ĐẠI TẠNG KINH TUỆ QUANG

25,釋經論部,1505 , 2,四阿鋡暮抄解 ,【婆素跋陀造符秦 鳩摩羅佛提等譯】

Tập 25, Thích Kinh Luận Bộ ,số 1505 , 2 quyển, Tứ A Hàm Mộ Sao Giải , [ Bà Tố Bạt Đà tạo Phù Tần Cưu Ma La Phật Đề đẳng dịch ], Nguyên Huệ Việt dịch
 

 

 
 

SỐ 1505/2

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI

Tác giả: A La Hán Bà Tố Bạt Đà.

Hán dịch: Đời Phù Tần, Đại sư Cưu Ma La Phật Đề.

QUYỂN 1

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 1

A-hàm mộ, đời Tần dịch là Hướng đến nẻo vô.

Trước, xin đảnh lễ bậc Thiện Thệ, giáo pháp và chúng vô thượng, diệt trừ các hữu. (Đảnh lễ Tam Tôn chúng, có thể trừ các kiết).

Nên nói về điều mong cầu (Pháp Chân đế), tóm lược nghĩa để nêu bày, do đó sẽ nói về ba pháp.

Đệ tử thưa hỏi: Có ba pháp để nói, vậy nghĩa của ba pháp ấy là gì?

Thầy đáp: Pháp dựa nơi ba môn để nối kết, là thứ lớp hành tác, thế nên ba pháp cần suy xét, nhận biết.

Hỏi: Thứ lớp của ba pháp có nghĩa thế nào?

Đáp: Các chương nơi kinh Phật liên hệ với vô số tưởng. Chúng sinh do vị của tham dâm, giận dữ đã hủy hoại nhân duyên tinh tấn, mạng sống do ăn uống mới tồn tại, tức chúng sinh trí tuệ yếu kém muốn cầu Thánh đế là các tưởng được tập hợp, nên biết về nghĩa. Nghĩa nhận thức mau chóng là phương tiện suy xét của ba pháp. Phân biệt là thứ lớp, tất cả là tưởng hiện có của thế gian, theo chỗ mong muốn, các tưởng được nối kết, thế nên suy xét, nhận biết về nghĩa tạo tác của ba pháp.

Hỏi: Là phương tiện nêu bày về tưởng, nên nói về ba Pháp?

Đáp: Công đức, Ác, Nương dựa, nhận biết rõ về giải thoát. (Kinh nói: Một là Công đức. Hai là Ác. Ba là Nương dựa). Công đức, Ác, Nương dựa, nhận biết rõ về giải thoát, có câu nghĩa ấy, ba pháp là câu gốc và mỗi mỗi thứ đều có ba đoä, ba phần.

Hỏi: Câu có ba phần, đầu tiên là nói về tư duy giải thoát, vậy giải thoát là nghĩa gì, là công đức của giải thoát kia? Ác, Nương dựa là nhận biết về chỗ tương ưng?

Đáp: Đã hội nhập thì không còn nêu bày. Giải thoát là đối với chúng sinh của thế gian, cho đến loài trùng kiến. Loài trùng kiến cũng mong cầu đời sống an lạc, nghĩa là nhận biết, thọ dụng mà hướng đến giải thoát. Một nghĩa của lạc thọ nơi thế gian ít an lạc tương ưng với với nhân duyên an lạc. Chúng sinh không nhận biết, như vui thích nơi đạo, vui thích nơi Niết-bàn, vui thích không bệnh tật v.v… Do không nhận biết về đạo có an lạc là chỗ mong cầu không thể nêu bày, vì đã hội nhập đạo thì không còn nói năng như trẻ thơ.

Hỏi: Thế nào là mắt tức tự nhận biết về nhãn xứ?

Đáp: Là tự nhận biết nên không nêu bày. Như vậy, vui thích về chỗ mong muốn của thế gian là mong cầu nơi đạo, thế nên nói nghĩa của đạo vốn tạo tác không xấu ác.

Hỏi: Công đức là gì? Nhận biết, vui thích về giải thoát, có như thế là không thể thấy vàng, vì thấy là được giàu có chăng? Bị bệnh nên không thể nói nghe, do đó không nhận biết giải thoát?

Đáp: Ở đây như đèn sáng đi vào phòng xua tan bóng tối. Có chẳng là đèn sáng, có sau là bóng tối. Trí ấy sinh giải thoát, là trí nhận biết rõ về một nghĩa.

Hỏi: Công đức là pháp như thế nào? Gọi là chúng sinh si ám sâu xa, là sắc, vị, hương, là thọ, không thọ, đã thọ?

Đáp: Hoặc theo tưởng bên ngoài, kinh nói là công đức, gốc của phước đức không ác. (Ba câu của kinh là phước, gốc, không ác). Phước đức, Gốc, Không ác, là quả của pháp thanh tịnh thuộc ba công đức. Ta suy xét về công đức, là tất cả ba thứ đều h ội nhập, thế nên lược nói.

Hỏi: Đã nói về phước đức, gốc, không ác. Vậy Phước là pháp gì?

Đáp: Phước là phước đức nơi Thí, Giới, Phân biệt (Tu), luôn luôn là sự thiện, lại ngăn giữ việc ác của con người, vì thế phước là ba hành thí, giới, phân biệt (tu). Như vậy là trước tiên như thầy đã nói.

Thường có thể tạo phước đức là hành thí. Thọ mạng của chúng sinh là vô thường luôn theo đuổi. Nếu ngăn giữ, tiêu trừ các ác là hành tác thường xuyên, thế nên phước đức như đã nêu dụ.

Hỏi: Đã nói về phước đức, thí, giới, phân biệt (tu). Vậy thế nào gọi là Thí?

Đáp: Cho kẻ khác thọ nhận tài sản của chính mình, của thân mình. Thí nhớ nghĩ cùng đạt đến chỗ thí lần nữa. Ba hành thí là pháp, thực (tài) và vô úy. Pháp thí, thực thí (tài thí) và vô úy thí là nói về ba thí. Pháp thí là nói rõ về thế gian, xuất thế gian. Vô úy thí là tám hành, ba quy mạng cho đến năm giới. Đức Thế Tôn nói quy mạng nơi Phật, là vô lượng chúng sinh nên thực hành. Vô úy là không ganh ghét, không giận dữ, không sát hại. Phần khác cũng như thế.

Hỏi: Nếu quy mạng dẫn đến thấy có giết hại loài trùng, pháp nào là giữ gìn vô úy?

Đáp: Ta không nói tất cả chúng sinh, ở đây do tà kiến si mê nên giết hại loài trùng, hoặc trộm lấy của cải nơi kẻ khác, tạo các việc ác. Hành ba quy mạng ấy nên không có các kiến chấp của thế gian. Các kiến chấp của thế gian là do không quy mạng, thế nên có vô lượng thực thí (tài thí) an lành, gọi là của cải đứng đầu. Thí vô số thứ cho kẻ khác, cùng với tháp là đứng đầu, hương là đứng đầu. Tự thân thọ nhận, hoặc cả hai thọ, thế nên hai công đức gồm đủ quả báo lớn, là thí tịnh. Như vậy, thầy Ta trước đã nói, của cải gốc tạo hữu, hoặc nhớ nghĩ, hoặc cả hai tạo hữu, hoặc nghĩa tạo thế gian an lành là phương tiện tịnh. Thí ít, có quả báo lớn, là có nhân duyên tịnh. Thí ít, cùng đạt được công đức.

Hỏi: Giới là pháp gì?

Đáp: Giới là thân, miệng, đối với kẻ khác thọ nhận không hủy hoại, không tăng sự hủy hoại kẻ khác. Giới gọi là ba tương ưng, tu nơi thân miệng cùng khởi.

Hỏi: Là pháp như thế nào?

Đáp: Kẻ khác thọ nhận, kẻ khác không thọ nhận tăng thêm. Kẻ khác thọ nhận ấy gọi là tự mình đói kém, tự nhận biết không nhiễm hại kẻ khác thọ nhận. Như vậy, tài sản, vợ con của kẻ khác, không tham nhiễm để giữ lấy. Như thế, không khiến kẻ khác thọ nhận lời nói dối, lời nói hai lưỡi, lời nói thô ác, lời nói không cần thiết, không chấp nơi sự thọ nhận của kẻ khác. Hoặc bảy chi không nhiễu loạn kẻ khác thọ nhận. Vô số chúng sinh bần cùng được trợ lực khiến kẻ khác thọ nhận, hoặc cả hai cùng suy xét. Phước tăng, nối tiếp như từ nay, như sát sinh không còn dấy khởi nơi tâm ý. Khoảng giữa càng tăng thêm tương ưng, như xuất sinh tài sản được quả báo như ý, khéo sinh hiểu biết, nhận lãnh như gieo trồng lúa thóc. Cành lá tăng trưởng dẫn tới được quả. Như thế liên tục cho đến nghỉ ngơi tăng nhiều, do đó tăng trưởng là giới.

Hỏi: Phân biệt (Tu) là pháp gì?

Đáp: Phân biệt là hành thiền, vô lượng, vô sắc. Phân biệt là hành thiện. Thế nên phân biệt như dầu mè, hoa hợp hành phân biệt, như vua cầu, như cùng cầu ngôi vị vua có được là hành cầu. Quả tịnh tương ưng có phân biệt, là nghĩa tư duy của thiền, là bốn hành.

Hỏi: Pháp ấy là thế nào?

Đáp: Thiền hành dứt mọi ái và lạc thọ, khổ thọ, là bốn thiền. Trước tiên là dứt trừ hành bất thiện như tham, dâm, khéo tạo nhân duyên buộc giữ tâm ý khiến an trụ. Hai là tự hành trì, nêu bày, tự hành, tự nhận biết, trừ bỏ các âm thanh tạo ham muốn, thế nên không hành. Là tự hành dứt bỏ tham dâm như trước đã nói. Ái, ba ái đều dứt. Tâm ý hoan hỷ như nước tuôn trào, là không. Hành tham dâm dứt. Tăng trưởng dứt. Khổ thọ, lạc thọ dứt. Lạc thọ nơi thân ý không còn bức bách. Ngoài khổ là hành thọ không còn tham ái. Lạc thọ, khổ thọ dứt, là bốn thiền.

Hỏi: Gọi là vô lượng, là pháp gì?

Đáp: Vô lượng là Từ, Bi, Hỷ, Hộ (Xả), là bốn tưởng vô lượng. Chúng sinh vô lượng, thọ nhận nhân duyên là vô lượng, là không thể lường tính, nên là vô lượng. Từ là yêu thương tất cả chúng sinh, tức là ý hành. Thương xót hết thảy chúng sinh, thân niệm ấy là từ v.v… Bi là thương xót chúng sinh khổ não, tự thân yêu mến, vui thích, nhớ nghĩ đến chúng sinh, cùng liên hệ với Hỷ, Xả, không tạo tác. Luôn nhẫn đối với các chúng sinh hành phi pháp, hoặc tạo sự trái nhau khiến thấy rõ nhân duyên, thế nên phải nhẫn, xả.

Hỏi: Vô sắc là pháp thế nào?

Đáp: Là vô sắc hư không, thức, vô sở hữu, hữu tưởng vô tưởng xứ. Xứ là nghĩa nương dựa. Chúng sinh là bốn phần xứ, không sắc hỗ trợ sắc, hỗ trợ ác kiến, do đó ý không nhiễm. Nhân duyên của hư không theo ý là một định. Hư không cùng hệ thuộc tưởng. Hư không xứ kia như thế nào, nên hư không nương dựa là có thức, thế nên nhân duyên của thức là xứ hành thức, là cũng nương dựa, không nương dựa nơi giải thoát, nghĩa là không có đối tượng tạo tác. Xứ vô sở hữu ấy, kiến tưởng ác diệt, kiến sợ hãi một ý. Xứ hữu tưởng, vô tưởng là cõi Vô sắc. Đã nói về quán không, đã nói về phân biệt vô sắc, là nói về tất cả phước đức.

Hỏi: Căn là pháp thế nào?

Đáp: Căn là không keo kiệt, không giận dữ, không si mê. Không keo kiệt, không giận dữ, không si mê là ba sự tướng của căn.

Hỏi: Đây là căn gì?

Đáp: Không phải như công đức đã nói ở trước, do đó tất cả là pháp nhập của giải thoát, là căn như đã nói về sự tương ưng, nên khiến tương ưng: Một là đại. Hai là hư không. Như thí không keo kiệt, giới không giận dữ, phân biệt (tu) không si mê.

Lại, tài thí không keo kiệt, vô úy thí không giận dữ, pháp thí không si mê. Lại, không keo kiệt, không nhiễu hại kẻ khác. Không giận dữ, không nhiễu hại kẻ khác, không khiến si mê tăng trưởng, ba giới như vậy. Lại, thiền không keo kiệt, căn không giận dữ, vô lượng, vô sắc không si mê, ba phân biệt như thế. Lại, Thánh sự không keo kiệt, nhẫn nhục không giận dữ, đa văn không si mê. Như thế là căn không ác. Như vậy, tất cả là căn của hành thiện. Như thế, không keo kiệt gọi là chỗ tạo tác hành niệm không chấp giữ. Không nơi chốn hành tác, không giận dữ gọi là trợ lực khiến diệt trừ sân hận. Không si mê gọi là trợ lực diệt trừ vô minh, vô trí, do đấy gọi là căn.

Hỏi: Nói Không ác là pháp thế nào?

Đáp: Không ác là Nhẫn nhục, Đa văn, Thánh phần. Nhẫn nhục, Đa văn, Thánh phần là nói về ba thứ không ác. Không ác là nghĩa thuộc thế tục, tùy theo chỗ tạo tác của tâm tưởng, hoặc không sợ hãi đối với ác. Đức Thế Tôn đã nói Hành giả hoàn toàn dứt bỏ ác, là nhẫn khổ tăng lực đối với ác. Tự hạ mình là nhẫn không giận dữ, nhẫn khổ tăng thêm lực. Lực ác thêm số, khổ tăng sức nên không ác. Lực ác tự hạ thấp, chán khổ là nghĩa của nhẫn, lực tăng thêm nên không ác. lực không tăng, nên có thể hoặc không thể nêu bày. Chỉ nên lo sợ các chúng sinh khởi ác. Tức nhẫn là tăng trưởng không ác. Đối với hành lỗi lầm nên nhẫn, là nghĩa cần nói rõ. Khổ là bị các thứ lạnh nóng, đói khát, gió nóng phát khởi, đều nhẫn chịu. Khổ gọi là như sự việc tăng thêm, là hai sự khởi khiến thân khổ não. Chúng sinh vô úy là nhân duyên của chúng sinh ác, nên nói là ác. Do đó, có hai thứ nương dựa là trong, ngoài, nghĩa là bức bách thân là nên nhẫn, là nhẫn.

Hỏi: Đã nói về Nhẫn nhục, thế nào là Đa văn?

Đáp: Đa văn là lắng nghe Kinh, Luật, Luận. Đa văn tức là tham sân si đều dứt hết, cùng có là đa văn, phần khác thì không phải.

Ba tạng Kinh, Luận, Luật ấy, thì Kinh là bậc Nhất thiết trí thuyết giảng, là nơi chốn đạt được của Phật, quyết đoán rõ hiện nơi bốn Thánh đế. Hiện bày ánh sáng giải thoát không trong không ngoài. A-tỳ-đàm (Luận) gọi là hiển thị phần tương ưng hiện có của Kinh. Tỳ-nại-da (Luật) là nói về sự thanh tịnh không hành, không thọ mạng, là ba hành đa văn, là Luật ngăn trừ tham dâm tăng trưởng. Luận ngăn trừ giận dữ, luận nói về hành được tạo tác, nhận biết, thế nên giận dữ mỏng dần. Giận dữ dấy khởi phạm các điều giới. Địa ngục có si ám được dứt bỏ. Nhân duyên nói là tất cả đa văn.

Hỏi: Thế nào là Thánh phần?

Đáp: Thánh phần là bình đẳng, là thiện tri thức, tư duy đạt được. Thiện tri thức bình đẳng, tư duy bình đẳng đạt được là ba Thánh phần. Thánh phần không nói đến nghĩa ác, là thiện tri thức. Chỗ mong muốn, trợ lực thiện, thầy, đệ tử, bạn. Nghĩa là chỗ mong muốn, trợ lực thiện là thiện tri thức kia, là ba loại thầy, đệ tử, bạn.

Hỏi: Thế nào là hỗ trợ thầy? Thế nào là đệ tử thiện? Thế nào là lực nơi bạn? Theo như số nêu bày?

Đáp: Nói như thế rồi, nhận biết chỗ sai biệt. Trợ lực thiện là tướng của thiện tri thức. Thầy, đệ tử, bạn kia, nhận biết nói là trợ lực thiện tăng trưởng, hai thứ cùng có là cành nhánh. Chúng hoặc tương trợ, không trợ lực thiện, nhận biết để nói. Như người cha thiếu thốn, cha con đều tuổi cao. Hoặc có lực nhưng không khéo nhớ nghĩ, muốn hỗ trợ thiện, không hỗ trợ xứ bất thiện, như hai trong Lục sư là Mạt-ca-lan, Phú-lan. Hoặc muốn không trợ lực thiện, như thầy thuốc, tất cả đều nhận biết rõ. Trước có oán, biết bệnh không cứu. Hoặc là ba tướng cùng gồm đủ. Là thiện tri thức, hoặc thầy lỗi lầm, hoặc đệ tử lỗi lầm, hoặc bạn lỗi lầm. Thế nên ba tướng tương ưng là thiện tri thức.

Hỏi: Tư duy là pháp gì?

Đáp: Tư duy là đối tượng hành của tức, giác, tinh tấn, hộ (xả), tưởng. Tức, giác, tinh tấn, hộ, tưởng, dùng làm phần chính là vô tác. Tức ấy là ý loạn được định. Tướng kia giống như giác, tinh tấn đối với ý niệm biếng trễ. Chỉ dạy không loạn, là hộ cùng đắc tương ưng. Như điều khiển xe, ngựa chạy chậm thì thúc giục, bò phóng nhanh thì kìm giữ lại. Cùng hành là hộ (xả). Tâm ý nên quán như thế. Vô lượng nội nhập một, hộ một, đều có duyên nơi chúng sinh tương ưng trước, là tâm ý cùng được hộ (xả).

Hỏi: Điều được nêu bày là gì? Hoặc tâm ý của hộ, tức nếu nhanh thì nên kìm chế. Nếu tâm ý chậm chạp thì nên thúc giục để cùng được hộ.

Đáp: Ta trước không nói là cùng tư duy sao? Như cùng tư duy, như lúc sợ hãi, hình luôn tương ưng. Nếu khác thì không cùng tư duy, thế nên tư duy.

Hỏi: Đắc là thế nào?

Đáp: Đắc là cùng gồm đủ phương tiện, quả. Phương tiện định nhập, không ngoài cúng dường, là nhập tương ưng, cùng gồm đủ phương tiện, quả.

Hỏi: Cái gì là cùng gồm đủ?

Đáp: Như nói về giải thoát. 

Hỏi: Pháp gì gọi là cùng gồm đủ?

Đáp: Cùng gồm đủ là các thứ sách vở ghi chép. Căn đoạn, tiếp cận thiền, cùng tích tụ là hành thiện. Thế nên cùng gồm đủ, như gieo trồng cùng gồm đủ. Gieo trồng cùng gồm đủ là nghĩa về cành, nhánh, là cùng gồm đủ ba hành: Các thứ sách vở ghi chép, căn đoạn, tiếp cận thiền.

Hỏi: Các thứ sách vở ghi chép kia gọi là pháp gì?

Đáp: Các thứ sách vở ghi chép là Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã (A-lan-nhã) hành mặc y Ngũ nạp. Các thứ sách vở ghi chép luôn đầy đủ là nghĩa tăng trưởng. Những người thợ chuyên tạo hai hình tượng, khéo léo đục, khắc đá, gỗ, chuốt sửa để thành tượng. Tạo sách vở ghi chép, tạo kinh, tạo hình vẽ, họ tạo hai hành của hình tượng, người thợ khéo léo tạo tác có thể chịu đựng mưa gió, còn hình tượng tuy đẹp đẽ nhưng không thể chịu đựng được. Hai người như thế là Đạo nhân và bạch y. Đạo nhân luôn nhớ nghĩ việc từ bỏ thân thuộc, chỗ từ bỏ cũng như người thợ thiện xảo. Người bạch y có thê thiếp, nô tỳ, không như người thợ vẽ giỏi hành tác. Người bạch y lần lượt vui thích, yêu mến. Nếu yêu mến phải biệt ly thì sầu muộn, lo sợ, tranh chấp đứng đầu, dùng phi pháp hủy hoại. Có kẻ không phải Đạo nhân tạo kinh tượng không bền chắc. Đức Thế Tôn nói như loài khổng tước ưa thích chim cổ xanh, bay đi không như chim nhạn đồng cất bước. Người bạch y như thế không giống với Tỳ-kheo Mâu-ni, thường ngồi thiền nơi đồng vắng, là sách vở ghi chép. Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã hành mặc y Ngũ nạp, là ba công đức Đầu-đà, có mười hai căn, chín thứ còn lại là quyến thuộc, đều nên nói riêng.

Đức Thế Tôn đến chỗ Toan-đà-lê, dẫn Nan-đà theo để nói về ba công đức:

Lúc nào chàng Nan-đà được thấy ngươi

Vô sự mà mặc y thô Ngũ nạp

Nơi tin thí kia nhưng không hề nhiễm

Xa hành dâm dục, hay lìa mọi hiểu.

Do đó, biết gốc có ba công đức ấy.

Lại nữa, bốn tham ái khác sinh khởi là y phục, thức ăn uống, giường nằm, nơi chốn đều có tham. Ở đây, tham ái về y phục, nên dùng y Ngũ nạp để nêu bày. Tham ái về thức ăn uống, tham ái về vật dụng nằm ngồi, thì nói về hành nơi A-luyện-nhã, là công đức đủ để trừ bỏ các thứ tham ái ấy. Hoặc nhập nơi hai hành, nhập nơi kiêu mạn, nhập nơi chỗ tự tán dương, là tham ái về y phục, thức ăn uống, vật dụng nằm ngồi, nên dùng ba công đức (y Ngũ nạp, khất thực, ở A-luyện-nhã) để dứt trừ, hoàn toàn hỗ trợ để trừ bỏ kiêu mạn. Là đạt được an lạc nên nói đấy là công đức Đầu-đà.

Hỏi: Thế nào là y Ngũ nạp (y Phấn tảo)?

Đáp: Y Ngũ nạp là ba y của người hành đạo có được (không lựa chọn tốt xấu). Y Ngũ nạp nầy là một trong ba thứ kia, như y dệt bằng lông v.v… tùy theo chỗ ngồi. Nếu ba y chỉ là y Ngũ nạp, tức nên có chín công đức Đầu-đà, như thế thì cùng trái với kinh đã nêu chăng? Y Ngũ nạp là từ nơi vùng gò mả, nơi đường đi, nhặt nhạnh các tấm vải cũ xấu bẩn, hoại màu, giặt sạch để may thành. Ba y là Tăng-già-lê, Uất-đát-la-tăng, An-đà-la-bà-đồ (An-đà-hội). Hoặc có trường hợp nhận giữ ba y, nhân đấy, dốc sức tìm cầu, do tham ái ấy nên hết sức cực nhọc. Nếu không được nhiều thì ba y nên biết là đủ, tốt. Ái có hai thứ: Ái tốt đẹp và ái nhiều. Ví như cầu tìm một người nữ đẹp đẽ hơn hết, hoặc cầu tìm hàng ngàn người nữ không xinh đẹp. Như thế là tham ái nhiều, nên dùng ba y chế ngự, sinh ái tốt đẹp. Đức Thế Tôn đã vì hạng người ấy, nói thọ dụng ba y có sáu loại: kiếp bối, tất cánh, tơ lụa, vải vỏ gai, vải dệt bằng vỏ cây, sợi gai, trong ấy nên dùng một loại. Người kia thấy rồi thì ưa thích, việc đó gây nhiều cực nhọc, nên vì họ nói về y dệt bằng lông, kẻ ấy như thế là dùng ba y dệt bằng lông. Hoặc ở trong chúng, hoặc tại giường tòa nơi nhà bạch y, nếu thấy tòa ngồi tốt đẹp khác liền dời đến để ngồi, thì vì những người đó nói, cứ theo tòa đã ngồi, không nên vì tốt đẹp mà dời đổi. Như Thượng tọa sai bảo là tùy theo chỗ thích hợp. Như vậy, đầy đủ ba thứ là y Ngũ nạp.

Hỏi: Thế nào là pháp A-luyện-nhã?

Đáp: PhápA-luyện-nhã là ngồi nơi gốc cây, ngồi dưới bóng cây, ngồi hiện rõ. Người hành đạo thực hiện ngồi ngay ngắn nơi gốc cây, ngồi dưới bóng cây, ngồi hiện rõ, hành đủ ba thứ ấy là phápA-luyện-nhã. Bốn thứ nầy là để diệt trừ tham ái về nơi chốn. Ở đây, người tinh tấn thì hàng tín thí tạo nhà, các thứ giường tòa lớn, vật trải mềm mại, khiến người hành đạo tham chấp. Đức Thế Tôn nhận biết nên vì họ giảng nói sự việc ấy. Không nên xả bỏ nhà cửa của mình để tham vướng nhà cửa khác, nên xả bỏ tham vướng để vui nơi A-luyện-nhã. Kẻ kia đã ở nơi A-luyện-nhã, lại tạo phòng ốc, lầu gác cao lớn, đây cũng là điều không nên làm. Ở trong chốn A-luyện-nhã lại ưa thích phòng gác cao rộng, như dùng xe ngựa mà gồm cả lừa. Do đó, nên thực hành việc ngồi nơi gốc cây, ngồi dưới bóng cây. Người kia đã thọ trì rồi, nhưng không thích cây nhỏ, xấu xí, lại cầu cây to lớn, tươi tốt, có nhiều hoa quả. Đức Thế Tôn chỉ dạy những người ấy nên thọ trì việc ngồi nơi khoảng đất trống. Do là chỗ mong muốn của nam, nữ, chỗ ưa thích của các Bà-la-môn, không bị tham ái bức bách. Người kia đã ở nơi khoảng đất trống, liền khởi suy nghĩ: Ta đã làm được việc khó làm. Do xả bỏ ấy nên tư duy đúng đắn, liền nằm nghiêng ngủ cho tới mặt trời mọc.

Đức Thế Tôn đã chỉ dạy kẻ kia sự việc như thế, không thể như người cắt tai để trang sức nơi đầu. Do đấy, nên thọ trì việc ngồi ngay ngắn nơi thảm cỏ, ngồi theo tư thế kiết già, quán xét khắp thế gian đúng như sự thật mà tự tạo nghiệp. Hành như vậy là hành A-luyện-nhã đầy đủ.

Hỏi: Pháp khất thực là thế nào?

Đáp: Khất thực là ăn ngày một bữa, quá giờ thì không ăn, không được uống các thứ nước khác ở nơi nghĩa địa. Người xuất gia có hai thứ thọ thực: Thọ thực với chúng Tăng và khất thực. Thọ thực với chúng Tăng là ở nơi trụ xứ, ngày ngày được thí chủ đem đầy đủ các thức ăn để dâng thí. Hoặc sợ có những khó nhọc trở ngại, nên lập tăng đường, tạo rồi thì bày biện đủ các vật dụng dành cho việc thọ thực. Khất thực là lần lượt đi đến từng nhà để xin nhận thức ăn nhiều, ít. Đó gọi là khất thực, nhng cách sống khác là hành không đúng pháp. Kẻ kia nơi một xứ thọ thực, khởi suy nghĩ: Ta có thể đi đến nhà thí chủ nọ để thọ thực. Liền dấy tham chấp. Đức Thế Tôn vì những người như thế nên khuyên dạy: Phải nên khất thực. Người ấy khất thực rồi thì thường xuyên ăn uống trong nhiều thời gian, bỏ phế việc tu học. Đức Thế Tôn chỉ dạy kẻ kia nên thọ thực ngày một lần, như kệ nói:

Như người khởi tâm niệm

Mỗi lần ăn, biết ít

Tức là thọ dụng giảm

Hạn chế, giữ mạng sống.

Người ấy thọ thực ngày một lần rồi, lại tìm cầu thức ăn ngon, dấy khởi suy nghĩ: Đức Phật chỉ cho phép uống nước. Vậy nên tìm đủ các thứ nước uống, tức bỏ phế việc tu học. Đức Thế Tôn khuyên dạy: Nên bỏ việc uống nhiều thứ nước. Lúc khát, nước thường cũng có thể dứt trừ. Nên thọ trì pháp quá giờ thì không uống các thứ nước khác. Người kia như thế là thọ thực ngày một lần, không uống các thứ nước khác khi quá giờ, nhưng lại ưa thích tắm gội, xoa chà nơi thân, trang sức nơi thân. Đức Thế Tôn dạy kẻ ấy: Đó cũng là kiêu mạn của tưởng thọ thực. Vì sao? Vì thân thể là do ăn uống nên được trường tồn, dù có béo mập, cũng sẽ đem bỏ nơi vùng gò mả. Vì thế nên vui thích ở nơi ấy, quán xét về nơi ấy, từ chỗ ăn uống dẫn tới thân thể sình trướng, rữa nát, tan hoại, giòi bọ nhung nhúc, mỡ máu chảy đầy khắp. Thấy rồi thì tưởng kiêu mạn kia được dứt bỏ. Tỳ-kheo như thế là hành khất thực đầy đủ.

Hỏi: Pháp chế phục căn là thế nào?

Đáp: Chế ngự căn là không hại, giữ gìn, hàng phục. Là tự có thể chế ngự các căn, hàng phục các căn. Ba thứ ấy là không hại, giữ gìn, hàng phục.

Hỏi: Những gì là không hại?

Đáp: Hại căn là căn dấy khởi không thể điều khiển. Căn không được điều phục như loài ngựa tuy đoạn dứt nước, lúa thóc, nhưng không đường nào là không chạy được. Ăn no do lúa thóc, cỏ, nước, thì ngựa theo đúng đường đi, tức điều hòa, chạy tốt. Như vậy hại căn thì không điều khiển được. Thâu giữ các căn tức điều khiển được. Nếu hại căn, cho đó là điều khiển được, thì như người mù mà có thể lìa dục. Do vậy không nên hại căn, chỉ nên chế ngự đúng đắn đối với cảnh giới. Tư duy đúng đắn để thâu tóm, tức có thể giữ gìn. Hoặc như trước thầy đã nói về cảnh giới của căn, lìa bỏ tưởng, không thể hại cảnh giới, chỉ trừ bỏ nhiễm vướng.

Hàng phục căn là nếu thấy người nữ nhan sắc đẹp đẽ, liền dấy tưởng như thấy mẹ. Đó gọi là ba thứ chế phục căn.

Hỏi: Pháp tiếp cận hành thiền là thế nào?

Đáp: Tiếp cận thiền là tiếp nhận, không dấy tưởng, cùng gần nơi tư duy, thế nên gần hành thiền, như trước đã nói về giải thoát.

Hỏi: Như trước đã nói về bốn thiền, vì sao lại nói nữa?

Đáp: Trước nói về thiền là nhằm giải thoát khỏi sinh tử nơi thế gian. Ở đâyhướng tới nẻo xuất thế gian, hơn hẳn điều ấy, thứ lớp quán Thánh đế. Như người đi qua vùng đồng rộng, thấy có nhà cửa, vườn tược gồm nhiều thứ cây đầy hoa trái. Ý người nầy tất cho đây không phải là vùng đất vắng vẻ, khô cằn, đói kém, mà là gần với đô thị. Như vậy, Hành giả ở nơi quãng đồng rộng sinh tử, có đủ phiền não tham sân si, đạt được nhận biết chân thật, nên tư duy đúng đắn, lúc quán xét ấm, giới, xứ, là vô thường, khổ, vô ngã, nếu mong muốn là nên có nhẫn. Tư duy tăng thêm, tâm ý không động. Đó gọi là như trong mộng thấy điều vui mừng, như trong gương thấy hình bóng. Như vậy, tưởng quán khổ, là pháp tốt đẹp nhất của thế gian. Tưởng về Đức Thế Tôn cũng như thế, đó gọi là hành thiền. Hành giả theo thứ lớp như từ trong mộng tỉnh giấc, thấy vui vẻ, sau đạt được quán về Thánh đế cũng như thế.

Phần thứ nhất của phẩm Công Đức nơi ba Pháp độ đã nói xong.

 

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 2

Hỏi: Phápgọi là Phương tiện?

Đáp: Phương tiện là Giới, Ưu-bá-si (Dứt trừ), Trí. Phương tiện là nghĩa đường đi, lấy giải thoát làm đầu (hướng tới trước) gồm ba nhóm giới, dứt trừ, trí.

Hỏi: Do đâu nói lần nữa về Giới?

Đáp: Trước không nói giới có hai: thế gianxuất thế gian. Trước là nói giới thế gian. Đây là nói giới xuất thế gian, giới là nghĩa hành tập.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Giới là đẳng khẩu, đẳng hành, đẳng mạng (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) là ba nhóm của giới.

Đẳng khẩu (chánh ngữ) là lìa bỏ nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời không chính yếu (nói thêu dệt). Đẳng hành (chánh nghiệp) là lìa bỏ các thứ sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Đẳng mạng (chánh mạng) là Tỳ-kheo khất thực, trụ thực (thọ thực cùng chúng Tăng) có đủ y phục, giường nằm, thuốc men trị bệnh được thọ nhận, đó là đẳng mạng, các lối sống khác là tà mạng. Hàng Ưu-bà-tắc lìa năm nghiệp, đao gậy, rượu độc, thịt chúng sinh. Đó gọi là đẳng mạng (chánh mạng).

Hỏi: Thế nào là pháp Dứt trừ?

Đáp: Dứt trừ là tinh tấn, niệm, định. Dứt trừ là diệt bỏ hết thảy, như diệt trừ tham sân si, hướng đến nẻo kia để an trụ nên gọi là dứt trừ, là ba thứ tinh tấn, niệm, định.

Tinh tấn gọi là cần lực, nên nói sức mạnh của siêng năng, nên biết là đã nói tinh tấn. Nếu có thể hành đạt đến giải thoát, đó là tinh tấn.

Hỏi: Pháp ấy là thế nào?

Đáp: Tinh tấn là tín, hành (cần), không xả. Tín, hành, không xả là ba pháp của tinh tấn. Tín làm tăng trưởng tất cả hành thiện, luôn ở trước hết thảy pháp thiện, đối với tất cả các pháp là bậc nhất, là hơn hết. Như kệ nói:

Sĩ có hành tín

Được bậc Thánh khen

Vui thích giải thoát

Mọi trói buộc mở.

Là ba thứ tín.

Hỏi: Thế nào là ba thứ?

Đáp: Tín là kính, hỷ hành, đắc giải.

Kính gọi là trừ bỏ ô trược. Ô trược là chỗ tạo ác của con người, như sân hận, ganh ghét, không hổ không thẹn. Ví như bò heo làm đục loạn nước suối, là nói về ô trược. Khiến dừng lại, nên nước sẽ lặng trong. Như thế, người tạo ác, sân hận, ganh ghét, không hổ không thẹn, so sánh với tâm ý loạn động, đó là ô trược. Dứt bỏ ô trược gọi là kính (tịnh).

Hỷ hành là vui thích giải thoát. Như người bị bệnh, khổ sở, nên không muốn ăn ngon. Bệnh khỏi rồi, tất mong muốn có được các thức ăn ngon. Người ấy bị các pháp ác bức bách, nên không vui thích nghe pháp. Có được thiện tri thức thì liền vui thích. Sau đấy khởi suy nghĩ: Pháp nầy là tối thượng. Đó gọi là hỷ hành (dục).

Đắc giải là có thể nắm giữ. Ví như người bị rắn cắn, lúc thầy chú nguyện đối với độc, người kia tâm ý chí thành, từ đấy bớt dần, được hiểu rõ nên tìm thuốc. Như vậy, con người bị rắn tham sân si cắn mổ, Đức Phật thương xót chúng sinh không biết đường đi, hoặc các vị đệ tử thương xót, vì họ thuyết giảng chánh pháp. Người kia nếu tâm ý hiểu rõ thì không khác với dụ trên, tức dứt trừ được tham sân si. Đó gọi là đắc giải (giải).

Hỏi: Những gì gọi là hành (cần)?

Đáp: Hành là siêng năng, phát khởithường niệm. Siêng năng, phát khởi, thường niệm là ba pháp của hành. Phát khởi là bắt đầu tạo thiện, như lúc dùi lửa thì phải tạo các vật của lửa như gỗ vụn, phân bò. Siêng năng là thường xuyên cầu tìm. Thường niệm niệm không loạn, tu một nhân duyên, như cứu lửa cháy tóc nơi đầu, phải dùng tay dập tắt. Ba thứ ấy gọi là hành.

Hỏi: Không xả là thế nào?

Đáp: Không xả là không lìa, không chán, không dừng. Đó là ba thứ của không xả. Không dừng là trong hết thảy thời gian không dừng nghỉ. Ta hết sức tinh tấn không bỏ phế, là không chán, ta hoàn toàn siêng năng, dù trong thời gian lâu dài có nhiều phiền não, là không lìa. Hoặc có quả, hoặc không có quả, nếu xả thì không có được công dụng gì cả. Hoặc do đấy nên không bỏ tinh tấn, đó gọi là không xả. Ba pháp nầy tất đạt được quả. Như người đi đường, vui thích nơi chốn đi tới.

Hỏi: Đã nói về tinh tấn, hành. Còn niệm là thế nào?

Đáp: Niệm là thân, thống (thọ), ý (tâm) pháp, trong ngoài đều không quên. Trong ngoài cùng không quên là ba thứ niệm. Vì tự mình là trong, phần còn lại là ngoài, cả hai là cùng. Hoặc trong là thọ nhận ấm, giới, xứ (nhập). Ngoài là kẻ khác thọ nhận. Không thọ nhận là cùng. Hoặc ba thứ kiết (phiền não) ở bên trong, ở bên ngoài, cùng. Ở bên trong là dâm dục. Ở bên ngoài là giận dữ. Giận dữ là vì kẻ khác, không phải tự giận dữ. Hoặc khởi niệm: Dâm dục cũng là vì kẻ khác. Điều nầy không đúng. Vì bên trong là nhiễm, bên ngoài từ kẻ khác sinh dâm dục, do bên trong chấp trước, như Đức Thế Tôn đã nói. Người thấy người nữ, như nội căn si ám cùng hành. Nếu dứt trừ ba thứ kiết ấy là ba thứ niệm. Ba thứ thọ, tâm, pháp, cũng như đã nói về thân, mỗi thứ đều có ba, như vậy là mười hai hành niệm.

Hỏi: Tam-muội (Định) là pháp như thế nào?

Đáp: Định là không, vô tưởng, vô nguyện. Đó là ba thứ Tam-muội. Không là mọi sở hữu đều không.

Hỏi: Có nhiều thứ không, như thôn ấp không, nhà cửa không. Như thế, ở đây là nói về không gì?

Đáp: Không là ngã hành, ngã tạo tác, đều không thể thấy. Ngã hành, ngã tạo tác đều không thấy, đó là không.

Hỏi: Vì sao ngã hành, ngã tạo tác là không thể thấy? Như Đức Thế Tôn nói: Ta thời ấy gọi là Bà-la-môn Để-la-mạt (Là ngã hành). Hoặc có chỗ nói: Nầy Tỳ-kheo! Tay Ta giơ lên nơi hư không (ngã tạo tác). Như vậypháp gì?

Đáp: Không phải thế. Ngã hành, ngã tạo tác là tục số, chỉ ở trong ấm chấp ngã là ngã hành. Đức Thế Tôn không hành điều ấy. Nếu đối với cảnh giới tham chấp, ngã thuận theo, đó gọi là ngã tạo tác. Điều nầy Đức Thế Tôn cũng không hành. Như Kinh Thánh Pháp Ấn nói, không là quán thế gian không. Như vậy, so với chỗ đã giải thích cũng là ngã, ngã sở cùng được thành. Thế nên không thể thấy là không.

Hỏi: Thế nào là vô nguyện?

Đáp:nguyện là quá khứ, hiện tại, vị lai không tạo tác tương ưng. Vô nguyệnnghĩa không an lập. Là xứ trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, tương ưng không trụ, là tất cả hữu vi. Như nơi Kinh Thuyết Xứ đã nói, pháp kia nếu tạo ý ấy, ngã cùng Niết-bàn, thì pháp kia không gồm thâu ba thời. Ở đây thì không như thế. Vì một là không, hai là nghĩa, Niết-bàn là lìa thế gian, không có nhân duyên. Trong pháp kia không có ý về ngã, lìa ba đời lại không có pháp ấy nên không thể nói, là do trong ba thời không vui thích an lập. Đó gọi lànguyện.

Hỏi: Thế nào là vô tưởng?

Đáp:tưởng là sự hành tác cùng tưởng, lìa sự hành tác cùng tưởng, lìa các thứ ấy là vô tưởng. Như có chỗ nói: Lìa tất cả hữu vi. Tất cả là sự cùng hành tác. Có thể tạo tác là sự. Chủ thể tạo tác là hành tác. Như do vô minh, nên phước, vô phước, bất động tạo tác hành. Duyên kia nối tiếp, có sinh thức là sự. Vô minh và hành là tạo tác. Như vậy, nếu lìa tất cả các thứ hữu vi kia, gọi làtưởng, như nơi Kinh Thánh Pháp Ấn đã nói, vô tưởng là không thấy sắc tướng kia. Lìa nói hết thảy hành tác kia cùng lìa bỏ tưởng. Tất cả là ba nghĩa cũng nói. Không, vô nguyện, vô tưởng cũng như vậy. Đó gọi là định.

Hỏi: Trí là pháp thế nào?

Đáp: Trí là sự tương ưng của ba địa: Địa kiến, địa phân biệt (tu) và địa vô học. Trí là nhận biết, là nghĩa trụ của ba địa kia. Ở đây, thấy biết nên gọi là kiến.

Hỏi: Những gì gọi là kiến?

Đáp: Thấy biết những gì trước chưa từng thấy biết, như căn, lực, giác đạo. Phân biệt (tu) là hành tập, như dùng tro sạch để giặt áo, tuy đã trừ bỏ phần cáu bẩn, áo được trắng sạch nhưng vẫn còn có mùi tro. Sau đấy dùng các thứ hương hoa để xông ướp. Như vậy nơi địa kiến, ý thiền thanh tịnh, vô lượng chánh thọ dứt trừ các kiết với rất nhiều công sức, đó gọi là tu.

Địa vô học là tham sân si đã dứt hết, không còn nhân duyên. Đó là địa vô học.

Hỏi: Những gì là trí nơi địa kiến?

Đáp: Trí nơi địa kiến là pháp, quán, vị tri, tức là pháp trí, quán trí, vị tri trí, đấy là ba trí của địa kiến.

Pháp trí, quán trí, là nghĩa của hiện trí. Ví như lương y nhận biết về mụt nhọt đã muồi, nên dùng dao bén mổ xẻ, cắt bỏ, sau đấy, dùng tay khâu lại, không làm thương tổn đến các mạch khác, mà mụt nhọt đã được cắt bỏ. Hành giả tu tập cũng như thế. Chánh tư duy lúc quán khổ nơi cõi Dục, đoạn trừ các phiền não do kiến khổ đoạn, sau đấy sinh khởi trí thứ hai. Như nơi cõi Dục là khổ, vô thường, thì nơi cõi Sắc, Vô sắc cũng thế. Từ đấy, tỷ trí đoạn trừ phiền não của cõi Sắc, cõi Vô sắc. Đó gọi là ba trí của kiến khổ. Ái của cõi Dục là nhân của khổ. Pháp trí ở đây là quán trí. Như thế, trí vị tri của cõi Sắc, cõi Vô sắc là ba trí của kiến tập. Khổ của cõi Dục diệt, dứt, pháp trí ấy cũng là quán trí. Như vậy, trí vị tri của cõi Sắc, cõi Vô sắc, đó gọi là ba trí của kiến diệt. Đạo ấy diệt khổ của cõi Dục, pháp trí nầy cũng tức là quán trí. Như thế, trí vị tri của cõi Sắc, Vô sắc, đó gọi là ba trí của kiến đạo. Mười hai trí nầy đã nói rộng về địa kiến.

Hỏi: Địa phân biệt (địa tu) gồm có bao nhiêu trí?

Đáp: Địa phân biệt tướng, hành, chủng tri, tức là tướng trí, hành trí, chủng trí, là ba trí nơi địa phân biệt, như trên đã nói.

Hỏi: Thế nào là tướng?

Đáp: Tướng là sinh, trụ, hoại. Sinh nghĩa là tương ưng. Trụ là thứ lớp ứng hợp. Hoại là tan hoại.

Hỏi: Nói rộng về chúng sinh, Niết-bàn là có nghi: Chúng sinh cùng Niết-bàn cũng có tướng ấy? Nếu có là lỗi lầm lớn, tức có vô thường. Nếu không thì kinh nầy có lỗi, nên phải nói sinh trụ hoại là tướng hữu vi?

Đáp: Chúng sinh là đối với tướng, là phần khác, không thể nói. Nếu khác tức có thường. Nếu không khác tức vô thường. Hai lỗi ấy là không thể nói. Niết-bàn cũng như vậy. Do đó cần phân biệt. Nên biết tướng là hoàn toàn hữu vi.

Hỏi: Nay nói về công đức. Vì sao tướng ấy là công đức?

Đáp: Nay nói về trí. Trí trong ba thứ ấy là công đức, không phải tướng.

Hỏi: Thế nào là hành?

Đáp: Hành là vô thường, khổ, vô ngã. Hành là nhận biết khắp, đó là nghĩa của hành. Tướng ấy do hành nầy nhận biết, là nghĩa của hành. Ấm là vô thường, nếu vô thường là khổ, nếu khổ là không tự tại, nên vô ngã. Vô thường là không trụ lâu, nên như bọt nước. Khổ là bị bức bách, như mũi tên đâm vào thân thể. Vô ngã là không tự tại, nên như mượn nhờ vật dụng để trang sức nơi thân. Đó gọi là hành.

Hỏi: Thế nào là chủng?

Đáp: Chủng là khí vị, tai họa, được lìa.

Hỏi: Điều ấy nghĩa là gì?

Đáp: Là hữu vi. Ở đây, khí vị gọi là nhiễm chấp, tai họa là ác, được lìa là cùng dứt. Hoặc trời, người vui thích là khí vị. Khổ nơi ba đường ác là tai họa. Lìa cả tội phước là được lìa. Nếu quán như thế là công đức của chánh kiến, nên đạt được giải thoát, đó là chủng. Đây là trí của địa phân biệt (địa tu).

Hỏi: Thế nào là trí của địa vô học?

Đáp: Địa vô học là minh đạt, thần thông, biện, đó là ba trí của địa vô học.

Hỏi: Minh đạt là pháp thế nào?

Đáp: Minh đạt là trí tiền thế niệm (Trí túc mạng), trí sinh xứ (Trí sinh tử) và trí lậu tận. Minh đạt là nghĩa nhận biết rõ. Ở đây, trí tiền thế niệm là nhớ nghĩ, biết các hành đã tạo tác từ quá khứ. Trí sinh xứ là nhận biết về quả của hành nghiệp. Trí lậu tận sau sẽ nói.

Hoặc phiền não (kiết) có ba loại ở nơi đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Đời quá khứ là mười tám kiến. Đời vị lai là bốn mươi bốn kiến. Đời hiện tại là ở nơi thân kiến, do đấy nên sinh hiện tại, phân biệt với quá khứ, vị lai.

Hỏi: Thế nào là trí lậu tận?

Đáp: Trí lậu tận là tận trí, vô sinh trí và nguyện trí. Các thứ kiết (phiền não) của ta đã dứt hết, quán như thế là tận trí. Không còn sinh lại nữa là vô sinh trí. Như vị lương y đối trị rắn độc cắn, nhận biết rõ rồi trừ độc, là trí thứ nhất. Không bị hơi độc có trước ấy nhiễm vào người, là trí thứ hai. Tận trí, vô sinh trí cũng như thế. Nguyện trí là nếu hàng Thanh-văn dùng trí tiền thế niệm, tự nhớ nghĩ nhận biết về các đời nối tiếp nhau một cách đầy đủ. Do nguyện nên cũng nhận biết kẻ khác. Đó là nguyện trí.

Hỏi: Thế nào là thần thông?

Đáp: Thần thông là bay đi (Như ý túc), nghe thấu triệt (Thiên nhĩ) và tri tha ý (Tha tâm trí), ba thứ ấy là thần thông. Như ý túc sẽ nói sau. Nghe thấu triệt (thiên nhĩ) là do định lực, nên ở trong một duyên, bốn đại tăng trưởng thanh tịnh. Ở đây, từ cõi người, trời, cho đến nẻo ác, nghe âm thanh tùy theo lực dụng, như mắt hoặc thấy gần hoặc thấy xa tùy nơi nhãn lực. Như vậy là tùy theo định mà được thiên nhĩ. Tri tha ý (tha tâm trí) là như thấy các chúng sinh hoặc nghe âm thanh, nhận biết tâm ý của họ.

Hỏi: Bay đi (Như ý túc) là thế nào?

Đáp: Như ý túc là du hành nơi hư không, biến hóa và Thánh tự tại. Du hành nơi hư không tự tại, biến hóa tự tại, Thánh tự tại là ba thứ của như ý túc. Như ý là nghĩa tự tại.

Du hành nơi hư không tự tại là có thể vào trong nước, chui vào trong đất, đạp nơi hư không, vách đá, tường nhà đều vượt qua không bị trở ngại, tuy có thể sờ nắm mặt trời, mặt trăng, đó gọi là du hành nơi hư không tự tại.

Biến hóa tự tại là hiện ra các hình tướng người, chim, ngựa xe, cây cối, núi rừng, thành quách, sông, hồ v.v… đều có thể hóa hiện.

Thánh tự tại là có thể hóa sự sống lâu, hóa nước thành tô, từ nơi giữa chặng mày phóng ra hào quang v.v… Đối chiếu như thế gọi là như ý túc, là chỗ tăng trưởng, nuôi lớn của bậc Thánh. Như ý túc, thiên nhĩ, tha tâm trí gọi là thần thông. Trí túc mạng, trí sinh tử là năm thần thông của hàng phàm phu.

Hỏi: Thế nào là biện?

Đáp: Biện là pháp, nghĩa, ứng, phân biệt (từ). Khéo nhận biết về pháp. Khéo nhận biết về nghĩa. Khéo nhận biết về ứng. Khéo nhận biết về phân biệt (từ). Đó là bốn thứ của biện.

Nhận biết phápnhận biết về danh cú hợp. Nhận biết nghĩa nhận biết về tánh thật hiện có kia, như lửa gọi là tướng nóng. Nhận biết về phân biệt (từ) là như văn ấy, có thứ lớp như thế. Nhận biết về ứng, là nêu bày câu văn không điên đảo, cũng không sai lạc. Đó gọi là biện. Đây cũng đã nói rộng nơi phần trí của địa học, vô học.

Hỏi: Như giới cùng có định, trong địa học, vô học, cũng có thể đạt được giới, định. Vì sao không nói ba thứ?

Đáp: Không giới, giới tăng thêm, không phải là học, như lìa sát sinh. Chúng sinh hết sức hộ trì vô học. Không như thế, nếu học không sát sinh tức là vô học. Do đấy không sai lạc, nên không nói ba thứ.

Phần thứ hai của phẩm Công Đức nơi ba Pháp độ đã nói xong.

 

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 3

Hỏi: Trước đã nói về nguyên do là Gồm đủ, Phương tiện, Quaû. Trong đó đã nói về hai thứ đầu. Vậy Quả là gì?

Đáp: Quả là Thanh-văn, Phật Bích-chi, Phật. Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn, ba bậc ấy là quả.

Hỏi: Là quả của những gì?

Đáp: Là của giới, dứt trừ, trí.

Hỏi: Nay nói về nguyên do. Nguyên do là đạo, vì sao quả cũng là đạo?

Đáp: Quả nầy nói là hữu dư. Trước nói là vô dư. Đức Thế Tôn đã nói vô dư là Bát-Niết-bàn, thế nên không lỗi.

Phật là bậc đã giải thoát tất cả kiết (phiền não) chứng đắc mười lực, đạt bốn vô sở úy, thâu đạt tất cả pháp Phật. Giới, định, tuệ của chư Phật là không sai lạc.

Phật Bích-chi là tự giác, không vì kẻ khác mà tự giác ngộ, nên gọi là Phật Bích-chi.

Thanh-văn là từ nơi người khác thuyết giảng mà giác ngộ.

Lại nữa, giải thoát đầy đủ có hai thứ: Một là bi. Hai là chán. Nếu từ bi, đắc đạo đầy đủ, là Phật. Chán gồm đủ có hai loại: Một là do tự đạt được. Hai là do kẻ khác nên đạt được. Nếu tự đạt được là Phật Bích-chi. Nếu do người khác nên đạt được là Thanh-văn.

Lại nữa, nếu nhận biết khắp, tất cả công đức đầy đủ, lìa hết thảy các thứ ác, là Phật. Phật Bích-chi tuy lìa các thứ ác, nhưng công đức còn ít. Thanh-văn phải nhân nơi kẻ khác để lìa ác.

Hỏi: Vì sao nhận biết chư Phật là không sai lầm? Thanh-văn cũng lại như thế chăng?

Đáp: Thanh-văn là đoạn trừ kiết, chưa đoạn trừ kiết. Thanh-văn A-la-hán có sai lầm, có phân biệt về tướng. Tín đứng đầu nơi năm căn có chỗ dựa hạ, trung, thượng. Thế nên Thanh-văn có sai biệt nơi tất cả địa.

Hỏi: Thế nào là pháp đoạn trừ kiết (lìa dục)?

Đáp: Đoạn trừ kiết là tín giải thoát, kiến đắc (kiến đáo) và thân chứng. Do tín đứng đầu nơi Độ (Ba-la-mật) nên gọi là tín giải thoát. Do tư duy (tuệ) đứng đầu nơi Độ, nên gọi là kiến đắc (kiến đáo). Cả hai cùng đạt là thân chứng, là vô lượng hành nên nêu rõ. Tín giải thoát là thượng đạo (thượng lưu) hành, vô hành Bát-Niết-bàn, tức thượng đạo Bát-Niết-bàn, hành Bát-Niết-bàn và vô hành Bát-Niết-bàn. Ba loại ấy là tín giải thoát.

Thượng đạo: Là yêu thích pháp kia, dẫn tới bậc thượng.

Lại nữa, đạo ấy gọi là lợi, nhằm đạt đến đạo tối thượng, nên gọi là thượng đạo.

Hành Bát-Niết-bàn: Hành nghĩa là hữu vi. Có nhiều phương tiện cùng đạo duyên nơi hành đến vô vi, nên gọi là hành Bát-Niết-bàn.

Vô hành Bát-Niết-bàn: Vô hành là vô vi. Ít phương tiện cùng với đạo duyên nơi vô vi đạt đến vô vi, nên gọi là vô hành Bát-Niết-bàn. Đó gọi là ba thứ tín giải thoát.

Hỏi: Pháp kiến đắc (kiến đáo) là thế nào?

Đáp: Kiến đắc là trung gian, sinh, cũng là thượng đạo. Tức trung gian Bát-Niết-bàn, sinh Bát-Niết-bàn, thượng đạo Bát-Niết-bàn.

Trung gian Bát-Niết-bàn: Là ở đây mạng chung, chưa sinh nơi khác mà đắc đạo. Trung gian Bát-Niết-bàn như ngọn lửa nhỏ, cháy sáng lên, chưa rơi xuống đất đã tắt.

Sinh Bát-Niết-bàn: Như ngọn lửa cháy sáng khắp, rơi xuống đất liền tắt. Như thế là mới sinh, thứ lớp đắc đạo, Bát-Niết-bàn.

Thượng đạo Bát-Niết-bàn, như trên đã nói. Cõi Vô sắc ấy cũng như thế. Ba thứ đó là kiến đắc (kiến đáo).

Hỏi: Thân chứng là thế nào?

Đáp: Thân chứng là hành, vô hành, sinh Bát-Niết-bàn, như đã nói.

Hỏi: Vì sao lại nói nữa?

Đáp: Không phải. Do cõi khác nên lìa cõi Dục, cùng lìa cõi Sắc là hai thứ trừ hết trung ấm, không phải có trung ấm của cõi Vô sắc. Lại nữa, trước nói không có giải thoát. Thân chứng là có giải thoát. Giải thoát phần sau sẽ nói.

Hỏi: Không đoạn trừ kiết (chưa lìa dục) là pháp thế nào?

Đáp: Không đoạn trừ kiết là thứ tám, Tu-đà-hoàn, Bạc địa. Thứ tám, Tu-đà-hoàn, Bạc địa, ba thứ ấy là chưa lìa dục.

Hỏi: Thứ tám là pháp gì? Nếu theo số thì phải là thứ nhất, không phải thứ tám. Đầu tiên là hướng, sau đến A-la-hán. Vì sao ở đây là A-la-hán?

Đáp: Không nên quán như người có tám. Trẻ con kia không phải do lớn là thứ tám, mà do ấu thơ là thứ tám. Như thế, con công đức của Đức Thế Tôn có tám, bậc A-la-hán kia là lớn, các lậu đã dứt hết. Tức đầu tiên là hướng, là ấu thơ, do đấy nói là thứ tám.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Thứ tám là tín, tư duy (tuệ), cùng có. Tộc tánh nầy, lúc là người phàm có đủ tín và tư duy (tuệ) như thế. Kẻ ấy, hoặc tín thắng, tuệ tùy theo, hoặc tuệ thắng, tín tùy theo, hoặc cùng có là sinh pháp trí. Đã từ tín hành là độn căn, từ pháp hành là trung căn, cùng hành cả hai là lợi căn. Ba thứ nầy là thứ tám. Đã kiến đế, nếu tín thắng là tột bậc bảy. Tuệ thắng là trung. Cùng thắng là Gia gia. Đây là địa kiến. Nếu lên địa phân biệt (địa tu) là tại Bạc địa. Tín thắng là nhất vãng lai (Tư-đà-hàm). Tuệ thắng là trung. Cùng thắng là nhất chủng. Nếu lìa dục của cõi Dục, tín thắng là tín giải thoát. Tuệ thắng là kiến đắc (kiến đáo). Cùng thắng là lìa sắc, đạt thân chứng. Nếu tất cả lậu dứt hết, tín thắng là tuệ giải thoát. Tuệ thắng là câu giải thoát, cùng được giải thoát. Cùng thắng là cũng cùng giải thoát.

Lại nữa, tín thắng là độn căn. Tuệ thắng là trung căn. Cùng thắng là lợi căn. Như thế lần lượt đến bậc thượng.

Hỏi: Đã nói rộng về thứ tám, dần dần sinh khởi lưới công đức, nhưng không rõ điều ấy là thế nào? Xin được nêu bày.

Đáp: Tu-đà-hoàn là tối đa bảy lần sinh tử trong Gia gia. Tu-đà-hoàn là ba thứ, trụ nơi quả thứ nhất, cầu đạt quả thứ hai. Tu-đà-hoàn là đạo, đi lên là đạo, nên gọi là hoàn. Là thân kiến, giới cấm thủ, nghi đã đoạn, nẻo ác dứt hẳn. Hàng độn căn tối đa bảy lần vui thích thọ sinh nơi cõi trời, người, mong được Bát-Niết-bàn. Gia gia trụ nơi lợi căn, cũng trụ nơi quả thứ nhất, ba kiết đã dứt hẳn. Do tư duy đoạn đã dứt hết một ít, là ở trong ấy sinh, từ nhà đến nhà mà Bát-Niết-bàn. Trung là ở giữa hai thứ ấy, không phải hoàn toàn từ nhà đến nhà Bát-Niết-bàn. Cũng không hoàn toàn tối đa bảy lần thọ sinh nơi cõi trời, người mà Bát-Niết-bàn, nhưng ở nơi trung gian mà Bát-Niết-bàn.

Hỏi: Đã nói về Tu-đà-hoàn, còn Bạc địa là thế nào?

Đáp: Bạc địa là Tư-đà-hàm (Nhất lai), nhất chủng, trung. Do kiết của cõi Dục mỏng dần (bạc), an trụ, nên gọi là Bạc địa. Ba thứ ấy là nhất lai, nhất chủng, trung gian. Nhất lai là trọn sinh nơi cõi trời, một lần sinh mà Bát-Niết-bàn. Nhất chủng là thọ sinh nơi một hữu mà Bát-Niết-bàn, nên công đức tăng trưởng. Trung gian là cùng có hai thứ ấy. Ba thứ ấy là không đoạn trừ kiết (chưa lìa dục).

Hỏi: Thế nào là A-la-hán?

Đáp: A-la-hán là lợi, độn, trung căn. A-la-hán nghĩa là nên cúng dường, có thể thọ nhận sự cúng dường, nên gọi là A-la-hán.

Hỏi: Nơi chốn nào cúng dường?

Đáp: Là tất cả chúng sinh, nên nói là A-la-hán. A-la-hán có ba loại là lợi căn, độn căn, trung căn.

Hỏi: Thế nào là lợi căn?

Đáp: Lợi căn là pháp trụ kiếp (pháp trụ), pháp có thể hoại hữu (pháp thăng tiến) và pháp không nghi (pháp bất động).

Pháp trụ: Là lìa phương tiện, diệt trừ phiền não, nên gọi là pháp trụ.

Pháp thăng tiến: Là trừ bỏ các phiền não, cầu thượng thắng có thể đạt được, nên gọi là thăng tiến. Thắng là đạt, thông, biện.

Pháp bất động: Là đã được quả vượt hơn, tất cả sự đàm luận không loạn động được biện tài. Đó gọi là lợi căn.

Hỏi: Thế nào là độn căn?

Đáp: Độn căn là pháp giảm (pháp thối), pháp niệm, pháp hộ. Ba thứ ấy là độn căn.

Pháp giảm (pháp thối): Là hoặc sai lạc nên thối chuyển, không phải Thánh đế, nên gọi là pháp thối. Hoặc là ở nơi địa phân biệt (địa tu) thối chuyển. Tu là tu tập. Nói do không tu tập, đó gọi là thối chuyển. Như học kinh rồi, không luôn hành tập nên quên. Như vậy, do không tu tập, nên nơi địa tu thối chuyển.

Pháp niệm: Là đã đắc A-la-hán, hành kém nên cùng với thân kém, liền khởi niệm: Chỗ Ta tạo tác, đã làm rồi, làm sao để trụ? Như thế là suy niệm. Niệm có nhiều phẩm loại. Cũng suy niệm về người, thế gian, về các thứ tài sản, vật dụng. Song ở đây là suy niệm về xả bỏ thân mạng.

Pháp hộ (xả): Là không thối chuyển, cũng không tư niệm, chỉ xả phương tiện cực lớn. Như người nghèo có nhiều phương tiện, được của cải thì giữ lấy. Đó là độn căn.

Hỏi: Thế nào là trung căn?

Đáp: Trung căn là tuệ giải thoát, tận bất tận giải thoát. Được tuệ giải thoát là thấp. Câu giải thoát có hai: Một là đắc tận giải thoát. Hai là bất tận giải thoát. Câu giải thoát là tín và tuệ. Đã được hai thứ ấy nên là thắng.

Hỏi: Thế nào là giải thoát?

Đáp: Giải thoát là giải thoát cõi Dục, cõi Sắc, diệt tâm thượng trụ, cùng ba cõi tận. Đó là ba Hành giải thoát. giải thoát các kiết (phiền não) nên gọi là giải thoát.

Hỏi: Thế nào là giải thoát dục?

Đáp: Giải thoát dục là nội sắc tưởng vô sắc, bất tịnh cũng tịnh. Nội là bên trong của mình, là hai thứ tưởng có sắc và tưởng hoại sắc, ở đây là nội hoại sắc. Nghĩa là ở nơi nghĩa địa quán bất tịnh về thi thể thối rữa tan hoại. Quán như vậy rồi, giải thoát, ác dứt, tâm ý định. Đó gọi là tưởng nội sắc, bất tịnh, giải thoát, là tưởng nội hoại sắc thứ hai. Do định nên như trụ nơi không sắc, như thế quán được lập, thân kẻ khác cũng lại như trên. Đó gọi là tưởng nội không sắc, là bất tịnh giải thoát.

Tịnh giải thoát là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, duyên nơi hoa, y phục v.v… Do phát khởi ý tư duy, tâm trụ bất động, là tịnh giải thoát. Ba thứ ấy là giải thoát dục.

Hỏi: Thế nào là giải thoát sắc?

Đáp: Giải thoát sắc là không sắc, lìa sắc, dục rồi, bốn thứ tâm trụ, cũng lại là hữu lậu. Đó gọi là giải thoát sắc. Điều nầy trước đã nói.

Hỏi: Thế nào là giải thoát diệt tận?

Đáp: Tâm cùng tưởng của các tâm hợp diệt, là chánh thọ vô lậu của A-la-hán. Đó gọi là giải thoát diệt tận.

Phần thứ ba của phẩm Công Đức nơi ba Pháp độ đã nói xong.

 

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 4

Hỏi: Đã nói rộng về phẩm Công Đức nơi ba Pháp độ. Vậy thế nào là Ác?

Đáp: Ác là Hành, Ái, Vô minh ác. Hành, ái, vô minh ác, là lược nói về ác, nên biết. Ác ấy đã làm nhiễm ô hành thiện, nên gọi là ác. Đây cũng làm nhiễm ô con người, tức là người cấu nhiễm. Ý vui thích nơi ác, như loài heo vui thích nơi bất tịnh. Ở đây, trước tiên là Hành ác của thân miệng ý. Các ác nầy là đầu tiên, là ba thứ hành ác của thân miệng ý.

Hỏi: Thế nào là Hành ác của thân?

Đáp: Hành ác của thân là sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Đó là ba thứ hành ác của thân, nên biết.

Hỏi: Đã biết ba thứ hành ác của thân. Vậy thế nào là sát sinh?

Đáp: Sát sinh là niệm, giáo, hành (tác). Niệm, giáo, hành là nói về ba thứ sát sinh. Phần còn lại cũng như thế. Như hành ác của thân, với ba thứ niệm, giáo, hành của sát sinh, thì trộm cắp, dâm dục cũng như vậy. Khẩu nghiệp cũng thế.

Hỏi: Biết phần còn lại cũng như thế, nhưng chưa biết niệm. Vậy niệm là gì?

Đáp: Niệm là dục, tạo tác, kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ. Niệm gọi là tư duy, là ba thứ tâm muốn tạo tác, muốn khiến tạo tác, kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ. Như ý muốn sát hại chúng sinh là tâm muốn tạo tác. Ý khiến sát hại là muốn khiến tạo tác. Kẻ khác sát hại rồi, ý vui thích, là kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ. Đó gọi là ba thứ niệm.

Hỏi: Thế nào là giáo?

Đáp: Giáo là dạy bảo, sai khiến, có thể, đó là ba thứ giáo.

Dạy bảo: Là như ngoại đạo nói: Giết heo dê để cúng tế trời, là dạy bảo.

Sai khiến: Là như vua sai khiến quan: Ta có kẻ oán địch, khanh phải đi đến sát hại hắn. Đó là sai khiến.

Có thể: Là như có người bảo: Gã kia là oán thù của ta, ông có thể giết hắn chăng? Người nầy tức nhiên nhận lời. Đó là có thể.

Đó là ba thứ giáo.

Hỏi: Thế nào là hành (tác)?

Đáp: Hành tác là tưởng chúng sinh, xả bỏ, đoạn mạng. Hành gọi là thi hành sự. Như nói sát sinh, nên biết là dạy bảo, sai khiến, có thể. Hành ác của ý cũng như thế. Ở đâytưởng chúng sinh khác, xả bỏ chúng sinh, đoạn mạng chúng sinh, là ba hành tác đầy đủ. Thầy thuốc trong lúc cắt mổ ung nhọt, bệnh nhân bị chết, không phải là thầy thuốc sát sinh, vì ông ấy không có ý sát hại. Ba sự việc như thế, nếu không đủ thì không phải sát sinh. Đó gọi là ba thứ hành tác.

Hỏi: Thế nào là trộm cắp?

Đáp: Trộm cắp là vật của kẻ khác, nghĩ tưởng, khởi ý trộm lấy. Vật của kẻ khác, nghĩ tưởng, khởi ý trộm lấy, là ba thứ trộm cắp gồm đủ. Vì sao? Vì giả như có vật của kẻ khác, không có ý trộm cắp mà lấy vật ấy, là vì mình cho phép, do giống nhau nên không phải là trộm. Nếu vật của kẻ khác, không có ý trộm lấy, là không trộm cắp, như lấy vật tri thức. Ba sự như thế, phải gồm đủ mới là trộm cắp.

Hỏi: Thế nào là tà dâm?

Đáp: Tà dâm là kẻ khác, pháp thọ, phi đạo. Ba thứ phạm là kẻ khác thọ nhận, pháp thọ nhận và không phải đạo.

Hỏi: Dâm như kinh nói là gốc, do những gì nên nói là tà dâm?

Đáp: Người có hai loại: Đạo nhân (xuất gia) và bạch y (tại gia). Ở đây, xuất gia hành dâm là nói về hành ác. Tại gia hành dâm thì không phải là hành ác, nhưng tà vạy là hành ác. Nếu tại gia hành dâm là hành ác, là Tu-đà-hoàn hành dâm nên bị đọa địa ngục. Nếu không như thế, thì tà dâm hành ác, nên kinh nói hai thứ không lỗi.

Hỏi: Thế nào là kẻ khác thọ nhận?

Đáp: Kẻ khác thọ nhận là chủ, thân, vua. Chủ đã thọ nhận, thân đã thọ nhận, vua đã thọ nhận, là tất cả kẻ khác thọ nhận.

Chủ có hai: Chí cánh và thời trung gian (thiếu thời). Chí cánh là như nơi chốn, gia pháp. Người nữ thuộc về chủ, nếu dâm với người nữ ấy, thì theo các thứ kia là tà dâm. Chủ thiếu thời: Nếu người nữ theo kẻ kia lấy vật, hạn mức có thời, nếu dâm với người nữ nầy, theo các thứ kia là tà dâm.

Thân là cha mẹ, anh em, cô cậu cùng nuôi dưỡng người nữ. Hoặc nhận lấy việc nuôi dưỡng người nữ mà bỏ người nữ ấy.

Vua thọ nhận: Là nếu không có người thân, không có chủ, mà thọ nhận theo lệnh vua. Đó là ba thứ kẻ khác thọ nhận.

Hỏi: Thế nào là pháp thọ nhận?

Đáp: Pháp thọ nhận là học, trai, gia pháp (tộc pháp). Nếu thọ học pháp là học pháp thọ nhận. Nếu thọ trai pháp là trai pháp thọ nhận. Nếu thọ tộc pháp là tộc pháp thọ nhận.

Học pháp thọ nhận: Là nếu chủ trước thuận theo học, sau phạm là tà. Đó gọi là học pháp thọ nhận.

Trai pháp thọ nhận: Là nếu chủ trước thuận theo việc thọ trai, sau phạm là tà. Đó gọi là trai pháp thọ nhận.

Gia pháp thọ nhận: Là như trước đã nói về thân thọ nhận, song người biên chép kinh muốn khiến cho đủ ba pháp, nên lại nói gia pháp thọ nhận. Mẹ, chị em người nữ, vợ và cùng họ, là tất cả không thể phạm, phạm tức là tà.

Hỏi: Thế nào là hành không phải đạo (phi đạo)?

Đáp: Hành không phải đạo là đối với người nữ sinh đẻ, người nam không thành nam, gọi là hành phi đạo. Nếu người nữ mới sinh đẻ, sau phạm, là hành phi đạo. Nếu dùng thế lực, phạm người nữ chưa kết hôn là hành phi đạo, cùng dâm với người nam không thành nam, đó là ba hành phi đạo.

Hỏi: Đây nói không đủ. Vì sao? Vì trong đó còn có các thứ tà dâm khác, như ở đây đã nói làm sao gồm thâu chúng? Nếu không gồm thâu, thế nên ở đây nói không đủ.

Đáp: Đây nói đã đủ. Vì sao? Vì trước đã nói lìa người nữ lúc sinh đẻ. Nếu nói người nữ, nên biết là đã nói về súc sinh. Nếu nói lìa lúc sinh nở, nên biết là đã nói về các hành khác. Do đấy là đã nói đầy đủ.

Hỏi: Các thứ hành ác, phi nghĩa nầy từ đâu sinh?

Đáp: Đều từ tham sân si sinh. Hết thảy các thứ kia nên biết đều từ tham sân si sinh.

Hỏi: Vì sao nói tất cả là sát sinh, trộm cắp, dâm dục?

Đáp: Không chỉ như thế. Nếu chỉ nói như thế là do người biên chép kinh. Phải nên nói tức là chỉ gồm thâu tất cả, vậy nên tìm bản kinh. hết thảy hành ác của thân miệng ý nên nói riêng.

Hỏi: Vì sao ở đây nói từ trong ba ác sinh? ở đây có lỗi. Vì không phải do lạc thống (lạc thọ), khổ thống (khổ thọ) cùng một lúc sinh. Cũng không phải do lạc thọ đã khiến giận dữ. Dâm là nói vui thích hành tập dục là dâm, ở đây vì sao nói là giận dữ?

Đáp: Không phải là nói từ dâm sinh ra giận dữ, ở đây nói là nguyện từ trước. Vì yêu mến đến cả răng lông, nên khởi giận dữ, sát hại. Như thế, trước phát khởi giận dữ: Kẻ kia phạm vợ ta, ta cũng đáp trả lại, nhưng sau hành dâm khởi ái, song nguyện từ trước ở nơi giận dữ sinh. Dục từ các thứ kia sinh, do đó không lỗi. Các thứ khác cũng như vậy.

Hỏi: Đã nói về Hành ác của thân. Vậy Hành ác của miệng là những gì?

Đáp: Hành ác của miệng là bất như (chẳng thật) vô như (chẳng hư) và nói lời không chính yếu (ỷ ngữ). Hành ác của miệng có bốn thứ, ở đây chỉ nêu ba pháp, ba pháp nầy cũng hiển thị bốn thứ.

Hỏi: Thế nào là bất như (không thật)?

Đáp: Không thật là vì mình, vì kẻ khác, vì có lợi, nên tránh sự thật. Nếu không thật là hành ác của miệng, tức là vì mình, vì kẻ khác, vì có lợi, nên ý kiêng tránh sự thật. Kiêng tránh sự thật là ý che giấu. Như ý nhận biết rồi, miệng lại nói khác. Nói ba thứ là vì mình, vì kẻ khác, vì có lợi.

Vì mình: Là mạng sống của mình.

Vì kẻ khác: Là người thân.

Vì có lợi: Là các thứ vật dụng, của cải.

Đó gọi là ba thứ. Như Đức Thế Tôn nói: Ở nơi quyến thuộc, nhân nơi mình, nhân nơi kẻ khác, nhân nơi có lợi, nên biết rồi lại nói dối.

Hỏi: Đã nói hành ác của miệng là bất như (không thật). Còn thế nào hành ác của miệng là vô như (chẳng hư)?

Đáp: Chẳng hư là: Hành vô ái niệm (chẳng ái) hành biệt ly và cùng hành. Hành là tạo tác chẳng ái. Hành gọi là nói lời thô ác. Ái nên nói lời giận dữ là không ác khẩu. Ác khẩu là vì mình sinh. Nếu khác, thì Đức Thế Tôn cũng ác khẩu, Đức Thế Tôn vì từ bi, nên nghe Điều-đạt nói mà giận. Do đấy, tạo hành không ái là ác khẩu. Như kẻ mù lòa, gọi kẻ mù lòa giận dữ, tuy có lời nói thật, song do ý ác, thế nên chẳng tạo ái gọi là hành ác.

Hành biệt ly: Tuy có lời nói thật, song vì hành biệt ly nên là nói hai lưỡi. Nếu không tạo hành biệt ly, mà có thể biệt ly, thì không phải là nói hai lưỡi. Nếu không như thế, thì Đức Thế Tôn cũng chính là nói hai lưỡi. Đức Thế Tôn vì từ bi đối với đám dị học, nên đã độ họ làm đệ tử. Do đấy, tạo hành biệt ly nên là ác.

Cùng hành: Tức là nơi hai việc ấy, tạo chẳng thật cùng chẳng hư. Như thế, ác khẩu là do ác khẩu, cũng gọi là nói hai lưỡi.

Hỏi: Thế nào là nói lời thêu dệt (ỷ ngữ)?

Đáp: Nói lời thêu dệt là nói không đúng lúc, không thành thật, không có nghĩa. Không đúng lúc mà nói, không thành thật mà nói, không có ý nghĩa mà nói, là ba thứ nói lời thêu dệt, nếu phân biệt là vô lượng.

Không đúng lúc mà nói: Là lúc nên nói thì không nói. Lúc không nên nói, lại nói. Như vào lúc hôn nhân hội hợp, vui vẻ, hoặc có người nói: Nầy anh bạn kia! Hết thảy mọi sự hội hợp đều quy về hoại diệt, muôn vật là vô thường, thịnh rồi tất suy. Kẻ kia nói lời ấy được Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn khen ngợi, song do nói không đúng lúc, nên là ỷ ngữ.

Không thành thật mà nói: Là hoặc tưởng thật nên nói tà vạy. Như các dị học nói: Ngã là Nhất thiết trí. Họ tuy có tưởng thật song chỉ là ỷ ngữ. Vì sao? Vì đấy không phải là Nhất thiết trí, chỉ là tưởng như thế mà thôi.

Không có ý nghĩa mà nói: Là nói về cười đùa, ca múa, sầu lo.

Đó gọi là hành ác của miệng.

Hỏi: Hành ác của ý là thế nào?

Đáp: Hành ác của ý là tham, sân, tà kiến, là chỗ hành ác của ý, nên gọi là hành ác của ý.

Tham là mong có được các thứ tài sản vật dụng hiện có của kẻ khác.

 Hỏi: Nếu đối với các thứ hiện có của kẻ khác mong có được là tham, tức là nói lặp lại, có lỗi. Nơi phần Niệm đã nói: Niệmtâm mong muốn, mong muốn khiến hành tác, kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ.

Đáp: Đây nói không có lỗi trùng lặp. Niệm là ý mong muốn như thế, muốn hành tác. Ở đây không muốn hành tác mà muốn đoạt lấy các thứ vật dụng của kẻ khác. Tham nên khiến các vật dụng tài sản ấy có nơi mình. Như thế là ý nhiễm ô, vướng mắc trong tài sản, vật dụng của kẻ khác. Tham là hướng tới vật dụng của kẻ khác, sân là bức bách kẻ khác với ý ác.

Hỏi: Thế nào là tà kiến?

Đáp: Tà kiến là hành (nghiệp) trái nhau, quả trái nhau và không thấy biết, đó là tóm lược về ba thứ tà kiến. Nếu phân biệt là vô lượng. Như ở đây, dị kiến là tà kiến.

Hỏi: Thế nào là hành (nghiệp) trái nhau?

Đáp: Nghiệp trái nhau là:

1. Ý tịnh - bất tịnh.

2. Ý bất tịnh – tịnh.

3. Cùng một ý.

Đó là ba thứ nghiệp trái nhau.

+ Ý tịnh - bất tịnh: Là nghiệp thân miệng ý thiện, quả bất thiện.

+ Ý bất tịnh – tịnh: Là nghiệp thân miệng ý bất thiện, quả thiện.

+ Cùng một ý: Là nghiệp thân miệng ý thiện, bất thiện, quả thiện, bất thiện. Như phân biệt về nghiệp, phân biệt về quả cũng như thế. Trên cõi trời khổ, Niết-bàn khổ, so sánh như thế là quả tịnh, ý bất tịnh. Đường ác vui, sinh tử vui, so sánh như thế là quả bất tịnh, ý tịnh. Đường ác khổ, phi khổ, so sánh như thế là cùng một ý.

Hỏi: Thế nào là không thấy biết?

Đáp: Không thấy biết là:

1. Không thấy biết hành (nghiệp).

2. Không thấy biết quả.

3. Không thấy biết chúng sinh.

Đó là ba thứ không thấy biết.

+ Không thấy biết nghiệp: Là không bố thí, không có trai giới, không thuyết giảng, không phương tiện, không tạo nghiệp thiện, bất thiện.

+ Không thấy biết quả: Là tạo thiện, bất thiện không có quả báo, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không có cõi trời.

+ Không thấy biết chúng sinh: Là không có cha mẹ, không có chúng sinh hóa sinh, nơi thế gian không có Sa-môn, Phạm-chí thật. Đó gọi là vô lượng thứ của tà kiến.

Đây là ba thứ hành ác của ý nơi vô lượng thứ. Tất cả nhân ác được tạo cùng trái với hết thảy nhân thiện được tạo, như nơi phần Giới ở trước đã nói.

Phần thứ nhất của phẩm Ác nơi ba Pháp độ đã nói xong.

HẾT - QUYỂN 1


 

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI

QUYỂN 2

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 5

Hỏi: Đã nói về Hành ác. Còn thế nào là Ái?

Đáp: Ái là Dục (Nhiễm), Giận dữ, Ganh ghét (Mạn), đó là ba thứ ái. Nên biết ái là khát ái, là ba thứ nói chung làm một.

Hỏi: Thế nào là Dục (Nhiễm)?

Đáp: Nhiễm là chấp trước dục, chấp trước hữu, chấp trước phạm hạnh. Đó là ba thứ nhiễm.

Ở đây, dục là năm dục: sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc). Là dựa nơi ba thứ nhiễm ấy, các chúng sinh đều vui thích, tham đắm, các sự khác thì không thế. Tại đây, chấp trước dục là nam, nữ, chẳng thành nam chấp trước dục: nữ dục nam, nam dục nữ cùng chẳng thành nam, chẳng thành nam dục nữ, dục nam.

Hỏi: Trước đã nói về chấp trước năm dục, nay nói nữ, nam, chẳng thành nam, chẳng phải là lỗi sao?

Đáp: Nữ, nam, chẳng thành nam là lặp lại ở trong dục, mỗi mỗi thứ đều vướng mắc. Đối với các sự việc khác thì không thế. Như Đức Thế Tôn đã nói: Ta không thấy sắc ái nào khiến nhiễm đắm như là sắc ái nam nữ, như là cảnh giới của năm dục. Do đó không có lỗi về ái. Dục có ba thứ: kém, vừa, hơn. Kém là dục của nam. Vừa là dục của nữ. Hơn là dục của chẳng thành nam. Đó gọi là chấp trước dục.

Hỏi: Thế nào là chấp trước hữu?

Đáp: Hữu là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Chấp trước hữu là chấp trước nơi dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Đó gọi là chấp trước hữu.

Hỏi: Như chấp trước dục đã nói riêng nơi nữ, nam, chẳng thành nam. Nay vì sao ở trong chấp trước hữu lại nói nữa?

Đáp: Chấp trước hữu là vì các chúng sinh mà nói. Chấp trước dục là vì các thứ kiết (phiền não) mà nói. Tất cả pháp của cõi Dục gọi là dục hữu. Nếu chấp trước nơi chúng, thì gọi là chấp trước dục hữu. Pháp của cõi Sắc, cõi Vô sắc gọi là sắc hữu, vô sắc hữu. Nếu chấp trước chúng thì đó là chấp trước sắc hữu, vô sắc hữu. Do đấy nên nói riêng, không lỗi.

Hỏi: Thế nào là chấp trước phạm hạnh?

Đáp: Chấp trước phạm hạnh là đã được liền chấp giữ, chưa được lìa mong cầu, nếu mất liền lo. Do nghĩa ấy nên cũng gọi là chấp trước nơi dục hữu. Đã được liền chấp giữ, chưa được liền mong cầu, nếu mất liền lo lắng. Như vậy, chấp trước dục, hữu, chấp trước phạm hạnh, mỗi thứ đều có ba, nên nói là chín.

Lại nữa, được người nữ liền tham đắm, chưa được liền mong cầu, nếu mất liền lo lắng. Như vậy, nữ, nam, chẳng thành nam nơi chấp trước dục cũng nên nói chín thứ. Như thế, chấp trước dục, chấp trước hữu, chấp trước phạm hạnh, nên nói là hai mươi bảy.

Hỏi: Chấp trước phạm hạnh có thể được như thế là phiền não chăng?

Đáp: Có. Như đã nói về quả A-na-hàm. Đức Thế Tôn cũng nói ba cầu là cầu dục, cầu hữu, cầu phạm hạnh. Cầu ái, nhiễm chấp là một nghĩa. Lại nữa, như đã nói, trong dục, phạm hạnh, lìa ái luôn nhớ nghĩ.

Hỏi: Nếu như thế thì phạm hạnh không thể hành. Vì sao? Vì có chấp trước. Như chỗ đã nói thì hết thảy phạm hạnh nên có chấp trước?

Đáp: Nên theo phương tiện hành. Hành phạm hạnh nhưng không chấp trước phạm hạnh. Do lìa tội phước nên hành đạo không cầu quả. Người cầu quả gọi là chấp ngã. Do giới nầy, do khổ hạnh nầy, do phạm hạnh nầy, nên được sinh lên cõi trời cùng cõi khác. Như thế là hành chấp trước, nhiễm ô, cầu mong vào lúc nào ta sẽ được phạm hạnh, khiến ta được sinh trong nẻo thiện? Nếu chấp trước phạm hạnh để được an vui của đời sau, là đã nắm giữ ái lạc, tạo phi phạm hạnh, sinh hối tiếc, khiến thối chuyển, gọi là lo lắng. Như thế là chấp trước phạm hạnh.

Hỏi: Thế nào là Giận dữ?

Đáp: Đời là đã có thân, oán, đã có phẫn nộ. Thân, oán, phẫn nộ là ba thứ giận dữ.

Hỏi: Thế nào là nơi xứ ái nói về giận dữ?

Đáp: Giận là cầu ác, cầu không ái, là đã có, nên trong bốn môn hành thân, oán cũng hành trong bốn môn.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Vì mình, vì người thân, chưa được an vui thì mong cầu, đã được thì khiến không mất. Đã bị khổ thì muốn xả bỏ, chưa bị thì không muốn khiến cho bị. Như vậy, mình và người khác, trái với bốn thứ là oán. Chưa bị khổ, muốn khiến cho bị. Đã bị rồi muốn khiến không bỏ. Chưa được vui thì muốn khiến không được. Đã được rồi thì muốn khiến mau chóng mất. Đó gọi là vì oán nên cầu ác, là giận dữ. Do đó, nơi xứ ái nói giận dữ không lỗi.

Hỏi: Thế nào là nhân đấy vì mình?

Đáp: Nhân đấy vì mình là ba thời cầu không lợi. Ba thời là quá khứ, hiện tại, vị lai, như đã nói. Kẻ kia vì ta đã cầu không lợi, sẽ cầu không lợi, nay cầu không lợi, nên sinh giận dữ. Đó gọi là nhân đấy vì mình, ba thời cầu không lợi, sinh giận dữ.

Hỏi: Thế nào là thân?

Đáp: Thân cũng như thế. Như vì mình, ba thời cầu không lợi, sinh giận. Như vậy là vì người thân, ba thời cầu không lợi, sinh giận.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Như đã nói, nếu ta thân ái với kẻ kia, vì đấy đã cầu không lợi, sẽ cầu không lợi, nay cầu không lợi, sinh giận. Đó gọi là thân.

Hỏi: Thế nào là oán?

Đáp: Oán là cùng trái nhau. Cùng trái nhau với điều kia nên khác. Như ta oán kẻ ấy, vì đấy đã cầu lợi, sẽ cầu lợi, nay cầu lợi, sinh giận dữ. Như thế là vì oán, cầu lợi nơi ba thời, sinh giận. Đó gọi là chín thứ giận dữ.

Hỏi: Giận nầy và giận trong ba hành ác có sai biệt gì?

Đáp: Ở đây là dựa vào phương tiện sinh. Còn giận nơi hành ác, nên biết là từ không có trí nên giận dữ.

Hỏi: Nơi tất cả chúng sinh, chín thứ giận là như nhau chăng?

Đáp: Loại trụ nầy như vẽ nơi nước, đất, đá. Giận ấy tùy theo chúng sinh, nên biết như vẽ nơi nước, đất, đá. Chúng sinh với từng ấy loại, nên biết giận dữ có hạ, trung, thượng. Như vẽ trên nước tức thì mất ngay, vẽ trên đất thì thời gian kéo dài hơn, nếu bị mưa gió, cùng chân giẫm đạp lên thì mới mất. Vẽ trên đá thì cho đến trụ đá không còn đá mới mất. Như thế, chúng sinh đều mang giữ giận không đồng. Hoặc lúc mới sinh giận liền tự trách: Ta không đúng! Chúng sinh là pháp tự nhiên diệt, vô lượng khổ bức bách tự chúng sẽ diệt. Ta không có tội, không có ý ác, hủy hoại kẻ khác. Như thế là giận dữ kia tự nhiên dứt, như vẽ trên nước.

Hoặc lại khởi giận dữ không thể tự kìm chế, nếu có thầy, bạn lành từ bi quở trách thì mới dứt được, như vẽ trên đất. Hoặc lại có ý ác, không suy xét đúng đắn, sinh giận dữ, Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn cũng không thể làm cho dứt, chỉ cùng với thân cùng diệt, như vẽ trên đá. Đó gọi là giận dữ.

Hỏi: Thế nào là Ganh ghét (Mạn)?

Đáp: Mạn là ý dấy khởi kém, ngang, hơn, do đấy để dựa cậy nên gọi là mạn.

Lại nữa, nêu tính về đây kia nên gọi là mạn. Là ba thứ ý khởi ta là kém, ý khởi ta là ngang bằng, ý khởi tà là hơn.

Nếu có sắc, giàu sang, tộc họ noi theo, ta không như kẻ kia, nên gọi là ý khởi ta kém. Hoặc có sắc, giàu sang, tộc họ noi theo, ta cùng với kẻ kia bằng nhau, nên gọi là ý khởi ta ngang bằng. Hoặc có sắc, giàu sang, tộc họ đông đảo, ta đối với kẻ kia là hơn, nên gọi là ý khởi ta hơn.

Hỏi: Đã nói về tướng của mạn như: kém (ty), bằng (đẳng), hơn (thắng), làm sao nhận biết đấy là chân độ, phân biệt tất cả mạn? Mạn có vô số thứ như trong phần thô tạp đã nói?

Đáp: Thấp kém (ty) là tà, bất như, cực hạ mạn. Ty mạn là ba thứ: tà mạn (vọng ngữ), bất như mạn (khinh chê) và cực hạ mạn (mạn đãi).

Tà mạn (vọng ngữ): Là ta tạo nghiệp cực ác, lại khởi ý cao ngạo.

Bất như mạn (khinh chê): Là thọ nhận sự khen ngợi tán dương của kẻ khác, nói: Lành thay! Ông có đức lớn! Nghe rồi trong lòng hoan hỷ, nói: Ta vì sao không được như thế!

Cực hạ mạn (mạn đãi): Là biếng nhác, ngày đêm ham ngủ nghỉ, dấy khởi niệm nầy: Con người không thể hướng tới nẻo thù thắng.

Đó là ba thứ ty mạn.

Hỏi: Thế nào là đẳng mạn?

Đáp: Đẳng mạn là ngã (ngã), cống cao (kiêu), bất kính (bất kính) mạn. Đẳng mạn là ba thứ: ngã mạn, cống cao mạn, bất kính mạn.

Ngã mạn: Là chấp năm ấm là ngã, đã ở trong ác cho là công đức.

Cống cao mạn: Là thọ nhận sự cung phụng của kẻ khác.

Bất kính mạn: Là không tôn kính các bậc sư trưởng.

Đó gọi là ba thứ đẳng mạn.

Hỏi: Thế nào là thượng (tăng thượng) mạn?

Đáp: Thượng mạn là: Đại mạn, mạn đại mạn và tăng thượng mạn.

Đại (thậm) mạn: Là đối với chỗ kém và bằng, cho ta là hơn, sinh kiêu mạn.

Mạn đại mạn (mạn trong mạn): Là đối với kẻ hơn, cho ta là hơn, sinh kiêu mạn.

Tăng thượng (vô hạn) mạn: Là đối với việc chưa được quả thù thắng (chưa được giải thoát), cho là được, sinh kiêu mạn.

Đó gọi là ba thứ thượng mạn. Tất cả mạn ấy từ nơi ái lạc, lo sợ sinh, do đấy nói ở nơi xứ ái.

Phần thứ hai của phẩm Ác nơi ba Pháp độ đã nói xong.

 

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 6

Hỏi: Đã nói về Ái, còn thế nào là Vô minh?

Đáp: Vô minh là Phi trí (Vô trí), Tà trí (Tà trí), Hoặc trí (Nghi trí), ba thứ ấy là vô minh. Vô minh là giả danh của si, là phân biệt về chữ, nói kẻ kia hủy báng để lập tên gọi. Như người có con ác gọi là không con, bạn ác gọi là không bạn. Như thế, vô minh nầy là minh ác nên gọi là vô minh.

Hỏi: Điều ấy là thế nào?

Đáp: Phi trí (Vô trí) là hữu vi – vô vi, không thể nói, không biết. Hữu vi – vô vi, không thể nói, không biết là ba thứ phi trí.

Hỏi: Hai thứ hữu vi là thọ (nội thọ) cùng không thọ (ngoại thọ). Ở đây làm thế nào để nhận rõ?

Đáp: Hữu vi là thọ, không thọ – cùng thọ. Nếu là phi trí, nên biết là thọ si, không thọ si – cùng si. Ở đây, thọ là hai thứ tự thọ, tha thọ của ấm, giới, nhập (xứ). Không thọ (ngoại thọ) là so sánh với cây cỏ tường vách. Ở đây hoặc tha thọ, hoặc không thọ, nên biết là không thọ, trong ấy, mỗi mỗi đều bị si ám. Đó gọi là phi trí. Như Đức Thế Tôn nói: Sáu cánh nhập, phi trí không thấy biết. Như thế quảng diễn như kinh đã nói. Thọ gọi là nghĩa nhận lấy. Nhân nơi nghiệp (hành), phiền não (kiết) ý si chấp ngã là ngã sở. Đó gọi là thọ.

Hỏi: Vô vi là Niết-bàn, là một, vì sao nói ba?

Đáp: Vô vi là hữu dư, vô dư, cùng có. Tuy Niết-bànmột vô vi, nhưng là sự nên nói hai thứ là hữu dư và vô dư.

Hữu dư là thân đã thọ nhận nghiệp và phiền não. Vị ấy đoạn trừ hết tất cả phiền não, tác chứng rồi, nên là hữu dư, là nói về hữu dư.

Vô dư là nếu thọ ấm nầy xả bỏ, lại không thọ thân nữa, như đèn tắt, là Niết-bàn. Đây gọi là vô dư, trong đó mỗi mỗi thứ cùng diệt, là vô vi - không biết.

Hỏi: Thế nào là không thể nói?

Đáp: Không thể nói là: Thọ nhận nêu bày (dạy trao), quá khứ nêu bày và diệt nêu bày. Nếu không biết, đó gọi là không thể nói, không biết.

Thọ nhận nêu bày (dạy trao): Là chúng sinh đã thọ nhận ấm, giới, nhập, chấp là một, là khác.

Quá khứ nêu bày: Là nhân nơi ấm, giới, nhập của quá khứ mà nói. Như đã nói: Ta nơi bấy giờ gọi là Cù-tuần-đà.

Diệt nêu bày: Là nếu đã diệt, là nhân nơi thọ mà nói. Như đã nói: Đức Thế Tôn Bát-Niết-bàn.

Lại nữa, quá khứ nêu bày: Là chế phục chúng sinh chấp đoạn. Diệt nêu bày là chế phục chấp thường. thọ nhận nêu bày là chế phục về vô. Không thọ nêu bày là chế phục về hữu. Trong ấy, mỗi mỗi đều không biết, đó gọi là không thể nói, không trí.

Hỏi: Đã nói về Phi trí (Vô trí), còn thế nào là Tà trí (Tà trí)?

Đáp: Tà trí là: Thân kiến (kỷ thân kiến), biên kiến (nội thọ kiến), trộm kiến (mạc thọ kiến). Ba thứ ấy là tà trí. Tà là điên đảo, là không phải như, là chẳng chân thật, đồng một nghĩa.

Thân kiến (kỷ thân kiến): Là ngã (ngô), ngã ấy (ngã), tự tại (tự tại). Tức ngã tất như thế, ngã ấy tất như thế, tự tại tất như thế, là thân kiến.

Ngã tất như thế: Tức ấm là huyễn hóa, như dợn nắng, như tiếng vang, như bóng trăng trong nước. Hình tướng giống năm ấm nên chấp trước là ngã.

Ngã ấy tất như thế: Là như giả mượn chuỗi anh lạc, cây trái tích tụ, tương tợ như năm ấm, chấp là sở hữu của ngã.

Tự tại tất như thế: Là thân cây chuối, các thứ bọt bóng nước, giống như cảnh giới của năm dục, chấp là tự tại, như làng xóm trống vắng. Thân kiến là kiến chấp về sở hữu của ngã nơi thân. Như vậy gọi là ba thứ thân kiến.

Hỏi: Thế nào là biên kiến (nội thọ kiến)?

Đáp: Biên kiến là: đoạn, thường, cùng. Đoạn, thường, cùng, đó là ba thứ biên kiến thọ nhận. Biên là không do đạo lý, là kiến chấp một bên.

Ở đây, đoạn, thườngthế gian hữu thường, vô thường, phi hữu thường phi vô thường. Thế gian là hữu biên, vô biên, phi hữu biên phi vô biên. Chúng sinh là hữu chung, vô chung, phi hữu chung phi vô chung. Là thân, là mạng, so sánh như thế.

Cùng là cùng hữu thường, vô thường, hữu biên, vô biên, hữu chung, vô chung, so sánh như thế. Đó gọi là ba thứ biên kiến.

Hỏi: Thế nào là trộm kiến (mạc thọ kiến)?

Đáp: Trộm kiến là giới, kiến, nương dựa. Trộm kiến nầy từ trong ba thứ sinh: Một là giới. Hai là kiến. Ba là nương dựa. Trong trộm kiến ấy, giới thì nơi phẩm thứ nhất đã nói. Do giới nầy được thanh tịnh, nên cùng thọ giới. Đấy gọi là hai thứ giới trộm. Đây là chân thật, thứ khác là hư, không phải thật. Đó gọi là kiến trộm. Chấp là chân thật như thế, cũng là nói về trộm kiến.

Thân trói buộc, nương dựa vào đấy, tức nếu dựa vào giới cùng kiến là năm ấm. Do đấy, nên hoặc giới hoặc kiến, chấp là năm ấm tịnh. Nên biết, giới trộm chấp năm ấm là bậc nhất, không phải là thứ khác. Nên biết kiến trộm là dựa vào đấy. Đó gọi là ba thứ trộm kiến.

Hỏi: Thế nào là Hoặc trí (Nghi trí)?

Đáp: Hoặc trí là bảo (trân bảo), đế (đế), trong định (chánh thọ) không nhận biết rõ. Tức bảo không nhận biết rõ, đế không nhận biết rõ, trong định không nhận biết rõ. Không nhận biết rõ là không quyết đoán nơi nghi, đồng một nghĩa với do dự.

Hỏi: Thế nào là bảo?

Đáp: Bảo là Phật Pháp Tăng. Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, nên biết là Tam bảo. Phật là Nhất thiết trí, thành tựu tất cả công đức, lìa hết thảy ác.

Hỏi: Phật do những gì gọi là bảo?

Đáp: Do ba thứ công đức trên.

Lại nữa, do đại từ đại bi, do thuyết pháp chân thật, do vô sự thân, do làm bậc thiện tri thức, do khó xuất hiệnđời, như hoa Ưu-đàm. Như thế, do thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, nên nói là bảo (báu).

Pháp là phương tiện cùng quả của phương tiện, trong ấy chỉ nói về Niết-bàn, là Pháp bảo. Phật ấy, ở trên tất cả pháp, như kinh đã nói. Nếu có pháp hữu vi và vô vi, thì Niết-bàn vô vi kia là bậc nhất. Bảo nầy không bị hủy hoại, diệt trừ hết các khổ, an vui hoàn toàn, khó đạt được, không thể cùng tận. So sánh như thế nên gọi là bảo.

Tăng là, trong phần Thanh-văn ở trước đã nói, là bảo, do phước đức rộng lớn, không trái với giáo pháp của Đức Thế Tôn, là phước điền vô thượng, được Đức Thế Tôn khen ngợi, không bị hủy hoại, luôn hòa hợp không tranh chấp. So sánh như thế về vô lượng công đức được thành tựu, nên gọi là bảo.

Hỏi: Thế nào là đế?

Đáp: Đế là đẳng đế (tục số đế), tướng đế (tướng đế) và đệ nhất nghĩa đế (đệ nhất nghĩa đế). Đó là ba thứ đế. Đế là đế thật có, đế chân, đế chẳng hư, đế như như, nên nói là đế.

Đẳng đế (tục số đế): Là phương tục được nêu lên, tộc họ được nêu lên, học xứ được nêu lên. Đó gọi là ba thứ đẳng đế.

Phương tục được nêu lên: Là nghĩa tất như thế, sự việc nầy đã được chấp nhận. sự việc kia, tên gọi kia, như nước đầy dẫy, chảy tràn trề. So sánh như thế, về chỗ được nêu lên như thế, đó gọi là đẳng đế.

Tộc họ được nêu lên: Là gia pháp của mình.

Học xứ được nêu lên: Là do oai nghi, phép tắc làm hành, cùng suy xét, lãnh hội kinh.

Hỏi: Thế nào là tướng đế?

Đáp: Tướng đế là: Khổ đế, tập đế, đạo đế, đó là ba tướng đế. Do đế cùng quán nên là tướng. Tướng của đế là nói về sinh, lão, vô thường. Tướng là nói về cờ hiệu. Trong đó, tướng bức bách là khổ đế. Tướng chuyển thành là tập đế. Tướng xuất yếu là đạo đế. Diệt là vô tướng, ở đây sẽ nói riêng.

Hỏi: Thế nào là đệ nhất nghĩa đế?

Đáp: Là tạo, chữ, niệm, dừng dứt rốt ráo, đó gọi là đệ nhất nghĩa đế.

Tạo là thân nghiệp. Chữ là khẩu nghiệp. Niệm là ý nghiệp. Nếu ba thứ ấy đạt đến vắng lặng hoàn toàn, đó gọi là đệ nhất nghĩa đế, là nghĩa Niết-bàn.

Hỏi: Đã nói về đế, còn định là thế nào?

Đáp: Định là: Định sắc, định vô sắc và định vô lậu. Đó gọi là định.

Định nghĩatâm hành định. Ở đây, định sắc là vô lượng trừ nhập của thiền cõi Sắc, là giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba cùng nhập thứ nhất nơi tất cả pháp.

Định vô sắc: Là bốn vô sắc, hai nhập nơi tất cả nhập.

Định vô lậu: Là không, vô nguyện, vô tưởng.

Thiền vô lậu là vô lậu. Định vô sắc là vô lậu.

Năm tưởng trước cùng định đoạn cõi, tất cả các thứ ấy đều không quyết đoán về nghi hoặc, đều do dự, đó gọi là hoặc trí (nghi trí). Đây cũng là hoặc của khổ phi khổ, tập diệt đạo phi đạo. Bốn đế như thế, nơi ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc là mười hai thứ. Đối với hoặc trí nầy, như nơi xứ ái đã nói. Nơi xứ vô trí cũng nói về tà trí, tà kiến. Trong hành ác của ý ở trước đã nói.

Lại nữa, ái cũng do tư duy đoạn.

Như thế là đã phân biệt nói về chín mươi tám sử.

Phần thứ ba của phẩm Ác nơi ba Pháp độ đã nói xong.

 

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 7

Hỏi: Đã nói về Công đức, Ác. Vậy thế nào là Nương dựa?

Đáp: Nương dựa là Ấm, Giới, Nhập (Xứ). Ấm, Giới, Nhập, ba thứ nầy là Nương dựa. Do có thể nương dựa nên gọi là nương dựa.

Có thể nương dựa: Là nghĩa an lập. Chúng sinh ở nơi ấm, giới, nhập tạo sự nương dựa cho hành công đức và ác. Do đó nên biết đây là chỗ dựa của đức, ác.

Hỏi: Thế nào là Ấm?

Đáp: Ấm là Sắc, Hành, Tri (Trí). Sắc, hành, tri, ba thứ nầy nên biết là ấm. Ấm đồng một nghĩa với tích tụ, bó buộc. Ở đây, các sắc hình xanh, vàng, đỏ, trắng, thô tế, dài ngắn, vuông tròn được so sánh, nên biết gồm chung là sắc ấm. Trong đó, sắc là bốn đại cùng các thứ do bốn đại tạo ra, có thể thấy, không thể thấy, là nói về sắc ấm. Bốn đại và sắc được tạo, hai thứ nầy có thể thấy cùng không thể thấy. Có thể thấy là đối tượng được nhận thấy của mắt. Không thể thấy là thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc) nơi mắt tai mũi lưỡi, thân và bốn đại.

Hỏi: Đã nói về Sắc là bốn đại cùng các thứ do bốn đại tạo ra. Vậy thế nào là bốn đại?

Đáp: Bốn đại là đất, nước, lửa, gió (địa, thủy, hỏa, phong). Đất, nước, lửa, gió ấy giả gọi là bốn đại, là sắc nơi mỗi mỗi thứ cùng hợp.

Ở đây, tướng cứng chắc là đất. Tướng ẩm ướt là nước. Tướng nóng là lửa. Tướng động là gió.

Sắc được tạo là: Khói, mây, sương mù, bóng tối, sáng, ánh sáng mặt trời, năm sắc, năm căn.

Hỏi: Đã nói về Sắc ấm. Thế nào là Hành?

Đáp: Hành là dựa nơi thân miệng tâm (ý). Ở đây, dựa nơi thân nên nói là nương thân. Dựa nơi miệng nên nói là nương miệng. Dựa nơi tâm (ý) nên nói là nương tâm. Nương vào thân miệng tâm để tạo hành, tạo hành hữu vi, nên gọi là hành. Như nơi Khế kinh nói: Sắc là hành hữu vi. Chúng lại tạo tiếp, như con lại sinh con. Như sắc, nên biết năm ấm cũng như thế. Vô lượng thứ ấy được kết hợp tạo tác, đó gọi là năm ấm, như lúa thóc, củi được tích tụ. Hành là phước (phước), phi phước (vô phước), bất động (không thuần thục), ba thứ ấy là nói về hành.

Hỏi: Thế nào là Tri (Trí)?

Đáp: Tri là thống (thọ), tưởng, thức. Ba thứ ấy là tri, cũng gọi là đạo pháp, do đạo không cùng lìa. Như Đức Thế Tôn nói: Như thọ tức là tri.

Hỏi: Thế nào là thống (thọ)?

Đáp: Thọ là lạc thọ, khổ thọ và thọ không khổ không lạc. Tánh của thọ nói về thọ. Thọ không có nguyên do để được thọ nhận. Thọ tức là có thể thọ nhận, nên tức là mạng sống, song thọ không phải là mạng sống nên tánh của thọ là thọ. Là phân biệt về chữ, nên nói thọ nầy có ba: lạc thọ, khổ thọ và thọ không khổ không lạc. Mỗi mỗi thứ cùng duyên với nhau. Duyên nơi lạc thọ có khổ thọ. Duyên nơi khổ thọ có lạc thọ. Duyên nơi cả hai có không khổ không lạc thọ. Như Đức Thế Tôn nói: Lạc thọ cùng với khổ thọ đối nhau. Khổ thọ cùng với lạc thọ đối nhau. Lạc, khổ thọ cùng với không khổ không lạc thọ đối nhau. Đối là nghĩa oán đối.

Hỏi: Thế nào là lạc thọ?

Hỏi: Lạc thọ là: Dục (dâm), chẳng ác (chẳng ác), không chấp trước (chỉ) sinh. Lạc thọ có ba thứ: Là từ dục sinh, từ chẳng ác sinh, từ không chấp trước sinh.

Từ dục sinh: Là hành năm dục, được nhiều vui thích.

Từ chẳng ác sinh: Là chẳng ác, tức chẳng tăng thêm ác, là hành thiện nơi giới không dục. Đối với giới, ý không hối, do đấy nên vui vẻ.

Từ không chấp trước sinh: Là chế ngự các căn, lìa năm dục, ý không loạn lúc hành Thiền, vô lượng, được an vui. Không chấp trước gọi là không vướng mắc. Đối với nghĩa của căn cũng lại nói là không nhiễm. Đó là nói về ba thứ lạc thọ.

Hỏi: Thế nào là khổ thọ?

Đáp: Khổ thọ là sinh, già, chết. Đó là ba thứ khổ thọ. Ở đây, sinh khổ như sinh ung nhọt. Già khổ như ung nhọt mới phát. Chết khổ như ung nhọt đã phát, vào sâu trong đốt xương. Lại nữa, sinh nên có tất cả khổ, nên gọi là sinh khổ. Như Đức Thế Tôn nói: Sinh nên có tay chân bị cắt đứt. So sánh như thế. Già khổ là sắc lực tráng kiện đã bị hoại. Chết khổ là ái cùng biệt ly. Đó gọi là khổ thọ.

Hỏi: Thế nào là thọ không khổ không lạc?

Đáp: Không khổ không lạc là ba cõi. Nếu không khổ không lạc nên biết là ba cõi. Ba cõi nầy phần sau sẽ nói. Nếu cho không khổ không lạc là ba cõi, tức đã gồm thâu cả phần trước nói về khổ, lạc, nên biết không phải do lạc, khổ nơi ba cõi. Cõi Dục có đủ ba thọ. Cõi Sắc có hai thọ là lạc thọ và thọ không khổ không lạc. Cõi Vô sắc chỉ có một thọ là thọ không khổ không lạc, do đó, không khổ không lạc nên biết là ba cõi.

Hỏi: Thọ nầy làm chỗ dựa cho những gì?

Đáp: Lạc là chỗ dựa của đa dục. Khổ là chỗ dựa của nhiều giận dữ. Không khổ không lạc là chỗ dựa của nhiều si mê. Vì sao? Vì có lạc thọ không dục, có thể trừ bỏ dục, như trong ba thiền. Có khổ thọ không giận, như Đức Thế Tôn bị đau đầu, cùng bị thương ở gót chân, đều không khởi giận. Không khổ không lạc nhận biết thiền thứ tư, cùng bốn định vô sắc, trong ấy không si, có thể trừ bỏ si. Như thế tùy nghĩa, có thể được nêu bày.

Hỏi: Chúng từ những gì sinh?

Đáp: Chúng từ nghiệp, từ sự bức bách, từ cõi sinh. Ba thứ thọ ấy nên biết là từ nghiệp (hành) sinh, từ sự bức bách (nhân duyên) sinh, từ cõi (cõi) sinh, không phải là tự nhiên, không phải là ngẫu nhiên.

Hỏi: Nghiệp có vô lượng thứ, ở đây là nói về nghiệp nào?

Đáp: Từ nghiệp sinh là từ phước, phi phước (vô phước), bất động (vô dư). Lạc thọ, khổ thọ, thọ không khổ không lạc nầy từ trong ba nghiệp phước, phi phước, bất động sinh. Như nghĩa, lạc thọ từ phước sinh, khổ thọ từ tội sinh, thọ không khổ không lạc từ bất động sinh. Ở đây, phước là có thể trừ hành ác, là bốn thiền đứng đầu. Phi phước là hành ác. Bất động là thiền thứ tư cùng vô sắc.

Hỏi: Như trước đã nói, Phước là Thí, Giới, Tu (Phân biệt). Tu tức là thiền, vô lượng và vô sắc. Nay vì sao nói riêng lạc thọ từ phước sinh?

Đáp: Nói riêng không lỗi. Do có rất nhiều tích tụ, nên ở đây đã nói riêng. Thiền như đã nói. So với ba y của Tỳ-kheo là khác, so với Phật hộ bát, không thể cho là Phật hộ, cũng là Tỳ-kheo, nên trao cho ba y, bát. Nhưng Tỳ-kheo khác với Phật hộ, nên trao y cho Tỳ-kheo kia. Như vậy, tu là thiền, vô lượng, vô sắc. Phước là ba thiền. Nếu không phân biệt ba thiền, thì đối với tu phải có lỗi, vì có rất nhiều tích tụ.

Hỏi: Thế nào là từ bức bách sinh?

Đáp: Từ bức bách sinh là: Mình, người, cùng bức bách sinh ba thứ thọ. Tức là vì mình, vì người, vì cùng cả hai. Bức bách là hai thứ, là lạc là khổ. Ở đây, vì mình: Là như dùng dao tự đâm, hoặc về sau dùng Chiên-đàn, thuốc bôi vào chỗ bị đâm.

người: Như đánh vỡ đầu kẻ khác, lại dùng thuốc để điều trị.

Vì cùng cả hai: Như nói với người khiến đánh vỡ đầu mình, rồi lại dùng thuốc đắp vào. Như thế đều nên biết, đó gọi là từ bức bách sinh khổ.

Hỏi: Thế nào là từ cõi sinh?

Đáp: Từ cõi sinh là: Thời (thời), ác (hoạn), hoạn (vừa gặp).

Hỏi: Cõi, như đã nói về ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Ở đây tức là các cõi ấy chăng?

Đáp: Ở đây, không phải là cõi như thế. Tách rời chúng sinh là ba thứ tưởng: Thời, ác, hoạn. Cõi ở đây là giả tưởng. Trong đó, thời (thời) là các mùa hạ, đông, xuân, nên biết ba mùa nầy là thời. Mùa hạ thì đàm tăng nhiều. Mùa đông thì nước dãi nước miếng tăng nhiều. Mùa xuân thì phong tăng trưởng. Như y thuật đã nói về thời, nên có khổ, lạc thọ. Đó gọi là ba thời.

Hỏi: Thế nào là ác (hoạn)? Là hành ác, tức ái, vô minh chăng?

Đáp: Không hủy hoại pháp thân. Ở đây nói là hủy hoại thân bốn đại.

Hỏi: Vậy thế nào là ác?

Đáp: Ác là phong, đàm, nước dãi, các thứ nầy hủy hoại thân bốn đại, do đấy nên sinh thọ.

Hỏi: Thế nào là hoạn (vừa gặp)?

Đáp: Hoạn là chúng sinh nhân nơi đấy để lìa các thứ tai họa. Hoặc chúng sinh nhân nơi đấy để lìa sinh khổ, là nhân nơi các thứ như tường vách, núi rừng, hang núi.

Nhân là nhân nơi mình, người, cả hai. Đó gọi là thọ.

Hỏi: Thế nào là tưởng?

Đáp: Tưởng là có tưởng, không tưởng, không chỗ tưởng nơi quán sai biệt. Tưởng là nói về việc thọ nhận hình tướng sai biệt. Ở đây, có tưởng, không tưởng, không chỗ tưởng, quán sai biệt là đồng một nghĩa. Trong đó, có tưởng là cùng nương dựa. Không tưởng là không cùng nương dựa. Như có rất nhiều bình. Hoặc có người nói là bình mật, bình tô, do tưởng ấy nên tưởng. Hoặc không mật, không tô, là không thọ nhận, là tưởng không. Như thế, tưởng âm thanh, so sánh thọ nhận có sai biệt. Hoặc loại bỏ âm thanh, so sánh thọ nhận như thế.

Không chỗ tưởng: Đây là không có thực, tức xả.

Lại, có tưởng là quán xứ Thiện thức. Không tưởng là quán xứ Phi tưởng phi phi tưởng. Không chỗ tưởng là quán xứ Vô sở hữu.

Hỏi: Thế nào là thức?

Đáp: Thức là sinh, thành, không thành nhập (khởi, thành, không thành môn). Hành, danh sắc cùng dựa duyên, có thể đạt được. Là ba thứ sinh nhập, thành nhập, không thành nhập. Dựa nơi hành, dựa nơi danh sắc, dựa nơi hai thứ duyên có thể đạt được, là ba thứ. Đức Thế Tôn, trong mười hai duyên khởi nói hành duyên nơi thức. Lại nói danh sắc duyên nơi thức. Lại nói mắt, sắc duyên sinh nhãn thức. Ở đây, vô số hành tạo sinh, lúc nhập nơi thai mẹ, cùng sinh thức. Đó gọi là hành duyên sinh thức. Tức ở trong thai mẹ dày lớn dần thành các nhập. Đã sinh thức là danh sắc duyên thức.

Lại nữa, thành nhập là tranh, không tranh nhập, định không nhập định. duyên nơi căn cùng nghĩa của căn, sinh thức, là dựa nơi hai duyên. Duyên là nương dựa. không thể không nương dựa mà sinh thức. Đó gọi là cùng nương dựa, duyên, có thể đạt được.

Hỏi: Như trước đã nói về giới (giới), định (dứt), trí (trí). Vì sao lại nói lần nữa nơi thức?

Đáp: Dựa nơi trí cùng chỗ dựa là hai thứ. Đây là dựa, kia là chỗ dựa. Lại nữa, như nói hai thứ giới, như vậy trong đây cũng nói hai thứ không lỗi.

Phần thứ nhất của phẩm Nương Dựa nơi ba Pháp độ đã nói xong.

 

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 8

Hỏi: Đã nói về Ấm. Thế nào là Giới?

Đáp: Giới là: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, ba thứ ấy là giới. Duy trì nghiệp (hành) ấy, nên gọi là giới. Ở đây, trụ nghiệp nên gọi là giới, là gồm thâu tất cả chúng sinh, đến Bát-Niết-bàn vô dư.

Hỏi: Thế nào là Dục giới?

Đáp: Dục giới là: người, trời, nẻo ác (thú). Đây là lược nói về Dục giới. Ở đây, trụ nơi dục nên gọi là dục giới. Giữ lấy dục nên gọi là Dục giới.

Hỏi: Thế nào là người?

Đáp: Người là nam, nữ, mạng căn đã quán về tướng. Dựa nơi bốn châu (bốn phương), nam căn đã quán về tướng, nữ căn đã quán về tướng, mạng căn đã quán về tướng. Nên biết tất cả đây là người, tất cả cùng dựa nơi bốn châu, trong đó, tướng nữ gọi là nữ, tướng nam gọi là nam.

Hỏi: Mạng căn đã quán về tướng, không phải là nam nữ? Do đấy mạng căn được nói riêng chăng?

Đáp: Tuy có nam, nữ, mạng căn đã quán về tướng, nhưng ở đây nói có sai biệt. Không thành nam là không ở nơi căn nam, nữ. Trong tướng đã quán, chỉ có mạng căn. Tướng đã quán trụ nơi màng mỏng dần dần dày thêm là có mạng căn, nhưng căn nam, nữ chưa thành. Đó gọi là sai biệt.

Hỏi: Thế nào là bốn châu (phương)?

Đáp: Bốn châu là: Diêm-phù-đề (Diêm-phù-đề), Phất-vu-đãi (Phất-bà-tỳ-đề), Cù-da-ni (Cù-đà-ni), Uất-đơn-việt (Uất-đát).

Trong đó Diêm-phù-đề đã quán về tướng, nên gọi là Diêm-phù-đề. Tùy theo tướng đã quán của các phương mà nói về ba châu kia. Thọ mạng của các châu tùy theo số lượng, các vật dụng tạo an vui có sai biệt, có giới hạn, lần lượt có hơn.

Hỏi: Trời, gọi chung là hai loại trời: dục sinh (hành dâm) và lìa dục (khí kiết). Ở đây là nói về trời nào?

Đáp: Trời là: Tế hoạt (xúc). Thuyết (nói). Thị (nhìn).

Nếu nói dục sinh, nên biết là không nói về lìa dục. Trời do dục sinh là ba thứ: xúc dục sinh, nói dục sinh và nhìn dục sinh.

Nói dục sinh (khẩu nghĩa dâm hành): Là trời Hóa-lạc. Cõi ấy, nếu tâm nhiễm ô, là tâm nhiễm ô với thiên nữ cùng nói năng, bấy giờ liền thành dục. Nếu chỉ một ý nhiễm ô thì không thành dục, chỉ là hoan lạc. Như người ở cõi nầy, lúc nắm bắt nhau, vui thích, cõi trời kia cũng thế. Ý không nhiễm ô như mẹ, con gái. Tạo tác, biến hóa cảnh giới đẹp đẽ, vui thích nơi dục, nên gọi là trời Hóa-lạc.

Nhìn sinh dục (kiến dâm hành): Là cõi trời Tha-hóa-tự-tại (Tha-hóa-tự-do). Nơi cõi ấy, nếu cùng với thiên nữ, mỗi mỗi đều nhiễm vướng khi cùng nhìn nhau, bấy giờ liền thành dục. Nếu chỉ một ý nhiễm ô thì không thành dục, chỉ là hoan lạc, như người nơi thế gian nầy lúc ôm nhau sinh vui thích. Ý không nhiễm ô như thấy kẻ khác. Chỗ hóa hiện của kẻ khác được tự tại nên gọi là Tha-hóa-tự-tại.

Hỏi: Đã nói về trời nhìn dục sinh. Thế nào là trời xúc dục sinh (chấp thủ dâm hành)?

Đáp: Xúc dục sinh là cả hai bên cùng nắm tay, ôm nhau. Trời xúc dục sinh có ba thứ:

1. Cả hai bên dục sinh.

2. Ôm nhau dục sinh.

3. Nắm tay dục sinh.

Ở đây, cả hai bên dục sinh phần sau sẽ nói.

Ôm nhau dục sinh: Là cõi trời Diệm-ma (Đời Tấn dịch là Thời Phần thiên). Nơi cõi ấy, mỗi mỗi sự việc đều có ý nhiễm vướng. Hoặc lúc ôm nhau liền thành dục. Nếu chỉ một bên nhiễm vướng thì không thành dục, chỉ là vui thích, như người ở nơi thế gian nầy cùng ôm nhau, sinh vui thú. Ý không nhiễm vướng thì xem như kẻ khác. Hàng đêm thường hoan hỷ nói về lạc nên gọi là Diệm-ma.

Hỏi: Thế nào là cầm nắm tay dục sinh?

Đáp: Cầm nắm tay dục sinh là cõi trời Đâu-suất-đà (Đời Tấn dịch là trời Tri Túc). Nếu cùng với thiên nữ, mỗi mỗi việc ý đều nhiễm ô, thì lúc nắm tay, bấy giờ liền thành dục. Còn như chỉ một bên nhiễm vướng thì không thành dục, chỉ là vui vẻ, như ở thế gian lúc ôm nhau sinh vui. Ý không nhiễm vướng thì xem như người khác. Tự biết đủ về cảnh giới hiện có, nên gọi là Đâu-suất-đà.

Hỏi: Thế nào là cả hai bên dục sinh?

Đáp: Cả hai bên dục sinh là trời Ba Mươi Ba Tứ Vương Địa (Trời Ba Mươi Ba Đại Vương Địa). Hai bên cùng khởi sự, nên gọi là cả hai bên dục sinh. Hết thảy sự dục của cõi nầy như trước đã nêu đủ, chỉ nên phân biệt, nên nói là trời cả hai bên dục sinh. Như ngườithế gian nầy, chư Thiên cõi trời Ba Mươi Ba cư trú tại đỉnh núi Tu-di, hành dục như con người. Trong xứ của Tứ vương là địa thiên, thì cư ngụ dựa vào khoảng đất đai, cây cối, núi non, yêu thích cảnh giới dục lạc. Tất cả các thứ ấy gọi là trời hành dục, như nơi nhân gian, nhưng không có bất tịnh, dù có khí chất. Cư trú lên cao càng chuyển tăng. Đó gọi là trời Dục giới.

Hỏi: Thế nào là nẻo ác?

Đáp: Nẻo ác là: địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Ba thứ ấy là nẻo ác. Nẻo nầy là ác nên gọi là nẻo ác. Ác là không đáng yêu thích.

Hỏi: Thế nào là địa ngục?

Đáp: Địa ngục là các địa ngục Lạnh, địa ngục Nóng, địa ngục Biên (Địa ngục Nhân duyên). Địa ngục là không thể an vui, có nhiều thứ nay sẽ nói.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Lạnh?

Đáp: Địa ngục Lạnh là:

1. Liễu khiếu hoán (Năng ngữ).

2. Bất liễu khiếu hoán (Bất liễu ngữ)

3. Bất khiếu hoán (Bất năng ngữ).

Là ba tướng, quán tướng nơi địa ngục Lạnh. Do kêu gào cực ác nên gọi là Khiếu hoán.

Hỏi: Thế nào là Liễu khiếu hoán (Năng ngữ)?

Đáp: Liễu khiếu hoán gồm ba địa ngục: 1. A-phù-đà (Át-phù-đà). 2. Nê-la-phù-đà (Ni-lại-phù-đà). 3. A-ba-bả (A-ba-ba). Ba địa ngục nầy là Liễu khiếu hoán.

+ A-phù-đà: Là nói về số lượng. Như ở nước Ma-kiệt, mười thương đựng hạt cải, mỗi thương đều nhận hai mươi Khư-lê, trong ấy đựng đầy hạt cải. Giả sử có người, cứ một trăm năm thì lấy ra một hạt cải, số lượng hạt cải kia cùng còn có thể hết, nhưng thọ mạng nơi địa ngục A-phù-đà thì không thể hết. Cứ hai thăng là một A-lặc. Bốn A-lặc là một Độc-lung-na. Mười sáu Độc-lung-na là một Khư-lê. Hai mươi Khư-lê là một thương. Như vậy cho đến mười thương, là so với số lượng thọ mạng của địa ngục A-phù-đà.

Lại nữa, A-phù-đà là giống như ung nhọt. Trong địa ngục nầy, do lạnh, nên trong thân sinh ra giống như ung nhọt, nên gọi là A-phù-đà.

+ Nê-la-phù-đà: Là không giống với ung nhọt, song khi đưa thân lên thì có gió thổi khiến phình trướng đầy khắp, nên gọi là Nê-la-phù-đà.

+ A-ba-bả: Là có gió thổi hết sức lạnh, lột bóc da thịt nơi thân rơi rớt xuống, vì quá run rẩy, kêu gào A-ba-ba, nên gọi là ngục A-ba-bả.

Ba thứ nầy là Liễu khiếu hoán.

Hỏi: Thế nào là Bất liễu khiếu hoán?

Đáp: Bất liễu khiếu hoán gồm có ba địa ngục: 1. A-trá (A-trá). 2. Hưu-trá-hưu (Hưu-trá-hưu). 3. Ưu-bát-la (Ưu-bát).

+ A-trá, Hưu-trá-hưu: Cũng có gió lạnh thổi hết sức lạnh, bóc vứt da thịt nơi thân rơi rớt khắp, tội nhân không thể chịu đựng nổi, hoặc lúc có phương tiện thì kêu la: A-trá! Hưu-trá-hưu!

+ Ưu-bát-la: Là có gió thổi, lạnh cùng cực, khiến da thịt nơi thân bị bóc ra rơi rớt khắp. Do nơi tội, nên từ trong thân sinh ra những lá sắt vây buộc quanh thân, như hoa Ưu-bát-la. Tội nhân ấy do đã phỉ báng các bậc Thánh Hiền, nên bị đọa vào địa ngục nầy, luôn nhận lấy khổ bức như thế.

Hỏi: Thế nào là Bất khiếu hoán?

Đáp: Bất khiếu hoán gồm bốn địa ngục: 1. Câu-mâu-đà-tu (Câu-vật-độ). 2. Kiền-đề-già-phần (Tu-kiền-đề). 3. Đà-lê-già (Phân-đà-lê). 4. Ba-đàm-ma (Bát-mộ).

Nơi bốn địa ngục nầy đều có gió thổi vô cùng lạnh buốt, thân thể bị phình trướng khắp, khiến thân giống như các thứ hoa Câu-mâu-đà-tu, Kiền-đề-già-phần v.v… Tội nhân thọ nhận các thứ khốn khổ cùng cực, trụ trong rên rỉ, là do đã phỉ báng các bậc Thánh Hiền, nên bị đọa vào bốn địa ngục ấy, hết thảy thời gian phải thọ nhận vô lượng khổ bức. Đó là tất cả mười địa ngục Lạnh, ở trong khỏang giữa bốn châu, dựa vào chân núi Thiết-vi, Đại Thiết-vi, hướng lên nơi cư trú, luôn ở nơi bóng tối. Gió lạnh hủy hoại thân thể, như lửa dữ thiêu đốt. Thân như đám trúc lau bị cháy khô, phát ra âm thanh lẫn lộn, mỗi mỗi thứ đều va chạm, sinh tưởng. Tất cả tội nhân đều do hủy báng Thánh hiền nên thọ nhận khổ não như thế. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Nê-la-phù có trăm ngàn

A-phù-đà ba mươi lăm

Cùng tột nẻo ác địa ngục

Miệng và ý đều nguyện ác.

Đó gọi là địa ngục Lạnh.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Nóng?

Đáp: Địa ngục Nóng gồm:

1. Hữu chủ trị (Khảo lược).

2. Thiếu chủ trị (Thiếu khảo lược).

3. Vô chủ trị (Vô khảo lược).

Ba thứ nầy là quán xét về tướng. Chủ trị là khảo tra đánh đập.

Hỏi: Thế nào là Hữu chủ trị (Khảo lược)?

Đáp: Hữu chủ trị gồm ba địa ngục: 1. Hoạt (Hoàn hoạt). 2. Hành (Thị). 3. Hắc thằng (Hắc diên).

+ Địa ngục Hoạt: Là nơi chốn nầy, các ngục tốt thường dùng đao búa sắc bén để chặt, chẻ, róc, bằm chém các tội nhân, như chặt chém đầu dê. Da thịt bị xẻ băm tan hết rồi, tội nhân do duyên chưa hết, nên khi có gió lạnh thổi thì sinh trở lại như cũ.

Lại nhân nơi tội ác, nên tay tự nhiên sinh ra móng vuốt sắt, bén nhọn giống như đao mũi nhọn, hình tựa như trăng lưỡi liềm, mỗi mỗi thứ ý đều sinh oán kết: Kẻ kia từng bức bách ta, ta nay lại bức bách hắn. Do đấy sinh giận dữ. Lại cùng vồ lấy chặt chém, như chặt chém trúc lau. Kẻ kia, nơi thế gian nầy, tâm kết hận mà chết nên sinh trong địa ngục ấy.

+ Địa ngục Hắc thằng: Là bắt các tội nhân nằm dài nơi đất, dùng dây đen (Hắc thằng) quấn chặt từng đoạn rồi chặt chém. Các tội nhân kia ở nơi thế gian thường dùng dao chặt chém chúng sinh nên sinh vào địa ngục nầy.

Lại nữa, đám ngục tốt dùng vô số lá đồng, sắt nung đỏ rực cuộn chặt nơi thân tội nhân khiến xương bị vỡ nát, máu tủy trào ra. Những tội nhân nầy ở nơi trần gian luôn dùng roi gậy đánh đập, giết hại chúng sinh. Và người xuất gia thọ nhận các vật dụng của tín thí như y phục, đồ nằm ngồi v.v…, nhưng không tinh tấn tu tập, trá hiện trì giới, nên sinh vào đây. Tội nhân lại chịu khổ bức nơi chốn vô cùng tối tăm, khói xông mù mịt, thân bị treo ngược để hít nuốt lấy khói ấy. Các tội nhân đó ở nơi thế gian luôn dùng khói xông vào hang có chúng sinh cư trú để giết hại nên bị đọa vào địa ngục nầy.

+ Địa ngục Hành: Là các tội nhân được bày ra thành hàng như nơi quán xá giết mổ súc vật, bày bán thịt xương. Tội nhân bị chặt đứt tay chân, tai mũi, đầu cổ. Họ vốn hành nghề đồ tể nên bây giờ phải nhận lấy các thứ khổ bức như vậy. Lại nữa, mặt đất là sắt nóng, cai ngục dùng xe lửa sắt móc tội nhân vào đấy, giương mắt quát tháo inh ỏi, rồi cho xe chạy bừa. Các tội nhân nầy ở thế gian dùng ngựa, voi chuyên chở đồ vật, luôn hành hạ chúng, khiến chúng luôn khổ nhọc, nên bị đọa vào đây. Những tội nhân vốn dâm phạm vợ người thì bị đuổi chạy lên rừng cây kiếm, tự nhiên bị lửa đốt, thọ nhận vô số khổ não như thế. Đó là địa ngục Hữu chủ trị. Đám cai ngục là do hành duyên nên không bị lửa thiêu đốt, do hành báo nên không thể suy xét.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Thiếu chủ trị (Thiếu khảo lược)?

Đáp: Địa ngục Thiếu chủ trị gồm ba địa ngục: 1. Chúng hợp (Đại tụ). 2. Đại khốc (Đại đề khốc). 3. Thiết hạm (Bị chích).

+ Địa ngục Chúng hợp: Tội nhân ở đây rất sợ đám cai ngục. Vô số tội nhân chạy ùa về phía núi. Vào rồi thì trước sau tự nhiên sinh lửa dữ ngăn chặn họ lại. Bị lửa dữ ngăn chận trước sau như thế, nơi hai phía núi tự khép lại như bị cối đá xay xát, do đấy, máu tuôn chảy như sông, thịt xương tan nát. Những tội nhân nầy ở thế gian vốn vui thích hành hạ, đày đọa các chúng sinh.

Lại nữa, nơi cối sắt lớn có lửa cháy dữ dội, ngục tốt dùng chày đâm giã tội nhân hàng năm trăm năm. Do tội duyên nên thọ mạng của tội nhân không hết. Họ vốn ở thế gian hay dùng cối để đâm giã sát hại các chúng sinh nhỏ yếu.

+ Địa ngục Đại khốc: Ở đây, núi sắt lớn có lửa dữ bốc cháy khắp nơi, bốn bên đều bị ngăn dứt không có lối đi. Đám cai ngục hung dữ quát hỏi các tội nhân: Muốn chạy tới đâu? Không việc thì cho việc, bèn dùng chày sắt nung lửa đỏ rực đánh đập vỡ đầu họ. Những tội nhân nầy ở nơi thế gian thường gây khốn khổ cho muôn người nên bị đọa vào địa ngục đại khốc.

+ Địa ngục Thiết hạm: Đất ở đây là sắt nung đỏ rực, đám tội nhân bị lùa đuổi khiến vào trong ấy và bị rang khô cho chín rồi đuổi ra ngoài, liền bị các loài chó dữ cắn xé ăn hết thịt. Gió nổi lên thì đám tội nhân sống trở lại như cũ. Lại bị xua đuổi vào chốn kia. Những tội nhân ấy, ở nơi thế gian nuôi tằm, rồi đem rang nướng, nên sinh vào cõi nầy.

Đó gọi là địa ngục Thiếu chủ trị.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Vô chủ trị?

Đáp: Địa ngục Vô chủ trị gồm ba địa ngục: 1. Khốc (Đề khốc). 2. Chích (Bị chích). 3. Vô khuyết (Vô phần mễ).

+ Địa ngục Khốc: Ở đây, sắt được nung cháy đỏ, tợ như mai rùa, nơi chốn rất chật hẹp giam nhốt đầy tội nhân, dùng nắp sắt chụp xuống, khiến họ phải chịu vô số khổ bức như thế. Đám tội nhân ấy, ở nơi thế gian thường hay đốt phá ruộng đồng, cùng thiêu đốt, xông hơi vào các hang hốc có chúng sinh trú ngụ, do đấy nên bị đọa vào cõi nầy.

+ Địa ngục Chích: Núi sắt lớn ở đây bốc lửa dữ dội cùng phủ lấy đám tội nhân, dùng nạo sắt cắt, xẻ, giáp vòng thì gia tăng thiêu nướng. Một bên vừa chín thì nạo sắt liền chuyển, lần lượt đảo lộn. Những tội nhân kia, ở nơi thế gian hay đâm, xâu, giết người, nên sinh vào địa ngục nầy.

+ Địa ngục Vô khuyết: Mặt đất ở đây là sắt, chung quanh là lửa cháy bốc cao, rộng đến hàng trăm do-tuần, có bốn cửa như thành, dùng đồng mỏng phủ lên trên, lửa cứ cháy liên tục. Đám tội nhân ở trong đó, dồn đống như củi, lửa dữ thiêu đốt khắp chốn, thân thể tội nhân bị cháy tan nát, chịu đủ thứ khổ não. Họ do ở thế gian đã từng giết hại cha mẹ, giết hại các bậc A-la-hán, có ý ác hướng tới Phật, khiến thân Phật chảy máu, hoặc tạo loạn động nơi Tăng chúng cùng tạo mười nghiệp ác, thế nên bị đọa vào cõi nầy.

Đó gọi là địa ngục Vô chủ trị.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Biên (Địa ngục Nhân duyên)?

Đáp: Địa ngục Biên là các địa ngục ở tại những vùng sông nước, núi rừng, đồng rộng, độc nhất thọ nhận quả báo của nghiệp ác.

Hỏi: Đã nói về địa ngục. Thế nào là súc sinh?

Đáp: Súc sinh là các loài vật đi trên đất, dưới nước, trên không, tất cả những loài ấy hoặc không chân, hoặc hai chân, hoặc nhiều chân.

+ Đi trên đất: Như voi, ngựa, trâu, bò, dê, lừa, la, lạc đà v.v…

+ Đi dưới nước: Như các loài cá Ma-kiệt, Thất-thâu, Ma-lại v.v…

+ Đi trên không: Như các loài chim, các loài ruồi muỗi, ong ve v.v…

Hết thảy là loài không chân, hai chân, nhiều chân.

+ Không chân: Như loài rắn.

+ Hai chân: Như loài chim.

+ Nhiều chân: Như các loài trâu bò dê ngựa, cùng loài trăm chân.

Hết thảy các loài súc sinh kia là do hành nghiệp của tội lớn, nên sinh vào loài ấy, đó gọi là súc sinh.

Hỏi: Thế nào là ngạ quỷ?

Đáp: Ngạ quỷ gồm ba loại quỷ:

1. Vô tài (Vô thực).

2. Thiểu tài (Thiểu thực).

3. Đa tài (Đại thực).

Hỏi: Thế nào là quỷ Vô tài?

Đáp: Quỷ Vô tài gồm có ba loại: 1. Quỷ miệng như bó đuốc. 2. Quỷ miệng như cây kim. 3. Quỷ miệng hôi thối.

+ Quỷ miệng như bó đuốc: Hợp với miệng là ngọn lửa bốc cháy từ nơi miệng phun ra, tự thiêu đốt thân thể, như lửa đồng đốt cháy cây đa la. Loại nầy, ở thế gian đa phần hành tham lam, keo kiệt, nên sinh trong loài quỷ ấy, chịu vô số khổ não.

+ Quỷ miệng như cây kim: Loài quỷ nầy bụng to như hang núi, cổ họng thì nhỏ như lỗ kim, giả như có nhiều thức ăn cũng không thể ăn được.

+ Quỷ miệng hôi thối: Loài quỷ nầy miệng bị rữa nát, hôi hám như phân nơi nhà xí, tự ợ ra mùi hôi thối, không bụng nên không được ăn gì cả, luôn chịu thống khổ như vậy. Đó gọi là quỷ Vô tài.

Hỏi: Thế nào là quỷ Thiểu tài (Thiểu thực)?

Đáp: Quỷ Thiểu tài gồm có ba loại: 1. Lông nơi thân như cây kim. 2. Lông nơi thân hôi thối. 3. Có bướu ở cổ.

Loài quỷ nầy hoặc có lúc có được chút ít vật bất tịnh để ăn, nên gọi là Thiểu tài (có chút ít của cải).

+ Quỷ lông nơi thân như cây kim: Loài nầy, lông nơi thân rất cứng, dài, đầu lông bén như cây kim, phủ khắp thân thể, đi lại rất khó khăn, vì các lông nhọn trở lại tự đâm vào người, như mũi tên nhọn bắn vào loài hươu nai, nhận lấy khổ bức lớn, hoặc có khi có được chút ít thức ăn.

+ Quỷ lông nơi thân hôi thối: Loài nầy lông nơi thân rất hôi hám, phủ khắp mình, lại cùng tự đâm chích vào thân thể. Thân xú uế, gió thổi bốc lên, sinh sân giận nên tự nhổ lông. Luôn thọ khổ bức như vậy.

+ Quỷ có bướu ở cổ: Do nghiệp báo của tội nơi chính mình tạo ra, nên sinh ung bướu ấy, trở lại tự làm vỡ, máu mủ tuôn đầy, lấy đó để ăn. Đấy gọi là quỷ Thiểu tài.

Hỏi: Thế nào là quỷ Đa tài (đại thực)?

Đáp: Quỷ Đa tài gồm ba loại quỷ: 1. Quỷ khí (Quỷ khí thổ). 2. Quỷ thất (Quỷ tàn thực). 3. Quỷ đại thế (Quỷ đại phi).

+ Quỷ khí: Loài nầy do thọ mạng đời trước có bố thí nên có được thức ăn dư thừa. Loài quỷ nầy trọn đời nhờ vào cúng tế mà có thức ăn, do đấy nên được an vui.

+ Quỷ thất: Loài nầy trọn đời có được thức ăn nơi các ngả tư đường lớn, các đường hẻm, ngõ tắt, với những thức ăn rơi rớt ở đây, nên cũng được vui vẻ.

+ Quỷ đại thế: Là ba loại: Dạ-xoa (Duyệt-xoa), La-sát (La-sát), Tỳ-xá-già (Yếm quỷ). Cảnh giới của chúng như chư Thiên. Túc mạng có phước đức nên hoặc được thức ăn ngon, ăn rồi thì có vô số quỷ đói vây quanh, cùng thấy sinh khổ. Như người ở tại ngục, thấy người thân sinh khổ, loài quỷ kia cũng thế, thấy đám quỷ đói vây quanh sinh khổ não, do khổ ấy nên thức ăn biến thành mủ. Chúng phải thọ nhận khổ não như vậy. Đấy gọi là quỷ Đại thế. Chúng có hình tướng súc sinh, người, trời, tùy theo nghiệp lực. Đó gọi là cõi Dục.

Hỏi: Thế nào là Sắc giới?

Đáp: Sắc giới là hữu hỷ, vô hỷ, hộ (cập niệm, vô niệm, hộ).

Cõi Sắc là không dục, chỉ do thiền dứt trừ giận dữ, có được sắc tươi đẹp như vàng ròng đã luyện. Cõi nầy có hỷ, không hỷ, lìa khổ lạc là hộ (xả). Hỷ cùng với lạc nên gọi là hữu hỷ (có hỷ). Lìa hỷ, không có hỷ với lạc nên gọi là vô hỷ (không hỷ). Lìa khổ, dứt lạc ấy như không còn đóng ngựa vào xe.

Hỏi: Thế nào là hữu hỷ (cập niệm)?

Đáp: Hữu hỷ gồm hữu giác (tự giác), vô giác (vô hành) và thiểu quán (vô giác).

Cùng với giác nên gọi là hữu giác. Lìa giác nên gọi là vô giác. Có ít quán nên gọi là thiểu quán. Lạc là lìa, là nói về thiền. Ở đây, hữu giác là sơ thiền, vô giác là hai thiền. Thiểu quán là trung gian thứ nhất. Hành tập thiền nầy sinh trong cõi Sắc. Nói chúng sinh là nói về cõi. Nói về cõi là nói về thiền.

Hỏi: Ai hành tập sinh thiền hữu giác?

Đáp: Hữu giác (tự giác) gồm: Phạm-phú-lâu (Phạm-phú-toan), Phạm-ca-di (Phạm-ca-di), Phạm-ba-sản (Phạm-ba-lợi-sa). Hành tập thiền hữu giác sinh trong cõi ấy. Ba cõi trời đó là hữu giác. Hạ, trung theo đấy mà sinh.

Đại phạm là do thiểu quán sinh. Nghĩa của giác, quán như trước đã nói.

Hỏi: Thế nào là vô giác (Vô hành)?

Đáp: Vô giác gồm các cõi trời:

1. Thiểu quang (Thiểu quang).

2. Vô lượng quang (Vô lượng quang).

3. Quang diệu (Quang âm).

Giác hành tập thiền vô giác, hỷ lạc tương ưng nên sinh nơi ba cõi ấy. Tưởng nầy hoặc là giả tưởng, hoặc là nhân tưởng.

Lại nữa, thiểu quang là lúc nói năng, từ miệng phát ra ít ánh sáng. Ánh sáng ít nên gọi là Thiểu quang. Ánh sáng nhiều nên gọi là Vô lượng quang. Ánh sáng thanh tịnh, vô biên, nên gọi là Quang diệu.

Hỏi: Đã nói về hữu hỷ. Thế nào là vô hỷ (vô niệm)?

Đáp: Vô hỷ gồm ba cõi trời:

1. Thiểu tịnh (Thiểu tịnh).

2. Vô lượng tịnh (Vô lượng tịnh).

3. Biến tịnh (Biến tịnh).

Giác hành tập thiền vô hỷ cùng lạc, là sinh nơi ba cõi trời ấy.

Thiểu tịnh: Gọi là không có nhiều. Đây là thiền ít phương tiện tương ưng, sinh trời Thiểu tịnh thọ an lạc. Cũng ít phương tiện, vừa, sinh cõi trời Vô lượng tịnh. Phương tiện trên, hơn, sinh cõi trời Biến tịnh.

Hỏi: Thế nào là hộ (xả)?

Đáp: Hộ là ba thứ hữu tưởng, vô tưởng, giác ý tương ưng. Hộ ấy là tu tập thiền hộ (xả), tương ưng lạc, sinh trong ba cõi trời:

1. Quả thật (Quả thật).

2. Vô tưởng (Vô tưởng).

3. Tịnh cư (Tịnh cư).

Ở đây, Quả thật: Là tu tập bậc hạ, trung, thượng nơi thiền thứ tư, sinh cõi trời Quả thật.

tưởng: Dứt trừ tưởng nên sinh Vô tưởng. Cõi nầy diệt thọ tưởng thức, do không có tưởng dục nên cùng diệt, chỉ có sắc ấm, hành ấm, một ít nhập sinh tưởng liền diệt.

Hỏi: Thế nào là Tịnh cư?

Đáp: Tịnh cư gồm các cõi trời:

+ Thiện hiện (Thiện kiến).

+ Thiện kiến (Thiện hảo kiến).

+ Tịnh (Thanh tịnh).

Ba cõi trời nầy là trời Tịnh cư. Tịnh cư là cư trú nơi chốn các phiền não đã dứt hết.

Hỏi: Năm địa Tịnh cư, nay vì sao nói ba?

Đáp: Trời Tịnh cư gồm ba:

+ Vô phiền (Vô sở xúc).

+ Vô nhiệt (Vô nhiệt).

+ Sắc cứu cánh (Nhất cứu cánh).

Ba cõi nầy là tướng của cõi Tịnh.

Hỏi: Thế nào là Vô sắc giới?

Đáp: Vô sắc giới, trong phần nói về tu (phân biệt) ở trước đã nói. Hành giả ở nơi thế gian tu tập chánh thọ (định), sinh cõi Vô sắc, là đạo và quả cùng nêu bày.

Phần thứ hai của phẩm Nương Dựa nơi ba Pháp độ đã nói xong.

 

TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 9

Hỏi: Đã nói về Ấm, Giới. Vậy thế nào là Nhập (Xứ)?

Đáp: Nhập (xứ) gồm ba:

1. Xúc nhập (Xúc xứ).

2. Độ nhập (Dị học xứ).

3. Giải thoát nhập (Giải thoát xứ).

Ba thứ ấy là tướng của nhập. Nhập là nghĩa nương dựa, như thiên xứ.

Hỏi: Nhập ấy là cái gì nhập?

Đáp: Công đức, ác nhập. Ở đây, giải thoát nhập là chỗ dựa của công đức. Độ nhập là chỗ dựa của ác. Xúc nhập là chỗ dựa của cả hai. Ý nhiễm ô sinh ác. Ý thanh tịnh sinh công đức.

Hỏi: Thế nào là Xúc nhập?

Đáp: Xúc nhập (Xúc xứ) gồm ba:

+ Cảnh giới gần (Hành gần).

+ Cảnh giới không gần (Hành không gần).

+ Không cảnh giới (Không hành).

Cảnh giới là xứ duyên. Tùy theo duyên ấy mà hành là cảnh giới kia. Duyên gần gọi là cảnh giới gần. Duyên không gần gọi là cảnh giới không gần. Không duyên gọi là không cảnh giới.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới gần (Hành gần)?

Đáp: Cảnh giới gần là mũi, lưỡi, thân nhập, tức tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, là ba cảnh giới gần.

Hương đến mũi mới ngửi, không đến không ngửi. Tuy có hoa rất xa, song hương rời hoa, bay đến mũi ngửi. Hương là tánh sắc, do đấy, gió bắc thổi, hương bay tới nam, không đến bắc, thế nên hương lìa hoa, đi đến mũi ngửi. Vị cũng thế. Theo lưỡi biết vị, không từ đồ chứa, không từ tay. Xúc cũng như thế. Chỗ nhận biết của thân căn là tám thứ: cứng mềm, nhẹ nặng, thô rít, lạnh nóng. Do các thứ kia được tiếp xúc mà sau nhận biết, thế nên ba thứ ấy là cảnh giới gần.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới không gần (Hành không gần)?

Đáp: Cảnh giới không gần gồm: mắt, tai, ý nhập, tức nhãn nhập, nhĩ nhập và ý nhập. Ba nhập nầy là cảnh giới không hần.

Hỏi: Mắt cũng thấy gần nơi cảnh giới ít, không bức bách. Tai cũng như thế. Con muỗi ở trong tai cũng nghe tiếng vo ve. Ý là vô sắc, làm sao biết là cảnh giới không gần?

Đáp: Do đấy nên nói là cảnh giới không gần. Nếu không bức bách là thọ nhận cảnh giới.

Hỏi: Bằng với bao nhiêu là cảnh giới không gần?

Đáp: Ở đây không có hạn lượng. Hoặc có bốn mươi do-tuần thấy mặt trời mặt trăng, hoặc không thấy. Hoặc một do-tuần thấy hình sắc, hoặc mười dặm tùy theo sức của căn. Do đó, nên gọi là cảnh giới không gần, không nói là cảnh giới xa, song không buộc phải nhận cảnh giới. Không phải do vật đến xứ thấy mới thấy, lìa nhưng sau thấy. Tai cũng như thế. Không phải do bắt buộc gần nên được nghe. Con muỗi tuy ở trong lỗ tai nhưng không đến xứ nghe. Đây cũng tùy theo sức của căn để nghe âm thanh. Ý là vô sắc, nó không có gần xa. Do đấy nên nói cảnh giới không gần, không nói cảnh giới xa.

Hỏi: Thế nào là không cảnh giới (Vô hành)?

Đáp: Không cảnh giới là: bên ngoài, mình thọ nhận, người khác thọ nhận, cùng không thọ nhận.

Bên ngoài là không cảnh giới. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ở đây giả gọi là bên ngoài. Mình thọ nhận (sắc là chính v.v…) kẻ khác thọ nhận (Sắc, thanh, hương, vị, xúc) cùng không thọ nhận. Không cảnh giới nầy chỉ là cảnh giới khác. Năm cảnh giới ấy không duyên, nhưng pháp nơi đối tượng duyên của kẻ khác nên phân biệt, là cũng có nhiều không cảnh giới nên nói là không cảnh giới.

Hỏi: Đã nói về Xúc nhập. Thế nào là Độ nhập (Dị học xứ)?

Đáp: Độ nhập (Dị học xứ) là:

Nói về nhân một xứ (Luận về nghĩa một xứ).

Nói về nhân không đúng (Luận về nghĩa hư giả).

Nói về không nhân (Luận về không nghĩa).

Nghĩa của ba thứ nầy là vô lượng, nhưng lược nói là ba độ nhập.

+ Nói về nhân một xứ: Là lời nói, như cờ Nhân-đà-la được nhiều người giương cao đem tới. Trong đấy có chỗ nói là do Điều-đạt mang đến. Điều-đạt cùng ở trong số đó, song không phải một mình Điều-đạt làm công việc nầy, nên là nhiều người mà nói một. Nói về nhân một xứ cũng như thế. Ba sự hợp thành nghĩa, hoặc nghiệp của thọ mạng đời trước, hoặc hiện đang làm, hoặc do ân của kẻ khác. Ba sự như thế tạo thành nghĩa, nhưng chỉ nói một.

+ Nói về nhân không đúng: Là nêu bày. Như cờ Nhân-đà-la ấy có người nói không phải một người mang đến, cũng không phải hai người. Ở đây, tuy có nhân nhưng là không đúng.

+ Nói về không nhân: Là nêu bày. Như nói cờ Nhân-đà-la không có nhân mà đến.

Hỏi: Thế nào là nhân một xứ (Nghĩa một xứ)?

Đáp: Một xứ là: nghiệp, tự tha, công phu.

Một đã nói mình đã tạo tác, có hai thứ:

1. Hoặc túc mạng đã tạo tác.

2. Hoặc hiện tại đã tạo tác.

Ở đây, nếu túc mạng đã tạo tác, đó gọi là nghiệp.

Hoặc lại có chỗ nói: Trời tạo tác. Ba thứ như thế tạo thành nghĩa, như trước đã nói. Ba thứ nghĩa như vậy, hoặc nói là nghiệp, hoặc nói là công phu, hoặc nói là ân của kẻ khác. Một xứ là chỉ nói về nghiệp. Kẻ kia như thế là phụ công sức của kẻ khác, không biết ân nghĩa, không thể cùng làm việc. Nếu mình vốn đã tạo tác, cầu, do không cầu hợp, nên tự đạt được. Nói về một xứ có những lỗi như vậy.

Hỏi: Thế nào là nhân không đúng (Nghĩa hư giả)?

Đáp: Nói về nhân không đúng là nói về ba thứ:

1. Chúng sinh pháp (Chúng sinh pháp).

2. Cùng với chúng sinh (Cùng với chúng sinh).

3. Pháp căn nhân tưởng (Căn nghĩa tưởng).

Chúng sinh tốt xấu đã tạo. Hoặc lại nói pháp đã tạo. Hoặc nói chúng sinh cùng pháp đã tạo, là nói về ba thứ nhân không đúng. Song không phải chúng sinh đã tạo, không phải pháp đã tạo, cũng không phải cả hai cùng tạo.

Hỏi: Thế nào là chúng sinh – căn nhân tưởng?

Đáp: Chúng sinh là Phạm, Y-nhiếp-phi-la, nghĩa là nói về Sử-nậu. Nói: Là chúng sinh tạo tác thế gian, Phạm là chủ tạo hóa, Y-nhiếp-phi-la là chủ tạo hóa, nghĩa là Sử-nậu là chủ tạo hóa. Người không tuệ cho là như thế.

Nói Phạm tạo hóa: Là nói Phạm-thiên (Phạm ma) tạo ra hư không, hư không tạo ra gió, gió tạo ra nước, đất, nước đất tạo ra gò nổng núi non cây cỏ. Như thế là có thế gian. Hết thảy các thuyết ấy đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu Phạm-thiên tạo ra hư không và đất thì vị ấy trụ ở xứ nào để tạo? Nếu tức trụ trong ấy để tạo, nghĩa nầy không đúng. Như thế là có lỗi. Như Nhiếp-phi-la nghĩa là Sử-nậu cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là pháp?

Đáp: Pháp là: thời (thời) tạo, khí (vị) tạo, tự nhiên (tánh) tạo. Ba thứ nầy gọi là pháp căn nhân. Ở đây nói thời là:

1. Thời tiết sinh tất cả.

2. Tất cả thời tiết thành.

3. Tất cả thời bị hoại.

4. Tất cả đời, thời tạo.

Thuyết nầy là có lỗi, như trong phần nói về một xứ ở trước. Người có thể cầu, không cầu. Hoặc không thể cầu mà cầu, được là thời tạo, hành không tạo. Chớ nên cho là không có lỗi. Vì sao? Vì thời là không. Nếu không tạo ra vật thì nghĩa ấy không đúng. Như thế đều có lỗi.

Khí cũng không thể tạo. Khí là không có tình. Đó là sự không sự. Khí không có mạng nầy.

Tự nhiên nếu sinh là không có nghĩa tự nhiên.

Nếu không là không nhân, hoặc không nhân sinh tất cả, sinh cũng tự nhiên như thế, thì đâu có sai lầm? Nếu là hữu thường thì thuyết kia có lỗi gì? Là không hữu thường, là hư hoại. Như thế là lỗi được đối chiếu, chớ nói là không lỗi.

Hỏi: Thế nào là không nhân (Không nghĩa)?

Đáp: Không nhân là tánh (tự nhiên), ngẫu (cưỡng phục), không (vô sở hữu). Nói về không nhân là nói về ba thứ: Nói về tánh, nói về ngẫu nhiên, nói về không.

+ Tánh (tự nhiên): Là nói trong tánh của muôn vật sinh ra, không phải nhân nơi cái khác. Vì sao? Vì như cây gai đâm chích nhanh hay không thể nhanh. Như thế là nói về tất cả.

+ Ngẫu nhiên (cưỡng phục): Là nói muôn vật ngẫu nhiêu sinh. Như nguồn của suối nước lớn, cỏ cây cành lá rơi vào trong đó hợp tại một chốn, nói là ngẫu nhiên như thế. Gió kia ngẫu nhiên thổi tới, hoặc thổi khắp các xứ. Muôn vật sinh cũng như thế.

+ Nói không (không sở hữu): Là nói về việc xét kỹ như vậy. ở đây là không sở hữu. Vì sao sinh, do cái gì sinh, ở xứ nào sinh? Đây là không có sở hữu. Hết thảy thuyết kia đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu muôn vật do tánh (tự nhiên) nên sinh, thì lúc mầm lúa thóc sinh, không cần phải cày bừa ruộng, cũng chẳng cần đem nước vào. Nếu không có các việc nầy thì mầm lúa thóc rốt cuộc không sinh. Do đấy muôn vật không phải do tánh sinh. Như thế là mỗi mỗi thuyết nên dứt bỏ.

Hỏi: Đã nói về Độ nhập. Thế nào là Giải thoát nhập (giải thoát xứ)?

Đáp: Giải thoát nhập (Giải thoát xứ) là: Tưởng (Tưởng), Thiền (Thiền), Nghe rộng (Tụng).

Ba thứ nầy là giải thoát nhập.

Giải thoát là diệt trừ ác nên được giải thoát. Ba nhập nầy đều dựa vào đấy nên được giải thoát.

Tưởng: Là nghĩa duyên. Duyên dựa nơi Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn nên được giải thoát.

Thiền: Là như đã nói nơi phẩm thứ nhất. Nên quán xét nghĩa ấy, cũng dựa vào đấy để được giải thoát.

Hỏi: Thế nào là nghe rộng (tụng)?

Đáp: Nghe rộng gồm:

1. Giảng nói (Nói).

2. Lắng nghe (Lắng nghe).

3. Đọc tụng (Đọc tụng).

+ Giảng nói: Là nói như đã được nghe.

+ Lắng nghe: Là nghe như đã nêu giảng.

+ Đọc tụng: Là tụng đọc những chỗ đã nghe.

Hỏi: Nghe rộng, như trong phần đa văn ở trước đã nói về Khế kinh, A-tỳ-đàm, Luật. Ở đây có khác biệt gì khi lại nói giảng nói, lắng nghe, đọc tụng?

Đáp: Ba thứ nói ở trước là đa văn, nên thọ nhận ba thứ: thọ nhận lúc nói, thọ nhận lúc nghe, thọ nhận lúc tụng.

Bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn, có xứ chân đế thành có xứ thí, thành có xứ chỉ, thành có xứ tuệ, thành các thứ ấy là phương tiện (tương ưng). Lắng nghe, lãnh hội Chân đế nên được giải thoát. Xứ thí là nói về chỉ. Xứ chỉ là theo thiền. Xứ tuệ là từ tụng đọc. Đó gọi là xứ giải thoát.

Ba Pháp độ nầy, chánh quán không trở ngại, ý muốn khiến thấy về nẻo chân, lần lượt đạt được, là giải thoát. Được giải thoát nên kẻ trí tu học pháp của Đức Thế Tôn.

Phần thứ ba của phẩm Nương Dựa nơi ba Pháp độ đã nói xong.

 

Ghi chú: Hai luận 1505/21506/3 là hai bản Hán dịch cùng từ một bản tiếng Phạn. Nhìn chung, luận 1505/2, do dịch vào giai đoạn đầu, hoặc do hạn chế của người Hán dịch, nên phải nói là hoàn toàn bất thành. Chúng tôi Việt dịch được khoảng 2 trang bản 1505/2 thì dừng lại, dịch luận 1506/3 trước, xong rồi mới trở lại, căn cứ theo bản 1506/3 để dịch bản 1505/2, mới thấy bản 1505/2 câu văn thiếu sót, sự diễn đạt tối nghĩa và rất sai lạc như thế nào! Một số từ ngữ, thuật ngữ chúng tôi ghi trong ngoặc đơn – nếu không dùng để giải thích – thì đó là các từ ngữ, thuật ngữ cùng nghĩa được dùng ở bản 1505/2.

HẾT - QUYỂN 2