<經 id="n1870">HOA NGHIÊM KINH NỘI CHƯƠNG MÔN ĐẲNG TẠP KHỔNG MỤC <篇>SỐ 1870 (QUYỂN 1 4) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1870 HOA NGHIÊM KINH NỘI CHƯƠNG MÔN ĐẲNG TẠP KHỔNG MỤC Hán dịch: Sa-môn Thích Trí Nghiễm, chùa Chí Tướng núi Thái Nhất thuộc Chung Nam. <卷>QUYỂN 1 Hội đầu, mười môn phân biệt ý một kinh. Thiên vương nói kệ khen Phật, đầu tiên là nghóa giới hạn của Hiển giáo. Chương nghóa Nhất thừa, Ba thừa, phẩm Lô-xá-na. Hàng đầu kệ của Bồ-tát Thắng Âm, lập chương Chuyển pháp luân. Văn quán năm biển, nói mười trí, lập chương Năm biển. Văn nhân duyên tịnh độ trong văn thuyết phần, đầu tiên lập chương Mười thế giới. Lập chương nhân, quả, chỗ Đồng tử Phổ Trang Nghiêm. Hội thứ hai, đầu tiên, chương lễ Phật nghi thức, chương Mười hiệu. Chương Tứ sinh, chương Mười thứ tịnh độ. Phẩm Bốn đế, lập chương Bốn đế. Chương lập nghiệp thành tựu trong phẩm Quang Minh Giác. Chương Năm ấm, chương phụ thuộc theo mười tám giới. Chương phụ thêm kiến mười hai nhập, nói phẩm Vấn Nạn, đầu tiên lập chương Duy Thức. Mọi người hỏi xứ Văn-thù, nói chương Nhập Phật Cảnh Giới. Hội đầu, mười môn liệu định phân biệt kinh. HỘI ĐẦU TIÊN: MƯỜI MÔN LIỆU ĐỊNH PHÂN BIỆT Ý MỘT BỘ KINH: Hội đầu: “Ta nghe như vầy”, đầu tiên, định phân biệt nghóa mà văn dưới gọi. Y cứ có mười môn, nghóa là nhân và pháp, văn nghóa sự lý, nhân quả của hạnh giải. Đầu tiên, thành chủ, bạn, để nói về chỉ thú. Nhân, nghóa là hóa chủ và hỗ trợ hóa, cạn, sâu, rộng, hẹp, có thể so sánh suốt qua. Nhân tức là Phật, Bồ-tát. Cạn, sâu, nghóa là từ ba đường ác, người, trời, Nhị thừa, Bồ-tát, Tiệm giáo, Đốn giáo, Viên giáo, cảm thành Phật, Bồ-tát, cạn sâu khác nhau. Rộng, hẹp cũng vậy. Pháp cạn sâu: Y cứ vào vị, từ bất thối đầu tiên cho đến các vị Mười địa rốt ráo, kiến pháp sai biệt đều khác nhau, rộng hẹp cũng như thế. Lý cạn sâu: Đầu tiên, sở tri của thế gian chân thật, cho đến cùng cực chứng pháp giới, giải thoát, tự tại đều khác nhau, rộng hẹp cũng vậy. Sự cạn sâu: Từ cuối hết phàm phu, một điên-để-ca, cho đến noãn diệu thiên quang, sự tướng của xứ tịnh độ, pháp đường giải thoát, khác nhau, rộng hẹp cũng vậy. Hiểu cạn sâu: Giáo có bí mật, thị hiện rõ khác nhau, suy cho cùng sinh ra hiểu, không hiểu v.v… rộng hẹp cũng vậy. Hạnh cạn, sâu như thỏ, ngựa, v.v… đều có phần đặc biệt riêng, suy cho cùng hạnh nghiệp cũng khác, rộng hẹp cũng vậy. Nghóa cạn sâu: Ba thừa, Nhất thừa sai biệt khác nhau, suy ra cho cùng, nghóa đối tượng giải thích, cạn sâu chẳng phải một, rộng hẹp cũng vậy. Văn cạn sâu: Văn của chủ thể giải thích nói, không nói, v.v… khác nhau, nên cạn sâu chẳng phải một, rộng hẹp cũng vậy. Nhân cạn, sâu: Từ danh số của nhân kia, đầu tiên là sáu nhân, bốn duyên, tiếp theo hiện sinh dẫn, cho đến hai mươi nhân, v.v… sau cuối, là làm nhân lẫn nhau. Nếu y cứ vào đạo lý để nói về nhân cạn, sâu từ pháp đầu tiên chấp cảnh giới, cho đến nhân duyên như thật của pháp vô ngã. Pháp vô lậu nhân sáu nghóa v.v… cạn, sâu khác nhau, rộng hẹp cũng vậy. Quả cạn, sâu: Từ đẳng lưu đầu dựa vào quả. Só phu giải thoát quá báo dị thục. Thế gian, xuất thế gian, cho đến tột bậc Phật khác nhau, rộng hẹp cũng vậy. Nghóa mười môn trên, chư Phật khéo léo hội dung pháp giới, viên thông tự tại, không rời thấy nghe, chứng đắc Nhân-đà-la vi tế của Phổ Hiền, giải thoát thông minh mới rốt ráo. Thiên vương nói kệ khen Phật, đầu tiên, chỉ rõ nghóa phân chia xếp đặt của giáo: Y cứ vào giáo có năm vị khác nhau đồng: Y cứ vào Tiểu thừa, giáo có danh, thuyên, giải nghóa có danh. Đây là ở trong vị phân biệt biến kế. Giáo có danh, thuyên giải nghóa có danh; Giáo có danh, thuyên giải nghóa không có danh. Đây gọi là hồi tâm, nghóa trong vị của giáo đầu tiên, đương tức danh, nghóa tức không giáo. Giáo có danh, gọi là nghóa có danh; giáo có danh, gọi là nghóa không có danh; giáo không có danh, gọi là nghóa không có danh. Danh này tức là thật tánh trong vị giáo thành thục, thành nghóa có, chẳng phải cái gọi là có. Giáo không có danh, biểu thị rõ nghóa không có danh. Nghóa, danh ở trong vị đốn giáo là nói về tam-muội Nhất thật. Giáo có danh, nói nghóa có danh. Giáo không có danh làm sáng tỏ nghóa không có danh. Thích hợp với chỗ thấy, nghe ở trong vị Viên giáo. Giáo có danh làm sáng tỏ nghóa có danh. Giáo có danh làm rõ nghóa không có danh. Giáo không có danh làm sáng tỏ nghóa không có danh. Đây nói theo xứ Vgiáo. Vì gồm thâu nghóa vô tận, nên phân chia xếp đặt chung cho Thanh văn và phàm phu pháp chân thật sở tri của thế gian. Bao gồm chung cho nghóa văn của Tiểu thừa, Ba thừa và so sánh phần chứng ngang nhau trong Viên giáo. Về nghóa văn có được của kinh bộ dưới đều y cứ theo quy tắc tiêu chuẩn này. Trong văn Phổ Hiền, cuối văn vân tập trong phẩm Lô-xá-na Phật, lập chương nghóa của Nhất thừa, Ba thừa. Văn kinh nói: Người nhập đạo vô thượng, gọi là Tiệm giáo, người không thể cùng tận địa trí công đức, thích hợp với phần giáo thuần thục. Trong nguyện biểu tánh, thích hợp với phần Đốn giáo. Đây là y cứ vào chỗ phân chia xếp đặt diệt biến kế. Lại nói: người nhập đạo Vô thượng là Đốn giáo và Chung giáo và nghóa trong giáo thuần thục, không thể cùng tận địa trí công đức, là nghóa giáo của phần hạnh giải của Phổ Hiền. Trong biểu tánh nguyện: gọi là Viên giáo, là Phần chứng trở đi, cũng được gọi là hạnh, nguyện Phổ Hiền. Thừa kia gọi là giáo sẽ giải thích đủ trong phần hỏi đáp. Nay, y cứ vào kinh dưới đây nói lược nghóa của năm thừa, có ba hạng: Người trời chung là một. Thanh văn, Duyên giác chung, là thứ hai. Thỉ Chung, Tiệm giáo chung là thứ ba. Đốn giáo riêng một. Nhất thừa riêng một. Tổng là năm thừa thứ hai: Người là một, trời là một, Thanh văn là một, Duyên giác là một, Đại thừa là một. Thứ ba: Trời một, Phạm một, Thanh văn một, Duyên giác một, Như Lai một. Hợp năm thừa kia thành Nhất thừa lìa tướng vô phân biệt. Xuất xứ từ kinh Lăng-già: “Nếu thừa phàm phu, người, trời, Phật cho đến phàm phu đồng với người, trời kia, dẫn dắt người phàm phu tu phước người, trời. Đã không có vô lậu nên không nói về kiến, tu, chỉ nói về thiền định thế gian, trở thành tu thế gian. Y cứ Thanh văn, Duyên giác và Nhị thừa hồi tâm, đều y cứ vào kiến, tu, tức đến rốt ráo thành Phật, thành La-hán. Từ mười hai trụ của vị Tiểu thừa tức hợp với bốn quả chung thành mười hai trụ: Trụ tự chủng tánh Thanh văn. Trụ nhập chánh, chưa vượt qua thứ lớp phương tiện thủ chứng. Trụ vượt qua thứ lớp thủ chứng. Trụ được vị thanh tịnh không hư hoại, giới Thánh chuyển lậu tận ở trên. Trụ nương tựa giới tăng thượng, ý tăng thượng, học xuất sinh. 6, 7, 8. Được trí chân đế, tuệ học tăng thượng trụ. Trụ quan sát tam-muội sinh ra vô tướng. Trụ vô tướng rốt ráo. Trụ học xứ giải thoát. Trụ Nhất thiết chủng A-la-hán. Tiến thẳng Bồ-tát: Một người có mười địa và nói sau kiến, tu mới được thành Phật, và nói mười hai trụ của Đại thừa. Mười hai trụ đó là: Trụ chủng tánh. Trụ hạnh giải. Trụ tâm tịnh. Trụ giới tăng thượng. Trụ ý tăng thượng. Trụ tuệ tăng thượng. Trụ tuệ tương ưng với đế. Trụ tuệ tương ưng với duyên khởi. Trụ hữu hành khai phát vô tướng. Trụ vô hành không có khai phát vô tướng. Trụ tuệ vô ngại. Trụ Bồ-đề tối thượng. Nếu đã thành thục vị, giáo thì sẽ không đồng với nghóa trước. Sơ địa trở xuống có cái chết phần đoạn. Trước hết, người được vô lậu, gồm cả cái tử biến dịch. Sơ địa trở lên, cuối cùng địa thứ mười, có cái tử biến dịch. Sau mãn Mười địa mới bắt đầu thành Phật. Nếu y cứ vào đốn giáo, tức tất cả hạnh, vị đều không thể nói, vì là vô tướng. Đây là y cứ vào phương tiện ba thừa mà nói. Nếu y cứ theo giáo của Nhất thừa viên mãn, thì vì nghóa tự tại, chung, riêng thành nhau, nên sẽ không có sự khác nhau trước sau, thỉ chung, cạn sâu, gần xa, chỉ bất thối về sau, tức nói được pháp của Phổ Hiền kia. Y cứ vào giáo thuần thục mà so sánh thì Thập tín mãn tâm trở lên tức là vị Thập tín đó. Trong vị Phổ Hiền kia, đối với pháp giải hạnh của Phổ Hiền kia và Phổ Hiền được nghóa kia, chỉ có thắng tấn của phần mình, hai nghóa khác nhau. Thân Phổ Hiền kia hiện diện ở ngôi vị vua Chuyển luân với lưới báu trắng sạch và cảnh giới của mười mắt, mười tai. Nếu y cứ vào sự phân chia, xếp đặt nhất định của pháp giải hạnh, thì chỉ chưa được tam-muội Ly cấu. Tam-muội Ly cấu kia là định trước khi chưa thọ lãnh chức, thân Phổ Hiền kia trụ ở trú xứ của tánh bình đẳng của thế giới, mà ở giai vị nhục nhãn nhìn thấy khắp, thấy mười phương. Nếu đã chứng đắc quả vị Phổ Hiền thì sẽ ở trong vị Thập địa của sáu tướng phương tiện. Vì sao? Vì dựa vào nghóa chứng của mười địa, gặp pháp khắp. Nếu đã chứng được thân sơ y hạnh giải của Phổ Hiền kia, tất nhiên cũng sẽ được thành thân của các vị vua trời ở cung trời Đâu-suất. Ra khỏi ba đường ác, sinh lên cõi trời kia, được thân không có tai nạn, thành pháp hạnh giải của Phổ Hiền, như thân long nữ trong kinh Pháp Hoa, về nghóa thích hợp, tức là để lại hoặc cảm thân đồng sinh kia. Vì sao? Vì những người đều đã gieo trồng nhiều gốc lành ở quá khứ, nên cũng không đồng với thân biến hóa này. Vì sao? Vì kinh Pháp Hoa dẫn chứng long nữ kia đã hoàn thành nhanh chóng hạnh cao quý, ít có, nhằm chứng minh cho giáo cao siêu của kinh Pháp Hoa. Nếu là thân biến hóa thì không phải ít có. Nếu y cứ vào sự phân chia giới hạn diệt hoặc để biện luận thì nương tựa phẩm Phổ Hiền nói một chướng, tất cả chướng. Dựa vào phẩm Tiểu Tướng nói sự phân chia ngang nhau trong sự dứt hoặc: Một dứt, tức tất cả dứt. Do văn kinh Hoa Nghiêm chép: “Trong, ngoài đều có năm trăm phiền não và tám mươi bốn ngàn phiền não, vì diệt khắp không phải riêng lẽ, nên biết được. Vì sao? Vì đối với mé sinh tử mà nói”. Lại nói: “Thời kỳ vị vua Chuyển luân của lưới báu trắng sạch, có gương soi pha-lê ánh sáng định, tỏa ánh sáng soi sáng mười cõi Phật, thế giới nhiều như số cát bụi. Do đó suy niệm ra, phải biết phần trước của vị vua Chuyển luân lưới báu trắng sạch không ít. Nếu khởi dụng nhạy bén, thì khiến vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ- đề không lui sụt và phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề và ở Thập địa, địa Vô sinh Pháp nhẫn, chỉ chưa được phần ít của tam-muội Ly Cấu. Cảnh giới đức dụng, tướng vị khác và thấy phần vị Phật, đầy đủ văn kinh. Lại, nghóa Nhất thừa, phân biệt có hai: Chánh thừa. Thừa phương tiện. Chánh thừa như kinh Hoa Nghiêm chép: “Cũng như thừa Phương tiện phân biệt trước. Phân biệt có mười: Phân biệt đối với Tam bảo: Phật bảo là pháp Nhất thừa, Tăng là Ba thừa. Vì sao? Vì Phật đồng với vô tận, Pháp, Tăng thì không nhất định. Phân biệt đối với bốn đế, diệt đế là Nhất thừa. Ba đế là ba thừa. Vì sao? Vì diệt đồng với vô tận, ba đế thì bất định. Phân biệt đối với hai đế. Đệ nhất nghóa là Nhất thừa. Thế đế là Ba thừa, vì sao? Vì nghóa đế đệ nhất, đồng với vô tận, thế đế thì bất định. Phân biệt đối với lỗi, không có sự sợ hãi, tức là Nhất thừa, có sự sợ hãi tức là ba thừa. Vì sao? Vì như Như Lai tạng, y chỉ thì không có lỗi, tức vì đồng với vô tận. Sáu thức và tâm pháp trí, bảy pháp này, sát-na không dừng lại, không gieo trồng gốc mọi nỗi khổ, không được chán khổ, ưa cầu Niết bàn. Vì tục đế này nên phải nương tựa duyên không tự tại. Đối với người và phân biệt trí có ba hạng người thành ba thứ trí. Ba thứ trí là: Nếu thiện nam, thiện nữ thành tựu pháp trí rất sâu thì cho là người thứ nhất. Nếu người nam, người nữ thành tựu thuận theo pháp trí thì là người thứ hai. Nếu người nam, người nữ đối với các pháp sâu xa, không tự biết rõ, kính cầu Thế Tôn, không phải cảnh giới của con, chỉ là sở tri của Phật, là người thứ ba. Một người trước là trí Nhất thừa, hai người sau là trí ba thừa. Vì sao? Vì trí thứ nhất trước là trí chứng, vì trí chứng này đồng với vô tận, hai trí sau chưa chứng pháp thật, vì là bất định. Đây nói theo kinh Thắng-man. Vì đối với pháp đã hiểu rõ luống dối khế hợp với thật vô phân biệt, thuận theo văn, hiểu nghóa là pháp Ba thừa, biết pháp luống dối vô phân biệt là pháp Nhất thừa. Vì sao? Vì khế hợp với vô phân biệt, là pháp Nhất thừa. Vì sao? Vì khế hợp với vô phân biệt, vì đồng với vô tận. Thuận theo văn nhận lấy, đây là bất định, đó là nói theo nghóa kinh Lăng-già. Đối với phân biệt Nhất thừa, ba thừa, Tiểu thừa: Nhất thừa là Nhất thừa, ba thừa là ba thừa. Vì sao? Vì Nhất thừa thì vô tận, Ba thừa thì không nhất định. Đối với phân biệt Đại thừa, Trung thừa, Tiểu thừa: Đại thừa tức là Nhất thừa. Vì sao? Vì thượng tôn Đại thừa, tức vô tận. Trung thừa, Tiểu thừa về nghóa thì không nhất định, như kinh hội ba quy về một. Đối với phân biệt thế gian, xuất thế gian, xuất xuất thế gian, xuất xuất thế gian tức là Nhất thừa, ngoài ra là ba thừa. Vì sao? Vì xuất xuất thế gian vượt hơn, vì đồng với vô tận, hai xuất thế gian còn lại thì không nhất định, như kinh Pháp Hoa nói: “Xe tơ riêng để trên đất trống”, tức là việc ấy. Đối với phân biệt thí dụ, như hạt ngọc giấu trong búi tóc của vua và đại vương, tức là ngọc châu báu Nhất thừa buộc trong áo ông và người nghèo khổ, tức là ba thừa. Vì sao? Vì búi tóc, hạt ngọc, bí ẩn rất sâu, thí dụ khác thì không nhất định. Đây là nói theo kinh Pháp Hoa. Từ trước đến nay đã nói ở trong kinh quyến thuộc, vì muốn lộ rõ nghóa giáo Nhất thừa của pháp tạng viên thông vô tận, nên ở chỗ phương tiện bảo cho biết danh hiệu Nhất thừa, sao cho họ tiến vào, dễ được hiệu quả. Nói như vầy: Nếu nương tựa ngang pháp môn tiến đến của phương tiện, thì có hai nghóa nói chung Nhất thừa: Do nương tựa giáo Nhất thừa rốt ráo thành. Vì sao? Vì từ dòng chảy Nhất thừa, lại vì mục đích của giáo Nhất thừa. Vì làm phương tiện cho Nhất thừa viên mãn rốt ráo kia, nên nói Nhất thừa, không phải là nghóa Viên thông tự tại. Nghóa khác, so sánh có thể biết. Pháp môn của sự kiện trên, gồm thâu các giáo dưới, tức thuộc về nghóa bổn giáo của phần trên, dần dần từ nghóa cuối cùng kia, chung cho Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa. Vì sao? Vì đó là mục đích của Viên giáo. Chung giáo của Ba thừa lặng soi một tướng chân như và môn giáo đầu tiên, nhiễm, tịnh tức không. Tiểu thừa ngu pháp, giáo khổ đế, đối tượng giải thích pháp thật, tông hữu vi, vô vi đều khác nhau, vì nghóa lý đều dị biệt. TẤT CẢ CÁC PHÁP, KỆ ĐẦU CỦA BỒ TÁT THẮNG ÂM LẬP CHƯƠNG CHUYỂN PHÁP LUÂN Chuyển pháp luân có hai thứ: Chuyển Nhất thừa. Chuyển ba thừa, Tiểu thừa. Chuyển Nhất thừa: Một để có mười hạnh, như kinh dưới đây sẽ nói: Đầy đủ bốn vô sở úy thanh tịnh. Sinh ra âm thanh tịnh diệu của bốn biện. Thấu đạt sáng suốt bốn đế. Thuận theo pháp môn vô ngại của chư Phật. Tâm bình đẳng thanh tịnh, đều có công năng che chở khắp tất cả chúng sinh. Thuyết đã nói không hư, quyết định cứu giúp nỗi khổ của chúng sinh. nghỉ. Đã gìn giữ đại bi ở đời trước. Dùng âm thanh pháp luân mầu nhiệm lan khắp pháp giới. Thường nói chánh pháp suốt A-tăng-kỳ kiếp, không hề ngơi Chuyển các căn, lực, giác, ý thành tam-muội các thiền giải thoát, nối nhau không dứt. Ba đế còn lại so sánh cũng đồng với đế này. Khi trôi lăn, pháp nhập tâm chúng sinh, thuyết giả lại có mười nhân, mười nhân là: Vì nguyện lực quá khứ, vì đã duy trì đại bi, nên không bỏ chúng sinh, trí tuệ tự tại, thuận theo cơ nghi thích hợp, vì nói pháp, vì chưa từng lỗi thời tiết giáo hóa, vì thuận theo pháp khí không thêm, không bớt, vì quyết định biết rõ trí ba đời, vì thân tu hành hơn hết, vì miệng hiện hành không có giả dối, vì trí thuận theo âm thanh đều giác ngộ. Về nghóa, so sánh cũng đi suốt qua. Căn cơ đều khắp, đầy đủ bốn duyên, nghóa ấy rất dễ hiểu. Ba thừa, Tiểu thừa xoay bánh xe pháp: Trong một đế có ba chuyển thành mười hai hạnh, ba đế còn lại cũng đồng, thành bốn mươi tám hạnh, như luận Tỳ-Bà-Sa chép: “Xoay bánh xe pháp, nghóa là nói nghóa bốn đế, ba chuyển mười hai tướng, là khổ đế, là khổ tập, là khổ diệt, là đến khổ, diệt, đạo, gọi là một chuyển bốn tướng. Là khổ đế nên biết, là khổ tập nên dứt, là khổ diệt nên chứng, là khổ diệt đạo nên tu, gọi là chuyển bốn tướng thứ hai. Là khổ biết rồi, là khổ, tập dứt rồi, là khổ diệt chứng rồi, là đến khổ, diệt, đạo tu rồi, gọi là chuyển bốn tướng thứ ba. Bốn tướng: Trong bốn đế, sinh ra trí nhãn sáng suốt, giác biết, cũng gọi là hành. Giáo thuần thục của Ba thừa: Phần đầu tiên trở xuống, gọi là đồng với giáo không dị thục. Nghóa sau cùng với nghóa của Đốn giáo, chỉ một Chân như trao cho, gọi là chuyển, chứ chẳng phải cho rằng có thể chuyển thì gọi là Chuyển. Pháp môn phân biệt trên, gồm thâu các giáo dưới, tức khắc phục Đốn giáo thuộc giáo trên, phân chia nghóa bổn giáo. Tiệm tứ nghóa ngọn của giáo kia, đi suốt qua Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa. Vì sao? Vì đối tượng mà Viên giáo kia gọi và Chung giáo của ba thừa, lặng soi, soi lặng, một tướng chân như, và môn giáo ban đầu, nhiễm, tịnh tức không. Tiểu thừa ngu pháp, giáo của khổ đế. Đối tượng giải thích: Pháp thật, tông hữu vi, vô vi khác nhau, nghóa lý đều dị biệt. VĂN QUÁN NĂM BIỂN, NÓI VỀ MƯỜI TRÍ ĐẦU TIÊN LẬP CHƯƠNG NĂM BIỂN Năm biển: Tất cả các biển thế giới. Tất cả biển chúng sinh. Biển nghiệp pháp giới. Các biển căn dục lạc của tất cả chúng sinh. Tất cả biển chư Phật ba đời. - Quán năm biển kia để nói về mười trí: Tất cả biển thế giới trí thanh tịnh thành bại. Tất cả cõi chúng sinh không thể suy nghó, bàn luận, khởi trí. Trí quán sát pháp giới. Tất cả trí tự tại của Như Lai. Đế-thích chuyển pháp luân, nguyện thanh tịnh. Lực, vô sở úy, trí pháp không chung. Trí hào quang sáng suốt, khen ngợi âm thanh. Trí ba thứ giáo hóa chúng sinh. Trí vô lượng pháp môn tam-muội không hư hoại. Các thứ trí tự tại của Như Lai. Nói về Pháp năm biển nhập mười trí. Hỏi: Vì sao như thế? Đáp: Vì lý đối với căn cơ trước không được tự lộ rõ, do trí lộ rõ, vì lìa trí tức không có, nên do ở trí. Năm biển kia, ở trí tức trí. Hỏi: Vì sao năm biển không dùng mười trí để gọi? Đáp: Cảnh năm biển sâu, ký thác giáo ba thừa, ở trong mười trí, liên lạc lẫn nhau làm chủ, bạn, sâu, cạn, rộng, hẹp, nhiễm, tịnh, sự, lý là vô cùng. Pháp môn phân biệt trên gồm thâu các giáo dưới. Đốn thuộc về nghóa bổn giáo của phần trên kia. Tiệm, từ nghóa ngọn của giáo kia, đi suốt qua Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa. Vì sao? Vì là điều mà Viên giáo kia gọi. Và Chung giáo của Ba thừa lặng soi, soi lặng, một tướng chân như và môn giáo đầu tiên. Nhiễm, tịnh tức không, giáo khổ đế của Tiểu thừa ngu pháp, thật pháp, đối tượng giải thích, tông hữu vi, vô vi đều không đồng, vì nghóa lý đều riêng, vẫn Viên giáo Nhất thừa này, cuộc hạn ở thấy, nghe làm bắt đầu. NÓI VỀ VĂN NHÂN DUYÊN TỊNH ĐỘ, TRONG VĂN PHÂN TÍCH ĐẦU TIÊN, LẬP CHƯƠNG MƯỜI THẾ GIỚI Nay, mức độ cạn, sâu, trên, dưới của biển thế giới này, lược có ba thứ: Từ Tam thiên Đại thiên thế giới trở đi, cho đến giới hình loại của tất cả chúng sinh, dùng làm một loại. Như mười thế giới, v.v… chỗ thành hóa, nơi cư trú của Cồ-di: Thế giới tánh. Thế giới biển. Thế giới luân. Thế giới Viên mãn. Thế giới phân biệt. Thế giới trở lại. Thế giới chuyển. Thế giới Liên hoa. Thế giới Tu-di. Thế giới tướng. Mười thế giới này tương đương với chỗ ở của vạn luân vương, còn trở đi là loại thứ hai. Ba biển thế giới Liên Hoa Tạng trở đi cùng tận cảnh giới Phật là loại thứ ba. Biển thế giới của loại như thế có mười thứ sự mà Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã giảng nói. Nghóa là nói về biển thế giới. Khởi đủ nhân duyên biển thế giới. Trụ biển thế giới. Biển thế giới hình. Biển thế giới thể. Biển thế giới trang nghiêm. Biển thế giới thanh tịnh. Biển thế giới của Như Lai ra đời. Biển thế giới kiếp. Biển thế giới phương tiện hoại. Mười nhân duyên này thành chung ba thế giới trên, chỉ vì dẫn dắt căn cơ sâu cạn khác nhau, nên có ba dị biệt. Y cứ vào văn kinh này, Tam thiên cõi làm lộ rõ nghóa dung thông của thế giới kia, giới Liên Hoa Tạng, nói nghóa sâu kín của Nhân-đà-la, cõi trung gian, v.v… Lược bỏ không nói, so sánh có thể hiểu. Pháp môn phân biệt trên, gồm thâu các giáo ở dưới. Đốn thuộc nghóa bổn giáo của phần trên. Tiệm từ cuối hết của giáo kia, chung cho Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa. Vì sao? Vì được khắp Viên giáo gọi. Và Chung giáo của Ba thừa lặng soi, soi lặng, một tướng chân như và nhiễm, tịnh của môn giáo đầu tiên tức không. Tiểu thừa ngu pháp, giáo khổ đế, pháp thật, đối tượng giải thích, tông hữu vi, vô vi đều khác nhau, vì nghóa lý đều riêng, vẫn Viên giáo Nhất thừa này, cuộc hạn ở sự thấy, nghe là bắt đầu. LẬP CHƯƠNG NHÂN QUẢ Ở CHỖ ĐỒNG TỬ PHỔ TRANG NGHIÊM Theo giáo Tiểu thừa có sáu nhân, bốn duyên. Bốn duyên là: Duyên nhân. Duyên Đẳng vô gián, cũng nói là duyên trình tự. Duyên Sở duyên cũng nói là duyên duyên. Duyên Tăng thượng. Sáu nhân: Nhân của chủ thể tạo tác, cũng gọi là nhân của đối tượng được tạo tác. Nhân câu hữu, cũng gọi là nhân cộng hữu. Nhân tương ưng. Nhân đồng loại, cũng gọi là nhân tự phần. Nhân biến hành, cũng gọi là nhân biến. Nhân dị thục, cũng gọi là nhân báo. Bốn duyên gồm thâu nhau của Tiểu thừa, không đồng nghóa với ba thừa. Vì sao? Vì không phải nguyên lý của nhân duyên. Sáu nhân sinh ra năm quả, hai nhân tương ưng, cộng hữu, cảm quả tăng thượng, nhân tự phần, nhân biến, cảm quả y, sở tác, tự phần, tương ưng, cộng hữu cảm quả giải thoát và quả só phu, cũng gọi là công dụng. Quả báo, nhân cảm quả báo. Danh số của sáu nhân, bốn duyên này chung cho ba thừa. Theo giáo đầu tiên của ba thừa, thì sáu nhân, bốn duyên sinh, dẫn ra hai nhân, hai mươi nhân, làm nhân lẫn nhau. Sự phân chia xếp đặt sinh của nghóa nhân. Duyên này dùng bốn câu để làm sáng tỏ: Chưa thành tựu, thành chưa thành, như nhân nhân, cũng nhân nhân. Đã thành, thành rồi thành, như quả quả, cũng quả quả. Chưa thành, thành rồi thành, như nhân thành quả, quả, v.v… Đã thành, thành chưa thành, như quả làm rõ nhân. Đây là nói theo sự, nếu nói theo lý để, thì chỉ là một nghóa duyên khởi, không có nhân khác. Hai mươi nhân là: Sinh của chủ thể tạo tác. Nghóa là thức hòa hợp đối với thức. Do sự hòa hợp này mà đối tượng tạo tác vốn không mà nay có. Ở chủ thể tạo tác. Nghóa là ăn đối với đã sinh và hữu tình chưa sinh, do thế lực này nên sinh rồi, nối nhau không dứt. Gìn giữ chủ thể tạo tác. Nghóa là đại địa đối với hữu tình chuyên chở, khiến cho không rơi rớt. Soi rọi chủ thể tạo tác. Nghóa là đèn đối với các sắc, vì soi rõ chướng đen tối. Biến hoại chủ thể tạo tác. Nghóa là lửa đối với củi, khiến cho lửa kia nối tiếp nhau thay đổi sai khác. Chia ly chủ thể tạo tác. Nghóa là chiếc liềm đối với đối tượng cắt, khiến vật liên thuộc thành hai phần. Chuyển biến chủ thể tạo tác. Nghóa là trí khéo kéo, đối với vàng, bạc chuyển biến chúng mới thành tướng khác. Tin hiểu chủ thể tạo tác. Nghóa là khói đối với lửa. Do khói này so sánh biết không hiện thấy. Lộ rõ chủ thể tạo tác. Nghóa là tông, nhân, dụ đối với nghóa đã thành. Do nghóa này được quyết định đúng. Đẳng chỉ của chủ thể tạo tác. Nghóa là Thánh đạo đối với Niết-bàn. Do Thánh đạo này chứng Niết-bàn kia. Tùy thuyết chủ thể tác. Nghóa là danh, tưởng, kiến. Do như danh, tự, nhận lấy tướng, chấp vướng mắc, thuận theo khởi thuyết. Quán đối đãi chủ thể tạo tác. Nghóa là vì quán đối đãi với người này nên cầu muốn sinh đối với người kia, như chờ đợi đói khát, theo đuổi, tìm cầu thức uống ăn. Do cái ăn này nhân dục sinh ra người kia, người này. Chiêu cảm dẫn dắt chủ thể tạo tác: Nghóa là duyên xa như vô minh đối với già chết. Do vị khác này lần lượt chiêu cảm vì sẽ có. Sinh khởi chủ thể tạo tác. Nghóa là duyên gần gũi, như vô minh đối với hành, do sinh vô gián này, vì sẽ có. Thâu nhận chủ thể tạo tác. Nghóa là duyên khác, như ruộng, nước, phân đối với lúa sinh, dù tự giống sinh, nhưng vì thêm sức duyên kia. Dẫn phát chủ thể tạo tác. Nghóa là duyên thuận theo, như quan hầu hạ vua, làm cho vua vui vẻ hài lòng, vì thuận theo dẫn phát. Phân biệt quyết định về chủ thể tạo tác. Nghóa là duyên khác nhau, như duyên năm cõi đối với quả năm cõi. Do tự tánh khác nhau vì chiêu cảm quả riêng. Đồng sự của chủ thể tạo tác. Nghóa là duyên hòa hợp, như căn không hư hoại, cảnh giới hiện tiền. Chánh khởi tác ý đối với thức đã sinh, để thành tự đối tượng tạo tác, tất nhiên chờ đợi chủ thể tạo tác khác. Mâu thuẫn của chủ thể tạo tác. Nghóa là duyên chướng ngại, như mưa đá đối với lúa, có công năng gây tổn hại lúa. Không mâu thuẫn đối với chủ thể tạo tác. Nghóa là không có chướng ngại, như lúa không có chướng ngại, mâu thuẫn với chướng ngại trên. Trong nhân của chủ thể tạo tác khác nhau này chỉ nói thức hòa hợp. Lại, nêu cương yếu là vì người trí nương tựa một phương này, so sánh, suy nghó phương khác, làm nhân lẫn nhau, nghóa là đồng thời làm nhân quả lẫn nhau, cũng như bó tranh, cũng như tim đèn cháy sém, ánh sáng, ngọn lửa đèn khi không tồn tại riêng. Văn này ở Ba thừa, Nhất thừa mới cuối cùng. Hỏi: Vì sao danh số nhân quả đối với Sơ giáo và Chung giáo của Tiểu thừa, ba thừa thêm bớt khác nhau? Đáp: Vì số nhân quả của Tiểu thừa ít, chưa đạt được pháp không, vì không tường tận lý đại nên không nói đủ. Phần giáo đầu tiên của Ba thừa đạt được pháp không, biết pháp, tiếp theo là y cứ vào phần tế, về sự, nói một cách khéo léo. Giáo thuần thục đã bỏ, cuối cùng pháp không, vì hội nhập sự từ lý nên không nói nhiều, chỉ nói về bốn duyên và làm nhân quả lẫn nhau. Hai mươi nhân kia, vì sự khác nhau của tự tánh trong nhân của chủ thể tạo tác này, nhập nhân chủ thể tạo tác, gồm thâu ở đây, không phải nghóa Tiểu thừa ngu pháp. Nhân duyên của nghóa Ba thừa kia được gồm thâu tăng thượng. Vì sao? Vì đạt phần pháp không, về lý được dung nhau thành nên được gồm thâu, như nước, đất làm tăng thượng cho lúa, trở lại tức làm nhân gần cho quả tự tăng thượng. Nhân gần với nhân gần không biết lẫn nhau, duyên xa cũng như thế. Vì sao? Vì chẳng có gì có thể biết, nên nhân gần không mâu thuẫn với nhân gần. Vì sao? Vì không có hai tướng, nên nghóa làm nhân quả lẫn nhau thuộc về nhân gần. Lại, tổng chỉ có nhân duyên, đây là y cứ vào Chung giáo, dựa vào giáo Nhất thừa đủ tất cả nhân duyên, lý, sự, nghóa giáo, nhân, pháp, nhân, quả. Lại, nói chung, là có nhân duyên cho đến một tức tất cả, tất cả tức một. Nhân hạnh của Phật Lô-xá-na, Phổ Hiền đã thành tựu nhân quả đều khác với ba thừa. Hỏi: Thể tánh pháp môn nhân quả của Phổ Hiền đã khác với sự đạo lý của thế gian, thì do đâu từ thế gian phàm phu được thành quả hạnh giải của Phổ Hiền? Đáp: Nhân, quả của Phổ Hiền không từ thế gian phàm phu mà định được. Vì sao? Vì nếu chưa thành thì không nói là Phổ Hiền, nếu đã thành thì từ xưa đến nay sự việc, thời tiết, đạo lý như thế, đều khác nhau. Pháp của phàm phu xưa nay không có vật, không có vật chi để thành. Phổ Hiền đối với phàm, xưa nay chẳng phải có, không có đối tượng nào để thành, chỉ có Phổ Hiền đối với Phổ Hiền mà nói thành, không thành, có thể so sánh mà biết. Pháp môn phân biệt ở trên gồm thâu các giáo ở dưới, đốn thì thuộc về nghóa bổn giáo của phần trên, tiệm là từ nghóa của tông giáo kia, đi suốt qua Nhất thừa, ba thừa, Tiểu thừa. Vì sao? Vì được gọi khắp. Và Chung giáo của Ba thừa, lặng soi, soi lặng, một tướng chân như và môn giáo đầu tiên, nhiễm, tịnh tức là không. Giáo khổ đế của Tiểu thừa ngu pháp, pháp thật đối tượng giải thích, tông hữu vi, vô vi đều khác nhau, nghóa lý đều riêng. Môn chương ở dưới so sánh với môn chương này có thể biết. THỨ HAI: PHẨM HỘI DANH HIỆU, ĐẦU TIÊN LÀ CHƯƠNG LỄ PHẬT NGHI THỨC Lễ Phật có ba thứ, đó gọi là thân, miệng, ý. Gọi thân nghiệp lễ Phật: gồm có ba: Nghi lễ tùy phương. Lễ do Phật dạy. Lễ cực thành. Phương pháp của ba lễ này được chia ra làm ba: Lễ thành quá: Oai nghi thân không ngay ngắn, tương ưng với tướng ngạo mạn, như giã gạo lên xuống, thật chế có lỗi, gọi là lễ thành quá. Lễ tương tự: Tướng dù thuận với cử chỉ ngay ngắn nhưng tương ưng với giác biết tạp nhạp, hoặc vin dựa, hợp gọi là lễ tương tự. Lễ thuận thật: Oai nghi thuận với tướng lễ, tương ưng với trí chánh vô phân biệt. Hoặc tương ưng với thật tánh, nghóa là tánh như như, gọi là lễ thuận thật. Nghóa của lễ khẩu nghiệp so sánh với trước rất dễ biết. Ý nghiệp có bảy: Lễ thành quá: Nghóa là đối với cảnh tôn quý tương ưng với giác biết tạp nhạp, gọi là lễ thành quá. Lễ tương tự: Thường tương ưng với cầu danh lợi, cũng hợp với dục ác. Văn kinh phán quyết nhập đạo xiển-đề. Nay, dù dường như thiện, nhưng sẽ mắc phải nỗi khổ lớn, gọi là lễ tương tự. Lễ kỉnh đức: Kỉnh vô lượng tướng công đức của Như Lai, như núi vàng được thuận với như thật, gọi lễ kỉnh đức. Lễ diệt quá: Tự xét mình vô trí tạo vô biên lỗi, mà lòng không biết xấu hổ. Nay, gặp cảnh Thánh, nhờ muốn rửa sạch lỗi lầm gọi là lễ diệt quá. Lễ hồi hướng chúng sinh: Tự nghó từ vô thỉ vì không hiểu rõ thể đồng nên thêm lỗi ác cho người khác, trôi lăn từ vô thỉ. Nay, biết tức thể không hai, gồm thâu lỗi từ mình, muốn độ chúng sinh quy về bản tánh, chỉ một người ta có thể thành sự này. Nay, nghiệp đã tạo tác là vật chúng sinh. Vì sao? Vì tánh chúng sinh thành nên gọi là lễ hồi hướng chúng sinh. Lễ hồi hướng Bồ-đề: Tự nghó bản tánh với giác rốt ráo, quả của chư Phật, đồng một thể không hai. Nay là tức mà không giác biết, nên trôi lăn sinh tử, dứt trừ trở lại cội nguồn, vận chuyển tâm tạo tác, lại không có riêng, từ như thật đến, vì là pháp như thật nên gọi là lễ hồi hướng Bồ-đề. Nói hồi hướng là hoàn toàn không hồi hướng. Vì sao? Vì là pháp gốc kia không có hồi hướng riêng. Lễ hồi hướng thật tế: Tự nghó đã tu, tức là tâm sở hữu thật tế, trí thì vô ngã nên không có hai, không có riêng, gọi là lễ hồi hướng thật tế. Năm lễ trên đều có hai: Khởi tâm hồi hướng, bị Ba thừa quở trách. Hồi hướng nhất thật. Nghóa là tức tánh như như không hai, không có riêng, không thể tu riêng, không có khởi riêng cầu, vì là một, xưa nay không lay động, là nghóa thật tế, là nghóa hồi hướng. Năm lễ trên, mỗi lễ so sánh mà biết. Ở trên, nói lễ tùy phương: Nghi thức tùy phương phát ra, cung kính, quỳ xuống, chắp tay, đập đầu đều theo nghi thức của từng địa phương, nên gọi lễ nghi tùy phương. Lễ Phật chế giáo. Phật thành đạo, đầu tiên, vì Trưởng giả Cấp Cô Độc chế ra ý nghóa lễ kia. Năm vóc gieo sát đất, đạo tràng, xét ra nhận lấy sự đoan chánh, gọi là lễ chế giáo. Phật gọi là bảy chúng: Nếu trái với nghi thức này thì đắc tội trái với giáo. Ngoài bảy chúng ra, không theo nghi thức này, không có tội trái với giáo, chỉ có phước theo nghi thức kính lễ ở từng địa phương. Lễ cực thành: Năm vóc gieo sát đất, một hồi lâu mới ngẩng dậy. Hoặc tâm kẻ hành lễ kia trùm khắp, tương đồng với pháp giới, hoặc thân phổ biến, bằng với Nhân-đà-la và vi tế. Hoặc khi thân, tâm trải qua ba đời, chín đời, gọi là lễ thành cực. Lễ của Nhất thừa đủ các lễ trước. Vì sao? Vì đều thấy, nghe chung. Các lễ của Ba thừa đều bị Phật quở, chỉ Phật không quở, nghóa là nên phân biệt các nghi thức lễ Phật trên, đều y cứ vào điều trước, vẫn Nhất thừa cuộc hạn ở thấy nghe. Nói mười hiệu: Như Lai. Ứng Cúng. CHƯƠNG MƯỜI HIỆU Chánh Biến Tri. Minh Hạnh Túc. Thiện Thệ. Thế Gian Giải. Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu. Thiên Nhân Sư. Phật-đà. Thế Tôn. Mười hiệu phân biệt trên đi suốt qua đạo lý của Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa. Đối tượng đã phân biệt như trên, là Biệt giáo, nghóa là danh hiệu thuận theo phương có mười muôn ức, cho đến pháp môn phân chia xếp đặt phương mười phương như Nam, Tây, Bắc,. Chương đạo quyền nói bốn sinh, pháp của Như Lai. Bốn sinh: là Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh. Bốn sinh thuộc ba cõi. Phật đồng với thai sinh. Tịnh độ có hai sinh: Nghóa là thấp sinh, hóa sinh. Vì sao? Vì căn cứ vào hóa sinh đủ tức khắc, hoa sen tịnh độ có thành dần, nên biết có thấp sinh. Phật A-di-đà có cha mẹ của Ngài. Y cứ theo đây, Phật đồng với thai sinh, vì không có cái quy tắc tiêu chuẩn giống nhau nên không có thai sinh. Y cứ vào sáu đạo ba cõi, trong người có đủ bốn sinh, súc sinh cũng đủ bốn, trong loài quỷ thì không nhất định. Nếu chánh quỷ thì chỉ hóa sinh, nếu quỷ biên thì chung cho bốn. Địa ngục và trời chỉ là hóa sinh. Cho nên, luận Tiểu thừa nói: “Bốn sinh gồm thâu sáu đường, chứ không phải đạo gồm thâu ở sinh. Vì sáu đường có bốn sinh, nên bốn sinh gồm thâu sáu đường. Sáu đường không nhất định hai song một, vì sáu đường này không gồm thâu bốn sinh, về nghóa khác như ở chương riêng. Phân chia xếp đặt của giáo bốn sinh phân biệt ở trên, so sánh phân biệt ở trước khác. CHƯƠNG MƯỜI THỨ TỊNH ĐỘ: Theo nghóa Tiểu thừa không có tịnh độ riêng. Theo nghóa của ba thừa thì có tịnh độ riêng. Lược so sánh có bốn: Tịnh độ hóa: Nghóa là các phương hóa hiện ra tịnh độ. Tịnh độ sự: Tịnh độ các phương do các thứ báu hình thành. Tịnh độ thật báo: Nghóa là do các lý hạnh tạo thành. Tịnh độ pháp tánh, gọi là chân như, vì y chỉ bổn vô trụ, lập tất cả pháp. Tịnh độ của Nhất thừa chuẩn y có mười. Phật vì bốn cõi thiên hạ trong thế giới Ta-bà này mà giáo hóa tất cả: Có các thứ thân. Có các thứ danh. Có các nơi chốn. Có các thứ hình sắc và có các thứ dài, ngắn. Có các thứ mạng sống lâu. Có các thứ đắc kể cả các nhập. Có các thứ các căn. Có các thứ xứ sinh. Có các thứ nghiệp. Có các thứ quả báo. Các thứ như thế khác nhau, đối tượng mà chúng sinh thấy cũng khác. Hỏi: Muốn nói tịnh độ vì sao lại nói về sự phân chia xếp đặt chúng sinh khác nhau? Đáp: Cõi nước Phật tự lưu thông bình đẳng với pháp giới không có riêng, có thể riêng. Vì sao? Vì cõi Phật này được gọi là pháp giới. Nếu muốn nhận lấy, biết riêng sự phân chia, xếp đặt chúng sinh kia thì phải y cứ vào sự khác nhau của hạnh nghiệp, tâm chúng sinh với nước định thêm bớt, lên xuống, trong đục, ẩn thành cõi Phật cũng khác nhau, nên Văn-thù-sư-lợi đã khen cõi nước sâu khác, ký thác chúng sinh kia thành tướng mạo cõi nước. Hỏi: Tịnh độ của Nhất thừa có khác nhau lớn, nhỏ, nhiều, ít, nhiễm, tịnh, làm sao biết được sự phân chia xếp đặt đồng khác? Đáp: Tịnh độ của Nhất thừa thì một tức là nhiều, nhiều tức là một, đủ như địa luận có giải thích rộng. Muốn biết phân lượng chính xác mười vị Phật kia, thì có thể biết, phân lượng rộng hẹp, khác nhau với tịnh độ mà ba thừa đã nói, so với biển thế giới cũng riêng khác không đồng. Nếu biển thế giới ở trong thời gian thì sẽ đồng với chỗ mà chúng sinh đã thấy nghe kia. Nói về các tịnh độ Phật không đồng với cái gọi là, cho nên không đồng. Tướng khác của tịnh độ Ba thừa đã được ghi chép, phân biệt ở trên, chỉ phân biệt với ngu pháp của Tiểu thừa. Hỏi: Nếu vậy thì vì sao luận nói rằng: “Có tịnh độ mầu nhiệm, A-la-hán sẽ sinh về đó”, phải biết rằng Tiểu thừa cũng có tịnh độ phải không? Đáp: Tiểu thừa không có tịnh độ, sở dó biết được là vì hễ muốn sinh tịnh độ thì phải có nghiệp tập. Tiểu thừa chán ngán sắc tâm của mình, ưa thích vô dư kia, thì do đâu mà được sinh tịnh độ. Nay, nói sinh, nghóa là dẫn lời của Tiểu thừa để chứng minh A- la-hán, trước đó đã có hạt giống tịnh độ, nên khi chứng được La-hán sẽ sinh về cõi nước đó, hoặc đại A-la-hán này tức là Bồ-tát, sẽ sinh về tịnh độ đó, nên có thể biết. PHẨM TỨ ĐẾ LẬP CHƯƠNG TỨ ĐẾ Theo kinh Niết bàn, khổ có ba thứ: Khổ loại. Khổ đế. Khổ Thánh đế. Tập, diệt, đạo cũng đồng. Khổ loại, phàm phu được. Khổ đế, Thanh văn được. Khổ Thánh đế, Bồ-tát được. Khổ loại: Loại, dòng nhà khổ, như khổ khổ, hoại khổ, v.v… ép ngặt tâm mình mà không có lý lẽ của nỗi khổ kia. Khổ đế: Có đạo lý vô thường. Trái lại phàm, trở thành Thánh, vì từ lý sửa cho đúng, nên được gọi tên là đế. Khổ Thánh đế: Được phần pháp vô ngã, là đối tượng nương tựa của mình, vì thuận với lý, nên được danh hiệu Thánh, cũng gọi bốn để hữu vi, bốn đế vô vi. Thánh đế: Tức bốn đế vô vi, nên kinh Thập Trụ chép: “Lại dùng khổ, tập, tận, đạo để phân biệt năm ấm. Sinh diệt có thêm có bớt mà đều vô hình. Khố sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ ưu bi não, khổ oán ghét gặp mặt, khổ ân ái biệt ly, điều mình mong muốn mà không được, cũng là khổ. Tóm lại, khổ năm ấm thịnh là hơn hết, gọi là biết khổ. Tìm tòi, quán sát cội nguồn, do nhánh nhóc khổ, bè đảng sinh ra là tập. Tham vướng mắc, tập quen ái dục và quý trọng, không biết đó là tai họa, vì biết mà xa, nên nói là biết tập. Các vết nhơ bẩn dứt trừ hẳn, không còn tạo cái mới. Vì sự mong muốn đã hoàn tất, nên không thể sinh lại. Sắc hiện tìm diệt theo, không để cho ngưng đọng. Hiểu rõ tập khổ thường vắng lặng, đó gọi là biết tận. Nhận hiểu đạo tám chánh cũng không có thể tánh gần xa, chỗ dừng nghỉ gần xa biến hóa vô cùng mà không thể hết. Gội sạch trần nhơ, soi sáng sự ngu mê tăm tối, thể không có hình, không có tiếng, còn, mất, vì các mê hoặc, dùng đạo dẫn dắt đi đầu, đi vào con đường vô vi, nên gọi là biết đạo. Bồ-tát phân biệt bốn đế cũng không thủ chứng. Muốn che chở cho tất cả những người còn ở trong sinh tử. Tướng của chân đế không có tướng, không có hình mà không thể nhận thấy, xét tra, hiểu biết như gốc, tức thích ứng với pháp tánh. Ngôn giáo thế tục giả gọi có danh, thật ra, thể chữ, không sinh, không diệt, không có đối tượng ô nhiễm chấp mắc, được tâm Thánh đế, chẳng nghó nhớ có, không. Xét tra hiểu gốc: Tất cả các sắc đều bình đẳng, cũng không có cao thấp. Nếu sinh rSa ngần ấy tâm thì đây gọi là phân biệt Thánh đế. Đế hữu vi kia như ngu pháp của Tiểu thừa, trong tông đủ phân biệt thật. Nếu là đế của Nhất thừa thì rốt ráo Biệt giáo, thuận theo danh tự sai biệt của một thế giới, có bốn mươi ức trăm ngàn na-do-tha mười phương như thế, thuận theo các chúng sinh, đối tượng thích hợp điều phục, nói như vầy: “Bốn đế được phân biệt trên, gồm thâu các giáo ở dưới. Đốn thuộc về nghóa bổn giáo của phần trên. Tiệm từ cuối hết của giáo kia, nghóa lý phân biệt xếp đặt đều y theo sự hiểu biết trên”. Lập chương Nghiệp thành tựu trong phẩm Kiến Lập Nghiệp, quang minh giác: Y cứ vào ba thừa, cái gọi là ba nghiệp thân, miệng, ý, hoặc thiện, hoặc bất thiện và vô ký. Hoặc lậu, vô lậu; hoặc hữu vi, vô Vì sao? Vì nghiệp tức như. Nếu nói về thể của nghiệp kia, thì tánh biểu, vô biểu, hoặc nói tác, vô tác. Tác thân nghiệp, dùng có thể thấy sắc, hữu đối làm thể. Tác khẩu nghiệp, dùng không thể thấy sắc, hữu đối làm thể. Hai nghiệp vô tác, dùng không thể thấy sắc không có đối làm thể. Ngu pháp của Tiểu thừa danh đồng với thể này, nghóa tức có, không khác nhau. Nếu tác tâm nghiệp thì sẽ dùng tâm làm thể, vô tác, lấy phi sắc, phi tâm làm thể, phi sắc, phi tâm, danh đồng với Tiểu thừa, nghóa chúng khác nhau với Tỳ-đàm và Thành Thật. Đây là y cứ vào sơ giáo của Ba thừa, Chung giáo tức chân như. Nếu y cứ vào Viên giáo thì sẽ gồm thâu đủ nghóa trước và dung thông tự tại. Nghiệp phân biệt trên thành tựu, y cứ vào nghiệp thành tựu để giải thích, đả phá rộng chấp của Tiểu thừa. Đại thừa tự thành vì chỉ y cứ vào phương tiện, để nói về thể của chánh nghiệp nên chỗ tiếng, kể cả tánh nghiệp cũng không có khả năng phân biệt. Luận này y cứ vào giáo ban đầu, giáo còn lại có thể so sánh, mà biết. thức. CHƯƠNG NĂM ẤM Năm ấm cũng gọi là năm uẩn. Nghóa là sắc, thọ, tưởng, hành, Hỏi: Nghóa uẩn như thế nào? Đáp: Các sắc sở hữu, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc kém, hoặc hơn, hoặc xa, hoặc gần. Tất cả sắc đó, lược nói về nghóa chứa nhóm của một sắc uẩn, như uẩn của vật báu. Như thế cho đến thức uẩn, phải biết y chỉ mười một thứ đối tượng nương tựa của ái, nên đối với pháp sắc, kiến lập sự khác nhau của quá khứ. Mười một thứ ái: Nghóa là ái đoái nghóa lưu luyến, ái hy vọng, ái chấp vướng mắc, ái ngã nội, ái cảnh giới, ái dục, ái định, ái ác, ái khổ, ái ưa diệu hạnh, ái xa, gần. Vì cảnh đối tượng duyên ái như thế, nên như thứ lớp lập các thứ sai biệt quá khứ. Lại có sai biệt, gọi là sai biệt đã sinh, chưa sinh, là sai biệt chủ thể lấy, đối tượng lấy, là sai biệt môn ngoại, môn nội, là sai biệt nhiễm, không nhiễm, là sai biệt gần, xa. Như đối tượng thích hợp đó, đối với các pháp sắc kiến lập sự sai biệt quá khứ. Đã sinh là hiện tại, quá khứ; Chưa sinh gọi là vị lai, môn ngoại là địa bất động, môn nội là các địa định. Câu khác dễ hiểu không phân biệt. Lại, tướng khổ vì rộng lớn nên gọi là uẩn, như uẩn đại tài, nương tựa sắc, vì phát khởi nỗi khổ rộng lớn sinh, như kinh nói: như thế, hoàn toàn nhóm họp uẩn khổ của đại chúng. Lại, gánh vác tạp nhiễm, các pháp tạp nhiễm phiền não, vì nương tựa sắc. Ví như một bộ phận thân thế gian có công năng gánh vác, tức một phần này gọi là vác, gọi là uẩn. Sắc cũng vậy, vì có công năng gánh vác tạp nhiễm, gọi là uẩn. Hỏi: Phân biệt rộng về nghóa uẩn ra sao? Thế nào là có thật? Bao nhiêu là có thật? Vì sao mà nên quán có thật? Đáp: Căn cảnh khác nàylà nghóa có thật, tất cả đều là có thật. Vì bỏ chấp vướng mắc có thật ngã, nên quan sát có thật, cho nên kiến lập ba câu hỏi này: Vì dứt sự tướng hai ngu và vì chấp tăng ích. Như thế, so sánh mà biết, nghóa uẩn phân biệt ở trên, Thanh văn tức là thật, giáo đầu tiên tức là không, Chung giáo tức như, Nhất thừa tức pháp giới vô vi. PHỤ THÊM THEO CHƯƠNG MƯỜI TÁM GIỚI Thế nào là kiến lập giới? Nghóa là sắc uẩn tức mười giới. giới năm căn nhãn, giới năm cảnh sắc, và một phần giới pháp. Thọ, tưởng, hành, uẩn tức một phần pháp giới. Thức uẩn tức giới bảy thức, nghóa là giới sáu thức như nhãn, v.v… và giới ý. Vì sao kiến lập giới, xứ không có tướng riêng? Đã nói trong kiến lập uẩn, vì nhãn, v.v… đều là tướng riêng, cho nên, từ trong các uẩn phát ra giới kiến lập, từ trong các giới phát ra xứ kiến lập. Thế nào là không thuộc về uẩn pháp giới? Uẩn pháp vô vi trong không thuộc về pháp giới. Pháp vô vi này lại có tám thứ: Chân như của pháp lành. Chân như của pháp chẳng lành. Chân như của pháp vô ký. Hư không. Phi trạch diệt. Trạch diệt. Bất động. Tưởng thọ diệt. Như thế trong tám vô vi được kiến lập, phải biết vì sự khác nhau của đối tượng nương tựa nên phân tích chân như, vì giả lập ba thứ không do tự tánh. Chân như của pháp lành: Tánh vô ngã, tánh không, thật tế vô tướng, pháp giới thắng nghóa. Vì sao chân như gọi là chân như? Do tự tánh của chân như kia không có thay đổi, nghóa là tất cả thời gian không có ngã, vì tánh thật không có đổi thay, chuyển biến, nên nói không có thay đổi khác. Phải biết rằng, chân như này tức là tánh vô ngã, vì lìa hai ngã. Vì sao lại nói chân như này gọi là tánh không? Vì tất cả tạp nhiễm không ô nhiễm. Vì sao? Vì duyên này nên có thể khiến tất cả các sự tạp nhiễm đều vắng lặng, dù có lúc nói có tạp nhiễm. Phải biết rằng chỉ là bị ô nhiễm do phiền não khách trần. Thế nào gọi là khách trần ô nhiễm? Nghóa là do chưa cứu vớt hạt giống của chủ thể, đối tượng nhận lấy, nên thiếu chuyển biến hai tánh tướng của tâm, tánh y tha, chẳng phải tâm pháp tánh, vì pháp tánh của các pháp thanh tịnh. Sao lại nói chân như này là vô tướng? Vì các tướng vắng lặng, các tướng, nghóa là sắc, thọ, v.v… cho đến các đối tượng hý luận Bồ-đề. Vì tướng vắng lặng kia ở trong tánh chân như nên gọi là Vô tướng. Vì sao lại nói chân như này là Thật tế? Vì đối tượng duyên không có trái ngược. Thật, nghóa là không có điên đảo, vì cuối cùng của xứ này, nên gọi là tế. Vượt qua tánh vô ngã, lại vì không có đối tượng mong cầu. Vì sao nói chân như này là Thắng nghóa? Vì sự thực hành của Thánh trí là vượt hơn hết. Vì sao lại nói chân như này là pháp giới? Vì là tướng, đối tượng nương tựa, pháp mầu của tất cả Thanh văn, Duyên giác, chư Phật. Như chân như của pháp lành, phải biết rằng chân như của pháp chẳng lành, chân như của pháp vô ký cũng giống như vậy. Hư không, nghóa là tánh không có sắc, che chở, tiếp nhận tất cả nghiệp đã gây tạo. Tánh không có sắc, nghóa là chỉ trái với sắc. Pháp của tướng không có tánh, cảnh giới của ý thức, đó gọi là hư không. Cảnh giới của ý thức, nghóa là vì thuộc về pháp giới nên chỉ trái với sắc, vì thọ, v.v… riêng, có chung chân như, trạch diệt, chẳng phải tánh diệt vô thường, mặc dù sừng thỏ cũng chẳng có tánh, nhưng chúng không mâu thuẫn với các pháp, vì chúng chỉ là cuối cùng không có. Lại, sừng thỏ chẳng phải chỉ trái với sắc, mà là vì chung với các pháp thọ, v.v… Cho nên, chỉ nói mâu thuẫn với sắc. Nói tướng không có tánh, vì pháp chẳng có sắc, thọ riêng. Vì sao? Vì tự thể của thọ v.v… là tướng có tánh, vì không phải tướng chẳng có tánh, nên phi trạch diệt, nghóa là diệt chẳng phải lìa trói buộc, vì không là hẳn có hai tùy miên. Trạch diệt, nghóa là diệt, là lìa trói buộc, vì vónh viễn có hại tùy miên. Không lay động: Nghóa là đã lìa dục biến tịnh, chưa lìa dục trên. Khổ vui diệt, vô vi tưởng, thọ diệt, nghóa là đã lìa dục vô sở hữu xứ, vượt qua Hữu đảnh, tạm dứt ý tương tác làm ưu tiên, nên các tâm, tâm pháp không thường hiện hành và thường hiện hành một phần tâm, tâm sở diệt, lập vô vi. Phải biết, trong đây có hai pháp nên dứt, đó là các phiền não và thọ, đối tượng nương tựa này. Thọ có hai thứ, gọi là thay đổi khác và không thay đổi khác, như thứ lớp đó, khổ vui, chẳng phải khổ vui. Phải biết: Một là vì phiền não dứt nên lập ra trạch diệt. Hai là vì dứt thọ nên như thứ lớp đó kiến lập Bất động và Diệt Thọ tưởng. Như thế, kiến lập trong tám vô vi. Phải biết rằng vì sự khác nhau của đối tượng nương tựa nên phân tích chân như, giả lập ba thứ, vì không do tự tánh nên chân như pháp lành, nghóa là tánh vô ngã, tánh không, thật tế vô tướng, pháp giới thắng nghóa. Vì sao chân như gọi là chân như? Vì tự tánh của chân như kia không có thay đổi. Nghóa là tất cả thời gian không có ngã, vì thật tánh không có chuyển biến, thay đổi, nên nói là không có thay đổi. Phải biết rằng tức là tánh vô ngã, vì lìa hai ngã. Vì sao lại nói chân như này gọi là tánh không? Vì tất cả tạp nhiễm không ô nhiễm. Vì sao? Vì duyên này nên có thể khiến tất cả các sự tạp nhiễm đều vắng lặng. Dù lại có lúc nói có tạp nhiễm, phải biết rằng chỉ là khách trần bị ô nhiễm do phiền não. Thế nào gọi là khách trần ô nhiễm? Nghóa là vì chưa nhổ hạt giống đối tượng nhận lấy, chủ thể nhận lấy, nên khiến chuyển biến hai hành tướng tâm tánh y tha, không phải tâm pháp tánh, vì pháp tánh thanh tịnh của các pháp. Vì sao lại nói chân như này là vô tướng? Vì các tướng vắng lặng. Các tướng: Nghóa là sắc, thọ, v.v… cho đến các đối tượng hý luận đối với Bồ-đề, vì tướng vắng lặng kia trong tánh chân như, nên gọi là vô tướng. Vì sao lại gọi Chân như này là Thật tế? Vì đối tượng duyên không có trái ngược. Thật, nghóa là không có điên đảo, vì chỗ này cuối cùng nên gọi là tế, vì vượt qua vô ngã, lại không có đối tượng mong cầu. Vì sao lại gọi Chân như này là Thắng nghóa? Vì vượt hơn lónh vực mà Thánh trí đã vận hành. Vì sao lại gọi Chân như này là Pháp giới? Vì là tướng của đối tượng nương tựa của Thanh văn, Duyên giác, pháp mầu của chư Phật. Như chân như của pháp lành, phải biết chân như của pháp chẳng lành, chân như của pháp vô ký cũng như vậy. Hư không: Nghóa là tánh không có sắc, vì dung nạp tất cả nghiệp đã gây ra. Tánh không có sắc, nghóa là chỉ trái với sắc, pháp của tướng không có tánh, cảnh giới của ý thức, gọi là hư không. Cảnh giới của ý thức, nghóa là vì thuộc về pháp giới nên chỉ trái với sắc, nói là thọ, v.v… riêng; Có chung chân như trạch diệt, phi trạch diệt, tánh vô thường v.v… Mặc dù sừng thỏ v.v… cũng chẳng có tánh, nhưng nó không mâu thuẫn với các pháp, vì nó chỉ là cuối cùng không có. Lại, sừng thỏ, v.v… không phải chỉ trái với sắc, vì chung với các pháp thọ, v.v… Cho nên chỉ nói trái với sắc. Tướng không có tánh, nói là pháp không có sắc của thọ, v.v… riêng. Vì sao? Vì tự thể của thọ v.v… là tướng có tánh, vì chẳng phải tướng không có tánh. Phi trạch diệt, nghóa là diệt này không phải lìa trói buộc, vì không mãi mãi hại tùy miên. Trạch diệt, nghóa là diệt này là lìa trói buộc, vì mãi mãi hại tùy miên. Không lay động, nghóa là đã lìa dục của biến tịnh, chưa lìa dục cõi trên. Khổ, lạc diệt, vj, tưởng thọ diệt. Nghóa là đã lìa dục của vô sở hữu xứ, siêu vượt qua hữu đảnh, tạm thôi dứt ý tương tác, làm ưu tiên nên các tâm, tâm pháp không thường vận hành và một phần tâm, tâm sở diệt thường hiện hành, vô vi, phải biết trong đây có hai pháp nên dứt, đó là các phiền não và thọ đối tượng nương tựa này. Thọ có hai thứ: Một là thay đổi và không thay đổi, như thứ lớp của thọ. Khổ, lạc, chẳng phải khổ, lạc, phải biết vì phiền não dứt nên kiến lập trạch diệt. Hai là vì thọ đoạn như thứ lớp của thọ, kiến lập bất động và thọ tưởng diệt. Phiền não đoạn. Nghóa là trừ sự thô nặng của phẩm này đã được chuyển y. Thọ đoạn: Nghóa là trừ định, chủ thể trị này, chướng, đã được chuyển y, cho nên, khi được tónh lự thứ hai, dù chứng khổ diệt, nhưng không kiến lập vô vi, do trái, khác với thọ, vì chưa dứt hết. Lại, khổ năm thứ, nếu sắc, thọ, tưởng, hành, uẩn và tám pháp vô vi đã nói ở đây, mười sáu như thế, gọi chung là pháp giới năm thứ sắc, nghóa là sắc cực lược, sắc cực hoánh, sắc do thọ dẫn, sắc do biến kế dẫn, sắc do tự tại sinh. Hỏi: Giới nghóa là gì? Đáp: Nghóa hạt giống của tất cả pháp. Nghóa là y chỉ chủng tử các pháp trong thức A-lại-da, gọi là giới, vì giới là nghóa nhân. Lại, nghóa hay giữ gìn tự tướng, là nghóa giới, công năng gìn giữ tánh nhân quả. Nghóa là các giới căn, cảnh trong mười tám giới, các giới và giới sáu thức như thứ lớp của giới đó. Lại, nghóa gồm thâu, gìn giữ sự khác nhau của tất cả pháp là nghóa giới. Gồm thâu, gìn giữ sự khác nhau của tất cả pháp, nghóa là các kinh nói: “Các giới địa, v.v… và giới khác tùy thuộc vào đối tượng thích hợp, đều thuộc về mười tám giới”. Nếu y cứ theo Tiểu thừa thì thuộc về thật, nếu y cứ theo sơ giáo thì thuộc về không. Không, nghóa là không vô phân biệt. Nếu y cứ Chung giáo thì thuộc về chân như, nghóa là không bị hệ thuộc. Nếu y cứ Đốn giáo thì không thể nói, nếu y cứ Nhất thừa thì như trước đã nói, tất cả nghóa khác như chương riêng. PHỤ THÊM CHƯƠNG MƯỜI HAI XỨ Thế nào là kiến lập xứ? Nghóa là mười giới sắc, tức mười xứ sắc. Giới bảy thức tức xứ ý, giới pháp tức xứ pháp, do đạo lý này đối với ba pháp thuộc uẩn, giới, xứ, nghóa là giới pháp sắc uẩn và giới xứ ý. Do sắc uẩn gồm thâu mười giới sắc. Pháp giới gồm thâu giới pháp, xứ ý gồm thâu giới bảy thức, cho nên, ba pháp gồm thâu tất cả pháp. Hỏi: Nghóa xứ là thế nào? Đáp: Nghóa môn thức sinh trưởng là nghóa xứ, nên biết nghóa hạt giống gồm thâu tất cả pháp. Nghóa khác nhau cũng là nghóa xứ. Lại nữa, như Phật nói: “Sắc như đống nước bọt, thọ như bọt nước trôi nổi, tưởng như ánh nắng mặt trời, hành như cây chuối, thức như trò ảo thuật biến hóa”. Hỏi: Vì sao sắc như đống bọt nước, cho đến thức như trò ảo thuật biến hóa? Đáp: Vì không có ngã, vì lìa tịnh, vì ít vị, vì không bền chắc, vì không thật, nghóa là không phải xa lìa luống dối, không vững chắc. Nghóa thật là các câu nghóa mà kinh đã nói. Lại, vì đối trị với bốn điên đảo ngã, tịnh, lạc, thường nên như thứ lớp đó, nói các câu khác nhau vô ngã. Dùng nghóa này để so sánh với nghóa của giáo ban đầu, không đồng với Tiểu thừa. Nếu nhập chung giáo, cho đến Viên giáo, như môn giới đã nói, nghóa khác có nói trong chương riêng. NÓI VỀ PHẨM VẤN NẠN, ĐẦU TIÊN, LẬP CHƯƠNG DUY THỨC, DUY THỨC LƯỢC CÓ MƯỜI MÔN Nêu số. Nêu danh. Nêu ra thể. Nói về giáo khởi ý. Kiến lập. Nói về thành tựu, không thành tựu. Nói về đối trị diệt, không diệt. Nói huân tập, không huân tập. Nói về chân, vọng khác nhau. Quy thành tánh, vô tánh nghóa đệ nhất. 1. Đầu tiên là nêu, nghóa là nhất tâm, tức tâm thanh tịnh đệ nhất nghóa. + Nêu ba pháp, nghóa là chỉ lượng, chỉ hai và mỗi thứ. Lại, có ba pháp, nghóa là ba thứ tâm, ý, thức thành tám thức. Năm thức như nhãn, v.v… ý thức, thức mạt-na, thức A-lại-da. + Thành chín thức, nghóa là thêm thức a-ma-la. + Thành mười tâm, nghóa là mười rừng rậm, như Địa Luận chép: “Bồ-tát này biết như thật các tâm chúng sinh, mỗi thứ tâm tướng, tâm tướng lẫn lộn, tâm khinh tướng sinh, không sinh, tâm không có hình tướng, vô biên tất cả xứ, tâm rất nhiều tướng, tâm tướng thanh tịnh, tâm tướng nhiễm, không nhiễm, tâm tướng ràng buộc, giải thoát, tâm tướng huyễn khởi, tâm tướng thuận theo đạo sinh, cho đến vô lượng trăm ngàn các thứ tướng khác nhau của tâm, đều biết như thật. + Thành mười một thức, nghóa là thân thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, tự tha sai biệt thức, hai đạo thiện ác sinh tử thức. + Gồm thâu làm bốn: Thức giống như trần. Thức giống như căn. Thức giống với ngã. Thức giống với thức. + Hoặc triển khai vô lượng, như Địa Luận chép: “Cho đến vô lượng trăm ngàn các thứ tướng sự việc của tâm”. Nêu danh, Nghóa là thức A-lại-da, thức A-đà-na, tâm, ý, thức, cho đến tận cùng uẩn sinh tử, v.v… bảy thức còn lại có thể biết. Phát ra thể, cuối cùng dùng Như Lai tạng làm thể. Sở dó biết được là vì kinh Thắng-man chép: “Do có pháp Như Lai tạng gieo trồng các nỗi khổ, cho đến vì ưa cầu Niết-bàn nên biết được. Lại, Như Lai tạng không nhiễm mà nhiễm, y cứ vào Như Lai tạng này tức là thể sinh tử nhiễm mà không nhiễm. Y cứ vào sinh tử này tức là Niết-bàn, không còn có pháp nào khác”. Lại, Văn kinh chép: “Sáu thức và tâm pháp trí là sự sinh diệt kia, không đáng nương tựa, chỉ Như Lai tạng không khởi, không diệt, trở thành chỗ nương tựa rốt ráo”. Giáo khởi ý: Nhiếp Luận bản dịch đời Lương chép: “Do thuộc về cảnh giới sâu kín của tâm thức này, nên Phật không vì Thanh văn, Nhị thừa mà nói, mà vì các Bồ-tát giảng nói, nên có quả vị vượt hơn, vì được trí Nhất thiết, nên Phật nói. Vì sao? Vì nếu lìa trí này mà được vô thượng Bồ-đề thì không có việc đó. Kiến lập, có ba: Một là y cứ Tạp Tập, Du-già, v.v… chép: “Tám tướng nói về kiến lập”. Hai là y cứ theo Nhiếp Luận chép: “Ba tướng, v.v… tám nghóa nói về kiến lập. Ba là y cứ luận Hiến Dương chép: “Mười chín tướng nói về kiến lập”. Tám tướng đầu tiên, luận Tạp Tập chép: “Làm sao biết có thức lại-da? Nếu không có thức này thì chấp thọ đầu tiên đã hiểu rõ sáng suốt nghiệp hạt giống, thân, thọ không có làm, thì quyết định qua đời sẽ không có, đều không hợp lý”. Giải thích Già-tha này, như Nhiếp quyết trạch phần chép: “Do tám thứ tướng chứng minh thức A-lại-da quyết định là có”, nghóa là nếu lìa thức A-lại-da vì y chỉ chấp thọ không thật có, vì đầu tiên sinh khởi không thật có, vì hiểu rõ sáng suốt sinh khởi không thật có, vì thể tánh chủng tử không thật có, vì thể tánh nghiệp dụng không thật có, vì thể tánh thân, thọ không thật có, vì ở định vô tâm không thật có, nên mạng chung không thật có”. Sao là y chỉ chấp thọ không thật có? Vì năm nhân, nghóa là nhân hạnh trước của thức A-lại-da cảm các chuyển thức như nhãn v.v… hiện duyên nhân phát, như nói căn cảnh vì sức tác ý, nên các chuyển thức sinh, cho đến nói rộng, đây gọi nhân ban đầu. Lại, việc thiện ác của thân sáu thức có thể được, là nhân thứ hai. Lại, một loại của thân sáu thức thuộc về tánh vô ký dị thục, tất nhiên không thật có, là nhân thứ ba. Lại, thân sáu thức đều chuyển y riêng, tùy thuộc vào đối tượng y chỉ, khi thức kia sinh tức là đối tượng nương tựa chấp thọ kia, không có chấp thọ khác, là không hợp lý. Dù cho thừa nhận chấp thọ cũng không hợp lý, vì lìa thức nên là nhân thứ tư. Lại, đối tượng nương tựa lẽ ra trở thành lỗi lầm thường chấp thọ. Vì sao? Vì nhãn thức kia có lúc chuyển, có lúc không chuyển, thức khác cũng thế, là nhân thứ năm. Sao đầu tiên duyên khởi không thật có chăng? Nghóa là nếu có câu hỏi rằng: “Nếu có thức A-lại-da thì một hữu tình, hai thức đếu cùng khởi, nên bảo người kia: “Ông đối với không phải lỗi, mà vọng sinh tưởng lỗi, chấp nhận có hai thức đều có lúc cùng chuyển. Vì sao? Vì cũng như một người đều cùng thời điểm muốn thấy, cho đến muốn nhận thức, tùy thuộc có một thức, đầu tiên sinh khởi, không hợp với đạo lý. Vì sao? Vì lúc bấy giờ tác ý không có khác nhau, vì căn và cảnh giới không hoại hiện tiền, vì nhân duyên nào nên thức không cùng chuyển. Sao hiểu rõ sinh khởi không thật có chăng? Nghóa là nếu có chấp nhất định thì thức không đều cùng sinh, thức và nhãn đều cùng hiện hành một cảnh, ý thức thấu đạt sáng suốt lẽ ra không thật có. Vì sao? Vì hoặc có lúc tùy thuộc nhớ nghó đến cảnh từng đã cảm thọ. Bấy giờ, ý thức không sáng tỏ sinh, không sáng rõ như thế, cho nên lẽ ra phải tin các thức đều cùng chuyển, hoặc lẽ ra phải thừa nhận tánh không có sáng rõ của ý thức thứ sáu kia. Sao thể tánh của hạt giống không thật có chăng? Vì rằng mỗi thân có sáu chuyển thức đều khác nhau. Vì sao? Vì sáu chuyển thức này đều từ tánh vô gián thiện, bất thiện sinh, vô gián bất thiện, tánh thiện lại sinh, từ hai tánh vô ký vô gián sinh, cõi giữa, vô gián cõi dưới sinh, cõi diệu, vô gián cõi giữa sinh, vô gián cõi diệu cho đến cõi dưới sinh, vô lậu, vô gián hữu lậu sinh, hữu lậu, vô gián vô lậu sinh, xuất thế gian vô gián thế gian sinh, thế gian vô gián xuất thế gian sinh, không phải thức tướng như thế làm thể hạt giống thích ứng với lý chánh đạo. Lại, tâm nối tiếp nhau gián đoạn trong thời gian dài, trải qua trôi lăn lâu dài không dứt. Cho nên, chuyển thức có công năng gìn giữ hạt giống, không hợp lý. Thế nào là tác dụng nghiệp không thật có? Nghóa là nếu không có các thức sinh khởi, đồng thời tác dụng nghiệp đều cùng chuyển vận thì sẽ không hợp lý. Vì sao? Vì lược nói nghiệp thức có bốn thứ, nghóa là thấu đạt khí ngoại, thấu đạt y chỉ, công năng thấu đạt ngã, thấu đạt cảnh giới. Nghiệp hiểu biết của bốn thứ thức như thế, mỗi một sát-na đều biến hiện có thể được, không phải ở một thức trong một sát-na mà có những nghiệp dụng khác nhau như thế. Cho nên phải có các thức đều cùng khởi. Vì sao thể tánh của thân, thọ không thật có? Cũng như có người hoặc suy nghó đúng lý, hoặc suy nghó không đúng lý, hoặc không suy nghó, hoặc lại tìm tòi, hoặc tâm ở trong định, hoặc không ở trong định. Thân thọ sinh khởi, chẳng phải số nhiều. Nếu không có thức A-lại-da thì thân thọ như thế, lẽ ra không thể được. Đã hiện có thể được, cho nên nhất định có thức A-lại-da. Ở định vô tâm không thật có chăng? Như Đức Thế Tôn nói: “Nhập định Vô tưởng và định diệt tận phải biết rằng, bấy giờ thức không lìa thân. Nếu không có thức A-lại-da thì thức lẽ ra lìa thân, nếu thức lìa thân thì đó là bỏ mạng, không phải gọi là xứ định. Thức của mạng chung không thật có là sao? Nghóa là khi sắp qua đời thức lìa bỏ dần, phần thân đối tượng nương tựa, phát khởi chạm sát lạnh, hoặc trên, hoặc dưới, không phải ý thức kia, vì có lúc không chuyển biến, nên biết chỉ có thức A-lại-da năng giữ gìn thân, tùy thuộc vào phần thân. Nếu bỏ thức này thì chạm sát lạnh có thể được. Thân không có giác thọ, ý thức thì không phải như vậy. Cho nên, nếu không có thức A-lại-da thì thức của người chết tất nhiên không thật có. Hỏi: Như văn luận trước kia có nói: “Tâm, nghóa thức A-lại-da đã huân tập tất cả hạt giống do tập khí của uẩn, giới, xứ, cũng gọi là thức dị thục, cũng gọi thức a-đà-na, vì công năng chứa nhóm các tập khí. Tập khí, nghóa là do uẩn v.v… hiện hành, khiến cho hạt giống kia đều được tăng ích. Tất cả hạt giống thức, nghóa là công năng sinh hạt giống của các pháp như uẩn, v.v… đã được chứa nhóm. Thức A-lại-da có công năng gồm thâu, chứa giữ hạt giống các pháp. Lại vì các hữu tình nhận lấy làm ngã. Thức dị thục: Vì nghiệp trước đã sinh. Thức A-đà-na: công năng thường làm cho sinh ra nối tiếp nhau, gìn giữ các căn, không để cho hư hoại. Lại, nói tâm: công năng chứa nhóm tập khí của tất cả pháp. Y cứ vào tướng văn này, thức A-lại-da tức ở trong sự. Làm sao biết được là Như Lai tạng? Đáp: Do Như Lai tạng không nhiễm mà nhiễm là sự tướng kia, không có sự có riêng, là Như Lai tạng, nên luận chép: “Ngoài thức không còn có pháp nào khác. Nương tựa Nhiếp luận, kiến lập A-lại-da chăng? Có tám nghóa, đầu tiên, y cứ ở nghóa ba tướng biết có bản thức. thức. Y cứ ở nghóa huân tập thành có bản thức. Y cứ ở nghóa làm nhân quả lẫn nhau trở thành có bản thức. Y cứ nghóa không là một, không là khác, trở thành có bản thức. Y cứ vào nghóa riêng, không riêng của nhân quả, trở thành có bản Y cứ vào nghóa duyên sinh trở thành có bản thức. Y cứ vào nghóa đủ, không đủ của nhân duyên kia, trở thành có bản thức. Y cứ hội danh quy chánh trở thành có bản thức. Đầu tiên, y cứ vào ba tướng để kiến lập Lại-da. Ba tướng đó là: Một là thuộc về tướng nhân, tất cả nhân vẫn sử dụng làm nhân lẫn nhau là bắt đầu. Vì sao? Vì làm nhân lẫn nhau, vì vi tế tương đương với thức. Hai là tướng quả gồm thâu của quả, vẫn dùng làm quả lẫn nhau là bắt đầu. Ba là tự tướng tức tướng dị thục trong Thành Duy Thức. Thức dị thục gồm thâu tất cả pháp. Sở dó biết được là vì dựa vào hạt giống dị thục của tất cả pháp được sinh, không cuộc hạn ở nghiệp báo phiền não, danh ngôn, tập khí vì tùy thuộc tương ưng tất cả, nên biết. Hỏi: Nếu như thế thì dị thục và hạt giống thức đều kết hợp thọ huân tập thì vì sao nói riêng sự thọ huân tập của quả báo dị thục? Đáp: Nay, huân tập muốn nói hạt giống của dị thục kia thì hạt giống thức vì đã là hạt giống của dị thục, nên không giải thích đối nhau, vì thức của dị thục, vô ký làm sáng tỏ nhau, vì thuận theo với huân tập nên ở trong vị vô ký nói về nghóa huân tập kia. Nay, trong nhiếp luận dịch vào đời Lương biểu thị rõ ý nghóa của ba tướng A-lại-da, nói bổn thức là thể của nhân quả. Y cứ ở sự huân tập thành bản thức, nghóa là nói thành nghóa huân tập trong bản thức, pháp khác tức không có. Nói về nghóa làm nhân quả lẫn nhau, trở thành có bản thức: nói trong bản thức có nghóa làm nhân quả lẫn nhau, pháp khác thì không có. Nếu như vậy thì do đâu bó cỏ tranh được làm nhân quả lẫn nhau? Đáp: Trong pháp khác làm nhân quả lẫn nhau, tức là chuyển vận môn lý, giả thuyết nhân quả chẳng phải chân thật. Y cứ không phải một, không phải khác, trở thành có bổn thức nghiệp là hạt giống chánh, nên lúa, lúa mì là nhân giả kia. Vì nghóa này không ngờ vực nên văn luận nêu là gốc ngoại để chứng tỏ nội có huân tập. Về nghóa huân tập đó lê-da đủ bốn đức mới có khả năng thọ huân tập. Kiên cố, nghóa là vì lý thật nên kiên cố, Pháp khác ngoài thức, dựa vào thức không tự tại, đều không kiên cố. Hỏi: Nếu các pháp không có kiên cố thì vì sao lại dẫn rau diếp cho là kiên cố? Đáp: Loại rau diếp giống như kiên cố mà không là kiên cố. Vì sao? Vì chẳng bao lâu nó cũng sẽ tan hoại, còn Lê-da thì không như vậy. Quả báo cũng không vững chắc, vì dựa vào duyên thành, tức không tự tại, đâu được là kiên cố về đạo lý không thể. Nghóa vô ký mới được thọ huân tập. Vì sao? Vì vô ký tức là nghóa vô phân biệt mà trong Như Lai tạng mới có pháp này. Nếu vậy thì vì sao quả báo là vô ký? Đáp: Ở đây vì trí Thanh Văn nông cạn nên dẫn vị gần kia, nói báo thọ huân tập. Quả báo không thể dụng, vì thức làm thể nên nói quả báo không có nghóa vô ký thật rốt ráo, Đạo lý như thế. Có thể huân tập, chỉ Như Lai tạng không giữ tự tánh, thuận theo các pháp duyên khởi thành nghóa tương tự, nên là có thể huân tập. Pháp khác thì không như vậy, vì bị duyên ràng buộc, đâu được lại chuyển thọ huân tập các pháp, vì pháp khác này không thành có thể huân tập. Hỏi: Nếu nghóa như đây thì vì sao nói áo có thể được thọ huân? Đáp: Áo cũng là giả, không phải thật có thể xông ướp. Sở dó biết được như vậy là vì như hương xông áo, áo hư hoại, mùi hương vẫn tồn tại, nên biết, ướp tơ lụa không ướp áo, do đây suy nghiệm, nói xông áo chỉ cho vị ngữ, chỉ bốn trần, v.v… tơ lụa thọ xông ướp. Vì tiếp theo tìm tòi. Trần cũng không thọ xông ướp. Vì sao? Vì khi hương xông, hương thành tức là nghóa quả, là đạo lý nhân quả, chính là đức của Như Lai tạng, lìa tạng lại không có. Vì sao? Vì chỉ nói nhân quả trong các pháp, đều chuyển vận môn lý, chẳng phải là nghóa thật. Bốn đức tương ưng với chủ thể huân tập, chỉ Như Lai tạng có thích hợp với nghóa các pháp, pháp khác thì không có. Vì sao? Vì không giữ tự tánh. Nếu vậy thì vì sao nói gương soi tương ưng với chất? Đáp: Gương soi cũng không tương ưng, chỉ gương soi thích ứng với chất ngoài, tức là lý của chánh nhân quả. Lý chánh nhân quả thì không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên tức chân như vô ngã, nên biết, gương soi ứng với chất là môn chuyển lý của giả thuyết kia. Nói về nghóa sinh dẫn hai nhân nhằm chứng chỉ có bản thức. Nếu dùng nghóa nhân để làm sáng tỏ thì thành hai thứ nhân: Sinh nhân. Dẫn nhân. Cũng như người nghèo cùng, buông tên là sinh nhân, giương cung là dẫn nhân, cho đến quả báo chủ thể sinh kể cả qua đời là sinh nhân, khổ mất nối tiếp nhau là dẫn nhân kia là hai thứ nhân, vì lìa thức A-lại- da thì không được thành nên chỉ có thức. Trong là gốc ngoài chứng chỉ có thức, cho nên biết được là vì tất cả đều là thức, nên là gốc. Pháp ngoài dựa vào thức trở thành không có thể, tức không, nên biết trong thức là căn bản của pháp ngoài, pháp khác do kiến lập giả dối nên không thể y cứ. Quả của ba tuệ thành, pháp nghe, suy nghó, tu từ vi tế, cho đến vướng mắc, đều do bản thức Như Lai tạng thành. Sở dó biết được là vì huân tập văn, từ chân như lưu, phải biết chân như là gốc ba tuệ thọ huân tập thành chủng, chuyển được tăng thượng, pháp khác thì không có. Hỏi: Nếu vậy thì chân như đủ đức chỉ tự lưu xuất, đâu cần huân tập nữa? Đáp: Chân như thật ra không giữ tự tánh, vì đợi duyên mới khởi, nên nói là huân tập. Y cứ vào sự thọ dụng duyên sinh với thức, nương tựa nhau thành, làm nhân quả lẫn nhau mới được thọ dụng, nói chỉ có thức. Nếu không có dụng nhiếp thọ của lại-da duyên sinh, thì sẽ không thành thọ dụng, nên luận nói: “Các pháp đối với tạng thức, thức đối với pháp cũng vậy, hai thứ này làm nhân lẫn nhau, cũng thường làm quả lẫn nhau. Kệ này y cứ vào xứ thọ dụng của tâm trên, mà nói. Về nghóa thọ dụng kia như luận nói: “Nói về danh duyên thức, nói danh thọ thức, hiểu rõ thọ, danh phân biệt khởi tâm pháp hạnh. Sự thọ dụng này thành chung hạt giống và tâm trên, đều sinh dẫn kiến lập, thành tựu không giả dối, rộng như luận nói”. Theo nhân duyên đủ, không đủ, thức A-lại-da chỉ làm nhân sinh lẫn nhau, nhân khác lại không có, Pháp khác không như vậy, vì mười hai duyên sinh, chỉ tăng thượng sinh thọ dụng. Duyên sinh có ba duyên sinh, nghóa là duyên tăng thượng, duyên duyên, duyên thứ đệ. Vì sao như vậy? Đáp: Mười hai duyên sinh là tướng giả. Vì theo đuổi sự mà nói, nên duyên không đồng với Lê-da. Về lý tánh không y cứ vào sự để nói, chỉ y cứ vào môn phát khởi ban đầu để nói là làm nhân quả lẫn nhau, pháp khác có thể so sánh mà biết. Lại, y cứ vào bí mật đều đủ bốn duyên, tám hội, gọi là quy chánh, nói có Lại-da. Bản dịch vào đời Lương chép: Lại nữa, người trong chánh pháp dù là nguyện ưa vô ngã trái nghịch với thân kiến. Đối với thức A-lại-da cũng có tự ngã ái. Giải thích: Trước y cứ người ngoài Phật, pháp. Lại nữa, y cứ vào người trong pháp Phật, tự có ba phẩm: Ở chánh tư. Ở chánh tu. Ở hữu học. Người của ba phẩm này, hai người chế phục ngã kiến, một người diệt ngã kiến. Vì sao? Vì hai người trước so sánh không có ngã, một người sau, vì chứng biết vô ngã nên nói trái ngược với thân kiến. Ở trong A-lại-da thường tập ngã ái trong thời gian dài, dù rằng trái nghịch với thân kiến, nhưng ở trong bản thức, ngã ái cũng thường theo đuổi. Cho nên, thân kiến chẳng phải chỉ ái vướng mắc. Nếu đem danh Lại-da nói là nghóa Lê-da chỉ ở bản thức, nghóa ấy liền trội hơn. Nếu gọi xứ của hai ngã kiến nhân và pháp thì không phải vượt hơn. Nghóa Lại-da nên so sánh ở đây mà biết. Y cứ luận Hiển Dương kiến lập thức A-lại-da có mười chín môn: Nghiệp tăng trưởng đã tạo ở đời trước, giải thích thức với các pháp là nghóa ưu tiên nên luận Khởi Tín chép: “Tất cả thời gian thường ở trước”. Hoặc làm duyên, giải thích thức vì các pháp tạo duyên tăng thượng. Từ thời vô thỉ đến nay, hý luận huân tập làm nhân, giải thích hý luận vô thỉ huân tập hạt giống làm nhân sở khởi của thức. Tất cả hạt giống đã sinh, giải thích đây là nói hạt giống của tất cả pháp, là do thức sinh. Thức dị thục làm thể, giải thích dựa vào các hạt giống và tâm trên, phát ra thức, vì hiện tại là dị thục nên dùng dị thục này làm thể. Thức này năng chấp thọ, giải thích: nói bản thức và các pháp là một, các pháp lại một với bản thức, như đề hồ cùng đồ đựng. Thấu đạt sắc căn, giải thích: thức gìn giữ các sắc căn, khiến căn sáng rõ. Nơi chốn y căn, giải thích: thức là đối tượng nương tựa của các căn, thành nhân nương tựa. Và hý luận huân tập, giải thích: nói thức với hý luận huân tập hạt giống tâm trên làm chỗ đối tượng nương tựa. Đối với tất cả thời gian một loại sinh diệt không thể biết rõ, giải thích: Thuyết minh bản thức kia nối tiếp nhau sinh khởi, lìa các phân biệt, không thể phân biệt biết. Lại, có thể chấp thọ khí thế giới ngoài sự thấu đạt, giải thích: nói bản thức kia và khí thế giới đồng với bản thức một mà được thành tựu gọi là thấu đạt. Tương ưng với bất khổ bất lạc thọ, giải thích: nói vì tướng bản thức kia vô phân biệt, thuận với bất khổ bất lạc thọ, gọi là tương ưng. Hoàn toàn vô phú, vô ký, giải thích: nói tục đế của bản thức kia, vì lìa các phân biệt nên không che mất Thánh đạo, cũng không có ghi nhận thiện, ác trong sự. Làm nhân đối tượng nương tựa cho chuyển thức, giải thích: thuyết minh bản thức kia khi làm nhân cho chuyển thức làm sinh nhân lẫn nhau, cũng làm nhân nương tựa. Thọ và chuyển thức nhiễm, tịnh đều cùng chuyển, giải thích: nói bản thức kia đồng thời đồng xứ với pháp nhiễm tịnh, tương ưng với hạt giống sinh chung, diệt chung và tâm trên, lưu truyền ở hiện tiền gọi là đều cùng có chuyển. Hay tăng trưởng có chuyển thức, nhiễm v.v… làm nghiệp, giải thích: nói về tâm bản thức kia thành pháp ô nhiễm, ở trong đó vì có công năng nên là Nghiệp. Và năng tổn giảm chuyển thức thanh tịnh, giải thích: nói bản thức kia đối với trở lại thanh tịnh có công năng khiến sinh tử trở lại thanh tịnh, là nghiệp kia. Làm sao biết có thức, như Bạc-già-phạm nói: “Bị vô minh che khuất, kiết ái ràng buộc, ngu phu cảm được thân có thức, giải thích: luận tự giải thích: Đây là nói rõ có thức dị thục, tức là nghóa dẫn thức. Lại nói như năm hạt giống, đó là: Tâm, tâm sở, hữu, sắc, bất tương ưng, vô vi. Đây gọi là thức có nhận lấy, giải thích: luận tự giải thích: Đây là nói rõ có tất cả hạt giống thức, đồng với nghóa dẫn chứng ở trước. Luận dẫn kệ rằng: - Chấp trì thức sâu tế Các giống như ngựa chạy nhanh dòng nước chảy Đối với người ngu ngã không rõ Chớ chấp kia là ngã. Giải thích: Đây là nói rõ giáo với phân chia xếp đặt công việc đã làm. Thanh Văn, phàm phu không được nói cho nghe. Hỏi: Luận trước nói: thức A-lại-da, nghóa là đời trước đã tạo nghiệp thêm lớn, phiền não làm duyên. Từ thời vô thỉ, hý luận huân tập làm nhân, sinh ra tất cả hạt giống, thức dị thục làm thể. Y cứ tướng văn này bản thức tức là thể sinh tử. Nếu chẳng phải nhân sinh tử thì đâu ở chỗ làm nhân lẫn nhau của nhân quả sinh tử? Đáp: Đây là y cứ luận Thành Duy Thức, chỉ ở trong sinh tử để nói về đạo lý tương sinh của nhân quả, đều là môn chuyển lý, không có lý chân thật, phải biết rằng lìa ngoài thức, không còn pháp khác. Thức, tức là môn không nhiễm mà nhiễm, một nghóa Như Lai tạng, nên kinh Lăng-già bốn quyển chép: Lược nói có ba thứ thức, nói rộng có tám tướng. Ba thứ thức là: Chân thức, hiện thức và phân biệt sự thức. Rộng đã lược, nên biết chẳng khác với chân. Lại nói: Không phải tự chân tướng thức diệt, chỉ tướng nghiệp diệt. Nếu tự chân tướng diệt thì tạng thức sẽ diệt. Đại Tuệ! Tạng thức diệt ấy chẳng khác gì nghóa đoạn kiến của ngoại đạo. Tạng thức sâu kín như thế ở bờ mé cuối cùng, trừ các Như Lai và Bồ-tát trụ địa, các Thanh văn, Duyên giác ngoại đạo khác, tu hành đã được năng lực trí tuệ tam-muội, tất cả không thể tư duy, so lường, quyết đoán rõ ràng. Đại Tuệ! Thiện, bất thiện, nghóa là tám thức, tám thức là Như Lai tạng, gọi thức tạng, tâm ý thức và thân năm thức, chẳng phải thuyết mà ngoại đạo nói. Đại Tuệ! Như Lai tạng ấy cảm thọ khổ, vui với nhân đều có, hoặc sinh, hoặc diệt. Tứ trụ địa bị say bởi trụ địa vô minh. Phàm ngu không hiểu biết, sát-na thấy tướng luống dối hiện đức tâm. Kinh Lăng-già mười quyển nói: “Đại Tuệ! Huân tập hạt giống, tâm không diệt. Nhận lấy cảnh giới ngoại, các thức diệt. Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói như vầy: “Cái gọi là lìa các cảnh giới thức nối tiếp nhau diệt rồi thì diệt các thức”. Đại Tuệ! Như Lai tạng thức không ở trong thức A-lại-da, cho nên bảy thứ thức có sinh, có diêt, Như Lai tạng thức không sinh, không diệt. Vì sao? Vì bảy thức kia nương tựa các cảnh, niệm quán mà sinh. Cảnh giới của bảy thức này, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, ngoại đạo, người tu hành đều không thể biết, không biết như thật, vì nhân vô ngã, vì nhận lấy tướng đồng, tướng riêng, vì thấy pháp ấm, giới, nhập, v.v… Về nghóa mà nói nếu đạt nhân vô ngã thì gọi là nhân chấp tập, tức đạt được pháp vô ngã. Bảy thức thì đồng với Như Lai tạng. Đại Tuệ! Thức A-lại-da gọi Như Lai tạng mà vô minh, bảy thức đều có chung, như sóng biển thường vỗ không ngừng tuyệt, vì thân câu sinh, nên lìa lỗi vô thường, lìa lỗi ở ngã, tự tánh thanh tịnh. Lại, văn kinh y cứ các pháp tà niệm. Cho nên, có thức, sinh tám, chín mỗi thứ thức như các sóng trên mặt nước. Thứ đến là nói về thức Mạt-na, lược có tám môn: Nêu tên gọi. Nêu thể tánh. Nói về kiến lập. Nói về tương ưng. Y cứ ở đạo đối trị để nói có, không, đều nói phần vị đoạn. Đối với ba tánh phân biệt. Y cứ ba tánh biến kế, nói về phân chia xếp đặt. Trở lại nguồn cội, lộ rõ thật. Đầu tiên, nói về danh: Phương Tây gọi Mạt-na, Hán dịch là ý ô nhiễm. Đây là từ lỗi đặt tên. Thể tánh: Từ ba pháp phát ra thể, thì dùng tự tâm làm thể. Nói về kiến lập. Nhiếp Luận chép: “Nêu sáu lỗi chứng minh có mạt-na: Một là: Nếu không có mạt-na thì ý thức không giống với năm thức không thành lỗi. Do Phật ngữ Đại thừa, ý giải thích dưới bao gồm căn y chỉ đồng thời. Nếu không có mạt-na thì ý thức sẽ không có căn y chỉ đồng thời, không tương tự với năm thức, không thành lỗi đồng thời. Hai là: Nếu không có mạt-na thì thứ thứ sáu được mang tên ý thức, tức lỗi không có ý, vì ý thức là thứ lớp diệt, vì hiện không có thể. Ba là: Nếu không có mạt-na thì sẽ không có tưởng diệt, tâm nhất định không có lỗi sai khác. Nếu có mạt-na thì vô tưởng có mạt na diệt, tâm không có mạt-na, hai định thì có khác. Bốn là: Nếu không có mạt na thì tự nhiên sẽ trở thành không có lỗi trôi lăn, vì sao? Vì khi ý thức khởi thiện phần giải thoát, tức phải không có sự trôi lăn này, vì không có ngã kiến và ngã mạn. Năm là: Nếu không có mạt-na thì lỗi chấp về ngã sẽ không khắp ba tánh, nếu không có thức mạt-na thì khi ý thức khởi điều lành, phần giải thoát tức phải không có chấp ngã. Sáu là: Nếu không có mạt-na thì vô minh đi riêng một mình, sẽ không thành lỗi. Nếu khi có mạt-na, không có ý thức thì vô minh trong địa mạt-na, tức trở thành đi riêng một mình. Nếu không có mạt-na thì khi ý thức hiện hành, mạt-na thường xuyên làm y chỉ ô nhiễm, ý thức, vô minh khiến cho trở thành đi riêng một mình. Nếu có mạt-na, thì sẽ có sáu đức, lật lại trước kia, tức là bốn tương ưng: một khi mạt-na khởi thì nối tiếp nhau không dứt, tức tương ưng với ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, vô minh và thường tương ưng với số năm biến hành, gồm có chín số. Hỏi: Vì sao Nhiếp luận không nói pháp sở hữu của tâm, chỉ tương ưng với bốn sử? Đáp: Giáo Nhiếp của luận khởi từ giáo thuần thục kia, cho nên biết được việc đó là vì như văn của luận trí sai biệt dưới có nêu mười hai pháp rất sâu, nhằm giải thích rõ nghóa rất sâu, không chung với Thanh văn. Phải biết rằng, giáo cao không phải là giáo ban đầu. Nếu lập tâm số tức có đối tượng trở ngại vì không có ích đối với đạo nên không nói. Y cứ vào đạo đối trị để nói có, không, và phần vị đoạn, thức mạt- na đối với đạo vô lậu, tức nói là không có thức. Vì sao? Vì đối với lý vô ngã, trở thành sự ngăn ngại. Nếu nói thời điểm diệt thì ở vị kiến đạo đầu tiên, tức diệt mạt na. Vì sao? Vì chướng ngại kiến lý vô ngã, nên vô tánh Nhiếp luận: Vì chuyển mạt-na ô nhiễm, nên được trí bình đẳng tánh. Đầu tiên, khi hiện quán trước đã chứng đắc, chuyển ở vị tu đạo, lại chuyển thành thanh tịnh. Chuyển thanh tịnh tức diệt tập khí. Có người nói: Ở trong tu đạo, diệt ngã câu sinh. Câu sinh mạt-na và phiền não của tâm vô minh do tu đạo đoạn, nghóa này không đúng. Một khi mạt-na khởi, nối tiếp nhau duyên ngã không dứt, thì do đâu được sửa đổi cảnh, khởi pháp chấp kia. Nếu khởi pháp chấp thì đâu gọi là duyên một loại trần ngã. Hỏi: Vì sao mạt-na chỉ là câu sinh? Đáp: Mạt-na không duyên nghóa duyên ở ngoài, vì không duyên sinh nên không được khởi phân biệt ngã kiến. Hỏi: Luận nói: Ở ngã câu sinh do tu đạo đoạn, do đâu mạt-na là ngã câu sinh, chẳng phải do tu đạo đoạn? Đáp: Câu sinh do tu đạo đoạn là nhờ vị ngữ, như tăng-kỳ đầu tiên dứt ngoài da, tăng-kỳ thứ hai dứt tới thịt, tăng-kỳ thứ ba dứt tâm, việc này có thể như thế. Nay, đem tướng thô tế phân biệt, câu sinh là nhờ làm sáng tỏ kiến tu không phải dứt thật. Ba tánh phân biệt. Vì thức mạt-na là ô nhiễm, nên thuộc về tánh hữu phú vô ký. Ba tánh biến kế, thức mạt-na, là biến kế, là y tha, là viên thành thật, là ba vô tánh. Đây là y cứ Sơ giáo, nếu chung giáo tức chân như, nếu Viên giáo tức đủ tất cả. Vì sao? Vì thức mạt-na được tâm này. Trở lại căn duyên làm sáng tỏ thật, do thức mạt-na vốn là sinh tử đầu tiên không có. Nay, do trí cầu tức vì không chẳng có thật, nên tất cả pháp đều như, các Thánh hiền cũng như. Thứ đến, nói về ý thức: Ý thức là vô biên, phân biệt tất cả xứ, phân biệt với năm thức kia, hoặc một, hoặc khác, cho đến phát trí phân biệt, xếp đặt số tương ưng đều như phân biệt tâm sở trong hỏi đáp, rộng như chương riêng. Thứ sáu nói về thành tựu, không thành tựu: Vì nhân duyên thế đế không có tánh nên thành nghóa đế đệ nhất, vì xưa nay không tạo tác, vì không thành duyên thành, nên chẳng phải không thành, vì duyên thành nên chẳng phải thành, tất cả môn thức đều như thế. Nếu y cứ vào thành tựu có hai nghóa: Một là nói về nghóa thành tựu trong tướng. Hai là y cứ vào lý thể, nói về thành tựu. Tướng đầu thành tựu, y cứ luận Hiển Dương Thánh giáo. Hỏi: Nếu thành tựu thức A-lại-da thì cũng thành tựu chuyển thức phải chăng? Đáp: Nên tạo ra bốn câu: Hoặc thành tựu thức A-lại-da, không thành tựu chuyển thức. Tức là người không có tâm ngủ nghỉ, người không có tâm ngất xỉu, người nhập định Vô tưởng, người nhập định Diệt tận, người sinh lên cõi trời Vô tưởng. Hoặc thành tựu chuyển thức, không thành tựu thức A-lại-da. Nghóa là ở vị có tâm, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát không lui sụt và Như Lai. Hoặc đều thành tựu, nghóa là ở vị có tâm khác. Hoặc đều không thành tựu. Nghóa là A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát không lui sụt và Như Lai nhập định diệt tận, hoặc người ở cõi Niết-bàn vô dư. Y cứ vào thể lý thành tựu. Như trong Du-già Bồ-tát quyết trạch chép: Cho đến tuệ rộng, Bồ-tát như thế, dù cho pháp trụ trí làm y chỉ là kiến lập ở tâm, ý thức, sự khéo léo bí mật, nhưng các Như Lai không ở nơi này, thiết lập ở chỗ kia mà là vì tất cả Bồ-tát khéo léo bí mật ở tâm, ý thức. Nếu các Bồ-tát tuệ rộng, ở nội tại đều riêng, như thật không thấy thức a-đà-na, không thấy A-lại-da, không thấy thức A-lại-da, không thấy chứa nhóm, cho đến đây gọi là sự khéo léo thắng nghóa. Đây gọi là tất cả sự khéo léo bí mật ở tâm, ý thức. Bồ-tát lập ra tất cả sự khéo léo bí mật ở tâm ý thức, phải biết rằng thức A-lại-da muốn thành tựu thì phải hội thông Như Lai tạng mới trở thành y chỉ chắc thật. Nếu chỉ nhận lấy thức tướng sinh diệt thì nhiếp luận dịch vào đời Lương chép: “Khi bốn đức viên, thì bổn thức đều tận”. Nay nói diệt, kinh Lăng-già chép: “Chỉ có tướng tâm diệt, không phải thể tâm diệt”. Giải thích: Vì tướng tâm tức không nên không có đối tượng diệt, gọi là diệt, nên địa luận chép: Thế nào là diệt? Như hư không diệt cũng thế. Hỏi: Tướng Lại-da diệt, ở vị nào là cùng tận? Đáp: Ở Sơ địa là cùng tận. Vì sao? Vì Địa Luận chép: “Thập địa chuyển y chỉ, vì y chỉ thân thường, không phải như ý thức vô thường, chỉ pháp nhân duyên vô thường. Y cứ văn luận này để chứng minh Sơ địa tức bỏ A-lại-da. Nếu y cứ vào giáo đầu tiên thì tâm sau cùng của Thập địa bỏ A-lại-da. Vì sao? Vì ở địa thứ mười diệt ngay các chướng. Hỏi: Lại-da y cứ vào đâu là bắt đầu? Đáp: Một niệm vô minh khởi lên ở hiện tiền, tức là Lại da bắt đầu. Vì sao biết được? Đáp: Luận Hiển Dương chép: “Vì tập khí vô minh hý luận vô thỉ làm chánh nhân”. Lại Luận Khởi Tín chép: “Một niệm vô minh tức là bất giác, giác tức không dao động, động tức có khổ, quả không rời nhân, dị thục Lại-da sẽ là quả khổ đó cho nên là bắt đầu”. Thứ tám huân tập, không huân tập. Pháp của chủ thể huân tập có ba thứ: Huân tập danh ngôn, huân tập thức. Huân tập kiến thức, huân tập thức, huân tập kiến thức. Huân tập phiền não, huân tập nghiệp, huân tập quả báo. Đối tượng huân tập, nghóa là thức A-lại-da, như Nhiếp luận, nên biết nói rộng trong tướng vượt hơn. Thứ chín, nói về chân, vọng khác nhau, thức A-lại-da này có chân, vọng khác nhau. Như Địa luận chép: “Mười hai duyên sinh là nghóa đế đệ nhất, tức là nghóa chân, như Nhiếp Luận chép: “Sự như trò ảo thuật, nai khát nước, mộng tưởng, che tối tăm. Ví như thức thứ nhất, giống như sự này, tức là cái có giả dối kia. Lại biết thức này không có tánh sinh, vì thông đạt chân, biết thức này là giả có. Vì thông đạt tục, tục tức là vọng, chân chính là chân kia. Lại, y cứ vào đạo lý Nhị thừa, như luận Du-già chép: “Nói rộng Lại-da huân tập thành hạt giống. Phán quyết nhất định phần báo sinh diệt của dị thục. Luận sau phán quyết rằng: Từ trước đến nay đã nói ta vì kẻ ngu si không có trí mà nói. Nói về nghóa, thì ngu si không có trí tức là Thanh văn. Lại, luận chép: Ta đều không nói A-lại- da như thế. Nếu biết Lại-da và thức Đà-na thì ở trong, ở ngoài, không thấy tạng, trụ, có thể biết như thế, đó gọi là Bồ-tát của Bồ-tát, phải biết rằng vì người vô trí nói, tức là vọng kia. Vì Bồ-tát nói, tức là chân kia. Lại, y cứ vào thừa để phân biệt. Thanh văn ngu pháp, đối với phàm phu, ngoại đạo chấp vọng tự tánh, tức là chân kia. Pháp chấp chưa trừ, thì nói là vọng. Sơ giáo Đại thừa đối với ngu pháp của Thanh văn kia, phân biệt chấp thật tức là chân kia, chưa cùng tận pháp không, tức là vọng kia. Như văn của giaó thuần thục, đối với sơ giáo kia phân biệt tế, tức là chân, tự không phải cuối cùng tức là vọng. Vì sao? Vì do danh ngôn, cảnh giới ngữ, nghóa khác so sánh mà biết. Thứ mười, quy thành tánh vô tánh đệ nhất nghóa. Môn Duy thức này gồm thâu tất cả phá, đều là Duy thức. Hoặc chỉ ba thức, hoặc chỉ một thức, gọi là bản thức. Hoặc chỉ tám thức, hoặc chỉ chín thức, hoặc chỉ mười một thức, hoặc chỉ bốn thức, là Duy thức của Ba thừa. Đây là y cứ đồng ngôn giáo, hoặc chỉ mười thức, cho đến mỗi thứ là Duy thức của Nhất thừa, là y cứ vào giáo riêng để nói. Nói chung, Duy thức có hai thứ: Giải duy thức. Hạnh duy thức. Như duy thức của ý thức, đầu tiên là thuận với hạnh, sau là thuận với giải. Duy thức của bản thức, đầu tiên là thuận với giải, sau là thuận với hạnh, rộng như sớ chép, phải biết rằng y cứ vào môn Duy thức, không có tất cả pháp riêng ngoài thức. Lại, y cứ vào văn luận biết trần không có sở hữu là thông đạt chân, biết chỉ có thức là thông đạt tục. Thuyết minh biết đạt thức, tức chẳng phải chân. Luận nói: Sơ địa hiện chứng, nói được duy thức. Nếu biết Duy thức, thì là cảnh giới, vì chưa phải chân thật. Kinh Lăng-già chép: “Tâm như người thợ, người có tài khéo, ý như kẻ có tài hòa hợp. Năm thức là bè bạn, có tài quán vọng tưởng. Mọi y cứ của văn kinh này dù biết là thức, vẫn không khởi hý luận. Lại, luận Phật Tánh chép: Tất cả luống dối, như con của gái bất dục, dùng ngọn lửa, để tắm gội, mặc áo lông rùa, mang dép sừng thỏ, đội mão hoa đốm hư không, đi vào thành Kiền- thát-bà, đùa giỡn với cô gái ảo thuật biến hóa. Về nghóa nói chỉ khởi tâm kiến pháp, đều chẳng thật có, như các dụ kể trên. Phải biết rằng đạo lý được sáng tỏ do Thánh giáo, các pháp không thật có, chỉ một chân như, thật tánh vô ngã, dùng làm rốt ráo, đây là nghóa của Ba thừa. Các pháp như thế thuộc về giáo vô tận, tức là lý tận rốt ráo của Nhất thừa. MỌI NGƯỜI HỎI XỨ VĂN THÙ, NÓI CHƯƠNG NHẬP PHẬT CẢNH GIỚI Cảnh giới Phật: cảnh giới của Nhất thừa, ba thừa, Tiểu thừa đều riêng, như cảnh giới Phật pháp, sở tri của người Tiểu thừa, ở khổ nhẫn trở đi, người được pháp Đế-thích hàng phục nhẫn này xong, lại không phải là cảnh giới Phật. Nếu cảnh giới sở tri của người Ba thừa thì sẽ được giải không, vô tướng, là cảnh giới Phật. Nếu thuận theo tướng, hiểu là pháp phàm phu, ở trong đó, dù có giáo Tiệm, giáo đốn không đồng, nhanh chậm có khác, chớ không đều vì thành căn cơ, diệt bệnh hợp lý, là ý Phật. Nếu hợp với chứng bệnh tức là sinh tử, không phải cảnh giới Phật. Nếu y cứ vào Nhất thừa thì chung riêng tương ưng với mười một pháp là cảnh giới Phật: Cảnh giới Phật ngang bằng với hư không, là chung. Y cứ vào Nhất thừa, nhân tu vô lượng kiếp. Thích hợp với đối tượng nhập của Nhất thừa kia, tương ưng với chín đời, trí vắng lặng, không đồng với kiến của thế gian. Thuận theo độ sinh, cùng tận cảnh giới Phật, một được, tất cả được. Khởi tùy thuận trí tục, ba đời không có trở ngại, vì đều như hư không. Thuận theo chúng sinh mà nói các pháp, đều như tánh căn cơ, mỗi mỗi khác nhau, ở cảnh giới Phật. Muốn biết loại, tánh chúng sinh khác nhau, hợp với vô phân biệt, vô phân biệt như thật. Cảnh Phật sở tri, không phải thức nhiễm mà có thể nhận thức, cũng không phải cảnh giới của tâm nhiễm. Tướng nào quyết định biết cảnh giới Phật? Nghóa là biết quyết định môn tánh khởi. Trí vô sư, trí tự nhiên, chân tịnh rốt ráo, năng thị hiện chúng sinh, là biết quyết định cảnh giới Phật. Muốn nói rõ, soi sáng cảnh Phật, pháp sinh tử, v.v… nghiệp báo, v.v… phiền não lặng dứt, không có đối tượng duyên, vô minh không có đối tượng hiện hành, thế gian của hành bình đẳng, cảnh giới Phật chiếu sáng như thế. Muốn biết cảnh giới rộng lớn của Nhất thừa, biết tâm chúng sinh, tận cùng mười đời, vì tâm Như Lai trong một niệm cùng khắp tất cả, đều thông đạt sáng suốt cảnh giới rộng này. Nếu các pháp này đều là cảnh giới Phật Nhất thừa. Lại, cảnh giới Phật có nhân quả của nó, nếu theo nghóa của Tiểu thừa thì được nhân, chẳng phải được quả, được quả thì bỏ nhân, là nghóa của Ba thừa. Giáo ban đầu được quả xong, bỏ nhân mà quả không rời nhân, cũng lại không tức nhân, không phải đoạn, cũng không phải thường. Vì sao? Vì nhân quả thì không, nếu là giáo sau cùng thì tức là chân như không có khác nhau. Nếu y cứ Đốn giáo thì nêu tâm đều hợp lý. Nếu y cứ vào Nhất thừa thì một tức tất cả, tất cả tức một, cho đến nghóa giáo đều thích hợp với Nhân-đà-la và Vi tế.  HOA NGHIÊM KINH NỘI CHƯƠNG MÔN ĐẲNG TẠP KHỔNG MỤC <卷>QUYỂN 2 PHẨM TỊNH HẠNH, ĐẦU TIÊN NÓI VỀ CHƯƠNG NGHÓA PHÂN CHIA XẾP ĐẶT KHÔNG ĐỒNG PHÁP HẠNH CỦA PHÀM THÁNH Pháp hạnh mà phàm, Thánh đã tu đều do ba nghiệp thành, hồi hướng đều khác nhau. Như một môn thực hành thí cho, Phật dạy: “Kẻ phá giới, phá kiến, phá oai nghi, bảo họ thực hành thí cho. Vì sao? Vì muốn cho họ lìa địa ngục, nên hạnh thí cho này dù không thuận gần phần Bồ-đề, phần giải thoát thiện, nhưng Phật vì cứu khổ nên vẫn cho họ thực hành. Cứ như gốc lành của người, trời này, tu giới, thí, bảo họ thực hành hạnh thí cho dù không phải rốt ráo là lìa súc sinh, ngạ quỷ, nhưng vẫn cho họ thực hành thí cho không nghi ngờ. Nếu tu phần giải thoát thiên là vì lìa bỏ hàng trời, người, Phật cho phép thực hành. Thanh văn, Duyên giác tức là sự thí kia. Nếu tu đạo Bồ-tát vì Thanh văn hồi tâm, đầu tiên bảo cho họ thực hành, vì dẫn phát giáo pháp ban đầu, sau cùng bảo cho họ thực hành, vì dẫn giáo tiệm, giáo đốn, thừa nhận thực hành, vì dẫn giáo đốn, vì Viên giáo thừa nhận hành thí, nên tâm mãn của vị Tín, Hiền Thủ khen đức, nói rộng về hạnh bố thí. Với sự cúng dường là thuận với việc lành của Nhất thừa, không bỏ một pháp, y cứ ý riêng của Phật, chỉ Nhất thừa mới thực hành được, các thừa còn lại không thể thực hành. Vì sao? Vì không phải y rốt ráo. Sự lấy, bỏ như thế đều riêng, đều đồng một thí. Vì sao? Vì đều do trí tuệ nên có khác nhau, như một môn thí, muôn hạnh đều như thế, so sánh để biết. CHƯƠNG MƯỜI LỰC Mười lực: Lực trí của thị xứ, phi xứ, lực trí nghiệp của mình, lực trí của thiền, giải thoát, tam-muội, chánh thọ, lực trí của các căn nhạy bén, chậm lụt, mỗi thứ lực trí của giải, lực trí của mỗi thứ chủng tánh, lực trí của đạo chí xứ, lực trí của thân mạng đời trước, lực trí của sinh tử, lực trí của lậu tận, vì đều không thể khất phục, nên gọi là lực, vì năng lực của trí vô biên, nên gọi là Lực. Danh, nghóa của Ba thừa này đồng với Tiểu thừa, thuận theo hai tông cao, thấp không bằng nhau. Tiểu thừa như cái gọi là Thật, Sơ giáo tức không, Chung giáo tức như, Đốn giáo không thể nói. Nghóa của Nhất thừa, như lực Na-la-diên tràng trong phẩm Pháp Bất Tư Nghị, có thể biết. CHƯƠNG SÁU BA LA MẬT Sáu Ba-la-mật: Đà-na, Thi-la, Sằn-đề, Tỳ-lê-na, Trì-ha-na, Bát- la-nhã, Ba-la-mật. Đà na, Hán dịch là bố thí. Vận dụng tâm cùng khắp gọi là bố, san sẻ của mình, làm ơn cho người gọi là thí. Thi-la, Hán dịch là thanh lương. Sự, v.v… bốc hơi ngọn lửa ba nghiệp, như nhiệt, vì giới có công năng ngăn ngừa nóng bức, nên nói là mát mẻ. Sằn-đề, Hán dịch là nhẫn nhục. Người khác thêm xúc não, gọi là nhục, chịu đựng đối với nỗi nhục gọi nhẫn. Tỳ-lê-da, Hán dịch là tinh tấn, rèn luyện tâm ở pháp, gọi là tinh, sự việc của tâm ròng rã thông suốt gọi là Tấn. Trì-ha-na, Hán dịch là Trí sinh, vì y chỉ định sinh trí nên gọi trí sinh. Bát-la-nhã, Hán dịch là Tuệ, đối với duyên quyết định sáng suốt, hiểu rõ nên gọi là Tuệ. Ba- la-mật, Ba-la là bờ bên kia, mật là đến, tức đến bên kia bờ. Nghóa này Ba thừa, Tiểu thừa gọi cùng đồng. Nếu đối với nghóa kia tức đến bờ bên kia, không đến bên kia bờ khác nhau. Nếu Sơ giáo của Ba thừa. Sáu độ đều có mười nghóa, như luận Địa Trì chép: “Lại, nghóa lìa tướng ba luân, tu sáu độ kia tức là chân như không. Nếu y cứ vào chung giáo, biết pháp tánh không có tham, tu đàn độ kia, tức thuận với đức chân như. Nếu y chỉ như của Đốn giáo thì không thể nói. Nếu y cứ vào Nhất thừa thì sáu Ba-la-mật đều có mười môn, như phẩm Ly thế gian của kinh nói ở dưới. CHƯƠNG MƯỜI TÁM PHÁP KHÔNG CHUNG Pháp không chung, nghóa là thân không có lỗi, miệng không có lỗi, niệm không có lỗi, không có tưởng khác, đều là tâm định, đều biết đã bỏ. Dục không giảm, tinh tấn không giảm, niệm không giảm, tuệ không giảm, giải thích không giảm, giải thoát tri kiến không giảm. Tất cả thân nghiệp thuận theo hạnh trí tuệ, tất cả khẩu nghiệp thuận theo hạnh trí tuệ, tất cả ý nghiệp thuận theo hạnh trí tuệ. Trí tuệ biết đời quá khứ không có ngăn ngại, trí tuệ biết đời vị lai không có trở ngại, trí tuệ biết đời hiện tại không có trở ngại. Mười tám pháp này vì khác với nhân nên gọi là không chung. Lại, mười tám này gọi riêng Tiểu thừa không hiểu y, như tạp tâm cho rằng mười lực, bốn vô úy, đại bi, ba niệm xứ là mười tám không chung. Hỏi: Theo một trăm bốn mươi pháp không chung, danh số đồng với Tiểu thừa vẫn muốn làm sáng tỏ nghóa văn của Tiểu thừa kia, vì khác với Đại thừa. Trong văn tạo ra sự khác nhau mà nói. Nếu là nghóa Nhất thừa tức như trong nghóa không chung của phẩm Pháp không tư duy nghị luận của kinh ở dưới. CHƯƠNG BỐN VÔ ÚY : Bốn vô úy: Nhất thiết trí vô úy. Lậu tận vô úy. Chướng đạo vô úy. Tận khổ đạo vô úy. Vì đáp lời hỏi không khiếp sợ nên gọi là vô úy. Nghóa ba thừa này chung với Tiểu thừa, chỉ nghóa sâu, cạn khác nhau. Nghóa Nhất thừa vô úy đủ mười thứ kia tức pháp vô tận, như phẩm Pháp bất tư nghị ở dưới sẽ nói. ĐẦU TIÊN, LẬP CHƯƠNG PHÁT TÂM BỒ ĐỀ, PHẨM HIỀN THỦ Tâm Bồ-đề, tiếng Phạm là Bồ-đề, Hán dịch là đạo quả. Vì quả đức viên thông nên nói là Bồ-đề. Đối với đại Bồ-đề khởi ý cầu hướng về, gọi là phát tâm Bồ-đề. Tuy nhiên sự phát tâm này kinh cũng gọi là nguyện, chủ yếu là đại Bồ-đề, vì khiến cho đến tương lai thuộc về mình nên gọi là Nguyện. Thể tánh, tùy thuộc vào nghóa khác nhau, lược có ba thứ: Tướng phát. Nói dứt tướng phát. Chân phát. Nói tướng phát: Thấy sâu lỗi sinh tử, phước lợi Niết-bàn, ruồng bỏ sinh tử, thu hướng Niết-bàn. Thuận theo tướng, phát tâm chán cầu danh tướng. Nói dứt tướng phát: Tỏ ngộ sâu sắc bình đẳng, biết bản tánh sinh tử kia vắng lặng, Niết-bàn cũng vậy. Vì sinh tử vắng lặng nên không có tướng nào đáng chán, vì Niết-bàn như nên không có tướng nào đáng mong cầu, quay lưng lại với tướng trước, trở về với đạo chánh như, nên gọi là Phát, vì nhận lấy tướng thì trái với chân, nên khiến bỏ tướng, vì phát. Cũng có thể lìa bỏ tướng, tâm bình đẳng mới bắt đầu khởi, gọi là phát, nên kinh nói: “Diệt các phát, không phát, là phát tâm Bồ-đề”. Nói diệt phát là diệt các tướng, nói diệt không phát là không khởi tướng phát, là phát tâm, tương ưng với vô tướng, gọi là Phát. Nói chân phát là chân tánh Bồ-đề, xưa nay thể của mình, bị vọng tưởng che lấp, nên tồn tại mà không hiểu biết, gọi là sinh tử, về sau dứt bỏ tâm vọng, khế hợp cùng cực cái thật của mình, do đến với thể của mình vì biết tánh Bồ-đề là thể của mình, nên bỏ cái khác kia để cầu thật tướng hiện tiền, nên gọi là phát tâm, cũng có thể chân chứng trí khởi, gọi là phát tâm. Phát tâm có sáu môn: Phát tâm tín, gọi là tâm mãn Mười tín Phát tâm vị, nghóa là tâm Mười giải. Phát tâm hạnh, nghóa tâm Mười hạnh. Phát tâm phương tiện, nghóa là tâm Mười hồi hướng. Phát tâm chứng, nghóa là tâm Sơ địa trở lên. Phát tâm Bồ-đề rốt ráo, gọi là thành Phật. Sự phân chia xếp đặt này là nghóa của Ba thừa. Tiểu thừa phân chia có, Nhất thừa cuối cùng có mười thứ phát tâm như phẩm ly thế gian nói: “vì làm lộ rõ vô tận nên phát tâm kia có hai trăm mười tám câu kinh, như trong Hạ Di-lặc thiện tri thức nói. CHƯƠNG BA THỨ PHẬT TÁNH Phật tánh là thầy của chư Phật, gọi là Pháp. Tánh bình đẳng, cũng như hư không. Đối với các phàm, Thánh không bị giới hạn, ngăn ngại, gọi là Phật tánh. Đã không có chướng ngại, hạn chế, vì sao nói nghiêng lệch là Phật tánh? Phật tánh: Y cứ vào khi giác ngộ mà nói. Sở dó biết có Phật tánh là vì thuận theo chỗ lưu trôi lăn của Phật tánh thành các thứ giai vị. Pháp thân trôi lăn năm đường, gọi là chúng sinh. Y cứ vào nhân duyên này không gọi là Phật tánh. Nay đối với Thanh văn, người thuần thục nói có Phật tánh kia. Vì người Thanh văn trước hết hướng đến Vô dư, không cầu thành Phật. Thanh văn hồi tâm đều có thể làm Phật, nên nói Phật tánh. Giáo khởi như đây lược nói Phật tánh có ba thứ: Tự tánh trụ Phật tánh. Dẫn xuất Phật tánh. Phật tánh chí đắc quả. Tự tánh trụ Phật tánh tức là bản tánh, dẫn xuất Phật tánh tức tánh do tu đắc. Tánh đến được quả, tu nhân đầy đủ, gọi là đến được quả. Lại, tự tánh trụ tánh tức là bản tánh. Dẫn xuất Phật tánh, bản tánh dẫn xuất đến được tánh quả. Bản tánh đến quả gọi là đến được quả. Lại, Phật tánh có mười thứ, có nói trong phần hỏi đáp. Hỏi: Như Lai tạng tánh cũng nói bản tánh. Vì sao Như Lai tạng tánh không y cứ vào vị để nói về tướng khác nhau. Môn nghóa Phật tánh tức y cứ vào vị địa để nói về sự tối, sáng kia? Đáp: Sự khác nhau của Như Lai tạng vì tiến thẳng Bồ-tát để nói nên không y cứ vào vị để nói về nghóa Phật tánh khác nhau kia. Vì Thanh văn thành thục nói, Thanh văn thấy tăng. Nay vì thuận với kiến Thanh văn nên nói khác nhau. Nghóa Phật tánh là tối thượng với nghóa Ba thừa, nói đủ về sai biệt, rộng ở trong sao. Nếu vì Nhất thừa đã gọi, tức nhập Nhất thừa thuộc Viên giáo, nghóa khác có thể biết. CHƯƠNG TÁM THỨ ÂM THANH PHẠM Âm thanh Phạm có hai thứ: Y cứ vào nghóa giáo để nói về âm thanh. Y cứ vào đức Phật để nói về âm thanh. Y cứ vào nghóa giáo, như kinh Thập Trụ chép: “Như Lai có tám thứ âm thanh: Kiến khổ. Hướng đến nỗi khổ. Kiến tập. Hướng đến tập. Kiến tận. Hướng đến tận. Kiến đạo. Hướng đến đạo. Ở đây y cứ vào giáo để hiểu, gọi là tiếng. Y cứ vào Đức Phật để nói về nghóa âm thanh, âm là tiếng vang, thanh là vì đối căn, nói về chất. Hai không đồng âm có tám thứ, như kinh Thập Trụ chép: “Cái gọi là âm Phạm: Âm không là nam. Âm không là nữ. Âm không mạnh mẽ. Âm không mềm mỏng. Âm không trong trẻo. Âm không vẩn đục. Âm không là trống. Âm không là mái. Lại có tám âm như trong sớ đã giải thích. Tám âm này thích đáng với nghóa Ba thừa, Tiểu thừa danh đồng mà nghóa không đồng. Nghóa không có riêng, Tiểu thừa thì hữu Sơ giáo tức không. Âm thanh của Nhất thừa bằng với pháp giới, không thể tính kể, so lường, đồng với cõi Vi tế của Nhân-đà-la. Vì sao? Vì thuận theo các chúng sinh đáng nên điều phục nói lên thuyết như thế”. CHƯƠNG CHỦNG TÁNH ĐẦU CỦA PHẦN GỐC TRONG PHẨM THẬP TRỤ HỘI THỨ BA Tiếp theo tương đương với tâm Thập tín, sau thành nghóa chủng tánh của Phật Nhất thừa. Nghóa là tánh chủng tánh, tập chủng tánh. Tánh chủng tánh nghóa là nói theo bản tánh. Tập chủng tánh là nói theo sự tu tập, cũng có giải: Tánh chủng tánh là tánh bản hữu. Tập chủng tánh là tánh tu sinh, đây không phải là đối tượng ưa thích của pháp Phật. Vì sao? Vì nói về chủng tánh, thuận theo môn nhân duyên nói há chấp nhận không đối với nhân duyên mà nói chủng tánh, nên tánh chủng tánh không được làm bản hữu. Lại, tập chủng tánh không được tu sinh. Vì sao? Vì nếu ngoài pháp tánh có tu sinh, thì duyên khởi sẽ tăng, cho nên không được nói tu sinh. Nếu nghóa chủng tánh là nhân của Phật kia, nghóa ấy rộng lớn, không thể nghiêng lệch ở giải, không thể nghiêng lệch ở hạnh, không thể nghiêng lệch ở vị, không thể nghiêng lệch ở tỷ huống, không thể nghiêng lệch ở chứng, không thể nghiêng lệch ở nhân quả, không thể nghiêng lệch bản hữu, vì tu sinh. Nay, lập hai thứ tánh tập: Nói chung, tánh chủng tánh, là nói theo bản tánh, vị ở chủng tử. Tập chủng tánh là nói theo tu sinh, về nghóa tức rộng lớn. Đây là dựa vào văn của Địa trì. Nếu theo kinh Anh Lạc thì có sáu thứ tánh: Tập chủng tánh. Tánh chủng tánh. Đạo chủng tánh. Thánh chủng tánh. Đẳng giác tánh. Diệu giác tánh. Ở đây là nói theo vị, về nghóa tức là chung. Nếu muốn xuất thể thì dùng bản hữu, tu sinh, duyên khởi phước tuệ, môn định, tuệ làm thể. Đây là thuận với ba thừa, là nghóa Biệt giáo của Nhất thừa. Nghóa là sáu quyết định và trụ mười tướng, tức thuận với nguyện hạnh Phổ Hiền, như bài kệ trong phẩm phát tâm công đức có nói rộng. CHƯƠNG THẬP TRỤ Nghóa Thập trụ, thập là số, trụ là bất thối, tức vị thành, trụ, cũng gọi là Thập giải: Trụ phát tâm. Trụ trì địa. Trụ Tu hành. Trụ Sinh tôn quý. Trụ Đầy đủ phương tiện. Trụ Chánh tâm. Trụ Bất thối. Trụ Đồng chân. Trụ Pháp Vương tử. Trụ Quán đảnh. Vì Bất động nên gọi là Trụ. Thể là dùng vô lượng phương tiện tam-muội làm thể. Đây là thuận với Chung giáo Ba thừa, để nói vốn tức là Nhất thừa. Sơ giáo thì không có định, Tiểu thừa ngu pháp và hồi tâm, tức không nói Thập trụ, nên có thể so sánh mà biết. CHƯƠNG ĐẦU NÓI VỀ QUÁN CHUNG TRONG PHẨM PHẠM HẠNH Quán chung, vì chế phục chung các hoặc, diệt chung hạt giống hoặc, tu chung các hạnh, quán chung các lý, nên gọi là quán chung, tức là một vô phân biệt trí định. Quán này y cứ thành ly ngôn nói tướng, không thể nói nghóa, môn của thể tướng kia bất đồng, chỉ là tam muội Nhất hạnh. Y cứ vào đối tượng nhất định kia cũng được đồng với nghóa giáo tức khắc. Nếu y cứ vào phương tiện thì thuận với tầm tư, kể cả ý ngôn của Duy thức như thật. Đây là thuận với Ba thừa. Nếu vì được gọi Nhất thừa thì thuộc về Nhất thừa, nếu hồi hướng Nhất thừa thì biết là phương tiện Nhất thừa cũng nhập Nhất thừa. Sơ giáo cũng có môn này, chỉ tạo ra thuyết tức không, nên có thể so sánh mà biết. Nay, vì nghóa quán chung nên lược rút ra lý thuyết của các nhà không đồng nhất. Có thuyết nói: Thật tánh thuận với vô phân biệt, dứt tướng, thích ứng với sự vắng lặng, tức là trụ chánh nghóa, không còn tiến tới gọi là Phật. Như trên đã nói tâm người tu hành kia thuận với tập đã lâu thì Phật cho đến vô lượng kiếp. Biện luận về pháp tánh kia, tất cả đều như, do gốc thành tất cả pháp, không phải đối tượng duyên của tướng trí mà được pháp tánh. Như pháp tánh kia không hai, không có riêng, tất cả đều không, là bản tánh của pháp tánh, vô minh phiền não, v.v… tức như đã thành. Vô minh là gì? Nghóa là chân như. Vì sao? Vì chân như thành vô minh. Nếu không có chân như thì sẽ không có vô minh, nên luận Khởi Tín chép: “Từ vô minh tất cả các pháp đều là tâm của chúng sinh, Ma-ha-diễn là tướng dụng sinh diệt trong thể chân như”. Nếu có thể là nghóa này thì sẽ được thuận theo nhập môn chân như, đối tượng mà Nhất thừa gọi, cũng nhập Nhất thừa. Đối với chánh quán ở trước, nêu sự tương tự của môn chân như để nói về chánh chân như. Theo luận Bảo Tánh, Bồ-tát mới phát ý trong tâm tu hành thì trở thành ý không loạn. Lược có ba thứ: Một là lìa không Như Lai tạng, do mất vật biến đổi, hư hoại, tu hành, gọi là môn không giải thoát, khởi tâm như thế, thật sự có vật đoạn, hoại. Về sau sẽ được Niết-bàn là ý tán loạn thứ nhất. Hai là có người lấy không làm hữu, nghóa vật lẽ ra phải được, không là ý tán loạn thứ hai. Ba là sinh là tâm, lìa pháp sắc, lại có không riêng, ta tu hành vì được không, là người tu hạnh quán của ý tán loạn thứ ba, nên so sánh quyết định lựa chọn. CHƯƠNG BỐN Y NHƯ THƯỜNG KHẤT THỰC V.V… Bốn y: Người ngồi dưới gốc cây. Thường xuyên khất thực. Mặc áo phấn tảo. Thuốc trần khí. Trần khí có hai: Một là: Dùng nhân làm trần khí. Hai là: Dùng thuốc trần khí cách đêm là trần khí. Hỏi: Y này có gì khác với pháp đầu đà? Đáp: Công dụng đều khác: Đầu-đà y cứ lìa phi. Bốn y nương tựa thành hạnh đầu đà, có không đồng này, đây là thuận với ba thừa và Tiểu thừa ngu pháp. Như hạnh từ trước nay, thì thuận với giáo Ba thừa. Tâm duyên sự trang sức tốt, tức là tương tự, chẳng phải hạnh chân thật. Sơ giáo của Đại thừa tiến thẳng hành giả. Việc thiện trong ác, người khác đã bỏ từ lâu, nay tu ăn. Lại biết tiếc không, nghóa ác của tướng riêng không ở lời nói. Người hồi tâm ban đầu dựa vào sự tướng của bốn y trước, biết pháp tức không, gọi là bốn y. Bốn y của Chung giáo tức như của hành tướng, không có đối tượng để được, là đối tượng nương tựa của người hồi tâm, chẳng phải cho rằng có vật đáng nương, đó gọi là bốn y. Nghóa Nhất thừa dùng các nghóa trước để làm phương tiện lại là mục tiêu của giáo Nhất thừa, tức là Nhất thừa. CHƯƠNG MƯỜI HAI ĐẦU ĐÀ: Đầu-đà: Là phủi dũ trừ sạch phiền não. Tạo tác A-lan-nhã. Thường khất thực. Y nạp. Ngồi ăn một bữa giữa ngày. Ăn tiết lượng. Sau giữa ngày, không uống nước. Ở trong gò mả. Ở dưới gốc cây. Ngồi ở chỗ đất trống. Thường ngồi, không nằm. Khất thực theo thứ lớp. Chỉ có ba y. Pháp đầu đà này không gọi là giới hạnh, tức giới trang nghiêm trí lực, bất cập không thực hành không phạm. Phân chia xếp đặt giới hạn của đầu-đà: Từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, rằm tháng tám đến rằm tháng mười. Cần thực hành đầy đủ hạnh đầu-đà trong hai thời gian trên, chương cu đầu đà, tà chánh giống nhau và thuận với nghóa của Ba thừa, Nhất thừa, như pháp bốn y trên. CHƯƠNG THỌ GIỚI NGHIỆP LUẬT NGHI THIỆN Lược Tỳ-ni đại tạng phân tích có hai: Chủng loại nghịch thuận khác nhau. Thuận theo thọ duyên riêng. Chủng loại đầu tiên khác nhau, nghóa là mười, mười không đồng như kinh Hoa Nghiêm chép. Thuận theo thọ duyên riêng có ba: Chế giới của người tại gia, nghóa là năm giới, tám giới. Chế giới của người xuất gia, gọi là giới mà năm chúng vâng giữ. Hai giới đồng với Tiểu thừa. Giới chung cho đạo, tục: ba tụ giới, v.v… Vì sao? Vì đồng làm phương tiện cho Bồ-đề. Lại, chung cho năm thừa, không chung cho năm thừa, giới Bồ-tát không chung cho năm thừa nên có thể so sánh. Giới của năm chúng xuất gia vâng giữ. Dùng nghiệp thiện tác, vô tác làm thể của giới, cũng gọi là biểu, vô biểu. Tác có hai thứ: Thọ tác. Tùy tác. Trong hai tác này đều có ba thứ: Tự làm. Bảo người khác làm. Thấy, nghe làm theo việc lành. Đều chung cho ba nghiệp. Vô tác có ba thứ: Tác này đều có với vô tác. Hình đều có vô tác. Thuận theo dùng vô tác tức khi tùy duyên gìn giữ mà phát ra vô tác. Vô tác này có hai nghóa: Tự thuận theo tác để phát ra vô tác. Đụng chạm đến ba nghiệp của người khác, trở thành vô tác của mình. Tức bảo người khác làm, người khác làm phát ra vô tác thuộc về mình, là sự tạo tác của thân, miệng. Vì không thể thấy sắc có đối làm thể. Tác động của địa ý lấy tâm làm thể, vô tác của thân, miệng lấy không thể thấy sắc vô đối làm thể, vô tác của địa ý dùng phi sắc, phi tâm làm thể. Vì sao biết? Vì kinh Niết-bàn nói: “Vô tác dùng phi sắc, phi tâm làm thể. Đây là y cứ vào giới biệt giải thoát, vì nói. Nếu y cứ vào vô tác của đạo định, thì vô tác của thân, miệng sẽ trở lại dùng “sắc không có đối không thể thấy” làm thể. Tác, vô tác này đều y cứ vào hiện hành. Vì sao? Vì có thể tác pháp xả, vì hạnh nghiệp tức không, vì chung giáo tức như. Giáo Nhất thừa vì thích ứng với hạnh sâu kín của Nhân-đà-la. Tiểu thừa không có địa ý giữ giới. Nếu vậy thì vì sao hỏi ông tâm nào? Đáp: Đây là y cứ vào tâm tương ưng, chẳng phải tâm bất tương ưng. Lại, hồi hướng Bồ-đề gọi là giữ giới, không hồi hướng Bồ-đề gọi là không giữ giới. Hồi hướng Thanh văn gọi là pháp giới, phân biệt, vô phân biệt, v.v… so sánh như vậy. Pháp khác đều y cứ theo đây, tâm tương ưng duyên đủ ít nhiều, v.v… có nói rộng trong chương riêng. CHƯƠNG NĂM THỨ VẨN ĐỤC Năm vẩn đục là: Mạng vẩn đục. Chúng sinh vẩn đục. Phiền não vẩn đục. Kiến vẩn đục. Kiếp vẩn đục. Vẩn đục, nghóa là không trong. Một trăm tuổi trở xuống là mạng vẩn đục. Không nhận thức cho quý, thấp hèn, không kính trên, dắt dẫn dưới, gọi là chúng sinh vẩn đục. Thêm tham phi pháp, dao, gươm, đồ đựng, gậy gộc, tranh tụng, đấu tranh, quấy rối, nịnh bợ, lừa dối, nói dối, thâu nhận pháp tà, v.v… gọi là phiền não vẩn đục. Dần khởi tà kiến, phá diệt Phật pháp, tà pháp càng thêm, đó gọi là kiến vẩn đục. Kiếp đói khát, khởi bệnh tật, đao binh, đó gọi là kiếp vẩn đục. Theo văn kinh, luận, nếu đối với chúng sinh khởi một niệm tâm từ như thật, cho một đoàn thực và một viên thuốc, thì liền được không sinh. Trong năm kiếp vẩn đục, kiến vẩn đục này ở Tiểu thừa, Sơ giáo tức không, Chung giáo tức như, Nhất thừa tức pháp giới, nên có thể chuẩn y. CHƯƠNG NĂM GIỚI ĐẦU, TRONG PHẨM PHÁT TÂM CÔNG ĐỨC Năm giới là: Giới không sát sinh. Giới không trộm cắp. Giới không tà dâm. Giới không nói dối. Giới không uống rượu. Giới ấy cũng được xếp vào giới thọ suốt đời. Bốn giới đầu là giới tánh, không uống rượu là giới giá. Kinh Ưu-Bà-tắc Giới nói: “Ăn thịt, phạm tội sát sinh. Vì sao? Vì ưa vị thịt, thấy người khác sát sinh, thì bằng lòng, giới kia là ba thừa, cũng chung cho Tiểu thừa và các trời, người”. Kinh nói: “Nếu muốn sinh lên cõi trời thì phải thọ giữ năm giới, giữ vững mười điều lành. Trông thấy bức họa mầu người nữ trên vách, không sinh tưởng con gái, người ấy sẽ sinh lên cõi trời. Vì thân trời thọ hóa sinh, cũng chung cho nghóa Nhất thừa, vì được gọi Nhất thừa, vì hồi hướng Nhất thừa là phương tiện”. Hỏi: Vì sao chỉ cho giới uống rượu là giới giá? Đáp: Vì lỗi rượu to lớn, vì y cứ rượu, chế giới nghiêng lệch, nên Đại luận nói: “Rượu có ba mươi lăm lỗi: Của, vật hiện đời hư hao, cạn kiệt. Cửa vào của mọi chứng bệnh. Nguồn gốc đấu tranh. Lỏa lồ không biết xấu hổ. Tên xấu, tiếng ác, mọi người đều không kính nể. Che mất trí tuệ. Vật đáng lẽ được mà không được, vật đã được rồi thì tiêu tan mất. Việc đáng giấu giếm đều nói cho người biết. Mọi thứ sự nghiệp đều bỏ dở, không thành xong. Say rượu là gốc của buồn rầu. Sức thân chuyển biến ít. Sắc thân hư hoại. Không biết kính cha. Không biết kính mẹ. Không kính trọng Sa-môn. Không kính Bà-la-môn. Không kính chú bác, tôn trưởng. Không tôn kính Phật. Không kính pháp. Không kính tăng. Bạn, bè toàn là người hung ác. Xa bậc hiền thiện. Làm kẻ phá giới. Không biết hổ, không biết thẹn. Không giữ sáu căn. Mặc tình buông lung đối với sắc. Bị người ghét, không muốn thấy mặt. Bị tri thức cao sang, thân thuộc xua đuổi. Thực hành pháp bất thiện. Bỏ bệ pháp lành. Người trí không tin dùng. Xa lìa Niết-bàn. Gieo trồng nhân duyên điên khùng ngu si. Thân hư hoại, chết đi, đọa vào đường ác. Nếu sinh làm người thường phải điên loạn vì chế giới nghiêng lệch này. CHƯƠNG TÁM GIỚI Tám giới: là Giới mà người tại gia thọ một ngày một đêm: Không sát sinh. Không trộm cắp. Không dâm. Không nói dối. Không uống rượu. Không ngồi giường cao rộng lớn. Không mang hoa thơm, chuỗi anh lạc, không thoa hương vào mình và không xông, ướp mùi hương vào áo. Không trỗi kỹ nhạc, không đi xem, nghe và không ăn quá giữa ngọ. Bốn giới trước trong tám giới này là phần giới, một giới tiếp theo là phần không buông lung, ba giới sau thuận với phần tu. Nghóa này ở ba thừa và Tiểu thừa hàng trời, người cũng chung cho Nhất thừa. Do đó, tên gọi Nhất thừa và hồi hướng Nhất thừa, vì thành phương tiện, nghóa khác có nói trong chương riêng. CHƯƠNG BỐN QUẢ Quả Dự lưu, cũng gọi là Tu-đà-hoàn. Quả Nhất lai, cũng gọi là Tư-đà-hàm. Quả Bất hoàn, cũng gọi là A-na-hàm. Quả A-la-hán. Nghóa này phát ra quán, chế bốn quả, Tiểu thừa ngu pháp, bốn người chế chung. Sơ giáo Đại thừa cũng chung cho nghóa trên, cũng có không chung. Vì sao? Vì dựa vào vị địa để chế quả, nên một người thì thành. Nếu ở Chung giáo thì chỉ một người thành. Vì sao? Vì y cứ pháp môn kia thành nghóa bốn quả. Nếu đối với trên Nhất thừa thành bốn quả thì đều nhập Nhất thừa. Vì sao? Vì tên gọi Nhất thừa kia là rộng lớn, do cõi Nhân-đà-la Vi tế mà thành. CHƯƠNG SÁU MƯƠI HAI KIẾN Sáu mươi hai kiến: Không biết sắc ấm khởi mười hai kiến, nghóa là thường, vô thường, vừa thường vừa vô thường, phi thường phi vô thường; hữu biên, vô biên, vừa hữu biên vừa vô biên, phi hữu biên, phi vô biên. Sau khi Như Lai diệt độ, như khứ, bất như khứ, vừa như khứ vừa không như khứ, chẳng phải như khứ, chẳng phải không như khứ. Ngã thô với ấm là một. Ấm diệt, ngã cũng diệt là nghóa vô thường. Ngã tế với ấm là khác, ấm diệt ngã không diệt là nghóa thường, nghóa khác so sánh mà biết. Ngã thô với ấm là một, vì thuộc về ấm diệt, nên không là như, khi đến đi tế. Ngã khác với ấm. Khi ấm diệt, trở lại như lúc đến đi. Một ấm có mười hai, năm ấm thành sáu mươi, thêm căn bản đoạn, thường, thành sáu mươi hai. Nếu y cứ vào Tiểu thừa thì tức là sử phiền não. Nếu y cứ vào sơ giáo thì kiến nghóa tức không, nếu y cứ vào Chung giáo thì tức như, tức thật. Vì sao? Vì không có đối tượng nào để diệt. Nếu y cứ ở Nhất thừa thì sẽ không nói tự thể, chỉ biện luận về rất nhiều nghóa đối tượng của dụng, dụng của chủ thể mê cũng lớn. Lại, gồm thâu nghóa Tiểu của Ba thừa trước, tức là đối với Nhất thừa. Vì sao? Vì đã được gọi là giáo Nhất thừa. Nghóa cái là che lấp, chướng ngại tâm hạnh gọi là Cái. Cái có năm thứ: Tham dục. Giận dữ. Thùy miên. Trạo hối. Nghi. Cái có bốn nghóa: Nghóa chướng ngại vì làm chướng ngại bảy hoa giác. Nghóa phá hoại, làm phá đời và đạo xuất thế. Nghóa tùy. Nghóa nằm, vì ngủ lâu dài trong sinh tử. Hai thứ đầu là nghóa chánh cái, ba thứ sau, phụ giúp giải thích. Lại, năm cái hiện tại vừa cái vừa phú, năm cái kế, lại là cái không phải phú, trở ngoại đạo gọi cái, vì không chướng ngại hiện khởi, nên không gọi phú. Hỏi: Các pháp phiền não, Bồ-tát dùng phiền não của chúng sinh làm phiền não của mình, phiền não của mình làm phiền não của chúng sinh, nghóa này ra sao? Đáp: Nếu Tiểu thừa và Sơ giáo thì sẽ không được hồi chuyển. Nếu là Chung giáo thì bắt đầu, sau cùng. Mặc dù về lý là chánh, dùng lý tự tại, vẫn đối với sự giáo không được tự tại, vì sự giáo không đủ nên y chỉ trong tông Viên giáo, thì được chuyển lẫn nhau, do được sự lý tự tại, đầy đủ. Pháp khác có thể so sánh mà biết. CHƯƠNG NGHÓA MƯỜI TRIỀN: Mười triền là vô tàm, vô quý, thùy miên, hối, san, tật, trạo, hôn, phẩn, phú. Nghóa mười thứ này phần nhiều tập thành lỗi, như sợi tơ ràng buộc ngựa, vì nhiều nên thành lỗi, gọi là triền. Nếu theo Tiểu thừa thì nghóa triền thành nghóa lỗi. Nếu theo sơ giáo của Đại thừa thì nghóa triền là không, nên kinh Duy-ma chép: “Năm thọ ấm thấu suốt, trống rỗng, không có chỗ khởi là nghóa khổ. Nghóa triền so sánh có thể biết. Nếu y cứ vào Chung giáo tức là chân như. Vì sao? Vì tất cả pháp đều như. Nếu y cứ vào Nhất thừa thì nghóa triền không y cứ tự thể, chỉ y cứ vào nghóa dụng. Nghóa đối tượng chướng, lỗi triền lớn cũng nặng. Vì pháp tự tại, nên đồng với nghóa pháp giới, nghóa khác có nói rộng trong chương riêng. CHƯƠNG MƯỜI DỤC : Mười dục, dục có trên, dục không có trên, dục hữu dư, dục vô dư, dục bằng nhau, dục không bằng nhau, dục có đối tượng nương tựa, dục không có đối tượng nương tựa, dục chung, dục không chung, dục hữu biên, dục vô biên, dục thiện, dục bất thiện, dục thế gian, dục xuất thế gian, dục của đại trí, dục tịnh, dục của trí vô ngại, dục giải thoát của Phật, của trí vô ngại, dục thanh tịnh, dục không thanh tịnh, dục rộng, dục hẹp, dục tế, dục thô. Các dục như thế xếp vào mười thứ dục, cái gọi là dục nhân khổ sinh, dục phương tiện, dục hy vọng, dục vướng mắc vị, dục theo nhân sinh, dục tùy duyên sinh, dục tận, dục tất cả, dục của Bồ-tát mới phát tâm, dục của Ma-ha-tát. Hỏi: Dục này có thể dứt bỏ chăng? Đáp: Dục có hai thứ: Dục luống dối, dục này có dứt bỏ. Dục không phải luống dối: dục này không dứt bỏ. Nay, mười dục này hợp với hạnh Phổ Hiền thì không có dứt, cho đến mười tánh, mười căn, so sánh giống nhau. Nếu trong nghóa ba thừa, quở trách dục vọng của người ba thừa thì không thừa nhận dục. Môn nghóa Nhất thừa nếu không có chiến thắng dục thì sẽ không thích hợp với tất cả đức nên thành lưới dục. Lưới nghóa là lưới bắt chim, nghóa giáo vô tận. Do lưới đánh chim dục, mà có kiến lập. Lại, dục vô tận vì thích hợp với Nhân-đà-la, nên đơn cử lưới tương tự để so sánh. CHƯƠNG NÓI VỀ PHẨM PHÁP ĐẦU TIÊN LẬP NĂM PHÁP QUÁN DỪNG TÂM: Năm quán: Quán bất tịnh. Quán tâm từ. Quán duyên khởi. Quán niệm an-ban. Quán phân biệt giới. Người tham nhiều, thì tu quán bất tịnh, người giận nhiều, thì tu quán tâm từ, người nhiều ngu si thì tu quán duyên khởi, kẻ giác quán nhiều, thì tu quán niệm an-ban. Người nhiều ngã kiến, tu quán phương tiện phân biệt giới. Quán này gọi là nghóa cộng Tiểu thừa, khác với Đại thừa. Theo sơ giáo Đại thừa có hai thứ dụng. Môn quán này nếu hiện hành của phiền não tăng trọng thì tức dựa vào hạnh quán của Tiểu thừa, chế phục dục tham. Nếu hiện hành hoặc phẩm trung, hạ thì y chỉ năm pháp, thành tức quán không. Vì sao? Vì Sơ giáo Đại thừa y cứ nhiêu ích làm nghóa, nên khi lượng ích đến, trở thành dụng, thì không nhất định là tướng một quán. Lại có quán khác đối với căn cơ riêng, như kinh giải thích dưới đây. Nếu y cứ Chung giáo thì tất cả đều như. Nếu y cứ Nhất thừa thì như trên đã nói, là mục đích của Viên giáo và hướng đến Nhất thừa, tức là phương tiện của Nhất thừa, thuộc về Nhất thừa. Thuyết minh y chỉ chung năm thừa trong phẩm pháp, quyết định nghóa phân chia xếp đặt tổn ích về hạnh giải của năm thứa. Luận, giáo Như Lai khởi ý ở hữu tình, do căn cơ có sâu, cạn nên trở thành hai thứ giáo. Môn giáo tướng riêng. Môn giáo đồng, khác. Môn giáo tướng riêng, thiện, ác riêng nhau, khiến cho người căn cơ đầu tiên nhập chánh giải không sai lầm, như mười thiện, mười ác, tức là sự của giáo. Về tướng so sánh có thể biết. Môn giáo đồng khác, trong kinh cũng gọi giáo bí mật, sở dó khởi là vì phiền não của chúng sinh, hữu tình rất sâu dầy, trí tà khéo léo sộng động, tính kể, suy lường vô biên. Vì ngăn chận chứng bệnh này nên suy cho cùng giáo khởi. Về tướng tổn ích của môn giáo, như môn đại trì giới của năm thừa, từ người, trời trở lên, chưa được là tổn, được tức là ích, tiến tới tức là ích, trụ tức là tổn, cho đến các thừa đều y theo đây. Một hạnh như thế thì tất cả hạnh cũng như vậy. Lại vì danh thành hạnh, vì tên thế gian tức tổn hại, vì danh xuất thế gian tức lợi ích, cho đến tất cả giải, hạnh cũng so sánh mà biết. Lại, vì lợi nên trở thành danh. Vì lợi thế gian tức tổn hại, vì lợi xuất thế gian tức lợi ích, cho đến tất cả giải, hạnh cũng so sánh mà biết. Đại tinh tấn, đại sám hối, đại không có là phi đại, không là mình, là khinh người khác, đại tập tụng, đại giải hạnh, đều so sánh. Lại, sự lý hạnh giải của các thừa, tất cả tổn ích đều là người chưa xuất thế ở thế gian, trở thành môn tổn ích, chẳng phải vì người xuất thế. Nhiếp luận dịch vào đời Lương chép: “Nếu pháp thế gian thì có thể chê bai. Nếu pháp xuất thế gian thì không thể chê bai”. Hỏi: Đạo pháp của sự tổn ích về lý quá rõ ràng, sao nay lại nói là chê bai, không chê bai? Đáp: Lý riêng của tướng tổn ích không lẫn lộn nhau, nay vì quyết định sự nghi ngờ trước kia có hai thứ: Vì người tà trí bị tướng che lấp. Vì người chánh trí làm sáng tỏ tướng. Nay, vì bị tướng che lấp vì quyết định mối nghi trước kia nên nói chung là chê bai. Lại, y cứ khi Phật xuất thế và vào thời đại sau cuối, quyết định hai tướng thiện, ác của giải hạnh. Việc này cũng không nhất định, vì nếu nói khi Phật còn ở đời việc lành nhiều, thời đại sau cuối việc ác nhiều, điều này cũng có thể như vậy. Lại, y cứ hai căn cơ phẩm thượng, hạ, quyết định giáo tà, chánh, sự việc này cũng không nhất định. Nếu y cứ vào cập với bất cập thì việc này có thể như thế. Cập, nghóa là thành ích, bất cập là thành tổn, cho đến dùng thuận theo phẩm hạ đều có so sánh mà biết, như tổn ích đồng khác trong thiện, ác và vô ký đều có thể so sánh mà biết. Trái lại với y cứ tức là phải. Từ trước đến nay đã nói y cứ ở giáo đồng của ba thừa để nói. Nếu y cứ vào Biệt giáo của Nhất thừa thì sự tổn ích sẽ vô cùng. Vì sao? Vì nghóa Nhất thừa đều tùy duyên riêng, vì không y cứ mà nói, nên vô tận. Lại, nghóa tổn ích là hai việc thiện, ác bao gồm có thiện trong thiện, có bất thiện trong thiện. Thiện trong thiện, như môn ích trước phải vậy. Bất thiện trong thiện, như môn tổn ở trước. Ác trong ác, lật lại như trước, đối với bất thiện trái với lý. Thiện trong ác, phương tiện trở về tiền của ác, trở thành gốc lành. Hai nghóa thiện, ác kia tổn ích bình đẳng. Lại, hai môn tổn ích thiện, ác, mầu nhiệm rất sâu. Vì sao? Vì căn cơ nhiễm tịnh của chúng sinh, hữu tình, ham muốn vô cùng tận. Nay, lược nói, chỉ biện luận về biết, không biết, tránh xa, không tránh xa mà không biết, thì thật là khó. CHƯƠNG HAI THỨ TRANG NGHIÊM Trang nghiêm, người của tự nhuận, đức hạnh, gọi là Trang nghiêm, có hai thứ khác nhau: Phước đức. Trí tuệ. Tư nhuận, gọi là phước, công của tư nhuận gọi là phước đức. Soi lý gọi là trí, quán đạt gọi là tuệ. Nghóa nghiêm có bốn: Hạnh làm tươi nhuần con người gọi là Trang nghiêm. Làm tươi nhuần tâm gọi là Trang nghiêm. Làm thấm nhuần quả gọi là Trang nghiêm. Trang nghiêm tướng bình đẳng của các hạnh, cũng gọi là luật nghi, cũng gọi là Bồ-đề, cũng gọi hạnh giúp đạo. Nghóa này ở Ba thừa; Tiểu thừa không đầy đủ, chỉ nói môn trí, cũng có giúp đỡ phước mãn, trong giáo không khen. Trong giáo Ba thừa vì đem lại lợi ích cho chúng sinh. Khen đủ hai nghiêm, trong giáo Nhất thừa có mười trang nghiêm, như phẩm Ly thế gian trong kinh dưới đây sẽ nói, nghóa khác có nói rộng trong chương riêng. CHƯƠNG NGHÓA TAM BẢO Nghóa Tam bảo: Tam là số, bảo là nghóa đáng quý. Giúp cho hành giả xa lìa sinh tử, được Bồ-đề vượt hơn. Đáng quý gọi là bảo. Là nghóa ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng. Lược có ba thứ: Tam bảo đồng tướng. Tam bảo biệt tướng. Tam bảo trụ trì. Tam bảo đồng tướng, nghóa là đồng một pháp tánh chân như. Có ba nghóa khác nhau, là nghóa giáo, nghóa phép tắc, và nghóa hòa hợp, nên nói là Tam bảo. Tam bảo biệt tướng, nghóa là nghóa tôn ở trong duyên là Phật, đồng với thân thế gian, một thân, hai thân, ba thân, bốn thân, mười thân, v.v… như đã nói trong phần hỏi đáp. Pháp: nghóa là lý, giáo, hạnh, quả và giáo nghóa vô tận, v.v… Tăng, nghóa là trụ, trì, yết ma, Thanh văn, Bồ-tát Ma-ha-tát v.v… Tam bảo trụ trì có hai thứ: Một là trụ trì tướng, đó là họa hình Phật trên lụa, điêu khắc v.v… Pháp có hai: Cái gọi là giấy, tơ lụa, ngôn ngữ, âm thanh, v.v… Cái gọi là tăng cạo đầu, mặc cà-sa, vô lậu, v.v… Hai là trụ trì lý, nghóa là pháp tánh, chân như làm chỗ nương tựa cho phàm, thanh, có hai: Y sinh và y cảnh giới. Tư chất trì kiến lập gọi là trụ trì lý: Tam bảo chung cho năm giáo: Tồn tại thế gian. Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát đã học Tiệm giáo. Bồ-tát đã học Đốn giáo. Phổ Hiền Nhất thừa đã học giải, hạnh, thấy, nghe, v.v… Nghóa Tam bảo có thể so sánh mà biết. Tướng Tam bảo Nhất thừa, như kinh ở dưới nói: Lược có mười môn: Bồ-tát Ma-ha-tát giáo hóa chúng sinh phát tâm Bồ-đề, cho nên có thể khiến cho Phật bảo không dứt. Khai thị các tạng pháp mầu rất sâu xa, thế nên có năng lực làm cho Pháp bảo không dứt. Thọ trì đầy đủ oai đức giáo pháp, cho nên có năng lực khiến cho Tăng bảo không dứt. Lại nữa đều hay khen ngợi tất cả nguyện vó đại, cho nên có năng lực giúp cho Phật bảo không dứt. Phân biệt giải thích mười hai duyên khởi, cho nên có thể khiến cho Pháp bảo không dứt. Thực hành sáu hòa kính nên giúp cho Tăng bảo không dứt. Lại nữa, gieo hạt giống Phật ở ruộng chúng sinh, nẩy mầm Chánh giác, thế nên làm cho Phật bảo không dứt. Không tiếc thân mạng nhằm hộ trì Tam bảo, cho nên có năng lực khiến cho Pháp bảo không dứt. Khéo chế ngự đại chúng, tâm không lo buồn, nên giúp cho Tăng bảo không dứt. Chánh pháp mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã nói, không trái với giáo kia, nên giúp cho Tam bảo không dứt. Mười Tam bảo này thuộc về giáo Nhất thừa. Vì sao? Vì tướng của mười Tam bảo ở tâm tu hành, chứng đắc, đối chiếu lónh vực giáo, trí đều hiện rõ, tức là trụ trì thành lợi ích vó đại, sở dó nói mười là vì muốn biểu thị rõ vô lượng. Mười Tam bảo này chung cho Nhân đà la và xứ vi tế. Nhị thừa, Tiểu thừa không có tướng này về nghóa khác, như có nói rõ trong chương riêng. CHƯƠNG SÁU HÒA KÍNH Sáu hòa kính, nghóa là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, đồng giới, đồng kiến, đồng học, cũng gọi là đồng lợi; giới, kiến lợi đã đồng, nghiệp thân miệng lại đều đồng, vì không có sai trái, tranh cãi, nên gọi hòa kính. Nghóa này chung cho Tiểu thừa, ba thừa, Nhất thừa. Nếu Tiểu thừa ngu pháp, y cứ vào sự, nhẫn, từ. Nếu Sơ giáo của ba thừa thì y chỉ tức Nhẫn từ không. Nếu theo Chung giáo vì biết mình, người đều bình đẳng, như nên khởi nhẫn, từ. Theo giáo Nhất thừa thì pháp Ba thừa trên vì là phương tiện, vì là mục đích, nên thuộc về Nhất thừa, nghóa khác có nói rõ trong chương riêng. Hỏi: Căn bản nghóa của ba tạng y cứ vào giáo. Nghóa của mười tạng chung cho nghóa giáo, sao lại đem mười tạng đối với ba tạng mà nói? Đáp: Ba thừa, Tiểu thừa đều nói theo phân chia, xếp đặt của sự. Giáo tức chẳng phải nghóa, nghóa Nhất thừa, vì giáo là giáo. Lại nữa, dùng nghóa làm giáo, trong nghóa của Ba thừa đã có nghóa này, huống chi Nhất thừa. Nghóa này có nói rộng trong chương riêng. Sáu vô vi: Hư không. Niết-bàn. Số duyên diệt. CHƯƠNG SÁU VÔ VI Phi số duyên diệt. Mười hai duyên khởi. Pháp giới. Hỏi: Vì sao vô vi của Nhất thừa lại đồng với số của Ba thừa? Đáp: Về nghóa này rất sâu sắc, vì đồng với số mới nói sao cho con người dễ tin. Thuyết của Tiểu thừa, Sơ giáo, Chung giáo và Viên giáo đã nói. Vô vi, không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng, lìa niệm, diệt, không thể nói. Nghóa như thế đều khác nhau, vì các thừa đối nhau, cũng sâu, cạn, rộng, hẹp không đều nhau, như sáu vô vi, ba vô vi, ba không, tám không, cho đến mười tám không, v.v… tất cả pháp không tức là vì danh số khác với y cứ, nên cũng không thể hội nhập một, chỉ ở một môn Đốn giáo. Tất cả có, không đều đồng một tướng, cái gọi là Vô tướng, nghóa khác có nói rộng trong chương riêng. CHƯƠNG BA CÕI Ba cõi, phần đoạn, y xứ, quả báo của chúng sinh, phân chia xếp đặt có ba, từ ngục A-tỳ đến trời Tha Hóa, nam, nữ cư trú lẫn lộn, vì đa số là các dục nhiễm nên nói là cõi Dục. Từ Phạm thiên Sơ thiền đến trời A-ca-nị-tra, đều không có hình nữ, cũng không có nhiễm dục, cung điện cao lớn, vì do sắc hóa sinh, nên gọi là cõi Sắc. Từ vô biên không xứ đến trời Phi tưởng, phi phi tưởng, chỉ có bốn tâm, vì không có sắc, hình chất nên gọi cõi Vô Sắc. Đối với ba cõi này phàm, Thánh, thô tế, mọc, lặn khác nhau, có bốn thứ: Ba cõi phần đoạn của nghiệp trói buộc. Ba cõi phần đoạn của nghiệp không trói buộc. Ba cõi tập biến dịch của thế gian. Không bỏ ba cõi biến dịch của thế gian. Hỏi: Biến dịch và không bỏ thế gian đồng với pháp không có trôi lăn thì nhân đâu ở trong ba cõi? Đáp: Thân biến dịch vì từ bi nên ở thế gian, như kinh Niết-bàn nói: Thường, lạc, ngã, tịnh hay dùng đại bi vì trở lại vào thế gian nên ở ba cõi. CHƯƠNG BỐN BIỆN Vô ngại biện, đó là Pháp vô ngại, nghóa vô ngại, từ vô ngại, và nhạo thuyết vô ngại. Trí danh tự, gọi là pháp vô ngại; Trí biết nghóa, gọi là nghóa vô ngại; Ngôn âm biện minh lược, gọi là từ vô ngại, khiến người khác ưa nói vô ngại, vì thông suốt không có ngăn ngại, nên gọi là vô ngại, dùng trí hậu đắc làm thể. Nếu y cứ Tiểu thừa thì bốn vô ngại biện là tuệ thật của họ. Sơ giáo của Đại thừa, tuệ ấy tức không. Nếu đến Chung giáo thì tuệ kia tức như. Nếu đến Viên giáo tức bốn mươi vô ngại, như trong địa thứ chín của kinh ở dưới nói: Bốn trí vô ngại y cứ mười thứ khác nhau: Y chỉ tự tướng. Y cứ vào tướng đồng. Y cứ vào hành tướng. Y cứ vào tướng thuyết. Y cứ vào tướng trí. Y cứ vào tướng ngạo mạn không có ngã. Y cứ vào tướng Tiểu thừa, Đại thừa. Y cứ vào tướng địa Bồ-tát. Y cứ vào tướng địa Như Lai. Y chỉ tướng làm trụ trì. Năm tướng sau là tướng tịnh. Đây là y cứ vào giáo để biện luận. Nếu y cứ vào thật đức, thì biện vô tận trong môn Phổ Hiền, nghóa khác có nói rõ trong chương riêng. CHƯƠNG ĐẠO PHẨM Đạo phẩm có ba: Phẩm đạo của Tiểu thừa, hồi tâm cũng đồng. Tiến thẳng phẩm đạo, nghóa là chỉ có sáu Ba-la-mật. Đạo phẩm Nhất thừa, nghóa là đạo phẩm vô tận. CHƯƠNG BIỂN PHÁP NHẤT THỪA Kinh nói: Đều được biển pháp mà tất cả chư Phật ba đời đã nói. (Giải thích: Pháp, đáng làm phép tắc, chủ nghóa của giáo chung này). Đối với mỗi một pháp sinh (Giải thích: Nghóa là xuất sinh, lập nghóa pháp tông). Mỗi pháp phương tiện (Giải thích: Nghóa là phương tiện dẫn chứng dụ hợp pháp). Mỗi pháp ngôn ngữ (Giải thích: Nghóa là thuận theo giáo pháp của âm phương ngôn). Mỗi pháp thi thiết (Giải thích: Nghóa là tên thí ở pháp nghóa). Mỗi giáo pháp (Giải thích: Nghóa là thành phép tắc giáo). Mỗi thuyết pháp (Giải thích: Nghóa là trao cho người khác, phép tắc ngôn thuyết). Mỗi pháp nhập (Giải thích: Nghóa là các hạnh, giải, trí hay nhập). Mỗi pháp quyết định (Giải thích: Tương ưng của nghóa giáo, giải thích rộng quyết trạch). Mỗi pháp trụ (Giải thích: Tông nghóa rốt ráo thành thuyết an lập). Lại có mười câu pháp Phật. Lại nữa, có mười thứ nói pháp. Lại nữa, có mười thứ thuyết. Ba đời lại có mười thứ thuyết. Tâm Phổ Hiền lại có mười thứ thuyết. Pháp hạnh nguyện của Phổ Hiền đều là giáo riêng. Môn Nhất thừa như phẩm Lìa thế gian giảng nói rộng. Lại nữa, có pháp danh tự của Ba thừa, như Nhiếp Luận nói: Pháp, nhân và tánh, lược và rộng, gọi là cảnh sai biệt của mười danh bất tịnh, tịnh rốt ráo. Giải thích: Danh có mười thứ là cảnh giới của Bồ-tát. Mười thứ là: Danh pháp, nghóa là sắc, thọ v.v…, mắt, tai v.v… Danh nhân, hạnh tín, hạnh pháp, v.v… Danh pháp, Tu-đa-la, Kỳ-dạ, v.v… Danh nghóa, mười hai bộ kinh được sáng tỏ do các danh, nghóa. Danh tánh, không có nghóa, văn tự. Danh sơ lược, tên chung của chúng sinh. Tên rộng, mỗi chúng sinh đều có tên riêng. Tên bất tịnh, phàm phu. Tên thanh tịnh, bậc Thánh. Tên rốt ráo, chung cho tất cả pháp chân như, thật tế. Luận nói: Cảnh sai biệt của mười tên gọi. Giải thích: Mười thứ tên gọi khác nhau này đều là cảnh giới của Bồ-tát. Nơi ở của Bồ-tát chỉ ở thứ mười, chung cho tên gọi của tất cả pháp. Lại nữa, nói lược danh có mười thứ, là cảnh giới Bồ-tát. Danh pháp: như Mắt, v.v… Danh nhân: Ngã, chúng sinh, v.v… Danh pháp: Chánh giáo của mười hai bộ. Danh nghóa: Nghóa chánh giáo của mười hai bộ. Danh tánh: A, a là ban đầu, ha là sau cuối. Âm chữ hợp ba mươi bảy. Danh lược: là hữu vi, vô vi. Danh rộng: Sắc, thọ, v.v… và không. Danh bất tịnh: Phàm phu, v.v… Danh tịnh: Tu-đà-hoàn v.v… Danh rốt ráo: duyên cùng cực cảnh chung, trí xuất thế và đối tượng duyên của hậu trí xuất thế: cảnh chân như của tất cả pháp. Lại nữa, danh là danh chí rốt ráo, chung cho tất cả pháp, đối với tất cả pháp không có khác nhau, danh này tức là pháp giới. Pháp giới này vì chung cho tất cả pháp không phân biệt tất cả nghóa làm tướng. Hoặc nói cảnh vô phân biệt của danh, Bồ-tát chỉ trụ trong pháp này, nghóa khác có nói rộng trong chương riêng. Chương nghóa khác nhau sinh thành đức của Phật hồi hướng thứ mười. Phật khởi đức khắp duỗi hóa nhiếp thọ chúng sinh, các tông chia cắt, xếp đặt khác nhau, nếu y cứ Tiểu thừa thì báo thân Phật thật, sinh ở cung vua, đến cây Bồ-đề, thành Phật, nhiếp hóa chúng sinh, dụng và đức đều ở trong đó. Nếu y cứ vào ba thừa thì pháp thân không có phương đầy khắp pháp tánh, báo thân thành tựu ở xứ Sắc Cứu Cánh, hóa thân thị hiện dưới cây Bồ-đề, dụng hóa độ và đức đều không rời. Ba vị này nếu là nghóa Nhất thừa, công đức sở hữu đều không rời. Mười Phật có hai thứ: Mười Phật hạnh cảnh, nghóa là vô trước Phật, v.v… như phẩm Ly thế gian nói. Mười Phật giải cảnh, nghóa là thân chúng sanh, thân Phật, v.v… trong ba thế gian của địa thứ tám, đủ như thuyết Tiểu thừa kia, vẫn ứng hiện trong cung vua và dưới cây Bồ-đề, pháp ấy là ở tâm sau cùng của Thập Hồi Hướng. Hỏi: Từ nhân tu đạo, chứng lý sau Thập địa, lẽ ra phải ở tế sau Thập địa, ấy là thị hiện cây Bồ-đề, vì sao Phật ở trong Thập Hồi Hướng? Đáp: Nếu theo nghóa Ba thừa thì chấp nhận có tướng này. Nay, y cứ nghóa Nhất thừa là thuận với sáu tướng kia, các vị của pháp chung, riêng tức không có trước, sau. Sở dó hiện Thập hồi hướng vì hồi hướng là trí khéo léo, vì giảng nói tướng khéo léo vó đại của Phật, nên nghiêng về Thập hồi hướng. Sở dó biết được là do thần cây Bồ-đề ở Thập hồi hướng, nghóa khác có thể biết. HOA NGHIÊM KINH NỘI CHƯƠNG MÔN ĐẲNG TẠP KHỔNG MỤC <卷>QUYỂN 3 GIẢI THÍCH CÁC TẠP MỤC TRONG KINH HOA NGHIÊM MỤC LỤC HỘI THỨ SÁU: Thập địa phẩm trước nói về mười địa. Trong bổn phần nói về sáu quyết định. Trong phần thêm, trong ý thêm, nói về bốn pháp, sáu chánh kiến, trong thỉnh phần nói về chuyển y. Nói về hai chương lớn thỉnh phần và chưa chứng giáo. Trong phần đầu phân biệt nghóa các tông. Trong phần đầu An Trụ Địa, nói về năm sợ hãi. Trong phần đầu Giảo lượng thắng, nói về mười nguyện, ba thứ Bồ-đề. Trong Hành Giảo Lượng Từ Bi nói về duyên khởi. Trong quả phần ấy nói về bốn quả như Điều nhu v.v…. Địa thứ hai, trước nói ba nhóm giới, mười ác nghiệp, bảy thứ tà kiến, mười nghiệp đạo thiện. Trong Giới Nhiếp Chúng Sanh nói về bốn đảo. Địa thứ ba, trong Yểm phần nói về bốn tịnh lự về tám thiền, ba khổ, tám khổ, bốn vô lượng, sáu thành tựu. Địa thứ tư nói về ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Địa thứ năm nói về bảy tịnh, mười đế. Địa thứ sáu nói về duyên sinh, ba Không môn (ba tam-muội), Tam-muội Trùng không, Nhân không pháp không. Địa thứ bảy nói về nghóa bốn nhà. Địa thứ tám nói về bốn thứ Vô Sinh nhẫn, ba thế gian, mười tự tại, Mười bố úy (sợ hãi). Địa thứ chín nói về mười nghóa trù lâm, tám muôn bốn ngàn pháp môn phiền não hành sử hành trù lâm, căn hành trù lâm, Sinh hành trù lâm, Tập khí trù lâm, Ba trụ hạnh trù lâm thành tựu, hai mươi loại Pháp sư, bốn mươi biện tài Vô ngại. Địa thứ mười nói về Thọ chức, nghóa ao A-nậu-đạt. ***** TRƯỚC NÓI MƯỜI ĐỊA CỦA PHẨM THẬP ĐỊA: Mười địa là: 1/ Địa hoan hỷ; 2/Địa Ly cấu; 3/ Địa Minh diệm; 3/ Địa Thiêu nhiên; 5/ Địa Nan Thắng; 6/ Địa Hiện tiền; 7/ Địa Viễn hành; 8/ Địa Bất động; 9/ Địa Thiện tuệ; 10/ Địa Pháp vân. Sinh thành Phật trí trụ trì nên gọi là Địa. Địa tức là vị. Nay mười địa này nhiếp Phật nhân vị Nhất thừa, Ba thừa Thanh văn và trời người v.v… đều ở trong ấy. Vì người năm thừa xem là chứng vị Phổ Hiền, quả Phật nhiếp dụng vô ngại tự tại tất cả đều hết. Vì sao? Vì pháp Mười địa là môn đầu tiên nhiếp chúng sanh, pháp địa sâu xa rất khó hiểu biết. Nay lược y cứ năm thừa mà phân biệt rõ ràng. Nói năm thừa thì trời, người, v.v… là một, gọi là Nhân thiên thừa. Thanh văn, Duyên giác y cứ theo chúng làm một gọi là Tiểu thừa. Người tu Tiệm giáo làm một, tức là Tiệm ngộ thừa. Người tu Đốn giáo làm một, tức là Đốn ngộ thừa. Người làm Nhất thừa làm một, tức là thừa rốt ráo. Về Nhân thiên thừa có ba thứ thành Phật: Một là Phật vì cứu ba đường ác nên hiện thân khác kia, ngoài ba đường ác liền thành thân Phật, như Phật hiện voi chân đen, v.v…; Hai là dẫn dắt cõi người mà hiện thân Phật, như Phật vì Đề-vị mà hiện thân thần cây; Ba là vì dẫn dắt trời, người mà hiện thân Thánh, trời người biết Phật là Thánh mà cùng cúng dường, thành phước thế gian. Ở Nhị thừa, có bảy nghóa: Một là y cứ theo địa, nghóa là trong ba cõi ngoài chín địa, mười địa, mười một địa thì tức thành Phật. Hai là y cứ vị thì đã ngoài kiến tu tức là thành Phật. Ba là y cứ hạnh lìa ngoài học mà ở Vô học tức hiện thành Phật ấy. Bốn là y cứ hạnh Bồ-tát, ngoài ba mươi ba tâm tức là thành Phật. Năm là y cứ vào thời, Tiểu thừa sáu mươi kiếp thành ngoài ba tăng-kỳ tức là thành Phật. Phật. Sáu là y cứ sinh tử, sau cùng trên thân phần đoạn tức là thành Bảy là y Tiểu thừa mười hai trụ, trụ thứ mười hai A-la-hán cao nhất tức đồng là Phật. Y cứ theo Hồi tâm giáo môn, có tám nghóa: Một là y cứ theo địa vị, nghóa là mười địa như Càn Tuệ địa, v.v… Trong địa thứ mười tức thành Phật. Sở dó đồng mười địa thành Phật, là Phật, dưới đồng nhân vị nên nói như thế; Hai là y cứ ba cõi chín địa, ngoài địa Mười một thì tức thành Phật; Ba là y cứ theo vị, đã ngoài kiến tu thì tức thành Phật; Bốn là ước hạnh, đã ngoài vị học đồng vị với Vô học A-la-hán tức là thành Phật; Năm là y cứ theo thời y theo Đại thừa ngoài ba Tăng-kỳ thì tức thành Phật; Sáu là y cứ hạnh Bồ-tát, ngoài ba mươi ba tâm tức là thành Phật; Bảy là y cứ theo vô phân biệt, không lý một niệm tức là thành Phật; Tám là y cứ sinh tử, trên thân phần đoạn cuối cùng tức là thành Phật. Lại y cứ Sơ giáo Trực tiến vị, thì có bảy môn: Một y cứ vị, tức từ Thập Tín, vị, v.v… cho đến từ Hoan Hỷ Địa, v.v… đầy đủ ngoài Mười địa thì tức thành Phật ấy. Đây do cảnh giới có thân phần đoạn chẳng đồng với thân phần đoạn của Bồ-tát; Hai là y cứ vị từ Hoan hỷ địa đến hết địa thứ chín. Ở mười địa tức là Bất Thối là thành Phật: Đây cũng là đối với Thanh văn hạ vị ở trong hạ thân mà thành Phật, cho nên nói thế; Ba là y cứ lý tức là chân như vô phân biệt không một niệm liền thành Phật; Bốn là y cứ mười địa sau một niệm chứng quả tức là thành Phật; Năm là y cứ thời, Đại thừa sau ba tăng-kỳ tức là thành Phật; Sáu là y cứ hạnh: Rốt ráo vô học tức là thành Phật; Bảy là y cứ mười hai trụ của Đại thừa, ở sau trụ Bồ-tát thứ mười hai cao nhất tức là thành Phật. Lại y cứ Chung giáo của Đại thừa, có mười môn: Một là y cứ theo vị. Từ mười Tín hạnh cho đến mười địa sau cùng như Hoan hỷ, v.v… tức là thành Phật; Hai là từ Hoan hỷ Sơ địa cho đến hết địa thú chín. Ở địa thứ mười tức là thành Phật. Như kinh Phạm Võng nói đó là đối Thanh văn hiện thân phàm độ được quả chứng cho nên nói như thế. Đây phải là ngôi thành biến hóa không phải thành thật; Ba là y cứ theo vị từ Sơ địa hoan hỷ đến địa thứ ba là Pháp tướng thế gian đồng ba cõi. Địa thứ tư trở đi đến địa thứ bảy, tướng đồng vô lậu, ở trong thân thế gian mà được đức Ba thừa vô lậu ấy, gọi là xuất thế. Địa thứ tám trở đi đến địa thứ mười gọi là xuất xuất thế, tức được thành Phật. Địa thứ tám thành tựu pháp thân, địa thứ chín thành ứng thân, địa thứ mười thành hóa thân. Đây là tướng riêng trong mười địa nên nói như thế; Bốn là một niệm thành Phật, là y cứ theo Vô phân biệt chân như cho nên nói như thế; Năm là y cứ chứng để nói một niệm thành Phật. Trong Sơ địa một niệm mà chứng; Sáu là ở sau Mười địa một niệm chứng quả nên gọi là một niệm thành Phật trên các niệm, đó tức là vô niệm; Bảy là y cứ thời, nghóa là Đại thừa sau ba tăng-kỳ tức là Phật; Tám là y cứ hạnh, là sau tâm Kim cương thì được trí Nhất thiết, trí tức là Phật; Chín là y cứ sinh tử, sau khi diệt hết bảy thứ sinh tử thì tức là Phật; Mười là theo kinh Đại Thừa Đồng Tánh thì có ba thứ Mười địa: Thanh văn mười địa, Duyên giác mười địa, Phật mười địa, là siêu dẫn Tiểu thừa đồng với nghóa Đại thừa Chung giáo nên nói như thế. Tên mười địa đủ như Sớ nói. Lại có tướng mười địa khác nhau rộng như trong Nhiếp Luận bản dịch vào đời Lương có giải thích. Nói theo Đốn giáo thì chỉ có một môn, đó là Vô tướng. Vì sao? Vì thành Tam-muội Nhất Hạnh, nhân nhất vị chân như mà thành, không thể nói các tướng môn khác thành Phật cũng như đây, tất cả đều lìa, nên gọi là Phật. Y cứ nghóa Nhất thừa là Mười tín chung tâm, cho đến mười giải vị mười hạnh, mười hồi hướng mười địa, Phật địa, tất cả đều thành Phật. Lại ở Mười địa cũng riêng thành Phật, như trong Pháp Bảo Chu La Thiện Tri Thức chép: Vì sao? Vì là nghóa Nhất thừa, vì dẫn ba thừa và Tiểu thừa đồng ở vị dưới (thấp) và trong thân dưới (thấp) mà được thành Phật. Lại ở Bát địa trở lên tức là thành Phật. Như ở vị này thành tất cả thân Phật vô ngại. Đây là nói theo Biệt giáo. Nếu nói theo Đồng giáo tức là nhiếp chỗ nói đạo lý của bốn thừa trước thì tất cả đều là nghóa Nhất thừa. Văn tuy đồng mà nghóa thì khác. Như tướng khác nhau của các pháp này là vì hộ mười địa tùy môn phương tiện mà nói các thứ, khiến các chúng sinh ở trong mười địa mà lìa bỏ tăng thượng mạn. Lại y vào sáu tướng nghóa chung riêng tức là Nhất thừa, tùy theo tướng riêng mà bày nghóa thì có ba thừa. Đây là nói theo giáo, thật ra pháp Nhất thừa mười địa cho hết ba đời đã chung rốt ráo. Đây là y cứ theo chứng mà nói. Còn các nghóa khác có nói rõ trong chương riêng. TRONG BỔN PHẦN MÀ NÓI QUYẾT ĐỊNH: Có sáu quyết định: Một là Quán tướng khéo léo quyết định tức là tướng chân như quán nhất vị, như kinh nói: Không tạp; Hai là Chân thật khéo quyết định, chẳng phải là tất cả cảnh giới thế gian và xuất thế gian như kinh nói chẳng thể thấy; Ba là Thắng thiện quyết định, ở đây có sáu nghóa: Một là đại giải thoát cho nên thắng, hai là căn bản của tất cả Phật, cho nên thắng, ba là Pháp tướng khác pháp nhó cho nên thắng, bốn là chân như quán thì hơn phàm phu Nhị thừa cho nên thắng, năm là thuận theo đại giáo cho nên thắng, sáu là vô lậu cho nên thắng. Nói Đại thừa là vì pháp pháp nhó, là vì giới Bạch pháp; Bốn là Nhân thiên quyết định, vì có hai thứ: Một là thành vô thường ái quả nhân thiện quyết định, là nhân như hư không. Y kiến mà sinh các sắc sắc bất tận; hai là thường quả nhân thiện quyết định là được đạo Niết-bàn, như kinh nói hết đời vị lai; Năm là Đại thiện quyết định là thuận theo làm lợi ích hạnh khác như kinh che chở tất cả chúng sinh giới, kế trước khéo quyết định, đây là nguyện trong thế gian Niết-bàn không một bề mà trụ; Sáu là Bất khiếp nhược thiện quyết định không khiếp nhược là mà vào tất cả trí địa của chư Phật, như kinh nói: Phật tử là các Bồ-tát cho đến vào trí địa chư Phật hiện tại. Sáu quyết định này là thể của Mười địa. Vì chung cho Mười vô tướng nên cũng chung cho Mười trụ trở xuống, cho nên kinh nói trong mười trụ có năm quyết định. Mười hạnh cũng đồng, chỉ trừ đại thiện. Mười hồi hướng có ba quyết định tức là quán tướng, đại thiện, bất khiếp nhược. Đây là phế hưng hiển vị cao thấp tăng vi, nghóa chung có thể biết. Nghóa này chung cho tu sinh và bản hữu, ba thừa và Tiểu thừa không thể biết được. Tánh Phổ Hiền khởi ở vị này. Vì sao? Vì đồng chứng ấy, nghóa khác ở chương riêng có nói rõ. TRONG PHẦN THÊM NÓI THÊM Ý CỦA BỐN PHÁP : Bốn pháp tức là bốn kham trí: Một là duyên, hai là pháp, ba là tác, bốn là thành. Bốn trí này giống với sáu tướng trí loại, chỉ có môn là khác. 1/ Duyên tức là duyên thành pháp; 2/ Pháp là tương ưng thành pháp; 3/ Tác tức là duyên năng thành; 4/ Thành, tức là liễu biệt thành tựu, trí biết pháp rõ ràng. Duyên khởi tự tại nên gọi là Kham. Nghóa này cũng chung cho Nhất thừa và Ba thừa. Vì sao? Vì bốn kham trí này ở trong ba thừa mà thuận lìa bốn báng và khế hợp Trung đạo. Nghóa này sẽ nói rộng trong chương riêng. Sáu chánh kiến: Luận Kim Cương Tiên chép: Một là Chân thật trí chánh kiến, hay biết ý pháp; Hai là Hạnh chánh kiến là hay biết hạnh pháp. Hai thứ này là giáo chỉ; Ba là giáo chánh kiến hay biết giáo pháp; Bốn là chánh kiến lìa hai biên, là biết lý pháp ở trước chẳng đồng với tình chấp; Năm là chánh kiến Bất tư nghị, là biết hạnh pháp trước thành đức (ra khỏi) tình; Sáu là Căn dục tánh chánh kiến, là biết giáo pháp trước nói tâm tùy vật. Chánh kiến này là biết giới hạn của pháp. Đây thuận với ba thừa. Nếu thanh tịnh vào Nhất thừa thì tức là mười pháp Minh liễu. Như trong phẩm Ly Thế Gian nói, đó gọi là pháp thuận theo thế gian minh liễu, vì muốn nuôi lớn tất cả gốc lành thế gian của phàm phu, dùng vô ngại bất hoại Tín minh liễu pháp để giải thích người pháp, chân tánh tín hạnh, dùng An trụ pháp giới minh liễu pháp để hiểu người pháp hạnh, dùng Viễn ly tám tà hướng về tám chánh đạo minh liễu pháp để giải th- oát tám người, dùng trừ diệt các kết đoạn sinh tử lậu, thấy chân thật đế Minh liễu pháp mà giải thích người Tu-đà-hoàn. Quán vị là huyễn trở lại thọ sinh Minh liễu pháp để giải thích Tư-đà-hàm cho đến phút chốc chẳng vui, ba cõi chẳng mê đắm mà thọ sinh chuyên cầu lậu tận, Minh liễu pháp để giải thoát A-na-hàm. Sáu thông tự tại do tám giải thoát tùy ý chánh thọ, chín định thứ đệ nói về pháp minh liễu để giải thoát A-la-hán. Thường ưa vắng lặng, do ngoại duyên mà giải tri túc thiểu sự chẳng do người khác ngộ, thành tựu trí tuệ. Pháp Minh liễu mà giải thoát Duyên giác. Thành tựu thắng trí các căn lanh lợi, tâm thường giải thoát, nuôi lớn vô lượng công đức trí tuệ đầy đủ mười lực vô sở úy, tất cả pháp Phật, pháp Minh liễu mà giải thoát Bồ-tát. Hỏi: Vì sao dẫn pháp thấp kia mà giải nghóa Minh liễu Nhất thừa sâu xa, nêu ra đây khiến cho người dễ hiểu? Tiểu thừa không có việc này, nhân ánh sáng mà thành tựu đại giải thoát, các nghóa khác sẽ nói rõ trong chương riêng. TRONG THỈNH PHẦN NÓI CHUYỂN Y Chuyển y, có năm môn: Một là nói chuyển y thể được y, hai là nói trí năng chuyển, ba là nói chướng được chuyển, bốn là nói chuyển được cảm quả, năm là nói vị địa. Sở y tức là thường thân do thân tự tánh Như Lai tạng trước là sinh tử y, sau chuyển là pháp thân, là rốt ráo y. Trí năng chuyển tức là trí Vô phân biệt. Chướng được chuyển tức là tám vọng tưởng, v.v… quả được cảm tức là quả Niết-bàn vắng lặng. Vị được y như Bản Luận dịch vào đời Lương chép: Lược có sáu vị: Một là ích lực tổn năng chuyển, do tùy tín lạc vị trụ huSân tập sức nghe, thế gia tu tuệ tổn tích nghóa; Hai là thông đạt chuyển, tức là các Bồ-tát đã Đăng địa, do chân thật luống dối hiển hiện làm công năng. Luống dối tức là quán tục trí, hai trí chân tục đều được hiện. Đây chuyển từ Sơ địa đến Lục địa, có ra vào quán là khác; Ba là tu tập chuyển, do người chưa lìa chướng là tất cả tướng chẳng hiển hiện là chân thật hiển hiện y, tức là ba tướng chẳng hiển hiện thì ba vô tướng hiển hiện. Đây chuyển từ Thất địa đến Thập địa, nghóa là trong đây đồng tu hạnh vô tướng. Dùng bốn địa làm vị bốn quả chuyển đầy đủ, do người đã lìa chướng, tất cả tướng chẳng hiển hiện mà thanh tịnh chân như hiển hiện đến được tất cả tướng tự tại y, tức là Trí đoạn ân ba đức đầy đủ; Năm là hạ liệt chuyển, do người Thanh văn thông đạt vô ngã; Sáu là quảng đại chuyển, do Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã, nghóa là người, cảnh công năng ba nghóa đều cao quí. Người là Bồ- tát, cảnh là pháp vô ngã, công năng tức là công năng tự lợi, lợi tha. Đây là giải thích theo trực tiến giáo. Nếu y cứ theo Tiểu thừa tức là kiến tư, v.v… các chuyển, hoặc y cứ vào Sơ hồi tâm giáo thì cũng đồng kiến tu chuyển. Nếu y cứ vào thục giáo thì địa tiền tùy phục, Sơ địa đốn đoạn, Nhị địa trở lên là dứt tập khí. Đốn giáo chẳng nói dứt, Viên giáo thì một dứt, tất cả dứt, cũng như trước nói. Dứt thì không phải đầu, không phải giữa mà là sau dứt. Trong Phổ Hiền giai hạnh vị thì tiệm sai đẳng phục (dần khác các phục) các nghóa khác có nói trong chương riêng. THỈNH CẦU VỊ CHỨNG GIÁO HAI ĐẠI Chứng giáo, tức là y cứ hai phần nhân quả mà nói hai đại: Phần nhân là giáo đại, phần quả là nghóa đại. Sở dó y cứ quả mà nói nghóa đại, vì quả là vị được khắc. Nghóa đại là nghóa pháp được chứng, ở vị tương tự nên y cứ theo đó mà hiển bày. Sở dó y cứ nhân mà nói giáo đại là vì nhân vị hay sinh, giáo là nghóa năng mục phương tiện, vì tương tự nên y cứ theo đó mà hiển, hai phần giáo chứng, đức lượng chẳng phải nhỏ, nên gọi là đại chứng phần, dứt lời là phát thú, là chỗ về rốt ráo, nên gọi là nghóa. Giáo đại có ba thứ: Một là Nhân thành tựu đại, hai là Tiệm thành tựu đại, ba là Giáo thuyết tu thành tựu đại. Về Nhân thành tựu đại, Địa Luận có kệ nói: Từ bi và nguyện lực do đây mà khắc chứng, nên gọi là Nhân đại, vị ở Địa tiền. Nhân tiệm thành tựu đại, là kệ nói tiệm thứ. Tiệm là nói thứ lớp văn, tư, tuệ…. Cho đến nhân năng sinh trí xuất thế gian là sao? Vì giáo nói tu thành tựu đại, có hai thứ: Một là Mãn túc tu, hai là Quán tu. Mãn túc tu là kệ nói: “Chẳng phải tâm cảnh”. Chẳng phải tâm cảnh: câu này là chỉ bày chỗ tạp cảnh giới của Văn, tư, tuệ chỉ là trí nhân hay sinh trí xuất thế gian, mà đây chẳng có trí địa xuất thế gian. Kệ nói: Trí mãn như tịnh tâm, như tâm xuất thế gian thanh tịnh có thể đủ Trí địa ấy. Quán tu, kệ nói là: Cảnh giới khó thấy khó nói, chỉ tự tâm biết, ta nhờ sức Phật mà nói, đều cùng cung kính nghe. Kệ này hiển bày nghóa gì, là cảnh giới khó thấy, tự tâm thanh tịnh có thể thấy. Cảnh giới này chẳng thể nói như thế là giáo nói tu thành tựu xong, nghóa kệ khác có thể biết. Đây là nghóa chung của ba thừa, trong Tiểu thừa thì không. Vì sao? Vì trong nghóa Tiểu thừa chỉ nói giáo Nhất thừa Viên giáo. Nếu y cứ theo thấy nghe thì chẳng được phân hai đại giáo nghóa. Nếu y cứ theo Phổ Hiền giải hạnh chứng nghóa thì tức có nói hai đại giáo nghóa. Nếu đem thấy nghe mà đối Phổ Hiền chứng thì cũng có thể được nói thấy nghe là giáo đại, Phổ Hiền chứng nghóa là nghóa đại. Có thể y cứ theo mà biết. PHẦN ĐẦU, PHÂN BIỆT NGHÓA CÁC TÔNG Nay luận Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa đều có tông thú. Nếu tùy cơ cảm thuốc bệnh nói riêng thì có vô lượng. Nay y theo Bồ-tát Long Thọ giải thích nghóa Bát-nhã lập ra bốn tất-đàn. Tông ấy nói chung tất cả đều được thành tông, tức là Bồ-tát Long Thọ rất khéo léo. - Bốn tất-đàn, bốn là số, tất-đàn là tông: Một là tất-đàn thế giới. Thế là thời, giới là giới hạn, tức trong một thời mà bày giáo đúng lý gọi là thế giới; Hai là tất-đàn vị nhân, cơ nghi đều khác đều chấp lấy chỗ Thánh làm nên gọi là nhân tất-đàn; Ba là tất-đàn đối trị, là nói Thánh giáo định cho đương cơ phải hàng phục diệt trừ phiền não nên gọi là Đối trị tất-đàn; Bốn là tất-đàn Đệ nhất nghóa, không nghe giáo nghóa lý sự, phải được hàng phục diệt trừ phiền não, sinh trú lậu và vô lậu, tức là tất-đàn Đệ nhất nghóa. Nghóa Đệ nhất là bậc nhất trong các nghóa (nghóa cao tột nhất). Bốn tất-đàn này cũng như viên ngọc tùy phương đều ứng. Nghóa tất-đàn cũng như thế. Lại có bốn tất-đàn ấn là: 1/ Khổ; 2/ Vô thường; 3/ Vô ngã; 4/ Tịch tịnh. Bốn thứ trước là y cứ vào lợi ích, bốn thứ sau là y cứ vào đạo lý. Tên tất-đàn có nhiều, tùy Đại thừa, Tiểu thừa, nhân quả, lậu và vô lậu, hoặc lý hoặc sự, tất cả đều ứng nghi có thể biết. Các nghóa khác có giải thích rộng trong chương riêng. PHẦN ĐẦU AN TRỤ ĐỊA, NÓI VỀ NĂM SỢ HÃI Năm sợ hãi, đó là: 1/ Sợ chẳng sống; 2/ Sợ tiếng xấu; 3/ Sợ chết; 4/ Sợ đọa đường ác; 5/ Sợ oai đức đại chúng. Ở Sơ địa thì lìa hết các sợ hãi như thế. Vì sao? Vì Sơ địa ngã tướng, còn chẳng tham đắm thân, huống là chỗ dùng, cho nên không sợ chẳng sống. Tâm không mong cầu cúng dường cung kính, mà ta phải cúng dường tất cả chúng sinh, không sợ tiếng xấu vì xa lìa ngã kiến, không sợ chết. Bồ-tát chết rồi chẳng lìa Phật, Bồ-tát nên không sợ đường ác. Bồ-tát ở đời tất cả đều không có, huống chi là có hơn. Không có sợ oai đức đại chúng. Các sợ thứ một, hai, năm là y thân miệng ý, sợ thứ ba, bốn chỉ là y thân mà sợ. Nhân lược có hai thứ: Một là vì tà trí vọng chấp tưởng kiến ái trước; hai là vì gốc lành nhỏ ít. Năm sợ hãi ấy nếu y cứ theo Tiểu thừa là pháp thật có. Nếu y cứ theo sơ giáo thì việc ấy sẽ không. Năm sợ hãi ấy nếu y cứ Chung giáo thì sợ hãi là nghóa sợ hãi, nếu y cứ Đốn giáo thì tất cả chẳng thể nói. Nếu y cứ Viên giáo thì như việc trước thành, là sao? Là tùy chỗ mà chỉ bày, đều thành đạo sự của Bồ-tát. Các nghóa khác có giải thích rõ ở chương khác. SO SÁNH PHẦN HƠN TRƯỚC NÓI MƯỜI NGUYỆN: Mười nguyện: Một là Nguyện cúng dường, tức không sót tất cả Phật (không sót Đức Phật nào), tất cả đều cúng dường, tất cả đều cung kính, tất cả các thứ đều đầy đủ nhất, tin sâu thanh tịnh, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, đến hết đời vị lai. Trong đây cúng dường có sáu thứ lớn: Một là ruộng phước lớn, tức là tất cả Phật; hai là cúng thờ lớn, tức là tất cả đều đầy đủ; ba là tâm lớn, là tin sâu thanh tịnh; Bốn là nhiếp công đức lớn, là rộng lớn như pháp giới; năm là nhân lớn, là rốt ráo như hư không; sáu là thời lớn, tức là đến hết đời vị lai. Hai là Nguyện thọ trì, thọ trì có ba nghóa: Một là đối với kinh giáo chư Phật nói mà thứ lớp khiến pháp luân chẳng dứt thành tựu; Hai là chứng ba thứ Chánh giác được chứng thành tựu; Ba là tu hành ở nhân ba Chánh giác đều khiến tu hành thành tựu. Chánh giác là Thanh văn, Bích-chi-phật cũng gọi là Phật. Ba là Nguyện nhiếp pháp Thượng thủ. Bốn là Nguyện biết tâm hạnh chúng sinh mà giáo hóa tất cả khiến tâm tăng trưởng là chỗ làm của Bồ-tát. Năm là Nguyện giáo hóa chúng sinh, là tùy chúng sinh ấy thô tế khác nhau, gọi là sắc được nhiếp, khiến tin vào pháp chư Phật nói. Người đã vào pháp rồi thì khiến vào Nhị thừa Bồ-đề. Người đã vào Nhị thừa Bồ-đề rồi thì khiến vào Vô thượng Bồ-đề. Sáu là Nguyện biết thế giới, nghóa là biết tất cả tướng, cho đến chánh trụ và đảo trụ. Cho đến như mành lưới trời Đế-thích sai biệt chân thật nghóa tướng như nghiệp huyễn tác. Nghóa tướng chân thật, chỉ là trí hay biết. Các tướng khác có thể hiện thấy. Bảy là nguyện biết Tịnh độ, có bảy thứ: Một là Đồng thể tịnh. Như kinh nói: Tất cả cõi Phật là một cõi Phật, một cõi Phật là tất cả cõi Phật; hai là Tự tại tịnh, như kinh nói tất cả cõi Phật đều bình đẳng thanh tịnh; ba là Trang nghiêm tịnh, như kinh nói tất cả cõi Phật là thần thông trang nghiêm, tướng sáng đầy đủ, ánh sáng trang nghiêm, các báu trang nghiêm; bốn là Thọ dụng tịnh, như kinh nói lìa tất cả phiền não, thành tựu đạo thanh tịnh; năm là Trụ xứ chúng sinh tịnh, như kinh nói có vô lượng trí tuệ chúng sinh đều ở đầy trong đó; sáu là nhân tịnh, như kinh nói vào cảnh giới bình đẳng thượng diệu của Phật; bảy là Quả tịnh, như kinh nói tùy tâm chúng sinh ưa thích mà thị hiện Hiển bày thấn lực, v.v… Tám là Nguyện đồng tâm đồng hạnh, có mười thứ: Một là cùng tu gốc lành không oán thân; hai là tất cả Bồ-tát bình đẳng nhất quán; ba là thường gần gũi chư Phật, Bồ-tát chẳng rời bỏ; bốn là tùy ý hay hiện thân Phật; năm là trị ở trong tâm hiểu biết các thần lực trí lực của chư Phật; sáu là được Bất thối tùy ý thần thông; bảy là đều có khả năng đến khắp tất cả thế giới; tám là tất cả hội Phật đều hiện thân tướng; chín là tất cả chỗ sinh khắp trong ấy; mười là thành tựu Đại thừa không thể nghó bàn. Đầy đủ hạnh Bồ-tát. Chín là Nguyện ba nghiệp chẳng phải không. Ở trong chẳng phải không có hai thứ: Một là làm nghiệp ắt nhất định chẳng không, vì nghiệp thân miệng ý ra làm chẳng không; hai là làm lợi ích chẳng không, như thân cây thuốc vua, như được thân báu như ý. Mười là Nguyện thành Bồ-đề, như kinh nói thành A-nậu-đa-la- Tam-miệu Tam-bồ-đề. Làm nghiệp có bảy thứ: Một là bày nghiệp Chánh giác, hai là nói nghiệp báu đế, ba là chứng nghiệp giáo hóa, bốn là các thứ nghiệp nói pháp, năm là nghiệp chẳng dứt giống Phật, sáu là nghiệp pháp luận lại trụ, bảy là nghiệp tự tại. Mười nguyện như thế, Sơ địa trở lên thì thành, Địa Tiền thì tùy sức tùy phần. Đây là nói theo ba thừa, nếu y cứ theo Nhất thừa giáo thì Thập Tín chung tâm đầy đủ tất cả nguyện. Các nghóa khác có thể biết. * Ba thứ Bồ-đề: Một là Thanh văn Bồ-đề, hai là Duyên giác Bồ- đề, ba là Phật Bồ-đề. Y theo giáo phần vị mình rốt ráo. Hư thông gọi là Đạo. Hỏi: Thanh văn Duyên giác đã chẳng phải là nhân rốt ráo thì làm sao cùng Phật được gọi là Bồ-đề? Đáp: Thanh văn, Duyên giác nếu đối với Phật thì chẳng phải rốt ráo, nếu đối với đương vị y giáo giới hạn thì chẳng khác làm Phật. Thành A-la-hán tức là rốt ráo, nên riêng được gọi Bồ-đề. Nếu là Nhất thừa sở mục thì thuộc về Nhất thừa. Các nghóa khác nói ở chương khác. So sánh mười hạnh như tín, v.v… Mười hạnh: Một là tín, hai là bi, ba là từ, bốn là xả, năm là chẳng biếng lười, sáu là biết các kinh luận hiểu rõ thế pháp, bảy là biết hổ thẹn, tám là có sức bền chắc, chín là cúng dường chư Phật, mười là đúng như lời nói mà tu hành. Nghóa này thấy nghe ở Nhất thừa, ở Ba thừa và Thanh văn, trời, người v.v…, ba mươi câu như tiền tín v.v… là pháp thanh tịnh địa. Nay mười câu tín, v.v… là bày pháp địa tịnh. Các nghóa khác như ở chương khác có nói rõ. So sánh với duyên khởi trong từ bi: Về duyên khởi, bậc Đại Thánh nhiếp chúng sinh, muốn khiến khế lý mà bỏ sự. Phàm phu thấy sự liền mê lý, bậc Thánh được lý thì không có sự. Nay nêu thật lý để hiểu mê tình, giúp các hữu tình biết sự tức không, ngay nơi sự mà hiểu lý, nên nêu lên giáo này. Nên Địa Luận chép: Tự tướng có ba thứ: Một là Báo tướng danh sắc cùng thức A-lại-da sinh, như kinh nói đất ở ba cõi lại có mầm sinh. Đó gọi là danh sắc cộng sinh, nên gọi là danh sắc. Cộng sinh là danh sắc sinh với nó; Hai là nhân tướng ấy là danh sắc nên chẳng lìa ý nó, vì nó cùng sinh. Như kinh nói chẳng lìa; Ba là tướng thứ lớp của quả ấy. Từ Sáu nhập đến hữu. Như kinh nói danh sắc này lớn lên mà thành Sáu nhập, thành Sáu nhập rồi trong ngoài đối nhau, trong ngoài đối nhau mà sinh ra xúc. Xúc do duyên nên sinh thọ, rất ưa thích thọ nên khát ái, khát ái thêm lớn nên sinh ra thủ. Thủ thêm lớn nên khởi lên hữu sau (thân đời sau). Nhân duyên vì hữu nên sinh già bệnh chết ưu bi khổ não. Chúng sinh như thế sinh trưởng nhóm khổ. Trong ấy mà lìa ngã, ngã sở, hai thứ này hiện bày vô tri vô giác. Tự thể nó là vô ngã nên phải biết mười hai nhân duyên này tức tự thể nó tánh không nương vào thức A-lê-da mà sinh. Lê-da sâu kín tự thể vô ngã mà sinh ra mười hai nhân duyên, mười hai nhân duyên cũng đều vô ngã, là duyên sinh chẳng có pháp nào khác. Nếu Phật duyên khởi quán môn (môn quán về duyên khởi) để hiểu các pháp, thì tất cả không phân biệt tức thành thật tánh. Địa Luận nói: thuận theo quán thế đế liền vào nghóa đế Đệ nhất, là việc ấy. Duyên khởi quán môn có ích như thế. Nghóa này ở Ba thừa, cũng chung Nhất thừa mà nói. Vì sao? Vì là chỗ y cứ, nếu cứ vào duyên khởi hơn kém thì nó là Thắng quán (quán cao siêu), cũng tức là Tiểu thừa trong Nhất thừa. Tuy có tên gọi mà không trái nghóa ấy. Vì sao? Vì chẳng dứt pháp ngã. Nghóa khác có giải thích trong chương riêng. TRONG PHẦN QUẢ NÓI ĐIỀU NHU BỐN QUẢ Bốn quả: Một là Điều nhu quả lợi ích thắng, hai là phát thú quả lợi ích thắng, ba là Nhiếp báo quả lợi ích thắng, bốn là Nguyện trí quả lợi ích thắng. Nói điều nhu, tức hạnh làm thể. Phát thúc tức giải trí làm thể, tức là tuệ trí văn, tư. Nhiếp báo tức quả báo năm ấm làm thể. Nguyện trí tức lấy thành dụng làm thể. Điều nhu nhiếp ba quả báo, nguyện, trí các địa đều hạn cục chẳng thông nhau. Khi phát thù một quả thì nghóa chung cho các địa. Các nghóa khác có nói rõ ở chương khác. ĐỊA THỨ HAI. TRƯỚC NÓI BA NHÓM GIỚI : Ba nhóm giới: Một là giới Nhiếp luật nghi, hai là giới Nhiếp thiện pháp, ba là giới Nhiếp chúng sinh. Các chủng loại giới lược có bốn thứ: Một là theo Du-già có bốn Ba-la-di; hai là theo kinh Anh Lạc, Phạm Võng có mười vô tận giới; ba là theo kinh Phương Đẳng có hai mươi bốn giới, lại có hai thứ: Một là nói giới của Bồ-tát thọ có hai mươi bốn giới: Một là chúng sinh đói khát xin thức ăn uống, đồ nằm mà không cho thì phạm tội trọng; hai là dâm dục vô độ chẳng chừa cầm thú thì phạm trọng; ba là thấy có Tỳ-kheo nuôi vợ con mà tha hồ nói lỗi thì phạm trọng; bốn là thấy người lo buồn muốn tự giết mình, lấy ý mình làm tăng thêm sự tức giận người khác, giết hại người khác thì phạm trọng; năm là ở chỗ hoang vắng mà giữ tiền của thì phạm trọng; sáu là thấy người khác muốn tự vẫn mà dùng lời ngon ngọt khen ngợi khiến họ tức giận thì phạm trọng; bảy là thấy người khác muốn đốt phòng tăng mà không hết lòng can ngăn thì phạm trọng; tám là hoặc thấy hoặc nghe người khác phạm trọng tội nếu chẳng ba lần đến khuyên sám hối thì phạm trọng; chín là thấy có người gây ra năm tội nghịch mà chẳng quở trách khuyên bỏ thì phạm tội trọng; mười là thấy nghe người khác muốn làm lành lại khởi tức giận phá hoại họ thì phạm trọng; mười một là thấy người khác ham mê rượu thịt, (mà không đem) tình mình đến khuyên trách để trừ nhân duyên thì phạm trọng; mười hai thấy người dâm vợ con người khác mà mách bảo chồng họ thì phạm trọng; mười ba là nhìn kẻ thù mà có ý tưởng oán thù thì phạm trọng; mười bốn thấy người khác coi kẻ thù như con, bèn đến nói “Sao coi người này như con vậy?”, thì phạm trọng; mười lăm là thấy người khác đánh nhau mà giúp gậy gộc cùng đánh thì phạm trọng; mười sáu thấy người khác che giấu mà đem mách với người khác khiến họ tức giận thì phạm trọng; mười bảy thấy nghe người khác làm việc lành, đến bảo đều chẳng nên làm thì phạm trọng; Mười tám đi ở chỗ quảng đường trống thấy người xây cấp tháp miếu, xây cất tinh xá mà chẳng giúp sức thì phạm tội trọng; mười chín là thấy nghe có người lìa thiện tri thức, gần gũi bạn xấu mà khen tốt chẳng khuyên bỏ thì phạm tội trọng; hai mươi là ở nhà Chiên-đà-la, ở chỗ người ác chó dữ hoặc chỗ người Thanh văn, Nhị thừa v.v…, trừ mình có việc gấp phải đến, thì phạm trọng; Hai mươi mốt là thấy, nghe, nghi giết nghó là thấy, nghe, nghi mà ăn thịt ấy thì phạm trọng; Hai mươi hai là thấy nghe nghi giết mà nghó là chẳng thấy, nghe, nghi, giết, nếu chẳng ăn thịt ấy thì phạm trọng; hai mươi ba biết rõ phương tiện, hiểu rõ căn cơ chúng sinh, nếu bảo chẳng nói thì phạm trọng; hai mươi bốn là thấy các Bồ-tát, hoặc thấy các người khác đều chẳng được nói với người mà thân hiện tại có chướng ngại đạo pháp, hoặc bị bệnh cùi hủi, có lúc ngu si, có lúc mù lòa, có lúc mắt mờ vọng tưởng, phân biệt các pháp, thì phải được ngu si. - Hai là nói Hộ giới cảnh giới, nói rộng như trong kinh Đại Phương Đẳng quyển bốn. Bốn là theo Luận Thập Địa nói Thập Thiện pháp giới. Hỏi: giới này sao khác? Đáp: y theo giới tướng cũng có khác nhau. Hai mươi giới là người mới học thọ. Cùng gửi gắm cho người tục mười giới vô tận ở được vị trước chung cả đạo tục. Bốn giới Ba-la-di ở trực tiến là người xuất gia lược gởi tướng khác, y cứ vào căn hạnh, lợi ích cũng được nói thông. Mười pháp giới lành phó thác ở Mười địa, kiến văn và tu hành nghóa ấy cũng thông. Lại mười thiện giới này là tánh giới không có pháp thọ riêng. Y cứ vào nghóa này ở cao cũng được. Nhiếp từ Luân vương hóa tục đây cũng thông ở dưới. Tuy nói thông ở dưới mà nghóa riêng, tức là thông tánh khởi giới. Nghóa này chẳng thông, ngu pháp tiểu thừa, hoặc hồi tâm Thanh văn mà thọ thì giới tướng khác nhau đồng nhau, cộng Bất cộng học. Rộng trong Nhiếp Luận Giới Học bản dịch đời Lương có nói. Mười nghiệp đạo xấu ác: Mười nghiệp ác: 1/ Giết; 2/ Trộm; 3/ Tà dâm; 4/ Nói dối; 5/ Nói lời ác độc; 6/ Nói hai lưỡi; 7/ Nói thêu dệt; 8/ Tham; 9/ Sân; 10/ Ngu si. Nghiệp có hai thứ: Một là nghiệp bất thiện, có tánh trái lý; hai là phá ác luật nghi đều chung cho ba nghiệp. Tánh mười ác cũng có tác và vô tác. Tác có ba thứ là tự làm, bảo người khác làm thấy nghe làm, mà vui theo. Vô tác có một thứ tức đều không làm. Hỏi: luật nghi ác vì sao chẳng đồng trong giới thân đều không làm? Đáp: luật nghi ác nghiệp cũng có sinh vào nhà ác luật nghi. Đã biết rõ mà giết hại đủ thì đó là ác luật nghi, chẳng phải chỉ chuyên hẹn tâm trong thời gian dài, phân hạn mà phát ác luật nghi. Vì có nghóa sai khác này nên chẳng đồng thiện giới đều làm. Cũng có người thề được ác luật nghi nhưng chẳng phải là tất cả. Lại có bí mật làm mười ác mà lại là thiện. Như Nhiếp Luận dịch vào đời Lương nói: Lại có kinh nói: Thế nào là Bồ-tát làm sát sinh là như Bồ-tát có đoạn mạng chúng sinh không cho nối tiếp. Giải thích rằng: Nếu có mạng thì biết có nghiệp, nếu có nghiệp thì biết có hoặc, do đầy đủ ba thứ này, nên sáu đường bốn loài nối nhau chẳng dứt. Nếu Bồ-tát tùy theo căn tánh ấy mà nói Thánh đạo ba thừa, khiến họ tu hành dứt ba pháp này mà được quả Niết-bàn Vô Dư. Chẳng nối tiếp chúng sinh tức là đoạn mạng, nên gọi là sát sinh. Luận chép: Thế nào là Bồ- tát cướp của người không cho? Là như Bồ-tát tự cướp của người không cho. Giải thích rằng: Vì Bồ-tát dùng đại bi nhiếp tất cả chúng sinh xem là quyến thuộc, khiến lìa hiểm nạn sinh tử đoạt của người khác không cho, chúng sinh chẳng phải là cha mẹ và người chủ cho, nên gọi là cướp của người không cho. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát làm việc tà dâm, là như Bồ-tát ở trong dục trần mà khởi ý tà. Giải thích rằng ba nghiệp của Bồ-tát cùng dâm dục trái nhau, ý biết là luống dối chẳng thật, nó là gốc các điều ác, miệng thì nói như thế, thân chẳng làm việc ấy, cũng là trái nhau tức là ở dục trần mà khởi ý tà nên gọi là làm việc tà dâm. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát hay nói dối? Là như Bồ-tát hay nói lời dối. Giải thích rằng: Tất cả pháp đều là luống dối. Bồ-tát như luống dối mà nói, nên gọi là hay nói dối. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát nói hai lưỡi, là như Bồ-tát thường trụ ở chỗ tối cực vắng lặng. Giải thích rằng: Hai lưỡi khiến kia đây bất hòa. Bồ-tát nghó không nói không, khiến mình người chẳng thấy kia đây, huống chi là hòa hợp. Nên gọi là nói hai lưỡi. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát hay trụ Ba-lưu-sư, là như Bồ-tát trụ biết là bờ kia. Giải thích rằng: Nếu y theo nói thẳng Ba-lưu-sư gọi là ác khẩu (nói lời hung ác), ở chỗ người ác khẩu, không gần gũi người khác (không gần gũi với người khác) chỗ Bồ-tát trụ biết là bở kia, tức là ba lý vô tánh, cũng chẳng bị chúng sinh gần gũi. Vì lý này không phải là chỗ làm của phàm phu và Nhị thừa, cho nên nói là hay trụ ác khẩu. Lại nếu y theo mật ngữ thì Ba-lưu-sư gọi là trụ bờ kia, tức là dùng lời bí mật mà hiển rõ lời nói thẳng. Luận chép: Thế nào là Bồ-tát hay nói lời chẳng tương ưng? Là như Bồ-tát hay gửi gắm các pháp, nghóa là căn, trần, thức đều không thật có. Không thật có này chẳng nhất định là không, cũng chẳng nhất định là có, có - không đều chẳng thật có nên gọi là hay nói lời chẳng tương ưng. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát hay làm A-tỳ-trì-ha-lâu là như Bồ-tát luôn luôn khiến thân mình được các định vô thượng. Giải thích rằng: Nếu y theo lời nói thẳng thì A-tỳ-trì-ha-lâu là tham dục. Người làm việc tham dục ắt yêu thích ngoại trần, Bồ-tát thường vui khiến thân mình được định tối thắng, nên gọi là làm việc tham dục. Nếu y theo mật ngữ thì A-tỳ-trì-ha-lâu gọi là thường được định, tức dùng mật ngữ mà hiển lời nói thẳng. Luận nói thế nào là Bồ-tát khởi tâm giết hại, là như Bồ-tát ở tâm địa mình, người mà dứt các hoặc. Giải thích rằng: Tức giận lấy ghét hại làm tướng. Bồ-tát tác ý muốn dứt tất cả phiền não của mình và người nên gọi là khởi tâm giết hại. Luận chép: Thế nào là Bồ-tát khởi tà kiến, là như Bồ-tát ở tất cả mọi nơi khắp làm tà tánh, như lý mà quán sát. Giải thích rằng: Đại thừa vì có phân biệt là tá tánh, phân biệt tánh làm khắp. Ở tánh y tha tức là tà tánh, nếu lìa phân biệt thì gọi là nhân - pháp không chân tánh. Tiểu thừa lấy thân kiến làm tánh, nhân thân kiến này sinh ra các hoặc. Nếu lìa thân kiến thì tất cả tà chấp đều chẳng khởi mà được nhân không chân tánh. Bồ-tát năng đúng lý mà quán sát tà tánh này, thấy rõ là tà nên gọi là khởi tà kiến. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Bảy thứ tà kiến: Tà kiến có bảy thứ: Một là Dị thừa tà kiến tùy thuận chánh đạo mà riêng lấy Niết-bàn vô dư, tức là người ngu pháp Thanh văn; hai là Hư vọng phân biệt kiến; ba là Giới thủ tịnh kiến, nghóa là các thứ bói toán xem tướng, đoán lành dữ là hư vọng kiến, ác giới kiến, v.v… là giới thủ tịnh kiến. Ác giới kiến là tự chấp cái thấy của mình; bốn là tự cho vọng kiến của mình là chánh kiến, tức tâm phiền não, v.v… 5/ Phú tàng kián là che giấu bên trong; 6/ Dối hiện bất thật kiến: là hiển bày tướng ngoài là phải; bảy là Phi thanh tịnh kiến, là như đem thế gian làm Niết-bàn, các thứ kiến này đều chẳng cho Phật kiến là đúng, nên gọi là tà kiến. Nghóa này đối với Tiểu thừa và Ba thừa, có một phần coi là Nhất thừa, tức thuộc về Nhất thừa. Nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Mười nghiệp đạo thiện: Mười thiện trái với mười điều ác ở trước mà thành mười điều thiện. Nghóa thiện khác nhau, có năm thứ: Một là trời, người mười điều thiện; hai là mười thiện của Thanh văn; ba là mười thiện của Duyên giác; bốn là mười thiện của Bồ-tát. Hỏi: Đã năm lớp mười thiện thì mười ác cũng đồng mười thiện ư? Đáp: Do nghóa thiện thuận với lý, lý pháp sâu xa nên có năm lớp chẳng đồng với nghiệp ác. Bất thiện là từ các tướng thô phân biệt, các tư sinh ra chỉ có một thứ, không có năm lớp khác. Mười nghiệp lành này do phụ quán trí, trí đã dần sâu, phước cũng dần tế, cho nên khác nhau. Các nghóa khác có nói rõ trong chướng khác. Trong giới nhiếp sinh, nói bốn đảo: Bốn đảo: 1/ Thường; 2/ Lạc; 3/ Ngã; 4/ Tịnh. Hai Đảo danh là ác ý, chuyên Niệm hạnh, hai Đảo danh là tâm ác không phải chuyên Niệm hạnh, bảo là ta nghó tịnh (tịnh tư của ta). Hai đảo ác ý chuyên niệm hạnh. Ty duyên gọi là ý. Hai đảo thường lạc, trong duyên hiện khởi nên gọi là ý. Trái lý gọi là ác, là khởi phiền não tác ý mà sinh nên gọi là chuyên Niệm hạnh. Hai Đảo ác tâm không phải chuyên niệm, căn bản tập khởi là nghóa tâm ấy. Hai đảo ngã tịnh hãy xem thường lạc trước. Căn bản tập khởi nên nói tâm. Ngã là gốc thường, tịnh là nguồn vui, hai tánh này thành không phải do tác ý sinh, nên gọi là chẳng phải chuyên niệm. Đảo là trái ngược với thường, lạc, ngã, tịnh là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, ấy gọi là tám đảo. Thanh văn diệt bốn đảo, Bồ-tát diệt tám đảo. Đây là nói theo tâm chánh. Nếu y cứ vào tàn tập thì bốn đảo, tám đảo đều trừ Bồ-tát. Nếu y vào Sơ giáo Thập địa thì đoạn chẳng phân tập khí. Nếu y cứ vào Chung giáo thì Địa tiền phục tâm trên. Sơ địa diệt hạt giống. Thập Địa lại dần diệt tập khí. Phật địa thì dứt hẳn. Nếu phân hoặc thể thì bốn đảo thường, v.v… là kiến đạo hoặc, bốn thứ vô thường v.v… là tâm phiền não. Nếu y cứ vào Nhất thừa thì hoặc ấy rộng lớn vô tận. Vì năng chứng môn Phổ Hiền nên tất cả đều dứt, các nghóa khác có nói rộng trong chương khác. ĐỊA THỨ BA: TRONG YỂM PHẦN NÓI VỀ BỐN TỊNH LỰ, TÁM THIỀN: Thế gian đạo thiền, tức là sơ tịnh lự, Đệ nhị tịnh lự, Đệ tam tịnh lự, Đệ tứ tịnh lự (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền) của thế gian. Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như thế là Tịnh lự vô sắc, do bốn thứ tương ưng rộng phân biệt, tức là tạp nhiễm, là thanh bạch, là kiến lập, là thanh tịnh tạp nhiễm, tức bốn căn vô ký: Một là ái, hai là kiến, ba là mạn, bốn là vô minh. Do bốn thứ hoặc này mà nhiễm ô tâm, nên đối với các ô nhiễm tịnh lự định môn, nên khiến ở cõi Sắc, Vô Sắc, tất cả các phiền não hữu phú vô ký và tùy phiền não lớn lên chẳng dứt. Vì sao? Vì có ái nên vị Thượng tịnh lự tạp nhiễm làm nhiễm mà tham vị Lạc tịnh lự, vì có ái, nên khiến Thượng tịnh lự tạp nhiễm làm nhiễm, nên y chỉ tịnh lự mà phát khởi chấp chặt các kiến đời trước. Vì có mạn mà mạn Thượng tịnh lự tạp nhiễm làm nhiễm nên y theo chứng thắng định mà khởi cao mạn. Do có vô minh nên Nghi thượng tịnh lự nhiễm làm nhiễm. Cầu giải thoát là do chưa thông suốt đạo chân thật, nên ở thắng phẩm chứng mà thường sinh nghi ngờ là giải thoát hay chẳng giải thoát. Như thế phiền não thường nhiễm tâm ấy khiến hai hoặc lớn, nhỏ của Sắc và Vô sắc tiếp nối trôi lăn. Thanh bạch tức là thanh tịnh tịnh lự vô sắc, do tánh thiện nên gọi là thanh bạch. Tuy là thế gian nhưng lìa triền cấu, nên cũng gọi là Tịnh. Về Kiến lập, có bốn thứ kiến lập là: Chi phần kiến lập, Đẳng chí kiến lập, Phẩm loại kiến lập, và Danh tướng kiến lập, ở các vô tướng đều có bốn thứ kiến lập. Trong các Vô Sắc chỉ có ba thứ, trừ chi phần ra. Chi phần kiến lập là sơ tịnh lự có năm chi: 1/ Tầm; 2/ Từ; 3/ Hỷ; 4/ Lạc; 5/ Tâm tánh một cảnh. Tịnh lự (thứ hai) có bốn chi: 1/ Nội đẳng tịnh; 2/ Hỷ; 3/ Lạc; 4/ Tâm tánh một cảnh. Tịnh lự thứ hai có năm chi: 1/ Xả; 2/ Niệm; 3/ Chánh tri; 4/ Lạc; 5/ Tâm tánh một cảnh. Tónh lự thứ tư có bốn chi là: 1/ Xả thanh tịnh; 2/ Niệm thanh tịnh; 3/ Thọ chẳng khổ chẳng vui; 4/ Tâm tánh một cảnh. Hỏi: Pháp có vô lượng, vì sao chỉ lập tầm từ v. v… làm chi? Đáp: Vì đối trị chi, lợi ích chi hai thứ đó y vào tự tánh chi, do ba thứ chi phần này đầy đủ chẳng đợi dư, cho nên trong Sơ tịnh lự hai thú tầm - từ là đối trị chi có công năng dứt Dục, nhuế, hại, v.v… các tầm từ của cõi dục. Hỷ lạc hai thứ là lợi ích chi, do tâm từ chi mà tự chỗ tự đã xong, thì được ly sinh hỷ lạc. Tâm tánh một cảnh, là chỗ hai thứ ấy y chỉ tự tánh chi, y chỉ định lực tầm, v.v… biến chuyển. Trong tónh lự thứ hai, Nội đẳng tịnh là Đối trị chi, do đây mà năng trì tầm tư. Hỷ lạc là lợi ích chi. Tâm tánh một cảnh là chỗ hai thứ ấy y tự tánh chi (là chỗ sở y tự tánh của hai thứ ấy). Nghóa như trong đó nói. Trong Tónh lự thứ ba, thì xả niệm chánh tri là đối trị chi, do ba thứ này năng đối trị hỷ lạc. Lạc là lợi ích chi, tâm tánh một cảnh là chỗ hai thứ ấy y tự tánh chi, nghóa như trước nói. Trong Tónh lự thứ tư thì xả thanh tịnh, niệm thanh tịnh là đối trị chi, do hai thứ này nay đối trị lạc. Còn thọ chẳng khổ chẳng vui là lợi ích chi. Tâm tánh một cảnh là chỗ hai thứ ấy y tự tánh chi. Trong các Vô Sắc chẳng lập chi phần, vì Xa-ma-tha tánh một vị. Đẳng chí kiến lập là do bảy thứ tác ý này mà chứng nhập Sơ tónh lự. Như thế cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Bảy thứ tác ý là: 1/ Liễu tướng tác ý; 2/ Thắng giải tác ý; 3/ Viễn ly tác ý; 4/ Nhiếp lạc tác ý; 5/ Quán sát tác ý; 6/ Phương tiện rốt ráo tác ý; 7/ Phương tiện rốt ráo quả tác ý. Ở đây phân biệt rộng như Thanh Văn Địa Hậu Du-già Xứ chép: Thế nào là khi chứng nhập Sơ tịnh lự do bảy tác ý, nghóa là do Định địa tác ý thấy các tội lỗi trong cõi dục mà hiểu rõ tướng thô. Trong Sơ tónh lự thì tướng này không có nên gọi là Tịnh tướng. Đó gọi là Liễu tướng tác ý. Như thế tác ý bị văn tư làm xen lẫn. Từ đây trở lên vượt khỏi văn tư, một mực duyên với thô tịnh tướng làm cảnh giới. Tu Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na (chỉ quán) thường suy nghó như chỗ tầm tư thô tịnh tánh tướng. Đó gọi là thắng giải tác ý. Do tu tập thứ này đầu tiên đoạn đạo nên sinh đó, đều làm tác ý nên gọi là Viễn ly tác ý, do đây làm dứt phiền não Thượng phẩm và xa lìa phẩm Thô trọng đó. Quán hạnh này, lại vui mừng trên lạc trên kiếp mà đoạn công đức rồi thì xúc thiểu phần xa lìa hỷ lạc, vì muốn dứt bỏ hôn trầm thùy miên, tu tập tịnh diệu tác ý để làm vui tâm mình. Đó gọi là Nhiếp lạc tác ý. Như thế mà chánh tu hành phương tiện thiện phẩm, vì chỗ giúp giữ khiến quả hệ phiền não triền cấu cõi Dục chẳng còn hiện hành, do đây vì muốn xét phiền não đã dứt hay chưa dứt, lại phải tác ý quán sát nó sinh ra thuận theo tịnh tướng. Đó gọi là quán sát tác ý. Như thế người tu luôn quán sát tiến tu đối trị vì khiến cõi dục tất cả phiền não tạm thời được xa lìa buộc ràng. Đó là đối trị đạo tương ưng tác ý. Đó là phương tiện sau cùng của sơ tịnh lự, nên gọi là Phương tiện rốt ráo tác ý, từ đây vô gián mà chứng được căn bản. Tịnh lự đầu tiên đồng thời tác ý, đó gọi là phương tiện rốt ráo quả tác ý. Lại do liễu tướng tác ý mà phát tâm mong cầu mà nguyện hiểu rõ chỗ nên đoạn, chỗ nên được, mà làm đoạn làm được. Do thắng giải tác ý làm chỗ mong cầu mà phát chánh phương tiện. Do xa lìa tác ý mà bỏ hoặc thượng phẩm. Do nhiếp lạc tác ý mà bỏ hoặc trung phẩm. Do quán sát tác ý mà an tâm ở chỗ chứng, xa lìa tăng thượng mạn. Do phương tiện rốt ráo tác ý mà bỏ hoặc hạ phẩm, do phương tiện rốt ráo quả tác ý mà lãnh hội chỗ tu tác ý tu quả. Như vì chứng nhập định Sơ tịnh lự mà tu bảy tác ý. Như thế cho đến vì chứng nhập định Phi tưởng Phi phi tưởng xứ như chỗ phải biết. Lại thô tướng, tức là tất cả địa dưới từ cõi dục cho đến vô sở hữu xứ. Như thế thô tướng lược có hai thứ: Một là trụ ở chỗ rỗng không vắng lặng, cuộc sống nhỏ nhoi, thọ mạng ngắn ngủi. Tịnh tướng, nghóa là tất cả Thượng địa, từ Sơ tịnh lự cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ trái với thô tướng. Phẩm loại kinh luận là ở Sơ tịnh lự định đủ ba phẩm huân tu, nghóa là Nhuyến trung thương như sơ tónh lự, ở trong các tịnh lự khác với Vô sắc, ba phẩm huân tập cũng thế. Do Nhuyến trung, thượng phẩm huân tu sơ tónh lự, nên đối với Sơ tónh lự lại sinh ba dị thục như Sơ tónh lự trong các tónh lự khác, hoặc huân tu, hoặc sinh quả, ba phẩm đều cũng thế. Trong các tịnh lự ba phẩm huân tu sinh ba quả tức là trời Phạm chúng và trời Phạm phụ, trời Đại phạm. Như thế, v.v… rộng như ở trước nói. Trong cõi vô sắc không có chỗ riêng nên chẳng lập sinh quả sai khác. Vì sao? Vì ở cõi vô sắc không có chỗ đặt cung điện, nên chẳng kiến lập sinh quả khác nhau, nhưng do ba phẩm huân tu định vô sắc nên dị thục khi sinh thì có cao thấp hơn kém. Dị thục khi sinh có cao thấp là do thọ mạng có khác nhau. Danh tướng kiến lập, nghóa là trong bốn tịnh lự, Tam-ma-địa có vô lượng tên gọi khác nhau chẳng thể tính đếm, chẳng thể nghó bàn. Vì sao? Trong Sơ tónh lự sở nhiếp định chư Phật Thế Tôn, và Bồ-tát Ma-ha-tát đã được oai đức rộng lớn rốt ráo mà vào Tam-ma-địa. Tam-ma-địa ấy, tất cả Thanh văn và Độc giác còn chẳng biết tên, há là biết số, huống chi là chứng nhập. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa chép: Tam-ma-địa số đó hơn trăm. Như thế trong kinh Đại thừa khác nói Tam-ma-địa thì nhiều vô lượng, như ở Sơ tónh lự sở nhiếp định thì ở các tónh lự thuộc Vô sắc khác cũng thế. Như thế chỗ nói đều y vào Tónh lự Ba-la-mật-đa. Thanh tịnh tức là Biên tế định trong Sơ tónh lự, cho đến định Biên tế của phi tưởng phi phi tưởng xứ, đó gọi là thanh tịnh. Định Biên tế của tónh lự Vô sắc, là muốn riêng phát thắng phẩm công đức được tự tại. Đồng tu định kham nhẫn đến chỗ rốt ráo. Hỏi: Vì sao chẳng nói Định xuất thế. Đáp: Vì nay do nêu định thế gian chúng Tam địa đồng với thế gian. Lại hỏi: Theo kinh Anh Lạc Sơ Thiền năm chi riêng lập mặc nhiên tâm thứ sáu làm định thể, vì sao chẳng đồng? Đáp: Lìa tạp luận, v.v… chỗ nói là nghóa Sơ giáo, đồng với Tiểu thừa kia, nhân định bổn nhân mà định số xuất thể. Nay kinh Anh Lạc đồng nghóa chung giáo đầy đủ y số tu minh cứ vào định vị thành xứ mà nói thì hai số khác nhau. Số này chung cho cả sắc thiên của Ba thừa và Tiểu thừa, nếu là Nhất thừa giáo y cứ thì thuộc về Nhất thừa. Lại ngoại phàm phu được định bị ngã mạn v.v… làm nhiễm. Thanh văn định thì ngã tập pháp chấp, v.v… làm nhiễm, sơ giáo xuất thế tâm thì phiền não, v.v… làm nhiễm. Chung giáo ba phiền não, v.v… tập khí làm nhiễm. Đốn giáo phương tiện thừa và rốt ráo Nhất thừa thì thanh tịnh vô nhiễm. Nên có thể y cứ theo mà biết. Nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Ba khổ, tám khổ: Ba khổ là khổ khổ, hành khổ, hoại khổ. Khổ là khổ thọ thể, khổ là ngoại khổ cụ, hoại là khổ duyên. Hoại khổ là khổ thọ thể. Hành là vô thường biến đổi chẳng dừng trụ nên gọi là Hành. Cũng là khổ thọ duyên. Hỏi: Vô thường hành chỉ là nghóa vô thường, đâu được gọi là khổ? Đáp: Vô thường có hai nghóa: Một là tự thể vô thường, hai là vô thường ép ngặt mình, nên gọi là khổ. Nghóa khổ tuy đồng nhưng nhìn sự thô tế có khác, hoặc chẳng khác. Vì sao? Vì vô thường ép ngặt mình ở trong quán xúc nhỏ khổ lớn. Tám khổ là khổ sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ yêu thương mà phải lìa nhau, khổ oán ghét mà luôn gặp nhau, khổ cầu chẳng được, khổ năm ấm thạnh. Khổ năm ấm thạnh có hai nghóa: Một là gồm bảy khổ trước chung làm năm ấm thạnh, hai là các khổ thô trọng gọi là năm ấm thạnh. Tám khổ y cứ sự chẳng đồng. Khổ thể chẳng khác ba khổ. Hai khổ kia giáo hưng vốn vì nói vào pháp - nhân mà sinh tướng chán lìa tức thuộc khổ loại không có đạo lý. Nếu y vào bốn đế tức thuộc khổ đế. Vì sao? Vì Thánh giáo hưng khiến được đế, cho đến nghóa khổ Thánh đế, cũng y cứ có thể biết. Sở dó biết được là vì nghóa Đại thừa gồm thủy chung. Khổ này ở phàm phu là khổ loại, ở Thanh văn là khổ đế, ở vị Bồ-tát Sơ giáo thì không gọi là khổ Thánh đế. Cho nên Kinh Duy-ma nói: Năm thọ ấm rỗng suốt, không chẳng chỗ khởi là nghóa khổ. Nếu y cứ Chung giáo thì khổ tức là chân như, tất cả pháp cũng như. Nếu y cứ Nhất thừa, nghóa trước được Nhất thừa y cứ nên gọi là Nhất thừa, cũng là khổ loại, v.v… bốn nghóa vào Nhân-đà-la sâu kín mà thành vô nghóa. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Bốn vô lượng: Bốn vô lượng là Từ - Bi - Hỷ - Xả. Vô lượng duyên với ba nghóa: Một là chúng sinh duyên, hai là pháp duyên, ba là vô duyên. Chúng sinh duyên, là duyên với chúng sinh mà khởi tâm từ. Pháp duyên, là duyên với các pháp như uẩn, v.v… mà khởi tâm từ. Vô duyên, là duyên với pháp vô ngã mà khởi từ. Hỷ, xả cũng như thế. Nghóa này không có Ba thừa và Tiểu thừa, chỉ có chúng sinh duyên. Nhất thừa thì nghóa đầy đủ. Vì sao? Vì duyên sinh vô tận. Nêu ra thể trí tánh của Tiểu thừa, v.v…. Sơ giáo dùng trí Hậu đắc làm thể, Chung giáo dùng như lý, như lượng trí làm thể. Vì sao? Vì trí vô phân biệt là thể của Bồ-tát, Nhất thừa là nghóa vô tận, chỗ biết vô biên nên gọi là vô lượng. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Sáu thần thông: Sáu thần thông là: 1/ Thần túc; 2/ Thiên nhãn; 3/ Thiên nhó; 4/ Tha tâm; 5/ Túc mạng; 6/ Lậu tận. Thần túc, Thiên nhãn, Thiên nhó, Túc mạng bốn thứ này là Trí tánh, cũng gọi là sinh đắc. Tha tâm trí thông dùng pháp trí, tỷ trí, đạo trí, đẳng trí, tha tâm trí làm tánh. Lậu tận thông, nếu người được lậu tận dùng mười trí làm tánh. Nếu biết người khác lậu tận thì sáu trí làm tánh, tức là pháp trí, tỷ trí, tận trí, vô sinh trí, diệt trí, đẳng trí. Không bít lấp nên gọi là thông. Túc mạng, thiên nhãn là minh, chẳng phải thị hiện. Thần túc, tha tâm là thị hiện chẳng phải minh. Lậu tận thông vừa là minh vừa là thị hiện. Thiên nhãn thông không phải minh không phải thị hiện. Hỏi: Vì sao trong quả địa lại nói năm thông mà không nói sáu thông? Đáp: Vì thiền định thế gian thành thông không phải vô lậu. Nếu phàm phu thành năm thông bậc Thánh Tiểu thừa được sáu thông. Sơ giáo xuất thể đồng với Thanh văn vẫn nương trí Như thật, thể nó tức không, Chung giáo tức như, Đốn giáo cũng đồng. Các nghóa như trên được Nhất thừa y cứ tức là Nhất thừa. Nếu y cứ theo Biệt giáo thì có mười không, như trong phẩm Ly thế gian nói. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. ĐỊA THỨ BỐN: BA MƯƠI HAI TƯỚNG Ba mươi hai tướng Đại nhân là: 1/ Dưới lòng bàn chân bằng phẳng; 2/ Dưới lòng bàn chân có bánh xe ngàn căm 3/ Gót chân đầy đặn; 4/ Xương mắt cá không lồi ra; 5/ Đùi dài như chân nai đầu đàn Y-ni-diên; 6/ Mã âm tàng; 7/ Ngón tay dài nhọn; 8/ Tay dài quá gối; 9/ Cùi chỏ tròn; 10/ Tay chân có màng mỏng trong suốt; 11/ Tay chân mềm mại; 12/ Bảy chỗ: hai tay, hai chân, hai vai, cổ đều đầy; 13/ Thân tròn đầy như cây Ni-câu-luật; 14/ Thân oai phong như sư tử; 15/ Thân có mầu vàng; 16/ Các chỗ lõm đều tròn đầy; 17/ Da mềm mại (láng mịn); 18/ Bụi không dính; 19/ Lông trên thân mầu xanh; 20/ Lông đều xoay về bên phải; 21/ Ánh sáng bao quanh thân chiếu xa một tầm; 22/ Trên cổ họng có mười một tướng: 1- Bốn mươi năng, 2- Răng đều và khít, 3- Răng trắng sạch, 4- Lưỡi rộng dài, 5- Thứ lớp được thượng vị, 6- Tiếng Phạm âm, 7- Má vuông như sư tử, 8- Mắt xanh biếc, 9- Mí mắt trên dưới như mắt trâu đầu đàn, 10- Giữa hai đầu chân mày có sợi lông trắng, 11- Có nhục kế (bướu thịt) trên đầu. Ba mươi hai tướng trên không có nhân nào khác, đều do giữ giới mà được. Vì sao? Nếu người phạm giới thì chẳng được thân người thấp hèn, huống là tướng đại nhân. Lại do nhân khác, như Kinh Cù-di Vấn chép: Ba mươi hai thông, phàm phu, Tiểu thừa, ba thừa, Nhất thừa có cạn sâu khác nhau. Phàm phu có người, Tiểu thừa không người, Sơ giáo tức không, Chung giáo tức như. Nhất thừa vô tận đủ Nhân-đà-la và vi tế, v.v… y Biệt giáo, tướng ấy như mười Liên hoa tạng trang nghiêm thế giới hải trần số các tướng… Các nghóa khác có nói rộng trong chương khác. Tám mươi vẻ đẹp: Tám mươi vẻ đẹp là: Tay chân hai mươi ngón, tám chỗ lõm ở tay chân đều bằng phẳng, hai mắt cá và ống chân, hai đầu gối, hai bắp đùi, Bì tàng tướng hai viên, hai hông, hai nách, hai vú, hai vai, hai cùi chỏ, hai cổ tay, eo lưng, tim, rún, cổ họng, bụng, v.v… đều đẹp. Đó gọi là dưới yết hầu có sáu mươi vẻ đẹp. Nói đùi vế tức bên ngoài thì gọi là đùi, bên trong thì gọi là vế, Răng nanh trên dưới hai đoạn, hai môi, hai má, hai tóc, hai mắt, hai tai, hai mày, hai lỗ mũi, trán hai sừng. Đó gọi là trên cổ họng có hai mươi vẻ đẹp. Tất cả chúng sinh chứa nhóm phước đức thì một tướng lông là tất cả tướng lông, phước đức chứa nhóm một vẻ đẹp là tất cả vẻ đẹp, phước đức chứa nhóm thì tăng gấp trăm lần, cho đến trừ một tướng là sợi lông trắng và nhục kế còn tất cả các tướng đều tăng gấp ngàn lần, bèn được tướng sợi lông trắng, tức tướng thứ hai mươi chín gọi là tất cả tướng. Tướng bạch hào công đức tăng gấp trăm ngàn lần, bèn được tướng pháp âm của Như Lai, Như Lai tùy ý phát ra tiếng Phạm âm thanh tịnh. Cho đến mười phương thế gian các chủng tánh địa Bồ-tát thành hạt giống tướng tốt. Bồ-tát giải hạnh địa tu tập phương tiện, tịnh tâm địa Bồ-tát chứng được các địa, Bồ-tát khác dần dần thanh tịnh hơn lên. Như Lai rốt ráo trong sạch, không có tướng của thượng nhân nào chẳng có, các vị trời chỉ có một phần, Tiểu thừa thì thật đủ, Sơ giáo tức không, Chung giáo tức như, Nhất thừa vô lượng, đủ Nhân-đà-la vi tế. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. ĐỊA THỨ NĂM: BẢY TỊNH : Bảy tịnh là: 1/ Giới tịnh; 2/ Định tịnh; 3/ Kiến tịnh; 4/ Độ nghi tịnh; 5/ Đạo phi đạo tịnh. Năm thứ này Đại Tiểu thừa đồng tin, hai thứ sau. Tiểu thừa gọi là: 1- Hạnh tịnh; 2- Hạnh đoạn tịnh. Vì tông thú đã diệt nên sau nói là Hạnh đoạn tịnh. Còn Đại thừa thì gọi hai thứ sau là: 1- Hạnh đoạn; 2- Tư lương Bồ-đề phần pháp thượng thượng tịnh. Vì tông này y theo Hạnh đoạn ấy mà khởi cầu thượng thắng vị được nương, nếu y cứ theo Tiểu thừa thì giới và định kiến đạo tiền, kế là ba kiến đạo, kế là một tu đạo, kế là một vô học đạo. Đại Thuận luận ba vị: Hạnh đoạn và hạnh ở tu đạo, các thứ khác đều đồng với trước. Tịnh là phần thắng ly cấu nên gọi là Tịnh. Nghóa này chung cho ba thừa và Tiểu thừa. Nếu được Nhất thừa y cứ thì tức thuộc Nhất thừa. Nhất thừa thanh tịnh có mười thứ. Như phẩm Ly Thế Gian đã nói. Sở dó mười là muốn hiển bày vô lượng. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Mười đế - Mười đế là: Bồ-tát biết như thật về khổ Thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế, như thật biết cho đến Đạo Thánh đế diệt khổ. Bồ- tát khéo biết thế đế, khéo biết nghóa đế Đệ nhất, khéo biết tướng đế, khéo biết sai biệt đế, khéo biết nói thành đế, khéo biết sự đế, khéo biết sinh đế, khéo biết hết vô sinh trí đế, khéo biết khiến vào đạo trí đế, khéo biết tất cả biết địa thứ lớp thành tựu đế, và khéo biết tập Như Lai trí đế. Là Bồ-tát tùy ý chúng sinh khiến vui mừng khéo biết thế đế thông suốt tất cả pháp một tướng, khéo biết nghóa đế Đệ nhất. Biết pháp tự tướng đồng tướng là khéo biết tướng đế. Biết pháp khác nhau là khéo biết đế sai khác. Biết phân biệt ấm giới nhập là khéo nói thành đế. Biết thân tâm khổ não là khéo biết sự đế. Biết các đạo sinh tiếp nối là khéo biết sinh đế. Rốt ráo dứt bỏ tất cả nóng bức là khéo biết hết vô sinh trí đế. Khởi hạnh chẳng hai là khéo biết nhập đạo trí đế. Chánh biết tất cả Pháp tướng là khéo biết tất cả Bồ-tát địa thứ lớp thành tựu đế và là khéo biết Tập Như Lai trí đế. Do năng lực tín hiểu mà biết không phải được trí Nhất thiết rốt ráo mười biết. Hỏi: Mười đế này chung cho cả ba thừa chăng? Đáp: Mười đế của Hoa Nghiêm tức là mười đế Nhất thừa của Anh Lạc, tức là ba thừa. Vì sao? Vì tùy giáo mà định. Các nghóa khác như Sơ luận đã giải thích rộng. ĐỊA THỨ SÁU: NÓI VỀ DUYÊN SINH Duyên sinh nói lược có mười môn đó là nhân duyên có phân thứ lớp thuộc về một tâm, vì tự nghiệp thành, vì chẳng lìa bỏ nhau, vì ba đường chẳng dứt, vì quán bờ mé trước sau, vì ba khổ tập, vì nhân duyên sinh vì nhân duyên sinh, diệt ràng buộc, vì thuận theo hữu tận quán. Như thế mười phen, nghóa mười hai nhân duyên thuộc về Nhất thừa, Anh Lạc mười phen nhân duyên nghóa thuộc về Tam thừa. Vì sao? Vì tùy giáo khác nhau. Các nghóa khác như Sớ Luận và chương khác có giải thích. Ba không môn (cũng gọi là ba tam-muội): Ba không môn là: 1/ Không; 2/ Vô tướng; 3/ Vô nguyện. Y cứ vào cảnh làm môn, y cứ vào năng mà quán trí, tức là ba Tam-muội. Nghóa này chung cho cả ba thừa và Tiểu thừa. Nếu là Nhất thừa giáo y cứ thì tức là vào Nhất thừa. Các nghóa có nói rõ trong chương khác. Tam-muội Trùng không: Tam-muội Trùng không tức là Tam- muội không không, Tam-muội vô tướng vô tướng, tam-muội vô nguyện Vô nguyện. Dùng hữu lậu không hạnh mà quán vô lậu không hạnh nên gọi là không không, dùng hữu lậu vô tướng hạnh mà quán vô lậu, vô tướng hạnh, nên gọi là vô tướng vô tướng. Dùng hữu lậu vô nguyện hạnh mà quán vô lậu vô nguyện hạnh. Nghóa này thuộc về Tiểu thừa, nếu là Nhất thừa y cứ thì thuộc Nhất thừa, nếu được Ba thừa y cứ hen thì thuộc ba thừa. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Hai không nhân, pháp: Nghóa là nhân không và pháp không. Không có chỗ chấp nhân ngã để hiển bày chân như nên gọi là nhân không, không có chỗ chấp pháp ngã để hiển bày chân như nên gọi là pháp không. Nhân không thì thông Tiểu thừa mà chưa thanh tịnh, đến Ba thừa mới thanh tịnh. Pháp không thì ở Ba thừa mà chưa thanh tịnh, đến Nhất thừa nói rốt ráo thanh tịnh. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. ĐỊA THỨ BẢY: NÓI NGHÓA BỐN NHÀ (TÔNG): Bốn nhà là: 1/ Nhà Bát-nhã gia; 2/ Đế gia; 3/ Nhà xả phiền não; 4/ Nhà khổ thanh tịnh. Thuộc về chỗ ở thì gọi là gia (nhà). Gia là nhà cửa, ở trong Thất địa thành tựu Trường thời đạo phẩm, các chướng đều thanh tịnh. Rốt ráo sau cùng có công dụng vô tướng, lại có khả năng thành nghóa vô công dụng vô tướng nên gọi là Nhà. Nghóa này ở Ba thừa, nếu Nhất thừa y cứ thì thuộc Nhất thừa. Nhà Bát-nhã là thật tánh Bát-nhã. Nhà Đế là tánh thật nên gọi là Đế. Nhà xả phiền não là tự tánh thanh tịnh không có phiền não. Nhà khổ thanh tịnh là tánh khổ là không, đó gọi là khổ thanh tịnh. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. ĐỊA THỨ TÁM: NÓI VỀ BỐN THỨ VÔ SINH NHẪN: Một là Sự vô sinh, hai là Tự tánh vô sinh, ba là số sai biệt vô sinh, bốn là tác nghiệp sai biệt vô sinh. Bốn vô sinh này rộng như luận giải thích. Sự vô sinh là đối với đạo Ba thừa mà gia hạnh hiểu pháp như thật. Tự tánh vô sinh là đối với Ba thừa chánh thể trí quán chẳng hai bình đẳng bình đẳng thành tựu. Số sai biệt vô sinh nghóa là đối với ba thừa phân biệt giới hạn pháp tướng tức không, chẳng phân biệt. Tác nghiệp sai biệt vô sinh là đối với Ba thừa làm Phật thành tựu, cũng như trống trời vô tư thành việc, rốt ráo không phân biệt tạm nhờ nơi Bát địa mà thành. Nếu nghóa Nhất thừa, Thập Tín địa kiến văn chung tâm thành giải hạnh. Thập tín chung tâm thắng tấn hướng Thập giải được chứng rốt ráo. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. - Ba thế gian: Ba thế gian là đối với thanh tịnh cõi nước Phật có ba hạnh tự tại: Một là Khí thế gian tự tại hạnh, hai là Chúng sinh thế gian tự tại hạnh, ba là Trí Chánh giác thế gian tự tại hạnh. 1/ Khí thế gian tự tại hạnh có năm thứ tự tại: Một là tùy tâm ưa thích nó có thể hiện và không hiện; hai là tùy muốn gì thì nó liền hiện; ba là hễ lúc nào muốn thì hiện liền hiện; bốn là tùy nuôi rộng hẹp thì liền hiện; năm là tùy tâm muốn bao nhiêu thì nó liền hiện, nên gọi là Khí thế gian tự tại. 2/ Chúng sinh thế gian tự tại hạnh là: Bồ-tát tùy chúng sinh tín khác nhau, tùy quyết định tín khác nhau, thì tuy trong các cõi nước Phật, trong các đại hội, như thế như thế mà thân mình hiện ra là Bồ-tát. Nếu trong chúng Sa-môn thì hiện ra thân Sa-môn, như thế, v.v… trong các cõi nước như thế thân mình khác nhau hiện ra. 3/ Trí Chánh giác thế gian tự tại hạnh: là trí Đệ nhất nghóa đế, trí thế đế v. v… Kinh nói là: Bồ-tát ấy xa lìa tất cả thân tướng phân biệt mà được thân bình đẳng. Bồ-tát ấy biết thân chúng sinh, biết thân cõi nước, biết thân nghiệp báo, biết thân Thanh văn, biết thân Bích-chi-phật, biết thân Bồ-tát, biết thân Như Lai, biết trí thân, biết pháp thân, biết thân hư không. Bồ-tát ấy biết thân tâm chúng sinh như thế khởi ý ưa thích. Nếu dùng thân chúng sinh làm thân mình hoặc đem thân mình làm thân chúng sinh. Chín thân như thế Bồ-tát ấy biết chúng sinh thâm tâm khởi tin ưa xoay vần tự tại mà thành rộng lớn, như Địa Luận chép: Nghóa này đều thấy nghe trong Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa và trong trời, người. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Mười tự tại - Mười tự tại gồm: 1/ Mạng tự tại, là sống lâu với số kiếp không thể nói không thể nói; 2/ Tâm tự tại: là có vô lượng A-tăng- kỳ tam-muội nhập trí; 3/ Đắc vật tự tại: là trụ trì thị hiện được vô lượng trang nghiêm nghiêm sức trong tất cả thế giới; 4/ Được nghiệp tự tại, như Trụ trì thị hiện nghiệp báo đời này và đời sau; 5/ Được sinh tự tại: là thị hiện sinh về tất cả thế giới; 6/ Được nguyện tự tại, là tùy tâm khi muốn cõi Phật thì thị hiện thành Bồ-đề; 7/ Được tin hiểu tự tại là Phật hiện đầy khắp trong tất cả thế giới; 8/ Được như ý tự tại, là trong tất cả cõi nước Phật thì như ý làm việc thị hiện; 9/ Được pháp tự tại, là trong vô biên pháp môn thị hiện chỉ bày; 10/ Được trí tự tại, Như Lai lực vô úy bất cộng pháp tướng bảo trang nghiêm Tam-bồ-đề thị hiện. Nghóa này ở quả đức nhờ hiển nghóa Bát địa tự tại. Nghóa này chung cả Ba thừa, Nhất thừa nói rốt ráo. Vì sao? Vì tự tại vô biên. Các nghóa còn lại có nói rõ trong chương khác. Mười Bố úy (sợ hãi) là: 1/ Sợ chết; 2/ Sợ phiền não cấu; 3/ Sợ nghèo cùng; 4/ Sợ nghiệp ác; 5/ Sợ đường ác; 6/ Sợ cầu mong chẳng được; 7/ Sợ tội nghiệp chê bai chánh pháp; 8/ Sợ khi truy cầu thì bị buộc ràng không tự do thoải mái; 9/ Sợ nghi vì sao; 10/ Sợ oai đức đại chúng. Mười sợ sệt này đồng với chỗ lìa bỏ của Sơ địa. Năm sợ sệt sơ địa đã dứt, nay nêu ra là muốn nói lên chánh pháp Bát địa không phải nói Bát địa có sợ sệt như thế. Các nghóa còn lại có nói rõ trong chương khác. ĐỊA THỨ CHÍN: MƯỜI MỘT TRÙ LÂM: Gồm có: 1/ Chúng sinh tâm hạnh trù lâm; 2/ Phiền não hạnh trù lâm; 3/ Nghiệp hạnh trù lâm; 4/ Căn hạnh trù lâm; 5/ Tín hạnh trù lâm; 6/ Tánh hạnh trù lâm; 7/ Thâm tâm hạnh trù lâm; 8/ Sử hạnh trù lâm; 9/ Sinh hạnh trù lâm; 10/ Tập khí hạnh trù lâm; 11/ Ba nhóm sai biệt hạnh trù lâm. Một câu đầu là chung, mười câu sau là riêng. Sở dó câu đầu là tâm hành, vì các thứ tâm là nghóa, mười thứ kia là tướng, nghóa các thứ tâm lại không khác nhau. Vì sao? Vì do đủ nghóa sáu tướng. Nghóa này có thấy nghe trong Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa và trời, người. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Tám mươi bốn ngàn pháp môn: Tám vạn bốn ngàn là theo kinh Phổ Diệu khi Như Lai thành đạo có ba trăm năm mươi độ công đức từ quang diệu đầu vô cực độ cho đến phân bố xá-lợi độ, lấy sáu Ba-la-mật mà thừa thành hai ngàn một trăm độ, dùng bốn đại sáu suy mười pháp mà thừa thì thành hai mươi mốt ngàn. Nếu y theo Nhiếp Luận lấy bốn đế, mười sử làm thừa cũng được, lấy bốn pháp tham, sân, si và Đẳng phần mà thừa thì thành tám mươi bốn ngàn đại số môn như thế, ở trong đó pháp hạnh căn dục tánh bệnh, v.v… y cứ theo đây mà biết. Nếu Tiểu thừa y theo môn như thật, còn Ba thừa sợ giáo nghóa thì không, nếu y cứ Chung giáo thì nghóa tức như. Nếu theo chỗ Viên giáo y cứ thì thuộc về Nhất thừa. Nếu y vào mười môn thì thuộc về Biệt giáo. Các nghóa còn lại có nói rõ trong chương khác. Phiền não hạnh, sử hạnh trù lâm: Phiền não hạnh, v.v…, Nhất thừa lược chia hai nghóa: Một là y cứ theo vị mà hiển bày phiền não, hai là y cứ nghóa dụng mà hiển bày phiền não. Hai nghóa này y cứ ba thừa mà hiển bày, các tông khác y cứ theo đây mà biết. 1/ Y cứ vị là chỉ y cứ mười địa trong các giáo hiển đoạn giới hạn thô tế, tức thuộc về chung giáo. Như Địa Luận nói ba địa, tất cả dục trói buộc lại mỏng yếu, tất cả sắc phược, tất cả hữu phược, tất cả vô minh phược đều mỏng yếu. Các kiến phược, thì trước đã dứt trừ. Thích Luận giải thích rằng: Tất cả dục phược thành yếu mỏng, là dứt tất cả tu đạo cõi dục, Sắc, Vô sắc có các phiền não và nhân đó đồng vô minh tập khí đều yếu mỏng xả bỏ. Còn kiến phược thì ở Sơ địa kiến đạo đã dứt đoạn. Hai là trong kinh luận y cứ kiến tu và Chín địa, Mười một địa v.v… Nói dứt hoặc chẳng đồng và thô tế là đều thuộc về sơ giáo như Bách Luận quyển mười đã nói, phân biệt ngã kiến kiến đạo đoạn, chỉ sinh ngã kiến tu đạo đoạn, như Nhiếp Luận của Vô Tánh chép: Chuyển nhiễm ô Mạt-na được (thành) bình đẳng tánh trí, khi mới hiện quán trước đã chứng đắc. Ở trong vị tu đạo lại càng thanh tịnh… các văn như thế đều thuộc về sơ giáo. Bách Luận nói: Câu sinh hoặc tu, hoặc tu đạo đoạn, đây là đem phiền não nhờ hiển bày kiến tu như da thịt tìm ba phiền não. A-tăng-kỳ đầu thì dứt bỏ phần da, A-tăng-kỳ hai dứt bỏ phần thịt, v.v… nghóa ấy so sánh thì đồng. Nếu trong kinh luận y theo vị mười địa mà hiển bày, biệt vô minh chẳng luận thô tế thì như mười một vô minh và hai mươi hai vô minh đều đối với sơ giáo trực tiến giáo nhiếp. Vì sao? Vì thuận theo mười địa chung tâm dứt nhanh các hoặc. 2/ Là y cứ dụng nghóa mà hiển bày phiền não. Chia phiền não thành hai môn: Một là khác môn Tiểu thừa, hai là đồng môn Tiểu thừa. Đồng Tiểu thừa lại chia làm hai: Một là đại hoặc, tức là đủ năm nghóa kiết, phược, sử, cấu, triền gọi là đại hoặc. Kết là chín kết: 1/ Ái kết; 2/ Nhuế kết; 3/ Mạn kết; 4/ Vô minh kết; 5/ Kiến kết; 6/ Thủ kết; 7/ Nghi kết; 8/ Tật kết; 9/ San kết. Khó khó cởi bỏ là nghóa kết. Lại có năm kết là: 1/ Ái kết; 2/ Nhuế kết; 3/ Mạn kết; 4/ Tật kết; 5/ San kết. Tham ba cõi là ái kết, mạn ba cõi là mạn kết, ba cái kia chỉ hệ ở cõi Dục là nghóa kết. Lại có năm kết, là ba hạ phần kết, tức là ái kết, nhuế kết, thân kiến kết, giới thủ kết và nghi kết. Hai thứ đầu là giới hạ, cái thứ ba là chúng sinh hạ, gọi là hạ phần kết. Giới hạ tức là cõi Dục, chúng sinh hạ tức là phàm phu. Lại có năm kết, là năm thượng phần kết, tức là sắc ái kết, vô sắc ái kết, trạo kết, mạn kết và vô minh kết. Sắc giới tu đạo dứt tham gọi là sắc ái. Vô sắc ái cũng như thế. Sắc vô sắc tu đạo thì dứt trạo, mạn, vô minh tức là ba kết. Năm thứ này dắt dẫn chúng sinh thú thượng, chẳng theo hạ nên gọi là thượng phần. Lại là chỗ bậc Thánh thực hành, không phải phàm phu thực hành. Trong bậc Thánh là A-hàm thực hành, không phải hai quả dưới thực hành, nên gọi là thượng phần. Lại có bốn kết, là tham tật kết, sân nhuế kết, giới thủ kết, và kiến thủ kết. Lại có ba kết, tức là thân kiến giới thủ, nghi phược; Có bốn phược: 1/ Tham dục thân phược; 2/ Sân nhuế thân phược; 3/ Giới thủ thân phược; 4/ Kiến thủ thân phược. Tham ô cõi Dục gọi là tham phược, sân gọi là thân phược, giới thủ ba cõi gọi là giới thủ phược. Kiến thủ ba cõi gọi là kiến thủ phược. Năm ấm gọi là thân là bốn yếu, phải thân khẩu thành nên gọi là thân phược. Phược là nghóa không tự tại. Lại có ba phược, đó là tham phược, sân phược, si phược. Sử, có bốn môn: Một là bảy sử tức là dục ái sử, nhuế sử, hữu ái sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, nghi sử. Thường theo thân sai khiến nên gọi là sử; Hai là mười sử là: 1/ Thân kiến, 2/ Biên kiến, 3/ Tà kiến, 4/ Giới thủ, 5/ Kiến thủ, 6/ Tham, 7/ Sân, 8/ Mạn, 9/ Nghi, 1 0/ Vô minh; Ba là chín mươi tám sử, tức cõi Dục có ba mươi sáu, là khổ hạ có mười, về tập có bảy, tức là tà kiến, kiến thủ, tham, nhuế, mạn nghi, vô minh. Diệt hạ cũng có bảy, cũng như nói về tập. Về đạo có tám, tức là tà kiến, kiến thủ, giới thủ, tham nhuế, mạn, nghi, vô minh. Tu đạo có bốn, tức là tham nhuế, mạn, vô minh. Cõi Sắc có ba mươi mốt, về khổ có chín, trừ sân, các thứ kia như đã nói ở cõi Dục. Tập diệt đều có sáu, về đạo có bảy, tu đạo có ba, đều trừ sân, các thứ khác như đã nói ở cõi Dục. Vô sắc có ba mươi mốt như đã nói về sắc; Bốn là một trăm chín mươi sáu sử. Cấu có sáu là: cuống, siễm, kiêu, não, hận, hại. Uế tâm nên gọi là cấu triền có mười là vô tàm, vô quí, thùy, hối, san, tật, trạo, miên, phẫn, phú. Triền là buộc ràng nhiều. Lại có tám triền, tức là hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, tật, san, vô tàm vô quí, thường tăng mạnh triền nhiễu ở tâm, nên gọi là triền. Từ trên giải thích kết, v.v… năm nghóa đó là nghóa đại hoặc (hoặc lớn), nếu không đủ năm nghóa trên thì gọi là tiểu phiền não. Hỏi: trên đủ năm nghóa gọi là Sử. Cứ theo nghóa sử thì tức đã thành, vì sao ở trên nói nghóa sử được xếp vào năm nghóa là năng thành? Đáp: Gồm hai nghóa: Một là nghóa sử (sai khiến), hai là nghóa thô trọng. Do có nghóa sử mà xếp vào nghóa năng thành. Do nghóa thô trọng mà xếp vào sở thành. Lại phiền não lưu loại riêng, có hai mươi chín môn: Một là ba lậu, tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Phiền não cõi Dục trừ vô minh là dục lậu, thượng giới phiền não, trừ vô minh là hữu lậu. Vô minh ba cõi là vô minh lậu. Ba thứ này luôn rót vào chẳng dứt nên gọi là lậu; Hai là bốn đảo, đó là thường, lạc, ngã, tịnh, bốn thứ này chẳng thuận chánh lý nên gọi là Đảo; Ba là bốn lưu, tức là: Dục lưu, Hữu lưu, Kiến lưu, và Vô minh lưu. Cõi Dục phiền não trừ kiến, vô minh thì gọi là dục lưu. Phiền não Thượng giới trừ kiến, vô minh gọi là hữu lưu. Kiến ba cõi gọi là kiến lưu. Vô minh ba cõi gọi là vô minh lưu. Bốn thứ này thường có nên gọi là lưu; Bốn là bốn thủ tức là dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã ngữ thủ. Phiền não cõi Dục trừ kiến thì gọi là dục thủ. Bốn kiến của ba cõi thì gọi là kiến thủ. Giới thủ ba cõi thì gọi là giới thủ. Phiền não Thượng giới trừ kiến gọi là ngã ngữ thủ. Vì vô ngã nên chỉ lấy ngữ gọi là ngã ngữ thủ. Chấp thành làm hại là nghóa thủ; Năm là năm cái, tức là tham cái, sân cái, thùy miên cái, trạo hối cái, và nghi cái. Năm thứ này chỉ ở cõi Dục ngăn che ba học nên gọi là Cái. Tham dục, sân nhuế làm che giới phẩm. Trạo hối làm che định phẩm, thùy miên che lấp tuệ phẩm, nghi che lếp ba phẩm; Sáu là năm kiến, tức là: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ, đủ bốn nghóa sau thì gọi là kiến: Một là hay quán, hai là chuyển làm, ba là chấp giữ chặt, bốn là trong duyên mạnh mẽ; Bảy là năm san, rút từ Luận Thành Thật, là trụ xứ san, gia san, thí san, xưng tán san, pháp san Tiếc rẽ thì gọi là San; Tám là năm tâm tiệt. Tiệt nghóa là nghi Phật nghi Pháp, nghi Tăng, nghi giới, nghi giáo hóa. Ác khẩu dèm pha bại hoại tâm ấy chẳng thành gốc lành nên gọi là Tiệt; Chín là sáu ái từ Tỳ-đàm tức nhãn xúc (mắt chạm) sinh ái, tai, mũi, lưỡi, thân ý, v.v… xúc sinh ái; Mười là bảy lưu, tức là kiến đế sở diệt lưu, tu đạo sở diệt lưu, viễn ly sở diệt lưu, số sự sở diệt lưu, xả sở diệt lưu và hộ sở diệt lưu, chế phục sở diệt lưu; Mười một là bốn ách tức là dục ách, hữu ách, kiến ách, vô minh ách; Mười hai là tám mạn, tức là mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, bất như mạn, tà mạn, ngạo mạn. Ở thấp mà tự cho là cao gọi là Mạn, bằng cho là bằng cũng gọi là mạn, bằng mà tự cho là cao gọi là Đại mạn, hơn mà tự cao gọi là mạn mạn, năm ấm các chỗ gọi là Ngã mạn. Người rất hơn mà cho là hơn ít gọi là bất như mạn, không có đức mà tự cao gọi là Tà mạn, lại vì ác pháp mà tự cao cũng gọi là tà mạn. Ở người thiện và người tôn quí mà không chịu kính lễ gọi là ngạo mạn; Mười ba là sáu mươi hai kiến, tức là sắc ấm mà khởi mười hai kiến là thường, vô thường, vừa thường vừa vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, có biên, không biên, vừa có biên vừa vô biên, chẳng phải có biên chẳng phải vô biên. Như Lai diệt rồi, như khứ, như bất khứ, vừa như khứ vừa chẳng như khứ, chẳng phải như khứ chẳng phải chẳng như khứ. Sắc ấm có mười hai câu, và thọ, tưởng, hành, thức cũng có mười hai. Cộng lại thành sáu mươi, thêm vào thân là mạng và thân khác mạng là sáu mươi hai, cũng có thể thêm hai kiến đoạn - thường; Mười bốn là tám thứ giác, tức là: 1/ Dục giác, 2/ Sân giác, 3/ Não giác, 4/ Thân lý giác, 5/ Quốc độ giác, 6/ Bất tử giác, 7/ Lợi tha giác, 8/ khinh tha giác. Nếu theo kinh Địa Trì thì cái thứ bảy gọi là khinh mạn giác, thứ tám là tộc tánh giác; Mười lăm là một trăm lẻ tám phiền não, tức là chín mươi tám sử thêm vào mười triền thì gọi là một trăm lẻ tám phiền não; Mười sáu là bất thiện căn là tham, sân, si; Mười bảy là ba ngột tức là tham, sân, si; Mười tám là ba cấu tức là tham sân si; Mười chín ba nhiễu hại tức là tham, sân, si; Hai mươi là ba tiễn (mũi tên) tức là tham, sân, si; Hai mươi mốt là ba sở hữu, tức là tham, sân, si; Hai mươi hai là ba hạnh ác, tức là tham, sân, si; Hai mươi ba là ba quỉ, tức là tham, sân, si; Hai mươi bốn là ba nhiệt, tức là tham, sân, si; Hai mươi lăm là ba phiền não, tức là tham, sân, si; Hai mươi sáu là ba tranh, tức là tham, sân, si; Hai mươi bảy là ba xí nhiên, tức là tham, sân, si; Hai mươi tám là ba trù lâm, tức là tham, sân, si; Hai mươi chín là ba câu ngại, tức là tham, sân, si; Hai mươi. Lại các phiền não tạp nhiễm này hoặc hiện hành, hoặc duyên, hoặc tùy miên, hoặc cảnh sở duyên, hoặc thô trọng phải biết đều có hai mươi tướng. Phiền não hiện hành có hai mươi thứ: Một là tùy chỗ dục triền hiện hành, nghóa là tại gia; hai là chẳng tùy chỗ dục triền hiện hành, nghóa là xuất gia; ba là không hề rõ biết, tức là ở chỗ xấu ác mà nói pháp; bốn là có rõ biết, tức là ở chỗ tốt mà nói pháp; năm là tăng thượng lẫn nhau, tức là các hạnh tham v.v…; sáu là đều bình đẳng, tức là đẳng phần hạnh; bảy là vi bạc (yếu mỏng), tức là bạc trần hạnh; tám là ngoại môn triền hiện hành, nghóa là lìa hẳn dục; chín là nội môn triền hiện hành tức là do đạo thế gian mà lìa dục; mười là tăng thượng triền hiện hành, tức là các dị sinh; mười một là thất niệm triền hiện hành, tức là các hữu học; mười hai là phân biệt triền hiện hành, tức là chấp trước bền chặt; mười ba là câu sinh triền hiện hành, tức là chẳng chấp trước bền chặt; mười bốn là quán sát hiện hành, tức là vui mừng quán sát; mười lăm là bất tự tại hiện hành, tức là ngủ nghỉ; mười sáu là tự tại hiện hành, tức là giác ngộ; mười bảy là bất khả cứu hiện hành, tức là không có pháp nước; Mười tám là khả cứu hiện hành, tức có pháp Niết-bàn; mười chín là thủ tướng hiện hành, tức là tầm tư tùy pháp mà chấp lấy tướng mạo; hai mươi là bất thủ tướng hiện hành, tức chẳng tầm từ, tùy pháp mà chẳng chấp lấy tướng mạo. Duyên phiền não có hai mươi thứ là: 1/ Vui; 2/ Khổ; 3/ Chẳng vui chẳng khổ; 4/ Dục; 5/ Tầm; 6/ Xúc; 7/ Thói quen cũ; 8/ Phiền não; 9/ Chẳng gần bạn lành; 10/ Chẳng nghe chánh pháp; 11/ Chẳng tác ý đúng lý; 1 2/ Chẳng tin; 13/ Lười biếng; 14/ Thất niệm; 15/ Tán loạn; 16/ Bất chánh tri; 17/ Buông lung phiền não; 18/ Dị sinh tánh; 19/ Ly dục; 2 0/ Do thọ sinh phiền não. Tùy miên có hai mươi thứ: 1/ Bất định địa tùy miên; 2/ Định địa tùy miên; 3/ Tùy tự cảnh tùy miên; 4/ Tùy tha cảnh tùy miên; 5/ Bi tổn tùy miên; 6/ Vị bị tổn tùy miên; 7/ Tùy thuận tùy miên; 8/ Bất tùy thuận tùy miên; 9/ Cụ mãn tùy miên; 10/ Khuyết giảm tùy miên; 11/ Khả hại tùy miên; 12/ Bất khả hại tùy miên; 13/ Tăng thượng tùy miên; 14/ Bình đẳng tùy miên; 15/ Vi bạt tùy miên; 16/ Hữu giác tùy miên; 17/ Vô giác tùy miên; 18/ Sinh nhiều khổ tùy miên; 19/ Sinh ít khổ tùy miên; 20/ Chẳng sinh khổ tùy miên. Cảnh sở duyên phiền não có hai mươi thứ: 1/ Cảnh duyên có sự; 2/ Cảnh duyên không có sự; 3/ Cảnh duyên tự tướng; 4/ Cảnh duyên cộng tướng; 5/ Cảnh duyên hiện kiến; 6/ Cảnh duyên không hiện kiến; 7/ Cảnh duyên môn ngoài; 8/ Cảnh duyên môn trong; 9/ Cảnh duyên tự loại phiền não; 10/ Cảnh duyên tha loại phiền não; 11/ Duyên tự cảnh; 12/ Duyên tha cảnh; 13/ Duyên không cảnh; 14/ Duyên cảnh hữu lậu; 15/ Duyên cảnh vô lậu; 16/ Duyên cảnh hữu vi; 17/ / Duyên cảnh vô vi; 18/ Duyên cảnh tự tâm phân biệt; 19/ Duyên cảnh ức niệm phân biệt; 2 0/ Duyên cảnh sự tướng. Thô trọng có hai mươi thứ: 1/ Tánh báo thô trọng; 2/ Tánh phiền não thô trọng; 3/ Tánh nghiệp thô trọng; 4/ Phiền não chướng thô trọng; 5/ Sở tri chướng thô trọng; 6/ Định chướng thô trọng; 7/ Nghiệp chướng thô trọng; 8/ Báo chướng thô trọng; 9/ Thiện chướng thô trọng; 10/ Bất chánh tầm tư thô trọng; 11/ Sầu não thô trọng; 12/ Bố úy thô trọng; 13/ Lao nguyện thô trọng; 14/ Thực thô trọng; 16/ Dâm dục thô trọng; 17/ Đại chủng quái dị thô trọng; 18/ Thời phần biến dị thô trọng; 19/ Tử thô trọng; 20/ Biến hạnh thô trọng. Lại lược nói biết rõ phiền não do năm tướng tức là: Tự thể tướng, nhân tướng, phẩm loại tướng, ở cảnh tâm loạn tướng, quả tướng. Như trên nói các sử và phiền não, v.v… cùng Tiểu thừa tên đồng, mà nghóa khác. Nếu pháp Tiểu thừa như chỗ gọi thật đem làm có thể, nếu Đại thừa Sơ giáo thì tự tánh tức không, chỉ có tên dùng. Đó gọi là sử và phiền não. 2.Khác môn Tiểu thừa, có hai môn là vô minh chỉ ở trực tiến giáo mà xếp vào Vị môn: Một là mười vô minh, nghóa là phàm phu xưa tánh vô minh; hai là y nghiệp, v.v… đối với các chúng sinh mà khởi tà hạnh vô minh; ba là tâm trì (chậm) như vô minh, văn tư tu quên mất vô minh; bốn là vi tế phiền não hạnh cộng sinh thân kiến, v.v… vô minh; năm là hạ thừa bát Niết-bàn vô minh; sáu là thô tướng hạnh vô minh; bảy là vi tế tướng vô minh; tám là đối với tướng làm công dụng tâm vô minh; chín là ở chúng sinh việc lợi ích chẳng dụng công dụng tâm (dùng bất dụng công) vô minh; mười là ở trong chúng sinh chẳng được tự tại vô minh. Đều là tâm mê chẳng hiểu nên gọi là Vô minh. 2/ Có hai mươi hai vô minh: Một là pháp ngã phân biệt vô minh; hai là Ác đạo nghiệp vô minh; ba là Vi tế phạm quả vô minh; bốn là Các thứ tướng nghiệp hạnh vô minh; năm là Dục ái vô minh; sáu là Cụ túc văn trì Đà-la-ni vô minh; bảy là Tam-ma-bạt-đề ái vô minh; tám là Hành pháp ái vô minh; chín là Sinh tử Niết-bàn một hướng bối thủ tư duy vô minh; mười là Phương tiện sở nhiếp tu tập đạo phẩm vô minh; Mười một là Chứng chư hành pháp sinh khởi tương tục vô minh; mười hai là Tướng tưởng sác khởi vô minh; mười ba là Vi tế tướng hạnh khởi vô minh; mười bốn là Một hướng vô tướng tư duy phương tiện vô minh; mười lăm là Vi vô tướng quán tác công dụng vô minh; mười sáu là Tướng hạnh tự tại vô minh; mười bảy là Vô lượng chánh thuyết pháp vô lượng đảnh cú vị nạn đáp xảo ngôn tự tại Đà-la-ni vô minh; mười tám là Y bốn vô ngại giải quyết định sinh giải vô minh; mười chín là Sáu phần thông tuệ vô minh; hai mươi là Nhập vi tế bí mật Phật pháp vô minh; hai mươi mốt là Ư Nhất thiết ưng tri cảnh vi tế trước vô minh; hai mươi hai là Ư Nhất thiết ưng tri cảnh vi tế ngại vô minh. Hai môn phiền não này hạn cục ở Sơ giáo trực tiến môn. Sở dó biết được, là do hai môn phiền não này ở khắp mười địa, bất luận sử tập thô tế khác nhau. Phải biết thuận theo mười địa, cuối cùng tâm mau dứt hoặc. - Lại y theo chung giáo phiền não có mười sáu môn: 1/ Có hai vô minh tức là phiền não chướng và trí chướng; 2/ Lại có hai vô minh tức là hai chướng hoặc - trí; 3/ Có ba chướng tức là Bì - Nhục - Tâm, ba chướng cũng gọi là Bì - Phu - Cốt; 4/ Có bốn chướng tức là xiển-đề bất tín chướng, ngoại đạo ngã chấp chướng, Thanh văn úy khổ chướng, Độc giác đại bi chướng; 5/ Có sáu tệ chướng tức là sáu Ba-la-mật biệt sở diệt chướng; 6/ Có tám vọng tưởng tức là niệm vọng tưởng, bất niệm vọng tưởng, niệm bất niệm trái nhau vọng tưởng, ngã vọng tưởng, ngã sở vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, sai biệt vọng tưởng, nhiếp thọ tích tụ vọng tưởng. Ba thứ đầu là bì phiền não, hai thứ kế là nhục phiền não, ba thứ sau là tâm phiền não; 7/ Có chín phiền não, trích từ luận Phật tánh: Một là tùy miên tham dục, hai là tùy miên sân, ba là tùy miên si, bốn là tham sân si cực trọng thượng tâm hoặc, năm là vô minh trụ địa, sáu là kiến đế sở diệt, bảy là tu tập sở diệt, tám là bất tịnh địa hoặc, chín là tịnh địa hoặc. Bốn thứ đầu và cái thứ bảy là tu tập sở diệt, bì phiền não là thể, cái thứ sáu là kiến đế sở diệt, Nhục phiền não làm thể; 8/ Bất tịnh địa hoặc; 9/ Tịnh địa hoặc, dùng tâm phiền não làm thể. Tâm có năm trụ địa hoặc: Một là Kiến nhất thiết xứ trụ địa, hai là dục ái trụ địa, ba là sắc ái trụ địa, bốn là hữu ái trụ địa, năm là vô minh trụ địa. Các hoặc nương thì gọi là trụ địa. Kiến nhất thiết xứ là nhục phiền não, ba thứ dục ái v.v… là bì phiền não, vô minh trụ địa là tâm phiền não; 9/ Có mười ba phiền não tức là bảy kiến, sáu trước. Bảy kiến là: 1- Tà kiến, 2- Ngã kiến, 3- Thường kiến, 4- Đoạn kiến, 5- Giới đạo kiến, 6- Quả đạo kiến, 7- Nghi kiến. Thấy tất cả chỗ nên gọi là kiến. Sáu trước tâm là: 1/ Tham, 2/ Ái, 3/ Sân, 4/ Si, 5/ Dục, 6/ Mạn. Ở trong pháp giới bất cứ lúc nào cũng khởi tất cả phiền não. Lấy mười ba thứ này làm gốc, vô minh cùng mười ba làm gốc, ở trong pháp giới riêng làm báo ba cõi. Hỏi: Mười ba phiền não đã không có pháp chấp, vì sao chẳng chấp vào nghóa và Tiểu thừa? Đáp: Ý kinh muốn nói mười ba hoặc từ vô minh sinh ra, hay sinh các nghiệp. Muốn định vô minh trụ địa là nghóa nhân ấy nên chẳng xếp vào Tiểu thừa; 10/ Có tám đảo, tức là thường, lạc, ngã, tịnh, vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Bốn đảo thì chướng Thanh văn, tám đảo thì chướng Bồ-tát; 11/ Có bốn đế tức là Tăng Ích Đế, Tổn Giảm Đế, Tương Vi Đế và Hý Luận Đế; 12/ Có năm tán loạn: Một là tự tánh tán loạn tức là năm thức, hai là ngoại tán loạn tức là ý thức bay nhảy ở ngoại trần, ba là nội tán loạn, tức là tâm cao thấp và ham vị, bốn là thô trọng tán loạn, tức là chấp ngã và ngã sở, năm là tư duy tán loạn tức là bỏ Đại thừa nghó về Tiểu thừa. Hai cái đầu chưa được khiến chẳng được, thứ ba đã được thì khiến lui, cái thứ tư khiến chẳng được giải thoát, thứ năm khiến chẳng được vô thượng Bồ-đề; 13/ Có hai phiền não tức là tùy phiền não và thượng tâm phiền não; 14/ Lại có ba đảo là tưởng đảo, kiến đảo và tâm đảo; 15/ Có mười hai vọng tưởng: Một là Ngôn thuyết vọng tưởng, hai là Sở thuyết sự vọng tưởng, ba là Tướng vọng tưởng, bốn là Lợi vọng tưởng, năm là Tự tánh vọng tưởng, sáu là Nhân vọng tưởng, bảy là Kiến vọng tưởng, tám là Thành vọng tưởng, chín là Sinh vọng tưởng, mười là bất sinh vọng tưởng, mười một là Tương tục vọng tưởng, mười hai là Phược bất phược vọng tưởng, Vọng tưởng này có ba phiền não là Bì, Nhục và Tâm, do đó mà biết cho nên kinh nói: Đó là tướng chung của vọng tưởng tự tánh phân biệt nên biết được. Như kinh Lăng-già nói: Mười sáu hà có tám mươi bốn ngàn trần lao phiền não. Nghóa mười sáu môn phiền não ở trên phải là thục giáo phần, cũng chung với trực tiến giáo trong sơ giáo mà nói. Nếu ở trực tiến giáo, thể nó tức không, gọi là phiền não. Nếu Nhất thừa giáo y cứ thì thuộc về Nhất thừa. Nếu nói theo Biệt giáo thì mỗi phiền não đều vô lượng. Thế nên sử v.v… phiền não là nghóa trù lâm. Vì sao? Vì trong văn Phổ Hiền nói một tâm sân làm chướng trăm ngàn pháp môn, v.v… Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Nghiệp trù lâm: Nghiệp trù lâm có ba thứ là: 1/ Luật nghi nghiệp, là luật nghi Thiện; 2/ Bất luật nghi nghiệp, là luật nghi bất thiện; 3/ Nhân giả luật nghi phi bất luật nghi nghiệp, tức là làm thiện hai nghiệp ác. Chẳng phát luật nghi là đó. Lại phi luật nghi phi bất luật nghi tức là nghiệp vô ký. Luật nghi lại có ba thứ tức là giải thoát, tịnh lự, vô lậu đạo. Biệt giải thoát tức là luật nghi của bảy chúng y theo đó mà tu hành thì sẽ xa lìa ác hạnh và dục hạnh, năm chúng thọ suốt đời là xa lìa ác hạnh, chẳng lìa dục dạnh. Ổ-ba-sách-ca, Ổ-ba-tư-ca thọ suốt đời. Vì người chẳng thể xa lìa ác và chẳng xa lìa dục hạnh mà chế ngày đêm gần gũi giới, khiến dần dần tu học. Hỏi: Ổ-ba-sách-ca một phần học xứ là nói thành tựu hay chẳng thành tựu? Phải nói thành tựu mà gọi là phạm giới. Lại hỏi Phiến-để-bán-trạch-ca, v.v… có được thành tựu Ổ- ba-sách-ca giới hay chăng? Đáp: Chẳng cấm họ thọ, nhưng chẳng gọi là Ổ-ba-sách-ca, vì tánh họ chẳng có khả năng gần gũi, thờ kính năm chúng xuất gia như Tỳ-kheo, v.v…. Hai hình cũng thế. Lại Bán-trạch-ca có năm thứ là Sinh, đố, quyền, sái, trừ khử bán nguyệt (nửa tháng) đều đồng như trước chẳng được gần gũi năm chúng. Các nghiệp Tónh lự v. v… như chương riêng ở trước đã nói. Đạo nghiệp Vô lậu cũng như trước nói. Nay lược nêu nghiệp môn có ba mươi sáu thứ: Một là hai nghiệp cố bất có, nói nghiệp cố và bất cố, biết trước mà làm thì gọi là cố nghiệp, không biết mà làm thì gọi là nghiệp bất cố. Lại âm thinh của thí giáo gọi là nghiệp cố, chẳng đến giáo thinh gọi là nghiệp bất cố; Hai là hai tội nghiệp, tức là nghiệp khinh tội và nghiệp trọng tội; Ba là hai lợi nghiệp, tức là đại lợi nghiệp và tiểu lợi nghiệp; Bốn là ba nghiệp, tức nhờ phước v.v… là nghiệp phước, nghiệp chẳng phải phước và nghiệp bất động; năm là ba nghiệp, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp; Sáu là ba hạnh ác, cũng gọi là hạnh tà, tức là ác hạnh của thân, ác hạnh của miệng, ác hạnh của ý; Bảy là ba diệu hạnh, cũng gọi là chánh hạnh, tức là diệu hạnh thân, diệu hạnh của miệng, diệu hạnh của ý; Tám là ba bất xả tiện hạnh, tức là thân bất xảo tiện, miệng bất xảo tiện, ý bất xảo tiện. Chỗ làm chẳng hợp pháp giới gọi là bất xảo tiện; Chín là ba hạnh xảo tiện, tức là hạnh xảo tiện của thân, hạnh xảo tiện của miệng, hạnh của xảo tiện; Mười là ba tà, tức là ngữ tà, nghiệp tà, mạng tà từ sân si sinh bốn lỗi của miệng gọi là tà ngữ, từ sân si sinh ba lỗi của thân gọi là tà nghiệp, từ phiền não tham sinh ác của thân khẩu gọi là tà mạng; Mười một là ba chánh, tức là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Từ vô sân, vô si sinh ra bốn điều thiện của miệng gọi là chánh ngữ. Từ vô sân, vô si sinh ra ba điều thiện thân gọi là chánh nghiệp. Từ vô tham sinh ra điều lành của thân miệng gọi là chánh mạng. Thuận lý nên gọi là chánh; Mười hai là nghiệp báo ba thời, tức là nghiệp hiện báo, nghiệp sinh báo, và nghiệp hậu báo. Y cứ vào thời mà được tên nghiệp báo ba thời; Mười ba là ba thọ báo nghiệp tức là nghiệp lạc báo, nghiệp khổ báo, báo nghiệp bát khổ bất lạc; Mười bốn là hệ nghiệp ba cõi, tức là hệ nghiệp cõi Dục, hệ nghiệp cõi Sắc, hệ nghiệp cõi Vô sắc; Mười lăm là ba nghiệp, tức là khúc nghiệp, uế nghiệp, trược nghiệp. Do Siễm khởi nghiệp nên gọi là khúc nghiệp, do sân khởi nghiệp nên gọi là uế nghiệp, và do tham khởi nghiệp nên gọi là trược nghiệp; mười sáu là ba tánh nghiệp, tức là nghiệp thiện, nghiệp bất thiện, và nghiệp vô ký; Mười bảy là ba mãn nghiệp, tức là thân mãn nghiệp, khẩu mãn nghiệp, va ý mãn nghiệp. Thân vô học hạnh tốt đầy đủ nên gọi là mãn. Miệng và ý cũng thế; Mười tám là ba học nghiệp, tức là nghiệp học, nghiệp vô học, nghiệp phi học nghiệp phi vô học. Người học vô lậu nên gọi là nghiệp học, người vô học vô lậu nên gọi là nghiệp vô học. Tất cả nghiệp hữu lậu thì gọi là nghiệp phi học phi vô học; Mười chín là ba đoạn nghiệp, tức là kiến đoạn nghiệp, tu đoạn nghiệp, và vô đoạn nghiệp; Hai mươi là ba thế nghiệp tức là nghiệp quá khứ, nghiệp vị lai, nghiệp hiện tại; Hai mươi mốt là ba chướng, tức là nghiệp chướng, chướng phiền não, và báo chướng; Hai mươi hai là bốn nghiệp tướng, tức là Hắc hắc báo nghiệp, Bạch bạch báo nghiệp, Hắc bạch báo nghiệp, Bất hắc bất bạch báo nghiệp; Hai mươi ba là bốn giới, tức là giới Biệt giải thoát, giới Định cộng, giới Đạo cộng, Đoạn giới; Hai mươi bốn là năm nghịch, tức là hại cha, hại mẹ, hại A-la-hán, phá Tăng, làm thân Phật ra máu. Hai thứ trước là trái ân nuuôi dưỡng, hai thứ kế là phá ruộng phước nên gọi là Nghịch; Hai mươi lăm là năm giới tức là chẳng giết, chẳng trộm cướp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu. Ngăn ngừa thân miệng gọi là giới; Hai mươi sáu là năm tà mạng, tức: Một là vì lợi dưỡng mà dối hiện kỳ đặc, hai là vì lợi dưỡng mà tự nói mình có công đức, ba là vì lợi dưỡng mà bói toán tốt xấu, bốn là vì lợi dưỡng mà làm ra vẻ ta đây có oai khiến người kính sợ, năm là vì lợi dưỡng mà khen ngợi cúng dường để động tâm người. Tà nhân duyên nuôi mạng sống nên gọi là tà mạng; Hai mươi bảy là sáu nghiệp tức là báo nghiệp địa ngục, báo nghiệp súc sinh, báo nghiệp ngạ quỉ, báo nghiệp, người báo nghiệp trời, báo nghiệp bất định; Hai mươi tám là bảy luật nghi bất thiện, tức là sát, đạo, dâm, lượng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ, ở tất cả chỗ khởi phát luật nghi bất thiện; Hai mươi chín là bảy luật nghi thiện, tức là bất sát, bất đạo, bất dâm, bất lưỡng thiệt, bất ác khẩu, bất vọng ngôn, bất ỷ ngữ. Ở mọi lúc điều thiện luôn không dứt nên phát luật nghi thiện; Ba mươi là tám thứ lời nói là: 1/ Thấy nói không thấy, 2/ Không thấy nói thấy, 3/ Không thấy bảo thấy thì nói chẳng thấy; 4/ Thấy bảo chẳng thấy hỏi thì nói thấy, 5/ Nếu thấy nói thấy, 6/ Chẳng thấy nói chẳng thấy, 7/ Thấy bảo chẳng thấy hỏi thì nói chẳng thấy, 8/ chẳng thấy bảo thấy hỏi liền nói thấy. Bốn thứ trước gọi là bất tịnh ngữ, bốn thứ sau gọi là tịnh ngữ; Ba mươi mốt là tám giới, tức giới một ngày đêm: Một là chẳng giết hại, hai là chẳng trộm cướp, ba là chẳng dâm, bốn là chẳng nói dối, năm là chẳng uống rượu, sáu là chẳng ngồi giường cao rộng, bảy là chẳng đeo hoa xức hương thơm đeo chuỗi anh lạc, chẳng xông hương thơm vào áo quần, tám là chẳng xem và chẳng làm đờn ca múa hát và chẳng ăn quá ngọ. Bốn giới trước là phần giới cấm, một giới kế là phần chẳng phóng dật, ba giới sau là phần thuận tu oai nghi; Ba mươi hai là tám tà, tức là: 1/ Tà kiến, 2/ Tà giác, 3/ Tà phương tiện, 4/ Tà niệm, 5/ Tà định, 6/ Tà ngữ, 7/ Tà nghiệp, 8/ Tà mạng; Ba mươi ba là mười nghiệp đạo bất thiện, tức là giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói hung ác, nói thêu dệt, tham, giận, tà kiến. Trái lý làm tổn hại vật nên gọi là bất thiện; Ba mươi bốn là mười nghiệp đạo thiện tức là chẳng giết hại, chẳng trộm cướp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng nói lời hai lưỡi, chẳng nói lời hung ác, chẳng nói lời thêu dệt, không tham, không giận, chánh kiến. Thuận lý làm lợi ích chúng sinh nên gọi là thiên. Yù tư làm nghiệp, là suy nghó việc làm nên gọi là Đạo, cũng quả sở y hạnh nên gọi là Đạo; Ba mươi lăm là mười hai luật nghi ác tức là: 1/ Giết mổ dê, 2/ Nuôi gà, 3/ Nuôi heo, 4/ Bắt cá, 5/ Bắt chim, 6/ Săn bắn, 7/ Làm giặc, 8/ Hàng thịt, 9/ Giữ ngục, 10/ Đọc chú trừ rồng, 11/ Mổ giết chó, 12/ Nuôi mèo; Ba mươi sáu là mười sáu luật nghi ác: 1/ Vì lợi dưỡng mà nuôi dê cho mập để bán, 2/ Vì lợi dưỡng mà mua về giết mổ, 3/ Vì lợi dưỡng mà nuôi heo cho mập để bán, 4/ Vì lợi dưỡng mà mua về giết mổ, 5/ Vì lợi dưỡng mà nuôi trâu cái cho mập để bán, 6/ Vì lợi dưỡng mà mua về giết mổ, 7/ Vì lợi dưỡng mà nuôi gà cho mập để bán, 8/ Vì lợi dưỡng mà mua về giết mổ, 9/ Câu cá, 10/ Săn bắn, 11/ Trộm cướp, 12/ Hàng thịt, 13/ Giăng lưới bắt chim, 14/ Nói hai lưỡi, 15/ Coi ngục, 16/ Đọc chú bắt rồng. Các nghiệp môn này chung cho ba thừa, Tiểu thừa, trời người, hoặc trời, người là người tạo nghiệp. Nếu Tiểu thừa thì chỉ có nghiệp mà không có người. Nếu sợ giáo các nghiệp tức không, chẳng thể phân biệt. Như Luận nghiệp Thành Tựu chép. Nếu chung giáo tức như, tất cả pháp cũng như. Nếu là Nhất thừa y cứ thì thuộc về Nhất thừa. Nếu y cứ theo Nhất thừa Biệt giáo, thì có tám mươi bốn ngàn vô tận nghiệp v.v… Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Căn hành trù lâm: Căn hành trù lâm lược có hai mươi hai thứ là: 1/ Nhãn căn, 2/ Nhó căn, 3/ Tỷ căn, 4/ Thiệt căn, 5/ Thân căn, 6/ Ý căn, 7/ Nam căn, 8/ Nữ căn, 9/ Mạng căn, 10/ Khổ căn, 11/ Lạc căn, 12/ Ưu căn, 13/ Hỷ căn, 14/ Xả căn, 15/ Tín căn, 16/ Tinh tấn căn, 17/ Niệm căn, 18/ Định căn, 19/ Tuệ căn, 20/ Vị tri dục tri căn, 21/ Tri căn, 22/ Tri dó căn. Nghóa tăng thượng mạn sinh là nghóa căn. Cho đến thượng trung hạ. Rộng tức tám mươi bốn ngàn tánh v.v… cũng được. Nếu Tiểu thừa là thật, nếu Sơ giáo thì không, nếu Chung giáo tức như. Nếu Nhất thừa y cứ tức là Nhất thừa. Nếu Biệt giáo tức vô lượng các, nghóa khác có nói rộng trong chương khác. Sinh trù lâm: Sinh, có hai: Một là Phần đoạn sinh, hai là Biến dịch sinh. Phân biệt ra có hai mươi tám môn: Một là ba cõi tức cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; Hai là bốn thức trụ, tức là Sắc thức trụ, Thọ thức trụ, Tưởng thức trụ, Hành thức trụ, là chỗ thức trụ nên gọi là thức trụ (trích từ A- tỳ-đàm); Ba là bốn sinh tức là Noãn sinh, Thai sinh, Thấp sinh, Hóa sinh. Chỗ nương cho báo khởi nên gọi là Sinh; Bốn là bốn thực, tức là Đoàn thực, Xúc thực, Tư thực, Thức thực; Năm là hai thọ, tức là Thân thọ, Tâm thọ, năm thức tương ưng gọi là Thân thọ, ý thứ tương ưng gọi là Tâm thọ; Sáu là ba thọ, tức là thọ Khổ, thọ vui chẳng khổ chẳng vui; Bảy là năm thọ, tức là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả; Tám là sáu thọ, tức Nhãn xúc mà sinh thọ, cho đến Ý xúc mà sinh thọ; Chín là một trăm lẻ tám thọ tức như Đại Luận chép: Mắt thấy sắc tư duy phân biệt thì tâm sinh hỷ, sinh ưu, sinh xả, cho đến ý thức cũng thế. Trong mười tám thọ ấy có tịnh, có cấu, là ba mươi sáu, ba đời đều có ba mươi sáu là một trăm lẻ tám thọ. Cũng có thể chia hỷ ra làm ba: thượng trung hạ: Ưu, xả đều có ba, một căn có chín, sáu căn có năm mươi bốn thọ. Hiện trí, tỷ trí đã duyên tới lui các thọ. Có năm mươi bốn thọ với cảnh hiện - tỷ nên thọ có một trăm lẻ tám; Mười là năm quả: Một là quả Tăng thượng, hai là Y quả, ba là Báo quả, bốn là quả Dụng công, năm là quả Giải thoát. Đáp lại nhân mà có quả; Mười một là sáu đường, tức là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, người, trời, A-tu-la; Mười hai là sáu giới tức là đất, nước, lửa, gió, không, thức; Mười ba là bảy thức trụ, tức là cõi Dục trời, người là một, Sắc giới hạ tam thiên là hai, Vô sắc hạ tam thiên là ba, là chỗ thức ưa trụ nên gọi là Thức trụ; Mười bốn là tám chỗ phước sinh, tức trong loài người sinh giàu sang là một, trong sáu trời Dục giàu sang là sáu, Sơ thiền Phạm thiên là một. Trong đó tám phước báo này là hơn hết, nên nói tám thứ này; Mười lăm là tám pháp thế gian, tức là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ lạc; Mười sáu là Duy thức; Mười bảy là chỗ ở của chín chúng sinh, tức là trên bảy chỗ thức trụ thì thêm trời Vô tưởng và trời Phi tưởng là chín; Mười tám là hai mươi lăm hữu, tức bốn hữu, bốn đường ác, Phạm Vương sáu trời Dục, Vô tưởng và Tịnh cư, bốn không và bốn thiền; Mười chín là mười hai nhân duyên tức là ba duyên sinh, nghóa là tự tánh thọ dụng ái phi ái thủ biệt thời. Có nghóa tăng thượng sinh nên thuộc về sinh phần; Hai mươi là năm ấm, tức sắc, thọ, tưởng, hành, thức; Hai mươi mốt là mười hai nhập, tức là sáu căn và sáu trần; Hai mươi hai là mười tám giới tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức; Hai mươi ba là ba mươi sáu vật, đó là: 1/ Tóc, 2/ Lông, 3/ Móng, 4/ Răng, 5/ Da, 6/ Thịt, 7/ Xương, 8/ Tủy, 9/ Gân, 10/ Mạch, 11/ Tỳ, 12/ Thận, 13/ Tim, 14/ Gan, 15/ Phổi, 16/ Ruột già, 17/ Ruột non, 18/ Dạ dày, 19/ Bào thai, 20/ Phân, 21/ Nước tiểu, 2 2/ Hờm, 23/ Mồ hôi, 2 4/ Mật, 2 5/ Kết tinh, 26/ Nước mũi, 2 7/ Đờm, 28/ Mủ, 29/ Máu, 30/ Hoàng ấm, 3 1/ Bạch âm, 32/ Mỡ, 33/ Sách, 3 4/ Não, 35/ Não mạc, 36/ Tinh; Hai mươi bốn là bốn thứ sinh tử, là: 1/ Phương tiện sinh tử, 2/ Nhân duyên sinh tử, 3/ Hữu hữu sinh tử, 4/ Vô hữu sinh tử. Lại có ba thứ sinh tử, là: 1/ Tam- muội lạc chánh thọ ý sinh thân, 2/ Giác pháp tự tánh tánh ý sinh thân, 3/ Chủng loại câu sinh vô hạnh tác ý sinh thân. Tam-muội lạc, là vị ở Mười địa. Thế gian thượng phần địa định vị thứ ba là Tam-muội, được bốn địa, năm địa trí vô lậu, lý sẽ thành Học, Vô học. Thuận lý ý vui gọi là lạc, nương định thế lực mặc tình nên gọi là Ý sinh thân. Giác pháp tự tánh tánh là vô tướng chánh trí được lý không phân biệt, là tất cả pháp tánh nên gọi là pháp tự tánh tánh. Các pháp tánh tánh là trụ ở thể tánh. Ý sinh là tùy ý tự tại như ý, vì hiện sinh nên gọi là Ý sinh. Chủng loại câu sinh là chủng loại tùy sự chủng loại. Câu sinh tức là sự ứng khắp, không hai không riêng, gọi là câu sinh ứng, mà không cần đánh cũng như trống trời. Tâm Vô tác nghiệp nên gọi là vô hạnh tác, tức sự vô tướng, tùy cơ mà khởi ý tự tại nên gọi là ý sinh thân. Nhìn sau Phật là sinh tử, nhìn trước thì chẳng đủ nên gọi là Ý sinh thân. Hỏi: Vì sao phiền não trù lâm tức chia ra hai giáo Thỉ chung, hai thứ khác nhau. Nghiệp và sinh trù lâm thì không có phân tướng? Đáp: Phiền não là gốc sinh tử thì phải phân ra nghiệp sinh, hai thứ ấy là tướng cuối. Y theo nghóa phiền não trước thì sẽ hiểu. Hỏi: sinh tử Biến dịch là vô lưu vì sao thuộc về trù lâm? Đáp: sinh tử Biến dịch Bổn giáo hưng ý vì hiển bày Phật pháp dần dần sâu xa, để Biến dịch ở sau Phần đoạn, hiển Chung giáo dần dần càng sâu. Y cứ theo lý mà nói thì sinh tử Biến dịch chỉ là tế tướng của Phần đoạn. Sở dó biết trung ấm vốn là thân phần đoạn cầu sinh phương tiện nên lập ra trung ấm. Như kinh Thập Trụ chép: Thân trung ấm cho đến Niết-bàn Bồ-đề cũng có Trung ấm, chỉ vi tế dần sâu chỉ có cảnh giới Phật. Y cứ văn này làm chứng, phải biết sinh tử Biến dịch chỉ là tướng tế của Phần đoạn để làm Biến dịch; Hai mươi lăm là thân Trung ấm là báo phần, ấm phần lớn lấy trải bảy ngày làm một kỳ hạn, ở trong đó bất định hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến cả kiếp. Phật cũng ở trong đó mà ra đời giáo hóa, nhập Niết-bàn, như kinh Thập Trụ chép: Lại như Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: Phật trong hai mươi năm ở trong thân Trung ấm. Lại như Địa Luận nói: Trong thân trung ấm cũng có tạo nghiệp và có huân tập; Hai mươi sáu là ba tưởng tức người thân, kẻ thù và người không thân không thù; Hai mươi bảy là bốn tưởng tức là vô thường, tưởng thường cho đến bất tịnh tưởng, tịnh ở trong đó bỏ tánh chấp; Hai mươi tám là tám thức tưởng, tức là tám thức tưởng do đồng sinh diệt. Trước nay nói nghóa sinh trù lâm thì chung với Tiểu thừa và trời, người, nếu người phàm phu sinh tướng hoặc ở Nhị thừa không có người khác, chỉ có thật sinh chủng loại chúng đồng phần. Nếu y sơ giáo thì sinh tướng là không. Nếu theo Chung giáo thì sinh tướng là như, Nhất thừa y cứ thì thuộc Nhất thừa. Nếu y cứ Biệt giáo thì tức tám mươi bốn ngàn trần lao, tức ứng nghóa Nhân-đà-la và vi tế. Các thứ khác có nói rõ trong chương khác. Tập khí trù lâm: Tập khí có ba thứ: Một là Danh ngôn huân tập thức huân tập, hai là sắc thức huân tập thức thức huân tập kiến thức huân tập, ba là phiền não huân tập nghiệp huân tập quả báo huân tập. Các huân tập này đều chung cho nhiễm tịnh và vô ký. Chia ra có hai: Một là hạt giống huân tập, hai là thượng tâm huân tập, cũng chung cho trung ấm và sinh ấm. Tùy thượng trung hạ cho đến tám mươi bốn ngàn, v.v… Nếu y theo Tiểu thừa thì nghóa tức thật, sơ giáo thì tức không, Chung giáo thì tức như. Nhất thừa y cứ thì là Nhất thừa. Nếu y cứ Biệt giáo thì là vô lượng. Các thứ khác có nói rõ trong chương khác. Ba nghiệp hạnh trù lâm: Trù lâm có năm nghóa: Một là có pháp Niết-bàn thì gọi là chủng tánh trở lên, không có pháp Niết-bàn là trong vị xiển-đề; hai là hạnh thiện hạnh ác; ba là ác đạo thiện; bốn là ngoại đạo Thanh văn; năm là Bồ-tát sai biệt, tức là Bồ-tát giả danh. Trong văn nói tám tà, tức là tà kiến, tà giác, tà phương tiện, tà niệm, tà định, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng. Khởi bất đắc phương gọi là Tà. Tám chánh trái ngược với tám tà, tức là các pháp như tám chánh ba nhóm v.v… Nếu Tiểu thừa giáo thì nghóa tức thật, Sơ giáo thì tức không, Chung giáo thì tức như, nếu Nhất thừa y cứ thì tức nhập vào Nhất thừa. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Thành tựu, Thành tựu cũng gọi là đắc tức là đối với pháp thiện, bất thiện, vô ký, là chỗ hiển y hoặc thêm hoặc bớt hiển nghóa tự thể. Vì sao? Là do có tăng cho nên nói thành tựu thượng phẩm tín, v.v… do có bớt nên nói thành tựu hạ phẩm tín, v.v… giả lập mà được thành tựu, là hiển nghóa giả lập. Đắc nghóa đủ ba môn này nên nói là đắc. Như thế các thứ khác tùy chỗ kiến lập phải biết đắc và thành tựu khác nhau có ba, tức là hạt giống thành tựu, tự tại thành tựu, và hiện hành thành tựu. Hạt giống thành tựu tức là: Nếu sinh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc hệ phiền não, tùy phiền não, do hạt giống thành tựu nên thành tựu và sinh đắc thiện. Nếu sinh cõi Dục giới mà ba cõi phiền não tùy phiền não thành tựu là y cứ vị sinh dục dị sinh mà nói, nếu nói đã ly dục, hoặc sinh vào địa trên thì tùy địa lìa dục, tức địa này phiền não, tùy phiền não vừa thành tựu vừa chẳng thành tựu, vì chưa lìa hẳn hại tùy miên nên đối trị đạo giảm tổn như thứ lớp. Và sinh đắc thiện, tùy địa được sinh, tức địa này thành tựu. Nếu sinh cõi Sắc, Dục sắc hệ phiền não, Tùy phiền não, do hạt giống thành tựu nên thành tựu cũng gọi là chẳng thành tựu. Sắc, Vô sắc giới hệ phiền não Tùy phiền não do hạt giống thành tựu nên thành tựu và sinh đắc thiện. Nếu đã được đạo ba cõi đối trị, tùy phẩm loại như thế, như thế đối trị, đã sinh phẩm loại như đây như đây, hạt giống thành tựu được chẳng thành tựu, tùy phẩm loại như thế như thế đối trị chưa sinh như đây như đây. Phẩm loại do hạt giống thành tựu nên thành tựu. Đã được đạo ba cõi đối trị, nghóa là đã được Thánh đạo xuất thế tùy phẩm loại như thế như thế đối trị đã sinh, nghóa là tu đạo sở đoạn thượng phẩm các phiền não đối trị đã sinh như đây như đây. Phẩm loại hạt giống thành tựu được chẳng thành tựu, nghóa là đã lìa hẳn hại tùy miên. Tự tại thành tựu tức là các phương tiện pháp lành, hoặc thế hoặc xuất thế, Tịnh lự giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để, v.v… các công đức và pháp một phần vô ký, do tự tại thành tựu nên thành tựu phương tiện pháp lành, nghóa là nghe mà sinh tuệ, v.v… tuy trước có hạt giống, nếu lìa đời này số tập khí tăng trưởng chẳng bao giờ khởi hiện tiền pháp một phần vô ký, nghóa là chỗ tâm khéo léo biến hóa hiện hành thành tựu, nghóa là các uẩn, giới, xứ pháp tùy chỗ hiện tiền, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Nó do hiện hành thành tựu nên thành tựu. Nếu đã đoạn gốc lành, tất cả pháp lành đều do hạt giống thành tựu nên thành tựu cũng gọi là chẳng thành tựu. Nếu chẳng phải pháp Niết- bàn Nhất-xiển-để-ca rốt ráo thành tựu các pháp tạp nhiễm, do thiếu nhân giải thoát, cũng gọi là A-diên-để-ca, vì giải thoát đó được nhân rốt ráo chẳng thành tựu. Hỏi: Những gì gọi là giải thoát được nhân? Đáp: Nếu ở chân như trước vì tập khởi thô trọng phiền não, nếu gặp thuận theo được duyên đối trị thì sẽ hại mãi, tánh kham nhận này gọi là giải thoát được nhân. Nếu trái với tướng này thì gọi là không giải thoát nhân (nhân không giải thoát). Hỏi: Nếu thành tựu thì khéo được thắng lợi gì? Đáp: Hay biết rõ các pháp thêm bớt, biết thêm bớt nên hưng suy ở đời lìa tưởng quyết định, cho đến dứt được hoặc ái hoặc nhuế. Đây thành tựu ở ngu pháp Thanh văn, việc ấy chẳng tương ưng. Nếu ở Sơ giáo, thì lý ấy chẳng tương ưng. Nếu ở Chung giáo do đồng như cũ tức chẳng thể nói. Vì sao? Vì nói thì thêm phân biệt. Nếu y theo Biệt giáo thì đủ nói chẳng nói trước. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Hai mươi loại Pháp sư: Việc hay làm của pháp sư là gì? Đó là: 1/ Thời, 2/ Chánh ý, 3/ Nhanh (đốn), 4/ Tiếp nối, 5/ Tiệm, 6/ Thứ, 7/ Cú nghóa tiệm thứ, 8/ Chỉ bày, 9/ Mừng, 1 0/ Khuyên, 11/ Đầy đủ, 12/ Chẳng chê bai, 13/ Bất loạn, 14/ Đúng pháp, 15/ Theo chúng, 16/ Từ tâm, 17/ Tâm an ổn, 18/ Tâm thương xót, 19/ Chẳng ham lợi dưỡng danh vọng, 2 0/ Chẳng tự khen chê người khác. Thời là lìa nạn tám thời. Địa Luận có bài kệ rằng: Như vua có nỗi lo Bệnh sân mê các dục Chỗ hiểm không người hầu Dua nịnh không trung thần. Như thế trong tám thời, Quan Trí chẳng nên nói. Tâm vua cũng như thế Phi thời chẳng nên nói. Khẩu nghiệp của Pháp sư có hai thứ nên chia hai đoạn: Đoạn kinh trước Pháp sư nói pháp là nói nghóa Pháp sư sâu thâm, đoạn kinh sau Pháp sư nói pháp phải giải thích tướng. Nghóa này thuận theo ba thừa Nhất thừa mới rốt ráo. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Bốn mươi biện tài vô ngại: Biện tài Vô ngại, tức là bốn mươi vô ngại biện y theo mười pháp, mười pháp có bốn nên thành bốn mươi. Sở dó nói mười là muốn hiển bày vô lượng, như kinh đã nói rộng. ĐỊA THỨ MƯỜI - THỌ CHỨC: Nghóa thọ chức nói lược có ba: Một là sự thọ chức như vua Chuyển luân có đủ pháp thọ chức; hai là lý thọ chức, như người Ba thừa khế hợp được lý báu gọi là thọ chức; ba là lý sự thọ chức, như được vị Bồ-tát ngồi trên Đại bảo Liên Hoa Vương, chư Phật mười phương phát ra ánh sáng quán đảnh, trong ứng pháp giới gọi là thọ chức, rộng như hỏi đáp và văn kinh. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. - Ao A-nậu-đạt: Kinh nói ao A-nậu-đạt chảy ra bốn sông đến biển lớn. Kinh Niết-bàn lại chép: Có tám sông. A-hàm Bà-sa nói: Có hai mươi sông. Ao A-nậu-đạt có bốn thứ khẩu, Đông có cửa kim tương chảy ra sông Hằng, Tây có cửa Ngân Ngưu chảy ra sông Tân Đầu, Nam có cửa Lưu Ly Mã chảy ra sông Tất-đà, Bắc có cửa Pha-Lê-Sư-tử chảy ra sông Bác-xoa. Bốn cửa đều chảy ra ngoài bốn mươi dặm mà chia làm năm sông cho nên thành hai mươi. Phật ở phía Đông, phần nhiều nghe tên nên nói mặt Đông có năm sông, cùng ba mặt kia đều có sông lớn nên có tám sông. Kinh Thập Trụ nói: Ao A-nậu-đạt chảy ra bốn sông lớn, từ bốn cửa chảy quanh ao bảy vòng, sau mới theo phương mà ra biển, nó bao quanh sông đều cách một dặm. Ở trong có các hoa màu sắc lạ rất đẹp. Đều là cảnh giới của Long vương A-nậu-đạt-đa. Nay Phật dẫn để dụ cho địa, vì dụ thắng nên hiển bày pháp cũng thắng. Các nghóa khác có thể biết.  HOA NGHIÊM KINH NỘI CHƯƠNG MÔN ĐẲNG TẠP KHỔNG MỤC <卷>QUYỂN 4 MỤC LỤC Phẩm Mười minh, Mười minh, Diệt tận định. Phẩm Mười nhẫn, Mười nhẫn, A-tăng-kỳ phẩm, Thời kiếp. Phẩm Thọ mạng, thọ mạng sai biệt, Vãng sinh. Phẩm Bồ-tát trụ xứ: Trụ xứ, phẩm Bất tư nghị pháp, Hiển quả đức tự tại. Giải thoát: phẩm Như Lai tướng hải, tướng hải. Phẩm Tiểu tướng quang minh công đức: Tiểu tướng dụng. Phẩm Phổ Hiền Hạnh: Phổ Hiền, phẩm Tánh khởi, nói tánh khởi. thừa. Quên mất là chẳng phải luận, nói về Niết-bàn. Kiến văn cúng dường phước phần. Hội thứ bảy, phẩm Ly thế gian nói về trí, pháp Bất cộng. Sáu niệm, Chín định thứ đệ, Tám người, hai hạnh Kiến pháp. Bích-chi-phật, Bồ-tát, năm thứ sinh. Hội thứ tám: phẩm Nhập pháp giới: Hồi tâm. Thánh hiền thiện tri thức, bốn thân cận. Giải thích ý văn bốn mươi lăm tri thức, Dung hội nghóa Nhất Hiển nghóa thêm bớt của Hoa Nghiêm Kinh Bộ phẩm. Giải thích hai kinh Anh Lạc và Bổn Nghiệp Phạm Võng để nói về nghóa Nhất thừa của kinh Hoa Nghiêm. Chứng phạm vị Dụng Giáo của Kinh Hoa Nghiêm. Nghóa Bổn Phạm Đồng khác, Âm Nghóa Bộ Kinh Hoa Nghiêm. Các môn trên tổng cộng có một trăm bốn mươi mốt thứ. ***** PHẨM MƯỜI MINH, NÓI VỀ MƯỜI MINH Mười minh, mười là số, là thấu suốt lý do, nói minh nghóa này thông với mười địa, tức đức của mười địa chẳng đồng với ba thừa và Tiểu thừa, nói rộng như trong phẩm Ly Thế Gian. - Định Diệt tận: Định Diệt tận có chia làm ba, tức là Nhất thừa, Ba thừa và Tiểu thừa. Nghóa Nhất thừa, tức thể thành dụng, giáo hóa chúng sinh thành các Phật sự. Như Tỳ-kheo Hải Tràng vào định diệt tận. Tức trên thân phát ra mây thân pháp giới mà làm lợi ích chúng sinh. Định diệt tận của Ba thừa là ở trên tự thân chẳng nói thành dụng, biến thành thân khác, y vào vật khác mà thành dụng lợi sinh, được gọi là Câu hành, y cứ tự thân Bồ-tát thì chẳng thể nói: Y cứ tâm cơ chúng sinh mới được nói, cùng với Bồ-tát làm (câu hành). Định Tiểu thừa thì không có tướng câu hành lợi tha, xuất định về sau mới thành biệt sự. Thể là Nhất thừa diệt định dùng pháp giới làm thể nhưng vẫn từ thắng duyên mà nói nghóa diệt ấy, gọi là Bất tương ưng. Bất tương ưng tức là đạo lý. Ba thừa định thể, tức là thật tánh chân như tùy thắng duyên ấy mà nói Bất tương ưng. Bất tương ưng tức là lý. Đạo lý Nhất thừa, một tức tất cả, tất cả tức một đủ Nhân-đà-la và vi tế. Đạo lý Ba thừa, chỉ là một vắng lặng, chẳng nói tướng nào khác, gọi là Bất tương ưng. Bất tương ưng là chẳng phân biệt tương ưng. Tiểu thừa, diệt định thì dùng bất tương ưng làm thể. Bất tương ưng, tức là sự pháp, là Bất tương ưng tu. Được vị khác nhau, là y cứ theo vị Tiểu thừa, mười hai người được, tức là diệt hoặc phi tướng. Có tám người được trừ cụ phược của phàm phu, La-hán, Bích-chi, Bồ- tát và Phật Đại thừa. Sơ giáo ba người được, tức là Bất định vị, định vị và Phật. Trong đây diệt định Đại Tiểu thừa, như trong Bất vị định mà được là định Tiểu thừa. Trước ở vị Tiểu thừa đã được diệt định. Trong vị Đại thừa trực tiến thì bốn người được. Bất định vị và định vị Bát địa và Phật địa. Hai vị đầu thì đồng với Tiểu thừa, do trước được mà sau lại hồi tâm. Nếu y cứ Thục giáo vị thì năm người được bất định vị là một, định vị là hai, Sơ địa trở lên đến Lục địa, Thất địa là ba, Bát địa trở lên là bốn, Phật địa là năm. Bất định vị đầu chung với Đại thừa sơ giáo và Tiểu thừa. Vì sao? Vì hai người này đều có hồi tâm vào Thục giáo. Nếu y cứ Đốn giáo thì chẳng thể nói, Viên giáo tức sáu vị được, được từ Sơ bất định vị và định vị cùng giải vị tâm thứ sáu Sơ địa trở lên, Bát địa trở lên và Phật địa. Nếu y vào Thục giáo, là Tiểu thừa hồi tâm. Nếu y cư riêng đức mười địa thì Lục địa được. Nếu y cứ vào Sơ giáo trực tiến hồi tâm thì đồng với Thất địa được. Nếu y cứ Thục giáo hồi tâm tức y Viên giáo riêng tướng vị mười địa thì Bát địa được, được định diệt tận của Nhất thừa. Vì sao? Vì Ba thừa diệt tận định trước đã được. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. PHẨM MƯỜI NHẪN: Mười nhẫn là: 1/ Tùy thuận âm thinh nhẫn; 2/ Thuận nhẫn; 3/ Vô sinh pháp nhẫn; 4/ Như huyễn nhẫn; 5/ Như viêm nhẫn; 6/ Như mộng nhẫn; 7/ Như hưởng nhẫn; 8/ Như điển nhẫn; 9/ Như hóa nhẫn; 10/ Như hư không nhẫn. Mười nhẫn này chung cho cả mười địa, sở dó nói mười là muốn hiển bày vô lượng. Giải thích rộng như trong chương khác. PHẨM A TĂNG KỲ, THỜI KIẾP Nói về thời gian A-tăng-kỳ Đại thừa Tiểu thừa nói khác nhau. Tiểu thừa thì dùng sáu mươi kiếp làm một đại kiếp A-tăng-kỳ, Tiểu thừa nói trải ba tăng-kỳ thì được thành Phật. Đại thừa nghóa từ Câu-lê trở đi thành một trăm câu gọi là một thọ, một thọ trở lên gọi là một A- tăng-kỳ, đây là số lớn, là số thứ nhất trong mười số. Ba thừa, Đại thừa, Phật chỉ mười phương hóa nghi trải qua ba đại kiếp này mà tu đạo thì được thành Phật. Nếu nghóa Đốn giáo thì tức chẳng thể nói. Nếu nghóa Nhất thừa thì tức vô tận kiếp. Vì sao? Vì y theo Nhất thừa thì tất cả chúng sinh đã thành Phật rồi, lại làm cho chúng sinh thành Phật. Cũng chẳng trụ ở học địa mà thành Chánh giác. Cứ y theo đây thì chẳng cục hạn thời phần, cho nên vô tận. Đây là nghóa hưng giáo giảo lượng đức mười địa mà sinh tin. Lại, pháp số này chung cho cả Mười địa đều được. Nghóa khác có nói rõ trong chương khác. PHẨM THỌ MẠNG, THỌ MẠNG KHÁC NHAU Thọ mạng, trải qua một thời gian gọi là Thọ (tuổi thọ). Mạng là mạng căn, lại Thọ tức là Mạng. Tiểu thừa lấy pháp phi sắc phi tâm làm thể, Đại thừa lấy pháp Bất tương ưng làm thể. Nhưng Đại thừa Sơ giáo Bất tương ưng không đồng với Tiểu thừa. Tiểu thừa bất tương ưng là thuộc về sự tụ. Đại thừa Sơ giáo Bất tương ưng là lý, chẳng phải sự, lại tức là không. Nếu y theo Chung giáo thì tức là sự. Nếu y theo Nhất thừa thì tất cả tự tại. Vì sao? Vì đó là pháp giới, nên dài ngắn tự tại, tùy cơ mà thấy có khác nhau chẳng đồng. Hỏi y vào văn kinh đem cõi nước Ta-bà mà đối lại với cõi nước A-di-đà thì nói về mạng có dài ngắn. Theo mạng căn ở cõi Tam thiên và mạng căn ở cõi Phật tùy có ngắn dài nhưng căn pháp chẳng khác. Nghóa nay là sao? Đáp: Theo nghóa Ba thừa. Tịnh độ chép: Mạng tức là báo mạng, tuy nhiễm tịnh khác nhau mà nghóa mạng chẳng khác, trừ các Phật, Bồ-tát biến hóa chẳng thuộc trường hợp này. Nếu nghóa Nhất thừa, giả sử thế giới tánh đồng trong mười cõi nước có bao nhiêu mạng căn, tuy phước phần có hơn nhưng mạng cũng chẳng khác, trừ cảnh giới Phật thì chẳng thể nói chẳng thể nói. Nếu y cứ tông phần thì phàm phu ước người mà nói về mạng, Thanh văn y cứ thật pháp mà nói về mạng. Nếu Bồ-tát Sơ giáo thì tức không mà nói về mạng. Nếu Bồ-tát Chung giáo thì tức như mà nói về mạng. Nếu Nhất thừa thì tức pháp giới tự tại mà nói về mạng. Nghóa này chung cho cả Mười địa. Nếu y cứ theo Biệt giáo thì tín vị chung tâm liền được. Nghóa khác có nói rõ trong chương khác. TRONG PHẨM THỌ MẠNG NÓI VỀ KHÁC NHAU Nghóa vãng sinh gồm có bảy môn: Một là nói ý vãng sinh, hai là nói tin cảnh vãng sinh, ba là nói nhân duyên vãng sinh, bốn là nói nghiệm sinh pháp vãng sinh, năm là nói nghiệp hạnh vãng sinh, sáu là nói nhân vị phần tể vãng sinh, bảy là nói nghiệp hạnh hồi chuyển vãng sinh khác nhau. 1/ Nói ý vãng sinh: Vì muốn đề phòng lui sụt là kẻ hạ Nho căn trong thế giới Ta-bà tạp ác, đối với duyên có nhiều lui sụt, Phật dẫn việc vãng sinh Tịnh độ duyên mạnh chỉ tiến mà không lùi, cho nên Phật chế ra vãng sinh. Vãng sinh có hai chỗ: Một là phương Tây, hai là sinh về chỗ ngài Di-lặc. Nếu muốn dứt phiền não thì dẫn sinh phương Tây, không dứt phiền não thì dẫn sinh trước Phật Di-lặc. Vì sao? Vì phương Tây là cõi lạ, cần phải hàng phục dứt trừ hoặc, còn Di-lặc là đồng cõi nên không cần dứt hoặc, nghiệp thành liền vãng sinh. 2/ Tin cảnh vãng sinh: nghóa là cõi nước Phật A-di-đà có Nhất thừa, ba thừa khác nhau. Nếu y theo Nhất thừa thì cõi Phật A-di-đà thuộc về thế giới hải. Vì sao? Vì dẫn gần cơ mới thành tín giáo cảnh chân thật, cõi nước Phật viên dung chẳng thể nói. Nếu y theo ba thừa thì Tịnh độ Tây phương là chỗ Thật báo, chung thành bốn cõi: Một là cõi pháp tánh, hai là sự Tịnh độ, ba là cõi Thật báo, bốn là cõi hóa Tịnh. Hóa là báo hóa chẳng phải báo thân hóa, ở trong đó có Phật và cõi nước Bồ-tát, quyến thuộc, v.v… như Nhiếp Luận mười bảy quán cảnh viên tịnh, suối ao hoa quả, các thừa hơn kém tạp loại khác nhau, đều đối với chúng sinh hữu tình ở Ta-bà có các thứ sắc tâm cảnh giới, y chánh đầy đủ đều dẫn tiếp khiến thành pháp môn sinh tín. Phật ở phương Tây thì dẫn như Phật ở phương này mà tâm thường quen thuộc, cây rừng ở phương Tây giống như cây rừng ở cõi này, Bồ-tát ở phương Tây cũng như bạn thiện tri thức ở cõi này, nước tám công đức ở phương Tây như nước ở cõi này. Như thế tất cả đều y theo để biết mà nương bốn thứ Tịnh độ mà tu hành. 3/ Nhân duyên vãng sinh, nghóa là được vãng sinh là do sáu nhân duyên thành bốn duyên: Một là Nhân duyên, hai là Đẳng vô gián duyên, cũng gọi là duyên Thứ đệ, ba là duyên Sở duyên, cũng gọi là duyên duyên, bốn là duyên Tăng thượng. Bổn thức nghiệp chủng làm nhân duyên, tâm cầu sinh làm duyên thứ đệ, Tịnh độ các cảnh làm duyên duyên, các pháp chẳng ngại khác làm duyên Tăng thượng. Sáu nhân: Một là nhân Năng tác, cũng gọi là nhân Sở tác; hai là nhân câu hữu, cũng gọi là nhân Cộng hữu; ba là nhân tương ưng; bốn là nhân Đồng loại cũng gọi là nhân Tự phần; năm là Biến nhân cũng gọi là nhân Biến hạnh; sáu là nhân Dị thục quả, cũng gọi là Báo nhân. Sáu nhân sinh năm quả tương ưng cùng có hai nhân cảm quả tăng thượng nhân Tự phần, Biến nhân thì cảm y quả. Sở tác, tự phần tương ưng cùng có cảm quả giải thoát và quả só phu, cũng gọi là quả công dụng. Báo nhân thì cảm báo quả, vãng sinh Tịnh độ năm nhân cảm năm quả, trừ nhân biến hành. Sáu nhân bốn duyên này gọi là số thông ba thừa giáo. Ngu pháp Tiểu thừa thì không có Tịnh độ, nên chẳng lấy tên nhân duyên Tiểu thừa. Y Đại thừa Sơ giáo sáu nhân bốn duyên đều làm nhân sinh, dẫn hai nhân và mười nhân, hai mươi nhân, v.v… y cứ theo đó mà mà biết. Chung giáo chỉ có bốn duyên và cùng làm nhân. Đốn giáo chỉ cùng làm nhân. Viên giáo là tất cả nhân. Vì sao? Vì các giáo đều thành vãng sinh. Các nghóa y theo đây mà biết. 4/ Vãng sinh nghiệm sinh pháp. Lược có mười môn: Một là tác đạo tràng môn, tức sắp đặt đạo tràng, thờ tượng Phật A-di-đà, cờ phước đèn hương, tán hoa tắm gội, đốt hương lễ Phật hành đạo, niệm Phật A- di-đà một ngày đến bảy ngày nghiệm được vãng sinh; Hai là thực hành pháp hai mươi mốt ngày là y theo trước kiến lập đạo tràng, niệm Phật hành đạo sám hối lễ bái tụng kinh Đại thừa hai mươi mốt ngày mãn, nghiệm được vãng sinh; Ba là y theo mười sáu pháp quán và chín phẩm sinh y kinh được giới hạn, nghiệm được vãng sinh; Bốn là y theo pháp Vu-lan-bồn, y theo Trưởng giả Na-hàm khởi giáo tạo Vu-lan-bồn, y giáo tu thành, nghiệm được vãng sinh; Năm là y kinh vãng sinh, dựng lập phướn vàng, là bày tượng Phật lễ bái làm pháp quán đảnh hoặc chưa chết, hoặc đã chết, đúng như pháp thành tựu mà được nghiệm vãng sinh; Sáu là xem chỗ ấm khi chết, đầu ấm thì nghiệm được vãng sinh; Bảy là y kinh Di-lặc phát vấn mười niệm thành tựu hết một đời thì nghiệm người này chắc chắn được vãng sinh; Tám là nghiệm thân trung ấm cũng được vãng sinh, nếu thân trai, con gái tùy lúc biết cha mẹ ấy có hành tướng chẳng y nghiệm tướng trước thì phải làm pháp hai mươi mốt ngày khác mà niệm Phật hành đạo, sám hối diệt tội, dốc lòng triệt để thì nghiệm được trung ấm cha mẹ vãng sinh; Chín là y pháp quán đảnh, ngày mồng 8 tháng 4 làm lễ tắm Phật và tắm cây Bồ-đề, phước đến cha mẹ anh em chị em đều nghiệm vãng sinh; Mười là trọn cả một đời sáu thời lễ Phật sám hối tạ tội và đứng tới lui đều tham từ lễ bái tạ lỗi tôn nghi không xen hở thì nghiệm được vãng sinh. 5/ Hạnh nghiệp vãng sinh: bất luận nội môn ngoại môn hữu lưu vô lưu đều là nghiệp hạnh vãng sinh, bất luận là hiện đời, quá khứ vị lai nhiều đời tất cả phước tuệ và tất cả các hạnh nghiệp năm thừa đều hồi hướng làm nghiệp hạnh như thế y theo mà biết. 6/ Người vãng sinh giới hạn rộng lớn, đã có giải thích ở trước, trong tín vị thành mười pháp lành. Chánh tu hành thì giáo gia gọi đó là vị. Vì sao? Vì trong vị này đề phòng lui sụt và thối diệt cùng phế thối. Mười giải trên không có ba thối giáo tức chẳng làm. Đây là nói theo Chung giáo. Nếu theo Sơ giáo thì Mười Hồi Hướng trở lại là chỗ làm đó. Vì sao? Vì Mười Hồi hướng trở đi được bất thối, nếu theo Đốn giáo và Viên giáo ở Tín vị chung tâm tự phần trở lại là chỗ vị ấy làm. Đốn giáo và Viên giáo tuy không có tướng nhanh chậm khác nhau nhưng nói theo Chung giáo thì thấy nghe thành nhiều ít nhưng lý vẫn chẳng đồng, phải y cứ theo mà biết. Đây y văn chín phẩm sinh của quán kinh theo đó liền biết. 7/ Vãng sinh nghiệp hạnh hồi chuyển khác nhau. Nghiệp vãng sinh ấy nếu trời người ở cõi này có các gốc lành. Hoặc chánh gốc lành ở ba thừa, hoặc chánh thiện căn cầu sinh Tịnh độ ở mười phương, mà hồi hướng sinh phương Tây thì đều thành nhân trợ hạnh. Nếu nói về chánh sinh thì nhân ấy liền chọn nhân khổ tập ba cõi trí vô phân biệt làm nhân chánh hạnh phát nguyện cầu sinh tâm thắng phương tiện. Khi qua đời muốn sinh làm duyên thứ đệ, tức là chánh thắng dục. Khi qua đời hạnh và giải của thiện tri thức làm thân tăng thượng gốc lành đời trước. Phần lớn y theo kinh mà thành nhiều gốc lành, y cứ một đời trong hiện đời làm nối tiếp các thứ gốc lành nhiều ít thì làm chánh nhân, chẳng phải là ý biệt thời, từ đây trở đi là ý biệt thời, khiến sinh phương Tây, cho đến được bất thối, tuy có trước sau nhưng vẫn lấy bất thối làm đại tông, từ đây trở đi càng thêm hơn, thì sẽ sinh vô biên cõi Phật, cho đến cõi Phổ Hiền, lại vào biển Thế Giới Liên Hoa Tạng ấy mà thành dụng khởi hóa. Đây là y cứ rốt ráo vào nhà mà nói. Nếu y theo Quán kinh Thượng Phẩm Thượng Sinh, nghe pháp mầu rồi liền ngộ Pháp nhẫn Vô sinh, trong phúc chốc kính thờ chư Phật khắp các cõi mười phương, ở trước chư Phật thứ lớp được thọ ký rồi trở về nước mình mà được vô lượng trăm ngàn môn Đà-la-ni. Đây là nói theo từ đầu đến cuối. Lại y theo luận Vãng Sinh thì có hai pháp tiệm thứ giúp nhau là một là nhân, hai là quả: Nhân thì có năm môn rốt ráo được sinh cõi nước An Dưỡng, gặp Phật A-di-đà: Một là môn Lễ bái, hai là môn Tán thán, ba là môn Tác nguyện, bốn là môn Quán sát, năm là môn Hồi hướng. 1- Môn Lễ bái là thân nghiệp lễ Phật A-di-đà Như Lai Ứng Chánh Biến tri làm ý sinh nước ấy. 2- Môn Tán thán là khẩu nghiệp khen ngợi tên Như Lai ấy đúng như trí tướng sáng suốt của Như Lai ấy, như danh nghóa ấy mà muốn như thật tu hành tương ưng. 3- Môn Tác nguyện: Tâm thường thực hành phát nguyện, tâm chuyên nghó rốt ráo sẽ được vãng sinh cõi nước An Lạc, mà muốn như thật tu hành Xa-ma-tha. 4- Môn Quán sát là trí tuệ quán sát chánh niệm quán nó, muốn như thật tu hành Tỳ-bát-xá-na rộng như luận nói. 5- Hồi hướng môn nghóa là hồi hướng ba chỗ. Quả, cũng có năm môn, lần lượt thành tựu năm thứ công đức: Một là môn Cận, hai là môn Đại chúng, ba là môn Trạch, bốn là môn Ốc, năm là môn Viên du hí địa. Bốn môn đầu thành tựu công đức, môn thứ năm thì thành tựu xuất công đức. Nhập môn thứ nhất là lấy việc lễ bái Phật A-di-đà cầu sinh nước ấy mà được sinh về thế giới An lạc. Nhập môn thứ hai là dùng khen ngợi Phật A-di-đà thuận theo danh nghóa, khen ngợi tên Như Lai, y tướng tâm sáng suốt của Như Lai mà tu hành, nên được vào số chúng của đại hội. Nhập môn thứ ba, lấy nhất tâm chuyên niệm làm nguyện sinh, tu hạnh Xa-ma-tha vắng lặng Tam-muội, mà được vào Thế giới Liên Hoa Tạng. Nhập môn thứ tư, dùng chuyên niệm quán sát diệu trang nghiêm ấy mà tu Tỳ-bát-xá-na, được đến chỗ thọ mạng vui ưa pháp vị. Ra môn thứ tư, dùng đại từ bi mà quán sát tất cả chúng sinh khổ não, thị hiện thân ứng hóa trở vào vườn rừng sinh tử phiền não, du hí thần thông đến địa giáo hóa dùng bổn nguyện lực hồi hướng. Bồ-tát tu năm môn như thế, tự lợi lợi tha, mau được thành tựu A-nậu-đa-la-Tam-miệu- Tam-bồ-đề. PHẨM BỒ TÁT TRỤ XỨ, NÓI VỀ TRỤ XỨ Trụ xứ của Bồ-tát y theo năm giáo, năm nghóa khác nhau. Nếu y cứ phàm phu ngã sở trụ xứ. Vì sao? Vì Phật, Bồ-tát ở trong chỗ phàm phu mà thị hiện chẳng khác phàm phu. Nếu Thanh Văn trụ xứ thì chỉ có cảnh pháp ngã mà không có nhân. Nếu Bồ-tát trụ xứ thì sơ giáo tức không, Chung giáo tức như vì không thể phân biệt. Nếu y vào Đốn giáo thì tất cả chẳng thể nói vì lìa phân biệt. Nếu Nhất thừa trụ xứ thì tùy phương tự tại, chẳng hai chẳng khác như pháp giới ấy. Nay Bồ-tát trụ xứ tức là Nhất thừa Phổ Hiền trụ xứ, nay dùng tướng thô mà hiện bày phép tắc. Nghóa này chung cả Mười địa. Vì sao? Vì dùng trụ xứ ấy mà khen ngợi Phổ Hiền vô ngại tự tại. Nghóa khác có nói rõ trong chương khác. PHẨM PHÁP BẤT TƯ NGHỊ NÓI HIỂN QUẢ ĐỨC TỰ TẠI Quả đức tự tại, lược nói có ba thứ: Một là Tiểu thừa Phật quả đức, hai là Tam thừa Phật quả đức, ba là Nhất thừa Phật quả đức. 1/ Tiểu thừa Phật quả đức: như trong nghóa Bất cộng sau có một trăm bốn mươi Bất cộng, tức là đức ấy. 2/ Ba thừa quả đức như Nhiếp Luận đã giải thích có hai mươi mốt thứ công đức tương ưng. Luận ấy lược nêu mười đức Pháp thân: Một là tướng, hai là chứng đắc, ba là tự tại, bốn là y chỉ, năm là nhiếp trì, sáu là sai biệt, bảy là đức, tám là sâu xa, chín là niệm Phật, mười là nghiệp hiển nghóa pháp thân. Như luận ấy giải thích rộng. Nay lại nêu công đức thứ bảy có hai mươi mốt câu: Một là tương ưng với bốn vô lượng rất thanh tịnh; Hai là tám giải thoát, cũng gọi là Bối xả giải thoát tức là: 1- Trong có sắc ngoài quán sắc, 2- Trong không sắc ngoài quán sắc, 3- Tịnh thân chứng giải thoát xứ, 4- Không xứ, 5- Thức xứ, 6- Vô sở hữu xứ, 7- Phi tưởng phi phi tưởng xứ, 8-Tưởng thọ diệt thân chứng vị. Ba bối đầu gọi là Phiền não giải thoát, bốn bối kế gọi là Hạ địa. Một bối sau gọi là Hữu duyên tâm giải thoát. Lại, tám giải thoát này giải thích khác với ý kinh Tiểu thừa; Đại thừa nói: “Quán sắc biết không, không ngại thành sắc” là ý văn này. Giải thoát đầu là bỏ nhiễm tướng sắc, thứ hai là bỏ sắc tâm, thứ ba là thành sắc vô ngại, thứ bốn là bỏ không tâm, thứ năm là bỏ chấp thức tưởng, thứ sáu là bỏ thiểu thức tưởng, bỏ chẳng tự tại. Sở dó biết được là như kinh Pháp Tập Như Lai Công đức, trước nêu tên, sau thứ lớp giải thích rằng: Này người thiện nam, thế nào là có sắc thấy sắc? Có sắc đều là nhân duyên mà sinh không, không có thọ giả. Hay như thế mà thấy biết bỏ phược thì gọi là giải thoát. Thế nào là tín giải thoát tịnh? Nếu phân biệt tướng tịnh và bất tịnh thì gọi là tà kiến, vì tín tịnh nên được thoát bỏ phược mà gọi là giải thoát. Qua tất cả sắc tướng, diệt tất cả đối tướng, chẳng nghó tất cả tướng dị diệt, biết vô biên hư không, tức vào vô biên hư không, hạnh vô lượng hư không, như thế biết được thoát bỏ phược, gọi là giải thoát. Qua tất cả hư không biết vô biên thức, tức vào vô biên thức hạnh. Thức Vô biên này tức là không. Hay biết như thế thì được thoát bỏ phược gọi là giải thoát. Quá vô biên thức biết sám hối thiểu (không có chút nào) tức vào hạnh vô sở hữu, tức gọi là phiền não tham sân si. Vào hạnh vô sở hữu là diệt phiền não ấy, hay biết như thế thì thoát bỏ phược, gọi là giải thoát. Qua vô sở hữu mà biết chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, an ổn liền vào hạnh phi tưởng phi vô tưởng. Chẳng phải có tưởng, là tánh không gia tinh. Chẳng phải vô tưởng là vì y theo nhân duyên mà có. Hay biết như thế thì thoát bỏ phược, gọi là giải thoát. Qua tất cả phi hữu tưởng phi vô tưởng, diệt tất cả thọ tưởng, vào hạnh diệt tận định, Bồ-tát ấy thấy biết như thế, Tưởng như hơi nóng mặt trời, Thọ như bọt nước, Tưởng tức thọ, thọ tức tưởng, vô trí giả, vô thọ giả hay biết như thế mà được thoát bỏ phược, gọi là giải thoát. Kinh Tát-già-ni- càn Tử nói Đức Như Lai, giải thích thứ đệ định tám giải thoát, đồng với kinh Pháp Tập, các thứ khác có nói rõ trong chương khác. Ba là nhân tám chế, cũng gọi là thắng xứ, là tâm năng chế cảnh, khiến cảnh theo tâm, nên gọi là chế nhập: Một là trong có sắc tưởng ngoài quán sắc có ít sắc tốt sắc xấu; Hai là trong có sắc tưởng ngoài quán sắc có nhiều sắc tốt sắc xấu; Ba là trong không có sắc tưởng ngoài quán sắc có ít sắc tốt sắc xấu; Bốn là trong không sắc tưởng ngoại quán sắc có nhiều sắc tốt sắc xấu; Năm là trong không có sắc tưởng, ngoài quán xanh xanh sắc xanh quán ánh sáng xanh; Sáu là trong không sắc tưởng ngoài quán vàng vàng, sắc vàng, quán ánh sáng vàng; bảy trong không sắc tưởng ngoài quán đỏ đỏ sắc đỏ quán ánh sáng đỏ; tám trong không sắc tưởng ngoài quán trắng trắng sắc trắng quán ánh sáng trắng. Hơn nữa, ở cảnh giới hơn ở phiền não nên gọi là Thắng xứ. Bốn là mười Nhất thiết nhập tức là: xanh, vàng, đỏ, trắng, đất, nước, lửa, gió, không xứ, thức xứ. Quán các phương trên dưới, mười pháp như xanh v.v… không hai, vô lượng gọi là Nhất thiết nhập. Năm là Tam-ma-đề Vô Tránh; Sáu là Nguyện trí; Bảy là bốn vô ngại giải; Tám là sáu thông tuệ; Chín là ba mươi hai tướng đại nhân; Mười là tám mươi vẻ đẹp; Mười một là bốn thứ Nhất thiết tướng thanh tịnh, tức là thân thanh tịnh, cảnh giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh, trí thanh tịnh; Mười hai là mười lực; Mười ba là bốn vô úy; Mười bốn là bốn bất hộ tức là thân, miệng, ý, mạng; Mười sáu là nhổ trừ gốc tập khí; Mười bảy là không quên nhất pháp; Mười tám là đại bi; Mười chín là mười tám pháp bất cộng; Hai mươi là Nhất thiết tướng tối thắng trí; Hai mươi mốt là đẳng đẳng già đẳng. Sáu thanh tịnh: Một là hoặc chướng thanh tịnh, do diệt ba chướng như hoặc, v.v…, ba chướng là bì - nhục - tâm; hai là Nghiệp chướng thanh tịnh, do diệt hai mươi hai nghiệp chướng, hai mươi hai là nói đối lại hai mươi hai vô minh; ba là báo chướng thanh tịnh, do trừ bảy thứ sinh tử. Bảy thứ là ba cõi ba thứ phần đoạn và bốn thứ biến dịch; bốn là lợi ích thanh tịnh, do ở trong sinh tử và Niết-bàn không cách ngại; năm là tự tại thanh tịnh, là chẳng do công dụng đối với tất cả pháp như ý năng hiên; sáu là Vô Hý Luận thanh tịnh, là do qua nói năng mà giác quán suy nghó cảnh giới. Hai mươi công đức trước là chung cho cả Đại thừa, sáu công đức sau chỉ có ở Đại thừa. Các nghóa khác như luận đã giải thích. Các thượng công đức này là nghóa ba thừa, trong đó cũng có đồng khác. Như hai mươi câu đầu thì chung cả ngu pháp Tiểu thừa, sáu câu sau thì chỉ có ở Ba thừa. Lại hai mươi câu trước thì chung cho Tiểu thừa, mà chỉ chung cho Sơ giáo. Còn sáu câu sau thì thuộc chung giáo của Đại thừa. Như Nhiếp luận nói mười hai câu sâu xa, cũng có hai thuyết: Một là Chung giáo sâu xa, hai là Đốn giáo sâu xa. Nên y cứ theo hai mươi mốt câu mà phán định. Ba là công đức Nhất thừa, như phẩm Bất Tư Nghì nói: Phật có mười đức: Một là các cõi Phật chẳng thể nghó bàn, hai là các tịnh nguyện của Phật chẳng thể nghó bàn, ba là các chủng tánh Phật chẳng thể nghó bàn, bốn là chư Phật ra đời chẳng thể nghó bàn, năm là pháp thân chư Phật chẳng thể nghó bàn, sáu là âm thinh chư Phật chẳng thể nghó bàn, bảy là trí tuệ chư Phật chẳng thể nghó bàn, tám là thần lực tự tại của chư Phật chẳng thể nghó bàn, chín là vô ngại trụ của chư Phật chẳng thể nghó bàn, mười là các giải thoát của chư Phật chẳng thể nghó bàn. Như văn kinh ở dưới sẽ giải thích rộng. Nghóa chẳng đồng ba thừa và Tiểu thừa, nghóa Nhất thừa này dưới chung cả mười địa. Vì sao? Vì nhân quả Nhất thừa chẳng hai chẳng khác. Ba thừa và Tiểu thừa chỉ có quả chẳng chung cho nhân. Lại như Nhiếp Luận dịch vào đời Lương trong hai sâu xa có nói: Các hoặc đã hàng phục diệt trừ, như bị độc chú hại. Do đó hoặc đến hoặc biết Phật chứng Nhất thiết trí. Luận rằng: Các hoặc đã hàng phục diệt trừ như bị chú độc hại. Giải thích rằng: Một bài kệ dưới đây nói thứ mười một là diệt hoặc sâu xa. Các hoặc tức là kiến tu phiền não ở trong địa Bồ-tát trước đã diệt hết, các tâm phiền não kia tuy là chưa diệt, do bị trí niệm phục nên bỏ phế công dụng, thí như bị các độc chú hại không còn công năng. Tâm hoặc cũng thế. Do trí niệm giữ gìn nên chẳng còn sinh hai hoặc nhiễm ô. Luận chép: Do hoặc đến hoặc hết Phật chứng Nhất thiết trí. Giải thích rằng: Các Bồ-tát còn lưu lại tùy miên, hoặc làm trợ đạo phần, không giống như Tiểu thừa mau bát Niết-bàn. Do việc này nên tu đạo rốt ráo được Tập khí diệt hết và chứng viên trí. Lại như sâu xa thứ tư nói: Nếu chẳng lưu tùy miên dục này thì đồng với Niết-bàn Nhị thừa. Nếu chẳng trừ thượng tâm dục thì chẳng khác phàm phu. Hỏi: Mười hai sâu xa là quả đức pháp thân đã lìa các chướng, do đâu mà lưu hoặc để nói nghóa sâu. Đáp: Nay giới hạn của pháp thân đối với bờ sinh tử để nói pháp thân. Trong sinh tử là nghóa chẳng tự tại, trong pháp thân là nghóa tự tại, nên nói như thế. Lại như Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: Nói nghóa Ba thừa, luận rằng: Lại có kinh nói Phật pháp sâu xa, giải thích rằng: Dưới nói đạo và đạo quả, nên nói sâu xa. Luận rằng: Thế nào là sâu xa? Trong luận này tự rộng phân biệt tất cả Phật pháp thường trụ là tánh do pháp thân thường trụ, vậy giải thích rằng: Pháp thân các pháp thường trụ, tất cả Phật pháp đều y theo pháp thân, vì pháp thân là đầu. Pháp thân thường trụ là tánh của tất cả Phật pháp. Luận rằng: Tất cả Phật pháp đều dứt, vì tất cả chướng đều dứt hết. Giải thích rằng: Mỗi Phật pháp đều không có hoặc chướng và trí chướng, chướng dứt hết là tánh của tất cả Phật pháp, hiện tại phiền não diệt là dứt, phiền não vị lai chẳng sinh là hết, tức là tận trí vô sinh. Luận rằng: Tất cả Phật pháp sinh khởi là tánh, do hóa thân luôn sinh khởi. Giải thích rằng: Do từ bi bổn nguyện sinh khởi hóa thân tiếp nối vô tận. Vì hóa thân sinh khởi là tánh tất cả Phật pháp. Luận rằng: Tất cả Phật pháp năng được là tánh, năng được cùng đối trị chúng sinh tám mươi bốn ngàn phiền não. Giải thích rằng: Tất cả Phật dùng vô sở đắc làm tánh. Đây là chánh thuyết, do ba vô tánh chẳng thể nhất định nói có không. Tuy dùng vô đắc (không được) làm tánh nhưng cũng có thể được. Nếu lìa Phật pháp thì không thể phân biệt rõ chỗ đối trị hoặc, chẳng thể được an lập đạo năng đối trị. Luận rằng: Tất cả Phật pháp có dục làm tánh có dục chúng sinh thuộc về ái khiến thành tự thể. Tất cả Phật pháp có sân làm tánh, tất cả Phật pháp có si làm tánh, tất cả Phật pháp có pháp phàm phu làm tánh. Giải thích rằng, ở đây có hai nghóa: Một là Bồ-tát nhiếp tất cả chúng sinh có dục làm tự thể, tất cả Phật pháp đều y theo tự thể. Hai là đại bi làm ái, ái tức là dục. Bồ-tát dùng đại bi nhiếp tất cả chúng sinh, y vào đại bi mà sinh phước đức trí tuệ hạnh sân si và pháp phàm phu cũng thế. Luận rằng: Tất cả Phật vô nhiễm trước làm tánh mà thành tựu chân như, vì tất cả chướng chẳng thể nhiễm. Giải thích rằng: Đạo hậu chân như đoạn tất cả chướng hết, là vô cấu thanh tịnh nên gọi là thành tựu, tất cả chướng chẳng thể nhiễm tất cả Phật pháp, lấy chân thật này làm thể tánh. Luận chép: Tất cả Phật pháp chẳng thể nhiễm trước. Chư Phật xuất hiện ra đời, thế pháp không thể nhiễm được. Giải thích rằng: Trước nói cảnh chân như, đây nói trí chân như. Chư Phật, Bồ-tát lấy trí chân như làm thể tức là ứng thân. Thể này là Duy thức, là chân như hiển bày chẳng phải do căn trần phân biệt khởi lên, chẳng phải tám thứ thế pháp và thế pháp khởi các hoặc sân làm ô nhiễm được. Vì sao? Vì đó là đối trị tu được trí vô phân biệt thành tựu gọi là chư Phật hiện ra đời. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Giải thoát: giải thoát của Tiểu thừa là giải thoát các chướng, Ba thừa giải thoát là tác dụng tự tại, Nhất thừa giải thoát là vô tận tự tại. Nói về giải thoát có mười: Một là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi đều có thể hiện khắp không thể nói chư Phật ra đời; Hai là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi đều có thể hiện khắp không thể nói không thể nói pháp luân thanh tịnh của chư Phật; Ba là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi giáo hóa điều phục không thể nói không thể nói chúng sinh; Bốn là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi hiện khắp không thể nói không thể nói cõi Phật; Năm là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi thọ ký cho không thể nói không thể nói các Bồ-tát; Sáu là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi khắp hiện chư Phật ba đời ra đời; số bảy trùng với số bốn ở trên; Tám là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi hiện khắp năng lực tự tại của chư Phật ba đời; Chín là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi hiện khắp tất cả chúng sinh ba đời; Mười là tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi hiện khắp tất cả Phật sự ba đời của chư Phật. Sở dó nói mười vì muốn nói lên vô lượng. Đây là y cứ theo đã được hạnh Bồ-tát Phổ Hiền rồi thì liền tương ưng. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. PHẨM NHƯ LAI TƯỚNG HẢI, NÓI VỀ TƯỚNG HẢI Theo Tiểu thừa thì Phật có ba mươi hai tướng tốt đồng với người, tám mươi vẻ đẹp đồng với trời. Nếu nghóa Ba thừa về ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thì Sơ giáo không có, Chung giáo tức như. Hỏi: Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp y vào nghóa ba thừa thừa thì vốn thuộc về hóa thân. Vì sao Nhiếp Luận lại xếp vào Công đức pháp thân? Đáp: Muốn biết nguyên do trước phải biết ý Phật lập giáo. Nếu người Tiểu thừa thì chỉ lập hai Phật: Một là Phật sinh thân (thân sống hiện tại); Hai là Phật hóa thân. Nếu theo Tiểu thừa thì ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là thuộc sinh thân. Phật ở trong trời, người cũng đồng là báo thân, chỉ có ngã và vô ngã là khác. Nếu theo ba thừa thì hoặc một Phật, tức là Phật Đốn giáo, chỉ một thật tánh không phân biệt tức là Phật. Hoặc lập hai Phật là Tự tánh pháp thân Phật và Ứng hóa pháp thân Phật. Nghóa này ở Chung giáo. Vì sao? Vì đều là pháp thân. Y kinh Phạm Võng thì chỉ xếp vào hai Phật Lô-xá-na báo thân và hóa thân, chẳng xếp vào thân pháp tánh. Hoặc nói có ba Phật: Một là Phật pháp thân, hai là Phật báo thân, ba là Phật hóa thân, một nghóa này phải ở Hồi tâm giáo. Vì sao? Do người Tiểu thừa chẳng lập pháp thân, đó là theo Nhiếp Luận. Lại pháp thân hai thứ hai mươi mốt câu công đức hoặc thuộc về ứng thân, hoặc thuộc về pháp thân. Hoặc có bốn Phật, tức là tự tánh thân, pháp thân, ứng thân, hóa thân. Nghóa này chỉ ở trực tiến giáo. Vì sao? Vì muốn hiển pháp thân là đức sai khác. Thân Tự tánh là chung một thể. Nếu y cứ nghóa này thì ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp chỗ thuộc về khác nhau. Nếu xét theo hai thân thì có đủ pháp thân. Nếu xét theo ba thân thì thuộc về hóa thân. Nếu xét theo bốn thân thì thuộc về pháp thân và hóa thân. Nếu thuộc pháp thân thì ba mươi hai tướng tốt là nghóa đức ấy. Nếu thuộc hóa thân thì ba mươi hai tướng là nghóa tướng ấy. Sở dó biết được vì trong Nhiếp Luận nói ba thân ấy hoặc bổn hữu và tu sinh là pháp thân. Chỉ hiện Tịnh độ thọ pháp lạc là ứng thân, tám tướng thành đạo là hóa thân. Hoặc đem bổn hữu làm pháp thân, hay lấy tu sinh làm ứng thân. Y theo ứng mà khởi hóa ấy là hóa thân mà có sự khác nhau này. Nay nghóa nói chẳng nhất định, phải suy nghó mà y cứ. Lại tùy theo tăng số Phật: 1) Số Phật tức là Như Lai tạng Phật; 2) Số Phật: Một là tự tánh pháp thân, ứng hóa pháp thân. Hai là ứng thân, hóa thân; 3) Số Phật, tức là pháp thân, ứng thân, hóa thân. Pháp thân có ba: Là bổn hữu pháp thân, tu hậu chuyển y pháp thân và hóa dụng tùy duyên pháp thân. Ứng thân có ba tức là: 1/ Tu đắc ứng lý ứng thân, 2/ Tịnh độ ứng pháp lạc duyên ứng thân, 3/ Tùy duyên hóa dụng ứng thân. Hóa thân có ba tức là: 1/ Thân pháp thân thắng dức lưu hóa, 2/ Thân ứng thân khởi hóa dẫn vật, 3/ Thân ma ma hóa dẫn ha; 4) Số Phật tức là thân tự tánh v. v… bốn Phật đều lìa bốn lỗi mà thành bốn đức tự tánh thân có ước đức thể. Thân tự tánh không có đức lìa tướng, vừa có vừa không đức tùy duyên, chẳng phải có chẳng phải không đức lìa lỗi. Các thân khác cũng y cứ theo đó. Nay đây Hoa Nghiêm có phẩm Bất tư nghị pháp, phẩm Tướng hải, phẩm Tiểu tướng, có người nói thuộc ba thân lượng e là không đúng. Kinh này không nói ba thân, chỉ có hai thứ mười thân như trước sau nói. Nay ba phẩm này, phẩm đầu là thể, Tướng hải là tướng, Tiểu tướng là dụng. Tướng nghóa này y vào hiện văn có chín mươi ba tướng. Văn sau sẽ nói rộng. Có mười Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm thế giới Hải vi trần Số tướng v.v… Nếu y cứ văn này, thì Ba thừa và Tiểu thừa không có việc này, chỉ có ở Nhất thừa. Phải biết giáo chia ra ba thừa, Tiểu thừa cho đến Nhất thừa đều khác nhau. Nếu chương nói thì rất khó hiểu. Các nghóa khác như chương khác. PHẨM TIỂU TƯỚNG QUANG MINH CÔNG ĐỨC, TIỂU TƯỚNG DỤNG Dụng của Tiểu tướng là đại ý văn nói Tiểu tướng Nhất thừa có dụng rất lớn, vì đức của Tiểu tướng Nhất thừa là một tức tất cả, xứng với pháp giới. Do nghóa này mà Tiểu tướng công đức trong một thời gian liền khiến vô lượng chúng sinh từ ba đường ác thoát ra mà sinh lên cõi trời, cảm tiếng nói giữa hư không thọ ký cho, ở một thân này liền dứt tám mươi bốn ngàn phiền não, tự phần thắng tấn đều đầy đủ, gồm cả mình người đều chứng Mười địa Tam-muội Ly Cấu, chỉ trừ thọ thức một thời đã như thế thì các thời khác cũng vậy. Lúc đó thì Nhân-đà-la vi tế tự tại độ sinh cũng như đây mà có lợi lớn. Nếu Tiểu tướng ấy tướng hình biện thắng thì phải biết đại tướng chẳng thể nói chẳng thể nói. Ý văn phẩm này giữ nguyên đại dụng, chẳng muốn nói tiểu tướng riêng tốt, nên biết như thế. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH, NÓI VỀ PHỔ HIỀN Phổ Hiền có hai phần: Một là Tam thừa Phổ Hiền, hai là Nhất thừa Phổ Hiền. 1- Tam thừa Phổ Hiền có ba: 1/ Người, 2/ Giải, 3/ Hạnh. 1/ Người như kinh Pháp Hoa thì cỡi voi hiện trước người tu, ấy là người; 2/ Giải như kinh Pháp Hoa nói bỏ ba về một, tức là thú hướng Nhất thừa chánh giải (hiểu rõ chỉ có một thừa); 3/ Hạnh như kinh Pháp Hoa nói phẩm Phổ Hiền là nói hạnh của Phổ Hiền. 2- Nhất thừa Phổ Hiền, cũng có ba: 1/ Người tức là bốn mươi lăm tri thức Phổ Hiền; 2/ Giải tức là phẩm Phổ Hiền nói sáu mươi hạnh đều cùng khắp, lần lượt càng sâu, và các việc Nhân-đà-la vi tế; 3/ Hạnh tức mười tâm Phổ Hiền trong phẩm ly thế gian, mười hạnh nguyện Phổ Hiền như văn có thể biết. Nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Luận quên đúng sai (của Thiền sư Đàm Thiên): Những việc đúng sai thì mình tốt mà người xấu, tất cả đều thế, cả đời phân vân không biết thế nào là đúng. Đây do chưa thấu suốt nạn đúng sai, nói nó là nạn vì có mười thứ không thể được: Một là thị phi không phải là chủ vô địch, hai là tự tánh bất định, ba là kia đây đều có, bốn là lại dùng sinh nhân, năm là đều không bằng nhau, sáu là ẩn hiển có không, bảy là tánh tự trái nhau, tám là chấp theo tình riêng, chín là đúng sai sai khác nhau, mười là không đúng không sai. Nói chủ vô địch: Đây nói ta phải, kia nói ta phải kia đây tranh nhau, bèn khiến phải trái không nhất định. Kia bảo đây quấy, đây bảo kia quấy, kia đây tranh nhau liền khiến quấy đúng không dính đến. Kẻ mê thì lấy phải về mình mà quấy về người khác. Đây có lý nào như thế, theo lý thì chẳng đúng, chỉ gượng ép mà thôi. Đều là bại hoại, có ai biết thế. Tự tánh bất định tánh, phải là phải đối với phải, hoặc phải đối với quấy, tánh quấy là quấy ở quấy, hoặc quấy đối với phải. Nhưng kẻ ngu chỉ ngoan cố một lời phải là phải, chẳng chịu phải quấy, cũng bảo quấy là quấy bất luận phải quấy. Tự bảo có lý mà chẳng sợ lỗi. Nói chung, nếu lấy phải là phải đối với phải thì liền có lỗi hai phải: Một là lỗi sở phải, hai là lỗi năng phải sở phải như phải phải đã là phải thì đầu cần dùng phải. Sở phải như quấy. Phải nên nói là quấy phải, vì sao nói là phải phải. Lỗi năng phải, đối với sở mà nói năng. Sở phải đã chẳng lập thì năng phải cũng chẳng thành năng sở đều chẳng thành thì chỗ nào mà có phải. Nếu lại quấy đối với quấy thì lỗi ấy cũng thế. Lệ phải mà ngộ chớ nên phân biệt, lý tận cùng ở đây, vì là chẳng thật có. Ta người đều có, đây là phải mà kia quấy, đây quấy mà kia phải, đây và kia đều có một phải một quấy. Kẻ mê tự bảo có phải mà chẳng có quấy, bảo kia là quấy mà chẳng có phải. Đâu có lý nào mà phải như thế. Lại cùng sinh nhân, quấy nhân mình phải mà tâm sinh, phải do người quấy mà tâm khởi. Vì từ mình phải tâm sinh, nên đây tức mình phải thì chẳng phải người quấy quấy. Phải từ người quấy tâm sinh nên đây bèn quấy, người còn phải thì chẳng phải ta phải. Song kẻ mê riêng muốn mình phải, mà nói quấy cho người, không có lý này nên không thật có. Cùng bất tương cập (chẳng bằng nhau) phàm phải mình phải mà quấy người, là muốn nhìn quấy đến kia. Nhưng kia cũng tự bảo mình phải. Vì cũng tự bảo là phải liền nghiệm quấy chẳng đến kia. Quấy người phải mình là cũng mong phải đến đây. Nhưng cũng là quấy ở kia, quấy kia nên liền nói phải chẳng đến đây mà nói mình phải, quấy chẳng đến kia lại bảo người khác quấy, lý cùng ở đây nên chẳng đúng. Ẩn hiển có không. Tình vật mê lầm đều đồng với mình phải, mọi người đều quấy. Mọi người đều quấy cho nên cả đời không phải. Ta sẽ nói vì sao riêng có phải, đồng với mình phải thì cả thiên hạ không quấy. Vì không quấy vì sao ta quấy? Nhưng kẻ mê bảo có phải có thể phải, có quấy có thể quấy, nghóa chẳng như thể, nên chẳng thật có. Tánh tự trái nhau. Phải thì tánh tự trái quấy quấy, thì tánh nó hại phải, vì ta riêng muốn lập phải định quấy. Phải đã lập rồi thì nhiều quấy chẳng phải một phải, phải nhiều thì chẳng phải quấy. Một phải làm sao có thể phải vì phải chẳng thể phải, thì quấy làm sao được quấy. Vì không chỗ quấy thì quấy tự quấy, tự quấy thì không quấy chẳng phải thì không phải. Kẻ mê muốn lấy phải định quấy, dùng quấy chẳng phải phải, chưa đúng thế. Chấp tình riêng: tình riêng đều chẳng thấy chỗ của người, chỉ thấy cái mình biết. Vì biết cái mình biết do đó cho là phải, chẳng thấy cái người thấy, nên bảo người chỉ là quấy. Nếu thấy được chỗ người thấy mà bảo là quấy hoặc cho như thế, đã chẳng thấy chỗ người thấy mà nói người quấy, thì sao người là quấy? Nếu lại tự biết chỗ mình biết mà cho mình phải, thì đó là cái phải riêng, nếu khiến người khác cũng bảo là phải thì đây là lỗi, không có việc ấy. Đúng sai khác nhau: Thế tục cho phải là phải, cho quấy là quấy. Đây là thô miễn cho phải là quấy, lấy quấy làm phải, là lỗi điên đảo. Nhưng vật ngoại đến chỗ cao chấp đúng sai là quấy, không dùng đúng sai là phải. Đây cũng khỏi một lỗi ở đúng sai. Cũng tự còn ở một phải, một quấy. Phải quấy tuy đồng nhưng lý thú có khác. Kẻ mê nghe phải thì bảo phàm Thánh đều phải, nghe quấy thì liền bảo hiền ngu đều quấy. Thật lý đến đây chưa đủ như thế. Không đúng không sai. Nếu lấy đúng sai làm quấy còn không đúng sai là phải, thì đó là ghét đúng sai hoặc chẳng trách khỏi bị lụy vì đúng sai. Mà muốn ghét thì lại bị lụy, nhưng trên đó đã giữ tâm cũng chưa khỏi bị lụy. Muốn chẳng lụy thì chớ vô tâm. Vì vô tâm thì còn cái gì là đúng sai, đúng sai đã mất rồi. Mình người theo đó mà mất. Mình người đều mất thì đắc thất (được mất) cũng không. Chẳng thế mà thế, chẳng được mà được. Như thế mà mặc tình đến với vô vi, tiêu dao ngoài lụy. Đây lại thuận tánh mà khởi, cho nên chép kèm theo đây. Nói về Niết-bàn: Niết-bàn có ba thứ: Một là Niết-bàn Tiểu thừa, tức là hữu dư và vô dư. Hữu dư là hữu dư thân trí, vô dư vô dư thân trí. Đồng số diệt vô vi làm thể; Hai là Niết-bàn Ba thừa, có năm thứ: Một là Niết-bàn Vô trụ xứ, hai là Niết-bàn Tự tánh, ba là Niết-bàn Phương tiện tịnh, bốn là Niết-bàn Hữu dư, năm là Niết-bàn Vô dư. Vô trụ xứ là trí bi dẫn nhau không có chấp mắc, nghóa này chung cho cả nhân, quả. Tánh tịnh, là vốn có, là vắng lặng. Phương tiện tịnh là nhờ duyên mà tu, Niết-bàn đồng giải thích như trước. Hữu dư là hữu dư ứng hóa chưa cùng tận. Vô dư là pháp thân vô dư thuận vắng lặng; Ba là Niết-bàn Nhất thừa. Như nghóa đã có trước. Nếu nói theo Biệt giáo thì có mười thứ Niết-bàn như phẩm Ly Thế Gian nói. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Phước phần thấy nghe cúng dường: Phước phần, đại khái có hai: Một là phước phần hiện tại là y cứ theo các dụng hiện tại đã nguy mà được vui, v. v… các dụng; Hai là y cứ theo vị lai thành diệt tội mà được quả trời, người thế gian và xuất thế gian. Như trong giáo tướng nói các thứ công đức: phướn đèn, tụng chú, kết đàn, ấn tướng, v.v… ý thành dụng hiện tại chẳng phải không có ích cho đời sau. Như kiến lập hạnh đàn, v.v… và thấy nghe Nhất thừa v.v… thành ích lợi cho đời sau, chẳng phải dụng hiện tại. Nếu theo trời người và Tiểu thừa, Ba thừa và Nhất thừa thì chỉ do hồi hướng chẳng đồng mà phước phần có khác. Cứ theo phước thể thì không hai không khác, thường xứng với bản tánh không có khác nhau. Nếu trời người tức tà chánh khác nhau. Nếu Thanh văn thì chỉ thành trợ mãn. Nếu Sơ giáo thì thể nó là không, nếu Chung giáo thì thể nó là như. Nếu các nghóa như trước được Nhất thừa y cứ thì liền thuộc về Nhất thừa. Nếu nói theo Biệt giáo thì kiến văn trở đi tức là Nhất thừa. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. HỘI THỨ BẢY, PHẨM LY THẾ GIAN NÓI VỀ TRÍ Trí, có ba thứ là Tiểu thừa, Ba thừa, và Nhất thừa. Trí: Chiếu soi gọi là Trí, xét đạt gọi là Tuệ. Tiểu thừa có mười trí tức là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, pháp trí, tỉ trí, đẳng trí, tha tâm trí, tận trí, vô sinh trí. Biết khổ gọi là khổ trí, cho đến biết đạo là đạo trí, biết pháp cõi dục gọi là pháp trí, biết pháp Sắc, Vô sắc gọi là tỉ trí. Biết tất cả pháp gọi là đẳng trí, tức là trí hữu lậu. Biết tâm tâm pháp người khác gọi là trí tha tâm, biết phiền não hết gọi là tận trí, biết phiền não chẳng sinh gọi là trí vô sinh và lưu loại có mười sáu tâm, tức là khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, khổ tỉ nhẫn, khổ tỉ trí, tập pháp nhẫn, tập pháp trí, tập tỉ nhẫn, tập tỉ trí, diệt pháp nhẫn, diệt pháp trí, diệt tỉ nhẫn, diệt tỉ trí, đạo pháp nhẫn, đạo pháp trí, đạo tỉ nhẫn, đạo tỉ trí. Tám nhẫn là vô ngại, tám trí là giải thoát. Trí gọi là quyết định, nhẫn và nghi được câu sinh, chẳng quyết định nên chẳng được gọi là trí, nên cùng tên là Tâm. Có mười sáu hành tướng tức là vô thường, khổ, không, vô ngã, hạnh, nhân tập hạnh hữu duyên, cũng gọi là nhân tướng, tập tướng, sinh tướng, duyên tướng. Diệt chỉ cho hạnh diệu xuất, cũng gọi là diệt tướng, tịnh tướng, diệu tướng, ly tướng. Đạo như tịch thừa hạnh cũng gọi là đạo tướng, như tướng, hạnh tướng, xuất tướng, là chỗ nương của hạnh nên gọi là Hạnh, cũng thành nghiệp nên gọi là Hạnh. Lại có bốn mươi bốn trí, tức khổ già, chết, tập, già chết, diệt, già chết đạo, già chết cho đến hành cũng như thế. Già chết có bốn trí làm tánh, tức là pháp trí, khổ trí, đẳng trí, cho đến già chết diệt đạo cũng dùng bốn trí làm tánh. Như thế, bốn trí già chết đều dùng bốn trí làm tánh. Cho đến hành bốn trí cũng đều dùng bốn trí làm tánh. Vì vô minh không đủ nên chẳng lập. Chỉ có bốn mươi bốn. Lại có bảy mươi bảy trí, tức là: 1/ Biết sinh là duyên già chết, 2/ Không phải chẳng duyên hữu già chết, 3/ Đời quá khứ từng là duyên già chết, 4/ Chẳng phải chẳng từng duyên quá khứ sinh hữu già chết, 5/ Vị lai duyên phải là duyên già chết, 6/ Chẳng phải không duyên với sinh hữu già chết vị lai, 7/ Pháp trụ trí: Pháp này là vô thường, là hữu vi, từ nhân duyên mà sinh là pháp tận, là pháp diệt, là pháp vô dục, như già chết có bảy, cho đến hành cũng có bảy. Lại ở trong già chết, sáu trí trước lấy bốn trí làm tánh, tức là pháp trí, tỉ trí, tập trí và đẳng trí. Pháp trụ trí thứ bảy dùng đẳng trí làm tánh. Hỏi: Vì sao chẳng nói vô minh duyên trí? Đáp: Xét mười hai chi, vô minh về trước, không có chi đối nên không nói. Lại giải thích Luận Thành Thật ở Địa văn tư mà làm bốn mươi trí quán, bảy mươi bảy trí quán, không có cùng quán phục diệt vô minh. Bốn mươi bốn trí là chánh duyên già chết gồm biết vô tánh gọi là trí già chết, tức là thẩm cảnh quán; Hai là già chết tập sinh chi, làm duyên tăng thượng tập khởi già chết chánh duyên ở tập, gồm biết vô tánh gọi là già chết tập trí, gọi là suy nhân quán; Ba là già chết diệt, chánh duyên già chết diệt gồm biết vô tánh gọi là già chết diệt trí. Đó gọi là thẩm diệt quán; Bốn là già chết diệt đạo, chánh duyên diệt giải, gồm biết vô tánh gọi là trí diệt đạo, gọi là thẩm hạnh quán, như già chết có bốn, cho đến hành cũng có bốn. Vô minh không có nhân nên chẳng nói. Bảy mươi bảy trí: Một là vô minh duyên hành, đây là suy nhân quán; hai là chẳng lìa vô minh hành, đây là thẩm nhân quán, ba đời đều có hai, hợp thành sáu, đây duyên có tâm nên gọi pháp trụ trí. Vô minh diệt thứ bảy tức tánh diệt gọi là trí Nê-hoàn. Bảy trí như thế cho đến sinh chi, liền thành bảy mươi bảy. Sau già chết không có chi nên chẳng nói. Nay nghóa Đại thừa trong môn Sơ giáo hơi khác Thành Thật, trong Luận Tạp Tập nói tạp nhiễm trôi lăn, tức là bảy mươi bảy trí ấy. Nói trí an lập tức là ba mươi bốn trí quán. Sơ giáo và hai quán thuận nghịch này tức Thành Thật không có, cũng có thể thuận quán vào trí quán Nê-hoàn thứ bảy ở trước, nghóa nhiếp trừ khác nhau. Lại có ba trí, tức là văn - tư - tu; Hai là trong ba thừa có hai: một là Sơ giáo có mười một trí, tức là khổ trí, v.v… mười trí trên lại thêm trí như thật. Lại có mười ba trí: một là trí tín giải, hai là trí đạo lý, ba là trí bất tán, bốn là trí nội chứng, năm là trí tha tánh, sáu là hạ trí, bảy là thượng trí, tám là yểm trí, chín là trí bất khởi, mười là trí vô sinh, mười một là trí trí, mười hai trí cứu cánh, mười ba trí đại nghóa. Lại có mười ba trí là: 1/ Trí văn sở sinh (trí do nghe mà sinh), 2/ Trí tư sở sinh, 3/ Trí thế gian tu sở sinh, 4/ Trí thắng nghóa, 5/ Trí tha tâm, 6/ Trí pháp, 7/ Trí chủng loại, 8/ Trí khổ, 9/ Trí tập, 10/ Trí diệt, 11/ Trí đạo, 12/ Trí vô sinh, 13/ Trí Đại thừa. Các trí nói trên là trí Sơ giáo hồi tâm, hai thục giáo lại có ba trí: một là trí gia hạnh, hai là trí hậu đắc, ba là trí chánh thể. Lại có ba trí: một là trí thật tướng Bát-nhã, hai là trí quán chiếu Bát-nhã, ba là trí văn tự Bát-nhã. Lại có ba trí là trí văn - tư - tu tuệ. Lại có năm trí là: Trí Văn, tư, tu, chứng báo sinh thiện, ý thức. Lại có một trí là trí chân như. Từ trên nói là trí Đại thừa. Hai môn trí Đại Tiểu tên là Nhất thừa y cứ nên thuộc Nhất thừa. Nếu y theo Biệt giáo thì có mười trí như phẩm Ly Thế Gian nói. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Pháp bất cộng: Pháp bất cộng tức là ba mươi hai tướng đại nhân và tám mươi vẻ đẹp, bốn Nhất thiết chủng thanh tịnh, mười lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, ba bất hộ, đại bi, bất vong pháp đoạn trừ các tập khí Nhất thiết chủng trí diệu trí. Trong một trăm bốn mươi pháp bất cộng này có bốn Nhất thiết chủng thanh tịnh, v.v… hai mươi tám pháp bất cộng khi quyết định đầy đủ thì được các bất cộng này, chẳng có nhân cộng, chỉ là Tiểu thừa. Lại có mười tám bất cộng, tức là: 1/ Thân không lỗi, 2/ Khẩu không lỗi, 3/ Niệm không lỗi, 4/ Không có tướng lạ, 5/ Không có tâm bất định, 6/ Không có điều chẳng biết, 7/ Dục không giảm, 8/ Tinh tấn không giảm, 9/ Niệm không giảm, 10/ Tuệ không giảm, 11/ Giải thoát không giảm, 12/ Giải thoát tri kiến không giảm, 13/ Tất cả thân nghiệp theo trí tuệ mà làm, 14/ Tất cả khẩu nghiệp theo trí tuệ mà làm, 15/ Tất cả ý nghiệp theo trí tuệ mà làm, 16/ Trí tuệ biết đời quá khứ vô ngại, 1 7/ Trí tuệ biết đời vị lai vô ngại, 18/ Trí tuệ biết đời hiện tại vô ngại, 18/ Pháp bất cộng này chẳng chung với Nhị thừa nên gọi là Bất cộng. Y như tạp tâm dùng mười lực, bốn vô sở úy, đại bi, ba niệm xứ làm mười tám Bất cộng. Phải biết là Bất cộng Tiểu thừa, vì Tiểu thừa lãng kế. Đây là Ba thừa bất cộng. Lại có mười thứ bất cộng tức là Nhất thừa, như phẩm Ly Thế Gian nói. Sở dó nói mười là muốn nói lên vô lượng. Nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Sáu niệm: sáu niệm là: 1/ Niệm Phật, 2/ Niệm pháp, 3/ Niệm tăng, 4/ Niệm giới, 5/ Niệm thí, 6/ Niệm trời. Giáo này nêu ý là vì người mới phát tâm, tâm tin bền chắc. Lại có tám niệm là: 1/ Niệm Phật, 2/ Niệm pháp, 3/ Niệm tăng, 4/ Niệm giới, 5/ Niệm trời, 6/ Niệm thiên, 7/ Niệm thở hơi ra vào, 8/ Niệm chết. Tám thứ này vì người tu mà nói. Lại có mười niệm: Một đối với tất cả chúng sinh thường sinh tâm từ là đối với tất cả chúng sinh chẳng phá hủy hạnh, nếu chẳng hủy hạnh thì sẽ được vãng sinh; Hai là đối với tất cả chúng sinh thường khởi tâm bi, trừ bỏ tâm tàn hại; Ba là phát tâm hộ pháp, chẳng tiếc thân mạng, đối với tất cả pháp chẳng chê bai; Bốn là ở đối với nhẫn nhục sinh tâm quyết định; Năm là thân tâm thanh tịnh chẳng đắm lợi dưỡng; Sáu là phát tâm trí Nhất thiết chủng, hằng ngày thường nghó nhớ, (niệm) không hề bỏ quên; Bảy là đối với tất cả chúng sinh thường khởi tâm tôn trọng, dứt bỏ tâm ngã mạn nói lời khiêm nhường; Tám là ở lời nói không sinh tâm đắm trước; Chín là gần với giác ý, khởi sâu các thứ nhân duyên gốc lành, lìa tâm ồn ào tán loạn; Mười là chánh niệm quán Phật, dứt bỏ các tưởng. Phải nghó thế nào, tức chẳng nghó phàm phu, chẳng nghó bất thiện, chẳng nghó tạp kết sử, liền được vãng sinh về cõi nước An Lạc. Ý nêu giáo này là vì người tu hành vãng sinh. Lại có mười một niệm: 1/ Tâm tịnh, 2/ Tâm bất động, 3/ Tâm yểm, 4/ Tâm ly dục, 5/ Tâm bất thối, 6/ Tâm kiên, 7/ Tâm minh thạnh, 8/ Tâm thuần hậu, 9/ Tâm quyết, 10/ Tâm đại. Rộng nói như Luận Thập Địa hai niệm trước là ở Tiểu thừa thông Sơ giáo, một niệm kế là ở Sơ giáo thông Chung giáo, một niệm sau là ở Nhất thừa chung ba thừa. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Chín định thứ đệ: Chín định thứ đệ tức là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, định Diệt tận. Từ tâm Sơ thiền khởi kế vào Nhị thiền, chẳng khiến tâm khác được vào, hoặc thiện hoặc cấu, như thế cho đến tâm diệt thọ tưởng. Ra vào định chẳng vượt thứ lớp, nên gọi là định Thứ đệ. Nghóa này là Ba thừa, cũng chung Tiểu thừa. Nếu Nhất thừa giáo y cứ thì thuộc về Nhất thừa. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Tám người: Tám người là tám nhẫn trong kiến đạo, khác với trí có sức nên được gọi là người. Tám người này chung với Nhất thừa, ba thừa và Tiểu thừa. Tám người Tiểu thừa cạn, người không chưa cùng. Tám người Sơ giáo sâu hơn, nhưng lý pháp vô ngã chưa hết, còn Thục giáo thì đức pháp vô ngã chưa rốt ráo. Còn pháp giới Nhất thừa mới sáng tỏ. Nay kinh ở dưới nói pháp minh liễu, là Biệt giáo Nhất thừa và nghóa đồng với giáo đều đầy đủ để giải hành đức ở trước, nên gọi là pháp minh liễu, phải nên biết rõ. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Hai hạnh Kiến pháp: là Kiến hạnh và pháp hạnh, là Tiểu thừa trước vào đạo phương tiện thú hướng hai thứ người lợi độn. Do đó là tướng phương tiện đầu vào Thánh. Nay riêng nêu ra đây hai thứ hành tướng này là y cứ theo tám người trước. Bích-chi-phật. Bích-chi có hai thứ: Một là Tê giác, hai là bạn hạnh. Biết thường lạc vắng lặng, duyên ngoài biết đủ ít việc, chẳng do người khác mà ngộ, minh liễu pháp giải Duyên giác thì nghóa từ Thanh văn thừa, dần dần chuyển tế mà đến Nhất thừa nên gọi là Duyên giác. Nghóa này y cứ theo tám người trước. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Bồ-tát. Bồ-tát chung cả năm thừa, trời người phàm phu cũng gọi là Bồ-tát. Vì sao? Do thành tỉ hạnh là Bồ-tát giả danh. Tức là năm thừa tiền nội phàm phu, Thanh văn thừa cũng có Bồ-tát. Thiện Hữu lậu năm ấm làm thể, do từ bi hạnh thành mà thành Phật. Ba là Bồ-tát Sơ giáo lấy năm phần pháp thân vô lậu làm thể, kiến tu rốt ráo mà thành Phật. Người trực tiến cũng được năm phần pháp thân làm thể, mà trực tiến và hồi tâm, hai thể Bồ-tát ấy tức không. Thục giáo Bồ-tát thì lấy trí vô phân biệt làm thể, cũng lấy chân như làm thể. Nếu y theo Đốn giáo thì tất cả chẳng thể nói, khế đồng một lý quán. Nếu là Nhất thừa y cứ thì thuộc Nhất thừa. Nếu y cứ vào Biệt giáo tức Bồ-tát Phổ Hiền thì lại thành mười thứ thân, như hạnh thứ chín trong mười hạnh đã nói. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Năm sinh: Năm sinh: Một là tức khổ sinh, hai là tùy loại sinh, ba là thắng sinh, bốn là tăng thượng sinh, năm là tối hậu sinh, đó là năm sinh, đều là chỗ Bồ-tát làm. Nghóa này là ba thừa. Nếu y cứ theo kinh Hoa Nghiêm thì Bồ-tát trụ ở trời Đâu-suất cho đến hạ sinh làm Phật đều có mười ý thọ sinh. Nếu y theo mười ý thọ thân năm sinh là Nhất thừa. Nghóa này như phẩm Ly Thế Gian nói, các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. HỘI THỨ TÁM, PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI, TRƯỚC NÓI VỀ HỒI TÂM: Nghóa hồi tâm, có hai: Một là y cứ theo chưa vào Phật pháp để nói hồi tâm, hai là y cứ đã vào Phật pháp vô ưu chi tế, giải thoát phần thiện để nói về hồi tâm. 1/ Y cứ người chưa vào: tức là một vị xiển-đề giống như người tu hành này đủ nghóa nhân - pháp. Văn giải hạnh bệnh cho đến lý sự là từ nhiều kiếp tu nhân tà thiện. Sau thì rốt ráo có vô tận các quả địa ngục A-tỳ Như Lai vì đại bi mà giả lập pháp riêng cứu, chỗ có ủy khúc đã nói đủ trong các kinh. Nay lược mà hỏi cốt yếu: Khắp làm kính nhận pháp ác gặp xiển-đề kia khiến vào Nhất thừa, pháp ấy đủ như trong hỏi đáp đã nói, cuối cùng được sinh Tịnh độ, được làm bất thối, thường được thấy Phật, tức hồi hướng Nhất thừa; 2/ Y cứ đã vào Phật pháp vô lưu tế giải thoát phần thiện, Như Lai khéo léo giả lập hai môn: 1- Ước Thỉ môn, nghóa là y theo dụ cùng tử của kinh Pháp Hoa, nghóa phải là ngu pháp Thanh văn, phát quá khứ nhiều kiếp đến nay từ vị xiển-đề mà vào Thanh văn thừa, y cứ theo giáo phần này tức là trước khi ở vị xiển-đề chưa tu phần thiện Bồ-đề, chỗ có giải hạnh, văn nói là cay đắng cùng cực. Thân cùng tử là con của Trưởng giả giàu có, có nghóa là khi Như Lai pháp tánh thật tướng, chẳng nhiễm mà nhiễm, cho đến Phật tánh tùy chỗ lưu các vị là vị ấy. Do chẳng nhiễm mà nhiễm, do đó chẳng nói tên quí. Sau nếu hồi tâm thì nghóa khế hợp với pháp tánh, lý ấy tức họp với nhiễm mà chẳng nhiễm nên gọi là vương chủng, y theo đạo lý này dùng ví dụ cùng tử để nói theo ngu pháp của Thanh văn vị, nghóa chung cho vị xiển-đề. Hỏi: Hồi tâm Thanh văn tất cả đều hồi chăng? Đáp: Nếu y cứ Thanh văn từ vị bất thối trở đi thì chẳng hồi. Nếu y cứ Sơ giáo thì kẻ hồi, hồi mà chẳng hồi thì chẳng hồi. Nếu y cứ theo Chung giáo thì tất cả đều hồi, nếu y cứ Đốn giáo thì không hồi nào chẳng hồi. Nếu y cứ Biệt giáo thì như trước đã nói. Tất cả đều hồi, như kinh Lăng-già chép: Vị trước Tam-muội lạc (đắm mê vui tam-muội) An trụ cõi vô lậu Không có đường rốt ráo Cũng lại về bất thối Được các thân Tam-muội Đến trụ kiếp chẳng biết. Thí như người say rượi, hết say sẽ biết. Đó giáo pháp cũng thế. Được thân Phật vô lượng, hai là y cứ nghóa chung mà biện hồi tâm. Như văn kinh ở dưới nói Đại trí Xá-lợi-phất cùng năm trăm vị Tỳ-kheo hồi tâm hướng về ngài Văn-thù-sư-lợi đều nói gốc lành đời trước hiện sáu ngàn vị Tỳ-kheo hiển bày cùng tu hành lâu thành thật quyến thuộc. Xá-lợi-phất sống lâu trong Phật pháp, nghóa ở vị thông minh nay nêu là hồi thì nói lên hạnh của Ngài trọn đủ tướng trí tuệ. Nay lại hồi tâm thì khi đang hồi liền được mười thứ đại pháp và mười nhãn, mười nhó, v.v… đầy đủ trong văn kinh Nhập Pháp Giới. Phải biết nghóa ấy là Chung chẳng phải Thỉ. Vị đó ở Đốn ngộ Thục giáo chung với Sơ giáo. Nêu hai vị Thỉ chung này làm pháp thức giữa các nghóa. Y cứ theo đây có thể biết. Lại, pháp hồi tâm là đối với năm thừa kia cũng có Thỉ chung khác nhau. Như một người cùng tử mà Trưởng giả sai khiến phương tiện cho trực, nghóa ấy từ Nhân thiên và đại chúng bộ trở đi cho đến Sơ giáo. Như Xá-lợi-phất hồi tâm các vị là nghóa ở Sơ giáo trở đi, cho đến Đốn giáo và Chung giáo trở xuống, nhưng vẫn hồi tâm phạm vi nhiều thứ khác nhau. Hoặc có người từ Xiển-đề và Thanh văn, từ Thanh văn hồi hướng Duyên giác và Sơ giáo. Hoặc có Thanh văn hồi hướng Trực tiến và Chung giáo. Hoặc có người hồi tâm hướng về Đốn giáo và Nhất thừa. Năm thừa như thế cơ tánh trên dưới khác nhau, hồi tâm cũng khác. Nghóa như thế y cứ có thể hiểu nhiều thứ giáo phần về giải hạnh, sự lý, nhân pháp, giáo nghóa, v.v… khác nhau mà dẫn dắt tiền cơ. Như thế các nghóa y cứ theo thì biết rõ. Hỏi: Kinh ở dưới nói hồi tâm Đại trí Xá-lợi-phất, v.v… Phật ra đời ở tại một nước, khác lúc khác chỗ mới cùng Mục-liên vào Phật pháp, vì sao kinh Hoa Nghiêm bảy ngày hội thứ hai Phật chưa dời đi đã có năm trăm vị Thanh văn như Đại trí Xá-lợi-phất, v.v… cùng sáu ngàn đệ tử của Xá-lợi-phất ở trong vườn Kỳ-hoàn, pháp đường Phổ quang đều chưa xây dựng, do đâu mà nói đủ ở văn kinh. Đáp: Như Lai y đức giải thoát kiến lập Nhất thừa, kinh ở dưới lại nói ở trong một hạt bụi mà kiến lập chư Phật ba đời xoay bánh xe pháp phải biết nay chỗ thành Nhất thừa giáo tức là việc ấy. Y chín đời vào trí dung pháp chín đời, đời quá khứ, hiện tại, đời quá khứ vị lai, đời hiện tại quá khứ, đời hiện tại hịên tại, đời hiện tại vị lai, đời vị lai quá khứ, đời vị lai hiện tại, đời vị lai vị lai. Ba đời tức nhau và nhập vào nhau mà thành mười đời. Phải ở bảy ngày thứ hai, như thế các pháp đều hiện tiền. Nói rộng như trong Phẩm Ly Thế Gian. Nếu muốn biết giáo nghóa vô tận của kinh Hoa Nghiêm thì phải y vào trí sáu tướng nhân Đà-la-ni vi tế, và Đà-la-ni tự tại pháp trí mà biết. Các nghóa khác có nói rộng trong chương khác. Hiền Thánh thiện tri thức: Hiền Thánh, thuận theo lý gọi là Hiền, được lý gọi là Thánh. Đối với vật biết trước cũng là các tình mà biết nên gọi là Tri thức. Nghóa Hiền Thánh giáo có ba vị: Một là hai mươi bảy Hiền Thánh, tức Tùy tín hạnh; hai là Tùy pháp hạnh; ba là Vô tướng hạnh; bốn là Tu-đà-hoàn; năm là hạnh Tư-đà-hàm; sáu là Tư-đà-hàm; bảy là hạnh A-na-hàm; tám là trung ấm diệt Na-hàm; chín là sinh diệt Na-hàm; mười là bất hạnh diệt; mười một là hạnh diệt; mười hai là lạc tuệ thượng hạnh; mười ba là lạc định thượng hạnh; mười bốn là chuyển thế; mười lăm là hiện diệt; mười sáu là tín giải thoát; mười bảy là kiến đắc; mười tám là thân chứng; mười chín là thối tướng La-hán; hai mươi thủ tướng; hai mươi mốt là tử tướng; hai mươi hai là khả tiến tướng; hai mươi ba là trụ tướng; hai mươi bốn là bất hoại tướng; hai mươi lăm là tệ giải thoát tướng; hai mươi sáu là câu giải thoát tướng; hai mươi bảy là bất thối tướng. Một có mười tám người, hai có chín người, là người Vô học. Ở trong người học thì ba người đều là hạnh Tu-đà-hoàn, kế một người là quả Tu-đà-hoàn. Kế một người là hạnh Tư-đà-hàm, kế một người là quả Tư-đà-hàm. Kế một người là hạnh A-na-hàm, kế một người là quả A-na-hàm. Mười một người này cũng là hạnh A-la-hán. Đây là Tiểu thừa cũng đồng ở Sơ giáo. 2- Kế có bốn mươi hai Hiền Thánh tức là Mười giải, Mười hạnh, Mười hồi hướng, Mười địa và Đẳng giác, Diệu giác. Bốn mươi mốt là nhân, môt là quả. Nghóa này ở Ba thừa, cục ở trực tiến và Chung giáo. Hai vị trên Hiền Thánh tri thức nếu là Nhất thừa giáo y cứ thì thuộc về Nhất thừa. Ba là y theo Biệt giáo, có bốn mươi lăm tri thức, đại vị có ba: một là vị vị và lý hạnh, có bốn mươi lăm tri thức. Rộng như phẩm Nhập Pháp Giới nói; hai là chủ bạn giúp nhau có một trăm mười ba. Cứ theo khởi hóa giới hạn thực hành cảnh giới thì có Tam thiên Đại thiên thế giới vi trần số tri thức. Hỏi: Như kinh Đại Phẩm nói Tát-đà-ba-luân cầu thiện tri thức, Bồ-tát Đàm-vô-kiệt là tri thức nào? Đáp: Đàm-vô-kiệt nghóa ở Thục giáo tín vị Chung tâm trực tiến giáo mười hồi hướng. Hai là giáo Bát-nhã thành tựu tín rốt ráo bất thối xứ, làm khuôn phép cho chúng sinh, nghóa là ba thừa không phải là Nhất thừa, ở trong ba thừa tại mười tín chung tâm giải hạnh vị tiền, Tri thức có mười nghóa như phẩm Ly thế gian nói. Nói mười tri thức, sở dó nói mười vì muốn nói lên vô lượng, do đó đem mười thứ làm nghóa tri thức đáp là giáo hưng tri thức ở chỗ nhiếp hóa chúng sinh. Các nghóa có nói rõ trong chương khác. Bốn thân cận: nghóa Thân cận cũng chung cho Ba thừa, Tiểu thừa và Nhất thừa. Tiểu thừa, thân cận tri thức tự cầu giải thoát, ba thừa vì cứu chúng sinh. Vì chúng sinh nên dùng Bồ-đề để hiển bày pháp tánh. Sơ giáo tức Không, chung giáo tức Như, Nhất thừa Biệt giáo, tức có mười nghóa, thành bốn thân cận: một là phải biết tri thức; hai là phải biết chỗ nói; ba là phải biết việc ma; bốn là tự giới thành tựu; năm là phải có tinh tấn; sáu là phải kính thiện tri thức; bảy là phải khởi tâm cầu pháp; tám là tâm hướng về chánh pháp; chín là thành tựu tâm sâu xa; mười là được pháp minh liễu. Mười môn này mỗi môn đều đủ mười môn như phẩm Ly Thế Gian nói. Sở dó đều nói mười môn là vì ứng với pháp vô tận Nhất thừa. Các nghóa khác có nói rõ trong chương khác. Giải thích ý trong văn bốn mươi lăm tri thức: Ở trong văn bốn mươi lăm tri thức, một tri thức đầu y theo Nhất thừa Biệt giáo làm người hồi tâm nói mười đại tâm và vì Thiện Tài phân biệt nói rộng mười chánh pháp của chư Phật thành nghóa tín hạnh. Nói rộng như văn, từ sau giải mười pháp trong văn này. 1- Thiện tri thức là y cứ Nhất thừa Biệt giáo nói nghóa thấy Phật; 2- Thiện tri thức là y cứ Nhất thừa Biệt giáo quán sát biển lớn được chánh duyên khởi, Phật trên hoa sen nói nghóa Viên giáo; 3- Thiện tri thức là y cứ Biệt giáo Nhất thừa nói nghóa như ý thần thông; 4- Thiện tri thức y cứ Nhất thừa Biệt giáo từ trong miệng phát ra mây ánh sáng rực rỡ, là nghóa nhiếp tập tự tại; 5- Tri thức y cứ Nhất thừa Biệt giáo, nhiếp nhập tất cả cõi Phật vô lượng diễn Đà-la-ni rộng lớn làm lợi ích; 6- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, vào định diệt tận rộng làm lợi ích; 7- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, trang nghiêm khắp vườn rừng, hiện thân khắp để làm lợi ích; 8- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, thượng vị hạ gia (trên vị dưới thêm) cầm tay hiện việc mà làm lợi ích; 9- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, thành pháp phân đạo, lên núi dao, nhảy xuống hầm lửa mà thành nghóa lợi ích; 10- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, hiện ra pháp đường và hiện thân tướng mà thành nghóa lợi ích, được pháp Đà-la-ni, v.v… trăm muôn a-tăng-kỳ môn Đà-la-ni để làm quyến thuộc mà thành tướng giải thoát rốt ráo. Sau đây là tướng mười hạnh: 1- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, ở trong thành đô, xóm làng, thôn ấp, chợ búa, v. v… Biệt giáo ở khắp nơi để thành hạnh ấy hiện thân tướng Biệt giáo oai nghi tiết phần, để hội năng lực hạnh nguyện Bồ-tát Phổ Hiền mà thành hạnh lợi ích Đà- la-ni vô tận, tức do tánh Xả tạo thành. 2- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, thành hạnh ba nhóm giới văn phương tiện lợi ích, tức tánh giới tạo thành. 3- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, y bốn vô lượng phương tiện môn hiện ra sắc thân, lấy sự ăn uống dắt dẫn mà thành nhân quả khế lý lợi ích, tức tánh nhẫn tạo thành. 4- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, tinh tấn tăng thượng hiển bày thắng đường quyến thuộc khác nhau thành thí hạnh đại trang nghiêm tự tại, thành việc lợi ích, tức tánh tinh tấn tạo thành. 5- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, khéo léo hội ngộ, hiện ra nhà có mười lớp tám cửa khế hội dẫn đạo mà thành lợi ích, là nội dụng của định, y cứ tánh định tạo thành. 6- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, chân thật thắng trí y pháp Phổ môn bày thuốc trị bệnh để làm sáng trí dụng diệt, hoặc sinh đức, lại làm phương tiện hợp hương để khế hợp mình người mà thành lợi ích, tức tánh tuệ tạo thành. 7- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, khéo léo tự tại bày pháp Nghịch hạnh, thành đức tiến lui, thù thắng phương tiện để khế hợp lợi ích, tức do tánh dụng phương tiện Ba-la-mật tạo thành. 8- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, hạnh nguyện ba đời mà thành bốn chánh nhiếp sinh lợi ích, tức tánh nguyện Ba-la-mật tạo thành. 9- Tri thức y cứ Nhất thừa Biệt giáo, hiện trong nhà và cha mẹ ủng hộ, thành thắng quyến thuộc vô ngại gốc lành, được lợi ích cao quý, tức Ba-la-mật Tánh Lực tạo thành. 10- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa trí hiển pháp phản đạo thành nghóa lợi ích, tức Ba-la-mật Tánh Trí tạo thành. Sau đây là mười hồi hướng phương tiện đức: 1- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa lợi ích chúng sinh thiện tri thức hương tác dụng giới hạn để hiển đầu cơ tổn ích thắng năng khéo léo vì lìa trước mà thành nghóa lợi ích. 2- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa ở phần lợi sinh hiện sự độ sinh, thuyền ghe cứu giúp đồng thời chuyển thành nghóa lợi tha. 3- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa biến khắp tất cả chỗ để lợi ích nhiếp sinh mà thành nghóa Nan thắng. 4- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa từ bi thanh tịnh nguyện kiến lập pháp thiện căn vô tận, cùng khắp tất cả, đồng tất cả Phật mà thành nghóa lợi ích. 5- Tri thức y có Biệt giáo Nhất thừa, điều nhu khéo léo thành môn nghịch hạnh, hiện ra Y chánh, lợi ích nhiếp vật. 6- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa thực hành phương tiện nhiếp sinh, trước sau bền chắc khó hoại lợi ích. 7- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa khéo léo ứng cơ thành việc lợi tha. 8- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa xứng hợp với tác dụng (làm), tùy biết hiện tiền nhanh chóng lợi ích. 9- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa thành bốn vô lượng để khế hợp phổ pháp nhiếp hóa chúng sinh đoạn ác thành thiện. 10- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa thành Phật phương tiện, nhân vị chứng quả, hiện trước chúng sinh là nghóa thành Phật lợi ích. Sau đây là mười Địa chứng vị phương tiện: 1- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, thông đức thần linh, bày sinh nhà Phật, diệt nghóa tám lỗi để ứng vật tình, lợi ích nhiếp sinh. 2- Tri túc y cứ Biệt giáo Nhất thừa, ở chỗ thành Phật nan cấu tự tại nhiếp thành gốc đức, là nghóa lợi ích chúng sinh pháp môn. 3- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, gần chỗ Phật tiện thuận theo như thật, thị hiện đức khắp, nhiếp nhuận chúng sinh pháp môn. 4- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, ở chỗ thành Phật giác pháp tự tại, thị hiện pháp môn lợi ích chúng sinh. 5- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, ở chỗ thành Phật gần gũi Thánh chỉ, tịch tịnh ứng cơ, phương tiện thắng tấn, các thứ khéo léo, là nghóa giữ gìn chúng sinh lợi ích pháp môn. 6- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, y chỗ thành Phật thuận lý đức trung thành tựu duyên khởi là nghóa cứu hộ chúng sinh pháp môn. 7- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, ở chỗ thành Phật khéo léo phương tiện chân tục đều quán, là nghóa tu nhân cảm quả tự tại pháp môn. 8- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, ở chỗ thành Phật. Đại nguyện tự tại mau chóng thành tựu nhiếp lấy chúng sinh, đồng thể thành tựu là nghóa lợi ích chúng sinh Bất cộng pháp môn. 9- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, ở chỗ hóa độ chúng sinh mà thị hiện thọ sinh trong cõi Diêm-phù-đề, ở vườn cây Lưu-di-ni dạo xem tự tại hiện pháp môn lợi ích chúng sinh. 10- Tri thức y cứ Biệt giáo Nhất thừa, từ chỗ Phật sinh là thành Ca-tỳ-la thị hiện từ bi, ý vui pháp môn, đối với chúng sinh giáo tự tại. Từ trên là tướng mượn vị tu hành. Từng duyên nhập thật tướng tri thức, y cứ Biệt giáo Nhất thừa thành Ca-tỳ-la chỗ Phật sinh, thật tướng duyên khởi thể dụng tự tại là nghóa xuất sinh Chánh giác pháp môn. Dưới đây là nhiếp đức thành nhân tướng tri thức, y cứ Biệt giáo Nhất thừa, thuận theo chánh tướng, sinh ở phương Nam, nhân vị rót ráo là nghóa thành tâm Bồ-đề tự tại pháp môn. Dưới đây là trí chiếu không hai tướng tri thức, y cứ Biệt giáo Nhất thừa, vô tướng cát tường, quán chiếu thắng trí quyết định mạnh mẻ rốt ráo, là nghóa Phổ Hiền tự tại thực hành pháp môn. Dưới đây là hiển nhân quảng đại tướng tri thức, y cứ Biệt giáo Nhất thừa kiến văn phổ đức rốt ráo quảng đại tự tại hạnh nguyện, là nghóa tương ưng với quả Vô biên pháp môn. Lại y theo văn Di-lặc, chư Phật, Bồ-tát vô lượng kiếp tu, Thiện Tài một đời đều được, y theo kinh Hoa Nghiêm mau được thành Phật. Có năm đời: Một là y thắng thân một đời liền được, từ sau vị kiến văn một đời đến Ly cấu địa hậu thân liền thành Phật. Hai là y kiến văn được sinh nhanh chóng. Ba là y một đời nhanh chóng thành Phật. Bốn là một niệm nhanh chóng thành Phật. Năm là vô niệm nhanh chóng thành Phật. Nghóa đầu có bốn: Một là y thế giới tánh, v.v… thân con Luân vương hiện thân thành Phật ở mười thế giới, như Đồng Tử Phổ Trang nghiêm v.v… Hai là y thân Thiên tử thắng, từ ba đường ác thoát ra mà sinh lên trời Đâu-suất, hiện thân thành Phật. Ba là y thân Diêm-phù-đề thắng công đức, như Thiện Tài hiện thân rốt ráo hạnh Phổ Hiền, đời sau liền thấy Phật. Bốn là y thân Long nữ của kinh Pháp Hoa, thành Phật ở phương Nam, nghóa là thân lưu hoặc nhanh chóng thành Phật. Hai là bốn kiến văn được sinh nhanh chóng, như trong Sơ địa nói có ba thời ích: Một là thời ích; hai là tu hành thời ích; ba là Chuyển sinh thời ích. Cho nên kinh Địa Luận nói: Các Như Lai ấy, che chở các Bồ-tát. Người này lắng nghe thọ trì các pháp mầu nhiệm như thế, đây là Văn thời ích, các Địa tịnh vô cấu lần lượt đầy đủ, chứng mười Phật lực, thành Bồ-đề Vô thượng. Đây là tu hành thời ích. Tuy ở trong biển lớn và trong lửa của kiếp tận, quyết định tin vô ngại sẽ được nghe kinh này. Đây là chuyển sinh thời ích. Ba là y một đời được mau chóng thành Phật, như đồng tử Thiện Tài ở chỗ tri thức trong khoảng một đời mà được pháp Phổ Hiền. Bốn là y một niệm được mau chóng thành Phật, là như khế hợp pháp Phổ Hiền một niệm liền thành Phật. Đây là Tục đế niệm. Năm là Vô niệm được mau chóng thành Phật, là tất cả pháp chẳng sinh, tất cả pháp chẳng diệt. Nếu như thế mà hiểu thì là người thấy Phật chân thật. Dung Hội Ba Thừa quyết hiển mà nói Diệu thú Nhất thừa: Pháp Viên thông lấy Cụ đức làm tông lý duyên khởi, thật dùng hai môn đều hiểu. Hai môn ấy tức là hai giáo Đồng Biệt. Biệt giáo là Biệt ở ba thừa, như kinh Pháp Hoa chép: Ngoài ba cõi thì riêng đòi xe trâu lớn. Đồng giáo, kinh nói hội ba về một, nên biết là đồng. Lại nói, đồng thì có nhiều nghóa biệt: một là ngôn thông mục nên ngôn đồng lại hội, nghóa chẳng đồng nhiều pháp môn, tùy lấy một môn, nghóa khác không có tướng riêng nên nói là đồng. Nói đồng thì Ba thừa đồng Nhất thừa. Lại nói, đồng là Tiểu thừa, đồng với Nhất thừa. Lại nói, đồng là Tiểu thừa đồng với Ba thừa. Đức trước đã nói hai giáo Thông Biệt mà chưa thấy giải thích tướng. Nay lấy lý mà tìm thì cùng nghóa chẳng khác. Hỏi: Sở dó Phật giáo phần nhiều dùng một lời để thông mục các nghóa đã thông mục các nghóa thì ở trong biện tài vì sao nói Pháp, nghóa, Từ lạc thuyết, v.v… ư? Đáp: Phật giáo nếu chẳng thông mục, chúng sinh hữu tình tùy lời lấy nghóa để định căn tánh, không vì hiểu gần mà xa ý chỉ. Sở dó Phật giáo giữ còn thông mục là y luận đạo và lập bày đạo để sinh trí diệt hoặc, khéo léo hiển lý thành quả. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm nói Tín giải hạnh, các vị dùng tín một lời mà thành Tín vị, trong vị gồm có tức thông lựa (giản) pháp tướng các vị trước sau khác nhau, và hội Phổ nhãn cảnh giới Nhất thừa vô ngại Đà-la-ni môn. Y cứ vào thành xảo này dưới một lời huyền lại càng huyền. Lại văn kinh Hoa Nghiêm ở năm hội trước và mười minh trở đi, đến hết phẩm Bất tư nghì tức dùng Biệt giáo Nhất thừa vì Ba thừa mà nói. Trong Văn Thập Địa tức dùng Viên giáo Nhất thừa, vì hiển Biệt giáo Nhất thừa mà nói. Sở dó biết rõ vì trong văn đều dùng Tất-đà tự âm hội thành vô tận. Phổ Hiền tánh khởi dụng, Nhất thừa Biệt giáo ấy để hiển văn nghóa Nhất thừa, do trong văn ấy nói rộng lớn, văn hai hội từ phẩm Ly Thế Gian trở đi. Nhất thừa Hạnh pháp lấy thủy nêu chung mà nói nên giáo nghóa đều là Nhất thừa. Lại Mười Địa trở xuống, văn sáu quyết định trong bốn hội, vì sao chẳng y vào số mười mà nói. Đáp vì sáu quyết định là nghóa bản phần, thân thể lược khó hiểu, nên mượn giáo ba thừa mà kiếp (tức) hiển huyền thú Nhất thừa, khiến cho người nghe một bề dễ hiểu văn kinh, khéo léo hai văn giao lạc hai nghóa, hiển tông giới hạn rất khéo léo. Ba thừa duyên khởi, duyên tụ liền có, duyên tan liền lìa. Nhất thừa duyên khởi thì duyên tụ chẳng thật có, duyên tan chẳng lìa. Đây là y cứ chỗ đối chẳng đồng thành nuơng nhau. Lại như đồng thể y trì để nói nhân quả, lý tánh thể dụng ở nhân là nhân, ở quả là quả, tánh ấy bình đẳng. Nói theo duyên thì ở Nhất thừa tức tròn sáng đủ đức, ở ba thừa tức thì một tướng cô môn, ở Tiểu thừa thì bỏ sâu nói cạn. Ở phàm có thì chỉ sự mà không văn, đây tức là lý diệu thú. Lại pháp Nhất thừa đối cơ để nói biệt không phải là tự tướng mà có thể khác được. Tùy cơ mà nói biệt. Nên biệt càng biệt (thì tức mười biệt). Sở dó nói mười vì muốn nói lên vô lượng. Lại Nhất thừa đồng pháp, là đối trí để bày đồng, nếu dẫn cơ để hiểu đồng thì đồng càng đồng (tức mười đồng), tức cùng vô tận. Lại Tiểu thừa chưa cùng luận đạo nên có định luận. Biệt giáo Nhất thừa dứt hết luận đạo nên không luận nghóa kinh mà pháp môn đầy đủ không dụ nào có thể nói. Không có kinh Thí dụ, pháp môn viên bị chẳng thể do đó mà nói. Không có kinh Nhân duyên. Lại luận Phật tánh nói về thông quán, đều quán diệt hết các hoặc, đều chứng các lý, đều thành các hạnh, đều chứng các quả. Đây là nói theo đồng giáo Nhất thừa. Nếu nói theo Biệt giáo Nhất thừa thì tức thông càng thông (tức mười thông) cùng khắp pháp giới. Các thứ khác đều y cứ theo đây. Lại nhiếp luận dịch vào đời Lương chép: Sinh tử tức Niết-bàn không hai, không kia đây, là muốn nói ngay nơi sự là chân. Lại các kinh luận Ba thừa nói về địa vị và các thứ lớp khác nhau của môn pháp tướng, đều y cứ trong môn Tín giải mà nói như thế. Đại luận chép: Tùy một phương hóa nghi. Nếu y cứ vào hành pháp thì chẳng như hạnh giải ấy cùng vào giải môn. Lại Biệt giáo Nhất thừa, Phật và pháp Phổ Hiền hạnh nguyện đều bằng nhau, không có trước sau. Nhưng đối với nghóa các pháp thì tùy nêu làm đầu, còn các thứ khác là hạn, nên y cứ mà biết. Nếu tùy cơ muốn hoặc có biết chung tức là Đại thừa học, hoặc có biết riêng, tức là Tiểu thừa học. Nhất thừa đồng nghóa với Biệt giáo, y Hải ấn định khởi Phổ nhãn biết rõ. Giáo nghóa Ba thừa, y Phật sau được pháp trụ trí mà nói Văn, Tư, Tu và Báo sinh thiện ý thức cùng nội chứng thắng trí phạm hạnh và trí chân thật mà biết rõ. Đây là nói theo Biệt tướng. Lại pháp nghóa Nhất thừa xuất xuất thế (ra ngoài) chứng các thời khác, Kiến văn và Tỷ giải hạnh Ba thừa pháp nghóa xuất thế được chứng. Thế gian tỷ mà giải hạnh Nhất thừa pháp nghóa, Phật và Bồ-tát Phổ Hiền kiến lập nguyện hạnh, thức tình chúng sinh y đó mà trụ trì Nhất thừa pháp nghóa lâm vào huyền tưởng, huyền tưởng mau được, nếu thấy Phật thì thấy rất nhanh. Xưng danh cũng thế, Bồ-tát cũng thế. Nhất thừa pháp nghóa thành Phật cùng tất cả chúng sinh. Đồng thời, lại đồng thời… thành Phật. Sau đó đều mới dứt đoạn hoặc cũng chẳng trụ học địa mà thành Chánh Giác. Bồ-tát Phổ Hiền hạnh nguyện cũng thế. Ba thừa thì chẳng như thể. Lại trong Biệt giáo cũng có đồng biệt, do nhiều nên tức một là đồng, là một trong nhiều tức là biệt. Trong đồng giáo cũng có đồng biệt. Nhất thừa Ba thừa đồng một khéo léo, ấy là đồng, đều là y cứ căn cơ riêng khác, ấy là biệt. Chúng sinh hữu tình biết được cảnh thì không có các nghóa nói từ trước đến nay. Vì sao? Vì là chấp biến kế. Tiền Đức nói: Chỉ một việc thật mà muôn tượng phức tạp khác nhau, chân tục khác mà thể đồng, phàm Thánh phân mà đạo họp. Đây thì người trước đã thông việc này. Các điều từ trước đã nêu là lược mở hình dạng của tông tự Nhất thừa, trong khoảng thứ lớp pháp tướng ba thừa mà nói nghóa để giải thích pháp thức nêu danh bày thể, giải thích nguyên do được tên luận rộng hẹp nói địa vị, bày trị định nhau, thông cục tùy nghóa, phân biệt đủ duyên nhiều ít. Hỏi đáp để giải thích nghi, đủ như các chương và các luận, hiểu nghóa thêm bớt của kinh Hoa Nghiêm. Tương truyền rằng Bồ-tát Long Thọ xuống cung rồng thấy có Đại Bản Kinh Bất Tư nghì, có mười Tam thiên đại thiên thế giới vi trần số bài kệ, có bốn thiên hạ vi trần số phẩm. Trung bản có bốn mươi chín vạn tám ngàn tám trăm bài kệ, một ngàn hai trăm phẩm. Hạ bản có mười vạn bài kệ, ba mươi sáu phẩm. Chi Pháp Lãnh từ nước Thiên Điện, có ba vạn sáu ngàn bài kệ, ba mươi bốn phẩm, lại thấy truyền đến Trung quốc này. Giải thích hai kinh Anh Lạc Bản Nghiệp và Phạm Võng để nói lên Nhất thừa của kinh Hoa Nghiêm. Bốn chủ bạn hai kinh hiển nhau, bốn kinh Anh lạc bản nghiệp, Hội đầu nói mười thế giới hải. Hội thứ hai nói mười quốc độ hải. Hội thứ ba nói mười trụ. Hội thứ tư nói mười hạnh. Hội thứ năm nói mười hồi hướng. Hội thứ sáu nói mười địa. Hội thứ bảy nói Thiện Tài nhập pháp giới. Hội thứ tám nói kinh Anh Lạc Bản Nghiệp. Hội thứ chín nói giai Vị Đẳng giác. Hội thứ mười nói giai Vị Diệu giác. Thành sáu minh môn và bảy kiến. Trước nói riêng mười giới vô tận để thành vị. Nếu theo kinh Phạm Võng thì Phật Thích-ca ở cõi Tứ thiền, cung trời Ma-hê-thủ- la cùng vô lượng Đại phạm thiên vương và không thể nói chúng Bồ-tát mà nói phẩm Liên hoa tạng thế giới Lô-xá-na Phật tâm địa pháp. Lúc đó, Phật Thích-ca phát ra ánh sáng trí tuệ chiếu sáng thế giới Liên hoa đài tạng, trong đó tất cả thế giới, chúng sinh thấy tướng đều vui mừng và sinh nghi. Lúc đó, Phật Thích-ca nâng cao thế giới này, đại chúng lại đến thế giới Liên hoa đài tạng có trăm muôn ức tia sáng tử kim cương, thấy Phật Lô-xá-na đang ngồi trên tòa có trăm muôn ức hoa sen sáng rỡ. Phật Thích-ca và đại chúng kính lễ dưới chân Phật Lô-xá-na, thưa hỏi nhân duyên thành Phật. Lúc đó Phật Lô-xá-na rất vui mừng vì đại chúng nói nhân duyên thành Phật và nói hai báo y chánh và thành thân hóa Phật Thích-ca, nói rộng trong văn kinh. Bấy giờ, Phật Lô-xá-na đáp rộng lời ngàn hóa Phật và ngàn trăm ức thân hóa Phật Thích-ca mà nói pháp bốn vị, mười phát thí tâm, hai mươi tăng trưởng, ba mươi kim cương, bốn mươi địa để thành thắng quả. Nói rộng như văn kinh. Kế thành thứ lớp, Phật Lô-xá-na dẫn lời Phật nói ba đời trăm kiếp tu hành, thành phát tâm địa, hiện là Lô-xá-na thành thế giới hải Liên hoa đài tạng, rực rỡ ánh sáng trời. Ngồi trên tòa Sư tử, y các ánh sáng riêng mà thành Thiên Diệp Thượng Phật trì tâm địa pháp môn. Lại chuyển ngàn trăm ức Phật Thích-ca, thứ lớp nói thượng tâm địa pháp môn và Không tu hành. Các Đức Phật ấy đều từ thân phát ra bất tư nghị ánh sáng đều hóa thành vô lượng Phật, cùng một lúc đều dùng các hoa xanh vàng đổ trắng cúng dường Phật Lô-xá-na, cúng dường xong thì đều từ thế giới Liên hoa đài tạng mà biến mất, biến mất rồi lại nhập vào tam-muội thể tánh hư không Hoa quang, rồi lại trở về dưới cây Bồ-đề ở thế giới Diêm-phù-đề. Lại xuất Tam-muội thể tánh Hoa quang, xuất rồi mới ngồi vào tòa Kim cương Thiên quan vương và Diệu quang đường, nói mười thế giới hải. Lại từ tòa đứng dậy đến cung Đế-thích nói pháp Mười Trụ. Lại đến Diệu thiên nói pháp Mười hạnh. Lại từ tòa dậy đến trời Hóa lạc nói Mười Địa. Lại đến Sơ thiền nói mười kim cương, lại đến Nhị thiền nói Mười Nhẫn. Lại đến Tam thiền nói mười nguyện. Lại đến Tứ thiền, cung Thiên vương Ma-hê-thủ-la nói phẩm Ngã bổn nguyện Liên hoa tạng thế giới Lô-xá-na Phật tâm địa pháp môn. Ngoài ra, trăm ngàn ức Phật Thích-ca cũng lại như thế, chẳng hai chẳng khác. Bấy giờ, Phật Thích-ca từ thế giới hiện Liên hoa tạng ở phương Đông, lại vào cung trời nói Kinh Ma Thọ Hóa xong, bèn hạ sinh nước Ca-di cõi Diêm- phù-đề ở phía Nam, mẹ tên Ma-da, cha tên Bạch Tịnh, mình tên Tất- đạt, bảy tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo hiệu là Thích-ca, ở đạo tràng Tịch tịnh, tòa Kim Cương Hoa Quang cho đến cung trời Ma-hê- thủ-la, thứ lớp nói về Thập trụ xứ. Khi ấy Phật nhìn thấy mành lưới của các Đại phạm thiên vương mà vì nói vô lượng thế giới cũng như mắt lưới, mỗi thế giới đều khác nhau, có vô lượng Phật nói giáo môn cũng giống như thế. Nay ta đến thế giới này đã tám ngàn lần, vì thế giới Ta- bà này ma ngồi tòa Kim cương cho đến cung trời Ma-hê-thủ-la. Trong đó vì tất cả đại chúng lược mở bày tâm địa rồi, lại từ cung Thiên vương đến dưới cây Bồ-đề ở Diêm-phù-đề, vì tất cả chúng sinh phàm phu si ám ở trên đất ấy mà nói trong bản Lô-xá-na Phật tâm địa mới phát tâm thường tụng một giới quang minh, kim cương bảo giới là bổn nguyện của tất cả Phật, là bổn nguyện của tất cả Bồ-tát, Phật tánh hạt giống, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả ý thức sắc tâm, tình ấy tâm ấy đều vào trong phạm vi Phật tánh, đều phải có nhân, đều phải thường trụ pháp thân. Mười vô tận Ba-la-đề-mộc-xoa như thế, có đủ trong văn kinh đã chép từ trước. Kinh Anh Lạc Bản Nghiệp nói rộng vị ấy, mà lược nói hành tướng, còn kinh Phạm Võng thì nói rộng hành tướng, còn vị tướng thì nói lược. Ở trên nói: Phật Thích-ca ở Tứ thiền nói pháp Tâm địa tức là hóa Thích-ca ở Diêm-phù-đề. Lại nói lên trong cõi trời ấy có riêng thân thật báo Lô-xá-na, cho đến thứ lớp ở cõi Diêm-phù-đề, bảy tuổi xuất gia trở đi và nói mười Trụ xứ. Hóa thân lại nói Báo thân Ba thừa, Hoa Nghiêm nói mười Trụ xứ. Thứ lớp đến đệ Tứ thiền. Sau xuống Diêm-phù nói lại mười giới. Y cứ vào văn tướng này kinh Anh Lạc và kinh Phạm Võng đều khác, chẳng đồng. Lại chỗ tụng lại mười giới cũng đều chẳng đồng. Đây y cứ Ba thừa Lô-xá-na Báo thân ấy đã hóa ngàn Phật và hóa ngàn ức Thích-ca cũng phải báo thân xuống cõi Diêm-phù- đề, bảy tuổi xuất gia, v.v… phải là Hóa thân. Nếu y theo Hoa Nghiêm thì chẳng như thế, vì có mười Phật khác nhau. Lô-xá-na v.v… và hóa thân Đức Thích-ca đều là mười Phật hóa dụng, phải nên y cứ theo đó mà biết. Nay văn kinh nói ở cõi Diêm-phù-đề tám ngàn lần lên xuống nói pháp Tâm địa, là chung với ứng hóa ấy hai chỗ cùng điếc mà nói. Nếu y Đại kinh vốn hội đầu nói mười thế giới hải và nói nghóa giới hạn thế giới, hội thứ hai nói Tịnh độ hải và Tín giải hạnh thành tựu pháp. Hội thứ ba nói pháp Mười Trụ và nói các pháp. Hội thứ tư nói pháp mười Hạnh và pháp Mười Tạng. Hội thứ năm nói pháp Mười Hồi hướng. Hội thứ sáu nói đức dụng nhân quả của mười địa và Phổ Hiền tánh khởi các pháp. Hội thứ bảy Phổ Quang nói pháp Ly thế gian. Hội thứ tám nói pháp Nhập pháp giới. Nếu y theo bản tiếng Phạm ở chùa Đại Từ Ân (của Huyền Trang) thì tăng thêm hội thứ chín. Phật dạo dưới cây và Phổ Quang Đường nói cảnh giới công đức của Như Lai, trong phẩm cảnh giới nhập, hỏi vì sao trên đã chép đều sai khác chẳng đồng. Đáp: Y vào Đại kinh bản đã nói lên môn tướng, tức cùng dung hòa lý sự tự tại các giáo nghóa, vì một tức tất cả, tất cả tức một, như Đế Võng dụ cho vô tận khác nhau, như các giáo võng, chủ bạn hiển nhau, có tướng nhất định thì liền trái với lý. Kinh chủ bạn khác nhau chẳng đồng. Như Địa kinh nói nghóa sáu quyết định là thể của Địa, trái lại chẳng dùng mười số mà y cứ Mười địa chẳng đồng ấy là tướng của địa, trái lại dùng mười số mục. Lấy đây mà nghiệm biết, Phật từ bi muốn cho dễ hiểu nên đem bất mãn số mục thể để mãn số mục trắng, đó là ý riêng của Phật. Nay, y cứ theo hai kinh Anh Lạc Bản Nghiệp và Phạm Võng thì số hội đủ mười. Kinh Hoa Nghiêm vốn chỉ có bảy, tám là không đủ. Nghóa đều y cứ theo mà biết. Hai kinh Anh Lạc Bản Nghiệp và Phạm Võng kia thuộc Nhị thừa vì nghóa có mười số gồm có hai môn: Một là thành môn Viên giáo; hai là chẳng thành môn Viên giáo. Nay đem kinh Phạm Võng, v.v… đối với kinh Đại Bản, Anh Lạc, v.v… mười số tức là riêng biệt chẳng đủ tất cả viên, cho nên thuộc Ba thừa. Chẳng đủ mười nghóa số, cũng có hai thứ: Một là y cứ vào Ba thừa ấy khiến người hiểu được; hai là y cứ vào Nhất thừa, là ở hạ cơ tương đối để hiển bày Nhất thừa. Nay y cứ vào tương đối để hiển bày pháp môn nên dùng giáo chẳng đủ mười số, là thuộc Nhất thừa. Các thứ khác y cứ theo đây mà biết. Chứng giới hạn Dụng Giáo của kinh Hoa Nghiêm. Nay y vào bảy giáo mà chứng giới hạn văn nghóa của kinh Hoa Nghiêm. Một là Kinh, tức là kinh Pháp Hoa, kinh Thắng-man, kinh Anh Lạc Bản Nghiệp, kinh Phạm Võng thì thuộc cảnh giới bất tư nghị của Như Lai. Hai là Luận, tức là luận Thập địa, Nhiếp luận, luận Du-già, luận Tạp tập, luận Như thật, v.v…; ba là Sớ; bốn là Chương; năm là Sao; sáu là hỏi Đáp; bảy là Tạp Khổng Mục. Bổn Nghóa Đồng khác của bản Phạm. Y theo bản Hoa Nghiêm tiếng Phạm ở chùa Đại Từ Ân (của ngài Huyền Trang) có năm trăm bốn mươi mốt tờ lá bối (năm mười lăm chữ là một hàng, hai mươi hàng là một tờ lá), một tờ lá mặt và lưng có hai ngàn hai trăm tám mươi (2 8 0) chữ, mười tờ kể là hai mươi hai ngàn tám trăm ( 2 2. 800) chữ. Ba mươi hai chữ là một là tụng, một trăm tờ phải có hai mươi hai vạn tám ngàn ( 2 2 8. 000) chữ. Ba mươi hai chữ là một bài tụng, năm trăm bốn mươi mốt tờ thì có một trăm ba mươi hai ba ngàn bốn trăm tám mươi chữ. Y theo ba mươi hai chữ là một bài tụng, thì có bốn mươi mốt ngàn chín trăm năm mươi tám ( 4 1. 958) bài tụng, dư mười chữ. Hội thứ nhất: Phẩm Thế Gian Tịnh Nhãn (từ tôi nghe như vầy trở đi…). Phẩm Như Lai (từ phát vấn trở đi…). Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Tu Hành Nhập Tam-ma-đề (từ Nhập định Tịnh tạng trở đi…). Phẩm Thuyết Nhập Thế Giới Hải (từ năm biển trở đi…). Phẩm Tịnh Thế Giới Hải Công Đức Quang Minh (từ Lập thế giới trở đi…). Phẩm Thế giới Luân Viên Trang Nghiêm Hải (từ Phải biết thế giới hải Liên hoa tạng … trở đi). Phẩm Thuyết Thế giới Hải Trang Nghiêm Địa (từ núi Đại Thước-Ca-la trở đi). Phẩm Quán Thế giới Tánh Xứ (từ chỗ Địa địa ấy trở đi). Phẩm Quán Thế giới Xứ An Trụ Ấm Thanh (trên biển nước thơm này… trở đi). Phẩm Tỳ-lô-xá-na (từ đây nói Thường Tịch Quang… trở đi). Hội thứ hai: Phẩm Như Lai Danh Xưng. Phẩm Tứ Đế. Phẩm Như Lai Xí Nhiên Giác. Phẩm Bồ-tát Minh Nạn. Phẩm Viên Tịnh Hạnh. Phẩm Hiền Thắng. Hội thứ ba: Phẩm Tu-di Đảnh Nhập Như Lai. Phẩm Tu-di Đảnh Như Lai Tác Bồ-tát Tập Thuyết Kệ. Phẩm Thập Bồ-tát Thuyết Trụ. Phẩm Phạm Hạnh. Phẩm Thuyết Sơ Phát Tâm Bồ-tát Công Đức Hoa Tụ Dù Kệ. Phẩm Minh Pháp. Hội thứ tư: đi…) Phẩm Tô-dạ-ma-phú Tác. Phẩm Tô-dạ-ma-phú Bồ-tát Tập Thuyết Kệ. Phẩm Thuyết Công Đức Hoa Hòa Hợp Thập Bồ-tát Hạnh. Phẩm Thập Vô Tận Tạng. Hội thứ năm: Phẩm Như Lai Thăng Nhập Đâu-suất-đà Thiên. Phẩm Đâu-suất Cung Bồ-tát Lai Thuyết Kệ. Phẩm Kim Cương Tràng Hồi Hướng. Hội thứ sáu: Phẩm Thập Địa. Phẩm Thần Thông. Phẩm Nhẫn Nhục. Tâm Phẩm Vương Vấn Toán Giáo Nhập. Phẩm Thọ Lượng. Phẩm Bồ-tát Trụ Xứ. Phẩm Thuyết Phật Pháp Bất Tư Nghị. Phẩm Thuyết Như Lai Thập Thân Tướng Hải. Phẩm Tiểu Chủng Hảo Quang Minh Thuyết Công Đức Môn. Phẩm Thuyết Phổ Hiền Bồ-tát Hạnh. Phẩm Thuyết Như Lai Tánh Khởi. Hội thứ bảy: Phẩm Xuất Thế Gian. Hội thứ tám: Thiện Tài Ly Tham Tạng Phẩm (từ phẩm Nhập pháp giới trở Phẩm Di-lặc Ly Tham Danh Thiện Tài Sở Vấn (từ có cõi nước hiệu là Khả Lạc trở đi) Phổ Hiền Ly Tham Danh Cánh Phẩm Thuyết Như Lai Công Đức Bất Tư Nghị Cảnh Giới Thượng Cảnh Giới Nhập (từ Bấy giờ, Thiện Tài được thấy… trở đi) Lại theo bản tiếng Phạm, Di-lặc tri thức để sau phẩm gọi là Đạo, tức là phẩm Di-lặc Ly Tham Danh Thiện Tài Sở Vấn, Phổ Hiền tri thức sau nói kệ trước rằng: Phổ Hiền Ly Tham gọi là Cánh. Theo văn này thì phẩm Nhập pháp giới ở trước, Văn-thù du hành phương Nam ở sau, tức là trong giáo đại có ba nghóa lớn, từ trước Văn-thù đến sau Di-lặc, nhân ấy dần thành tựu lớn. Từ sau Văn-thù đến sau Phổ Hiền là nhân thành tựu lớn, do phổ pháp ấy, Phổ Hiền kệ Văn-thù là giáo nói về tu thành tựu lớn. do ở trong nhân, giáo nói Phật chứng. Đây có hai nghóa: Một là Chứng tư Sơ địa trở lên, thông với Phật địa, là chứng giới hạn, nay y giáo gọi là giáo nói tu thành tựu lớn. Hai là quán tu y địa tiền tỷ vị, ý nói quán không phân biệt. Nay y giáo gọi là giáo, nói tu thành tựu lớn. Giáo nói tu này thông với nhân thành tựu và nhân dần thành tựu trong hai vị lớn, lìa lỗi hiển lý. Văn-thù-sư-lợi. Tỳ-kheo Công Đức Vân. Tỳ-kheo Hải Vân. Tỳ-kheo Thiên Trụ. Lương Y Di-già. Trưởng giả Giải Thoát. Tỳ-kheo Hải Tràng. Ưu-bà-di Hưu Xả. Tỳ-mục-đa-la Bà-la-môn Ưu-bà-tắc Phương Tiện Mạng. 11 Di-đà-la-ni Tử. Tỳ-kheo Thiện Hiện. Nước tên Du-na đạo tràng, đồng tử tên Thích Thiên Chủ. Thành tên Đại thể, có Trưởng giả tên Điển Trụ. Có trưởng giả tên Cam Lộ Đảnh, thành tên Sư Tử Mãn. Trưởng giả tên Pháp Bảo Chu-la Trưởng giả tên Phổ Nhãn Diệu Âm. Có vua tên Mãn Túc. Vua tên Đại Quang. Có Ưu-bà-di tên Bất Động. Có ngoại đạo xuất gia tên Tùy Thuận Nhất Thiết Chúng Sinh. Tấn. Có Ưu-bà-tắc tên Thắng Thanh Liên Hoa Hương. Có Hải sư tên Tự tại, thành tên Thắng Sơn. Thành tên Hỷ lạc, trưởng giả tên Vô Thượng Thắng. Thành tên Ca-lăng-già-bà-đề, có Tỳ-kheo-ni Sư Tử Phấn Nước tên Hiểm Nạn, có cô gái tên Bà-tu-mật-đa. Thành tên Thủ-bà-la, có Trưởng giả tên An Trụ. Núi tên Quang minh, Bồ-tát tên Quán Thế Âm. Phương Đông Bồ-tát tên Chánh Thú. Thành tên Bà-la-bà-đề, trời tên Đại thiên. Thần đạo tàng tên An Trụ. Nước tên Ma-kiệt-đề, thành tên Ca-tỳ-la, trời (Dạ thiên) tên Bà-ta-bà-đà. Dạ thiên tên Thậm Thâm Diệu Đức Ly Cấu Quang Minh. Dạ thiên Hỷ Mục Quán Sánh Chúng Sinh. Dạ thiên thừa đạo tràng chúng tên Diệu Đức Cứu Hộ Chúng Sinh. Dạ thiên tên Tịch Tónh Âm. Dạ thiên tên Diệu Đức Thủ Hộ Chư Thành. Dạ thiên tên Khai Phu Thọ Hoa. Dạ thiên tên Nguyện Dũng Quang Minh Thủ Hộ Chúng Sinh. Dạ tên Diệu Đức Viên Mãn. Con gái dòng họ Thích-ca tên Cù-di. Tên Ma-da phu nhân. Trong thế giới này, trên tầng trời Đao-lợi có vị trời tên Chánh Niệm, trời ấy có cô gái. Tức là Di-lặc. Hậu Văn-thù. Tên Phổ Hiền. LỜI BẠT Âu Dương Tử trong Nhật Bản Đao Ca chép: “Khi Từ Phước đi sách chưa đốt”. Dật thư trăm thiên nay vẫn còn, nghiêm cấm chẳng cho lưu truyền trong nước. Cả đời không ai biết văn xưa ấy. Than ôi, việc này thật hay giả, chưa có bằng cứ, chẳng thể dễ nói. Nhưng đến giáo điển của bậc đại hùng của chúng ta thì thật có, chẳng thẹn khi nói là còn. Bản Khổng Mục Chương được in ra mời tôi xem xét để ghi lời bạt ở cuối sách. Niên hiệu Nguyên Lộc năm Tân Tî, tiết giữa thu (tháng tám âm lịch). Võ Lăng Kim Trạch Tăng Vân Đàm Thụy Huy, viết ở tại Lục Trầm ở Kinh đô. LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 165