gian không. Như vậy so với chỗ giải thích kia cũng là ngã, ngã sở cùng được thành, thế nên không lỗi. Đó gọi là không.

Hỏi: Thế nào là vô nguyện?

Đáp: Vô nguyện là quá khứ, hiện tại, vị lai không vui thích an lập. Vô nguyện là nghĩa không an lập. Là nhập trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, là tất cả hữu vi. Như Kinh Thuyết Xứ đã nói, pháp kia nếu tạo tác ý ấy, ngã cùng Niết-bàn, thì pháp kia không gồm thâu ba thời. Ở đây thì không như thế. Vì sao? Vì một là không, hai là nghĩa. Niết-bàn là lìa thế gian, hoàn toàn không duyên. Trong pháp kia không có ý về ngã, lìa ba đời lại không có pháp ấy nên không thể nói, là do trong ba thời không vui thích an lập. Đó gọi là vô nguyện.

Hỏi: Thế nào là vô tưởng?

Đáp: Vô tưởng là sự tạo tác cùng tưởng, lìa sự tạo tác cùng tưởng, lìa các thứ ấy là vô tưởng. Như có chỗ nói: Lìa tất cả hữu vi. Tất cả là sự cùng tạo tác. Có thể tạo tác là sự. Chủ thể tạo là tạo tác. Như do vô minh, phước, vô phước, bất động tạo tác hành. Duyên kia nối tiếp, có sinh thức là sự. Vô minh và hành là tạo tác. Như vậy, tất cả hữu vi, nếu lìa các thứ kia gọi là vô tưởng.

Lại nữa, như Kinh Thánh Pháp Ấn đã nói: Vô tưởng là không thấy sắc tướng kia. Như thế, trong tất cả các thứ kia cũng nói, ba sự, tạo tác cùng lìa. Tất cả các thứ kia là ba nghĩa, chỉ nói khác nhau. Như nói sông không nước, không thấy nước, là một nghĩa nhưng nói khác nhau. Không, vô nguyện, vô tưởng cũng như vậy. Đó gọi là định.

Hỏi: Thế nào là Trí?

Đáp: Trí là đối tượng hành của địa kiến, tu, vô học. Trí là nhận biết, là ba địa: Địa kiến, địa tu, địa vô học. Ở đây, thấy biết nên gọi là kiến.

Hỏi: Những gì gọi là thấy biết (kiến)?

Đáp: Thấy biết những thứ chưa từng thấy biết, như căn, lực, giác đạo chi và thật của địa Thánh. Tu là nghĩa hành tập. Như dùng tro sạch để giặt áo, tuy đã trừ bỏ phần cấu uế, áo được trắng sạch nhưng vẫn còn có mùi tro, sau đấy dùng các thứ hương hoa như hương hoa Tu-mạn-na để xông ướp. Như vậy, nơi địa kiến, ý thiền thanh tịnh, vô lượng các định đoạn trừ hết các kiết với rất nhiều công sức. Đó gọi là tu.

Địa vô học là tham sân si đã hoàn toàn dứt hết. Đó gọi là địa vô học.

Hỏi: Những gì là trí nơi địa kiến?

Đáp: Địa kiến là trí pháp, quán, vị tri, tức pháp trí, quán trí, vị tri trí, đây là trí của địa kiến. Trong đó, pháp trí là nghĩa của hiện trí. Ví như lương y nhận biết về mụt nhọt đã muồi, nên dùng dao bén mổ xẻ, cắt bỏ, sau đấy dùng tay khâu chung đường, không làm thương tổn đến các mạch khác, mà mụt nhọt đã được cắt bỏ. Hành giả tu tập cũng như vậy. Chánh tư duy, lúc quán khổ nơi cõi Dục, đoạn trừ các phiền não do kiến khổ đoạn, sau đấy sinh khởi trí thứ hai. Như nơi cõi Dục là khổ, vô thường, thì nơi cõi Sắc, Vô sắc cũng như thế. Từ đấy, tỷ trí đoạn trừ phiền não của cõi Sắc, Vô sắc. Đó gọi là ba trí của kiến khổ. Ái của cõi Dục là nhân của khổ, pháp trí ấy tức là quán trí. Như thế, trí vị tri của cõi Sắc, Vô sắc, là ba trí của kiến tập. Khổ của cõi Dục diệt, dứt, pháp trí ấy tức là quán trí. Như vậy, trí vị tri của cõi Sắc, Vô sắc, đó gọi là ba trí của kiến diệt. Đạo ấy diệt khổ của cõi Dục, pháp trí nầy tức là quán trí, như thế, trí vị tri của cõi Sắc, Vô sắc, đó gọi là ba trí của kiến đạo. Mười hai trí nầy, quảng diễn nơi kiến địa, nên biết.

Hỏi: Thế nào là địa tu?

Đáp: Địa tu là tướng, hành, chủng tri, tức tướng tri, hành tri, chủng tri. Ba thứ ấy là địa tu.

Hỏi: Thế nào là tướng?

Đáp: Tướng là khởi, trụ, hoại. Khởi là sinh. Trụ là thành. Hoại là hư hoại.

Hỏi: Nói rộng nơi chúng sinh, Niết-bàn có nghi. Chúng sinh cùng Niết-bàn cũng có tướng ấy? Nếu có là lỗi lầm lớn, tức có vô thường. Nếu không thì kinh nầy có lỗi, phải nên nói khởi trụ hoại là tướng hữu vi?

Đáp: Chúng sinh là đối với tướng, là phần khác, không thể nói. Nếu khác tức có thường. Nếu như thế tức vô thường. Hai lỗi lầm ấy là không thể nói. Niết-bàn cũng như vậy. Do đó cần phân biệt. Nên biết tướng là hoàn toàn tướng hữu vi.

Hỏi: Nay nói công đức. Vì sao tướng ấy là công đức?

Đáp: Nay nói về trí. Trí trong ba thứ ấy là công đức, không phải tướng.

Hỏi: Thế nào là hành?

Đáp: Hành là vô thường, khổ, vô ngã. Hành là tận trí, đó là nghĩa của hành. Tướng ấy do hành nầy nhận biết, là nghĩa của hành. Ấm là vô thường. Nếu vô thường là khổ. Nếu khổ là không tự tại nên vô ngã. Vô thường là không trụ lâu, nên như bọt nước. Khổ là bị bức bách, nên như mũi tên găm vào thân. Vô ngã là không tự tại, nên như mượn chuỗi anh lạc. Đó gọi là hành.

Hỏi: Thế nào là chủng?

Đáp: Chủng là vị, hoạn, lìa. Chủng là vị, là hoạn, là lìa.

Hỏi: Điều ấy nghĩa là gì?

Đáp: Là hữu vi. Trong đó, vị là diệu (tốt đẹp). Hoạn là ác. Lìa là cùng dứt bỏ. Ở đây, người, trời vui thích là vị. Khổ nơi ba đường ác là hoạn. Lìa cả tội phước là lìa. Nếu quán như thế là công đức của chánh kiến, nên tức đạt được giải thoát, đó là chủng. Đây là trí của địa tu.

Hỏi: Thế nào là trí của địa vô học?

Đáp: Địa vô học là đạt, thông, biện trí, tức đạt trí, thông trí, hữu biện trí. Đó là ba trí của địa vô học.

Hỏi: Thế nào là đạt trí?

Đáp: Đạt trí là túc mạng trí, sinh tử trí và lậu tận trí. Có thể thấu đạt nên gọi là đạt. Đạt là nghĩa nhận biết. Trong ấy, túc mạng trí là nhớ nghĩ biết các hành đã tạo tác nơi quá khứ. Sinh tử trí là nhận biết có được quả của nghiệp. Lậu tận trí phần sau sẽ nói. Lại nữa, phiền não có ba loại ở nơi quá khứ, vị lai, hiện tại. Quá khứ là mười tám kiến. Vị lai là bốn mươi bốn kiến. Hiện tại là ở nơi thân kiến. Do đấy nên sinh hiện tại, phân biệt với quá khứ, vị lai. Ở đây, nếu đạt được túc mạng trí thì không phỉ báng quá khứ. Nếu đạt được sinh tử trí thì không si mê, đối với vị lai. Đạt được lậu tận trí thì không vướng chấp nơi hiện tại.

Hỏi: Thế nào là lậu tận trí?

Đáp: Lậu tận trí là tận, vô sinh, nguyện trí. Phiền não của ta dứt hết, quán như thế là tận trí. Không còn sinh lại nữa là vô sinh trí. Ví như vị sư đối trị rắn cắn, nhận biết rồi trừ độc, là trí thứ nhất. Không bị hơi độc có trước xông vào người là trí thứ hai. Vô sinh trí cũng như thế. Nguyện trí là nếu hàng Thanh-văn dùng túc mạng trí tự nhớ nghĩ nhận biết về các đời nối tiếp nhau một cách trọn vẹn là nguyện trí, do nguyện nên cũng nhận biết kẻ khác. Đó gọi là nguyện trí.

Hỏi: Thế nào là thông?

Đáp: Thông là Như ý túc, Thiên nhĩ, Tha tâm trí. Như ý túc, Thiên nhĩ, Tha tâm trí, ba thứ ấy là thông. Như ý túc thì phần sau sẽ nói. Thiên nhĩ là do định lực nên ở trong một duyên, bốn đại tăng trưởng thanh tịnh. Ở đây, người trời cho đến nẻo ác, nghe âm thanh tùy theo lực dụng. Như mắt hoặc thấy gần, hoặc thấy xa tùy theo nhãn lực. Như thế, tùy theo định lực mà đạt được Thiên nhĩ. Tha tâm trí là như thấy chúng sinh, hoặc nghe âm thanh, nhận biết tâm niệm của họ như vậy như vậy.

Hỏi: Thế nào là Như ý túc?

Đáp: Như ý túc là du hành nơi không, biến hóa, Thánh tự tại. Như ý túc, do được như ý nên nói là như ý. Như ý là nghĩa tự tại. Du hành nơi không tự tại, biến hóa tự tại, Thánh tự tại, đó gọi là ba thứ như ý túc.

Du hành nơi không tự tại: Là đi trên nước, đạp nơi hư không, có thể chui vào đất, vách đá đều vượt qua, sờ nắm mặt trời mặt trăng. Đó gọi là du hành nơi không tự tại.

Biến hóa tự tại: Là hiện ra hình tướng người, voi, ngựa xe, núi rừng, thành quách đều có thể hóa hiện.

Thánh tự tại: Là có thể hóa sự sống lâu, hóa nước thành tô sữa, hóa đất đá thành vàng bạc. Đối chiếu như thế gọi là như ý túc, là chỗ tăng trưởng, nuôi lớn của bậc Thánh. Như ý túc, Thiên nhĩ, Tha tâm trí gọi là thông. Túc mạng trí, Sinh tử trí là năm thông của phàm phu.

Hỏi: Thế nào là biện?

Đáp: Biện là pháp nghĩa từ ứng. Khéo nhận biết pháp. Khéo nhận biết nghĩa. Khéo nhận biết từ. Khéo nhận biết ứng. Bốn thứ ấy là biện. Nhận biết pháp là nhận biết về danh, cú, vị. Nhận biết nghĩa tức nhận biết về tánh thật kia. Như lửa gọi là tánh nóng, nghĩa ấy ở trong đó không si mê. Nhận biết từ là văn vẻ ấy thứ lớp như thế. Nhận biết ứng là nêu bày câu văn không điên đảo, cũng không sai lạc. Đó gọi là biện. Đây cũng đã nói rộng nơi trí của địa học.

Hỏi: Như giới cũng định, trong địa học, vô học cũng có thể đạt được giới, định. Vì sao không nói ba thứ?

Đáp: Không giới, giới sai biệt, không phải là học, như lìa sát sinh. Chúng sinh hết sức hộ trì vô học. Không như thế, nếu học không sát sinh tức là vô học. Do đấy, không sai lạc nên không nói ba thứ.

Phần thứ hai của phẩm Đức nơi Chân độ đã nêu bày xong.

HẾT - QUYỂN THƯỢNG


 

LUẬN TAM PHÁP ĐỘ

QUYỂN TRUNG

Phẩm 1: ĐỨC (tiếp theo)

Hỏi: Trước đã nói về nguyên do, là Gồm đủ, Phương tiện, Quả. Trong ấy đã nói về Gồm đủ, Phương tiện. Vậy Quả là gì?

Đáp: Quả là Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn. Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn, ba bậc ấy là quả.

Hỏi: Là quả gì?

Đáp: Là giới thượng chỉ trí.

Hỏi: Nay nói nguyên do. Nguyên do là đạo. Vì sao quả cũng là đạo?

Đáp: Quả nầy nói là hữu dư. Trước nói là vô dư. Vô dư là Bát-Niết-bàn, thế nên không lỗi.

Phật là lìa tất cả chướng ngại, chứng đắc mười lực, đạt bốn vô sở úy, thấu đạt hết thảy pháp Phật. Giới, định, tuệ của chư Phật là không sai lạc.

Phật Bích-chi: Là tự giác, không vì kẻ khác, mà tự giác ngộ nên nói là Phật Bích-chi.

Thanh-văn: Là do người khác thuyết giảng.

Lại nữa, giải thoát đầy đủ có hai thứ: một là bi, hai là chán. Nếu từ bi, đắc đạo đầy đủ là Phật. Chán gồm đủ có hai loại: một là do tự đạt được. Hai là do kẻ khác nên đạt được. Nếu tự đạt được là Phật Bích-chi. Nếu do người khác nên đạt được là Thanh-văn.

Lại nữa, nếu nhận biết khắp, tận cùng, gồm đủ công đức, lìa các thứ ác là Phật. Phật Bích-chi tuy lìa các thứ ác, nhưng các sự việc còn lại thì không như thế. Thanh-văn là duyên nơi kẻ khác để lìa các thứ ác.

Hỏi: Vì sao nhận biết chư Phật là không sai lầm? Thanh-văn cũng lại như thế chăng?

Đáp: Thanh-văn là lìa dục, chưa lìa dục. Thanh-văn A-la-hán có sai lầm, phân biệt về tướng, tín đứng đầu năm căn có chỗ dựa hạ trung thượng, thế nên Thanh-văn có sai khác nơi tất cả địa.

Hỏi: Thế nào là lìa dục?

Đáp: Không dục là tín. Giải thoát, kiến đáo, thân chứng. Do tín đứng đầu nơi độ nên gọi là tín giải thoát. Do tuệ đứng đầu nơi độ nên gọi là kiến đáo. Cả hai cùng đạt là thân chứng, là vô lượng chủng loại, nay sẽ nêu rõ. Tín giải thoát là thượng lưu, hành, vô hành Bát-Niết-bàn, tức thượng lưu Bát-Niết-bàn, hành Bát-Niết-bàn, vô hành Bát-Niết-bàn, ba loại ấy là tín giải thoát.

Thượng lưu: Là ái pháp kia dẫn đến bậc thượng.

Lại nữa, lưu là đạo. Pháp kia ở nơi cõi Dục sắp đạt đến bậc thượng nên gọi là thượng lưu.

Hành Bát-Niết-bàn: Hành nghĩa là hữu vi. Có nhiều phương tiện cùng đạo duyên nơi hành đến vô vi, nên gọi là hành Bát-Niết-bàn.

Vô hành Bát-Niết-bàn: Vô hành là vô vi, ít phương tiện cùng đạo duyên nơi vô vi đến vô vi, nên gọi là vô hành Bát-Niết-bàn. Đó gọi là ba thứ tín giải thoát.

Hỏi: Thế nào là kiến đáo?

Đáp: Kiến đáo là trung, sinh Bát-Niết-bàn, cũng là thượng lưu kiến đáo, cũng có ba thứ: Trung Bát-Niết-bàn, Sinh Bát-Niết-bàn, Thượng lưu Bát-Niết-bàn.

Trung Bát-Niết-bàn: Là ở đây mạng chung, chưa sinh nơi khác mà đắc đạo. Trung Bát-Niết-bàn như ngọn lửa nhỏ, cháy sáng lên chưa rơi xuống đất đã tắt. Nghĩa ấy cũng như thế.

Sinh Bát-Niết-bàn: Như ngọn lửa cháy sáng khắp, rơi xuống đất liền tắt. Như thế là mới sinh, thứ lớp đắc đạo, Bát-Niết-bàn.

Thượng lưu, như trước đã nói. Cõi Vô sắc nầy cũng như thế. Ba thứ ấy là kiến đáo.

Hỏi: Thế nào là thân chứng?

Đáp: Thân chứng là hành, vô hành, sinh Bát-Niết-bàn. Các thứ nầy trước đã nói.

Hỏi: Chẳng phải là đã nói lần nữa chăng?

Đáp: Không phải. Cõi khác nên lìa dục giới, cũng lìa sắc giới, là hai thứ trừ hết trung ấm, không phải có trung ấm của cõi Vô sắc. Lại nữa, trước nói không giải thoát. Thân chứng là có giải thoát. Giải thoát, phần sau sẽ nói.

Hỏi: Đã nói về lìa dục. Thế nào là chưa lìa dục?

Đáp: Chưa lìa dục là thứ tám, Tu-đà-hoàn, Bạc địa. Thứ tám, Tu-đà-hoàn, Bạc địa, ba thứ ấy là chưa lìa dục.

Hỏi: Thế nào là thứ tám? Nếu là số thì phải là thứ nhất, không phải thứ tám. Đầu tiên là hướng, sau đến A-la-hán. Vì sao ở đây là A-la-hán chăng?

Đáp: Không nên quán như người có tám. Trẻ con kia không phải do lớn là thứ tám, do ấu thơ là thứ tám. Như thế là con công đức của Đức Thế Tôn có tám, bậc A-la-hán kia là lớn, các lậu đã dứt hết. Tức đầu tiên là hướng, là ấu thơ, do đấy nói là thứ tám.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Thứ tám là tín, tuệ cùng có. Tộc tánh nầy, lúc là người phàm, có đủ tín và tuệ như thế. Kẻ ấy, hoặc tín thắng, tuệ tùy, hoặc tuệ thắng, tín tùy theo, hoặc cùng là sinh pháp trí. Đã từ tín hành là độn căn, từ pháp hành là trung căn, cùng hành cả hai là lợi căn. Ba thứ nầy là thứ tám. Đã kiến đế, nếu tín là thắng, là tột bậc bảy. Tuệ thắng là trung. Cùng thắng là Gia gia. Đây là địa kiến. Nếu lên địa tu là tại Bạc địa. Tín thắng là nhất vãng lai. Tuệ thắng là trung. Cùng thắng là nhất chủng. Nếu lìa dục của cõi Dục, tín thắng là tín giải thoát. Tuệ thắng là kiến đáo. Cùng thắng là lìa sắc, đắc thân chứng. Nếu tất cả lậu dứt hết, tín thắng là tuệ giải thoát. Tuệ thắng là câu giải thoát, cùng được giải thoát. Cùng thắng là cũng cùng giải thoát.

Lại nữa, tín thắng là độn căn. Tuệ thắng là trung căn. Cùng thắng là lợi căn. Như thế lần lượt đến bậc thượng.

Hỏi: Đã nói rộng về thứ tám, dần dần sinh khởi rừng công đức, nhưng không rõ điều ấy là thế nào? Xin được hiển bày.

Đáp: Tu-đà-hoàn là tối đa bảy lần trong Gia gia. Tu-đà-hoàn là ba thứ, trụ nơi quả thứ nhất, cầu quả thứ hai. Tu-đà-hoàn là đạo. Đi lên là đạo, nên gọi là hoàn, là thân kiến, trộm giới (giới cấm thủ), nghi đoạn, nẻo ác dứt hẳn. Hàng độn căn tối đa bảy lần vui thích thọ sinh trong cõi trời, người, mong Bát-Niết-bàn. Gia gia là cũng trụ nơi quả thứ nhất, ba kiết đã dứt hẳn. Do tư duy đoạn đã dứt hết một ít, là ở trong ấy sinh, từ nhà đến nhà mà Bát-Niết-bàn. Trung là ở trong hai thứ ấy, không phải hoàn toàn từ nhà đến nhà Bát-Niết-bàn. Cũng không hoàn toàn tối đa là bảy lần thọ sinh nơi cõi trời, người mà Bát-Niết-bàn, nhưng ở nơi trung gian Bát-Niết-bàn.

Hỏi: Đã nói về Tu-đà-hoàn, vậy thế nào là Bạc địa?

Đáp: Bạc địa là nhất lai, nhất chủng, trung, kiết của cõi Dục mỏng dần (bạc) an trụ, nên gọi là Bạc địa. Ba thứ ấy là nhất lai, nhất chủng, trung. Nhất lai là ở đây trọn sinh nơi cõi trời, một lần sinh mà Bát-Niết-bàn. Nhất chủng là thọ sinh một hữu mà Bát-Niết-bàn, nên công đức tăng trưởng. Trung là cùng có hai thứ ấy.

Ba thứ nầy gọi là chưa lìa dục.

Hỏi: Thế nào là A-la-hán?

Đáp: A-la-hán là lợi độn trung căn. A-la-hán là nói về tên gọi cúng dường. Có thể thọ nhận sự cúng dường, nên gọi là A-la-hán.

Hỏi: Vì cái gì nên có thể thọ nhận?

Đáp: Vì tất cả chúng sinh, nên nói là A-la-hán. A-la-hán ấy có ba loại, là lợi căn, độn căn, trung căn.

Hỏi: Thế nào là lợi căn?

Đáp: Lợi căn là pháp trụ, thăng tiến, bất động. Pháp trụ, pháp thăng tiến, pháp bất động, nên biết đó là lợi căn.

Pháp trụ: Là lìa phương tiện, trừ diệt phiền não, nên gọi là pháp trụ.

Pháp thăng tiến: Là trừ bỏ các phiền não, cầu thượng thắng có thể đạt được, nên gọi là thăng tiến. Thắng là đạt, thông, biện.

Pháp bất động: Là đã được thắng quả, tất cả sự đàm luận đều không loạn động được biện tài. Đó gọi là lợi căn.

Hỏi: Thế nào là độn căn?

Đáp: Độn căn là pháp thối, niệm, hộ. Pháp thối, pháp niệm, pháp hộ, ba thứ ấy là độn căn.

Pháp thối: Là hoặc sai lạc nên thối chuyển không phải Thánh đế, nên gọi là pháp thối. Hoặc lại ở nơi địa tu thối chuyển. Tu là tu tập. Nói do không tu tập, đó gọi là thối. Như học kinh rồi, không luôn hành tập nên quên. Như vậy, không tu tập nên nơi địa tu thối chuyển. Bệnh nghiệp ấy, tụng cùng tranh chấp, xa lìa hành quán nên thối chuyển. Do đấy nên gọi là địa tu.

Pháp niệm: Là đã đắc A-la-hán, hành kém nên cùng với thân kém, liền khởi niệm: Chỗ tạo tác của ta, đã làm rồi, ta làm sao để trụ? Như thế là suy niệm. Niệm là có nhiều phẩm loại. Cũng tư niệm về tài sản cùng may mặc y phục, song ở đây là suy niệm về xả bỏ thân mạng.

Pháp hộ (xả): Là không thối chuyển, cũng không tư niệm, chỉ xả phương tiện cực lớn. Như người nghèo có nhiều phương tiện được của cải thì giữ lấy. Đó là độn căn.

Hỏi: Thế nào là trung căn?

Đáp: Trung căn là tuệ giải thoát, cụ bất cụ giải thoát. Được tuệ giải thoát là thấp. Câu giải thoát có hai: một là đắc cụ giải thoát. Hai là bất cụ. Câu giải thoát là tín và tuệ. Đã được hai thứ ấy nên là thắng.

Hỏi: Thế nào là giải thoát?

Đáp: Giải thoát là dục, sắc, diệt tận. Giải thoát cõi Dục, cõi Sắc, diệt tâm thường trụ, cùng ba cõi tận. Đó là ba thứ giải thoát. Giải thoát đối với phiền não, nên gọi là giải thoát.

Hỏi: Thế nào là giải thoát dục?

Đáp: Giải thoát dục là nội sắc tưởng vô sắc, bất tịnh cũng tịnh. Nội là tự nội, là hai thứ tưởng có sắc và tưởng hoại sắc. Ở đây là nội hoại sắc. Nơi nghĩa địa quán xét thịt rữa nát từng phần. Mắt lồi, bụng vỡ, ruột lòi ra, từ chỗ đại tiểu tiện chảy đầy các thứ bất tịnh, vô số loài trùng duỗi bò nhung nhúc trên đấy, quạ chim tranh nhau ăn. Tay, chân, đầu lâu, mỗi thứ ở mỗi nơi. Thấy rồi, khởi vô dục, liền suy niệm: Thân nầy, do đấy nên chúng sinh giận dữ, tranh chấp, kiện tụng, kiêu mạn, cao ngạo, dấy lên vô lượng ác. Quán như vậy rồi, giải thoát, ác dứt, tâm định. Đó gọi là tưởng nội sắc, bất tịnh giải thoát, là tưởng nội hoại sắc thứ hai. Do định nên như không sắc, như vậy được lập quán, thân kẻ khác cũng lại như trên. Đó gọi là tưởng nội không sắc, bất tịnh giải thoát. Tịnh giải thoát là các sắc xanh vàng đỏ trắng, duyên nơi hoa, y phục v.v… Do phát khởi ý tư duy, tâm trụ bất động, là tịnh giải thoát. Ba thứ ấy là giải thoát dục.

Hỏi: Thế nào là giải thoát sắc?

Đáp: Giải thoát sắc là vô sắc lìa sắc, dục rồi, bốn thứ tâm trụ cũng lại là hữu lậu. Đó gọi là giải thoát sắc. Điều nầy trước đã nói.

Hỏi: Thế nào là giải thoát diệt tận?

Đáp: Tâm cùng tưởng của các tâm nên diệt. Đó gọi là giải thoát diệt tận.

Phần thứ ba của phẩm Đức nơi Chân độ đã nêu bày xong.

ù

Phẩm 2: ÁC

Hỏi: Đã nói rộng về Phẩm Đức nơi ba Chân độ. Thế nào là Ác?

Đáp: Ác là Hành, Ái, Vô minh ác. Hành, ái, vô minh ác, ba thứ ấy nên biết. Ác nầy làm nhiễm ô hành thiện, nên gọi là ác. Đây cũng làm nhiễm ô con người, tức là người cấu nhiễm. Ý vui thích nơi ác, như loài heo vui thích nơi bất tịnh. Ở đây, đầu tiên là hành ác của thân miệng ý. Các ác nầy là đầu tiên, là ba thứ hành ác của thân miệng ý.

Hành ác: Là việc làm của người ác nên gọi là hành ác.

Lại nữa, hành nầy là ác nên gọi là hành ác. Là chỗ tạo tác ác của thân, là hành ác của thân. Miệng, ý cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là Hành ác của thân?

Đáp: Hành ác của thân là sát, đạo, dâm. Hành ác của thân nên biết là ba thứ sát sinh, trộm cắp, dâm dục.

Hỏi: Đã biết hành ác của thân là ba thứ. Vậy thế nào là sát sinh?

Đáp: Sát sinh là niệm, giáo, tác. Niệm, giáo, tác, là nói về ba thứ sát sinh. Phần còn lại cũng như thế. Như hành ác của thân, ba thứ niệm, giáo, tác của sát sinh, trộm cắp, dâm dục cũng như vậy. Khẩu nghiệp cũng thế.

Hỏi: Biết phần còn lại cũng như thế, nhưng chưa biết niệm. Thế nào là niệm?

Đáp: Niệm là tâm dục, dục khiến kẻ khác tạo tác, hoan hỷ. Niệm gọi là tư duy, là ba thứ tâm dục tạo tác, muốn khiến tạo tác, kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ. Như ý sát hại chúng sinh là dục tạo tác. Ý khiến sát hại là dục khiến tạo tác. Kẻ khác sát hại rồi, ý vui thích là kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ. Đó gọi là ba thứ niệm.

Hỏi: Thế nào là giáo?

Đáp: Giáo là dạy, khiến, có thể. Dạy bảo, sai khiến, có thể, đó là ba thứ giáo.

Dạy bảo: Là như ngoại đạo nói, giết heo, dê để cúng tế trời, là dạy bảo.

Sai khiến: Là như vua sai khiến quan: Ta có kẻ oán địch, khanh phải đi đến sát hại hắn, đó là sai khiến.

Có thể: Là như có người hỏi: Gã kia là oán địch của ta, ông muốn đi đến giết hắn chăng? Người nầy tức nhiên nhận lời. Đó gọi là có thể.

Ba thứ ấy là giáo.

Hỏi: Thế nào là hành tác?

Đáp: Hành tác là tưởng chúng sinh xả bỏ, đoạn mạng. Tác gọi là thi hành sự. Như nói sát sinh, nên biết là dạy bảo, sai khiến, có thể. Hành ác của ý cũng như thế. Ở đây có tưởng chúng sinh khác, xả bỏ chúng sinh, đoạn mạng chúng sinh, là ba hành tác gồm đủ. Thầy thuốc không hiểu rõ việc cắt mổ ung nhọt, nếu lúc cắt mổ, bệnh nhân bị chết thì không phải do thầy thuốc sát sinh, vì ông ấy không có ý sát hại. Ba sự việc như thế nếu không đủ thì không phải là sát sinh. Đó gọi là ba thứ hành tác.

Hỏi: Thế nào là trộm cắp?

Đáp: Trộm cắp là vật của kẻ khác, nghĩ tưởng, khởi ý trộm lấy. Vật của kẻ khác, nghĩ tưởng, khởi ý trộm lấy, là ba thứ trộm cắp gồm đủ. Vì sao? Vì giả sử có vật của kẻ khác, không có ý trộm cắp mà lấy vật ấy, là ta cho phép, do giống nhau nên không phải là trộm. Nếu vật của kẻ khác, không có ý trộm lấy là không trộm cắp, như lấy vật tri thức. Ba sự như thế, nếu không đủ thì không phải là trộm cắp. Gồm đủ mới là trộm cắp. Đó gọi là ba thứ trộm cắp.

Hỏi: Thế nào là tà dâm?

Đáp: Tà dâm là kẻ khác, pháp thọ, phi đạo, là hành tà dâm. Ba thứ phạm là kẻ khác thọ phạm, pháp thọ phạm và không phải đạo.

Hỏi: Nói dâm là gốc, do những gì nên gọi là tà dâm?

Đáp: Người có hai loại: xuất gia và tại gia. Ở đây, xuất gia hành dâm là nói về hành ác. Tại gia hành dâm thì không phải là hành ác, nhưng tà vạy là hành ác. Nếu tại gia hành dâm là hành ác, là Tu-đà-hoàn hành dâm nên bị đọa địa ngục. Nếu không như thế thì tà dâm là hành ác, nên kinh nói hai thứ không lỗi.

Đáp: Thế nào là kẻ khác thọ nhận?

Đáp: Kẻ khác thọ nhận là chủ, thân, vua. Chủ đã thọ nhận, thân đã thọ nhận, vua đã thọ nhận, là tất cả kẻ khác thọ nhận. Chủ có hai: Có chí cánh và có thiếu thời. Chí cánh là như nơi chốn, gia pháp, người nữ thuộc về chủ. Nếu dâm với người nữ ấy, thì theo các thứ kia là tà dâm. Chủ thiếu thời: Nếu người nữ theo kẻ kia lấy vật, hạn mức có thời. Nếu dâm với người nữ nầy, theo các thứ kia là tà dâm.

Thân là cha mẹ, anh em, cậu, cùng nuôi dưỡng người nữ, hoặc nhận lấy việc nuôi dưỡng mà bỏ người nữ.

Vua thọ nhận: Là nếu không có người thân, không có chủ, mà thọ nhận theo lệnh vua.

Hỏi: Thế nào là pháp thọ nhận?

Đáp: Pháp thọ nhận là học, trai, tộc pháp. Nếu thọ học pháp là học pháp thọ nhận. Nếu thọ trai pháp là trai pháp thọ nhận. Nếu thọ tộc pháp là tộc pháp thọ nhận, là trong đó cùng có thể nói.

Học pháp thọ nhận: Là nếu chủ trước thuận theo học, sau phạm là tà. Đó gọi là học pháp thọ nhận.

Trai pháp thọ nhận: Là nếu chủ trước thuận theo việc thọ trai, sau phạm là tà. Đó gọi là trai pháp thọ nhận.

Tộc pháp thọ nhận: Là như trước đã nói về thân thọ nhận. Song người biên chép kinh muốn khiến cho đủ ba pháp, nên lại nói tộc pháp thọ nhận.

Mẹ, chị em người nữ, vợ và cùng họ, là tất cả không thể phạm. Phạm là tà.

Hỏi:. Thế nào là hành không phải đạo (phi đạo)?

Đáp: Hành không phải đạo là người nữ sinh đẻ, người nam không thành nam, gọi là hành phi đạo. Nếu người nữ mới sinh đẻ, sau phạm là hành phi đạo. Nếu dùng thế lực, phạm người nữ chưa kết hôn, là hành phi đạo, cùng dâm với người nam không thành nam, đó là ba hành phi đạo.

Hỏi: Đây nói không đủ. Vì sao? Vì trong đó còn có các thứ tà dâm khác, ở đây đã nói làm sao gồm thâu chúng? Nếu không gồm thâu, thế nên ở đây nói không đủ.

Đáp: Đây nói đã đủ. Vì sao? Vì trước đã nói lìa người nữ lúc sinh đẻ. Nếu nói người nữ, nên biết là đã nói về súc sinh. Nếu nói lìa lúc sinh nở, nên biết là đã nói về các hành khác. Do đấy là đã nói đầy đủ.

Hỏi: Các thứ ác phi nghĩa nầy, từ đâu mà sinh?

Đáp: Đều từ tham sân si sinh. Tất cả các thứ kia nên biết đều từ tham sân si sinh.

Hỏi: Vì sao nói tất cả là sát, đạo, dâm?

Đáp: Không chỉ như thế. Nếu chỉ nói như thế là do người biên chép kinh. Phải nên nói tức là chỉ gồm thâu tất cả, vậy nên tìm bản kinh. Tất cả hành ác của thân miệng ý nên nói riêng.

Hỏi: Vì sao ở đây nói từ trong ba ác sinh? Ở đây có lỗi. Vì sao? Vì không phải do lạc thọ, khổ thọ cùng một lúc sinh, cũng không phải do lạc thọ đã khiến giận dữ. Dâm là nói vui thích hành tập. Dục là dâm. Ở đây vì sao nói là giận dữ?

Đáp: Không phải là nói từ dâm sinh ra giận dữ. Ở đây nói là từ nguyện gốc. Vì yêu mến đến cả răng, lông, nên khởi giận dữ, sát hại. Như thế, trước phát khởi giận dữ: Kẻ kia phạm vợ ta, ta cũng đáp trả lại, nhưng sau hành dâm khởi ái, song nguyện gốc từ trong giận dữ sinh. Dục từ thứ kia sinh, do đó không lỗi. Các thứ khác cũng như vậy.

Hỏi: Trước nói tất cả từ tham sân si sinh. Ở đây đã nói hành ác của thân, song không rõ Hành ác của miệng là thế nào?

Đáp: Hành ác của miệng là chẳng thật, chẳng hư, ỷ ngữ. Hành ác của miệng có bốn thứ, song chỉ nêu ba pháp, nên biết là ba. Ba pháp nầy cũng hiển thị bốn.

Hỏi: Thế nào là không thật?

Đáp: Không thật là vì mình, vì kẻ khác, có lợi, nên kiêng, tránh sự thật. Nếu không thật là hành ác của miệng, tức là vì mình, kẻ khác, có lợi, nên ý kiêng, tránh sự thật. Kiêng, tránh sự thật là ý che giấu. Như ý nhận biết rồi, miệng nói lại khác. Nói ba thứ là vì mình, vì kẻ khác, vì có lợi.

Vì mình: Là mạng sống của mình. Vì kẻ khác: Là người thân. Vì có lợi: Là vật dụng, của cải. Đó gọi là ba thứ. Như Đức Thế Tôn nói: Ở nơi quyến thuộc, nhân nơi mình, nhân nơi kẻ khác, nhân nơi có lợi, nên biết rồi lại nói dối.

Hỏi: Đã nói hành ác của miệng là không thật, còn thế nào hành ác của miệng là chẳng hư?

Đáp: Chẳng hư: Là chẳng ái, biệt ly, cùng hành. Chẳng hư gọi là hành chẳng ái, là hành biệt ly, là cùng hành. Hành là tạo tác chẳng ái. Hành gọi là ác khẩu. Ái nên nói lời giận dữ là không ác khẩu. Nếu không như thế thì không gì là không ác khẩu. Ác khẩu là vì mình sinh. Nếu khác, thì Đức Thế Tôn cũng ác khẩu. Đức Thế Tôn vì từ bi, nên nghe Điều-đạt nói mà giận. Do đấy, tạo hành không ái là ác khẩu. Như kẻ mù lòa gọi kẻ mù lòa giận dữ, tuy có lời nói thật, song do ý ác, thế nên tạo chẳng ái, gọi là hành ác.

Hành biệt ly: Tuy có lời nói thật, song vì hành biệt ly nên là nói hai lưỡi. Nếu không tạo hành biệt ly, mà có thể biệt ly, thì không phải là nói hai lưỡi. Nếu không như thế, thì Đức Thế Tôn cũng chính là nói hai lưỡi. Đức Thế Tôn vì từ bi đối với đám dị học nên đã độ họ làm đệ tử. Do đấy, tạo hành biệt ly nên là ác.

Cùng hành: Tức là hai sự việc ấy, tạo chẳng thật cùng chẳng hư. Như thế, ác khẩu là do ác khẩu, cũng gọi là nói hai lưỡi.

Hỏi: Thế nào là ỷ ngữ (nói lời thêu dệt)?

Đáp: Ỷ ngữ là chẳng đúng lúc, chẳng thành thật, không nghĩa mà nói. Không đúng lúc mà nói, không thành thật mà nói, không ý nghĩa mà nói, là ba thứ ỷ ngữ, phân biệt là vô lượng.

Không đúng lúc mà nói: Là lúc nên nói thì không nói. Lúc không nên nói, lại nói. Như vào lúc hôn nhân hội hợp, vui vẻ, hoặc có người nói: Nầy anh bạn kia! Tất cả mọi sự hội họp đều quy về hoại diệt, muôn vật là vô thường, thịnh rồi tất suy, anh nên mau chóng xả bỏ sự việc nầy. Kẻ kia nói lời ấy, được Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn khen ngợi, song do nói không đúng lúc, nên là ỷ ngữ.

Không thành thật mà nói: Hoặc tưởng thật nên nói tà vạy. Như các dị học nói ngã là Nhất thiết trí. Họ tuy có tưởng thật, song chỉ là ỷ ngữ. Vì sao? Vì đấy không phải là Nhất thiết trí, chỉ là tưởng mà thôi.

Không có ý nghĩa mà nói: Là nói về cười đùa, ca múa, sầu lo.

Đó gọi là hành ác của miệng.

Hỏi: Thế nào là Hành ác của ý?

Đáp: Hành ác của ý là tham, giận, tà kiến, là chỗ hành ác của ý nên gọi là hành ác của ý, là ba thứ tham, giận, tà kiến ấy.

Tham là mong có được tài sản, vật dụng của kẻ khác.

Hỏi: Nếu mong có được tài sản vật dụng của kẻ khác là tham, tức là nói lặp lại, có lỗi. Tại trong niệm nên đã nói ở đấy. Niệm là tâm mong muốn, mong muốn khiến hành tác, kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ chăng?

Đáp: Đây nói không có trùng lặp. Ý muốn như thế. Niệm là ý mong muốn như thế, muốn hành tác. Ở đây không muốn hành tác mà muốn đoạt lấy vật dụng của kẻ khác. Tham nên khiến tài sản vật dụng ấy có nơi mình. Như thế là ý nhiễm ô, vướng mắc trong tài sản vật dụng của kẻ khác. Tham là hướng tới vật dụng của kẻ khác. Sân là bức bách kẻ khác với ý ác.

Hỏi: Thế nào là tà kiến?

Đáp: Tà kiến là nghiệp quả trái nhau, không thấy biết. Nghiệp trái nhau, quả trái nhau, không thấy biết, là tóm lược về ba thứ tà kiến. Nếu phân biệt là vô lượng. Như ở đây, dị kiến là tà kiến.

Hỏi: Thế nào là nghiệp trái nhau?

Đáp: Nghiệp trái nhau là ý tịnh bất tịnh, ý bất tịnh tịnh, cùng một ý. Ý tịnh bất tịnh, ý bất tịnh tịnh, cùng một ý là ba thứ nghiệp trái nhau.

Ý tịnh, bất tịnh: Là nghiệp thân miệng ý thiện, quả bất thiện.

Ý bất tịnh, tịnh: Là nghiệp thân miệng ý bất thiện, quả thiện.

Cùng một ý: Là nghiệp thân miệng ý thiện, bất thiện, quả thiện bất thiện. Quả cũng như vậy. Như phân biệt về nghiệp, phân biệt về quả cũng thế. Trên cõi trời khổ, Niết-bàn khổ, so sánh như thế là quả tịnh ý bất tịnh. Đường ác vui, sinh tử vui, so sánh như thế là quả bất tịnh, ý tịnh. Đường ác khổ phi khổ, so sánh như thế là cùng một ý.

Hỏi: Thế nào là không thấy biết?

Đáp: Không thấy biết là không thấy biết nghiệp quả chúng sinh. Không thấy biết nghiệp, không thấy biết quả, không thấy biết chúng sinh. Đó là ba thứ không thấy biết.

Không thấy biết nghiệp: Là không thí, không trai giới, không thuyết giảng, không phương tiện, không tạo tác nghiệp thiện bất thiện.

Không thấy biết quả: Là tạo thiện bất thiện không có quả báo, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Không thấy biết chúng sinh: Là không có cha mẹ, không có chúng sinh sinh nơi thế gian, không có Sa-môn, Phạm-chí thật. Đó gọi là vô lượng thứ của tà kiến.

Đây là ba thứ hành ác của ý nơi vô lượng thứ. Tất cả nhân ác được tạo cùng trái với tất cả nhân thiện được tạo, trong phần Giới ở trước đã nói.

Phần thứ nhất của phẩm Ác nơi Chân độ đã nêu bày xong.

 

Hỏi: Đã nói về Hành ác, còn thế nào là Ái?

Đáp: Ái là nhiễm, giận, mạn. Nhiễm giận mạn là ba thứ ái, nên biết. Ái là cầu, là ba thứ nói chung làm một.

Hỏi: Thế nào là nhiễm?

Đáp: Nhiễm là chấp trước dục, hữu, phạm hạnh. Chấp trước dục, chấp trước hữu, chấp trước phạm hạnh, là ba thứ nhiễm.

Ở đây, dục là năm dục: sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc). Là dựa nơi ba thứ ấy, các chúng sinh mỗi mỗi đều vui thích, vướng mắc, các sự khác thì không thế. Tại đây, chấp trước dục là nữ, nam, chẳng thành nam chấp trước dục. Nữ “dục” nam, nam dục nữ cùng chẳng thành nam. Chẳng thành nam dục nữ, dục nam.

Hỏi: Trước đã nói về chấp trước năm dục, nay nói nữ, nam, chẳng thành nam, chẳng phải là lỗi sao?

Đáp: Nữ, nam, chẳng thành nam, nữ nam chẳng thành nam là lặp lại ở trong năm dục, mỗi mỗi thứ đều vướng mắc. Đối với các sự việc khác thì không thế. Như Đức Thế Tôn đã nói: Ta không thấy sắc ái nào khiến nhiễm đắm như là sắc nam nữ, như là cảnh giới của năm dục. Do đó không có lỗi về ái. Dục có ba thứ: kém, vừa, hơn. Kém là dục của nam. Vừa là dục của nữ. Hơn là dục của chẳng thành nam. Đó gọi là chấp trước nơi dục.

Hỏi: Thế nào là chấp trước nơi hữu?

Đáp: Chấp trước hữu là dục, sắc, vô sắc hữu. Chấp trước nơi dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, đó gọi là chấp trước hữu.

Hỏi: Như ở đây, chấp trước dục, trước đã nói riêng nơi nữ, nam, chẳng thành nam. Nay vì sao lại ở trong chấp trước hữu nói nữa?

Đáp: Chấp trước hữu là vì chúng sinh nên nói. Chấp trước dục là vì phiền não nên nói. Tất cả pháp của cõi Dục gọi là dục hữu. Nếu chấp trước nơi chúng thì đó là chấp trước dục hữu. Pháp của cõi Sắc gọi là sắc hữu, nếu chấp trước chúng thì đó là chấp trước sắc hữu. Pháp của cõi Vô sắc gọi là vô sắc hữu, nếu chấp trước chúng thì đó là chấp trước vô sắc hữu. Do đấy nên nói riêng, không lỗi.

Hỏi: Thế nào là chấp trước phạm hạnh?

Đáp: Chấp trước phạm hạnh là được, chưa được, mất, chấp trước dục, lo. Chấp trước phạm hạnh là đã được liền chấp, chưa được liền mong cầu, nếu mất liền lo. Do nghĩa ấy, nên cũng nói là chấp trước dục hữu: Đã được liền chấp, chưa được liền mong cầu, nếu mất liền lo lắng. Như vậy, chấp trước dục hữu, phạm hạnh, mỗi thứ đều có ba, nên nói là chín.

Lại nữa, được người nữ liền tham đắm, chưa được liền mong cầu, nếu mất liền lo lắng. Như vậy, nữ, nam, chẳng thành nam nơi chấp trước dục cũng nên nói chín thứ. Như thế, chấp trước dục hữu, chấp trước phạm hạnh, nên nói là hai mươi bảy.

Hỏi: Chấp trước phạm hạnh có thể được như thế là phiền não chăng?

Đáp: Có. Như Đức Thế Tôn nói: Ba cầu là cầu dục, cầu hữu, cầu phạm hạnh. Cầu ái, nhiễm chấp là một nghĩa.

Lại nữa, như đã nói, dục cùng phạm hạnh, lìa ái luôn nhớ nghĩ.

Hỏi: Nếu như thế thì phạm hạnh không thể hành. Vì sao? Vì có chấp trước. Lại nữa, nếu như chỗ đã nói thì tất cả phạm hạnh nên có chấp trước?

Đáp: Nên theo phương tiện hành, như họ Thích đã hành. Họ Thích là hành phạm hạnh mà không chấp trước phạm hạnh. Họ lìa tội phước, nên hành đạo không để cầu quả. Người cầu quả gọi là chấp ngã. Do giới nầy, do khổ hạnh nầy, do phạm hạnh nầy, nên được sinh lên cõi trời, cùng cõi khác. Như thế là hành chấp trước, nhiễm ô, cầu mong vào lúc nào ta sẽ được phạm hạnh, khiến ta được sinh trong nẻo thiện? Nếu chấp trước phạm hạnh để được an vui của đời sau, là đã nắm giữ ái lạc, tạo phi phạm hạnh sinh hối tiếc, khiến ta thối chuyển. Đó gọi là lo lắng. Như thế gọi là chấp trước phạm hạnh.

Hỏi: Thế nào là giận?

Đáp: Giận là đã có thân, oán, đã có phẫn nộ. Thân, oán, phẫn nộ, là ba thứ giận.

Hỏi: Thế nào là nơi xứ ái nói về giận?

Đáp: Giận là cầu ác, cầu không ái, là đã có nên trong bốn môn hành thân oán cũng hành trong bốn môn.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Vì mình, cùng người thân, chưa được an vui thì cầu, đã được thì khiến không mất. Đã bị khổ thì muốn xả bỏ, chưa bị thì không muốn khiến cho bị. Như vậy, mình và người thân, trái với bốn thứ là oán.

Chưa bị khổ, muốn khiến cho bị, đã bị rồi muốn khiến không bỏ. Chưa được vui thì muốn khiến không được. Đã được thì muốn khiến mau chóng mất. Đó gọi là vì oán nên cầu ác, là giận. Do đấy nơi xứ ái nói giận không lỗi.

Hỏi: Thế nào là vì mình?

Đáp: Vì mình là ba thời cầu không lợi. Ba thời là quá khứ, hiện tại, vị lai, như đã nói. Kẻ kia vì ta đã cầu không lợi, sẽ cầu không lợi, nay cầu không lợi, nên sinh giận. Đó gọi là vì mình, ba thời cầu không lợi, sinh giận.

Hỏi: Thế nào là thân?

Đáp: Thân cũng như thế. Như vì mình, ba thời cầu không lợi, sinh giận. Như vậy là vì người thân, ba thời cầu không lợi, sinh giận.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Như đã nói, nếu ta thân ái với kẻ kia, vì đấy đã cầu không lợi, sẽ cầu không lợi, nay cầu không lợi, sinh giận. Đó gọi là thân.

Hỏi: Thế nào là oán?

Đáp: Oán là trái nhau, oán gia khác nhau như đã nói. Như ta oán kẻ kia, vì đấy đã cầu lợi, sẽ cầu lợi, nay cầu lợi, sinh giận. Như thế là vì oán cầu lợi nơi ba thời, sinh giận. Đó gọi là chín thứ giận.

Hỏi: Giận nầy và giận trong ba hành ác có sai biệt gì?

Đáp: Đây là dựa vào phương tiện sinh. Còn giận của hành ác, nên biết là từ vô trí nên giận dữ.

Hỏi: Chín thứ giận của tất cả chúng sinh là như nhau chăng?

Đáp: Trụ nầy như vẽ nơi nước đất đá. Giận ấy tùy theo chúng sinh nên biết như vẽ nơi nước, đất, đá. Chúng sinh với từng ấy loại, nên biết giận có hạ trung thượng. Như vẽ trên nước tức thì mất ngay. Vẽ trên đất thì có được ít thời gian, nếu bị gió mưa cùng nhân duyên khác mới bị mất. Vẽ trên đá thì cho đến trụ đá không còn đá mới mất. Như thế, chúng sinh với từng ấy thứ giận không đồng. Hoặc lúc mới sinh giận liền tự trách: Ta không đúng, chúng sinh là pháp tự nhiên diệt, vô lượng khổ bức bách tự chúng sẽ dứt. Ta không có tội, không có ý ác hủy hoại kẻ khác. Như thế là giận dữ kia tự dứt như vẽ trên nước. Hoặc lại sinh giận không thể tự kìm chế, nếu có thầy, bạn lành từ bi quở trách thì mới dứt được, như vẽ trên đất. Hoặc lại có ý ác, không suy xét đúng đắn, sinh giận, Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn kia cũng không thể làm cho dứt, cùng với thân cùng diệt, như vẽ trên đá. Đó gọi là giận.

Hỏi: Thế nào là mạn?

Đáp: Mạn là ý dấy khởi thấp, ngang, hơn, do đấy để dựa cậy, nên gọi là mạn. Lại nữa, nêu tính về các thứ kia đây nên gọi là mạn, là ba thứ ý khởi ta là kém, ý khởi ta là bằng, ý khởi ta là hơn.

Nếu có sắc, giàu sang, tộc họ noi theo, ta không như kẻ kia, nên gọi là ý khởi ta kém. Hoặc có sắc, giàu sang, tộc họ noi theo, ta cùng với kẻ kia bằng nhau, nên gọi là ý khởi ta bằng. Hoặc có sắc, giàu sang, tộc họ đông vui, ta đối với kẻ kia là hơn, nên gọi là ý khởi ta hơn.

Hỏi: Đã nói về tướng của mạn như kém (ty), bằng (đẳng), hơn (thắng). Làm sao nhận biết đấy là chân độ, phân biệt tất cả mạn? Mạn có vô lượng thứ, như trong phần thô tạp đã nói?

Đáp: Thấp kém (ty) là tà, bất như, cực hạ mạn. Ty mạn là ba thứ tà mạn, bất như mạn, cực hạ mạn. Tà mạn là ta tạo nghiệp cực ác, lại khởi ý cao ngạo.

Bất như mạn: Là thọ nhận sự khen ngợi, tán dương của kẻ khác nói: Lành thay! Ông có đức lớn! Nghe rồi trong lòng hoan hỷ: Đối với ta, vì sao không được như thế?

Cực hạ mạn: Là biếng nhác, dấy khởi niệm nầy: Con người không thể hướng tới nẻo thù thắng. Đó là ba thứ ty mạn.

Hỏi: Thế nào là đẳng mạn?

Đáp: Đẳng mạn là ngã, cống cao, bất kính mạn. Đẳng mạn là ba thứ ngã mạn, cống cao mạn, bất kính mạn.

Ngã mạn: Là chấp năm ấm là ngã, đã ở trong ác cho là công đức.

Cống cao mạn: Là thọ nhận sự cung phụng của kẻ khác.

Bất kính mạn: Là không kính các bậc sư trưởng.

Đó gọi là ba thứ đẳng mạn.

Hỏi: Thế nào là thượng mạn?

Đáp: Thượng mạn là đại mạn, mạn đại mạn, tăng thượng mạn.

Đại mạn: Là đối với chỗ kém và bằng, cho ta là hơn, sinh kiêu mạn.

Mạn đại mạn: Là đối với kẻ hơn, cho ta là hơn, sinh kiêu mạn.

Tăng thượng mạn: Là đối với việc chưa được quả thù thắng cho là được, sinh kiêu mạn.

Đó gọi là ba thứ thượng mạn. Tất cả mạn ấy từ nơi ái lạc, lo sợ sinh, do đấy nói nơi xứ ái.

Phần thứ hai của phẩm Ác nơi Chân độ đã nêu bày xong.

 

Hỏi: Đã nói về Ái, thế nào là Vô minh?

Đáp: Vô minh là trí Phi, , Hoặc. Phi trí, tà trí, hoặc trí, ba thứ ấy là vô minh. Vô minh là giả danh của si, là phân biệt về chữ, nói kẻ kia hủy báng để lập tên gọi. Như người có con ác thì gọi là không con. Như thế, vô minh nầy là minh ác nên nói là vô minh.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Phi trí là hữu vi vô vi, không thể nói, không biết. Hữu vi, vô vi, không thể nói, không biết, đó là ba thứ phi trí.

Hỏi: Hai thứ hữu vi là thọ cùng không thọ. Ở đây làm thế nào để định rõ?

Đáp: Hữu vi là thọ, không thọ cùng thọ. Nếu là phi trí, nên biết là thọ si, không thọ si, cùng si. Ở đây, thọ là hai thứ tự thọ, tha thọ của ấm, giới, nhập. Không thọ là so sánh với cây cỏ, tường vách. Ở đây, hoặc tha thọ, hoặc không thọ, nên biết là không thọ, trong ấy mỗi mỗi đều bị si ám. Đó gọi là phi trí. Như Đức Thế Tôn nói: Sáu cánh nhập, phi trí không thấy biết. Như thế, quảng diễn như kinh đã nói. Thọ gọi là nghĩa nhận lấy. Nhân nơi nghiệp cùng phiền não, ý si chấp ngã là ngã sở. Đó gọi là thọ.

Hỏi: Vô vi là Niết-bàn, là một, vì sao nói ba?

Đáp: Vô vi là hữu dư, vô dư, cùng có. Tuy Niết-bàn là một vô vi, song là sự nên nói hai thứ là hữu dư và vô dư. Hữu dư là thân đã thọ nhận nghiệp và phiền não, là nói hữu dư. Kẻ ấy đoạn trừ hết tất cả phiền não, tác chứng rồi, nên là hữu dư, là nói về hữu dư.

Vô dư là nếu thọ ấm nầy xả, lại không nối tiếp, như đèn tắt, là Niết-bàn, đây gọi là vô dư, trong đó, mỗi mỗi thứ và cùng diệt, là vô vi không biết.

Hỏi: Thế nào là không thể nói?

Đáp: Không thể nói là thọ nhận, quá khứ, diệt nêu bày. Thọ nhận nêu bày, quá khứ nêu bày, diệt nêu bày. Nếu không biết, đó gọi là không thể nói, không biết.

Thọ nhận nêu bày: Là chúng sinh đã thọ nhận ấm, giới, nhập, chấp là một, là khác.

Quá khứ nêu bày: Là nhân nơi ấm, giới, nhập của quá khứ mà nói. Như đã nói: Ta nơi bấy giờ tên là Cù-tuần-đà.

Diệt nêu bày: Là nếu đã diệt là nhân nơi thọ mà nói. Như đã nói: Đức Thế Tôn Bát-Niết-bàn.

Lại nữa, quá khứ nêu bày: Là chế phục chúng sinh chấp đoạn. Diệt nêu bày: Là chế phục hữu thường. Thọ nêu bày: Là chế phục về vô. Không thọ nêu bày: Là chế phục về hữu. Trong kia, mỗi mỗi đều không biết. Đó gọi là không thể nói, không trí.

Hỏi: Đã nói về Phi trí, thế nào là Tà trí?

Đáp: Tà trí là kiến thân, biên, trộm. Thân kiến, biên kiến, trộm kiến là ba thứ tà trí. Tà là điên đảo, không phải như, chẳng chân thật đồng một nghĩa.

Thân kiến: Là ngã, ngã ấy, tự tại. Ngã tất như thế, ngã ấy tất như thế, tự tại tất như thế, là thân kiến.

Ngã tất như thế: Tức ấm là huyễn hóa, như dợn nắng, như tiếng vang, như bóng trăng trong nước, hình tướng giống năm ấm, nên chấp trước là ngã.

Ngã ấy tất như thế: Là giả mượn chuỗi anh lạc, cây trái tích tụ, tương tợ như năm ấm, chấp là sở hữu của ngã.

Tự tại tất như thế: Là thân cây chuối, các thứ bọt bóng nước giống như cảnh giới của năm dục, chấp là tự tại, như làng xóm trống vắng. Thân kiến là kiến chấp về sở hữu của ngã nơi thân. Như vậy gọi là ba thứ thân kiến.

Hỏi: Thế nào là biên kiến?

Đáp: Biên kiến là đoạn, thường, cùng đoạn thường, cùng là ba thứ biên kiến thọ nhận. Biên là không do đạo lý, là kiến chấp một bên. Ở đây, đoạn thường là thế gian hữu thường, vô thường, phi hữu thường phi vô thường. Thế gian là hữu biên, vô biên, phi hữu biên phi vô biên. Chúng sinh là hữu chung, chúng sinh là vô chung, phi hữu chung phi vô chung, là thân là mạng, so sánh như thế.

Cùng là hữu thường, vô thường, hữu biên, vô biên. Hữu chung, vô chung, so sánh như thế. Đó gọi là ba thứ biên kiến.

Hỏi: Thế nào là trộm kiến?

Đáp: Trộm kiến là giới, kiến, nương dựa. Trộm kiến nầy từ trong ba thứ sinh: Một là giới. Hai là kiến. Ba là nương dựa. Trong trộm kiến ấy, giới thì nơi phần Chân độ thứ nhất đã nói. Do giới nầy được thanh tịnh nên cùng thọ giới. Đó gọi là hai thứ giới trộm. Đây là chân thật, thứ khác là hư, không phải thật. Đó gọi là kiến trộm. Chấp là chân thật tất như thế, cũng là nói về kiến trộm.

Thân trói buộc, dựa nương vào đấy: Tức nếu dựa vào giới cùng kiến là năm ấm. Do đấy nên hoặc giới hoặc kiến chấp là năm ấm tịnh. Nên biết là giới trộm chấp năm ấm là bậc nhất, không phải thứ khác. Nên biết kiến trộm là dựa vào đấy. Đó gọi là ba thứ trộm kiến.

Hỏi: Thế nào là Hoặc trí?

Đáp: Hoặc trí là bảo, đế, trong định không biết rõ. Bảo không nhận biết rõ, đế không nhận biết rõ, trong định không nhận biết rõ. Không nhận biết rõ là không quyết đoán nơi nghi, đồng một nghĩa với do dự.

Hỏi: Thế nào là Bảo?

Đáp: Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, nên biết là Tam bảo. Phật là phổ trí, thành tựu tất cả công đức, lìa hết thảy ác.

Hỏi: Phật do những gì gọi là bảo?

Đáp: Do công đức ấy.

Lại nữa, do đại từ đại bi, do thuyết pháp chân thật, do vô sự thân, do khó xuất hiện ở đời, như hoa Ưu-đàm. Như thế, do thành tựu công đức không thể tính kể, nên nói là bảo (báu).

Pháp là phương tiện cùng quả của phương tiện, trong ấy, chỉ nói về Niết-bàn, là Pháp bảo. Phật ấy, ở tại trên tất cả pháp, như kinh đã nói. Nếu có pháp hữu vi và vô vi, thì Niết-bàn vô vi kia là bậc nhất. Bảo nầy không bị hủy hoại, diệt trừ hết các khổ, an vui rốt ráo, khó đạt được, không thể cùng tận. So sánh như thế nên gọi là bảo.

Tăng là, trong phần Thanh-văn ở trước đã nói, là bảo, do phước đức lớn rộng, không trái với giáo pháp của Đức Thế Tôn, là phước điền vô thượng, được Đức Thế Tôn khen ngợi, không bị hủy hoại, luôn hòa hợp không tranh chấp. So sánh như thế về vô lượng công đức được thành tựu, nên gọi là bảo.

Hỏi: Đã nói về bảo. Vậy thế nào là đế?

Đáp: Đế là đẳng, tướng, đệ nhất nghĩa đế, tức đẳng đế, tướng đế, đệ nhất nghĩa đế là ba thứ đế.

Đế là thật có đế, chân đế, bất hư đế, như đế, nên nói là đế.

Đẳng đế: Là phương tục, tộc, học được nêu lên. Tức phương tục được nêu lên, tộc họ được nêu lên, học xứ được nêu lên, đó gọi là ba thứ đẳng đế. Hành vô số sự việc nên gọi là đẳng đế. Hành vô số sự việc là nghĩa của trí. Ở đây, phương tục được nêu lên là nghĩa tất như thế. Sự việc nầy là ta đã chấp thuận. Sự việc kia, tên gọi kia, như nước đầy dẫy, chảy tràn trề. So sánh như thế, về chỗ được nêu lên như thế, đó gọi là đẳng đế.

Tộc họ được nêu lên: Là gia pháp của mình.

Học xứ được nêu lên: Là do oai nghi, phép tắc làm hành, cùng suy xét, lãnh hội kinh. Lại nữa, thọ thực nơi ban ngày, không thọ thực vào ban đêm. Không chặt phá cây cỏ, mùa mưa không đi. So sánh như thế về hành, đó gọi là đẳng đế.

Hỏi: Thế nào là tướng đế?

Đáp: Tướng đế là khổ, tập, đạo. Tức khổ đế, tập đế, đạo đế là ba tướng đế. Do đế cùng quán nên là tướng. Tướng của đế là nói về sinh, lão, vô thường. Tướng là nói về cờ hiệu. Trong đó, tướng bức bách là khổ đế. Tướng chuyển thành là tập đế. Tướng xuất yếu là đạo đế. Diệt là vô tướng, ở đây sẽ nói riêng.

Lại nữa, khổ đế là ấm, giới, nhập. Tập đế là tham sân si. Đạo đế là giới, định, trí. Đó gọi là tướng đế.

Hỏi: Thế nào là đệ nhất nghĩa đế?

Đáp: Là tạo, chữ, niệm, dừng dứt rốt ráo. Tạo, chữ, cùng tất cả niệm, dừng dứt rốt ráo, đó gọi là đệ nhất nghĩa đế. Tạo là thân nghiệp. Chữ là khẩu nghiệp. Niệm là ý nghiệp. Nếu ba thứ ấy đạt đến vắng lặng rốt ráo, đó gọi là đệ nhất nghĩa đế, là nghĩa Niết-bàn.

Hỏi: Như Đức Phật nói kệ:

Một đế không có hai

Nếu đời đời nơi Hoặc

Nan-đà quán các đế

Là Sa-môn không nói.

Như bốn đế vì sao nói là một?

Đáp: Đây là đệ nhất nghĩa đế, nên nói không có hai Niết-bàn. Như kệ nầy đã nói:

Nan-đà quán các đế

Là Sa-môn không nói.

Do nửa kệ nầy có thể nhận biết không nói về đế khác là không lỗi.

Hỏi: Đã nói về đế, còn thế nào là định?

Đáp: Định là định sắc, vô sắc, vô lậu. Tức định sắc, định vô sắc, định vô lậu, đó gọi là định.

Định là nghĩa tâm hành định. Ở đây, định sắc là vô lượng trừ nhập của thiền cõi Sắc. giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba, cùng nhập thứ nhất nơi tất cả nhập.

Định vô sắc: Là bốn vô sắc, hai nơi tất cả nhập.

Định vô lậu: Là không, vô nguyện, vô tưởng.

Thiền vô lậu là vô lậu. Định vô sắc là vô lậu. Năm tưởng trước cùng định đoạn cõi, tất cả các thứ ấy đều không quyết đoán về nghi hoặc, đều do dự, đó gọi là Hoặc trí. Đây cũng là Hoặc của khổ phi khổ, tập diệt đạo phi đạo. Bốn đế như thế, nơi ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc là mười hai thứ. Đối với Hoặc trí nầy, như nơi xứ ái đã nói. Nơi xứ vô trí cũng nói về tà trí, tà kiến. Trong hành ác của ý ở trước đã nói. Kiến trộm cũng như thế. Thân kiến, biên kiến ở nơi khổ thuộc ba cõi. Giới trộm ở nơi khổ, đạo thuộc ba cõi.

Lại nữa, ái cũng do tư duy đoạn, như thế là đã phân biệt nói về chín mươi tám sử.

Phần thứ ba của phẩm Ác nơi Chân độ đã nêu bày xong.

HẾT - QUYỂN TRUNG


 

LUẬN TAM PHÁP ĐỘ

QUYỂN HẠ

Phẩm 3: NƯƠNG DỰA

Hỏi: Đã nói về Đức cùng Ác. Thế nào là Nương dựa?

Đáp: Nương dựa là Ấm, Giới, Nhập. Ấm, giới, nhập, ba thứ nầy là nương dựa. Có thể nương dựa nên nói là nương dựa.

Có thể nương dựa: Là nghĩa an lập. Chúng sinh ở nơi ấm, giới, nhập tạo sự nương dựa cho hành đức cùng ác. Do đó nên biết đây là chỗ dựa của đức, ác.

Hỏi: Thế nào là Ấm?

Đáp: Ấm là Sắc, Hành, Tri. Sắc, hành, tri, ba thứ nầy nên biết là ấm. Ấm đồng một nghĩa với tích tụ, bó buộc. Ở đây, xanh vàng đỏ trắng, thô tế, dài ngắn, vuông tròn được so sánh, nên biết gồm chung là sắc ấm. Trong đó, sắc là bốn đại cùng các thứ do bốn đại tạo ra, có thể thấy, không thể thấy, là nói về sắc ấm. Bốn đại và sắc được tạo là hai thứ có thể thấy cùng không thể thấy. Có thể thấy là đối tượng được nhận thấy của mắt. Không thể thấy là thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc), nơi mắt tai mũi lưỡi thân và bốn đại.

Hỏi: Nói về Sắc là bốn đại cùng các thứ do bốn đại tạo ra, trong đó, bốn đại hãy còn không nhận biết, huống chi là các thứ do bốn đại tạo. Thế nào là bốn đại?

Đáp: Đại là địa, thủy, hỏa, phong (đất, nước, lửa, gió). Địa, thủy, hỏa, phong ấy giả gọi là đại, là sắc mỗi mỗi thứ cùng hợp. Ở đây, tướng cứng chắc là địa (đất), tướng ẩm ướt là thủy (nước), tướng nóng là hỏa (lửa), tướng động là phong (gió).

Sắc được tạo: Là khói, mây, sương mù, bóng, tối, sáng, ánh sáng mặt trời, năm sắc, năm tình (căn), được so sánh như thế.

Hỏi: Đã nói về sắc ấm. Thế nào là Hành?

Đáp: Hành là dựa nơi thân miệng tâm. Ở đây, dựa nơi thân nên nói là nương thân. Dựa nơi miệng nên nói là nương miệng. Dựa nơi tâm nên nói là nương tâm. Nương vào thân miệng tâm tạo hành, tạo hành hữu vi, nên gọi là hành. Như Khế kinh Phật nói: Sắc là hành hữu vi. Chúng lại tạo tiếp, như con lại sinh con. Như sắc, nên biết năm ấm cũng như thế. Vô lượng thứ ấy, vô lượng thứ kết hợp tạo tác rồi, đó gọi là năm ấm, như lúa thóc được tích tụ. Hành là phước, phi phước, bất động, ba thứ ấy là nói về hành.

Hỏi: Thế nào là Tri?

Đáp: Tri là thống (thọ), tưởng, thức. Ba thứ ấy là tri, cũng gọi là đạo pháp, do đạo không cùng lìa. Như Đức Thế Tôn nói: Như thống (thọ) tức là tri.

Hỏi: Thế nào là thống (thọ)?

Đáp: Thọ là lạc thọ, khổ thọ và thọ không khổ không lạc. Tánh của thọ nói về thọ. Thọ không có nguyên do để được thọ. Thọ tức là có thể thọ nhận. Nếu thọ có nguyên do thì phải có thọ mạng khác. Nếu có thể thọ nhận nên tức là mạng, song thọ không phải là mạng, nên tánh của thọ là thọ. Là phân biệt chữ, nên nói thọ nầy có ba thứ: Lạc thọ, khổ thọ, thọ không khổ không lạc. Mỗi mỗi thứ đều cùng duyên. Duyên nơi lạc thọ có khổ thọ. Duyên nơi khổ thọ có lạc thọ. Duyên cả hai có thọ không khổ không lạc. Như Đức Thế Tôn nói: Lạc thọ cùng với khổ thọ đối nhau. Khổ thọ cùng với lạc thọ đối nhau. Lạc khổ thọ cùng với không khổ không lạc thọ đối nhau. Đối là nghĩa oán địch.

Hỏi: Thế nào là lạc thọ?

Đáp: Lạc thọ là dục, chẳng ác, không chấp trước sinh. Lạc thọ có ba thứ: Là từ dục sinh, từ chẳng ác sinh, từ không chấp trước sinh. Ở đây, từ dục sinh: Là hành năm dục, được nhiều vui thích. Từ chẳng ác sinh: Là chẳng ác tức chẳng tăng thêm ác, là hành thiện nơi giới không dục. Đối với giới, ý không hối, do đấy nên vui vẻ. Từ không chấp trước sinh: Là chế ngự các căn, lìa năm dục, ý không loạn, lúc hành thiền, vô lượng, được an vui, là nói về không chấp trước sinh. Không chấp trước gọi là không vướng mắc. Đối với nghĩa của căn cũng lại nói là không nhiễm. Đó là nói về ba thứ lạc thọ.

Hỏi: Thế nào là khổ thọ?

Đáp: Khổ thọ là sinh lão tử. Sinh, già, chết, ba thứ ấy là khổ thọ. Trong đó, sinh khổ như sinh ung nhọt. Già khổ như ung nhọt mới phát. Chết khổ như ung nhọt đã phát, vào sâu trong đốt xương.

Lại nữa, sinh nên có tất cả khổ, nên gọi là sinh khổ. Như Đức Thế Tôn nói: Sinh nên có chân tay bị cắt đứt, so sánh như thế. Già khổ là sắc lực tráng kiện đã bị hoại. Chết khổ là ái cùng biệt ly. Đó gọi là khổ thọ.

Hỏi: Thế nào là thọ không khổ không lạc?

Đáp: Không khổ không lạc là ba cõi. Nếu không khổ không lạc nên biết là ba cõi. Không khổ không lạc là chướng ngại đối với khổ lạc. Ba cõi ấy, phần sau sẽ nói. Nếu cho không khổ không lạc là ba cõi, tức đã thâu gồm cả phần trước nói về khổ, lạc, nên biết không phải do lạc khổ nơi ba cõi. Cõi Dục có đủ ba thọ. Cõi Sắc có hai là lạc thọ và thọ không khổ không lạc. Cõi Vô sắc chỉ có một là thọ không khổ không lạc. Do đó, không khổ không lạc nên biết là ba cõi.

Hỏi: Thọ nầy làm chỗ dựa cho những gì?

Đáp: Lạc là chỗ dựa của đa dục. Khổ là chỗ dựa của nhiều giận dữ. Không khổ không lạc là chỗ dựa của nhiều si mê. Vì sao? Vì có lạc thọ không dục, có thể trừ bỏ dục, như trong ba thiền. Có khổ thọ không giận, như Đức Thế Tôn bị đau đầu cùng bị thương ở gót chân không khởi giận. Không khổ không lạc nhận biết thiền thứ tư, cùng bốn định vô sắc, trong ấy không si, có thể trừ bỏ si. Nếu như thế, tùy nghĩa có thể được nêu bày.

Hỏi: Chúng từ những gì sinh?

Đáp: Chúng từ nghiệp, từ sự bức bách, từ cõi sinh. Các thứ lạc thọ, khổ thọ, thọ không khổ không lạc kia, nên biết là từ nghiệp sinh, từ sự bức bách sinh, từ cõi sinh, không phải là tự nhiên, không phải là ngẫu nhiên.

Hỏi: Nghiệp có vô lượng thứ. Ở đây là nói về nghiệp nào?

Đáp: Từ nghiệp sinh, là từ phước, phi phước, bất động. Lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ nầy từ trong ba nghiệp là phước, phi phước, bất động sinh. Như nghĩa, lạc thọ từ phước sinh, khổ thọ từ tội sinh, không khổ không lạc thọ từ bất động sinh. Ở đây, phước là có thể trừ hành ác, là bốn thiền đứng đầu. Phi phước là hành ác. Bất động là thiền thứ tư cùng vô sắc.

Hỏi: Như trước đã nói, Phước là Thí, Giới, Tu. Tu tức là thiền, vô lượng và vô sắc. Nay vì sao nói riêng lạc thọ từ phước sinh?

Đáp: Nói riêng không lỗi. Do có rất nhiều tích tụ, nên ở đây đã nói riêng. Thiền như đã nói. So với ba y của Tỳ-kheo là khác. So với Phật hộ bát, không thể cho là Phật hộ, cũng là Tỳ-kheo, nên trao cho ba y, bát. Nhưng Tỳ-kheo khác với Phật hộ, nên trao y cho Tỳ-kheo kia. Như vậy, tu là thiền, vô lượng, vô sắc. Phước là ba thiền. Nếu không phân biệt ba thiền thì đối với tu phải có lỗi, vì có rất nhiều tích tụ.

Hỏi: Thế nào là từ bức bách sinh?

Đáp: Từ bức bách sinh là mình, người, cùng bức bách sinh ba thứ thọ, là vì mình, vì người, vì cùng cả hai. Bức bách là hai thứ, là lạc là khổ. Ở đây, vì mình là như dùng đao tự đâm, hoặc về sau dùng Chiên-đàn, thuốc bôi vào. Vì người: Như đánh vỡ đầu kẻ khác, lại dùng thuốc để điều trị. Vì cùng cả hai: Như nói với người khiến đánh vỡ đầu mình, rồi lại dùng thuốc đắp vào. Như thế đều nên biết đó gọi là từ bức bách sinh khổ.

Hỏi: Thế nào là từ cõi sinh?

Đáp: Từ cõi sinh là thời ác, hoạn.

Hỏi: Cõi, như đã nói về ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Ở đây tức là cõi ấy chăng?

Đáp: Ở đây không phải là cõi như thế. Tách rời chúng sinh là ba thứ tưởng: Thời, ác, hoạn. Cõi ở đây là giả tưởng. Trong đó, thời là các mùa hạ, đông, xuân. Hạ đông xuân, nên biết ba mùa nầy là thời. Mùa hạ thì đàm tăng nhiều. Mùa đông thì nước dãi nước miếng tăng nhiều. Mùa xuân thì phong tăng trưởng. Như y thuật đã nói về thời, nên có khổ lạc thọ. Đó gọi là ba thời.

Hỏi: Thế nào là ác? Là hành ác, tức ái, vô minh chăng?

Đáp: Không hủy hoại Pháp thân, ở đây nói là hủy hoại thân bốn đại.

Hỏi: Vậy thế nào là ác?

Đáp: Ác là phong, đàm, nước dãi, các thứ nầy hủy hoại thân bốn đại, do đấy nên sinh thọ.

Hỏi: Thế nào là hoạn?

Đáp: Hoạn là chúng sinh nhân nơi đấy để lìa các thứ tai họa. Hoặc chúng sinh nhân đấy để lìa sinh khổ, là nhân nơi tường vách, rừng núi, hang núi.

Nhân là nhân nơi mình, người, cả hai. Đó gọi là thọ.

Hỏi: Thế nào là tưởng?

Đáp: Tưởng là có tưởng, không tưởng, không chỗ tưởng nơi quán sai biệt. Tưởng là nói về việc thọ nhận hình tượng sai biệt. Ở đây, có tưởng, không tưởng, không chỗ tưởng, quán sai biệt là đồng một nghĩa. Trong đó, có tưởng là cùng nương dựa. Không tưởng là không cùng nương dựa. Như rất nhiều bình, hoặc có người nói là bình mật, là bình tô, do tưởng ấy nên tưởng. Hoặc không mật không tô, là không thọ nhận, tưởng không. Như vậy, tưởng âm thanh, so sánh thọ nhận có sai biệt. Hoặc loại bỏ âm thanh, so sánh thọ nhận như thế.

Không chỗ tưởng: Đây là không có thực, tức xả.

Lại nữa, hữu dục nói là có sở hữu. Hữu dục ấy nói là xứ giải thoát, quán rồi là không sở hữu.

Lại nữa, có tưởng là quán xứ Thiện thức. Không tưởng là quán xứ Phi tưởng phi phi tưởng. Không chỗ nương dựa là quán xứ Vô sở hữu.

Hỏi: Thế nào là thức?

Đáp: Thức là sinh, thành, không thành nhập. Hành, danh sắc cùng dựa duyên, có thể đạt được. Thức là khác với chủng trí nên nói là thức. Chủng chủng trí nên nói là thức. Là ba thứ sinh nhập, thành nhập, không thành nhập. Dựa nơi hành, dựa nơi danh sắc, dựa nơi hai thứ duyên, có thể đạt được, là ba thứ. Đức Thế Tôn trong mười hai duyên khởi, nói hành duyên nơi thức. Lại nói danh sắc duyên nơi thức. Lại nói nhãn, sắc duyên sinh nhãn thức. Ở đây, vô số hành tạo sinh lúc nhập nơi thai mẹ, cùng sinh thức. Đó gọi là hành duyên sinh thức. Tức ở trong thai mẹ dày lớn dần thành các nhập. Đã sinh thức là danh sắc duyên thức. Lại nữa, thành nhập, là tranh không tranh nhập, định không nhập định. Duyên nơi căn cùng nghĩa của căn sinh thức, là dựa nơi hai duyên. Duyên là nương dựa. Không thể không nương dựa mà sinh thức. Đó gọi là cùng nương dựa, duyên, có thể đạt được.

Hỏi: Như trước đã nói về giới, định, trí. Vì sao lại nói lần nữa nơi thức?

Đáp: Dựa nơi trí cùng chỗ dựa là hai thứ. Đây là dựa, kia là chỗ dựa. Lại nữa, như nói hai thứ giới, như vậy, trong đây cũng nói hai thứ, không lỗi.

Phần thứ nhất của phẩm Nương Dựa nơi Chân độ đã nêu bày xong.

 

Hỏi: Đã nói về Ấm. Thế nào là Giới?

Đáp: Giới là Dục, Sắc, Vô sắc giới. Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, ba thứ ấy là giới. Duy trì nghiệp ấy, nên gọi là giới. Ở đây, trụ nghiệp nên gọi là giới, là gồm thâu tất cả chúng sinh, đến Bát-Niết-bàn vô dư.

Hỏi: Thế nào là Dục giới?

Đáp: Dục giới là người, trời, nẻo ác. Người, trời, nẻo ác, đây là lược nói về dục giới. Ở đây, trụ nơi dục nên gọi là dục giới. Giữ lấy dục nên gọi là dục giới.

Hỏi: Thế nào là người?

Đáp: Người là nam nữ, mạng căn đã quán về tướng. Dựa nơi bốn châu, nam căn đã quán về tướng, nữ căn đã quán về tướng, mạng căn đã quán về tướng. Nên biết, tất cả đây là người. Tất cả ấy cũng dựa nơi bốn châu. Trong đó, tướng nữ gọi là nữ, tướng nam gọi là nam.

Hỏi: Mạng căn đã quán về tướng không phải là nam nữ, do đấy mạng căn được nói riêng chăng?

Đáp: Tuy có nam, nữ, mạng căn đã quán về tướng, nhưng ở đây nói có sai biệt. Không thành nam là không ở nơi căn nam, nữ. Trong tướng đã quán chỉ có mạng căn. Tướng đã quán trụ nơi màng mỏng, dần dần dày thêm là có mạng căn, nhưng căn nam, nữ chưa thành. Đó gọi là sai biệt.

Hỏi: Thế nào là bốn châu?

Đáp: Châu là Diêm-phù-đề, Phất-vu-đãi, Cù-da-ni, Uất-đơn-việt, là nói về bốn châu. Trong đó, Diêm-phù-đề đã quán về tướng, nên nói là Diêm-phù-đề. Tùy theo tướng đã quán của các phương mà nói Phất-vu-đãi, Cù-da-ni, Uất-đơn-việt, thọ mạng của các châu tùy theo số lượng, các vật dụng tạo an vui có sai biệt, có giới hạn, lần lượt có hơn.

Hỏi: Trời, gọi chung là hai loại loại trời: Dục sinh và lìa dục. Ở đây là nói về trời nào?

Đáp: Trời là tế hoạt (xúc), thuyết, thị dục sinh. Nếu nói dục sinh, nên biết là không nói về lìa dục. Trời do dục sinh: Là ba thứ, xúc dục sinh, nói dục sinh, thấy dục sinh.

Nói dục sinh: Là trời Hóa-lạc. Cõi ấy, nếu tâm nhiễm ô, là tâm nhiễm ô đối với thiên nữ cùng nói năng, bấy giờ liền thành dục. Nếu chỉ một ý nhiễm ô thì không thành dục, chỉ là hoan lạc. Như người ở cõi nầy, lúc nắm bắt nhau, vui thích, cõi trời kia cũng vậy. Ý không nhiễm ô như mẹ, con gái. Tạo tác, biến hóa cảnh giới đẹp đẽ vui thích nơi dục, nên gọi là trời Hóa-lạc.

Nhìn dục sinh: Là cõi trời Tha-hóa-tự-tại. Nơi cõi ấy nếu cùng với thiên nữ mỗi mỗi đều nhiễm vướng khi cùng nhìn nhau, bấy giờ liền thành dục. Nếu chỉ một ý nhiễm ô thì không thành dục, chỉ là hoan lạc. Như người nơi thế gian nầy lúc ôm nhau sinh vui thích. Ý không nhiễm ô như thấy người khác. Chỗ hóa hiện của kẻ khác (Tha) được tự tại, nên gọi là trời Tha-hóa-tự-tại.

Hỏi: Đã nói về trời nhìn dục sinh, còn thế nào là trời xúc dục sinh?

Đáp: Xúc dục sinh là cả hai bên cùng nắm tay, ôm nhau. Trời xúc dục sinh có ba thứ là cả hai bên dục sinh, ôm nhau dục sinh, nắm tay dục sinh. Ở đây, cả hai bên dục sinh phần sau sẽ nói. Ôm nhau dục sinh: Là cõi trời Diệm-ma (Trời Diệm-ma, đời Tấn dịch là Thời Phần thiên). Cõi ấy, mỗi mỗi sự việc đều có ý nhiễm vướng. Hoặc lúc ôm nhau liền thành dục. Nếu chỉ một bên nhiễm vướng thì không thành dục, chỉ là vui thích, như người ở thế gian nầy cùng ôm nhau sinh vui thú. Ý không nhiễm vướng thì xem như kẻ khác. Hàng đêm thường hoan hỷ nói về lạc nên gọi là Diệm-ma.

Hỏi: Thế nào là cầm nắm tay, dục sinh?

Đáp: Cầm nắm tay, dục sinh là cõi trời Đâu-suất-đá (Trời Đâu-suất-đá, đời Tấn dịch là trời Tri Túc). Nếu cùng với thiên nữ, mỗi mỗi việc ý đều nhiễm ô thì lúc cầm nắm tay, bấy giờ liền thành dục, còn như một bên nhiễm vướng thì không thành dục, chỉ là vui vẻ, như ở thế gian lúc ôm nhau sinh vui. Ý không nhiễm ô thì xem như người khác. Tự biết đủ về cảnh giới hiện có, nên gọi là Đâu-suất-đá.

Hỏi: Thế nào là cả hai bên dục sinh?

Đáp: Cả hai bên dục sinh là cõi trời Ba Mươi Ba Tứ vương địa (Trời Đao-lợi). Hai bên cùng khởi sự, nên gọi là cả hai bên dục sinh. Hết thảy sự dục của cõi nầy như trước đã nêu đủ, chỉ nên phân biệt, nên nói là trời cả hai bên dục sinh. Như người ở thế gian nầy, chư Thiên của trời Ba Mươi Ba, cư trú tại đỉnh núi Tu-di, hành dục như người. Trong xứ của Tứ vương, là địa thiên thì cư ngụ dựa vào khoảng đất đai, cây cối, núi non, yêu thích cảnh giới dục lạc, tất cả các thứ ấy gọi là trời hành dục, như nơi nhân gian, nhưng không có bất tịnh, dù có khí chất. Cư trú lên cao càng chuyển tăng. Đó gọi là trời dục giới.

Hỏi: Thế nào là nẻo ác?

Đáp: Nẻo ác là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, ba thứ ấy là nẻo ác. Nẻo nầy là ác nên gọi là nẻo ác. Ác là không đáng yêu thích.

Hỏi: Thế nào là địa ngục?

Đáp: Địa ngục là các địa ngục Lạnh, Nóng, Biên. Địa ngục Lạnh, địa ngục Nóng, địa ngục Biên. Địa ngục là không thể an vui. Là vô lượng thứ, nay sẽ nói.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Lạnh?

Đáp: Địa ngục Lạnh là: Liễu khiếu hoán, Bất liễu khiến hoán, Bất khiếu hoán, là ba tướng, quán tướng nơi địa ngục Lạnh.

Liễu khiếu hoán, Bất liễu khiếu hoán, là kêu gào cực ác nên gọi là Khiếu hoán.

Hỏi: Thế nào là Liễu khiếu hoán?

Đáp: Liễu khiếu hoán là A-phù-đà, Nê-la-phù-đà, A-ba-bả. A-phù-đà, Nê-la-phù-đà, A-ba-bả, ba ngục nầy là Liễu khiếu hoán.

+ A-phù-đà là nói về số lượng. Như ở nước Ma-kiệt, mười thương đựng hạt cải, mỗi thương đều nhận hai mươi Khư-lê, trong ấy đựng đầy hạt cải. Giả sử có người, cứ một trăm năm thì lấy ra một hạt cải, số lượng hạt cải kia còn có thể hết, nhưng thọ mạng nơi địa ngục A-phù-đà thì không thể hết. Cứ hai thăng là một A-lặc, bốn A-lặc là một Độc-lung-na. Mười sáu Độc-lung-na là một Khư-lê. Hai mươi Khư-lê là một thương. Như vậy cho đến mười thương, là so với số lượng thọ mạng của địa ngục A-phù-đà.

Lại nữa, A-phù-đà là giống như ung nhọt. Trong địa ngục A-phù-đà, do lạnh nên trong thân sinh ra giống như ung nhọt, nên gọi là A-phù-đà.

+ Nê-la-phù-đà: Là không giống với ung nhọt, song khi đưa thân lên thì gió thổi khiến phình trướng đầy khắp, nên gọi là Nê-la-phù-đà.

+ A-ba-bả: Là có gió thổi hết sức lạnh, lột bóc da thịt nơi thân rơi rớt xuống, vì quá run rẩy, kêu gào A ba ba, nên gọi là ngục A-ba-bả.

Ba thứ nầy là Liễu khiếu hoán.

Hỏi: Thế nào là Bất liễu khiếu hoán?

Đáp: Bất liễu khiếu hoán là A-trá, Hưu-trá-hữu, Ưu-bát-la, ba thứ ấy là Bất liễu khiếu hoán. Trong đó, A-trá, Hưu-trá-hưu cũng là có gió thổi hết sức lạnh, bóc vứt da thịt nơi thân rơi rớt khắp, tội nhân không thể chịu nổi khổ bức, hoặc lúc có phương tiện thì kêu la A-trá, Hưu-trá-hưu. Ưu-bát-la: Là có gió thổi, lạnh cùng cực, khiến da thịt nơi thân bị bóc ra rơi rớt khắp. Do nơi tội nên từ trong thân sinh ra những lá sắt vây buộc quanh thân, như hoa Ưu-bát-la. Tội nhân ấy do đã phỉ báng các bậc Thánh Hiền, nên bị đọa vào địa ngục Ưu-bát-la, luôn nhận lấy khổ bức như thế.

Hỏi: Thế nào là Bất khiếu hoán?

Đáp: Bất khiếu hoán là bốn địa ngục Câu-mâu-đà-tu, Kiền-đề-già-phần, Đà-lê-già, Ba-đàm-ma. Nơi bốn địa ngục nầy đều có gió thổi vô cùng lạnh buốt, thân thể bị phình trướng khắp, khiến thân giống như các thứ hoa Câu-mâu-đà-tu, Kiền-đề-già-phần v..v… Tội nhân thọ nhận các thứ khốn khổ cùng cực, trụ trong rên rỉ, là do đã phỉ báng các bậc Thánh Hiền, nên bị đọa trong bốn thứ địa ngục ấy, hết thảy thời gian phải thọ nhận vô lượng khổ bức.

Đó là tất cả mười địa ngục Lạnh, ở tại trong khoảng giữa bốn châu, dựa vào chân núi Thiết-vi, Đại Thiết-vi, hướng lên nơi cư trú, ở trong bóng tối. Gió lạnh hủy hoại thân thể như lửa dữ thiêu đốt. Thân như đám trúc lau bị cháy khô, phát ra âm thanh lẫn lộn, mỗi mỗi thứ đều cùng va chạm, sinh tưởng. Cũng lại có các chúng sinh khác ở trong ấy thọ khổ. Tất cả họ đều do hủy báng Thánh Hiền, nên thọ nhận khổ não như thế. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Nê-la-phù có trăm ngàn

A-phù-đà ba mươi lăm

Cùng tột, nẻo ác địa ngục

Miệng và ý đều nguyện ác.

Đó gọi là địa ngục Lạnh.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Nóng?

Đáp: Địa ngục Nóng là: Hữu chủ trị, Thiếu chủ trị và Vô chủ trị. Ba tướng nầy là quán xét về tướng.

Chủ trị là khảo tra, đánh đập. Ở đây, phần nhiều là chúng sinh bị chủ trị. Hoặc không nhiều chúng sinh bị xử trị. Hoặc tự xử trị. Hoặc do tội nên tự sinh. Hoặc lìa phương tiện của chúng sinh, thọ khổ lớn.

Hỏi: Thế nào là Hữu chủ trị.

Đáp: Hữu chủ trị là các địa ngục Hoạt, Hành, Hắc thằng, ba địa ngục ấy là Hữu chủ trị.

+ Địa ngục Hoạt: Là nơi nầy, các cai ngục dùng đao búa sắc bén chặt, chẻ bóc, bằm chém các chúng sinh bị tội, như chặt chém đầu dê. Da thịt bị xẻ băm tan hết rồi, tội nhân do duyên chưa hết, nên khi có gió lạnh thổi thì sinh trở lại như cũ.

Lại nhân nơi tội ác, nên tay tự nhiên sinh ra móng sắt, nhọn bén giống như đao, mũi nhọn, hình tựa như trăng lưỡi liềm, mỗi mỗi thứ, ý đều sinh oán kết: Kẻ kia từng bức bách ta, tay nay lại bức bách hắn. Do đấy sinh giận dữ. Lại cùng vồ lấy, chặt chém, như chặt cắt trúc, lau. Kẻ kia, nơi thế gian nầy tâm kết hận mà chết, nên sinh trong địa ngục ấy.

+ Địa ngục Hắc thằng: Là bắt tội nhân nằm dài nơi đất, dùng dây đen (Hắc thằng) quấn chặt từng đoạn rồi chặt chém. Kẻ kia ở nơi thế gian thường dùng dao chặt chém chúng sinh, nên sinh vào đây.

Lại nữa, dùng những lá đồng sắt nung đỏ rực, cuộn chặt nơi thân, khiến xương bị vỡ nát, máu tủy trào ra. Kẻ kia ở nơi cõi đời nầy thường dùng roi gậy đánh đập, giết hại chúng sinh, và người xuất gia thọ nhận các vật dụng của tín thí như y phục, đồ nằm ngồi v.v… nhưng không tinh tấn tu tập, nên sinh vào đây. Lại chịu khổ bức nơi chốn vô cùng tối tăm, khói xông mù mịt, thân tội nhân bị treo ngược khiến thở hút lấy khói ấy. Kẻ kia ở nơi thế gian thường dùng khói xông vào hang có chúng sinh cứ trú để giết hại, nên bị đọa vào địa ngục nầy.

+ Địa ngục Hành: Là các tội nhân được bày ra thành hàng, như nơi quán xá mổ giết súc vật, bày bán thịt. Tội nhân bị chặt đứt tay chân, tai mũi, đầu cổ v.v… Họ vốn hành nghề đồ tể nên bây giờ phải nhận lấy các thứ khổ bức như thế.

Lại nữa, đất là sắt nóng, cai ngục dùng xe lửa sắt móc tội nhân vào đấy, giương mắt quát tháo, la hét inh ỏi rồi cho xe chạy bừa. Các tội nhân nầy ở nơi thế gian dùng ngựa, voi chuyên chở đồ vật, luôn hành hạ chúng, khiến chúng luôn khổ nhọc, do đó bị đọa vào đây. Tội nhân vốn dâm phạm vợ người thì bị đuổi chạy lên chốn rừng cây kiếm, tự nhiên bị lửa đốt, thọ nhận khổ bức như vậy. Đó gọi là địa ngục Hữu chủ trị. Đám cai ngục là do hành duyên nên không bị lửa thiêu đốt. Do hành báo nên không thể suy xét.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Thiếu chủ trị?

Đáp: Địa ngục Thiếu chủ trị là ba địa ngục Chúng hợp, Đại khốc, Thiết hạm.

+ Địa ngục Chúng hợp: Tội nhân ở đây rất sợ đám ngục tốt. Vô lượng trăm ngàn tội nhân chạy ùa vào phía núi. Vào rồi thì trước sau tự nhiên sinh lửa dữ ngăn chận họ lại. Bị lửa trước sau ngăn chận như thế rồi, nơi hai phía núi tự hợp lại như bị cối đá xay nát. Do đấy, máu tuôn chảy như sông, thịt xương nát vụn. Những tội nhân nầy ở nơi thế gian vốn vui thích hành hạ, đày đọa các chúng sinh.

Lại nữa, nơi cối sắt lớn có lửa cháy dữ dội, ngục tốt dùng chày đâm giã tội nhân hàng trăm năm. Do tội duyên nên thọ mạng của họ không hết. Các tội nhân kia ở nơi cõi đời thường hay dùng cối để đâm giã, sát hại các loài chúng sinh nhỏ yếu.

+ Địa ngục Đại khốc: Ở đây, núi sắt lớn có lửa dữ bốc cháy khắp chốn, bốn bên đều bị ngăn dứt không có lối đi. Đám ngục tốt xấu ác không chút thương xót, giận dữ quát hỏi các tội nhân: Muốn chạy tới đâu? Không việc thì cho việc, bèn dùng chày sắt nung lửa đỏ rực đánh đập vỡ đầu họ. Những tội nhân nầy, ở nơi thế gian thường gây khốn khổ cho muôn người nên sinh vào địa ngục Đại khốc.

+ Địa ngục Thiết hạm: Đất ở đây là sắt nung nóng, đám tội nhân bị đuổi xua khiến vào trong chốn ấy và bị rang khô cho chín, chín rồi thì bị đuổi ra ngoài, liền bị loài chó dữ cắn xé, ăn hết thịt. Gió nổi lên thì các tội nhân sống trở lại như cũ. Lại bị xua đuổi vào chốn kia. Những tội nhân ấy, ở nơi thế gian nuôi tằm rồi đem rang nướng, nên sinh vào cõi nầy. Đó gọi là địa ngục Thiếu chủ trị.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Vô chủ trị?

Đáp: Địa ngục Vô chủ trị là các địa ngục Khốc, Chích, Vô khuyết.

+ Địa ngục Khốc: Ở đây, sắt được nung cháy đỏ rực tợ như mai rùa, nơi chốn hết sức chật hẹp, giam nhốt đầy tội nhân, dùng nắp sắt chụp xuống khiến họ phải chịu vô số khổ cực như thế. Đám tội nhân ấy ở nơi thế gian thường hay đốt cháy đồng rộng cùng thiêu đốt xông hơi vào hang có các chúng sinh cư trú, do đó nên bị đọa vào đây.

+ Địa ngục Chích: Núi sắt lớn tại đây bốc lửa dữ dội, cùng chộp lấy đám tội nhân, dùng nạo sắt cắt gọt, giáp vòng thì gia tăng thiêu nướng. Một bên vừa chín thì cái nạo sắt bèn chuyển, lần lượt đảo lộn. Các tội nhân kia, ở nơi thế gian hay đâm, xâu, giết người nên sinh vào địa ngục nầy.

+ Địa ngục Vô khuyết: Đất ở đây là sắt, vòng quanh là lửa cháy đỏ rực, rộng đến trăm do-tuần, có bốn cửa như thành, dùng đồng mỏng phủ lên trên, lửa cứ ùn ùn cháy liên tục. Đám tội nhân ở trong đó, dồn đống như củi, lửa dữ thiêu đốt khắp nơi, không bị trở ngại, thân thể tội nhân bị cháy tan nát, chịu khổ không thiếu thứ gì. Họ do ở nơi cõi đời đã giết hại cha mẹ, giết hại các bậc Chân nhân, có ý ác hướng đến Phật khiến thân Phật chảy máu, hoặc tạo loạn động nơi chúng Tăng, cùng tạo mười nghiệp bất thiện luôn tăng thượng, do đấy bị đọa vào cõi nầy. Đó gọi là địa ngục Vô chủ trị.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Biên?

Đáp: Địa ngục Biên là các địa ngục ở tại các vùng nước, núi, đồng rộng, độc nhất thọ nhận quả báo của nghiệp ác. Đó gọi là địa ngục Biên.

Hỏi: Đã nói về địa ngục. Còn thế nào là súc sinh?

Đáp: Súc sinh là các loài vật đi trên đất, dưới nước, trên không, tất cả, hoặc không chân, hoặc hai chân, nhiều chân. Đi trên đất, đi dưới nước, đi trên không, ba loại ấy là súc sinh.

Đi trên đất: Như voi, ngựa, trâu bò, dê, lừa, la, lạc đà, là các loài đứng đầu.

Đi dưới nước: Như các loài cá Ma-kiệt, Thất-thâu, Ma-lại, là loài đứng đầu.

Đi trên không: Như các loài chim, các loài muỗi, ruồi, ong, ve v.v…

Tất cả các loài không chân, hai chân, nhiều chân.

Không chân: Như loài rắn là đứng đầu.

Hai chân: Loài chim là đứng đầu.

Nhiều chân: Như loài bò, dê, ngựa, ong, cùng loài trăm chân.

Hết thảy các chủng loại súc sinh kia là do hành nghiệp tội lớn nên sinh trong loài ấy. Đó gọi là súc sinh.

Hỏi: Đã nói về súc sinh, vậy thế nào là ngạ quỷ?

Đáp: Ngạ quỷ là các loài quỷ Vô tài, Thiểu tài, Đa tài. Ba loài nầy là ngạ quỷ.

Hỏi: Thế nào là quỷ Vô tài?

Đáp: Quỷ Vô tài là các loài quỷ: miệng như bó đuốc, miệng như cây kim, miệng hôi thối. Ba loại nầy là quỷ Vô tài.

+ Quỷ miệng như bó đuốc: Hợp với miệng là ngọn lửa dữ từ nơi miệng phun ra, tự thiêu đốt thân thể, như lửa đồng đốt cháy cây Đa-la. Loài nầy, ở nơi thế gian đa phần hành tham lam, keo kiệt, nên sinh vào loài quỷ ấy, chịu khổ bức bách.

+ Quỷ miệng như cây kim: Loại quỷ nầy bụng to như hang núi, cổ họng thì nhỏ như lỗ kim, giả như có được thức ăn dồi dào, nhưng cũng không thể ăn được.

+ Quỷ miệng hôi thối: Loài nầy miệng bị rữa nát, hôi hám như phân nơi nhà xí, tự ợ ra mùi hôi thối. Không bụng nên không được ăn gì cả, luôn thọ khổ bức như vậy. Đó gọi là quỷ Vô tài.

Hỏi: Thế nào là quỷ Thiểu tài?

Đáp: Quỷ Thiểu tài là các loài quỷ: Lông nơi thân như cây kin, lông nơi thân hôi thối và có bướu ở cổ. Ba loại nầy là quỷ Thiểu tài. Quỷ nầy hoặc có lúc có chút ít vật bất tịnh để ăn, nên gọi là Thiểu tài (có ít của cải).

+ Quỷ lông nơi thân như cây kim: Loài nầy lông nơi thân rất cứng, dài, đầu lông bén như cây kim, phủ khắp thân, lớp lớp cùng lìa nhau. Đi lại rất khó khăn, vì các lông nhọn trở lại tự đâm vào mình, như mũi tên nhọn bắn vào loài hươu, nai, nhận lấy khố bức lớn, hoặc có khi có được chút ít thức ăn.

+ Quỷ lông nơi thân hôi thối: Loài nầy lông nơi thân rất hôi hám phủ khắp mình, lại cùng tự đâm chính vào thân thể. Thân hôi thối, gió thổi bốc lên, sinh giận dữ, nên tự nhổ lông. Thọ khổ bức bách như vậy.

+ Quỷ có bướu ở cổ: Do nghiệp báo của tội nơi chính mình tạo ra, nên sinh ung bướu ấy, trở lại tự phá vỡ ra, máu mủ tuôn đầy, lấy đó để ăn. Đấy gọi là quỷ Thiểu tài.

Hỏi: Thế nào là quỷ Đa tài?

Đáp: Quỷ Đa tài là các loài quỷ: khí, thất, đại thế. Ba loại nầy là quỷ Đa tài.

+ Quỷ khí: Loài nầy do thọ mạng đời trước có bố thí nên được thức ăn dư thừa. Loài ấy trọn đời nhờ vào cúng tế mà có được thức ăn, do đấy nên được an vui.

+ Quỷ thất: Loài nầy, trọn đời có được thức ăn nơi các ngả tư đường lớn, các đường tắt, ngỏ hẻm, những thứ thức ăn rơi rớt ở đấy, do đó cũng được vui vẻ.

+ Quỷ đại thế: Là các loài quỷ Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-già. Ba thứ quỷ nầy là quỷ đại thế. Cảnh giới của chúng như chư Thiên. Túc mạng có phước đức, nên hoặc được thức ăn ngon, ăn rồi thì có vô số quỷ đói vây quanh, cùng thấy sinh khổ. Như người ở tại ngục, thấy người thân sinh khổ, loài quỷ kia cũng thế, thấy đám quỷ đói vây quanh, sinh khổ. Do khổ ấy nên thức ăn hóa thành mủ. Phải thọ nhận khổ não như vậy, đó gọi là quỷ đại thế. Chúng có hình tướng súc sinh, người, trời. Là ngạ quỷ có hình tướng súc sinh, hình tướng người, hình tướng chư Thiên, tùy theo nghiệp lực.

Đó gọi là cõi Dục.

Hỏi: Đã nói về cõi Dục. Thế nào là cõi Sắc?

Đáp: Cõi Sắc là hữu hỷ, vô hỷ, hộ. Cõi Sắc là không dục, chỉ do thiền dứt trừ giận dữ, có được sắc đẹp đẽ như vàng ròng đã luyện, cõi nầy có hỷ, không hỷ, lìa khổ lạc là hộ (xả). Hỷ cùng với lạc nên gọi là hữu hỷ (có hỷ). Lìa hỷ, không có hỷ cùng với lạc nên gọi là vô hỷ (không hỷ). Lìa khổ, dứt lạc ấy như ngựa không còn đóng vào xe.

Hỏi: Thế nào là hữu hỷ?

Đáp: Hữu hỷ là hữu giác, vô giác, thiểu quán.

Cùng với giác nên gọi là hữu giác. Lìa giác nên gọi là vô giác. Có ít quán nên gọi là thiểu quán. Lạc là lìa là nói về thiền. Ở đây, hữu giác là sơ thiền. Vô giác là hai thiền. Thiền quán là trung gian thứ nhất. Hành tập thiền nầy sinh trong cõi Sắc. Nói chúng sinh là nói về cõi. Nói cõi là nói về thiền.

Hỏi: Ai hành tập sinh thiền hữu giác?

Đáp: Hữu giác là Phạm-phú-lâu, Phạm-ca-di, Phạm-ba-sản. Hành tập thiền hữu giác sinh trong cõi ấy. Ba cõi trời đó là hữu giác. Hạ, trung, theo đấy mà sinh.

Đại phạm là do thiểu quán sinh. Nghĩa của giác, quán như trước đã nói.

Hỏi: Thế nào là vô giác?

Đáp: Vô giác là các cõi trời Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang diệu. Giác hành tập thiền vô giác, hỷ lạc tương ưng, là sinh nơi ba cõi ấy. Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang diệu, tưởng nầy hoặc là giả tưởng, hoặc là nhân tưởng.

Lại nữa, Thiểu quang là lúc nói năng, từ miệng phát ra ít ánh sáng. Ánh sáng ít nên gọi là Thiểu quang. Ánh sáng nhiều nên gọi là Vô lượng quang. Ánh sáng thanh tịnh, vô biên, nên gọi là Quang diệu.

Hỏi: Đã nói về hữu hỷ. Còn thế nào là vô hỷ?

Đáp: Vô hỷ là các cõi trời Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh. Giác hành tập thiền vô hỷ tương ưng lạc, là sinh nơi ba cõi trời ấy. Thiểu tịnh: Gọi là không có nhiều. Đây là thiền ít phương tiện tương ưng, sinh trời Thiểu tịnh thọ an lạc. Cũng ít phương tiện vừa, sinh cõi trời Vô lượng tịnh. Phương tiện trên, hơn, sinh cõi trời Biến tịnh.

Hỏi: Đã nói về vô hỷ lạc. Thế nào là hộ (xả)?

Đáp: Hộ là ba thứ tương ưng: hữu tưởng, vô tưởng, giác ý tương ưng. Hộ ấy là Quả thật, Vô tưởng, Tịnh cư. Tu tập thiền hộ (xả) tương ưng lạc, sinh trong cõi nầy, nên nói là hộ (xả). Là ba cõi trời Quả thật, trời Vô tưởng và trời Tịnh cư.

Ở đây, Quả thật: Là tu tập bậc hạ, trung, thượng nơi thiền thứ tư, sinh cõi trời Quả thật.

Vô tưởng: Diệt trừ tưởng nên sinh Vô tưởng. Cõi nầy diệt thọ tưởng thức, do không có tưởng dục nên cùng diệt, chỉ có sắc ấm, hành ấm, một ít nhập sinh tưởng liền diệt.

Hỏi: Thế nào là Tịnh cư?

Đáp: Tịnh cư là các cõi trời Thiện hiện, Thiện kiến, Tịnh. Ba cõi nầy là Tịnh cư. Tịnh cư là cư trú nơi các phiền não đã dứt hết.

Hỏi: Năm địa Tịnh cư, nay vì sao nói có ba?

Đáp: Cõi trời Tịnh là gồm Vô phiền, Vô nhiệt, Sắc cứu cánh. Vô phiền, Vô nhiệt, Sắc cứu cánh, ba cõi nầy là tướng của cõi Tịnh. Do ý của người biên chép kinh muốn thế.

Hỏi: Đã nói về cõi Sắc, còn thế nào là cõi Vô sắc?

Đáp: Cõi Vô sắc, trong phần nói về tu ở trước đã nói. Hành giả ở nơi thế gian tu tập chánh thọ (định), sinh cõi Vô sắc, là đạo và quả cùng nêu bày.

Phần thứ hai của phẩm Nương Dựa nơi Chân độ đã nêu bày xong.

 

Hỏi: Đã nói về Ấm, Giới. Vậy thế nào là Nhập?

Đáp: Nhập là Xúc nhập, Độ nhập, Giải thoát nhập. Ba thứ nầy là tướng của nhập. Nhập là nương dựa, như thiên miếu.

Hỏi: Nhập ấy là cái gì nhập?

Đáp: Đức, Ác nhập. Ở đây, giải thoát nhập là chỗ dựa của đức. Độ nhập là chỗ dựa của ác. Xúc nhập là chỗ dựa của cả hai. Ý nhiễm ô sinh ác. Ý thanh tịnh sinh đức.

Hỏi: Thế nào là Xúc nhập?

Đáp: Xúc nhập là cảnh giới gần, cảnh giới không gần và không cảnh giới. Cảnh giới là xứ duyên. Tùy theo duyên ấy mà hành là cảnh giới kia. Duyên gần gọi là cảnh giới gần. Duyên không gần gọi là cảnh giới không gần. Không duyên gọi là không cảnh giới.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới gần?

Đáp: Cảnh giới gần là mũi, lưỡi, thân nhập. Tức tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, là ba cảnh giới gần.

Hương đến mũi mới ngửi, không đến không ngửi. Tuy có hoa cực xa, song hương lìa hoa bay đến mũi ngửi. Hương là tánh sắc, do đấy, nhân gió bắc thổi, hương bay đến nam, không đến bắc. Do vậy, hương lìa hoa đi đến mũi ngửi. Vị cũng như thế. Theo lưỡi biết vị, không từ đồ chứa, không từ tay. Xúc cũng như thế. Chỗ nhận biết của thân căn là tám thứ: cứng mềm, nhẹ nặng, thô rít, lạnh nóng. Do các thứ kia được tiếp xúc mà sau nhận biết. Thế nên ba thứ kia là cảnh giới gần.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới không gần?

Đáp: Cảnh giới không gần là mắt, tai, ý nhập. Tức nhãn nhập, nhĩ nhập, ý nhập, ba nhập ấy là cảnh giới không gần.

Hỏi: Mắt cũng thấy gần nơi cảnh giới ít, không bức bách. Tai cũng như thế. Con muỗi ở trong tai cũng nghe tiếng vo ve. Ý là vô sắc, làm sao biết là cảnh giới không gần?

Đáp: Do đấy nên nói là cảnh giới không gần. Nếu không bức bách tức là thọ nhận cảnh giới.

Hỏi: Cảnh giới không gần là bằng bao nhiêu?

Đáp: Ở đây không có hạn lượng. Hoặc có bốn mươi ngàn do-tuần thấy mặt trời mặt trăng, hoặc không thấy. Hoặc một do-tuần thấy hình sắc, hoặc mười dặm tùy theo sức của căn. Do đấy nên nói là cảnh giới không gần, không nói cảnh giới xa, song không buộc phải nhận cảnh giới. Không phải do vật đến xứ thấy mới thấy, lìa nhưng sau thấy. Tai cũng như thế. Không phải do bắt buộc gần nên được nghe. Con muỗi tuy ở trong lỗ tai nhưng không đến xứ nghe, đây cũng tùy theo sức của căn ấy để nghe âm thanh. Ý là vô sắc, nó không gần xa, do đấy nên nói cảnh giới không gần, không nói xa.

Hỏi: Thế nào là không cảnh giới?

Đáp: Không cảnh giới là bên ngoài, mình thọ nhận, người khác thọ nhận cùng không thọ nhận.

Bên ngoài là không cảnh giới. Sắc thanh hương vị xúc pháp, ở trong pháp nầy giả gọi là bên ngoài, là mình thọ nhận, người khác thọ nhận, cùng không thọ nhận. Không cảnh giới nầy chỉ là cảnh giới khác. Năm cảnh giới nầy không duyên, nhưng pháp nơi đối tượng duyên của kẻ khác nên phân biệt, là cùng có nhiều không cảnh giới, nên nói không cảnh giới.

Hỏi: Đã nói về Xúc nhập. Còn thế nào là Độ nhập?

Đáp: Độ nhập là nói về nhân một xứ, nói về nhân không đúng, nói về không nhân. Nghĩa của ba thứ nầy là vô lượng nhưng lược nói là ba độ nhập.

Ở đây, nói về nhân một xứ là lời nói. Như cờ Nhân-đà-la được nhiều người giương cao đem tới. Trong đấy, có chỗ nói là Điều-đạt mang đến. Điều-đạt cũng ở trong số đó, song không phải một mình Điều-đạt làm công việc nầy, nên là nhiều người, mà nói một. Nói về nhân một xứ cũng như thế. Ba sự hợp thành nghĩa, hoặc nghiệp của túc mạng, hoặc hiện đang làm, hoặc do ân của kẻ khác. Ba sự như thế tạo thành nghĩa nhưng chỉ nói một.

Nói về nhân không đúng, là lời nói. Như cờ Nhân-đà-la đó có người nói không phải một người mang đến, cũng không phải hai người. Ở đây tuy có nhân song là không đúng.

Nói về không nhân: Là lời nói. Như là cờ Nhân-đà-la không có nhân mà đến.

Hỏi: Thế nào là nhân một xứ?

Đáp: Một xứ là nghiệp, tự tha, công phu. Một là nói mình đã tạo tác, có hai thứ: Hoặc túc mạng đã tạo tác. Hoặc hiện đã tạo tác. Ở đây, nếu túc mạng đã tạo tác, đó gọi là nghiệp. Hoặc lại có chỗ nói: Trời tạo tác. Ba thứ như thế tạo thành nghĩa, như trước đã nói. Ba thứ nghĩa như vậy, hoặc nói là nghiệp, hoặc nói là công phu, hoặc nói là ân của kẻ khác. Một xứ là chỉ nói về nghiệp. Kẻ kia phụ công sức của người khác, không biết ân nghĩa, không thể cùng làm việc. Nếu mình vốn đã tạo tác, cầu do không cầu hợp, nên tự đạt được. Nói về một xứ có những lỗi như thế.

Hỏi: Thế nào là nhân không đúng?

Đáp: Nói về nhân không đúng là nói về chúng sinh, pháp cùng căn nhân tưởng. Nói về nhân không đúng là nói về ba thứ chúng sinh pháp, cùng với chúng sinh và pháp căn nhân tưởng. Chúng sinh đẹp xấu đã tạo. Hoặc lại nói pháp đã tạo. Hoặc nói chúng sinh cùng pháp đã tạo, là nói về ba thứ nhân không đúng. Song không phải chúng sinh tạo, không phải pháp tạo, cũng không phải cả hai cùng tạo.

Hỏi: Thế nào là chúng sinh – căn nhân tưởng?

Đáp: Chúng sinh là Phạm Y-nhiếp-phi-la, nghĩa là nói về Sử-nậu. Nói: Là chúng sinh tạo tác thế gian, phạm là chủ tạo hóa. Y-nhiếp-phi-la là chủ tạo hóa, nghĩa là Sử-nậu là chủ tạo hóa. Người không tuệ cho là như thế.

Nói Phạm tạo hóa: Là nói Phạm-thiên tạo ra hư không, hư không tạo ra gió, gió tạo ra nước, đất, nước đất tạo ra gò nổng, núi non, cây cỏ. Như thế là có thế gian. Tất cả những thuyết ấy đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu Phạm-thiên tạo ra hư không và đất thì vị ấy trụ ở xứ nào để tạo ra hư không và đất? Nếu tức trụ trong ấy để tạo, nghĩa nầy không đúng. Như thế là có lỗi. Như Nhiếp phi la nghĩa là Sử nậu, cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là pháp?

Đáp: Pháp là thời, khí, tự nhiên tạo, tức thời tạo, khí tạo, tự nhiên tạo. Ba thứ nầy gọi là pháp căn nhân. Ở đây, nói thời là:

Thời tiết sinh tất cả

Tất cả thời tiết thành

Tất cả thời bị hoại

Tất cả đời, thời tạo.

Thuyết nầy là có lỗi, như trong phần nói về một xứ ở trước. Người có thể cầu, không cầu. Hoặc không thể cầu mà cầu, được là thời tạo, hành không tạo. Chớ nên nói là không có lỗi. Vì sao? Vì thời là không. Nếu không tạo ra vật thì nghĩa ấy không đúng. Như thế đều có lỗi.

Khí cũng không thể tạo

Khí là không có tình

Đó là sự không sự

Khí không có mạng nầy.

Tự nhiên nếu sinh là không có nghĩa tự nhiên.

Nếu không là không nhân, hoặc không nhân sinh tất cả, sinh cũng tự nhiên như thế thì đâu có sai lầm? Nếu là hữu thường thì thuyết kia có lỗi gì? Là không hữu thường, hư hoại, như thế là lỗi được đối chiếu, chớ nói là không lỗi.

Hỏi: Thế nào là không nhân?

Đáp: Không nhân là tánh, ngẫu, không. Nói về không nhân là nói về ba thứ: nói về tánh, nói về ngẫu nhiên, nói về không.

Tánh là nói trong tánh của muôn vật sinh ra, không phải nhân nơi cái khác. Vì sao? Ví như cây gai đâm chích nhanh hoặc không thể nhanh. Như thế là nói về tất cả.

Ngẫu nhiên: Là nói muôn vật ngẫu nhiên sinh. Như nguồn của suối nước lớn, cỏ rơi vào trong đó hợp tại một chốn, nói là ngẫu nhiên như vậy. Gió kia ngẫu nhiên thổi tới. Hoặc thổi khắp Đông Tây Nam Bắc. Muôn vật sinh cũng như thế.

Nói không là nói về việc xét kỹ như vậy. Ở đây là không sở hữu. Vì sao sinh, do cái gì sinh, ở xứ nào sinh? Đây là không có sở hữu. Hết thảy các thuyết kia đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu muôn vật do tánh nên sinh thì lúc mầm lúa thóc sinh, không cần phải cày bừa ruộng, cũng chẳng cần phải đem nước vào. Nếu không có các việc nầy thì mầm lúa thóc rốt cuộc không sinh. Do đấy, muôn vật không phải do tánh sinh. Như thế là mỗi mỗi thuyết nên dứt bỏ.

Hỏi: Đã nói về Độ nhập. Còn thế nào là Giải thoát nhập?

Đáp: Giải thoát nhập là tưởng, thiền, nghe rộng. Tưởng, thiền, nghe rộng, ba thứ nầy là giải thoát nhập.

Giải thoát là diệt trừ ác nên được giải thoát. Ba nhập nầy dựa vào đấy nên được giải thoát. Tưởng là nghĩa duyên. Dựa nơi Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn nên được giải thoát. Thiền là như nơi Phẩm thứ nhất đã nói. Nên quán xét nghĩa nầy, cũng dựa vào đấy để được giải thoát.

Hỏi: Thế nào là nghe rộng?

Đáp: Nghe rộng là giảng nói, lắng nghe, đọc tụng.

Giảng nói là nói như đã nghe.

Lắng nghe là nghe như đã nêu giảng.

Đọc tụng là tụng đọc như chỗ đã nghe.

Hỏi: Nghe rộng, như trong phần đa văn ở trước đã nói về Khế kinh, A-tỳ-đàm, Luật. Ở đây có khác biệt gì, khi lại nói là thuyết giảng, lắng nghe, đọc tụng?

Đáp: Ba thứ nói ở trước là đa văn, nên thọ nhận ba thứ. Thọ nhận lúc nói. Thọ nhận lúc nghe. Thọ nhận lúc tụng. Bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn có xứ chân đế thành có xứ thí, thành có xứ chỉ, thành có xứ tuệ, thành các thứ ấy là phương tiện. Lắng nghe chân đế nên được giải thoát. Xứ thí là nói về chỉ, xứ chỉ là theo thiền, xứ tuệ là theo tụng đọc. Đó gọi là xứ giải thoát. Ba pháp độ nầy chánh quán không trở ngại. Ý muốn khiến thấy về nẻo chân, lần lượt đạt được, là giải thoát. Được giải thoát nên kẻ trí tu học pháp của Đức Thế Tôn.

Phần thứ ba của phẩm Nương Dựa nơi Chân độ đã nêu bày xong.

HẾT - QUYỂN HẠ