<經 id="n1733">HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ</經>







HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN

SỐ 1733

HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ Đời
nhà Đường Sa môn Pháp Tạng thuật.

<卷>QUYỂN 1</卷>

Quy y Đấng Đại Trí rộng sâu, Mười thân vi diệu
Lô-xá-na, Đầy khắp tất cả các pháp giới, Đại
Từ Bi Vô thượng Thế Tôn.

Pháp Phương Quảng xa rời cấu nhiễm, Vầng giải thoát đầy đủ trọn vẹn,

Các vị như Văn Thù-Phổ Hiền…, Hải hội thanh tịnh Đại Bồ-tát.

Con còn nơi đầy đủ phiền não,
Tâm mong cầu pháp môn to lớn, Chỉ nguyện được xót thương gia hộ,

Khiến tăng thêm sức mạnh Niệm-Trí. Mở tạng sâu xa bí mật này,

Lợi ích nhiều cho mình và người, Nguyện làm cho pháp tồn
tại mãi, Truyền rộng ánh đèn báo ân Phật.

Bởi vì Pháp tánh như hư không rộng lớn, không bến bờ mà vượt quá nghe nhìn; Trí tuệ như biển rộng
sâu xa, không cùng tận mà cự
tuyệt nghó bàn. Mịt mù
sâu thẳm, danh ngôn ít tìm được ranh giới ấy; mênh mông
trong suốt, thấy nhau không đến cuối nguồn gốc ấy. Chỉ vì cơ cảm
vô cùng khác biệt, làm mất đi hình thể-ngôn từ mà chứa đầy pháp
giới; tâm cảnh cùng một
ý vị, phai mờ đi chủ động-thụ động mà trở về
vắng lặng. Thể-Dụng không có nơi chốn, dung hòa
trọn vẹn khó lường.
Thế là không có hình
tượng mà hiện rõ hình tượng, giống như Mặt trời
lên cao nơi hang núi; không
có lời nói mà bày tỏ lời nói, khác nào khe lớn dốc hết vào
sóng xanh. Vì vậy bắt đầu từ
Liên Hoa Tạng giới, phát
triển giềng mối
sâu xa vô tận, ràng buộc chủng loại thông hiểu trên cao, dẫn dắt khiến cho bước lên cảnh Phật. Sau đó mới cảm hóa thấm nhuần thế giới
Ta-bà(Nhẫn độ), dần dần trải rộng mây Từ, vẩy ướt
sâu xa để
thấm ba căn, nẩy mầm đạo
mà quay về một mối, thì biết cơ duyên cảm
được khác nhau, cho nên
Thánh ứng phân ra khác biệt. Thánh ứng tuy
khác biệt, mà không nghó
bàn thì như nhau.

Kinh Hoa Nghiêm, đây chính là tập hợp bàn luận mở rộng
về Hải hội, y theo giảng giải đến cùng về núi chúa. Lý trí xa rộng, tận
cùng pháp giới mà kéo
dài nguồn gốc chân thật; lời nhỏ mênh mông,
 khác nào hư không mà che phủ vô biên cõi nước. Thế là không thiếu lớn nhỏ,
 giấu cõi lớn để đưa vào mảy lông; chưa đổi lớn nhỏ,
 hòa cực vi để rộng khắp pháp giới. Vì thế dùng mạng lưới
Nhân-đà-la đan xen hình ảnh
lẫn nhau mà trùng trùng,
thỏi Pha-lê sáng rực soi chiếu vô lượng thế giới mà ẩn ẩn. Một ngay nơi nhiều mà vô ngại, nhiều tức là một mà
viên dung. Thâu nhiếp chín
đời mà đưa vào sát-na, dãn ra một niệm mà
bao gồm nhiều kiếp. Ba đời
đến cuối cùng, chủng tử kiên cố mà làm
nhân; mười Tín đầy đủ
đạo, hiển bày đức rộng mà thành quả. Quả không có quả của nhân khác, tách ra năm vị để
phân đường; nhân không có
nhân của quả khác, tổng
hợp mười thân để như nhau. Vì vậy, Giác mẫu
dựa vào cơ ở thành
Đông, sáu ngàn sớ giải về mười Nhãn ấy; Đồng tử
hỏi tìm bạn ở nước
Nam, đủ một trăm mười người thành tựu trong một
đời. Toại nguyện khiến
cho không vượt qua Thọ vương, sáu cõi trời đến nơi này. Nào chuyển dời
Hoa Tạng, mười cõi rỗng rang dung hợp.
Chỉ ra kệ báu ở trong mảy
trần, cùng nhau chiếu rọi tám Hội. Mở ngọc chúa ở tánh đức, bảy Xứ rõ ràng đầy đủ. Âm vang mênh mông, cách xa
nghó bàn mà trở lại
vượt ra; sừng sững rực rỡ, vượt quá nghe nhìn hướng
về đui điếc. Vì vậy,
Xá-na bắt đầu luyện tập suy xét ở Hải ấn, sáng
sớm ngày thứ mười
bốn liền phát khởi; Long Thọ cuối cùng cúi xuống
xem xét ở Cù cung, sáu
trăm năm sau mới hiển bày.
Nhưng mà Đại thì lấy bao hàm làm Nghóa, Phương thì lấy quỹ pha- ïm làm Công, Quảng tức là Thể cao nhất-Dụng rộng khắp, Phật chính
là Quả tròn vẹn-Giác
đầy đủ, Hoa ví như vạn hạnh nở rộ, Nghiêm ví như

tô điểm cho
Thể vốn có ấy, Kinh tức là xuyên suốt nối liền.
Giáo chủ động giải thích
(năng thuyên) đưa ra, thuận theo pháp-dựa vào
người- nương nhờ dụ
để làm đề mục, cho nên gọi là Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh.
Thế Gian Tịnh Nhãn Phẩm, ba loại như
Khí thế gian… hiển bày chiếu
sáng đối với thời gian,
sáng rực
sạch
sẽ chiếu rọi rõ ràng ví như mắt
sáng
(tịnh nhãn),
pháp-dụ-hợp đưa ra cho nên
gọi là Thế gian Tịnh
Nhãn; ngôn ngữ cùng một lý, quy cách và chủng
loại thuận theo nhau, cho
nên gọi là Phẩm. Kinh này có ba mươi bốn
phẩm, phẩm này kiến lập
đầu tiên cho nên gọi là thứ nhất. Vì vậy nói là
Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh Thế Gian Tịnh Nhãn Phẩm
Đệ Nhất. Nghóa còn lại
như sau giải thích.
Muốn giải thích về kinh này
sơ lược tách ra mười môn:
Một-Trình bày về nguyên do khởi giáo;
Hai- Dựa theo Tạng bộ trình bày về
nơi thâu nhiếp; Ba- Hiển
bày về sự thiết lập giáo sai biệt; Bốn- Lựa chọn giáo đã che phủ cơ;
Năm- Phân rõ về
Giáo Thể chủ động giải
thích; Sáu- Trình bày về
Tông chỉ thụ động giải thích; Bảy- Giải thích đầy đủ đề mục của kinh;
Tám- Trình bày về Bộ loại
truyền dịch;
Chín- Phân rõ về phạm vi của văn
nghóa; Mười- Tùy văn giải thích.

Một- Trình bày về nguyên do khởi giáo: Trước là tổng quát
phân rõ, sau là riêng biệt hiển bày.
Tổng quát là nói đến vô lượng nhân duyên phát khởi
của Đại giáo. Vì vậy đầu tiên của
Trí Luận, mở rộng phân rõ về nhân duyên phát khởi của
giáo Bát-nhã: “Như núi
Tu-di không bởi vì vô cớ và nhân duyên nhỏ bé mà có thể làm cho lay động; Phật cũng như vậy, bởi
vì nhân duyên to lớn mà
có sự thuyết giảng, đó gọi là Bát-nhã
Ba-la-mật, lưu hành ở thế gian làm nhiều lợi ích cho quần
sinh.”
Pháp Hoa cũng nói: “Như Lai vì
một Đại sự nhân duyên cho nên xuất hiện ở thế
gian, đó gọi là khai thị
ngộ nhập Phật tri kiến…” Kinh này về sau nói:
Như Lai Ứng Cúng Đẳng
Chánh Giác tánh khởi Chánh pháp không thể nghó bàn. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không phải là một ít nhân duyên
thành Đẳng Chánh Giác
xuất hiện ở thế gian, mà mười loại Vô lượng vô
số trăm ngàn A-tăng-kỳ
nhân duyên, thành Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian. Những gì là mười? Một là phát tâm Bồ-đề vô lượng không
rời bỏ tất cả chúng
sinh, như vậy cho đến nói rộng ra nên biết.
Tiếp là riêng biệt hiển bày,
sơ lược nêu ra mười nghóa để trình bày về
Vô tận. Những gì là mười? Đó là:
1) Bởi vì pháp vốn như vậy;
2) Bởi vì nguyện lực;
3) Bởi vì cơ cảm;
4) Bởi vì vốn có;
5) Bởi vì hiển bày về đức;
6) Bởi vì hiển bày về phần vị;
7) Bởi vì khai phát;
8) Bởi vì thấy nghe;
9) Bởi vì thành tựu công hạnh;
10) Bởi vì đạt được quả. Bởi vì pháp vốn như vậy: Pháp của tất cả chư Phật vốn như vậy đều hướng về thế giới vô tận, thường chuyển pháp luân vô tận như vậy;
như con đường của bậc Đại Vương, pháp vốn như
vậy theo lệ thường, không có dừng lại, không có
ngưng nghỉ, tận cùng thời gian vị lai.
Vì vậy, văn
sau trong phẩm
Bất Tư Nghị nói: Tất cả thế giới như pháp giới
hư không…, đều dùng đầu mảy lông đo lường
rộng khắp. Mỗi một đầu
mảy lông ở trong niệm niệm, hóa ra thân như số vi
trần trong Bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, cho đến tận cùng đời kiếp trong thời gian
vị lai. Mỗi một thân của Hóa Phật có đầu như số
vi trần trong Bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi một đầu có lưỡi như
số vi trần trong
Bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi một
lưỡi phát ra âm thanh như
số vi trần trong Bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi một âm thanh thuyết ra
Tu-Ä‘a-la nhÆ°
số vi trần trong Bất khả thuyết bất khả
thuyết cõi Phật. Mỗi một Tu-đa-la thuyết về pháp
như số vi trần trong
Bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi
một pháp nói về Cú thân-Vị thân như
số vi trần trong Bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, lại trong đời kiếp như
số vi trần trong Bất khả thuyết bất khả thuyết cõi
Phật nói về Cú thân-Vị thân khác nhau, âm thanh
tràn đầy pháp giới, tất cả chúng
sinh không có ai
không nghe, tận cùng tất cả đời kiếp trong
thời gian vị lai thường chuyển Pháp luân, âm thanh
của Như Lai không
khác nhau, không dứt đoạn, không có thể cùng tận.

Giải thích: Theo văn kinh này, ở nơi một đầu mảy lông, ở trong một niệm phát ra nghiệp dụng như trên, trong niệm niệm khác cũng
đều như vậy. Như ở một đầu mảy lông, nghiệp dụng trong niệm niệm
vô tận như vậy, mỗi một
đầu mảy lông khác theo thứ tự rộng khắp tất
cả thế giới như pháp
giới hư không, tất cả đều vô tận-vô tận như vậy.
Đây tức là Xứ dùng
đầu mảy lông để bao gồm pháp giới, Thời dùng
sát-na để tận cùng đời kiếp, nghóa là ở Xứ này trình bày về lập tức khởi
lên nghiệp dụng, nghóa là ở Thời này trình bày về luôn luôn khởi lên
nghiệp dụng. Ở đây
cũng không đợi nhân duyên, pháp của chư Phật vốn
như vậy. Văn sau của kinh này đã nói đều như vậy. Hỏi: Nếu như vậy thì vì
sao Xứ chỉ có tám Hội, Thời hạn chế
ở mười bốn ngày?
Đáp: Phẩm
Lô-xá-na nói: Trong mỗi một vi trần an trú nhiều cõi Phật, mây Phật hộ niệm đầy khắp che phủ tất cả.
Lại nói: Vô lượng cõi Phật trong một lỗ chân lông, thanh tịnh trang nghiêm an trú
không sánh được,
Phật Lô-xá-na ở tất cả nơi ấy, ở giữa chúng hội diễn thuyết về

Chánh pháp. Giải thích: Ví như Xứ là tám Hội mà không thâu nhiếp đầy đủ pháp giới
mười phương. Lại phẩm
Phát Tâm nói: Biết vô lượng kiếp tức là một niệm, một niệm tức là vô
lượng kiếp.
Giải thích: Ví như
Thời là mười bốn ngày mà không thâu nhiếp vô lượng đời kiếp.
Phẩm Bất Tư Nghị nói: Tất cả chư Phật ở trong một vi trần đều hiện rõ tất cả cõi
Phật trong ba đời, ở trong một vi trần đều hiện rõ thần lực tự tại của chư
Phật trong ba đời, ở
trong một vi trần đều hiện rõ tất cả chúng sinh
trong ba đời, ở trong một vi trần đều hiện rõ
Phật sự của tất cả chư Phật trong
ba đời. Giải thích: Trong
này, ba đời trong một vi trần bao quát chung
tất cả đời kiếp của
thời gian trước sau, đây gọi là pháp của chư Phật
vốn như vậy cho nên luôn luôn thuyết ra.

Bởi vì
nguyện lực: Đó là bởi vì nguyện lực vốn có của
Như Lai, khiến cho giáo pháp này hợp với căn cơ mà biểu
hiện rõ ràng. Vì vậy phẩm
Lô-xá-na nói: Tất cả thế giới hải trong quốc độ
mười phương,
nguyện lực tự tại của Phật đều hiện rõ chuyển
pháp luân. Lại nói: Bởi vì thần lực của
Phật Lô-xá-na, mà chuyển pháp luân trong tất cả các
cõi, Bồ-tát Phổ Hiền nguyện cầu cho âm thanh, tràn
đầy khắp nơi tất
cả các thế giới. Giải thích: Tức là kinh này bao gồm mười phương, tất
cả thế giới như pháp giới hư không và trong các
quốc độ bên trong các
mảy trần, cùng lúc nói về kinh này, đều là do
nguyện lực của Đức Bổn Sư mà dẫn đến. Vì vậy các
Hội sau, bắt đầu đều nói do nguyện lực vốn
có của Phật Lô-xá-na.

Lại tụng trong phẩm Vân Tập nói: Vô lượng vô số đời kiếp, pháp này rất khó gặp được, nếu có người được nghe đến, nên biết nguyện
lực vốn có. Giải thích:
Đây tức là do nguyện lực của Phật khiến cho
chúng được nghe. Lại
nói: Như Lai không xuất thế, cũng không có
Niết-bàn, bởi vì Đại
nguyện lực vốn có, pháp tự tại hiển bày rõ ràng.

Bởi vì cơ cảm:
Như Lai bình đẳng không có đổi khác, tùy thuận chúng
sinh mà hiện thân
thuyết pháp. Điều này có
ba nghóa: Một, dùng công đức thanh tịnh của
sắc thanh trong quả Phật làm duyên
tăng thượng, thuận theo cơ cảm của chúng
sinh để thành tựu nhiếp hóa. Kệ trong phẩm
Vân Tập nói: Có mắt có ánh sáng mặt trời,
luôn luôn trông thấy sắc vi tế, bởi vì thần lực thù
thắng nhất, tâm thanh tịnh thấy được chư Phật (đây là
hiện thân). Lại trong phẩm
Pháp Giới nói: Phật đối với công hạnh quá khứ, đạt được một âm thanh vi diệu, vô tâm với bên này bên kia, mà luôn luôn thích ứng tất cả (đây là
thuyết pháp). Hai, quả Phật không có tướng
thô của sắc thanh, nhưng vì nguyện lực tăng thượng
và lý trí bình đẳng,
cơ cảm tương ưng mà hiện rõ có hình tướng-ngôn
ngữ. Kệ trong phẩm

Vân Tập nói:
Hết thảy chư Phật trong ba đời, Pháp thân đều hoàn
toàn thanh tịnh, tùy theo
chúng sinh mà ứng hóa, hiện rõ thân diệu sắc
khắp nơi. Lại nói: Hết
thảy Như Lai trong ba đời, không có thuyết giảng
về Phật pháp, tùy theo
chúng sinh mà ứng hóa, rồi vì họ phát triển thuyết pháp. Ba, nối thông hai nghóa có-không vô ngại trên đây, bởi vì hợp
với pháp giới không có
chướng ngại. Trong phẩm Lô-xá-na nói: Thân
Phật đầy khắp các pháp giới, hiện rõ trước tất cả chúng
sinh khắp nơi, căn cơ tiếp nhận giáo hóa đều đầy đủ, mà Phật luôn ở tại cây
Bồ-đề này. Phật nơi ấy như
số vi trần trong tất cả cõi Phật, an tọa trong một lỗ chân lông đều có vô lượng
chúng Bồ-tát, đều vì tất cả nói đầy đủ về hạnh
Phổ Hiền. Giải thích:
Chính là phạm vi đã nói của kinh này.

Bởi vì vốn có: Nghóa là muốn thuận theo căn cơ cho nên dần dần thi thiết về giáo không quan trọng
(mạt giáo), đương nhiên trước
phải nêu rõ pháp căn bản (bổn giáo) lúc đầu,
trình bày về sau dựa vào phương thức này để phát khởi
Mạt giáo. Vì vậy lúc đầu nói về pháp của
kinh này, sau đó mới hướng về các nơi như vườn
Nai (lộc viên)… dần dần nói đến pháp chi tiết vụn vặt(chi mạt) như pháp Tiểu thừa… Lại về
sau trong phẩm
Tánh Khởi nói: Giống như mặt trời mọc trước tiên chiếu
rọi núi cao… Như trong phần Lập giáo ở sau đưa ra giải thích.

Bởi vì hiển bày về đức: Nghóa là hiển bày về đức thù thắng của quả Phật, khiến cho các Bồ-tát tin tưởng hướng về chứng đắc. Ở đây có
hai loại: Một, Y quả đó là
Liên Hoa Tạng trang nghiêm thế
giới hải; hai, Chánh quả đó là mười thân của
Như Lai nối thông với ba thế gian…
Đều nói như văn sau. Hai vô ngại này có bốn câu:
Một là trong Y hiện rõ Y, như trong vi trần hiện rõ
sát hải; hai là trong Chánh hiện rõ Chánh, như lỗ chân lông hiện rõ Phật…; ba là trong Chánh hiện rõ Y, như lỗ
chân lông hiện rõ cõi nước…; bốn là trong Y
hiện rõ Chánh, như trong vi trần hiện rõ
Phật… Vì vậy tùy theo đưa ra một môn thì thâu nhiếp tất cả, không có gì không đều tận cùng, đều như
sau
giải thích, vì hiển bày
về quả đức này cho nên nói kinh này.

Bởi vì hiển bày về phần vị: Bởi vì hiển bày Bồ-tát tu hành về
nhân của Phật, vốn là một đường đến quả đầy
đủ năm phần vị. Ở đây cũng có
hai loại: Một, thứ đệ hành bố môn, nghóa là
sau khi đầy đủ
Thập Tín-Thập Giải-Thập Hạnh-Thập Hồi Hướng-Thập Địa, mới đến
Phật địa, dần dần từ nhỏ bé đến được tầng
bậc của phần vị. Hai, viên
dung tương nhiếp môn, nghóa là ngay trong một phần vị thâu nhiếp tất
cả các phần vị trước sau, vì vậy mỗi một phần
vị đầy đủ đều đến
Phật địa. Hai vô ngại này rộng ra như văn các Hội sau đã nói.

Bởi vì khai phát: Bởi vì muốn khai phát công đức của tánh khởi
Như Lai Tạng trong tâm
chúng sinh, khiến cho các Bồ-tát dựa
vào đây tu học để phá vỡ vỏ cứng của Vô
minh mà hiển bày tánh đức. Ở đây cũng có
hai loại: Một, dùng lời nói giảng giải để biểu hiện rõ
ràng, khiến cho biết là vốn có. Hai, chỉ dạy tu
hành pháp môn ấy cho nên được hiển bày rõ ràng. Như văn
sau phá vỡ vi trần xuất hiện quyển
kinh…, đầy đủ như phần ấy nói.

Bởi vì thấy nghe: Nêu rõ pháp môn vô tận tự tại này, chỉ là
cảnh giới của Đại Bồ-tát ở phần vị cao nhất,
mà khiến cho các chúng
sinh ở những phần vị dưới thấp đối với điều thấy nghe này, lại được thành tựu chủng tử
Kim Cang ấy không phá hủy-không dùng hết, vì vậy
cần phải làm cho họ đến được phần vị cuối
cùng, cũng như phẩm Tánh Khởi nói.

Bởi vì thành tựu công hạnh: Nghóa là nêu rõ về pháp môn cùng
khắp này khiến cho các Bồ-tát thành tựu hạnh
Phổ Hiền, một hạnh tức
là tất cả các hạnh, lúc mới phát tâm đã
thành Chánh giác, đầy đủ Tuệ thân không nhờ người khác mà ngộ.
Lại nói: Bồ-tát thọ trì pháp này,
ít dấy lên phương tiện, nhanh chóng đạt được
A-nậu Đa-la Tam miệu Tam-bồ-đề… Ở đây cũng có
hai loại: Một, nhanh chóng thành tựu nhiều
hạnh; hai, khắp nơi thành tựu hạnh Phổ Hiền, đều nói như sau.

Bởi vì đạt được quả: Bởi vì khiến cho đạt được quả
Trí-Đoạn của
Phật địa, cũng có
hai loại: Một, quả Đoạn nghóa là bởi vì
trừ chướng, tức là trong phẩm
Phổ Hiền trình bày một chướng là tất cả chướng,
phẩm Tiểu Tướng trình bày một đoạn thì tất cả
đoạn, rộng ra như
sau nói. Hai, quả Trí nghóa là bởi vì thành tựu đức, đầy đủ mười thân tận
cùng ba thế gian, nghịch-thuận tự tại, Y-Chánh vô
ngại, nói như phẩm
Bất Tư Nghị… Trên đây sơ lược dựa vào mười
nghóa hiển bày rõ ràng
như vậy, mà khiến cho kinh giáo này phát khởi.

Hai- Dá»±a theo
Tạng bộ trình bày về nơi thâu nhiếp. Sơ lược
hiển bày mười nghóa để
trình bày về thâu nhiếp:
1) Trình bày về ba Tạng;
2) Hiển bày về nơi thâu nhiếp;
3) Phân rõ về hai Tạng;
4) Giải thích trái ngược nhau;
5) Tách ra chủng loại;
6) Xác định về nơi thâu nhiếp; Một bộ thâu nhiếp;
8) Ba bộ thâu nhiếp;
9) Hoặc là chín bộ;
10) Đủ mười hai bộ.
Trình bày về ba Tạng:

Một gọi
là Tu-đa-la, hoặc nói
là Tu-đố-lộ, hoặc nói là
Tố-đát-lãm, Trung Hoa nói
là Khế kinh. Khế có hai nghóa, đó là bởi vì khế lý,
bởi vì hợp cơ. Kinh cũng
có hai nghóa, đó là bởi vì xuyên suốt pháp tướng,

bởi vì thâu
nhiếp giữ gìn pháp đã giáo hóa. Xuyên suốt, Thế
Thân giải thích rằng: “Gọi là chủ động xuyên
suốt, bởi vì dựa vào, bởi vì tướng, bởi vì pháp, bởi vì nghóa cho nên gọi
là Tố-đát-lãm. Nghóa là ở nơi này, từ chỗ này vì điều này mà có
sá»±
giảng giải, gọi đó là dựa vào; tướng của Chân đế-Tục đế, gọi đó là tướng; mười pháp
thiện xảo…, gọi đó là pháp; tùy theo ý
sâu kín… để nói về các pháp, gọi đó là nghóa.” Lại trong
luận Vô Tánh giải thích
là xuyên suốt nối liền nhau. Giải thích: Xuyên
suốt là nghóa về khế
nhập, nối liền nhau là nghóa về khế hợp, nghóa là dùng Thánh ngôn xuyên
suốt nghóa lý, khiến cho không thất lạc tản
mác, khiến cho không che
kín mịt mù, nối liền tất cả với nhau, khiến cho trở thành thứ tự rõ ràng, khiến cho được tồn tại lâu dài. Trong luận
Phật Địa nói: “Luôn luôn nối liền, luôn luôn thâu nhiếp cho nên gọi là kinh,
dùng Thánh giáo của Phật
xuyên suốt thâu nhiếp giữ gìn nghóa lý thích hợp đã nói và chúng
sinh đã giáo hóa, gọi là
Khế kinh. Kinh khế lý là Y
chủ thích, Khế kinh tức
là Tạng thuộc về Trì nghiệp thích.” Lại năm
nghóa trong luận
Tạp Tâm: Một là
Dũng tuyền, hai là
Xuất chủ, ba là
Hiển thị, bốn là
Thằng mặc, năm là
Kết tràng. Đích thực phiên dịch gọi là
Tuyến (sợi chỉ), vì
sao nói là
Kinh? Nghóa là
sợi chỉ có thể luồn qua những
đóa hoa, Kinh (sợi dọc)
có thể giữ lấy Vó (sợi ngang), nghóa dụng tương
tự, nhưng bởi vì ở
phương này tôn trọng danh từ Kinh mà không coi
trọng danh từ Tuyến, vì
vậy người phiên dịch thuận theo sự tôn trọng ấy
mà bỏ chữ Tuyến giữ
lại chữ Kinh, từ ví dụ mà lập thành tên gọi.
Hai gọi
là Tỳ-nại-da,
Trung Hoa nói là điều phục, điều là điều khiển hài hòa, phục là làm cho mất đi, điều hòa chế ngự
nghiệp của thân-ngữ…, chế phục trừ diệt các hành xấu ác. Đây là giải thích
về hành, gọi là Tạng
điều phục. Hoặc phiên dịch gọi là Diệt, Diệt có ba nghóa: Một là diệt nghiệp
sai trái, hai là diệt phiền não, ba là đạt được
quả về diệt. Hoặc gọi
là Thi-la, Trung Hoa gọi là Thanh lương, ba
ng- hiệp lầm lỗi sai trái
giống như ngọn lửa đốt cháy, Giới có năng lực
diệt trừ cho nên nói là
Thanh lương (mát lành). Trong luật Thập Tụng
gọi là tánh thiện, hoặc
nói là giữ gìn niềm tin, bởi vì như trước đây đã
tiếp nhận thật sự luôn
luôn giữ gìn. Hoặc nói là Ba-la-đề Mộc-xoa,
Trung Hoa gọi là Tùy thuận
giải thoát, bởi vì giữ giới cho nên thuận theo
đến giải thoát, cũng
gọi là Biệt giải thoát.
Ba gọi là
A-tỳ-đạt-ma tạng. Đạt-ma gọi là pháp,
A-tỳ có bảy nghóa: Một gọi là Đối pháp, ở đây có hai nghóa, một là Đối
hướng, nghóa là nhân
của Trí hướng đến quả Niết-bàn; hai là Đối quán, nghóa là quả của Trí quán cho nên chứng
Diệt của Niết-bàn, tuy nhân của Trí mà cũng có Đối quán, nhưng bởi vì ngưỡng mộ tiến tu cho nên chỉ gọi
là Đối hướng.
Nhiếp Luận của
Thế Thân nói: “Pháp này Đối hướng
không trú vào Niết-bàn,
cho nên có thể nói đến các Diệu môn như các Đế và Bồ-đề phần…” Đây là dựa theo nhân của
Trí mà nói, đây chỉ là
thụ động giải thích. Hai
gọi là Số pháp, Lương Nhiếp Luận giải thích
rằng: “Trong các pháp
tùy theo một pháp, hoặc dùng danh tướng, hoặc
dùng tướng riêng, hoặc dùng
tướng chung…, bởi vì thường xuyên hiển
bày về một pháp này,
cho nên gọi là Số pháp”. Ba gọi là Phục pháp,
Luận ấy nói: «Pháp này
có thể điều phục các thuyết, lập phá hai năng, chủ động thiết lập, chủ động phá bỏ, bởi vì đích thực nói về các
phương tiện như y chỉ…,
cho nên gọi là Phục.» Bốn gọi là Thông pháp, bởi
vì pháp này có thể giải
thích tất cả nghóa trong Khế kinh. Khế kinh gọi
là pháp, pháp này có
thể nối thông với pháp kia, tức là sụ nối thông của pháp.
Lương Nhiếp Luận gọi là
Giải pháp, bởi vì nghóa về
A-tỳ-đạt-ma và Tu-đa-la
dễ hiểu. Năm gọi là Vô tỉ pháp, sáu gọi là Đại pháp, bảy gọi là
Trạch pháp, ba loại này chỉ dựa theo thụ động
giải thích.
Lại trong luận Thuận Chánh
Lý nói: «Hoặc Khế kinh gọi là Đạt-ma,
Luận có thể quyết định rõ ràng gọi là Đối pháp.» Đây tức là dùng giáo
đối với giáo, giống như Thông pháp ở trên. Hoặc nói là
Ma-đắc-lặc-già, Trung Hoa gọi là
Bổn Mẫu, dùng giáo cùng với nghóa, làm
gốc-làm mẹ, cũng gọi
là Phân biệt giải thoát. Hoặc nói là Ưu-ba-đề-xá,
Trung Hoa gọi là
Luận Nghóa, trong
Tạp Tập gọi là
giải thích. Ba loại như Khế kinh… trên đây, đều hàm chứa thâu nhiếp thụ động giải thích đưa
ra nghóa lý, đều gọi là
Tạng. Luận Trang Nghiêm thứ tư nói: «Ba loại kia và hai loại này vì
sao gọi là
Tạng? Đáp: Bởi vì
thâu nhiếp, nghóa là thâu nhiếp tất cả nghóa thích ứng đã biết.» Tạng đầu gồm chung Trì nghiệp và Y chủ, hai
Tạng sau chỉ có Y chủ, bởi vì từ thụ động
giải thích làm tên gọi,
còn lại đưa ra Thể tánh và các môn phân biệt,
rộng ra như giải thích
riêng biệt.

Hiển bày về nơi thâu nhiếp:

Kinh này Tạng
nào thâu nhiếp? Hoặc là chỉ riêng Khế kinh thâu nhiếp, bởi vì không phải là hai
Tạng khác. Hoặc là hai Tạng thâu
nhiếp, bởi vì có quyết
trạch nghóa lý cho nên Đối pháp thâu nhiếp. Hoặc là ba Tạng
thâu nhiếp, bởi vì văn
sau cũng hiển bày về các giới hạnh. Đây
là phân rõ dựa theo
giáo giống nhau. Hoặc là văn sau do mười Tạng
thâu nhiếp, bởi vì
chủ-bạn đầy đủ hiển bày về vô tận. Đây là
dựa theo Biệt giáo.

Hỏi: Ba Tạng
dựa vào giáo, mười Tạng dựa theo nghóa, làm
sao
dùng nghóa mà nói là thâu nhiếp giáo? Đáp:
Nếu Tiểu Thừa thì giáo và nghóa đều không dung hợp, Tam thừa thì nghóa dung hợp mà giáo
không dung hợp, Nhất thừa
thì giáo và nghóa đều dung hợp, vì vậy nhất
định thâu nhiếp. Như ý nói quán vô phân biệt tiến vào giáo thâu
nhiếp…, trong Tam thừa đã có huống gì Nhất thừa ư? Nhưng nêu gọi biểu thị
tức là thuộc về giáo
thâu nhiếp, suy nghó có thể thấy.

Dựa theo phân rõ về hai Tạng:

Đó là Thanh
văn tạng và Bồ-tát tạng. Một là dựa theo Tiểu
căn Thanh văn, thiết lập
ba Tạng giáo giải thích nêu rõ về Lý-Hạnh-Quả… của Thanh văn làm
Thanh văn tạng. Hai là dựa theo Đại căn
Bồ-tát, thiết lập ba Tạng giáo giải thích nêu rõ về những pháp như công
hạnh… của Bồ-tát làm
Bồ-tát tạng. Luận Trang Nghiêm thứ tư nói: “Ba
Tạng này bởi vì
sai biệt về
Thượng thừa và
Hạ thừa, cho nên lại nói là
Thanh văn tạng và Bồ-tát tạng”.

Giải thích trái ngược nhau.

Hỏi: Trong kinh cũng nói: Vì người cầu Duyên giác nói về
mười hai nhân duyên, vì
sao không gọi là Duyên giác tạng?

Đáp: Bởi vì
các Duyên giác cũng chỉ đoạn Ngã chấp, chỉ
chứng Sinh Không, thành tựu
quả La-hán, nhập diệt
không khác,
so vá»›i
Bồ-tát đều là Hạ thừa
cho nên không nói riêng biệt.

Hỏi: Như nhau
đều là Hạ thừa, vì sao chỉ gọi là Thanh văn tạng? Đáp: Bởi vì Duyên giác cũng có vị xuất hiện ở đời không có
Phật, không có giáo pháp; Thanh văn thì không như vậy cho nên một mình

được tên gọi.

Hỏi: Trong giáo Tiểu thừa cũng có giải thích nêu rõ về pháp
của Bồ-tát thừa, sao
cũng không gọi là Bồ-tát tạng?

Đáp: Bởi vì
Tông chỉ của Bồ-tát kia đã đoạn, đã chứng, đã
nhập Niết-bàn cũng không có gì
sai biệt với
Nhị thừa, lại bởi vì
Bồ-tát chỉ một chứ không nhiều
cho nên cũng không nói. Hỏi: Nếu như vậy thì tại
sao phẩm
Tam Tạng trong kinh Phổ
Siêu Tam Muội và luận
Nhập Đại Thừa, nói Tam thừa kia tức là ba
Tạng, một là Thanh văn
tạng, hai là Duyên giác tạng, ba là Bồ-tát tạng?

Đáp: Bởi vì
trong kinh và luận ấy, đều nói trong Đại thừa có
ba Tạng này, không phải là nói đến Tiểu. Hỏi: Chỉ dựa vào văn này thì Duyên giác có ba Tạng, cùng
với luận Trang Nghiêm làm
sao có thể giải thích?
Đáp: Trước
dựa vào Lý-Quả không khác cho nên phù hợp, ở đây dựa theo
Giáo-Hạnh nhỏ bé riêng biệt cho nên phân ra. Vì vậy hai

thuyết không trái ngược nhau.

Tách ra chủng loại:

Ngay trong
Thanh văn tạng, dựa theo các kinh luận tách ra
ba loại: Một là Tranh luận
Thanh văn tạng, nghóa là Khế kinh Tứ
A-hàm, năm Bộ điều phục, mười hai Đối pháp, tranh cãi làm trái lẫn nhau, điều đã nói không
giống nhau, không trở ngại
Thánh quả, vì thế cho nên
gọi chung là Tranh Luận
tạng. Hai là Xứng thật Thanh văn tạng, nghóa
là như Du-già Thanh văn
địa và Thanh Văn quyết trạch, giải thích nêu
rõ về Hạnh-Vị-Quả…
của Thanh văn, thảy đều xứng thật tương ưng
cùng với lý, không
giống như Bà-sa và các luận khác, bởi vì đã nói đến Bổ xứ cho nên không phải là các luận khác mà có thể
tranh luận, vì thế
cho nên gọi chung là Xứng
Thật Thanh văn tạng. Hỏi: Trong này vốn nói đã cùng với các bộ Tiểu thừa không
giống nhau, lẽ nào người
hàng Thanh văn có hai loại hay sao? Đáp: Đây là dựa theo trong giáo nói pháp Thanh văn tận cùng mà lý không tận cùng, cho nên tách ra làm hai, chứ không phải là nói
Thanh văn cũng có sai biệt.
Ba là Giả lập
Thanh văn tạng, như trong
kinh Đại thừa, bởi vì
dẫn dắt Thanh văn khiến
cho hồi tâm, cho nên pháp môn đã thiết lập cũng giống như danh
số Thanh văn mà nói, như Vô tác Tứ Đế và Đạo
phẩm… Như trong các kinh Đại thừa nói, không có thể dẫn ra nhiều. Đã
không phải là pháp học
của Bồ-tát, cho nên gọi là Giả lập Thanh văn tạng.

Hỏi: Trong này
tên gọi tuy giống với Tiểu thừa mà nghóa thật
sự là Đại, sao có thể
nói chung là Thanh văn tạng?

Đáp: Chỉ vì
nghóa này mà gọi là Giả lập.

Hỏi: Những người thuộc hàng Thanh văn căn thuần thục-hồi
tâm, pháp đã học tức
là Bồ-tát tạng thâu nhiếp, Tạng giả lập này đối vơi
họ đâu cần đến?
Đáp: Nhưng
Thanh văn hồi tâm có hai loại: Một là mạnh mẽ, hai là kém cỏi. Mạnh mẽ thì hăng hái tiến vào Đại không nhờ
đến Tạng này. Kém cỏi hãy còn
sợ Đại, vì vậy phương tiện giống với danh
số
kia, khiến cho dễ tin nhận,
cho nên thiết lập môn này.
Thứ hai trong
Bồ-tát tạng, dựa theo các Thánh giáo cũng có
ba loại: Một là Bồ-tát
tạng trong Tiểu thừa, nghóa là giải thích nêu ra
Bồ- tát dựa vào ba mươi
bốn tâm… theo thứ tự thành Phật, cũng không
bàn đến hành vị của
Thập Địa, nhưng lại không giống với các Thanh văn…, như luận
Bà-sa
Câu-xá nói. Hai là
Bồ-tát tạng trong Đại thừa
Cọng giáo, nghóa là giải
thích nêu ra hành vị theo thứ tự của Bồ-tát, tuy nói
có hồi tâm-thẳng tiến không
giống nhau, mà cùng dựa vào hành
của Thập Địa trải rộng
dần dần tu đến quả Phật, như Du-già Bồ-tát Địa
và trong các kinh luận Đại
thừa đã nói. Ba là Bồ-tát tạng trong Bất
cộng giáo, giải thích nêu
ra Bồ-tát dựa vào hành vị Phổ Hiền, năm phần
vị viên dung, nghóa là một
phần vị tức là tất cả phần vị, một hạnh tức
là tất cả hạnh, trọn
vẹn cùng tận pháp giới, tự tại vô ngại, trước
sau
đều như nhau. Mỗi một
phần vị đầy đủ tức là thành tựu mười Phật,
chủ-bạn đầy đủ. Vì
vậy Trí Luận nói: «Bát-nhã Ba-la-mật có hai: Một là
Cọng, nghóa là bởi vì
kinh Đại Phẩm này và kinh Phương Đẳng khác cùng
nói cho các Thanh văn. Hai
là Bất cọng, nghóa là bởi vì kinh Bất Tư
Nghị không cùng nói cho
Thanh văn. Giải thích: Trong này Tiểu của cọng Đại không phải là
Ngu pháp, Đại của cọng Tiểu không phải là
Biệt giáo, vì thế cho nên
có ba Bồ-tát tạng.

Hỏi: Bồ-tát và Thanh văn vốn có hai Tạng riêng biệt, tức là
hai người ấy đều đạt
được quả riêng biệt, trong Bồ-tát tạng đã phân ra
ba phần vị, thuận theo ba
bậc Bồ-tát thành Phật khác nhau chăng? Đáp:
Thành Phật chỉ là một, nhưng cơ có
cạn sâu, giáo nói ba
loại, không phải là nói
Thể thành Phật thật sự có ba, nay dựa vào giáo
tách ra chứ không dựa
theo Thể của Phật.

Hỏi: Nếu ba thuyết đều hợp lý, thì Thể của Phật cũng thành ba.

Nếu lý thành
Phật là một, thì hai thuyết tức là hư dối?
Đáp: Đối
với một lý thành Phật, tất cả có ba nghóa: Một là môn lấy gốc theo ngọn, như thuyết về
Tiểu thừa, bởi vì giống với
Thanh văn; hai là môn tách gốc
khác ngọn, như thuyết về Cọng giáo, bởi vì
cùng với Thanh văn đối
lập với nhau phân rõ về khác biệt; ba là môn
ngọn hết chỉ có gốc, như
thuyết về Bất cọng giáo, bởi vì Nhị Thừa đui điếc không có
so
sánh khác nhau. Thể của Phật viên dung có đủ ba
nghóa này, vì vậy ba
thuyết đều khác nhau; Phật không có bao nhiêu, vì
vậy nay trong Bồ-tát tạng có ba loại này.

Xác định về nơi thâu nhiếp:

Kinh này Tạng nào thâu nhiếp? Đều không phải là ba tạng
Thanh văn trước đây
thâu nhiếp, ở trong ba loại
sau thuá»™c
Bồ-tát tạng
đích thực chỉ thuộc về
loại sau, bởi vì trong Trí Luận riêng biệt chỉ ra kinh này là
Bất cọng. Hoặc trong ba loại chỉ trừ một loại đầu, hai loại
sau đều thâu nhiếp, bởi
vì trong kinh này có đủ chung và riêng. Hoặc
cũng nối thông với Giả
lập Thanh văn tạng kia thâu nhiếp, bởi vì trong
kinh cũng phân rõ về Tứ
Đế… Hoặc cũng tổng quát nối thông với hai
Tạng đã thâu nhiếp, bởi vì pháp trong Thanh văn tạng đều dựa vào Nhất thừa
pháp giới
mà lưu thông, cho nên ý vị không khác biệt.

Một bộ thâu nhiếp:

Ở trong mười hai Bộ, hoặc chỉ dựa theo một bộ
Phương Quảng mà thâu nhiếp. Luận Đối
Pháp nói: Vốn là nơi nương tựa làm lợi ích an lạc cho tất cả
chúng sinh, tuyên thuyết về pháp rộng lớn
rất sâu, cho nên
gọi là Phương Quảng. Lại
trong Du-già nói: Trong Thanh văn tạng
không có Phương Quảng,
hoặc là đề mục kinh này đã biểu hiện rõ ràng.

Ba bộ thâu nhiếp:

Đó là Ký
biệt, Tự thuyết, Phương Quảng. Bởi vì trong Pháp
Hoa nói chín Bộ còn lại
là Tiểu thừa, kinh này không phải là Tiểu thừa
cho nên chỉ có ba Bộ thâu nhiếp.

Hoặc là chín bộ thâu nhiếp:

Đó là trừ
ra Nhân duyên, Thí dụ và Luận nghị. Bởi vì kinh Niết- bàn thứ ba nói người bảo vệ Đại thừa thọ trì chín Bộ, trừ ra
ba Bá»™ trÆ°á»›c.

Đủ mười hai bộ:

Một là Khế kinh thâu nhiếp, bởi vì kinh Niết-bàn nói bắt đầu
từ “Như thị” cuối
cùng đến “Phụng hành” là Khế kinh. Hai là Ứng
tụng, bởi vì như văn sau
có đủ trùng tụng. Ba là Ký biệt, bởi vì như văn
sau có đủ thọ ký thành
Phật… Bốn là
Phúng tụng, bởi vì như văn
sau có
nói thẳng về tụng… Năm
là Tự thuyết, như văn sau từ Định đứng lên
liền nói đến phần căn
bản… Sáu là Duyên khởi, bởi vì như văn sau nhờ
vào thưa thỉnh tuyên
thuyết. Bảy là Thí dụ, bởi vì như văn sau mở rộng
nói về dụ. Tám là Bổn
sự, bởi vì như sau nói về những sự việc vốn có
của Lô-xá-na và những
sự việc đã trải qua lúc đầu của Phổ Hiền. Chín
là Bổn sinh, bởi vì như
sau nói về tướng
sinh vốn có của
Lô-xá-na… Mười là một môn Phương
Quảng có thể biết. Mười một là Hy pháp, như
văn sau nói lỗ chân lông
thuyết pháp và tòa ngồi có các chúng vây
quanh, cột trụ bằng vật
báu hiện rõ Phật… Mười hai là Luận nghị, như
Du-già quyển tám mươi mốt nói: Đó là các kinh điển tuần hoàn nghiên cứu
đối chiếu tường tận.
Ma-đát-lý-ca (Luận tạng), tất cả kinh liễu nghóa
đều gọi là Ma-đát-lý-ca,
nghóa là ở nơi này Đức Thế Tôn tự mở rộng
phân biệt về pháp
tướng…, như văn sau nói ở phẩm Minh Nạn… Vì thế cho nên kinh này có đủ mười hai
Bộ thâu nhiếp. Nghóa còn lại nói như
ở trong mười hai bộ kinh sau này. Tạng bộ thâu nhiếp, xong.

Ba-Trình bày về
sự thiết lập giáo
sai biệt. Sơ lược đưa
ra mười loại:
1) Nói về Cổ thuyết;
2) Biện giải về đúng sai;
3) Thuật về Tây Vức;
4) Hội trái ngược nhau;
5) Trình bày về hiện truyền;
6) Xác định quyền-thật;
7) Hiển bày khai-hợp;
8) Giáo trước sau;
9) Dựa vào
nghóa phân giáo;

10) Dùng
lý khai mở Tông chỉ.

Nói về
Cổ thuyết: Xưa nay các vị lập giáo có rất
nhiều cách, khó
mà hiển bày đầy đủ, sơ lược nói về mười vị,
để làm thành gương soi.
Một, đời
Hậu Ngụy, Bồ-đề Lưu Chi lập ra
Nhất âm giáo, nghóa
là tất cả Thánh giáo
chỉ là một viên âm giáo của Như Lai, nhưng tùy căn khác nhau cho nên phân ra các loại, như qua một cơn mưa tưới
thấm như nhau. Lại trong kinh nói: “Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng
sanh tùy loại đều hiểu được…” Hai, thời nhà Trần, Tam tạng Chân Đế… lập ra hai giáo
Tiệm- Đốn, nghóa là dựa
theo cơ từ từ tỏ ngộ, Đại dựa vào Tiểu mà phát khởi, giáo đã thi thiết đầy đủ
Tam thừa, cho nên gọi là Tiệm, tức là
kinh Niết-bàn… Nếu dựa theo cơ lập tức
thẳng tiến, Đại không nhờ vào
Tiểu, giáo đã thi thiết
chỉ là Bồ-tát thừa, cho nên gọi là Đốn, tức là
kinh Hoa Nghiêm… Về sau Pháp sư Đại Viễn… cũng nói giống như vậy. Ba, đời
Hậu Ngụy, Luật sư
Quang Thống nương theo
Tam tạng Phật-đà tu tập lập
ra ba loại giáo, đó là Tiệm-Đốn-Viên. Ý giải
thích của Luật sư Quang
Thống: Một là căn chưa thuần thục, trước nói đến Vô
thường-sau mới nói về Thường, trước là
Không-sau là không
Không, như vậy theo thứ
tự gọi là Tiệm giáo. Hai là căn đã thuần thục, đối
với một pháp môn diễn
nói đầy đủ tất cả Phật pháp, đó là Thường
và Vô thường, Không và
không Không…, tất cả nói đầy đủ, lại không nhờ vào Tiệm cho nên gọi là Đốn. Ba là đối với căn bậc
Thượng thông hiểu phạm vi tầng bậc của cảnh Phật, nói về pháp môn tự tại bí mật
viên mãn, quả đức cứu
cánh giải thoát vô ngại của Như Lai, cho nên gọi là Viên, tức là kinh này do Viên đốn
thâu nhiếp.
Về sau những môn hạ của Quang Thống tuân theo
Luật sư
Quang Thống cũng đều kế thừa tông
chỉ giống như nói ở đây. Bốn, thời nhà Tề,
Pháp sư Đại Diễn… lập ra bốn tông giáo:
Một là Nhân duyên tông, đó
tức là các Bộ như Tát-bà-đa… của Tiểu thừa; hai là
Giả danh tông, đó là luận
Thành Thật và các thuyết như kinh bộ…; ba là
Bất chân tông, đó là các
bộ Bát-nhã, nói về lý tức
Không trình bày về tất cả các pháp không
chân thật…; bốn là
Chân tông, đó là
Hoa Nghiêm và Niết-bàn, trình
bày về Phật tánh-chân lý-pháp giới…

Năm, Pháp sư
Hộ Thân… lập ra năm tông giáo, nghóa là vị này
từ trong tông thứ tư
trước đây, tách chân lý-Phật tánh để làm Chân tông, tức là
kinh Niết-bàn; thứ năm gọi là
Pháp giới tông, tức là
Hoa Nghiêm trình bày về pháp
môn Pháp giới tự tại vô ngại. Sáu, thời nhà Trần,
Thiền sư
Tư Nam Nhạc, Thiền sư
Trí Giả… lập ra bốn giáo:
Một là Tam tạng giáo, cũng gọi là Tiểu thừa giáo,
như Pháp Hoa nói: “Không
được gần gũi người học Tam tạng Tiểu
thừa”. Trong Trí Luận
nói Tiểu thừa là Tam tạng, Đại thừa gọi là
Ma-ha-diễn tạng. Hai gọi
là Thông giáo, cũng gọi là Tiệm giáo, nghóa là trong kinh Đại thừa nói gồm chung
Tam thừa, che phủ tất cả ba căn…
Lại như trong Đại Phẩm, chính
là mười Địa như Càn Huệ địa… gồm chung
Tam thừa. Ba gọi là Biệt
giáo, cũng gọi là Đốn giáo, nghóa là trong các kinh Đại thừa đã nói về pháp môn đạo lý không gồm chung Tiểu thừa…
Bốn gọi là Viên giáo,
cũng gọi là Bí mật giáo, nghóa là pháp giới tự tại đầy đủ viên mãn, một tức là tất cả, tất cả tức là một, vô ngại pháp môn
cũng chính là Hoa Nghiêm… Bảy, thời nhà Đường, có Hải Đông là
Pháp sư
Nguyên Hiểu ở nước Tân La soạn
thuật sớ giải về kinh này, cũng lập ra bốn giáo:
Một là Tam thừa
Biệt giáo, nghóa là như giáo
Tứ Đế, kinh Duyên
Khởi… Hai là Tam thừa Thông
giáo, nghóa là như kinh Bát-nhã, kinh Thâm Mật… Ba là Nhất thừa
Phần giáo, như kinh Anh Lạc và kinh Phạm
Võng… Bốn là Nhất thừa
Mãn giáo, nghóa là như kinh Hoa Nghiêm, giáo
Phổ Hiền. Giải thích
riêng biệt về bốn giáo này như trong Sớ kia.

Tám, thời nhà Đường, Pháp sư Cát Tạng lập ra ba loại giáo,
làm ba pháp luân: Một là
Căn bản Pháp luân, tức là kinh Hoa Nghiêm
đã nói lúc đầu; hai là
Chi mạt Pháp luân, tức là Tiểu thừa… đã nói ở
sau; ba là Nhiếp mạt quy bổn
Pháp luân, tức là
kinh Pháp Hoa,
sau bốn
mươi năm nói về giáo
rời bỏ ba tiến vào một, giải thích đầy đủ như luận ấy. Chín, thời nhà Lương,
Pháp sư Vân ở chùa
Quang Trạch lập
ra bốn Thừa giáo, nghóa
là như trong kinh Pháp Hoa, ba xe trước cửa
tức là ba Thừa, giữa
ngã tư đường đã trao cho xe trâu trắng lớn tức là
Thừa thứ tư, bởi vì xe
trâu trước cửa cũng giống như xe dê-xe nai, đều
không đạt được. Nếu không như vậy thì lúc Trưởng giả ở trong nhà dẫn
dắt các con, nói là ba xe này chỉ ở ngoài cửa, các con ra khỏi nhà thì
sẽ
có được xe.
Tại sao ra rồi đến nơi ban đầu chỉ nơi đã dừng xe, mà không có
được cho nên sau lại
đòi lấy? Vì vậy biết là Quyền giáo giống như xe dê-xe nai. Do đó trong Đại thừa Quyền giáo phương tiện mà nói, giải
thích đầy đủ như trong
sớ giải về Pháp Hoa. Mười, thời nhà Đường,
Pháp sư Ấn và
Pháp sư Mẫn… ở
Giang Nam lập ra hai giáo: Một là
kinh Thích-ca, gọi là
Khuất Khúc giáo, bởi vì thuận theo cơ tánh
để tùy cách phá chấp, như Niết-bàn…; hai là
kinh Lô-xá-na, gọi là
Bình Đạo giáo, bởi vì thuận theo pháp tánh tự tại mà

nói, như Hoa
Nghiêm… Sư ấy giải thích về hai giáo này sơ lược
có bốn riêng biệt: Một là Chủ khác, nghóa là nơi
ấy Hóa thân Thích-ca đã nói, nơi này là mười
thân Xá-na đã nói; hai là Xứ khác, nghóa là nơi ấy
nói ở tòa cỏ dưới
tán cây thuộc thế giới Ta-bà, nơi này nói ở tòa
Kim cang dưới cây báu thuộc thế giới
Liên Hoa Tạng; ba là
Chúng khác, nghóa là nơi ấy nói cho
Thanh văn và Bồ-tát, nơi này chỉ nói cho Bồ-tát
cùng chung phần vị cao
nhất; bốn là Thuyết khác, nghóa là nơi ấy chỉ là một phương đã nói, nơi này bao gồm mười phương cùng nói. Giải thích
rộng ra như trong sớ giải về Hoa Nghiêm.

Biện giải về đúng sai: Mười
vị lập giáo trên đây, đều là những bậc tài năng trí tuệ tuyệt luân ở
đương thời.
Như Thiền sư Tư,
Thiền sư
Trí Giả…, thần kỳ cảm thông tìm hiểu dấu tích bước lên phần vị,
Linh Sơn nghe pháp nhớ đến ngày nay; Pháp sư Vân
dựa vào đây khai mở tông chỉ, giảng về
Pháp Hoa cảm trời mưa hoa…, đều như
Tăng Truyện… đã hiển bày.
Vả lại, các vị tiên đức này lẽ nào là người ưa thích khác lạ, cho nên phân chia
Thánh giáo, chỉ bởi vì hiểu biết đầy đủ
các kinh điển, khác dấu vết mà cùng căn cơ, nói
không thể khác được, mở mang tông chỉ riêng biệt
giải thích, cốt phải khiến cho
Thánh thuyết
đều hợp với căn cơ.

Hỏi: Mười thuyết trên đây ai đúng ai sai? Đáp: Theo luận
Thành Thật: “Lúc Đức Phật nói lời về
trong- ngoài-ở giữa xong
thì liền nhập định, lúc ấy có năm trăm La-hán
đều giải thích lời này.
Sau khi Đức Phật xuất định cùng nhau thưa hỏi
Đức Thế Tôn, ai đúng
ý Phật. Đức Phật nói đều sai ý Ta. Những người thưa hỏi Đức Phật, đã không đúng ý Đức Phật thì lẽ nào không mắc tội?
Đức Phật nói tuy sai ý
Ta mà đều thuận với Chánh lý, có thể vì Thánh giáo, thì có phước chứ không có tội.” Huống gì các thuyết này đều có ít
nhiều Thánh giáo làm
chứng, vì thế cho nên không thể hoàn toàn là sai trái.

Thuật về luận thuyết ở
Tây Vức: Chân Đế ba Luân,
Kiệp-đa bốn Giáo, Ba Pha năm Thuyết, đều như biệt thuyết.
Vả lại, Pháp
Tạng ở trong niên hiệu Văn Minh nguyên niên nhà Đường (Duệ Tông
6
8
4), may mắn gặp Tam tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la là người Trung Thiên Trúc, thời Đường nói là Nhật Chiếu, ở chùa
Thái Nguyên-Tây Kinh phiên dịch kinh luận, đích thân tôi lúc ấy mới hỏi: Các vị ở
Tây Vức đối với Thánh giáo một đời có thể có phân định
Quyền-Thật hay không? Tam tạng nói rằng: Thời gian gần đây tại chùa
Na-lan-đà ở
Thiên Trúc, cùng lúc có hai Đại đức Luận sư, một vị tên là
Giới Hiền, một vị tên là Trí Quang, đều là bậc
thần giải siêu phàm, danh tiếng vượt cao ở Ngũ

Ấn, hạng tà
đạo đều cúi rập đầu, những Bộ khác đều chân thành
quay về, người học Đại
thừa ngưỡng mộ như mặt trời-mặt trăng. Bước một mình ở
Thiên Trúc chỉ có một người mà thôi. Bởi vì đã kế thừa tông
chỉ khác biệt, cho nên
lập giáo không giống nhau.

Thứ nhất là Giới Hiền, thì xa được nhờ Di-lặc và Vô Trước, gần thì theo
sau
Hộ Pháp và Nan-đà, dựa vào các kinh như
Thâm Mật…, các luận
như Du-già…, lập ra ba loại giáo. Nghóa là Đức Phật đầu tiên
ở vườn Lộc Uyển nói
pháp Tiểu thừa, tuy nói Sinh Không nhưng hãy còn chưa nói chân lý của
Pháp Không, cho nên không phải là
liễu nghóa, tức là các kinh như
Tứ A-hàm… Trong thời thứ hai, tuy dựa vào tự tánh
của Biến kế sở chấp
mà nói các Pháp Không, nhưng hãy còn chưa nói
đến đạo lý Y tha-Viên
thành chỉ do Thức, cho nên cũng không phải là
liễu nghóa, tức là các
bộ giáo như Bát-nhã… Trong thời thứ ba mới dựa vào Chánh lý Đại thừa nói đầy đủ về Nhị đế Duy thức như ba tánh-ba
vô tánh…, mới là liễu
nghóa, tức là các kinh như Giải Thâm Mật… Vả
lại, ba phần vị này đều
dùng ba nghóa để giải thích:
1) Nhiếp cơ;
2) Thuyết giáo;
3) Hiển lý. Tạm thời thứ nhất chỉ thâu nhiếp Thanh văn, chỉ nói về Tiểu thừa, chỉ hiển
bày về tánh Không; thứ hai chỉ thâu nhiếp
Bồ-tát, chỉ nói về Đại
thừa, chỉ hiển bày về hai Không; thứ ba thâu nhiếp tất cả các cơ, nói gồm chung các Thừa, hiển bày đầy đủ về
Không-Hữu. Vì vậy hai
phần vị trước thâu nhiếp cơ thuộc về Giáo-Lý đều có thiếu hụt lẫn nhau, cho nên không phải là
liễu nghóa; một phần
vị sau, mọi cơ đều
thâu nhiếp, mọi giáo đều có đủ, mọi lý đều trọn vẹn, cho nên
chính là liễu nghóa.

Thứ hai là Luận sư Trí Quang, xa được nhờ Văn Thù-Long
Thọ, gần vâng theo Đề
Bà-Thanh Biện, dựa vào các kinh như Bát-nhã…, các luận như
Trung Quán…, cũng lập ra ba giáo. Nghóa là Đức Phật đầu tiên ở vườn
Lộc Uyển vì các Tiểu căn nói về pháp
Tiểu thừa, trình bày
tâm- cảnh cùng có. Trong
thời thứ hai vì hàng Trung căn nói về pháp
tướng Đại thừa, trình bày về đạo lý cảnh không-tâm có chỉ do Thức, bởi vì
căn hãy còn kém cỏi
chưa có thể làm cho tiến vào Chân Không bình đẳng, cho nên đưa ra cách nói này.
 Thời thứ ba vì hàng Thượng căn nói về Vô tướng Đại thừa, biện giải về tâm-cảnh đều Không, cùng một
vị bình đẳng, là chân thật
liễu nghóa. Lại ba phần vị này cũng giải thích
theo ba nghóa: Một là thâu
nhiếp cơ, thứ nhất chỉ thâu nhiếp cơ thuộc
hàng Nhị thừa; thứ hai thâu nhiếp chung hai
cơ Đại-Tiểu, bởi vì tông này chấp vào một phần Nhị thừa không hướng đến quả Phật; thứ ba chỉ
thâu nhiếp Bồ-tát, gồm
chung cả Tiệm-Đốn, bởi vì các hàng Nhị thừa đều
hướng đến quả Phật chứ không có
đường khác. Hai là dựa theo giáo, ban đầu chỉ nói về
Tiểu thừa, tiếp theo gồm chung
Tam thừa, về
sau
chỉ riêng Nhất thừa. Ba
là dựa theo hiển bày về lý, ban đầu vì phá tự
tánh ngoại đạo…, cho
nên nói về pháp duyên sinh nhất định là thật có; tiếp theo tức là từ từ phá chấp về duyên
sinh thật có của
Nhị thừa, nói
duyên sinh này cho là tựa
như có, bởi vì Nhị thừa kia sợ hãi Chân Không
này, cho nên hãy còn giữ lại Giả Hữu mà tiếp
nhận dẫn dắt; về sau mới
dựa vào Đại thừa cứu
cánh nói đến duyên sinh này tức là tánh Không
cùng một vị bình đẳng-hai
đế không ngăn ngại. Vì thế cho nên pháp tướng Đại thừa có
sở đắc… thuộc về giáo thứ hai, không phải là chân
thật liễu nghóa. Ba giáo này theo thứ tự như trong
Bát Nhã Đăng
Luận Thích của Luận sư Trí Quang, dẫn
đầy đủ kinh Tô-nhã-na Ma-ha-diễn nói, Trung Hoa nói
là kinh Đại Thừa Diệu Trí, kinh này xưa chưa được nghe.

Hội trái ngược nhau: Hỏi:
Hai cách nói này đã đều là Thánh giáo làm mâu thuẫn lẫn nhau, chưa biết là có thể hòa hợp hay là không
thể hòa hợp? Đáp: Không hòa hợp mà đều hòa hợp.

Thứ nhất là không hòa hợp, đã đều là Thánh giáo, tùy duyên
lợi ích chúng sinh nào
đợi đến hòa hợp? Tức là trong bốn loại Tất
đàn của Trí Luận thì tất cả đều là Vị nhân tất
đàn, cũng là Chúng sinh lạc
dục ý thú trong bốn ý
thú của Nhiếp Luận. Ở trong một pháp, hoặc là khen hoặc là chê, vì thế cho nên hai cách nói này không cần miễn
cưỡng hòa hợp.

Thứ hai là đều hòa hợp, có hai môn: Một là dựa theo giáo
thích ứng cơ, hai là dựa
theo cơ tiếp nhận giáo.

Trong phần một
chỉ là giáo môn liễu nghóa và không liễu nghóa của
Phật, có bốn phần vị: Một là dựa theo thâu nhiếp cơ rộng hẹp, hai là dựa theo ngôn giáo đủ thiếu, ba là dựa theo lợi ích chúng
sinh lớn nhỏ, bốn là dựa theo hiển bày lý
cạn sâu. Một là nếu chỉ thâu
nhiếp Nhị thừa mà không
bao gồm Bồ-tát, hoặc chỉ riêng Bồ-tát chứ không bao gồm
Nhị thừa, thì đều thâu nhiếp cơ hạn hẹp cho nên không phải
là liễu nghóa; nếu mở
rộng thâu nhiếp ba cơ hoàn toàn đầy đủ thì mới
là liễu nghóa. Hai là nếu
chỉ nói về Tiểu mà không gồm nói về Đại, hoặc chỉ nói về Đại thừa chứ không gồm đủ
Tiểu thừa giáo, bởi vì nói
đều có thiếu cho nên
không phải là liễu nghóa; nếu nói bao gồm
Đại-Tiểu, đầy đủ Tam
thừa thì mới là liễu nghóa. Kinh Thâm Mật… dựa vào
hai môn trên,
Giới Hiền đã phân định cũng có đạo lý. Ba là dựa theo lợi ích chúng
sinh lớn nhỏ, nếu khiến cho tất cả chúng
sinh được lợi
ích Tiểu thừa, hoặc là
khiến cho tất cả hữu tình được lợi ích Đại thừa, thì
có người
được lợi ích nhỏ, không có thể hoàn toàn khiến cho được
lợi ích cao nhất, đều
không phải là liễu nghóa; nếu có thể khiến cho tất
cả chúng sanh ấy đạt
đến tịch diệt Nhị thừa, tất cả đều sẽ được lợi ích
Đại Bồ-đề, thì mới
là liễu nghóa. Bốn là dựa theo hiển bày lý cạn sâu,
nếu đối với duyên khởi
tùy theo nói về thật có, hoặc tuy là phá bỏ thật
mà hãy còn giả có, thì
đã hiểu tướng chưa hết, hiển bày lý chưa đến cùng, cho nên không phải là
liễu nghóa; nếu nói duyên
sinh tức là tánh
Không, không ngăn ngại
duyên khởi dung thông không hai, hiểu duyên đã hết, lý tánh hiện rõ tròn vẹn, thì mới là
liễu nghóa.
Kinh Diệu Trí ấy dựa
vào hai môn trên, Trí
Quang đã phân định rất có đạo lý. Vì thế cho nên hai cách nói đều dựa vào môn riêng biệt không đến với nhau, lẽ nào có
trái ngược nhau?

Hai là dựa theo cơ tiếp nhận giáo. Hỏi: Hai cách nói về ba giáo đều là ban đầu nói đến Tiểu,
Hoa Nghiêm ban đầu nói làm
sao
giải thích phù hợp? Đáp:
Các vị có ba cách giải thích:

Một cách nói
là ba pháp luân này dựa theo cơ Tiệm ngộ mà nói, Hoa Nghiêm lúc đầu dựa theo cơ Đốn ngộ mà nói. Nếu như vậy thì
kinh Mật Tích Lực Só lúc
ban đầu nói đầy đủ về pháp Tam thừa, kinh này là thuộc về Tiệm hay thuộc về Đốn? Nếu như là Tiệm giáo thì lẽ ra chỉ
nói đến Tiểu, nếu như
là Đốn giáo thì lẽ ra chỉ nói đến Đại, kinh ấy đã có đủ ba thì cuối cùng trở thành trái ngược có hại, vì thế cho nên cách
giải thích này cũng khó sử dụng.

Một cách nói
là nếu dựa vào môn hiển bày rõ ràng, thì có thứ
tự ba pháp như trước;
nếu dựa theo môn bí mật, thì các thuyết đồng
thời. Nếu như vậy thì
lúc ban đầu Tiểu hiển bày mà Đại bí mật, sao
không dùng Đại hiển bày
mà Tiểu bí mật? Vả lại, phân định về hiển mật này trích từ
Thánh giáo nào, lý đã không như nhau, lại không
có Thánh giáo, cho nên khó y theo
sử dụng. Hai cách giải thích trên đây, ba pháp luân này thâu nhiếp pháp không hết, đầu thì Tiệm mà không phải
là Đốn, sau thì Hiển mà
không phải là Mật.

Một cách nói
rằng chỉ là viên âm của Như Lai diễn nói như
nhau, khác loại đều hiểu
được, dựa vào Tiểu kết tập chỉ nói đến Tiểu thừa, dựa vào Đại kết tập chỉ nói đến Đại thừa, dựa vào cùng kết tập nói
đầy đủ Tam thừa. Nếu
như vậy thì tùy một kết tập đều không có trước
sau, sao có thứ tự ba giáo như vậy? Nay giải thích vấn nạn này thì hội tụ
hai cách nói, luận rộng về viên âm của
Như Lai nói pháp phần lớn thể lệ
có hai: Một là vì người
căn định ở đời này mà nói, hai là vì người căn
bất định ở đời này mà nói.

Trong phần một có ba tiết: Một
là hoặc có chúng sinh ở đời này nhất định là căn tánh
Tiểu thừa, thấy Đức Phật trước
sau chỉ nói
về Tiểu thừa, như các
bộ Tiểu thừa, kết tập ba Tạng hoàn toàn không
có Đại thừa. Hai là hoặc có chúng
sanh ở đời này thuần thục căn tánh
Tam thừa, thấy Đức Phật
trước sau chỉ nói về Tam thừa, như kinh Mật
Tích Lực Só, khi Đức Phật ban đầu ở vườn
Lộc Uyển nói pháp, vô
lượng chúng
sinh đạt được
quả A-la-hán, vô lượng chúng
sinh thành đạo
Bích- chi Phật, vô lượng chúng
sinh phát tâm Bồ-đề, trú vào
Sơ địa…, cho đến nói rộng ra. Đại Phẩm và Đại
Bát-nhã cũng nói giống như vậy,
bởi vì dựa theo nghóa
này, về sau đã nói đều gồm chung đầy đủ Tam thừa này, như trong các kinh Đại thừa đã nói. Ba là hoặc có chúng
sinh ở đời này thuần thục căn tánh
Nhất thừa, thì ban đầu thấy Đức Phật trong
Hoa Tạng thế giới dưới
tán cây chúa(thọ vương) dựa vào định Hải Ấn,
chỉ vì Bồ-tát diễn nói
về pháp môn Vô tận viên mãn tự tại vô ngại, đầy
đủ chủ-bạn, cho đến
cuối cùng cũng nói giống như vậy, bởi vì trong
pháp này bao quát tất cả
chín đời, thâu nhiếp đầy đủ trước sau.

Hai là vì người căn bất định, có hai phần vị: Một,
bởi vì ở đời này không nhất định là căn
Tiểu thừa, cho nên có thể thích hợp tiến vào phần vị
Tam thừa, thì ban đầu nghe chỉ có Tiểu cho là không liễu
nghóa, tiếp đến nghe chỉ có Đại cũng không phải là
liễu nghóa,
sau đó
nghe đầy đủ Tam thừa
mới thật là liễu nghóa. Kinh Giải Thâm Mật dựa vào căn này mà
biện giải. Hai, bởi vì ở đời này không nhất định là căn
Tiểu thừa, cho nên có
thể thích hợp tiến vào phần vị Nhất thừa, thì ban đầu chỉ nói Tiểu là giáo không
liễu nghóa, tiếp đến gồm chung
Đại-Tiểu cũng không phải là giáo
liễu nghóa,
sau đó hội tụ ba quy về một chỉ nói Nhất thừa mới là giáo
liễu nghóa.
Kinh Diệu Trí thích hợp với ý này.
Do căn không nhất định mà có hai môn này, vì thế hai Sư đều
thuật một môn, cho nên không trái
ngược nhau. Do có căn nhất định và không nhất định ở đời này như vậy, vì thế cho nên khiến giáo môn ấy hoặc
có trước sau, hoặc không
có trước sau, dựa theo giải thích có thể biết.

Trình bày về hiện truyền: Ngày
nay các vị ở trong Đại thừa tự có hai thuyết:
Một là lập ra Đại thừa thuộc Tam thừa, bởi vì tông này
chấp nhận Nhị thừa tiến vào tịch diệt chắc chắn
không thành Phật, cho
nên dựa theo năm tánh sai biệt ấy mà nói đầy đủ
Tam thừa. Hai là lập ra Đại thừa thuộc
Nhất thừa, bởi vì tông này chấp nhận Nhị thừa tiến
vào tịch diệt cũng đều thành Phật, cho nên dựa
theo Phật tánh này có
khắp, chỉ nói đến Nhất thừa.

Má»™t, SÆ° trÆ°á»›c
dẫn ra giáo thành lập rằng: Như kinh Đại Bát-nhã quyển 590 nói: “Nếu chủng loại hữu tình là tánh quyết định thuộc về
Thanh văn thừa, thì nghe pháp này rồi nhanh chóng có thể
chứng được địa vô
lậu của mình; tánh quyết định thuộc về Độc giác thừa,
thì nghe pháp này rồi
nhanh chóng dựa vào Thừa của mình mà được
giải thoát(xuất ly), tánh
quyết định thuộc về Vô thượng thừa, thì nghe
pháp này rồi nhanh chóng
chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Nếu chủng loại hữu tình
tuy chưa chứng nhập Chánh tánh ly sanh, mà tánh không nhất định thuộc về
Tam thừa, thì nghe pháp này rồi đều phát
tâm Vô thượng Chánh
đẳng giác.”

Lại kinh Giải
Thâm Mật quyển thứ hai nói: “Cho đến trải
qua nói về pháp yếu, đó
là tướng không có tánh thuộc tự tánh, thắng
nghóa không có tánh thuộc tự tánh, cho đến các hữu tình thuộc chủng tánh Thanh văn thừa, cũng nhờ vào đạo này-hành tích này cho nên đích
thực đạt được
Niết-bàn an ổn Vô thượng. Tất cả Thanh văn Độc giác
Bồ-tát đều cùng chung một đạo vi diệu thanh tịnh này, đều cùng chung một thanh tịnh cứu cánh này, lại không có loại thứ hai. Ta dựa vào ý
sâu
kín vốn có này cho nên
nói chỉ có Nhất thừa, không phải là ở trong tất
cả hữu tình giới, không
có các loại chủng tánh hữu tình, hữu tình sai biệt hoặc là tánh thuộc Độn căn, hoặc là tánh thuộc
Trung căn, hoặc là
tánh thuộc Lợi căn.”
Giải thích: Đây là dựa theo Tam thừa cùng chung một đạo Vô tánh đã quán, ý
sâu kín nói đây gọi là
Nhất thừa, lý thật thì
Tam thừa đều chứng
Niết-bàn không phải là một.
Lại trong luận
Du-già quyển 37 nói:
“Bổ-đặc-già-la thành tựu, thì tóm lược nói về bốn loại: Có chủng tánh
Thanh văn, dùng
Thanh văn thừa mà thành tựu; có chủng tánh Độc giác, dùng Độc giác
thừa mà thành tựu; có
chủng tánh Phật, dùng Vô thượng thừa mà thành tựu; không có
chủng tánh, thì dùng nẽo thiện mà thành tựu.”
Kinh Thiện Giới và luận Địa
Trì đều nói giống như vậy.

Lại trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Bổ-đặc-già-la thuộc
chủng tánh Thanh văn luôn
luôn hướng đến vắng lặng, tuy được chư Phật thi thiết các loại gia hạnh dũng mãnh, phương tiện dẫn dắt chuyển
hóa, nhưng cuối cùng
không có thể khiến cho họ ngồi nơi đạo tràng
chứng được A-nậu Đa-la
Tam miệu Tam Bồ-đề.” Kinh Thâm Mật Giải Thoát cũng
nói giống như vậy.

Kinh Thập Luân quyển thứ chín cũng nói Tam thừa đều
nhất định sai biệt.

Các văn như vậy đều không phải là Tiểu thừa, là trong Đại thừa chấp nhận có ba
sai biệt, vì thế cho nên đều là giáo Đại thừa thuộc Tam thừa.

Hai, Sư sau dẫn
ra giáo Đại thừa thuộc Nhất thừa ấy: Kinh Niết-
bàn quyển 33 nói: “Tất cả chúng
sanh cùng có
Phật tánh, đều
cùng Nhất thừa, cùng một
giải thoát, một nhân một quả, cùng một
Cam lồ, tất cả sẽ đạt được
Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, đó gọi là một vị”.

Lại kinh Pháp Hoa quyển thứ nhất nói: “Trong cõi Phật ở
mười phương chỉ có pháp
Nhất thừa, không có hai cũng không có ba, trừ Đức Phật phương tiện nói ra”.
Lại nói: “Ban đầu dùng Tam thừa dẫn
dắt chúng sinh, sau đó chỉ
dùng Đại thừa mà độ thoát họ”. Lại trong quyển thứ ba nói: “Sau khi
Ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hiểu những công hạnh
của Bồ-tát, tự đối với công đức đã
đạt được sinh khởi ý
tưởng diệt độ, tiến vào Niết-bàn. Ta ở cõi nước
khác làm Phật lại có
tên gọi khác, người này tuy sinh khởi ý tưởng diệt
độ, tiến vào Niết-bàn,
mà ở cõi kia cầu trí tuệ của Phật”. Trong luận
Đại Trí Độ quyển 95
cũng nói giống như vậy.

Lại trong luận
Pháp Hoa nói: “Trong bốn Thanh văn, lui sụt
tâm Bồ-đề và ứng
hóa, hai Thanh văn này Đức Phật thọ ký cho; quyết định và tăng thượng mạn thì hai căn này bởi vì chưa
thuần thục, cho nên
Bồ- tát thọ ký, phương
tiện khiến cho phát tâm.” Giải thích: Đã chỉ nói đến chưa
thuần thục, không nói đến không có căn, cho nên biết nhất định
sẽ đạt được
Bồ-đề của Phật. Lại nói rằng phương tiện khiến cho phát
tâm, tức là phát tâm Bồ-đề.
Lại trong
Nhập Lăng Già quyển thứ hai-thứ tư và thứ bảy đều cùng nói Nhị thừa không có
thật Niết-bàn, nhưng trú trong lực
Tam- muội, về sau nhất định
sẽ đạt được Vô thựơng Bồ-đề.
Trong luận
Pháp Hoa nói: “Người thứ tư là phương tiện khiến cho đi vào
thành Niết-bàn.
Thành Niết-bàn là khu thành của các thiền
Tam- muội, đi qua thành ấy
rồi khiến cho tiến vào thành Đại Bát
Niết-bàn.” Ở đây giống như niềm vui trú trong Tam-muội ở
Lăng Gìa, bởi vì
lìa Phần đoạn cho nên
tạm nói Niết-bàn, mà thật sự có thân Biến dịch
kia. Vì thế cho nên ở
trong Tịnh độ thực hành đạo Bồ-tát.

Kinh Thắng Man
nói: “Nói về các hàng Nhị thừa đạt được
Niết- bàn, là Phật phương
tiện, chỉ có Như Lai đạt được Bát Niết-bàn.”
Lại kinh này và kinh Vô
Thượng Y, luận
Bảo Tánh, luận
Phật Tánh, đều
nói Nhị thừa nhập diệt,
ở ngoài ba cõi thọ thân Biến dịch.
Lại trong
kinh Mật Nghiêm, Nhị thừa nhất định không có
vónh viễn dập tắt không
còn tro nóng(khôi đoạn vónh diệt).
Các văn như vậy cũng là Đại thừa, không chấp nhận Tam thừa
quyết định
sai biệt, vì thế cho nên gọi là Nhất thừa giáo.

Xác định quyền-thật: Hoặc
có người nói Nhất thừa là Quyền, Tam thừa là Thật. Bởi vì
kinh Thâm Mật, thời giáo thứ nhất chỉ vì người phát khởi hướng về
Thanh văn thừa, nói chính là cuối cùng không có
thành Phật; thời giáo thứ hai chỉ vì người phát khởi hướng về tu Đại thừa, nói chính là cuối cùng đều
thành Phật. Hai thời giáo này hoặc vượt quá hoặc không đạt tới, cho nên đều không phải là
liễu nghóa; không giống như thời giáo thứ ba, có chủng tánh thì thành tựu, không có chủng
tánh thì không thành tựu, mới là liễu nghóa.

Pháp Hoa đã là thời giáo thứ hai, tức là quyền biến mà nói về
ý sâu kín. Vì thế cho nên kinh Thắng Man lấy Nhất thừa làm phương
tiện mà nói. Do đó lý
thật ra chỉ dựa theo chủng tánh bất định nói là Nhất thừa.
Nhiếp Luận, Trang Nghiêm luận,
Hiển Dương luận… đều
giải thích giống như vậy.

Lại trong Pháp
Hoa quyển thứ ba: “Sinh khởi ý tưởng diệt độ tiến vào
Niết-bàn…” Dựa vào Du-già 81 đều là Thanh văn biến hóa thị
hiện nhập diệt.
Lăng Già, Mật Nghiêm đều giải thích phù hợp
giống như vây.

Kinh Vô Thựơng Y, luận
Bảo Tánh…, đều là Nhị thừa bất định hướng về Bồ-đề tăng thêm thọ mạng
Biến dịch, không phải là nói
nhập diệt lại khởi lên
thọ thân. Du-già nói: “Trong bốn câu vốn chuyển
hai Thức thành tựu-không
thành tựu, câu thứ tư là cả hai không thành
tựu, vì lúc Thanh văn-Độc
giác tiến vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn.”
Lại trong quyển 80 nói:
“Trong cảnh giới Vô dư y
Niết-bàn chỉ có pháp
giới chân như thanh tịnh.”

Dựa vào các văn này, nhập Niết-bàn rồi, thân-trí đều diệt,
căn- thức vónh viễn
không còn, lẽ nào có Biến dịch tu hành thành Phật?
Vì vậy cho nên chỉ có
Nhất thừa, không phải là cuối cùng liễu nghóa.

Trong kinh Thâm Mật, thời thứ ba rộng ra vì người phát
khởi hướng về tất cả
các Thừa, mà gọi là liễu nghóa, cho nên biết Tam
thừa là tất cả lý về Thật giáo.

Lại kinh Thâm Mật quyển thứ hai-thứ tư đều nói “Nhất thừa là
nói về ý sâu kín”, cho
nên biết là Quyền.

Hoặc có người nói Nhất thừa là Thật, Tam thừa là Quyền, nghóa là kinh Pháp Hoa chỉ là một
Phật thừa, kinh Thâm Mật là
Tam thừa, bởi vì sau nói về định
tánh Nhị thừa diệt cũng không còn, phương tiện
nói là ba chứ thật sự
chỉ là một. Nếu nói Pháp Hoa là thời giáo thứ hai,
thì bởi vì dẫn dắt Nhị
thừa bất định cho nên nói tất cả đều thành Phật, mà
hãy còn chưa nói đến định tánh
không thành, cho nên không phải là
liễu nghóa. Nếu như vậy
thì thời của Pháp Hoa hãy còn chưa nói là có định tánh
Nhị thừa, vì
sao luận kia lập ra bốn Thanh văn? Định tánh ấy nói từ nơi nào có được? Nếu có định tánh thì lẽ nào có thể toàn bộ đều thành? Nếu chấp nhận toàn bộ đều thành thì
sao gọi là định tánh? Cho nên
biết nói đến định tánh
là nhắc lại kinh Thâm Mật đã nói trước đây, sau đến Pháp Hoa trình bày về tất cả đều
thành Phật. Vì vậy luận kia thuận
theo văn kinh này, hội tụ
nói về Quyền giáo trước đây quy về Thật giáo sau này, cho nên biết
Pháp Hoa nhất định nói ở
sau
Thâm Mật, Diệu Trí ba giáo Nhất thừa ở sau
Tam thừa. Trong Lương Nhiếp luận thành lập
ba Chánh pháp cũng Nhất
thừa ở sau, đều nói giống như vậy.
Trong Pháp Hoa,
sinh khởi ý tưởng diệt độ nhập Niết-bàn…, giải thích là biến hóa thị hiện diệt, rất trái với giáo lý.
Trái với giáo,
nếu là Thanh văn biến
hoá thì thật sự là chư Phật Bồ-tát, lẽ nào có thể
mê lầm Niết-bàn mình đã
thị hiện mà sinh khởi ý tưởng diệt độ? Nếu đưa ra cách giải thích này thì vốn là chưa đọc kinh.
Trái với lý, nếu
nhập Niết-bàn là vónh
viễn đoạn diệt, thì chư Phật Bồ-tát ở trước chúng
sinh đã hóa độ thị hiện
Niết-bàn. Nếu chủng tánh bất định đã hóa độ kia là người dũng mãnh, thì không
sợ
sinh tử mà có thể tu
thắng hạnh.
Nếu có một loại tánh khiếp
nhược, sợ hãi sinh tử mà học Phật Bồ-tát, thì
trước là nhập Niết-bàn
mong muốn về sau thực hành đạo Bồ-tát. Tông của ông nhập diệt đã không có dấy khởi, lẽ nào không làm hại một loại chúng
sinh kia? Đây chính là làm hại chúng
sinh
sao trở thành dẫn dắt? Huống gì văn này đều có liên quan với nhau? Lại cũng chưa thấy ý
kinh Thắng Man, chính là
đoạn Nhất thừa để làm phương tiện. Kinh ấy
nói: “Nếu Như Lai tùy
theo ý muốn kia mà phương tiện nói, thì đều là
Nhất thừa chứ không có
Nhị thừa, Nhị thừa tiến vào
Nhất thừa, Nhất thừa
tức là Đệ nhất nghóa
Thừa. Lại trong kinh ấy mở rộng phá bỏ Nhị thừa
nói là không có
Niết-bàn. Lại nói: “Kinh này đoạn tất cả nghi ngờ,
quyết định liễu nghóa
tiến vào đạo Nhất thừa.” Lẽ nào nói Nhất thừa cho
là phương tiện hay sao?

Trong kinh Giải
Thâm Mật, Nhất thừa là mật ý, là bởi vì trước khi chưa nói
Pháp Hoa cho nên đưa ra cách nói này, và về
sau nói
Pháp Hoa thì hội tụ Tam thừa
trước đây đều là phương tiện. Luận Du-già chuyển căn bản cùng diệt, luận
Hiển Dương có
sáu nghóa nói về
Nhất thừa, Nhiếp luận có mười nghóa nói về
Nhất thừa, đều cùng giải thích
phù hợp với kinh Thâm
Mật, bởi vì những luận này thuận theo kinh ấy
mà soạn ra.
Luận Pháp Hoa nói quyết định Nhị thừa cũng thọ ký…, là thuận

theo bản kinh này mà soạn ra. Nếu không tin Nhất thừa, giữ lấy
Quyền trái với Thật thì
rất là đáng thương xót!

Kinh Bách Dụ quyển thứ hai nói: “Xưa có một thôn xóm, cách Vương thành năm
Do tuần, trong thôn có dòng nước ngon ngọt,
vua truyền lệnh cho người
trong thôn hằng ngày phải chuyển nước ngon ấy đến, người trong thôn mệt mỏi khổ
sở đều muốn chuyển đi xa
khỏi thôn này. Lúc ấy chủ thôn kia nói với mọi
người rằng: Mọi người đừng
đi, ta sẽ vì mọi người
trình bày với nhà vua thay đổi năm Do tuần làm
ba Do tuần, khiến cho mọi
người được gần, đi lại không mệt nhọc. Thế là đến trình bày với nhà vua, nhà vua vì vậy thay đổi con đường làm
ba Do tuần. Mọi người
nghe rồi thì vô cùng vui mừng. Có người nói
rằng: Con đường này vốn
là năm Do tuần lúc đầu, lại không có gì khác.
Tuy nghe lời này nhưng tin lời nhà vua cho nên cuối cùng không chịu rời bỏ. Người thế gian cũng lại như vậy, tu hành Chánh pháp vượt qua năm
nẽo nhằm đến khu thành
Niết-bàn, tâm sinh mệt nhọc rã rời, liền muốn
rời bỏ, lập tức thuận
theo sinh tử không có thể tiến lên nữa. Như Lai
Pháp Vương có Đại phương
tiện, đối với pháp Nhất thừa phân biệt nói thành ba.
Người Tiểu thừa nghe mà vui mừng cho là dễ thực hành, tu pháp thiện tiến tới đức mong cầu vượt qua
sinh tử. Sau nghe người nói
không có Tam thừa vốn
chỉ là Nhất thừa. Bởi vì tin theo lời Đức Phật cho nên cuối cùng không chịu rời bỏ, như người trong thôn kia cũng lại như
vậy. Giải thích:
Kinh này tức là từ kim khẩu rất
quyết đoán,
Quyền-Thật hiển bày rõ
ràng, có thể chấm dứt các thuyết mà thôi.

Hiển bày khai-hợp: Như
vậy Tam thừa-Nhất thừa đều có hai loại. Hai loại thuộc
Tam thừa: Một là Tam thừa khác thời, như
kinh Thâm Mật, thời thứ nhất chỉ có Tiểu thừa, thứ
hai chỉ có Đại thừa; hai
là Tam thừa cùng thời, như thời thứ ba rộng ra vì
phát khởi hướng đến
tất cả các Thừa…, ở trong giáo này tướng Nhất
thừa ẩn kín, tướng Tam thừa hiển bày, cho nên dựa vào hiển bày tổng quát gọi là
Tam thừa. Hai loại thuộc
Nhất thừa: Một là phá bỏ về khác-trình bày về một, như
kinh Pháp Hoa phá bỏ về hai Thật diệt, đến kinh Niết-bàn
phá bỏ về không có
Phật tánh, đều là đối với Quyền hội tụ-phá bỏ mới nói
Nhất thừa; hai
là ngay Thể hiển bày về một, như kinh Hoa Nghiêm
không đối với
Nhị thừa bởi vì không có gì phá bỏ, vì Đại Bồ-tát
thẳng thắn nêu ra nghóa
pháp giới thành Phật. Vì thế cho nên ban đầu nói
Hoa Nghiêm không
có Quyền có thể hội tụ, cuối cùng nói Niết-bàn
hội tụ các Quyền trước đây, vậy thì không phải
là toàn bộ Quyền không có, bởi vì hiển bày về
Thật này cùng gọi là Nhất thừa.

Vả lại, trải qua Khai đều có ba loại. Ba loại thuộc
Tam thừa: Một là trước khác
sau giống ba, nghóa là trước dựa theo nhân tu
Tứ đế-Duyên sinh-Lục độ…
khác biệt, sau dựa vào đạt được quả thì người
Tam thừa thân-trí cùng diệt.
Như Câu Xá… nói, đây là dựa theo giáo
Tiểu thừa ở thời thứ nhất mà nói. Hai là trước giống
sau khác ba, nghóa là
cùng nghe Bát-nhã, cùng quán
Vô tánh, người Tam thừa đều đạt được
quả của mình, như trước đã dẫn ra
giải thích. Nếu dựa vào
Thánh đế-Duyên sinh-Lục độ hạnh khác nhau thì cũng có thể gọi là trước
sau khác nhau, đây là nói đến thời giáo thứ
hai-thứ ba. Ba là gần khác xa giống
ba, nghóa là Pháp Hoa… ban
đầu dùng Tam thừa làm phương tiện dạy
dỗ dẫn dắt, sau cùng lấy
Đại thừa khiến cho được độ… Ba loại thuộc Nhất thừa: Một là giữ một của ba, như kinh Thâm
Mật… nói. Hai là ngăn
một của ba, như kinh Pháp Hoa… Ba là nêu một của Thể, như kinh Hoa
Ng- hiêm… Vì thế cho nên
nói chung có bốn câu ấy: Một, hoặc là chỉ có
ba mà không có một, như
Câu Xá… Hai, hoặc là chỉ có một mà không
có ba, như kinh Hoa Nghiêm…
Ba, hoặc là cũng một cũng ba, câu này
có hai phần vị: Trước
là ba Thật một Quyền, như kinh Thâm Mật…; sau
là một Thật ba Quyền, như
kinh Pháp Hoa… Bốn, hoặc là không phải
một không phải ba, bởi
vì dựa theo lý không còn ngôn từ.

Trong Đại Bát-nhã:
“Xá-lợi-tử hỏi
Thiện Hiện rằng: Như Lai thọ ký cho các
Thiên tử, ở trong Tam thừa thì Thừa nào được thọ ký?
Thiện Hiện đáp rằng: Ở
trong pháp tướng không có một không có ba, vì
sao hỏi rằng ở Thừa nào được thọ ký?” Vì thế cho nên
Nhất thừa-Tam thừa có
còn-có mất, các thuyết không
giống nhau. Hoặc nghe chỉ phá bỏ
Nhị thừa thì nói là chỉ
dựa theo chủng tánh bất định. Hoặc nghe không có hai cũng không có ba thì nói là Thật giáo của Đại thừa cũng phá
bỏ. Hoặc nghe không phá
bở Đại thừa thì nói là Quyền giáo của Đại
thừa cũng giữ lại.

Nay giải thích có hai phần vị: Một
là dựa theo sự phá bỏ thì
Thật giáo của Nhị thừa
diệt mất, hai là dựa theo giáo thì cũng hội tụ
Quyền giáo của Đại
thừa. Quyền giáo của Đại thừa chấp nhận Nhị thừa nhập tịch diệt vốn không
thành Phật, nhưng đi
sâu vào phá bỏ Nhị thừa tức
là phá bỏ Tam thừa, cho
nên phá bỏ hai-phá bỏ ba đều không trái ngược nhau.

Giáo trước sau: Nay biện giải về pháp Như Lai đã thuyết ra trong một đời, dựa theo thời hiển bày giáo, phần lớn theo thể lệ
có bốn: Một, Bổn mạt
sai
biệt môn; hai, Y bổn khởi
mạt môn; ba, Nhiếp mạt
quy bổn môn; bốn, Bổn mạt vô ngại môn.

Một, Bổn-mạt
cùng lúc, trước sau một loại: đều không nói khác nhau. Nhưng có ba
phần vị: Một, nếu trong Tiểu thừa thì lúc đầu độ năm anh em
Kiều Trần Na…, cuối cùng
độ Tu-bạt-đà-la.
Khoảng giữa
lại cũng chỉ nói về
Tiểu thừa, chỉ lợi ích cho Tiểu cơ, như kinh Tứ
A-hàm và năm bộ Luật
như Di Giáo… Hai, nếu dựa theo Tam thừa thì từ
đầu đến cuối đều nói
về Tam thừa, cùng lợi ích cho ba cơ, như trước đã
dẫn ra các kinh Đại thừa
như kinh Lực Só, kinh Đại Bát-nhã…, trong đó
tuy có Quyền-Thật không
giống nhau nhưng đều có đủ Tam thừa. Ba,
nếu dựa theo Nhất thừa
thì từ ban đầu đến cuối cùng vì Đại Bồ-tát chỉ
nói đến Nhất thừa, như
thời ban đầu nói về Hoa Nghiêm…, trong đó không bao gồm
Nhị thừa, lại thâu nhiếp chín đời bao quát
trước sau, vì thế
cho nên đến cuối cùng
lại không nói khác nhau. Nhưng ba loại này đã dựa vào người căn nhất định ở đời này mà nói, đây tức là các giáo hướng
về nhau đều gồm chung
trước sau, hoàn toàn không có trước sau. Hai, Y bổn khởi mạt môn,
 có bốn loại: Một là thời thứ nhất vì Đại Bồ-tát nói về Đại thừa, tiếp nói về
Trung thừa, tiếp theo nói
về Tiểu thừa,
sau nói
về người-trời.
Như kinh này
sau phẩm
Tánh Khởi nói: “Thí như mặt trời
mọc, trước hết chiếu rọi tất cả các núi chúa lớn, tiếp chiếu rọi tất cả núi lớn, tiếp theo chiếu rọi núi báu
Kim cang, sau
đó mới chiếu rọi khắp
nơi tất cả mặt đất. Như Lai Ứng Cúng Đẳng
Chánh Giác cũng lại như
vậy, thành tựu mặt trời trí tuệ soi sáng vô lượng vô biên thế giới, thường phóng vô lượng ánh
sáng trí tuệ vô ngại,
trước hết chiếu rọi
các núi chúa lớn là các Bồ-tát Ma-ha-tát…, tiếp chiếu
rọi Duyên giác, tiếp theo chiếu rọi
Thanh văn, tiếp theo chiếu rọi
chúng sinh thiện căn quyết định tùy theo thích ứng tiếp nhận giáo hóa,
sau đó chiếu rọi tất cả
chúng sinh cho đến tà định, để làm nhân duyên
lợi ích cho đời vị lai.”
Lại trong phẩm này nói: “Như ba ngàn thế giới lúc ban đầu mới thành lập, trước hết thành lập cung điện của chư
Thiên cõi Sắc, tiếp thành lập cung điện của chư
Thiên cõi Dục, tiếp thành
lập xứ sở loài người
và các trú xứ của chúng sinh khác. Như Lai Ứng
Cúng Đẳng Chánh Giác
cũng lại như vậy, trước hết khởi lên trí tuệ các
hạnh của Bồ-tát, tiếp khởi lên
Duyên giác-Thanh văn và tất cả thiện căn
của chúng sinh khác.”
Dựa vào các văn này trình bày về Đức Phật lúc ban đầu nói về Đại
sau mới dần dần nói về Tiểu. Dựa theo pháp để trình bày về y bổn khởi mạt, không phải là dựa theo căn khí, bởi vì không
có trước học về Đại
sau mới học về Tiểu.

Hỏi: Pháp lẽ
nào không khác biệt chăng? Đáp: Bởi vì pháp của Tiểu thừa nhất định từ Đại thừa mà phát
sinh.
Kinh Văn Thù Vấn nói: “Mười tám bộ và vợ cũ của
Tỳ-kheo (bổn nhị) đều từ Đại
thừa mà phát sinh”. Luận Phổ Siêu Tam Muội và
luận Nhập Đại Thừa, ý
đều giống như vậy. Ba, Nhiếp mạt quy bổn môn.
Theo kinh Vô
Lượng Nghóa, ban đầu nói đến
Tiểu thừa, tiếp nói về
Trung thừa, về
sau nói đến Đại thừa.
Theo kinh Giải Thâm Mật,
thời thứ nhất chỉ có Tiểu thừa, thời thứ hai chỉ
có Đại thừa, thời thứ
ba có đủ Tam thừa. Theo kinh Diệu Trí, lúc đầu chỉ có
Tiểu thừa, tiếp có đủ
Tam thừa, sau chỉ có
Nhất thừa. Đây tức là
kinh Vô Lượng Nghóa hợp
Đại khai Tiểu, kinh Thâm Mật… hợp Tiểu
khai Đại, nghóa là đối
với Đại thừa mở ra Quyền-Thật. Nhưng Thâm Mật-
Diệu Trí đã đều là
Thánh giáo, không có thể lấy
một-bỏ một, vì thế cho nên hợp hai kinh này tổng quát có bốn môn: Thời thứ nhất là
Tiểu thừa, hai
kinh cùng nói. Thời thứ hai chỉ có Đại thừa, chỉ riêng
kinh Thâm Mật nói. Thời thứ
ba đầy đủ Tam thừa, vậy là kinh Thâm Mật thứ
ba, kinh Diệu Trí thứ hai.
Thời thứ tư chỉ có Nhất thừa, chỉ riêng kinh Diệu Trí nói thời thứ
ba. Vì vậy nên biết kinh Diệu Trí nói ở sau kinh Thâm Mật. Nếu nói là
kinh Diệu Trí ở cõi này chưa phiên dịch mà không tin, thì kinh Thâm Mật ấy đã là giáo của thời thứ ba, như vậy chấp
nhận định tánh Nhị thừa
và vô tánh hữu tình đều không thành Phật. Đầy
đủ Tam thừa gọi là tất
cả Thừa, thì tức là Pháp Hoa và Niết-bàn đã nói
ở sau Thâm Mật, nhưng
định tánh Nhị thừa và vô tánh Xiển-đề thảy
đều thành Phật, nên biết tức là thời thứ tư gọi là
Nhất thừa giáo, vì vậy
cùng với kinh Diệu Trí
phù hợp sâu xa không nghi ngờ gì.
Lại ban đầu là
Tiểu thừa giáo, theo
Pháp Hoa… thì Đức
Phật thành đạo sau hai mươi
mốt ngày mới nói. Theo Chân Đế Tam Tạng Ký
nói: “Đức Phật thành
đạo sau bảy năm nói về các bộ Bát-nhã, là giáo của thời thứ hai.”
Lại nói: “Ba mươi tám năm
sau nói
kinh Giải Tiết, là giáo của thời thứ ba.” Nay theo kinh Pháp Hoa và kinh Vô
Lượng Nghóa, đều nói bốn mươi năm
sau nói về
Pháp Hoa…, cho nên biết là nói
sau Thâm mật. Chân Đế nói như vậy chắc chắn có
Thánh giáo, nếu không
có Thánh giáo thì lẽ
nào có thể tự đưa ra số kể về năm tháng? Nếu
không tin điều này, thì
kinh Niết-bàn ở sau cuối là không nghi ngờ gì.
Nhưng bốn thời này đều
trước Quyền sau Thật, lấy sau hội tụ trước, nghóa
ấy quyết định Pháp Hoa
và Niết-bàn hội tụ Tam thừa của Thâm Mật quy về cứu cánh
Nhất thừa. Vì vậy bốn thời này từ cạn đến
sâu trình bày
về thứ tự Nhiếp mạt quy bổn. Bốn, Bổn mạt vô ngại môn, nghóa là lúc đầu nêu ra
Bổn giáo chiếu rọi núi chúa, trình bày không phải là Bổn thì không thể phát khởi

Mạt; sau hiển
bày quy tụ khác dòng về biển lớn, trình bày không phải là hết Mạt thì không thể quy về Bổn. Đây tức là
Bổn-Mạt soi chiếu
lẫn nhau, cho lấy giúp đỡ
lẫn nhau, mới là khéo léo thâu nhiếp chúng
sinh. Vì vậy luận chung gồm có năm phần vị: Một là Căn bản Nhất thừa
giáo, phần này nói như
Hoa Nghiêm; hai là Mật ý Tiểu thừa giáo; ba là Mật ý Đại thừa giáo; bốn là Hiển liễu
Tam thừa giáo, ba phần vị trên
nói như kinh Thâm Mật;
năm là Phá dị Nhất thừa giáo, nói như Pháp
Hoa và Niết-bàn… Bốn
môn trên đây đã viên thông vô ngại, vậy thì
trước sau tức là không
có trước sau, không có trước sau tức là trước sau,
đều không chướng ngại,
suy nghó theo đó mà thôi.

Dựa vào nghóa phân giáo: Giáo loại có năm, ở đây dựa vào phần nghóa chứ không phải là dựa theo
sự của thời: Một là Tiểu thừa
giáo; hai là Đại thừa Thỉ giáo; ba là Chung giáo; bốn là Đốn giáo;
năm là Viên giáo.

Một là Tiểu thừa có thể biết. Hai là
Thỉ giáo, bởi vì trong
kinh Thâm Mật giáo của
thời thứ hai-thứ ba cùng chấp nhận định tánh
Nhị thừa đều không
thành Phật, cho nên nay hợp lại tổng quát làm một
giáo, giáo này đã chưa
tận cùng về lý của pháp Đại thừa, vì vậy lập làm
Đại thừa Thỉ giáo. Ba
là Chung giáo, định tánh Nhị Thừa, vô tánh
Xiển-đề đều sẽ thành
Phật, mới nói hết lý đến cuối cùng của Đại thừa, lập
làm Chung giáo. Nhưng hai
giáo trên đều dựa vào địa vị dần dần tu
thành, cùng gọi là Tiệm
giáo. Bốn là Đốn giáo, chỉ một niệm không sinh thì gọi là Phật, không dựa vào địa vị dần dần mà nói, cho nên lập làm
Đốn. Như kinh Tư Ích nói:
“Người đạt được các pháp Chánh tánh, không từ một địa đến nơi một địa.”
Kinh Lăng Già nói: “Sơ địa tức là
Bát địa cho đến không có
tất cả thứ tự nào.” Lại trong phẩm Thập Địa ở
sau, Thập Địa giống như dấu chim giữa hư không, lẽ nào có
sai biệt đáng đạt được? Nói đầy đủ như kinh Chư
Pháp Vô Hành… Năm là
Viên giáo, trình bày về một
phần vị tức là tất cả phần vị, tất cả phần vị tức là
một phần vị, vì vậy Thập
Tín đầy đủ tâm thì thâu nhiếp năm phần vị
thành Chánh Đẳng Giác.
Dựa vào pháp giới Phổ Hiền, Đế võng trùng
trùng, chủ bạn đầy đủ,
cho nên gọi là Viên giáo, nói như kinh này…
Nếu dựa theo những pháp tướng đã nói, thì một là trong
Tiểu thừa, pháp tướng có
bảy mươi lăm pháp, Duy thức có sáu, đã nói không
tận cùng nguồn gốc của
pháp, khởi lên nhiều tranh cãi khác nhau, nói
như các bộ kinh-luận của
Tiểu thừa. Hai là trong Thỉ giáo mở rộng nói
về pháp tướng, mà ít nói đến chân tánh, đã thiết lập Bách pháp quyết
trạch rõ ràng, cho nên
không có tranh cãi trái ngược, đã nói về tám Thức chỉ
là tướng
của pháp sinh diệt, danh số phần nhiều giống như Tiểu
thừa, hẳn nhiên không
phải là nói đến huyền diệu cứu cánh, nói như
Du-già, Tạp Tập… Ba là trong
Chung giáo, ít nói về pháp tướng mà mở rộng
nói về chân tánh, bởi
vì hội tụ sự thuận theo lý, đã thiết lập tám
Thức nối thông với Như Lai
Tạng, tùy duyên thành lập đầy đủ sinh diệt-không
sinh diệt, cũng không luận đến Bách pháp, danh số
không mở rộng, lại không giống như Tiểu cũng không có nhiều môn, nói như
kinh Lăng Già…, luận Bảo
Tánh… Bốn là trong Đốn giáo, toàn bộ không nói
đến pháp tướng, chỉ biện giải về chân tánh, cũng không có tướng
sai biệt của tám Thức, tất cả vốn có chỉ là
vọng tưởng, tất cả pháp thật chỉ
là tuyệt dứt ngôn ngữ.
Chỉ trích giáo khuyến khích lìa bỏ, hủy tướng
quên tâm, tâm sinh tức
là vọng, không sinh tức là Phật, cũng không có
Phật- không có gì không
phải Phật, không có chúng sinh-không có gì không phải
chúng sinh, như
Tịnh Danh đứng im lặng hiển bày về Bất nhị… là ý ấy. Năm là trong
Viên giáo, đã nói chỉ là vô tận pháp giới, tánh hải
viên dung, duyên khởi vô
ngại, tương tức tương nhập giống như
Nhân-đà-la võng trùng
trùng không ranh giới, vi tế dung nạp lẫn nhau, chủ bạn
vô tận, mười mười
pháp môn đều xứng với pháp giới, nói đầy đủ như sau.

Nhưng năm giáo này có khai-có hợp cũng có năm lớp: Một,
hoặc tổng hợp làm một,
đó là chỉ riêng phương tiện thâu nhiếp chúng sinh
là một Đại thiện xảo
của Như Lai. Hai, hoặc tách ra làm hai, đó là
Nhất thừa-Tam thừa giáo trong các giáo trước đây, tuy có còn ba-mất hai không
giống nhau, nhưng đều gồm chung Tam thừa hướng
đến tiến vào, cho nên gọi là
Tam thừa giáo;
sau luôn luôn hiển bày về pháp căn bản không gồm chung
Nhị thừa, cho nên chỉ là một. Tức là trong
Trí Luận gọi là Cọng
giáo-Bất cọng giáo, điều này cũng không giống như
hai giáo đã lập của Sư Thượng Ấn… Ba, hoặc phân
làm ba, đó là
Tiểu thừa-Tam thừa-Nhất
thừa giáo. Trí Luận đã lấy kinh này làm Bất
cọng với Nhị thừa, cho
nên gọi là Bất cọng, tức là Nhất thừa. Đại
Phẩm… là gồm chung Tam thừa,
cùng quán được lợi ích cho nên gọi là Cọng,
tức là Tam thừa. Nghóa
dựa theo kinh Tứ A-hàm đã là Bất cọng thì
Bồ-tát cũng gọi là Bất
cộng, tức là Tiểu thừa. Dựa vào ba phần vị này,
Lương Nhiếp Luận quyển tám nói: “Như Lai thành lập Chánh pháp có ba loại: Một là lập
Tiểu thừa, hai là lập Đại thừa(có bản là chữ
Tam thừa), ba
là lập Nhất thừa. Loại
thứ ba là thù thắng nhất cho nên gọi là khéo thành lập, điều này cũng giống như kinh Diệu Trí ở trên đã nói.
Lại trong quyển thứ hai thuộc
Bộ Dị Chấp Sớ của Tam tạng Chân Đế cũng nói giống
như vậy. Bốn, hoặc phân làm bốn, loại này có hai nghóa: Một là ở
trong Cọng
giáo trên đây dựa theo còn ba-mất hai, tách ra hai
giáo cho nên là bốn:
1) Biệt giáo Tiểu thừa;
2) Đồng giáo Tam thừa, như kinh Thâm Mật…;
3) Đồng giáo Nhất thừa, như kinh Pháp Hoa…;
4) Biệt giáo Nhất thừa, như kinh Hoa Nghiêm… Hai là dựa theo trải qua
phần vị-không phần vị tách ra hai giáo
Tiệm-Đốn cho nên là bốn:
1) Tiểu thừa giáo;
2) Tiệm giáo;
3) Đốn giáo;
4) Viên giáo. Năm, hoặc phân tán làm năm, ở trên Tiệm giáo lại phân ra hai giáo Thỉ-Chung, năm giáo trên đây không phải là bố cục phân định của kinh, nhưng phần nhiều
mà luận, thì như trên đã
đưa ra gồm chung các kinh luận, đều có thể biết.

Dùng lý khai mở Tông chỉ. Tông chính là có mười:

Một, Pháp-ngã
câu hữu tông, đó là phần vị người-trời và Độc
Tử Bộ trong Tiểu thừa… Tông ấy lập ra ba tụ pháp, một là pháp hữu vi,
 hai là pháp vô vi, ba là không phải hai tụ. Tức hai tụ đầu là pháp, một
tụ sau là ngã. Lại lập ra năm tạng pháp: Một là quá khứ, hai là vị lai, ba
là hiện tại, bốn là vô
vi, năm là bất khả thuyết. Hai,
Pháp hữu-ngã vô tông, đó là
Tát-bà-đa… Tông ấy nói
các pháp do hai loại thâu
nhiếp, một là Danh, hai là Sắc. Hoặc do bốn
loại thâu nhiếp, đó là
ba đời và vô vi. Hoặc lập ra năm pháp: Một là
tâm, hai là tâm sở, ba
là sắc, bốn là bất tương ưng, năm là vô vi. Đây tức
là chỉ có pháp này chứ
không có ngã riêng biệt. Ba, Pháp vô khứ lai tông, đó là các thuyết như Đại chúng bộ…, có hiện tại và vô vi, bởi vì
Thể-Dụng của pháp quá khứ và vị
lai đều không có.

Bốn, Hiện thông giả thật tông, đó là Thuyết giả bộ…, tông ấy
nói không có hai đời
quá khứ và vị lai, ở trong pháp hiện tại thuộc về Uẩn thì có thể là thật, thuộc về
Giới-Xứ là giả, tùy theo các pháp
giả-thật không nhất định. Sư khác ở luận
Thành Thật và
Kinh bộ cũng
giống như loại này.

Năm, Tục vọng-chân thật tông, đó là Thuyết xuất thế bộ…, tông ấy nói pháp thế tục là giả bởi vì hư vọng, pháp xuất thế là thật bởi
vì không phải là hư vọng.

Sáu, Chư pháp
đản danh tông, đó là Nhất thuyết bộ…, tất cả
ngã- pháp chỉ có giả danh đều không có thật Thể.
Tông này lại gồm
chung Thỉ giáo của giáo ban đầu. Bảy, Nhất thiết giai
không tông, đó là Đại thừa
Sơ giáo, nói về
tất cả pháp đều là
tánh Không, bởi vì vượt quá tình thức biểu thị
không có phân biệt, như Bát-nhã…đều biện giải.

Tám, Chân đức bất không tông, đó là Chung giáo mà các kinh đã nói, bởi vì tất cả các pháp chỉ là Chân như thâu nhiếp thật đức trong
Như Lai Tạng, Chân Thể
không Không vốn có đủ tánh đức.

Chín, Tướng tưởng câu tuyệt tông, đó là bặt dứt ngôn từ mà
hiển bày về lý lìa xa
ngôn từ trong Đốn giáo, lý-sự đều phai mờ bình đẳng lìa niệm. Mười, Viên minh cụ đức tông, đó là như Biệt giáo
Nhất thừa, pháp môn đã hiển bày
vô tận tự tại đầy đủ chủ-bạn.

Trên đây sơ
lược đưa ra nội dung chính về phân giáo khai tông, mở rộng dẫn ra giáo lý, trình bày đầy đủ về tướng của nghóa thì
nói như Biệt ký.

Bốn- Lựa chọn giáo đã che phủ cơ. Tất cả có mười phần vị, trong đó năm phần vị trước là lựa chọn không phải là căn khí ấy, năm phần
vị sau là chính thức hiển
bày về những việc làm(sở vi). Một là trong
năm phần vị trước:

Một, trái với Chân không phải là căn khí: Đó là không phát
tâm Bồ-đề, không cầu
giải thoát, dựa vào bên cạnh kinh này cầu danh
cầu lợi trang sức cho
ngã-nhân, kinh không phải là duyên ấy, cho nên loại ấy không phải là căn khí.
Văn sau nói: Nói pháp vì danh lợi chính là
ma nghiệp, lại như nói
pháp bất tịnh rơi vào ác đạo… Hai, trái với
Chánh không phải là căn khí: Đó là giả bộ hiện
rõ Đại tâm, lừa dối
tu tập tà thiện, gần thì cảm báo người-trời, cuối cùng không thể
thành Phật, e rằng rơi vào địa ngục A-tỳ, nhiều kiếp nhận chịu khổ đau, như
Đề-bà-đạt-đa làm
hạng Xiển-đề, lại như tám Đại thiện nhân
sẽ thành bất thiện. Trước dựa vào lúc ban đầu thì có thể
biết, ở đây dựa vào
lúc cuối cùng mới hiển bày. Văn sau nói: Quên mất
tâm Bồ-đề, tu các thiện
căn chính là ma nghiệp. Kinh không phải là
duyên này, cho nên cũng
không phải là căn khí.

Ba, trái với
Thật không phải là căn khí: Đó là tuy không giả dối, nhưng tùy theo kiến chấp của mình mà chọn lấy văn kinh, liền
khiến cho vượt lên trên
tình thức đến được giáo, quay lại không tiến vào tâm cho nên trở thành căn khí
sai trái. Địa
Luận nói: “Nghe dấy lên
nghe hiểu, không có thể
không nghe”. Lại như năm loại sai lầm tùy theo
âm thanh chọn lấy nghóa…
Ba phần vị trên đây đều là cảnh giới của chúng
sinh phàm ngu. Văn
sau nói:
Kinh này không đưa vào tay của tất cả
chúng sinh,
chỉ trừ ra Bồ-tát, bởi
vì kinh này không phải là duyên của chúng sinh
lưu chuyển, cho nên không đưa vào tay. Bốn, hạn hẹp kém cỏi không phải là căn khí: Đó là tất cả Nhị thừa

không có tâm
rộng lớn, cũng không phải là căn khí này. Văn sau
nói: Tất cả Thanh
văn-Duyên giác không nghe đến kinh này, huống gì thọ trì? Lại năm trăm Thanh văn
như Xá-lợi-phất…, đều như đui điếc
không nghe không thấy. Năm, giữ
Quyền không phải là căn khí: Đó là các
Bồ-tát Cọng giáo Tam thừa…,
tùy theo trong tông của mình, bởi vì tu hành chưa đầy đủ
A-tăng-kỳ thứ nhất, cho nên cũng không phải là căn khí này.
Văn sau nói: Bồ-tát
Ma-ha-tát, tuy trải qua vô lượng ức Na-do-tha kiếp thực hành
sáu Ba-la-mật, tu tập đạo
phẩm-thiện căn, chưa nghe đến
kinh này, tuy nghe mà không
tin tưởng thọ trì tùy thuận, các hạng này
hãy còn là giả danh Bồ-tát. Hỏi:
Kinh Anh Lạc… nói là mười ngàn kiếp tu hạnh
Thập Tín đầy đủ, vì sao trong này
nói vô lượng ức… không tin tưởng kinh này?

Đáp: Bởi vì
kinh ấy chỉ ở trong phần vị thực hành trải rộng
(hành bố) tu hạnh như
Tín…, ở đây Phổ Hiền-Thập Tín viên dung, một thâu nhiếp tất cả hãy còn chưa nghe tin, vì vậy cho nên biết hai tông
sai
biệt. Nếu không như vậy
thì tu hành đã trải qua thời kiếp như thế mà
không tin tưởng kinh này,
sao gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát? Lựa chọn không phải
là căn khí, xong.

Hai là hiển bày về việc đã làm (sở vi) trong năm phần vị sau:

Một, việc làm chính đáng: Đó là trong Bất cọng giáo Nhất
thừa phủ khắp cơ
Bồ-tát, chính là căn khí đã làm của kinh này. Văn
sau
nói: Kinh điển như vậy, chỉ vì
Bồ-tát Ma-ha-tát dựa vào Thừa bất tư nghị
mà nói, chứ không nói
vì người khác. Giải thích: Thừa là lấy vận
chuyển làm nghóa. Nếu dựa vào môn riêng biệt thì ban đầu vận chuyển
đến Thập Tín, tiếp vận chuyển đến
Thập Trú cho đến
Phật quả, lần lượt dựa vào nhau để bước lên bờ
giải thoát, gọi là có thể nghó bàn.
Nếu dựa vào Phổ Môn,
thì một phần vị tức là tất cả phần vị, cũng một
vận chuyển tức là tất
cả vận chuyển, gọi là Thừa không thể nghó bàn.
Dựa vào Thừa này, Thập
Tín đầy đủ tâm thì đạt được sáu phần vị, nói như phẩm
Hiền Thủ… Lại phần vị như
Thập Trú… cũng đều như vậy, nói như các Hội-Xứ ở
văn sau. Lại như
Thiện Tài một đời đầy đủ
năm phần vị…, bởi vì đều thu nhận tất cả pháp tướng này. Lại phẩm
Lô-xá-na nói: Không phải là sự
nhận biết của cảnh giới khác, Phổ Hiền phương
tiện đều có thể tiến
vào. Lại Phổ Hiền khuyên nhủ chúng rằng: Thân
thanh tịnh của cảnh giới
Phổ Nhãn, nay tôi diễn nói, các Nhân giả lắng
nghe kỹ càng như vậy có thể biết.

Hỏi: Vì sao
pháp này không phải là cảnh giới khác? Đáp: Bởi vì
Lô-xá-na phủ khắp
mười phương, thích ứng với tất cả căn cơ khắp nơi pháp giới. Nếu cơ khác biệt ấy xứng với căn
khí của mình, thì chỉ tự thấy điều mà mình đã thấy, nghe điều mà mình đã nghe,
 đều không thấy điều mà người khác đã thấy, không nghe điều mà người khác đã nghe.
Cơ Phổ Hiền này chính là thấy tất cả những điều đã
thấy, nghe tất cả những
điều đã nghe, đều tận cùng phạm vi chủ động
giáo hóa của Lô-xá-na,
cho nên nói là cảnh Phổ Nhãn. Vì vậy nên biết, hai cơ rộng khắp-riêng biệt cảm đến hai pháp rộng khắp-riêng biệt
đều không giống nhau. Hai, việc làm gồm đủ: Đó là trong pháp để lại (di pháp)
thấy- nghe-tin, hướng về
pháp vô tận này, trở thành chủng tử Kim Cang,
là nhất định đạt được
pháp viên dung rộng khắp này. Như văn sau dụ về nuốt chửng
Kim cang, lại dụ về đốm lửa nhỏ đốt cháy lan rộng…
Lại như Thiên tử
Đâu-suất từ địa ngục thoát ra đạt được Thập địa Vô
sinh nhẫn, lần lượt
chuyển tiếp làm lợi ích không cùng tận… đều bởi vì
xưa kia nghe pháp này làm
nhân vốn có. Lại văn sau nói: Tuy đang ở trong biển
lớn và ngọn lửa lúc kiếp tận, mà quyết định tin
tưởng không
nghi ngờ gì thì nhất định
được nghe kinh này. Ba, việc làm dẫn lối: Đó là lúc ấy như
Bồ-tát Cọng giáo
trước đây, ở trong
giáo ấy đã lâu nuôi lớn hiểu sâu thấu suốt tận
cùng nguồn giáo thực hành trải rộng, thì
sẽ đạt được pháp giới
Phổ Hiền này. Đã
nói trải qua vô lượng
ức Na-do-tha kiếp không tin vào kinh này, tức là
biết vượt qua số kiếp này chắc chắn sẽ tin nhận,
bởi vì lìa pháp rộng khắp này lại không có đường nào khác có thể
thành Phật, cho nên
kinh không nói người ấy
vượt qua số kiếp này hãy còn không tin.

Hỏi: Nếu Địa
tiền ấy vượt qua số kiếp ấy chắc chắn tin nhận, thì biết hai tông của Địa thượng không khác nhau, lẽ nào người ấy đã tin
là không có Thập Địa
hay sao? Đáp: Ở trong giáo ấy có đủ thực hành trải rộng của Thập Địa
dần dần cho đến Phật
quả, nuôi lớn căn khí ấy cốt phải làm cho thành
thục, người chậm nhất
đến số kiếp này nhất định sẽ tin tưởng tiến vào, như người mau chóng ấy thì tức là không nhất định, có thể dựa theo
mà biết thôi. Bốn, việc làm
chuyển hóa: Đó là các Nhị thừa bởi vì căn
chậm chạp, cần phải
trước tiên quay lại tiến vào Cọng giáo Đại thừa rời bỏ tên gọi Nhị thừa được gọi là Bồ-tát,
sau đó mới tiến vào pháp
Phổ Hiền này, cho nên nói
kinh này chỉ vì Bồ-tát chứ không thâu nhiếp Nhị thừa. Nếu không như vậy thì kinh Đại thừa khác có chúng Thanh văn là cơ đã

che phủ cũng
dẫn dắt Nhị thừa khiến cho tiến vào Đại thừa, chỉ
riêng kinh này chúng không
có cơ Thanh văn, văn không nói đến rời bỏ
Tiểu thừa, sao trở thành
chuẩn mực sâu rộng của liễu nghóa? Giả sử hội
thứ tám có Thanh văn,
là dựa vào so sánh hiển bày pháp biểu thị như
đui điếc chứ không phải
là đã che phủ, bởi vì sáu ngàn Tỳ-kheo ấy
không phải là La-hán, cho
nên không trái ngược nhau. Vì vậy nên biết, tất
cả Nhị thừa hoàn toàn
không có lập tức tiến vào pháp giới Phổ Hiền, dựa vào cuối cùng nói là không có Nhị thừa mà không quay lại tiến vào Cọng
giáo Bồ-tát, không có Bồ-tát ấy mà không tiến vào pháp
Phổ Hiền này, cho nên
lần lượt chuyển tiếp không có gì không đều là
căn khí của pháp này.

Năm, việc làm vượt xa: Đó là các phàm ngu, ngoại đạo,
xiển-đề đều có Phật
tánh, bởi vì nghiệp chướng sâu nặng cho nên lâu xa
cũng sẽ được tiến vào
pháp này, như luận Phật Tánh và luận Bảo Tánh đều nói. Bởi vì
Nhất Xiển-đề phỉ báng nhân Đại thừa, dựa vào vô lượng thời gian mà nói là không có
Phật tánh, không phải là nói hoàn toàn không có tánh
thanh tịnh. Lại như kinh này, Đại thọ của tánh khởi
không nảy mầm ở hai
chốn Nhị thừa và Xiển-đề, cũng không rời bỏ
tánh nảy mầm…, lại như các dụ về mặt trời chiếu rọi
sinh ra lóa mắt…
Vì vậy nên biết, tất cả
chúng sinh cuối cùng không có chúng sinh nào
không đều tiến vào pháp
này, bởi vì pháp rộng khắp này chúng sinh cùng
có. Văn sau nói: Bồ-tát
biết trong thân của tất cả chúng sinh có Bồ-đề của Như Lai..

Hỏi: Nếu như
vậy thì vì sao các luận như Du-già…, nói định
tánh Nhị Thừa và vô
tánh hữu tình nhất định không thành Phật?
Đáp: Đây
là bởi vì giáo môn có liễu và bất liễu, cho nên có
các thuyết như vậy. Nếu
dựa vào Tiểu thừa, thì tất cả chúng sinh cuối cùng đều không có tánh Đại Bồ-đề, nói như luận
Tiểu thừa. Nếu như Đại thừa thì Sơ giáo tức là năm tánh
sai biệt, một phần có tánh-một
phần không có tánh, như
Du-già… Nếu dựa vào Chung giáo thì tất cả
chúng sinh đều có Phật
tánh, như kinh Niết-bàn…, như luận Phật Tánh…
Nếu dựa vào Đốn giáo
thì Phật tánh của chúng sinh cùng một vị-cùng
một tướng, không thể
nói có-không thể nói không có, lìa xa ngôn từ
bặt dứt suy nghó, nói như kinh Chư
Pháp Vô Hành… Nếu dựa vào Viên giáo
thì Phật tánh của chúng
sinh có đủ nhân-có đủ quả, có tánh-có tướng,
tròn vẹn sáng ngời đầy đủ công đức, như phẩm
Tánh Khởi nói về Như Lai Bồ-đề xứ.

Năm- Phân rõ
về Giáo Thể chủ động giải thích. Luận chung về

Giáo Thể, từ
cạn đến sâu, sơ lược có mười môn:
1) Ngôn thuyên giáo Thể môn;
2) Thông nhiếp sở thuyên môn;
3) Biến cai chư pháp môn; Duyên khởi duy tâm môn;
5) Hội duyên nhập thật môn;
6) Lý sự vô ngại môn;
7) Sự dung tương nhiếp môn;
8) Đế võng trùng trùng môn;
9) Hải ấn bính hiện môn;
10) Chủ bạn viên bị môn. Ngôn thuyên giáo
Thể môn, có hai: Trước là phân rõ
Tiểu thừa, sau là hiển bày Đại thừa. Trong phần trước, dựa
vào ba thuyết của các
vị ở tông Tát-bà-đa. Một thuyết nói chỉ dùng
Danh-Cú-Văn thân làm
giáo Thể, bởi vì luận Phát Trí nói: “Mười hai
bộ kinh lấy gì làm tánh? Đáp:
Danh thân-Cú thân-Văn thân theo thứ tự trú…” Một thuyết nói bởi
vì Thanh thiện vốn là giáo Thể của Phật, Danh… vô
ký là tác dụng của
giáo. Luận Bà-sa quyển 126 nói: “Giáo của Phật
thế nào? Đáp: Đó là ngữ ngôn-từ xướng-bình luận-ngữ âm-ngữ lộ-ngữ biểu của Phật là
Giáo của Phật, cho đến nói là ngữ nghiệp làm Thể.
Phật nói pháp gì? Đáp: Đó là
Danh thân-Cú
thân-Văn thân, đưa ra theo thứ tự,
sắp xếp theo thứ tự, nối liền nhau theo thứ tự, đây chính là tổng quát hiển bày về
tác dụng thuộc giáo của Phật.” Giải thích: Người
bình luận chính nghóa âm thanh làm Thể, tông Kinh Bộ
cũng lấy âm thanh làm tánh, vì vậy luận
Thuận Chánh Lý thứ 14 phá bỏ
Kinh Bộ rằng: “Ông không nên
lập Danh-Cú-Văn thân tức là âm thanh làm Thể.”
Lại Vô Tánh Nhiếp Luận phá bỏ luận ấy rằng: “Câu nói trong các
khế kinh là tự tánh vốn
không hợp lý, bởi vì trước là Pháp xứ, sau
là Thanh xứ.” Cũng lại dựa
vào hai thuyết trước, các vị hợp lại chọn lấy
để làm giáo Thể, còn
lại như thuyết kia.

Ngay tông Đại thừa có bốn câu:

Một, thâu nhiếp Giả thuận theo Thật, chỉ là Thanh làm Thể,
bởi vì Danh… dựa vào
Thanh gập lại giả lập không có Thể riêng biệt.
Vô Tánh Nhiếp luận nói: “Dựa vào hoằng thệ nguyện lập ra thanh
Bồ-tát.” Tạp Tập luận
nói: “Do thành mà dẫn ra Thanh gọi là các Thánh nói.” Hai, phân biệt Giả khác với Thật, dùng
Danh… làm tánh.
Duy Thức luận thứ hai nói:
“Nếu Danh-Cú… không
khác Thanh, thì cảnh
của Pháp-Từ vô ngại
lẽ ra không sai khác.

Ba, giả-thật
kết hợp phân rõ, cũng là Thanh cũng là Danh… Kinh Duy Ma nói: “Có người dùng âm thanh ngữ ngôn văn tự mà làm
Phật sự.”
Trong Thập Địa luận nói: “Người nói dùng hai
sự để nói,
người nghe dùng hai sự
để nghe, gọi là âm thanh danh tự.” Hỏi: Theo tông này thì thanh biểu thị về thiện ác, thanh là
vô ký, nhưng Danh-Cú-Văn
là tự tánh vô ký, sao có thể vô ký là Thể của

Thánh giáo? Đáp: Nếu tâm hữu lậu biến đổi thì có thể là vô ký;
nếu Hậu đắc trí của
Phật Bồ-tát nói thì đều là thiện thâu nhiếp.
Thập Địa luận nói: “Dựa
vào việc gì? Đó là âm thanh và chữ thiện.”

Bốn, giả-thật
cả hai không còn, không phải là thanh, không
phải là danh, bởi vì tức là Không, nói tức là không có nói.
Kinh Duy Ma nói: “Lìa tánh văn tự tức là giải thoát.”
Trong Thập Địa luận, gió dụ
cho âm thanh, nét vẽ dụ cho danh tự. Nếu gió lay động cây lá và nét vẽ trên vách thì ngay đó có thể chọn lấy; nếu gió giữa hư không và nét vẽ
giữa hư không thì đều
không thể chọn lấy. Thanh và danh của Đại thừa
nên biết cũng như vậy,
đều không thể chọn lấy bởi vì tướng không còn.

Bốn câu trên
đây làm một giáo Thể, vì vậy Không-Hữu vô
ngại gọi là pháp Đại
thừa, nghóa là Không chẳng khác Hữu, Hữu là
huyễn Hữu, huyễn Hữu
rõ ràng toàn Thể là Không; Hữu chẳng khác Không,
Không là chân Không, chân Không trong suốt toàn Thể là Hữu. Vì
vậy Không-Hữu chẳng mảy may phân biệt, cho nên kinh Phật
Tạng nói: “Các pháp như mảy lông nhỏ bé không phải là Không thì chư
Phật không xuất thế.” Lại văn
sau nói: Các pháp chung quy là Không,
không có tướng đầu
mảy lông, như vậy không phải là một.

Thông nhiếp sở thuyên môn: Không
những như trước chọn lấy giáo chủ động giải thích
(năng thuyên), mà cũng dần dần bao gồm chọn lấy nghóa thụ động giải thích
(sở thuyên), bởi vì đều là pháp đã nhận biết-đã hiểu rõ.
Du-già luận quyển 81 nói: “Thể của các khế
kinh sơ
lược có hai loại, một là Văn, hai là Nghóa. Văn
là thụ động dựa
vào(sở
y), nghóa là chủ động dựa vào (năng y), hai loại
như vậy gọi chung là
tất cả cảnh giới đã nhận biết. Giải thích: Bởi
vì nghóa dựa vào văn
mà được hiển bày.

Biến cai chư pháp môn: Nghóa
là tất cả các pháp đều là giáo
Thể, môn này cũng có hai loại: Một là pháp hữu
vi, hai là pháp vô vi. Bởi vì tất cả đều có thể làm cho chúng
sinh mở mang giác ngộ. Như văn
sau nói:
Hoa tươi đẹp, đất quý báu, cây thơm ngát, lầu đài giữa mây, pháp giới, pháp môn không có gì không phải là
Phật sự, như
Bồ-tát Thắng Âm và hoa sen đã ngồi tức là bao gồm
nhân-pháp, giáo-nghóa, hạnh-vị, nhân-quả, lý-sự,
toàn bộ có thể phát sinh giải hạnh thù thắng,
cho nên đều là giáo Thể, dựa theo suy nghó có thể biết.

Duyên khởi duy tâm môn: Tất cả giáo pháp
sai biệt trên đây không có loại nào không đều là chỉ do tâm mà hiện ra, cho nên đều
dùng duy Thức làm Thể. Nhưng có hai nghóa: Một là
thân và bóng phù hợp với nhau, hai là nói và
nghe hoàn toàn thâu nhiếp.
câu:

Trong nghóa một bao gồm phân rõ các giáo tổng quát có bốn Một, chỉ có thân không có bóng, như
Tiểu thừa giáo, bởi vì không

có duy
Thức biến hiện…, cho nên các
Luận sư như
Đạt-ma-đa-la…
phần nhiều lập ra nghóa này.

Hai, cũng là
thân cũng là bóng, như Đại thừa Thỉ giáo, ngoài
tâm của chúng sinh, Phật
có các pháp như sắc thanh vi diệu… Do lực
tăng thượng duyên thuộc thiện căn của người nghe chạm vào những chủng
tử Lợi tha của Phật
làm nhân, ở trên trí Phật văn nghóa phát sinh lẫn
nhau làm bổn tánh của tướng giáo. Do lực tăng
thượng duyên thuộc giáo
này của Phật chạm vào
chủng tử thiện căn hữu lậu vô lậu của người
nghe pháp, trên Thức của
người nghe văn nghóa phát sinh lẫn nhau làm
ảnh tượng của tướng
giáo. Nhị Thập Duy Thức luận nói: “ Lực tăng
thượng lần lượt
chuyển tiếp, quyết định thành tựu hai Thức.” Các
Luận sư
như Hộ Pháp… đều lập ra nghóa này.

Ba, chỉ có bóng không có thân, như Đại thừa Chung giáo, lìa tâm của
chúng sinh, Phật quả không có
sự tướng công đức như
sắc
thân-ngôn ngữ-âm thanh, chỉ có Như Như và trí
Như Như, Đại
Bi-Đại Nguyện làm tăng thượng duyên khiến cho căn đã giáo hóa ấy được
thuần thục,
trong tâm chúng sinh hiện
rõ sắc thanh thuyết pháp của Phật, cho nên
Thánh giáo chỉ là ảnh tượng của tâm
chúng sinh. Vì vậy văn
sau nói: Tất cả các Như Lai không có nói
Phật pháp, tùy theo
sự ứng hóa ấy để mà diễn
nói pháp. Lại nói:
“Pháp thân của Như Lai không thể nghó bàn, không
có sắc-không có tướng, không có gì
sánh bằng, thị hiện
sắc tướng
vì chúng sinh, mười phương được giáo hóa không có nơi nào
không thấy, như
vậy không phải là một.
Các Luận sư như Long Quân-Kiên Tuệ… đều lập ra nghóa này.

Bốn, không phải là thân không phải là bóng, như trong Đốn
giáo, không phải là
ngoài tâm thẳng thắn không có sắc… của Phật,
Phật đã hiện rõ trong tâm
chúng sinh cũng là tướng Không, bởi vì chỉ là
Thức chứ không có bóng hình nào khác, tánh của
sắc… lìa xa không gì vốn
có, tất cả không có
nói, không có nói cũng không có, cho nên Thánh
giáo tức là giáo của
Vô giáo. Như kinh nói: “Như Lai không xuất thế, cũng không có
Niết-bàn.” Lại kinh Thâm Mật trình bày
Phật thường
tại pháp giới, không có lúc nào không xuất thế… Các tông như
Long Thọ… phần nhiều lập ra nghóa này.

Bốn thuyết trước đây tổng hợp làm một giáo, viên dung vô
ngại đều không gây trở
ngại cho nhau, bởi vì đều là Thánh giáo từ cạn đến

sâu thâu
nhiếp chúng sinh, suy nghó thì có thể thấy.

Nghóa thứ hai
là nói và nghe hoàn toàn thâu nhiếp, cũng có bốn câu:

Một, lìa ngoài tâm Phật không có chúng sinh đã giáo hóa, huống
là giáo pháp đã nói. Vì thế cho nên chỉ là do tâm Phật mà hiện rõ,
nghóa này thế nào? Nghóa
là các chúng sinh không có tự Thể riêng biệt, thâu nhiếp vào
Như Lai Tạng mà thành
chúng sinh.
Nhưng Như Lai Tạng này tức là trí
chứng của Phật làm tự Thể, cho nên toàn Thể của
chúng sinh chung quy là ở trong tâm trí Phật.
Văn sau nói:
Chư Phật nhận biết rõ ràng tất cả từ tâm mà chuyển.
Lại nói: Trong thân Bồ-đề của
Như Lai thấy rõ tất cả chúng
sinh phát tâm Bồ-đề, tu
hạnh Bồ-tát, thành tựu Đẳng
Chánh Giác, cho đến thấy tất cả chúng
sinh tịch diệt
Niết-bàn cũng lại như
vậy, thảy đều một tánh bởi vì vô tánh. Lại nói:
Cõi Phật trong tất cả các
kiếp thuộc ba đời và các pháp-các căn, tâm-tâm pháp, tất cả các pháp hư vọng, pháp này thảy đều hiện rõ ở trong một thân
của Đức Phật. Lại Phật
Tánh luận quyển thứ hai, phẩm Như Lai Tạng nói: “Tất cả chúng
sinh đều ở trong trí
Như Lai cho nên gọi là Tạng, bởi vì
trí Như Như xứng với
cảnh Như Như. Tất cả chúng sinh quyết định
không có chúng sinh nào
ra khỏi cảnh Như Như, đều bởi vì sự thâu nhiếp
giữ gìn của Như Lai, cho
nên gọi chúng sanh sở tạng là Như Lai Tạng”.
Vì vậy lìa trí của tâm
Phật không có một pháp nào có thể đạt được. Hai, toàn bộ ở trong tâm
chúng sinh, bởi vì lìa tâm chúng
sinh không có Phật đức
nào khác. Nghóa này thế nào? Phật chứng chân như trong tâm chúng
sinh mà
thành Phật, cũng bởi vì Thỉ giác giống
như Bổn giác, cho nên
toàn bộ ở trong tâm chúng sinh. Từ Thể khởi
Dụng, lúc Ứng Hóa thân
tức là Dụng chân như to lớn trong tâm chúng sinh
lại không có Phật nào
khác. Trong Khởi Tín luận trình bày nhiều về
nghóa này. Lại văn sau
nói: Nếu người mong cầu biết tất cả chư Phật ba
đời, thì nên quán như
vậy, tâm tạo các Như Lai. Ba, tùy theo một Thánh giáo toàn bộ chỉ có hai tâm, bởi vì hai câu trước nói không lìa xa nhau, nghóa là Phật trong tâm chúng
sinh nói pháp cho chúng
sinh trong tâm Phật, chúng
sinh trong tâm
Phật nghe Phật trong tâm chúng
sinh nói pháp. Như vậy hoàn toàn
thâu nhiếp,
nói- nghe vô ngại, đây
gọi là đạo lý Duy Thức sâu xa. Bốn,
 hoặc là Thánh giáo kia đều không phải là hai tâm,
 bởi vì hai tâm cùng đối chiếu làm mất đi không hề hiện rõ,
 cùng dung hợp hai phần vị không phần vị nào không mất đi. Nghóa là chúng
sinh trong
tâm Phật không có người
nghe, Phật trong tâm chúng sinh không có người nói, cả hai cùng mất đi, hai tướng không còn.
Kinh nói: “Người nói
pháp không có giảng
nói-không có chỉ bày, người nghe pháp ấy cũng không có nghe-không có đạt được.” Lại văn
sau này nói: Do chúng
sinh
mà sinh không phải
là sinh, cũng không có lưu chuyển trong
sinh tá»­.
Lại kinh nói: “Như Lai không nói pháp, cũng không độ chúng
sinh…” Vì vậy bốn câu này đối với một Thánh giáo viên dung vô ngại, mới là
đến nơi cuối cùng.

Hội duyên nhập thật môn, cũng có hai nghóa: Một là dùng gốc
thâu ngọn, hai là hội tướng hiển tánh.

Trong nghóa một, bởi vì các Thánh giáo đều từ Chân như phát
ra, cho nên cùng với Chân
tánh luôn luôn không khác, như biển nổi
sóng không mất vị muối
mặn. Trong luận gọi là Chân như phát ra mười
hai phần giáo.
Lại nói: Từ những pháp giới rất
thanh tịnh, phát ra
những giáo pháp. Vì vậy
dùng gốc thâu ngọn chỉ là Chân như.
Nghóa thứ hai là hội tướng hiển tánh, nghóa là tất cả giáo pháp
sai biệt ấy đều là từ
duyên khởi, từ duyên khởi cho nên chắc chắn không có tự tánh, bởi vì không có tự tánh tức là
Chân như. Vì vậy tướng
Không vốn là toàn bộ
Chân tánh, cho nên vốn hiện rõ chỉ là Chân như.
Kinh nói: “Tất cả các
pháp tức là Như.” Lại văn sau nói: Pháp sinh diệt
ấy là tướng Như Như.

Lý sự vô ngại môn, cũng có hai nghóa: Một,
tất cả giáo pháp
toàn Thể là Chân như, không ngại sự tướng rõ
ràng sai biệt; hai, Chân như toàn Thể là tất cả các pháp, không ngại một vị trong
suốt bình đẳng.
Nghóa trước thì như sóng tức là nước không
ngại tướng động, nghóa
sau thì như nước tức là
sóng không mất đi
Thể ướt. Nên biết đạo lý trong này cũng như vậy, cho nên
lý-sự dung hòa vô ngại chỉ là một pháp môn vô trú bất nhị.
Trong kinh Duy Ma hiển bày nhiều về nghóa này.
Lại kinh này nói:
“Biết không phải có là có, có là không phải có, không phải tướng là tướng, tướng là không
phải tướng, bởi vì vốn là dùng không phải có làm có, cho nên có này tức là không phải có.”
Thánh giáo dựa theo lý-sự vô ngại này, suy nghó có thể thấy rõ.

Sự dung tương nhiếp môn, cũng có hai nghóa: Một là thuộc về
nhau (Tương tại), hai là đúng như nhau(Tương thị).

Trong nghóa một là thuộc về nhau: Một
là một ở trong tất cả,
ng- hóa là như một giáo
pháp không ngăn ngại thuộc về sự toàn là chân
lý, chân lý khắp nơi
trong tất cả sự khác giống như lý, giáo sự cũng
như lý khắp nơi, cho nên trong tất cả các pháp luôn
luôn có một này. Dựa
vào nghóa này cho nên
không có một nơi nào như mảy trần vi tế…, không
có Phật
thuyết giáo. Vì vậy kinh này nói: Trong tất cả cõi
Phật như vi trần, Lô-xá-na hiện
sức tự tại, thệ nguyện rộng lớn, phát ra âm
thanh, điều phục tất cả
các loại chúng sinh. Hai là tất cả ở trong một,
nghóa là không có phạm vi của lý, đã không đổi
tánh mà toàn là sự. Vì vậy
một sự thâu nhiếp lý
thảy đều cùng tận, sự khác như lý ở trong một sự, bởi vì lý không có phạm vi giới hạn, không thể phân chia, tùy theo ở một
sự đều hoàn toàn thâu
nhiếp, cho nên trong một luôn luôn có tất cả.
Dựa vào nghóa này, cho nên
kinh này nói: Ở trong thế giới hải
Liên Hoa Tạng trang
nghiêm này, trong mỗi một vi trần thấy tất cả pháp giới.
Lại nói: Ở trong một
pháp hiểu rất nhiều pháp, trong rất nhiều pháp
hiểu rõ một pháp.
Nếu nói bao gồm đầy đủ thì có bốn câu
phân biệt: Một, một
ở trong một, nghóa là nói riêng biệt trong tất cả
sá»±
sai biệt, mỗi một
sự đều có một pháp
ấy. Hai, một ở trong tất cả, nghóa là nói bao gồm
tất cả đều có một. Ba,
tất cả ở trong một, nghóa là nói riêng biệt trong một thâu nhiếp
tất cả. Bốn, tất cả ở trong tất cả, nghóa là nói bao gồm tất
cả đều có tất cả. Lại
một này thường bao gồm một tất cả, tức là luôn luôn ở trong tất cả kia, đồng thời tự tại không có gì
chướng ngại, không động một phương mà khắp cả
mười phương…, đều là nghóa này,
suy
nghó có thể thấy. Như
vậy, tất cả pháp đều là giáo Thể, đều thâu nhiếp
lẫn nhau, viên dung vô
ngại, mới là Thể tánh của kinh giáo này.

Nghóa hai là đúng như nhau: Một,
một tức là tất cả, nghóa là
như một giáo,
sự đã toàn là chân lý, chân lý tức là tất
cả sự, cho nên một
này tức là tất cả,
tất cả tức là một, trái lại với trên nên biết.
Kinh này nói: Nếu một tức là
nhiều, nhiều tức là một, thì ý nghóa rỗng lặng thảy
đều bình đẳng. Bao gồm
cũng có bốn câu, dựa theo trước để suy nghó.
Bởi vì sự toàn lý và
lý toàn sự không phải một-không phải khác, do
không phải là một môn
cho nên có thể thuộc về nhau, do không phải là
khác môn cho nên có thể
đúng như nhau, suy nghó sâu xa có thể thấy.
Dựa vào nghóa này cho
nên một câu tức là tất cả các câu mà không có
cùng tận, tất cả cũng như vậy. Văn sau nói: Muốn
diễn nói đầy đủ một
câu pháp trải qua
A-tăng-kỳ kiếp không có cùng tận, tự tại như vậy là giáo Thể này.

Đế võng trùng trùng môn, cũng có hai nghóa: Trước là phân rõ
về một môn, sau là tương tự hiển bày về tất cả.

Trong nghóa trước, như trong một câu tức là đầy đủ tất cả, tất cả trong một này lại là một tức tất cả, lớp lớp như vậy đầy đủ tức là
không thể cùng tận, toàn bộ là một câu.

Trong nghóa
sau là tương tự hiển bày, như một câu này, tất cả câu khác mỗi một câu đều như vậy. Vậy thì vô cùng vô tận, đầy đủ chỉ
riêng Phổ Nhãn đã nhận
biết, không phải là cảnh giới suy nghó của tâm thức. Văn
sau nói: Đối với mỗi một
Tu-đa-la ấy phân biệt Bất khả
thuyết các pháp, ở trong mỗi một các pháp ấy lại nói Bất khả thuyết
các pháp. Lại nói: Như ở trong một vi trần nhỏ có bất khả thuyết các cõi Phật, ở
trong mỗi một cõi Phật
ấy lại có Bất khả thuyết cõi Phật. Giải thích:
Lớp lớp như vậy, như mạng
lưới Nhân-đà-la, đó gọi là giáo Thể viên tông của kinh này.

Hải ấn bính hiện môn, cũng có hai nghóa: Một, dựa theo quả vị, như vô tận giáo pháp
sai biệt trước đây, đều là trong định Hải Ấn của
Như Lai đồng thời hiển hiện tròn sáng rực rỡ,
thiết lập cơ đã giáo hóa
cũng cùng duyên khởi hiện rõ ở trong này, cho
nên chỉ lấy
Tam-muội hải này làm giáo Thể ấy. Như văn sau nói: Tất
cả thị hiện không có gì
khác thế lực của Tam-muội Hải Ấn. Hai, dựa theo
nhân vị, phải là các Đại Bồ-tát như
Phổ Hiền… mới đạt được định này, giống như nghiệp dụng trước đây cũng không có
sai biệt, cho nên
Thập Tín đầy đủ ở trong
phần vị Phổ Hiền cũng đạt được định này, nói
như phẩm Phổ Hiền.

Chủ bạn viên bị môn: Nghóa
là giáo của pháp rộng khắp này không một mình khởi lên, nhất định phải có chủ-bạn
sinh khởi theo
nhau. Như văn sau nói: Đồng tử Phổ Trang Nghiêm nghe Đức Phật nói kinh Nhất
Thiết Pháp Giới Vô Cấu Trang Nghiêm, có vi trần
số thế giới
Tu-đa-la để làm quyến thuộc. Các văn như vậy khắp nơi đều có.
Kinh quyến thuộc này có hai nghóa: Một là cùng loại,
hai là khác loại.

Một là cùng loại, như nói Thập Trú mười phương đều có trần
số Bồ-tát ở mười cõi đến
chứng minh, cùng tên gọi
Pháp Tuệ. Cõi Phật của chúng ta cũng
nói Thập Trú, Đại chúng quyến thuộc
Danh-Vị-Cú thân… không có gì khác nhau. Vì vậy nên biết một kinh Thập
Trú khắp mười phương đều có trần
số Tu-đa-la ở mười cõi… để làm quyến
thuộc. Như một Thập Trú,
tất cả nơi khác đã nói về Thập Trú đều thâu nhiếp bấy nhiêu trần
số
quyến thuộc.
Thập Trú đã như vậy, còn lại
Thập Hạnh…, mỗi một
Phẩm-Hội đều có chứng pháp, số lượng dựa theo
giải thích có thể biết.
Hai là khác loại, nghóa là tùy theo một phương-một cõi vì một loại cơ mà nói một
Hội pháp, đã không có kết thông mười phương cùng
nói, cho nên không phải
là kinh chủ, nhưng cũng làm phương tiện thù
thắng cho chủ, cho nên làm
quyến thuộc. Vì vậy kinh chủ nhất định phải
có mười phương trần
đạo đồng thời cùng nói. Kinh bạn thì không như vậy,

tùy theo phương
khác nhau, cho nên mỗi một kinh chủ đều có trần
số quyến thuộc, đó gọi là gốc-ngọn giúp đỡ lẫn nhau, chủ-bạn trọn
vẹn đầy đủ, môn Giáo Thể xong.

Sáu- Trình bày về Tông chỉ thụ động giải thích. Lời nói đã biểu thị gọi là Tông, Tông chỉ đã quy về gọi là Thú. Nhưng tông thú
của Đại kinh này khó
phân rõ, sơ lược nói về mười thuyết để hiển
bày một tông.

An Sư-Mẫn Sư… ở Giang Nam phần nhiều dùng nhân quả làm
tông, nghóa là trong kinh này mở rộng trình bày về
nhân thuộc hạnh vị
của Bồ-tát và hiển bày công đức thù thắng của
Phật quả đã thành tựu.
Văn sau đã nói không lìa hai điều này, cho nên lấy làm tông.

Pháp sư Đại Viễn lấy Tam-muội Hoa Nghiêm làm tông, nghóa
là hoa của nhân hạnh có thể trang nghiêm cho Phật quả.

Hai thuyết trên đây chỉ có được hạnh đức đã thành tựu mà
mất pháp giới sở y ấy.

Theo Pháp sư Diễn lấy pháp giới vô ngại làm tông.

Theo Pháp sư Dụ, lấy tâm-cảnh pháp giới sâu xa làm
tông, đó là phần nghóa trong môn pháp giới làm
cảnh, chư Phật chứng được mà thành
Tịnh độ; pháp giới tức là nhất tâm, chư Phật chứng được mà thành
Pháp thân. Vì vậy trong phẩm thứ nhất, ban đầu là
Thiên Vương nói kệ ca ngợi pháp giới vi diệu bình đẳng vô tận thảy đều đầy khắp thân
Như Lai, cuối cùng lại trình bày về phẩm Nhập Pháp
Giới, cho nên biết chỉ
dùng pháp giới làm tông.

Hai thuyết trên đây chỉ có được pháp giới sở y mà mất hạnh
đức đã thành tựu.

Theo Pháp sư Quang Thống lấy nhân quả lý thật làm tông, tức nhân quả là hạnh đức đã thành tựu, lý thật là pháp giới
sở y. Thuyết này
tuy nghóa đầy đủ nhưng hãy còn chưa hiển bày rõ ràng.

Nay tổng quát tìm tên gọi đối chiếu nghóa, lấy nhân quả duyên
khởi lý thật pháp giới để làm tông ấy, tức
Đại Phương Quảng là lý thật pháp giới, Phật Hoa
Nghiêm là nhân quả duyên khởi. Nhân quả duyên
khởi chắc chắn không có tự tánh, bởi vì không
có tự tánh tức là lý thật pháp giới. Pháp giới lý thật chắc chắn không có định tánh, bởi vì không có định tánh tức là thành nhân quả
duyên khởi. Vì vậy hai pháp này
không có hai, chỉ một pháp môn vô ngại tự tại,
cho nên dùng làm tông.

Riêng biệt tách ra thâu nhiếp pháp giới mà thành nhân quả,
nghóa là pháp giới Phổ Hiền làm nhân, pháp giới Xá-na làm quả, cho
nên chỉ dùng pháp giới nhân quả mà làm tông
thú. Trong đó phân biệt

có mười
sự-năm cặp: Một, nhân quả đã tin, như trong Hội thứ
nhất, trong phẩm Lô-xá-na,
trước là trình bày về quả của thế giới Liên
Hoa Tạng, sau là hiển bày
về nhân trang nghiêm rộng khắp. Hai, nhân
quả sai biệt, như Hội thứ hai đến phẩm
Tiểu Tướng đã nói, trong đó 25 phẩm đầu nói về nhân
sai biệt của năm phần vị, ba phẩm
sau nói
về quả sai biệt của ba
đức. Ba, nhân quả bình đẳng, như phẩm Phổ
Hiền nói về nhân bình đẳng trọn vẹn, phẩm
Tánh Khởi nói về quả bình đẳng đầy đủ. Hai môn trên là nhân quả
sinh giải. Bốn, nhân quả thành
hạnh, như trong phẩm Ly Thế
Gian, trong hai ngàn pháp hành thì trước trình bày về nhân hạnh,
sau hiển bày về
quả hạnh. Năm, nhân
quả chứng nhập, như phẩm
Nhập Pháp Giới, trước trong rừng
Kỳ Hoàn hiện
rõ quả tự tại, sau Đồng
tử Thiện Tài phân rõ về nhân của chứng nhập.
Năm vòng nhân quả của một
Bộ này xong. Vì vậy chỉ phân
rõ về nhân quả mà
không mất sở y, chỉ lấy nhân quả làm tông thì lý
cũng không có gì sai.

Hội tụ nhân quả để giống với pháp giới. Pháp môn pháp giới
sơ
lược hiển bày về mười sự-năm cặp: Một,
giáo-nghóa đối lập với nhau, đưa ra giáo pháp đã
nói này làm tông, ý hiển bày nghóa lý đã giải thích
làm thú; hoặc ngược lại với điều này, bởi vì
phân rõ về nghóa sâu xa-
giáo thù thắng. Hai, lý-sự đối lập với nhau, đưa
ra sự pháp làm tông, ý chọn lấy lý tánh làm thú; hoặc ngược lại với điều này, bởi vì dựa vào lý
tánh mới thành sự. Ba, cảnh-trí đối lập với
nhau, đưa ra cảnh sở quán, ý muốn khiến cho thành tựu hạnh trí quán; hoặc ngược lại với điều này, bởi vì khiến cho tu khởi trí chứng giống như
chân cảnh. Bốn, hạnh-vị
đối lập với nhau, đưa ra năm phần vị của sở y,
ý khiến cho dựa vào đó tu thành tựu hạnh thù thắng; hoặc ngược lại với điều này, bởi vì tích lũy
hành thành tựu phần vị. Năm, nhân quả đối lập
với nhau, khuyến khích
tu nhân ấy, ý thuộc về chứng quả; hoặc ngược
lại với điều này, bởi vì
đưa ra quả khuyến khích vui thích để tu nhân.

Năm cặp trên
đây gồm chung một Bộ, khắp nơi đều có cho
nên không thuộc về riêng
biệt. Vì vậy chỉ phân rõ về pháp giới, không mất
đi sự thành tựu, chỉ lấy pháp giới làm tông thì
lý cũng không có gì trái.

Trong phần pháp giới nhân quả hiển bày rõ ràng lẫn nhau, cũng có mười
nghóa-năm môn: Một, vô đẳng cảnh, tức là giới lý thật pháp giới, môn này có hai phần vị: Một là pháp giới tối tịnh ra khỏi ràng
buộc, hai là pháp giới tánh tịnh còn trong ràng
buộc, hai phần vị này là
đã tin đã chứng. Hai, vô đẳng tâm, môn này cũng
có hai nghóa: Một là
tâm Đại Bồ-đề vốn là sở y căn bản của hạnh
Phổ Hiền, hai là Tín-Bi-

Trí… bởi vì tùy theo hạnh phát khởi. Ba, vô đẳng hạnh, môn này
cũng có hai nghóa: Một là
hạnh sai biệt bởi vì tu khác nhau, hai là hạnh
Phổ Hiền bởi vì một tức là
tất cả. Bốn, vô đẳng vị, môn này cũng có hai
ng- hóa: Một là phần vị
sai biệt về thực hành trải rộng (hành bố) bởi vì
dựa vào chứng không giống nhau, hai là phần vị thâu
nhiếp nhau viên dung bởi vì một phần vị tức là đầy đủ tất cả
phần vị. Năm, vô đẳng quả,
môn này cũng có hai
nghóa: Một là tu sinh ra quả, hai là tu hiển bày quả.
Năm môn mười nghóa này thu nhận tất cả tóm lược hết một
bộ kinh này, vì vậy có
đủ để làm tông, nghóa cũng đầy đủ rồi.

Pháp giới nhân quả cả hai dung hòa cùng lìa xa. Nghóa là tánh tướng dung hợp vô ngại tự tại, cũng có
mười nghóa: Một, bởi vì
lìa tướng, nhân quả không khác pháp giới, tức
là nhân quả không phải là
nhân quả. Hai, bởi vì lìa tánh, pháp giới không khác nhân quả, tức
là pháp giới không phải là pháp giới. Ba, bởi
vì lìa tánh mà không mất tánh, pháp giới tức là nhân quả, lấy không phải pháp giới làm pháp giới.
Bốn, bởi vì lìa tướng mà không hoại tướng,
nhân quả tức là pháp giới, lấy không phải nhân quả làm
nhân quả. Năm, bởi vì lìa tướng không khác lìa tánh, nhân quả pháp giới cả hai phai mờ cùng dung hợp, trở lại vượt lên trên nói năng
suy nghó. Sáu, bởi vì không hoại-không khác-
không mất, nhân quả pháp giới cùng tồn tại hiện
rõ trước mắt, rõ ràng
có thể thấy. Bảy, bởi vì còn-mất trên đây lại
không khác, vượt lên trên
pháp của nghe-nhìn, luôn luôn nối thông với
thấy-nghe, bặt dứt nghóa của nghó bàn mà không làm trở ngại lời nói
ý nghó. Tám, bởi vì tánh pháp giới dung hợp không thể phân ra, tức là quả của pháp giới thâu
nhiếp tất cả pháp giới, không có gì không đều
cùng tận, nhân tùy theo
sở y cũng ở trong quả, cho nên trong Phật có
Bồ-tát. Chín, tức là nhân
của pháp giới thâu nhiếp nghóa cũng như vậy, cho
nên trong Phổ
Hiền có Phật. Mười, hai phần vị nhân quả đều tùy theo
sai biệt, mỗi một
pháp-mỗi một hạnh-mỗi một đức-mỗi một phần vị
đều thâu nhiếp toàn
bộ các pháp môn hải vô tận vô tận, bởi vì tất
cả đều thâu nhiếp đầy đủ pháp giới viên dung. Đây gọi là tông thú vô tận của
Hoa Nghiêm, nghóa
còn lại như Chỉ Quy… giải thích.

Bảy- Giải thích đầy đủ đề mục của kinh. Sơ lược giải thích
mười tên gọi:
1) Tên gọi về Số;
2) Tên gọi về Pháp;
3) Tên gọi về Dụ;
4) Tên gọi về Nghóa;
5) Tên gọi về Đức;
6) Tên gọi về Sự;
7) Tên gọi về Khai; Tên gọi về Cụ;
9) Tên gọi về Hợp;
10) Tên gọi về Phẩm. Tên gọi về Số: Theo Lương Nhiếp Luận thứ mười là
Thắng Tướng nói: “Kinh Bách Thiên, là kinh Hoa Nghiêm có mười vạn bài
tụng, gọi là kinh Bách
Thiên.” Đây tức là từ
số vốn có mà lập
thành tên gọi ấy.

Tên gọi về Pháp: Theo phẩm Chúc Lụy trong Trí Độ luận nói: “Gọi là kinh Bất
Tư Nghị Giải Thoát, có mười vạn bài kệ. Lại trong kinh ấy tự chỉ là
Hoa Nghiêm, bởi vì pháp mà kinh này đã nói đều là
một thâu nhiếp tất cả, tất cả đều là giải
thoát bất tư nghị, cho nên lấy
làm tên gọi.”

Tên gọi về Dụ:
Theo kinh Niết Bàn và kinh Quán
Phật Tam Muội, gọi kinh này là kinh Tạp Hoa, dùng vạn hạnh
tô điểm xen nhau, duyên khởi quy tụ mà thành, từ dụ nêu ra tên gọi, giống như tạp
hoa mà thôi.

Tên gọi về Nghóa: Như mười nghóa xuất sinh Bồ-tát thâm diệu nghóa hoa… ở phẩm
Ly Thế Gian sau này để lập thành tên gọi, đến
phấm ấy sẽ phân rõ.

Tên gọi về Đức: Như cuối phẩm
Tánh Khởi dựa vào mười công
đức thù thắng để lập thành tên gọi ấy, cũng
đến phẩm ấy sẽ giải thích.

Tên gọi về Sự: Gọi là
Hoa Nghiêm, tiếng Phạm gọi là
Kiện-nã- phiêu-ha, Kiện-nã gọi là Tạp Hoa, Phiêu-ha gọi là Nghiêm Sức.
Tam tạng Nhật Chiếu nói rằng: “Tây quốc có riêng
một đồ vật cúng dường, gọi
là Phiêu-ha, dáng hình vật ấy có
sáu tầng, dưới rộng trên hẹp, trang
sức bằng hoa quý báu, trong mỗi một tầng đều đặt
tượng Phật.” Bởi vì kinh này có
sáu phần vị
trùng điệp, mỗi một phần vị thành Phật đích
thực tương tự sự việc ấy, cho nên lập thành
tên gọi này, trời người tám
Hội cũng tựa như thế nên biết.

Tên gọi về Khai: Một tên gọi này khai ra làm mười
sự-năm cặp: Một, thông-biệt một cặp, nói Đại
Phương Quảng… là tên chung của một
Bộ, Thế Gian Tịnh Nhãn là đề mục riêng của phẩm
ấy. Hai, ngay một cặp giáo-nghóa
trong Thông, nói Đại… là nghóa
sở thuyên, một chữ
Kinh là giáo năng thuyên. Ba, ngay một cặp pháp-dụ trong nghóa, nói Đại… là pháp,
Hoa Nghiêm là dụ. Bốn, ngay cảnh-trí một cặp
trong pháp, nói Đại… là
sở
chứng-sở giác, Phật là năng
chứng-năng giác, cũng là nhân-
pháp một cặp. Năm, ngay giản-trì một cặp trong
cảnh, nói chữ Đại là
chủ động lựa chọn(năng giản), Phương Quảng là
thụ động lựa
chọn(sở giản), tức là lựa chọn Đại khác Tiểu, lựa chọn
Thật khác Quyền, lựa
chọn Quả khác Nhân.

Tên gọi về Cụ: Đại có mười nghóa: Một-Cảnh Đại, đó là mười
Liên Hoa Tạng và
Y-Chánh vô biên, ba nghiệp của mười Phật làm cảnh
của Tín, nói như Hội thứ nhất… Hai- Tâm Đại,
đó là dựa vào Đại cảnh

trước đây phát khởi Đại tâm, nói như phẩm
Hiền Thủ và
phẩm Phát Tâm.
Ba- Hạnh Đại, đó là dựa vào Đại tâm phát khởi Đại hạnh, nói như phẩm
Ly Thế Gian… Bốn- Vị Đại, đó là tích lũy Đại hạnh thành
tựu Đại vị, tức là năm phần vị
viên thông…, như Hội thứ hai đến Hội thứ
sáu
đã nói. Năm- Nhân Đại,
đó là hành vị tròn vẹn rộng khắp phát sinh hiểu biết đến cuối cùng, nói như phẩm
Phổ Hiền… Sáu- Quả Đại, đó là tự Thể tùy duyên quả đức tròn vẹn
sáng ngời, nói như phẩm
Bất Tư Nghị… Bảy- Thể Đại, đó là Đại Dụng bình đẳng đều cùng chung chân tánh,
nói như phẩm Tánh Khởi…
Tám- Dụng Đại, đó là niệm niệm lợi ích
chúng sinh nhanh chóng thành
tựu hạnh vị, nói như phẩm Tiểu Tướng… Chín- Giáo Đại, đó là mỗi một
Danh-Cú đều rộng khắp tất cả, nói như
kết luận nối thông… ở
văn sau. Mười- Nghóa Đại, đó là pháp đã giải thích đều tận cùng vô biên pháp giới, như tám Hội đều nói một mảy trần
chứa đủ mười phương,
một niệm bao gồm chín đời.

Mười nghóa trên đây mỗi một nghóa thâu nhiếp chung tất cả
các pháp, toàn bộ không
có gì không xứng với Đại.
Lại có bảy nghóa, như
Du-già… dùng bảy loại Đại tánh
tương ưng…, để giải
thích về nghóa của Đại.

Nhưng theo kinh Niết-bàn lại có ba nghóa giải thích về Đại.
Kinh nói: “Nói về Đại
thì gọi đó là Thường.” Lại nói: “Đại là tánh ấy
rộng lớn.” Lại nói:
“Có thể kiến lập về nghóa Đại gọi là Đại
Niết-bàn.”
Lại Khởi Tín
luận cũng dùng ba nghóa để giải thích về Đại, đó
là Thể-Tướng-Dụng…

Tiếp đến giải thích về Phương Quảng, cũng có mười nghóa:
Một- Nghóa về
Châu biến, đó là ngôn giáo rộng khắp
các phương.
Hai- Nghóa về Phổ thuyết, đó là tuyên thuyết rộng rãi tất cả các pháp.
Ba- Nghóa về Thâm thuyết, đó là
nói về pháp giới hải rất sâu xa. Bốn- Nghóa về
Bị nhiếp, đó là thâu
nhiếp rộng khắp vô tận chúng sinh giới. Năm-
Nghóa về Quảng ích, đó
là muốn khiến cho chúng sinh đạt được lợi lạc to lớn của
Phật Bồ-đề. Sáu- Nghóa về Đãng trừ, đó là loại trừ tất cả hai chướng và tập khí.
Bảy- Nghóa về Cụ đức, đó là thâu nhiếp đầy đủ các công đức thù thắng vô biên.
Tám- Nghóa về
Siêu thắng, đó là một mình
siêu việt không có gì
sánh được.
Chín- Nghóa về
Hàm nhiếp, đó là thâu nhiếp
tất cả rất nhiều pháp
khác chủng loại. Mười- Nghóa về Quảng xuất, đó
là có thể sinh ra Đại quả của Phật.
Nhưng mười nghóa này như hai luận
giải thích. Nhập Đại
Thừa luận giải thích:
“Một là bởi vì chúng sinh mà nói về pháp đối
trị, hai là có rất nhiều Thừa, ba là nhiều đồ vật
trang nghiêm, bốn là có thể phát

sinh vô lượng
Đại quả, năm là trừ hết tất cả các tà kiến,
gọi là Tỳ Phật Lược.”

Lại Tạp Tập luận
giải thích: “Phương Quảng, nghóa là
Bồ-tát tạng tương ưng với
ngôn thuyết, gọi là
Phương Quảng, là nơi
nương tựa làm lợi ích
an lạc cho tất cả hữu tình, tuyên thuyết về pháp
sâu
xa rộng lớn; cũng gọi là
Quảng Phá, bởi vì có thể rộng ra phá trừ tất
cả các chướng; cũng
gọi là Vô Tỷ Pháp, bởi vì không có các pháp có
thể so sánh tương tự.”
Tiếp theo giải thích về
nghóa Phật, cũng có mười loại, như
Vô Trước Phật…, tìm
văn vốn có phân rõ.

Tiếp theo giải
thích về Hoa Nghiêm. Hỏi: Hoa có mấy nghóa, lại vì
sao mà biểu thị lấy hoa để
trang nghiêm?

Đáp: Hoa có
mười nghóa, biểu thị cũng như vậy: Một, nghóa về vi
diệu là nghóa của hoa, biểu thị hạnh đức của Phật
lìa xa tướng thô,
cho nên nói Hoa làm trang
nghiêm, nghóa sau đều theo như vậy. Hai, nghóa về nở tròn, biểu thị hạnh đầy đủ
sáng ngời, tánh mở mang giác ngộ.
Ba, nghóa về đoan chánh,
biểu thị hạnh viên mãn, đức tướng đầy đủ.
Bốn, nghóa về thơm ngát, biểu thị hương thơm của đức xông ướp khắp nơi làm lợi ích cho mình
và người. Năm, nghóa về vui thích, biểu thị vui với
công đức thù thắng hoan
hỷ không chán. Sáu, nghóa về khéo thành, biểu
thị đức tướng đã tu
khéo léo thành tựu. Bảy, nghóa về trong sáng, biểu
thị đoạn trừ chướng
vónh viễn không còn, vô cùng thanh tịnh. Tám, nghóa
về trang sức, biểu thị bởi vì Liễu nhân vốn trang
nghiêm cho bổn tánh. Chín, nghóa về dẫn quả, biểu thị bởi vì Sinh nhân vốn phát khởi
Phật quả. Mười, nghóa
về không nhiễm, biểu thị ở giữa thế gian mà
không nhiễm, bởi vì
giống như hoa sen.

Tiếp theo giải
thích chữ Kinh, cũng có mười nghóa, như kinh Bảo Vân nói, nghóa còn
lại giống như trên.

Tên gọi về Hợp: Đại tức là đương Thể làm đề mục, bao hàm làm nghóa. Phương tức là dựa vào Dụng làm tên gọi, quỹ phạm làm
nghóa bởi vì là phương pháp, tánh lìa tà vạy bởi
vì là chính trực, có thể
chữa trị chướng nặng bởi vì là phương thuốc
chữa bệnh, rộng khắp cõi
hư không bởi vì không còn phương hướng nơi chốn.
Quảng tức là
Thể- Dụng hợp lại trình bày, rộng khắp làm nghóa, đó là tất cả mọi nơi-tất cả
mọi lúc-tất cả các pháp-tất cả mọi người
không có gì không rộng khắp,
đều lớp lớp như lưới giăng của Đế Thích.

Trong này lại
dựa vào một thâu nhiếp tất cả gọi là Đại, một
phủ
khắp tất cả gọi là Quảng; trước
Quảng sau Đại, lý cũng không
trái. Phương tức là Quảng, Đại tức là
Phương Quảng, đều là Trì nghiệp thích, đây là pháp thụ động đạt được
(sở đắc), Phật là người chủ động
đạt được (năng đắc),
giác chiếu làm danh, quả mãn làm nghóa.

Trong này, nhân-pháp và cảnh-trí có dựa vào nhau-tức là
nhau (tương y-tương tức).
Dựa vào nhau: Trí dựa vào cảnh cho nên Phật của Phương Quảng lựa chọn Phật thuộc
Thừa dưới, cảnh dựa vào trí cho
nên Phương Quảng của
Phật lựa chọn pháp thuộc nhân vị, hai loại dựa
vào nhau này đều có bốn
câu phân biệt về duyên khởi hữu lực vô lực,
suy nghó có thể thấy, đều
là Y chủ thích. Tức là nhau: Phật tức là Phương Quảng,
Phương Quảng tức là Phật, nhân pháp vô ngại toàn
Thể tức là nhau,
bốn câu phân biệt về
Không-Hữu cũng dựa theo suy nghó. Đây chỉ là
Trì nghiệp thích. Đã là Phật không phải thuộc
Thừa dưới, pháp vượt lên trên nhân vị, quả đức khó làm
sáng tỏ, nhờ vào dụ mới hiển bày, nghóa là vạn
đức đến cuối cùng khắc chạm đẹp đẽ
giống như hoa, đan xen trang điểm lẫn nhau hiển bày tánh xứng
với nghiêm. Phần này có hai môn: Một là các đức trang nghiêm lẫn nhau, cũng có dựa vào nhau- tức là nhau, đều có bốn
câu phân biệt về còn
mất cùng phai mờ(tồn vong câu mẫn), đều là
Trì nghiệp thích,
suy nghó có thể thấy. Hai là lý-hạnh trang nghiêm lẫn nhau,
cũng có dựa
vào nhau-tức là nhau.

Bốn câu phân
biệt về dựa vào nhau (tương y): Một, lý nhờ vào
tu mà hiển bày, cho nên tức là tánh thuộc hành Hoa Nghiêm. Hai, hành thuận theo lý phát khởi, cho nên tức là hành thuộc lý
Hoa Nghiêm. Lương
Nhiếp luận nói: “Tất cả đều từ Pháp thân này phát ra, tất cả đều trở lại chứng Pháp thân này.” Ba, lý-hành cùng dung hợp không hai
mà hai, không phải là
hành của Chân phát ra thì không thể hợp với
Chân, không phải là hành trang điểm của Chân thì không thuận theo
Chân phát khởi. Bởi vì
Thể dung hợp với hành mà nhân tròn vẹn, hành
bao gồm Chân mà quả đầy
đủ, cho nên nêu là Phật Hoa Nghiêm. Bốn,
 lý- hành cùng phai mờ hai mà không hai,
 bởi vì hành của lý cho nên không phải là hành,
 lý của hành cho nên không phải là lý, là ngay nơi
chủ động và thụ động
(năng-sở) cùng phai mờ, vượt quá tình-lìa xa
tướng, không phải là trang
nghiêm-không phải là không
trang nghiêm, đây
gọi là Hoa Nghiêm.

Bốn câu phân
biệt về tức là nhau (tương tức), lý-hành hoàn
toàn thâu nhiếp, dựa
theo suy nghó có thể thấy. Vậy thì biết pháp-dụ
chiếu rọi qua lại rõ
ràng có tồn tại, còn lại như trước giải thích.

Tên gọi về Phẩm: Thế Gian là pháp, Tịnh Nhãn là dụ; Thế là

thời kiếp,
Gian là ở giữa, ở giữa thời kiếp hiển hiện cho
nên nói là Thế Gian.

Thế Gian không giống nhau có ba loại: Một là
Khí thế gian, là
nơi nương tựa; hai là Trí
chánh giác thế gian, là chủ có thể giáo
hóa(năng hóa); ba là
Chúng sinh thế gian là cơ đã được giáo hóa (sở hóa).
Trong phẩm này không vượt
qua ba loại này, cho nên lập thành tên gọi
này. Khí có hai loại:
Một, nơi chốn là Biệt xứ; hai, Hoa Tạng là Thông xứ. Trí chánh giác cũng có hai, đó là ba thân và mười thân.
Chúng sinh
cũng có hai, đó là đồng sinh và dị sinh.

Tịnh Nhãn có ba nghóa: Một là nghóa
thấu suốt, ví như
Khí thế gian, bởi vì thấu
suốt lý bên trong.
Văn sau nói: Pháp giới không
thể hoại Liên Hoa thế
giới hải. Hai là nghóa hiện tượng, ví như Trí chánh giác.
Văn sau nói: Pháp thân thanh tịnh không có hình tượng nào mà không hiện bày. Ba là nghóa chiếu rọi, ví như
Chúng sinh thế gian.
Văn sau nói: Giống như
mắt trong sáng nhìn ngọc sáng ngời. Lại nếu
luận chung thì ba thế gian
này đều có ba nghóa về Tịnh Nhãn, suy nghó
theo đó có thể biết.

Lại giải thích lúc Đức Phật chưa xuất thế, bởi vì không có người khéo léo dẫn dắt, cho nên như mù.
Như Lai bắt đầu xuất hiện ở
thế gian, thì mắt trong
sáng hiện rõ gọi là mắt trong sáng của thế gian, vì vậy lúc Đức Phật nhập
Niết-bàn nói là mắt của thế gian không
còn. Phẩm là chủng loại,
là riêng biệt. Nghóa còn lại có thể biết.

Tám-Trình bày về Bộ loại
truyền dịch. Cũng có
mười nghóa:
1) Hằng bổn;
2) Đại bổn;
3) Thượng bổn;
4) Trung bổn;
5) Hạ bổn;
6) Lược bổn;
7) Luận thích;
8) Phiên dịch;
9) Chi lÆ°u;
10) Cảm ứng. Hằng bổn. Phẩm Bất Tư Nghị ở
sau nói: Tất cả thế giới như pháp giới, hư không giới… đều dùng một mảy lông đo lường rộng khắp,
nơi mỗi một đầu lông ở trong niệm niệm, thân như
số vi trần Bất khả thuyết… tận cùng đời kiếp thời gian vị lai thường chuyển pháp luân.
Giải thích: Đây là gồm chung thế giới khác loại
như hình thể cây cối…,
tất cả nơi mảy lông trong niệm niệm thường nói,
không có ngừng nghỉ, điều này không phải là có thể kết tập, không thể nào hạn định phẩm ấy
bao nhiêu tụng, cũng không phải là phần vị dưới
mà có thể thọ trì.

Đại
bổn. Như phẩm sau nói: Tỳ-kheo Hải Vân đã thọ trì
kinh Phổ Nhãn, dùng núi
Tu-di làm bút, nước bốn biển làm mực, viết một
phẩm Tu-đa-la không thể nào cùng tận, các phẩm như
vậy lại hơn
trần số. Đây là do lực Đà-la-ni của các Đại Bồ-tát đã thọ trì, cũng không
phải là Bối diệp mà có thể ghi chép được.

Thượng bổn. Đây là Thượng bổn trong văn kết tập. Vốn là ở
Tây Vức truyền cho nhau, Bồ-tát Long Thọ đến Long cung trông thấy kinh Đại
Bất Tư Nghị Giải Thoát có ba bổn, Thượng bổn có mười Tam thiên
Đại thiên thế giới vi trần số bài tụng, Tứ
thiên hạ vi trần số phẩm.

Trung bổn. Có bốn mươi chín vạn tám ngàn tám trăm bài kệ,
một ngàn hai trăm phẩm.

Hai bổn trên
đây đều giữ kín ở Long cung, không phải là do
sức người ở
Diêm-phù-đề mà thọ trì, cho nên ở đây không lưu truyền.

Hạ bổn. Có mười vạn bài tụng, ba mươi tám phẩm.
Long Thọ đem bổn này ra, hiện lưu truyền ở Thiên Trúc, tức
là Nhiếp Luận trăm ngàn làm mười vạn.
Tây Vức Ký nói: “Trong núi của nước
Giá-câu-bàn ở phía Nam nước Vu Điền vốn có bổn này.”

Lược bổn. Tức là bổn có
sáu mươi quyển đã lưu truyền ở
Trung Hoa, là ba vạn
sáu ngàn bài tụng tóm tắt nội dung chủ yếu của phần
trước trong mười vạn bài tụng ấy mà đưa ra. Gần
đây trên tháp ở chùa
Đại Từ Ân thấy Hoa Nghiêm bổn chữ Phạm có ba
bộ, so sánh sơ lược
đều rất giống với bổn chữ Hán này, số bài
tụng cũng tương tự.

Luận thích. Long Thọ đã đem Hạ bổn ra dựa vào đó soạn luận
Đại Bất Tư Nghị, cũng dùng mười vạn bài tụng
để giải thích kinh này,
luận Thập Trú Tỳ-bà-sa ngày nay là một phần của luận ấy.

Thời nhà Tần, Tam tạng
Gia-xá tụng đưa ra
phiên dịch, văn quyển mười
sáu mới đến Địa thứ hai, còn lại đều không đủ.
Lại Bồ-tát Thế Thân soạn ra
Thập Địa luận, chỉ giải thích về một phẩm
Thập Địa. Thời nhà Ngụy, Tam tạng
Lặc-na và Bồ-đề Lưu-chi ở Lạc Dương đều phiên
dịch một bổn. Luật sư Quang Thống tự mình hiểu văn tiếng Phạm
đem bổn của hai Tam tạng
đối chiếu điều chỉnh cùng hợp lại làm thành
một bổn, thấy lưu truyền
bổn này. Bồ-tát Kim Cang Quân và Bồ-tát Kiên Tuệ đều
soạn ra giải thích về
Thập Địa, hoàn toàn chưa truyền
đến Trung Hoa. Lại thời nhà Ngụy, Cao tăng
Trung Hoa là
Pháp sư
Linh Biện, ở núi Ngũ
Đài đầu đội kinh Hoa Nghiêm, đi bằng đầu gối,
chân toạc máu chảy,
thiết tha trải qua ba năm ngầm được gia hộ mà hiểu
rõ, ở trong núi Huyền
Ung soạn ra luận về kinh này hơn một trăm quyển, lúc ấy lưu truyền ở đời.
Về sau nhà vua có
sắc chỉ thỉnh
Pháp sư
vào cung ở điện Thức
Càn giảng về Đại kinh này.

Phiên dịch. Thời nhà Đông Tấn,
Sa-môn Chi Pháp Lãnh từ
nước Vu Điền có được ba vạn sáu ngàn kệ của
kinh này, và thỉnh được
Thiền sư
Bồ-tát chứng Tam quả Đại thừa người
Bắc Thiên Trúc tên gọi
Phật-đà Bạt-đà-la, Trung Hoa nói là Giác Hiền,
giòng họ Thích-ca, tức

là dòng dõi của
Cam Lộ Phạn Vương, từng đến cõi trời
Đâu-suất
tìm gặp Di-lặc thưa hỏi
điều nghi. Vào ngày mồng 10 tháng 3 năm
Thuần Hỏa niên hiệu
Nghóa Hy thứ 14 nhà Tấn, ở tại chùa
Tạ Tư Không thuộc Dương Châu, tách
biệt làm ra ngôi nhà Hộ Tịnh Pháp, ở trong đó dịch ra kinh này. Lúc ấy trước ngôi nhà có một hồ
hoa sen, hàng ngày
có hai Đồng tử áo xanh,
từ trong hồ đi ra vẩy nước quét dọn ngôi nhà
và cúng dường, chiều trở về trong hồ.
Tương truyền giải
thích rằng:
“Bởi vì kinh này đã lâu ở
Long cung, Long Vương vui mừng vì kinh này
truyền bá lưu thông, cho
nên tự mình đến hầu hạ cúng dường, sau nhân đó
đổi tên chùa này gọi
là chùa Hưng Nghiêm.” Sa-môn Pháp Nghiệp và
Tuệ Nghiêm-Tuệ Quán… tự mình đi theo ghi lại. Lúc ấy có
Ná»™i sá»­
Mạnh Nghỉ-Hữu vệ tướng quân
Chử Thúc Độ… ở quận Ngô làm
Đàn việt chính. Đến ngày mồng 10 tháng 6 niên hiệu
Nguyên Hy thứ hai thì
dịch xong. Đến ngày 20
tháng 12 niên hiệu Vónh Sơ thứ hai thời Đại
Tống, cùng với bổn
tiếng Phạm tiếp tục khảo đính tất cả, ở trong phẩm
Pháp Giới từ sau Phu
nhân Ma-da đến trước Bồ-tát Di-lặc đã thiếu
tám-chín tờ văn kinh. Nay
trong tháng 3 niên hiệu Vónh Long nguyên niên
thời Đại Đường, có
Tam tạng Địa-bà-ha-la ở Thiên Trúc, thời Đường
nói là Nhật Chiếu, có bổn tiếng Phạm một phẩm này,
Pháp Tạng đích thân cùng khảo đính đến phần văn thiếu này, phụng
sắc chỉ cùng với
Sa-môn Đạo Thành-Phục
Lễ… dịch ra để bổ sung vào chỗ thiếu.

Chi lưu. Đó là Đại kinh này tùy theo sức thọ trì mà phân thành
nhiều bộ: Kinh Đâu Sa một quyển là đầu Hội thứ
hai; kinh Bồ Tát
Bổn Nghiệp một quyển là một phẩm
Tịnh Hạnh; kinh Tiểu
Thập Trú một
quyển là phẩm Thập Trú; kinh Đại Thập Trú bốn
quyển, kinh Tiệm
Bị Nhất Thiết Trí Đức bốn quyển, đều là phẩm
Thập Địa; kinh Như
Lai Tánh Khởi Vi Mật Tạng hai quyển là phẩm Tánh Khởi; kinh Hiển
Vô Biên Phật Độ một quyển là phẩm Thọ Mạng; kinh Độ
Thế sáu quyển
là phẩm Ly Thế Gian; kinh La Ma Già ba quyển là phẩm
Nhập Pháp Giới.

Gần đây ở Thần Đô cùng với Tam tạng nước Vu Điền phiên
dịch Hoa Nghiêm Tu Từ Phần
một quyển, Bất Tư Nghị Cảnh Giới Phần một quyển,
Kim Cang Man Phần mười quyển. Phần này phiên dịch chưa thành thì Tam tạng đã mất, nay hiện ở Thần Đô lại có được bổn
Hoa Nghiêm năm vạn bài tụng do nước Vu Điền tiến cống và Tam tạng đến Thần Đô hiện đang
phiên dịch. Bổn tiếng Phạm ở chùa Từ Ân cùng
với bổn Hán trước đây
đều giống nhau không có gì khác, phẩm hội và
văn cú của bổn Phạm
mới đưa đến có phần ít không giống nhau. Trình bày

về số bổn
của Đại kinh này, đây đều là sự lưu thông (chi lưu) Đại
kinh tùy theo căn khí mà
phân ra phẩm loại.

Cảm ứng. Vua nhà Tống thỉnh Tam tạng từ Tây Vức đến để
giảng kinh này, người ấy tiếc rằng bởi vì tiếng
địa phương chưa thông
hiểu, e là nói không hết ý chỉ của kinh, thế là
vào đạo tràng cầu thỉnh, mới tròn một tuần liền mộng thấy lấy đầu Hán đổi đầu
Phạm của mình, nhờ đó lập tức hiểu
suốt ngôn ngữ nước Tống giảng giải truyền
thụ không vướng mắc.

Lại vị Ni ở núi
Cửu Lũng kính trọng kinh này, chuyên cần
đọc tụng hơn hai mươi
năm, liền cảm được mắt nhìn thấy sát hải ở
trên đầu mảy lông.

Lại có vị Ni
ở núi Ngũ Đài thường tụng kinh này, từ tối đến
sáng thì hết một bộ, trong miệng có ánh
sáng phát ra chiếu rọi
khắp hang núi.
Lại ở thời Bắc Tề có
Pháp sư Cự,
sùng kính tôn trọng kinh này mà không gặp được thầy, chuyên đọc cầu hiểu, hơn mười lăm năm thì mộng thấy
Thiện Tài trao cho thuốc
thông minh, nhờ đó mà được tỏ ngộ
thông suốt, soạn ra Sớ
mười quyển, giảng hơn năm mươi lần.

Lại có Thiền
sư Tu Đức ở Trung Sơn thuộc Định Châu, chí
thành giữ gìn thanh tịnh
sao chép kinh này, sau mở hộp có ánh sáng phát
ra chiếu xa một trăm hai mươi dặm.
Lại có hoạn quan là
Lưu Khiêm Chi nhân ở trong núi
Ngũ Đài chuyên đọc kinh này,
liền trở lại hình tướng trượng phu.

Những sự việc như vậy rất nhiều, nói rộng ra đầy đủ như
trong truyện Hoa Nghiêm năm quyển.

Chín- Phân rõ
về phạm vi của văn nghóa. Nhưng biển nghóa
sâu thẳm bao la, ngôn ngữ tinh tế mênh mông,
sơ lược đưa ra mười môn tóm tắt về cương yếu ấy:
1) Đồng thời cụ túc tương ưng môn;
2) Quảng hiệp tự tại vô ngại môn;
3) Nhất đa tương dung bất đồng môn;
4) Chư pháp tương tức tự tại môn;
5) Ẩn mật hiển liễu câu thành môn;
6) Vi tế tương dung an lập môn;
7) Nhân-đà-la võng pháp giới môn;
8) Thác sự hiển pháp sinh giải môn;
9) Thập thế cách pháp dị thành môn;

10) Chủ bạn viên minh cụ đức môn. Nhưng mười môn này cùng một duyên khởi
vô ngại viên dung, hễ có
một môn thì đầy đủ tất cả, thích hợp có thể suy nghó.

Ngay trong môn
thứ nhất có mười nghóa về đầy đủ (cụ túc):
Một, giáo nghóa
đầy đủ; hai,
lý sự; ba,
cảnh trí; bốn,
hạnh vị; năm,
nhân quả; sáu,
y chánh; bảy,
Thể dụng; tám,
nhân pháp; chín,
nghịch thuận; mười,
ứng cảm đầy đủ. Nghóa là chúng
sanh cơ cảm
Như Lai ứng đến.
Văn sau nói: Tất cả chúng
sanh vốn thích thị hiện mây. Nhưng mười cặp này đồng thời tương ưng là một
duyên khởi, tùy một đều đầy đủ tất cả
nghóa khác. Như môn 1 đã
như vậy, chín môn còn lại như rộng-hẹp…, tất cả đều đầy đủ mười cặp trước, chỉ tùy theo môn khác nhau mà thôi.
Vì vậy trong mỗi một môn
đều có mười-trăm-ngàn…, suy nghó có thể thấy.

Nay lại ở trên pháp của một sự phân rõ về mười cặp này, còn lại dựa theo có thể biết. Như trong
văn sau:
1) Cánh hoa sen biểu thị khiến cho sinh hiểu là giáo, tức pháp đã giải thích là nghóa, như sau nói:
Bồ- tát Thắng Am ở nơi
hoa sen.
2) Tướng của hoa là sự, Thể của hoa là lý, văn sau nói: Pháp giới không thể loại Liên Hoa thế giới hải.
3) Hoa là sở quán cũng tức là năng quán, bởi vì trong kinh này có thể dùng hạnh bên trong mà
sự bên ngoài.
4) Hoa của hạnh và sự kết hợp cho nên thành phần vị.
5) Hoa của nhân và sự thu nhận cho nên thành tựu quả. Đài
hoa là sở y cho nên cũng đưa vào chánh, như quốc độ-thân…
7) Thể của hoa cùng là Chân cho nên Dụng ứng với
cơ.
8) Thu nhận hoàn toàn là người cho nên luôn luôn là pháp.
9) Nghịch với năm Nhiệt, cho nên thuận với mười Độ.
10) Thuận theo hướng đến căn cơ cho nên cũng có thể cảm được.
 Như sự của một hoa đã vậy, tất cả sự còn lại đều dựa theo mà biết. Pháp của
sự đã như vậy, tất cả các giáo nghóa còn lại đều như vậy, dựa theo
suy nghó có thể thấy. Như đầy đủ từ mười cặp đã như vậy, một cánh hoa kia đầy đủ mười môn trước cũng như vậy.
Vì sao?
Bởi vì cánh hoa sen này đầy đủ mười nghóa trước,
đồng thời tương ưng
đầy đủ tròn vẹn, là môn thứ nhất.

Hai, ngay cánh
hoa kia rộng khắp pháp giới mà không làm
hỏng phần vị vốn có,
bởi vì phân tức là không có gì phân, không có gì
phân tức là phân, rộng
hẹp tự tại không có gì chướng ngại. Văn sau nói:
Hoa sen lớn này, cánh ấy che khắp tất cả pháp giới, cho nên hoặc chỉ là rộng rãi không ranh giới, hoặc phạm vi giới hạn rõ ràng, hoặc tức là rộng
tức là hẹp, hoặc
rộng-hẹp cùng mất đi. Hoặc đầy đủ bốn loại trước, bởi vì là cảnh của hiểu rõ. Hoặc bặt dứt năm
loại trước, bởi vì là cảnh của
thực hành. Về sau đều dựa theo đây. Ba, ngay cánh hoa này dãn mình ra khắp hòa vào trong tất
cả pháp giới, tức là
thâu nhiếp tất cả làm cho hòa vào trong mình, dãn
ra- thâu nhiếp đồng thời
đã không có chướng ngại, cho nên tan chảy hòa hợp. Hoặc có bốn
câu-sáu câu, dựa theo trước để
suy nghó.
Văn sau nói: Dùng một cõi Phật đầy đủ
mười phương, mười phương hòa vào
một cũng không sót lại gì. Bốn, một cánh hoa này bỏ mình giống như người toàn
Thể đều là tất cả pháp
kia, mà luôn luôn thâu nhiếp người giống như mình toàn bộ tất cả pháp kia tức là
Thể của mình, một- nhiều tức là nhau tự
nhiên không có
chướng ngại, cảnh của hiểu rõ và thực hành
(giải-hạnh) riêng biệt có
sáu câu giống như trước.
Văn sau nói: Biết một tức là
nhiều, nhiều tức là một… Năm, hoa có thể thâu nhiếp các pháp kia tức là một hiển bày nhiều ẩn kín,
 tất cả thâu nhiếp hoa tức là một ẩn kín nhiều hiển bày, hiển bày và hiển bày không cùng lúc, ẩn kín và ẩn kín không đồng
thời, ẩn kín hiển
bày-hiển bày ẩn kín đồng thời không ngăn ngại, hoàn toàn thâu nhiếp cùng phai mờ, còn mất cùng thành tựu,
số câu giống
như trước. Văn sau nói:
Phương Đông thấy tiến vào Chánh thọ, phương
Tây thấy từ Tam-muội đứng lên… Sáu, trong cánh hoa này tất cả các pháp như cõi nước vi tế… rõ ràng đều hiện bày.
Văn sau nói: Ở trong một mảy trần cõi nước vi
tế trải rộng an trú. Bảy, trong cánh hoa mỗi một vi trần đều cùng hiện rõ vô biên
sát hải, trong sát hải
lại có vi trần, trong các vi trần kia lại có sát hải,
lớp lớp như vậy không
thể cùng tận, không phải là tâm thức suy nghó đến được; như lưới giăng của trời Đế Thích, minh châu trong
suốt hiện rõ hình ảnh lẫn nhau, hình ảnh lại hiện rõ hình ảnh mà không hề cùng
tận. Văn sau nói: Như thế
giới Nhân-đà-la võng…

Tám, thấy cánh hoa này tức là thấy pháp giới vô tận, không
phải là nhờ vào đây
mà có biểu thị riêng biệt. Văn sau nói: Những tán
hoa này từ Vô sinh pháp
nhẫn mà khởi lên…

Chín, ngay một
hoa sen này đã có đủ tất cả Xứ, lại cũng đầy đủ tất cả Thời, nghóa là ba đời đều có ba, thâu nhiếp làm một niệm cho
nên làm thành mười
đời. Bởi vì Thời không có Thể riêng biệt cho nên
dựa vào hoa để thành
lập, hoa đã không ngăn ngại thì Thời cũng như vậy. Vì thế văn
sau nói: Tất cả thời kiếp quá khứ, đưa vào hiện
tại-vị lai,
tất cả thời kiếp vị
lai, trở lại đưa vào đời quá khứ. Lại nói: Vô lượng
kiếp tức là một niệm,
một niệm tức là vô lượng kiếp…

Mười, lý của pháp Viên giáo này không khởi lên một mình, nhất định có quyến thuộc
sinh khởi theo.
Văn sau nói: Hoa này có trần
số
thế giới hải hoa sen để
làm quyến thuộc. Lại như một phương là chủ,
mười phương là bạn,
phương khác cũng như vậy, cho nên chủ và chủ-bạn và bạn đều không thấy nhau, chủ và bạn-bạn và chủ tròn vẹn
sáng
ngời đầy đủ công đức.
Như một sự của hoa có mười nghóa của mình, đầy đủ
mười môn
này tức là một trăm môn, những giáo nghóa khác cũng đều dựa theo đó, cho nên trở thành ngàn môn. Như những giáo nghóa
hướng về mười nghóa
thuộc loại của mình, và mười môn như Đồng thời
cụ túc tương ưng… có ngàn môn này, Đồng thời
cụ túc tương ưng… kia cũng hướng về mười môn thuộc loại của mình và những giáo nghóa… cũng
trở thành ngàn môn, dựa
theo suy nghó có thể thấy.

Hỏi: Có nhân
duyên gì làm cho các pháp này có thể có tự
nhiên dung hòa vô ngại như vậy?
Đáp: Nhân
duyên vô lượng khó có thể trình bày đầy đủ, sơ lược đưa ra mười loại để giải thích về vô ngại này:
1) Bởi vì duyên khởi
dựa vào nhau;
2) Bởi vì pháp tánh dung thông;
3) Bởi vì tất cả chỉ do
tâm hiện bày;
4) Bởi vì như huyễn không thật;
5) Bởi vì lớn nhỏ không nhất định;
6) Bởi vì vô hạn nhân phát sinh;
7) Bởi vì quả đức vô cùng tròn vẹn;
8) Bởi vì thần thông thù thắng tự tại;
9) Bởi vì Đại Dụng của
Tam- muá»™i;

10) Bởi vì giải thoát khó nghó. Bởi vì duyên khởi dựa vào nhau: Nghóa là biển pháp duyên khởi trong Đại pháp giới, nghóa môn vô lượng, dựa theo Viên tông
sơ lược đưa ra mười môn để giải thích
nghóa trước. Nghóa là các pháp duyên khởi cần phải có đủ mười nghóa này mới thành
duyên khởi, thiếu thì
không thành duyên khởi:

Một, nghóa về
các duyên đều khác: Đó là trong Đại duyên
khởi, các duyên hướng
về nhau cần phải là Thể-Dụng khác nhau, không xen
tạp với nhau mới thành duyên khởi. Nếu không như
vậy thì các
duyên tạp loạn, mất đi
pháp duyên vốn có, duyên khởi không thành. Đây
tức là tất cả các
duyên đều giữ lấy một mình. Hai, nghóa về cùng giúp đỡ lẫn nhau: Đó là các duyên này cần phải thích ứng lẫn nhau mới thành
duyên khởi. Lại như một duyên thích ứng với
nhiều duyên, đều cùng với nhiều duyên kia hoàn toàn làm một, một này tức là đầy đủ nhiều cái một. Nếu một duyên này không đầy
đủ nhiều một, thì giúp
đỡ thích ứng không rộng khắp, không thành
duyên khởi. Đây tức
là mỗi một đều có đủ tất cả các một. Ba, nghóa về cùng tồn tại vô ngại: Đó là tất cả một duyên cần
phải có đủ hai loại
trước mới thành duyên khởi, bởi vì cần phải trú vào
một mình mới có thể
thích ứng rộng khắp, thích ứng rộng khắp nhiều
duyên mới là một, vì
vậy chỉ một-nhiều một tự tại vô ngại. Theo sự dung
hòa trọn vẹn này có
sáu câu phân biệt: Hoặc đưa ra Thể đầy đủ trú là
chỉ một, hoặc đưa ra Thể
thích ứng rộng khắp là nhiều một, hoặc cùng tồn tại, hoặc cùng phai mờ, hoặc toàn bộ hợp lại, hoặc hoàn toàn lìa xa, đều

suy nghó có thể thấy.

Ba môn trên đây tổng quát trình bày pháp vốn có duyên khởi. Bốn,
 nghóa về khác môn hòa vào nhau: Đó là lực dụng của các duyên dựa vào giữ gìn lẫn nhau,
so
sánh làm mất lẫn nhau, đều có nghóa toàn lực-không có toàn lực thì duyên khởi mới thành.
Như luận nói: Nhân không
sinh mà
duyên sinh, duyên không
sinh mà tự
nhân sinh. Nếu tất cả chỉ có lực mà không có loại nào không có lực thì có
lỗi về nhiều quả, bởi
vì mỗi một loại đều sinh. Nếu tất cả chỉ là không có lực mà không có loại nào có lực thì có lỗi về không có quả, bởi vì giống nhau chứ không phải là duyên cùng
không sinh. Vì vậy duyên
khởi cần phải dựa vào
nhau có đủ lực-không có lực, nếu như thiếu
một duyên thì tất cả
không thành, còn lại cũng như vậy. Do đó một duyên có thể giữ lấy
nhiều duyên, một duyên là có lực có thể thâu
nhiếp nhiều duyên; nhiều
duyên dựa vào một duyên, nhiều duyên là không có lực mà ngầm hòa vào một duyên. Bởi vì một duyên có lực nhất
định không thể nào đi
cùng với nhiều duyên có lực, cho nên không có một duyên mà không thâu nhiếp
nhiều duyên. Bởi vì nhiều duyên không có lực nhất định không thể nào đi cùng với một duyên không có
lực, cho nên không có
nhiều duyên mà không hòa vào một duyên. Như
một duyên giữ lấy-nhiều
duyên dựa vào đã như vậy, nhiều duyên giữ
lấy- một duyên dựa vào
cũng như vậy. Suy nghó ngược lại với trên, thì
tức là cũng không có
nhiều duyên mà không thâu nhiếp một duyên, không
có một duyên mà không hòa vào nhiều duyên. Như một duyên hướng về
nhiều duyên, có dựa vào-có giữ lấy, toàn lực-không toàn lực, thường đầy đủ nhiều ở
trong mình, ẩn mình ở
trong nhiều, cùng lúc vô
ngại. Nhiều duyên hướng
về một duyên, nên biết cũng như vậy. Hai câu
vô ngại về cùng tồn
tại-cùng phai mờ, suy nghó dựa theo đó.

Năm, nghóa về
khác Thể tức là nhau: Đó là các duyên hướng
về nhau, toàn Thể so
sánh-làm mất đi, có nghóa về có Thể-không có
Thể, thì duyên khởi mới thành. Bởi vì nếu thiếu một duyên, thì duyên còn lại không
thành khởi, khởi không thành cho nên nghóa của duyên
đã làm hỏng. Có thể
một duyên này khiến cho tất cả thành khởi, đã
thành tựu về khởi cho nên nghóa của duyên mới
thành lập. Vì vậy một duyên là chủ động khởi,
nhiều duyên và quả đều là thụ động khởi, thì tức là nhiều duyên làm một thành tựu, nhiều duyên là không có Thể;
một duyên chủ động làm
ra nhiều duyên, một duyên là có Thể. Bởi vì một duyên có Thể nhất định không thể nào đi cùng với nhiều duyên có
Thể, nhiều duyên không có Thể nhất định không thể nào đi cùng với một

duyên không
có Thể. Vì vậy không có một duyên nào mà không nhiều duyên, không có nhiều duyên nào mà không một duyên, một
duyên- nhiều duyên đã như vậy, nhiều duyên-một duyên cũng như vậy.
Suy nghó ngược lại với trên, như một duyên hướng về
nhiều duyên, bởi
vì có duyên có Thể-không
có Thể, cho nên có thể thâu nhiếp duyên
khác cùng với mình, bỏ
mình cùng với duyên khác, cùng lúc vô ngại;
nhiều duyên hướng về
một duyên nên biết cũng như vậy, dựa theo trước
để suy nghó. Hai câu vô
ngại về cùng tồn tại-cùng phai mờ, cũng suy
nghó có thể thấy.

Sáu, nghóa về
Thể-Dụng cùng dung hòa: Đó là các pháp duyên khởi cần phải có lực dụng
giao thiệp, toàn Thể dung hợp mới
thành duyên khởi, vì vậy viên thông cũng có
sáu câu phân biệt:
1) Bởi vì Thể đều là Dụng cho
nên nêu ra Thể toàn là Dụng, tức là chỉ có nghóa hòa vào nhau chứ không có nghóa tức là nhau.
2) Bởi vì Dụng đều
là Thể, cho nên chỉ có
tức là nhau chứ không có hòa vào nhau.
3) Quy về Dụng của Thể không ngăn ngại Dụng, Thể của toàn
Dụng mà không mất Thể, đây tức
là vô ngại cùng tồn tại, cũng hòa vào-cũng tức là tự tại cùng hiện rõ.
4) Thể của toàn Dụng thì
Thể phai mờ, Dụng của
toàn Thể thì Dụng mất
đi, không phải tức là-không phải hòa vào viên
dung một vị.
5) Hợp bốn câu trước cùng một duyên khởi vô ngại cùng tồn tại.

6) Mất đi năm sâu trước, tuyệt đối đãi-lìa nói năng sâu xa giống như tánh hải.

Ba môn trên đây hiển bày về nghóa lý đối với môn khác Thể.

Bảy, nghóa về
cùng Thể hòa vào nhau: Đó là một duyên trước đã
đầy đủ nhiều-một, cùng với Thể của một duyên
kia không có gì
khác, cho nên gọi là
cùng Thể. Lại bởi vì một duyên này thích ứng với
nhiều duyên cho nên có
nhiều-một này, thích ứng với nhiều duyên đã tức
là nhau-hòa vào nhau, khiến cho nhiều duyên-một duyên này cũng có tức là nhau-hòa vào nhau.
Trước trình bày về hòa vào nhau, nghóa
là một duyên có lực
có thể giữ lấy nhiều duyên-một duyên, nhiều
duyên- một duyên không
có lực dựa vào một duyên kia, vì vậy một duyên
có thể thâu nhiếp nhiều
duyên, nhiều duyên đã hòa vào một duyên.
Một duyên hòa vào-nhiều duyên
thâu nhiếp, ngược lại với trên nên
biết. Nghóa còn lại, câu
còn lại dựa theo trước để suy nghó. Tám, nghóa về cùng Thể tức là nhau: Đó là một duyên trước đã
có đủ nhiều duyên-một
duyên, cũng có nghóa có Thể-không có Thể,
cho nên cũng tức là
nhau. Bởi vì nhiều duyên-một duyên không có Thể, do một duyên ban đầu mà thành nhiều duyên tức là một duyên. Do một

duyên ban đầu
có Thể có năng lực làm ra nhiều duyên khiến cho
một duyên thâu nhiếp
nhiều duyên. Như một duyên có-nhiều duyên không có đã như vậy, nhiều duyên có-một duyên không có cũng như
vậy. Nghóa còn lại, câu
còn lại đều dựa theo trước để suy nghó. Chín, nghóa về cùng dung hòa vô ngại: Đó là cũng cùng
Thể- Dụng cùng dung hòa
trước đây, tức là-hòa vào tự tại cũng có
sáu
câu, dựa theo trước nên biết.

Ba môn trên đây phân rõ về nghóa lý ở trong môn cùng Thể
thứ hai trước đây. Mười, nghóa về giống-khác đầy đủ trọn vẹn: Đó là dùng chín môn trước đây tổng hợp làm thành một Đại
duyên khởi, khiến cho nhiều loại nghóa môn cùng lúc đầy đủ. Bởi vì trú vào một duyên thích
ứng rộng khắp, cho nên có rộng hẹp tự tại. Bởi vì dựa vào
Thể-dựa vào
Dụng, cho nên có tức là nhau-hòa vào nhau. Bởi vì một duyên thâu
nhiếp nhiều duyên luôn luôn làm hiển bày, khiến cho một duyên hòa
vào nhiều duyên làm ẩn
kín; nhiều duyên thâu nhiếp một duyên cũng
như vậy. Lại dựa vào
Dụng hòa vào nhau làm hiển bày, khiến cho dựa
vào Thể tức là nhau làm
ẩn kín, hiển bày hòa vào ẩn kín cũng như vậy.
Lại khác môn tức là-hòa vào làm hiển bày, khiến cho cùng Thể làm ẩn kín,
 giống hiển bày-khác ẩn kín cũng như vậy.
 Lại bởi vì dùng nghóa hòa vào nhau trong khác môn thâu nhiếp cùng Thể, cho nên hiện có môn Vi tế.
 Bởi vì khác Thể hòa vào nhau kèm theo cùng Thể hòa vào nhau,
cho nên có môn Trùng
trùng vô tận đế võng. Bởi vì pháp Đại duyên
khởi này tức là pháp
môn Vô ngại pháp giới, cho nên có môn Thác sự
hiển pháp. Vì vậy mà
dung thông tự tại. Nay theo trên pháp này đã phân rõ về thời pháp, cũng tùy theo vô ngại tự tại này cho nên có
môn Thập thế. Bởi vì pháp môn này cùng một duyên khởi kèm theo nhau khởi
lên, tùy theo một môn
nhất định phải có đủ tất cả các môn, cho nên có
môn Chủ-bạn. Một môn
này ở trong môn thứ ba trước đây để phân rõ nghóa lý. Mười nghóa trên đây toàn bộ là môn duyên khởi thuận theo
nhau. Những môn khác nói
như trong Chỉ Quy.

ï‚¢

HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ

<卷>QUYỂN 2</卷>

<詞>Phẩm 1: THẾ GIAN TỊNH NHÃN</詞>

Mười- Tùy văn giải thích. Nay ba vạn sáu ngàn kệ trong kinh này có bảy
Xứ-tám Hội, đó là ba Xứ trong
loài người, bốn Xứ trên cõi trời
là bảy, trùng hội Phổ
Quang là tám Hội. Trong đó có ba mươi bốn
phẩm, một phẩm thứ nhất
là phần Tựa, phẩm Lô-xá-na trở xuống là trình bày về
Chánh tông, Lưu thông có-không dùng bốn nghóa để
giải thích:
Một, từ “Chúng sinh tâm vi trần…” trở xuống có hai tụng làm
Lưu thông, bởi vì kết thúc khen ngợi khuyến khích
tin tưởng; hai, bởi vì
kinh truyền
đến không hết, thiếu không có phần
Lưu thông; ba, bởi vì kinh này là nói
về pháp môn Xứng pháp
giới, cho nên toàn bộ không có phần Lưu thông.

Hỏi: Nếu như
vậy thì sao nhất định phải có phần Tựa?

Đáp: Bởi vì
có thấy-nghe bao gồm hướng đến tiến vào, cho
nên có bắt đầu là
phần Tựa. Bởi vì đã tiến vào không có cuối cùng cho nên không có kết thúc
Lưu thông. Như tu
sinh quả Phật có bắt đầu mà
không có cuối cùng, nếu
không như vậy thì vì sao tám Hội, cuối mỗi một
Hội đều không có Lưu thông?
Kinh Đại Bát-nhã trong mười
sáu Hội,
sau mỗi một Hội ấy đều có riêng phần
Lưu thông; trong
kinh Đại Tập,
cuối các Hội cũng đều
có phần Lưu thông; kinh này thì không như vậy,
cho nên biết ý riêng có nơi biểu thị.

Bốn, dùng những pháp khác của Tam thừa, lợi ích cho chúng
sinh tùy theo cơ sai biệt,
làm tướng lợi ích Lưu thông.

Lại Pháp sư
Đại Viễn phân kinh này làm bốn phần: Một, phẩm đầu gọi là phần duyên khởi
tịnh cơ; hai, phẩm
Lô-xá-na gọi là phần
nêu ra tông chỉ thúc đẩy
ý chí; ba, phẩm Danh Hiệu trở xuống đến Hội
thứ tám gọi là phần
hiển bày đạo thúc đẩy tu tập; bốn, cuối cùng Phổ
Hiền đã nói kệ gọi là
phần dặn dò Lưu thông.
Nay lại tìm văn
sau tổng quát phân ra
làm năm: Một, phẩm đầu là phần nhân duyên phát khởi
của giáo; hai, một vòng hỏi đáp trong phẩm

Lô-xá-na gọi là phần nêu ra quả khuyến khích vui mừng
sinh
khởi niềm tin; ba, một vòng hỏi đáp từ Hội thứ hai đến Hội thứ
sáu gọi là phần tu nhân hợp với quả phát
sinh
hiểu biết; bốn, một vòng hỏi đáp
trong Hội thứ bảy gọi
là phần dựa vào pháp tiến tu thành tựu về hạnh; năm, một vòng hỏi đáp trong Hội thứ tám gọi là phần dựa vào người tiến
vào chứng thành tựu về
đức. Lưu thông có-không đã phân rõ như trên,
năm phần này đều dựa vào văn trước phát khởi
văn sau, thứ tự nghóa lý
sinh khởi lẫn nhau đầy
đủ, cho nên không tăng giảm.
Ngay trong phần
Tựa thứ nhất, phân
làm hai: Một, trình bày
về phần Tựa trong cõi
này; hai, trình bày về phần Tựa trong mười
phương thế giới vô tận.
Trong phần một có ba: Một là đầu tiên có bốn chữ
chỉ là Chứng tín; hai từ
“Nhất thời…” trở xuống là gồm chung hai Tựa; ba từ
“Động địa…” trở xuống chỉ là
Phát khởi. Nếu nói bao gồm
sau
thì nhất định có bốn
câu: Hoặc chỉ riêng Chứng tín là đầu, hoặc chỉ riêng Phát khởi
là sau, hoặc cùng là phần giữa, hoặc đều không phải là
Chánh tông sau này.
Lại bốn chữ đầu tiên, nghóa nối thông mà văn hạn chế, bởi vì
văn ở đầu tiên mà
nghóa nối thông cả tám Hội. Từ “Nhất thời…” trở xuống, văn nối thông mà nghóa hạn chế, bởi vì các
Hội sau đều có
“Nhó thời…” cho nên văn nối thông. Nay ở đây hạn chế đầu tiên vốn là
nghóa hạn chế.
Lại theo Phật Địa luận phân ra
làm năm: Một, tổng quát hiển bày về pháp
đã nghe; hai, thời gian phát khởi
của giáo; ba, hiển bày về
giáo chủ; bốn, nơi chốn
phát khởi của giáo; năm, giáo đã phủ khắp cơ.

Theo Pháp Hoa luận… có
sáu thành tựu:
Một là Tín, hai là Văn, ba
là Thời, bốn là Chủ, năm là Xứ, sáu là Chúng.
Nay giải thích về nghóa này
sơ lược đưa ra
bốn môn: Một, trình bày về nguyên do an lập
sáu
nghóa này; hai, phân rõ về người nghe tự mình
thuật lại; ba, xác định về người truyền pháp; bốn, giải thích văn.

Trong phần một, lập ra sáu câu này, nguyên do có sáu:

Một là Đức Phật dạy an lập, theo Trí Luận: “Đức Phật sắp
nhập Niết-bàn nói cho
A-nan biết: Mười hai bộ kinh ông nên lưu thông.
Lại nói với Ưu-ba-ly: Tất cả giới luật ông nên thọ trì. Nói với
A-na-luật: Ông đạt được
Thiên nhãn, thường giữ
gìn Xá-lợi, khuyên người
cúng dường. Nói với
Đại chúng: Nếu Ta trú một kiếp hay giảm một kiếp
thì đến lúc cũng sẽ
diệt. Nói xong ở Song Lâm xoay đầu về phía Bắc mà nằm,
sắp
nhập Niết-bàn. A-nan vì niệm ái của thân thuộc chưa trừ,
tâm chìm trong ưu sầu,
A-nê-lô-đậu nói với A-nan: Đức Thế Tôn hôm nay
tuy còn mà
ngày mai đã không còn, ông nên hỏi về sự việc quan
trọng của đời vị lai
kia, vì sao giống như người ngu kia mà buồn rầu quá
mức như vậy? A-nan liền
đứng dậy hỏi rằng: Nay tôi không biết thưa hỏi
về việc gì? Lô-đậu dạy
rằng: Sự việc quan trọng có bốn, một là hỏi
Như Lai tại thế tự mình
nói pháp, mọi người đều tin nhận, sau khi Như
Lai diệt độ, đầu tất cả các kinh nên để lời gì; hai là hỏi
Như Lai tại thế, các hàng
Tỳ-kheo đều lấy
Phật làm Thầy,
sau khi
Như Lai diệt độ lấy
ai làm Thầy; ba là hỏi
lúc Phật tại thế, các Tỳ-kheo dựa vào Phật mà an trú,
sau khi
Như Lai diệt độ dựa vào ai mà an trú; bốn là hỏi
Như Lai tại thế, Xa-nặc tánh ác
Phật tự sửa trị, sau khi Phật diệt độ làm sao cùng trú? A-nan như lời dạy thưa hỏi, Đức
Thế Tôn trả lời rằng: Đầu
kinh nên để sáu câu là “Như
thị…”; hai là Tỳ-kheo đều dùng Ba-la-đề
Mộc-xoa làm Thầy; ba là đều dựa vào
Tứ Niệm Xứ mà an trú; bốn là
Tỳ-kheo ác tánh dùng Phạm Đàn
mà sửa trị, Trung Hoa nói là Mặc Tẩn. Nếu
tâm yếu đuối quy phục
thì vì họ nói về kinh Ca Chiên Diên, Trung Hoa
nói là kinh Ly Hữu Vô,
để phá trừ tâm ngã mạn.”

Lại như trong kinh Đại Bi: “A-nan
thưa thỉnh Đức Phật: Làm
sao kết tập pháp nhãn?
Đức Phật nói cho A-nan biết rằng: Sau khi Ta
diệt độ, Đại đức
Tỳ-kheo sẽ hỏi như vậy: Đức Thế Tôn thuyết kinh Đại A Ba Đà Na… ở nơi nào? Ông nên trả lời như vậy: Tôi nghe như vậy,
một thưở nọ ở nước
Ma-già-đa, dưới tán cây Bồ-đề, mới thành Chánh
giác thuyết pháp…, cho
đến nói rằng: Giữa hai cây Sa-la thuyết pháp, như vậy… hơn hai mươi chỗ đã
thuyết kinh. Đức Phật tự mình lại dạy
A-nan kết tập.” Vì thế
cho nên sáu câu này là do Đức Phật chỉ dạy thiết lập.
Hai là vì đoạn nghi cho nên an lập
sáu câu này.
Như Tam tạng Chân Đế nói: “Theo luật vi tế thì lúc A-nan đang bước lên tòa
cao kết tập pháp tạng,
thân A-nan đầy đủ tướng tốt như Đức Phật, nếu lúc xuống tòa thì trở lại hình dáng của mình, chúng trông thấy điềm
này lại phát sinh ba nghi
ngờ: Một là nghi Đức Phật Đại Sư Từ Bi từ
Niết- bàn đứng lên lại
vì chúng thuyết pháp; hai là nghi Phật Tiên từ phương
khác đến; ba là nghi A-nan chuyển thân thành Phật. Nay vì trừ ba
nghi ngờ này cho nên an
lập sáu câu, vì vậy A-nan tự nói: Pháp như vậy tôi nghe từ Đức Phật. Trình bày không phải là Đức Phật lại đứng lên
thuyết pháp, cũng không
phải là Phật từ phương khác đến, lại không phải
là A-nan tự thân thành
Phật, chỉ bởi vì pháp lực cho nên khiến tôi
giống như Đức Phật.”

Ba là bởi vì
phát sinh niềm tin ở đời vị lai, Trí Luận nói: “Đầu tất cả các kinh an lập
Thời-Phương-Nhân… , là bởi vì muốn khiến cho
sinh
khởi tín tâm.”
Bốn là bởi vì lìa lỗi tăng giảm, Phật Địa luận nói: “Nên biết là nói đến Như thị ngã văn này, là ý tránh
sai lầm về tăng giảm khác
phần, nghóa là pháp như vậy tôi nghe từ Đức Phật, không phải là từ người
khác lần lượt chuyển
tiếp hiển bày rõ ràng về nghe, có những điều có
thể tự nhiên đối với những điều đã nghe đều lìa
sai lầm về tăng
giảm khác phần; không phải là như hạng phàm phu ngu muội không có những
điều có thể tự nhiên
đối với những điều đã nghe, hoặc không có thể lìa
tăng giảm khác phần. Lúc
kết tập pháp, người thuật lại giáo pháp của
Đức Phật, y theo lời
dạy của Như Lai đầu tiên nói lời này, bởi vì khiến
cho chúng sinh cung kính tin
nhận, cho nên nói rằng Pháp như vậy tôi nghe từ Đức Phật. Văn nghóa quyết định không có gì tăng giảm,
 vì thế cho nên người nghe thuận theo đích thực nghe rồi như lý tư duy, nên
thường xuyên tu học.”
Năm là bởi vì ngừng các
sá»±
tranh luận. Nếu tự mình chế tác
thì tranh luận phát khởi
từ đây, cho nên không phải như vậy. Đây là
theo Trí Luận phân rõ.
Sáu là bởi vì khác với ngoại đạo.
Kinh-luận của ngoại đạo
kia hoặc nói: “Vách đá
sụt lở mà có được.”
Hoặc nói: “Chim Tước
xanh ngậm đến.” Do đó
không đáng tin. Vì thế cho nên nay hiển bày đầy
đủ nguyên cớ xác thực,
trình bày về pháp không phải là sai lầm khiến
cho người tin nhận.

Thứ hai, trình bày về
A-nan… đích thân nghe-nghe thuật lại
không giống nhau.
Nếu theo Tiểu thừa thì có
hai thuyết: Một, nói rằng A-nan đã
là sinh ra trong đêm Đức
Phật đắc đạo, hai mươi tuổi mới làm đệ tử
Đức Phật. Hai mươi tuổi
trở về sau là kinh A-nan đích thân nghe, hai
mươi tuổi trở về trước
là nghe thuật lại. Vì vậy kinh Chuyển Pháp Luân
nói: “Lúc A-nan kết tập
tự nói kệ rằng: Lúc Đức Phật bắt đầu thuyết pháp, lúc bấy giờ tôi không
trông thấy, như vậy lần lượt chuyển tiếp nghe, Đức Phật đi
qua Ba-la-nại, vì chúng gồm năm
vị Tỳ-kheo,
Chuyển pháp luân về giáo Tứ Đế.” Vì thế biết trước đó không phải là chính
mình nghe. Hai, nói rằng
đều là chính mình nghe, bởi vì luận Tát-bà-đa
nói: “Lúc A-nan làm thị
giả cho Đức Phật thỉnh nguyện rằng: Nguyện
Đức Phật nói cho con
toàn bộ các kinh mà Đức Phật đã nói trong hai
mươi năm.” Luận Tỳ Ni
Mẫu cũng nói giống như vậy. Vì thế biết toàn bộ
là chính mình nghe.
Nếu theo Đại thừa thì tất cả đều chính mình nghe, có hai nghóa: Một, Đức Phật nói lại cho
A-nan nghe, như các kinh Thắng Man… là Đức Phật trở về bổn xứ nói lại cho
A-nan nghe. Lại như trong kinh Đại
Bi trên đây, Đức Phật nói lại toàn bộ, cho nên là chính
mình nghe. Hai, bởi vì
A-nan thường nghe,
kinh Niết-bàn nói: “A-nan là người đa văn, hoặc có mặt hay không có mặt vẫn tự nhiên có thể hiểu rõ ràng về nghóa Thường và
Vô thường.”
Lại nói: “A-nan đạt được
Tam-muội Giác Ý, Đức Phật nói
kinh gần xa thường được nghe.”

Thứ ba, xác định về người truyền pháp. Hỏi: “Lúc nói kinh này, những hàng Nhị thừa
hoàn toàn như đui điếc, lẽ nào có thể A-nan
mà nói là tôi nghe?

Đáp: Có hai
nghóa: Nghóa thứ nhất, giả sử là A-nan thì điều này cũng không
sai lầm, vì
sao? Bởi vì theo kinh A
Xà Thế Vương Sám Hối, có ba loại
A-nan: Một là A-nan-đà, Trung Hoa nói là Khánh
Hỷ, trì Pháp tạng Thanh
văn, ở trên Nhị thừa tùy sức tùy phần; hai, gọi
là A-nan-đà Bạt-đà-la,
Trung Hoa nói là
Khánh Hỷ Hiền, trì
Pháp tạng Trung thừa, ở trên
Đại thừa tùy sức tùy phần, ở dưới Tiểu thừa có
thể tham dự duy trì tất
cả; ba, gọi là A-nan-đà Sa-già-la, Trung Hoa nói là Khánh
Hỷ Hải, Bồ-tát trì Pháp tạng Đại thừa, ở dưới Nhị thừa có
thể tham dự duy trì tất
cả. Theo văn kinh này A-nan Hải là Đại Bồ-tát có thể trì Đại pháp, lý cũng không có gì trái. Nếu theo Viên giáo thì đều là trong
Tam-muội Hải Ấn của
Phật Lô-giá-na hiện ra những người
truyền pháp này, cho nên chính là Phật.

Nghóa thứ hai, nói không phải là do
A-nan đã truyền, lý
cũng không có gì trái,
vì sao? Bởi vì Trí Luận nói: “Một là giáo hiển thị,
hai là giáo bí mật. Kinh Đại Phẩm này là giáo hiển thị vì vậy dặn dò
giao cho A-nan.
Như kinh Pháp Hoa là giáo bí mật vì vậy dặn dò giao
cho Hỷ Vương…” Lại kinh Niết-bàn nói: “Những kinh mà A-nan chưa
được nghe, Bồ-tát Hoằng
Quảng nên làm cho lưu thông.” Dựa theo điều
này thì Bồ-tát Hoằng
Quảng nói là Tôi nghe như vậy. Lại theo Trí Luận thì Văn
Thù Sư Lợi nói là tôi nghe, bởi vì
Luận ấy nói: “Văn Thù cùng với A-nan ở nơi thanh tịnh khác, kết tập về tạng
Ma-ha-diễn.”
Lại Văn Thù Sư Lợi trong kinh Bát
Niết-bàn, Đức Phật Bát Niết-bàn sau bốn trăm năm, lúc ấy
Văn Thù Sư Lợi hãy còn ở thế gian, cho nên biết là
Văn Thù truyền pháp này.

Thứ tư, giải
thích văn. Dựa vào Trí Luận thì Như là thuận, Thị
là tin. Lại nữa, Thị là
ấn, tức là phù hợp thuận theo tin nhận cho nên
nói là Như Thị. Như vậy
tổng quát đưa ra văn nghóa của một Bộ, nghóa
là chỉ ra pháp mà mình
đã nghe, cho nên nói là Như Thị. Theo Tam tạng

Trường Nhó, dựa theo Tam Bảo để
giải thích: Một là dựa theo Phật,
nói rằng như pháp mà
Đức Phật đã nói là tôi điều đã nghe, như điều tôi
đã nghe là pháp mà Đức
Phật đã nói; hai là dựa theo Pháp, nói rằng
như điều tôi đã nghe là
giáo của xứng lý, như giáo của xứng lý là điều mà tôi đã thuật ra; ba là dựa theo Tăng,
 nói rằng như điều mà tôi đã nghe là điều mà các Bồ-tát đã cùng nghe, như điều mà các Bồ-tát đã cùng
nghe là điều mà tôi đã thuật ra.

Theo Phật Địa luận nói:
“Người thuật lại giáo pháp của Đức
Phật, nói sự việc như
vậy xưa tôi đã từng nghe. Như Thị nói chung dựa vào bốn nghóa mà chuyển:
1) Dựa vào thí dụ;
2) Dựa vào dạy dỗ;
3) Dựa vào hỏi đáp;
4) Dá»±a
vào hứa khả.” Giải thích rộng như trong luận ấy. Ngã,
đó là năm Uẩn giả, luận rộng về Ngã có bốn loại:
1) Chân ngã, đó là Thường-Lạc-Ngã-Tịnh… trong Chân như, Chân như làm tánh.

Tự tại ngã, đó là tám
Tự tại ngã…, dùng
Trí làm tánh.
3) Giả ngã, đó là năm Uẩn giả, bởi vì chỉ do Thức (duy thức) mà hiện ra tựa như có chủ
tể…, lấy đó làm tánh.
4) Chấp ngã, đó là phân biệt câu sanh, sở chấp làm tánh.

Lại duyên theo tâm của Ngã cũng có bốn loại:
1) Kiến, đó là các phàm phu…
2) Mạn, đó là những người Học.
3) Tập, đó là người Vô học.
4) Tùy thế gian lưu truyền khắp nơi, đó là chư Phật. Trong này, Ngã ở trong bốn loại trước gồm chung ba loại đầu, dựa theo giáo mà xác
định; trong bốn loại sau chỉ có một, cũng có thể
gồm chung ba loại sau, suy
nghó để xác định. Vì sao không nói Vô ngã mà nói đến Ngã? Đó là bởi vì hiển bày về chính mình nghe, bởi vì thuận tiện mà nói, bởi vì tùy theo thế gian, bởi vì hiển bày về
Vô ngã, đều như Trí Luận nói. Hỏi:
Người truyền pháp vì
sao không xưng tên mình mà nói là

Ngã? Đáp: Bởi
vì có lỗi lạm dụng tên gọi giống nhau. Hỏi: Ngã
lẽ nào không gồm chung? Đáp: Bởi vì đã nói là Ngã thì chắc chắn là thuộc về mình, cho nên

lựa chọn
khác với người ta.

Hỏi: Vì sao
không nói là tai nghe?
Đáp: Bởi
vì lấy tổng quát thu nhận riêng biệt. Hỏi: Tai chỉ
nghe tiếng, lẽ nào có thể hiểu?

Đáp: Tai nghe
tiếng ấy, ý hiểu rõ các văn, hòa hợp không có hai, thuận theo chính
mình nói-nghe.
Tát-bà-đa luận là
Căn nghe, Thành Thật luận là
Thức nghe, Trí Luận là hòa hợp nghe, tức là Không-Vô tác.

Kinh Niết-bàn nói: “Bốn
nhân duyên hòa hợp cho nên nghe:
1) Nhó căn không hư hoại;
2) Tiếng thuộc về cảnh có thể nghe;
3) Trung gian không có chướng ngại;
4) Có ý muốn nghe cho nên được nghe. Vì vậy nghe này là không nghe mà nghe. Lại có đủ mười duyên:
1) Bổn thức là dựa vào căn bản;
2) Chủng tử Nhó thức là dựa vào
nhân duyên;
3) Mạt na là dựa vào nhiễm ô;
4) Ý thức là dựa vào
phân biệt;
5) Nhó thức thuộc loại của mình là dựa vào Đẳng vô gián;
6) Nhó căn không hư hoại là Căn cùng chung cảnh;
7) Tác ý muốn nghe;
8) Có cảnh làm Sở duyên duyên;
9) Trung gian không có chướng ngại;
10) Cảnh gần thuộc về có thể nghe. Cũng gồm chung pháp khác không ngăn ngại…,
 vì vậy nghe này không có tự tánh, cho nên không nghe mà nghe.” Dựa theo giáo chính xác phân rõ
về điều đó.

Nhất Thời trở xuống gồm chung hai Tựa, tức là bốn câu sau
trong sáu câu. Trong đó,
ba câu đầu phân rõ về giống nhau, đó là
Thời-Chủ và Xứ; một
câu sau phân rõ về riêng biệt, đó là Chúng cùng nghe.
Đây cũng chính là tướng
của ba thế gian, nên biết. Trong ba câu đầu
cũng có hai: Trước là tổng quát nêu về ba tướng,
sau từ “Thỉ thành
Chánh giác…” trở xuống là riêng biệt giải thích về ba nghóa.
Vì sao có hai
môn này? Đó là dựa
theo Xứ, trước thì tổng quát nêu về nhiễm tịnh,
sau
thì riêng biệt hiển bày
về tướng tịnh. Lại trước dựa vào nhiễm, sau riêng biệt phân rõ về tịnh. Lại bởi vì
Thời có trước-sau, Xứ có
nhiễm-tịnh, Phật có
quyền-thật, cho nên cần phải trở lại phân tích.
Trong ba câu đầu có ba:
Một- Nhất Thời, theo
Phật Địa luận,
hoặc một sát-na, hoặc
nhiều tương tục, chỉ chọn lấy nói-nghe cứu cánh,
cho nên gọi chung là giả
lập Nhất Thời. Tiểu thừa là thật thời, Đại thừa
là giả thuyết. Nếu riêng
biệt giải thích thì Lương Nhiếp luận nói về
Nhất Thời có ba nghóa:
1) Bình đẳng thời, đó là bởi vì không có nổi chìm điên đảo;
2) Hòa hợp thời, đó là khiến cho nghe-có thể nghe-đích thực nghe;
Chuyển pháp luân thời, đó là Chánh thuyết-Chánh thọ.

Hai- Phật là nghóa về Giác, có hai là Bổn giác và
Thỉ giác. Lại trong Luận nói: Như
hoa sen nở, như ngủ thức dậy… Ở đây Giác đầu
là sở tri,
Giác sau là phiền não. Hoặc ba Giác là
Tự giác-Giác tha và
Giác hạnh viên mãn, tức
là người có Giác gọi là Giác giả.

Hoặc gọi là Bà-già-bà, có bốn nghóa như trong Trí Luận:
1) Gọi là Hữu Đức, nghóa là Bà-già gọi là Đức, Bà gọi là Hữu.
2) Gọi là Xảo Phân Biệt, Bà-già gọi là Phân Biệt, Bà gọi là Xảo.
3) Gọi là Hữu Danh
Thanh, Bà-già
gọi là Danh Thanh, Bà gọi là Hữu.
4) Gọi là Năng Phá Dâm Nộ Si, Bà-già
gọi là Năng Phá, Bà gọi là Dâm Nộ Si. Trong bốn tên gọi này, một tên gọi đầu là Tổng, ba tên gọi
sau là Biệt.
Trong Biệt, đầu là Trí đức,
tiếp là Phước đức, sau là Đoạn đức.
Lại trong Phật Địa luận có
sáu nghóa
giải thích, luận ấy tụng
rằng: “Tự tại-xí thạnh
và đoan nghiêm, danh xưng-cát tường và tôn quý, đủ
sáu loại nghóa sai biệt này, cho nên gọi chung là Bạc
Già.” Giải thích rộng ra như trong luận ấy.

Lại Tam tạng Chân Đế dẫn ra
Chân Thật luận có mười nghóa
giải thích, Phật gọi là
Giác Thắng Thiên Cổ…

Ba-Xứ, đất nước là Thông, đạo tràng là Biệt. Trí Luận nói:
“Đắc A-nậu Bồ-đề ở
trong tụ lạc Âu-lâu-tần-loa, bên bờ sông
Ni-liên-thiền, thuộc nước
Ma-già-đà…” Trung Hoa gọi là nước Bất Hại, bởi
vì trong nước này có những người phạm tội chỉ có phạt đuổi ra khỏi nước chứ không có hình phạt giết hại. Nhờ vào nơi này biểu thị về tướng của Đại pháp
Từ Bi cứu giúp. Hoặc gọi là nước
Thiện Thắng. Hoặc nói
Ma- già là tên ngôi sao,
Trung Hoa nói là Bất Ác, chủ của mười hai
tháng; Đà là Xứ, gọi
là nước ở xứ không ác, cũng gọi là nước ở xứ ngôi
sao. Tịch Diệt có bốn
nghóa:
1) Chướng diệt, nghóa là tánh diệt và trị diệt;

Chứng diệt, nghóa là chứng lý diệt;
3) Hiển bày về đức của diệt ấy, nghóa là nêu ra mười thân của Phật và các pháp của
Phổ Hiền. Kinh nói: “Đại Bát
Niết-bàn có thể kiến lập
Đại nghóa”.
4) Lợi ích chúng sinh thành tựu về diệt, có thể biết.

Đạo
Tràng cũng có bốn:
1) Sự xứ;
2) Hành, như kinh nói bố thí là đạo tràng…;
3) Lý, như kinh Duy Ma nói tất cả các pháp là đạo tràng, bởi vì biết các pháp là Không…;
4) Gồm chung tất cả các pháp, nghóa là con người-pháp…, tất cả đều chuẩn mực, đều là nơi đắc đạo gọi là Đạo Tràng, là Y chủ
thích. Cũng như sân phơi lúa ở thế gian lựa bỏ lúa
xép mà chọn lấy hạt
chắc; trong này cũng như vậy, diệt trừ mê hoặc thành tựu công đức, cũng đắc đạo tức là Tràng, vốn là dựa theo
Trì nghiệp thích.
Sự Tràng, như
Câu Xá luận nói: “Ở chính giữa châu
Diễm Phù, từ trên đất Kim cang nổi
lên tòa Kim cang, suốt đất châu Diễm Phù
bằng với ranh giới phía
trên, tất cả Bồ-tát đều ở trong đó tu tập
Tam-ma-địa Kim Cang. Nguyên
cớ thế nào? Bởi vì lại không có nơi nương tựa nào khác có năng lực có thể tiếp nhận
Tam-ma-địa này. Tất cả Bồ-tát đó
là ngàn vị Bồ-tát ở
Hiền kiếp.”
Từ “Thỉ thành
Chánh giác…” trở xuống là phần hai riêng biệt phân tích về ba
nghóa trên.
Một là Thời, hai là Xứ, ba là Chủ. Trong Thời lại đưa ra năm môn:
1) Xác định phạm vi;
2) Thâu nhiếp trước sau;
Hiển bày sai biệt;
4) Biểu thị về pháp;
5) Giải thích văn kinh. Xác định phạm vi. Bồ-đề
Lưu Chi nói: “Trong tám Hội
Hoa Nghiêm, năm Hội trước là Đức
Phật thuyết trong bảy ngày thứ nhất mới
thành đạo, Hội thứ sáu về sau là thuyết trong
bảy ngày thứ hai, bởi vì đầu kinh Thập Địa nói bảy ngày thứ hai.” Lại có người nói: “Hội thứ
tám là nói ở Thời sau, bởi vì trong văn ấy có
năm trăm Thanh văn như
Thu Tử…, đều được độ ở Thời sau.” Những
cách phân định như vậy e rằng không thuận với văn, bởi vì bảy ngày thứ nhất chắc chắn không
nói pháp, trong Thập Địa luận nói: “Vì sao không
nói trong bảy ngày thứ nhất? Bởi vì hành tư duy-hành
nhân duyên. Đã nói là tư duy, thì biết
rõ ràng không phải là nói pháp. Giả sử có lời
cứu vãn thì chỉ là không nói
Thập Địa, chứ không phải là không nói về những pháp khác, thì
không thể nào nói là tư duy.” Về sau Luận lại
giải thích: “Bởi vì hiển
bày về pháp Lạc của mình cho nên không nói, vì
vậy biết là bảy ngày thứ nhất chắc chắn không phải thuyết pháp mà thôi.”
Vả lại, Hội thứ
tám cũng không phải là Thời sau, sao có thể ở
trong má»™t bá»™ kinh, trÆ°á»›c
đã nói, giữa chừng nói kinh khác, sau mới lại
tiếp tục, lẽ nào làm cho Đức Phật không có
lực Đà-la-ni, không có thể trong một niệm nói về tất
cả các pháp? Kỳ Viên-Thu Tử đều là chín đời
hòa vào nhau. Văn
sau
nói: Tất cả đời kiếp quá khứ, đưa vào vị
lai-hiện tại, tất cả đời kiếp vị
lai, lại đưa vào đời quá khứ. Lại nói: Ở
trong một niệm kiến lập tất cả
Phật sự ba đời, cho đến nói rộng ra. Các văn
như vậy khắp nơi đều có,
lẽ nào có thể đã dùng Thu Tử-Kỳ Viên mà
không phải là loại này?
Vì vậy biết kinh này chắc chắn là đã nói trong bảy ngày thứ hai.

Thâu nhiếp
trước sau, có
ba lớp: Một, ở trong thời gian hai tuần này đã thâu nhiếp tám Hội cùng lúc
mà nói. Hỏi: Nếu như vậy thì vì
sao
Hội có trước-sau? Đáp: Như lúc đọc văn in, giấy
in trước-sau cùng lúc.

Hỏi: Nếu như
vậy thì làm sao Trùng Hội có thể thành tựu?
Đáp: Trùng
cũng cùng lúc bởi vì không có gì ngăn ngại, như
ánh sáng của những ngọn đèn hòa vào nhau… Còn
lại không lay động-lên cõi trời…, dựa theo giải
thích có thể biết.

Hai, ngay nơi
thời gian này thâu nhiếp thời gian trước-sau, tất
cả vô lượng kiếp thảy
đều thâu nhiếp hết, bởi vì là Thời giải thoát không nghó bàn. Ba, thâu nhiếp trùng trùng vô lượng niệm kiếp, bởi vì như
lưới giăng Nhân-đà-la
trở lại thâu nhiếp.

Hiển bày
sai biệt:
Theo kinh Phổ Diệu, bảy ngày thứ hai ở vườn

Lộc Dã vì năm anh em người ấy mà ba lần Chuyển pháp luân Tứ
Đế, đây là Tiểu thừa.
Theo kinh Mật Tích Lực Só, bảy ngày thứ hai ở vườn Lộc Dã vì vô lượng đại chúng mà
Chuyển pháp luân thì có người
đạt được đạo La-hán,
Bích-chi, Bồ-tát…, đây là Tam thừa. Theo kinh này thì bảy ngày thứ
hai ở dưới tán cây chúa (thọ vương) vì hải hội
Bồ-tát mà Chuyển pháp
luân Vô tận, rõ ràng là Nhất thừa. Ba lớp đồng thời trên đây thì dựa theo pháp là biểu hiện về gốc-ngọn đồng thời, dựa theo người là hiển bày về cơ cảm đều khác.
Theo kinh Pháp Hoa thì 21
ngày, Tứ Phần luật thì
42 ngày, kinh Hưng Khởi Hạnh thì 49 ngày, theo
Ngũ Phần luật thì 56
ngày, Trí Luận thì 57 ngày, kinh Thập Nhị Du thì một năm mới nói. Đây đều bởi vì Mạt giáo khác cơ, thích hợp nghe
khác nhau cho nên dẫn đến
không giống nhau. Bổn giáo là cơ xác định
cho nên chỉ có hai tuần.

Biểu thị về pháp. Thập Địa
Luận nói: “Thời-Xứ… so
sánh hiển
bày rõ ràng về thù thắng, bởi vì pháp thù
thắng này, thuyết ở Thời thứ
nhất và Xứ thù thắng.” Điều này có ba nghóa:
Một, kinh này dựa theo Thời thứ nhất bởi vì biểu thị về pháp thù thắng
vốn có; hai, Mạt giáo cũng cùng lúc bởi vì biểu thị ngọn không lìa
xa gốc; ba, hiển bày về gốc không phải là ngọn, bởi vì ngọn thì không nhất định mà gốc thì nhất
định, Thời nhất định là hai tuần lại không nói gì khác.

Giải thích văn kinh: Mới thành Chánh giác là ý hiển bày về
nghóa của lúc bắt đầu. Nhưng có hai tướng: Một,
bảy ngày thứ nhất là bắt đầu hiện rõ ở
thế gian; hai, bảy ngày thứ hai là bắt đầu
thuyết pháp. Trong này là thành Chánh giác trải qua bảy ngày nay, cho nên nói là mới thành
Chánh giác. Tất cả có năm nghóa: Một là dựa theo
Tiểu thừa, bởi vì Sinh thân của Đức Phật ở dưới tán
cây này trải qua ba mươi bốn tâm mới thành
Chánh giác, giống như các
A-la-hán thật
sự thành tựu
chứ không phải là biến hóa. Hai là dựa theo Đại
thừa, tám tướng Hóa thân thị hiện ở đây mới thành
Chánh giác. Ba là dựa theo
Báo thân, đầy đủ hạnh Thập Địa, sau Vô gián đạo thì quả
hiện bày trọn vẹn
sáng
ngời gọi là mới thành Chánh giác. Bốn là dựa
theo Pháp thân, nghóa là bắt đầu đạt được
Liễu nhân, lúc đầu hiện rõ tròn vẹn, cho nên nói là
mới thành. Trên đây là Đại thừa hoàn toàn
không có ban đầu của ban
đầu. Năm là dựa theo mười Phật, nghóa là vô
biên thế giới khắp tất cả
Nhân-đà-la võng, trong niệm niệm đều là lúc đầu mới thành Phật, đầy
đủ chủ-bạn, tất cả ba thế gian, cho nên đây tức là thâu nhiếp đầy đủ ban
đầu của vô lượng kiếp trước-sau. Trong này đích
thực chỉ có nghóa thứ năm thâu nhiếp gồm đủ bốn
nghóa trước, dựa theo có thể biết. Bởi vì

năm lớp này
không lìa xa nhau, cho nên thâu nhiếp làm phương tiện.
Từ “Kỳ địa
Kim Cang…” trở xuống là phần hai riêng biệt
phân tích về Xứ. Trong
đó cũng đưa ra năm môn:
1) Xác định về Xứ ấy;
2) Phân rõ về thâu nhiếp hòa vào;
3) Hiển bày về sai biệt;
4) Biểu thị về pháp;
5) Giải thích văn kinh. Xác định về Xứ.
Hỏi: Nơi nói kinh này là Tịnh độ hay là cõi nhiễm?
Giả sử như vậy thì có gì
sai? Cả hai cùng có
sai lầm.
Vì sao? Bởi vì nếu là
Tịnh độ, thì vì sao văn trước
nói là nước Ma-kiệt-đà, văn sau lại nói là như
Thế giới hệ (Tứ thiên
hạ) Diêm-phù-đề này…? Vì vậy nên biết không phải là
Tịnh độ. Nếu là cõi nhiễm, thì vì
sao văn
sau nói thế giới hải
Liên Hoa Tạng này phát ra
sáu loại-mười tám tướng chấn động…? Rõ ràng
biết kinh này không phải là nói ở cõi nhiễm, trái
ngược nhau như
vậy làm sao xác định? Đáp: Nhưng dựa vào kinh này thì hai cõi nhiễm-tịnh dung
hòa thâu nhiếp lẫn nhau,
có bốn câu phân biệt về điều ấy: Hoặc chỉ là Ta- bà, bởi vì gốc thuận theo ngọn; hoặc chỉ là
Hoa Tạng, bởi vì ngọn
thuận theo gốc. Hai câu này phân rõ như trên. Hoặc cùng hiện bày, bởi vì
dựa vào Hoa Tạng mà có
tướng phần nhiễm-tịnh của Ta-bà, vốn là ngọn dựa vào gốc, như văn
sau nói: Thế giới
Ta-bà trong cõi
Hoa Tạng, là nói về câu này.
Hoặc nhiễm-tịnh cùng bặt dứt, bởi vì dựa vào quả
hải không thể nói được.
Bốn môn trên đây hợp lại làm một cõi, dung
hòa vô ngại tùy theo
giảng giải đều được.

Phân rõ về thâu nhiếp hòa vào: Một là trình bày về
dung nhiếp, cũng có
ba lớp: Một, dưới tán cây Giác này đã thâu nhiếp tám Hội trong loài người và trên cõi trời, vì thế đều nói không rời xa
nơi này. Hai, thâu nhiếp
mười phương, không
sót lại cõi nước nào, tất cả đều không rời xa dưới tán cây
chúa này. Ba, thâu nhiếp cõi nước trùng trùng như
số vi
trần trong đầu mảy lông, giống như lưới giăng của
Đế Thích không có
cùng tận, bởi vì đều là sự thâu nhiếp của thế
giới Liên Hoa Tạng này.
Hai là dung nhập cũng có ba, đó là dung hợp cây
Giác này hòa vào nơi
ba lớp đã thâu nhiếp trước đây.

Hiển bày về
sai biệt: Nhưng nơi Đức
Phật thuyết kinh có
ba loại: Một, chỉ có mười
sáu nước lớn trong cõi này là nơi Hóa thân thuyết
kinh, đây là gồm chung Tiểu thừa giáo và Tam thừa
giáo. Hai, chỉ có các Tịnh độ vi diệu trong mười tám cõi viên mãn thọ dụng ngoài cõi này là nơi Báo thân
thuyết kinh, như kinh Phật Địa… Tịnh độ vi diệu
này không phải là ba cõi thâu nhiếp mà cũng không
lìa xa, bởi vì khắp

tất cả mọi
nơi, đây là nói chung về Tam thừa và Nhất thừa. Ba,
nhiễm- tịnh viên dung, đế võng vô tận, thế giới
Liên Hoa Tạng là nơi mười
Đức Phật thuyết kinh,
y-chánh tự nhiên dung hòa đầy đủ ba thế gian, đây là nơi chỉ thuyết về Biệt giáo
Nhất thừa. Nay ở đây đã phân rõ chính là chỉ riêng một
loại sau, thâu nhiếp đầy đủ hai
loại trước, bởi vì
gốc-ngọn ấy không rời xa nhau.

Biểu thị về pháp. Dựa
vào Xứ thù thắng này biểu thị về pháp thù thắng, trong Địa
Luận nói: “Đây là pháp thù thắng cho nên nói ở
nơi thù thắng.” Nhưng có ba lớp: Một, bởi vì
dưới tán cây này đạt được
Bồ-đề, không rời khỏi nơi này mà nói, rõ ràng
biểu thị về pháp đã nói như pháp đã đạt được, không phải là thuận theo cơ khác mà có thay đổi,
cho nên như nói ở vườn Lộc Dã… Hai, dựa vào
thế giới Liên Hoa
Tạng viên dung, biểu thị về pháp đã nói vốn là tánh viên mãn thù thắng thông
suốt đầy đủ. Ba, dựa vào Đế võng trùng trùng
của nơi này, biểu thị về pháp đã nói cũng trùng trùng vô tận, như
Bất Tư Nghị Giải Thoát…,
nghóa còn lại như chương Thế Giới ở sau nói.

Giải thích văn kinh. Trong văn
có ba: Một, trình bày về đất nơi
đạo tràng; hai, trên đất có cây Bồ-đề; ba, dưới
cây Bồ-đề có tòa Sư tử. Đây là đất làm chỗ dựa căn bản của hành, cây là kiến lập hành đức, tòa
là tác dụng của hành thâu nhiếp lợi ích, như
tánh duyên khởi đều hoàn toàn dung hợp thâu nhiếp các pháp đều hết. Nhưng ba phần vị này trong
văn đều dùng mười môn để phân biệt.
Một, trong giải thích về đất nơi đạo tràng, có nêu
ra-giải thích-kết luận.
Trong nêu ra, đất ấy là
Kim Cang, là nêu ra Thể của đất ấy, nghóa là Thể hoàn toàn vững chắc.
Văn sau nói: Đất dày
Kim Cang không
thể phá hoại, là nói về điều này. Đầy đủ trang nghiêm
thanh tịnh, nêu ra đức của đất ấy, nghóa là Tướng hoàn toàn
trang nghiêm. Tức là
trong văn sau, dưới mặt đất của thế giới
Liên Hoa Tạng thâu nhiếp đầy
đủ Phong luân-Hương
hải-hoa sen chúa… để làm trang nghiêm thanh tịnh, trên mặt đất có đủ ánh
sáng quý báu tuyệt
diệu-sông thơm-cây
cối-lưới giăng. Trên
dưới như vậy, tịnh đức đầy đủ tròn vẹn, cho nên nói là
Cụ túc. Đây là cấu
nhiễm hoàn toàn không còn nói là tịnh, công đức
hoàn toàn đầy đủ gọi là nghiêm.

Hai, trong riêng
biệt giải thích có mười câu, hiển bày mười loại
nghiêm tịnh:
1) Hoa báu nghiêm tịnh;
2) Vòng báu nghiêm tịnh;
3) Diệu sắc nghiêm tịnh;
4) Cờ phướn nghiêm tịnh;
5) Hương hoa nghiêm tịnh; Lưới báu nghiêm tịnh;
7) Mưa báu nghiêm tịnh;
8) Cây báu nghiêm tịnh;
9) Phật lực nghiêm tịnh;
10) Đặc biệt kỳ lạ nghiêm tịnh. Đầy đủ mười loại
này cho nên nói là Cụ túc nghiêm tịnh.

Hoa báu nghiêm tịnh, nghóa là các hoa báu xen lẫn có đủ bốn nghóa: Một là nghóa về vi diệu, hai là nghóa về nở rộ, ba là nghóa về
sinh ra quả, bốn là nghóa về
nghiêm tịnh.
Văn sau nói: Hoa báu phủ khắp tất
cả mọi nơi, đều có thể nuôi lớn công đức của Phật.

Vòng báu
nghiêm tịnh, nghóa là bởi vì vòng báu này đầy đủ năm
nghóa: Một là nghóa về viên mãn, bởi vì lìa thiếu
kém; hai là nghóa về thâu nhiếp đức, bởi vì vành xe-nan hoa… đầy đủ; ba là nghóa về
chuyển động, bởi vì từ nơi này hướng đến nơi kia; bốn là nghóa về phá trừ phiền não, bởi vì như nghiền nát… ; năm là nghóa về hàng phục, bởi vì như vòng báu của
Thánh Vương.
Lại nữa, báu là nghóa về đáng quý, văn
sau nói: Hoa báu thành vòng ánh
sáng được trang nghiêm bằng
diệu sắc, đầy khắp các pháp giới, mười phương đều
chiếu khắp.

Diệu sắc nghiêm tịnh, nghóa là bởi vì diệu sắc này có đủ bốn nghóa: Một là nghóa về
sáng rực, bởi vì có đủ hình dáng hiển bày; hai là
nghóa về tức Không, bởi vì hàm chứa rỗng rang
mà lập; ba là nghóa về có đủ đức, bởi vì một thâu nhiếp tất cả; bốn là nghóa về có tác dụng, bởi
vì chúng sinh thấy-nghe đạt được lợi ích thù
thắng. Loại này rất nhiều,
cho nên nói là vô lượng; tất cả đều trang điểm
qua lại, cho nên nói là
trang nghiêm. Nghóa là Khí hải này sâu mà lại
rộng, Uẩn đức bao hàm tưới thấm làm lợi ích vô biên, cho nên nói là như biển. Biển lớn về mười
tướng từ đây thuận theo phân rõ, tên gọi Thế
giới hải ở văn sau từ
đây mà lập ra.

Cờ phướn
nghiêm tịnh, nghóa là cột
cao (tràng), cờ phướn
(phan), tàng lọng (cái), ánh sáng(quang) vốn có bốn
nghóa riêng biệt. Tràng có hai nghóa: Một là cao vượt ra, hai là hàng phục, như Tràng của Đế Thích.
 Phan có hai nghóa: Một là cờ hiệu, hai là tùy duyên.
 Cái cũng có hai nghóa: Một là hiển bày thù thắng, hai là che mát.
 Quang cũng có hai nghóa: Một là trừ hết bóng tối, hai là
soi chiếu rõ ràng.
Văn sau nói:
Trong tràng báu có ánh sáng, rủ cờ phướn báu mà trang nghiêm.

Hương hoa nghiêm tịnh, gọi diệu hương là nghóa về thơm ngát, diệu hoa là nghóa về nở tròn, diệu man là nghóa về
xuyên suốt, dùng ba
sự việc này phân bố khắp xung quanh để làm thành
cúng dường.
Lại cũng dùng hoa của diệu hương xâu làm thành chuỗi,
rủ xuống bốn phía cột cao để làm thành
trang nghiêm.
Văn sau nói: Treo chuỗi hoa xen
lẫn để làm trang nghiêm.

Lưới báu
nghiêm tịnh, lưới là kín đáo chiếu rọi
trang nhiêm.
Văn sau nói: Vòng báu-lưới giăng che khắp phía
trên. Theo kinh Xưng

Tán Tịnh Độ,
bảy báu là:
1- Vàng;
2- Bạc;
3- Phệ lưu ly;
4- Pha chỉ ca;
5- Xích chân châu;
6- A thấp ma yết lạp bà;
7- Mâu sa đà yết lạp ba. Mưa báu
nghiêm tịnh, nghóa là do mưa nhiều và rộng, tất cả đều
trở thành tác dụng của pháp môn, cho nên nói là
tự tại, tức là hiện thân
thuyết pháp, là nói về nghóa này.

Cây báu
nghiêm tịnh, là nghóa về kiến lập các đức.
Văn sau nói: Cây báu thanh tịnh và mây
trang nghiêm, khắp nơi có thể chiếu
sáng tất
cả các thân, cho nên cảnh vật sáng ngời.

Phật lực nghiêm tịnh, nghóa là nhờ thần lực của
Phật, là nêu ra
nhân vốn có ấy; khiến cho như vậy…, là phân rõ về sự thành tựu:
Một là khiến cho Thể mở rộng; hai là Tướng trang
nghiêm; ba là Dụng
soi chiếu.
Văn sau nói: Tất cả thế giới hải, có vô lượng
trang nghiêm, vòng
báu vô biên sắc, thần lực Như Lai khởi.

Đặc biệt kỳ lạ
nghiêm tịnh.
Theo Trí Luận, báu có ba loại: Một là vật báu của
loài người, như ngọc báu của
Luân Vương luôn luôn dùng để mưa xuống đồ vật; hai là vật báu của loài trời, nghóa là chư Thiên vốn có đều có thể
sử dụng; ba là vật báu
của Bồ-tát, có thể khiến
cho nói pháp độ người. Nay vật báu này của
Bồ-tát so với vật báu của trời-người trước đây đã là kỳ lạ, huống gì
Như Lai vốn có vật báu đã
phát sinh vô tận thiện căn, đều rất kỳ lạ, bởi
vì chính là pháp môn mà
lại là vật báu thuộc về Sự.

Ba, một câu sau cùng là tổng kết, bởi vì thiện căn không có
hạn lượng, cho nên sinh
ra đồ vật trang nghiêm cũng không có hạn lượng, vì vậy nói là vô lượng thiện căn trang nghiêm đạo tràng.
Lại cũng bởi vì thiện căn
này chính là tác dụng trang nghiêm, như văn sau nói: Trăm vạn ức vầng mây
Ba-la-mật và vầng mây thiện căn… để
trang nghiêm tòa báu. Nay
cũng cùng nguyên cớ ấy. Vô lượng, văn sau
nói: Công hạnh của Phật
Lô-giá-na trong quá khứ làm cho sát hải của
Phật rất thanh tịnh, vô
lượng vô số không có giới hạn, tất cả nơi chốn ấy
tự tại mà chuyển. Nghóa
còn lại đến trong phẩm sau sẽ trình bày rộng
ra. Trong này cũng có sáu
tướng tổng biệt-đồng dị-thành hoại, có thể
dựa theo nối thông. Phần
giải thích về đất nơi đạo tràng (tràng địa),
xong. Hai, trong cây Giác
cũng có mười câu: Một câu đầu là tổng quát,
cây Bồ-đề
có ba cách giải thích, đó là bên cạnh Y chủ và
Trì nghiệp, bởi vì trong Viên giáo thì Y-Chánh vô ngại là tướng của
nhân-pháp, đạt được
Bồ-đề tức là cây, cao vượt lên sáu tầng trời
là hiển bày
chiếu sáng
mười phương, cho nên nói là rất đặc biệt (thù đặc), đây là
cây tổng quát.

Chín câu còn
lại là riêng biệt hiển bày về thù đặc:

Thân thù đặc, vốn là nghóa trong
suốt kiên cố của thân cây này,
cho nên nói là Tịnh lưu ly…

Cành thù đặc, đó là cành nhánh của cây vốn là nghóa phương
tiện tùy cơ sai biệt, cho nên nói là Cành báu…

Lá thù đặc, đó là lá đầu cành vốn là nghóa che
mát cơ thành tự
lợi ích, nên nói là Lá báu…, tầng mây là nghóa
về lợi răng, lại mây dày
là nghóa về mờ mịt.

Hoa thù đặc, là nghóa về tô điểm bằng các hạnh tốt
đẹp, tức là do lợi ích mà thành tựu hạnh, cho
nên nói là tạp sắc…

Quả thù đặc, là nghóa về hạnh thành tựu cảm đến
quả. Như ý,
một là bởi vì bình đẳng cứu giúp như ý chủ
động giáo hóa, hai là bởi vì
cầu mong đều đạt được như ý của chúng sinh đã
giáo hóa; Ma-ni là tên
gọi chung của ngọc báu, lược bỏ tên chung chọn
lấy tên riêng, cho nên gọi là Như ý Ma-ni.

Lại năm câu trên đây làm thành một Thể của cây, nghóa là pháp giới thanh tịnh như mặt đất, thân Phật hiện bày rõ ràng như mặt đất
sinh ra cây, tùy theo cơ
thấy khác nhau như phần cành nhánh của cây, trông thấy đều được lợi ích như lá trở thành bóng mát, do lợi ích mà thành hạnh như cây nở hoa, hạnh đầy đủ đạt được quả như cây
sinh ra
trái. Đây là dựa theo
phát khởi giáo hóa thâu nhiếp chúng sinh mà hiện rõ ra cây Phật.

Lại giải thích: Thức
vốn có như mặt đất, chủng tánh Bồ-tát trong Thức
như hạt giống của cây, phát tâm Bồ-đề như mầm cây mọc lên,
tu thêm Chánh hạnh như
nuôi lớn thân cây, tùy theo phần vị thành tựu về
tu như cây phân nhánh. Đây là dựa theo Tự hành.
Che mát làm lợi ích cho người như bóng mát của lá cây, hai hạnh Tự-tha tô điểm qua lại
như hoa, nhân tròn vẹn-quả
hiện bày như cây kết trái. Đây là dựa theo
thứ tự tu hành để thành cây Phật.

Năm câu trên
đây trình bày về Thể của cây thâu nhiếp các đức. Xuống dưới có bốn câu, trình bày về diệu dụng tự tại của cây
Giác này, đó là

Hiển bày về ánh sáng thù đặc, nghóa là tác dụng của ánh
sáng
tỏa đến khắp nơi.

Hóa hiện đặc thù, đó là tùy nơi đã đến hiện rõ làm
Phật sự, bởi
vì không ranh giới cho nên không thể nào cuối cùng,
tức là tất cả mọi nơi; không ngưng nghỉ cho nên không thể dùng hết, tức là tất cả mọi lúc.

Pháp đặc thù, nghóa là ở các nơi làm Phật sự gì, khắp nơi hiện rõ đạo giáo của
Bồ-tát Đại thừa, bởi vì ánh
sáng của A-hàm này cho
nên có thể hiện rõ về pháp. Vả lại, ba câu trên
đây nếu như thứ tự thì
do ba nghiệp thân-ngữ-ý đã thâu nhiếp.

Phật lực thù đặc, nghóa là Phật lực gia trì phát ra âm thanh khen ngợi về đức, nếu từ trong cây không phát ra âm thanh khen ngợi thì
người thế gian không có ai có thể biết đến công
đức thù thắng của
Như Lai. Sáu tướng tổng-biệt trong mười câu này, có
thể dựa theo để biết.
Giải thích về cây Giác, xong.

Ba, tòa báu thù thắng. Trong đó cũng có mười câu: Một câu đầu là tổng quát, theo
Trí Luận: “Đức Phật là Sư Tử giữa
loài người, nơi Đức Phật ngồi hoặc là giường hay là đất, đều gọi là tòa Sư Tử, chỗ
ngồi của vua cũng như
vậy. Vả lại, ngồi nơi tòa này nói về pháp Vô úy
Sư tử hống, cho nên cũng gọi là tòa
Sư Tử.” Phẩm Ly Thế Gian ở
sau trình bày về tòa
Sư Tử trong mười loại tòa, phân biệt về nghóa diễn thuyết
rất sâu xa. Trên đây
đều là Y chủ thích, hoặc cũng là Trì nghiệp thích,
bởi vì Y-Chánh dung hợp tự nhiên. Lại bởi vì tòa
này bao hàm pháp
giới, nhân-pháp-giáo-nghóa, tất cả các pháp và thế giới
sâu rộng thù đặc của chư Phật mười phương ấy, cho nên nói không thể nghó bàn
giống như biển lớn.
Chín câu còn lại là riêng biệt hiển bày về không thể nghó bàn
(bất tư nghị):
1) Nghiêm sức bất tư nghị, đó là bởi vì Thể thâu nhiếp các đức, cho nên nói là nhiều hoa quý báu vi diệu…
2) Lưu quang bất tư nghị, đó là bởi vì diệu
dụng vô phương như mây che phủ khắp nơi, cho nên nói là Lưu quang (thời gian)…
3) Hàm nhiếp bất tư nghị, đó là bởi vì bên trong quy tụ vô số Đại hải Bồ-tát, cho nên nói là Tạng.
4) Ngữ nghiệp bất tư nghị, đó là bởi vì âm thanh to lớn chấn động rất xa làm thành lợi ích khó
suy lường, cho nên nói là
Bất tư nghị. Vả lại, ba câu trên đây tùy theo
sự thích hợp, là tác dụng của ba nghiệp thân-ngữ và ý.
5) Gia trì bất tư nghị, đó là tuy tòa này tỏa ra ánh sáng chiếu rọi khắp nơi,
 nhưng ánh sáng của Đức Phật lại càng che khắp, vốn là hiển bày về thù thắng,
bởi vì ánh sáng của
ngọc Ma-ni có thể có lúc chiếu rọi đến bốn mươi
Do- tuần che phủ cung của
Luân Vương, nay ánh sáng của Đức Phật
chiếu rọi khắp nơi pháp
giới, che phủ khắp tòa này, vượt quá mức lượng ấy, cho nên nói là vượt quá Ma-ni…
6) Biến hóa bất tư nghị, đó là bởi vì tác dụng hóa độ mở
mang giác ngộ, cho nên nói là làm Phật sự.
7) Ứng cơ bất tư nghị, đó là căn cơ thuần thục ở mười phương tất cả đều nhìn thấy, một tòa ứng hiện khắp nơi không có gì ngăn ngại.
8) Tấn tốc bất tư nghị, một niệm là thời gian vô cùng ngắn ngủi, tất cả hóa hiện là
hiện ra rất nhiều, đầy khắp pháp giới là rất
sâu rộng. Từ một niệm này có thể
hiện ra một hóa đã là
hiếm có, huống gì hiện ra tất cả? Có thể từ một
niệm hóa hiện tất cả
đã rất hiếm có, huống là những gì đã hiện ra mỗi
một đều sâu rộng đầy
khắp pháp giới? Trong khoảng một niệm mau chóng khởi lên Đại Dụng vô biên này, trong niệm niệm còn lại cũng đều
theo đùng như vậy.
9) Chân tánh bất tư nghị, đó là bởi vì Thể của Như Lai Tạng bao phủ khắp nơi, khiến cho Diệu Dụng trước đây mau
chóng thành tựu không có gì ngăn ngại. Lại nữa,
bốn câu trên đây trình bày về Dụng của tòa này, thứ
tự theo nhau. Một là có tướng gì? Hai là ứng như thế nào? Ba là mau chóng như thế nào? Bốn là do đâu mà thành? Như thứ tự bốn câu trả lời về
bốn câu hỏi đây, nên biết. Ba, một câu
sau cùng là tổng kết, bởi vì riêng biệt nói khó mà đầy đủ, cho nên kết luận rằng vô lượng các vật báu… Bởi vì tòa cao
hiển bày cho nên cũng gọi là đài.

Hỏi: Tòa Sư Tử này có nghóa lý gì mà gọi là bất tư nghị?
Đáp: Đã
gọi là bất tư nghị, thì nghóa thật sự vô tận, sơ lược
luận về mười loại: Đó
là
1) Không thể suy nghó theo phần có, bởi vì giống như pháp giới;
2) Không thể suy nghó theo phần không có, bởi vì cơ mà hiện bày;
3) Không thể suy nghó theo Lý, bởi vì hoa báu là trang nghiêm về sự;
4) Không thể suy nghó dựa vào Sự, bởi vì tánh
Như Lai Tạng;
5) Không thể suy nghó theo Y báo, bởi vì Bồ-tát đều đã thành tựu;
6) Không thể suy nghó theo Chánh báo, bởi vì là Y quả của Phật;
7) Không thể suy nghó theo con người, bởi vì thuộc về pháp sở y;
8) Không thể suy nghó theo pháp, bởi vì có đủ ba nghiệp làm tác dụng của con người;

Không thể
suy nghó theo quả, bởi vì có đủ nhân vị của
các Bồ-tát;

Không thể suy nghó theo nhân, bởi vì quả Phật vốn có.
Trên đây là
mười nghóa về vô ngại tương tức, nghóa là một
tòa là tướng tổng quát, mười nghóa là tướng
riêng biệt; đầy đủ nghóa của tòa này là tướng
giống nhau, mười nghóa không xen tạp là tướng khác nhau. Do mười nghóa này
khiến cho pháp của tòa khởi lên là tướng Thành,
đều trú vào pháp của
mình là tướng Hoại.
Hỏi: Đã nói là bởi vì cơ mà hiện bày, không phải là không
có phần lượng, chưa
biết phạm vi giới hạn của mức lượng ấy thế nào?

Đáp: Như vậy
cũng khó biết, chỉ có thể ví dụ so sánh để phân
rõ. Như phẩm Thập Địa nói: “Mức lượng của tòa
Bồ-tát Thập Địa chu vi bằng mức lượng mười
A-tăng-kỳ trăm ngàn Tam thiên Đại thiên thế giới, dùng mức lượng của tòa này
so với tòa của
Như Lai, thì điều ấy giống như đem đất bằng hạt đậu
so với Đại thiên thế giới, thì mức
lượng tòa của Như Lai
rất khó lường.”

Ba đoạn trên
đây tổng quát trình bày về Khí thế gian viên
mãn, xong. Từ đây trở
xuống là phần thứ ba trình bày về Trí chánh giác
thế gian viên mãn, trong
đó sơ lược đưa ra năm môn để phân tích:
1) Xác định về thân Phật;
2) Trình bày về dung nhiếp;
3) Hiển bày về sai biệt; Biểu thị về pháp;
5) Giải thích văn kinh. Xác định về thân Phật.

Hỏi: Tám Hội
này Phật là những thân nào? Đáp: Có người giải
thích rằng: “Là Hóa thân Phật, bởi vì
tám tướng thành đạo
dưới cội cây Bồ-đề là Hóa thân, không rời xa mà lên cõi trời là
Trùng Hóa, bởi vì tên gọi khác của
Thích-ca gọi là
Lô-xá-na, không phải là
Báo thân nào khác.” Lại có người giải thích rằng:
“Phật thuyết kinh này là
Thật Báo thân, bởi vì là thân pháp giới của Lô-xá- na, ở trong Tịnh độ
Liên Hoa Tạng, cho nên
sau Hội thứ bảy ban đầu ca ngợi Đức Phật đầy đủ hai mươi mốt loại công đức thù thắng ấy, là
Thật Báo. Nhưng bởi vì
không rời xa Hóa thân cho nên đầy đủ dưới cội cây này, chứ không phải là Hóa thân.”
Nay giải thích: Đức Phật này
dựa theo trong văn sau là
thân của mười Phật nối thông với ba thế gian,
bởi vì nói về các địa
như Thập Tín và Tam Hiền…, cho nên đã thấy
trước đây không phải
là Thật Báo. Nhưng bởi vì ở Hoa Tạng không hạn
chế về Hóa, cho nên quốc độ-thân… không phải là hai
loại trước; thâu nhiếp đầy đủ hai loại trước bởi vì tánh
dung thông, đầy đủ chủ-bạn bởi vì
như lưới giăng của Đế
Thích. Vì vậy chỉ là thân của mười Phật rộng khắp pháp giới.

Trình bày về dung nhiếp, có hai: Một,
thâu nhiếp hết tất cả ba
thế gian, bởi vì có đủ ba sự việc này mới là
Phật, ba thân-hai thân chỉ là thuộc về Trí chánh giác trong ba thế gian, Tịnh độ vi diệu và thân
đồng sinh không có gì không đều là sự thâu
nhiếp trong này. Hai, cũng là Chánh báo trong lỗ
chân lông, Y báo trong mảy trần, tất cả lớp lớp
thâu nhiếp đầy đủ ba thế gian cùng tất cả các
pháp như lưới giăng của
Đế Thích hiện rõ, dựa theo suy nghó có thể thấy.

Hiển bày về sai biệt: Đây
là một thân Thích-ca ứng hiện nhiều loại
sai biệt thuận theo căn cơ
chúng sinh. Hoặc cùng là phàm mà không phải là Thánh, như thấy thân chân voi đen ba thước và thân
Thần cây…, đây thuộc về phần vị trời-người. Hoặc
là Thánh mà không phải
là phàm, bởi vì cùng là thân Thánh nhân La-hán.
Hoặc cũng là phàm

cũng là Thánh, bởi vì là
Thật Báo thân do cha mẹ
sinh ra, vì bốn Đại tạo thành cho nên cùng là thân phàm, đầy đủ năm phần
Pháp thân, các
Lưu không còn cho nên là
Thánh. Hoặc không phải là phàm không phải
là Thánh, bởi vì là ba
thân Đại thừa thâu nhiếp, cho nên không giống như Thánh
La-hán Tiểu thừa. Hoặc là Hóa thân chứ không phải là
Pháp- Báo thân, bởi vì có đủ tám tướng ở
cõi Diêm-phù,
sắc tướng biệt lập trên cao vốn là
Thật Báo ấy, nói như
kinh Phạm Võng…, đây là
dựa theo Sơ giáo. Hoặc
là Báo thân chứ không phải là Pháp-Hóa thân,
tức là thân này có đủ
hai mươi mốt loại công đức thù thắng, bởi vì là
Thọ dụng thân, nói như
bắt đầu kinh Phật Địa, đây là dựa theo Chung
giáo. Hoặc là Pháp thân
chứ không phải là Báo-Hóa thân, bởi vì Sắc tức
là Như. Kinh nói: Nay thân
này của Ta tức là Pháp thân. Đây là dựa
theo Đốn giáo. Hoặc cũng
là Pháp cũng là Báo-Hóa thân, bởi vì nói như
ba loại trước. Hoặc
không phải là Pháp thân cũng không phải là Báo-Hóa thân, bởi vì là mười Phật, bởi vì nối thông với ba thế gian, bởi vì đầy
đủ chủ-bạn, như văn sau
của kinh này nói, đây là dựa theo Viên giáo.
Vì vậy thân Thích-ca này
viên dung vô ngại rất khó suy nghó.

Biểu thị về pháp, nhưng Đức
Phật thuyết pháp tổng quát có
bốn phần vị: Một là cùng thân La-hán, bởi vì
biểu thị nói về pháp
Tiểu thừa; hai là
Hóa thân Phật, biểu thị nói về
Tam thừa, mở rộng nói về
Địa tiền-tóm lược nói về Địa thượng; ba là
Báo thân Phật, biểu thị nói về
Tam thừa, mở rộng nói về Địa thượng-tóm lược nói về Địa tiền; bốn là mười thân Phật, biểu thị về pháp
Nhất thừa, cùng nói về
sáu phần vị,
bởi vì pháp vô tận đã nói này đầy đủ
chủ-bạn, cho nên Phật cũng cùng mười thân vô tận này.

Giải thích văn kinh. Trong văn giải thích về nghóa của Trí chánh giác này, vẫn dùng mười môn, một môn đầu là tổng quát, chín môn còn
lại là riêng biệt.

Trong môn tổng quát, trước là thân an tọa nơi tòa báu, cho nên nói Như Lai ở nơi này…;
sau là Trí hợp với
nguồn Chân, cho nên nói đối
với tất cả các pháp
thành tựu Chánh giác bậc nhất. Lại Như Lai, trong luận Địa
Trì nói: “Ngôn ngữ đã nói ra không trái với Như, cho nên gọi là
Như Lai.” Lại trong luận
Chuyển Pháp Luân nói: “Đệ nhất nghóa đế gọi là Như, Chánh giác gọi là Lai, Chánh giác Đệ nhất nghóa đế cho nên gọi
là Như Lai.” Lại trong
kinh nói: “Thuận theo sáu Ba-la-mật mà thành
tựu Chánh giác, cho nên
gọi là Như Lai.” Lại trong luận nói: “Thuận
theo đạo như thật mà
thành tựu Chánh giác.” Hỏi: Đây là đã ra khỏi chướng mà được tên gọi
NhÆ° Lai, sao
không ở
trong triền gọi là Như Khứ?
Đáp: Cũng
có nghóa này, bởi vì kinh nói: “Pháp thân lưu
chuyển trong năm đường
gọi là chúng sinh.” Đã nói là lưu chuyển, thì nên
biết là có Khứ. Hoặc cũng không có Khứ, bởi vì
tuy ở trong triền mà không lay động.

Hỏi: Nếu như
vậy thì ra khỏi chướng-không lay động lẽ ra
không có Lai? Đáp: Pháp thanh tịnh thuận với Chân, từ Chân mà khởi lên
cho nên nhất định có Lai;
pháp nhiễm ô trái với lý là pháp Vọng, cho nên không có thể có Khứ. Hoặc cũng không có Lai, bởi vì Thỉ giác
giống như Bổn giác, đã
không có gì khác với Thỉ giác, cho nên không có
Lai. Vì vậy kinh nói: “Như Lai là không có gì theo đến cũng không có
gì ra đi, cho nên nói là
Như Lai.” Lại tất cả các pháp là pháp của hai
Đế đã Giác ngộ, Tối
Chánh giác là Diệu trí của năng lực Giác ngộ, bởi
vì Bồ-tát cũng có tùy
phần Chánh giác, nhưng phần vị chưa tận cùng, cho nên không có thể gọi là Tối, nay đã đến nơi cao nhất, cho nên gọi
là Tối Chánh giác.
Chín môn còn lại là riêng biệt hiển bày về nghóa thành
Chánh giác của
Như Lai, nghóa là đối với một thân pháp giới của
Như Lai tùy duyên hiển hiện có ba lớp ba nghiệp: Một có ba môn trình bày về ba nghiệp bình đẳng tự tại thâu nhiếp
chúng sinh; hai từ
“Kỳ thân biến tọa…” trở
xuống là trình bày về ba nghiệp thâu nhiếp chúng
sinh thành tựu lợi ích không phải là hư vọng; ba từ “Tất năng phổ hiện…” trở xuống là trình bày về ba nghiệp thành tựu lợi ích tức là
Dụng quy về Như.
Ngay trong phần một, trước là trình bày về
thân nghiệp, trong đó có hai: Câu đầu trình bày về thân nghiệp bình đẳng, tiếp từ
“Phổ nhập…” trở xuống là phân rõ về thân nghiệp thâu nhiếp
chúng sinh.
Lại câu trước hiển bày
về sâu, câu sau trình bày về rộng. Lại trước là trình bày không dựa vào ba đời, cho nên nói là bình đẳng;
sau phân rõ
không rời xa ba đời, cho
nên nói là hòa vào khắp nơi. Lại đầu là nghóa
về bất biến,
sau là nghóa về tùy duyên.
Lại đầu Thể,
sau là Dụng.
Lại Liễu gọi là chiếu rọi rõ
ràng. Pháp ba đời là hiển bày về tất cả các pháp
trước đây. Bình đẳng:
Một là biết rõ ràng về quá khứ-vị lai… từ
hiện tại, cho nên nói là bình đẳng, đây là dựa
theo cảnh Tục; hai là biết rõ ràng
về pháp ba đời thay đổi,
mất đi quy về một thật chứ không có ba sai khác,
cho nên nói là bình đẳng, đây là dựa theo cảnh
Chân. Ý văn thuộc
về nơi này, đây là
không trú theo Sự mà hòa vào Lý. Hòa vào khắp nơi…

là không trú
vào Lý mà tùy theo Sự. Lại trước thì không làm hỏng
Sự mà hiển bày Lý, Lý
mà không phải là Sự; sau thì không trái với Lý
mà tùy theo Sự, Sự mà
không phải là Lý. Lý-Sự dung hòa tự nhiên hai
mà không hai, không có gì
chướng ngại. Hai câu hiển bày rõ ràng về
nghóa làm nơi nương tựa
cho công đức khác là thân nghiệp.

Tiếp đến trình bày về ngữ nghiệp bình đẳng, Diệu âm đến
khắp nơi là trình bày về Viên âm của Như Lai như
tánh duyên khởi có
khắp tất cả mọi nơi mà
cũng không làm hỏng về sự giải thích biểu thị riêng biệt. Nếu bởi vì khắp nơi như nhau làm mất đi âm uốn cong ấy, thì
Viên chứ không phải là Âm; nếu bởi vì âm uốn cong
sai trái truyền khắp
mọi nơi, thì Âm chứ
không phải là Viên. Nay thì không làm hỏng uốn cong mà khắp nơi như nhau, không động khắp nơi mà khác âm vận, thì gọi
là Viên âm của Như Lai,
không phải là cảnh giới suy nghó của tâm thức. Như hư không có năm
loại nghóa, tựa như Viên âm của Đức
Phật cho nên lấy làm dụ:

Nghóa về rộng khắp, ví như Viên âm của Đức Phật rộng khắp pháp giới không có nơi nào không đến được, giống như
Mục Liên xa tìm
âm thanh của Đức Phật không có được bên bờ.

Nghóa về bình đẳng, nghóa là hư không tuy có khắp mọi nơi mà
Thể luôn luôn không hai, ví như Viên âm của Đức
Phật bình đẳng một vị.

Nghóa về vô ngại, nghóa là hư không này không có gì
chướng ngại, ví như Viên âm của Đức Phật tùy theo căn cơ chúng
sinh thuần
thục, nghe hay không nghe đều không có gì chướng ngại.

Nghóa về đối hiện, nghóa là tất cả chúng
sinh đều nói là hư
không ở trước mặt mình, mà hư không không hiện rõ trước mắt;
Viên âm cũng như vậy, tùy theo đủ loại căn cơ riêng
biệt một mình nghe mà
âm thanh không có bên này-bên kia.

Nghóa về hàm thọ, nghóa là hư không này bao hàm dung nạp các
sắc pháp; Viên âm cũng như vậy, thâu nhiếp hàm chứa về nghóa của các pháp đã
giải thích. Nghóa còn lại nói như ở phẩm
Tánh Khởi sau này.

Sau là trong ý nghiệp, có hai: Trước
là trình bày về ý nghiệp bình đẳng, tiếp từ “Đẳng tâm” trở xuống là trình bày về ý nghiệp thâu
nhiếp chúng sinh. Lại đầu
là Lý, sau là Lượng. Lại trước là Trí, sau là Bi.
Lại hai lợi không trú vào duyên, bởi vì dung hợp với nhau không
có hai tướng. Lại pháp tướng bình đẳng giống như là nơi của trí Phật đi qua, cho nên nói là
Hành xứ. Như hư không là dụ cho pháp bình đẳng của hành này.
Lại bởi vì tướng của cảnh-trí như năng-sở cùng phai mờ, như hư không vốn không có gì ngăn ngại, vốn cùng một vị, vốn có
khắp mọi nơi, vốn thâu nhiếp chứa đựng, vốn có tác dụng. Lại hoặc chỉ riêng cảnh như hư không, hoặc chỉ riêng trí, hoặc cả hai, hoặc không cả hai,
suy nghó để theo đúng.

Lại giải thích: Những công đức như
Phật quả-giới… xứng
với Chân tánh, cho nên
nói là bình đẳng; chỉ riêng Phật trí nhận biết, cho nên nói là hành xứ của trí; nhưng bởi vì không có phần hạn cho
nên giống như hư không.
Phật Địa luận thứ tư nói: “Như khế kinh nói:
Cho đến tất cả ví dụ thi thiết, dụ về công đức vốn có của các
Như Lai, tất
cả đều là phỉ báng các
Như Lai, chỉ trừ một ví dụ đó là dụ như hư
không, bởi vì vô lượng
công đức như giới… của Như Lai giống như hư
không, cho đến nói rộng ra.”

Câu sau là tâm bình đẳng tùy thuận chúng sinh, có bốn nghóa:
1) Không suy nghó về lợi ích chúng sinh cho nên nói là tâm bình đẳng;
2) Bình đẳng đạt được Viên giáo;
3) Bình đẳng trao cho quả cao nhất;
4) Bình đẳng đạt được tánh ấy không ngăn ngại nhiếp hóa. Đây tức là đức như hư không ở trước có thể dùng để thâu nhiếp
chúng sinh, cho nên
nói tùy thuận. Trên đây
là ba nghiệp bình đẳng, xong.
Thứ hai là ba nghiệp thâu nhiếp chúng
sinh thành tựu lợi ích
không phải là hư vọng,
trong đó một câu đầu là tổng quát nêu rõ dựa vào cơ, nghóa là thân ấy an tọa khắp nơi bởi vì có đủ ba nghiệp. Tất cả
đạo tràng thì có ba
loại:
1) Khắp tất cả phạm vi của núi Tu-di;
2) Khắp tất cả phạm vi của hình dạng cây cối…;
3) Khắp tất cả trần đạo, lớp lớp như phạm vi lưới giăng của Đế Thích. Vì vậy văn sau nói: Là nơi Đức Phật Lô-giá-na thường
chuyển pháp luân. Lại về sau kết luận nối thông
đều dựa vào văn này.

Hai câu đầu trong phần riêng biệt, trước là trình bày
về ý nghiệp: Một là ý nghiệp thâu nhiếp
chúng sinh, nghóa là biết rõ ràng về căn khí cho nên nói đều biết tất cả… Hai là trình bày về thành tựu lợi ích không
hư dối, nghóa là dùng mặt trời trí tuệ phá trừ
si ám của chúng sinh, cho
nên nói là mặt trời trí tuệ…
Tiếp có ba câu trình bày về
thân nghiệp: Một là theo cõi hiện thân, cho nên nói là đều có thể… Hai là dựa vào thân phát ra
ánh sáng:
1) Thể của ánh sáng nối thông ba đời cho nên nói là ánh sáng của ba đời; Ánh
sáng chiếu rọi đến cảnh ba đời, cũng nói là ánh
sáng của ba đời, đều từ trong biển lớn trí tuệ phát ra cho nên nói là ánh
sáng của biển
trí, đã soi chiếu cơ-cảnh thuần thục cho nên gọi
là tịnh. Ba là Vô lượng

ánh sáng,
ánh sáng thâu nhiếp quyến thuộc, lại cũng nhiều cho nên
vô lượng. Lại chiếu soi
thanh tịnh hiển bày sâu xa, sáng ngời rộng lớn vô lượng.
Tiếp hai câu trình bày về
ngữ nghiệp: Một là trình bày về
Thật giáo không có gì
thay đổi cho nên nói là không hoại. Hai là trình
bày về nhân là chỗ dựa
của giáo cho nên nói là bởi vì Lực-Vô úy… Dó
ấy là nguyên do, đây
tức là hướng về trước làm nghóa của nhân. Lại dó
là giống như dùng, dùng
Lực… này mở ra cánh cửa phương tiện, giáo hóa
chúng sinh thành tựu Quyền giáo này, vì thế hướng
về Quyền giáo
sau này cũng là nơi dựa
vào. Lại tự tại lực-quang là dùng thay cho nhau vô
ngại, đầy đủ Quyền-Thật. Ba nghiệp thành tựu lợi ích, xong.
Thứ ba là trong phần Dụng quy về Như. Trước là trình bày về
thân nghiệp, nghóa là tuy
hiện bày rộng khắp nhiều nơi, nhưng vẫn là
Dụng cùng Thể, cho nên
nói là như hư không, mà không có đến-đi bởi vì có khắp mọi nơi, vốn là bất động.
Khởi Tín luận nói: “Tuy khởi lên
Đại Dụng mà cũng không
có tướng Dụng có thể đạt được, đây là Dụng
mà thường vắng lặng.”

Tiếp hai câu là trình bày về ý nghiệp: Một
là loại bỏ Vọng, hai
là thuận theo Chân. Lại
một là hiểu tánh vónh viễn không có, hai là
Thật tướng không diệt.
Lại trước là hiểu rõ không có tánh ấy, sau là
chứng không phải không
có tánh ấy. Trung Biên luận nói: “Không có hai có, không có này là hai tên gọi về tướng
Không.” Lại ở đây cũng là
giải thích về nghóa thành
tựu trước đây, nghóa là vì sao hiện rõ khắp nơi
mà không có đến-đi? Giải thích: Bởi vì hiểu rõ
ràng là không có tánh.
Vì sao đi-đến mà là không có tánh? Bởi vì đi-đến kia thuận theo bình
đẳng, thuận theo Đại
Dụng bình đẳng, bóng tối Vô minh không còn, gọi là
tất cả ánh sáng, không
mất đi Đại Dụng, cho nên nói khắp nơi hiện rõ
sở hành của chư Phật.

Một câu cuối
là trình bày về ngữ nghiệp, thế giới của chư
Phật là khắp tất cả mọi nơi. Âm thanh không thể nghó bàn là vốn thuận
theo nhiều loại, cho nên nói là không thể nghó bàn. Ba lớp ba nghiệp
trên đây, đều có một
tổng quát-hai riêng biệt. Lại lớp đầu là tổng quát,
hai lớp còn lại là
riêng biệt. Lại ba lớp ba nghiệp có chín là riêng biệt,
Tối Chánh giác là tổng
quát. Đồng-dị-thành-hoại dựa theo suy nghó có
thể thấy. Trí chánh giác, xong.
Đoạn lớn thứ hai trình bày về chúng
sinh thế gian viên mãn,
trong đó một là tổng
quát phân tích, hai là giải thích văn kinh.

Trong phần một
sơ lược đưa ra mười môn phân biệt:
1) Trình bày về số chúng;
2) Mới cũ;
3) Xác định căn khí;
4) Thế và xuất thế;
5) Giới thú;
6) Các Thừa;
7) Quyền Thật;
8) Phần vị;
9) Biểu thị về pháp;
10) Nhân quả. Trình bày về
số chúng, đó là Hội thứ nhất này có năm mươi lăm
chúng, bắt đầu từ Phổ Hiền đến chúng Ma-hê là
ba mươi bốn loại,
sau
từ Thiện Hải cho đến Phổ Hiền là mười tám
chúng, hợp với trước toàn bộ là năm mươi hai chúng, chúng trong
Hải Tuệ cùng mười phương mới
quy tụ và chúng Thắng Âm, hợp với trước toàn
bộ là năm mươi lăm chúng.
Trong Hội thứ hai có hai chúng mới và cũ, hợp với trước toàn bộ
là năm mươi bảy chúng. Hai Hội thứ ba-thứ tư
đều có hai chúng
Thiên Vương và Bồ-tát, hợp với trước là
sáu mươi mốt chúng. Trong phẩm
Thăng Thiên trong Hội thứ năm có năm mươi hai
chúng và một chúng vân tập. Hội thứ
sáu có hai chúng đồng
sinh-dị sinh, và Hội thứ bảy một
chúng, hợp với trước toàn bộ là một trăm
mười bảy chúng. Trong
Hội thứ tám, ba chúng Bồ-tát, Thanh văn và Thiên Vương
hợp với trước thì trở thành một trăm hai
mươi chúng. Trong đó mỗi một chúng, hoặc dùng
số vi trần trong thế giới của mười Phật làm mức
lượng, như vậy tất cả đều không có phạm vi giới hạn. Nhưng tất cả tám Hội này đã đều đồng
thời dung hợp lẫn nhau thành một Đại Hội pháp
giới, thì biết trong mỗi một Hội đều có một trăm hai
mươi chúng, không có tướng phạm vi giới hạn. Đây tạm thời dựa theo trong tám Hội của một thế giới này mà nói. Nếu nối thông tất cả thế giới trong pháp giới hư không
mười phương,
thì tất cả đều có vô biên chúng hội này, hòa
vào nhau lớp lớp như lưới
giăng của Đế Thích vô tận, tức là Bất khả
thuyết bất khả thuyết. Đây
gọi là số chúng của hải hội Hoa Nghiêm.

Các Hội mới cũ. Hoặc chỉ có cũ chứ không có mới, như hai
Hội thứ sáu-thứ bảy. Hoặc chỉ có mới chứ không
có cũ, như ba Hội thứ ba- thứ tư-thứ năm. Hoặc
cũng có mới cũng có cũ, như ba Hội thứ
nhất-thứ hai và thứ tám. Ý còn lại đều nói như trong phần chúng quy tụ ở
văn sau.

Xác định căn khí. Luận rộng về nêu ra chúng có ba nghóa:
Một là đương cơ, hai là ảnh hưởng, ba là nương pháp.
Nay ở đây gồm
chung cả ba.

Thế và xuất thế, có bốn nghóa: Hoặc cùng là thế gian, bởi vì
hiển hiện trong thời, lại bởi vì là một trong ba
thế gian. Hoặc cùng là xuất thế, như hành đức ấy vốn không phải là thế gian
thâu nhiếp.
Hoặc cũng là thế gian-cũng là xuất thế, bởi vì có
đủ hai nghóa trước, lại tùy theo tướng mà luận, bởi vì bắt đầu
Phổ Hiền… là xuất thế, còn lại là thế

gian. Hoặc
không phải là thế gian-không phải là xuất thế, bởi vì là
ra khỏi sự thâu nhiếp
của xuất thế. Vì thế cho nên chúng này gồm
chung ba phần vị ấy, có đủ bốn câu này.

Giới thú. Ở trong ba cõi trừ ra trời
Vô sắc, bởi vì tùy theo tướng
dựa vào pháp không phải là thù thắng, như kinh Nhân Vương cũng có trời
Vô sắc… Trong năm nẽo trừ ra chúng địa ngục, bởi vì nẽo ấy vô
cùng khổ đau dựa vào tướng để hiển bày pháp
cũng không phải là thù
thắng, như kinh Phương Đẳng Đà La Ni cũng có chúng này. Lại không có chúng
Nhân Vương, bởi vì tướng hiển bày không phải là khác lạ, hoặc Bồ-tát tức là
chúng người. Hoặc chỉ nêu ra chúng vua, như nói
mười tám chúng sau, bởi vì biểu thị cho pháp tự
tại. Hoặc gồm chung
vua quan, như nói trong ba mươi bốn chúng này, bởi vì có đủ chủ-bạn.

Các Thừa. Đại Trí luận nói: “Nếu kinh Tiểu thừa thì ban đầu
chỉ nêu ra chúng Thanh Văn, nếu kinh Đại thừa thì
ban đầu nêu ra đầy
đủ hai chúng Thanh văn và Bồ-tát, nghóa chuẩn xác
nếu như kinh Nhất thừa thì ban đầu chỉ nêu ra
Bồ-tát.” Vì sao biết được? Bởi vì luận ấy lấy Đại Phẩm… làm
Cọng giáo, chỉ riêng
Hoa Nghiêm là
Bất cọng giáo, bởi
vì không nói chung với Thanh văn.

Lại ba môn trên đây đều có hai cách nói: Trong cách nói thứ
nhất có hai: Một là nếu vì thành tựu Tiểu giáo đạt được Tiểu quả… thì
chỉ nêu ra Thanh văn, đây
là Tiểu thừa ngu pháp, nói như kinh A-hàm…; hai là vì rời
bỏ Tiểu thừa hiển bày về cơ đã che phủ, chỉ nêu
ra Thanh văn, là giáo hồi tâm của Đại thừa, như đầu kinh Kim
Cang Bát-nhã phân rõ. Trong cách nói thứ hai có đủ hai chúng, cũng có hai:
Một là hoặc trước tiên nêu
ra Thanh văn, sau đó nêu ra Bồ-tát, loại này gồm chung ba giáo
Thỉ-Chung và Đốn, phân rõ như
kinh Tịnh Danh…; hai
là hoặc trước tiên nêu
ra Bồ-tát, sau đó nêu ra Thanh văn, loại này
gồm chung Đốn giáo và
Đồng giáo, phân rõ như kinh La Ma Già, kinh Duy Lâu Vương, kinh Hòa Hưu… Ba là trong phần chỉ nêu ra Bồ-tát, cũng có hai: Một là tuy chỉ
nêu ra Bồ-tát, chủ-bạn
không đầy đủ, nhưng là Đồng giáo Nhất thừa, phân rõ như kinh Thập
Nhất Diện…; hai là nếu chủ-bạn đầy đủ thì tức là
Biệt giáo Nhất thừa,
nói như kinh này.

Quyền Thật. Nếu dựa theo Tam thừa, thì Đức Phật ở thế giới
Ta-bà này, chúng xen tạp là Thật, bởi vì Thật báo
sinh ra; Bồ-tát là
Quyền, bởi vì phương tiện hiện bày. Như kinh nói:
“Các Bồ-tát ấy ẩn
kín vô lượng Lực tự tại của mình…” Hoặc
Bồ-tát là Thật, bởi vì Bồ-tát Địa tiền hãy còn
sinh ở cõi này; chúng xen tạp là Quyền, bởi vì theo

kinh Đại Tập
đều là những Đại Bồ-tát ở phương khác do thích ứng
mà hiện ra. Nếu Đức Phật ở Tịnh độ thì Bồ-tát chỉ có Thật, bởi vì
Thật báo sinh ra; chúng xen tạp
là hóa hiện, bởi vì không phải là thật có.
Nhiếp Luận nói: “Trong cõi Thọ dụng thật
sự không có những chúng
sinh này, bởi vì muốn làm cho Tịnh độ không
trống rỗng, cho nên hóa làm
chúng sinh tạp loại như
vậy. Nếu trong Nhất thừa, Đức Phật ở cõi Hoa
Tạng này thì
Bồ-tát chúng xen tạp, hoặc đều là Thật bởi vì là định
Hải Ấn hiện bày thật đức
thâu nhiếp; hoặc đều là Quyền bởi vì tùy duyên
mà hiện bày. Nghóa còn
lại dựa theo suy nghó.

Trình bày về phần vị. Nếu dựa theo Tam thừa thì Phổ
Hiền… này đều là Bồ-tát Thập Địa trở lên, Thần
vương… kia phần nhiều đều
là tùy loại chúng sinh thâu nhiếp, tức là Địa
thứ tám trở lên. Nếu trong
Nhất thừa thì như ranh giới duyên khởi các phần vị đều như nhau, cho
nên một người có đủ năm phần vị, mỗi phần vị
đều thu nhận tất cả
dựa theo đó.

Biểu thị về pháp. Nếu trong Tam thừa thì chỉ dựa vào người để hiển bày về pháp, vẫn là người chứ không phải là pháp. Nếu trong
Nhất thừa thì những người như vậy đều là pháp môn
Pháp giới duyên khởi. Lại một chúng này vẫn gồm chung ba thế gian, bởi vì hoặc làm thân
quốc độ như nước sông hồ giếng suối…, còn lại có thể biết.

Nhân quả. Nếu Tam thừa thì chỉ là nhân vị. Nếu trong Nhất thừa thì hoặc đều là nhân, bởi vì chưa phải là Phật; hoặc đều là quả, bởi
vì đều là trong Hải Ấn của Phật hiện ra, lại nhờ
vào lực giải thoát mà hòa vào biển Phật; hoặc gồm chung nhân quả, bởi vì hai
nghóa trước;
hoặc đều không phải, bởi vì lìa tánh bình đẳng,
đều nói như trong phần
ca ngợi về đức ở sau.

Hai là giải thích văn kinh. Trong mỗi một chúng đều có bốn
loại viên mãn:
1) Số viên mãn, đó là trước nêu ra số…;
2) Hạnh viên mãn, đó là nêu ra tên gọi…, bởi vì tên gọi dựa vào hạnh mà lập;
3) Đức viên mãn, đó là ca ngợi về đức…;
4) Cúng dường viên mãn, như ba
nghiệp cúng dường… ở sau.

Ở trong chúng
viên mãn này có hai: Trước là trình bày về
chúng bên ngoài,
sau từ “Hải Tuệ…” trở xuống là trình bày về
chúng bên trong. Ngay trong chúng bên ngoài cũng có hai: Trước là nêu ra ba
mươi bốn chúng đầy đủ
ba loại viên mãn trước, sau là thâu nhiếp làm
mười tám chúng để
hiển bày cúng dường viên mãn thứ tư. Hỏi: Trong phần nêu ra trước đây dùng
Phổ Hiền làm đầu
tiên, Ma-hê làm cuối
cùng; sau trong phần phát khởi cúng dường vì sao trái
lại với điều này?

Đáp: Cổ đức
giải thích rằng: Ban đầu từ thấp hướng lên cao, biểu thị cho hành tiến lên thêm
sâu xa; về
sau từ cao hướng
xuống thấp, biểu thị phần vị tôn quý theo thứ tự. Cách giải thích này khó mà
sử dụng, lẽ nào khiến cho
Phổ Hiền là thấp kém nhất hay
sao? Nay giải
thích trước là từ gần hướng về xa, biểu thị dựa vào gốc
sinh khởi ngọn;
sau
từ xa hướng về gần,
trình bày tìm theo ngọn trở về gốc. Bởi vì
gốc-ngọn không hai, xa-gần
không khác, hai văn cùng nêu ra không có
gì chướng ngại.
Ngay trong phần trước có hai: Trước là phân rõ về đồng
sinh
(sinh nhÆ° nhau),
sau là trình bày về dị
sinh
(sinh
khác nhau).
Hoặc dùng Thanh văn là đồng
sinh, Bồ-tát thần… đều là dị sinh. Đây là dựa
theo Tiểu thừa, bởi vì dựa theo tướng trình bày về đồng, như ngồi
giống nhau… Hoặc dùng
Bồ-tát xuất gia và Thanh văn… là đồng, còn lại đều là dị. Đây là dựa theo
Thỉ giáo. Hoặc dùng
Bồ-tát là đồng,
Thanh văn… là dị. Đây là
dựa theo Chung giáo. Hoặc chỉ riêng Bồ-tát Địa thượng
là đồng, bởi vì cùng
chứng pháp tánh, còn lại đều là dị. Hoặc từ Địa thứ tám trở lên là đồng, bởi vì cùng
thuần thục, thuần là vô lậu, hai
loại này gồm chung hai
giáo Thỉ-Chung. Hoặc chỉ riêng Bồ-tát là đồng,
bởi vì nối thông các
phần vị, Thần-trời… là dị, bởi vì là đức riêng biệt
của pháp giới.
Hoặc Bồ-tát, Thần… cùng là đồng, bởi vì pháp
giới không hai. Hoặc cùng là dị, bởi vì pháp giới
sai biệt. Đây là dựa theo
Nhất thừa phân rõ. Thứ nhất,
trong chúng Đồng sinh, một là trong Số viên mãn, Đại
có tám nghóa:
1) Số Đại, đó là mười sát trần…;
2) Đức Đại, đó là bởi vì cùng đầy đủ đức của pháp giới Nhất thừa;
3) Tác nghiệp Đại, đó là bởi vì cứu nỗi khổ vô cùng nặng nề của chúng sinh;
4) Kính Đại, đó là bởi vì Thiên Vương cùng bậc Đại nhân đều cung kính;
5) Thắng Đại, đó là bởi vì thù thắng nhất trong tất cả các chúng;
6) Hạnh Đại, đó là bởi vì tu hạnh Tự lợi-Lợi tha ở sáu phần vị;
7) Nguyện Đại, đó là bởi vì mười loại Đại nguyện, mười Tận cú;
8) Thời Đại, đó là bởi vì ba Vô số kiếp hoặc vô lượng Tăng-kỳ mà tu hành.

Bồ-tát, theo
Phật Địa luận và Vô Tánh Nhiếp Luận…, tổng quát có ba cách
giải thích: Một, nói là Bồ-đề,
Trung Hoa gọi là Giác,
là sự
mong cầu; Tát-đỏa,
Trung Hoa gọi là
Hữu tình, là
sự hóa độ.
Từ cảnh làm tên gọi,
nghóa nói là nếu từ tâm mà gọi thì nên nói là
Bi Trí. Hai, Bồ-đề như
trước, Tát-đỏa là chủ động mong cầu, nghóa là hữu
tình mong cầu Bồ-đề. Đây
là dựa theo nhân-pháp làm tên gọi, cũng là tâm-
cảnh làm
đề mục. Ba,
Bồ-đề như trước,
Tát-đỏa Trung Hoa gọi là
Dũng mãnh, nghóa là có
chí hướng và năng lực, bởi vì dũng mãnh mong
cầu đối với Đại
Bồ-đề. Lại Trí Luận nói: “Tát-đỏa hoặc nói là
Chúng sinh, hoặc nói là Đại tâm.” Tức là hai
nghóa trên.
Cùng (câu), nghóa là
Bồ-tát truyền pháp qua
lại cùng nghe, Như Lai qua lại cùng nói. Lại Trí Luận nói:
“Xứ như nhau, thời như nhau, tâm như nhau, giới như nhau,
kiến như nhau, đạo như nhau, giải thoát như nhau thì gọi là cùng nhau.”
Cọng giống như Câu.

Hai là trong
Hạnh viên mãn. Bồ-tát tên gọi xen tạp có hai ý:
Một là bởi vì hiển bày
về thế giới xen tạp như thô-tế… phía dưới; hai là bởi vì chúng này nối thông phần Tựa của tám Hội,
 đức rộng khắp pháp giới gọi là Phổ, rất thuận với điều hòa thuần thiện gọi là Hiền,
Trí Luận gọi là
Biến Cát. Trong này cùng tên gọi là Phổ, bởi vì đầy đủ khắp nơi
(viên biến). Tiếp tên
gọi là Nguyệt bởi vì đức trong lành (thanh lương).
Tiếp tên gọi là Vương bởi vì đức tự tại. Tiếp tên gọi là Quang bởi vì tác
dụng xóa bỏ bóng tối.
Tiếp bởi vì đức kiên cố, tiếp bởi vì đức một mình
vượt ra, tiếp bởi vì
diễn giáo thanh lương, tiếp bởi vì đức sáng ngời tôn
quý. Trí Luận nói:

“Hỏi: Bồ-tát rất nhiều vì sao nêu ra ít?

Đáp: Bồ-tát
vô lượng nói không thể hết, nếu đều nêu ra thì văn tự khó ghi chép hết.
Lại nữa, Bồ-tát chẳng qua là hai loại, đó là tại
gia- xuất gia, phương
này-phương khác. Tại gia là như Phong-đà-la…, xuất gia là như
Diệu Đức…, phương này là như
Từ Thị…, phương khác
là như Quán Âm… Nếu
nói về hai loại này thì nên biết tất cả đều đã
thâu nhiếp hết.”

Giải thích: Đây là dựa theo thế giới
Ta-bà mà nói, dựa vào
chúng Hoa Tạng như văn có thể biết.
Ba là trong Đức viên mãn có hai: Một là dựa
theo người, hai
là dựa theo pháp.

Trong phần một, bạn là đức như nhau, tức là hiển bày về nhân
quả không hai. Văn này có
hai ý: Một, nêu ra Phật hiển bày về đức, như nói muốn nhìn người ấy trước nên nhìn bạn
của họ…; hai, vì
sao quy tụ
ở đây, bởi vì là
bạn, bởi vì tác thành lẫn nhau. Sách thế gian nói:
“Cùng chí hướng gọi
là bạn.” Trong này, Thiện hữu có ba nghóa: Một là
nghóa về hơn mình, như
Thiện Tài tìm bạn; hai là nghóa về đức như nhau, bởi vì là bạn bè; ba là nghóa về ít kém, bởi vì
Phổ Hiền… gọi là bậc
dẫn dắt thứ hai.
Trong phần hai là dựa theo pháp, một câu đầu là tổng quát, tất
cả Bồ-tát
này thảy đều thành tựu vô biên công đức, sâu rộng như
biển, mười tướng dựa theo đó.

Sau trong riêng biệt phân rõ có hai: Trước
là thành tựu công
đức thuộc Tự phần, sau
từ “Vô thượng trí nguyện…” trở xuống là thành
tựu công đức thắng
tiến. Nhưng hai phần này nói chung có bảy lớp:
1) Dựa theo phần
sinh-thục của một hạnh;
2) Dựa theo hai hạnh, như thực hành bố thí đã thành tựu về
sau tu giới…;
3) Dựa theo Tự lợi-Lợi tha để phân;

4) Dựa vào
hành vị, lấy đạt được phần vị làm thắng tiến;
5) Dựa theo tỷ chứng để phân;
6) Dựa theo hai phần vị, đó là phần vị trước đã
thành là Tự phần, hướng
đến phần vị sau là thắng tiến;
7) Dựa vào nhân
quả, nhân thành tựu là
Tự phần, tiến vào quả là thắng tiến. Nay trong
văn này chủ yếu dựa
vào lớp cuối cùng gồm đủ tất cả có thể biết.
Ngay trong Tự phần thành tựu có chín loại công đức:
1) Thành tựu công đức về hành đầy đủ, đó là không có xứ nào, không có thời nào mà không thấy mười Độ như thực hành bố thí…, cho nên nói là các
Độ chiếu rọi khắp nơi.
2) Thành tựu công đức của Tuệ nhãn, bởi vì nghóa nào khiến cho thực hành Độ này mà được đầy đủ khắp nơi? Bởi vì Tuệ nhãn trong sáng như ba
đời (tế) ấy, mà quán sát như nhau, cho nên nói là Tuệ nhãn…
3) Thành tựu công đức của Định sâu xa, đó là dựa vào đâu đạt được Tuệ nhãn này? Bởi vì dựa vào Định
sâu xa phát
khởi. Trong này có ba nghóa: Một là đối với Định không phân biệt cho
nên nói là Tịnh, Định
phát ra Tuệ thù thắng cho nên nói là Minh; hai là đối với Định thuần thục xuất nhập không ngăn ngại cho nên nói là
Minh Tịnh, như văn sau nói:
Phương Đông tiến vào Chánh thọ, phương
Tây rời khỏi Tam-muội…; ba là nhanh chóng tiến vào nhiều Định khiến cho một thâu nhiếp tất cả, cho nên nói là đầy đủ
Minh Tịnh, văn
sau
nói: Như tiến vào vi trần
số các Tam-muội, một Tam-muội phát sinh
Định như số vi trần. Ba
câu trên đây trình bày về hành Tự lợi.
4) Thành tựu công đức về biện tài vi diệu, đó là khéo léo có thể nói về pháp khó
nói ấy, cho nên gọi là
biện tài, tức là bốn mươi Vô ngại… ở sau, dùng một lời để nói đến tất cả cho nên gọi là rộng, điều đã nói đều
sâu xa cho nên gọi
là sâu,
sâu và rộng này đều không có bến bờ-không có cùng tận
cho nên nói là Vô tận.
5) Thành tựu công đức về chiếu rọi khắp nơi, bởi vì ánh sáng nơi thân công đức của Phật hiện bày rộng khắp chiếu rọi căn cơ chúng sinh.
6) Thành tựu công đức về điều phục hóa độ, đó là khéo léo biết rõ tâm niệm căn khí của chúng sinh, tức là tâm hành rậm rịt như rừng, xứng căn
trao cho pháp, điều hòa khiến cho lìa chướng, làm cho khuất phục để tiến vào pháp, cho nên nói như thích hợp mà điều phục. Ba câu trên đây tức là ba nghiệp thực hành
Hóa tha.
7) Thành tựu công đức của Chân trí, dùng trí Kim Cang chiếu rọi khắp nơi tất
cả cảnh giới sai biệt,
đều cùng một vị pháp tánh bình đẳng.
8) Thành tựu công đức về Lượng trí, dùng Tuệ rộng lớn trình bày về cảnh nhận
biết của trí thông hiểu
sâu xa, không có gì không cùng tận cho nên nói thảy đều thông
suốt rõ ràng. Hai câu trên đây trình bày về đức của trí
soi chiếu hai Đế. Tám câu
trên đây là dựa theo hạnh để hiển bày về đức.

Thành tựu công đức thâu nhiếp phần vị, câu này có hai nghóa: Một là thâu nhiếp các hạnh trước đây đưa vào trong năm phần vị như Tín…; hai
là hễ ở một phần vị thì thâu nhiếp tất cả các
phần vị trước sau.
Nghóa thứ hai này cũng có hai: Một, dựa theo hòa vào
nhau trình bày về
thâu nhiếp; hai, dựa theo tức là nhau trình bày về
thâu nhiếp. Chuẩn xác như
ở mười môn trước đây. Đây là các phần vị
từ Thập Tín đầy đủ tâm trở
đi có nghóa thâu nhiếp lẫn nhau này, vì vậy trong
phẩm Hiền Thủ
sau
này, ở phần vị Tín đầy đủ thì có đủ tất cả
phần vị cho đến quả Phật… ,
chính là nghóa này. Trên đây là Tự phần, xong.

Trong phần hai là thắng tiến nhập quả,
có hai: Một, mười câu đầu trình bày về Thể đức
viên mãn; hai, từ “Biến du…” trở xuống là
sáu câu
hiển bày về diệu dụng tự tại.

Trong phần một là thành tựu mười loại công đức của Phật quả:

Đạt được Phật trí nguyện đức vô thượng, là bởi vì Phật quả
không có gì thêm nữa; Trí là Đại trí, tức là
bốn trí- mười trí…;
Nguyện là Đại nguyện, tức là Nguyện tự Thể không có
chướng ngại; Đại trí đã
thành, Đại nguyện đã đầy đủ, tất cả đều là
hiện nay thành tựu đầy đủ hết rồi, không phải là
sẽ thành tựu cho nên nói là đều đã thành tựu đầy đủ.

Đầy đủ đức Mật giáo của Phật, câu này có hai nghóa: Một là lời
không tận cùng lý gọi là Giáo bí mật, bởi vì
không phải là liễu nghóa; hai là vi diệu khó hiểu không phải là phần vị dưới có thể
suy lường, cho
nên gọi là Mật giáo, bởi vì đều là sâu rộng.
Trong này dựa vào nghóa
sau mà nói. Thế nào là sâu? Đó là bởi vì nói
tức là không nói. Thế nào là rộng? Đó là bởi vì nói mà không nói rộng khắp pháp giới, văn
sau Thu Tử như điếc… chính là nghóa này.
Giáo sâu rộng này chỉ riêng
Phật vốn có, nay Bồ-tát này đầy đủ giống như Phật
cho nên gọi như vậy.

Đạt được đức thuộc pháp của
Phật quả, đó là công đức của quả vị như mười tám
Bất cọng…, hướng xuống dưới đều gọi là
Bất cọng, Phật và Phật hướng về nhau gọi là Cọng pháp,
không phải là cùng với
Bồ-tát cho nên nói là Cọng pháp của Phật.

Cùng đức của quả vị, câu này có bốn nghóa: Một là cùng hạnh như Phật,
 đó là bởi vì hành Đại Bi; hai là cùng địa như Phật, là đạt được Thập Địa của Phật, đó là
Tỳ-lô-giá-na Trí tạng Đại hải địa…; ba là cùng
đức như Phật, là bởi vì đạt được đức
phước trí vô biên của Phật; bốn là
cùng lực như Phật, là bởi vì đạt được mười
Lực, lại đạt được mười loại
Đại lực… nói như phẩm Bất Tư Nghị.

Đức tự tại
của Tam-muội, câu này có hai nghóa: Một là bởi xuất
nhập tự tại, hai là thâu nhiếp nhau tự tại. Năm
câu trên đây là đạt được
đức Tự lợi của Phật.

Đức về cơ cảm hiện hình, đó là cơ cảm rất nhiều cho nên nói là
Sinh hải, thân ứng hiện khắp nơi đầy đủ cho nên nói là Ứng hiện, như
kinh nói: “Thuận theo người dùng thân Phật được
độ thoát liền hiện ra
thân Phật…”

Đức
về tùy hạnh thâu nhiếp chúng sinh, đó là tùy căn hạnh ấy
trao cho pháp môn khiến tăng thêm Chánh hạnh, cho nên nói là
Kiến lập. Câu trước là hiện thân, câu này là thuyết
pháp. Hai câu này là đạt
được đức hóa sinh của Phật.

Đức
về khéo chứng pháp hải, đó là pháp duyên khởi
sâu rộng bao hàm mênh mông như biển, khéo đạt được ranh giới ấy, cho nên nói
là khéo chứng nhập.

Đức
về hồi chuyển hòa vào biển, đó là khéo léo hòa vào môn duyên
khởi Đà-la-ni, khiến cho một thâu nhiếp tất cả, cho nên nói là
Hồi chuyển tổng trì.

Đức
về quả hải chứa đầy thân, đó là bởi vì đối với biển pháp duyên khởi khéo léo
xoay chuyển, khiến cho biển pháp công đức vô
biên của Phật thảy đều thâu nhiếp tiếp nhận
chứa đầy thân mình, cho
nên đều đạt được công đức của Phật quả, ý
là từ đây. Văn sau nói: Bồ- tát tự tại ở trong nhân duyên hòa hợp, cho đến có thể tùy ý thị hiện thân
Phật, là nói đến điều này.

Trong phần hai là diệu dụng tự tại, có sáu:
1) Dụng về dạo khắp các cõi, đây là tận cùng thế giới hải.
2) Dụng về
sinh ra
nguyện hải,
đó là nhờ nguyện lực
này tiến vào quốc độ hải. Lại câu trước là đi qua
cõi Phật khác, câu này
là nguyện trang nghiêm cõi của mình.
3) Dụng
về Tam đạt trọn vẹn
sáng ngời, bởi vì vị lai khó biết cho nên nêu ra riêng biệt, lý thật thì gồm chung cả ba đời, có thể biết.
4) Dụng về trải
qua sá»±
cúng dường.
5) Dụng về nguyện hải
sâu rộng, cho nên nói là
nguyện Phổ Hiền.
6) Dụng
về trí tròn vẹn giáo hóa chúng sinh, cho nên nói
là trí đầy đủ đối
với chúng sinh. Chúng đồng sinh, xong.

Thứ hai, trong chúng
Dị sinh, trước là phân rõ về chúng
Kim Cang Lực Só, gần Phật để bảo vệ, cho nên nêu ra trước. Biểu thị đức của
Phật duyên khởi không
hoại được tướng, bởi vì nơi các hạnh dựa vào như
bờ Kim cang, tức là hạnh
quyến thuộc, chúng khác cũng như vậy.
Tám câu trong phần ca ngợi về
đức: Một là một câu tổng quát trình bày về
bổn nguyện hầu hạ Đức
Phật; hai là bảy câu riêng biệt hiển bày về đức ấy.

Trong phần một, nếu trong giáo Tam thừa, thì
từ Địa thứ tám
trở lên mới có thể
hiện hình hiển bày hầu hạ, trước đây là bí mật bảo
vệ. Trong Nhất thừa, từ
Thập Tín đầy đủ tâm trở đi đều hiển bày bảo
vệ, như sau nói ở hai
phẩm Hiền Thủ-Minh Pháp. Lại nữa, tùy tâm
mong cầu về nghóa là
Nguyện, chí thành muốn phù hợp là Thệ.

Trong phần hai là riêng biệt có hai: Trước
là đức bên trong viên mãn,
sau từ “Vô lượng thần lực…” trở xuống là dụng bên ngoài rộng khắp mọi nơi. Trong phần trước có ba câu: Một là nguyện hạnh đầy đủ; hai là phước trí
thanh tịnh; ba là Đại Định
sâu xa. Trong phần dụng
bên ngoài có bốn câu:
Một là lực giống như quả khắp nơi; hai là
Đại-Tiểu trở lại hòa vào nhau; ba là thân hơn hẳn chúng biểu thị không
sợ
hãi đại chúng; bốn là tùy loại khéo léo hiện bày, đều dựa theo
như phần duyên khởi.

Thứ ba, Thần
đạo tràng, ở dưới cội cây bởi vì gần cho nên thứ tự nêu ra mà thôi. Trong phần ca ngợi về đức
sơ lược nêu ra
nhân trước kia, như
sau nói ở phần Tri thức hồi hướng thứ mười của
Thiện Tài. Lại bảo vệ đạo tràng,
như Bảo Kế… Lại Thần của đạo tràng, đây là Y
chủ thích; hoặc đạo
tràng tức là Thần, là Trì nghiệp thích. Nhất thừa
gồm chung hai cách giải
thích, bởi vì đều là pháp môn. Tam thừa chỉ có
Y chủ thích, bởi vì nhân-pháp đều
riêng biệt. Sau là tên gọi của các
Thần, dựa theo hai cách giải thích.

Thứ tư, Rồng ở trên vốn là nghóa bóng che, cho nên nói là
Nghiêm Pháp Đường. Như
sau nói Phổ Quang Đường do rồng tạo ra… Thứ năm,
Thần đất ở dưới, là nghóa về chuyển vận chuyên
chở, phần nhiều hiện ra
thân nữ, như Kiên Lao…
Thứ sáu,
Thần cây ở giữa, là nghóa về kiến lập, cây đức cao
vời, tình ý vốn ưa thích.

Thứ bảy, Thần thuốc là nghóa về đối trị, thuốc pháp loại trừ
phiền não là Bi môn. Thứ tám,
Thần lúa mè là nghóa về cung cấp duy trì, nuôi
dưỡng nhân dân khiến
cho vui mừng, như Hậu tắc cùng với Xã công…

Thứ chín, Thần sông là nghóa về lưu chuyển tưới thấm.
Trong đức,
Cần là nghóa
về lưu chuyển, Ích là nghóa về tưới thấm. Thứ mười,
Thần biển là nghóa về đầy đủ đức, như mười tướng…
ở văn sau. Trong đức
dùng pháp giống như sự, có thể biết.

Thứ mười một, Thần lửa là nghóa về thành thục, nghóa về
chiếu sáng, nghóa về đốt cháy, nghóa về trừ hết
bóng tối; dựa theo hai
nghóa đầu là thành tựu
hai Nghiêm, hai nghóa sau là diệt trừ hai Chướng.

Thứ mười hai, Thần gió là nghóa về tụ tán, như Phong tai
làm phân tán, Phong luân
duy trì tích tụ… Phân tán phiền não-tích tụ
công đức có thể biết,
lại chính là khiến cho thân chúng sinh không phân
tán, đều là thần lực của gió Lô-xá-na duyên
khởi pháp giới. Lại trong
gió có năm loại:
1- Gió thuộc hơi thở, hơi thở ra vào từ vùng rốn khởi lên.
2- Gió thuộc tiêu hóa, hướng xuống phía dưới làm tiêu hóa thức ăn.
3- Gió thuộc duy trì, khiến
cho người hoạt động khỏe mạnh.
4- Gió thuộc tai họa, khiến cho người trở thành bệnh.
5- Gió thuộc sức lực, người sắp chết thì các bộ phận của thân người rời rã. Mặt người sắp chết có
năm sắc gió: Vào địa ngục là
sắc đen, loài
súc
sinh là
sắc xanh, loài ngạ quỷ là
sắc vàng, đều theo lưỡi mà ra,
sinh vào loài người thì
sắc mặt
như thường, sinh cõi trời
thì sắc mặt tươi như hoa, rất rạng rỡ đáng yêu.

Thứ mười ba, Thần hư không thì có bảy nghóa:
1) Không có giới hạn;
2) Không có ngăn ngại;
3) Chỉ là một vị;
4) Thâu nhiếp chứa đựng;
5) Biểu hiện rõ ràng;
6) Lìa xa nhiễm ô;
7) Kiên cố. Trong năm tên gọi trước dựa theo làm
sáng tỏ trong hai đức sau.

Thứ mười bốn, Thần chủ phương là nghóa về biểu hiện rõ ràng,
đó là biểu hiện rõ
ràng phương hướng khiến cho thông hiểu mê hướng
về chánh, cho nên nói là
khéo léo soi chiếu, soi chiếu giống như bày rõ.

Thứ mười lăm, Thần chủ đêm là nghóa về giúp cho thành tựu,
bởi vì không phải là
thời gian chính, hoặc là trong đêm tối dẫn dắt
chúng sinh, như Dạ Thiên… ở văn sau.

Thứ mười sáu, Thần chủ ngày là nghóa về đích thực tu tập, bởi
vì là thời gian chính, cho
nên nói là tin tưởng vui với Chánh pháp; lại
là nghóa về tô điểm
sáng ngời, cho nên nói là trang nghiêm.

Thứ mười bảy,
A-tu-la mới gọi
là A-tố-lạc.
Theo Bà-sa luận gọi
là Phi Thiên, Phật Địa luận nói: “Thuộc về loài Trời, bởi vì phần nhiều là dối trá không có thật hạnh của loài trời cho nên gọi là
Phi Thiên, như
ác hạnh ở thế gian gọi
là Phi Nhân, hoặc gọi là Phi đoan chánh, hoặc
gọi là Bất tửu, ở
trong biển lớn làm rượu không thành…”
Hoặc nói là mẹ của Tỳ-ma vốn từ trời
sinh ra, cho nên nói là
Liệt Thiên. Kinh A-hàm
nói: “Lúc kiếp mới thành, trời Quang Âm đến tắm
gá»™i trong
biển, nước chạm vào thân thể, xuất tinh trong nước, liền
trở thành cục thịt. Trải
qua tám ngàn năm mới sinh ra một người nữ,
thân như Tu-di, có chín trăm chín mươi chín cái đầu, đầu có ngàn mắt,
có chín trăm chín mươi
chín lỗ miệng, miệng có bốn chiếc răng, trên
răng phát ra lửa, giống
như sấm chớp, hai mươi bốn tay, chín trăm chín
mươi chín cái chân, bơi
ở trong biển đùa nước, tinh vào thân sinh ra một cục thịt. Trải qua tám ngàn năm
sinh ra
Tỳ-ma Chất-đa, thân có
ngàn cái đầu, đầu có ngàn mắt, trong miệng phun ra nước, có chín trăm
chín mươi chín cánh tay,
có tám cái chân, hình dạng gấp bốn lần núi
Tu-di, ăn toàn bùn lắng và
ngó sen”. Lại thường tranh chấp với chư
Thiên, rộng ra như kinh Chánh Niệm Xứ nói.

Nhưng Tu-la có năm trú xứ:
1) Trong những tướng núi trên mặt đất, như văn sau nói.
2) Dưới phía Bắc núi Tu-di đi vào biển lớn hai vạn một
ngàn Do-tuần, vua Tu-la tên
gọi La-hầu,
Trung Hoa nói là
Chướng Ngại, có thể
dùng tay che kín mặt trời-mặt trăng… thống lãnh vô lượng chúng.
3) Từ đây xuống phía dưới lại vượt qua hai vạn một ngàn
Do- tuần, vua tên gọi Dũng
Kiện, cũng thống lãnh nhiều chúng.
4) Lại vượt qua hai vạn một ngàn Do-tuần, vua tên gọi Hoa Man, cũng thống
lãnh các chúng.
5) Lại vượt qua số này, vua tên gọi Tỳ-ma Chất-đa, Trung Hoa nói là Hưởng Cao, là cha của Xá-chi, thân như năm núi Tu-di,
lúc đánh nhau với chư
Thiên, từ đáy biển phát ra tiếng lớn nói rằng:
Ta là Tỳ-ma Chất-đa, Ta là
Tỳ-ma Chất-đa. Lúc ấy núi non ở
Diêm-phù cùng lúc chấn động, cũng gọi là
Huyệt Cư, nghóa là trong chỗ ấy có khu
thành Quang Minh, vốn là ở trong đó.
Hoặc là thuộc về loài Trời, như Phật Địa luận nói ở trên.
Hoặc theo Tỳ-đàm thì
thuộc về loài quỷ, bởi vì nịnh bợ sai trái mà che lấp. Hoặc theo kinh Chánh
Pháp Niệm thì thuộc về loài quỷ và
súc sinh,
bởi vì La-hầu là con của
Sư Tử… Hoặc theo kinh Già Đà thì thuộc về
loài trời-quỷ và súc
sinh. Bởi vì như trên đã nói, cho nên chỉ có năm
đường. Nếu phân ra sáu
đường thì ba phẩm Thượng-Trung-Hạ trong thiện có đủ trời-người và Tu-la, ba phẩm trong ác có đủ ba nẽo dưới, có thể
biết. Theo Trí Luận thì
La-hầu vua của A-tu-la là Đại Bồ-tát.

Thứ mười tám, Ca-lưu-la mới gọi là Yết-lộ-trà, Trung Hoa nói là loài chim
Diệu Sí, cánh chim có các loại màu
sắc quý báu trang
nghiêm, không phải là chỉ
sắc vàng. Theo kinh Hải Long Vương, hai cánh
của chim ấy cách nhau ba
trăm ba mươi sáu vạn dặm, cõi Diêm-phù-đề chỉ chứa được một chân.
Theo kinh Niết-bàn, chim này có thể ăn tất cả các loài rồng-cá và bảy báu…, chỉ trừ ra
Kim cang, bởi vì không có thể làm
cho tiêu được.
Lại ăn rồng sắp mạng chung. Lại người quá khứ đã thọ Tam quy thì không ăn, người buộc
sợi chỉ của
Ca-sa cũng không
ăn. Lại theo kinh Tăng
Nhất: «Trong bốn loại sinh thì Kim Sí nếu là
chim sinh ra từ trứng, từ
dưới cây Thiết-xoa đi vào biển bắt lấy rồng sinh
ra từ trứng, nước hãy còn chưa khép lại đã về đến trên cây ban đầu mà ăn. Nếu nhắm đến rồng
sinh ra từ thai thì thân chim liền chết.
Nếu chim sinh ra từ thai thì có thể bắt lấy rồng
sinh ra từ thai và trứng, hai
loại còn lại thì không
được. Nếu chim sinh ra từ ẩm thấp thì có thể bắt
lấy rồng thuộc ba loại
sinh, không được bắt rồng sinh ra từ biến hóa.
Nếu chim sinh ra từ biến
hóa thì có thể bắt lấy rồng thuộc bốn loại sinh.
Lại một ngày khác ăn một Đại
Long Vương và năm trăm rồng nhỏ, vòng đi vòng lại quanh Tứ thiên hạ lần lượt mà ăn. Khi mạng
sắp chấm dứt,
các rồng nhả độc không
còn có thể ăn được, do lửa đói thiêu đốt chim
vút cánh lao xuống ranh
giới của tầng Phong luân, bị gió thổi trở về lại
nơi bắt đầu, qua lại bảy lần không có chỗ dừng chân, liền đến trên đỉnh
núi ở tầng Kim Cang luân
mà chết. Bởi vì ăn các rồng, khí độc trong thân thịt phát ra lửa tự đốt.
Long Vương Nan-đà sợ cháy núi báu nên
tuôn mưa xuống dập tắt
lửa, hạt mưa lớn bằng trục xe làm cho thân thịt tiêu tan, chỉ có quả tim còn lại, lớn bằng bắp đùi con người, thuần
sắc lưu
ly xanh, Luân Vương có
được dùng làm ngọc châu quý báu, Đế Thích
có được làm hạt ngọc
trong búi tóc”. Lại văn sau nói rằng : Bồ-tát Kim Sí Vương, trong biển rộng
sinh tử, bắt
lấy trời-người-rồng, đặt lên bờ
Niết- bàn, là nói đến điều này.

Thứ mười chín, Khẩn-na-la mới gọi là Khẩn-nại-lạc. Trung Hoa nói là
Ca Thần, có thể xướng ca-ngâm
vịnh-trỗi nhạc, tạp tâm thâu nhiếp vào loài
súc sinh; cũng gọi là
Nghi Thần, nghóa là thâu
nhiếp trong loài súc sinh
này, hình dáng tướng mạo tựa như người, khuôn mặt rất
đoan chánh, trên đỉnh đầu có
một sừng, người thấy
sinh lòng
nghi ngờ, không biết là
người, là quỷ hay là súc sinh, cho nên nói là Nghi.

Thứ hai mươi,
Ma-hầu-la-già mới gọi
là Mạc-hô-lạc-ca,
Trung Hoa dịch là Đại Phúc, cũng gọi là Đại Mãng, lại gọi là
Phúc Hành Thần, bởi vì có
thể hộ pháp, có thể trừ nghi ngờ.

Thứ hai mươi
mốt, Cưu-bàn-trà. Theo kinh Chánh Pháp Hoa gọi là
Yếm Mị quỷ, ăn tinh khí của người… Cũng gọi là Đông
Qua quỷ, vua tên
là Tỳ-lâu-lặc,
Trung Hoa nói là
Tăng Trưởng, chủ của phương
Nam này, Thiên Vương thống
lãnh hai bộ quỷ: Một gọi là Cưu-bàn-trà,
hai gọi là Bế-lệ-đa, từ
sự thống lãnh làm thành tên gọi.

Thứ hai mươi
hai, Quỷ thần vương là Tỳ-sa-môn ở phương Bắc,

Trung Hoa nói
là Đa Văn, cũng là do sự thống lãnh làm thành tên
gọi, bởi vì thâu nhiếp
các ác qủy không để cho tổn hại não loạn đến
chúng sinh, cho nên nói là Cần Hộ.

Thứ hai mươi
ba, Nguyệt là nghóa về trong lành, như văn sau nói Bồ-tát thanh
lương nguyệt…; hai là nghóa về tỏa ra, như hoa
sen nở ra…, chính là như văn phát tâm quý báu… Lại theo
Câu Xá luận: “Mặt trăng cách mặt đất bốn
vạn Do-tuần, rộng năm mươi Do-tuần, dùng thủy tinh và bạc trắng hợp lại làm thành hai mặt, xoay chuyển theo nhau cho
nên có tròn khuyết”.
Theo kinh Trường A Hàm: “Khu thành ấy vuông
vức một ngàn chín trăm
sáu mươi dặm, cao cũng như vậy; có hai phần, một
phần làm bằng vàng cõi trời, một phần làm bằng
lưu ly, tòa của vua là hai mươi dặm, nhìn từ xa tựa như tròn, tuổi thọ của trời là năm trăm
tuổi, con cháu nối tiếp
theo nhau một kiếp”.

Thứ hai mươi
bốn, Nhật là mặt trời rộng năm mươi mốt
Do-tuần, khu thành ấy vuông vức hai ngàn bốn mươi dặm, cao cũng như
vậy. Cung thành trang sức
hoàn toàn bằng vàng và bảy báu, tòa của vua
là hai mươi dặm, thọ
mạng và con cháu giống như Nguyệt Thiên. Bởi
vì gió duy trì cho nên
vòng quanh bốn phía của núi Tu-di.
Thiên tử
Nhật-Nguyệt trên đây cùng là trái-phải của
Tứ Thiên Vương thuộc về cõi
Trời thứ nhất, đều là đạo lực tùy duyên hình
thể khác nhau hiện bày
kỳ lạ. Trong đức, câu đầu là Tự lợi, câu sau
là Lợi tha. Như mặt trời có nghóa về thành tựu, có nghóa về nhiêu ích.
Lại theo Bảo
Tánh luận: “Mặt trời có bốn nghóa:
1) Phá trừ bóng tối như Tuệ;
2) Chiếu rọi hiện rõ như Trí;
3) Tròn vẹn thanh tịnh như giải thoát;
4) Ba nghóa trên không lìa xa nhau giống như cùng pháp giới”. Thứ hai mươi lăm, Đao
Lợi thiên, Trung Hoa nói là
Tam Thập Tam Thiên. Tam Thập
Tam Thiên, trong Phật Địa luận quyển thứ năm nói: “Bốn phía núi
Diệu Cao đều có tám Đại
Thiên Vương, Đế
Thích ở chính giữa cho nên có
ba mươi ba”. Nếu đầy đủ thì nên nói là
Thích-ca Đề-bà
Nhân-đà-la, Trung Hoa nói là Năng Thiên Chủ. Theo kinh Tam Pháp Độ: : “Thiên
Tử trong cõi này thân cao một Do-tuần, áo dài
hai Do-tuần, rộng một
Do-tuần, nặng sáu Thù, thọ một ngàn tuổi”.
Trong đức đầy đủ Tự
lợi-Lợi tha, có thể biết.
Thứ hai
mươi sáu,
Dạ Ma thiên, Trung Hoa nói là
Thời Thiên, theo lúc hoa nở-khép để phân biệt ngày đêm mà gọi tên. Phật Địa
Luận nói: “Đó là trong
này thường xuyên thọ nhận vui sướng cho nên gọi
là Thời Phần, trời cõi
này thân cao hai Do-tuần, áo dài bốn Do-tuần,
rộng hai Do-tuần, áo nặng
ba Thù, thọ hai ngàn tuổi”. Trong đức là Tự phần
và thắng
tiến, có thể biết.
Thứ hai mươi bảy, Đâu
Suất thiên, mới gọi
là Đổ-sử-đa,
Trung Hoa nói là
Hỷ Túc. Phật Địa luận nói: “Thân cuối cùng của
Bồ-tát giáo hóa ở cõi trời ấy, phần nhiều tu hạnh hỷ túc cho nên nói là
Hỷ Túc”. Theo kinh Trường
A Hàm: “Thân cao
bốn Do-tuần, áo dài
tám Do-tuần, rộng
bốn Do-tuần, áo nặng một Thù, Ngọ ăn cam lồ, thọ bốn
ngàn tuổi”. Trong đức
là Tuệ và Định, có thể biết.

Thứ hai mươi
tám, Hóa Lạc thiên, Phật Địa luận gọi là Lạc
Biến Hóa thiên, thích tự
mình biến hóa làm ra các nhạc cụ để tự tiêu
khiển. Lại tự hóa ra
nhạc cụ, trở lại tự mình thọ dụng không phạm đến
người khác, cho nên gọi
là Thiện Hóa, cũng gọi là Hóa Lạc. Theo kinh Tam Pháp Độ: “Thân cao
tám Do-tuần, áo dài mười sáu Do-tuần, rộng
tám Do-tuần, áo nặng một
Thù, ăn cam lồ, thọ tám ngàn tuổi.” Trong
đức có đủ Tự lợi-Lợi tha.
Thứ hai mươi chín,
Tha Hóa Tự Tại thiên, trong Phật Địa
luận, khiến cho người khác hóa làm các nhạc cụ, hiển bày về tự tại của mình cho nên gọi tên.
Theo kinh Tam
Pháp Độ, thân-áo và thọ mạng
dựa theo đó hơn trước
gấp bội. Trong đức là tự tại tiến vào pháp.

Thứ ba mươi, Đại
Phạm thiên, mới gọi là
Ly Dục Nhiễm, cao nhất trong Tịnh cho nên gọi là
Ly Dục. Phật Địa luận nói là lìa dục vắng lặng cho nên gọi là Phạm, thân ấy là chúng.
Theo kinh Trường
A Hàm, ở trong Phạm Chúng dùng
Phạm Âm nói năng cho nên gọi tên. Thiên
là nghóa về tự tại,
nghóa về tươi sáng, nghóa về thanh tịnh. Theo Trí
Luận: “Thiên có là
Phật Bồ-tát đều là Đệ nhất nghóa thiên”. Thi Khí,
Trung Hoa nói là Hỏa Sắc,
hoặc nói là Hỏa Đảnh, bởi vì hỏa tai đến được cõi này. Nếu tu thiền bậc Thượng thì
sinh đến cõi trời này. Ở giữa
Phạm Chúng phát ra Phạm
Âm lớn, các trời đều tự cho là chỉ nói với mình,
ở Đại thiên thế giới
được tự tại nhất, nhan sắc như Đồng tử, thân
sắc
bạc trắng, cao nửa
Do-tuần, mặc áo sắc vàng, không phải nam-không
phải nữ, thiền duyệt
làm thức ăn, thọ một kiếp. Đây là theo Trường A
Hàm phân rõ. Trong đức
có bốn câu:
1) Lấy gì để độ;
2) Độ điều gì;
3) Trừ điều gì;
4) Thành tựu đức gì. Như văn có thể biết. Sơ thiền Đại-Tiểu đều ở một ngàn thế giới hệ (Tứ thiên hạ) thuộc cõi Dục, một ngàn
Sơ thiền mới bằng Nhị thiền. Nhị thiền là đỉnh cao của
Hỏa tai, một ngàn Nhị thiền mới bằng
Tam thiền. Tam thiền là
đỉnh cao của Thủy tai, một
ngàn Tam thiền mới bằng Tứ thiền, Tứ thiền
là đỉnh cao của Phong tai.
Lại nữa, Phạm Ma, Trung Hoa nói là Tịch
Tịnh Thanh Tịnh Khiết, cũng đều có thể nói là
Phạm Khiết. Lại nữa, Thi Khí là đứng
đầu Sơ thiền đỉnh cao của Hỏa tai. Lại nói là Trì Kế… Thứ ba mươi mốt,
Quang Âm thiên, theo
Trí Luận: “Thiền thứ
hai gọi chung là Quang Âm,
lúc trời ấy nói, miệng phát ra ánh sáng
thanh tịnh vô biên, thân
cao hai Do-tuần, thọ hai kiếp. Lại vì Sơ thiền phát ra âm thanh
Hỏa Quang, dẫn dắt thâu nhiếp khiến cho
sinh đến cõi
trời này cho nên gọi
tên. Trong đức là Tuệ và Định, có thể biết.
Thứ ba mươi hai,
Biến Tịnh thiên, bởi vì lìa xa
Hỷ trong Tam thiền, thân tâm đều
thanh tịnh.
Theo kinh Trường
A Hàm, dùng
phương tiện bậc Thượng
sinh đến cõi trời này, Thiên Vương tên gọi Tịnh
Trí, bốn cánh tay nắm Phong luân cưỡi chim cánh
vàng(Kim Sí).
Trong đức, bởi vì đây là
phần vị của niềm vui (Lạc), khiến cho đạt được niềm
vui mở rộng của Chân tánh.

Thứ ba mươi ba, Quả Thật thiên, bởi vì Thiền thứ tư là thù
thắng nhất trong quả Thiện
của thế gian, cũng gọi là Quảng Quả. Trong
đức, bởi vì là phần
vị Bất động cho nên tiến vào tánh vắng lặng.
Thứ ba mươi bốn,
Ma-hê Thủ-la thiên, theo
Trí Luận: «Trung
Hoa nói là Đại Tự Tại
Thiên, có tám cánh tay, ba mắt cưỡi trâu trắng lớn, biết
số giọt mưa trong Đại thiên thế giới, bởi vì ở trong Đại thiên thế giới vô cùng tự tại, lại không có gì hơn được cho nên lập ra tên
gọi.» Lại theo Trí Luận
quyển thứ nhất nói: “Thiền thứ tư có tám loại, năm loại là trú xứ
của A-na-hàm, là
Tịnh Cư; ba loại là phàm Thánh cùng
cư trú, vượt qua tám nơi
có trú xứ của Bồ-tát Thập Trú, cũng gọi là
Tịnh Cư, hiệu Đại Tự
Tại Thiên Vương. Vì vậy nên biết, tên gọi Tịnh Cư
có bốn loại:
1) Dựa theo báo
thuần tịnh, đây là gồm chung phàm Thánh ;
2) Dựa theo đức vượt
qua phàm, ở đây chỉ có bậc A-na-hàm;
3) Dựa theo nhân, như nói có
Bồ-tát Thập Trú, Bồ-tát Thập Trú tức là
Thập Địa, trong Thập Địa là
quả báo của Địa thứ mười thâu nhiếp ;
4) Dựa theo quả, nghóa là trong này có
Báo thân-Tịnh độ… trong
Tam thừa, cho nên lập ra tên gọi này”. Lại dựa theo
Trí Luận, ngoài tám cõi trời lại có
trời riêng biệt của Bồ-tát Thập Trú.

Ba là ca ngợi
về đức, văn này có hai cách giải thích:
1) Chỉ hiển bày về đức của chúng này;
2) Gồm chung phân rõ về đức của chúng Dị sinh trước đây.
Lại tức là giải thích về điều nghi ngờ, nghi ngờ rằng trước đây
Phổ Hiền cùng sinh, cùng ở trong biển quả, chúng
Dị sinh
này đã là tạp loại
thấp kém cuối cùng, vì sao cũng thâu nhiếp ở trong
biển quả? Giải thích như
trong văn. Hai câu đầu tổng quát nêu ra, nghóa là bên trong tu lìa tướng, bên ngoài dự vào phẩm loại thù thắng ở
trong biển quả duyên khởi.

Sau là trong riêng biệt phân rõ có hai: Đầu
là nêu ra đức ấy,
sau từ “Sở dó…” trở xuống là giải thích về cùng chung biển quả.
Trong phần đầu có hai: Một
câu đầu là bên ngoài giáo hóa rộng khắp, tiếp là đức bên trong đầy đủ. Trong đầy đủ có bốn: Một là ba nghiệp thù thắng; hai là cùng
Thừa với Phật; ba là Đoạn đức lìa nhiễm; bốn là
chiếu sáng nguồn Chân.

Trong phần một: Một, thân thành tựu
diệu sắc; hai, ý
khéo an trụ; ba, lời lẽ biện giải không
nghiêng lệch. Trong này đầu là rời xa không có thể nói, cho nên đối với chúng không
nghiêng lệch;
sau là
rời xa không có thể
đáp, cho nên khó không có gì có thể làm hỏng. Sở
dó có đủ ba nghiệp thù
thắng này, là bởi vì Thừa của Phật thường hiện
rõ trước mắt. Sở dó Thừa của Phật có thể hiện rõ trước mắt, là bởi vì rời
xa hai chướng. Sở dó được rời xa hai
chướng này, là bởi vì nhìn thấy
duyên thù thắng, cho nên tiến vào biển Phật. Đây tức là dùng
sau để giải
thích trước. Lại có
nghóa lấy trước để giải thích sau, nghóa là bởi vì có đủ
ba nghiệp thù thắng này,
cho nên Thừa của Phật hiện rõ trước mắt.
Thừa của Phật hiện rõ
trước mắt, cho nên được rời xa hai chướng. Rời xa
hai chướng cho nên được
thấy thân pháp giới của Phật, vì vậy được ở
trong số chúng. Bởi vì
nếu vốn có chướng ngại thì nhìn mặt trời hãy còn mất đi ánh mắt, huống gì có thể thấy Phật, như
sau nói giống như
người mù… Lại trong
Đoạn đức có hai câu, câu đầu là chủng tử tập khí
hoàn toàn diệt mất, câu
sau là Chánh sử loại trừ đã lâu, văn có thể thấy.

Trong giải thích về cùng chung (đồng) có hai: Một là quả có thể thâu
nhiếp nhân, hai là nhân có thể tiến vào quả. Trong phần
một có hai: Trước là đưa ra, tiếp là
giải thích. Ý đưa ra vì
sao chúng này cùng
ở trong biển Phật? Ý
giải thích là bởi vì Phật thành tựu chúng ấy cho
nên không sai khác. Trong
đó có ba:
1) Nêu ra Phật làm duyên của hạnh;

2) Từ “Chủng chủng nhân duyên…” trở xuống là trình bày về dựa vào duyên thành tựu hạnh;
3) Từ “Các tùy…” trở xuống là kết luận hạnh thuộc về duyên.

Trong phần một có ba câu: Một
là thời gian trước kia; hai là công
hạnh trước kia; ba là vì chúng sinh quy tụ thiện căn.
Trong phần hai là thành tựu hạnh có năm câu: Một là một câu khiến cho đạt được phần vị
Tam Hiền; hai là một câu về chứng phần
vị của Địa; ba từ “Đãi đắc…” trở xuống là trình bày về phần vị Địa thứ
tám trở lên; bốn từ
“Giai tất…” trở xuống là thành tựu phần vị
Pháp Vân; năm đầy đủ là
kết luận tổng quát.
Trong phần ba là kết luận hạnh thuộc về duyên: Một là đều tùy

theo đạt được
phát ra kết thành hạnh, đều do… là thuộc về duyên,
cho nên ở trong biển quả.
Hai là nhân có thể tiến vào quả, nghóa là nương theo giải thoát… tức là vốn thuận theo nhân tiến vào quả, vốn thuận theo riêng biệt tiến vào tổng quát, vốn thuận theo cửa tiến vào
biển; như mười loại
giải thoát-chín đời tức là nhau trong văn sau, thuận
theo lực này cho nên đạt
được nhân quả viên dung cùng một thời gian
(tế). Vì vậy đối với
pháp môn trong biển quả của Phật đều được tự tại.
Văn sau ca ngợi về pháp môn tức là
sự việc ấy.
Nếu Tam thừa thì
không được như vậy,
bởi vì sự việc khác, bởi vì thầy trò riêng biệt.
Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ hai: Cúng dường viên
mãn. Trong phần từ xa
hướng đến gần phân rõ về mười tám chúng, trong
ba mươi bốn chúng trước
đây, ở trong Tứ Thiên sơ lược nêu ra
Nam-Bắc, nêu ra đầy đủ
các Thần. Nay trong phần phát khởi cúng dường này
từ Thần đạo tràng đến
Ma-hầu-la-già, tóm lược mười tám chúng này hiển bày đầy đủ về
Tứ Vương, vì
sao như vậy?
Giải thích rằng: Bởi vì
rồng… trước đây thuộc về phương
Tây thâu nhiếp, các loại khác phần nhiều
do phương Đông thâu
nhiếp, bởi vì hai loại này đã thống lãnh nhiều, cho nên phân vua thuận
theo chúng, lược qua hai Vương ấy hiển bày đầy
đủ mười tám chúng. Nay
ở đây muốn trình bày về vị Thượng thủ ca
ngợi Đức Phật, thâu
nhiếp chúng thuận theo Vương, Đông-Tây thâu
nhiếp toàn bộ, cho nên
lược qua mười tám chúng ấy nêu ra thêm hai
Vương, bởi vì đã thống
lãnh Nam-Bắc, trong văn không mở rộng-không
giống như Đông-Tây, cho
nên không có khai-hợp. Vì vậy trong ba mươi
bốn chúng lược qua mười
tám chỉ có mười sáu, lại thêm vào hai Vương cho nên thành ra mười tám. Trong đó trước thì trước
giống-sau khác, nay
lại trước khác sau
giống, vì sao như vậy? Nghóa là trước biểu thị dựa vào gốc phát khởi ngọn, nay trình bày thâu nhiếp ngọn quy về gốc.
Lại trong Dị sinh, trước thì
trước thua kém-sau thù thắng, nay lại trước thù
thắng- sau thua kém, vì
sao như vậy? Nghóa là trước biểu thị về pháp thêm
sâu xa, nay hiển bày về
thứ tự phần vị cao quý. Lại giải thích: Những điều này đều hiển bày về pháp giới duyên khởi nghịch thuận tự tại không có gì chướng ngại tổng hợp làm thành chúng của một Đại pháp
giới, cho nên đưa ra cách
nói như vậy. Đã nói phát khởi cúng dường, vì
sao không nêu ra các
sự cúng dường?
Giải thích: Sự cúng dường không
phải là kỳ lạ không đủ
để hiển bày thù thắng. Trong kinh nói: “Cúng dường pháp là bậc nhất trong các
sá»±
cúng dường”. Vì vậy chỉ hiển bày về cúng dường pháp mà thôi. Nếu như vậy thì vì
sao ở văn
sau Hải Tuệ và
chúng mới quy tụ đều
nêu ra sự việc cúng dường? Giải thích: Hải Tuệ và các
chúng từ trong chỗ ngồi bước ra, lại
sắp xếp
sự việc cúng dường là hiển bày về kỳ lạ, bởi vì chúng khách ở phương khác đều từ quốc độ của mình
sắp xếp
sự việc cúng dường ấy, không giống như chúng
thường đi theo ở cõi
này. Như Đức Phật Thích-ca lấy Xá-lợi-phất… làm
chúng thường đi theo, chỉ lấy
sự tu hành giáo hóa người làm pháp cúng dường, lại cũng không phân rõ về những
sự việc cúng
dường khác; thân
Lô- xá-na này quyến thuộc cũng như vậy. Trong đó đều tiến vào pháp môn, thấu hiểu tự tại là ý nghiệp
cúng dường, nói kệ ca ngợi Đức Phật là
ngữ nghiệp cúng dường,
ở trong Hội cung kính là thân nghiệp cúng dường. Lại luận về pháp cúng dường thì có hai loại:
1) Thuận theo giáo tu hành, đạt được pháp tự tại;
2) Ca ngợi biểu hiện về pháp giáo hóa truyền bá thông suốt. Nay ba nghiệp này có đủ hai hạnh ấy.
Trong văn có hai: Một, có
một câu tổng quát nêu ra, cho nên nói đều đối với pháp môn của Phật mà được
tự tại. Sau, trong riêng
biệt phân rõ có hai: Một
là mười bảy chúng đều một pháp môn tự tại, phân tổng quát thành riêng biệt gọi là
Dị sinh;
sau là
Phổ Hiền một
người gồm tất cả pháp
môn tự tại, thâu nhiếp riêng biệt thành tổng quát,
bao gồm khác nhau quy về
rộng khắp gọi là Đồng sinh. Vì thế cho nên
hai chúng cùng một duyên
khởi, nên suy nghó điều này.

Mười tám chúng trong văn tức là mười tám đoạn, mỗi một đoạn đều có hai: Trước là trường hàng về đạt được pháp, là nêu ra theo thứ
tự của người kết tập
kinh tạng; sau là kệ tụng ca ngợi, là văn lúc bấy giờ. Ngay trong chúng Thủ-la thứ nhất trong mười chúng Trời đạt được pháp: Một, trình bày
về Thể-Dụng.
Trong Thể, pháp giới là
cảnh Không,
vắng lặng là Chứng.
Trong Dụng, phương tiện là khéo léo thích
ứng với cơ; quang minh là
soi chiếu giác ngộ thành tựu lợi ích; pháp môn là pháp có ba nghóa, đó là tự tánh-quỹ tắc và đối trí; môn có bốn nghóa:

Nghóa về nêu ra riêng biệt, như môn này không phải là những môn
kia;
2) Nghóa về trí thông suốt thường xuyên tiến vào;
3) Nghóa về tiếp nhận hòa vào, tất cả hòa vào một lấy một làm môn;
4) Nghóa về đưa ra thông suốt, bởi vì ở trong một môn có thể đưa ra tất cả không cùng tận. Pháp này tức là môn, là Trì nghiệp thích; pháp
giới hư không… tức là pháp môn, cũng là
Trì nghiệp. Các môn
sau đều dựa theo đây biết được. Những loại này đều là pháp môn
sai biệt trong cảnh giới Phật của
pháp giới duyên khởi.

Nhưng các chúng này đều thấu suốt một môn tiến vào trong biển Phật, thuộc về đức riêng biệt của Phật, cho nên gọi là tự tại. Lại đối với
một môn này thâu nhiếp tất cả các môn, bởi vì tác dụng vô tận cho
nên gọi là tự tại. Sau
đều dựa theo như vậy. Hai, tất cả các pháp là cảnh, dạo qua khắp nơi là trí. Lại đầu
là giáo-sau là nghóa,
tụng còn lại giải thích sau. Ba, không
sinh diệt là
Pháp thân, phương tiện là
Sắc thân. Lại đầu là chứng đạo,
sau là giáo đạo. Lại không
sinh diệt thì có
mười nghóa:
1) Lý chân thật lìa tướng hữu vi, vốn là không sinh không diệt.

Không phải là hữu vi cho nên
không sinh, là vô vi cho nên
không diệt.
3) Không giữ lấy tánh cho nên không sinh, không thay đổi tánh cho nên không diệt.
4) Không biến đổi cho nên không sinh, tùy duyên
cho nên không diệt (trên đây là dựa theo Viên
thành).
5) Duyên khởi
không có tánh cho nên không sinh, duyên khởi không mất đi cho nên
không diệt.
6) Duyên khởi không mất đi cho nên
không sinh, bởi vì
lý tánh không hiện rõ; duyên khởi không có tánh
cho nên không diệt,
bởi vì lý tánh hiển bày.
7) Bởi vì duyên khởi
cho nên không thể chọn
lấy sinh diệt (trên đây là dựa theo Y tha).
8) Bởi vì tình chấp vô lý cho nên không có gì có thể sinh diệt.
9) Sở chấp cho nên không sinh, là cảnh của quán Vô tướng cho nên không diệt (trên đây là dựa theo
sở
chấp). Trên đây là dựa theo cảnh, phương tiện là
đối với căn cơ khéo léo hiện bày về các đạo lý trên.

10) Không trú vào thế gian cho nên không sinh, không giống như phàm phu; không trú vào Niết-bàn cho nên không diệt, không giống như Nhị thừa. Bởi vì
không sinh cho nên
có phương tiện, không trú vào Niết-bàn; bởi vì
không diệt cho nên có
phương tiện, không trú vào thế gian. Nếu không như vậy thì khác phàm phu
sẽ giống với
Tiểu thừa, khác Tiểu thừa
sẽ giống với phàm phu,
bởi vì phương tiện cho nên có thể khác với cả
hai. Mười nghóa trên đây
tổng-biệt không hai, dùng sáu tướng dung hòa trọn
vẹn, suy nghó dựa theo đó.

Bốn, trí khéo
léo vốn sâu rộng khó lường, ánh sáng vốn là trừ
bỏ bóng tối, thường
xuyên di động là tiến lên từng bước. Năm, dựa vào thiền
Phổ Môn cho nên nói là tất cả, bởi vì thấy được lý pháp giới của Phật, bởi vì diệt trừ phiền não mê hoặc,
sinh
khởi vô lượng niềm vui. Sáu, phần nhiễm ô đáng
sợ cho nên chuyển
sang trừ diệt, phần thanh tịnh vắng lặng cho nên chuyển
sang hiện rõ, thường xuyên
di động là chứng.

Bảy, cảnh giới là phạm vi, bởi vì hóa dụng khắp nơi; không
khởi là không làm, bởi
vì dụng mà luôn luôn vắng lặng.

Tám, diệu sắc vốn là ba đời, nhưng đức của Phật ứng với cơ
mà không có gì qua lại.

Chín, lý chân
thật vắng lặng là cảnh sở duyên của Phật. Mười, Phật có nhiều phương tiện vốn là
sở duyên của chúng
sinh.

Trong mười pháp môn này, môn đầu là tổng quát, chín môn còn

lại là riêng
biệt, đồng-dị-thành-hoại dựa theo có thể biết.
Trong tụng trước tiên là
sinh khởi, nhờ Phật lực là hiển bày không phải
sức của mình, quán xét chúng của mình là bởi vì nêu rõ thâu
nhiếp khắp nơi, bởi vì
hiển bày cùng nhau nói. Vì sao kệ ca ngợi? Trong
Địa Luận nói: “Chữ ít
mà thâu nhiếp nhiều nghóa, cho nên những người
ca ngợi phần nhiều dùng
kệ tụng.” Lại tụng có bốn loại:
1) Số chữ trong tụng, nghóa là y theo ba mươi hai chữ trong Phạm Bổn làm một bài tụng, không hỏi đến trường hàng và kệ.
2) Già Đà tụng, Trung Hoa nói là Phúng tụng, hoặc nói là
Trực tụng, nghóa là không tụng về
trường hàng.

Kỳ Dạ tụng, Trung Hoa nói là Ứng tụng, nghóa là thuận theo pháp
tụng lại trường hàng.
4) Uấn Đà Nam tụng, Trung Hoa nói là Tập thí, nghóa là dùng ít chữ mà hàm chứa nhiều nghóa nói là Tập, dùng để giúp
người khiến cho dễ thọ trì, cho nên nói là Tập thí.

Ba loại tụng trên đây, hoặc bảy chữ, hoặc năm chữ-bốn
chữ-ba chữ, như “Xử
thế giới, như hư không” là ba chữ, đều dùng bốn câu làm một bài tụng. Trong này là kệ trùng tụng thứ ba. Các tụng ở văn
sau đều dựa theo đó.

Trong kệ, hai
mươi hàng bốn câu thành kệ, gồm có mười kệ,
một kệ tụng về một pháp môn trước đây. Hỏi: Đây là muốn ca ngợi Đức Phật, vì
sao tụng về pháp môn của mình? Đáp: Chúng này đã là trong Hải Ấn của
Phật hiện ra, thuộc
về Biệt đức của Phật,
cho nên tụng về pháp mình tức là ca ngợi Đức
Phật, bởi vì đức của Phật huyền diệu không phải là ai khác biết được,
 nếu không phải là đức của Phật thì không thể hiển bày về Phật.
Trí Luận quyển thứ 12 nói: “Chỉ có Phật tiếp nhận
sự cúng dường của Phật,
người khác không biết
về đức của Phật, như nói người trí luôn luôn cung
kính đối với trí, luận
về trí thì ưa thích trí, người trí luôn luôn biết
về trí, như rắn biết chân rắn.”

Trong tụng, tụng thứ nhất tụng về pháp môn thứ nhất, ba câu trước tụng về Thể, một câu
sau tụng về Dụng.
Trong trước, một câu đầu
tụng về Cảnh, hai câu
tiếp tụng về Chứng, hoặc là thân đầy khắp pháp giới,

hoặc là pháp
giới đầy khắp thân cho nên dung hợp. Tâm vắng lặng
cho nên không chấp thủ,
cảnh vắng lặng cho nên không dấy khởi. Lại một câu đầu tụng về pháp
giới trước, một câu tiếp tụng về hư không,
một câu tiếp tụng về
vắng lặng, câu sau cuối tụng về phương tiện.
Trong tụng thứ hai, hai câu đầu tụng về tất cả các pháp trước
đây, một câu tiếp tụng
về dạo qua khắp nơi trước đây, câu sau cuối kết
luận về tên gọi của Trời.
Trong tụng thứ ba, một câu đầu tụng về không
sinh
diệt-chứng đạo trước đây, hai câu tiếp tụng về phương tiện-giáo đạo trước đây,
câu trước là thân
phương tiện, câu sau là miệng phương tiện, câu sau
cuối dựa theo Trời trình
bày về đạt được pháp tự tại lập ra tên gọi.
Trong tụng thứ tư, hai câu đầu tụng về trí hải phương
tiện trước đây, một câu tiếp tụng về ánh
sáng trước đây, câu
sau cuối tụng về
dạo qua và kết luận về
người đạt được pháp.
Trong tụng thứ năm, ba câu đầu tụng về niềm vui vô lượng của thiền trước đây, câu
sau cuối tụng về khởi lên rộng khắp và tên
gọi của niềm vui.

Trong tụng thứ
sáu, một câu đầu tụng về ngu si-sợ hãi trước
đây, một câu tiếp tụng
về dạo qua vắng lặng, một câu tiếp tụng về chuyển đổi, gọi là chiếu rọi trừ diệt, câu
sau cuối kết luận về người
đạt được pháp.

Trong tụng thứ
bảy, hai câu đầu tụng về vô lượng cảnh giới, một câu tiếp tụng không dấy khởi, câu
sau cuối kết luận pháp
thuộc về người.
Trong tụng thứ tám, hai câu đầu tụng về tất cả các pháp trước đây, một câu tiếp tụng về
không đi-đến, câu
sau cuối kết luận
pháp thuộc về người.
Trong tụng thứ chín, ba câu đầu tụng về cảnh
Phật vắng lặng,
câu sau cuối kết luận
pháp thuộc về người.

Trong tụng thứ
mười, ba câu đầu tụng về vô lượng cảnh giới, vô lượng cảnh giới có ba:
1) Thời vô lượng, câu trước hiển bày điều này;
2) Cảnh giới vô lượng, đó là Bồ-tát và chúng sinh, câu tiếp hiển bày điều này;
3) Thiện xảo vô lượng, câu sau hiển bày điều này. Câu sau cuối kết luận về người đắc pháp. Thứ hai, Thiền thứ tư-chúng Quả Thật Thiên có tám:

Một, quán căn cơ chúng sanh dấy khởi mây pháp tuôn mưa pháp
để lợi ích căn cơ trước đây.

Hai, Diệu sắc
vốn là hiện thân, phương tiện vốn là thuyết pháp,

hai loại này
là chủ động ứng hiện; niệm vốn là nghó đến pháp thọ
trì, quán vốn là quán
sát sắc thân, đây là đã ứng với cơ, nhờ niệm này
diệt trừ si ám trở
thành thanh tịnh.

Ba, thấy cõi
như màng lưới Nhân-đà-la, bởi vì duyên khởi không có tánh.

Bốn, tiến vào Đà-la-ni duyên khởi, trong một môn mà thâu
nhiếp pháp giới viên
dung, cho nên nói là Phổ Môn. Năm, không chuyển đổi Ái vốn là tự mình giữ lại phiền
não, chuyển đổi khiến cho vónh viễn diệt trừ Ái thọ
sinh của chúng
sinh
khác. Lại khiến cho người
khác diệt trừ phiền não không sinh vào nơi ba cõi.
Sáu, cảnh của tất cả thế gian là Khí và Chúng
sinh, Phật tiến vào trong đó thuyết pháp mà luôn luôn an trú vắng lặng, cho nên nói là
Bất tư nghị. Bảy, hội tụ hai
Không-hiển bày hai Đế, chúng
sinh và pháp là nêu
ra nhân-pháp, đạo căn bản của
sự rời xa
sinh tử(xuất yếu) là
hội tụ Chân Không. Tám, khiến cho căn cơ chứng được
Chân nguyên hòa vào biển quả.
Trong tụng có mười chín kệ, có hai: Mười bảy kệ đầu tụng về
pháp môn
trước đây, hai kệ sau nêu ra nhân tổng quát ca ngợi.

Trong phần đầu, trong một có hai kệ tụng về pháp môn thứ
nhất, kệ đầu ca ngợi
đức của Phật sâu xa, tụng về chủ động quán trước đây; kệ
sau tụng về mây pháp trước đây mở ra tưới thấm mong
muốn của căn cơ.

Hai cũng có hai kệ, kệ đầu tụng về diệu sắc và phương tiện,
kệ sau tụng về niệm và quán.

Ba cũng có hai kệ, kệ đầu khéo léo hiện bày về lý chân thật,
kệ sau dựa vào lý hiện
rõ sự, bởi vì Nhân-đà-la võng gồm chung lý-sự.

Bốn cũng có hai kệ, kệ đầu tụng về Phổ Môn hiện rõ thân
pháp giới, kệ sau hiển
bày về pháp của pháp giới.

Năm có ba kệ, kệ đầu là Đoạn đức thâu nhiếp chúng sinh
chuyển sang diệt trừ
phiền não-nghiệp khổ, kệ tiếp chuyển sang hiển bày
về phước trí…, nhưng đều gồm
chung Nhân-đà-la, kệ
sau kết luận
pháp thuộc về người,
phương tiện tức là không chuyển đổi Ái, trong
trường hàng trước đây
chỉ có sự trong kệ đầu, nên biết.
Sáu có hai kệ, kệ đầu tụng về tiến vào cảnh giới của tất cả thế gian trước đây, trong kệ
sau ba câu tụng về
Bất tư nghị, câu
sau cuối
kết luận pháp thuộc về người.

Bảy có hai kệ, kệ đầu tụng về đạo căn bản của chúng sinh rời
xa sinh tử trước đây
khiến cho biết Vô ngã để hiển bày về Tục đế, kệ
sau tụng về tất cả các
pháp là đạo căn bản của sự rời xa sinh tử khiến
cho biết Vô ngã để hiển bày về Chân đế.

Tám có hai kệ, tụng về người tiếp nhận giáo hóa tiến vào pháp môn cảnh giới
Phật trước đây, một kệ đầu dùng quả đến với cơ, một
kệ sau thâu nhiếp cơ đưa vào quả.
Trong hai
kệ sau, một kệ trước nêu ra nhân thành tựu đức, một
kệ sau hướng về cơ hiển bày Dụng.

Lại giải thích: Kệ này theo thứ tự ngược lại tụng về pháp
môn trước đây. Hai kệ
đầu tụng về cuối cùng, hai kệ tiếp tụng về thứ
bảy, hai kệ tiếp vượt
lên tụng về thứ hai, hai kệ tiếp vượt lên tụng về thứ tư, ba kệ tiếp tụng về thứ ba, hai kệ tiếp lùi lại tụng về
thứ sáu, hai kệ tiếp lùi lại tụng về thứ năm, bốn kệ
sau cuối tụng về thứ nhất, đều có
thể biết, bởi vì đều
là tùy ý phát ra biện tài mà nói không cần theo thứ tự.

Thứ ba, Thiền
thứ ba-chúng Biến Tịnh Thiên có bảy: Một, quán
sát ba phẩm thiện căn của các chúng
sinh khiến
cho tăng trưởng. Lại
giải thích: Như quán sát thiện căn đầu cửa thành
được nghe danh hiệu Đức
Phật, Thu Tử không trông thấy… Hai, tất cả các Hữu là tất cả thế giới, Đức Phật từ trong đó
sinh ra giác ngộ chúng sinh
chiếu rọi hiện rõ các pháp, cho nên nói là Giác chiếu.

Ba, tổng trì
đối với tâm có đủ văn nghóa, giải thích nói ra
đầy đủ bốn biện tài.

Bốn, Đức Phật xuất hiện, mong mỏi được gặp cho nên sinh
tâm vui thích, xuất hiện
rồi trừ diệt khổ nạn cho nên nói là giải thoát. Năm, chúng
sinh tức là Như, thuận theo ranh giới duyên
khởi, hiển bày đức
không cùng tận cho nên sinh tâm hoan hỷ.

Sáu, ban đầu
là Dụng thù thắng của hóa Bồ-tát, tiếp là đức
tướng đầy đủ, sau cuối
tiến vào Vô tận thuận theo Thể cao nhất, đều là
pháp Biệt giáo Nhất thừa.

Bảy, chúng sinh khổ là thụ động cứu giúp, Từ Bi là chủ
động cứu giúp, trí là bởi vì không chấp lấy
tướng, đầy đủ là bởi vì đức giáo
hóa có đủ, cho nên
thành tựu lợi ích ấy.

Trong tụng có mười một kệ: Đầu
là một kệ tụng về pháp môn
thứ nhất, trường hàng
trước đây nêu ra thụ động quán sát, nay hiển bày về đức của chủ động
quán sát.
Lại giải thích: Hai câu đầu về chủ
động quán sát nghóa là
Phật trí vô ngại rộng khắp mọi nơi, một câu tiếp trình
bày về thiện căn khó biết chính là cảnh giới Phật, câu
sau cuối kết
luận về người đạt được pháp.
Hai có bốn kệ, hai kệ đầu tụng về Xứ-Hữu và
soi chiếu trước
đây, trong đó một kệ
đầu là trình bày dựa vào Thể khởi Dụng, một kệ
sau trình bày Dụng quy về Thể; hai kệ
sau tụng về nghóa của
Giác trước đây, trong đó một kệ đầu loại bỏ mê mờ hiển bày giác ngộ, một kệ
sau trình bày về giác
vượt lên trên tình.
Ba có một kệ, hai câu đầu tụng về Trì, một câu tiếp tụng về
Biện, câu sau cuối kết
luận pháp thuộc về người.
Bốn có một kệ, hai câu đầu tụng về vui mừng vì Đức
Phật xuất thế, hai câu sau tụng về giải thoát.

Năm có một kệ, hai câu đầu tụng về pháp chúng sinh rất sâu
xa, hai câu sau tụng về
sinh tâm hoan hỷ, bởi vì công đức thấy được lý.

Sáu có một kệ, hai câu đầu tụng về hóa Bồ-tát trước đây, hai
câu sau tụng về công đức
đầy đủ rộng khắp hòa vào vô tận trước đây.
Bảy có hai kệ, trong đó một kệ đầu, hai câu đầu tụng về thụ
động cứu giúp, hai câu
sau tụng về chủ động cứu giúp và trí, nghóa là thấy thanh tịnh là trí; một kệ
sau trình bày về đầy đủ, hai câu đầu là
Hóa thân đầy đủ, hai câu
sau là Hóa nghiệp đầy đủ. Thứ tư,
Thiền thứ hai-chúng Quang Âm Thiên có mười:

Một là Xứ vắng lặng:
1) Lý vắng lặng;
2) Sự vắng lặng;
3) Điền vắng lặng. Diệt khổ cũng có ba:
1) Tánh diệt;
2) Trí diệt;
3) Phước diệt. Sau trong tụng chỉ có Điền và Phước.

Trong hai, đầu là Đoạn đức, vốn là tâm thanh tịnh-tánh thanh
tịnh, vốn là lìa cấu
nhiễm đối trị thanh tịnh. Bảo Tánh luận nói: “
1) Tự tánh thanh tịnh;
2) Vô cấu thanh tịnh.” Tiếp là Trí đức, nghóa là rộng tu… Lại tâm thanh tịnh là khí, lìa cấu nhiễm là duyên, biển đức là dựa
vào duyên mà tu. Còn lại
trong tụng, giải thích sau. Ba, có hai cách
giải thích:
1) Dài ngắn tức là nhau, bởi vì thời
kiếp vốn là Như Như;
2) Phần vị tự tại và phần vị không tự tại, bởi vì đức có hơn-kém. Bốn, có ba cách giải thích: Một nói rằng các loại
sinh-trú-diệt của thế gian là duyên khởi thuộc
pháp nhiễm, thanh tịnh tức là nhiễm
thuộc tánh tịnh, đức của tánh tịnh cho nên nói là công đức. Một nói rằng là duyên khởi thuộc pháp tịnh chỉ chọn lấy
Chân như, cho nên nói
rằng thế gian sinh…; chọn
lấy sai lầm tai họa của nhiễm, cho nên nói rằng tịnh công đức. Một nói rằng thế gian là xứ,
sinh-trú-diệt là Phật xuất
thế và trú-diệt…,
nhiều môn lợi ích chúng sinh vốn là diệt trừ nhiễm ô trở

thành thanh
tịnh. Còn lại trong tụng, giải thích sau, nhưng bởi vì
nghóa nối thông cho nên
gồm đủ giải thích sau. Năm, trong một đời Bồ-tát có thể cúng dường đạt tới cực điểm, đến phần ấy hiển bày nói rộng ra, như dựa theo trăm vạn ức…
ở văn sau. Sáu, đạt được lực Đà-la-ni tự tại, một niệm có thể tiếp nhận
nhiều, một niệm có thể
thuyết giảng nhiều.

Bảy, nơi chốn
Đức Phật xuất thế gọi là trang nghiêm. Tám, thần túc tức là công đức. Lại thần túc là chủ động làm
lợi ích, công đức là
thụ động làm lợi ích trở thành tướng.

Chín, phước trí sâu rộng làm cảnh cho căn cơ. Mười, nguyện lực-công đức lực là nhân vị, nguyện hạnh tức là
chủ động duy trì; hỷ
tạng là quả, tức là thụ động duy trì. Hỷ là Đại trí,
Thể của trí hàm chứa
thâu nhiếp cho nên gọi là Tạng.
Trong tụng có mười kệ đều tụng về một pháp. Kệ đầu tụng về
dựa vào ruộng (điền)
vắng lặng sinh ra phước diệt khổ.

Trong kệ thứ
hai, câu đầu tụng về hành duyên lìa cấu nhiễm,
câu tiếp tụng về tâm
thanh tịnh là vật chứa của hành, câu tiếp tụng về biển đức đã thành tựu, câu
sau cuối kết luận pháp thuộc về người.
Trang nghiêm tức là ánh
sáng xen lẫn vi diệu.
Trong kệ thứ ba, câu đầu vốn là hiển bày về mở rộng phương tiện, câu tiếp vốn là hiển bày về tu
nhiều kiếp, câu tiếp vốn là tánh vô ngại. Nhờ vào phương tiện này trong một niệm
sinh ra công đức của
nhiều kiếp, gọi là môn
phương tiện. Âm của Pháp chủ tức là âm tự tại, vì
thế kết luận về người đạt được pháp.

Trong kệ thứ
tư, ba câu đầu tụng về thế gian sinh-trú-diệt, tức là Đức Phật xuất hiện ở thế gian…, câu
sau cuối diệt
si là tụng về công
đức thanh tịnh, niệm thù
thắng kết luận về tên gọi của Trời.

Trong kệ thứ
năm, câu đầu là ruộng rộng lớn, câu tiếp là có thể cúng
dường rộng, câu tiếp là lợi ích cúng
dường rộng, tổng quát tụng về Bồ-tát ở cung trời
Đâu-suất nói nhiều về cúng dường trước đây.
Câu sau cuối kết luận pháp thuộc về người.
Trong kệ
thứ sáu, ba câu đầu tụng về ở một kiếp nói đến
nghóa của Địa, câu sau
cuối tụng về có thể tiếp nhận-thuyết giảng trong
một niệm, bởi vì đạt được tâm tự tại.

Trong kệ thứ
bảy, câu đầu là chủ động trang nghiêm, hai câu
tiếp là hiện rõ tướng
trang nghiêm, câu sau cuối là kết luận về tên gọi.
Trong kệ thứ tám, hai câu đầu tụng về thần túc vô ngại, câu trước
là Thể, câu
sau là Dụng; hai câu cuối tụng về lợi ích thành tựu
biển công đức, câu trước là khiến cho đạt được
sáu căn thanh tịnh
của Địa tiền, câu
sau là khiến cho đến được pháp rất
sâu xa của Địa
thượng, cũng là kết
luận về tên gọi của người.

Trong kệ thứ
chín, hai câu đầu tụng về biển công đức, câu
trước là Tuệ, câu sau
là Phước, câu tiếp tụng về cảnh giới, câu sau cuối
kết luận pháp thuộc về người.
Trong kệ thứ mười, hai câu đầu tụng về lực công đức của
Phật quá khứ, một câu tiếp
tụng về nguyện lực, câu sau cuối tụng về Hỷ tạng
đã duy trì, tức là quả đã thành tựu.

Thứ năm, Sơ thiền-chúng Phạm Thiên có mười:
Một thuận theo Chân khởi Ứng gọi là pháp chiếu
soi hiện rõ,
Ứng không khác Chân gọi
là hòa vào Bất tư nghị, bởi vì ngay nơi vắng lặng là
soi chiếu không thể
suy nghó về vắng lặng, ngay nơi
soi chiếu là
vắng lặng không thể suy
nghó về soi chiếu. Hai, tất cả các thiền đều quán
sát là lý
Pháp thân, bởi vì đây
là cảnh quán bình đẳng
trong thiền, vắng lặng khéo léo an trú là diệu trí chứng khế. Ba, đầu là Bổn trí
soi
chiếu pháp,
sau là Hậu trí khéo
léo giáo hóa, lại biển pháp vô biên gọi là các pháp không
suy nghó, một âm diễn nói trải qua trần kiếp không hết gọi là tiến vào
phương tiện.
Còn lại trong kệ, giải thích sau.

Bốn, âm thanh
của Phật thích ứng trọn vẹn gọi là biển Diệu
âm, khế hợp rộng khắp
như nhau gọi là bình đẳng vượt qua tiến vào. Năm, căn mềm yếu thì thâu nhiếp tiếp nhận, ngang ngạnh cố chấp thì làm cho khuất phục mà tiếp nhận.
Nhưng phương tiện này
hiện có trong thân Phật
cho nên gọi là tối thắng. Sáu, thân Phật ứng đến khắp nơi, hiện rõ trong các cõi gọi là
năng lực khởi-trú, ngữ nghiệp rộng khắp, âm thanh trong trẻo thuyết pháp
gọi là pháp phân biệt.

Bảy, ba nghiệp
vô biên khéo léo giáo hóa chúng sinh.

Tám, pháp lìa
xa tình chấp gọi là tướng thanh tịnh, Diệu trí
khéo léo chứng được
gọi là hạnh an trú vắng lặng.

Chín, quá khứ-vị lai không có đến-đi, hiện tại không hề dựa
vào. Lại sinh không từ
nơi nào đến, diệt không đi về đâu, trú không nơi
dựa vào, từ đây quán tâm gọi là dũng mãnh. Mười, hễ có một hạnh, thì đều chiếu rọi khắp nơi biển pháp vô tận.

Trong tụng có
tám kệ, bảy kệ trước đều tụng về một pháp
môn. Trong kệ thứ nhất,
nửa kệ đầu tụng về chiếu rọi hiện rõ các pháp,
nửa kệ sau tụng về tiến vào Bất tư nghị.

Trong kệ thứ
hai, nửa kệ đầu tụng về quán sát các thiền, nửa
kệ sau tụng về vắng lặng
khéo léo an trú, lại ngay câu sau cuối kết
luận pháp thuộc về người.
Trong kệ thứ ba, câu đầu tụng về chiếu rọi các pháp không
suy nghó, hai câu tiếp tụng
về tiến vào phương tiện, câu sau cuối kết
luận pháp thuộc về người.
Trong kệ thứ tư, ba câu đầu tụng về biển âm thanh vi diệu, câu
sau cuối tụng về bình
đẳng vượt qua tiến vào, cũng là kết luận.

Trong kệ thứ
năm, nửa kệ đầu tụng về thâu nhiếp làm cho
khuất phục, nửa kệ sau
tụng về tối thắng.
Trong kệ
thứ sáu, ba câu đầu tụng về tất cả các cõi có thể
dấy khởi an trú, đó là
hiện thân; câu sau cuối tụng về các pháp phân
biệt, đó là âm thanh
trong trẻo thuyết pháp.

Trong kệ thứ
bảy, nửa kệ đầu tụng về vô lượng phương tiện,
tức là lần lượt theo
ba nghiệp; nửa kệ sau tụng về giáo hóa chúng sinh,
đó là tự tại chiếu rọi căn cơ.

Trong kệ thứ
tám, nửa kệ đầu tụng về hạnh an trú vắng lặng,
nửa kệ sau tụng về
tướng thanh tịnh của các pháp.
Hai pháp môn
sau lược qua không có tụng. Lại giải thích tổng
quát ở trong kệ thứ
tám, đó là câu đầu tụng về pháp môn thứ tám, câu
tiếp tụng về pháp môn
thứ mười, câu tiếp tụng về pháp môn thứ chín,
câu sau cuối kết luận về
tên gọi, Lạc là tên gọi thứ chín, Âm là tên
gọi thứ mười.
Thứ sáu,
chúng Tha Hóa Thiên có mười:
Trong má»™t,
chúng sinh có hai Tạng:
1-Phiền não Tạng giáo hóa khiến cho chuyển không còn;
2-Như Lai Tạng giáo hóa khiến cho chuyển hiện bày. Hai loại này không hai, hòa hợp dung thông cho
nên đạt được lợi ích giáo hóa.

Hai, khiến cho
chúng sinh đật được niềm vui Đại Niết-bàn. Ba,
biết cơ khéo léo lợi ích.

Bốn, phân biệt chúng sinh có nghóa về ba tánh. Lại Phật vì
chúng sinh dùng một âm hiển bày phân tích về biển pháp rộng lớn.
Còn lại trong kệ, giải thích sau.

Năm, Từ niệm che phủ căn cơ, dùng mắt Tuệ quán sát. Sáu,
Đại Từ-Thập Lực phá tan núi cao của Mạn.

nơi.

Bảy, ứng theo niệm nhiếp hóa. Tám, nghó đến cảnh Phật hoàn toàn vi diệu của chư Phật khắp

Chín, công đức Phật tự tại là hiển bày về đức chủ
động giáo hóa,

giác ngộ đầy đủ ý niệm là ứng khắp mọi căn cơ.
Tùy thuận: Một là
căn duyên thuận theo nhau,
hai là khiến cho căn cơ tiến vào pháp.

Mười, quốc độ hải của Phật, chỉ là cảnh của Phật tuệ cho
nên lìa xa thế gian.
Trong tụng có mười kệ, đều tụng về một pháp. Trong kệ thứ nhất, nửa kệ đầu tụng về Tạng, nửa kệ
sau tụng về giáo hóa
chúng sinh,
cũng có thể tụng về cả hai.
Trong kệ thứ hai, ba câu tụng về pháp trước đây, câu
sau cuối
kết luận về người.
Trong kệ thứ ba, câu đầu tụng về hiểu rõ
chúng sinh, đất nghi- rừng khô tụng về tánh tham dục, còn lại tụng về phương tiện và kết
luận về người đạt được pháp.
Trong kệ thứ tư, câu đầu tụng về phân biệt, câu tiếp
tụng về nghóa, câu tiếp giải thích về nghi ngờ, nghi ngờ rằng vì
sao một âm có thể giảng nói nhiều pháp? Giải thích rằng bởi vì khắp nơi.
Câu sau
cuối là kết luận, thắng
dũng là tinh tiến.
Trong kệ thứ năm, nửa kệ đầu tụng về
quán sát, đó là trí quán
tiếp nhận pháp gọi là
đưa vào mảy lông của Phật…, nửa kệ sau tụng về
Từ niệm và kết luận về tên gọi.
Trong kệ
thứ sáu, câu đầu tụng về
ma sự, hai câu tiếp tụng
về vượt ra ngoài, câu
sau cuối là kết luận.

Trong kệ thứ
bảy, nửa kệ đầu tụng về nhờ niệm Phật cho nên
đạt được trí, diệt hết ngu
si lìa xa nhân của nhiễm, nửa kệ
sau là quả
lìa nhiễm và kết luận về tên gọi.
Trong kệ thứ tám, câu đầu tụng về mười phương chư Phật,
câu tiếp tụng về niệm
đầy đủ, bởi vì đầy đủ niệm ấy, nửa kệ sau trình bày về lợi ích của niệm đầy đủ và kết luận về tên gọi.
Tràng giống như vòng xe.

Trong kệ thứ
chín, câu đầu tụng về công đức tự tại của Phật,
câu tiếp tụng về giác
ngộ và niệm tùy thuận, nửa kệ sau tụng về sung mãn và kết luận.
Trong kệ thứ mười, câu đầu tụng về tách rời thế gian, bởi vì
là đất biển; câu tiếp tụng về cảnh giới; câu tiếp trình bày về nhân tách rời
thế gian, bởi vì tướng
thế gian không còn, đất biển không có thể vượt
lên

trên cho nên nói là không có tâm cao, nghóa là không có phân biệt;
câu sau cuối là kết luận về tên gọi. Thứ bảy,
chúng Hóa Lạc Thiên có mười:

Một, dùng duyên khởi vô tác để phân biệt các pháp. Hai, có ba cách
giải thích: Một nói là quán
sát thật tánh của
ba Hữu-hai Ngã. Một nói là tất cả có là lý về có, Ngã là tình chấp, tình- lý không hai cho nên nói là chân thật.
Phật Tánh luận nói:
“Chân đế không có nhân-pháp cho nên không có, hiển bày về hai
Không cho nên không phải không
có. Vả lại, nhân-pháp không có mà không
phải không có, hai Không
có mà không phải có, đối với Tục đế bởi vì
tánh phân biệt cho nên
không có, bởi vì dựa vào tánh khác cho nên
không phải không có. Lại
phân biệt không nhất định là không có, dựa vào nơi khác không nhất định là có, vì thế cho nên hai Đế cùng lìa có và
không có.” Lại trong
Biện Trung Biên luận… Lại nói Phật tuy hiện có,
nhưng đối với có mong
cầu Phật thì không thể được, bởi vì có tức là
Chân mà chính là không có, cho nên nói quán tất cả có là chân thật. Phật tuy
hiện có Ngã, nhưng đối với Ngã mong cầu Phật thì không thể được, bởi
vì Ngã tức là Chân mà
chính là không có Ngã, cho nên nói là quán
Ngã chân thật. Còn lại
trong kệ, giải thích sau. Ba, Tuệ có năng lực diệt trừ ngu
si của
chúng sinh, vốn là
viên mãn thuộc về Phật quả.

Bốn, viên âm
làm cho khắp nơi vui sướng phát khởi mạnh mẽ
tu tập giáo pháp. Năm, mười
Liên Hoa Tạng có vi trần
số tướng hải cho nên
nói là đầy đủ vô
tận, nói như phẩm Tướng Hải. Công đức tốt đẹp là
Tiểu tướng, nói như
phẩm Tiểu Tướng Công Đức.

Sáu, sự
việc của ba đời kiếp ở trong trí Phật chiếu rọi không
tạp loạn, cho nên nói
theo thứ tự. Đây là chỉ dựa theo quá khứ, trong kệ có đủ.

Bảy, phước trí không bờ bến làm lợi ích cho chúng sinh, lại
tăng trưởng vô biên
phước trí của chúng sinh. Sau kệ giải thích thuận theo ý đầu.

Tám, thân là
duyên khởi thuộc về sự, giống như pháp tánh rộng khắp mọi nơi. Vô ngại có bảy:
1) Sắc chất không ngăn ngại thân;
2) Thân không ngăn ngại sắc chất;
3) Khắp nơi không ngăn ngại ẩn kín, nghóa là cơ không cảm đến nơi, tuy khắp nơi mà ẩn kín;
4) Đầy đủ không ngăn ngại phân ra, nghóa là ứng cơ hiện bày dài ngắn mà không ngăn ngại đầy khắp hư không;
5) Ngồi không ngăn ngại đi…;
6) Một không ngăn ngại nhiều, nghóa là các phương hiện bày nhiều mà luôn luôn ngay nơi một;
7) Lý không ngăn ngại sự, nghóa là Không giới, giới giống như tánh, tức là lý về tánh Không, ngồi xếp bằng
là sự,
duyên khởi dung thông cho
nên Vô ngại. Các căn còn lại đều dựa theo đó.

Chín, nghiệp
hạnh duyên khởi khéo léo vì cơ mà hiện bày gọi
là phương tiện, bởi vì
vô tận là sở duyên của cơ, cho nên còn nói là cảnh. Mười, tất cả nhân quả thiện ác của
chúng sinh, cùng thuộc
về pháp giới mà không
có đến-đi, cho nên nói là quán như nhau.
Trong tụng có mười kệ đều tụng về một pháp môn.
Trong kệ thứ nhất, Hóa có ba
nghóa:
1) Hóa phát khởi sở y;
2) Hiển bày về Hóa không có Thể;
3) Hóa hiện rõ ra tựa như có. Nửa kệ đầu tụng về nghóa, nghóa là câu trước tụng về tất cả các pháp tức là nơi dựa vào, câu
sau tụng về Hóa phân
biệt tức là đã phát khởi. Câu tiếp tụng về
không có Thể, câu
sau cuối tụng về hiện có, nghóa là Phật và chúng
sinh vốn
làm duyên khởi lẫn nhau.
Trong kệ thứ hai, nửa kệ đầu tụng về quán tất cả có và Ngã, nghóa là tất cả đều không có; nửa kệ
sau tụng về chân thật và kết luận về người.
Trong kệ thứ ba, nửa kệ đầu tụng về lìa xa
ngu si, nửa kệ
sau
tụng về Tuệ đầy đủ
và kết luận về tên gọi, Lực là tên gọi của vị trời.

Trong kệ thứ
tư, nửa kệ đầu tụng về âm thanh của Đức Phật,
nửa kệ sau tụng về phát
khởi vui mừng mạnh mẽ và kết luận.

Trong kệ thứ
năm, nửa kệ đầu tụng về tướng hảo của Đức
Phật, nửa kệ sau tụng
về vô tận và kết luận.
Trong kệ
thứ sáu, nửa kệ đầu tụng về vô lượng kiếp quá
khứ…, nửa kệ sau tụng
về nhớ lại trí tuệ.

Trong kệ thứ
bảy, nửa kệ đầu tụng về Thể của các loại công
đức trí huệ, nửa kệ
sau chính thức tụng về phước trí và kết luận; còn lại
lược qua không tụng.
Trong kết luận, thấy biết thanh tịnh đã là thanh
tịnh, Quang Thắng Thiên vì
sao gọi là Như Lai, là bởi vì những vị trời
này tức là Phật, như
trước đây phân rõ.

Trong kệ thứ
tám tụng là an tọa vô ngại giữa hư không, trước
đây trường hàng trình
bày về Dụng của quả, trong này tụng về nhân hạnh ấy, nghóa là câu đầu trải qua nhiều thời gian, câu tiếp là đức đầy đủ,
câu tiếp là dũng mãnh
tu tập, câu sau cuối là kết luận về tên gọi.

Trong kệ thứ
chín, nửa kệ đầu tụng về cảnh phương tiện, nửa
kệ sau tụng về lực vô tận và kết luận, nghóa là lực có thể hiện rõ pháp
rộng khắp mọi nơi, cho
nên nói là vô tận.

Trong kệ thứ
mười, nửa kệ đầu tụng về nghiệp hạnh khổ-vui của

chúng sinh, câu tiếp tụng về quán như nhau, câu
sau cuối kết luận về
soi chiếu là ánh sáng
rực rỡ. Lại cũng có thể kệ này tụng về môn thứ
chín, kệ trước tụng về
môn thứ mười, suy nghó có thể thấy. Thứ tám,
chúng Đâu Suất Thiên có tám: Một, vì cơ mà xuất hiện ở thế gian gọi là thành tựu, tùy theo
ý muốn thuyết pháp gọi
là Chuyển pháp luân. Hai, ánh
sáng trí tuệ chiếu rọi
Chân Không, lại là Thể của
Không, là Đức thanh tịnh,
là Dụng của ánh sáng.

Ba, Vô ngại nguyện hải cùng Thể với chúng sinh cho nên nói
là hòa vào, tự tánh
lìa xa tướng cho nên nói là rỗng rang vắng lặng.

Bốn, dựa theo ngăn chặn mười tướng đều không có thì gọi là vô lượng
Vô tướng, dựa theo biểu thị về hằng
sa tánh đức thì gọi là vô lượng
Vô tướng, khiến cho các chúng
sinh quán
sát tu hành diệt
trừ phiền não nghiệp
chướng, gọi là quán hạnh. Năm, Phật cảnh có hai: Một là phạm vi, hai là
sở chứng.
Vượt lên trên có hai: Một là vượt qua phàm phu và
Tiểu thừa, hai là vượt
qua nghó bàn. Giác lực
có hai: Một là chứng lý, hai là chiếu rọi căn cơ.

Sáu, dùng công đức của Phật huân tập cho chúng sinh, gọi là
vui mừng tu tập, khiến cho
phát tâm không lui sụt, cho nên nói là tâm
Bồ- đề không hư hoại.

Bảy, tùy theo
trí điều phục căn cơ.

Trong tám, đầu là duyên khởi vô tận, tiếp là nhanh chóng quay về chân tánh, cũng là quay về pháp phỏng theo cơ,
sau hòa vào cơ đích thực hiện bày. Lại căn khí trong biển tâm vô biên, niệm niệm hồi
hướng không ngừng mong
muốn vui thích, tùy theo căn khí hiện rõ khắp
nơi, Đức Phật có thể ứng hiện đầy đủ.

Trong tụng thuận theo giải thích về ý sau. Trong tụng có một
số kệ không theo thứ tự.
Trong kệ thứ nhất, câu đầu là Thể của
Pháp luân, câu tiếp là
việc đã làm, câu tiếp
là chính thức chuyển, câu sau cuối là kết luận về
thù thắng. Lại nửa kệ
đầu tụng về thành tựu, nửa kệ sau tụng về
Chuyển pháp luân.

Trong kệ thứ
hai, vượt lên tụng về pháp môn thứ ba. Nửa kệ đầu tụng về nguyện hải rộng lớn, nửa kệ
sau tụng về hòa vào chúng
sinh vắng lặng, chính là
các pháp phương tiện. Thắng là tên gọi của vị trời.
Trong kệ thứ ba, lùi lại tụng về pháp môn thứ hai, nửa kệ đầu
tụng về cõi hư không,
nửa kệ sau tụng về ánh sáng thanh tịnh.
Trong kệ thứ tư, nửa kệ đầu là quán về việc đã làm, câu tiếp tụng

về vô lượng
Vô tướng, tức là cảnh của quán, câu sau cuối tụng về
thực hành quán sát thành tựu.

Trong kệ thứ
năm, vượt lên tụng về pháp môn thứ bảy là
phương tiện của chư Phật
điều phục chúng sinh.

Trong kệ thứ
sáu, lùi lại tụng về pháp môn thứ năm. Nửa kệ
đầu tụng về vượt lên
trên cảnh Phật, nửa kệ sau tụng về Giác lực. Lại
giải thích cũng có thể
kệ trước tụng về pháp môn thứ năm, kệ này tụng
về pháp môn thứ bảy,
như văn có thể biết.

Trong kệ thứ
bảy, lùi lại tụng về pháp môn thứ sáu. Nửa kệ đầu tụng về vui mừng tu tập, câu tiếp tụng về tâm Bồ-đề, câu
sau cuối
tụng về không thể hoại.

Trong kệ thứ
tám, nửa kệ đầu tụng về biển tâm vô biên, nói
Phật tử là niệm niệm,
hồi hướng có ba nghóa:
1-Nghóa về vân tập,
2-Hướng về Đức Phật phát khởi cùng dường,
3-Hướng về Đức Phật nghe pháp. Như kinh nói: Đều đến để tụ hội, để cúng dường, để nghe pháp.
Câu sau cuối tụng về tùy theo
căn khí hiện rõ khắp nơi. Thứ chín,
chúng Dạ Ma Thiên có mười: Một, khiến cho chúng
sinh lìa xa buồn lo phiền muộn
của thế gian, hướng về thiện thuận với Thể của pháp xuất thế.
Vả lại, Đoạn
đức của Pháp thân gọi
là lìa xa buồn lo, đạo thanh tịnh giáo hóa chúng
sinh gọi là hướng về thiện căn.

Hai, phạm vi
của sở duyên tất cả vốn không phải là như nhau. Ba, đầu là Đại Trí lìa xa
sai lầm không trú vào
sinh tử, tiếp là Đại
Bi thâu nhiếp chúng
sinh không trú
vào Niết-bàn. Lại nhờ có đủ Đại
Bi cứu giúp
chúng sinh, khiến cho lìa xa khổ đau tai họa. Trong tụng
thuận theo giải thích ý sau. Bốn, hiểu rõ về thiện căn như
Tín… sai biệt vô biên, tức là
căn hành rậm rịt như
rừng. Lại biết trong một căn có tất cả các căn, tức
là nhau-hòa vào nhau…
lớp lớp vô tận. Lại biết các căn tức là cùng
chung Chân tánh mà các
căn rõ ràng, cho nên nói là phân biệt.

Năm, Đà-la-ni
môn cùng tận pháp giới, cho nên nói là vô
lượng; tổng trì các
pháp nhìn giống như gương nước, cho nên nói là chiếu
rọi rõ ràng. Theo kinh Thủ
Lăng Nghiêm: “Ranh giới của thế giới Ta-bà có
Thiên Vương ở trên núi Tu-di, tên là Trì Tu Di, đạt được
Tam-muội Thủ Lăng Nghiêm,
ở khắp nơi trong cung Đế Thích trên trăm ức
đỉnh Tu-di, người khác
không trông thấy.” Nay đây chính là ở trong
chúng Dạ Ma, bởi vì
Bồ-tát tự tại hiện bày giáo hóa khắp nơi chưa
đủ để cảm thấy kỳ lạ.

Sáu, có bốn nghóa:
1) Duyên tạo nghiệp, tức là thân… làm duyên;

Nghiệp đã tạo, tức là thiện ác bất động;
3) Duyên khởi vô tác, nghiệp
tánh tức là Chân;
4) Nghiệp tuy tức là Chân mà không mất đi sinh quả. Như kinh nói vốn là cảnh giới, vốn là nghiệp hạnh, vốn là chân thật,
vốn là không thể nghó bàn. Lại duyên vào Phật
làm cảnh, nghiệp thiện đã tạo quyết định không hư dối, cho nên nói là chân thật. Tuy gieo trồng
một ít thiện nghiệp nhưng nhất định có thể sẽ đạt
được quả Đại Bồ-đề, cho nên nói là không thể
nghó bàn, như Ni-câu-đà-tử… Trong tụng thu-
ận theo giải thích ý sau.
Bảy, ban đầu
Chuyển pháp luân vô tận như
Nhất thừa-Tam
thừa…, tiếp che phủ cơ
thành tựu lợi ích cho nên nói là điều phục. Lại đầu
là Thể của pháp luân,
tiếp là lợi ích của pháp luân, nghóa là điều hòa
kh- iến cho tiến vào pháp,
làm cho loại trừ lỗi lầm xấu ác. Tám, cõi
sinh đến đã thấy, mắt thù thắng có thể thấy, quán
sát khắp nơi là đích
thực thấy, nghóa là thấy cảnh giới của chúng sinh
vốn rất rộng, vón tức
là chân tánh, vốn là một trong tất cả, vốn có đủ
thắng nghóa về nhân quả…, vốn như lưới giăng của
Đế Thích, cho nên gọi là Phổ. Tam thừa không có mắt này, cho nên nói là Thắng.
Vả lại, mắt thù thắng quán xét căn cơ rưới là mưa pháp khắp nơi. Trong tụng
thuận theo ý này. Chín, dùng trí chiếu rọi pháp khắp nơi khiến cho hiện rõ, lại
dùng pháp chân thật hiện
bày khắp mọi căn cơ.

Mười, Thiên chúng là cơ, tiếp là thuận theo cơ thi thiết giáo
hóa, khiến cho loại trừ
tâm mê hoặc, cho nên nói là tâm thanh tịnh, đây là lợi ích về giáo hóa. Lại tuy giáo hóa mà không thấy chủ động-thụ
động (năng sở), cũng
gọi là tâm thanh tịnh thuộc về Tự.
Trong tụng có tám kệ, bảy kệ đầu đều tụng về một pháp môn, một kệ
sau tụng về hai pháp môn. Trong kệ thứ nhất, nửa kệ đầu tụng về
rời xa Ái, nửa kệ sau
tụng về thiện căn hồi hướng.
Trong kệ thứ hai, nửa kệ đầu dựa theo chánh lý trình bày về
cảnh giới, câu tiếp dựa
theo Đại trí, câu sau cuối dựa theo Đại định. Lại
nửa kệ đầu là thụ
động chứng, câu tiếp là chủ động chứng, câu sau cuối
là chứng cũng là kết
luận về tên gọi của vị trời.
Trong kệ thứ ba, nửa kệ đầu tụng về các tai họa đã rời xa, câu tiếp tụng về có đủ Đại Từ Bi, câu
sau cuối là kết luận về tên
gọi của vị trời.
Trong kệ thứ tư, nửa kệ đầu trình bày về thông hiểu rõ
ràng vô ngại, tức là tụng về phân biệt trước đây; câu tiếp tụng về các căn, nghóa

là hành tức
là căn hành; câu sau cuối trình bày về ý nhận biết căn, vốn là giáo hóa.

Trong kệ thứ
năm, gồm tụng về pháp môn Chuyển thứ bảy,
bởi vì giống nhau. Câu
đầu tụng về vô lượng tổng trì, hai câu tiếp tụng
về chiếu rọi rõ ràng
và Chuyển pháp luân, câu sau cuối là kết luận về tên gọi của vị trời. Lại theo Địa Luận, câu đầu là Thể, câu tiếp là nhân,
câu tiếp là quả, câu
sau cuối là kết luận.
Trong kệ
thứ sáu, vượt lên tụng về pháp môn thứ tám, trong
đó nửa kệ đầu là
mắt thù thắng-thân vi diệu, câu tiếp là quán sát
rồi hiện thân, câu
sau cuối là kết luận. Quang là tên gọi của vị trời, Thắng là
tên gọi của mắt, cảnh là sở quán.
Trong kệ thứ bảy, một câu đầu thấy thân Như Lai là tụng về
cảnh giới; hai câu tiếp
tụng về nghiệp hạnh chân thật, một câu là diệt nhân nhiễm, một câu là lìa
duyên nhiễm; câu
sau cuối tụng về không thể
nghó bàn, bởi vì chứng
được cảnh vi diệu thanh tịnh.

Trong kệ thứ
tám, gồm tụng về hai pháp môn thứ chín-thứ
mười. Nửa kệ đầu
tụng về hiện rõ khắp nơi, câu tiếp tụng về thi thiết đưa
ra, câu sau cuối kết luận
về tên gọi của vị trời thứ mười. Thứ mười,
chúng Đao Lợi Thiên có mười:

Trong một, ba đời chư
Phật xuất hiện…, là ba lần hiện tại
trong chín đời, dựa vào
cơ hưng-phế, gồm
chung y-chánh, tức là cảnh đã quán. Sau phân rõ về người chủ động quán, nghóa là đối với
sự hưng-phế trước đây khéo léo thông hiểu về tác dụng thù thắng gọi là Trí quyết
định, thuận theo lý thiện
chứng được gọi là Niệm hỷ. Lại Dụng tuy dấy
khởi toàn bộ chiếu rọi
lý rõ ràng, cho nên nói là Đại trí niệm hỷ.

Trong hai, hai
Sắc giống như công đức thanh tịnh vốn có, nhưng Đức Phật hiện rõ Sắc giống như chúng
sinh cho nên nói là
Sắc thuộc chúng sinh, mà Sắc thuộc chúng
sinh tức là Như cho nên cũng gọi là
Sắc của Như Lai, từ Thể
khởi Dụng gọi là lực công đức, là kết luận về
câu đầu; Dụng không
khác Thể gọi là thanh tịnh, là kết luận về câu sau.

Ba, bình đẳng
là bởi vì cùng Thể, bởi vì trí dẫn dắt, bởi vì
không chọn lựa oán-thân.
Mây là bởi vì che phủ hư không, bởi vì làm cho
lợi ích, bởi vì hàm
chứa nước pháp, bởi vì rưới mưa thấm ướt căn cơ.

Bốn, nghó đến
ánh sáng… của Đức Phật vượt quá trần số cho
nên gọi là chúng. Mỗi
một loại đều thâu nhiếp đầy đủ công đức pháp giới cho nên gọi là đầy đủ, tác dụng riêng biệt đều rộng khắp pháp
giới, không làm trở
ngại lẫn nhau gọi là thế lực khắp nơi. Năm, hiểu rõ nghiệp quả
sai biệt, lại thông hiểu nghiệp quả ấy
tức là Như
cho nên nói là quán như nhau. Vả lại, Đức Phật lấy
nghiệp thanh tịnh làm duyên, khiến cho căn cơ thấy được Đức
Phật là báo;
còn chúng sinh dựa vào
Phật chủng có được thiện căn làm nghiệp,
duyên với Phật được
nhìn thấy là báo.

Sáu, cõi Phật đầy đủ thanh tịnh là bởi vì trang nghiêm bằng
vật báu thanh tịnh, thọ
dụng để diệt trừ phiền não. Thanh tịnh là nơi cư
trú, tức là tánh thanh tịnh vốn có.

Bảy, thế gian
duyên khởi gọi là Sinh, vô tác tức chân gọi là
Diệt, bởi vì không hai cho nên Sinh tức là Diệt, Diệt tức là Sinh.
Kinh nói: “Mới sinh đã có
diệt, không nói cho người ngu, tất cả pháp không
sinh, Ta nói nghóa sát-na…”
Trí Phật soi chiếu ở đây gọi là Quán.

Tám, duyên khởi lỗ chân lông hiện rõ các pháp hành gọi là phát khởi các hạnh, khiến cho Bồ-tát tu tập gọi là nhân giáo hóa chúng
sinh, bởi vì người tu tập nhân này, tu tập thành tựu tiến vào lý gọi
là khởi niệm. Chín,
Lạc có bốn:
1) Lạc phân tán của cõi Dục;
2) Lạc của địa Định;
3) Lạc của Tiểu Niết-bàn;
4) Lạc của Đại Niết-bàn, Đại Bồ-đề, Đại Bi…, Lạc của Nhất thừa-Tam thừa…, đều do Đức Phật mà
được thành tựu. Nay dựa vào Lạc thứ nhất cho nên nói là Lạc của cõi trời, bởi vì đây là trời cõi Dục, cho nên lý thật nối thông. Lại nói Đức Phật là
Đệ nhất nghóa tịnh thiên, chính là Lạc ấy.

Mười, giáo hóa các Thiên tử, một niệm niệm Phật, gần thì rời bỏ nẽo ác, xa thì diệt hết ngu
si mê hoặc, cho nên gọi là lưu
thông thiện căn.

Trong tụng, trong kệ thứ nhất, nửa kệ đầu tụng về ba đời chư
Phật xuất hiện và Đại trí, câu tiếp tụng
về trú-diệt, đó là dựa theo thân
quốc độ của Phật, câu
sau cuối tụng về niệm hỷ.

Trong kệ thứ
hai, nửa kệ đầu tụng về Chúng sinh sắc và Như Lai sắc, nửa kệ
sau tụng về lực công đức thanh tịnh và kết luận về người đạt được pháp. Lại câu đầu hiển bày về
thanh tịnh, câu tiếp hiển bày
về hai sắc, nghóa là đã
ứng hiện chính là sắc của chúng sinh, câu tiếp
hiển bày về lực công đức.

Trong kệ thứ
ba, câu đầu tụng về Đại Từ, câu tiếp tụng về
bình đẳng, câu tiếp tụng
về che mát, câu sau cuối là kết luận về người thấy pháp.

Trong kệ thứ
tư, nửa kệ đầu tụng về nghó đến thế lực rộng
khắp của Đức Phật, nửa
kệ sau tụng về đày đủ sắc màu của nhiều ánh
sáng và kết luận.
Trong kệ thứ năm, câu đầu tổng quát tụng về
nghiệp báo,
câu tiếp tụng về quán,
nửa kệ sau riêng biệt tụng về báo của thiện nghiệp và quán.

Trong kệ thứ
sáu, nửa kệ đầu tụng về quốc độ của chư Phật,
bởi vì Trí chánh giác
tức là Khí thế gian, nửa kệ sau tụng về đầy đủ
thanh tịnh, đó là thọ
dụng thanh tịnh và kết luận, bởi vì Niệm là tên
gọi của vị trời.
Trong kệ thứ bảy, câu đầu tụng về quán, câu tiếp tụng về
thế gian, hai câu sau tụng
về sinh diệt, nói ứng cơ là nghóa về sinh diệt, lại bởi vì khiến cho trí phát
sinh-phiền não diệt, Diệu Âm là tên
gọi của vị trời.
Trong kệ thứ tám, câu đầu tụng về dấy khởi các hành, câu
tiếp tụng về giáo hóa
chúng sinh, Phật tử hãy còn là nhân, nửa kệ sau
tụng về khởi niệm và
kết luận về tên gọi của vị trời.

Trong kệ thứ
chín, hai câu tụng về tất cả thú vui của cõi trời,
hai câu tiếp tụng về
nhân của niềm vui, câu sau cuối kết luận về người đạt được pháp.

Trong kệ thứ
mười, nửa kệ đầu tụng về giáo hóa cõi trời, nửa
kệ sau tụng về thiện căn
lưu thông, Tuệ Nhật là tên gọi của vị trời.

Thứ mười một, Nhật Thiên Tử có mười: Một,
Tuệ Nhật phát ra ánh
sáng chiếu rọi chúng
sinh hải, tánh cùng tận ba đời, bởi vì vị lai khó biết cho nên riêng biệt nêu ra mà
thôi. Phù hợp với
duyên khởi vốn có an trú vững vàng thâu nhiếp công đức cho nên nói là chánh trú
trang nghiêm.
Vả lại, ánh
sáng trí tuệ của Đức Phật chiếu rọi căn cơ, khiến cho chúng
sinh tận cùng thời gian vị lai
đích thực trú trong tu
hành trang nghiêm. Hai, chiếu rọi
sắc tức là giống như
biển Tát-bà-nhã.
Lại dùng biển trí chiếu rọi
hiện rõ các sắc. Lại chiếu rọi sắc của chúng sanh mà biết tâm ấy. Lại chiếu rọi thấy
sắc nước trong lỗ tâm, cũng biết
tâm niệm, khiến cho khai
ngộ phát sinh Đại trí, cho nên nói như vậy. Trong
tụng thuận theo ý này.

Ba, Đức Phật
là tăng thượng duyên, phát khởi công đức làm cho chúng
sinh rời xa thua kém thuận theo thù thắng lìa nhiễm, cho nên
nói là càng thêm thù
thắng. Lại thân Phật xuất thế gọi là phát khởi chúng sinh, bởi vì Phật là Đại thân của
chúng sinh, thuyết pháp làm lợi ích
cho chúng sinh gọi là đức
thanh tịnh càng thù thắng. Bốn, khổ hạnh là nhân, Độ có hai nghóa: Một là nghóa của đến,
 bởi vì đến ranh giới khổ hạnh là cửa ngõ của nhân này; hai là nghóa của vượt qua,
bởi vì vượt lên trên nhân đạt được quả.

Năm, vô ngại
là Thể của trí, chiếu rọi khắp nơi là Dụng của trí. Lại chiếu rọi một pháp thì hiện rõ tất cả cho nên nói là vô ngại, vô
ngại ngay nơi chiếu rọi
gọi là chiếu rọi khắp nơi. Lại biện tài vô tận gọi
là vô ngại, thuyết pháp đầy đủ tất cả gọi là chiếu rọi khắp nơi.
Trong tụng thuận theo ý này.

Sáu, ánh sáng của Đức Phật chiếu rọi căn cơ khiến cho gợi mở ý đạo.

Bảy, nhờ ánh sáng của Đức Phật chiếu rọi khiến cho chúng
sinh
tăng trưởng thiện căn gọi là tích tập… Lại bởi vì Đức Phật trải qua nhiều kiếp tích lũy công đức, mà có được ánh
sáng
soi chiếu thế gian, cho
nên có năng lực chiếu rọi. Tám, biển tánh đầy đủ công đức đáng quý gọi là vật báu, ứng
với cơ lập tức hiện
rõ về giáo nghóa của y-chánh. Chín, khéo léo trừ diệt ngu
si tăm tối gọi là mở bày ánh
mắt trong sáng, khiến cho thấy được chân lý gọi là quán
Pháp giới tạng.
Pháp giới tạng như Phật Tánh
luận nói: “Năm tạng…” Mười, do nhiều căn mà cảm, năm Thừa cuối cùng quy
về một mối, bởi vì các Thừa đều
thanh tịnh, cho nên gọi là Thừa thanh
tịnh. Nhưng cũng phân một
làm năm, lại không có gì xen tạp cho nên
cũng nói là thanh tịnh.
Tụng có mười một kệ, trong kệ thứ nhất câu đầu tụng về tận
cùng thời gian vị lai; câu
tiếp tụng về chiếu rọi chúng sinh mười phương, bởi vì chúng
sinh thế gian tức là
Khí thế gian, hai văn cùng nêu ra; câu
tiếp tụng về chánh trú,
bởi vì cơ duyên khế hợp, câu sau cuối tụng về trang nghiêm.
Trong kệ thứ hai, nửa kệ đầu tụng về chiếu rọi
các sắc, nửa kệ
sau tụng về biển trí Vô thượng.

Trong kệ thứ
ba, nửa kệ đầu tụng về dấy khởi chúng sinh, nửa
kệ sau tụng về công đức thanh tịnh càng thêm thù thắng, lại cũng có thể
là dấy khởi chúng sinh.
Trong này lược qua không có tụng.
Trong kệ thứ tư, nửa kệ đầu tụng về khổ hạnh, đó là bởi vì
khó thực hành. Hạnh khó
thực hành này có bốn loại:
1-Thời khó bởi vì như trải qua Vô số kiếp;
2-Xứ khó bởi vì như trải qua trong các cõi;
3-Thực hành khó bởi vì như trải qua khổ hạnh khó thực hành;
4-Hướng về khó bởi vì như trải qua làm chúng sinh. Nửa kệ sau tụng về niềm vui vượt qua, đó là quả.
Trong kệ thứ năm, câu đầu tụng về không có
chướng ngại, ba câu

còn lại tụng
về chiếu rọi khắp nơi.
Trong kệ
thứ sáu, nửa kệ đầu tụng về ánh
sáng mặt trời thanh
tịnh soi chiếu, nửa kệ
sau tụng về thân chúng
sinh đã chiếu rọi và
tướng của lợi ích.

Trong kệ thứ
bảy, câu đầu tụng về thế gian đã chiếu rọi, ba câu còn lại đều tụng về ánh
sáng có năng lực chiếu rọi và tích
tập công đức.

Trong kệ thứ
tám, câu đầu tụng về các biển quý báu, ba câu còn lại đều tụng về hiện rõ cảnh giới của các
loại sắc, nghóa là tánh hải
hợp với cơ, pháp vốn
như vậy hiển bày rõ ràng về giáo nghóa của
y-chánh, cho nên nói là pháp như vậy.
Trong kệ thứ chín, nửa kệ đầu tụng về mở bày ánh mắt trong
sáng cho tất cả các nẽo,
nửa kệ sau tụng về quán Pháp giới tạng.
Mười có hai kệ, kệ đầu tụng về các Thừa của
chúng sanh, nghóa
là năm Thừa phương
tiện; kệ sau tụng về thanh tịnh, nghóa là hội tụ
ngọn quy về gốc… Lại
đầu là Đồng giáo, sau là Biệt giáo, bởi vì không
hai cho nên thanh tịnh.

Thứ mười hai, Nguyệt Thiên Tử có mười:
Trong má»™t,
trước hết dùng gia hạnh để điều phục tâm ấy,
sau đó khiến cho đích thực chứng nhập gọi là chiếu rọi pháp giới.
Lại chiếu rọi khắp nơi có ba loại: Một là ánh
sáng chiếu rọi chúng
sinh khiến
cho thấy Phật; hai là chiếu rọi diệt trừ
si hoặc, hai loại này gọi là điều
phục chúng sanh; ba là
chiếu rọi hiện bày pháp giới khiến cho hòa vào chân lý.

Trong hai, quán
sát khắp nơi là trí có năng lực
quán sát(năng quán), tất cả… là cảnh đã
quán sát. Thâu nhiếp là dùng trí rộng khắp này thâu nhiếp hội tụ các pháp, giống như
Phổ Môn kia tất cả đều
là cảnh giới của trí rộng khắp.

Trong ba, tâm và cảnh giới, hoặc có lúc tâm chuyển mà
cảnh không chuyển, như
mười Nhất thiết nhập…, hoặc cảnh chuyển mà
tâm không chuyển…; hoặc cả hai cùng chuyển… Lại tâm niệm rất nhiều gọi là biển, là thụ động duyên với tâm trí của
Phật khác, cho nên nói
là cảnh giới, xứng với
căn trao cho pháp khiến rời bỏ Vọng mừng vui
với Chân gọi là Chuyển.
Trong tụng thuận theo ý này. Bốn, trí vô phân biệt đích thực hướng đến chân lý gọi là Ái lạc,
Ái này vượt lên trên
tình gọi là không nghó bàn. Lại Chánh trí thích chứng cảnh không
suy nghó ấy mà gọi tên. Trí này nhờ vào pháp thanh tịnh của Phật mà
sinh khởi, cho nên nói là có thể
sinh khởi. Lại những niềm

vui kia của
thế gian đều dựa vào Phật mà sinh ra, đều gọi là
không thể nghó bàn.

Năm, Phật khiến cho chúng sinh thấy đạo lý của hai Đế, cho nên nói là thật thấy. Nhưng thấy tức là thật, lại vốn là thật của thấy.
Lại hai Đế, ba tánh và ba vô
tánh đều có nghóa thật, phân rõ từng loại một.

Trong sáu, Đại
Từ Bi, Phật Tánh luận nói: “Đối với khổ đã
nhận chịu thì cứu giúp
khiến cho thoát khỏi, đối với khổ sẽ nhận chịu thì
bảo vệ khiến cho tránh
khỏi.” Khổ do năm Thức, não do Ý địa, cả hai
cùng cứu giúp. Lại cứu
giúp khổ-bảo vệ vui không để cho mất đi, đều
gồm chung nhân quả. Bảy, pháp-dụ cùng đưa ra, tháng tư lạ lùng, như
sau dựa theo phân rõ.

Trong tám, ba tánh quán về các pháp, trước quán về Y tha như
huyễn hóa, hóa không nhờ vào vật cho nên
khác huyễn, bởi vì trong Y tha đầy đủ hai nghóa về có lực và không có lực. Lại không có
Thể như huyễn, có Dụng
như hóa, Chân như có hai nghóa về Không và
Bất Không, nay tạm đưa ra
một cho nên nói là Không. Biến kế cũng có hai
nghóa, đó là tình có-lý không có, nay dựa theo lý
hiển bày cho nên nói là không có.

Trong chín, đã
khởi lên có hai nghóa: Một là do nghiệp
thiện-ác huân tập khởi lên
Thức vốn có,
sinh khởi quả báo. Bởi vì thuận
theo duyên cho nên tức là
không khởi lên, nhưng khéo thông hiểu về phạm vi này cho nên nói là khéo léo hiểu rõ. Lại có kinh vốn nói là
hướng đến (thú), đó
là bởi vì từ nhân hướng đến quả, và rời xa
tà hướng đến chánh.

Mười, chiếu rọi lý đoạn nghi, vượt qua phiền não cấu nhiễm. Trong tụng có tám kệ. Kệ thứ nhất tụng về pháp môn thứ nhất,
trong đó ba câu đầu tụng về điều phục
chúng sinh, một câu
sau tụng
về pháp giới đã chiếu rọi.
Trong kệ thứ hai, nửa kệ đầu tụng về quán
sát thâu
nhiếp khắp nơi, câu tiếp tụng về tất cả các pháp, câu
sau cuối tụng về cảnh giới,
đó là lấy chúng sinh đã
giáo hóa làm cảnh.
Trong kệ thứ ba, nửa kệ đầu tụng về cảnh giới của biển tâm
chúng sinh, nửa kệ sau
tụng về tất cả đều khiến cho chuyển.

Trong kệ thứ
tư, nửa kệ đầu hiển bày về việc đã làm, nửa kệ
sau chính thức trình bày
có thể sinh khởi Ái lạc không thể nghó bàn.

Trong kệ thứ
năm, câu đầu tụng về làm cho chúng sinh, hai
câu tiếp tụng về thật,
câu sau cuối tụng về thấy, cũng là kết luận về người
đạt được
pháp. Trong thật, câu đầu là phân biệt tức là suy xét tìm
tòi, nghóa là suy xét tìm
tòi về thế gian tức là không có tánh cho nên
thấy Chân; câu tiếp là
nghiệp quả không mất cho nên thấy Tục.
Trong kệ
thứ sáu, vượt lên tụng về hai pháp
môn sau, trong đó nửa kệ đầu tụng về pháp môn thứ chín trước đây có thể biết, nửa kệ
sau tụng về pháp môn thứ bảy trước đây. Câu trước tụng về không
có si, câu
sau tụng về vầng trăng
thanh tịnh, nghóa là Tuệ khéo léo trong lành.
Kệ thứ bảy,
lùi lại tụng về pháp môn thứ sáu có thể biết.

Trong kệ thứ
tám, câu đầu tụng về pháp môn thứ tám, ba câu
sau tụng về pháp môn thứ
mười, đó là hai câu đầu tụng về chiếu rọi
vượt qua, câu sau tụng
về diệt trừ nghi ngờ, bởi vì lìa xa nghi ngờ hỗn
loạn, cho nên nói là
nhìn thấy thanh tịnh.

Thứ mười ba, chúng
Thiên Vương ở Đông phương có mười.
Tiếng Phạm gọi
là Đề-đầu-lại-tra,
Trung Hoa nói là
Trì Quốc Chủ, thuận theo sự thống lãnh
làm tên gọi. Trời này thân cao nửa Do-tuần, áo
dài một Do-tuần, rộng
nửa Do-tuần, áo nặng hai phân, ăn cam lồ, lấy
năm mươi năm ở nhân
gian làm một ngày đêm, cũng lấy ba mươi ngày
làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, như vậy thọ mạng là
năm trăm tuổi. Vương này thống lãnh hai bộ quỷ, một gọi là
Càn-thát-bà, hai gọi
là Tỳ-xá-xà. Càn-thát-bà,
Trung Hoa nói là
Tầm Hương, nghóa
là những người làm
trò vui tìm theo mùi thơm của đồ ăn thức uống nơi nhà
người khác, liền đi đến chỗ ấy làm trò vui cho người khác mà
có được thức ăn ấy,
cho nên lấy làm tên gọi; cũng gọi là Thực Hương, chỉ ăn mùi hương vi tế, ở trong mười núi báu, thường vì chư
Thiên luôn luôn tấu nhạc, thân
có tướng khác lạ tức là bay lên trời.

Trong pháp môn, một là dùng âm nhạc của pháp khéo léo thâu nhiếp
chúng sinh, lại khiến cho thấy pháp Lạc của Chánh đạo
để tự mình vui thú. Hai, phước trí
sáng ngời đẹp đẽ. Lại có đủ mười loại trang
ng- hiêm, nói như phẩm Minh Pháp.

Trong ba, dá»±a
theo phàm thuận với dòng chảy sinh ra vui mừng, trái
ngược mất đi sinh ra lo buồn; Nhị thừa đối với
tịch diệt sinh ra
vui mừng, đối với lưu
chuyển sinh ra lo buồn. Nay cả hai đều khiến cho lìa xa, nên suy nghó.

Bốn, nói pháp rất sâu xa, diệt trừ cấu nhiễm như chín Kiết-mười Sử… Trong năm có hai, đó là người mong
sinh lên cõi trời, vì họ nói
về Tịnh độ
để điều hòa hy vọng ấy; người mong cầu Nhị thừa thì dùng

Nhất thiết trí để điều hòa hy vọng ấy. Sáu, nhờ thấy Phật đạt được niềm vui vô tận, cho nên nói là
tất cả niềm vui; y theo
đây tu nhân có thể thâu nhiếp quả, cho nên gọi là Tạng; quả hợp với nhân mà khởi gọi là
Chánh trú, có tác dụng vừa
lòng hợp ý cho nên nói là Hỷ Quang.

Bảy, rưới pháp thanh tịnh khắp nơi mười phương thế giới.

Tám, thân trở về trọn vẹn ứng hiện khắp nơi vô tận mà gọi
tên, trí rộng lớn là
bởi vì ngang thì nối liền mười Đế, dọc thì bao
gồm năm Thừa.

Trong chín, cây là cây Bồ-đề, Đức Phật dùng phương tiện làm tăng trưởng tâm Bồ-đề của
chúng sinh, gọi là nuôi lớn cây; đạt
được quả gọi là Hỷ,
Dụng thù thắng gọi là Quang.

Mười, quay lại làm lay động kiếp hải, là cảnh Phật đã làm ra cho nên nói là hành, khiến cho chúng
sinh thấy cảnh giới này không còn
đau khổ mãi mãi an lành
là cảm nhận niềm vui. Lại cũng có bản viết là
Ái lạc, nghóa là khiến
cho nhìn thấy cảnh giới này khởi lên hy vọng
chính đáng cho nên gọi tên.

Tụng có mười
kệ, đều tụng về một pháp môn. Trong kệ thứ nhất, ba câu đầu tụng về
phương tiện, đó là câu đầu về nhiều, câu
tiếp về sâu, câu
sau về rộng; câu
sau cuối tụng về thâu nhiếp thú vui
của chúng sinh.

Trong kệ thứ
hai, câu đầu tụng về Thể trang nghiêm trong biển công đức của Phật, câu tiếp trình bày về
Tướng của đức, hai câu
sau phân rõ về Dụng của đức.
Trong kệ thứ ba, câu đầu tụng về tâm buồn lo-vui mừng của
chúng sinh, câu tiếp tụng
về chữ Lìa, hai câu sau trình bày về nguyên cớ của lìa xa.

Trong kệ thứ
tư, nửa kệ đầu trình bày về duyên có năng lực
diệt trừ, câu tiếp chính
thức tụng về diệt Kiết-Sử, câu sau cuối trình bày
về nhân diệt trừ phiền não.
Trong kệ thứ năm, nửa kệ đầu dùng Tịnh độ để điều phục, nửa
kệ sau dùng Chủng trí để điều hòa.

Trong kệ thứ
sáu, nửa kệ đầu tụng về tất cả niềm vui, nửa kệ
sau tụng về đích thực an
trú trong Hỷ Quang.

Trong kệ thứ
bảy, nửa kệ đầu trình bày về cơ đã che phủ, tức là nơi mưa vật báu, tụng về tất cả
các phương; nửa kệ
sau trình bày về
vật báu đã mưa xuống,
Tràng là tên gọi của Thiên Vương.
Trong kệ thứ tám, nửa kệ đầu tụng về hiện rõ thân vi diệu, nửa kệ

sau tụng về trí rộng.

Trong kệ thứ
chín, ba câu đầu tụng về các cây được nuôi lớn,
câu sau cuối tụng về Hỷ Quang.
Trong kệ thứ mười, nửa kệ đầu tụng về hành thuộc cảnh giới
Phật, nửa kệ sau tụng
về đều làm cho chúng sinh cảm nhận niềm vui.

Thứ mười bốn, Thiên Vương ở Nam phương, thuận theo sự thống lãnh làm tên gọi, còn lại phân rõ như trên, có mười: Một là dùng lực
của Nhẫn trí để trừ
Mạn-diệt tranh cãi. Hai, biển hạnh Tự-tha gọi là tất cả các hạnh, môn Từ dấy
khởi hạnh này cho nên
nói hiện rõ trước mắt. Lại hạnh có thể đạt được
quả cũng gọi là hiện rõ trước mắt.

Ba, tà chấp trong năm nẽo từ những tự tánh mà sinh khởi, nay chỉ trình bày về tự tâm của các nẽo biến đổi khởi lên cho nên nói là
chánh. Lại điều hòa các
chúng sinh đích thực hướng đến ý ấy cho nên gọi
tên. Trong tụng thuận theo ý này. Bốn, thiện ác bình đẳng. Bình đẳng ấy là vô ký. Bởi vì ba
tánh này tức là Như cho
nên nói là thanh tịnh. Lại thiện là pháp thanh tịnh Niết-bàn, ác là pháp cấu nhiễm
sinh tử. Bởi vì cả hai đều không
có tánh, dung hòa thâu
nhiếp vô ngại, cho nên nói là bình đẳng, nhưng
có đủ tánh đức cho
nên nói là thanh tịnh. Lại bởi vì hai pháp thiện ác đều có thể làm pháp luân cho nên nói là bình đẳng, pháp luân lợi ích
chúng sinh cho nên nói là
thanh tịnh. Trong tụng thuận theo ý này.

Năm, trừ ngu
si thấy chính xác gọi là Vô úy, khiến cho vónh viễn lìa khổ gọi là an ổn, đạt được trí thanh tịnh của Phật gọi là
trang ng- hiêm.

Sáu, ái tưới
thấm sinh tử sâu rộng như biển, tâm ái mạnh mẽ
như lửa hừng hực, như
đốt cháy đền thờ Trời…, Phật dùng thân trí
chiếu soi khiến cho vónh viễn không còn cho nên nói là trừ diệt, Sa-la là nơi
Niết- bàn diệt ái. Bảy, thân Phật ứng hiện khắp nơi tất cả các nẽo, dựa vào thân phát ra ánh chớp gọi là chiếu rọi rõ ràng, tiếng
sấm mưa pháp
gọi là mây.

Tám, phổ là Thể của ánh sáng cùng khắp, chiếu là Dụng của
ánh sáng trừ hết mê hoặc. Chín, cứu khổ ban vui gồm chung gọi là Đại Từ, gặp trái
ngược không thay đổi gọi là không
thối chuyển, môn Từ thâu nhiếp nhiều đức cho nên gọi là tạng, nhiều kiếp tu hạnh này khiến cho hiện rõ
gọi là khởi.

Mười, hiện thân khắp mười phương gọi là khởi, ở tất cả các
nẽo mà không có đến-đi
gọi là việc đã làm, lại ở nơi ấy thâu nhiếp
chúng sinh cũng gọi là việc đã làm.

Trong tụng có
mười kệ, đều tụng về một pháp môn. Trong kệ thứ nhất, ba câu đầu tụng về năng lực diệt trừ
tranh chấp, câu
sau cuối
trình bày về tướng của lợi ích.
Kệ thứ hai,
nửa kệ đầu tụng về tất cả các hạnh, câu trước
là Tự hành, câu
sau là
Lợi tha; nửa kệ
sau tụng về hiện rõ trước mắt, câu
trước là Từ có thể
hiện rõ về hạnh, câu sau là hạnh có thể hiện rõ về quả.
Kệ thứ ba,
đích thực hướng đến ý ấy vì thế khiến cho hoan hỷ.
Kệ thứ tư, nửa kệ đầu tụng về pháp thiện ác, nghóa là
Phật lực hiện rõ pháp ác
cho nên khó nghó bàn, câu tiếp tụng về bình dẳng,
câu sau cuối tụng về thanh tịnh.

Trong kệ thứ
năm, nửa kệ đầu tụng về không sợ chúng sinh, câu tiếp tụng về an ổn, câu
sau cuối tụng về
trang nghiêm, nghóa là
trí thanh tịnh.

Kệ thứ sáu, câu đầu tụng về biển ái, câu tiếp tụng về trừ diệt,
nửa kệ sau phân rõ về
tướng của lợi ích. Bảo Thọ là tên gọi của vị trời.

Kệ thứ bảy, câu đầu là ứng đến tất cả các nẽo, câu tiếp
là phương tiện, giáo hóa chúng
sinh gọi là chiếu rọi rõ ràng, câu tiếp tụng về
mây, câu sau cuối là kết
luận về người đạt được pháp.
Kệ thứ tám,
câu đầu tụng về Phổ, câu tiếp tụng về Chiếu, nửa
kệ sau tụng về đã hiển bày rõ ràng.
Kệ thứ chín,
câu đầu tụng về dấy khởi Đại Từ, trước là
Từ ở đây là Bi, văn làm đẹp lẫn nhau mà thôi; hai câu tiếp tụng về không
thối chuyển, mang lại niềm
vui-diệt trừ đau khổ, việc làm vốn không
trống rỗng cho nên gọi
là bất thối; câu sau cuối tụng về tạng, nghóa là
sinh
ra đức thanh tịnh như hoa nở rộ.

Kệ thứ mười, nửa kệ đầu tụng về dấy khởi tất cả các nẽo, không có đi-đến cũng là việc đã làm, câu tiếp cũng là việc đã làm, câu
sau cuối là kết luận. Vô
Lượng Môn là Thiên Vương, tức là hòa vào
biển Phật cho nên gọi là
Phật luôn luôn thấy.

Thứ mười lăm,
Tỳ-lâu-ba-xoa ở
Tây phương, Trung Hoa nói là Tạp
Ngữ Chủ, mới gọi là
Xú Mục, thống lãnh hai bộ: Một là
Phú-đa-na, Trung Hoa nói là
Nhiệt Bệnh quỷ; hai là tất cả các rồng. Theo kinh Tu Di Tạng, báo của rồng có năm loại hình dạng:
1) Thiện Trú Long Vương là tất cả Long Vương có hình dạng loài voi.
2) Nan-đà Long Vương, Trung Hoa nói là Hoan Hỷ, là tất cả Long Vương có hình dạng loài rắn.

A-na-bà-đạt-đa
Long Vương, Trung Hoa nói là Vô Nhiệt não, cũng gọi là
Thanh Lương, là tất cả
Long Vương có hình dạng loài ngựa.
Theo kinh Báng Phật:
“Long Vương này xa lìa ba loại lỗi lầm tai họa của các
rồng: Một là cát nóng không rơi trên đầu Long
Vương ấy; hai là không dùng hình dạng loài rắn để hành dục; ba là không
sợ
Ca-lầu-la.” Lại tất
cả các rồng ở Diêm-phù-đề đều có bốn khổ,
đó là ba khổ như trên, lại thêm gió thổi áo quý báu lộ bày thân
sống trong đau khổ, chỉ riêng
Long Vương này tránh được khổ não này, cho nên gọi là Thanh Lương.
Theo Trí Luận, Long Vương này là
Bồ-tát Trú thứ bảy.
4) Bà-lâu-na Long Vương, Trung Hoa nói là Thủy, là tất cả Long Vương có hình dạng loài
cá.
5-Ma-na-tô-bà-đế Long Vương, cũng gọi là Ma-na-tư, Trung Hoa nói là Từ Tâm, cũng gọi là Cao Ý, chính xác nói là Ma-na, nói là Ý,
đây nói là Cao, nghóa là có uy đức-ý cao hơn
rồng khác, là tất cả
Long Vương có hình dạng loài cóc. Lại như trong
Luật nói: “Các rồng lúc mới
sinh ra và lúc chết, ngủ và hành dục, bốn lúc này
không thể nào thay
đổi hình dạng, những lúc khác đều có thể thay đổi.”

Trong mười pháp môn, trong một có hai
giải thích: Một là dựa theo tướng diệt trừ hừng hực cứu nỗi khổ do cát nóng cho loài rồng, cứu
giúp sợ hãi, cứu nỗi khổ vì
Kim Sí điểu; hai là dựa theo thật diệt trừ ác
hừng hực cứu giúp
nhân của nẽo ác, câu sau cứu giúp quả của nẽo ác.

Trong hai, có bốn giải thích: Một
là có thể chuyển thân rồng hiện rõ
sắc ứng với cơ và đức thanh tịnh của Phật, gọi là không nghó bàn;
hai là có thể ở một
niệm thành tựu sự việc trên, cho nên cũng gọi là
không nghó bàn; ba là một lỗ chân lông hiện rõ cũng gọi là không nghó bàn; bốn là thân rồng tức là thân Phật, cho nên lỗ chân lông của Phật hiện
rõ thì gọi là chuyển
thân rồng, cũng là không nghó bàn.

Ba, tiếng thuyết pháp sâu xa, các nẽo đều nghe được.

Trong bốn, một là nêu rõ biển đức của chúng
sinh nơi lỗ chân
lông của Phật, hai là
thâu nhiếp chúng sinh đưa vào biển Đại công đức.
Năm, Đức-xoa-già,
Trung Hoa nói là Đa Thiệt, bởi vì có
nhiều lưỡi, hoặc bởi
vì ham nói cho nên gọi là nhiều lưỡi. Lại nói tên gọi là Năng
Tổn Hại, nghóa là
Long Vương này nếu lúc nổi giận, đối với
người thế gian dùng mắt
nhìn hay phun hơi đều làm cho phải mất mạng,
cho nên lấy làm tên gọi.
Ánh sáng thanh tịnh của trí Phật cứu giúp nỗi khổ sợ hãi ấy. Sáu, ở nơi thân Phật hiện rõ hình tượng chư Phật mười
phương, ngậm mưa tưới thấm căn cơ gọi là mây vô lượng, nhiều kiếp trang
nghiêm cõi nước gọi là vượt qua… Bảy, lỗ chân lông hiện rõ cõi nước gọi là an lập…, trong đó
thuyết pháp gọi là phân biệt…

Tám, pháp hợp với căn cơ chúng sinh vì thế khiến cho hoan
hỷ, bởi vì lìa nhiễm,
bởi vì biết đủ, bởi vì khéo léo chứng nhập.

Trong chín, một là dựa theo tánh đầy đủ quán
sát như nhau, hai
là dựa theo vì cơ như nhau.

Mười, chúng sinh vì sân giận che lấp-ngu si phủ kín, dùng Bi
độ thoát gọi là lìa
khổ. Vả lại, Long Vương này từ trong vảy và vỏ, chảy ra các dòng nước, ngày đêm không khô cạn, có ích lợi cho chúng
sinh
ở cõi Diêm-phù, cho nên gọi là Bi.

Trong tụng không theo thứ tự. Kệ thứ nhất-thứ hai tụng về pháp môn thứ nhất-thứ hai trước đây, có thể biết. Trong kệ thứ ba, nửa kệ
đầu tụng về Pháp luân
thanh tịnh, nửa kệ sau tụng về nghe tiếng. Kệ thứ tư
vượt lên tụng về pháp môn thứ mười có thể
biết. Kệ thứ năm-thứ
sáu tụng về hai pháp có thể biết. Trong kệ thứ bảy, nửa kệ đầu tụng về
hiện rõ mây, nửa kệ
sau tụng về trú thọ… Trong kệ thứ tám, nửa kệ đầu
tụng về an lập cõi nước,
nửa kệ sau tụng về phân biệt… Trong kệ thứ chín, nửa kệ đầu đưa ra nhân trước kia, nửa kệ
sau tụng về âm thanh
thiện ác, đều vì độ
sinh cho nên gọi là bình đẳng. Kệ thứ mười tụng về
pháp môn thứ tám trước đây có thể biết.

Thứ mười sáu, Đa Văn Chủ ở
Bắc phương, thống lãnh hai bộ:
Một là Dạ-xoa, Trung Hoa
gọi là Khinh Tiệp quỷ; hai là La-sát, Trung Hoa gọi là
Khả Úy quỷ, như
La-sát nữ đoạt mất tinh khí của người.
Trong vòm tim của chúng
sinh có bảy giọt nước ngọt, lấy đi một giọt
khiến cho đầu người đau
nhức, hai giọt khiến cho tim người khó thở, ba giọt khiến cho thân người phát bệnh, bốn giọt trở lên khiến cho
người sẽ chết. Trong tám Bộ này chỉ
có Khẩn-na-la, rồng và
Tỳ-xá-xà là
súc sinh, năm Bộ còn lại
đều là quỷ. Bởi vì Dạ-xoa và La-sát có nhiều
sức mạnh, cho nên chỉ hai
loại này mang lấy tên gọi là quỷ, vì thế văn
trên gọi hai loại này là
quỷ vương. Phương này có tám vua. Một, Lý trí là quán bình đẳng, Lượng trí là
phương tiện, đây là có năng lực cứu giúp, về
sau thành tựu
sự cứu giúp, đầu là lìa xa ác-tiếp
là thêm nhiều thiện.

Trong hai, một là ứng với cơ khắp nơi hiện bày thân thù thắng,
hai là cứu giúp chúng
sinh khắp nơi thành tựu lợi ích thừ thắng.

Trong ba, tinh
khí có hai:
1) Khí ác, đó là phiền não-nghiệp khổ. Bởi vì trong này là pháp môn của Dạ-xoa, cho nên có thể trừ diệt điều ấy.
2) Khí thiện, theo kinh Đại Tập nói: “Đế Vương trong nước cung kính thờ phụng
Tam Bảo, khiến cho ba loại tinh khí trong nước này
tăng lên: Một là khí
của đất, nghóa là ngũ cốc chín muồi thành tựu…; hai
là khí của con người,
nghóa là phiền não ít ỏi nhẹ nhàng, dung nhan
tươi sáng vui vẻ…; ba là khí của thiện căn, nghóa là thường
Chuyển pháp luân,
Tam Bảo hưng thịnh… Trong văn này dựa vào phát
sinh thiện
căn thuộc Bồ-đề phần gọi là sinh khí.

Bốn, trí quán
về đức của Phật, lời ca ngợi hiển bày pháp.

Năm, Lý trí quán xét chúng sinh tức là Pháp thân Phật, Lượng
trí soi chiếu nghiệp quả
của chúng sinh ở mười phương cho nên gọi tên.

Trong sáu, mang
lại niềm vui có hai: Đầu thì gạt bỏ tà-bày tỏ vui
với chánh, sau thì có thể giáo hóa khiến cho điều hòa vui vẻ.

Trong bảy, một là tùy ý giữ gìn tự Thể cố gắng vận dụng cứu
giúp chúng sinh, hai là duy trì vận dụng trí lực cứu giúp
chúng sinh, ba là phước trí của Phật, là duy trì đến cùng trong ba pháp duy trì của
luận Địa Trì.
Nhưng phước trí này vượt quá
chúng sinh, vì thế cho nên có
sức mạnh có thể cứu
giúp chúng sinh. Trong tụng thuận theo ý này.

Tám, nhiều kiếp tu nhân, nhân luôn luôn thuận theo quả cho
nên nói là Phật đầy đủ mười Lực.

Trong tụng theo
thứ tự đều tụng về một pháp môn. Hai kệ đầu có thể biết.
Trong kệ thứ ba, nửa kệ đầu tụng về đoạt mất tinh khí, nửa kệ
sau tụng về phát sinh khí thiện.

Trong kệ thứ
tư, nửa kệ đầu trình bày về quán sát xưa kia ca ngợi công đức của các Thánh, nửa kệ
sau trình bày nay thành tựu đức
của mình khiến cho người
khác quán xét khen ngợi.

Trong kệ thứ
năm, đầu là Lý trí, sau là Lượng trí. Trong kệ
thứ sáu, hai niềm vui có thể biết.

Trong kệ thứ
bảy, đầu là nhờ có sức mạnh cứu giúp vì thế
khiến cho phước thêm thù
thắng, sau là Tuệ sâu xa.
Trong kệ thứ tám, nửa kệ đầu trình bày về phát khởi tùy
thuận, nửa kệ sau trình
bày về lực của Phật.

Thứ mười bảy, chúng Lực Só có mười: Một, nêu ra Sắc thân Phật xuất thế.

Hai, má»—i má»™t
lỗ chân lông lại hiện bày sắc màu sáng ngời.

Trong ba, Pháp
thân không bến bờ gọi là lìa xa cấu nhiễm,
khởi lên công dụng ứng
hiện khắp nơi gọi là tự tại…

Trong bốn, âm thanh trong trẻo có bốn nghóa, đó là
sâu-rộng-tuyệt vời-lợi ích, đều không thể
suy lường. Sau trong tụng bốn câu như thứ tự nên biết.

Trong năm có
hai, đầu là trong Xứ hiện thân, sau là trong
chúng thuyết pháp, đều
có nhiều môn cho nên nói là đủ loại. Sau trong
tụng đều dùng hai câu
như thứ tự nên biết.

Trong sáu có
hai, một là thâu nhiếp tướng quy về Chân, cho
nên tất cả đều hòa
vào tướng khác của Chân; hai là từ Chân khởi lên
công dụng, cho nên không
có Chân nào không hòa vào công dụng khác của Chân, vì thế mà gọi tên. Trong tụng như thứ tự đều hiển bày về
hai câu có thể biết.
Trong bảy,
chuyển đổi tình trú vào pháp gọi là nêu ra, thật
sá»±
nối thông tất cả dựa
vào thanh tịnh gọi là Thiên.

Trong tám, đầu là Thể của công đức, ở đây có đủ
nhân quả. Trong tụng, hai câu đầu là nhân, một câu tiếp là quả, chiếu rọi rộng rãi
là dụng. Trong tụng một
câu cuối là hiển bày.

Trong chín, hiện rõ cõi và thân của Phật khiến cho căn cơ diệt trừ pháp ác-trú vào
pháp thiện.
Trong tụng, đầu là hiện rõ về cõi,
sau
là hiện rõ về thân.

Mười, mây sáng ngời khắp nơi thế gian, rưới mưa pháp quý
báu, vì thế mà gọi tên.
Trong tụng mười kệ đều tụng về một pháp môn, như trước nên biết.

Thứ mười tám, trong chúng
Phổ Hiền, vì
sao trong chúng trước
đây mỗi người đều đạt được một pháp, trong chúng này một người có
đủ nhiều pháp? Bởi vì
chúng trước đây là riêng biệt trong tổng quát,
vốn là Dị sinh; chúng này
là tổng quát trong riêng biệt, vốn là Đồng
sinh. Lại vì
sao trước đây nêu ra
nhiều người, ở đây chỉ có một người?
Bởi vì người này là hình
thể ở phần vị của đạo, công đức nêu khắp tất cả
các môn, làm sáng tỏ
một tức là tất cả, tất cả tức là một, vốn là dùng tất
cả để thu nhận riêng biệt.
Trong văn có hai, đó là
Trực thuyết và
Trùng tụng. Trong phần trước có hai: Đầu
là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong tổng quát:
Đầu là Tự phần, sau là Thắng tiến.

Trong riêng biệt có mười môn: Một,
cõi trang nghiêm-điều
phục chúng sinh, hai loại tức là nhau (tương tức) này dung hòa làm thành
bốn câu phân biệt, có thể biết. Hai, xứng với Phật khởi lên công đức của Phật khắp nơi
trần sa thế giới.

Trong ba, năm
phần vị-mười Nguyện, hai Hạnh có thể biết.

Trong bốn, một
môn có tất cả các môn gọi là Phổ Môn, trong
đó hiện rõ một thân
tức là tất cả các thân gọi là Pháp giới thân, thân
đều rưới mưa pháp cho nên gọi là mây. Năm, thân làm ra các cõi gọi là hộ trì cõi, trong đó lại dùng
ba Luân điều phục giáo
hóa, vì thế mà gọi tên.

Sáu, hiện thân khắp các Đại hội của các cõi Phật gọi là hiện
rõ trong chúng, thuyết về
Bổn hạnh Bồ-tát Nhất thừa này gọi là cảnh giới của Bồ-tát.

Trong bảy, sinh
diệt là vô cùng ngắn ngủi, ba đời kiếp là hết
sức lâu dài, một niệm nhận biết là nhận biết vô cùng mau chóng.
Trong này, nhận biết có
ba nghóa: Một là cùng tận thời gian dài-ngắn kia,
hai là nhận biết về pháp
ấy tức là nhau-hòa vào nhau, ba là thông hiểu
về tánh bình đẳng của
pháp ấy. Bởi vì ba nghóa này không hai. Tám, căn dục của Bồ-tát là chủ động quán, biển cảnh giới là
pháp đã quán, phân rõ
riêng biệt hai loại này gọi là hiển bày về phân
biệt. Trong này hoặc là nêu ra cảnh trình bày về căn, hoặc là nêu ra căn
chọn lấy cảnh, hoặc là
cùng hiển bày có thể biết.

Trong chín, thân có hai:
Một là Tánh, hai là Dụng. Pháp giới
cũng có hai: Một là Lý, hai là Sự. Như thứ tự hai thân khắp nơi hai pháp giới, hai pháp giới hai thân tự nhiên tức là nhau. Bốn câu phân biệt về
vô ngại nên suy nghó.
Trong mười,
đầu là mở rộng trình bày về pháp ở nhân vị,
sau từ “Nhập nhất thiết…” trở xuống là trình bày về quả hợp với nhân ấy.
Lại đầu dùng một lời để nói về tất cả các môn gọi là
rộng nhiều…,
sau
trong mỗi một môn lại
hiển bày tất cả các pháp gọi là hòa vào… Trong
tụng thuận theo giải thích về ý sau.
Trong tụng có hai mươi kệ, hai kệ một theo thứ tự tụng về
một pháp môn, bởi vì nhân quả không hai, Thể của pháp hoàn
toàn thâu nhiếp, cho nên
Trực thuyết là hiển bày về nhân, Trùng tụng là trình
bày về quả, văn làm
đẹp lẫn nhau mà thôi.

Trong hai kệ
thứ nhất, một kệ đầu là trang nghiêm quốc độ,
một kệ sau là điều phục chúng sinh.
Trong hai kệ thứ hai, một kệ đầu là đến nơi chư Phật, nghóa
là thấy giống như đến;
một kệ sau sinh khởi công đức.
Trong hai kệ thứ ba, một kệ đầu là dựa vào phần vị khởi
hạnh; một kệ sau là y
theo hạnh tiến vào chứng.

Trong hai kệ
thứ tư, hai câu đầu tụng về Phổ môn, bốn câu tiếp tụng về
Pháp giới thân, hai câu
sau cuối tụng về mây, bởi vì rưới xuống

mưa pháp cho
nên gọi là giáo hóa dẫn dắt…

Trong hai kệ
thứ năm, một kệ đầu tụng về giữ gìn cõi Phật,
một kệ sau là lần lượt phương tiện.

Trong hai kệ
thứ sáu, một kệ đầu tụng về hiển hiện trong
chúng, một kệ sau là
cảnh giới của Bồ-tát.
Trong hai kệ thứ bảy, trong mỗi kệ đều nửa kệ đầu là pháp
đã nhận biết, đó
là dài-ngắn, nửa kệ
sau là có năng lực nhận biết, đó
là đạt được Chân.

Trong hai kệ
thứ tám, một kệ đầu tụng về căn dục của
Bồ-tát, kệ này cùng với trường hàng chỉ là văn
làm đẹp lẫn nhau mà thôi; kệ
sau trình bày về biển cảnh giới.

Trong hai kệ
thứ chín, một kệ đầu là Thể rộng khắp, một kệ
sau là Dụng đầy đủ.
Trong hai kệ thứ mười, một kệ đầu tụng mở rộng phân rõ về
pháp của Bồ-tát, một
kệ sau trình bày về tiến vào Nhất thiết trí. Lại
cũng có thể tụng gồm chung.

Trong này giải
thích về phạm vi của Phổ Hiền, dùng tám môn để
trình bày về Nhân-đà-la võng, có thể biết: Một
là Lý, hai là Độ, ba
là Thân, bốn là Giáo,
năm là Pháp, sáu là Hạnh, bảy là Thời, tám là
Sự; Sự tức trần sa…
Luận rộng về ý chính, dựa theo văn
có hai: Một, chỉ có
sử-tập- phiền não-nhiễm
nghiệp và báo đều đưa vào cảnh phàm; hai, tự
tách mình ra đưa vào cảnh Thánh. Trong Thánh có hai,
đó là Lý và
Lượng, hai loại này đều có hai pháp, cảnh giới
Nhân-đà-la võng là
Lượng trong Lý và một phần
trong Lượng mà thôi, có thể dựa theo suy nghó.

Thứ hai, trình
bày về chúng bên trong như Hải Tuệ…, bởi vì
hiển bày nhân-quả cùng
Thể, y-chánh vô ngại, cảnh-trí không hai, lầu
quán duyên khởi nhân
bên trong-quả bên ngoài, bên trong tức là bên
ngoài cho nên sinh ra Bồ-tát.

Trong văn có ba: Một là
trình bày về nơi sinh ra, hai là người
đã sinh ra, ba là phát khởi cúng dường.

Trong phần một:
1-Tòa ở bên trong lầu quán, bởi vì đây là trú xứ riêng biệt của Như Lai;
2-Lầu quán tức là tòa, như trên nói chính là tòa báu. Trong phần hai là đã sinh ra có ba, đó là nêu ra
số-nêu ra tên
gọi- kết luận về số.
Trong phần ba là cúng dường có ba, đó
là thân-ý-khẩu, một nghiệp đầu là Tài, hai nghiệp
sau là Pháp.

Trong phần trước là thân nghiệp, có hai: Đầu
là chính thức cúng dường,
sau từ
“Tùy sở…” trở xuống là quy về vắng lặng.
Trong phần đầu là ba Đại: Một là cúng dường Đại, hai là tâm Đại, ba
là ruộng phước Đại.

Trong phần một là cúng dường, có hai: Đầu
có năm sự, đó là
rải hoa-đốt hương-phát ra ánh
sáng-trỗi nhạc-mưa báu như văn,
những loại này đều là
trạng thái của pháp môn duyên khởi, đó gọi là hoa
của hạnh, hương của
giới, ánh sáng của trí, âm thanh của lời nói và vật báu là pháp đã nói, nhưng cũng không làm hỏng
sự tướng của hoa…
Sau là trình bày về phần
lượng của cúng dường. Trong phần lượng, đầu
là trình bày về cúng
dường nhiều, sau là trình bày về cúng dường rộng.

Sau từ “Giai
đại hỷ…” trở xuống là trình bày về tâm
Đại-ruộng phước Đại.
Trong ruộng phước, trước là Phật, sau là đại
chúng, đều có thể biết. Hỏi:
Vì sao chúng bên ngoài không phân rõ về cúng dường tài
vật mà trong này nói đến? Đáp: Bởi vì chúng bên ngoài cúng dường tài vật không phải
là hiển bày về thù
thắng, chúng bên trong cúng dường tài vật hiển bày về đặc biệt khác lạ, cho nên ở đây hiển bày
riêng biệt.
Văn sau mưa
xuống đồ vật cúng
dường… là luận chung.
Trong phần hai là ý nghiệp cúng
dường pháp, có hai: Trước là
pháp, sau là cúng dường.
Trong pháp có hai: Trước là trình bày về pháp đã đạt được,
sau
từ “Cụ túc…” trở
xuống là kết luận thành tựu đầy đủ.

Trong pháp đã đạt được, có hai:
1-Dá»±a
theo cảnh nêu rõ môn,
hai câu sau giải thích hiển
bày về hai Lợi.
2-Dựa theo trí nêu rõ môn,
hai câu sau giải thích hiển bày về nhân quả.
Sau là kết luận thành tựu đầy đủ, trong đó trước là kết luận về nhân tròn vẹn,
kinh Niết-bàn nói: “Ái có hai loại: Một là ái
của ngạ quỷ, hai là ái của pháp.
Như Lai không có ái của ngạ quỷ, bởi vì thương xót chúng
sinh cho nên có ái của pháp.” Trong này Diệu trí khéo
léo chọn lấy chân lý
cho nên gọi là ái của pháp, ái tức là Vô tướng gọi
là Đại lực. Sau là kết luận về quả đầy đủ, trong đó câu đầu là
Trí đức, câu sau là Đoạn đức. Lại câu đầu là tu thành tựu, câu
sau là tiến vào lý.
Lại đầu là Vô thường
đức, sau là Thường đức. Lại đầu là hữu vi,
sau là vô

vi. Còn lại
là chính thức để cúng dường Phật. Hỏi:
Vì sao trong phần cúng dường tài vật gồm chung cúng
dường Phật và đại
chúng, trong phần này thì chỉ cúng dường Phật? Đáp: Bởi vì hiển bày về cúng dường pháp hết
sức vi tế chỉ có
Phật mới đến tận cùng.

Trong phần ba
là ngữ nghiệp cúng dường, trước nêu rõ về
người, sau là kệ ca
ngợi, bởi vì trong mỗi một vật dụng trang nghiêm đều
sinh ra chúng như Hải
Tuệ… Nay tổng quát nêu ra trong các chúng đều
có một vị Thượng thủ
cùng tên gọi Hải Tuệ, cùng nói kệ này, cho nên
nói là tất cả Hải Tuệ…

Trong tụng có mười chín kệ, nghóa phân ra có chín: Một, một kệ đầu trình bày về
Thể thanh tịnh, đó là cảnh-trí
vô ngại. Hai, ba kệ trình bày về
Tướng đầy đủ, đó vốn là ba
thế gian. Ba, hai kệ trình bày về Dụng thù thắng, đó là đầu nhanh
chóng-sau
lợi ích. Bốn, hai kệ
trình bày về nhân xưa kia
rất kiên cố. Năm, một kệ ca ngợi về chúng
ngắm nhìn không chán.
Sáu, bốn kệ ca ngợi về tòa trang nghiêm, một là
chủ, hai là hương, ba là
tràng hoa, bốn là ánh sáng. Bảy, hai kệ ca ngợi
về thuyết pháp. Tám, hai kệ ca ngợi về
Xứ viên mãn. Chín, hai kệ ca
ngợi về Phật khắp nơi,
như kết luận nối thông…
Đoạn
lớn thứ hai, Tựa về phát khởi, trong đó có hai: Một là mặt
đất rung động, hai là phát khởi cúng dường.
Trong phần một
có ba: Một, Phật lực là nhân rung động,
Hoa Tạng là nơi rung động,
tướng rung động như sáu loại… Trong này
bốn câu phân biệt: Một
là nơi rung động; hai là tướng rung động; ba là
việc đã làm; bốn là
trình bày rộng về thời gian rung động.

Trong một, hỏi:
Vì sao nước
Ma-kiệt này mà nói là
Hoa Tạng giới? Đáp: Dựa theo trong văn
sau gồm có bốn câu:
1) Hoặc nói cõi này chỉ là Ta-bà, đây là dựa theo Tam thừa mà nói;
2) Hoặc nói tức là Hoa Tạng, đây là dựa theo Biệt giáo Nhất thừa phân rõ;
3) Hoặc nói cõi Ta-bà trong Hoa Tạng, đây là dựa theo Đồng giáo Nhất thừa mà nói;

Hoặc không phải là Hoa Tạng cũng không phải là Ta-bà, đây là dựa theo tánh bình đẳng của quốc độ hải mà nói. Vì thế cho nên tùy theo pháp đã nói khiến cho nơi chốn
sai biệt, nay văn này dựa theo
Biệt giáo mà nói.

Hai là trình
bày về tướng rung động, có hai:
1) Sáu tướng, đó là ở giữa vọt lên-bên cạnh chìm xuống…, ở giữa-bên cạnh bốn phía là sáu. Đây là dựa
theo Tam thừa và Đồng giáo.
2) Mười tám tướng, dựa theo Biệt giáo và Đồng giáo. Động là lắc lư qua lại không đứng
yên, như gió lay động
cây. Theo kinh Niết-bàn: “Rung động nhỏ gọi là
đất rung động, rung động
lớn gọi là mặt đất rung động; có tiếng nhỏ gọi là đất rung động, có tiếng lớn gọi là mặt đất rung động; chỉ riêng đất rung

động gọi là
đất rung động, tất cả núi sông cây cối và biển lớn đều rung động gọi là mặt đất rung động.” Lại rung động gọi là đất rung động, lúc rung động có thể khiến cho tâm chúng
sinh rung động gọi là mặt đất rung động, những điều này là dựa theo Tam thừa mà nói.
Nay trong này rung động có ba phẩm loại:
1) Động, đó là một phương;
2) Biến động, đó là bốn phương;
3) Đẳng biến động, đó là tám phương. Lại bốn phương, tám phương,
mười phương. Lại một là chỉ riêng một
phương rung động, hai là mười phương theo thứ tự rung động, ba là mười
phương cùng một lúc rung động.

Lại trong Đại
Bát-nhã gọi là Động-Đẳng động-Đẳng cực
động. Năm tướng sau đều
dựa theo như vậy, tất cả đều có
Hạ-Trung-Thượng, cũng gọi
là Tiểu-Trung-Đại, cho nên có mười tám tướng. Khởi là
lắc lư tung lên như bột
bay lên, trong kinh Đồng Tánh gọi là làm cho đung đưa, trong Đại
Bát-nhã gọi là va chạm, nghóa là đánh vào. Giác là
tiếng lớn làm cho kinh hãi mà thức tỉnh, trong kinh Đồng Tánh gọi là Thanh, trong Đại
Bát-nhã gọi là Bộc, Địa Luận giải thích là lên trên cao.
Chấn là tiếng thấp âm
ỉ, Địa Luận gọi là xuống dưới thấp. Hống là kìm
tiếng gầm gừ. Dũng là hiện ra vọt lên cao, như
suối phun…
Lại sáu phương
vọt lên chìm xuống, nghóa
là vọt lên từ phương Đông chìm xuống ở
phương Tây… Lại ba loại
Động-Khởi-Dũng là Sắc, ba loại còn lại là Thanh,
sáu loại này đều gọi
là động, một loại đầu dựa vào thù thắng làm
tên gọi chung, năm loại còn lại thuận theo riêng biệt làm tên gọi, như mười
Sắc xứ cùng gọi là
Sắc xứ, Sắc xứ thứ nhất cũng gọi là Sắc xứ.
Ba là trình bày về rung động do việc đã làm, theo luận về kinh Thắng
Tư Duy Phạm Thiên nói: “
1) Bởi vì làm cho các ma sinh lòng sợ hãi;
2) Bởi vì làm cho lúc thuyết pháp đại chúng không khởi tâm phân tán;
3) Bởi vì làm cho người phóng dật phát
sinh hiểu biết;
4) Bởi vì làm cho chúng sinh nghó đến tướng của pháp;
5) Bởi vì làm cho chúng sinh quán sát về nơi thuyết pháp;
6) Bởi vì làm cho người thành tựu đạt được giải thoát;
7) Bởi vì làm cho tùy thuận hỏi về Chánh ng- hóa;
8) Trí Luận nói bởi vì muốn làm cho chúng sinh nhận biết tất cả các pháp là Không-Vô thường;
9) Cổ Đức nói bởi vì làm lay chuyển những kiến chấp của chúng sinh;
10) Bởi vì biểu thị thuyết về Đại pháp cho nên hiện rõ điềm lành.” Lại theo Địa Luận: “Dựa vào bốn loại
chúng sinh:
1) Dựa vào chúng
sinh bất thiện;
2) Dựa vào chúng
sinh tin theo các loại trời;
3) Dựa vào chúng sinh ngã mạn;
4) Dựa vào chúng sinh
chú thuật…”
Bốn là trình bày rộng về thời gian rung động, như
Trí Luận nói có tám Thời,
như kinh Trường A-hàm nói: “
1) Lúc nước lớn chuyển động;
2) Lúc Tôn thần thi đấu thần lực;
3) Lúc Như Lai nhập thai;
4) Lúc xuất thai;
5) Lúc thành đạo;
6) Lúc chuyển pháp luân;
7) Lúc giáo chấm dứt;

Lúc nhập Niết-bàn.”
9) Nếu theo kinh Tăng Nhất, trong thứ hai là mười tám tướng, lại thêm Đại thần túc,
 Tỳ-kheo tâm được tự tại, cho đến quán xét về đất là Vô tướng, vì thế mà rung động.
10) Nếu theo Trí Luận thứ mười: “Lúc thọ ký cho các Bồ-tát sẽ được làm Phật, là chủ của trời đất-loài người, lúc này Địa Thần rất
vui mừng, bởi vì nay mình
có được chủ, cho nên đất rung động; như vua mới
lên ngôi thì quan lại
và dân chúng vui mừng xưng hô vạn tuế, ca múa đón chào…” Lại theo
kinh Niết bàn: “Lúc Bồ-tát hạ sinh ở Diêm-phù-đề
gọi là mặt đất rung
động; Bồ-tát xuất gia, thành đạo, chuyển pháp
luân, nhập Niết-bàn thì
dùng sáu loại chấn động của mặt đất. Tại vì
sao? Bởi vì Bồ-tát hạ sinh, chư Thiên cõi
Dục-cõi Sắc và các Bồ-tát đều cùng nhau đến đưa tin
truyền khắp, phát ra âm thanh lớn ca ngợi Bồ-tát,
dùng miệng thổi hơi gió vì thế làm cho mặt đất chấn động.
Lại Bồ-tát là voi chúa-rồng chúa trong
loài người, lúc rồng chúa mới nhập thai có các
Long Vương ở trên mặt đất hoặc
sợ hãi-hoặc hồi hộp, cho nên mặt đất phát ra
sáu loại chấn động.

Phần hai là phát khởi
cúng dường, trong văn có hai: Đầu
là cõi này,
sau là kết luận nối thông.
Trong phần đầu, các Vương trên thế giới có hai nghóa: Một là chúng
Thiên Vương đã nêu ra trước đây, hai
là Vương trong thế giới
ở mười phương. Nối thông là hai nghóa này,
trong đó một là tổng
quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận có thể biết.

Trên đây chỉ
trình bày về tướng tự tại của ba thế gian trong
một thế giới, xong.
Đoạn lớn thứ hai trình bày về tương tự nối thông
mười phương, bởi vì một Hội tức là tất cả các Hội, hiển bày về giáo viên mãn,
thâu nhiếp chủ-bạn. Trong đó có hai: Một là nhắc lại tướng ba thế gian của cõi
này, hai là chính thức
kết luận nối thông.

Trong phần một, Đức Phật an tọa nơi đạo tràng là nhắc lại
Trí chánh giác và Khí
thế gian, bởi vì nghóa của hai quả đức này dung
hợp khắp mười phương
hiển bày lẫn nhau, cho nên không giải thích riêng biệt. Bởi vì nghóa của
Chúng sinh thế gian giống với quả rộng khắp mọi nơi ẩn kín lẫn nhau, vì thế cho nên giải thích
riêng biệt, vì
sao
chúng này có thể giống
với Phật quả mà rộng khắp mọi nơi?

Trong giải thích có hai: Một
là phân rõ về nhân thụ động ấy, hai là đích thực giống với quả khắp nơi. Trong phần một có ba:
1) Bởi vì lực của Định Tuệ;
2) Bởi vì lực của pháp môn;
3) Bởi vì lực của Như Lai. Trong phần một đều tùy theo phạm vi của pháp môn đã đạt
được cho nên gọi là
cảnh giới, dựa vào môn Tam-muội vốn không phân
biệt về Định, vốn không rời bỏ Dụng, khéo léo
thâu nhiếp pháp môn
khiến cho rộng khắp mọi
nơi, vì thế gọi là phương tiện; vui mừng-chán ngán là Tuệ.
Trong phần hai là pháp lực, pháp tròn vẹn, pháp vốn như
vậy nhanh chóng rộng khắp
các phương, nhanh chóng làm cho đến quả
gọi là pháp dũng mãnh,
Bồ-tát chứng được pháp này, tùy theo pháp rộng
khắp mọi nơi cho nên nói là thông đạt. Điều này
giống như văn
trước nhờ vào lực
giải thoát hòa vào biển của Như Lai…

Trong phần ba
là Phật lực, Phật lực làm cho hòa vào trong
cảnh giới Phật, cho nên có thể rộng khắp. Câu dưới kết luận về
cùng biển quả, Độ là đến nơi, là
thấu suốt. Như vậy đều là một pháp môn của
mỗi một chúng đã đạt
được ở văn trên. Nhưng trước là hiển bày về đức
dựa vào riêng biệt để
trình bày rộng ra, ở đây là nhắc lại kết luận dựa
vào gồm chung mà sơ lược
nêu ra, sau là tương tự nối thông có thể biết.

<篇></篇>

HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ

<卷>QUYỂN 3</卷>

<詞>Phẩm 2: LÔ</詞>
XÁ NA PHẬT Từ đây trở xuống là trình bày về phần
Chánh tông. Giải thích
văn này theo bốn môn phân biệt:

Giải thích tên gọi.

Ý đưa ra.

Tông thú.

Giải thích văn.

Phần một trong giải thích tên gọi: Lô-xá-na, xưa nay dịch hoặc nói là
Tam Nghiệp Mãn, hoặc nói là
Tịnh Mãn, hoặc nói là
Quảng Bác Nghiêm Tịnh, nay trải qua
so
sánh Phạm bản nói đầy đủ là
Tỳ Lô Giá Na. Lô-xá-na,
Trung Hoa dịch là
Quang Minh Chiếu; Tỳ, Trung Hoa nói là Biến, thì gọi là
Quang Minh Biến Chiếu.

Trong này, Quang Minh có hai loại:
Một là Trí quang, hai là
Thân quang. Trí quang cũng có hai nghóa: Một là chiếu rọi pháp, nghóa là
Chân- Tục đều soi chiếu;
hai là chiếu
rọi cơ, nghóa là ứng
với tất cả các phẩm loại.
Thân quang cũng có hai loại:
Một là Thường
quang, nghóa là viên
minh vô ngại;
hai là Phóng
quang, nghóa là dùng
ánh sáng làm cho kinh hãi tỏ ngộ.

Trong này, Biến (khắp nơi) cũng có hai loại: Một là
Bình mạn biến, bởi vì vô ngại
rộng khắp; hai là Trùng
trùng biến, bởi vì như lưới giăng của Đế Thích hiện bày lớp lớp.
 Hai loại này viên dung, đều khắp nơi toàn Thể chứ không phải là khắp nơi từng phần. Vì vậy văn
sau nói:
Thân Phật đầy
khắp các pháp giới, hiện khắp trước tất cả chúng
sinh. Như vậy đều vô lượng
như văn đã nói.
Trong này Thân-Trí vô ngại
bởi vì Thân quang
tức là Trí quang, hai Biến vô ngại
bởi vì Bình
Biến tức là Trùng Trùng,
Quang Biến vô ngại bởi vì
Quang Minh tức là
Biến Chiếu. Tánh biến chiếu mở bày giác ngộ, cho nên gọi là Phật. Đây là trình bày về những
sự việc như thế
giới hải… ở văn
sau, mỗi một loại đều là xứng tánh duyên
khởi vô
ngại, lìa xa tối tăm giác ngộ soi chiếu gọi là
Quang, tất cả đều rộng khắp pháp giới gọi là Biến.
Phật Xá-na này không phải là hạn
chế trong Báo thân, bởi
vì gồm chung ba loại thế gian như Khí…, cho
nên có đủ mười thân. Hỏi: Như trong văn
sau
sơ lược trình bày về năm Hải, mở
rộng phân rõ về thế
giới, vì sao không nói là phẩm Thế Giới mà lại đề
tên gọi của Phật?

Đáp: Cổ đức
giải thích rằng: “Bởi vì thuận theo chủ làm tên
gọi, bởi vì chủ vốn là
thù thắng, cho nên nêu ra chủ của độ để nói về điều đó.”
Nay giải thích: Bởi vì Phật nối thông cả ba thế gian. Độ… ở văn
sau tức là
Phật Xá-na, như thân quốc độ trong mười thân. Lại bởi vì
y-chánh vô ngại cho nên
nêu ra để giải thích, đưa ra văn làm đẹp lẫn nhau mà thôi. Lại bởi vì Phật hải trong năm Hải đã có đủ bốn
Hải còn lại,
những loại khác cũng như
vậy. Bởi vì Phật là thù thắng, do đó riêng biệt
nêu ra làm quy phạm, cho
nên lấy làm tên gọi của phẩm, còn lại thì không nói đến.

Ý đưa ra.
Trước đã nói về phần Tựa rồi, tiếp theo hiển bày về
nghóa của Chánh tông, bởi vì theo thứ tự, cho nên
tiếp theo đưa ra.

Tông thú. Tông thú có hai:
1) Dựa theo người;
2) Dá»±a theo
pháp. Người cũng có hai:
1) Hóa chủ;
2) Trợ hóa. Tất cả đều có Thể- Tướng-Dụng.
Trong Hóa chủ, nội chứng pháp trí là Thể, bảy ngày tư duy về giải thoát là Tướng, gia hộ thuyết giảng là Dụng. Ba loại này
không hai mà chỉ là một quả. Trong Trợ hóa, nhập Định là Thể, được gia hộ là Tướng, xuất Định thuyết giảng là Dụng, ba loại này không
hai mà chỉ là một nhân. Nhân quả trên đây dung
hòa thâu nhiếp không hai mà chỉ là một người.
Trong pháp cũng có hai:
1) Dựa theo nghóa lý;

Dá»±a theo
giáo sự, cũng đều có nghóa
về Thể-Tướng-Dụng.
Trong nghóa lý, tánh hải là Thể, đức riêng biệt là Tướng, thích ứng với giáo là
Dụng, ba loại này không hai mà chỉ một nghóa lý. Trong giáo sự, năm
Hải-mười Trí trong phần căn bản là Thể, mười thế giới và
Hoa Tạng giới là Tướng, lợi ích cho căn cơ là Dụng, ba loại này không hai mà làm
thành một giáo sự. Giáo-nghóa trên đây dung hòa
thâu nhiếp không hai
mà làm thành một pháp. Lại nữa, người và pháp
trên đây lại viên dung không hai mà làm thành một tông thú. Bốn nghóa này đều có ba mà làm thành một
duyên khởi, ngay trong nhau vô ngại.
Do đó, hoặc chỉ là
Quả bởi vì cùng là Phật, hoặc chỉ là Nhân bởi vì
cùng là Phổ Hiền; hoặc là Giáo, hoặc là Nghóa, hoặc là Người, hoặc là Pháp, hoặc là Thể, hoặc
là Dụng, hoặc là Chủ-Thể, cho đến hoặc là
Giáo-Dụng, đều hoàn toàn

thâu nhiếp hết, dựa theo
suy nghó có thể thấy, Tông của các
Há»™i sau
đều có tướng này, chỉ
tùy theo pháp khác nhau mà thôi.

Trong giải thích văn
có hai: Một, gồm chung phân rõ về phương tiện
sinh giải-phạm vi giải thích trong
kinh luận; hai, riêng biệt
giải thích văn kinh.

Trong phần một tóm lược có mười loại phương tiện:
1) Giải thích quyết trạch;
2) Thích văn phương quỹ;
3) Bốn loại Tất-đàn;
4) Bốn ý thú;
5) Bốn bí mật;
6) Bốn đạo lý;
7) Năm lực;
8) Sáu tướng;
9) Sáu thích;
10) Tám thanh. Giải thích quyết trạch: Theo
Tạp Tập luận quyển thứ 15 nói:
“Giải thích về Quyết trạch, nghóa là có thể giải
thích về tông yếu của các kinh, mở rộng về nghóa lý ấy.” Đối chiếu nói rằng trong đó tóm lược tách ra
sáu loại, mở rộng có mười bốn loại, đầy đủ như luận ấy nói.
Nay sơ lược nêu ra một môn. Luận nói: Nhiếp thích
môn, nghóa là nếu ở nơi này nói về nguyên cớ duyên khởi-câu nghóa theo thứ tự-ý thú giải thích
chỗ khó hiểu của các kinh. Đối chiếu nói rằng
nguyên cớ duyên khởi là hiển bày về nhân đã phát khởi của giáo, câu nghóa theo thứ tự là văn
nghóa của Phẩm-Hội sinh khởi lân nhau theo thứ tự,
ý thú là hiển bày về tông thú của kinh, giải thích chỗ khó hiểu là giải thích về những vấn
nạn làm trở ngại từ bên ngoài. Còn lại như
luận ấy sợ rằng vừa nhiều
vừa rối cho nên không thuật ra.

Thích văn phương quỹ: Nhiếp
Luận quyển thứ năm nói:
“Nếu có người muốn soạn ra giải thích về pháp Đại
thừa, thì sơ lược căn cứ
vào ba tướng thích hợp để soạn ra giải thích:
1) Căn cứ vào duyên khởi mà nói;
2) Căn cứ vào pháp tướng thuận theo duyên đã
sinh khởi mà nói;
3) Căn cứ vào ngữ nghóa mà nói.” Vô Tánh giải thích rằng: “Bởi vì muốn nói rõ cho những người soạn ra giải thích biết về đạo lý
giải thích, cho nên nói là
sơ lược căn cứ vào ba tướng… mà nói.”
Thế Thân giải
thích rằng: “Căn cứ vào ba tướng này tùy theo
sự thích hợp mà soạn ra
giải thích về tất cả các pháp Đại thừa.” Đối
chiếu nói rằng một là căn cứ vào mở rộng nói về tự tánh duyên khởi là chỗ dựa căn bản, tức là
A-lại-da Thức cùng với các pháp làm duyên khởi
lẫn nhau. Hai là dựa
vào các pháp chuyển Thức đã sinh khởi này từ
trên đạo lý của ba tánh phân biệt, nghóa là Y tha đã chấp là không có, Viên thành là có, đạt
được-không đạt được, thấy-không thấy cùng
lúc…, như luận giải thích đầy đủ. Hai môn này quán xét về đạo lý
giải thích. Ba là căn cứ vào ngữ
nghóa mà nói, nghóa là hiển bày ý nghóa sau lời
Đức Phật nói, điều này có hai loại:
1- Đức xứ, nghóa là hiển bày về hai mươi mốt loại công đức thù thắng của Phật quả. Vô Tánh giải thích rằng: “Đã đạt được
thuộc về mình, viên mãn thêm nhiều lợi ích, cho nên gọi là Đức.”
2-Nghóa xứ, đó là hiển bày về ba mươi hai hành tướng của Bồ-tát.
 Vô Tánh giải thích rằng: “Chưa đạt được thuộc về mình, tùy thuận hướng đến mong cầu, cho nên gọi là
Nghóa.” Hai loại đã nói này đều lấy câu đầu để
nêu ra, những câu còn
lại là giải thích. Đây là quán xét về ý của người
nói mà giải thích.

Bốn loại Tất-đàn: Trí
Luận quyển thứ nhất nói: “Có bốn
Tất- đàn, tổng quát thâu nhiếp tất cả mười hai bộ kinh, tám vạn bốn ngàn
pháp tạng, tất cả đều là thật chứ không có gì trái ngược nhau.
Má»™t,
Thế giới Tất-đàn: Pháp có từ nhân duyên hòa hợp mà
có, không có tánh riêng
biệt, ví như chiếc xe do càng-trục-nan-vành…
hòa hợp mà có, chứ
không có chiếc xe riêng biệt. Con người cũng như vậy, năm chúng hòa hợp mà có, chứ không có con người
riêng biệt.
Nếu không có Thế giới
Tất-đàn thì Đức Phật là người nói lời chân thật,
tại sao nói Ta dùng Thiên
nhãn thấy các chúng sinh tùy theo nghiệp thiện ác, chết nơi
này-sinh nơi kia? Nên biết là người bởi vì Thế giới
Tất-đàn cho nên không
phải là Đệ nhất nghóa Tất-đàn.

Hai, tất cả đều là Vị nhân Tất-đàn: Quán xét tâm hành của
người để mà thuyết
pháp, ở trong một pháp, hoặc nghe hoặc không nghe, như vì người Đoạn kiến nói về nghiệp xen tạp cho nên
sinh vào thế gian
xen tạp, đạt được Xúc
xen tạp, đạt được Thọ xen tạp; như vì người
Thường kiến nói về không có người đạt được Xúc, không có người đạt được Thọ… Ba, Đối
trị Tất-đàn: Đối trị thì có, Thật tánh thì không có; như chua mặn… đối với bệnh phong thì gọi là thuốc, đối với những
bệnh khác thì không phải
là thuốc; Bất tịnh… đối với Tham… cũng như vậy.

Bốn, Đệ nhất nghóa Tất-đàn: Tất cả pháp tánh, tất cả ngôn
luận sai biệt, thảy đều
bình đẳng một vị như nhau.”

Giải thích: Hoặc dựa theo Thế giới nói là có,
Thắng nghóa
là không có, nói như loại thứ nhất; hoặc
Thắng nghóa là có, Thế giới
là không có, nói như loại thứ tư; hoặc đối với cơ khác nói là có, đối với
cơ còn lại nói là không
có, nói như loại thứ hai; hoặc chữa trị bệnh này
là quan trọng, đối với bệnh khác là không phù hợp, nói như loại thứ
ba. Đều cần phải đạt
được chủ ý ấy, thì pháp đều có tác dụng; thuận
theo lời nói tùy tiện
chọn lấy, không được như ý trở thành phỉ báng.

Bốn ý thú: Tạp
Tập luận quyển thứ 12 nói: “Bởi vì bốn ý thú này, cho nên trong phần
Phương Quảng, ý thú vốn có của tất cả Như Lai, thích ứng tùy theo quyết định rõ ràng.” Lại trong
Trang Nghiêm luận quyển thứ 13 nói: “Chư Phật thuyết pháp không lìa xa bốn ý.” Nhiếp Luận quyển thứ năm nói: “Dùng pháp này để quyết định
rõ ràng tất cả ngôn
giáo của chư
Phật.” Một, Bình đẳng ý thú, nghóa là như nói rằng: Xưa Ta đã từng ở thời gian ấy-phạm vi ấy, tức là tên gọi
Thắng Quán Chánh Đẳng Giác Giả. Vô Tánh
giải thích rằng: “Nghóa là tất cả chư Phật, bởi vì tư lương… tương tự lẫn nhau, cho nên nói vị ấy tức là Ta, không phải là Phật
Tỳ-bà-thi xưa kia tức là
Thích-ca ngày nay.”
Trong kinh Lăng
Già giải thích dựa theo bốn nghóa:
1) Văn tự như nhau;
2) Lời nói như nhau; Thân như nhau;
4) Pháp như nhau. Vì thế cho nên nói tức là vị ấy, nhưng thật ra không phải là vị ấy.

Hai, Biệt thời
ý thú, nghóa là như nói rằng: Nếu người tụng danh hiệu Đa
Bảo Như Lai, thì đối với Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã
được quyết định, lại
bởi vì chỉ có phát nguyện, liền được vãng sinh thế
giới Cực Lạc. Vô Tánh
giải thích rằng: “Đó là khuyến khích những người học lười nhác không có thể thường xuyên chịu khó đối với pháp,
cho nên đưa ra lời nói
như vậy.” Ý này là nuôi lớn thiện căn trước đây, như thế gian nói chỉ nhờ vào một đồng tiền mà có được một ngàn
đồng. Trang Nghiêm luận
giải thích: “Đây là bởi vì thời gian khác mà
được sinh.”
Giải thích rằng: Sau này trong thời gian khác mà có
được một ngàn ấy.

Ba, Biệt nghóa
ý thú, nghóa là như nói rằng: Nếu đã gặp được và phụng thờ Hằng hà
sa đẳng chư
Phật như vậy, thì đối với nghóa của pháp Đại thừa mới có thể giải
thích được.
Vô Tánh giải thích ý dựa theo Chứng tướng Đại thừa, không dựa vào Giáo tướng Đại thừa, cho
nên đưa ra lời nói như
vậy. Trang Nghiêm luận nói: “Như Đức Phật nói tất cả các pháp vốn không có tự tánh, vốn vô
sinh.”
Giải thích rằng: Đây
là dựa theo chứng Vô sinh mà nói. Bốn,
Bổ-đặc-già-la ý lạc ý thú, nghóa là như vì một người trước tiên ca ngợi
Bố thí, sau đó trở lại chê bai. Thi-la và một phần tu,
nên biết cũng như vậy.
Vô Tính giải thích rằng: “Trước vì người tham
lam keo kiệt mà ca ngợi
Bố thí, sau vì người ưa thích Bố thí mà chê bai
Bố thí, còn lại Giới-Tu
cũng như vậy”. Trang Nghiêm luận nói: “Bởi vì
có được chút ít pháp
thiện liền cho là đủ, vì thế mà khen-chê”.

Bốn bí mật: Tạp
Tập luận nói: “Bốn loại như vậy ở trong Đại thừa,
sơ lược thâu nhiếp tất cả đạo lý bí mật mà
Như Lai đã thuyết”.
Lương Nhiếp luận quyển thứ
sáu nói: “Như Lai đã thuyết không ra

ngoài bốn ý
về Tứ Y, Y tức là Mật”. Vô Tánh Nhiếp Luận quyển
thứ năm nói: “Bốn
loại ý thú, bốn loại bí mật, tất cả lời Đức Phật nói,
nên tùy theo quyết định rõ ràng”.

Một, khiến cho tiến vào bí mật, vì giáo hóa hữu tình sợ hãi pháp đoạn, dựa vào đạo lý thế tục, ở trong Thanh văn thừa nói có các
hữu tình như Hóa sinh…,
ở trong Đại thừa nói về tâm Thường… Đây là
đối với Đại-Tiểu thừa
nói có người và pháp, đều là bí mật. Trang
Nghiêm luận nói: «Nên biết khuyên dạy các Thanh văn tiến vào nghóa của
pháp, khiến cho có thể
không sợ hãi, cho nên nói Sắc… là có”.

Hai, tướng bí
mật, nghóa là ở nơi này nói về tướng của các
pháp, hiển bày về ba Tự
tánh. Vô Tánh giải thích rằng: “Vì khiến cho tỏ
ngộ hòa vào tướng đã nhận biết”. Giải thích
rằng: Đây tuy là nói về
pháp tướng, mà ý hiển
bày về ba Vô tánh, cho nên là Mật. Lại trong
Trang Nghiêm luận nói:
“Nên biết đối với ba loại Tự tánh như phân biệt,
tự tánh thanh tịnh không
có Thể-không có dấy khởi mà nói về tất cả
các pháp”. Giải thích
rằng: Đây tuy nói về ba Tánh, mà ý hiển bày về
ba Vô tánh, như thứ tự có thể biết. Ba, đối trị bí mật, nghóa là ở nơi này nói về tám vạn bốn ngàn hạnh đối trị.
Giải thích rằng: Nghóa là đối với không có thì nói về có, đối với giống nhau thì nói về
khác nhau…, đều là ý bí mật. Bởi vì đối
trị chướng ngại của hữu
tình đã hóa độ, cho nên nói về tám vạn bốn
ngàn pháp môn này. Bốn, chuyển biến bí mật, nghóa là như tụng nói: Hiểu không
cứng là cứng, khéo trú vào điên đảo, đến tận cùng phiền não, chứng
Vô thượng Bồ-đề.
Vô Tánh giải
thích rằng: “Cứng rắn tản mác khắp nơi cho nên gọi là cứng,
 không phải là cứng này cho nên gọi là không cứng,
 tức là điều hòa mềm mại không có gì tán loạn,
 Định tức là từ trong này khởi lên Tuệ kiên cố hiểu rõ về điều ấy là cứng”.
Giải thích rằng:
Tâm phân tán lưu động hiển bày gọi là không vững chắc, tâm phân tán
cứng rắn dựa vào bí
mật gọi là vững chắc. Định tâm giữ lấy cảnh hiển bày gọi là vững chắc, Định tâm điều hòa mềm mại bí mật gọi là
không vững chắc. Nếu chọn lấy hiển bày rõ ràng, đối với tán loạn khởi lên
Tuệ kiên cố, thì cách xa
Bồ-đề. Nay chọn lấy bí mật, đối với Định tâm khởi
lên Tuệ kiên cố, thì
đạt được Bồ-đề. Vô Tánh nói: “Nghóa là đối với
bốn điên đảo, khéo léo có thể an trú biết là điên đảo, quyết định
không có lay động”.
Giải thích rằng: Nếu chọn lấy hiển bày rõ ràng thì trú
ở trong bốn điên đảo
như Vô thường… chấp là Thường…, lẽ nào đạt
được Bồ-đề? Nay chọn lấy bí mật, nhận biết về
Thường… này đối với Vô thường…
vượt qua suy nghó mà khởi lên, quyết định nhận
biết điều này gọi là khéo léo trú vào điên đảo, cho nên có thể đạt
được Bồ-đề.
Vả lại, Thế Thân giải
thích rằng: “Là ở trong thụ động điên đảo-chủ
động điên đảo, khéo léo an trú đối với nghóa, đối với Vô thường… nói là
Thường… gọi là thụ động điên đảo, đối với Vô thường… nói là Vô thường… là chủ động điên đảo. Nghóa này thì trái với nghóa đã chấp kia, gọi là chủ
động điên đảo, quay về đây an trú cho nên đạt
được Bồ-đề”. Nói đến tận cùng phiền não,
Vô Tánh giải
thích rằng: “Bởi vì hữu tình đã hóa độ mà tinh tiến vất vả làm cho mệt nhọc rã rời”.
Giải thích rằng: Nếu chọn lấy hành giả hiển bày rõ ràng vì
tham-sân… làm cho não loạn, gọi
là phiền não, thì đây là cách xa Bồ-đề; nay chọn lấy hành giả bí mật tinh tiến chịu khó chịu khổ mệt nhọc rã rời, cũng gọi là phiền não, thì đây là
đạt được Bồ-đề, như
tụng: Ở lâu trong sinh tử phiền não, chỉ bởi vì đối
với Đại Bi. Nhiếp Luận
đời Lương Ngụy và Trang Nghiêm luận-Đối
Pháp luận… của Thế
Thân đều dựa theo có thể biết.

Bốn loại đạo lý:
Tạp Tập quyển thứ 11, bởi vì phân rõ về những
pháp quán sát khế kinh…, thuận theo nên giải thích
về đạo lý của các
pháp. Đạo lý có bốn:
1) Đạo lý về Quán Đãi;
2) Đạo lý về Tác Dụng;

3) Đạo lý về Chứng Thành;
4) Đạo lý về Pháp Nhó. Đối chiếu nói rằng:
1) Quán Đãi có hai: Một là Tục đế duyên khởi cần phải đỗi đãi nhau
mà sinh khởi, vì vậy gồm chung
nhiễm tịnh; hai là Lý của
Chân đế, đối
đãi hiển bày về Liễu
Nhân, loại này chỉ dựa theo tịnh.
2) Tác Dụng
cũng có hai: Một là các pháp duyên khởi đều có
nghiệp dụng; hai là
Chân như pháp giới dựa
vào tác dụng như duy trì…
3) Chứng Thành cũng có hai: Một là Tỷ lượng thành lập; hai là Hiện lượng thành lập.
4) Pháp Nhó cũng có hai: Một là các pháp duyên khởi có
Phật tánh-không
có Phật tánh đều thuận
theo duyên khởi; hai là Chân như pháp giới
tánh tự bình đẳng.

Năm lực: Kinh Tư Ích quyển thứ hai nói: “Nếu như người có
thể đối với văn tự ngữ ngôn chương cú mà Như
Lai đã thuyết ra, thông đạt tùy thuận không trái
không nghịch, hòa hợp làm một tùy theo nghóa lý ấy, không tùy theo chương cú ngôn từ, mà khéo léo nhận biết về
tướng thích hợp của ngôn từ, nhận biết Như Lai
dùng ngữ ngôn nào để
thuyết pháp, dùng tùy nghi nào để thuyết pháp,
dùng phương tiện nào
để thuyết pháp, dùng pháp môn nào để thuyết
pháp, dùng Đại Bi nào để
thuyết pháp.
Phạm Thiên hay là Bồ-tát có thể nhận biết
Như Lai dùng năm Lực này để thuyết pháp, thì Bồ-tát ấy
có thể làm Phật sự”.

Đối
chiếu nói rằng: Kinh sau theo thứ tự mở rộng giải thích: Một là
Ngôn thuyết,
Như Lai thuyết về pháp ba đời,
pháp cấu-tịnh, pháp
thế- xuất thế, pháp
lậu-vô lậu…, đều là ngôn thuyết như người huyễn nói bởi vì không có
quyết định, cho đến nói rằng thuyết như hư không bởi vì không có
sinh diệt. Nên biết ngôn thuyết này là không có gì thuyết,
cho đến nói rằng đó
gọi là ngôn thuyết của Như Lai. Hai là Tùy nghi, Như Lai có lúc đối với pháp cấu nhiễm mà thuyết về
thanh tịnh, bởi vì
người không đạt được tánh của pháp cấu nhiễm; có lúc đối với pháp thanh
tịnh mà thuyết về cấu
nhiễm, bởi vì người tham đắm theo pháp thanh
tịnh; cho đến nói rằng
sinh tử là Niết-bàn, bởi vì người không lui
sụt-không sinh khởi;
Niết-bàn là
sinh tử, bởi vì người
tham trước; thật ngữ
là hư vọng, bởi vì người
sinh khởi ngữ kiến; hư vọng là thật ngữ, bởi vì
người tăng thượng mạn.
Bởi vì Như Lai tùy nghi, cho nên có lúc tự nói Ta
là người thuyết về
Thường biên, cho đến nói rộng ra. Ba là Phương tiện, Như Lai thật không phải
ngã-nhân-chúng
sinh-thọ giả, cũng không
phải bố thí, cũng không
phải keo kiệt…, cho đến phương tiện vì các
chúng sinh khen ngợi nói
về bố thí cảm được giàu có…, cho đến nói rộng ra. Bốn là
Pháp môn, nghóa là các pháp như
sáu căn… đều là
giải thoát môn, bởi vì
Không-Vô ngã
sở vốn là tánh tự nhiên như vậy, cho đến
văn tự cũng như vậy.
Năm là Đại Bi, Đức Phật dùng ba mươi hai loại
Đại Bi, nghóa là tất cả
các pháp Vô ngã, nhưng chúng sinh không
tin-không hiểu, Như Lai từ
đây mà khởi tâm Đại Bi…, cho đến nói rộng ra.
Đối chiếu nói rằng: Năm loại trên đây, một là dựa theo
Năng thuyết, bởi vì nói
là không nói mà nói; hai là dựa theo Sở thuyết,
nghóa là bởi vì pháp
tùy theo mê-ngộ mà phân rõ về đúng sai; ba là dựa
theo cơ đã làm, bởi vì
phương tiện khéo léo đối với không có mà nói về
có; bốn là dựa theo tự
Thể của pháp, bởi vì vốn có tự Không là giải thoát môn; năm là dựa theo tâm của
năng thuyết, bởi vì thương xót chúng
sinh mê mờ mà khởi tâm thuyết pháp.

Sáu tướng: Thập Địa luận quyển thứ nhất nói: “Tất cả mười câu
đã nói đều có sáu loại tướng môn:
1-Tổng tướng;
2-Biệt tướng;
3-Đồng tướng;
4-Dị tướng;
5-Thành tướng;
6-Hoại tướng.» Giải thích đầy đủ như trong phẩm Thập Địa ở sau.
Sáu thích, cũng gọi là Lục Hợp Thích:
1) Y chủ thích, cũng gọi là Y Só, nghóa là hai pháp hướng về nhau, nương theo chủ ấy mà lập ra tên gọi này. Như nói Nhãn thức, không phải Nhãn
tức là Thức, bởi vì dựa vào Thức của Nhãn mà gọi là
Nhãn thức. Nếu rời xa ngôn từ thì Nhãn là nghóa về có năng lực
trông thấy, Thức là nghóa về phân biệt rõ ràng. Nay ở đây hợp lại phân rõ cho nên gọi là
Hợp thích. Nếu chỉ riêng

pháp làm tên
gọi thì không phải là thuộc về sáu cách giải thích.
2) Trì nghiệp thích, cũng gọi là Đồng y thích, nghóa là nêu ra nghiệp dụng
ấy để hiển bày về tự
Thể. Như nói Tạng thức, Tạng là nghiệp dụng,
Thức là Thể của nó. Bởi vì Tạng tức là Thức, giữ lấy Dụng giải thích về
Thể, không phải là Thể riêng biệt dựa vào nhau. Đã không phải là hai
pháp, thì sao gọi là Hợp
thích? Bởi vì Thể-Dụng không lìa nhau cho nên
gọi là Hợp.
3) Hữu tài thích, cũng gọi là Đa tài thích, nghóa là thuận theo vật vốn có để lập ra tên gọi ấy. Như nói Phật độ, Độ là vốn có của Phật cho nên gọi là
Phật độ.
4) Tương vi thích, nghóa là như trong một câu có nhiều tên gọi-ngôn từ, nghóa giải thích khác nhau. Như kệ nói: Đối
với Phật và Pháp-Tăng…
Không phải giống như Y chủ, Trì nghiệp… tuy
có nhiều ngôn từ mà
cùng biểu hiện một nghóa.
5) Lân cận thích, nghóa là thuận theo nơi gần mà lập ra tên gọi ấy. Như Tứ niệm xứ quán, thật ra lấy Tuệ làm Thể, nhưng
bởi vì cùng với Niệm gần nhau cho nên gọi
là Niệm Xứ.
6) Đới số thích, nghóa là dùng số để hiển bày về nghóa.
Như nói Thập Địa…, đều
từ số để hiển bày về nghóa riêng biệt. Hỏi: Sáu cách giải thích này thâu nhiếp toàn bộ các pháp hay không?

Đáp: Tất cả
các pháp có được tên gọi, tóm lược có năm quy tắc:

1) Ly hợp mà được tên gọi, như sáu cách giải thích này.
2) Đương Thể của một pháp lập ra tên gọi, như Tín…, đây là dựa theo giải
thích thẳng thắn.
3) Không có nơi khác mà chịu tên gọi, như Vô minh…, đây là dựa theo giải thích ngăn
chặn.
4) Ví dụ tương tự mà được tên gọi, như
Hoa Nghiêm…, từ ví dụ
làm sáng tỏ tên gọi.
5) So sánh nhau để lập ra tên gọi, như Đại thừa so sánh với Tiểu thừa để lập ra tên gọi ấy… Vì vậy, sáu cách giải thích chỉ dựa vào môn thứ nhất. Nếu đối với
sáu
cách trước thêm vào
bốn loại giải thích sau, thì tổng cọng là mười loại
giải thích, tóm lược
thâu nhiếp các pháp mà được tên gọi sai biệt.

Tám thanh: Theo
pháp của các nước phía Tây, nếu muốn tìm đọc
kinh sách nội-ngoại, thì cần phải hiểu rõ tám pháp chuyển thanh trong
Thanh Luận, nếu không nhận biết rõ ràng thì chắc chắn không có thể nhận biết về phạm vi của
văn nghóa. Một, Bổ-lô-sa, đây là Trực chỉ
trần thanh, như người chặt cây, chỉ nói đến người
ấy. Hai, Bổ-lô-tư, là Sở tác
nghiệp thanh, như chặt cây mà
phát ra. Ba, Bổ-lô-tể-nã, là
Năng tác cụ thanh, như do rìu chặt. Bốn, Bổ-lô-sa-da, là
Sở vi thanh, như vì
người chặt. Năm, Bổ-lô-sa-đa, là Sở nhân thanh,
như bởi vì người mà làm nhà
cửa… Sáu, Bổ-lô-sát-sa, là
Sở thuộc thanh, như tôi tớ phụ thuộc
vào chủ. Bảy, Bổ-lô-sát, là Sở y thanh, như khách dựa vào chủ. Du-già
quyển thứ hai, gọi bảy loại trên là bảy câu ví dụ, bởi vì đều là phát
khởi hiểu rõ nhiều ví
dụ. Bát chuyển trong Thanh Luận, lại thêm Khiết-bổ- lô-sa, là thanh
Hô triệu. Nhưng tám thanh này có ba loại của nó:
1) Nam thanh;
2) Nữ thanh;
3) Phi nam phi nữ thanh. Trên đây lại dựa theo
Nam thanh mà nói, bởi vì tiếng Phạm gọi là đàn ông
là Bổ-lô-sa.
Nhưng tám thanh này lại đều có ba:
1) Thanh;
2) Thanh thân;
3) Đa thanh thân, tức là hai mươi bốn thanh. Như gọi đàn ông có hai mươi bốn,
 nữ và phi nam phi nữ thanh cũng nói là có hai mươi bốn,
 tổng cộng có bảy mươi hai loại thanh,
 để gọi tên các pháp, có thể dựa theo để biết, nhưng ở
phương này (Trung Hoa) phần
nhiều không có quy tắc này.

Thứ hai, giải thích văn kinh. Phẩm này có
hai phần: Một,
phần Đại chúng nghi ngờ
thưa thỉnh; hai, từ “Nhó thời Thế Tôn…” trở xuống là phần
Như Lai ngay đó trả lời. Trong phần một phân hai:
Trước là trình bày về các Hội
thưa hỏi, sau là giải thích về văn này.

Trong phần trước là các Hội thưa hỏi đưa ra bốn môn:

Trình bày về có-không có, ở trong tám Hội, hai Hội đầu và hai
Hội sau là có, các Hội còn lại đều không có. Vì
sao như vậy? Đó là bởi vì Hội thứ nhất nêu ra quả phát khởi nhân cho nên hỏi.
Hội thứ hai, đầu tiên bởi vì tìm theo nhân dẫn đến quả cho nên hỏi. Nhưng bởi vì phần vị của nhân lên cao-xuống thấp dựa vào năm
Hội để đáp, phần vị của quả
không sai khác cho nên đáp ngay Hội này. Nhưng năm
Há»™i trung gian,
trong các phẩm lại có những câu hỏi khác, đều
là vì hiển bày tùy theo nói mà hỏi đáp về những
sai biệt trong pháp đã nói ở
Hội ấy, không phải là hỏi riêng biệt về tướng thuộc phần vị của Đại.
Trong Hội thứ bảy trình bày về nhân quả thuần thục cho nên có hỏi, đó là
sáu phần
vị hành tu vô ngại nhanh chóng thành tựu, cho nên
đáp ngay trong
Hội ấy. Trong Hội thứ tám trình bày về nhân quả xứng tánh cho nên có hỏi,
đó là cùng tiến vào pháp giới vô sai biệt, cho
nên cũng đáp ngay
trong hội ấy.

Pháp đã hỏi không giống nhau, Hội thứ nhất-Hội thứ tám chỉ
riêng phần quả có nhân, nhưng đã tin tưởng nhiếp
hóa là khác. Hội thứ hai-Hội thứ bảy chỉ riêng
phần nhân có quả, nhưng phần vị thực hành là khác.

Người chủ động hỏi không
giống nhau, Hội thứ nhất và Hội thứ
tám đều có đủ hai chúng đồng-dị cùng hỏi, bởi
vì chúng cùng dựa vào
pháp đã hỏi. Hội thứ hai chỉ có chúng Đồng sinh
hỏi, bởi vì Đồng
sinh đã tiến vào phần vị thù thắng. Hội thứ bảy chỉ một người hỏi, bởi vì
trình độ của hạnh tu tập thành tựu khác nhau.

Nghi thức thưa hỏi, có hai: Một là dựa theo ngôn niệm, hai là dựa theo
thông biệt.
Trong phần một, luận rộng về thưa thỉnh có hai,
một là lời thưa thỉnh, hai là nghó đến thưa thỉnh. Đáp cũng có hai, một
là đáp bằng lời nói giảng giải, hai là đáp
bằng nêu rõ tướng trạng.
Hai phần hỏi đáp này như thứ tự đan chéo nhau làm
thành bốn câu có thể
biết, bởi vì thành tựu ba Tuệ mà có hai ví dụ
này. Hai Hội đầu và Hội thứ tám chỉ có nghó đến
thưa thỉnh, đáp gồm chung cả hai, nghóa là Đức Phật đáp bằng nêu rõ
tướng trạng,
Bồ Tát dùng lời nói để đáp, bởi vì hướng về Đức Phật phát khởi thưa thỉnh cho nên không đợi phải nói, trình bày về Phật trí tiếp nhận nghi ngờ, thân tướng hiện rõ tự tại để
đáp. Hội thứ bảy chỉ có lời thưa thỉnh và đáp
bằng lời nói, bởi vì hành pháp dựa theo lời nói hiển bày rõ ràng. Lại hướng về
Phổ Hiền phát khởi thưa hỏi, cho nên vẫn là
Phổ Hiền đáp. Hai là dựa theo
thông biệt, Hội thứ nhất và
Hội thứ tám, hỏi riêng mà đáp chung; Hội thứ hai và
Hội thứ bảy, hỏi riêng đáp riêng có thể biết.

Hai là giải thích văn, trong này có hai: Trước là trường hàng,
sau là
trùng tụng.
Hai sai biệt này, phần nhiều thể lệ (đại lệ) có mười:
1) Dựa theo lợi căn và độn căn, nghóa là độn căn chưa ngộ, lại tiếp
tục vì họ mà tụng.
2) Dựa theo đến trước và đến sau, bởi vì người đến
sau chưa nghe, cho nên vì họ
mà tụng lại.
3) Dựa theo phát sinh và thuần thục, người thuần thục nói thẳng liền hiểu, người mới phát
sinh thì vòng vo khéo léo mới biết được, cho nên tụng lại.
4) Dựa theo văn hoa
và chất phác, hoặc có
người ưa thích đơn thuần thì thẳng thắn nêu ra bằng
trường hàng; hoặc có người ưa thích văn hoa thì nêu ra lời
tụng tuyệt vời.
5) Dựa theo hai loại về Trì, luận nói trường hàng giải thích phân tán ra phát
sinh
Chánh giải, cho nên thành tựu
Nghóa trì; kệ tụng thâu
nhiếp tổng quát dễ dàng
thọ trì, cho nên thành tựu Văn trì.
6) Dựa theo giúp đỡ thành tựu, nghóa là lại dùng kệ tụng để hiển bày về nghóa của
trường hàng thêm rõ
ràng. Trên đây là gồm chung các văn trùng tụng.
7) Dựa theo thành tựu trọn
vẹn, bởi vì trong tụng bao gồm hiển bày về
nghóa viên mãn đã nói
trước đây, mà trường hàng thiếu hụt không có
thành tựu, như kệ trong
phẩm Phát Tâm Công Đức…
8) Dựa theo Thể
tướng, bởi vì từ môn
dựa theo Tướng, dùng trường hàng nói thẳng, đây là dựa theo Đồng giáo và
Tam thừa; bởi vì dựa vào
Thể viên dung, dùng kệ tụng khéo léo hiển bày, đây là dựa theo
Biệt giáo, loại này như kệ
trong phẩm Thập Hạnh…
9) Dựa theo chung và riêng, bởi vì trường hàng chỉ ra
riêng biệt, trùng tụng bao gồm tất cả, như văn tụng về thế
giới… trong phẩm này.

10) Dựa theo tâm và lời nói, nghóa là trường hàng
thẳng thắn
hiển bày về pháp đã nghó đến trong tâm, kệ tụng nói rõ
ra khiến cho thưa thỉnh viên
mãn, loại này chỉ có ở văn này. Lại có
nghóa bình thường Đức
Phật thuyết pháp, pháp vốn như vậy có hai tướng,
đó là thuyết giảng
thẳng về Khế kinh thì chắc chắn có Kỳ-dạ trùng
tụng. Trùng tụng trong những phẩm
sau đều dựa theo mười thể lệ
này làm chuẩn mực.
Ngay trong trường hàng này
có ba: Một, nêu ra người
chủ động hỏi, đó là Đồng
sinh-Dị
sinh cùng thuộc về pháp giới, cho nên
nói là Hàm; lời nói giảng giải làm
sáng tỏ
sự việc không phải là hiển bày
khác lạ, tâm nghó đến
tiến vào pháp hiển bày về sâu xa vi tế cho nên nói
là Niệm. Hai, trình bày
về pháp đã thưa thỉnh. Ba, từ “Duy nguyện…”
trở xuống là kết luận về thưa thỉnh.

Trong phần đã thưa thỉnh, xưa nói rằng: Phần
này có hai mươi
ba câu, phân hai: Đầu là
hai mươi mốt câu hỏi về pháp của quả, sau là hai câu hỏi về hành của nhân. Trong phần đầu dựa theo năm Hải trong
đáp ở sau, văn này phân làm năm, mười hai câu đầu hỏi về
Phật hải, ba câu tiếp như tên gọi hỏi về ba Hải,
sáu câu
sau dựa theo phần dưới thích hợp là Căn dục tánh Hải, nhưng bởi vì Căn dục không
giống nhau, khiến
cho duyên của chủ động
che phủ sai khác. Trong này đưa ra duyên để hiển bày
về căn, văn sau đưa ra căn để hiển bày về duyên có hai bên này.
 Nay lại giải thích trong này có ba mươi lăm câu, phân hai: Ba mươi câu đầu hỏi về pháp của quả,
sau từ
“Nhất thiết
Bồ-tát…” trở xuống là
năm câu hỏi về hành
của nhân. Ngay trong phần đầu, phân ba: Một,
mười câu hỏi về đức
bên trong của Phật và đức đầy đủ; hai, từ “Thị hiện
Bồ- đề…” trở xuống là mười câu hỏi về tướng bên ngoài của Phật và
đức sáng rực; ba, từ “Thế giới hải…” trở xuống là mười câu hỏi về
công dụng giáo hóa và đức rộng khắp.

Ngay trong phần
một, một câu đầu là tổng quát, chín câu còn
lại là riêng biệt. Trong
đó ba chữ “Hà đẳng thị” nối liền ba mươi lăm câu, ba chữ
“Nhất thiết chư” nối thông ba mươi câu trước, hỏi về quả
nên biết! Vì sao kinh này
đầu tiên hỏi về pháp của Phật quả? Đó là bởi
vì tiêu chí, bởi vì tông quy, bởi vì làm căn bản, bởi vì hiển bày về đức,
bởi vì sinh khởi niềm
tin, bởi vì phân rõ phương hướng. Đầu đề của
kinh là Phật
Hoa Nghiêm, nghóa thuộc về nơi này. Nói về
Phật địa, Phật Địa luận quyển thứ nhất
nói: “Pháp giới thanh tịnh và Diệu trí ấy thọ
dụng hòa hợp cùng một
vị bình đẳng, là sở y-sở hành-sở nhiếp của Phật, cho nên gọi là
Phật địa”. Giải thích rằng: Tức là lấy Pháp giới thanh tịnh làm
sở y, Diệu trí làm
sở hành, những công đức còn lại đều là
sở nhiếp,
tức là dùng Chân lý Diệu trí vô ngại làm Thể.
Theo kinh Đại
Thừa Đồng Tánh, Phật
có mười địa, tất cả Bồ-tát và Nhị thừa vốn không
có thể thực hành. Như
thế nào là mười?

Gọi là Thậm Thâm Nan Tri Quảng Minh Trí Đức địa, cho đến thứ 10 là
Tỳ Lô Giá Na Trí Hải Tạng địa, như
sau giải thích đầy đủ
ở chương Thập Địa.

Cảnh giới Phật, chín loại
sau đều trong Phật địa này mà tách ra, vì thế đều là câu
riêng biệt, nghóa là mở ra Pháp giới
thanh tịnh, là cảnh
sở chứng của Phật, hoặc tổng quát nêu ra sở tri
gồm chung Chân-Tục.
Sau phẩm Tánh Khởi nói: Tất cả chúng sinh là cảnh
giới của Như Lai, cho đến thứ mười không phải là cảnh giới-cảnh giới là cảnh giới của
Như Lai. Lại cũng là phạm vi của cảnh giới, vì vậy trong phẩm
Minh Nạn trình bày về mười loại cảnh Phật rằng: Cảnh
giới sâu xa của
Như Lai, phần lượng ấy giống như hư không. Lại giải
thích gồm có sở tri và
phạm vi của cảnh, sau trong phẩm Bất Tư Nghị nói:
Phật có mười loại cảnh không thể ví dụ, không thể nghó bàn… Nên tìm theo văn ba nơi
sau, đến đó phân rõ đầy đủ.

Phật trì, có
bốn nghóa: Một, bởi vì Pháp giới thanh tịnh cho nên
tùy ý duy trì tất cả các công đức; hai, bởi vì
Đại viên cảnh trí và
Thức thanh tịnh tương ưng cho nên đều có thể tùy ý duy
trì các công đức; ba, Đại Đà-la-ni môn trong
Hậu đắc trí, tổng quát duy trì vô lượng các
pháp hải; bốn, trong mười Phật này duy trì Phật vốn là tùy thuận. Lại có mười
Trì như Phật lực trì… ở Địa thứ mười sau này.
Lại trong phẩm Ly
Thế Gian cũng có mười Trì, thứ nhất là Phật trì cho
đến thứ mười là Trí trì. Trong hai văn này đều lấy câu thứ nhất làm tổng quát, thâu nhiếp riêng
biệt đưa vào tổng quát cùng gọi là Phật trì. Lại
như sau ở phẩm Bất
Tư Nghị nói: Phật có mười loại sinh ra trí tuệ trú
trì… Đều thuận theo tìm
đầy đủ để phân rõ về điều đó.

Dựa theo văn tụng
ở sau, trong này thiếu một câu về Vô thượng
trí của Phật, vậy thì câu này đến Thập trí… sau có thể biết.

Phật hạnh, là hạnh Đại Bi thâu nhiếp chúng sinh, còn là hạnh tạo tác của Đại trí. Đây đều là Tác của
Bất tác, không
suy nghó mà
thành tựu việc làm. Trong phẩm Tánh Khởi nói Vô
chướng ngại hạnh,
Như Như hạnh…, là Như Lai hạnh. Đây là khác với
công đức của Nhị thừa.

Phật lực, có hai nghóa: Một là không bị người khác làm cho
khuất phục, hai là có thể dẹp tan ma oán. Nói riêng
biệt có mười loại,
đó là Thị xứ phi xứ trí lực… Lại có mười
loại, như trong phẩm Bất Tư

Nghị nói: Tối
thắng lực, Đại lực, Vô lượng lực cho đến thứ mười là
Đại lực Na-la-diên tràng
Phật sở trú pháp…

Phật Vô úy, đã nói khiếp sợ cho nên gọi là Vô úy,
là công đức chế phục ngoại đạo, hoặc là bốn,
hoặc là mười, như nói trong phẩm Ly Thế Gian. Trên
đây là trình bày về đức của Đại Trí.

Phật Tam-muội, là vi trần
số
Tam-muội hải như
Sư Tử Phấn Tấn… thâu nhiếp tóm lược làm mười, như nói ở phẩm
Bất Tư Nghị. Đây
là trình bày về công đức của Đại Định.

Phật Tự Tại, dựa vào Định phát khởi vô tận thần
thông, sở tác
vô ngại cho nên gọi là Tự tại. Trong phẩm Bất Tư
Nghị, Phật có mười
loại Chánh pháp tự tại. Lại trong phẩm Ly Thế Gian
có mười tự tại…,
đều có thể biết. Đây là trình bày về công đức của Thần thông.

Phật thắng pháp, công đức thù thắng vượt quá những phần vị khác, cho nên gọi là pháp thù thắng. Cũng có mười loại, như nói ở phẩm
Bất Tư Nghị. Đây là trình bày về công đức của Đại Phước. Mười câu
trên trình bày về đức bên trong đầy đủ, xong.

Trong phần hai, tướng bên ngoài
sáng rực, đầu tiên là thị
hiện Bồ- đề, đó là hướng về căn cơ thị hiện thành tựu Đại Bồ-đề, như phẩm
Tánh Khởi nói nơi thành
tựu Bồ-đề, lại phẩm Bất Tư Nghị cũng nói, đều nên biết. Đây là câu tổng quát, chín câu còn lại là
riêng biệt, bởi vì
sáu
căn- ba nghiệp đều là
tướng thành tựu Bồ-đề. Sau trong phẩm Bất Tư
Nghị và phẩm
Ly Thế Gian, mỗi một môn trong chín môn này đều dùng mười môn để phân rõ nói về gia hộ, điều ấy nên biết.
Phật Quang Minh là thân nghiệp, còn lại
đều có thể biết. Trên đây trình bày về tướng
bên ngoài sáng rực, xong.
Trong phần ba,
mười câu hỏi về công dụng giáo hóa và đức rộng khắp.

Thế giới hải, nghóa là nơi hoạt dụng hóa độ, gồm chung cõi

nhiễm-tịnh, tức là thâu nhiếp vào mười thân quốc độ của Đức Phật,
tóm lược nói đến mười
loại, như văn sau ở trong phẩm này nói.

Chúng sinh hải, nghóa là căn cơ đã hóa độ, gồm chung
Thô- Diệu-Không-Hữu…, cũng thâu nhiếp vào mười
thân. Lại như mười loại
Nhập-chúng sinh… ở phẩm Ly Thế Gian, nên biết!

Pháp giới phương tiện hải, loại này có bốn nghóa: Một là Lý tánh pháp giới, là nơi (giới) nương tựa của chúng
sinh và thế giới… trước
đây; hai là Nhiễm sự pháp giới, là
Uẩn-Giới-Pháp… của chúng sinh đã
hóa độ ở cõi ấy; ba là Vô cấu pháp giới, là
những pháp thanh tịnh nhất
mà Đức Phật đã đạt được; bốn là Tịnh dụng
pháp giới, là những thiện

hạnh mà Đức Phật đã dùng để thâu nhiếp
chúng sinh, cho nên gọi
là phương tiện, như phẩm
Bất Tư Nghị, Đức Phật có mười loại pháp
giới vô lượng vô
biên…, nên biết!

Dá»±a theo trong
tụng sau, văn này thiếu phần Điều phục hải. Điều phục hải tức là đã điều phục, là thuộc về Căn dục tánh hải, nhưng
tụng và trường hàng bởi vì người soạn văn
cùng có giữ lại và tóm lược.

Phật hải, nghóa là Đức Phật chủ động hóa độ không phải là
hoàn toàn giống như hải, đó là ở khắp tất cả
mọi nơi mà Chuyển pháp luân.

Ba-la-mật hải, có hai nghóa: Một là pháp hành mà Đức
Phật đã nói, vốn là để truyền cho tất cả
chúng sinh; hai là hạnh đã thực hành-đã
giáo hóa ấy, tức là đã thành tựu lợi ích về
giáo hóa, đó là mười Độ…

Pháp môn hải, cũng có hai nghóa: Một là giáo pháp của Đức
Phật đã thiết lập, qua lại hòa vào tất cả mọi
căn cơ ấy; hai là căn cơ đã hóa độ ấy thực hành thành tựu chứng lý của pháp đã tiến vào. Loại này
cũng có mười, như nói trong phẩm Bất Tư Nghị.

Hóa thân hải, nghóa là căn cơ khác nhau cảm được hiện tướng
nhiều cách riêng biệt, như nói các lỗ chân lông
tỏa ra mây Hóa thân…; lại Phật Lô-xá-na ở khắp
mười phương, xuất hiện tất cả Hóa thân trang
nghiêm… Lại trong phẩm Ly Thế Gian có mười loại Biến hóa…
Phật danh hiệu hải, nghóa là đối với căn nên nghe danh hiệu không phải là như nhau, như phẩm
Danh Hiệu, mỗi một thế giới có trăm ức vạn…

Phật thọ lượng hải, nghóa là ứng với cơ dài ngắn, thiếu đủ vô cùng
sai khác, tóm lược có mười phần vị, như nói trong phẩm
Thọ Mạng. Trên đây là hỏi về quả, xong.

Thứ hai là năm câu trong phần hỏi về nhân, một câu đầu là tổng quát, bốn câu
sau là
riêng biệt: Một, trình bày về những phần vị
sơ
phát tâm như Thập Trú;
hai, tức là thực hành mười Độ ngay Thập Hạnh;
ba, Nguyện tức là Đại nguyện của Thập Hồi Hướng;
bốn, Trí tuệ tạng tức là trong Thập Địa lấy Trí tuệ làm tánh, bởi vì hàm chứa thâu nhiếp tích lũy giữ gìn, như
Bồ-tát cùng tên gọi là
Tạng… trong phẩm
Thập Địa sau này.
Trong phần ba là kết luận về
thưa thỉnh, chỉ nguyện Từ Bi là
trình bày về Đức Phật
có nhân thuyết giảng không mệt nhọc rã rời,
Phương tiện là hiển bày
về Đức Phật khéo léo thuyết giảng khiến cho dễ
hiểu, nhờ vào phát tâm
Bi, nhờ vào khéo léo mà được hiểu rõ.

Phần hai là trong tụng bởi vì hiển bày khác lạ, không dùng khẩu

nghiệp bình
thường để thuyết giảng, biểu thị về Y-Chánh vô
ngại cho nên nói trong phần vật dụng
cúng dường, tức là nói về cõi
dưới mà thôi.

Chín tụng phân làm hai: Một
là ba tụng đầu ca ngợi về đức thưa
thỉnh, hai là sáu tụng sau nêu ra pháp thưa thỉnh.

Trong một: Hai tụng đầu ca ngợi Đức Phật để
thưa thỉnh,
trình bày vốn có nhân
thuyết giảng; một tụng sau ca ngợi Đại chúng để
thưa thỉnh, trình bày vốn có duyên thuyết giảng. Trong
hai tụng: Một tụng đầu hiển bày về đức viên mãn
của Phật, nửa tụng đầu phân rõ về
nhân quá khứ không
còn-quả hiện tại không có công, nửa tụng sau là
dụng tận cùng thời gian
vị lai, ứng với khắp nơi không suy nghó, mây vốn là rưới mưa pháp, vốn tưới thấm cơ duyên, vốn tự không có nguồn gốc. Một tụng
sau trình bày về bên ngoài giáo hóa đầy đủ, nghóa là nửa
tụng đầu khiến cho diệt
ác sinh thiện, nửa tụng sau khiến cho lìa khổ được vui; lại đầu là giúp cho đạt
được Niết-bàn,
sau là giúp cho đạt
được Bồ- đề. Hai từ
“Vô lượng…” trở xuống là trong phần trình bày về ca ngợi Đại chúng để
thưa thỉnh, một lòng là tâm không có ý niệm gì khác,
chắp tay là thân không
chậm chạp lười nhác, nhìn bậc Tối thắng là trú vào ý niệm hướng về Đức Phật; nửa tụng
sau là tổng quát nêu ra pháp đã
nghó đến, nguyện Đức
Phật chỉ bày rõ ràng.

Trong hai: Là nêu ra pháp
thưa thỉnh, phân ba: Một, ba tụng đầu nêu ra mười câu thứ nhất trước đây, trong đó trong một tụng đầu
có sáu câu:
1) Địa;
2) Cảnh;
3) Trì;
4) Trí;
5) Lá»±c;
6) Vô úy. Câu sau là kết luận thưa thỉnh. Trong một tụng tiếp có ba câu:
1) Định;
2) Hạnh;
3) Tự tại, tức là thần lực. Câu sau là thưa thỉnh thuyết giảng. Một tụng sau tụng về pháp thù thắng,
cũng là thị hiện Bồ-đề… có thể biết. Hai, một tụng tụng về mười câu thứ hai, bởi vì ba nghiệp không rời xa
sáu căn, cho nên cùng tụng
như nhau. Ba, hai tụng tụng về mười câu thứ ba,
trong tụng đầu có năm
Hải, trong tụng sau có hai Hải, ba Hải còn lại và hỏi về nhân tổng quát thâu nhiếp cho nên nói là vô lượng vô biên…, câu
sau là kết luận thưa thỉnh.

Thứ hai trong
tướng của đáp, các vị xưa nay cũng có người đem những câu hỏi này đưa vào phần đáp trong các
Hội sau. Cách phân
định này sợ rằng sai
lầm, bởi vì Hội thứ hai đều tự có hỏi riêng biệt-có
đáp riêng biệt, bởi vì
bốn lần hỏi đáp đan chéo lẫn lộn, vì thế cho nên
tổng quát ở phẩm này đều là đáp chung.

Dưới đây nói về phần vốn có quả-nhân thuyết giảng. Ngay
trong văn này, phần trường
hàng có mười: Một, phần khuôn mặt phát ra ánh

sáng quy
tụ chúng; hai, phần lông trắng giữa chặng mày phát ra
ánh sáng nêu
rõ pháp; ba, phần Pháp chủ
nhập định; bốn, phần chư
Phật gia trì; năm, phần Đại chúng cùng
thưa thỉnh; sáu, phần trong Định nói
tóm lược; bảy, phần
rời Định thành tựu lợi ích; tám, phần đầu lông phát
ra ánh sáng khen ngợi về
đức; chín, phần đồng ý thuyết giảng khiến
cho hoan hỷ; mười, phần
chính thức nói rõ về pháp hải.

Trong phần một có hai: Trước
là phát ra ánh sáng, sau là quy tụ chúng.
Trong trước cũng có hai: Một là ánh
sáng nơi thân thức
tỉnh khắp nơi, hai là trong ánh
sáng nói lời mời gọi. Hai phần này cũng tức là
đáp câu hỏi về ánh
sáng-âm thanh của Đức Phật trước đây.

Trong một cũng
có hai: Một, ánh sáng nơi này soi chiếu nơi kia; hai, từ
“Chư Bồ-tát…” trở xuống là tìm theo ánh
sáng nhìn
thấy nơi này.
Trong phần một có năm: Một là nhận biết ý niệm hiểu
rõ nghi ngờ, bởi vì
sắp
sửa trả lời cho nên liền phát ra
ánh sáng. Hai là trình bày về nơi ánh
sáng phát ra, khuôn mặt (diện môn) thì cổ đức có ba cách
giải thích, một nói là miệng, một nói là dung mạo đích thực của khuôn mặt chứ không phải là
riêng miệng.
Sư Quang Thống nói: “Dưới mũi-trên miệng chính là ở giữa.” Dựa theo văn
sau đưa ra mũi cũng
như đã nói. Nay giải
thích theo tiếng Phạm nói mặt và miệng đều là môn, đều gọi là
Mục Khư, vì thế cho nên phiên dịch từ
Mục Khư này
là Diện Môn, do đó biết trong này cùng đưa ra việc ấy. Khẩu là biểu thị cho giáo đạo che phủ lan xa, Diện là đích thực hướng về căn cơ, Môn là
mở thông giáo pháp thâu
nhiếp chúng sinh, Xỉ là tác dụng thù thắng,
nghóa là bởi vì suy nghó
nghiền ngẫm pháp vị, cho nên sửa trị dẹp tan
phiền não làm chướng
ngại. Bởi vì duyên khởi vốn có đức tướng sai
biệt, cho nên nói mỗi một nơi đều phát ra trần
số
ánh sáng. Ba là riêng biệt
hiển bày về ánh sáng
đã phát ra có mười môn, luận chung thì mỗi một
môn đều nối thông với
ba thế gian…, trình bày riêng biệt thì sáu môn đầu
là Phật hải, hai môn
tiếp là Khí hải, một môn tiếp là Chúng sinh hải, một môn
sau cuối là Pháp giới phương tiện hải. Lại tám môn đầu là ý nghiệp Ký
thuyết luân, một môn tiếp là thân nghiệp
Thần thông luân, môn
sau cuối là ngữ nghiệp
Chánh giáo luân. Bốn là thâu nhiếp quyến
thuộc. Năm là nơi đã
soi chiếu, trong này phát ra ánh sáng có bốn ý:
1) Hiện bày tướng biểu thị về thật;
2) Cảnh tỉnh phát khởi tín tâm;
3) Chiếu rọi tiếp xúc cứu khổ;
4) Bởi vì mời gọi chúng từ xa quy tụ. Vì thế cho nên chúng ấy theo ánh sáng nhìn thấy nơi này mà biết rõ chỗ quy tụ. Trong tụng có chín kệ rưỡi, có bốn nghóa: Sáu kệ rưỡi đầu tụng
gồm chung nêu ra đức của Phật để khuyến khích hướng đến, một kệ tiếp riêng biệt trình bày về người chủ động thuyết giảng để
khuyến khích đi đến, một kệ tiếp riêng biệt nêu ra pháp đã thuyết giảng để khuyến khích quán xét, một kệ
sau cuối gồm chung kết luận về đức
của Phật hiển bày về
sâu rộng. Bốn ý này đều dùng phần sau để giải
thích phần trước, suy nghó có thể thấy.
Trong phần đầu có hai: Trước nêu ra đức,
sau từ
“Nhân tôn…” trở xuống là khuyến khích hướng đến. Trong phần trước có ba: Hai kệ đầu về
Thân nghiệp, một kệ về Thể, một kệ về Dụng; hai kệ tiếp về Ý nghiệp, một kệ về Dụng, một kệ về Thể; một kệ
sau cuối về
Ngữ nghiệp. Trong phần
khuyến khích, nửa kệ đầu khuyến khích vì pháp, nửa kệ tiếp khuyến khích
nhiều chúng, nửa kệ tiếp là khuyên dạy phát khởi
cúng dường. Tuy viên âm nhanh chóng nói về Nguyện hải thuộc chín đời,
 nhưng không làm hỏng về pháp vốn có, bởi vì không phải là một niệm, tức là nêu ra pháp môn đã nói
ở sau. Văn còn lại
có thể biết.

Thứ hai, trong
phần quy tụ chúng, trước là trình bày về các
Hội, có bốn nghóa:
1) Có và không có;
2) Nơi đến xa gần;
3) Tên gọi như bổn xứ… không giống nhau;
4) Kệ ca ngợi và trước sau. Trong nghóa một là có và không có, hai Hội thứ sáu-thứ bảy
không có, bởi vì chứng
được phần vị và hạnh thuần thục đi cùng cho nên
đều lìa tướng, sáu Hội
còn lại đều có, việc đã làm có thể biết. Phàm
là quy tụ chúng mới thì có bốn ý: Một là vì
thâu nhiếp căn cơ, hai là vì chứng minh về pháp, ba là vì phát khởi
cúng dường, bốn là trình bày về
chúng trọn vẹn.
Trong nghóa hai là xa gần, Hội thứ nhất-thứ hai là mười
sát trần, Hội thứ ba là
trăm, Hội thứ tư là ngàn, Hội thứ năm là vạn, bởi vì dựa vào phần vị dần tăng lên, Hội thứ tám vượt qua không thể nói
là hiển bày về chứng
pháp sâu xa. Trong nghóa ba một là Xứ, hai là Phật, ba là Bồ-tát, bốn là cúng dường nhiều ít đều tùy theo Hội, nên
biết. Trong nghóa bốn Hội thứ nhất-thứ hai không có kệ tán, vì mới phát
khởi tu tập; bốn Hội còn lại đều có, bởi vì hiển bày phần vị của pháp
tăng lên. Lại năm Hội
trước chắc chắn là quy tụ trước, bởi vì thuận theo
tu tập mà tiến vào
chứng; Hội thứ tám chắc chắn là quy tụ sau, bởi vì
dựa vào chứng mà khởi lên tác dụng.

Hai, trong giải
thích văn có hai: Trường hàng và kệ tụng.
Trong trường hàng cũng
có hai: Một là quy tụ chúng, hai là hiển bày về
đức. Trong quy tụ chúng
cũng có hai, trước là quy tụ, sau là kết luận.
Trong quy tụ,
mười phương tức là làm thành mười đoạn, mỗi một
phương đều có bảy: Một là tên gọi
của Khí-Hải, hai là tên gọi
của quốc độ, như quốc độ của hai Đức
Phật này…, hai loại này là tướng của pháp đã dựa vào, chỉ nối
thông-riêng biệt là khác nhau. Ba là tên gọi
của Đức Phật, bốn là tên gọi
của Bồ-tát, hai loại này là trí chủ động tiến
vào, chỉ đầy đủ-từng
phần là khác. Năm là chủ-bạn cùng đến, trình bày
có đủ đức viên mãn.
Sáu là phát khởi cúng dường, cúng dường Đức
Phật thuận với nghóa lợi ích, là nhân thuận với quả. Bảy là ngồi theo
phương của mình, trình bày thâu nhiếp phân tán quy về vắng lặng.
Vì sao
trước tiên phân rõ về
Đông phương, đó là hiển bày về nơi bắt đầu
sáng
suốt, cho nên thuận theo phương ấy. Bởi vì phương thức lễ nghi của
Tây Vức lấy phía Đông làm
cao nhất, cho nên điện thờ-nhà chính ở đó đều
xoay mặt về hướng Đông.
Như chùa Kỳ Viên, chùa Bồ Đề đều xoay mặt
về hướng Đông,
Như Lai thuyết pháp cũng phần nhiều xoay mặt về
hướng Đông, cho nên
khuôn mặt phát ra ánh sáng chính là hướng Đông. Hỏi:
Trong văn sau, thế giới
Hoa Tạng này là vô biên, vì
sao
trong này có Đông…? Đáp: Bởi vì thế giới
Hoa Tạng là
Biên-Vô biên không hai,
cho nên gọi là Vô biên.
Như văn sau nói: Vô biên-Biên không hai cho nên gọi là
Hữu biên. Nói như vậy thì không hoại đến Biên mà luôn luôn
Vô biên, không phá vỡ
Vô biên mà luôn luôn Biên. Nếu nói rằng Vô
biên trái với Biên,
Biên trái với Vô biên, thì do tình chấp mà đạt tới
pháp, không phải là duyên khởi đích thực. Bởi vì
Biên-Vô biên này là một
sự, cùng vượt lên trên tình chấp. Điều ấy giống như tổ chim màu
sắc đẹp
đẽ bện toàn sợi trắng
mà không xen tạp với tổ chim màu tím, tổ chim
màu tím cũng như vậy.
Lại tổ chim màu trắng có màu tím vốn là do bông tơ này. Nếu trong màu trắng không có màu tím,
sợi tím không đến nỗi bện hai bên thì tức là thêu chứ không phải là bông tơ. Tổ chim màu
trắng không có màu tím vốn là do bông tơ này. Nếu màu trắng có màu tím hiện rõ thì đường nét bị hỏng chứ không phải là bông tơ. Vì thế cho
nên do màu trắng có mà
màu tím được thành tựu, màu trắng không có
màu tím, màu tím không
có màu trắng cũng như vậy; nên biết đạo lý
trong này cũng như vậy,
suy nghó để dựa theo chính xác! Hỏi: Nếu như vậy thì thế giới mười phương ấy có đều là
Hoa Tạng hay không? Đáp: Đều là
không phải, nghóa là bởi vì tức là (tức thị) cho
nên không phải là (bất
thị), không phải là cũng như vậy, dựa theo trên
để suy nghó. Lại tại vì
sao? Bởi vì Hoa Tạng ở phương Đông… cho nên
tức là (tức) mà không
phải tức là (bất tức).

Hỏi: Ngoài mười thế giới này ra, lại có thế giới khác hay không? Đáp:
Không có. Tại vì
sao? Bởi vì
Hoa Tạng là chủ, mười thế
giới kia là bạn. Đây
là chủ và bạn viên dung rộng khắp mọi nơi, tất cả
trần đạo trùng trùng như
Đế võng, cho nên còn lại đều ngay nơi này, bởi vì như hư không.
Lại trong này các loại cúng dường đều là pháp môn. Tùy theo
tướng có mười:
1) Diệu Bảo là nghóa về đáng quý.
2) Tu Di là nghóa
về cao vời thù thắng,
Vân là nghóa về tưới thấm có lợi ích, nghóa về
hàm chứa mưa, nghóa về hàm răng.
3) Nhật là nghóa về trừ hết bóng tối, Luân là nghóa về có đủ công đức.
4) Các là nghóa về tiếp tục thành tựu, như trên Chánh trí phát khởi tâm Bi…
5) Hoa là nghóa về thanh tịnh, nghóa về nở rộ.
6) Hương Vân là nghóa về mùi thơm của Giới…
7) Tòa là nghóa về thâu nhiếp làm lợi ích.
8) Cái là nghóa về bóng cây che mát.
9) Tràng là nghóa về một mình vượt ra.
10) Thọ là nghóa về kiến lập. Còn lại đều dựa theo đó.

Lại dựa theo pháp cũng có mười ví dụ:
1) Hoặc lấy Sắc pháp làm mây (Vân), như Bảo Diệu sắc vân…
2) Lấy Đại Thanh làm mây, như Diệu âm và ca ngợi
về đức của Phật… Đây là dựa theo Sự.
3) Lấy vô tận Phật độ làm mây, như mười loại mây không thể nghó bàn ở cõi Phật… Đây là dựa theo Y báo.
4) Lấy Lý tánh chín đời làm mây, như mây ánh sáng của Pháp thân Phật ba đời… Đây là dựa theo Thể.
5) Lấy tám tướng của Phật làm mây, như mười loại mây biến hóa của Phật… Đây là dựa theo
Dụng.
6) Lấy pháp môn Vô Ngại giải thoát làm mây, như mười loại tán mây của giải thoát… Đây là dựa theo giải thoát
không thể nghó bàn.
7) Lấy cảnh đã chứng của Phật làm mây, như mười loại mây của cảnh giới Phật… Đây là dựa theo Quả.
8) Lấy tất cả các hạnh của Bồ-tát làm mây, như mười loại mây thị hiện công hạnh của Bồ-tát… Đây là dựa
theo Nhân.
9) Lấy dục lạc của tất cả chúng sinh làm mây, như mười loại mây thị hiện dục lạc không thể cùng tận của tất cả
chúng sinh… Đây là dựa theo
Pháp khí.

10) Lấy Đại Nguyện hiện bày thân Phật làm mây, như mười loại mây thị hiện Đại nguyện của tất cả chư Phật… Đây là dựa theo hướng đến với cơ. Như vậy mỗi một loại
đều dùng mười môn để
nói là bởi vì trình bày về Vô tận.

Mười nghóa trên đây trong mỗi một nghóa đều có tất cả các
pháp, duyên khởi vô ngại, vì thế cho nên hoặc là Người, hoặc là Pháp, hoặc
là Lý, hoặc là Sự,
hoặc là Cảnh, hoặc là Hạnh, hoặc là Y, hoặc là
Chánh, hoặc là Nhân,
hoặc là Quả. Trong này mỗi một vật dụng cúng
dường đều nói chưa đầy
hư không, là trình bày xứng với tánh Không vốn có,
quy tụ mà không xen tạp như tánh của
duyên khởi. Vì thế cho nên
Chân lý Diệu hạnh có thể ngay nơi Sự mà thành tựu, Sự như
mây-hoa-vật báu… có thể ngay nơi Lý mà làm
thành pháp. Đây là dựa theo
Biệt giáo, suy nghó điều đó!
Trong phần hai là kết luận:
1) Kết luận về quốc độ;
2) Chủ;
3) Bạn;
4) Cúng;
5) Tòa. Thứ hai là hiện rõ về đức dụng: Ngồi theo thứ tự là duyên
khởi vô ngại, quy tụ mà
không xen tạp. Trong đó có hai: Trước là trình
bày về Thể của đức
vô ngại, sau từ “Niệm niệm…” trở xuống là lợi ích
thù thắng của diệu dụng.

Trong phần trước bao gồm trong Dụng, câu đầu tổng quát có
sáu lớp
Vô ngại, đều nhiều hơn trước gấp bội:
1) Thân quang vô ngại;
2) Ánh sáng và người vô ngại;
3) Người và pháp vô ngại;
4) Trần sát vô ngại;
5) Y chánh vô ngại;
6) Hóa dụng vô ngại.

NhÆ° trong má»™t
niệm, ở một thế giới, hóa hiện trần số chúng
sinh của một cõi Phật; ngay trong niệm này, ở tất cả thế giới, cũng hóa
hiện như vậy. Một niệm đã như vậy, tất cả các niệm khác cũng
đều như vậy.

NhÆ° trong má»™t
cõi Phật, hóa hiện chư Phật ba đời đều trong
một niệm này; tất cả
các cõi khác đã hóa hiện khác nhau cũng như vậy.
Như trong một trần, có tất cả các cõi Phật hóa hiện này; tất cả
các trần khác, đều
riêng biệt cũng như vậy.
Như pháp môn của
một Bồ-tát, khắp nơi tất cả các
sát trần đạo hóa hiện này; pháp của tất cả các
Bồ-tát khác, riêng biệt khắp
nơi cũng như vậy.
Như một ánh
sáng phát ra, xuất hiện tất cả các
Bồ-tát khắp
nơi này; tất cả ánh
sáng khác, riêng biệt xuất hiện cũng như vậy.
Như một lỗ chân lông, phát ra tất cả ánh
sáng xuất hiện
Bồ-tát này; tất cả các
lỗ chân lông khác, riêng biệt xuất hiện cũng như vậy.

Trên đây là tổng quát phân rõ về Sự trong thân của một
Bồ-tát. Như một Bồ-tát, tất cả
Bồ-tát cũng như vậy.
Như chủ, bạn cũng
như vậy. Thế thì trùng
trùng vô tận, không phải là tâm suy nghó-miệng nói ra mà có thể đạt tới. Đây là pháp giới của
Nhất thừa, công đức chân
thật duyên khởi vốn là
pháp như vậy chứ không phải là biến hóa. Như
vậy đều là công đức
ở phần vị Phổ Hiền. Bồ-tát đã như vậy, đức dụng
của quả Phật không phải
là công đức này mà có thể sánh được, có thể
dựa theo suy nghó thông suốt.
Hai là trong phần lợi ích của Dụng, có ba:
1) Nêu ra chúng đã hóa độ;
2) Từ “Dó mộng…” trở xuống là trình bày về pháp chủ động hóa độ;

3) Từ “Ư nhất niệm…” trở xuống là phân rõ về lợi ích của hóa độ. Trong phần hai
là chủ động hóa độ có mười câu, chín câu đầu
là riêng biệt phân rõ,
một câu sau cuối là tổng quát để kết luận.

Trong chín câu đầu: Một,
mộng tự tại là bởi vì tức là Thật-tức
là Không, bởi vì một
niệm hiện rõ nhiều pháp. Hai, bởi vì thanh tịnh,
bởi vì giáo hóa. Ba, bởi
vì giáo nghóa. Bốn, bởi vì hiển bày thần thông thù thắng khiến cho quy y, bởi vì
sợ hãi khiến cho tiến vào pháp, bởi vì tướng chuyển động trở về
chân thật. Năm, bởi vì nguyện lực thâu
nhiếp chúng sinh. Sáu, bởi vì lìa tánh của âm
sâu xa, bởi vì dụng thanh tịnh của âm nhiễm ô, bởi vì hiển bày âm thanh tịnh thu nhận tất cả.
Bảy, bởi vì viên âm lan tỏa khắp nơi, như pháp giới đầu
miệng… Tám, bởi
vì Thể-Dụng làm kinh hãi
căn cơ. Chín, bởi vì kiến lập về nhân tròn vẹn. Trong phần ba là được lợi ích có
sáu câu, giải thích có bốn lớp,
bởi vì văn hàm chứa nhiều
trạng thái: Một, khiến cho lìa xa nỗi
khổ sâu nặng. Hai, có thể thành tựu căn khí
xuất thế. Ba, khiến cho đạt được mười phần vị hướng về quả giải thoát của
Nhị thừa. Đây là
Nhị thừa trong Đại thừa chứ không phải là
Ngu pháp. Vả lại, Ngũ đình tâm
quán trong Tiểu thừa,
trước đây thuộc về tà Định. Dựa vào Thành Thật
luận thì phần vị
Noãn-Đảnh trở lên đều gọi là Chánh Định, bởi vì vónh viễn không lui
sụt
(bất thối); theo Tỳ Đàm luận thì phần vị Nhẫn tâm trở
lên mới đạt được
không lui sụt; nếu theo Địa Luận thì phần vị Kiến đạo
trở lên mới gọi là
Chánh Định, do đó luận ấy nói là Chánh vị. Chánh
Định là phần vị Kiến
đạo trở lên mới là Chánh vị. Nói Bất định là ở giữa
hai phần vị này, gọi là
Bất định. Bốn, tiến vào phần vị Tam Hiền của
Đại thừa. Năm, chứng
Thập Địa. Sáu, thành tựu Phật quả. Đây là dựa
theo Đồng giáo. Nhưng ba
câu đầu giống như trước, câu bốn là tiến vào Sơ giáo, câu năm là tiến vào
Chung giáo, câu
sáu là tiến vào Đốn
giáo. Đây là dựa theo
nơi hết bệnh mà nói có ba. Lại câu một là
trời-người, câu hai-câu ba là
Tiểu thừa, câu bốn là
Tiệm giáo, câu năm là
Đốn giáo, câu sáu là
Viên giáo. Đây là dựa theo quả hiển bày về tròn vẹn mà nói có bốn. Lại câu một
là trời-người, câu hai-câu ba-câu bốn
là Tam thừa, câu năm-câu
sáu là Nhất thừa, nhân quả phân làm hai.

Trên đây đều là lợi ích trong một niệm, tất cả các niệm
khác dựa theo đây có thể biết.

Trong tụng có
mười kệ, năm kệ đầu tổng quát ca ngợi về đức
của Bồ-tát, năm kệ sau
tụng về pháp môn trước đây.
Trong năm kệ đầu, ba kệ trước trình bày về đức của
Tự phần, một
là
Tự lợi, hai là
Hóa tha, ba là đạt được pháp; hai kệ
sau là phần
Thắng tiến, một là lợi
ích bên ngoài, hai là trọn vẹn bên trong.

Trong năm kệ
sau, một là hiện rõ về pháp, hai là lay chuyển cõi nước, ba là thân
trang nghiêm, bốn là tiến vào kiếp, năm
là thuyết pháp.

Những sự việc này đều là
sự việc trong lỗ chân lông trước đây,
bởi vì văn tụng khéo léo tóm lược.

Trong phần hai là ánh sáng nêu rõ Pháp chủ, có hai: Đầu là cõi này,
sau là kết luận nối thông. Trong phần đầu cũng
có hai: Một, nêu rõ Chủ vốn là nguồn gốc của
giáo nghóa; hai, từ “Ư bỉ…” trở xuống nêu rõ
pháp vốn là tướng của giáo nghóa.

Trong phần một có bốn: Một
là trình bày về ý của ánh sáng,
nói vô biên Phật cảnh
thì có ba ý:
1) Bởi vì khiến cho biết về pháp đã nói,
2) Bởi vì tức là Phổ Hiền,
3) Bởi vì hiển bày về Đức Phật không phải là không có thể nói. Hai là trong phần trình bày về danh tướng của
ánh sáng, có hai:
1) Trình bày về tướng của ánh sáng. Giữa chặng mày là biểu thị cho Nhất thừa Trung đạo. Lông trắng dài và nhỏ là biểu thị cho pháp thanh
tịnh chứng đạo vô lậu.
Lại bởi vì trắng là căn bản của các màu sắc, biểu thị cho Nhất thừa này là nguồn gốc của các giáo. Lại dài và nhỏ
là lông dài, lại là lông tơ.
Theo kinh Quán
Phật Tam Muội Hải nói: “Lúc là Thái tử thì giãn ra dài năm thước,
 lúc dưới tán cây Bồ-đề thì dài một trượng bốn thước năm tấc, thành Phật rồi thả ra dài một
trượng năm thước, cuộn tròn như vầng trăng tròn mùa Thu, rõ ràng
sáng trắng.”
Thể của ánh
sáng như
sắc màu ngọc quý
trong suốt, Dụng của ánh
sáng
như ngọn đèn sáng ngời.
Vả lại, Lý đáng quý cho nên gọi là sắc màu
ngọc quý, Trí chiếu rọi
khắp nơi cho nên gọi là ngọn đèn sáng ngời,
cảnh-trí làm lợi ích
rộng khắp cho nên gọi là mây. Lại như Ma-ni bởi vì giống với các
sắc màu.
2) Lập thành tên gọi của ánh sáng là hiển bày về người ở nhân vị, cho nên gọi là Bồ-tát.
Ba là trong phần phân rõ về Dụng thù thắng của
ánh sáng:
1) Vốn là sự, vốn là khắp nơi, vốn là rộng rãi.
2) Vốn là lý, vốn là chính xác, vốn là sâu xa.
3) Bởi vì phân rõ về nhân thuyết giảng do Đại
nguyện lực mới có thể
thuyết giảng.
4) Bởi vì hiển bày về pháp môn khiến cho chúng nhận biết pháp từ trong môn Phổ Hiền sinh ra. Văn trên đã không nói Phổ Hiền soi chiếu riêng biệt, vì sao lại nói hiển bày rõ ràng
chỉ ra cho chúng, bởi vì đã soi chiếu trước đây tức là Phổ Hiền.

Bốn là trong
phần thâu nhiếp Dụng quy về gốc: Ra từ lông trắng
vào ở dưới
chân, là biểu thị cho pháp ở phía trên có thể truyền
xuống phía dưới, truyền xuống phía dưới không mất đi nguồn gốc cho nên
vào trở lại. Giữa chặng mày và dưới chân là hai nơi khác nhau, vì
sao nói
là trở lại, bởi vì
hiển bày trên-dưới không hai. Lại ánh sáng từ lông
trắng soi chiếu Phổ Hiền
là trình bày về quả nương theo nhân, trở lại từ
dưới chân mà vào là
trình bày về nhân thành tựu quả.

Trong phần hai là nêu rõ về pháp, có hai:
1) Phân rõ về hoa sen là nghóa Sở thuyên;
2) Hiển bày về âm thanh thù thắng là giáo Năng thuyên. An tọa trên hoa là xứng với nghóa mà thi thiết về giáo. Trong phần một là phân rõ về nghóa Sở thuyên: Một, câu
tổng quát, ở nơi ấy
nghóa là nơi chốn, lại là tướng vòng tròn; hoa sen là
bởi vì nở rộ, bởi vì
sinh ra nước Tam thừa, bởi vì không vấy nhiễm, bởi
vì vi diệu, bởi vì đàn
ong Thánh chúng đã hút mật chứng đắc. Hai,
cọng quý báu là bởi vì
đáng quý, bởi vì kiên cố. Ba, tạng là bởi vì
hàm chứa thâu nhiếp, bởi vì sinh ra, bởi vì đầy
đủ công đức. Bốn, cánh là bởi
vì che phủ, bởi vì rộng lớn
sâu xa cho nên phủ khắp
pháp giới. Năm,
nhụy thơm là bởi vì
ngào ngạt xông ướp quyến thuộc. Sáu, vàng
Diêm-phù- đàn là bởi vì bậc nhất trong các loại
quý báu, vàng là bởi vì tướng
quý giá nổi bật, đài
là bởi vì cao vượt lên. Bảy, kết luận. Những điều này đều là pháp môn. Nếu dựa theo Tam thừa thì nhờ vào
sự việc này riêng biệt biểu thị về pháp, nhưng
sự việc ấy không phải là ngay nơi
pháp. Nếu như Nhất thừa
này thì ngay nơi sự việc ấy là pháp này, vẫn có
sự việc hiển bày rõ ràng.
Trong phần hai là hiển bày về giáo
Năng thuyên, có hai:
Một là nêu ra Thể, hai là kệ
tụng trình bày về tướng thuyết giảng. Trong
phần một có ba:
1) Nêu rõ giáo từ giữa chặng mày của Đức Phật phát ra là biểu thị dựa vào chứng mà khởi lên
thuyết giảng, bởi vì giáo từ Đức Phật
sinh ra, như pháp giới lưu chuyển thù thắng. Lại luận rằng từ
pháp giới thanh tịnh nhất
mà lưu chuyển sinh ra. Sinh ra Bồ-tát là bởi vì che phủ người ở nhân vị. Các pháp là
Sở thuyên, âm thanh thù thắng
là Năng thuyên. Luận
rằng: Khế kinh dùng văn nghóa làm Thể. Nếu
dựa vào Nhất thừa thì
Bồ-tát này đã gọi là thấy được Thể của giáo.
Người và pháp vô ngại
vốn là hiển bày về giáo tròn vẹn, vốn là đầy đủ
chủ- bạn. Bởi vì thuận
với lý cho nên cung kính vây quanh.
2) Trình bày về xứng với nghóa cho nên an tọa trên đài nhụy.
3) Bởi vì xứng với nghóa, khiến cho giáo thành thật, cho nên ca ngợi về đức. Trong đức có bốn câu:
1) Dưới vừa ý với mọi căn cơ;
2) Trên thuận với cảnh Phật;
3) Tận cùng nghóa hải ấy;
4) Khiến cho quy về quả Phật. Trong phần hai là tướng thuyết giảng, có hai:
1) Âm thanh thù thắng là trình bày về Thể của giáo thù thắng;
2) Ánh sáng rực rỡ là trình bày về uy lực của giáo có Dụng thù thắng.
Trong phần một có ba tụng: Một là trình bày về một Đức
Phật khắp nơi pháp giới
mà vẫn ở tại cây Bồ-đề (đạo thọ); hai là nhiều
Đức Phật đều khắp nơi
pháp giới mà cùng an tọa nơi một lỗ chân lông;
ba là như một lỗ chân
lông, tất cả cũng như vậy đều có đủ chủ-bạn.
Ba sự việc này dần dần thêm nhiều như vậy.

Lại giải thích: Một tụng đầu trình bày về thân
Phật Lô-xá-na đầy khắp pháp giới, hai tụng
sau trình bày trong lỗ chân lông hiện rõ
vô lượng ba thế gian
trùng trùng vô tận.
Trong phần hai là uy lực của giáo, Sư tử có
ba loại: Một, không
sợ nghóa lý sâu xa bởi
vì ánh sáng chiếu rọi; hai, không sợ không lợi ích bởi vì lửa nóng đốt cháy
phiền não; ba, không
sợ Dị học không
hàng phục bởi vì vô
cùng nhanh chóng. Bởi vì cùng là giáo cho nên cũng gọi là âm.
Trong tụng,
đầu là trình bày về nghóa của Pháp luân, sau là giải thích văn.

Trong phần đầu, nghóa về
Chuyển pháp luân, tóm lược đưa
ra mười môn:
1) Giải thích tên gọi;
2) Phân rõ về Thể;
3) Chủng loại;
4) Tướng chuyển;
5) Phạm vi;
6) Nơi chốn chuyển;
7) Thời gian chuyển; Người chuyển;
9) Cơ chuyển;
10) Các môn. Giải thích tên gọi. Pháp là nghóa về quỹ trì, gồm có bốn loại, đó là Giáo-Lý-Hạnh-Quả. Luân là nghóa đã thành,
cũng có bốn loại: Một, nghóa về Viên mãn, bởi
vì lìa xa thiếu kém. Hai, nghóa về đầy đủ đức,
bởi vì ổ trục-nan hoa-vành thảy đều đầy đủ.
Ba, nghóa về có tác dụng,
bởi vì phá tan phiền não chướng ngại. Bốn, nghóa về chuyển động, bởi vì từ nơi này hướng đến nơi kia, tức là từ Phật đến với
chúng sinh; cũng từ nơi kia hướng về nơi này, tức là từ chúng
sinh đến nơi
Phật quả. Pháp tức là Luân, là
Trì nghiệp thích; lại
Luân là dụ, ví như vòng báu của
Thánh Vương, tức là Luân của pháp, là Y chủ thích.

Thể tánh. Luận chung bốn pháp như
Giáo… làm tánh. Hạn định
về tánh thì chỉ riêng tám Chánh đạo là tánh,
lấy Giới làm ổ trục, đó là
Chánh ngữ-Chánh
nghiệp-Chánh mạng; lấy Tuệ làm nan hoa, đó là
Chánh kiến-Chánh tư duy; lấy Định làm vành xe, đó là
Chánh định; còn lại Chánh niệm-Chánh tinh tiến làm trang sức thành bánh xe; đây
là dựa theo Tiểu thừa, Sơ giáo cũng giống như
vậy. Lại chỉ lấy Trí vô
phân biệt làm Thể của Pháp luân, lại chỉ có
Chân lý làm tánh; đây là

dá»±a theo
Chung giáo. Hoặc là
Lý-Trí cùng phai mờ, giáo-quả
cũng mất đi, lìa ngôn ngữ bặt
suy nghó, là Thể của
Pháp luân; đây là dựa
theo Đốn giáo. Hoặc bao gồm thâu nhiếp Vô tận pháp giới, đó là
người-pháp- giáo-nghóa… tất cả pháp môn
Hải tự tại, đều là Thể của
Pháp luân, như Đế võng trùng trùng,
đầy đủ chủ-bạn; đây là dựa theo Viên giáo, cũng tức là thâu nhiếp các phần vị trước. Trong này đều đầy đủ
dựa theo Đồng giáo.

Chủng loại có ba: Một là
Tiểu thừa, sau Tứ đế đều có bốn nghóa,
đó là Khổ-Không-Vô thường-Vô ngã, đây là bốn Khổ đế;
Nhân-Tập- Hữu-Duyên, đây là bốn
Tập đế; Diệt-Chỉ-Diệu-Ly, đây là bốn
Diệt đế; Đạo-Như-Tích-Thừa, đây là bốn Đạo đế. Mười
sáu loại trên đây dựa theo Đế đã nhận biết. Nếu dựa theo chủ động nhận biết thì cũng đề có bốn, đó là
Nhãn-Trí-Minh-Giác, Nhãn nghóa là tổng quát quán về Khổ…, Trí nghóa là riêng biệt quán về
Khổ quá khứ…, Minh nghóa là
riêng biệt quán về Khổ vị lai…, Giác nghóa là
riêng biệt quán về Khổ hiện tại… Do đó bốn Đế đều có bốn cho nên thành ra
mười sáu.
Tân Đại Tỳ-bà-sa luận quyển thứ 79 nói: “Nhãn nghóa
là Pháp trí nhẫn, Trí nghóa là các
Pháp Trí, Minh nghóa là
Loại trí nhẫn, Giác nghóa là các
Loại trí. Lại Nhãn là nghóa về quán
sát nhìn thấy, Trí là nghóa về
quyết đoán, Minh là nghóa về
soi chiếu rõ ràng, Giác là nghóa về cảnh giác
xem xét. Ba lần chuyển mười sáu hành tướng làm
thành bốn mươi tám
hành tướng của Pháp luân.” Đây là dựa theo
Tiểu thừa, như
Tỳ-bà-sa luận nói đầy đủ.

Hai là trình
bày về Pháp luân trong Tam thừa, nhưng có ba nghóa:

1) Giống như Tiểu thừa, ba lần chuyển bốn Đế bao gồm lợi ích ba cơ,
 như trong kinh Mật Tích phân rõ, ở đây thì nói bốn Đế mà đầy đủ Tam thừa. Lại ba lần chuyển tức là
Không-Thường-Tịnh, trong
kinh Duy Ma nói: “Ba lần chuyển pháp luân ở Đại thiên, Luân ấy xưa nay
thường thanh tịnh”, là nói đến điều này. Đây là dựa theo
Sơ giáo.
2) Chỉ nói đến Đại thừa, cũng gồm chung ba căn đạt được quả Đại-Tiểu, như trong các kinh Đại thừa đã nói. Hoặc phân tướng tách ra ba,
 như ba loại Pháp luân Chuyển-Chiếu-Trì… Hoặc hợp lại làm một, nghóa là
chỉ một Thật đế. Trên đây là dựa theo
Chung giáo.
3) Pháp luân lìa xa ngôn ngữ không có chuyển và không chuyển, không phải là bốn-ba-một, bởi vì không thể nói được.
Đây là dựa theo Đốn giáo.
Ba là Pháp luân
Nhất thừa, dựa theo văn
sau có mười Đế
sai
biệt, nghóa là nói về các Đế như Thành đế… đều có mười
hành tướng, đó là cụ túc-thanh tịnh-bốn Vô úy… Vì vậy tổng cộng có một trăm hành
tÆ°á»›ng
Pháp luân. Theo văn
sau cũng có mười Luân, đó là bởi vì
Nguyện lực quá khứ…,
tức là mười lần chuyển trăm hành tướng làm thành
một ngàn Pháp luân. Đều
tìm theo văn sau sẽ mở rộng hiển bày đầy đủ.
Vì sao đều nói là mười? Bởi vì hiển bày về vô tận. Đây là pháp giới vô
tận làm Đại Pháp luân
hải, thường xuyên chuyển không có ngừng nghỉ.

Tướng chuyển. Tiểu thừa ba lần chuyển
có hai: Một, vì mình mà chuyển, đầu tiên chuyển tại Kiến đạo gọi là Ấn
Tướng chuyển, tiếp theo chuyển tại Tu đạo gọi là Ứng
Tác chuyển, sau cùng chuyển tại
Vô học đạo gọi là Dó Tác chuyển. Hai, vì người
khác mà chuyển, đầu tiên
gọi là Thị Tướng chuyển, nghóa là đây là Khổ…
khiến cho Kiều
Trần Như… tiến vào Kiến đạo; tiếp theo gọi là Khuyến
Tri chuyển, nghóa là
Khổ nên biết-Tập nên đoạn-Diệt nên chứng-Đạo
nên tu, khiến cho họ tiến vào
Tu đạo; sau cùng gọi là
Dẫn Chứng chuyển, nghóa là Khổ ta đã biết cho đến Đạo ta đã tu, khiến cho họ tiến vào
Vô học đạo. Nếu là
Pháp luân Tam thừa thì cũng có hai, nói giống như
trước, nhưng nghóa
lý sai biệt. Dựa theo hàng Bồ-tát, căn cứ theo
kinh Đại Phẩm…, đã nói lúc chuyển Pháp luân ở vườn Nai, vô lượng chúng
sinh đều phát tâm
Bồ-đề, vô lượng Bồ-tát đều đạt được Sơ
địa, vô lượng Nhất sinh
Bồ-tát cùng một lúc
thành Phật, ở đây cũng nên giống với ba lần chuyển ấy, là
gồm chung chứ không phải là riêng biệt, không có
thể phối hợp riêng
biệt. Nếu theo Nhất thừa thì chuyển Pháp luân Vô
tận xứng pháp giới, cùng với cơ đã che phủ chung một pháp giới, không có hai-không có
sai khác, pháp vốn thường hằng như vậy, không có
gì mới, đó là
phân rõ về lợi ích.

Trình bày về phạm vi của
Pháp luân. Nếu trong Tiểu thừa có một nghóa, Đức
Phật thuyết về bốn Đế như
Khổ-Vô thường… thì ngữ
âm thâu nhiếp vào Pháp luân, như hỏi A-nan trời
mưa…, như vậy ngôn
ngữ thế gian đều không phải là Pháp luân. Nếu
trong Tam thừa, thì tất cả lời nói và oai nghi nơi thân của Đức Phật đều tiến vào
Pháp luân, bởi
vì đều làm lợi ích cho chúng sinh. Kinh Duy Ma nói:
“Oai nghi đi đứng của chư Phật đều là Phật sự.”
Lấy điều này làm chuẩn mực, nếu trong Nhất thừa gồm chung ba thế gian cùng tiến vào
Pháp luân, thì âm thanh
lời nói của tất cả chúng sinh cũng tiến vào
Pháp luân. Pháp luân quốc
độ dựa theo như sát-thuyết…

Nơi chốn chuyển. Tiểu thừa chỉ có các nơi như trăm ức vườn Nai ở một Ta-bà. Tam thừa hoặc là một trăm ức, hoặc là ngàn trăm ức, hoặc
là như cát sông Hằng, làm cảnh giáo hóa của một
Đức Phật. Nhất thừa gồm chung tất cả cảnh giới như cây cối… cho đến
Hoa Tạng, giống như

Đế võng trùng
trùng chủ-bạn.
Kinh nói: “Đây là nơi Đức
Phật Lô-xá-na thường chuyển pháp luân.

Thời gian chuyển. Tiểu
thừa-Tam thừa, hoặc là mười bốn ngày,
hoặc là hai mươi mốt ngày, lại hoặc là bốn mươi
hai ngày, hoặc là bốn mươi chín ngày, hoặc là năm mươi
sáu ngày, hoặc là ba trăm năm mươi
ngày, hoặc là một năm… Đây đều là vì Mạt
giáo tùy theo căn cơ thấy nghe khác nhau mà thôi, cũng không có
sự việc trước
sau thâu nhiếp lẫn
nhau… Bổn giáo Nhất thừa chủ yếu thuộc về bảy
ngày thứ hai của thời thứ nhất, lại không có
nói gì khác, nhưng thâu nhiếp trước-sau đều là
vô lượng kiếp, niệm niệm không gián đoạn, trong
mỗi một niệm cũng
đều thâu nhiếp thời kiếp trước-sau kia, cũng như
Đế võng trùng trùng
vô tận, đã chuyển trong chín đời-mười đời.

Người chuyển.
Trước là chủ,
sau là bạn. Tiểu thừa thì chủ là Sinh thân của
Thích-ca và
Hóa thân Phật, Thanh văn đệ tử làm bạn.
Tam thừa thì chủ tức là ba thân Phật, Thanh văn
Bồ-tát làm bạn, đó là
Xá-lợi-phất… Nhất thừa thì chủ là mười thân
của Lô-xá-na, Bồ-tát như Phổ Hiền… làm bạn,
cũng như Đế võng hiện bày trùng trùng.

Cơ chuyển. Ban
đầu chỉ là cơ Tiểu thừa, tiếp theo phủ khắp tất
cả cơ Tam thừa, sau cùng chỉ là cơ Nhất thừa rộng khắp.

Các môn: Một,
Giáo và Niệm xứ… làm nhân của Pháp luân, bởi vì từ đây đạt được
Thánh đạo. Hai,
Phước-Tuệ vạn hạnh làm quyến thuộc của
Pháp luân. Ba,
Chân đế-Tục đế làm cảnh của
Pháp luân. Bốn, hai chướng Sử-Tập là do Pháp luân mà đoạn.
Năm, Bồ-đề Niết- bàn là quả của Pháp luân. Các tông đều dựa theo đây.

Giải thích văn. Trong tụng có mười kệ phân làm bốn:
1) Ba kệ đầu trình bày về Pháp luân thanh tịnh rộng lớn của Đức Phật. Trong đó câu đầu là nêu ra Giáo chủ; câu tiếp theo là trình
bày về Pháp luân
thanh tịnh, Thanh tịnh là
trừ diệt hoặc nhiễm, cho nên hiện rõ lý thanh tịnh, cho nên giáo luân
thanh tịnh, cho nên giống như
Phạm luân. Những câu sau trình bày về Pháp luân rộng lớn, tự nhiên có
sáu môn: Một, một
câu về khéo léo thuyết
giảng rộng lớn; hai, một câu về người thuyết
giảng rộng lớn; ba, hai câu về nơi thuyết giảng rộng lớn, trong đó quốc độ hải và thế giới hải cùng đưa ra là bởi vì hai loại này tác thành lẫn nhau; bốn, hai câu về nhân thuyết giảng rộng lớn, nghóa là nhờ vào Đại
nguyện lực cho nên thuyết
giảng tận cùng thời gian vị lai, cũng gọi là thời
gian thuyết giảng rộng lớn; năm, hai câu về cơ
thuyết giảng rộng lớn;
sáu, hai câu về ngôn ngữ
âm thanh rộng lớn.
2) Có hai kệ tụng ca ngợi Phổ Hiền có năng lực thuyết pháp rộng khắp, một là Phật lực gia hộ khiến cho ngữ
nghiệp rộng khắp mọi nơi, hai là thân nghiệp xứng với lý
cũng rưới mưa pháp rộng
khắp.
3) Có ba kệ tụng ca ngợi Đức Phật Lô-xá-na thuyết pháp, một là ngữ nghiệp, hai là ý nghiệp phát ra ánh sáng, ba
là thân nghiệp.
4) Hai kệ sau cùng tụng ca ngợi về chư Phật ba đời cũng cùng thuyết pháp, một là khiến cho được thấy thuyết pháp, hai là
khiến cho được nghe thuyết pháp.

Phần sau là kết luận nối thông, có hai nghóa:
1) Kết luận về chúng quy tụ trước đây nối thông với mười phương thế giới;
2) Đã kết luận ở sau phần nêu rõ về pháp thì biết nêu rõ về pháp cũng nối thông với mười phương thế
giới. Phần nêu rõ về Pháp chủ, xong.

Thứ ba, phần Pháp chủ nhập định, trong đó
có hai: Một, phân
tích trong các Hội có
bốn:
1) Có và không có, chỉ riêng Hội thứ hai không có, bởi vì pháp đã biểu hiện chưa thành tựu phần vị, các Hội khác vốn là pháp đã biểu hiện thành tựu phần vị.
2) Xuất và không xuất, chỉ riêng Hội thứ tám là không xuất, bởi vì biểu thị vừa chứng pháp giới thì không có thối thất, các
Hội khác bởi vì biểu thị phát khởi giáo hóa.
3) Nhân quả, Hội thứ nhất và thứ bảy-thứ tám là quả Định, bởi vì Hội thứ nhất nói về quả, Hội thứ bảy là hành sâu xa, Hội thứ tám là chứng
huyền, các Hội khác đều
nói về nhân. Lại giải thích: Trong Hội thứ bảy cũng bởi vì gồm có nghóa về nhân, vì
Hoa Nghiêm là nhân hạnh thành
tựu trang nghiêm. Nếu
phân định như vậy thì có bốn câu, hoặc chỉ có
quả, đó là Hội thứ
nhất và Hội thứ tám; hoặc chỉ có nhân, đó là
Hội thứ ba cho đến
Hội thứ sáu; hoặc cũng có nhân-cũng có quả, đó là Hội thứ bảy; hoặc không phải là nhân-không phải là quả, đó là Hội thứ hai hoàn
toàn không có.
4) Người chủ động nhập, chỉ riêng Hội thứ tám là Đức Phật tự nhập,
 bởi vì biểu thị pháp giới giải thoát tự tại chỉ có Đức Phật mới cùng tận. Hội thứ nhất tuy nói về quả mà bởi vì khiến cho căn cơ tin
tưởng, Hội thứ bảy
hành tuy sâu xa nhưng vốn là hành của người ở nhân vị.

Hai, giải thích
văn, trong đó có hai: Trước là cõi này, sau là kết luận nối thông.
Trong phần trước: Ngồi ở trước Đức Phật, là bởi vì hiển bày nhân quả không rời xa nhau?
Vì sao nhập Định? Là bởi vì hiển
bày không phải là chứng
thì không thuyết giảng, là bởi vì được gia hộ, bởi vì loại trừ nghi ngờ của chúng?
Vì sao tiến vào quả Định? Bởi vì nói
về pháp của quả? Vì sao
người ở nhân vị tiến vào? Bởi vì che chở người
ở nhân vị. Tịnh có bốn nghóa:
1) Tự tánh thanh tịnh;
2) Đối trị phiền não thanh tịnh;
3) Thiện căn thanh tịnh;
4) Lợi ích hoạt dụng thanh tịnh.

Tạng có bốn nghóa:
1) Hàm chứa thâu nhiếp;
2) Tích lũy giữ gìn; Sinh ra;
4) Vô tận. Tam-muội, Trung Hoa gọi là Đẳng Trì, bởi vì

rời xa chìm
nổi, Định-Tuệ bằng nhau cho nên gọi là Đẳng; bởi vì
tâm không tản mác, trú
vào một cảnh cho nên gọi là Trì. Tiếp nhận pháp ở tại tâm, gọi là
Chánh Thọ. Trong này, Tạng của Tịnh, Tịnh tức là
Tạng; Tịnh Tạng của Như
Lai, Như Lai tức là Tịnh Tạng; Tam-muội của
Tịnh Tạng, Tam-muội tức
là Tạnh Tạng, đều có hai cách giải thích, suy
nghó có thể thấy. Sau là
giải thích hiển bày về nghóa ấy, câu đầu giải
thích về Như Lai, câu sau
giải thích về Tịnh Tạng, lìa cấu là Tịnh, đầy đủ
là Tạng, hư không là dụ
cho hai nghóa trên.

Phần kết luận nối thông: Kinh này nói ở tất cả các nơi tổng hợp thành một bộ, nghóa là một bộ tức là tất cả các bộ. Nay lại nêu ra
sự việc trong một phương
này, sợ rằng gián đoạn bộ căn bản ấy, cho nên kể ra ở cuối văn, chọn lấy tất cả kết hợp làm thành bộ căn bản, để
trình bày về Vô tận vô
tận. Vì vậy sơ lược trình bày về phạm vi sai biệt
của Tam-muội đã tiến vào có mười lớp.

Dựa theo tất cả các Định vô ngại, bởi vì trong phần khởi Định nói:
Bồ-tát Phổ Hiền từ
Tam-muội ấy khởi, từ
Tam-muội như trần
số thế
giới… khởi. Giải thích rằng câu này có hai
nghóa, một là Định này hàm chứa thâu nhiếp nhiều
Tam-muội, hai là Định này tiến vào nhiều
Tam- muội khắp nơi. Vì vậy Định này tức là Tam-muội
hải như vi trần…

Dựa theo tất cả các Xứ vô ngại, như văn này nói:
Bồ-tát Phổ Hiền ở thế giới này
Chánh thọ Tam-muội, ở tất cả cõi Phật như hư không giới khắp pháp giới… cũng lại như vậy. Câu này có hai nghóa,
một là trong Định bao hàm các cõi khắp mười
phương, hai là Định này
khắp nơi các trần đạo.

Dựa theo tất cả các Thời vô ngại, như phần khởi Định nói:
Phổ Hiền từ Tam-muội của tất cả ba đời khởi. Câu
này cũng có hai nghóa,
đó là Định hàm chứa ba đời và tiến vào tất cả ba thời gian.

Ba lớp trên đây dung hòa làm thành một Tam-muội vô ngại tự tại của
Phổ Hiền, bởi vì ba lớp này nói là một Định, bởi vì không rời xa nhau.

Ở trong
Tam-muội hải như vi trần… trên đây, hễ một Tam- muội thì có đủ tất cả các Định, bởi vì đều bao gồm mười phương
tận cùng ba đời.

Như một Tam-muội, tất cả Tam-muội cũng như vậy.

Cứ trong một mảy trần thì thấy Tam-muội viên minh của
Phổ Hiền, đều thâu nhiếp mười phương, cũng tận cùng ba thời gian.

Như trong một mảy trần, tất cả trần đạo cũng đều như vậy.

Cứ trong một niệm thì có
Phổ Hiền, tiến vào Định như vi trần…

đều bao gồm
trần đạo, toàn bộ các cõi khắp mười phương và cùng
tận tất cả chín đời-mười đời…

Như trong một niệm, trong niệm niệm khác toàn bộ thời gian
trước sau, tất cả kiếp hải cũng đều như vậy.

Như mười lớp này làm quy phạm, trong tất cả các phần vị khác
và giáo-nghóa-lý-sự…,
dựa theo đây để suy nghó. Phần nhập Định, xong. Bốn, trong phần chư
Phật gia trì, có hai: Một là phân rõ về các
Hội có hai:
1) Có và không có, ba Hội thứ hai-thứ bảy-thứ tám không có, Hội thứ hai bởi vì phần vị chưa thành tựu cho nên không có nhập Định, Hội thứ bảy bởi vì thực hành theo pháp không
khác trước kia, Hội
thứ tám bởi vì Đức
Phật tự nhập Định cho nên không nhờ vào gia hộ,
các Hội khác không phải
như vậy cho nên đều có.
2) Phật ở xa gần-nhiều ít-tên gọi khác nhau, đều như văn nên biết! Hai là trong giải thích văn, có ba:
1) Khẩu gia hộ và bằng việc làm;
2) Ý gia hộ;
3) Thân gia hộ. Lại đầu là khuyến khích thuyết giảng để thêm biện tài, tiếp là ngầm che chở để tăng thêm trí, sau là xoa
đầu mà làm cho hiểu rõ.
Nhưng gia hộ và khen ngợi thành tựu lẫn nhau
có bốn câu:
1) Gia hộ mà không phải là khen ngợi, như Đức Phật gia hộ bằng ý và thân;
2) Khen ngợi mà không phải là gia hộ, như các Bồ-tát nói kệ ca ngợi…
3) Cũng gia hộ mà cũng khen ngợi, như khẩu nghiệp của Đức Phật;
4) Không phải là gia hộ cũng không phải là khen ngợi, như văn còn lại. Trong khẩu gia hộ có hai: Một là trình bày về gia hộ và khen
ngợi, hai là giải thích
bằng việc làm. Trong phần một có ba:
1) Trình bày về chư Phật chẳng rời khỏi bổn độ mà hiện thân ở cõi này,
 bởi vì làm sáng tỏ cõi kia tức là cõi này mà không hoại đến cõi kia,
 bởi vì xa tức là gần mà không hoại đến xa,
 như tánh duyên khởi, nên biết.
2) Khen ngợi đạt được Định sâu xa.
3) Trình bày về nhân của Định, đầu là Tha lực, sau là Tự lực.
 Lại do lực của quả-lực của nhân, duyên khởi hòa hợp mà thành. Lại Phật bổn nguyện là trình bày xưa kia Đức Phật đã từng thấy
sá»±
việc này, nhân đó liền
phát nguyện, nguyện nay thành tựu.

Trong giải thích bằng việc làm, bởi vì nghóa gì mà gia hộ? Bởi
vì thuyết giảng về pháp
này. Trong đó có mười câu: Một câu đầu là tổng quát, đó là nguyên cớ lúc đầu chuyển Pháp luân
Nhất thừa, bởi vì
Pháp luân là quả, cho
nên gọi là Phật. Trong riêng biệt có chín:
1) Nghóa đã chuyển là Thể của Pháp luân, mở bày giống như hiện rõ;
2) Khéo léo chuyển đến tận cùng nguồn gốc là Tướng của Pháp luân, cho đến mười phương là kết luận về nơi nối thông:
3) Khéo léo trừ diệt phiền não
chướng ngại,
tức là Dụng của Pháp luân;
4) Mười phương đều chuyển, là Xứ của Pháp luân, lại cùng tận quốc độ hải;
5) Chuyển nhân tiến vào quả, là phạm vi của Pháp luân;
6) Một môn thâu nhiếp tất cả các quả, là Đức của Pháp luân;
7) Khéo léo khiến cho vui với quả, tức là Cảnh của Pháp luân;
8) Khéo léo tùy theo thế tục, là phương tiện của Pháp luân;
9) Xét kỹ căn cơ trao cho pháp, tức là sự che chở của Pháp luân. Đồng dị thành hoại, dựa
theo suy nghó biết rõ.
Trong phần hai là ý gia hộ có hai: Trước là gia hộ,
sau
là giải thích. Trong phần trước một câu là tổng quát, còn lại là riêng
biệt. Trong
riêng biệt:
1) Đắc Pháp trí, đó là trí về năm Hải không phải là một, cho nên nói là vô biên…;
2) Tận Biên trí, đó là cùng tận năm Hải bao gồm Phật trong ba thời gian;
3) Thành Hoại trí, đó là năm Hải tụ tán cũng là Thế giới hải;
4) Sở Hóa trí, đó là năm Hải dựa theo nhiễm cũng là
Chúng sinh hải;
5) Lý trí, đó là năm Hải đều sâu xa cũng là Pháp giới hải;
6) Tam-muội trí, đó là năm Hải đều là cảnh của Định;
7) Căn Dục trí;
8) Ngữ Biện trí;
9) Thân Biến trí;
10) Viên Âm trí, những trí này đều thông suốt năm Hải, phần lớn giống với mười Trí ở văn sau.

Trong phần giải thích, trước là đưa ra, sau là giải thích. Hỏi:
Chư Phật có
Lực-có Bi, vì
sao chỉ gia hộ
Phổ Hiền mà
không gia hộ người khác?

Đáp: Bởi vì
Phổ Hiền vốn là Trưởng tử, vốn là đứng đầu chúng, vốn là tận đáy nguyện của Phật, vốn là
Bổn nguyện, vốn là đức
đầy đủ khắp nơi, vốn
là đạt được pháp Định, những vị khác vốn không đạt được. Vả lại,
 hễ nơi nào có Định này thì pháp của chư Phật vốn như vậy đều quy tụ đến đó, như pháp của biển vốn như vậy thâu nhiếp các
dòng chảy kia, cho nên nói
là pháp. Lý của pháp môn duyên khởi nói ra như
vậy, vì thế cho nên Trí đức và Đoạn đức của
chư Phật cũng có thể trao cho người.

Hỏi: Đức Phật sao không tự thuyết giảng?

Đáp: Có hai
ý, một là pháp thuyết ra đã sâu xa, sợ rằng người ở nhân vị không có phần. Nếu như vậy thì
sao không thuyết cho
người khác? Bởi vì thuyết về pháp rộng khắp. Hai là làm
sáng tỏ hễ
thuyết về pháp này thì
chắc chắn có đủ tất cả chư Phật cùng thuyết, nếu
Đức Phật tự thuyết thì
theo lý không có gia hộ truyền trao, sẽ trái với
cùng thuyết. Vì vậy một
mình Phổ Hiền thuyết ra tức là tất cả chư Phật cùng thuyết.

Trong phần ba là thân gia hộ: Vì
sao xoa đầu? Bởi vì khiến cho hiểu rõ, bởi vì khiến
cho đầy đủ uy đức của Phật. Trong này, thân Phật
chưa hẳn đến nơi này, duỗi cánh tay chưa hẳn kéo dài ra, đều khiến
cho chạm vào đỉnh đầu
chưa hẳn làm trở ngại nhau, đều cùng lúc xoa đầu chưa hẳn là
trước sau, đều là duyên khởi tự tại vô ngại,
suy nghó
nên biết. Phần gia trì, xong. Năm, trong phần Đại chúng cùng
thưa thỉnh, có hai: Đầu là
trường hàng, cảm thấy
lạ không lập tức thuyết giảng để phát sinh thưa thỉnh
ở sau, cũng là thưa thỉnh
có đủ thân nghiệp và ý nghiệp, đó là thân cung kính và ý
quán sát, hai nghiệp cùng chuyên chú nhất tâm.
Sau trong phần chính thức thưa thỉnh bằng
ngữ nghiệp, cùng với
sá»± thÆ°a
thỉnh trước đây có gì
khác nhau? Nghóa là đây vốn riêng biệt thưa thỉnh Phổ Hiền, bởi vì biết là chủ
thuyết pháp. Vả lại, ở đây có đủ hai chúng
mới- cũ, cho nên không
giống với trước; pháp đã hỏi không khác với
trước, cho nên không nêu ra riêng biệt.

Trong mười tụng phân ba: Một
có tám tụng ca ngợi về pháp chủ để
thưa thỉnh, hai có một tụng đưa ra pháp đã thuyết để
thưa thỉnh, ba có một tụng ca ngợi về chúng thích nghe để
thưa thỉnh. Trong phần
một có hai: Trước có năm tụng gồm chung ca ngợi về đức của
Phổ Hiền, sau có ba tụng riêng biệt ca ngợi về đức
thuyết pháp; cũng tức là trước ca
ngợi về có nhân thuyết
giảng, sau ca ngợi về có quả thuyết giảng.

Trong phần trước tóm lược hiển bày mười loại công
đức của Phổ Hiền:
1) Nhân hạnh nguyện mãn;
2) Quả đức bình đẳng. Một tụng thứ nhất hiển bày hai loại này.
3) Sắc thân khắp mọi nơi;
4) Phước trí sâu rộng. Một tụng thứ hai hiển bày hai loại này.
5) Thấy khắp Phật hải; Có năng lực hiện rõ trần sát. Một tụng thứ ba hiển bày hai loại này.

Thời xứ rộng khắp;
8) Định sâu xa thường hiện bày. Một tụng thứ tư hiển bày hai loại này.
9) Thể đầy khắp pháp giới; 1
0) Dụng khắp nơi chúng
sinh hải, cũng là trước
Trí-sau Bi. Một tụng thứ năm hiển bày
hai loại này.

Vả lại, mười
đức này thâu nhiếp làm thành năm cặp:
1) Nhân và quả;
2) Thân và trí;
3) Thấy và hiện;
4) Sâu và rộng;
5) Thể và Dụng.

Trong phần sau riêng biệt ca ngợi về đức thuyết pháp:
Một là một tụng ca ngợi về Chứng Đoạn làm nhân thuyết giảng rộng khắp
mọi nơi, nghóa là câu
đầu về Chứng lý, câu tiếp về Đoạn chướng, câu
tiếp về rộng khắp mọi
nơi, câu cuối về thuyết giảng rộng khắp. Hai là một tụng ca ngợi về
trong-ngoài làm nhân có thể thuyết giảng khéo léo
làm lợi ích, nghóa là câu đầu ca ngợi về Nội chứng của
Phổ Hiền, sinh
ra đức hải của tất cả
chư Phật, câu tiếp ca ngợi về bên ngoài có thể
phát ra vầng mây ánh
sáng thuyết pháp khắp nơi, câu tiếp ca ngợi có năng

lực làm lợi
ích cho chúng sinh với công hạnh thanh tịnh vững vàng, câu cuối là bởi vì điều này cho nên có thể khéo léo nói về cảnh Phật.
Ba là một tụng ca ngợi
về hạnh sâu xa làm nhân có thể khởi lên mây mưa thuyết pháp.

Trong ba tụng
trên đây, nếu dựa theo Năng thuyết để phân rõ, thì một là
Quảng thuyết, hai là
Diệu thuyết, ba là
Đốn thuyết; nếu dựa
theo Sở thuyết, thì một
là Phật pháp, hai là Phật cảnh, ba là pháp giới.
Phần hai có một tụng trình bày về pháp đã thuyết: một câu
đầu tổng quát đưa ra
thế giới Hoa Tạng… ở văn sau, câu tiếp đưa ra sự việc trang nghiêm thanh tịnh của cõi Phật ở
văn sau, trong câu tiếp chủ
động tiến vào là Phật
hải-Pháp giới hải, thụ động tiến vào là Chúng
sinh hải và Căn dục hải, câu cuối là kết thúc thưa thỉnh.
Phần ba có một tụng ca ngợi về chúng có hai đức có thể nghe: Một là vui thích mong muốn, hai là căn khí. Trong một cũng có hai:
1) Thân lìa xa ngạo mạn cho nên nói là cung kính,
2) Tâm lìa xa tưởng khác lạ cho nên nói là nhìn ngắm Phổ Hiền. Trong hai là căn khí,
 tuy một lòng vui thích được nghe, nhưng nếu không có trí tuệ thì không có thể tiếp nhận, phần này cũng có hai:
1) Trí sâu xa cho nên hiểu được Lý sâu xa,
2) Trí rộng rãi cho nên phân biệt rõ Sự rộng rãi. Câu cuối là kết thúc thưa thỉnh mong mỏi thuyết giảng. Phần Đại chúng
cùng thưa thỉnh, xong. Sáu, phần trong Định nói tóm lược về phần căn bản, có hai:
Trước là quán về năm
Hải, sau là nói về mười Trí. Lại trước là cảnh
sở
quán, sau là trí năng quán. Lại trước là
Chứng bổn, sau là
Giáo bổn. Vì sao không khởi Định mà
thuyết giảng? Nghóa là trình bày về Định
không làm trở ngại
Dụng, dựa vào Định để hiển bày là pháp sâu xa,
là cùng thực hành.

Trong phần trước có hai: Một,
trình bày về cảnh Hải sâu xa cho nên quán
sát không phải là
tự lực; hai, đích thực quán
sát kỹ càng
về pháp. Năm Hải tóm
lược đưa ra mười môn:

Phân rõ về nghóa và tướng, nghóa là ở trong Vô tận viên minh
tánh hải tạng, phân tạng ấy thành năm nghóa: Một
là nghóa về chỗ dựa
gồm chung tất cả; hai là nghóa về nảy mầm cũng là
nghóa về tích tụ; ba
là nghóa về quy phạm sử dụng; bốn là nghóa về hành riêng biệt, nghóa
về tánh riêng biệt; năm là nghóa về giác ngộ
trọn vẹn. Năm nghóa này
đều trong một nghóa đã có đủ bốn nghóa còn lại,
đều sâu rộng vô tận,
đầy đủ đức khó mà suy lường, cho nên nói là Hải.

Dựa theo nhiễm và tịnh có hai nghóa: a) Biệt, hoặc là chỉ có tịnh

gọi là
Phật hải, hoặc là chỉ có nhiễm gọi là
Chúng sinh hải, hoặc là cùng có hai loại gọi là Thế giới hải và
Căn dục hải, hoặc là không có hai loại gọi là
Pháp giới hải. b) Thông, hoặc là cùng tịnh bởi vì chúng
sinh… cũng vốn trở lại
lưu chuyển, vốn có
thanh tịnh; hoặc là
cùng nhiễm,
bởi vì Phật… cũng vốn
là tùy duyên; hoặc là cả hai, hoặc là không cả
hai, suy nghó dựa theo đó.

Dựa theo lý và
sự cũng có bốn câu hàm chứa
thâu nhiếp,
có thể biết.

Dựa theo người và pháp có hai nghóa: a) Biệt, Chúng sinh và
Phật là người, Pháp giới là pháp; Căn dục
cũng là người-cũng là pháp; Thế giới không phải là
người-không phải là pháp. b) Thông, cũng có đủ
bốn câu hàm chứa thâu nhiếp, có thể biết.

Dựa theo nhân và quả cũng có hai nghóa: Trong Biệt, Thế giới
có cả hai, Pháp giới không có cả hai; hai câu còn
lại có thể biết. Trong Thông cũng có bốn câu, suy nghó biết rõ.

Dựa theo ba thế gian.

Dựa theo cảnh và trí.

Dựa theo y và chánh.

Dựa theo Tam Bảo.

Bốn môn trên đây đều có các câu
Thông và Biệt,
suy nghó biết rõ.

Dựa theo dung hòa thâu nhiếp có hai nghóa:
1) Dựa theo Thế giới hải,
nghóa là Thế giới tức là Chúng sinh, như phần sau
Chúng sinh biểu hiện về Thế
giới; Thế giới tức là Pháp giới, như Pháp giới
không thể hoại Liên Hoa
thế giới hải; Thế giới hải tức là Căn dục, như
Tâm làm ra Thế giới;
Thế giới tức là Phật, như Thân quốc độ.
2) Dựa theo Chúng
sinh tức là
Thế giới, nói như trước; cũng tức là
Pháp giới, như kinh; tức là Pháp
giới này lưu chuyển trong năm đường, gọi là Chúng sanh; cũng tức là
Căn dục, bởi vì như tâm-tâm
sở làm ra; cũng tức
là Phật, là Chúng sinh
thân trong mười thân. Lại bởi vì Chúng sinh tức
là Chân. Ba Hải sau, mỗi
một Hải đã có đủ những Hải khác, đều suy
nghó có thể thấy.
Trong phần hai dựa theo Trí cũng có hai:
1) Biệt, ba Trí đầu là Trí về ba Hải trước, bảy Trí sau là Trí về hai Hải sau.
2) Thông, nghóa là một Trí có năm Hải, một Hải có mười Trí, dung hòa
suy nghó
thâu nhiếp, năm Hải hết
sức sâu xa, dựa vào số năm mà nói vốn làm cho
dễ tin; mười Trí có
phần thô thiển, dựa vào số mười mà nói cho nên hiểu được nguồn gốc. Vì thế cho nên cảnh và trí
không khác, thô và diệu
luôn luôn khác biệt. Đây là dựa theo
Nhất thừa. Lại như kinh Giải
Thâm Mật nói: “Công
hạnh của Như Lai, cảnh giới của Như Lai, hai loại này
sai biệt thế nào? Đức
Phật nói: Công hạnh của
Như Lai gọi là
Nhất thiết chủng,
Như Lai cùng có vô lượng công đức, tất cả đều trang
nghiêm, thanh tịnh Phật
quốc độ; cảnh giới của Như Lai gọi là Nhất thiết chủng năm cõi
sai biệt, đó là Hữu tình giới-Thế giới-Pháp giới-Điều phục giới và Điều phục phương tiện giới.” Địa
Trì luận-Du Già luận cũng gọi
năm loại này là năm Vô
lượng. Năm loại này đã là cảnh giới của Như
Lai, cho nên phần sau nói
về Trí gọi là Hồi quán trí. Đây là dựa theo Tam thừa.

Hỏi: Đã quán về Hải, sao không nói là Hải mà nói là Trí?
 Đáp: Bởi vì Hải là cảnh của Chứng,
 Chứng muốn thuyết giảng về điều ấy tức là thuyết giảng thuộc về Trí.
 Như người đến chùa ngắm nhìn Tháp ghi nhớ vào tự tâm,
sau trở về nhà nói là Tháp, tức là nói đến
tâm chứ không phải là nói đến Tháp ấy. Hỏi: Đã ở trong Định có thể
thuyết giảng, về
sau
sao cần
phải khởi Định? Đáp: Bởi vì dựa vào pháp.
Vì sao? Nghóa là ở trong Định
quán về Hải, điều này ở trong tâm là vi tế nhất; mười trí quán về Hải, tuy ở
trong Định nhưng dựa vào
lời nói, cho nên vi tế thứ hai; phần thuyết giảng là thô
thiển nhất, cho nên dựa vào cơ mà xuất Định để biểu thị rõ ràng.
Vì vậy thuyết giảng lấy
Trí làm căn bản, Trí lấy Hải làm căn bản, bởi
vì thuyết giảng dựa vào
Trí mà thành tựu, Trí dựa vào Lý mà phát khởi.

Trong văn có ba:
1) Nêu rõ trí;
2) Đồng ý thuyết giảng;
3) Trình bày về ý thuyết giảng. Trong này Phật tử có năm nghóa, như trong Nhiếp Luận: “Một, nguyện
vui với Đại thừa làm chủng tử; hai, Bát-nhã làm mẹ; ba, Định
làm thai; bốn, Đại Bi làm
mẹ vú; năm, chư Phật làm
cha.” Lại có mười
nghóa, như sau nói ở phần Di-lặc Tri thức xứ.

Mười Trí:
1) Bởi vì thành tức là bại, cho nên thành thanh tịnh; bại cũng như vậy. Từ đó đã có đủ chín trí còn lại, cho nên gọi là không
suy nghó. Câu không suy nghó
này có khắp ở chín câu sau.
2) Trong hai bởi vì chúng sinh Không-Hữu vốn là không hai, vốn là nhiều loại, vốn
là tương tức, vốn là
tương nhập, vốn đầy đủ tất cả các pháp, vốn là
nhiều căn tánh, cho nên
cũng không suy nghó. Vả lại, Giới là Như Lai
Tạng, tùy duyên làm ra chúng
sinh gọi là khởi, nhưng khởi ở trong Trí.
3) Trong ba có bốn câu: Một là dựa theo
Hữu vi, hai là Vô vi, ba là cả
hai, bốn là không cả hai.
Mỗi câu đều gồm chung nhiễm và tịnh, suy
nghó dựa theo đó. Căn
dục thâu nhiếp ở trong hai Trí trước, cũng ở bảy
Trí
sau, như phân
rõ trong câu hỏi trên, bảy Trí dưới đây trình bày về
Phật hải.
4) Bởi vì Vô ngại.
5) Bởi vì xứng với Căn mong muốn trao truyền, cho nên chuyển khắp nơi.
6) Bởi vì hiển bày về đức.
7) Bởi vì ánh sáng và âm thanh.
8) Bởi vì Tam luân thâu nhiếp.
9) Bởi vì Định sâu xa, cho nên tương tức và Thể-Dụng đều
không hoại.

10) Dùng tổng quát để
kết luận riêng biệt.
Phần Căn bản, xong.

Bảy, trong phần khởi Định thành tựu lợi ích, có hai: Một là
khởi Định chủ-bạn.
Trước đây trình bày về Định không làm trở ngại
Dụng, cho nên nói về mười Trí, nay trình bày về Dụng không làm trở
ngại Định cho nên nói
Bất hoại, bởi vì không hoại đến Định ấy. Thế nào
là không hoại? Bởi vì
dựa vào Trí phương tiện để giải thích hiển bày.
Trong phần hai là lợi ích khởi Định có hai: Một là lợi ích
bên trong, cũng có hai:
1) Lợi ích cho chúng cõi này có bốn: a) Chứng được Thể của pháp; b) Dựa vào chứng khởi lên trí khéo léo; c) Dựa vào trí khởi lên biện tài tuyệt vời; d)
Thuyết giảng không hề
ngắt quãng, đó
là vốn nhờ vào nguyện
lá»±c.
2) Kết luận nối thông hiển bày tròn vẹn. Trong hai là lợi ích bên ngoài, có ba:
1) Rung Ä‘á»™ng.
2-Lợi ích, nghóa là lúc rung động làm cho sợ hãi, ngược lại với điều này cho nên vui thích. Lại nhân
là thiện nghiệp an ổn, quả là trao cho niềm vui.
Lại lúc rung động làm
cho hủy hoại, ngược lại với điều này cho nên
trang nghiêm quý báu.
3-Mưa báu, đó gọi là pháp môn. Bởi vì là kém mười cho nên nêu rõ mười mà đưa ra bảy.

Tám, trong phần đầu lông phát ra ánh sáng khen ngợi về đức, có hai:

Một, lỗ chân
lông và ánh sáng… của tất cả Như Lai, là Phật chủ
động gia hộ trước đây. Ca ngợi đức của
Phổ Hiền hiển bày đầy
đủ đức thuyết pháp,
vốn là khiến cho chúng tôn trọng sinh tâm khao
khát ngưỡng mộ, là ánh
sáng-ca ngợi-âm thanh và trí trước đây. Hai, trong mười bốn tụng phân hai: Đầu là tám tụng ca ngợi ba nghiệp rộng lớn của
Phổ Hiền tận cùng đáy nguyện của Phật.
Trong đó ba tụng đầu là thân, nửa tụng tiếp là ngữ, bốn tụng rưỡi tiếp là ý.
Trong đó một tụng rưỡi
đầu là Định, một tụng tiếp là Tuệ, hai tụng sau cuối là tận cùng đáy nguyện của Phật. Sau là
sáu tụng ca ngợi
Thể-Dụng rộng khắp mọi nơi ứng với cơ không ngăn ngại.
Trong đó, một
tụng đầu là Thể rộng
khắp, nghóa là thân Phổ Hiền ngồi ở Hội này, mà ở vô biên thế giới khắp
mười phương, mỗi một thế giới đều thấy thường
ở tại xứ ấy, xưa nay
ở xứ ấy mà thân không phân ra, cũng không có đến đi. Trong tất cả các trần, trong thân của tất cả
chúng sinh, cũng đều như vậy. Bởi vì các chúng
sinh tức là Như, đều là
Phổ Hiền, mà thật ra
Phật quốc của Nhất thừa
cũng giống như Phổ Hiền đầy đủ khắp nơi, tức
là dựa vào thù thắng
cho nên dễ hiểu, chọn lấy quốc độ dựa theo lý
nhờ vào Tam thừa để
hiển bày về Nhất thừa mà thôi, suy nghó có thể thấy. Sau là năm tụng trình bày về Dụng:
1) Hiện bày thân,
2) Hiện bày pháp,
3) Nguyện thanh tịnh,
4) Chúng sinh,
5) Hiện bày nhận biết. Chín, trong phần đồng ý thuyết giảng khiến cho hoan hỷ, cũng có hai: Một là trường
hàng nêu ra ý, nghóa là trước đây nghe về phần căn bản đã
sinh tâm hoan hỷ, nay lại đồng ý thuyết giảng từng phần cho
nên nói là thêm hoan hỷ.
Hai là tụng hiển bày về sự việc hoan hỷ, trong đó
có mười tụng phân ra ba:

Thứ nhất có hai tụng rưỡi nêu ra đức giáo hóa của Đức Phật vượt quá tình thức không đo
lường được.
Trong đó, tụng một là trí
sâu
xa thuyết pháp, tụng hai là quốc độ trang nghiêm điều phục chúng
sinh, nửa tụng sau cuối
là gồm chung kết luận về chủ động giáo hóa và
tiếp nhận giáo hóa vô
tận khó suy lường.

Thứ hai có năm tụng rưỡi khuyên nhủ Đại chúng khiến cho thanh tịnh có thể làm pháp khí.
Trong đó, nửa tụng đầu lược giản về
người không có thể nghe
nổi, nói ưa thích điều ác là gây ra nhân của nẽo
ác, đắm theo quả báo là
ví như làm nghiệp thiện mà không mong cầu giải thoát.
Câu sau kết luận không phải là, nghóa là không có thể hiểu rõ
đều hiển bày không phải
là pháp khí. Một tụng tiếp trình bày có đủ ba
lực mới có thể làm
pháp khí:
1) Lực thiện căn vốn có;
2) Lực gần gũi thiện hữu;
3) Lực hộ niệm của Phật. Câu sau kết luận những chúng sinh này có thể đạt được trí
bậc Thượng. Một tụng
tiếp là có đủ bảy tâm mới có thể nghe pháp:
1) Tâm thẳng thắn, bởi vì lìa xa nịnh bợ quanh co;
2) Tâm thanh tịnh, bởi vì lìa xa những sai lầm như mong cầu…;
3) Tâm Từ, bởi vì làm lợi ích cho chúng sinh;
4) Tâm Bi, bởi vì cứu giúp chúng sinh;
5) Tâm sâu xa, bởi vì tu hành;
6) Tâm tin tưởng, bởi vì tiếp nhận pháp sâu xa;
7) Tâm không hề thỏa mãn, bởi vì tâm khao khát giáo pháp luôn đầy ắp. Câu sau kết luận họ được nghe
pháp này vô cùng hoan hỷ. Hai tụng trên đây
gồm chung mười môn phân
rõ về tất cả pháp khí có thể nghe nổi.

Hai tụng tiếp
là riêng biệt nêu ra chúng này, một tụng đầu trình bày có đủ bốn đức có thể biết được cảnh Phật:
1) Trú trong Địa của Phổ Hiền;
2) Đầy đủ Nguyện của Phổ Hiền;
3) Thực hành Hạnh của Phổ Hiền;
4) Chứng về Không của Pháp giới. Câu sau kết luận nhận biết cảnh Phật.
Một tụng tiếp ca ngợi Đại chúng này hiện tại có được
hai lợi ích:

1) Hiện tại trước mắt được thấy Phật;
2) Có được phương tiện của Phổ Hiền. Một tụng sau cuối gồm chung kết luận nhưng các chúng sinh
được nghe Phật pháp đều là nhờ Phật lực.
Thứ ba có hai tụng nêu ra pháp đồng ý
thuyết giảng, khuyến
khích quán sát khiến cho
vui thích. Một tụng nêu ra pháp khuyền khích quán sát, bởi vì Phật và quốc độ ở
trong thân, khuyến khích Đại chúng khiến cho quán
sát ở trong lỗ chân lông. Một tụng
sau cuối trình bày có đủ
ánh mắt rộng khắp mới
nhìn thấy pháp này. Câu sau cuối là đồng ý
thuyết giảng khuyên nhủ
lắng nghe, có thể biết. Sau cùng trong mười Nhãn,
Phổ Nhãn thứ mười vốn là pháp môn bình đẳng nhìn thấy pháp giới,
nếu luận chung thì tổng
quát có đủ mười Nhãn gọi là Phổ. Mười, trong phần chính thức nói rõ về pháp hải. Trước là trình bày về người chủ động thuyết giảng trong các
Hội khác nhau, chỉ có hai phẩm Tăng Kỳ và
Tiểu Tướng là do Đức
Phật thuyết giảng,
còn lại đều do Bồ-tát
thuyết giảng mà biểu hiện, giải thích như sau.
Nhưng dựa vào
Trí Luận thì có
năm thuyết:
1) Phật thuyết;
2) Đệ tử thuyết;
3) Thần Tiên thuyết;
4) Chư Thiên thuyết;
5) Biến hóa thuyết. Đây là căn cứ theo âm thanh-danh-cú… phát ra. Nếu hướng về trao cho
thì gồm chung hữu tình và
vô tình. Đây là dựa theo Tam thừa. Lại có
năm thuyết, như sau nói:
Phật thuyết, Bồ-tát thuyết, Quốc độ thuyết, Chúng
sinh thuyết, tất cả ba
đời thuyết. Đây là gồm chung tất cả các pháp
như ba thế gian…, là dựa theo Nhất thừa.
Trong văn có hai:
1) Mở rộng phân rõ về Thế giới hải, đáp câu hỏi về quả trước đây;
2) Từ “Nãi vãng quá khứ…” trở xuống là đáp câu hỏi về nhân trước đây. Trong phần một có hai: Trước là nói rộng về thế giới,
sau là
kệ tụng tổng trì. Trong
phần trước có hai: Đầu là tổng quát luận về
mười thế giới, sau là
riêng biệt phân rõ về Hoa Tạng Giới, cũng là giải
thích về thế giới hoại thứ mười, bởi vì thành
tức là hoại. Trong phần đầu
có hai: Một là nêu ra
chương môn, hai là dựa vào môn riêng biệt để giải thích.
Trong phần một
có ba: Một, tổng quát nói cho biết nêu
ra dẫn chứng; hai, chính thức nêu ra mười
tên gọi; ba, kết luận về pháp vô
tận. Trong mười loại
này, đầu tiên có bốn nghóa:
1) Bởi vì Thể của quốc độ bặt tướng, nhờ vào ngôn từ mới thành,
 cho nên nói là Thuyết thế giới, như Thành trong bốn Trí có thể chịu được, như
sau nói về ràng
buộc- quán sát… trong
duyên sinh;
2) Bởi vì danh ngôn huân tập trong Thức
hiện rõ quốc
độ cho nên gọi là Thuyết;
3) Ngôn âm trong quốc độ như sau phân rõ trong tụng;
4) Thế giới lập thành tên gọi không giống nhau cho nên nói là Thuyết.
 Một Thuyết đầu tức là thế giới, ba Thuyết sau là Giới. Hai là hướng về duyên vào Giới, ba là nương tựa cho nên được
lâu dài, bốn là tướng
trạng bên ngoài phân biệt, năm là Thể bên trong đầy đủ,
sau là đức tướng trang nghiêm đẹp đẽ, bảy là dụng thanh tịnh lìa
cấu nhiễm, tám là căn
khí thanh tịnh Phật chủng hiện bày, chín là trải
qua thời gian nhiều ít,
mười là duyên phân tán lìa xa tạo tác đều nhiều
loại sâu sắc cùng gọi
là Hải. Hễ một thế giới thì có đủ mười loại này.
Nay giải thích chung về các
Thế giới hải, tóm lược đưa ra mười môn:
1) Chủng loại;
2) Người cư trú;
3) Danh và Thể;
4) Nhiễm và tịnh;
Lậu và vô lậu;
6) Cọng và bất cọng;
7) Thế gian và Niết-bàn;
8) Y và chánh;
9) Người và pháp;
10) Vô ngại. Đầu tiên trình bày về Chủng loại. Tiểu thừa chỉ có một loại
Giới như Ta-bà, không có
Tịnh độ nào khác.

Trong Tam thừa
có hai: Một, dựa theo trú xứ của Đức Phật, có ba:

Pháp tánh độ; b) Thật đức độ, đó là những Diệu
hạnh; c) Sắc tướng
độ, đó là những vật báu thù thắng…

Hai loại sau
là quốc độ Tự thọ dụng, ba loại quốc độ này
không phải là nơi nhiếp
hóa, cho nên trong này không phân rõ. Hai, dựa theo nơi Đức
Phật nhiếp hóa, cũng có ba: a)
Hóa thân độ, độ này có
hai: Một là Nhiễm, là
cõi Ta-bà này, đây là dựa theo Thích-ca; hai là
Tịnh, là Hóa độ ở
phương khác, đây là dựa theo các vị
Phật khác. b)
Biến nhiễm độ, đó là ngón chân dựa vào mặt đất… c) Tha thọ dụng độ, là mười tám viên mãn… Trong phần a có hai: Nếu theo Thỉ giáo thì chỉ có trăm
ức Diêm-phù, trăm
ức Thích-ca, làm cảnh nhiếp hóa.
Nếu theo Chung giáo, như trong
Trí Luận: “Dùng Tam thiên Đại thiên thế
giới làm số một, tính
cho đến Hằng sa là một Thế giới Tánh, tính từ
Tánh này lại đến Hằng
sa là một Thế giới Hải, tính từ Hải này lại đến
Hằng sa là một Thế giới
Chủng, tính từ Chủng này lại đến vô lượng Hằng
sa là phạm vi giáo hóa
thuộc Thế giới của một Đức Phật.” Thọ dụng độ ấy, nếu theo Thỉ giáo thì ở trên đỉnh của cõi Sắc, bởi vì dẫn dắt
Tiểu thừa mà nói cùng
cõi; nếu theo Chung giáo thì không thuộc về ba
cõi, như kinh Niết-bàn
nói: “Về phía Tây cách đây ba mươi hai Hằng hà sa
Phật độ, có thế giới tên gọi
Vô Thắng, là Thật báo Tịnh độ của
Đức Phật Thích-ca. Lại
ở trong thế giới Nhất Thiết Tu Di Lâu Sơn,
thường thường an trú
một Phật độ thanh tịnh.” Đây là gồm chung Báo-Hóa
để dẫn dắt chúng sinh.

Theo Nhất thừa thì có hai: Một,
dựa theo Quốc độ Hải tự Thể của mười Phật thuộc phần quả, điều này là
Bất khả thuyết, dựa vào
duyên nói là mười, như nói trong Hội thứ hai.
Hai, dựa theo nơi
nhiếp hóa, có ba loại:

Từ phạm vi của núi Tu-di và hình dạng cây cối… trở đi, cho đến
tất cả hình dạng chúng sinh trong thế giới Hải,
là loại thứ nhất.

Ngoài Tam thiên thế giới có mười thế giới riêng biệt:
1) Thế giới Tánh;
2) Thế giới Hải;
3) Thế giới Luân;
4) Thế giới viên mãn;
5) Thế giới phân biệt;
6) Thế giới toàn;
7) Thế giới chuyển;
8) Thế giới Liên Hoa;
9) Thế giới Tu-di;

10) Thế giới Tướng. Những thế giới này là cảnh giới của Luân Vương có vạn người con trở lên, là loại thứ hai.

Thế giới hải của mười
Liên Hoa Tạng trang nghiêm, đầy đủ
chủ-bạn như Đế võng…, là cảnh giới của
Phật, là loại thứ ba.

Ba loại trên
đây gồm có mười sự làm đầu tiên thành tựu thế giới:

1) Thuyết thế giới Hải;
2) Khởi lên đầy đủ nhân duyên thế giới Hải;
3) Trú vào thế giới Hải;
4) Hình của thế giới Hải;
5) Thể của thế giới Hải;
6) Trang nghiêm thế giới Hải;
7) Thanh tịnh thế giới Hải;
8) Như Lai xuất thế thế giới Hải;
9) Kiếp của thế giới Hải;
10) Hoại phương tiện thế giới Hải.
Người cư trú:
Nếu Tiểu thừa thì chỉ có phần vị Hữu dư
y-Thánh và phàm cư trú.

Theo Tam thừa
thì trong ba loại, hai loại đầu gồm có phàm phu- Nhị thừa và Bồ-tát Địa tiền cùng với Hóa thân
Phật cư trú, một
loại sau là Bồ-tát từ
Sơ địa trở lên và Báo thân Phật cư trú. Trong kinh Giải Thâm Mật nói
Bồ-tát Địa thứ ba sinh vào Tịnh độ của Phật, đó là
dựa theo nghóa trình bày
về Địa thứ bảy, tức là Sơ địa tương đương với
Địa thứ ba ấy. Lại trong
Khởi Tín luận thừa nhận Bồ-tát Địa tiền thấy
Báo thân Phật, đó là
dựa theo Chung giáo, nương vào Tam-muội thấy được phần ít.

Theo Nhất thừa thì trong ba loại phần nhiều luận về thời gian,
 đầu tiên là phần vị thấy nghe, tiếp theo là phần vị hiểu và thực hành,
sau là phần vị đạt được
quả, gồm chung thì có thể biết, thân Phật ở ba
nơi cùng là mười Phật.

Danh và Thể: Thế
là thời gian, Giới là phạm vi, nghóa là phạm
vi hiển hiện ở trong thời gian, thuận theo tướng mà được tên gọi. Tích chứa nhiều loại
sâu xa,
sâu rộng khó cùng, đều gọi là Hải. Thế giới tức là Hải thuận theo ví dụ, là
Trì nghiệp thích. Nếu theo Tiểu thừa thì dùng bảy cực vi (thất vi) của mẹ con và bốn trần như Sắc… hợp lại có thể

tạo thành
Sắc thật của bốn Đại làm Thể. Nếu trong Tam thừa
thì phàm phu-Tiểu thừa-Địa tiền đều dùng Thức
Lại-da làm Thể. Hai nghóa
về Địa thượng, Báo độ cũng cùng
Thức Lại-da làm Thể. Nếu do hai
Trí mà hiện rõ thì lấy trí
Duy Thức làm Thể, vì vậy Nhiếp Luận nói: “Trí
Duy Thức của Bồ-tát và
Như Lai, thậm chí làm Thể của Tịnh độ.”
Nếu theo Chung giáo thì cùng lấy
Như Lai Tạng Chơn Như làm Thể.
Nếu theo Nhất thừa thì lấy Vô tận pháp giới, gồm chung ba thế gian, các
hành tương tức như
người-pháp-lý-sự… làm Thể cho nhau, dựa theo suy
nghó có thể biết.

Nhiễm và tịnh:
Nếu Tiểu thừa thì chỉ có nhiễm. Tam thừa có
hai: Một là dựa theo phần vị, hai là dựa theo pháp.

Trong phần một có bốn cặp hiển bày về nhiễm-tịnh:
1) Dựa theo nhân-quả, nghóa là
nơi cư trú của Bồ-tát từ Kim Cang trở về sau, gọi là Quả báo độ, không gọi là
Tịnh độ, bởi vì lỗi lầm chưa hết; chỉ riêng
nơi cư trú của Đức
Phật không còn Sử-Tập, cho nên gọi là Tịnh độ.
Vì vậy trong kinh Nhân Vương
nói: “Ba Hiền-mười Thánh trú trong quả báo, chỉ riêng Đức Phật ở nơi
Tịnh độ”.
2) Dựa theo luôn luôn-không phải
là luôn luôn, nghóa là nơi cư trú của Bồ-tát từ Địa thứ tám trở lên được
gọi là Tịnh độ, bởi vì
luôn luôn ra khỏi sự của ba cõi. Vốn đầy đủ bốn
câu có nghóa về luôn
luôn, đó là luôn luôn thanh tịnh, luôn luôn vui
thích, luôn luôn không có
sai lầm, luôn luôn tự tại. Từ Địa thứ bảy trở về
sau chưa gọi là Tịnh độ,
bởi vì không phải là luôn luôn ra khỏi ba cõi.
Dù cho nhờ vào nguyện
lực mà được ra khỏi, nhưng bốn câu về luôn
luôn vốn không đầy đủ,
nghóa là bởi vì quán trí vô lậu có gián đoạn, không phải là không có
sai lầm… Đây là dựa vào
Nhiếp Luận phân rõ.
3) Dựa theo thuần-tạp, nghóa là nơi phàm phu-Nhị thừa cư trú xen tạp không gọi là
Tịnh độ, nơi
sinh của Bồ-tát Địa thượng vốn gọi là thanh
tịnh. Du-già luận nói: “Vô lượng thế giới có hai loại của nó, đó là tịnh và bất tịnh trong thế giới
thanh tịnh, không có địa ngục-bàng
sinh-ngạ
quỷ, cũng không có cõi
Dục-cõi Sắc và cõi Vô sắc, toàn là chúng Bồ-tát
cư trú trong đó, cho nên
gọi là thế giới thanh tịnh. Bồ-tát đã tiến vào
Địa thứ ba nhờ vào
nguyện lực cho nên thọ sinh ở nơi ấy, không có dị
sinh và không phải là dị
sinh-Thanh văn-Độc giác.” Giải thích: Địa thứ
ba này đã gọi là Tịnh
ý lạc, tức là Hoan Hỷ địa, vì vậy phân rõ dựa
theo Địa thứ bảy.
4) Dá»±a
theo lui sụt-không lui sụt, nghóa là tiến vào
Thập Trú trở đi là phần vị không
lui sụt, nơi
sinh của
Bồ-tát Tam Hiền gọi là Tịnh độ, trong đó
cũng có Tứ quả-Nhị thừa…. Như quốc độ của Phật A-di-đà, người
sinh về đó đều trú trong
Chánh Định…, có thể về
sau dá»…

dàng lui sụt
phần vị. Nơi ba tụ chúng sinh cùng sinh đến, không gọi
là Tịnh độ. Trong tám
nghóa của bốn cặp này, đầu là dựa theo quả chỉ
có tịnh, sau là dựa theo
lui sụt chỉ có nhiễm, trung gian so sánh với
nhau đều gồm chung nhiễm-tịnh.

Hai là dựa theo pháp có bốn câu: Hoặc là chỉ có tịnh, nghóa là
ở trong bốn môn trên so
sánh với nhau mà chọn lấy tịnh, bởi vì nơi cư
trú của phần vị lui sụt
vốn là tự tánh tịnh. Hoặc là chỉ có nhiễm, nghóa là trong bốn môn
so
sánh với nhau mà chọn lấy nhiễm, bởi vì Phật quả tùy duyên vốn là dựa theo căn cơ mà nói, trong
Khởi Tín luận gọi là
tùy nghiệp nhiễm huyễn
ảo mà gây ra. Hoặc cả hai, bởi vì hai nghóa
trước không rời xa nhau. Hoặc không phải là cả hai, bởi vì hai nghóa dung
hòa lẫn nhau không phải
là nhất định chỉ một, bởi vì hai tướng không còn.

Nhất thừa cũng có hai: Một
là dựa theo trong chủng loại, trước
là chủng loại nhiễm, sau
là chủng loại tịnh, trong chủng loại gồm
chung hai loại. Hai là dựa theo
trong pháp, hoặc là cùng tịnh bởi vì tức là
Phật, hoặc là cùng nhiễm
bởi vì tức là chúng sinh, hoặc là có đủ hai loại bởi vì hai nghóa trước không lìa xa nhau,
 hoặc là không cả hai loại bởi vì hai tướng dung hòa, bởi vì hai tướng không còn. Trong ba
loại trước,
mỗi mộ loại đều có đủ
bốn câu này, dựa theo suy nghó biết rõ.

Lậu và vô lậu: Nếu
Tiểu thừa thì chỉ riêng Hữu lậu. Tam thừa
có hai môn: Một là tùy tướng môn, hai là dung thông môn.

Trong phần Tùy tướng có bốn câu:
1) Chỉ riêng Hữu lậu, đó là cõi do phàm phu-Tiểu
thừa-Địa tiền mà biến hiện.
2) Chỉ riêng Vô lậu, đó là cõi do Phật mà
hiện rõ.
3) Cả hai loại, đó là do hai Trí mà biến hiện và do Lại-da mà hiện rõ của
Bồ-tát Địa thượng, hai loại này tuy là
Khổ đế-Đạo đế thâu
nhiếp nhưng mà không có hai Thể riêng biệt, chỉ thâu nhiếp tùy theo nghóa khác nhau.
4) Không phải cả hai loại, nghóa là đều vốn tức Không, vốn không rơi vào số. Trên đây là dựa theo Thỉ giáo.
Trong phần Dung thông cũng có bốn câu:
1) Hoặc tất cả đều là Vô lậu, cho đến phần vị phàm phu cũng như vậy, bởi vì lìa tánh các lậu,
 như kinh nói: “Sắc vô lậu không ràng buộc, Thọ-Tưởng-Hành-Thức vô lậu không ràng buộc,
cho đến nói rộng ra.”
2) Hoặc tất cả đều là Hữu lậu, cho đến Phật cũng như vậy, bởi vì không lìa pháp lậu, như kinh nói: “Chư Phật an trú trong ba Độc-bốn Đảo-năm Dục… mà chứng đắc
A- nậu Bồ-đề, cho đến
nói rộng ra.” Câu trước là Vô lậu không khác với lậu cho nên tức là
Vô lậu, câu
sau là lậu không khác với Vô lậu
cho nên Vô lậu tức là
Hữu lậu.
3) Cả hai loại, bởi vì hai nghóa trước không lìa xa nhau.
4) Không phải cả hai loại, bởi vì đều lìa tánh ràng buộc và giải thoát, như kinh nói: “Sắc không có ràng buộc-không có giải
thoát, Thọ-Tưởng-Hành-Thức
không có ràng buộc-không có giải thoát,
cho đến nói rộng ra.”

Trong Nhất thừa, như pháp giới
duyên khởi, nếu không có một thì tất cả
không thành, dung hòa lẫn nhau vô ngại cũng có đủ bốn câu,
hoàn toàn thâu nhiếp, suy
nghó có thể biết.

Cọng và Bất cọng, trong đó có hai: Một
là trình bày về phạm
vi, hai là hiển bày về nghóa tướng.

Trong phần một, tùy theo một thế giới đều là hữu tình, đó là
Dị thục Thức, bởi vì lực thành thục của chủng loại
cọng tướng, cho
nên biến thành tướng
của Khí thế gian tựa như Sắc…

Hỏi: Hễ một thế giới có bao nhiêu hữu tình do Dị thục Thức
biến thành?

Đáp: Trong
Duy Thức luận có thuyết của ba Sư.
Sư thứ nhất nói rằng: “Tất cả hữu tình, bởi vì
Khế kinh nói:
Tất cả hữu tình do lực tăng
thượng của nghiệp mà cùng nhau khởi lên.”

Sư thứ hai phá rằng: “Nếu như vậy thì chư Phật Bồ-tát thuận theo thật biến thành cõi tạp uế này, các loại
Dị sinh thuận theo thật
biến thành các cõi thanh
tịnh vi diệu ở cõi này-phương khác. Lại các
Thánh giả chán ngán rời
xa cõi Sắc mà sinh đến cõi Vô sắc chắc chắn
không sinh đến nơi này, thì biến thành cõi này lại có tác dụng gì? Bởi vì có
ba loại rất sai lầm này,
cho nên trình bày không được thông suốt về tất
cả hữu tình, phải nói
là người đang cư trú và người sẽ sinh đến do Dị thục Thức của họ mà biến thành cõi này.
Kinh dựa vào phần ít để nói đến
tất cả, bởi vì những
người có nghiệp giống nhau đều cùng biến thành.”

Sư thứ ba chuyển sang phá thuyết của Sư thứ hai rằng: “Nếu như vậy thì lúc Khí thế giới
sắp hoại, đã không có người đang cư trú
và người sẽ sinh đến,
thì Dị thục Thức của ai biến thành cõi này? Vả
lại, các Dị sinh chán
ngán rời xa cõi Sắc mà sinh đến cõi Vô sắc, hiện tại không có
Sắc thân, biến thành cõi trước thì điều này lại có tác dụng
gì? Giả sử có Sắc thân
mà cùng với khí chất nơi khác, thô-tế cách nhau xa không nương tựa duy trì lẫn nhau, thì cõi này biến thành cõi kia
cũng ích lợi gì? Cũng
bởi vì ba loại rất sai lầm như vậy, cho nên người đang cư trú và người
sẽ
sinh đến đều không thành tựu về biến hiện,
nghóa là: Một, lúc Khí
sắp hoại thì sẽ sinh đến và đang cư trú đều không
có thọ dụng; hai, nếu
hiện tại thọ thân ở cõi Vô sắc mà đối với cõi này
thì không có nghóa về
thọ dụng; ba, giả sử thân ở cõi Sắc cùng với thô-tế này khác nhau, thì cũng không có nương tựa duy trì thọ dụng. Vì thế cho
nên ba loại này đều không có nghóa về biến. Nếu như vậy thì
Thức của ai biến?”
Nghóa đích thực nên nói: Tất cả các cõi đã biến hiện vốn là nơi Sắc thân nương tựa duy trì thọ dụng, nếu đối với thân có thể có tác
dụng duy trì, giả
sử khiến cho
sinh vào Địa của mình ở
phương khác, thì
Thức ấy cũng có thể biến thành cõi này.
Vì vậy, lúc Khí thế giới
sắp hoại
hay mới thành, tuy không
có hữu tình mà hiện có cõi, cõi này đều dựa
vào Duy Thức luận phân rõ.
Hai là hiển bày về nghóa tướng của
Cọng-Bất cọng:
Nếu trong Tiểu thừa, đã là
do Cực vi cùng nhau hợp thành thì vì thế chỉ là Cọng.

Nếu trong Tam thừa thì có bốn câu:

Hoặc chỉ là Cọng, nghóa là Y báo kia tuy không lìa xa Thức mà Thức là
riêng biệt, tướng của cõi là một, bởi vì chủng tử cọng tướng trong những Thức kia đã cùng nhau hiện rõ. Như tiếp nhận bốn trần
cùng nhau làm thành một cây trụ, tướng của một
cây trụ không lìa xa
bốn trần, không phải là tùy theo bốn trần mà có
bốn cây trụ; nên biết đạo lý trong này cũng như vậy. Nếu cõi Tự thọ dụng thì Phật và chư Phật cùng có một cõi, giống như Pháp thân vốn là chư Phật cùng dựa
vào, bởi vì là cõi cùng chung pháp tánh. Nếu cõi
Tha thọ dụng thì cũng
là do Phật và Bồ-tát cùng có, như vua và bề tôi
cùng có một quốc gia.
Các cõi tạp nhiễm cũng là do cọng nghiệp của hữu
tình mà hiện bày,
cho nên không có gì riêng biệt.

Hoặc là Bất cọng, Y quả như vậy thật sự đều Bất cọng, bởi vì
đều từ trong Thức vốn có của mình hiện ra. Luận
nói: Cùng là Dị thục Thức của tất cả hữu tình biến hiện, cùng xứ tương tự không chướng ngại lẫn nhau, như ánh
sáng của nhiều ngọn đèn, như nhiều giấc mộng. Chủng loại của nhân là
riêng biệt, tướng của quả là tương tự, xứ
sở không có
riêng biệt, giả gọi là Cọng, thật đều có khác. Tịnh độ của chư Phật cũng lại như vậy, Thức biến hiện khác nhau đều khắp nơi pháp
giới, cùng xứ tương tự gọi đó là Cọng. Giải
thích rằng: Nếu có một cõi không tùy theo
Thức riêng biệt, ngoài tâm có pháp thì không thành
Duy Thức. Luận nói: Ta nói do
Thức mà duyên, chỉ do
Thức mà hiện.
Vì vậy nên biết đều bởi vì tự Thức biến hiện,
cho nên tất cả không
giống nhau.

Cũng Cọng cũng Bất cọng, bởi vì hai câu trước nói không lìa
xa nhau. Du-già luận nói: “Những vật ở bên ngoài,
hoặc do Bất cọng
phân biệt làm nhân, hoặc là do Cọng phân biệt làm
nhân. Nếu đã khởi
là Cọng phân biệt, thì phân biệt tuy không có,
nhưng bởi vì phân biệt

từ người
khác đã tùy ý duy trì mà không vónh viễn diệt
mất, nếu không như vậy thì phân biệt của người
khác lẽ ra không có quả ấy. Người ấy tuy không cảm được
thanh tịnh, nhưng Chánh kiến thanh tịnh ở
trong sự việc ấy; ví như
rất nhiều người tu quán hành, ở trong một sự
việc do đạt được
Định-Tâm-Trí mà có thể thấy đủ loại khác nhau, điều ấy cũng như vậy.”
Giải thích rằng: Đây là nói về Y báo tùy theo Cọng phân biệt, Bất cọng phân biệt ấy giống như câu thứ hai trước đây.
Vì vậy, tùy
theo Khí thế giới bên
ngoài đều có đủ hai nghóa như vậy mà thành, cho
nên cả hai cùng tồn tại.

Không phải là
Cọng-không phải là
Bất cọng, có hai nghóa: Một là bởi vì hai câu nói trước
so
sánh làm mất lẫn nhau, bởi vì tùy theo
Định chọn lấy một không thể nào đạt được, cho
nên không phải cả hai
loại. Hai là bởi vì cõi dựa vào Thức cho nên
tướng của cõi không còn,
bởi vì Thức thuận theo duyên khởi cho nên không
có tự tánh. Vì vậy,
tánh tướng của Cọng và Bất cọng đều lìa xa
không thể nào nói được.
Trên đây,
nếu dựa theo quả báo do Lại-da Thức đã biến hiện…, thì tức là
Sơ giáo; nếu
Như Lai Tạng do Lại-da mà hiện rõ, thì
thuộc về Chung giáo; nếu
tất cả các tướng không còn, chỉ một tâm thanh tịnh
bình đẳng bình đẳng, lìa ngôn ngữ bặt suy nghó thì
thuộc về Đốn Giáo.
Nếu theo Viên giáo thì có hai nghóa: Một là như các giáo
trước đã nói, tức là cùng chung vô tận pháp giới Đế võng
trùng trùng, tức là hòa vào vô ngại đầy đủ chủ bạn, thì thuộc về giáo này
thâu nhiếp.
Hai là dùng nghóa để cầu,
cũng có bốn câu:
1) Hoặc chỉ có Cọng, bởi vì cùng một pháp giới, bởi vì ngay trong nhau.
2) Hoặc chỉ có Bất cọng, bởi vì duyên khởi khác nhau,
bởi vì tướng không xen tạp.
3) Hoặc cả hai loại, bởi vì hai nghóa trên không tách rời nhau, bởi vì toàn Thể ngay trong nhau mà không hoại.
4) Hoặc không phải cả hai loại, bởi vì hai tướng mất đi, bởi vì so sánh làm mất không còn.
Thế gian và
Niết-bàn có hai phần: Một là
Tùy tướng, hai
là Dung thông.

Trong phần một có bốn câu:
1) Hoặc chỉ riêng thế gian, đó là nơi cư trú của phần vị Địa tiền và phàm phu.
2) Hoặc chỉ riêng Niết-bàn, đó là quả vị của chư Phật trú vào Niết-bàn, giả sử là cõi Tự thọ dụng thì cũng có thể là Đại
Niết-bàn ấy
thâu nhiếp.
3) Hoặc cũng là thế gian cũng là Niết-bàn, theo luận Bảo Tánh…, dựa vào trong pháp giới vô
lậu có ba loại Ý sinh
thân, nên biết. Nhân ấy đã dấy lên thiện căn vô lậu cho nên gọi là thế gian, không phải là
nghiệp-phiền não hữu lậu làm
ra cũng gọi là Niết-bàn.
Dựa vào nghóa này, bởi vì kinh Thắng Man nói:
“Thế Tôn! Có thế gian hữu vi, có thế gian vô vi, có
Niết-bàn hữu vi,
có Niết-bàn vô vi.”
Giải thích rằng: Thế gian hữu vi là phần vị phàm
phu, Niết-bàn vô vi là Phật quả. Niết-bàn hữu vi,
thế gian vô vi là báo
của Biến dịch, bởi vì
nơi hướng về khác nhau cho nên thuộc về câu có
cả hai loại.
4) Nghóa dựa
theo pháp giới thanh tịnh của chư Phật, là
không phải thế gian cũng
không phải Niết-bàn, bởi vì không phải là
Niết-bàn của Nhị thừa, lại cũng không phải là
Niết-bàn ở Song Lâm.
Trong phần hai là Dung thông cũng có bốn câu:
1) Hoặc chỉ riêng thế gian, nghóa là bởi vì Tịnh độ của Phật cũng đều là Khí thế gian thâu nhiếp.
2) Hoặc chỉ riêng Niết-bàn, nghóa là bởi vì cõi nhiễm của chúng sinh cũng là tướng không còn-tánh giống nhau.
3) Hoặc cả hai loại, bởi vì lý-sự vô ngại. Luận nói: Thế gian và Niết-bàn không có mảy may
sai biệt, bởi vì không
có khác nhau, vốn là không hai mà hai cùng hiện
rõ trước mắt.
4) Bởi vì không có mảy may phân biệt, vốn là hai mà không, so sánh làm mất đi không còn cả hai, cho nên không phải cả hai loại. Kinh nói: “Như Lai
không thấy sinh tử, không thấy Niết-bàn.” Lại
kinh này nói: “Thế gian
và Niết-bàn, cả hai đều không thể nào đạt
được.” Là nói đến ý nghóa này.

Y
và chánh: Nếu
Tiểu thừa thì chỉ có Y báo. Trong Tam thừa,
Khí thế gian tuy là do Thức vốn có và gương trí đã
hiện bày, mà chỉ là Y báo
thâu nhiếp. Nếu theo trong Viên giáo thì gồm chung ba thế gian, bởi vì
Phật Lô-xá-na có thân quốc độ…, cho nên thế giới đều là thân
Phật. Lại có thế giới hình thể chúng sinh…, cho
nên chúng sinh tức là thế giới. Đây đều là bởi vì y-chánh tự nhiên dung hợp vô ngại, bởi vì
ngay trong nhau tự tại.

Người và pháp: Tiểu
thừa không phải là người và pháp.
Tam thừa có thể có nghóa là pháp môn. Nhất thừa có
đủ, là Phật-Phổ Hiền và chúng
sinh… vốn chỉ là người, hoặc các thế giới vốn đều là pháp môn.
Như văn nói: Hình thể vi diệu thanh tịnh tiến vào cửa của vô lượng
Chánh pháp. Đây là trình bày về thế giới… đều là pháp môn.

Vô ngại: Tiểu
thừa thì thế giới chỉ là sự tướng, trên đó chỉ có
Lý như Khổ-Vô thường-Không-Vô ngã… Trong Tam
thừa thì cõi pháp
tánh chỉ là Lý, còn lại đều là Sự. Nhưng hai
tông trên, Lý và Sự không
phải là một-không phải là khác, cho nên gọi là vô ngại.

Nếu trong Nhất thừa thì tóm lược có mười lớp:
1) Tình sự vô ngại, nghóa là thuận theo tình hiển bày rõ ràng sự việc vượt ra ngoài tình thức, văn nói: Dụ như huyễn không có nơi chốn, đều từ
vọng tưởng sinh ra.

2) Lý sự vô ngại, nghóa là hoàn toàn giống như Chân tánh mà tướng của quốc độ
rõ ràng, văn nói: Pháp giới không có thể hoại,
Liên Hoa thế giới hải…
3) Tương nhập vô ngại, nghóa là văn nói: Dùng một
cõi Phật đầy khắp mười
phương, mười phương đưa vào một cũng không
sót lại gì…
4) Tương tức vô ngại, nghóa là văn nói: Vô lượng thế giới tức là một thế giới.
5) Trùng hiện vô ngại, nghóa là ở trong trần thấy tất cả các cõi, trong cõi ở trong trần thấy cõi cũng như vậy, như vậy trùng trùng như Nhân-đà-la
võng.
6) Chủ bạn vô ngại, phàm là một thế giới nhất định phải có tất cả, dùng làm quyến thuộc.
7) Thể Dụng vô ngại, nghóa là một
sát hải nhất định phải có Đại Dụng, hướng về cơ thuyết
pháp.
8-Ẩn hiển vô ngại, nghóa là nhiễm tịnh ẩn hiện, dị loại ẩn hiện…, dựa theo duyên Định có thể biết.
9-Thời xứ vô ngại, nghóa là hoặc ở một cõi hiện rõ thời kiếp ba đời, hoặc trong một niệm hiện rõ vô lượng cõi, vô ngại như vậy.
10) Thành hoại vô ngại, nghóa là Thành ngay trong Hoại, Hoại ngay trong Thành…, hiển hiện vô ngại tự tại khó biết,
 vượt quá tình thức suy nghó. Mười vô ngại này đồng thời đầy đủ, thuận theo
dùng sáu tướng phương
tiện mà hội tụ dung hòa. Nghóa về mười thế giới
sơ lược phân rõ như
vậy, các nghóa tướng còn lại tùy theo văn sẽ hiển bày rõ ràng.

Trong phần hai là dựa vào chương riêng biệt để giải thích.
Trong mười môn, môn thứ nhất không
giải thích, bởi vì giải thích chín môn
còn lại tức là thuyết
giảng. Trong văn, trước là giải thích về tám môn
đầu, sau là giải thích
về môn thứ mười. Trong phần trước, bảy môn đầu
đều có hai, đó là
trường hàng và kệ tụng, văn phần đầu không có tụng.

Trong phần đầu, trong trường hàng có bốn:
1) Nêu ra;
2) Thành tựu;
3) Phân rõ;
4) Kết luận. Tất cả thế giới Hải,
 là bởi vì ba loại ấy tất cả đều không phải là một.
 Đã thành tựu…: Một là bởi vì các duyên này gồm chung thành tựu tất cả thế giới trong ba đời,
 mà các thế giới đã thành và chưa thành đều khác nhau. Hai là thành tựu một thế giới tức
là gồm chung ba đời,
trước là duyên gồm chung mà giới riêng biệt, sau
là giới gồm chung mà
duyên riêng biệt, suy nghó về điều đó. Đây là
dựa theo Nhất thừa.

Trong tám duyên:
1) Sau đạt được thông tuệ.
2) Pháp duyên
khởi vốn như vậy.
3) Đã thay đổi nghiệp lực.
4) Hạnh Bồ-tát đầy đủ, thuận theo ở cõi ấy mà được thành Phật, tức là nhờ vào lực này mà cõi ấy được thành tựu.
5) Nhân rộng khắp thành tựu.
6) Bồ-tát bởi vì trang nghiêm thanh tịnh không để sót cõi nào cho nên tu nguyện hạnh, cõi tùy theo nguyện hạnh dung nạp
duy trì vô ngại cho nên nói là giải thoát tự tại.

7) Chánh nhân của Đại Giác.
8) Nguyện thâu nhiếp khắp nơi thành tựu. Nhưng trong tám
duyên này, bốn duyên đầu là Quyền thành tựu, bởi
vì tướng thô ấy cho nên
cũng gồm chung pháp nhiễm; bốn duyên sau
là dựa theo Thật thành
tựu, bởi vì tướng vi tế ấy cho nên chỉ là tịnh,
như kinh nói: “Cõi này
của Ta thường an ổn…, mà một thế giới thì vốn
có đủ thô và tế.”
Lại trong tám duyên này gồm có bốn cặp:
1) Duyên thứ nhất
và thứ bảy dựa theo
Phật để trình bày về Quyền-Thật.
2) Duyên thứ
tám và thứ năm riêng
biệt dựa theo Phổ Hiền để trình bày về
Quyền-Thật, bởi vì duyên
thứ tám là vì chúng sinh.
3) Duyên thứ tư và thứ
sáu gồm chung dựa theo tất cả Bồ-tát để trình bày
về Quyền-Thật.
4) Duyên thứ hai và thứ ba dựa
theo Lý-Sự làm Quyền-Thật, bởi vì nghiệp hạnh vốn
là duyên thành tựu không thật. Vì sao phải có đủ
bốn duyên như
vậy? Nghóa là Đức Phật
làm giáo chủ, Phổ Hiền là trợ giúp giáo hóa,
Bồ-tát và chúng sinh là
tiếp nhận giáo hóa. Trong hai cặp đầu, nếu không
có Quyền thì không thể
đến với chúng sinh, nếu không có Thật thì
không thể thích hợp với
Chân. Trong hai cặp sau, nghiệp báo của chúng
sinh duyên vào hư giả lại cần phải có Chân tánh để nương tựa.
Trần số nhân duyên như tám loại như vậy làm thành một thế giới, đều không
hề chướng ngại lẫn
nhau, toàn Thể thâu nhiếp khắp nơi, tạo tác-không tạo tác đều như tánh
duyên khởi, tức là
Không-tức là Hữu, tức là một-tức
là nhiều, dung hòa không
có phân biệt, suy nghó về điều đó; mỗi một
thế giới khác đều dựa theo đó.
Trong tụng có hai mươi kệ phân
làm bảy: Một, bốn kệ tụng về
thần lực của Đức Phật
trước đây, trong đó một là cõi dựa vào gương trí
hiện rõ, hai là cõi dùng
hạnh tu tập thành tựu, ba là hóa hiện Bồ-tát, bốn là giác ngộ
chúng sinh. Hai, bốn kệ về
Bồ-tát thuận theo đạt được đạo lực, trong đó một là nửa kệ trước trình bày về nhân của hành, nửa kệ
sau trình bày về quả của trí, Độ giống như Đáo; hai là nửa kệ trước trình bày về nhân của cõi, nửa kệ
sau phát khởi về quả của cõi; ba là nửa kệ trước dựa vào Chánh nhân thành tựu, nửa kệ
sau trình bày chứng về cảnh
tiến vào quả của
Y-Chánh; bốn là nửa kệ trước về quả rộng khắp, nửa
kệ sau về nhân
lâu dài. Ba, hai kệ tụng về nghiệp lực của
chúng sinh.
Bốn, hai kệ tụng về lực nguyện hạnh của Bồ-tát làm trang nghiêm thanh
tịnh cõi Phật. Năm, hai
kệ tụng về lực thiện căn của Phổ Hiền. Sáu, bốn
kệ tụng về nguyện lực
tự tại của Phổ Hiền. Bảy, hai kệ tụng về Y quả
của Phật, tụng này tổng
quát gồm chung nghóa khác nhau của duyên
khởi, tức là bởi vì
pháp như vậy, cho nên không tụng riêng biệt.

Trong thứ hai là Trú, trong trường hàng có hai: Một là nêu ra đầy

đủ số, nghóa
là phàm một thế giới thì có đủ sát trần sở y như vậy,
cho nên nói là mỗi một.
Hai là tóm lược nêu ra bảy sự việc:
1) Dựa vào lực thiện căn thanh tịnh mà trú;
2) Dựa vào vô ngại;
3) Dựa vào vật báu Như ý, hoặc là tất cả vật báu;
4) Dựa vào thông
suốt rõ ràng;
5) Dựa vào lực của duyên khởi;
6) Dựa vào duy trì Pháp thân;
7) Dựa vào
nguyện pháp giới. Theo trong
Trí Luận, Ma-ha gọi là Đại, Na gọi là Vô,
Già gọi là Tội. Đây là
giải thích dựa theo nghóa về không có sai lầm. Lại nói: Hoặc gọi là Đại
Tượng (voi lớn), tức là nhiều
sức lực trong loài
sống trên đất liền; hoặc gọi là Đại
Long (rồng lớn), tức là nhiều
sức lực trong loài
sống dưới nước. Lại ban đầu như khéo léo điều phục voi có thể
phá tan quân địch là dựa
theo Tự lợi, về sau như rồng lớn tuôn mưa là
dựa theo Lợi tha.

Trong tụng có mười sáu kệ rưỡi phân làm chín: Một, một kệ
tụng về dựa vào trang
nghiêm trú; hai, một kệ tụng về hư không trú; ba,
hai kệ tụng về vật báu
trú; bốn, một kệ tụng về ánh sáng của Đức Phật, đó gọi là
uy thần; năm, một kệ tụng về
Lực só; sáu, năm kệ tụng về
sát trần trong phần nêu ra trước đây, dựa vào trong tụng này giống như lược
bớt; bảy, hai kệ tụng
về nghiệp huyễn; tám, một kệ tụng về nguyện lực
của Phổ Hiền; chín, hai kệ rưỡi tụng gồm chung hiển bày về tướng an
trú Nhân-đà-la võng, kệ
đầu trong một mảy trần hiện rõ y-chánh, một
kệ rưỡi sau tương tự
nhiều mảy trần, có thể biết.
Trong thứ ba là Hình, trong trường hàng riêng biệt nêu ra bảy loại: Loại thứ nhất-thứ tư và thứ bảy ngay nơi tướng phân rõ về
hình dáng, hai loại thứ
năm-thứ sáu dựa theo dụ để hiển bày về hình
dáng.
1)Vuông như cái đấu;
2) Tròn như hạt châu;
3) Không phải hình vuông mà là hình bốn góc;
4) Không phải hình tròn mà là hình tám góc;
5) Hình xoáy nước;
6) Hình hoa;
7) Hình chúng sinh thì có hai nghóa, một là có thế giới tựa như hình thể chúng sinh, hai là ngay các loại chúng
sinh đều là thế giới,
như tám vạn hộ trùng trong thân, mỗi hộ trùng có chín ức
con trùng…, đây tức là thế giới, dựa theo văn
sau cũng là nơi
Đức Phật Lô-xá-na
chuyển pháp luân. Vì vậy trong văn chỉ nói Chúng sinh hình chứ không nói Như chúng
sinh hình, cho nên biết đã lấy chúng
sinh làm cõi (giới), mỗi
một hình loại như vậy đều có khắp nơi pháp giới.
Trong tụng có mười bảy kệ rưỡi phân
làm hai: Một, ba kệ đầu chính thức tụng về văn
trước đây; hai, mười bốn kệ rưỡi trình bày về
đức dụng của cõi (sát).

Trong phần một: Một là một
kệ tụng về số tổng quát trước đây; hai là một kệ tụng về hình thể riêng biệt trước đây, chỉ tụng về bốn loại đầu, lược bớt không có bốn
loại sau, theo
Trí Luận thì ngọc
Ma-ni có tám cạnh, dụ cho hình
góc này; ba là một kệ, nửa kệ trước hiển bày
về nhân khác nhau, nửa kệ sau trình bày về tướng của quả.

Trong phần hai là đức dụng phân làm hai: Một,
sáu kệ rưỡi đầu trình bày về Đức tự tại;
hai, từ “Nhất mao khổng…” trở xuống là trình
bày về Dụng tự tại.

Trong một: Ba kệ đầu là
dựa theo Phật biểu hiện về cõi trình
bày có thể ứng cơ, một
là Thể thành tựu pháp môn, hai là Tướng hiển
bày đến trước cơ, ba
là ánh sáng của Phật Lô-xá-na chiếu rọi, đều là
Đức Phật vốn có. Ba kệ
rưỡi sau là dựa theo cơ đang ứng hiển bày về thành tựu
sai biệt, một là tâm-nghiệp của cơ khác nhau cảm đến cõi(độ)
nhiều hình thể, hai là cói Phật tự tại có thể tùy theo cảm mà hiện
bày khác nhau, ba là tuy ứng trở thành nhiễm-tịnh mà pháp lưu thông
không gián đoạn, bốn là nửa kệ
sau cuối kết luận về nghiệp nhiều trình bày
cảm đến hiện rõ khó suy lường.
Trong hai là trình bày về cõi tự tại, có ba: Một là bốn kệ trình bày về y-chánh tự tại, hai là hai kệ đưa ra nhân ấy, ba là hai kệ kết
luận công dụng quy về
chủ. Trong một, hai kệ đầu về lỗ chân lông hiện
rõ cõi, Phật ở trong đó
vì chúng thuyết pháp, lỗ chân lông tức là trình bày về Chánh báo thâu nhiếp
Y báo, Phật trở lại trong lỗ chân lông
của mình; hai kệ sau là
trong mảy trần đã hiện rõ các loại hình thể của cõi, Phật cũng ở trong đó chuyển pháp luân khắp nơi,
 mảy trần là Y báo thâu nhiếp Chánh báo… Trong hai là đưa ra nhân ấy, do đâu mà
đạt được dung nạp duy
trì tự tại này?
1) Do lực thệ nguyện tự tại của Phật;

2) Do tâm nghiệp không thể nghó bàn của
chúng sinh, Huyễn dụ
cho tướng của cõi, Không
dụ cho vô ngại, vì thế hai ví dụ này dụ cho
một sự dung hòa với
nhau. Trong ba là kết luận quy về, kệ đầu nêu ra
Phật trong mảy trần, nửa
kệ tiếp nêu ra cõi trong mảy trần, nửa kệ sau
cuối chính thức kết luận quy về chủ.
Thứ tư là Thể, trong
trường hàng, trong riêng biệt có năm loại
đều dựa theo sự hiển
bày. Phàm là luận về Thể của cõi thì có năm lớp:
1) Chân như;
2) Chân trí;
3) Bổn thức;
4) Năm trần;
5) Các sự việc. Các sự việc tức là pháp môn, vốn dùng để ca ngợi, vì vậy trong văn phân rõ.
Trong tụng có mười hạnh:
1) Thể của hoa quý báu;
2) Thể của hơi nóng hư không;
3) Thể của ánh sáng rực rỡ;
4) Thể của ánh sáng điện và Thể của nguyện;
5) Thể của ngọc mặt trời;
6) Thể của hơi nóng quý báu và Thể của hóa;
7) Thể của Phật hóa;
8) Thể của tâm-nghiệp khởi lên, hoặc là nghiệp khởi tâm Hải thành tựu cõi, hoặc là tâm-ng- hiệp khởi lên cõi, hoặc là vọng niệm làm Thể;
9) Thể của ánh sáng nơi thân Phật;
10) Thể hóa nguyện của Phổ Hiền. Những hạnh này đều là tùy ý phát ra biện tài thuyết giảng, vốn không cần thứ tự.

Thứ năm là Trang nghiêm, trong trường hàng, trong riêng biệt có bốn:
1) Tướng mây nối thông;
2) Thực hành nghiệp nhiễm;
3) Nhân quả thanh tịnh;
4) Kết luận có thể biết. Trong tụng có mười kệ phân làm năm: Một, một kệ tụng về số tổng quát trước
đây. Hai, hai kệ tụng về mây trang nghiêm trước đây. Ba, một kệ tụng về nghiệp của chúng
sinh trang nghiêm trước đây.
Bốn, năm kệ tụng về
Phật trang nghiêm trước đây, trong đó hai kệ đầu là
Y báo trang nghiêm; một kệ tiếp là Chánh báo
trang nghiêm, nghóa
là Phật kể ra bằng chúng
sinh, hoặc là chúng sinh kể ra bằng Phật; hai
kệ tiếp là trang nghiêm
xen lẫn. Năm, một kệ sau cuối tụng về Phổ
Hiền trang nghiêm trước đây.

Thứ sáu là
Thanh tịnh, trong riêng biệt có năm:
1) Hành duyên thanh tịnh;
2) Tự lợi thanh tịnh;
3) Lợi tha thanh tịnh;
4) Hành đầy đủ thanh tịnh;
5) Đạt được phần vị thanh tịnh. Đều là thuận theo phần trước phát khởi phần sau, có thể biết.
Luận rộng về cõi thanh tịnh có bảy:
1) Đương Thể thanh tịnh, nghóa là dùng Thức thanh tịnh làm tướng…
2) Sự tướng thanh tịnh, nghóa là vật báu thanh tịnh…
3) Thọ dụng thanh tịnh, nghóa là thọ dụng cõi này
diệt trừ phiền não
thành tựu đức.
4) Trú xứ chúng sinh thanh tịnh, nghóa là chúng sinh có đức khắp nơi thế giới này, cho nên nói là thanh tịnh.
5) Chủ thanh tịnh, nghóa là cõi của Phật…
6) Hành thanh tịnh nhờ đó phát sinh, như văn nói do
vô lượng hành Hải đã tu tập…
7) Hành thanh tịnh tức là cõi, cho nên nói là thanh tịnh, bởi vì lấy hành làm nơi nương tựa, như văn có thể biết.

Trong tụng có chín kệ phân làm sáu: Một,
một kệ tụng về số
tổng quát trước đây;
hai, một kệ tụng về gần gũi thiện hữu; ba, hai kệ tụng về Tự lợi trước đây, một là
hành Tam-muội, hai là hành
Tín Nhẫn; bốn, một kệ tụng về
Lợi tha trước đây; năm, hai kệ tụng về hai hành đầy
đủ trước đây; sáu,
hai kệ tụng về lợi ích đạt được phần vị trước đây.

Thứ bảy là Phật xuất thế, trong riêng biệt có ba câu, câu đầu
dựa theo hiện thân rộng khắp mọi nơi, nghóa là dùng
một thân đầy khắp tất cả pháp giới sai biệt, mỗi
một xứ đều là thân hoàn toàn hiện rõ, bởi
vì cũng không phân thân,
cũng không có phạm vi giới hạn. Thọ mạng dài
ngắn, như Trí Luận nói: “Phật Tu-phiến-đa buổi sáng thành
đạo-buổi chiều diệt độ,
Ca-diếp bảy ngày, Thích-ca tám mươi tuổi…, đây gọi là
thọ mạng
ngắn ngủi; Di-lặc tám vạn tuổi, Di-đà tận cùng
toán số… là thọ mạng dài lâu, đều do cơ cảm cho nên dẫn đến như vậy.”
Lại câu đầu dựa theo tất cả nơi chốn hiện rõ, hai câu
sau dựa theo tất cả
thời gian hiện rõ, nghóa
là bởi vì dài-ngắn đầy đủ vốn là tất cả.

Hỏi: Nếu như
vậy thì nơi chốn sao không như vậy? Đáp: Bởi vì pháp giới
sai biệt gồm
chung nhiều-ít, gồm chung
có- không, cho nên nói
là đầy khắp (biến mãn).
Trong tụng có mười kệ: Đầu là ba kệ tụng về trường hàng
trước đây, một kệ đầu
tụng về tổng quát, một kệ tiếp tụng về thân khắp nơi, một kệ
sau cuối tụng
về dài-ngắn. Sau có bảy kệ trình bày về
Phật xuất hiện công dụng thù
thắng không có nơi chốn, trong này phân làm bảy: Một là một kệ về trang nghiêm quốc độ nhiều ít, hai là một kệ về
thuyết giảng giáo Thừa
nhiều ít, ba là một kệ về cứu giúp chúng sinh nhiều ít, bốn là một kệ về hóa hiện rộng hẹp, năm là một kệ về Viên âm ứng
với khắp nơi, sáu là
một kệ về chủ-bạn đầy đủ khắp nơi, bảy là một kệ
về biển rộng Từ Bi (Từ
hải) hiện bày khắp nơi tổng quát để kết luận.

Trong này, hoặc là thọ mạng ngắn ngủi độ nhiều
chúng sinh, hoặc là thọ mạng lâu dài độ ít
chúng sinh; hoặc là thọ mạng lâu dài độ
nhiều chúng sinh, hoặc là thọ mạng ngắn ngủi độ ít
chúng sinh; hoặc là thọ mạng ngắn ngủi thuyết về pháp
Tiểu thừa, hoặc ngược lại với
trước; hoặc là thọ mạng lâu dài thuyết về pháp
nhiều Thừa, hoặc ngược
lại với trước. Những điều như vậy cùng với pháp giới hư không bằng
nhau, đều là do lực của
biển rộng Từ Bi đã hiện rõ ra.
Trong thứ tám là Kiếp, lược bớt không có kệ tụng.
Trong tổng quát, kiếp trú như
trần số… thì không phải là mỗi một thế giới đều trú qua thời kiếp như
trần số, bởi vì kiếp trú của mỗi một thế giới
không giống nhau, dài ngắn
sai biệt như
trần số.
Từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt nêu ra hai môn, từ “Hữu như thị…” trở xuống là tổng quát
kết luận về kiếp sai
biệt, nghóa như giải thích riêng biệt.

Thứ chín là giải thích về môn thứ mười Hoại phương tiện thế giới Hải.
Nhưng Hoại có hai loại:
1) Thành tức là Hoại, bởi vì các duyên
đều vô tác, vốn là
tánh tự Hoại.
2) Tam tai Hoại, tức là Sự hoại. Nay trong văn này phân rõ về nghóa một sau trong kệ trùng tụng trình bày về nghóa hai.
Lại giải thích: Đầu tức là
Hoại Thành, sau tức là Thành
Hoại Hoại, cho nên gọi là phương tiện Hoại. Lại bởi vì
Hoại sau cũng thuận theo duyên
không có tánh. Vì sao cần phải cùng Hoại?
Bởi vì muốn khiến cho
thấy tâm không còn, bởi vì Thành-Hoại viên thông. Hỏi: Nếu như vậy thì cũng có thể Hoại đầu tức là không Thành cho nên
Thành Thành,
Hoại sau tức là không Hoại cho nên
Thành Hoại, vậy thì Hoại-Thành
đều Thành sao không như vậy?
Đáp: Lý
thật thì phải như vậy, nhưng bởi vì văn này giải thích về nghóa Hoại thuộc môn thứ mười, không phải là giải thích về Thành,
cho nên không phân rõ.

Trong văn có hai: Một, nêu
ra ý tổng quát nói cho biết, nghóa
là phân biệt về Hoa Tạng
để khai thị cho căn cơ; hai, chính thức trình
bày về pháp đã thuyết giảng.

Trong thuyết giảng có ba: Một
là nêu ra chủ phân rõ về nhân, hai từ “Hữu Tu-di trần đẳng…” trở xuống là trình bày về nhân đã
thành tựu quả, ba là nơi
này Đức Phật thường chuyển pháp luân kết luận
quả thuộc về chủ.
Trong phần một có hai: Trước là tổng quát phân rõ, nghóa là từ
lúc mới phát tâm đã
tu nhân này, trình bày về nhân sâu-quả dày. Hỏi:
Du-già luận nói: “Tất cả chư Phật phải trải qua ba
A-tăng-xí- da kiếp tu hành
thành Phật, không có thêm-không có bớt.”
Vì sao trong này lại nói
A-tăng-kỳ thế giới, mỗi một thế giới đều nghiền vụn
làm bụi trần, một bụi trần là một kiếp, dựa vào đây thì có Bất khả
thuyết A-tăng-kỳ kiếp, vì
sao không giống nhau? Đáp: Đó là dựa theo
Tam thừa, dựa vào
Hóa Nghi của một
phương, chỉ dựa vào thế giới
Tu-di Lâu-sơn này mà nói, vì vậy
kinh Bảo Vân nói: “Ta vì chúng
sinh cạn cợt mà nói tu hành trải qua ba
A-tăng-kỳ kiếp, nhưng Ta
thật sự đã tu hành trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp.” Đây là dựa theo hội tụ Tam thừa quy về Nhất thừa mà nói. Văn này
dựa theo Nhất thừa bao
gồm tất cả Nhân-đà-la võng… khắp mười phương và các loại thế giới như hình thể cây cối… mà nói. Lại là dựa theo
pháp để phân rõ về
thời gian, bởi vì pháp vô tận cho nên thời gian
cũng vô tận. Trong văn lại nếu ra mười
số Đại, trong đó lấy
số thứ nhất làm
quy phạm, cũng tức là
bao gồm dụ về Đế võng, cho nên cũng vô tận.

Hỏi: Nếu như
vậy thì một kiếp tức là vô tận, sao không chỉ nói
là một kiếp? Đáp: Bởi vì trong này vốn là vô tận vô tận, lại đức không có
gì không đầy đủ gọi
là Nghiêm, cấu nhiễm không có gì không trừ hết
gọi là Tịnh. Lại đầu
tức là phước trí tô điểm lẫn nhau, sau là Đoạn đức
lìa nhiễm. Lại cũng có
thể bởi vì Nghiêm tức là Tịnh Nghiêm.

Trong riêng biệt, luận rộng về nhân của cõi có hai loại:
1) Y nhân, đó là Thức thanh tịnh thuộc Chân như và gương Trí;
2) Sinh nhân, đó là các hạnh nguyện vi diệu. Nay dựa theo nghóa
sau
sơ lược đưa ra ba loại:

Một, Quảng phước; hai, Đại nguyện; ba, Diệu hạnh.

Trong má»™t, má»—i
một kiếp là nhiều thời gian, trong mỗi một
kiếp cúng dường chư
Phật như trần số là nhiều nhân, lại là chư Phật cho
nên nhân sâu xa thù
thắng. Dựa theo phẩm Thập Địa sau thì cần phải có
tất cả vật dụng cúng
dường, tức là nhiều vật dụng cúng dường; dùng
tâm bậc Thượng-tâm sâu
xa, tức là tâm cúng dường rộng lớn. Văn này vốn còn lại tóm lược mà thôi. Dựa theo Địa Luận, cung kính cúng dường
đều có ba loại, nên tìm
trong văn của luận ấy. Tân Kim Cang Bát Nhã
luận quyển Thượng, cũng
có ba loại cúng dường:
1) Làm người hầu hạ hai bên;
2) Lo liệu chu đáo những vật dụng cần thiết;
3) Thưa hỏi tiếp nhận pháp yếu. Trong hai là
Nguyện, mỗi một kiếp là nhiều thời gian, mỗi một cõi Phật là nhiều duyên thù thắng, nguyện như trần
số là nhiều
nguyện. Nghóa là tự mình
phải dùng Đại thệ, mong muốn thành tựu quả này,
thì cần phải thề nguyện
kỳ hạn. Lại phước hạnh đã tu là mong mỏi
thành tựu quả này, tức
là mong mỏi thì cần phải nguyện cầu. Đối trước Đức Phật phát tâm rộng lớn là tu tập, chân thật lìa xa cấu nhiễm
là thanh tịnh. Lại trong mười
Đại nguyện, nguyện làm thanh tịnh cõi Phật và
các nguyện khác nên tìm trong luận.
Trong ba là
Diệu hạnh, tu tập qua nhiều thời gian, duyên
sâu rộng, thực hành nhiều việc làm, có thể biết. Cũng đối với duyên tiến đến thành tựu là tu tập, tu tập thành tựu lìa xa cấu nhiễm là
thanh tịnh. Đó
là các hành như mười
Độ-sáu Độ…, cho đến tất cả các hạnh. Lại trong
ba loại, đầu là Tự
lợi, sau là Lợi tha, giữa gồm chung Tự lợi-Lợi tha.
Lại cũng có thể đầy đủ bốn
loại nhiều, tức là là bốn Tu:
1) Trần số kiếp, tức là thời gian nhiều, là tu trải qua thời gian lâu dài;
2) Trần số Phật sở, tức là cúng dường nhiều Đức Phật, là tu hạnh cung kính;
3) Nơi mỗi một Đức Phật đều phát nguyện, tức là nhiều nguyện, là tu tập không gián đoạn, nghóa là nguyện và tâm nối tiếp nhau;
4) Trần số hạnh, tức là phát khởi nhiều hạnh, là tu tập không sót điều gì.
Trong phần hai trình bày về đã thành tựu quả, phân làm hai:
Trước là trình bày về thế giới chủ này, sau là phân rõ
kết luận nối thông.

Trong phần trước có ba: Một, hiển bày Thế giới này là nơi
nương tự duy trì; hai, từ “Thử Hương thủy hải
thượng hữu thế giới Tánh trú…” trở xuống trình bày về tầng tiếp theo hiển bày về chủng loại xen tạp của thế
giới Tánh; ba, từ
“Hương thủy hải danh
Lạc Quang Minh…” trở xuống lại tiếp tục
phân rõ về bảy thế giới Tánh-mười hai quốc độ
của Phật. Nhưng đây là
cảnh giới nhiếp hóa của Bổn Sư Phật, phạm vi mà

các giáo đã
nói khác nhau. Nếu trong Tiểu thừa thì chỉ có một thế
giới Ta-bà này.
Nếu Tam thừa thì có hai: Một là cảnh nhiếp hóa của
Hóa thân, đó là thế
giới Ta-bà này; hai là cảnh nhiếp hóa của Tha thọ
dụng thân, đó là mười tám Tịnh độ viên mãn…
Nếu dựa theo Nhất thừa
thì đó là cảnh nhiếp
hóa của mười Phật. Liên Hoa Tạng trang nghiêm thế giới Hải có ba loại:
1) Liên Hoa Đài Tạng thế giới tuy khắp nơi thế giới, nhưng đối với cơ Bồ-tát Địa thượng thì thấy có tăng giảm, nương vào đỉnh cõi Sắc chỉ nói là một cõi;
2) Ngay nơi Hoa Tạng khắp cả pháp giới này nói là mười để hiển bày về vô tận, tức là thế giới Hoa Tạng vô tận này, mỗi một thế giới đều khắp nơi pháp giới;
3) Thế giới tạp loại như hình thể cây cối…, mỗi một thế giới đều có Liên Hoa Tạng,
 đều tựa như thế giới kia, đều khắp nơi pháp giới, tất cả đều có mười, vô tận
vô tận. Trong ba loại này,
một loại đầu là dựa theo Đồng giáo Nhất thừa để phân rõ, hai loại
sau là dựa theo Biệt giáo để hiển bày mà thôi.
Nay trong văn này dựa vào trong thế giới
Tu-di sơn để phân rõ về
Hoa Tạng, vì vậy
Phong luân-Thủy luân vẫn tựa như cõi ấy, bởi vì dễ tin hiểu,
vốn là hợp với cơ mà thành.
Trong văn phần một phân hai: Một là riêng biệt hiển bày về tướng
trang nghiêm, hai từ
“Nhất nhất…” trở xuống là tổng quát để kết
luận. Trong phần một có
sáu:
1) Phân rõ về gió-nước-hoa-đất làm sở y căn bản;
2) Nói về núi-biển trang nghiêm… trên mặt đất;
3) Mặt đất có thể ánh hiện trang nghiêm;
4) Hương hải trang nghiêm trên mặt đất;
5) Hương hà trang nghiêm giữa biển;
6) Cây báu trang nghiêm giữa sông. Trong sáu đoạn này đều có hai, đó là trường hàng và kệ tụng.
Ngay trong phần trường hàng của đoạn một có năm: a) Phong lu-
ân duy trì vô ngại; b) Dựa vào Phong có Hương hải;
c) Dựa vào Hải có
hoa sen; d) Dựa vào Hoa có thế giới; e) Dựa vào Thế giới có núi vây quanh.

Văn phần a có ba: Đầu là
tổng quát, tiếp là riêng biệt, sau là
kết luận. Trong riêng
biệt, bảy loại đầu đều duy trì mặt đất báu (bảo
địa), trong này có hai nghóa: Một là trên một Phong luân có một mặt đất báu, theo thứ tự như vậy; hai là những mặt đất báu ấy đều vòng quanh ở
trên hoa sen. Nhưng lực của Phong này tùy theo môn duyên khởi khác
nhau, chủ thuộc về vô
ngại, tùy ý duy trì vốn là Phong thuộc pháp tánh.
Trong này Phong có hai nghóa:
1) Nghóa về Vô ngại;
2) Nghóa về có lực.Vì thế mà thành duyên khởi. Mặt đất
báu cũng có hai nghóa:

Nghóa về đáng quý;
2) Nghóa về nương tựa duy trì. Pháp môn như
Người-Pháp-Giải-Hạnh…, đều dựa theo đây.
Bát trì thời: Bởi vì thời

gian dựa vào
pháp mà lập ra, không có tự Thể cho nên nói là Trì.
Mặt đất núi Tu-di là nơi đã duy trì thế giới xen tạp,
sự việc xa vốn có
chủ nơi ấy ở văn sau.
Nhất thiết hữu: Một, như ba Hữu… trong các thế giới này; hai, cũng có thể bao gồm các
sự việc trang nghiêm trên mặt
đất báu này là Nhất thiết hữu.
Lại dùng nghóa tìm hiểu thì bảy loại trước theo thứ tự từ
Tế hướng đến Thô, chỉ
thuộc về duy trì đối với mặt đất báu; ba loại sau dần
dần duy trì về Thô, như
bốn Thời-ba Hữu… đã duy trì các thế giới Tánh ở văn sau.

Lại trong này
Phong luân thấp nhất vượt qua duy trì mặt đất
báu ở phía trên hoa,
Phong luân cao nhất tiếp theo bên cạnh duy trì
Hương hải ở phía dưới
hoa, vốn là hiển bày trên-dưới dung hòa tự tại vô ngại, bởi vì khác với Hàm liệt hải ở cõi nhiễm kia, cho nên nói là
Hương thủy hải. Hương có hai nghóa: Một là nghóa về lan tỏa rộng khắp, hai là nghóa về mùi thơm ngào ngạt. Thủy cũng có hai nghóa: Một là nghóa
về thanh tịnh, hai là nghóa về gột rửa. Hải cũng có hai nghóa: Một là
sâu rộng,
hai là đủ đức. Lại có
mười nghóa, như phần sau nói. Bởi vì có đủ
chủ-bạn, cho nên nói là Nhất Thiết.

Trong Hoa có
hai, câu đầu phân rõ về nghóa. Đại Liên Hoa,
trong Lương Nhiếp Luận có
bốn nghóa:
1) Như hoa sen thế gian ở trong bùn mà không nhuốm bẩn, ví như pháp giới Chân như ở thế gian không bị pháp thế gian làm cho nhuốm bẩn;
2) Như tánh của hoa sen tự nhiên nở rộ, ví như tự tánh Chân như khai ngộ chúng sinh, nếu chứng thì tự
tánh khai phát;
3) Như hoa sen được bầy ong hút mật, ví như Chân như được các bậc Thánh sử dụng;
4) Như hoa sen có bốn đức: a) Hương thơm, b) Thanh tịnh, c) Mềm mại, d) Đáng yêu. Ví như bốn đức của Chân như, đó là
Thường-Lạc-Ngã-Tịnh.
Những nghóa như vậy đều vốn là nghóa
về nương tựa(y chỉ).
Luận ấy lại dựa theo giải thích một lần nữa, đó là
do nguyện lực của Như Lai
mà cảm được, Đại Bảo Liên Hoa Vương
làm nơi nương tựa cho
Tịnh độ, tên gọi của Hoa Tạng vì thế mà lạp ra.

Câu sau về
Hương Tràng… là dựa vào nghóa mà lập thành tên gọi.

Tên gọi có bốn nghóa:

Một, Hương có hai nghóa:
1) Dựa theo Thể là nghóa về mùi
thơm ngào ngạt;
2) Dá»±a
theo Dụng là nghóa về lan tỏa khắp nơi. Hai, Tràng cũng có hai nghóa:
1) Dựa theo Thể là nghóa về một mình vượt ra;
2) Dựa theo Dụng là nghóa về hàng phục, như cột cao
của Đế Thích… Ba, Quang minh cũng có hai nghóa:
1) Nghóa về chiếu rọi bóng tối; Nghóa về hiện rõ giáo pháp.

Bốn, Trang nghiêm cũng có hai nghóa:
1) Nghóa về đầy đủ đức;
2) Nghóa về tô điểm lẫn nhau. Trong này, Hương tức là Tràng, Hương Tràng tức là Quang minh, Quang minh tức là Trang nghiêm, đều là
Trì nghiệp thích cũng gồm
chung Y chủ thích, dựa theo đó.

Sau là trình
bày hai câu về Sở Trì. Trong câu đầu, nghóa về
Hoa giống như trước. Tạng
là nghóa về hàm chứa thâu nhiếp, nghóa về
sinh ra, nghóa về đầy đủ đức.

Trong này luận chung có hai nghóa:
1) Bởi vì trong cõi này hàm chứa thâu nhiếp tất cả các pháp môn như Người-pháp…
2) Bởi vì hàm chứa thâu nhiếp tất cả các cõi khác. Câu sau về
Kim Cang cũng có hai nghóa:
1) Là nghóa về cứng rắn;
2) Là nghóa về sắc bén. Sơn cũng có hai nghóa:
1) Là nghóa về cao xa;
2) Là nghóa về yên lặng. Vi Nhiễu cũng có hai nghóa:
1) Là nghóa về bên trong thâu nhiếp lợi ích;
2) Là nghóa về bên ngoài phòng ngừa kẻ địch. Nghóa là dùng Kim Cang để ngăn cách kẻ địch bên ngoài không có thể xâm
nhập, công đức bên
trong được tăng trưởng.

Trong tụng có hai mươi kệ phân làm hai: Một
là bảy kệ tóm lược
tụng về văn trước đây, hai là mười ba kệ trình
bày về lợi ích của
Dụng thù thắng.

Trong phần một phân năm: Một
kệ đầu nêu rõ về Thể-Dụng
của quả, một kệ tiếp
tụng về phước thanh tịnh cúng dường Phật trong
nhân trước đây, hai kệ
tiếp tụng về Đại nguyện trước đây, một kệ tiếp
tụng về Phong luân duy trì
mặt đất báu trong quả trước đây, hai kệ tiếp tụng về Đại nguyện làm nhân của cõi trước đây. Vì vậy tùy ý phát ra biện
tài cho nên thuyết giảng
không cần thứ tự.

Trong phần hai là Dụng thù thắng có hai: Sáu
kệ trước trình bày về lợi ích của Dụng thuộc Y báo, bảy kệ
sau trình bày về lợi ích của
Dụng thuộc Chánh báo.
Trong phần trước
có hai: Một, trình bày về Dụng thù thắng có
bốn kệ, một là ánh
sáng của thế giới, hai là ánh sáng của Bồ-tát, ba là
ánh sáng của sắc hoa,
bốn là ánh sáng của vật báu thanh tịnh. Đều là
ánh sáng của pháp như
Trí…, cho nên có thể chiếu rọi khắp nơi pháp
giới. Hai, có hai kệ trình
bày về tướng của lợi ích, một là diệt trừ phiền
não thành tựu công đức,
hai là nhìn thấy pháp giới như Đế võng.

Trong phần sau là lợi ích của Dụng thuộc Chánh báo cũng có hai:

Một, trình bày về Dụng thù thắng có hai kệ, một là trình bày về
Dụng của Phật ở ngoài cõi, hai là trình bày về Dụng của Phật ở trong
Hoa. Lại trong ngọc châu
trước đây là Bồ-tát khắp nơi mười phương, ở
đây thì trong hoa là chư
Phật giống như chúng sinh giới, bởi vì y-chánh
vô ngại. Hai, trình bày
về tướng của lợi ích, trong đó có năm: Một là nêu rõ về cơ đã được lợi ích, hai là phát khởi giáo pháp khắp nơi, ba là
khéo léo điều phục căn
cơ, bốn là khiến cho trú vào Đoạn đức của Tự
phần, năm là khiến cho
nghe được Trí đức về thắng tiến.

Hỏi: Sao không
nói là chư Phật thuyết pháp mà nói ở ánh
sáng- mây…?

Đáp: Bởi vì
đây là trình bày về Dụng của cõi cho nên như vậy. Hỏi: Nếu như vậy thì vì
sao phân rõ về ánh
sáng của
Phật…? Đáp:
Bởi vì y-chánh viên dung, cho nên Phật cũng là cõi. Hỏi: Trong này ý phân rõ về
Hoa Tạng Giới, vì
sao lại nói đến
các hóa dụng xen tạp?

Đáp: Có hai
nghóa: Một, bởi vì đây là Dụng của cõi cho nên phân rõ về Dụng để hiển bày
về Thể; hai, ngay nơi hóa dụng này là
y-chánh cho nên tức là cõi.

Hỏi: Vì sao
cùng với trường hàng không giống nhau? Đáp: Bởi vì trong trường hàng tóm lược nêu ra, trong tụng
mở rộng hiển bày.
Đoạn thứ
hai, tổng quát trình bày về biển-mặt đất trang
nghiêm dưới núi, trường hàng có
năm câu: Một, hai câu hiển bày về tên gọi
của mặt đất, đó là mặt đất trước mặt của đài hoa
sen làm bằng vật báu
chúa. Hai, trình bày về
mặt đất giữ yên biển. Ba, tướng của mặt đất đầy
đủ đức. Bốn, Thể của
mặt đất kiên cố. Năm, trình bày về Dụng thù
thắng của mặt đất. Trong
đó câu đầu là đưa ra Pháp Bảo, câu sau là khởi
lên Trí soi chiếu.

Trong tụng có mười kệ phân làm hai: Đầu
là sáu kệ trình bày
về các đức trang nghiêm,
sau là bốn kệ trình bày về pháp hành trang
ng- hiêm. Lại đầu là
Thể đầy đủ các đức, sau là trình bày về Diệu dụng
tự tại. Lại đầu là Y,
sau là Chánh. Lại đầu là sự tướng trang nghiêm,
sau là pháp lý trang
nghiêm. Lại đầu là pháp, sau là người. Lại đầu là
tụng về văn trước đây,
sau là trình bày về nghóa khác, đều có thể biết.

Trong phần đầu: Một kệ đầu tổng quát phân rõ về nhân
trang nghiêm. Hai kệ tiếp
tụng về mặt đất và núi trước đây, trong đó một
kệ đầu nêu ra, nghóa là
vòng quý báu-vòng hương thơm làm trang nghiêm phía trên núi, vòng châu ngọc và các vật báu dựa vào phía dưới núi,
một kệ
sau là
giải thích, nghóa là hai câu đầu giải thích về vòng quý báu trang nghiêm trước đây, một câu tiếp hiển bày về vòng hương
thơm trước đây, một
câu sau cuối phân rõ về nghóa của trang nghiêm.
Tiếng Phạm gọi là
Chước-ca-la, Trung Hoa nói là Luân Vi Sơn. Một kệ
tiếp tụng về Thể-Tướng
trang nghiêm trước đây, đó là đầu Thể-sau
Tướng. Một kệ tiếp tụng về Hương thủy hải trước đây. Một kệ tiếp tụng về Dụng thù thắng của mặt đất trước đây, cũng là trên mặt đất báu bên
bờ biển thì có cây
báu, trên tòa báu dưới tán cây báu có thân của
Phật và Bồ-tát.

Bốn kệ trong phần sau: Một
kệ đầu tổng quát trình bày về
Pháp luân của thân-ngữ.
Hai kệ tiếp riêng biệt phân rõ về
thân-sắc-y-chánh vô
ngại, trong đó đầu là một Đức Phật hiện rõ
trong nhiều đồ vật trang nghiêm, tiếp là nhiều Đức
Phật hiện rõ trong một đồ vật trang nghiêm, tức là điều hòa đồ vật làm pháp luân. Lại trước đây trong hoa
hương phan cái, Bồ-tát
đầy khắp pháp giới; ở đây thì trong tràng báu-cây
báu trang nghiêm, các thân
của chư Phật như mây đầy khắp mười
phương, đều lấy Chánh
báo làm Y báo. Một kệ sau cuối riêng biệt hiển bày
về Pháp luân của ngữ
trước đây, đây tức là cõi thuyết giảng.
Trên đây là gồm chung ba thế gian viên dung vô ngại, hễ tiến vào một môn thì đều có đủ tất cả, cho nên dẫn đến như vậy. Lại các văn trường hàng đã nói như vậy là
sắp xếp theo thứ tự ấy, khiến cho tùy
theo sự việc phát
sinh hiểu biết; trong kệ đã tụng thì dung hòa từ đầu
đến cuối, viên thông vô
ngại thuận với pháp tánh. Trường hàng dùng
pháp đến với cơ, kệ
tụng hội tụ cơ quy về pháp, tướng khéo léo làm đẹp
lẫn nhau của người soạn văn, nên biết.
Đoạn thứ ba là ngọc báu trang nghiêm bên trong, trong
trường hàng có sáu
câu: Câu thứ nhất hiển bày về tên gọi của vật báu,
nghóa là núi làm tường
thành bên ngoài, thế giới ở bên trong, cho nên nói là Nội, không phải ở trong núi là Nội. Nói là không thể hoại có bốn nghóa:

1) Thể không thể hủy hoại, bởi vì đó là Kim Cang Ma-ni.
2) Đức không thể hủy hoại, nghóa là tích trữ thâu nhiếp nhiều vật báu cùng ở trong mình, các vật báu không phá hỏng nhau,
 bởi vì không có tướng cho nên không so sánh làm mất lẫn nhau, tự mình cũng không hủy hoại bởi
vì không hai.
3) Dụng không
thể hủy hoại, nghóa là các vật báu rất
nhiều không làm cho nhau
mất đi.
4) Phản chiếu không thể hủy hoại,
 nghóa là ánh hiện nhiều thân không có thể làm hỏng mất đi,
 nơi hiện bày lại hiện bày không làm trở ngại lẫn nhau.
 Câu thứ hai phân rõ về Dụng thù thắng của ngọc châu, nghóa là trong
suốt
sáng ngời cho nên luôn
luôn hiện bày, trong này ánh hiện là chủ động hiện bày, hình ảnh là thụ động hiện bày.
Vì sao không hiện bày chư Phật và những cõi khác?
Bởi vì đó không phải
là những gì đã giáo hóa. Nếu như vậy thì sao
không hiện bày tâm niệm?
Đó là bởi vì không phải Sắc pháp cho nên không có nghóa về hiện bày.
Câu thứ ba, trong mặt đất trang nghiêm bằng hoa báu để làm
trang nghiêm, là gồm chung hai câu trên, cùng trang
nghiêm mặt đất. Câu thứ
tư là mây trang nghiêm. Câu thứ năm là hương
thơm trang nghiêm. Câu thứ
sáu là ba đời
trang nghiêm, nghóa là chư
Phật ba đời trang nghiêm Hoa
Tạng Giới đều giống như vậy.
Lại bởi vì trang nghiêm này cũng giống với ba đời. Lại bởi vì
Thể của Tạng đã trang nghiêm gồm chung ba đời, dù cho ở hiện tại
dùng một hoa để trang
nghiêm, nhưng bởi vì giống như đã trang nghiêm
cho nên vẫn gồm chung ba
đời, thì biết một hoa-một vòng hoa đều khắp
cả ba đời, ba đời cùng
hiện bày, đều có đủ quá khứ-vị lai, tức là bao
gồm chín đời.
Nhưng Dó là giống như Dụng, cho dù cõi đã trang nghiêm chỉ ở trong một niệm dùng tất cả đồ vật trang nghiêm ở trong ba đời mà
trang nghiêm, thì thụ động
trang nghiêm giống như chủ động trang
nghiêm mà khắp cả ba
thời gian. Lại cũng có thể chủ động-thụ động cùng một niệm tức là vốn có chín đời,
 tất cả hòa vào ngay trong nhau cho nên đầy đủ mười đời, để hiển bày về vô tận. Đối với bốn cách giải
thích trên,
ba cách sau là hơn hẳn.
Trong tụng có mười kệ phân làm bốn: Một có một kệ rưỡi
tụng về Ma-ni bất hoại
trước đây, hai có hai kệ rưỡi tụng về hoa báu
trang nghiêm, ba có một kệ
tụng về mây trang nghiêm, bốn có năm kệ tụng về trang nghiêm cõi ba đời.
Trong đó, một kệ đầu là mặt đất hiện rõ về hành ba đời, một kệ tiếp là trần
số mặt đất cùng hòa vào cõi, một kệ tiếp là Bồ-tát thọ dụng
trang nghiêm, một kệ tiếp là
Thể-Dụng về
pháp của Phật trang
nghiêm, một kệ tiếp là đạt được nguyện của Phổ
Hiền và trí của Phật có
thể tiến vào nhiều cõi.

Trong đoạn thứ tư là Hương hải trang nghiêm, trong trường hàng riêng biệt có mười bốn câu:
1) Hương bên bờ quý báu;
2) Lưới giăng quý báu che phủ;
3) Nước quý báu tràn đầy;
4) Hoa quý báu nở rộ;
5) Mạt hương thơm lừng nước ấy;
6) Phát ra Phật âm;
7) Hương thơm lan tỏa khắp nơi, nghóa là nơi giáo pháp tỏa đến;
8) Bậc thềm đường đi quý báu, nghóa là bậc thang tiến vào pháp;
9) Lan can châu ngọc, nghóa là ngăn ngừa sai trái bên ngoài, giữ gìn công đức bên trong;
10) Tiếng sóng rào rạt;
11) Lầu hoa vây quanh;
12) Thành hoa vòng quanh bên ngoài;
13) Hoa thơm rải khắp mặt nước;
14) Cây thơm làm trang nghiêm. Tất cả đều tức là sự-tức là pháp, có thể dựa
theo suy nghó.
Trong tụng có mười kệ: Một là tụng về biển; hai là tụng
về bờ biển; ba là tụng về nước và
Phật âm; bốn là tụng về bậc thềm
và lan can; năm là tụng về cây quý báu;
sáu là tụng về hoa trên mặt
nước, Phân-đà-lợi
Trung Hoa gọi là
Bạch Liên Hoa; bảy là tụng về lưới
giăng quý báu; tám là
tụng về thành bằng hoa quý báu; chín là tụng về dùng để bao quanh bên
ngoài thành; mười là nêu ra nhân để kết
luận về thành tựu.
Trong đoạn thứ năm là Hương hà
trang nghiêm, trong trường hàng riêng biệt có ba câu:
1) Hoa che phủ;
2) NÆ¡i sinh ra;
3) Thuận theo dòng. Bởi vì y-chánh
vô ngại, từ Phật phát ra, là biểu thị về Chánh
báo cho nên từ giữa
chặng mày phát ra, nghóa là dòng sông giáo pháp
tuôn chảy tưới thấm
vốn từ chứng trí mà phát ra. Nhưng giáo pháp kèm
theo nghóa về Chân, cho nên
vật báu chúa thuận theo dòng chảy mà
không mất đi Chân tánh,
tức là tùy duyên bất biến, chính là không hai.

Trong tụng có mười kệ: Một
là tổng quát trình bày về tướng
của sông; hai là bờ bến
trang nghiêm; ba là nước thơm chảy tràn; bốn là
do vòng đi vòng lại mà
đến; năm là vật báu hiện ra tự nhiên; sáu là
Thể của sông rộng khắp;
bảy là lưới giăng diễn nói về tu nhân; tám là
bên bờ nghe về công
hạnh của quả; chín là Dụng của sông từ nhân mà
tỏa ra; mười là sông vốn từ quả.
Trong đoạn thứ
sáu là cây quý báu, trong trường hàng có năm câu:

Trình bày về
Thể của cây, nghóa là cây rừng pháp vô lậu…, tức là
nghóa về các đức kiến lập;
2) Màn che quý báu phủ kín, tức là Đại Từ che phủ khắp nơi;
3) Do lực của nhân mà khởi lên;
4) Đức của quả gia hộ thành tựu;
5) Cùng tận phạm vi trang nghiêm. Trong tụng có hai kệ: Một kệ đầu tụng về hành tự tại của quả,
 một kệ sau tụng về do nhân hạnh mà khởi lên. Lại hai kệ này tức là cây,
bởi vì người và pháp vô ngại.

Trong phần hai
là tổng quát để kết luận, bởi vì phạm vi của
cảnh rất nhiều, nói riêng biệt khó mà hết được, cho nên tổng quát nói là
mỗi một. Nhưng sự việc
trang nghiêm ở trong một cảnh hãy còn nhiều,
cho nên tổng quát nói là
trần số. Lại trang nghiêm riêng biệt khó mà
làm sáng tỏ, cho nên gồm
chung nói là Thanh tịnh, có thể biết.
Đoạn lớn thứ hai là trình bày về tầng thứ hai, dựa vào các thế
giới Tánh xen tạp đã
duy trì trên các Hương hải bên trong đài hoa sen
trước đây. Ở trong
trường hàng, trước là tổng quát, sau là riêng biệt.

Trong riêng biệt, trước là phân rõ về trú vào nơi nương tựa có

sáu câu,
sau là hiển bày về hình thể chủ động nương tựa có chín
câu. Trong này, thế giới
Tánh nghóa là tập hợp thế giới thành Tánh, tập
hợp Tánh thành Hải…,
như trên đã dẫn ra Trí Luận giải thích. Lại văn
sau này ở trong thế giới
Hải có thế giới Tánh, trong thế giới Tánh có
một thế giới…, cho nên biết do tập hợp mà thành.
Vì sao gọi là Tánh, có
hai nghóa:
1) Hướng về các cõi trước đây thâu nhiếp các chủng loại tương tự tập hợp kết lại thành Tánh, như thói quen lâu ngày thành tánh…;
2) Hướng về Hải… sau này bởi vì có nghóa làm nhân, cho nên cũng có thể gọi là Tánh. Hỏi: Tập hợp
Giới thành Tánh, Giới cũng có nghóa về nhân,
sao không gọi là Tánh? Đáp: Bởi vì không có dung hòa kết hợp cho nên thiếu đi nghóa thứ nhất.

Hỏi: Trong mười thế giới, Hải hướng về sau cũng tập hợp
thành
Giới khác,
sao không gọi là Tánh?

Đáp: Ban đầu
tập hợp thâu nhiếp kết lại rồi có thể gọi là
Tánh, về sau tách ra nghóa
khác chuyển sang lập thành tên gọi riêng biệt
cho nên không gọi là Tánh.

Trong tụng có mười kệ phân làm bốn: Một
có hai kệ tụng về Trú- Hình trước đây. Hai có ba
kệ trình bày về cõi có Sắc-Thanh trang
ng- hiêm, hiển bày về
Thể-Đức trọn vẹn đầy đủ. Ba có ba kệ trình bày
về các quốc độ ngay
trong nhau hòa vào nhau vô ngại, hiển bày về diệu dụng tự tại. Bốn có hai kệ trình bày về ba thế gian tự tại, tức là hiển
bày về Dụng nhiếp hóa
thù thắng y-chánh vô ngại.
Đoạn lớn thứ ba trình bày về các cõi duy trì mở rộng hướng
lên phía trên. Trong đó có hai: Một là nhắc lại về biển và hoa trên
biển trước đây, hai là
phân rõ về cõi và tánh duy trì.

Trong này, bảy
thế giới Tánh-mười hai quốc độ của Phật, có các vị giải thích là quốc độ ở mười phương bên ngoài
Hoa Tạng Giới, tường tận về văn ấy
sợ rằng không phải như vậy. Đã chọn lấy hoa sen
trong Hương hải bên trong
Hoa Tạng mà duy trì, cho nên biết là không
phải bên ngoài; hơn nữa ở văn
sau kết luận thuộc về
Phật Lô-xá-na, cho nên cũng không phải là bên ngoài.
Nhưng trong này ý chính là trình
bày trong các Hương hải
sơ lược nêu ra một Hải, trong một Hải đã duy trì mười phương cõi
sơ lược nêu ra
một phương, một phương đã như vậy nói không thể nào hết được, phương khác cũng như vậy. Một Hải đã duy trì mười phương vô tận đều khắp nơi pháp giới,
 mỗi một Hải khác đều duy trì mười phương đều khắp nơi pháp giới, viên dung vô ngại-tự tại vô tận
tức là Bất
khả thuyết-bất khả thuyết. Ý chính như vậy, nên suy nghó!
Trong phần hai là đã duy trì có hai: Đầu là
má»™t phÆ°Æ¡ng,
sau là
kết hợp mười phương.

Trong phần đầu có hai: Trước
là trình bày về mười hai tầng
quốc độ của Phật, sau
là phân rõ về bảy thế giới Tánh.
Mười hai quốc độ của
Phật này, có người dùng phối hợp với
12 nhân duyên, có người
phối hợp với 12 Trú của Bồ-tát…, giải thích
từng điều một, nghóa sợ rằng không phải như vậy,
lẽ nào bởi vì số 12
giống nhau thì liền phối
hợp để giải thích? Nhưng kinh này đã trình bày
đều thuận theo số 10 để
hiển bày về vô tận, cho dù có các số như

12-
7-8… thì cũng là số 10 mà tăng giảm,
 như Địa Luận giải thích, vẫn là số 10,
 lẽ nào có thể phối hợp hay sao?
 Hơn nữa nghóa lý lại khác nhau.
Vả lại, kinh này đã nói
về một Sự-một cõi đều khắp nơi pháp giới, đầy
đủ tất cả pháp môn như
tất cả người-pháp, giáo-nghóa, nhân-quả,
lý-sự…, không phải là thích hợp với một tướng, cho nên không thể dùng
một môn để giải thích,
các văn trước-sau đều dựa theo đây biết rõ. Hỏi: Nếu như vậy thì các văn trên đây vì
sao đều dùng
một-hai nghóa… để giải thích?
Đáp: Vẫn
dùng một của tất cả để giải thích cho nên không có
sai lầm, vì vậy hoặc một
mà không thiếu, hoặc nhiều mà không thêm, bởi vì thành văn cho nên bố trí theo
trước sau, rất cần phải đạt được ý,
nhiều ít vô ngại.

Vả lại luận rộng về Phật và cõi, lập ra tên gọi không giống
nhau, sơ lược dựa vào năm tướng:
1) Hoặc là dựa vào cơ cảm;
2) Hoặc là nhờ vào bổn nguyện của Phật;
3) Hoặc là dựa vào bổn hạnh;
4) Hoặc là Phật trước kia thọ ký riêng biệt;
5) Hoặc là biểu hiện rõ ràng về pháp môn. Trong này, Phật và quốc độ, y-chánh viên dung, có thể dùng nghóa của
pháp mà hiểu. Trần số Hương hải và thế giới
Tánh, dựa theo giải
thích có thể biết.
Lại có nghóa trên đây tổng hợp làm hai tầng: Đầu là phân rõ về
cõi Hoa Tạng của Đức
Phật này và thế giới Tánh đã duy trì; sau từ
“Thập nhị Phật độ…” trở xuống là phân rõ về cõi của Đức
Phật khác, cũng duy trì thế giới Tánh. Tổng hợp làm hai cặp cần phải
suy nghó. Kết luận
nối thông vè kết luận
thuộc về đều có thể biết.

Trong thứ hai
là trùng tụng có bảy mươi tụng, chỉ tụng về sự việc trong trường hàng thứ hai trước đây, không phải là tụng về mười thế giới Hải và
Hoa Tạng… trước đây, bởi vì những phần ấy đều có kệ.
Phần trùng tụng xong.
Bởi vì mười hai quốc độ của
Phật-bảy thế giới Tánh trước đây đều gồm có nghóa về mười
Hải này, vì vậy trong kệ tụng hiển bày về
tướng trạng ấy, mở
rộng và tóm lược cùng làm đẹp cho trường hàng ấy,
cũng giống như các văn trước đây.
Trong đó phân
làm hai: Một, chín tụng tổng quát tụng về văn
trước đây; hai, tụng
còn lại riêng biệt tụng về mười Hải trong phần trước.
Trong phần một có bốn:
1-Một tụng hiển bày về biển-cõi trong Hoa Tạng là chỗ dựa
căn bản;
2-Ba tụng tổng quát phân rõ về các cõi khác chủng loại là chủ động dựa vào;
3-Ba tụng sơ lược hiển bày về hình thể của cõi chủ động dựa vào;
4-Hai tụng gồm chung nêu ra Đại Dụng của cõi Phật.

Trong phần hai tụng về mười Hải, văn phân làm mười:

Có mười một kệ, tụng về thế giới hải phát khởi đầy đủ nhân
duyên, trong đó có bảy nhân duyên: Một, ba kệ đầu
tụng về nhân của
thần lực, trong này một kệ đầu là dựa vào gốc
không có hủy hoại, hai kệ
sau là tùy theo ngọn mà
thiếu đủ. Hai, từ “Như y chủng chủng…”
trở xuống có hai kệ tụng về nhân của nghiệp
chủng, một kệ đầu là báo
khác nhau, một kệ sau là nghiệp khác nhau. Ba, từ
“Thí như ý bảo…”
trở xuống có hai kệ tụng về nhân của nguyện
lực, một kệ đầu là dụ về ngọc châu quý báu hiện bày
màu sắc, một kệ
sau dụ về có thể hiện rõ mây giữa
hư không. Bốn, từ “Do như công huyễn…” trở xuống có một kệ tụng về nhân của
nghiệp huyễn. Năm, từ “Như kiến thái họa đẳng…” trở xuống có một kệ tụng về nhân của tâm
họa vẽ. Sáu, từ
“Chúng sinh tâm bất đồng…” trở xuống có một kệ tụng về nhân của
vọng tưởng. Bảy, từ “Do như kiến đạo sư…”
trở xuống có một kệ tụng về nhân của tâm hành. Bảy loại này khác nhau thế nào?
 Một là hiện bày uy thần, hai là chủng tử, ba là nguyện lực xưa kia, bốn là hành hiện
tại, năm là Thức vốn có hiện rõ, sáu là tướng
chuyển Thức, bảy là căn
khí ham muốn, vì thế mà khác nhau.

Từ “Vô lượng chân châu…” trở xuống có hai kệ, tụng về thế
giới Hải trang nghiêm.

Từ “Hoặc hữu Phật sát địa…” trở xuống có bốn
kệ, tụng về thế
giới Hải thanh tịnh. Trong đó, một kệ đầu chỉ
riêng nhiễm, hai kệ tiếp
cũng là nhiễm-cũng là tịnh, một kệ sau cuối chỉ
riêng tịnh. Bởi vì một kệ đầu là
chúng sinh, hai kệ tiếp là Bồ-tát, một kệ
sau cuối là chư Phật, do đó khiến cho quốc độ đã cư trú phát
sinh nhiễm-tịnh, ba loại này vốn
là dần dần hướng về tịnh.

Từ “Nhất Phật quốc độ trung…” trở xuống có bốn kệ, tụng về

thế giới
Hải hoại phương tiện, cũng là một kệ đầu chỉ riêng Hoại,
hai kệ tiếp cũng là
Thành cũng là Hoại, một kệ sau cuối chỉ riêng
Thành không có Hoại, bởi
vì nhiễm có thể hoại mà tịnh thì thường còn.

Từ “Hoặc hữu Phật sát khởi…” trở xuống có hai mươi kệ, tụng về thế giới Thể.
Trong đó, sáu kệ đầu hoàn toàn là
Thể của nhiễm-khổ,
bốn kệ tiếp là Thể của khổ-lạc xen tạp, mười
kệ sau hoàn toàn là
Thể của tịnh-lạc, trong đó năm kệ đầu là tùy theo
Sự phân rõ về Thể, năm
kệ sau là Diệu Dụng tự tại.

Từ “Hoặc vô lượng Phật độ…” trở xuống có ba
kệ, tụng về thế giới
Hải của Trú, trong đó một kệ đầu nêu ra hình thể của chủ động dựa
vào, hai kệ sau hiển bày về tướng Trú đã dựa vào.

Từ “Hoặc như sư tử tòa…” trở xuống có ba kệ,
tụng về thế
giới Hải của Hình.

Từ “Hoặc thọ mạng nhất kiếp…” trở xuống có hai kệ, tụng về
thế giới Hải của Kiếp.

Từ “Hoặc quốc độ vô Phật…” trở xuống có năm kệ, tụng về thế
giới Hải của Phật xuất thế. Trong đó, một kệ
đầu là tổng quát nêu ra, hai kệ tiếp là trình bày về Hóa thân thị hiện, một kệ tiếp là cơ thuần
thục không có lúc nào không hiện bày, một kệ
sau cuối là không phải
căn khí thì không có lúc nào có hiện bày.

Từ “Hoặc sát cực trược ác…” trở xuống có bảy kệ, tụng về thế
giới Hải của Thuyết. Trong đó, hai kệ đầu là âm
thanh của đường ác, hai kệ tiếp là âm thanh của
đường thiện, ba kệ
sau cuối là âm thanh
của Pháp luân.

Trên đây là tổng quát về tướng gồm chung đáp những câu hỏi
về quả trước đây, xong.
Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ hai phân rõ về nhân
đạt được quả, đáp tất cả các câu hỏi như tu hành Hải của
Bồ-tát trong câu
hỏi trước đây. Lại giải thích cũng là từ trong những thế giới Tánh trước
đây tách ra một thế
giới Tánh, hiển bày ba loại thế gian và năm Hải…
vốn có bên trong.

Trong văn phân làm bốn: Một,
nêu ra Thời-Xứ trước kia để phân rõ về Phật xuất thế là duyên của
tu hành; hai, từ “Bỉ Viêm
Quang thành…” trở xuống trình bày về Đồng tử
Phổ Trang Nghiêm là người
có thể tu hành; ba, từ
câu “Đồng tử kiến Phật…” trở xuống là phân rõ về đối duyên đích thực tu thành tựu hạnh của
tự phần; bốn, từ “Bỉ Phật diệt hậu…” trở xuống là trình bày về lại tiếp tục gặp Phật thành
tựu hạnh thắng tiến.
Trong phần một có bốn:
1) Nêu ra Thời trước đây;
2) Trình bày về Xứ trước đây;
3) Nơi chốn trong Xứ;
4) Phật xuất hiện trong nơi chốn. Trong phần hai là Xứ trước đây có bốn: a) Chọn lấy tánh trong Hải; b) Núi rừng trong Tánh; c) Tòa thành thù thắng ở phái Đông
của rừng, trong đó đầu
là Y báo thù thắng, sau là cọng đồng con người
thù thắng; d) Tòa thành
quyến thuộc trang nghiêm.

Trong phần ba là nơi chốn có hai: a)
Nơi chốn; b) Tòa hoa.
Trong phần bốn là Phật xuất hiện có hai: a)
Phật xuất hiện; b)
Phát ra ánh sáng làm lợi ích.
Trong phần hai là nêu ra người có thể tu hành, Vương có
Thiện Tuệ thuận với lý
khiến cho chúng sinh thích nhình thấy. Hỏi:
Trong kinh Niết-bàn tất cả
Luân Vương, đều xác định là ngàn người con không thêm không bớt, vì
sao trong này lại không
giống như vậy?
Đáp: Đó là
Luân Vương làm chủ của Tứ thiên hạ, dựa theo
Tam thừa mà nói; đây là
Luân Vương làm chủ của thế giới Tánh, cho
nên rộng rãi tường tận
so với vị kia. Như lưới giăng quý báu trắng
ngần…, nhờ phước của
một Hằng sa Kim Luân Vương mà cảm đến, đây là
dựa theo Nhất thừa mà
nói không giống nhau. Lại Vương và Trưởng tử
là phần Phước, Đồng
tử là phần Tuệ, vì vậy thành pháp khí mà tiến
vào đạo. Đức rộng
khắp pháp giới gọi là Phổ, Phổ-Đức tô điểm qua lại
với nhau là Nghiêm,
Nghiêm là Phổ, Phổ tức là Nghiêm, Đồng tử là Phổ- Nghiêm,
Phổ-Nghiêm tức là Đồng tử, đều gồm chung hai
cách giải thích.
Lìa nhiễm-trinh khiết biểu hiện là pháp khí của Đạo, cho nên
gọi là Đồng tử, như Văn Thù…
Trong phần ba là tu thành tựu hạnh của Tự phần có hai:
1-Thấy Đức Phật đạt được Định là bắt đầu của Tự phần;
2-Nghe kinh đạt được Định thành tựu cuối cùng của Tự phần. Trong phần một có bốn: a) Tự lợi đạt được Định; b) Kệ khuyến khích hóa độ
người khác; c) Vương hoan hỷ nói kệ bày tỏ; d)
Cùng nhau đến gặp Phật.
Trong phần a vốn là nhân duyên thiện căn công đức được gặp Phật, có ba
giải thích: Một, nhờ vào lực nhân duyên của thiện căn công đức được gặp Phật, đây là chỉ thuộc về lực
của cảnh. Hai, nhờ vào công đức được gặp Phật mà
sinh ra lực nhân duyên thiện căn, cho nên
đạt được Định. Ba, nhờ
vào công đức bên ngoài được gặp Phật làm
duyên, bên trong tự mình
xưa kia vốn có thiện căn làm nhân, nhân duyên
đầy đủ cho nên khiến đạt được Định.
Trong mười Định này, năm loại đầu là thành tựu về
Lợi tha:
1) Đầy đủ pháp của quả;
2) Tiến vào hạnh rộng khắp;
3) Khéo léo trở thành pháp khí trang nghiêm;
4) Đích thực lợi ích cho căn cơ;
5) Phạm vi của lợi ích. Năm loại sau là thành tựu về Tự lợi:
1) Thành tựu gia hạnh;
2) Tiến vào chính thức chứng;
3) Mở rộng Hậu trí;
4) Thuận với Niết-bàn;
Thuận với Bồ-đề. Lại một loại đầu tiên là tổng quát, chín loại còn lại
là riêng biệt, thuận theo giải thích có thể biết.

Trong phần b là khuyến khích khắp nơi: Đầu là nói kệ,
sau là
phạm vi của tiếng kệ.

Trong kệ, bốn kệ đầu ca ngợi về đức của
Phật khó gặp, ba kệ tiếp trình bày về gặp được trở thành lợi ích thù thắng, một kệ
sau cuối là
kết luận khuyến khích
phát khởi cúng dường.
Trong phần c là Vương hoan hỷ nói kệ bày tỏ có hai: Một là
Vương nghe hoan hỷ; hai là
kệ truyền tuyên bố sắc lệnh. Trong đó có ba: Đầu là một kệ đưa ra tuyên bố nói cho biết, tiếp là bảy kệ truyền lệnh
trang nghiêm phân rõ về cúng dường thù thắng,
sau cuối là một kệ khiến
cho phát khởi ý niệm đến gặp Phật.

Phần d cùng nhau đến gặp Phật có hai: Một
là Vương và quyến
thuộc bên trong; hai là tám Bộ quyến thuộc bên ngoài.

Trong phần hai là nghe kinh đạt được lợi ích, có ba:

Trình bày về tên gọi của kinh, nghóa là hành có thể hiện rõ quả,
nêu ra quả chọn lấy nhân, cho nên nói là hiện rõ
như nhau. Nếu thuận theo nghóa này thì chỉ dựa vào nhân.
Vả lại, Phật quy tụ ở Hội này tức là
hiển bày về hiện tại, đây là chỉ riêng quả.
Trong này, ba đời là ba hiện tại cho nên đã đầy đủ chín
đời-mười đời. Không như vậy thì quá khứ-vị
lai đã không có, làm sao nói là hiện tại? Đây
là Nhất thừa Viên
Giáo cho nên thâu nhiếp quyến thuộc mà thôi.

Đồng
tử đạt được lợi ích, trong đó có hai: Một, đạt được Định
là lợi ích thuộc về Tự lợi; hai, nói kệ là
lợi ích thuộc về Hóa tha. Trong phần một có bốn Định: Một là bao gồm tất
cả cảnh-pháp, hai là thâu nhiếp hòa vào với tâm, ba là hợp với pháp vô úy, bốn là Tuệ nhãn viên
minh. Trong phần hai là Lợi tha có hai: Đầu là nói
kệ, sau là đạt được
lợi ích. Trong kệ có ba: Đầu là một kệ tổng
quát, nghóa là nửa kệ trước tụng về Pháp nhãn Định trước đây, nửa kệ
sau tổng quát nêu ra do nhãn mà thấy; tiếp là bảy kệ phân rõ về
Bổn Sinh của Phật, nhờ Phật mà
được thấy; sau cuối là hai kệ riêng biệt thấy
chư Phật mà làm nhân tu
của chúng sinh, đạt được lợi ích có thể biết.

Như Lai khen ngợi nói ra chín kệ, trong đó phân làm năm:
Một là một kệ tổng quát khen ngợi Đồng tử, hai là
hai kệ riêng biệt thọ ký về
Chánh báo, ba là hai kệ riêng biệt thọ ký về Y quả, bốn là hai kệ
khen ngợi về khổ hạnh ấy, năm là hai kệ tổng
quát thọ ký về y-chánh. Trong đoạn lớn thứ tư,
thành tựu về hạnh thắng tiến có hai: Một,

nêu rõ Phật
làm duyên nương tựa cho hạnh. Trong đó, Phật trước
diệt độ-Phật
sau xuất hiện, bởi vì hành khác nhau-duyên
riêng biệt.
Báo mạng của Đồng tử vẫn còn, bởi vì hành nối
tiếp nhau. Hai, dựa
vào duyên thành tựu lợi
ích của hành, trong đó có hai: Một là thấy Phật đạt được bốn Định làm bắt đầu của
thắng tiến:
1) Niệm Phật, Địa Luận nói như Phật đã đạt được thì mình cũng sẽ đạt được là niệm Phật;
2) Tiến vào Phổ Môn cùng tận Hải tạng ấy;
3) Trí duy trì là chủ động
chuyển, Trí pháp luân đang
thành tựu là thụ động chuyển;
4) Pháp sâu xa cho nên tinh thần vui sướng. Hai là nghe kinh đạt được Định là cuối cùng của thắng tiến, tên gọi của kinh nghóa là Pháp giới tự tánh thanh tịnh cho nên nói là Ly
Cấu, đầy đủ Hằng sa công đức cho nên gọi là Trang Nghiêm.
Kinh trước dựa vào
Tướng của quả, trong này dựa theo
Thể của quả, bởi vì
Tự phần-thắng tiến dần dần
sâu xa.
Trong hai Định,
đầu là dựa theo Tự
lợi, sau là dựa theo Lợi tha.

Vả lại, trong này Đồng tử đạt được pháp là phần vị nào?
Nghóa dựa theo ý kinh trước-sau, có ba loại thành Phật:
1) Dựa theo phần
vị dùng sáu tướng phương
tiện, tức là sau phần Thắng tiến thuộc tâm cuối cùng của
Thập Tín tiến vào phần vị thứ nhất của
Thập Giải tức là
thành Phật. Bởi vì đây
là phần vị không lui sụt của Chung giáo Tam thừa,
lấy sáu tướng dung hòa thâu nhiếp của Nhất thừa thì đầy đủ các phần
vị đến Phật quả. Vì vậy
trong này Đồng tử gặp Đức Phật thứ nhất là
Tự phần của phần vị Tín, nghe kinh thứ nhất là Thắng tiến của phần vị
Tín; gặp Đức
Phật sau là Tự phần bắt đầu của phần vị Giải, nghe
kinh sau
là Thắng tiến bắt đầu
của phần vị Giải.
2) Dựa theo hạnh toàn bộ không dựa vào phần vị, nhưng
Tự phần-Thắng tiến cuối cùng vẫn
đến Phật quả.
3) Dựa theo lý thì tất cả chúng
sinh đều đã thành tựu, lại
không mới thành, bởi vì
tướng khác đều không còn, bởi vì tánh đức vốn đầy đủ,
sau này
sẽ có kết hội, nghóa là Đồng tử ấy thì nay tên họ là như vậy, cũng
sẽ có những
sự việc như mặt đất rung
Ä‘á»™ng-mÆ°a hoa, phÆ°Æ¡ng
khác đến chứng minh và
kết hợp nối thông mười phương cùng với kệ
trùng tụng…, chỉ vì trải
qua đến nay chưa hết cho nên chưa có.

Hỏi: Hội này
đã hết, sao trong chúng có người không đạt được lợi
ích?
Đáp: Tóm
lược do bốn ý cho nên không có lợi ích riêng
biệt:
1-Ở trong ba nghóa trước đây, bởi vì hai nghóa đầu cho nên nói về tướng lợi ích của Đồng tử,
 bởi vì một nghóa sau cho nên trong chúng không có đạt được lợi ích riêng biệt.
2-Sư Quang Thống giải thích rằng: «Kinh này Đức Phật
thuyết khi mới thành đạo, chỉ hiển bày về Thể pháp luân của Viên giáo Nhất thừa làm căn bản của các giáo, tướng lợi ích
của các giáo vốn là
lợi ích này cho nên không phân rõ.»
3-Nhưng giáo có hai loại: Một là thuyết giáo tùy theo cơ, thâu nhiếp pháp thuận theo cơ,
 cơ có tăng tiến tùy phần phân rõ về lợi ích ; hai là giáo tùy theo pháp, thâu nhiếp cơ cùng
chung pháp, pháp không có thêm bớt cho nên
không có lợi ích riêng
biệt.
4-Kinh này giống như mặt trời mọc lên,
 trước tiên chiếu rọi núi cao, đã không có cơ Trung-Hạ,
 cho nên không có lợi ích tùy theo phần.
 Văn các Hội sau này đều dựa theo đây biết rõ.
Giải thích Hội thứ nhất, xong.

ï‚¢



<卷>QUYỂN 4</卷>

<詞>Phẩm 3: DANH HIỆU</詞>
Cũng đưa ra bốn môn phân biệt: A- Giải thích tên gọi; B- Ý
đưa ra; C- Tông thú; D- Giải thích văn.

GIẢI THÍCH TÊN GỌI có ba:

Tên gọi về Phần vị, từ đây trở xuống trình bày về phần thứ ba là tu nhân hợp với quả phát
sinh hiểu biết. Nghóa là từ đây cho đến
Hội thứ sáu, phân rõ nói về nhân tròn vẹn của năm
phần vị đã tu, thành tựu quả đầy đủ của mười thân, khiến cho các
Bồ-tát hiểu rõ về tướng nghóa
này, cho nên lấy làm tên gọi.

Tên gọi về Hội, gọi là Phổ Quang Pháp Đường Hội.
Nhưng giải thích có năm nghóa:

Dựa theo Sự, nghóa là Đức Phật phát ánh sáng chiếu
rọi khắp nơi ở bên trong Đường, cho nên gọi
Đường này là Phổ Quang; ở trong
đó thuyết pháp, lại gọi là Pháp Đường, đây là Y chủ thích.

Dựa theo Pháp, nghóa là
Chân-Tục đầy đủ tất cả gọi là Phổ, diệu trí chiếu rọi rõ ràng gọi là Quang, cảnh-trí quy phạm
sâu xa là Pháp,
Phổ Quang này tức là Pháp. Lại giải thích về pháp của
Phổ Quang, thuyết giảng ở trong Đường này, là dựa vào chủ làm tên gọi, Pháp gồm
chung hai cách giải thích, Đường chỉ riêng Y chủ thích.

Dựa theo Cảnh, nghóa là Phổ là
Thể-Quang là Dụng, Pháp gồm
chung giáo-nghóa.

Chỉ dựa theo Trí, cũng nói như Cảnh.

Dựa theo Thật, nghóa là pháp giới vô ngại, một
Trần-một Hành đều trùng trùng hiện bày rõ ràng khắp nơi
Nhân-đà-la võng, cho nên gọi là Phổ, tức là tròn
sáng rực rỡ khắp nơi; lại gọi là Quang, bởi vì
không có gì không chuẩn mực đích thực, cho nên
cũng gọi là Pháp, là
pháp thuận theo duyên trở thành bóng mát làm
Đường, đều là Trì ng-
hiệp thích. Như dùng ba Không làm môn…, dựa theo
ví dụ có thể biết.

Lại Tín đầy đủ sáu phần vị gọi là Phổ, diệt trừ phiền não hiển bày về lý gọi là Quang, che mát căn cơ là Đường.
3-Tên gọi về Phẩm, danh hiệu của Như Lai là Y chủ thích; hoặc Như Lai là danh hiệu, bởi vì
Như Lai là một trong mười
hiệu. Trong đó, Danh là tên gọi riêng biệt
như Thích-ca…, Hiệu là
mười hiệu làm tên gọi chung của chư Phật. Lại
gọi đến Thể là Danh,
nêu rõ Đức là Hiệu; lại cũng là Danh Hiệu không
có gì khác nhau, như trong văn nói.

Ý
đưa ra cũng có ba:

Trình bày về Phần vị đưa ra, trước đây đã nêu ra quả khuyến khích
sinh lòng tin tưởng vui thích, nay trình bày về nhân có thể đạt
được của quả ấy khiến cho phát sinh hiểu biết
đích thực, cho nên
tiếp theo đưa ra.

Hội đưa ra, bởi vì Tín vốn là đầu tiên trong tu nhân, cho nên tiếp theo đưa ra.
 Lại nói là Hội trước trình bày về cảnh của niềm tin thụ động, nay phân rõ về hành của niềm tin chủ động, vốn là nghóa
theo thứ tự.
Hỏi: Ba phẩm như
Danh Hiệu lẽ nào thuộc về niềm tin chủ động?

Đáp: Bởi vì
thành tựu niềm tin cho nên cùng Hội mà phân rõ. Hỏi: Trước đây lẽ nào không thành tựu niềm tin? Đáp: Tất cả
dựa theo cảnh mà phát
sinh niềm tin. Cảnh có hai nghóa: Một, nêu ra
pháp của toàn cảnh để
trình bày là có nơi tồn tại; hai, thâu nhiếp để dựa
vào tâm khiến cho thành
tựu Tín Hạnh. Hội trước dựa vào nghóa đầu,
trong này dựa theo nghóa
sau. Lại Hội trước thì mở rộng về quả mà tóm
lược về nhân, thuận theo nhau cùng thuộc về quả, trong Hội này mở rộng
về nhân mà tóm lược
về quả, thuận theo nhau cùng thuộc về nhân. Hỏi: Đều là pháp của quả, vì
sao Hội trước trình bày về Y
báo, trong Hội này giải
thích về Chánh báo? Đáp: Bởi vì Y báo hiện bày rõ ràng dễ thấy cho nên phân rõ
trước, Chánh báo ẩn kín
sâu xa khó biết cho nên giải
thích sau.
Vả lại, nếu
dựa theo Phật thì trước
cần phải nương vào Tịnh độ, sau phân rõ về
Chánh báo. Lại cũng có
thể thuộc về lẫn nhau, tùy ý nêu ra đều được. Hỏi: Trình bày trong tu nhân, vì
sao Hội này và Hội thứ
sáu đều
có pháp của quả cùng
Hội, các Hội trung gian không có trường hợp này?
Đáp: Hội
này là bắt đầu của tu nhân mà mang lại quả cùng
Hội, nhưng quả ở đầu
Hội, Thập Địa… là cuối cùng của thành tựu về
nhân, cũng mang lại quả
cùng Hội mà quả ở cuối Hội. Đây đều là hiển
bày dựa vào quả hải
để khởi nhân tròn vẹn, nhân đầy đủ trở lại dung hòa
quy về quả tròn vẹn. Đây chính là tiêu chí rộng lớn và tinh tế từ đầu
đến cuối trong văn này.

Phẩm đưa ra, có hai cách
giải thích: Một nói là phẩm trước trình bày về
Y quả, phẩm này trình bày về
Chánh báo. Trong Chánh báo không có
sai lầm về ba nghiệp, phẩm này trình bày về thân nghiệp ứng
với khắp nơi, nghóa là danh hiệu vốn dựa vào thân
mà lập ra, phẩm
Tứ Đế trình bày về khẩu nghiệp của Phật rộng khắp
mọi nơi, phẩm
Quang Minh Giác trình bày về ý nghiệp của Phật giác ngộ khắp nơi.
Nhiếp phục ba Luân, cùng là Chánh báo, nhưng thân nghiệp
thô nhất cho nên phân rõ trước mà thôi. Hai giải
thích rằng: Dựa theo hỏi đáp ở văn sau.
Lại phẩm này trình bày về nghóa của quốc độ Hải,
phẩm trước đã phân
rõ về thế giới Hải, tức là trình bày Thể tùy
duyên hiển bày về
Tướng của quả ấy, nay thì dựa theo duyên trở lại hiển
bày rõ ràng về Thể của
quả ấy. Phân rõ về tướng thật sự đã dựa
vào, cho nên tiếp theo đưa ra.
Đều nối thông với ba thế gian, suy nghó có thể
thấy. Vả lại, Hội trước
dựa theo Hoa Tạng, Hội này dựa theo Nhẫn Độ, có ý là…

TRÌNH BÀY VỀ TÔNG THÚ cũng có ba:

Trình bày về phần Tông nối thông đến
Hội thứ sáu, bởi vì cùng
là một lần hỏi đáp, vì thế cần phải phân rõ
như nhau, nghóa là hai vòng
nhân quả này, đầu là Tướng-sau là Thể, trước
là nhân quả duyên khởi, sau là lý thật.

Dựa theo Hội cũng có hai, đó là người và pháp. Người cũng có
hai, đó là thụ động Tín-chủ động Tín. Trong thụ
động Tín, Hóa chủ nội
chứng về Độ-Hải là Thể, bảy ngày tư duy là
Tướng. Lại vẫn như trạng
thái ấy là Tướng, gia hộ thuyết giảng là Dụng.
Lại hiện bày thần thông và chiếu rọi ánh
sáng là Dụng.
Trong Trợ hóa, Văn Thù dùng
Diệu Tuệ trong Tín làm Thể, Đức thù thắng Cát Tường là
Tướng. Lại khắp tất cả
mọi nơi là Tướng, đã nói điều lợi ích cho
chúng sinh là Dụng, nghóa là nói kệ…

Trong chủ động Tín cũng có hai: a)
Dựa theo nhân, chứng tịnh là Thể, đầy đủ đức là Tướng, nghiệp hạnh công đức thù thắng là
Dụng, đều như phẩm Hiền
Thủ nói, xem xét đưa ra…; b) Dựa theo quả,
trong Tín đã hiển bày
pháp giới vô tận là Thể, đức thù thắng của mười
thân là Tướng, thuận với cơ giáo hóa làm lợi ích là Dụng, cũng như
phẩm Hiền Thủ nói.
Pháp cũng có hai: a)
Dựa theo cảnh, nghóa là trong Tín thì
Độ-Hải bình đẳng là
Thể, dựa theo cơ nói là mười và đức thù thắng là
TÆ°á»›ng, tÆ°Æ¡ng Æ°ng vá»›i
hành giáo là Dụng; b) Dựa theo hành, nghóa là Tín hành
nội chứng là Thể, dung hòa thâu nhiếp các phần vị là Tướng, thành
Phật làm lợi ích chúng sinh là Dụng.

Hỏi: Không biết Phật Lô-xá-na này là Phật trong phần vị nào? Đáp: Nếu nói về pháp của Tín thì
Phật trong Tín, phần vị
khác cũng như vậy, nên suy nghó.

Dựa theo Phẩm, cũng có hai: a-Dựa
theo Tướng, dùng thân
Như Lai-danh hiệu ứng với khắp nơi-mang lại nhiều
lợi ích cho chúng
sinh làm Tông; b-Dựa theo Thật, dùng quốc độ Hải
của mười Phật làm Tông.

GIẢI THÍCH VĂN: Ở
trong một lần hỏi đáp về phần tu nhân
hợp với quả phát sinh hiểu biết này, phần trường
hàng có ba:
1) Phần tựa;
2) Phần thưa thỉnh;
3) Phần thuyết giảng. Trong này Tựa cũng nối thông đến Hội thứ sáu sau này, thưa thỉnh-tuyên thuyết cũng như vậy.

Trong phần Tựa có ba: Một,
nêu ra trú xứ của Phật trình bày về Khí
thế gian; hai, từ
“Thiện giác tri…” trở xuống là ca ngợi công đức của Phật trình bày về Trí chánh giác
thế gian; ba, từ “Dữ thập
Phật độ…” trở xuống
là ca ngợi công đức của Bồ-tát phân rõ về
Chúng sinh thế gian.
Trong phần một
tương truyền: “Phổ Quang Đường ở phía
Đông Nam cây Bồ-đề
khoảng hơn ba dặm trong chỗ uốn khúc của sông Ni- liên, lúc Đức Phật mới thành đạo, các rồng trông thấy Đức
Phật ngồi trống trải dưới cội cây, liền vì Đức Phật tạo ra Pháp đường này.”
Bởi vì các rồng phần
nhiều làm bóng che để cúng dường mà thôi. Lại
bởi vì Pháp đường này
gần cây cho nên cùng nêu ra với nơi chốn. Lại
theo kinh này lấy cây
Bồ-đề làm chính, những nơi khác đều không
lìa nơi này. Lại trong này lúc bắt đầu đạt được là dựa theo pháp của
Tín mà phân rõ,
Liên Hoa Tạng là
Tín Hạnh mở rộng lìa nhiễm thâu
nhiếp công đức, dựa theo pháp chuẩn mực. Lại trong
kinh Đại Tập,
Bồ-tát đạt được
Liên Hoa Đà-la-ni, cho nên những nơi thuyết pháp đều có tòa
hoa sen. Nghóa còn lại đều
giải thích giống như trước.

Hai, từ “Thiện giác trí…” trở xuống giải thích về Trí chánh giác thế gian thù thắng, trong đó mười câu, văn giống như mười câu đầu trong hai mươi mốt loại công đức thù thắng của Thọ dụng thân
ở Nhiếp Luận, như hai mươi mốt câu tổng quát đầy đủ đầu Hội thứ bảy
sau này. Nay theo
Nhiếp Luận và Phật Địa luận giải thích về mười câu này,
một câu đầu là tổng
quát, chín câu còn lại là riêng biệt.

Trong tổng quát, Thiện giác trí thì trí ấy gọi là Chánh giác,
nghóa là đầy đủ chín
đức sau gọi là Thiện giác. Bởi vì thuận theo lý lìa bỏ tà
gọi là Chánh, gọi là Thiện;
sáng
suốt dựa theo quán
sát gọi
là Giác, gọi là Trí.

Trong riêng biệt: Một, không
có hai niệm là công đức luôn
luôn không có gì chướng
ngại, nghóa là bởi vì lìa xa hai chướng, bởi vì
khác với phàm phu-Tiểu
thừa. Lại đối với các cảnh như thời gian-nơi
chốn xa xôi… không có hai hiện hành về biết-không
biết, vì vậy nhờ
không có hai niệm cho nên
gọi là Thiện giác trí. Hai, thông hiểu rõ ràng
pháp tánh, Luận gọi là
hướng về pháp Vô tướng, đây là công đức có thể
tiến vào không hai, cũng
gọi là công đức phương tiện điều phục cảm hóa, nghóa là tự mình có thể tiến vào Chân như thanh tịnh lìa xa
tướng có- không, cũng khiến cho người khác
tiến vào. Ba, trú vào trú xứ của
Phật là quán sát công
đức đã điều phục cảm hóa, nghóa là trú trong Đại
Bi thường thường quán
sát thế gian. Lại vốn là tùy ý vận dụng không
tốn công sức làm lợi
ích cho hữu tình, công đức không ngừng nghỉ. Lại
vốn an trú trong Thánh Thiên và Phạm trú. Bốn, giống như chư Phật, nghóa là đạt được công đức
sự nghiệp tương tự chư Phật, ở trong Pháp thân
mà dựa vào ý thích làm
việc không sai khác, tức là lý trí làm lợi ích
chúng sinh cả ba pháp
không sai khác. Năm, đến nơi vô ngại là công đức
đã đối trị vónh viễn
đoạn trừ, nghóa là tu đạo đối trị hai chướng, thành
tựu hiện rõ trước
mắt, đã đến nơi giải thoát tất cả chướng ngại vốn là
nơi đã dựa vào. Sáu,
đầy đủ pháp không lui sụt là công đức làm cho
ngoại đạo khuất phục,
nghóa là chứng được giáo pháp, ngoại đạo không
thể nào lay chuyển, làm
cho ngoại đạo khuất phục vốn là hiển bày về đạo pháp đúng đắn
của mình. Bảy, cảnh giới không làm hư hoại là công đức làm cho ma oán
khuất phục, nghóa là trong cảnh thuận nghịch không
thể nào làm trở ngại
đến tâm, tuy ở thế gian mà tám pháp không làm vấy nhiễm, bởi vì cảnh thế gian làm tâm rối loạn ngăn trở pháp thiện
gọi là ma, trí này làm
cho ma ấy phải hàng phục. Tám, trú vào không nghó bàn là công đức an lập giáo pháp, nghóa là giáo pháp đã nói ra vượt
lên trên tất cả cảnh
giới của suy nghó tìm tòi. Chín, cùng thông hiểu ba đời là công đức thọ ký riêng biệt về ba đời, nghóa là thọ ký riêng biệt
về quá khứ-vị lai đều
như hiện tại, rõ ràng không khác nhau cho nên
gọi là cùng thông hiểu.
Đầy đủ chín loại riêng biệt này làm thành câu
tổng quát thứ nhất,
đồng-dị-thành-hoại dựa theo suy nghó có thể thấy.

Ba, trong phần
giải thích về Chúng sinh thế gian, có hai: Trước
là chọn lựa xác định
về người ấy, sau là ca ngợi thật đức ấy.
Trong phần trước
có bốn: Một, lựa chọn nhiều khác với ít, nghóa là vi trần
số quốc độ của
mười Phật. Hai, lựa chọn lớn khác với nhỏ, nghóa
là Đại
Bồ-tát. Ba, lựa chọn sau khác với trước, nghóa là
Nhất sinh Bổ xứ. Bốn, lựa chọn mới khác với cũ, nghóa là từ phương khác đến quy tụ. Nhưng bốn phần vị này lấy trước hướng
về sau, lần lượt chuyển tiếp
rất khác lạ đều có
thể dựa theo biết được.

Trong ba là Nhất sinh có ba nghóa:
1) Dựa theo trong loài người;

2) Dựa theo trên cõi trời;
3) Dựa theo thân
hạ sinh, đây chính là
Hóa tướng. Nếu dựa
theo Thật báo trong bốn loại Biến dịch báo, thì chỉ
có một phần vị hãy còn
tồn tại là cuối cùng không có sinh tử, cho nên
nói là Nhất sinh. Ý kinh này dựa theo nghóa trước để phân rõ.

Trong phần sau
là ca ngợi thật đức, văn có tám câu, nghóa có
bảy cặp. Một, hai câu về thuốc-bệnh là một cặp,
nghóa là câu đầu hiểu
rõ về chủng tánh căn
khí kia, câu sau chứng sâu xa về pháp giới đã giảng dạy. Hai, thường cố gắng
suy nghó… trình bày về nhiễm-tịnh là
một cặp, nghóa là như
trong Nhiếp Luận: “Phần nhiễm Biến kế trong Y tha khởi gọi là
sinh tử, phần tịnh trong Viên thành gọi
là Niết-bàn, hai
phần không khác gọi là
một Y tha. Nếu thấy một phần thì tánh của phần còn lại
không khác, vì vậy kinh nói:
Như Lai không thấy
sinh tá»­,
không thấy Niết-bàn.”
Lại Trung Luận nói: “Thế giới và Niết-bàn không có mảy may
sai biệt. Đây gọi là nhiễm-tịnh vô ngại, bốn câu dung
hòa thâu nhiếp: Hoặc là
dùng gốc thuận theo ngọn chỉ riêng thế gian,
hoặc là ngược lại thì
đây chỉ riêng Niết-bàn, hoặc là dung hòa với nhau mà cùng hiện rõ, hoặc là
so
sánh làm mất đi mà cả hai không còn.
Khéo léo quán sát về
lý này gọi là Thiện tư, luôn luôn quán sát không
ngừng gọi là Thường
tư.” Ba, nhân-quả là một cặp, nghóa là nghiệp
nhân-quả báo của các chúng
sinh
sai biệt đủ loại, hiểu rõ những điều này đều dựa vào các
Thức-Tâm-Hành của chúng
sinh mà được
thành lập. Bốn,
giáo- nghóa là một cặp, đó là Nghóa là nghóa của các pháp đã
giải thích,
Vị là giáo của các pháp
chủ động giải thích, là Danh-Cú-Vị thân. Năm,
ràng buộc-giải thoát là một cặp, nghóa là quán
sát về tướng thế gian ấy tức
là Không, cho nên gọi là
pháp lìa thế gian, không cần phải làm hỏng thế gian. Sáu,
lý-sự là một cặp, nghóa là bởi duyên mà khởi lên pháp gọi
là hữu vi, chân lý vô
tánh gọi là vô vi. Hiểu duyên tức là Chân mà không làm hỏng
duyên khởi, thì gọi là cứu cánh phân biệt vô vi; lý phai mờ
chỉ có sự mà không mất
lý, gọi là cứu cánh phân biệt hữu vi. Văn sau nói: Từ cõi hữu vi vượt ra cõi vô vi, mà cũng không làm hỏng cõi hữu vi,
vô vi cũng như vậy, có
thể suy nghó dựa theo đây. Bảy, ba đời là một cặp, nghóa là biết ba hiện tại đều thâu nhiếp quá
khứ-vị lai, và hòa vào
ngay trong nhau, đó là mười
đời, không giống như không có, xuyên qua gọi
là
thông suốt, đối với ba đời này không có gì không thông đạt.
Trên đây là phần Tựa, xong.

Thứ hai là phần thưa thỉnh, trong này gồm chung văn thưa thỉnh
ở năm Hội sau. Trong đó
có ba:
1) Nghó đến thưa thỉnh;
2) Nghó đến thưa hỏi;
3) Nghó đến hiện tại. Trong phần thưa hỏi, các Pháp sư như Dụ Phạm… tách ra làm
124 câu hỏi, đó là 10 câu đầu hỏi về hành tự Thể của
Pháp thân, 100 câu phần giữa hỏi về hành khởi tu của
Báo thân, 14 câu
sau hỏi về hành bình đẳng của
Phương tiện thân. Lại nếu gộp với 90 câu hỏi ở phần giữa làm thành 9 câu hỏi thì gồm có 43 câu hỏi.
Sư Quang Thống gộp với tâm tùy hỷ… làm thành một câu hỏi, tức là 34 câu hỏi, 10 câu đầu hỏi
về pháp của Phật quá
khứ (tiên tế), 10 câu tiếp theo hỏi về pháp của
Phật hiện tại (trung tế), 14 câu sau cuối hỏi về
pháp của Phật vị lai (hậu
tế), đến Hội thứ sáu sau này mới đáp.
Nay dựa vào đây giải thích tổng quát phân làm ba: Đầu là
10 câu hỏi về quả dựa
vào nơi nhân, tiếp là 10 câu hỏi về nhân phát
khởi nơi quả, sau là 14
câu hỏi về quả đạt được nơi nhân. Nhiếp Luận
nói: “Không có gì không từ Pháp thân này phát ra, không có gì không trở
lại chứng Pháp thân
này, cần phải trình bày về nhân dựa vào quả
thành tự mà vẫn có thể kiềm chế đối với quả,
quả có thể buông bỏ đối với nhân mà vẫn là nhân thành tựu quả, nhân quả tác thành lẫn nhau bởi vì
duyên khởi không có
tánh, không có tự tánh tức là Chân pháp giới, không
có tánh tức là Thể
không trở ngại duyên khởi, Chân pháp giới không
làm hỏng nhân quả.”
Nghóa của lý thật duyên khởi nhân quả dựa vào đây mà lập ra. Lại 10 câu hỏi đầu, đáp chung trong ba phẩm đầu
của Hội này.
Nếu riêng biệt từng phần thì phẩm Tứ Đế đáp một câu hỏi
về thuyết pháp, phẩm
Quang Minh Giác đáp hai câu hỏi về thế lực
của Chánh giác, phẩm này đáp những câu hỏi còn lại, đáp chung thuận
theo văn. Từ phẩm Minh
Nạn về sau là ba phẩm riêng biệt tự có hỏi, bởi
vì Tín không thành tựu
phần vị, cho nên không có nói đến Thập Tín
thưa hỏi xa xôi, không
giống như Thập Trú…

Trong 10 câu hỏi đầu tiên này có hai giải thích:
Một là dựa theo hai quả y-chánh để hỏi, đó là
1) Hỏi chung về Y báo Tịnh độ;
2) Hỏi chung về Chánh báo Pháp thân;
3) Hỏi về vật dụng trang nghiêm của
quốc độ;
4) Hỏi về Pháp thân đã chứng;
5) Hỏi về quốc độ lìa nhiễm;
6) Hỏi về thuyết pháp sau khi chứng;
7) Hỏi về Thể của quốc độ trước đây;
8) Hỏi về vầng sánh sáng của Chánh báo;
9) Hỏi về quốc độ ứng với duyên khởi,

10) Hỏi về hiện bày sự việc như tám tướng Chánh đẳng giác…
Hai là chỉ dựa Độ-Hải để hỏi, dựa theo văn sau và kinh Anh
Lạc, bởi vì Hội này trình bày về nghóa của quốc độ Hải.
Trong 10 câu, 5
câu trước trình bày về
các đức đầy đủ của quốc độ, 5 câu sau trình bày
về Thể-Dụng đầy đủ
trọng vẹn của quốc độ.
Lại một câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại là
riêng biệt.
Trong riêng biệt, quốc độ
có chín nghóa:
1) Nghóa về trú riêng biệt, đó là hoa sen hồng… như Nhiếp Luận nói;
2) Nghóa về đầy đủ đức, đó là Lý- Hạnh-Sự… đều có tô điểm qua lại;
3) Nghóa về quy phạm duy trì,
đó là pháp của quốc
độ dựa vào chứng mà đạt được không giống nhau;
4) Nghóa về lìa nhiễm, đó là tự tánh cùng với Tướng và Dụng đều thanh tịnh;
5) Nghóa về thành tựu giáo, đó là dựa theo lời nói hiển bày về
quốc độ như nói về các
thế giới;
6) Nghóa về tự Thể, đó là Lý-Trí-Thức-Sự đều có Thể;
7) Nghóa về Diệu Dụng, đó là uy lực của ánh
sáng thâu nhiếp làm cho
khuất phục…;
8) Nghóa về duyên khởi, đó là cõi
Phật phát khởi tùy theo căn cơ
chúng sinh, lại khiến cho tùy theo cõi mà
phát khởi nhân hạnh,
lại tùy theo cõi mà Phật xuất hiện cho nên cũng nói
là phát khởi, đây là
thuận theo kinh Đâu Sa, lại tùy theo nhân duyên đầy đủ mà cõi được phát khởi, như phát khởi đầy đủ nhân duyên
của thế giới…;
9) Nghóa về hiện rõ giác ngộ, đó là các sát hải hiện rõ thành tựu Chánh đạo, bởi vì y-chánh vô ngại. Nghóa còn lại dựa theo trong
phần đáp ở văn sau mà biết.

Tiếp theo là
10 câu hỏi trong nhân, từ phẩm Thăng Tu-di về
sau đến phẩm
Bồ-tát Trú Xứ đưa ra để đáp, chín câu đầu là hỏi dựa theo phần vị
Tự hành, sau từ Tùy hỷ trở xuống là hỏi về hạnh tùy duyên
hóa vật. Trong câu đầu,
mười Tạng vì sao hỏi ở sau Hồi Hướng, sau đáp
ở trước Hồi Hướng,
là bởi vì Tạng có hai nghóa: Một là nghóa về sinh ra cho nên ở
sau
Hồi Hướng, bởi vì
sinh ra chứng trí
Địa thượng; hai
là nghóa về thâu nhiếp
cho nên ở trước Hồi Hướng, bởi vì thâu nhiếp các hành khiến cho thành tựu
Hồi Hướng. Bởi vì hai
nghóa nàyy, hai
nơi hiển bày lẫn nhau cho
nên không trái ngược nhau. Mười Nguyện
đáp trong Địa thứ nhất.
Mười Định đáp trong phẩm Thập Nhẫn, bởi vì
tâm Quán dung nạp lý là
Nhẫn, tâm Chỉ không tán loạn là Định, Chỉ
Quán vô ngại chỉ là một
tâm, hai nơi đều hiển bày một nghóa. Bởi vì các
Bồ- tát duyên với cảnh
Chân-Tục đều có hai nghóa, một là không điên đảo, hai là không tán loạn, đầy đủ như
Lương Nhiếp Luận nói mà thôi.
Mười Tự tại đáp trong phẩm
Thập Minh, bởi vì tác dụng rõ ràng đích thực cho
nên lập ra
hai tên gọi, bởi vì dịch tách riêng kinh Bồ-tát Bổn
Nghiệp, cho nên trong câu hỏi ấy cũng gọi là
Thập Minh, trong kinh Đâu
Sa gọi là Thập Phi Pháp.
Lại mười Đảnh không thấy đáp riêng, người xưa
có lúc đem kinh Phạm Võng
vào đây so sánh kết hợp nói là điều này
có thể sai,
sợ rằng khó mà
sử dụng theo. Nay tìm theo mười một nơi
thuyết pháp của kinh ấy,
sáu nơi giống với kinh này. Kinh ấy nói ở Hóa
Lạc Thiên thuyết về 10
Thiền định, Sơ thiền thuyết về 10 Kim Cang tâm, Nhị thiền thuyết về 10 Nguyện, Tam thiền thuyết về 10 Nhẫn,
Tứ thiền tại cung
Ma-hê Thủ-la thuyết về pháp môn
Tâm Địa, không nói
đến Trùng Hội Phổ Quang
và Trùng Các Kỳ Hoàn. Vả lại, hỏi ở kinh này cùng với kinh ấy có
giống nhau và không giống nhau, cho nên khó sử dụng mà thôi.
Có người nói phẩm
Bất Tư Nghị có đáp, nhưng phẩm
Bất Tư Nghị… đã đáp câu hỏi
sau quả, không có thể thuộc về nơi này.
Lại phẩm Tăng Kỳ trình bày về 10
số lớn, nhân vị là cuối cùng trong
số
cuối cùng, cho nên cũng
có thể nói là 10 Đảnh, nhưng bắt đầu phẩm này tự có hỏi về điều khác, cho nên cũng khó thuộc về phẩm này.
Trong phẩm Thọ Mạng 10 tầng
Phật độ lên đến cuối cùng, cõi Phật của Hiền
Thủ ở tầng cao nhất cho
nên gọi là Đảnh, nhưng có 10 tầng cho nên nói
là 10 Đảnh, cũng có thể không hại gì, bởi vì bắt đầu phẩm ấy đã
không có thưa hỏi gì
khác, cho nên có thể là đáp. Trong này dựa theo
hướng xuống dưới tôn
trọng trên cao để hỏi, văn dưới dựa vào nơi ấy nối
tiếp nhau mà đáp. Vả
lại, chỉ kinh này ở văn sau có hỏi riêng biệt mà ở
đây không có hỏi, về
sau nếu không có hỏi mà có nói thì tức là đáp về
câu hỏi này, vì vậy cần phải biết.
Từ “Tùy hỉ tâm…” trở xuống là trình bày câu hỏi về tùy duyên khởi hạnh
của Bồ-tát, tức là đáp ở phẩm
Bồ-tát Trú Xứ, bởi vì trong văn ấy trình bày về Bồ-tát tùy cơ ứng hiện khắp mọi nơi khởi lên công
hạnh thù thắng, ở đây
dựa theo hạnh chủ động dựa vào để hỏi, sau dựa
vào nơi của hành đã
trú để đáp. Dựa vào đây mà phân định trong pháp
của Phật hiện tại, hỏi
đáp thuộc về nhau cũng rất rõ ràng mà thôi.

Sau trong phần trình bày về tùy duyên hóa tha: Một là thấy
người khác ít thiện mà
tâm vẫn tùy hỷ; hai là cảm hóa chúng sinh khiến
cho tiếp nối Phật chủng,
nghóa là gieo hạt giống Phật vào ruộng của
chúng sinh… Hai tâm này
là tâm Hóa tha. Sau là trình bày về hạnh Hóa tha, nghóa là vì
sao không gián đoạn? Bởi vì cứu độ. Cứu nơi nào?
Phiền não vốn là trong
vọng tưởng. Cứu như thế nào? Nhận biết vốn là
căn hành. Dùng cách nào
để cứu? Hiểu rõ vốn là thuốc pháp. Làm sao cứu
độ thành
tựu? Nghóa là khiến cho lìa bỏ cấu nhiễm của Tập, vượt qua tai nạn của Khổ, quyết đoán nghi ngờ về Đạo, chứng được ái Diệt.
Như thứ tự bốn câu nên biết!
Trong phần hỏi về pháp của Phật vị lai có 14 câu hỏi, từ phẩm Bất
Tư Nghị đến phẩm
Phổ Hiền cùng đáp.
Trong đó, pháp thù thắng
là pháp Bồ-đề thù
thắng, giống như văn trên. Không động chuyển là
bởi vì không có sử
dụng công sức. Nghóa còn lại phần nhiều giống như
giải thích ở Hội trước.
Thứ ba trong phần thuyết giảng nối thông với năm
Há»™i sau
đáp về những câu hỏi
trước đây. Trong đó phân ba:
1) Trong Hội này đáp 10 câu hỏi đầu về pháp của Phật quá khứ ở trước;
2) Từ Hội thứ ba trở xuống đáp về pháp của Phật hiện tại;
3) Từ phẩm Bất Tư Nghị trở xuống đáp về pháp của Phật vị lai. Ngay trong phần một có hai: Trước
là quy tụ chúng hiển bày
về trọn vẹn,
sau là đối với duyên chính thức
thuyết giảng.
Trong phần trước có hai: Đầu
là trình bày về chủ động quy tụ, sau là trình bày
về thụ động quy tụ.

Trong phần đầu có hai ý: Một
là hướng về trước để đáp câu hỏi, hai là hướng về
sau để quy tụ chúng. Trong ý trước nhận biết tâm niệm là hiểu rõ những điều đã hỏi. Lại nêu ra khí lượng của tâm tiếp
nhận giáo pháp, tức là giống như cảnh tượng ấy. Hiện bày thần lực là hiện bày cảnh tượng mà đáp, làm thỏa mãn khí lượng ấy,
 nghóa là như những điều đã nghó đến, như 124 câu hỏi trước đây, và về
sau đến Hội thứ
sáu đưa ra nhưng pháp môn đã nói để đáp câu hỏi này, đều ở trong thân pháp giới của
Như Lai, không có gì không viên minh lập tức hiện rõ cảnh tượng ấy. Vì thế cho nên mở rộng đến năm
Hội sau mà
không kéo dài, một thân lập tức hiện bày mà cũng không ngắn ngủi.
Vả lại, sáu phần vị rõ ràng nhưng không
sai khác, viên dung hòa vào ngay
trong nhau mà không làm
hỏng là nguyên cớ này, khiến cho Đại chúng nhìn thấy cảnh tượng này mà tưới thấm tâm tư
trống rỗng, tức là đáp
mà thôi. Bởi vì họ nghó
rằng: Nguyện vì con hiện rõ cảnh tượng, cho nên nay hiện rõ
cảnh tượng.
Về sau kinh nói:
Trong Pháp thân thanh tịnh không có cảnh tượng nào mà không hiện rõ. Lại cảnh tượng là nghóa của duyên tập hợp mà thành tựu vô ngại,
 bởi vì khí lượng-tâm niệm của căn cơ phù hợp với thân Phật mà trở thành cảnh tượng này.
Lại bởi vì thân Phật
ứng với căn cơ mà hiện rõ cảnh tượng này, đều có hai nghóa về
Không-Hữu và nghóa về hữu
lực-vô lực, bốn câu dung
hòa thâu nhiếp không có
nghóa phân biệt, suy nghó điều này. Lại bởi vì ứng
với căn cơ hiện rõ cảnh tượng làm lay động thâu nhiếp công năng là
lực của thần thông lực.

Hai là vì quy
tụ chúng, là Đức Thế Tôn đưa ra mọi người quy
tụ. Nhận biết tâm niệm,
là phân rõ về nguyên cớ quy tụ chúng. Như
cảnh tượng ấy, là trình bày về xứng pháp hợp với cơ. Hiện bày
thần thông lực, là chính thức trình bày về triệu tập chúng khiến cho quy tụ.
Lại như cảnh tượng đã nói mà hiện bày thần lực, khiến cho Bồ-tát ở
phương khác trông thấy
ánh sáng thần thông này, biết là thuyết về pháp ấy
mà đến quy tụ nơi này;
cũng khiến cho Đại chúng ở đây thấy cảnh
tượng này của Phật,
biết chắc chắn là thuyết giảng về pháp mà mình đã
hỏi, hoan hỷ mà trú. Vì
sao biết như vậy? Bởi vì ánh sáng nơi thân Như
Lai có hai loại, một là ẩn kín cho nên khó biết, hai là hiển bày để
cho nhận biết. Trong để cho nhận biết về điều đó, tùy theo
sự thích ứng
mong thuyết giảng về pháp gì, mà ánh
sáng nơi thân Đức Phật trước tiên hiện rõ cảnh tượng ấy, khiến cho Đại chúng trông thấy rồi biết là
thuyết giảng về pháp ấy,
như lúc thuyết về Bát-nhã (so sánh trong Trí
Luận), như lúc thuyết về
Pháp Hoa…, cho nên nói là như cảnh tượng ấy
mà hiện bày thần thông.

Trong phần sau
là thụ động quy tụ, mỗi một phương trong mười
phương đều có ba thế gian, có thể biết. Lại đều
có tám nghóa: Một là xa gần, hai là nêu ra tên gọi của quốc độ, ba là nêu ra danh
hiệu của Phật, bốn là
Bồ-tát đứng đầu, năm là thâu nhiếp
quyến thuộc,
sáu
là đến nơi này chào
hỏi cung kính, bảy là hóa làm chỗ ngồi, tám là
ngồi theo phương của mình.
Thế giới cùng tên gọi là Sắc, biểu thị cho pháp ở phần vị Tín vốn là tướng thô hiện rõ; Phật cùng tên gọi là Trí, biểu
thị đầu tiên trong Tín
vốn là Thỉ giác từ Bổn giác phát khởi; Bồ-tát
cùng tên gọi là Thủ,
biểu thị cho Tín là đầu tiên của nhân.
Danh và nghóa của
Văn Thù tóm lược nói theo năm nghóa: Một gọi là
Văn Thù Sư Lợi, hoặc gọi là
Thi Lợi, hoặc gọi là
Mạn Thù Thất Lợi, hoặc dịch là Kính
Thủ, hoặc nói là Phó Thủ, lại nói là Nhu Thủ, lại nói là
Diệu Đức, lại nói là
Diệu Cát Tường. Trong này mười Bồ-tát dựa
vào bản văn Phạm cùng
tên gọi là Thất Lợi, trong kinh Đâu Sa cũng cùng tên gọi là
Sư Lợi. Lại tiếng Phạm gọi đầu là
Thất Lợi, Cát Tường Đức… cũng là
Thất Lợi, cho nên dẫn đến phiên dịch không
giống nhau.
Hai là nơi sinh ra, nếu dựa
vào kinh Văn Thù Bát Niết Bàn thì sinh trong
nhà Bà-la-môn ở cõi
này, sau khi Phật diệt độ 400 năm, đã nhập
Niết-bàn ở đỉnh
Hương Sơn. Nếu theo kinh này thì
Bồ-tát hiện ở tại núi
Thanh LÆ°Æ¡ng thuá»™c phÆ°Æ¡ng
Đông; kinh Tịch Điều Âm cũng nói: “Về phương
Đông cách đây một vạn thế giới Phật, có quốc độ tên gọi
Bảo Trú, Đức Phật danh hiệu là
Bảo Tướng, Bồ-tát ở quốc độ ấy.” Ba là trình bày
về thầy trò, theo kinh Phóng Bát thì xưa kia Văn Thù là thầy của
Thích-ca, kinh này nói là
mẹ của chư Phật ba đời, thầy của tất cả Bồ-tát.
Bốn là trình bày về phần vị,
nếu dựa theo nhân thì chính là Bồ-tát Thập Địa, bởi vì thường trú trong
Tam-muội Thủ Lăng Nghiêm; nếu dựa
theo quả thì theo kinh Thủ
Lăng Nghiêm nói là ở thế giới Bình Đẳng
thuộc phương Nam, thành
Phật hiệu là Long Chủng. Năm là trình bày về đức dụng, theo kinh Như
Huyễn Tam Muội thì làm cho ma phải hàng
phục… là lực điều
phục chúng sinh, theo kinh Hiện Bảo Tạng thì Ca-diếp gạt bỏ… là lực thần thông thù thắng, thuận theo
Không quyết định luận bàn chất vấn thì chính là
Tuệ lực. Đây là dựa theo
Tam thừa. Như phẩm Quang Minh Giác ở sau
thì tất cả mọi nơi… là Nhất thừa.

Bồ-tát các phương đều cúi rập đầu đảnh lễ Đức Phật, nghóa
về lễ Phật sơ lược đưa ra ba môn: Một là số lần
lễ lạy, hai là nghi thức
cung kính, ba là trình bày
về quả đạt được. Trong phần một là ba nghiệp
lễ lạy, có hai ý:
1) Bởi vì có ba nơi lễ lạy;
2) Hiển bày Đức Phật có Thiên nhãn-Thiên nhó-Tha tâm thông. Hai là nghi thức cung kính có bảy, như trong chương Khổng Mục… Ba là quả đạt
được có hai:
1) Gần thì đạt được năm quả…
2) Xa thì đạt được Phật quả như phẩm Hiền Thủ nói… Ngồi theo phương của mình, dựa vào
Trí Luận quyển thứ 12: “Ngoại đạo pháp khác khinh thường Đức Phật cho nên ngồi, Bạch y như khách cho nên ngồi,
 tất cả thân tâm của năm chúng là thuộc về Đức Phật cho nên đứng. Nếu Đại
A-la-hán việc làm đã xong thì
cho phép ngồi, ba quả còn lại không cho phép ngồi bởi vì việc lớn chưa làm xong; như vua có bề tôi quan trọng thì được ngồi, còn lại đều đứng.”
Nay ở đây đều là Đại
Bồ-tát vì vậy được phép ngồi mà thôi.

Trong phần hai là đối với duyên chính thức thuyết giảng, có hai:
Đầu là ba phẩm chính
thức cùng đáp câu hỏi trước đây; sau là ba phẩm dựa vào luận mà phát
sinh luận, hỏi
riêng-đáp riêng. Lại giải
thích ba phẩm trước là
duyên của hành chủ động phát khởi, ba phẩm sau là tướng của hành thụ động phát khởi. Lại giải thích trước là cảnh của
quả thụ động duyên vào,
sau là hành của nhân chủ động duyên vào. Bởi vì Tín hành này là phương tiện của trú, tự mình không có phần vị
riêng biệt, cho nên ban
đầu không có hỏi.

Ngay trong ba phẩm trước có năm: Một,
ca ngợi về chúng hiếm có; hai, nhắc lại câu hỏi tổng quát
nêu ra; ba, nêu ra để hiển bày về Thể; bốn, nêu ra Thể để phân rõ
về Tướng; năm, nêu ra
Tướng trình bày về Dụng.
Trong phần một là ca ngợi về chúng hiếm có, vì
sao thưa hỏi
Đức Phật mà Văn Thù
đáp? Bởi vì đã giống như Tuệ của Phật, bởi vì
Diệu Tuệ của
Cát Tường thông hiểu về Độ-Hải, bởi vì tăng thêm tâm vui mừng hớn hở của
các Bồ-tát.
Vì sao không nhập định? Bởi vì
Tín không có phần vị. Hội trước lẽ nào có phần vị
sao? Bởi vì đức của quả
này sâu xa vi tế. Trong
này lẽ nào không có pháp của quả hay sao? Bởi
vì là thành tựu về
nhân, bởi vì gồm chung đầy đủ nhiều nhân. Ca ngợi
về hiếm có thì tóm lược
do hai nghóa:
1) Bởi vì một Hội này chính là nơi hội tụ tất cả hư không pháp giới…;
2) Bởi vì Hội này chính là pháp môn, đều nói như phẩm Quang Minh Giác. Trong phần hai là nhắc lại câu hỏi, Đức Phật xuất hiện là nhắc lại hai câu hỏi thứ
bảy-thứ tám trước đây; A-nậu Bồ-đề là nhắc lại
thị hiện thành Chánh giác
trước đây; hoặc là Đức Phật xuất hiện nhắc
lại thị hiện thành Chánh
giác, hai câu hỏi thứ bảy-thứ tám lược qua
không nhắc lại. A-nậu
Bồ-đề là gồm chung kết luận, những câu còn lại
giống như trước có thể
biết. Tổng quát nêu ra câu đầu không thể nghó bàn
là xuyên qua nối thông
các câu, cho nên kết luận nói rằng đều là
không thể nghó bàn. Không
thể nghó bàn, đại ý trong này là đối với pháp
giới cùng một vị, nghóa
phân làm hai:
1) Độ và Hải là chủ động tùy theo,
2) Cơ và duyên là thụ
động tùy theo. Hai loại này không hai, tất cả
dung hòa vô ngại. Nếu
dùng duyên thuận theo Thể thì Tướng ấy viên dung không có riêng biệt mà có thể
riêng biệt, ngôn từ giảng giải
không đạt tới được.
Nếu dùng Thể thuận theo duyên thì lại phù hợp trở
thành duyên khởi sai
biệt. Dựa theo duyên khởi biểu hiện khác nhau này
trở lại hiển bày về
Thể của quốc độ vô cùng tuyệt diệu khó mà suy nghó, là ý của không thể nghó bàn. Bởi vì nghóa này cho nên nghóa của
không thể suy nghó (bất
tư) có đối với ba loại: Một là giải thích về
nương vào duyên, trở lại hiển bày về Thể của quốc độ không còn nghóa của
duyên; đây tức là lời
ở trong duyên mà ý ở ngoài duyên, cho nên nói là không thể nghó bàn. Hai là đã dựa theo duyên hiển bày về quốc độ, bởi
vì duyên khởi như trần
số, khiến cho Thể của quốc độ thuận theo duyên phù hợp trở thành
sai biệt; đây tức là trình bày về quốc độ không có riêng biệt của
riêng biệt, riêng biệt mà không
riêng biệt, cho nên
không thể nghó bàn. Ba là
duyên không có duyên riêng biệt, bởi vì Thể tức là duyên, cho nên duyên khởi
sai biệt tức là Độ và Hải rất
sâu xa; đây
gọi là lý rất gần mà
khó biết, cho nên không thể nghó bàn. Suy nghó!

Trong phần ba
là nêu ra để hiển bày về Thể, trước nêu ra nói là vì
sao có thể biết không thể nghó bàn,
sau hiển bày về Thể nói là vì
sao pháp của chư Phật tùy
theo những nơi đã giáo hóa ấy đều là pháp giới.
Bởi vì hai môn cùng dung hòa, bởi vì không có ranh giới hạn chế;
đây là dựa theo Thể để
giải thích tóm lược.

Trong phần bốn
là nêu ra Thể để phân rõ về Tướng, trước nêu ra Thể nói là vì
sao có thể biết pháp giới
sai biệt vô biên…,
sau phân rõ
về Tướng nói là chưa
luận đến thế giới hư không khắp mười phương.
Tạm thời dựa theo một cõi Ta-bà này mà nói
sơ lược phân rõ về mười loại
để hiển bày vô tận,
vô biên cõi khác nên dựa theo đây mà biết. Các
loại thân này đều có
các đức, giải thích là thân Phật…, cho nên về
sau phân rõ danh hiệu không
giống nhau, tức là giải thích về các loại tên gọi. Nay tìm kỹ càng trong văn này, và dựa theo
kinh Đâu Sa, đây chính là
chúng sinh đã được
giáo hóa chứ không phải là Phật chủ động giáo hóa. Bởi vì câu dài này là ngữ pháp của các nước
Tây Trúc, thích hợp nên
nói là giáo hóa tất cả
các loại thân… cho đến chúng sinh không giống nhau làm một câu, điều đã thấy cũng khác nhau làm một câu, nghóa thì
có thể hiểu. Chỉ vì quốc
độ của Phật bình đẳng không có gì riêng biệt mà có thể
riêng biệt, cho nên dựa vào chúng
sinh đã được giáo hóa
sai
biệt để phân rõ về
Tướng sai biệt của Độ-Hải.
Ở trong 10 câu:
1) Tổng quát đưa ra thân năm Uẩn sai biệt;
2) Dựa vào thân lập ra tên
gọi không giống nhau;
3) Thân ở tất cả mọi nơi;
4) Tùy theo các loại nơi chốn mà có các loại hình thể, Sắc nghóa là màu sắc trắng-đen…;
5) Tùy theo có thân hình mà thọ mạng có dài ngắn;

Thức có thể đạt được các cảnh, hoặc tu hành chứng được phạm vi;

Thể của cảnh hòa vào căn, hoặc là trí có thể tiến
vào pháp, hoặc là
hiểu rõ tiến vào môn khác;
8) Tóm lược chỉ có sáu căn, mở rộng có hai mươi hai căn, hoặc là năm căn như Tín…, hoặc là lợi-độn-sinh-thục…, như sau nói ở phần các căn
Hải thuộc Hồi Hướng thứ chín;
9) Các nẽo sai biệt, hoặc là bốn Sinh loại-năm nẽo như rừng rậm của sinh hành…;

Nghiệp khác-báo khác như rừng rậm của nghiệp hành… Dựa vào bản Phạm và
kinh Đâu Sa, mỗi một câu này đều có các loại, lời nói còn
lại tóm lược cho nên như vậy, vì thế kết luận
rằng các loại chúng
sinh
không giống nhau. Điều đã thấy cũng khác, thì
không phải là đích thực
nghiệp báo y-chánh sai biệt vô biên, trong tâm suy
nghó nhìn nhận hy
vọng đều khác. Trong kinh Đâu Sa nói là tất cả
đều có nghe âm thanh
của Đức Phật. Lại cũng chín câu trước phân rõ
về báo sai biệt, câu thứ
mười trình bày về nghiệp sai biệt, đây là hiển
bày về thấy sai biệt. Lại

nói phạm vi
sai biệt của chúng
sinh này là
Tướng của Độ-Hải, có
ba nghóa giải thích, như
phân rõ ở phần không thể nghó bàn trong mục
nêu ra trước đây.

Trong phần năm
là nêu ra Tướng phân rõ về Dụng, trước nêu ra Tướng nói là thụ động tùy theo căn khí
sai biệt có thể như vậy, chủ
động tùy theo sai biệt
làm sao có thể thấy? Giải thích về Dụng nói rằng
căn cơ khác nhau phù hợp
hiện rõ Phật pháp nhiều môn khó có thể nói
đầy đủ, dựa vào khác
nhau mà luận có ba:
1) Dụng của thân-danh ứng
với khắp nơi;
2) Dụng
của ngôn-giáo rộng khắp mọi nơi;
3) Dụng của
vầng ánh sáng chiếu rọi
khắp nơi. Đều làm quy phạm cho phần sau. Lại
có thể phân hai: Một là
Phật, hai là Pháp. Trong Phật cũng có hai: Một
là Thân, hai là Danh. Pháp
cũng có hai: Một là Thật, hai là Quyền.
Trong đó, Phật thân và
Thật giáo sai biệt khó trình bày, nói giống như
phẩm Quang Minh Giác. Phật
danh và Quyền giáo dễ dàng phân rõ sai
biệt, hai phẩm này luận
riêng biệt. Lại giải thích đây là hai phẩm đầu,
Văn Thù nêu ra nghóa trả
lời những câu hỏi trước đây; một phẩm sau,
Như Lai nêu ra
sự để trả lời giải thích thành tựu về nghóa trước đây.
Ngay trong hai phẩm trước phân rõ về hai pháp
Danh và Giáo,
sai biệt
này đã như những câu
hỏi ở trên. Nghóa về cõi Phật… sai biệt khó suy
nghó, cùng với ý về
pháp giới… còn lại ở đây, tức là đáp chung.
Ngay trong phần đầu giải thích về tên gọi khác nhau có hai:
Trước là hiển
bày về tên gọi khác nhau, sau từ “Thị giai…” trở xuống là
giải thích về nguyên cớ
khác nhau. Trong phần trước có hai: Đầu là nêu
ra, sau là giải thích. Trong
giải thích có ba: Một là phân rõ về cõi này,
hai là các cõi khắp mười
phương, ba là tận cùng pháp giới. Hỏi:
Trong này, danh hiệu là chỉ riêng tên gọi của
Phật Lô-xá-na, hay là gồm
chung các Đức Phật khác?
Đáp: Nếu
dựa theo Tam thừa, thì chỉ riêng trăm ức vạn trong
cõi này là tên gọi
Thích-ca, các cõi khắp mười phương là tên gọi của
Đức Phật khác. Nếu dựa theo
Nhất thừa, thì toàn bộ pháp giới đều là
tên gọi Xá-na. Hỏi: Nếu như vậy thì vì
sao văn trước đây nói chư
Phật mười phương thuyết pháp
biết rõ tâm hành của chúng sinh cõi ấy…?
Đáp: Đều
là nơi giáo hóa của Đức Phật này, bởi vì không có
Đức Phật nào khác; lại
là trong Hải Ấn của Đức Thích-ca hiện ra, cho nên không có Đức
Phật nào khác. Lại giải thích như tên gọi của một Đức Phật đã khắp nơi
mười phương, Phật ở mười phương khác cũng đều như vậy khắp nơi
mười phương. Lại nếu như cơ
Tam thừa, thì ở trong các thế

giới hệ (tứ
thiên hạ) này tùy theo đều nghe Phật hiệu ngay nơi cõi
ấy, chưa hẳn biết là
tên gọi của Đức Phật ở nơi khác. Nếu là cơ
Nhất thừa, thì trong một lúc lập tức tiếp nhận
tất cả danh hiệu, bởi vì ứng với tên gọi của tất cả các cơ. Một cơ có thể tiếp nhận ấy vốn là cơ
Phổ Hiền, bởi vì một cơ tức là
tất cả các cơ. Vả lại, danh hiệu này nếu theo Tiểu
thừa thì tức là Thật
danh. Tam thừa Sơ giáo thì tên gọi tức Giả-tức
Không. Chung giáo thì tên
gọi này tức là bình đẳng giống với Chân như, kinh nói: Danh tự lìa xa tánh, thì gọi là
giải thoát. Đốn giáo thì tất cả
đều không còn tên gọi,
không có tên gọi cùng lìa xa. Viên giáo cũng cùng lìa xa bởi vì không chướng ngại tên gọi. Nay một tên gọi tức là tất
cả tên gọi, tất cả tên gọi hòa vào một tên gọi mà không làm hỏng-không
ngăn ngại, thâu nhiếp
hết tất cả pháp giới, gọi là Nhân-đà-la võng.

Hỏi: Đại thiên thế giới này, theo kinh luận khác thì trong Đại
Vi Sơn bằng phẳng có đủ
100 ức thế giới hệ, Thượng phương-Hạ phương không thể nào lại có thế giới hệ, nếu
Thượng-Hạ đều có thì mỗi một thế giới hệ đều
có Thượng-Hạ, vì vậy phải có 300 ức, vì
sao vẫn nói
chỉ có 100 ức?

Đáp: Nếu như
thật xứ của Tiểu thừa thì lý không có gì thay đổi; nếu Tam thừa thì tuy là
Không-Chân như…, mà không ngăn ngại
sự cho nên không làm hỏng
sự vốn có; nếu
sự này là Nhất thừa thì vô ngại
viên dung tự tại, vì thế
cho nên trong này trình bày về xứ tùy theo giáo
mà viên dung, thuận theo
mười số để hiển bày vô tận. Một cõi Ta-bà này có hai loại dung hòa: Một là lấy nơi thuyết pháp mà làm trung tâm, làm thành chủ-bạn dung hòa 100 ức thế giới hệ ấy khiến cho có
Thượng- Hạ, làm cho được
tròn vẹn vì thế không có 300 ức. Hai là dù cho một thế giới hệ bên cạnh Vi Sơn gần phương Đông nhất là chủ thuyết
pháp, chính là trung tâm
dung hòa những thế giới hệ kia, mà vẫn có đầy đủ quyến thuộc
mười phương, bởi vì các thế giới hệ đều hướng về nơi
khác là bạn, hướng về
chính mình là chủ, vậy thì Vi Sơn cũng tùy theo
dung hòa thay đổi. Nghóa
về dung hòa của các cõi khác khắp mười
phương dựa theo như vậy.
Đây là dựa theo Nhất thừa giáo. Nếu dựa theo
Tam thừa giáo thì không
có thể như vậy, như kinh luận khác giải thích.

Ta-bà, Trung
Hoa nói là Kham Nhẫn, kinh Bi Hoa nói:
“Chúng sinh trong cõi này vì những
sai lầm
như tham-sân-si…,
Phạm Vương nén chịu đựng
điều đó cho nên lấy làm tên gọi.” Kinh Phóng Bát
nói v..v… Tu-bồ-đề,
Trung Hoa nói là Thiện Thật; Ha-ni, Trung Hoa
hoặc nói là nghóa về
Xả, hoặc nói là sinh diệt, bởi vì ngôn ngữ này khó
mà xác định. Bà-già-bà
có sáu nghóa v..v… Y-na-bà-na, Trung Hoa nói là
Vương Lâm,
nghóa là lúc Đức Phật còn làm Thái tử, sinh ở trong
rừng này cho nên lập ra tên gọi này.
Trong phần
sau là giải thích về nguyên cớ khác nhau có ba:
1) Nhắc lại căn cơ;
2) Thi thiết giáo hóa;
3) Ý của giáo hóa. Trong phần 1 có hai ý: Một nói là những danh hiệu này khắp
nơi pháp giới, hãy còn tự mình tạm thời dựa vào Đức Phật có duyên
có thể giáo hóa chúng
sinh mà có sai biệt này, chứ không phải là nói tất cả. Hai nói là căn cơ này
sao có thể có duyên với Phật, nghóa là Đức Phật xưa kia trải qua nhiều kiếp tu hành, thấy nghe tùy hỷ… cho nên
có duyên (lại có nghịch
thuận v..v… như trong biệt kí)
Trong phần hai là thi thiết giáo hóa có năm câu: a) Câu đầu nói tổng quát về ba Luân
nhiếp hóa khéo léo; b)
Phương tiện của ngữ nghiệp; c)
Phương tiện của
thân nghiệp; d)
Phương tiện của ý nghiệp; e) Thi thiết giáo
hóa hợp với căn cơ.

Lại giải thích: a) Câu đầu là thân hiện rõ oai nghi, bởi vì thâu nhiếp chúng
sinh cho nên nói là đủ loại
phương tiện; b)
Ngữ nghiệp là Phạm âm…; c)
Pháp đã thuyết đó là vì trời-người mà nói về
nghiệp báo…, vì hàng Nhị
thừa mà nói về Quyền đạo tức là Tứ Đế.

Trong phần ba
là ý của giáo hóa, đó là tùy ý nói về các pháp
như trời-người-Nhị
thừa…, muốn làm cho tất cả nhận biết về pháp
của Như Lai.

-------------------------------

<詞>Phẩm 4: TỨ ĐẾ</詞>

Bốn môn giống như trước:

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Tứ
là số đếm, Đế là nghóa lý, đó là
bởi vì lý thật có thể phát sinh hiểu biết không
trái ngược, cho nên cùng gọi là Đế, tức là Đới
số thích. Phẩm này không phải là giải thích về nghóa của Tứ Đế, mà chỉ trình bày về tên gọi không giống nhau của
Tứ Đế, cho nên gọi là phẩm Tứ Đế.

TRONG Ý đưa ra có năm: Một là giải thích về phẩm trước thành
tựu nghóa của Mạt Quyền đạo; hai là y theo thân
nghiệp trước đây cho nên tiếp đến phân rõ về
ngữ nghiệp; ba là trước đây trình bày về tên gọi không giống nhau của người chủ động
thuyết pháp, phẩm này trình bày về tên gọi không giống nhau của pháp đã thuyết, cho nên đưa ra; bốn là
đáp câu hỏi về Phật thuyết pháp trong phần hỏi
trước đây; năm là giải
thích về căn cơ trước đây thành tựu đã phù
hợp trở thành tướng
Quyền giáo khác nhau trong pháp sai biệt, cho nên tiếp theo đưa ra.

TÔNG THÚ: Dùng vô biên Đế hải rất sâu xa làm Tông, cho
đến giống như Độ hải trước đây. Nghóa về Tứ
Đế tóm lược đưa ra năm môn:
1) Giải thích tên gọi;
2) Phân rõ về tướng;
3) Thể tánh;
4) Nghiệp dụng;
5) Chủng loại (đưa ra ở lúc khác). TRONG GIẢI THÍCH văn
có ba:
1) Trình bày về tên gọi của Đế ở cõi này;
2) Phân rõ về tên gọi của Đế trong mười thế giới ngoài cõi Ta-bà này;
3) Hiển bày về tên gọi của Đế ở các thế giới khắp hư không ngoài mười thế giới.
Trong phần một, trong bốn Đế thì mỗi một Đế đều có ba: Một là nêu ra tên gọi; hai là kết luận
về số; ba là phân rõ về ý, nghóa là vì
ứng với cơ để điều
phục cho nên lập ra tên gọi này. Điều là điều
hòa, Phục là chế phục, nghóa là điều hòa thuần thục
thân-khẩu-ý nghiệp, chế
phục diệt trừ những
tâm hành ác. Vì sao Văn Thù thuyết giảng? Bởi vì trình bày về
Diệu Tuệ khéo léo thông hiểu nghóa của
Thật đế. Lại vì
sao chỉ hiển bày bốn Đế
sai biệt? Đó là bởi vì Quyền giáo
sai biệt dễ
dàng nhận biết. Lại bởi vì dựa vào pháp để hiển bày là thế nào? Nghóa là bởi vì pháp Tiểu thừa này hạn chế vào nơi chốn mà hãy còn có
sai biệt
không giống nhau ở khắp thế giới hư không như vậy, thì biết pháp của
Nhất thừa nối thông các
phương sai biệt vô biên, cho nên lý không nghi
ngờ gì. Lại bởi vì phá
chấp mà dẫn dắt cơ là thế nào? Nghóa là bởi vì
phát triển về pháp hạn
chế của Tiểu thừa kia khiến cho rộng khắp, làm mất
đi chấp trước vốn có, đã hiển bày về pháp giới
vô biên của Nhất thừa,
khiến cho hướng vào nơi ấy.
Vả lại, đây là dựa theo Cọng giáo
Nhất thừa làm quy phạm,
cho nên tiếp nhận tất cả phần vị dưới. Tập là
sinh ra Khổ cho nên nói là
Khổ Tập, Diệt là không còn Khổ cho nên nói
là Khổ Diệt, đến Đạo
của Khổ Diệt cho nên nói là Đạo Diệt Khổ, không thể nào chỉ nói riêng là
Khổ Đạo, bởi vì Đạo không phải là
sinh ra
Khổ, không giống như Tập; lại không phải là
Diệt Khổ, không giống
như Diệt. Nhưng có thể
chứng Diệt nên nói là Đạo của Diệt, bởi vì
Diệt là Khổ Diệt cho nên nói
là Đạo Diệt Khổ. Văn còn lại có thể biết.

----------------------------

<詞>Phẩm 5: NHƯ LAI QUANG MINH GIÁC</詞>

Bốn môn giống như trước:

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Nghóa
là quang minh của Như Lai;
mở thông giác ngộ là quang minh, đó là dựa vào Thể khởi Dụng, dựa
vào Dụng thành tựu lợi ích, đều là Y chủ thích có thể biết.

Ý : đưa ra có bảy
1) Trước đây trình bày về thân-ngữ, nay trình bày về ý nghiệp cho nên đưa ra.
2) Bởi vì đáp riêng biệt câu hỏi về thế lực công đức… trước đây.
3) Bởi vì hai phẩm trước riêng biệt trình bày về người và pháp khắp nơi, phẩm này là cùng hiển bày cả hai khắp nơi.
4) Bởi vì trước chỉ luận về tên gọi của Phật rộng khắp mọi nơi, phẩm này hiển bày về thật đức của thân Phật cũng rộng khắp; trước nói về Tứ đế Quyền giáo rộng khắp mọi nơi,
 phẩm này phân rõ về mười kệ Thật giáo cũng rộng khắp, đó là trường hàng và tụng, là hai nơi.
5) Bởi vì đoạn trừ nghi ngờ, nghóa là phẩm trước Văn Thù nói về tên gọi của Phật-tên gọi của pháp
sai biệt rộng khắp mọi nơi,
sợ rằng Đại
chúng nghi ngờ, cho nên Đức Phật dùng ánh
sáng nơi thân chiếu rọi hiện rõ
sự việc ấy khiến cho Đại chúng tận mắt nhìn thấy, lưới nghi tự tiêu tan,
cho nên đưa ra.
6) Không phải là cứ như trước chỉ có tên gọi của Phật, tên gọi của Đế rộng khắp thế giới như pháp giới hư không, mà nay Như Lai ngay lúc này thuyết về kinh Hoa Nghiêm cũng như vậy rộng khắp
tất cả thế giới cùng
tận hư không, tất cả đều là Thời giống nhau-Xứ
giống nhau-Chúng giống
nhau-Thuyết giống nhau, chính mình nghiệm thấy làm quy phạm phép tắc
về sau, cho nên đưa ra.
7) Tên gọi của Phật, tên gọi của Đế trước đây thì nhiều, tên gọi riêng biệt-rộng khắp riêng biệt, bởi vì đều là Quyền; nay trình bày về một Pháp-một Hội tức là
viên dung rộng khắp, bởi
vì đều là dựa theo Thật. Lại phẩm trước là sai
biệt rộng khắp, phẩm này
là vô sai biệt rộng khắp, cho nên tiếp tục đưa ra.

TÔNG THÚ: Trước là Tông, sau là Thú. Tông có hai:
1) Khai; Hợp.
Trong khai có ba: a) Ánh
sáng chủ động chiếu rọi, b) Cảnh do
ánh sáng đã chiếu rọi,
c) Do chiếu rọi mà thành tựu giác ngộ. Ba phần
này đều có hai: Một là
ánh sáng của Thân chiếu rọi cảnh về Sự khiến
cho Đại chúng nhìn thấy
hiểu rõ, Sự không có gì giới hạn ngăn ngại, tức
là trường hàng đã
phân rõ; hai là ánh sáng của Trí chiếu rọi cảnh về
Lý khiến cho Đại chúng
nhìn thấy hiểu rõ, Lý không có gì sai biệt, tức
là trong tụng đã trình bày.
Hai là hợp,
bởi vì Lý-Sự cùng dung hòa chỉ có một cảnh, cho nên
đạt được
một Sự thì rộng khắp vô biên mà không làm hỏng tướng
vốn có. Bởi vì cảnh
không hai, cho nên ánh sáng của Thân tức là ánh
sáng của Trí, chỉ một
ánh sáng Vô ngại, như kinh Niết-bàn nói: “Ánh
sáng này không có tướng, không phải là xanh mà thấy là xanh.” Lại cũng
bởi vì Sự giác tức
là Lý giác, bình đẳng chỉ một giác. Lại bởi vì ánh
sáng này không khác với cảnh của giác, ba pháp viên dung chỉ một
pháp giới, tuy bình đẳng
không còn tướng mà có đủ tất cả luôn luôn
không tạp loạn, bởi vì
không có gì chướng ngại.
Hai là trình bày về ý thú, hiển bày về Lý-Sự vô ngại này có
nhiều ý thú, tóm lược
nói là năm loại:
1) Gần thì làm cảnh thụ động Tín cho Bồ-tát trong Tín.
2) Xa thì làm quy phạm cho một Bộ ở văn sau, bởi vì trong các Hội sau đều kết luận nối thông nói rằng tất cả thế giới cũng nói như vậy, là chỉ về văn này.
3) Bởi vì hiển bày Như Lai xuất thế dùng Nhất thừa Viên
giáo hướng về một loại thế giới như núi
Tu-di-lâu… để làm phạm vi thi thiết giáo hóa.
4) Bởi vì hiển bày một Hội tức là tất cả các Hội, cho nên quyển thứ nhất nói là thân ấy an tọa khắp nơi tất
cả đạo tràng.
5) Hiển bày về Lý-Sự đều không có gì chướng ngại, vốn là khiến cho chúng sinh bỏ chấp theo pháp.

GIẢI THÍCH VĂN: Ánh
sáng này đã chiếu rọi khắp nơi không có giới hạn, đại khái tổng
số có 25 lớp, 9 lớp trước nói
riêng biệt, 16 lớp
sau phân rõ như nhau, là thành mười đoạn. Trong này
không phải là 25
lần phát ra ánh sáng, cũng không phải là một lần
phát ra ánh sáng theo
thứ tự dần dần chiếu rọi 25 nơi, chỉ một lần
phát ra ánh sáng thì cùng lập tức chiếu rọi, hiển hiện cùng một lúc, bởi vì dẫn dắt căn cơ tiến vào
pháp khiến cho dần dần nhìn thấy, từ gần đến xa
cho nên có thứ tự.

Ở trong đoạn
thứ nhất có hai: Trước là Đức Phật dùng ánh
sáng của thân
soi chiếu Sự, khiến cho Đại chúng được
trông thấy;
sau là
Văn Thù dùng ánh sáng
của trí để thuyết pháp, khiến cho Đại chúng được nghe.

Trong phần trước có hai:
1) Trình bày về ánh sáng chủ động soi chiếu;
2) Trình bày về cảnh đã soi chiếu. Trong phần một, đầu là người phát ra ánh sáng, tiếp là nơi
ánh sáng phát ra, sau là
hiển bày về số ánh sáng. Tướng vòng xe dưới chân phát ra ánh
sáng có ba ý: a)
Nghóa ban đầu, biểu thị về Tín làm đầu
tiên của vạn hạnh; b)
Nghóa dưới thấp, biểu thị về Tín hành nhỏ bé nhất; c) Nghóa căn bản, biểu thị về Tín là gốc của vạn hạnh.
Trí Luận quyển
thứ 9 nói: “Dưới chân
phát ra ánh sáng là thân đạt được trú xứ đều do nơi chân.” Là nói đến điều này. Trăm ức
quang minh, bởi vì thế giới đã
soi

chiếu tuy là
vô biên nhưng đều là thế giới Tu-di-lâu sơn, cho nên đều có trăm ức thế giới hệ… vốn là đã
soi chiếu, vì thế quang minh
cũng chỉ có trăm ức.

Trong phần hai, đã
soi chiếu hiện rõ có hai: a) Trình bày về
soi chiếu hiện rõ sự
nhiễm-tịnh… trong Đại thiên thế giới; b) Từ “Như thử kiến Phật…” trở xuống là trình bày về
soi chiếu hiện rõ tướng rộng
khắp mọi nơi từ pháp hội.

Trong phần a có bốn: Một,
hiện rõ cõi người, bên bờ biển này
có đại thọ tên gọi
Diêm-phù-đề, dựa vào cây này lập ra tên gọi của
châu này. Phất-bà-đề,
Trung Hoa nói là Thắng Thân, bởi vì người sinh ở
cõi ấy thân đều thù thắng. Cẩu-già-ni, Trung Hoa
nói là Ngưu Hóa, bởi
vì ở cõi ấy dùng trâu
làm hàng hóa trao đổi. Uất-đơn-việt, Trung Hoa nói là
Thắng Sinh, bởi vì xác định
sống thọ ngàn tuổi, áo cơm
tự nhiên. Hai, hiện rõ
Phật xuất thế, ở trong tám tướng, ba tướng đầu chưa phải
là tướng xuất hiện cho
nên ở đây không luận đến.

Hỏi: Đức Phật mới thành đạo trong bảy ngày thứ hai, phát ra
ánh quang minh này làm sao
lại hiện rõ về đời sống lúc còn làm
Bồ-tát…? Vả lại, Đức Phật mới xuất thế, vì
sao lại hiện rõ là có
Bát Niết-bàn? Đáp:
Văn sau nói, ở trong một niệm hiển bày rõ ràng tất cả
Phật sự
của ba đời, đây là
trình bày về hiện tại thâu nhiếp quá khứ-vị lai. Hỏi: Nếu như vậy thì
sao không hiện rõ
sự việc của vô lượng kiếp
ấy? Đáp: Ý văn trong này bởi vì chỉ luận về
sự việc của Đức Phật xuất

hiện trong thế
giới này, cho nên không nói đến điều gì khác mà thôi.

Ba, hiện rõ chư Thiên có thể biết. Bốn, thế giới này… là một
câu tổng quát kết luận
về tất cả những gì hiện rõ.
Trong phần b hiện rõ từ pháp hội
có hai: Một, hiện rõ
Hội này; hai, từ “Dó Phật
thần lực…” trở xuống là hiện rõ chúng mới đến quy
tụ. Trong đó, thần lực của Phật là trước thì như cảnh tượng ấy mà hiện
bày thần lực.
Trong chúng đã quy tụ có ba thế gian… có thể biết.
Lại như ánh
sáng nơi này
soi chiếu vô biên thế giới, mỗi một chúng hội thảy đều hiển bày rõ ràng, mỗi một hội kia cũng đều như vậy, ánh
sáng
soi
chiếu vô biên bởi vì
pháp không hai, cùng với nơi này không khác nhau.
Lại các ánh sáng đan xen
qua lại không trở ngại nhau, bởi vì đều thấy
ánh sáng nơi ấy soi chiếu
nơi khác, không thấy ánh sáng nơi khác soi chiếu đến mình. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì chủ với chủ-bạn với bạn
đều không song song, bởi
vì chủ-bạn và bạn-chủ đều không trái nhau.

Hỏi: Các Hội
này vì sao hiển bày lẫn nhau?

Đáp: Có hai
tướng: Một là bởi vì ánh sáng này soi chiếu nơi kia, khiến cho nơi kia hiện rõ nơi này thâu nhiếp thành một Hội, nơi
kia cũng như vậy. Điều
này giống như chư Phật phân thân trong Pháp
Hoa. Hai là ngay một Hội
này, Đức Phật và Văn thù đều dung hòa khắp
nơi pháp giới, là tất
cả các Hội. Bởi vì trong Viên giáo không có một pháp nào không phải là tất cả, cho nên một Văn Thù từ phương Đông
đến thì tức là Văn
Thù ở tất cả mọi nơi trong một lúc cùng đến. Từ đây
đi về phương Tây trải
qua mọi nơi thuyết kinh Hoa Nghiêm ở vô biên thế giới, cũng thấy
Văn Thù đến từ ngoài mười cõi ở
phương Đông.
Phương Đông cũng như vậy. Chưa có ai thấy Văn Thù đi qua từ hướng Tây,
cho đến Hiền Thủ cũng
như vậy. Bởi vì là duyên khởi môn không xen
tạp của Nhất thừa, suy
nghó điều này!
Hai là trong Trí quang giác có hai: Trước là nơi này,
sau là kết luận nối thông. Trong này ý tụng chỉ dung hòa hội tụ các
sự việc do
ánh sáng trước đây đã
soi chiếu. Trong đó có hai nghóa:
1) Dựa theo cảnh
có ba loại: a) Một tụng
đầu trình bày về pháp lìa xa tình; b) Có tám
tụng hội tụ Sự giống
với Lý; c) Một tụng cuối cùng hiển bày về Sự vô ngại, đều dựa vào phần trước phát khởi
phần sau.
2) Dựa theo tâm:
Một là sợ rằng Đại chúng
thấy sự việc do ánh sáng trước đây đã soi chiếu,
tùy theo tướng mà chấp
lấy, cho nên kệ đầu dựa theo Phật mà loại bỏ,
kh- iến cho Đại chúng rời
bỏ tướng lìa xa sai lầm trái với lý. Lại kinh Niết- bàn nói: “Như Lai không phải là vô lưu, nguyên cớ thế nào? Bởi vì
Như Lai thường hành trong hữu lưu.”
Lại Phật Địa luận trình bày:
“Bởi vì Phật không phải là lưu-không phải là vô lưu.” Hai là
sợ rằng Đại
chúng phát sinh nghi ngờ,
vì sao sự việc này mà có thể rộng khắp mọi nơi? Vì thế tám kệ tiếp hội tụ Sự giống với Lý, khiến cho Đại chúng thấy
Chân hiển bày thuận theo pháp đạt được. Ba là nghi ngờ rằng Sự đã giống
với Lý thì bình đẳng
không hai, vì sao có thể có từng sự việc-sự việc rộng khắp mọi nơi? Vì thế một kệ
sau cuối trình bày vốn là Sự của Lý, mà
có thể một Sự là vô lượng Sự.

Trong tám tụng, một tụng thứ nhất do trước đã biết Phật là
pháp vô lưu thì trở
thành sai lầm, chưa biết như vậy thì không có lỗi ư?
Nay nói quán Phật vô
sở hữu thì không có lỗi, bởi vì pháp công đức của
Phật từ duyên không có
tánh cho nên tự tan diệt. Lại giải thích là quán
Phật và pháp vốn đều lìa tánh, đây tức là hội tụ về Phật phát ra ánh
sáng trước đây để trình bày về lìa kiến chấp. Tụng thứ hai là hội tụ về nơi ánh
sáng trước đây đã
soi chiếu, lại trình bày về y-chánh trước đây đều không còn trú trong
chấp trước. Tụng thứ ba là trình bày về y-chánh

không hai, lại
trình bày về thân Phật và pháp vô lưu đều vô sở hữu
cho nên không hai. Tâm tùy
ấy là phương tiện quán. Nhập ấy là chính thức chứng về quán. Tụng thứ tư là hội tụ tất cả ba thế gian. Ngã là
Ngã chấp của chúng sinh, Phật
là Trí chánh giác. Hai chủ-bạn này bình đẳng,
hai trú xứ kia là Khí
thế gian. Vô sở trú cho nên lìa các cõi (hữu). Vả lại, Ngã là vọng chấp, Phật là
Chân trí, đây là nêu ra hai bình đẳng, hai
câu sau giải thích về
Chân trí, đối với Lý trú vào vô sở trú, đương
Thể của vọng Ngã xa lìa đối với cõi. Tụng thứ năm là hội tụ tất cả năm Uẩn, Số là tướng của
Tục số
duyên khởi, nghóa là năm Uẩn nếu có thì
có thể thuộc về Tục
số, bởi vì Uẩn Không cho nên không có Số. Lại
hội tụ trăm ức ánh
sáng đã phát ra trước đây… và các số lượng thế giới
đã soi chiếu…, đều dựa
vào trong Sắc-Tâm năm Uẩn mà lập lập, tìm năm Uẩn này thật
sự không có Số của nó, cho nên nói là
Vô số. Tụng thứ
sáu là không còn chủ
động quán và thụ động quán (năng-sở quán), không phải là cứ như Không của những thế giới đã thấy, trí của chủ động
quán cũng vô sở hữu,
lại thấy ấy là người, đây cũng là Không. Tụng thứ bảy là quán về
Dụng thường vắng lặng, nghóa là Đức Phật này xuất
thế tức là không có gì
khởi. Lại như lý Không này hiện rõ trước mắt gọi là Phật xuất hiện, thì
Không Phật gọi là không có gì khởi. Tụng thứ tám
là quán về hai Không,
câu trước là Nhân Không, câu tiếp là Pháp
Không. Chuyển tướng như
vậy thì một là dựa theo chấp chuyển hết tướng
của hai chấp, hai là chuyển tướng hiện rõ lý về hai Không, đều một câu
sau cuối trình bày về lợi
ích của quán, đều có thể biết.
Trong một giải thích về vô lượng, là trình bày trong một
Hội này… mà có vô lượng
Hội…, trong vô lượng Hội… mà là một Hội, là nơi
mà ánh sáng trước đây
đã soi chiếu. Trong đó, hai câu đầu là nêu ra,
một câu tiếp là giải
thích, một câu sau cuối là lợi ích.

Trong nêu ra
luận chung về Hội này có cùng Thể-khác Thể, đều có dung chứa nhau-ngay
trong nhau, dựa theo giải thích ở trên nên biết. Văn này lại trình bày về dung chứa nhau, cho nên nói một trong
vô lượng…, nhưng gồm
chung đồng Thể-khác Thể.
Hai là trong giải thích
sơ lược nêu ra hai nhân để
giải thích:
1) Bởi vì lần lượt chuyển tiếp sinh ra;
2) Bởi vì không phải là thật. Môn một lần lượt chuyển tiếp sinh ra: Là tổng quát thu nhận như duyên
sai biệt tận cùng pháp giới này làm thành một
duyên khởi, vì
vậy từng các duyên một
hướng về nhau đều có hai nghóa: a) Dựa theo
Thể, đầy đủ nghóa
Không-Hữu cho nên có ngay trong nhau
(tương tức), nghóa là nếu không có một thì tất cả các duyên đều mất đi tự Thể. Nguyên cớ

thế nào? Bởi
vì không có một thì nhiều không hề có thành tựu,
không hề có thành tựu
cho nên không phải là duyên. Vì vậy, có một thì có tất cả, mất một thì mất tất cả, ngay trong tất cả này vốn là nghóa về
Không. Phai mờ Tự tức
là Tha, bởi vì một là nghóa về Hữu, cho nên thâu
nhiếp Tha tức là Tự, ngược lại với trên. Tức
một là nghóa về Không cho nên cũng phai mờ Tự tức là Tha. Nhiều là nghóa về Hữu cho nên thâu nhiếp Tha tức là Tự. Bởi vì hai
Không-hai Hữu đều không đi cùng cho nên lúc không có thì không ngay
trong nhau; má»™t
Không-một Hữu không
trở ngại nhau, cho nên
luôn luôn có ngay trong nhau. Lại bởi vì trong
mỗi một duyên Không-Hữu
không hai cho nên không làm hỏng Tự mà
tức là Tha, suy nghó về
diệu nghóa này. b-Dựa theo Dụng, bởi vì có nghóa về có lực-không có lực, cho nên có hòa vào nhau
(tương nhập), nghóa
là các duyên khởi không
phải là đều ít lực mà cùng sinh, tức là mỗi một duyên đều có nghóa về toàn bộ dấy lên-nghóa về toàn bộ không dấy
lên. Nguyên cớ thế nào?
Bởi vì nếu không có một duyên thì những
duyên khác đều không
dấy lên, là do một duyên có lực mà những duyên
còn lại đều không có
lực, duyên khác cũng như vậy. Đây tức một duyên có lực cho nên có thể dung nạp
nhiều duyên, nhiều duyên không có lực cho nên kín đáo hòa vào một duyên; nhiều duyên có lực…
cũng như vậy. Cũng do hai có lực-hai không có lực không đi cùng cho nên
lúc không có thì không
hòa vào nhau; một có lực-một không có lực không trở ngại nhau, cho nên luôn luôn hòa vào nhau mà thôi. Lại ở trong
mỗi một duyên đều do có
lực-không có lực không hai, cho nên không
làm hỏng ở bên ngoài
mà luôn luôn hòa vào nhau, suy nghó điều này.
Bởi vì trong môn duyên khởi có nghóa như dấy lên lẫn nhau (tương tác)… này mà
thành một-nhiều, cho nên nói lần lượt chuyển tiếp
sinh ra.
Ngay trong một-nhiều này trải qua lẫn nhau lần lượt chuyển tiếp
sinh ra
nhau, cho nên đạt được
một trong vô lượng, vô lượng trong một.

Môn hai bởi vì không phải là thật, cũng có hai môn: a)
Nghóa về ngay
trong nhau, nghóa là một không phải là thật một cho nên có
thể thâu nhiếp nhiều,
nhiều không phải là thật nhiều cho nên có thể
ngay trong một. Lại nhiều không phải là thật nhiều cho nên có thể thâu
nhiếp một, một không
phải là thật một cho nên có thể ngay trong nhiều.
Lại một của ngay trong
nhiều không phải là một, nhiều của ngay trong một không phải là nhiều. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì
không thật.
Lại một của ngay trong nhiều mới gọi là một, nhiều của ngay trong một mới
gọi là nhiều. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì là không thật một. Nhiều cũng
như vậy. Lại là cũng
một-cũng không một, cũng nhiều-cũng không nhiều.

Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không thật vốn có đủ hai nghóa.
Lại không phải là một-không
phải là không một, không phải là nhiều-không
phải là không nhiều.
Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không thật vốn không
còn hai tướng,
suy nghó điều này. b-Môn dung nạp nhau, nghóa là một
Sự là không thật bởi vì không có tánh, Chân lý không có tánh đã
không có phạm vi giới
hạn, vì vậy lúc ở trên một Sự quán về không có
tánh, không có gì không
đầy đủ toàn bộ pháp giới Chân như. Nếu lúc
quán một ít Sự không
có tự tánh, thì không có thể đầy đủ toàn bộ pháp
giới Chân như, tức là
Chân như có phạm vi giới hạn, vẫn giống như hữu
vi. Vì vậy một Sự không
có tánh thì thâu nhiếp toàn bộ Chân, thâu
nhiếp toàn bộ Chân thì
tất cả các pháp khác đã không ngăn ngại tồn tại,
mà tức là Chân cho nên
giống như Lý cùng hiện rõ ở trong một Sự;
trong nhiều cũng như vậy,
dựa theo đây. Lại bởi vì đều không làm hỏng Sự vốn có cho nên không phải là môn ngay
trong nhau. Bởi vì
Sự của không thật thâu nhiếp Chân lý cho nên có thể hòa vào nhau. Lại có thể lần lượt chuyển tiếp
sinh ra trước đây dựa theo khác Thể ngay
trong nhau-hòa vào nhau, môn
này dựa theo cùng Thể ngay trong
nhau-hòa vào nhau, suy nghó điều này.
Lại chỉ trong kinh này giải thích về nghóa ngay trong
nhau-hòa vào nhau đều có hai môn:
1) Dựa theo tướng duyên khởi do môn;
2) Dựa theo pháp tánh dung thông môn. Vốn là hai văn này. Lại bởi
vì lần lượt chuyển tiếp
sinh ra cho nên không thật, tức là hai môn
không khác nhau. Lại bởi vì hai môn ngay trong nhau-dung nạp nhau,
 đều thâu nhiếp toàn bộ các pháp cho nên cũng không khác nhau, nhưng nghóa luôn luôn không xen tạp,
suy nghó điều này. Ở đây văn
sau cùng
với văn này giống nhau,
thích hợp dựa theo đây biết được. Văn này lại
dựa theo nghóa dung nạp
nhau mà nói, cho nên nói là một trong vô
lượng…, nhận biết điều này. Lợi ích của quán là thông hiểu chánh lý này đối
với duyên không sợ
hãi, cho nên nói là Vô sở úy; bởi vì cảnh và pháp
vô ngại, do đó làm cho
trí không có gì sợ hãi.

Trong phần sau
là kết luận nối thông, chỉ kết luận về trăm ức
xứ Diêm-phù trong một thế giới
Ta-bà này, không phải là thế giới
khắp nơi hư không ở văn
sau… Theo thứ tự hai tầng nói: Văn Thù nhất
thiết xứ, chỉ là mười
quốc độ Phật ở mười phương đều có trăm ức xứ, không phải là xứ ở tầng thứ ba, cho đến cuối cùng mới là toàn bộ pháp giới.
Ý văn như vậy nên biết.
Tầng thứ hai
soi chiếu mười phương đều có mười thế giới.
Trường hàng giống như trước, trong kệ phân làm hai: Đầu là
sáu kệ ca ngợi Đức Phật,
sau là bốn kệ ca ngợi Bồ-tát. Trong phần đầu:
1) Hiển bày về nhân cầu đạo của Phật;
2) Chuyển chánh pháp luân, câu đầu là nêu ra, câu tiếp giải thích về không Thường, hai câu sau cuối giải thích về không Đoạn;
3) Đại thệ làm căn bản;
4) Từ lực chế phục ma;
5) Chứng Trí đoạn bên trong;
6) Lợi ích của trí giáo hóa bên ngoài. Trong phần sau ca ngợi Bồ-tát:
1) Đi qua các cõi;
2) Niệm Phật; Cứu khổ;
4) Hộ pháp, đều là câu sau cuối kết luận về nhân quả. Tầng thứ ba soi chiếu mười phương đều có trăm thế giới.
Trong kệ đưa ra hai
giải thích: Một giải thích là một kệ đầu ca ngợi về đức
của Báo thân, chín kệ
còn lại ca ngợi về đức của Hóa thân. Trong một kệ trước, hai câu đầu trình bày về đức của Đại Trí, một câu tiếp là đức
của Đại Định, một câu
sau cuối là đức của Đại Bi. Lại giải thích: Dùng
Lý trí soi chiếu Chân, cho
nên hiểu rõ các pháp như Không, đạt được
tâm thanh tịnh vô ngại;
dùng Lượng trí rõ ràng về Tục, cho nên hiểu rõ các pháp như Huyễn, có thể điều phục
quần sinh. Hai giải thích rằng một
kệ đầu là tổng quát,
chín kệ còn lại là riêng biệt. Trong tổng quát, do
ứng với cơ mà hiện
khởi, cho nên như huyễn, khiến cho trông thấy sai biệt. Do mẫu mực mà
không khởi, cho nên như Không, bình đẳng cùng
chung một vị.
Do khởi-không khởi không có hai, điều phục chúng
sinh thì tâm thường
thanh tịnh, cho nên nói là vô
chướng ngại. Trong chín kệ
sau đều có đủ nghóa về không hai này, cho nên
Dụng thường vắng lặng.
Lại ba câu trước trình
bày về Thể của duyên khởi thanh tịnh, một câu
sau cuối trình bày về
duyên khởi. Chín kệ sau dùng Thể thuận theo duyên, chính thức trình bày về tướng của
duyên khởi. Trong đó hoặc là thấy thì có ba nghóa:
1) Dựa vào một người thấy ở thời gian khác nhau, nghóa là như lúc đầu thấy mới
sinh ra, cho đến về
sau
thấy Niết-bàn, lần
lượt mà thấy.
2) Nhiều người thấy cùng một lúc, nghóa là có người thấy lúc đang thuyết pháp thì từ trong ấy có người thấy Niết-bàn…, đều không có
gì chướng ngại, không
trông thấy lẫn nhau.
3) Một người thấy cùng một lúc, nghóa là thấy lúc mới sinh ra, trong đó thì thấy Niết-bàn…, như tám tướng tinh tế… ở
văn sau. Bởi vì tâm thanh tịnh vô ngại, cho nên có
thể dung hòa trọn vẹn
ứng với khắp nơi.

Trong đó:
1) Má»›i sinh ra;
2) Lúc đi bảy bước;
3) Lúc quay đầu lại nhìn mười phương;
4) Lúc Sư tử gầm lên nói trên trời dưới đất
chỉ có Ngã là tôn quý;
5) Xuất gia;
6) Thành đạo;
7) Chuyển pháp luân;
8) Hiện bày thần lực;
9) Nhập Niết-bàn. Tầng thứ tư soi chiếu một ngàn thế giới. Trong kệ phân làm ba: Đầu là hai kệ trình bày về
Pháp thân, tiếp là bốn kệ phân rõ về Giải
thoát, sau là
bốn kệ trình bày về Bát-nhã.

Trong phần Pháp thân, một kệ đầu trình bày về lý thích ứng
với duyên khởi, nghóa là câu đầu nêu rõ
sâu xa, những câu
sau giải thích
về không có tướng đã
đạt được, cũng không có trí có thể đạt được,
nhưng không trú vào pháp này cho nên ứng với cơ mà hiện rõ; một kệ
sau
trình bày về hiện rõ
tức là không hiện rõ, cho nên lìa xa các trần.

Trong phần tiếp là Giải thoát có ba: Một
kệ đầu thế nào là Giải thoát, nghóa là câu đầu trình bày về Thể của
giải thoát; ba câu
sau
trình bày về Dụng của
giải thoát, nghóa là cơ cảm tương ưng gọi hòa hợp
mà khởi lên. Hai kệ rưỡi tiếp phân rõ về giải thoát nơi nào, nghóa là một kệ đầu lìa ràng buộc của khổ, lìa Phần đoạn cho nên không thuộc
về thế gian, lìa Biến dịch cho nên gọi Sư tử giữa
loài người; một kệ tiếp
lìa ràng buộc của nghiệp,
nghóa là căn-cảnh vốn Không, nghiệp hư
vọng không còn cho nên
cùng thoát ra, một câu tiếp lìa ràng buộc của phiền não, một câu tiếp gồm chung kết luận vónh viễn không còn cho
nên chảy dài không
chuyển đổi. Nửa kệ sau cuối trình bày về nhờ vào
đâu mà giải thoát, nghóa
là nhờ vào Tự lợi-Lợi tha viên mãn, nói như văn.

Trong phần sau là Bát-nhã có ba: Một
kệ đầu soi chiếu về Chân, hai kệ tiếp là hiểu rõ về Tục, một kệ
sau cuối là cùng kết luận về
Chân- Tục dung hòa vô ngại.

Tầng thứ năm soi chiếu một vạn thế giới. Trong kệ khuyến
khích các Bồ-tát tu mười loại nghiệp:
1) Nghiệp về Từ Bi;
2) Nghiệp về Tín tâm niệm Phật;
3) Nghiệp về Tuệ thiện;
4) Nghiệp về không gián đoạn;
5) Nghiệp về trải qua thời gian dài;
6) Nghiệp về quán Thật tướng của thân;
7) Nghiệp về quán Thật cảnh của tâm;
8) Nghiệp về thần thông;
9) Nghiệp về phân biệt quốc độ của Phật;
10) Nghiệp về nhận biết rõ ràng nhiều Đức Phật. Ở trong mười nghiệp này, một nghiệp đầu là duyên với hành của
chúng sinh; bốn nghiệp tiếp là duyên với hành
của Đức Phật, một là Tín, hai là Tuệ, ba là Quán, bốn là Cầu; hai
nghiệp tiếp là tiến vào
quán hạnh, một là Tự, hai là Tha, lại một là Thân,
hai là Tâm; ba nghiệp sau
cuối là khởi lên tác dụng thực hành, một nghiệp
đầu là tác dụng của thần thông, hai nghiệp sau là
tác dụng của trí,
một là biết về quốc
độ, hai là biết về Phật.

Tầng thứ sáu soi chiếu mười vạn thế giới. Trong kệ dựa vào
bản Phạm, mỗi bốn câu
làm một tụng, gồm có 11 kệ. Trong đó có hai: Đầu
là sáu kệ bảy chữ trình bày về Thể tánh tịch
diệt của Phật, sau là
năm kệ năm chữ trình
bày về diệu dụng tự tại.

Trong phần đầu: Một kệ đầu trình bày về chấp vào Sắc là trái với

Chân. Hai là
Diệu tướng vượt quá tình thức. Ba là hiển bày về
nguyên cớ vượt quá
tình thức, nghóa là dùng không phải là tướng để làm
tướng. Bốn là tướng
ngay nơi không phải tướng, cho nên không có hợp lại-tản ra. Năm là trình bày về Phật không có năm Uẩn. Nếu dựa theo
Tiểu thừa thì Phật có năm
Uẩn hữu lậu, như
Tỳ-bà-sa… nói. Nếu dựa vào
Thỉ giáo thì Phật có năm
Uẩn vô lậu, như
Thành Duy Thức… nói. Nếu là Chung giáo và Đốn-Viên
giáo thì Phật không có năm Uẩn vô lậu,
như Phật Địa luận nói:
“Nghóa như thật là thân-độ của Như Lai vô cùng
vi diệu cho đến không
phải là các pháp môn như Uẩn-Giới… thâu
nhiếp, chỉ tùy theo những
gì thích ứng mà nói đủ loại khác nhau.” Sáu là trình bày về trong tâm-ngoài thân của
Phật không khác, bởi vì cùng giải
tho- át, bởi vì không có
hai, bặt dứt sắc-tâm.

Trong phần sau là diệu dụng có ba: Một
kệ đầu là ánh sáng
của Trí soi chiếu. Hai kệ
tiếp là thân hướng đến cảm ứng vô ngại, một
kệ đầu là một-nhiều
vô ngại, một kệ sau là lý-sự vô ngại. Hai kệ sau
cuối nêu ra Vọng để hiển bày về Chân, một kệ
đầu là nêu ra Vọng, một
kệ sau là hiển bày về
Chân. Như vậy chân thật là vọng tưởng trước đây, bởi vì người mê cho rằng vọng là thật mà không thấy thật của
vọng, người ngộ thấy vọng không có thật tức là thấy thật của vọng, bởi vì
hợp với pháp vọng. Lại
bởi vì người mê có vọng mà không nhận biết vọng cho nên không có thật của vọng,
 người ngộ không có vọng cho nên nhận biết vọng, nhận biết vọng cho nên đạt được thật của vọng,
suy nghó điều này.
Tầng thứ bảy
soi chiếu trăm vạn thế giới. Trong tụng có mười
kệ: Một kệ đầu là một
mình vượt lên trên thế gian. Hai là khéo léo bặt
dứt tâm-cảnh, không có nương tựa thì không có
cảnh. Ba là tánh đối trị
lìa nhiễm, câu trước là
tánh lìa xa, câu tiếp là đối trị lìa xa, hai câu sau
là giải thích thành tựu.
Bốn là lìa xa Vọng-hiểu rõ Chân. Năm là chuyển-
không chuyển pháp luân. Sáu là lìa xa tưởng
có-không có, gọi là ý
ng- hóa đích thực. Bảy
là dựa theo Chân đế, pháp bặt dứt một-nhiều.
Tám là dựa theo Tục đế,
trong đó hai câu đầu là một-nhiều không xen
tạp, hai câu sau là hiển
bày về lợi ích nhận biết rõ ràng.

Hỏi: Trước đây nói trong một hiểu vô lượng…, cùng với điều
này trái ngược nhau, làm
sao có thể giải thích? Đáp: Trong này duyên khởi có bốn câu:
1) Trong một có nhiều bởi vì một không có tánh;
2) Trong một không có nhiều bởi vì một không làm hỏng;
3) Trong một cũng nhiều cũng không nhiều, bởi vì không làm hỏng một mà không có tánh, không có tánh mà không ngăn ngại một,
cho nên có
đủ hai nghóa;
4) Trong một không phải là nhiều cũng không phải là không nhiều, bởi vì hai nghóa đều dung hòa làm mất đi cho
nên cả hai cùng phai mờ. Lại do một cho nên có hai,
bởi vì nếu không
phải là không có tánh
thì làm hỏng một; do hai cho nên có một, bởi vì
nếu làm hỏng một thì
không có gì không có tánh. Vì vậy hai nghóa mà chỉ là
một sự. Đây là dựa theo
Bất hoại, trước là dựa theo
Vô tánh, cho nên không trái
ngược nhau. Đây tức là bởi vì trong một không có nhiều, cho nên trong một có nhiều; trên ngược lại cũng như vậy. Câu thứ ba và
câu thứ tư, cùng-không
cùng thuận theo nhau cũng như vậy, cùng vô
ngại mà thành lập, suy
nghó chuẩn xác điều này.
Chín là quán về tướng của ba pháp không còn, gọi là niệm
Bồ-đề: Một là các
pháp, hai là chúng sinh, ba là quốc độ. Mười là quán về
ba pháp như tánh gọi là
hiểu rõ về nghóa của pháp Phật.
Tầng thứ tám
soi chiếu một ức thế giới. Phép đếm
số của các nước Tây Trúc có ba loại ức:
1) Trăm vạn;
2) Ngàn vạn;
3) Vạn vạn. Văn sau trăm ngàn-trăm ngàn gọi là một Câu-chi, Câu-chi thì Trung Hoa nói là Ức, là một ngàn vạn làm Ức. Trong này dựa vào ngàn vạn làm một
Ức, Đối Pháp luận nói
v..v… Trong tụng có 20 kệ ca ngợi về lực thiện
xảo của Phật, hai tụng là một nghóa, đều trước là nêu ra những việc làm, một câu
sau cuối kết luận do năng lực khéo léo. Trong đó có mười:
Một là lực về Trí đoạn
viên mãn. Hai là lực về Đại Trí vui với cảnh. Ba là lực về không có công
sức mà thành tựu
sự việc, trong đó có ba pháp, một là
chúng sinh, hai là nơi giáo hóa, ba là nội thiền, đều lìa xa
nhiễm trước cho nên nói
là năng lực khéo léo. Bốn là lực về Lý-Trí
tiến vào Thật. Năm là lực về nêu rõ quả thâu nhiếp
chúng sinh. Sáu là lực về
Trí tiến vào
sâu xa bí mật. Bảy là lực về
Cảnh-Trí cùng mất cả hai. Tám là lực về nhớ thời gian rõ ràng nơi chốn. Chín là lực về thông hiểu rõ
ràng mọi căn cơ. Mười
là lực về khéo léo thông hiểu ba thời gian. Trong
đó một loại đầu là
dựa theo Tục, một loại sau là dựa theo Chân.

Tầng thứ chín soi chiếu mười ức thế giới. Trong tụng có 20 kệ
ca ngợi về hạnh Lợi tha
của Đức Phật, cũng hai tụng làm một sự.

Trong đó, hai kệ đầu tổng quát nêu ra ý giáo hóa, 16 kệ tiếp
riêng biệt phân rõ về
sự giáo hóa, hai kệ sau cuối là kết luận về Dụng giống như Thể.

Trong phần đầu, Sư tử hống là quyết định độ. Trong riêng biệt
có tám cặp, đều là
một kệ đầu nêu ra đã được cứu giúp, một kệ
sau phân rõ về chủ động cứu giúp.
Trong cặp đầu, một kệ trước là cứu giúp
chúng sinh si-ái, như người
rơi xuống biển, do bốn nghóa khó mà thoát khỏi:

Nước sâu;
2) Sóng cao;
3) Bị vướng vào lưới;
4) Tối tăm mù mịt cho nên khó thoát; chúng sinh cũng như vậy.
Trong này, ái có hai nghóa:
1) Đã được nhiều vốn là như biển;
2) Cầu không đủ như nước chảy; si cũng có hai nghóa: a) Không thấy lầm lỗi cho nên như ngu đần, b) Thấy có vui cho nên đan thành lưới. Một kệ sau là tự mình
tinh tiến thực hành là chủ động cứu giúp, tức là
cảnh Bi của Phật, cho nên
nói là cảnh Phật. Hai là cứu giúp chúng sinh
năm dục, nghóa là năm
cảnh như Sắc… làm cho tâm mê mẩn hỗn loạn, thật không có nói là có, cho nên phát khởi vọng tưởng… Ba là cứu độ
chúng sinh đắm Ngã,
Tuệ là Phật, thời gian này là Ngã, Ngã là gốc của
sinh tử cho nên Phật chủ động diệt trừ; ba câu
sau là đã được cứu giúp, câu
đầu là trước không có
ranh giới, câu dưới là sau không có tận cùng,
không có Ngã-Pháp là
tịch diệt. Bốn là cứu giúp chúng sinh trong nẽo ác, kệ đầu là khổ vô cùng, hai câu
sau là khổ
sâu nặng. Năm là cứu giúp
chúng sinh tà kiến ngoại đạo. Sáu là cứu giúp chúng
sinh mê đắm ba cõi.
Bảy là cứu giúp chúng
sinh vô minh. Tám là cứu giúp chúng sinh luôn
luôn vây hãm. Trong hai kệ
sau cuối là kết luận,
sáu câu đầu là
nhân tròn vẹn, câu đầu là có duyên, câu hai là hạnh vốn có, câu ba là
nơi thực hành, câu bốn là thực
hành nhiều, năm là hai câu thực hành
sâu
sắc; hai câu sau cuối là
quả đầy đủ, bởi vì giống với tất cả các thân
của ba thế gian.
Tầng thứ mười có 16 lớp, bởi vì nói riêng biệt khó hết cho
nên tổng quát mà luận,
cũng có 20 kệ, 6 kệ đầu nêu ra quả ca ngợi về
đức, 14 kệ sau trình bày
về nhân hướng đến tiến vào.

Trong phần trước, hai kệ đầu là nội trí hợp với Chân, trong đó hai câu đầu là một niệm quán
nhiều kiếp, hai câu tiếp là một niệm phai mờ ba đời, hai câu tiếp là biết duyên khởi tức Chân, hai câu tiếp là công thành vỗn có quả. Tiếp có hai kệ trình bày về đức thù thắng nổi
bật bên ngoài, trong đó hai câu đầu là tên gọi khắp nơi, hai câu tiếp là lìa nhiễm,
 hai câu tiếp là thân khắp nơi, hai câu tiếp là thuyết giảng khắp nơi.
Hai kệ sau cuối trình bày về nhân
quả y-chánh, trong đó trước là phước
làm nhân đạt được Y
quả, sau là trí làm nhân đạt được Chánh quả.
Trong 14 kệ
sau luận chung về giáo tu bảy loại hạnh: Một là hai kệ đầu tu hạnh
Tự lợi-Lợi tha, kệ trước là
Tự lợi, câu đầu là Phước, câu
hai là Nhẫn, câu ba là
Định, câu bốn là Tuệ; kệ sau là Lợi tha. Hai là
hai kệ thành tựu hạnh
thấy Phật, kệ đầu là thấy Ứng, kệ sau là thấy
Chân. Thông hiểu rõ ràng
tất cả các pháp có-không, không phải là có-không thì có ba môn:
1) Dựa theo ba tánh;
2) Dựa theo ba vô tánh;
3) Dá»±a theo

cả hai dung hòa.

Trong một lại
có hai, trước là riêng biệt, sau là tổng quát.
Trong riêng biệt, ba tánh đều có hai nghóa.
Trong Sở chấp, một là tình
có, hai là lý không có.
Trong Y tha, một là huyễn Hữu, hai là tánh
Không. Trong
Viên thành, một là lìa tướng, hai là
Thể thật. Ba loại trên
đây, mỗi một loại đều
dung hòa không hai vốn là một tánh. Trong tổng
quát thì Sở chấp là
không có, Viên thành là có, Y tha là cùng có cả hai,
bởi vì Chân-Vọng thâu
nhiếp đầy đủ hai tướng không còn cho nên không hai.
Hai là dựa theo ba vô tánh, đầu là trong cảnh quán không
có tướng, bởi vì Sở
chấp có-không đều là hư vọng, lại không có pháp có mà có pháp không có, cho nên cùng lìa. Trong Y tha không có
sinh tánh, không có huyễn
Hữu mà có tánh Không, không hai cho nên cùng lìa.
Trong Viên thành không có tánh, không có hai tánh mà có
Chân lý, cũng không hai cho nên cùng bặt dứt.

Ba là dựa theo cả hai dung hòa, ba có-ba không có, viên dung
vô ngại, hai tướng bặt
dứt cho nên cùng lìa.

Ba là hai kệ
khuyên dạy thực hành thuyết pháp, trong đó hai
câu đầu là cảnh đã
được giáo hóa, Lạc là tin tưởng vui thích, tin tưởng
vui thích không phải là
một mà đầy khắp mười phương; một câu tiếp là
nơi giáo hóa; một câu tiếp là chính thức
thuyết giảng; hai câu tiếp là lợi
ích giáo hóa, câu trước
là lìa nhiễm, câu sau là thành tựu về đức; hai
câu sau cuối là công
hạnh thành tựu. Bốn là hai kệ thọ pháp thực hành tức là thấy Pháp thân đang
thuyết giảng, bởi vì lấy bảy Giác làm
Pháp luân. Năm là hai kệ trình
bày về rời bỏ tướng thấy Chân hạnh. Sáu là hai kệ về hạnh
sinh đến cõi như
Phật… Bảy là hai kệ dụ về
sinh diệt không có hạnh căn bản. Trên đây là đáp chung về mười câu hỏi đầu ở
phần trước, xong.

---------------------------

<詞>Phẩm 6: MINH NẠN</詞>
Có năm môn phân biệt:

Ý đưa ra.

Giải thích tên gọi.

Phân tích. D.Tông thú.

E. Giải thích văn kinh.

Ý
đưa ra có hai: Một,
đưa ra Phần vị, là bởi vì trước đây trình bày về pháp mà quả đã dựa vào, nay phân rõ về dựa vào quả mà thành tựu
nhân hạnh; hai, đưa ra Phẩm là trong hạnh đã thành tựu, phương
tiện trước phần vị thì Tín-Hạnh làm đầu tiên,
trong Tín có Giải-Hạnh và đức, trình bày về điều khó hiểu để phân rõ về Giải, vì ở đầu tiên
cho nên đưa ra.

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Bồ-tát là người, trình bày về điều khó hiểu là pháp, chọn lấy pháp của quả khác vốn là Y chủ thích.
Minh Nạn có bốn nghóa:

Dựa theo tâm cảnh, Nạn là Chân-Tục ẩn kín sâu xa, Minh là
diệu trí chiếu rọi rõ ràng.

Dá»±a theo
giáo nghóa, Nạn là mười nghóa rất
sâu xa, Minh là lặp
đi lặp lại để hiển bày thông suốt.

Dựa theo luận đạo, Nạn là hỏi, Minh là đáp, bởi vì gồm chung
hỏi-đáp cho nên gọi là Minh Nạn. Vì sao? Bởi vì
chỉ nêu ra pháp thẳng thắn để bàn luận là hỏi, vặn hỏi không đúng lý là Nạn; tùy theo câu hỏi thẳng thắn trình bày là đáp, giải thích tường tận hiển bày rõ ràng là Minh.

Phân ra chủ khách, dựa theo khách thì trong trường hàng trình
bày giả thiết đối với Nạn, dựa theo chủ thì
trong kệ trình bày giải thích đối với Nạn, cho nên gọi là Minh Nạn.

PHÂN TÍCH: Ngay trong nhân này, hoặc phân làm hai: Một, kề
sát phần vị, đó là từ phẩm này xuống đến phẩm
Hồi Hướng; hai, chứng được phần vị, đó là từ phẩm Thập Địa trở xuống chứng được phần vị. Hoặc phân
làm ba: Một, ba phẩm đầu là phương tiện trước
phần vị; hai, từ phẩm Thăng Thiên trở xuống là 13
phẩm trình bày về
Chánh vị của Tam Hiền; ba, từ phẩm Thập Địa trở
xuống là sáu phẩm trình bày về Chân vị của
Thập Thánh. Hoặc phân
làm bốn: Một, từ đây
đến hết Hội thứ ba là mười Giải, bởi vì Tín
là phương tiện trú cho nên không có
Chánh vị, thâu nhiếp thuộc về trong
Thập Trú; hai, Hội thứ tư

là
Thập Hạnh; ba, Hội thứ năm là
Thập Hồi Hướng; bốn, Hội thứ
sáu là Thập Địa… Hoặc phân làm năm, bởi vì tách ra Tín khác với Trú.
Lại chỉ nói phần nghóa, hoặc
phân làm ba: Một, ba phẩm đầu trình bày về
bắt đầu khởi lên ở
thời quá khứ; hai, từ phẩm Thăng Thiên trở xuống trình bày về khéo léo tu tập ở thời
hiện tại; ba, phẩm
Bất Tư Nghị Pháp… trình bày cuối cùng hiển hiện ở thời vị lai. Hoặc phân làm bốn:
Một, người chưa tin thì khiến
cho tin; hai, từ Hội thứ ba trở xuống là đã tin
thì khiến cho tiến vào,
đó là Giải-Hạnh; ba, từ phẩm Thập Địa trở
xuống là đã tiến vào
thì khiến cho thuần thục; bốn, từ phẩm Bất Tư Nghị
trở xuống là đã thuần
thục thì khiến cho giải thoát.

TÔNG THÚ có hai: Đầu
là nối thông, sau là riêng biệt.
Nối thông là luận đến ba phẩm này trình bày về pháp
hành của Thập Tín,
trong đó đưa ra tám môn:
1) Giải thích tên gọi;
2) Đưa ra Thể;
3) Phát tâm;
4) Xác định phần vị;
5) Hành tướng;
6) Trừ chướng;
7) Tiến lùi;
8) Đức dụng.

Môn thứ ba là phát tâm, nghóa là bắt đầu từ có đủ phiền não
(cụ phược) không biết
đến những tên gọi như Tam Bảo…, lần đầu khởi lên một niệm như Tín… Đây là dựa theo
Thỉ giáo, như kinh Bổn
Nghiệp nói v.v…; Chung giáo như
phần tín tâm tu hành trong Khởi Tín luận v.v… Viên giáo như đầu phẩm
Hiền Thủ v.v… Bởi vì Tiểu thừa không phải là phần vị này cho nên không dựa theo để nói. Đốn giáo không có phần vị cho nên cũng không nói v.v… Cũng có thể Tiểu thừa cũng có nghóa
của Sơ Tín, như Tiểu luận
v.v…; trong Đốn giáo cũng có Tín v.v…
Môn thứ tư là xác định phần vị, pháp của
Thập Tín này ở trong
Thỉ giáo thì chính mình là
phần vị, như Lương Nhiếp Luận nói: “Như
bốn phần vị trước đạo
Tu-đà-hoàn, đó là Noãn-Đảnh…; bốn phần vị
trước địa Bồ-tát cũng
như vậy, đó là Thập Tín-Thập Giải-Thập
Hạnh-Thập Hồi Hướng.”
Lại trong luận ấy và luận
Phật Tánh… đều nói: Địa tiền tu
bốn hạnh, đó là Thập
Tín tu hạnh tin tưởng vui với Đại thừa, hạnh
Bát-nhã của Thập Giải,
hạnh Tam-muội của Thập Hạnh, hạnh Đại Bi của
Thập Hồi Hướng. Lại bởi vì trừ diệt
Chánh sử của bốn lớp
chướng ngại:
1) Trừ diệt chướng ngại về không tin
của Xiển-đề;
2) Trừ diệt chướng
ngại về Ngã chấp của
ngoại đạo;
3) Trừ diệt chướng ngại về sợ hãi
khổ đau của Thanh văn;
4) Trừ diệt chướng ngại về
rời bỏ Đại Bi của Độc
giác. Vả lại, Tín trở
thành chủng tử của nhân thuộc Tịnh đức, Giải trở
thành chủng tử của nhân thuộc
Ngã đức, Hạnh trở thành chủng tử của
nhân thuộc Lạc đức,
Hồi hướng trở thành chủng tử của nhân thuộc
Thường đức.
Lại trong kinh Nhân Vương dựa vào báo của bốn
Luân Vương, đó
là
Thiết-Đồng-Ngân-Kim. Bởi vì giáo nghóa này cho nên biết
Thập Tín cũng là phần vị. Nếu dựa theo Chung giáo thì Tín này chỉ là phương
tiện của phần vị Thập
Trú, bởi vì tự mình không có phần vị riêng biệt.

Trong kinh Bổn Nghiệp nói: “Chưa
lên Trú tiền có tên gọi của
mười tâm này:
1) Tín tâm;
2) Niệm tâm;
3) Tinh tiến tâm;
4) Tuệ tâm; Định tâm;
6) Bất thối tâm;
7) Hồi hướng tâm;
8) Hộ tâm;
9) Giới tâm;
10) Nguyện tâm. Tu tâm này tăng thêm một kiếp-hai kiếp-ba kiếp mới có thể tiến vào trong Trú thứ nhất.
 Mỗi một tâm có mười tăng thêm thành ra 100 pháp minh môn, gọi là tiến vào trong chủng tánh của Tập.” Vì vậy biết không có phần vị mà chỉ là hành thuộc
phương tiện.
Lại dựa theo văn như
sáu
Chủng tánh-sáu
Nhẫn-sáu Tuệ…, cho nên cũng
là thành tựu về Chứng.

Lại trong kinh Nhân Vương chỉ nói đến ba Hiền-mười Thánh chứ không nói đến bốn. Lại trong kinh này bốn phần vị
sau đều
có nhập Định, xuất Định rồi nêu ra 10 tên gọi để phân rõ về 10 nghóa…,
 chỉ riêng trong Tín thì không có điều này, cho nên có thể biết.
Lại trong kinh Bổn Nghiệp chỉ
có 42 Hiền Thánh chứ không nói là 52, cho nên có thể biết. Hỏi: Nếu như vậy thì vì
sao kinh Nhân Vương nói
Thập Tín là phần vị chủng tánh,
vẫn chỉ thiết lập phần vị Tam Hiền? Đáp: Bởi vì ở đây có thâu nhiếp lẫn nhau cho nên như vậy.
Vì sao? Bởi vì nghóa dựa theo có bốn câu:
1) Bởi vì phần vị vốn có thâu nhiếp phương tiện cho nên chỉ có Tam Hiền,
 thì ẩn đi tên gọi của Tín chỉ luận đến phần vị của Trú, văn dẫn chứng có thể biết.
2) Bởi vì phương tiện thâu nhiếp phần vị vốn có cho nên ngay nơi Thập Trú gọi là Thập Tín, ẩn đi tên gọi Thập Trú, do đó kinh Nhân
Vương nói: “10
Tín-10 Chỉ-10 Kiên tâm.” Thì không luận đến
Thập Trú mà chỉ gọi là
Thập Tín.
3) Bởi vì đưa ra phương tiện khác với phần vị vốn có, thì như Trú tiền có mười tâm này làm phương tiện…
4) Ở nơi phương tiện mượn nói là Chánh vị, như Thỉ giáo trước đây; nếu dựa theo Viên giáo thì có
hai nghóa; nếu dựa vào
tự pháp của Phổ Hiền thì tất cả đều không có
phần vị. Nếu dựa theo
pháp nương nhờ thì giống như Chung giáo, nhưng Tín đầy đủ tiến vào phạm vi của phần vị, thâu nhiếp bao gồm tất cả
các phần vị sau đều
thuộc về trong này, không có gì không đầy đủ, bởi
vì đây là dựa theo hành
thâu nhiếp phần vị. Hỏi: Tín đã thật
sự không có
Chánh vị, vì
sao Thỉ giáo nói là phần
vị? Đáp: Bởi vì Thỉ giáo là cơ thô thiển-trí cạn cợt, hành-vị không
phân biệt,
giống như Tiểu thừa giáo cho nên nói là bốn phần vị;
Chung giáo cơ vi tế-trí
sâu xa, cho nên có thể thật sự phân ra sai khác.
Môn thứ năm là
hành tướng, nếu Thỉ giáo thì thực hành mười tâm hành như Tín…; nếu theo Chung giáo thì như năm môn tu hành-bốn
loại tín tâm… trong Khởi
Tín luận. Nếu Viên giáo thì như ba phẩm này đã nói…

Môn thứ sáu
là trừ chướng, Thỉ giáo thì như trước trừ diệt
chướng ngại về không tin
của Xiển-đề, Chung giáo thì như luận điều phục
sâu
xa phiền não…; nếu Viên
giáo thì như văn diệt trừ toàn bộ trăm
chướng…, đều là diệt lúc tâm đầy đủ.
Môn thứ bảy là tiến lùi, tu Tín chưa đủ một vạn kiếp, về
sau tất
cả đều lui sụt, bởi vì
là tụ Bất định. Theo kinh Bổn Nghiệp như mảy
lông thuận theo gió… Giả
sử thứ sáu có tâm không lui sụt, thì chỉ là dấy
lên tâm không lui sụt
này, bởi vì không phải là phần vị, chưa có thể
không lui sụy. Cũng có
người giải thích lấy điều này làm nghóa về không
lui sụt của Tín,
sợ rằng không thích hợp, bởi vì trong kinh nói như
mảy lông, cho nên không
có phần vị; luận nói tu Tín chưa trải qua một
vạn kiếp cho nên đều có
lui sụt. Nếu đến một vạn kiếp thì Tín đã đầy đủ, cho nên không phải là
thứ sáu. Nếu dựa vào Thỉ giáo thì bởi vì tùy
theo tướng thô thiển mà
nói Tín là phần vị, vì vậy nay sau Tam Hiền
cũng tùy theo tướng thô
thiển mà nói, cho nên đến mười Hồi Hướng trở
lên mới có thể không
lui sụt, như Phật Tánh luận quyển thứ nhất nói. Hỏi: Trong luận ấy là thuật về
Sư Tát-bà-đa nói, lẽ nào là
Đại thừa hay sao?

Đáp: Tuy là
Tát-bà-đa nói, nhưng không phải là tông ấy, bởi
vì nói có tên gọi phần
vị của mười Hồi Hướng, Tiểu thừa không có
phần vị này. Nếu trong
Chung giáo thì Tín đầy đủ tiến vào phần vị là
không lui sụt, như Tín thành tựu phát tâm không lui
sụt trong
Khởi Tín luận, và Tín thanh tịnh-tâm sâu
xa… ở văn sau trong này, bởi vì Viên giống như Chung, cho nên tiến vào phần vị trở về
sau mới nói là Tín không lui
sụt. Bởi vì nhân thuận
theo quả tương xứng, cho nên như Tín-Nhẫn…
Môn thứ tám là đức dụng, trong Thỉ giáo trở thành nhân
thuộc Tịnh đức, và đạt
được báo của Thiết Luân Vương cũng có thể tiến vào Thập
Giải… Chung giáo có thể thành tựu phần vị
Thập Trú rồi thì
có thể thấy được phần
ít Pháp thân Phật, hiện bày những sự việc như
tám tướng thành đạo…
Trong Viên giáo thì bao gồm thành tựu các phần vị
sau, nếu dựa theo nhân thì đạt được ba nghiệp
Phổ Hiền rộng khắp
pháp giới, dựa theo quả
thì thành Đẳng Chánh Giác khắp vô số thế giới,
như phẩm Hiền Thủ nói.

Sau là trình
bày về Tông của Phẩm, dùng mười nghóa thậm
thâm làm Tông, thành tựu
Giải-Hạnh trong Tín là Thú.

GIẢI THÍCH VĂN KINH: trong này ba phẩm thì làm ba phần: Phẩm đầu trình bày về Giải trong
Tín giải; phẩm tiếp dựa vào
Giải khởi Hạnh, phẩm
sau cuối
Giải-Hạnh đầy đủ cho nên thành tựu đức mà thôi.
Lại giải thích đầu là Hạnh, tiếp là Nguyện, sau
là phần vị của Đức.

Ngay trong phần đầu có hai: Đầu
là chính thức phân rõ về mười
nghóa, sau là kết luận gồm chung nhìn thấy khắp nơi.
Trong phần trước theo
Thiền sư Thiên giải thích là mười
nghóa thậm thâm, trong đó phân hai: Đầu là
Văn Thù hỏi mọi người đáp, trình bày về diệu tuệ dẫn dắt các hành;
sau là mọi người hỏi Văn thù
đáp, trình bày về nhờ
vào các hành mà thành tựu diệu tuệ.

Lại Pháp sư Diễn nói: Đầu
một người hỏi nhiều người trình
bày, là hiểu vô lượng
trong một; sau nhiều người hỏi một người trình bày,
là hiểu một trong vô
lượng. Lại bởi vì Văn Thù là pháp chủ, nhiều
cùng hỏi về pháp sâu xa
của cảnh Phật:
1) Duyên khởi thậm thâm;
2) Giáo hóa thậm thâm;
3) Nghiệp quả thậm thâm;
4) Phật thuyết pháp thậm thâm;
5) Phước điền thậm thâm;
6) Chánh giáo thậm thâm;
7) Chánh hạnh thậm thâm;
8) Trợ đạo thậm thâm;
9) Nhất thừa thậm thâm; 1
0) Cảnh giới Phật thậm thâm.
Duyên khởi thậm thâm, bởi
vì các pháp dựa vào tự tánh duyên sinh của Thức
A-lại-da mới được Tập khởi. Vì sao đầu tiên phân rõ về
nghóa này? Nhiếp Luận nói: “Bồ-tát bắt đầu học
thuận theo trước phải
quán xét nhân duyên như thật của các pháp, bởi
vì thành tựu Tín giải
chính xác, là nói đến điều này.” Trong đó,
trước hỏi-sau đáp, cũng là trước trình bày thiết lập về chất vấn,
sau trình bày giải thích về chất vấn.

Trong phần trước có hai: Một là tổng quát nói cho biết, vì
sao
đầu tiên hỏi về Giác
Thủ? Nghóa là bắt đầu phát khởi chán ngán mong
cầu không phải là Giác
đầu tiên thì không dấy khởi, như Thiện Tài bắt
đầu phát khởi từ thành Giác. Lại bởi vì duyên
khởi thậm thâm cũng không phải là Giác thì không
thông hiểu. Hai là trong phần chính
thức chất vấn, chất vấn điều này do đâu
sinh ra? Bởi vì tất cả các
Bồ-tát phát khởi
Tín-Giải-Hạnh…, đều dựa vào đạo lý duy tâm như vậy, đạt được khác với phàm phu-Tiểu thừa mà thành tựu
Chánh hạnh. Khởi Tín luận
nói: “Có
pháp có thể phát khởi Tín căn Ma-ha-diễn, vì vậy thuận
theo mà nói, pháp đã nói là tâm
chúng sinh, tâm này thì thâu nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.” Do đó đối với điều này mà khởi
lên chất vấn. Ý chất vấn rằng: Tâm tánh là một, quả báo đủ loại, vì
sao một tâm mà sinh ra
nhiều báo? Lại tâm tánh đã là một thì quả cũng
sẽ là một, quả báo đã
nhiều thì tâm cũng sẽ là nhiều. Giả sử như vậy thì có gì
sai? Nghóa là tâm nếu tùy theo báo trở thành nhiều thì
sai
với Duy Thức, báo nếu như tâm là một thì trái với
nghiệp quả.
Giả sử nói
cứu vãn: Nếu thiết lập
chỉ một tánh tâm, không có năng lực huân tập thì có thể như điều đã chất vấn, nay trình bày tâm tánh tuy là một mà tùy
theo nghiệp thiện-ác… có
thể huân tập mà chuyển cho nên sinh ra quả
báo khác nhau, điều này
có gì sai? Sau ngăn chặn sự cứu vãn này, lại
tiếp tục chất vấn rằng:
Nghiệp không nhận biết tâm, tâm không nhận
biết nghiệp…, đã không
nhận biết lẫn nhau thì sao trở thành huân tập, huân
tập không thành thì sao đạt được các loại? Ý
chất vấn như vậy.
Trong văn có hai: Đầu là nêu ra pháp thiết lập chất vấn,
sau là năm câu ngăn chặn
sự cứu vãn trở lại chất vấn. Trong phần trước có ba: Đầu là một câu nêu ra pháp để đối chiếu xác định, tiếp theo một câu
là chính thức hiển bày
về trái ngược nhau, sau cuối năm câu là giải
thích về tướng trở
thành trái ngược nhau.

Đầu nói tâm
và tánh chỉ là một, nghóa là bởi vì tánh của tâm,
vốn là Như Lai Tạng bình
đẳng cùng một vị, cho nên nói là một. Lại bởi
vì tâm tức là tánh,
vốn là Thức thứ tám không có hai loại, cho nên
nói là một. Tiếp là vì
sao có thể
sinh ra đủ loại quả báo, là hiển bày về
trái ngược nhau. Đây là
chất vấn về bổn-mạt trái ngược nhau. Sau là
hoặc đến nẽo thiện…,
là giải thích về tướng trở thành trái ngược nhau, trong đó có năm cặp: Cặp thứ nhất dựa theo y báo, nẽo thiện là
trời-người, nẽo ác là
ba đường khổ. Cặp thứ hai dựa theo chánh báo, ở trong nẽo thiện các căn như Nhãn… có đủ và không đủ, trong nẽo ác
cũng như vậy. Cặp thứ ba trở lại dựa vào y báo, ở trong căn có đủ thì giết
mổ-săn bắn… là xứ ác, trì giới-bố thí… là xứ thiện; trong căn không đủ cũng
như vậy. Cặp thứ tư trở
lại dựa theo chánh báo ngay trong xứ thiện có đoan chánh-có thô lậu; trong xứ ác cũng như vậy. Cặp thứ năm ngay trong đoan chánh
có khổ-vui; trong thô lậu cũng như vậy. Sai biệt đủ
loại như vậy, cho nên nói là không
giống nhau, báo đã không giống nhau
như vậy, thì nghóa của
một tâm ở đâu?
Từ đây trở xuống là năm câu giải thích về tướng trở thành
trái ngược nhau, người
xưa giải thích rằng: Dựa theo không nhận biết nhau
để chất
vấn, nghóa là tâm lấy hiểu biết làm tánh, có thể
phát sinh
đối với nghiệp, tâm và
nghiệp đều có thể nhận biết nhau. Vì sao kinh nói: Nghiệp không nhận biết tâm, tâm không nhận biết nghiệp…?
Cách giải thích này sợ rằng
không thuận với văn. Vì sao? Bởi vì không nhận
biết lẫn nhau… ở đây
và các câu trên là cùng thành một chất vấn như
nhau, hay là lại thành chất vấn khác nhau? Nếu cùng
thành một chất vấn như nhau, thì tâm tánh trước đây là một mà quả báo có đủ loại, chính là
trái ngược nhau, cho nên đã thành chất vấn. Không nhận biết lẫn nhau ở
đây đối với kia có
tác dụng gì, nếu thành chất vấn riêng biệt thì lại vì nghóa gì mà phát
sinh chất vấn này? Vì vậy biết ý văn có phần
riêng biệt,
cho nên nay giải thích
không giống như xưa, nghóa là đây tức là ngăn
chặn cứu vãn tiếp tục
chất vấn, nhưng cứu vãn ở ngoài văn. Giả sử cứu vãn nói rằng tâm tánh tuy là một, nhưng có công năng của chủng tử
huân tập nghiệp
thiện-ác… sinh ra quả có sai khác, chỗ dựa của tâm tánh
chỉ là một mà không có
hai, cho nên không có lỗi.

Nay trong phần tiếp tục chất vấn có năm cặp:
Cặp thứ nhất dựa theo chủ động dựa vào-thụ động dựa vào không nhận biết lẫn nhau, cho nên không trở thành huân tập.
 Trong này nghiệp là chủ động dựa vào, tâm là thụ động dựa vào, lìa thụ động không có
chủ động, chủ động
không nhận biết thụ động, cho nên nghiệp không
nhận biết tâm; lìa chủ động không có thụ động, thụ động không nhận
biết chủ động, cho nên tâm không nhận
biết nghiệp. Đã không nhận biết lẫn
nhau thì sao trở thành
huân tập? Bởi vì huân tập không có thì lẽ nào có thể nhờ vào nghiệp mà tâm
sinh ra nhiều báo? Nhận biết lẫn nhau như vậy là dựa theo lực của tánh mà nói,
 nhưng không có tánh-không có lực, cho nên không nhận biết lẫn nhau,
 không phải là dựa theo nhận biết rõ ràng.
 Trên đây là dựa theo tướng của nhân thuộc Thức vốn có mà nói.
Cặp thứ hai dựa theo tướng của quả, nghóa là nhân quả không nhận biết lẫn nhau, quả gọi là dị thục. Quả báo có đủ hai nghóa:
1) Tâm chủ động thọ báo, là Thức chủng tử của Thức vốn có;
2) Tướng thụ động thọ báo, là Thức của quả báo.
 Bởi vì chủng tử là nhân của quả chứ không phải là nhân của mình,
 cho nên thọ không nhận biết về báo; bởi vì báo là quả của nhân chứ không phải là quả của mình,
 cho nên báo không nhận biết về thọ. Đã không nhận biết nhau thì nhân quả này
mất đi, tâm sinh ra đủ
loại, nghóa ấy ở đâu?
Cặp thứ ba dựa theo mới huân tập không nhận biết lẫn nhau, nghóa là ở trong báo này thọ gọi là tiếp nhận, do các chuyển thức mà làm
chủ động huân tập, cho
nên không giống như thọ báo; tâm gọi là tập khởi,
do Thức thứ tám mà làm thụ động huân tập, không có tự tánh với nhau, đều không nhận biết lẫn nhau. Huân tập đã mất, một tâm làm
sao
có thể sinh ra nhiều loại?
Vì vậy trong Du-già nói: “Không thấy tạng
trú, không thấy huân
tập, đó gọi là Bồ-tát.”
Cặp thứ tư dựa theo
thân-sơ không nhận biết lẫn nhau, nghóa
là chủng tử làm nhân,
dựa vào Thức vốn có làm duyên. Bởi vì không
có tánh đối đãi lẫn
nhau, nghóa là vốn không phải chính mình-không
phải nơi khác-không giống
nhau…, tướng thân-sơ không còn, cho nên
không nhận biết lẫn nhau,
nhân duyên đã lìa xa thì tâm sinh ra ở đâu?
Cặp thứ năm dựa theo cảnh-trí không nhận biết lẫn nhau, trí
là chủ động nhận biết,
tức là Kiến phần của các Thức; pháp là thụ
động nhận biết, tức là Tướng phần của các Thức, cùng dựa vào một tâm, tất cả không có tự Thể, tự Thể không có thì cái gì cùng nhận biết
lẫn nhau? Tâm-cảnh đã
mất, chủ động-thụ động vắng lặng, tâm sinh ra đủ loại, nghóa ấy ở đâu?
Lại giải thích: Cảnh pháp là tâm biến đổi cho
nên không nhận biết tâm,
tâm dựa vào cảnh mà sinh cho nên không
nhận biết pháp, không có
cảnh ngoài tâm có thể chọn lấy tâm ngoài cảnh,
vì thế cho nên cả hai
không nhận biết lẫn nhau, tướng đều không còn.
Thứ hai là trong phần đáp có hai: Đầu là một kệ, tụng về
khen ngợi thưa hỏi khuyến
khích lắng nghe, nửa kệ trước khen ngợi thưa hỏi
hợp với cơ, nửa kệ sau khuyến khích lắng nghe nhận lời thuyết
giảng; sau có mười kệ
nêu ra nghóa chính thức đáp. Trong đó năm kệ đầu
đáp về ngăn chặn cứu
vãn chất vấn sau, bởi vì nghóa cứu vãn nếu thành thì chất vấn vốn có mới loại trừ, vì thế cần phải đáp trước; năm kệ
sau đáp về chất vấn thuộc pháp vốn có trước đây. Trong này ý đáp, trình
bày về duyên khởi của
tạng thức có hai nghóa: Một là nghóa về không dấy khởi bởi vì không có tự tánh,
 hai là nghóa về có dấy khởi bởi vì có duyên khởi của không có tánh này. Hai loại này không hai, là một duyên
khởi thậm thâm vô ngại.
Trong này bởi vì không dấy khởi vốn là trở
thành dấy khởi, cho nên chỉ bởi vì các duyên không nhận biết lẫn nhau
mà trở thành huân tập,
có đủ loại pháp sinh ra là đáp về chất vấn sau;
bởi vì dấy khởi vốn
là không dấy khởi, cho nên chỉ bởi vì các pháp
sinh
ra đủ loại, tất cả đều
không có tự tánh, chỉ cùng một tâm tánh là đáp
về chất vấn trước. Lại
trước thì không ngại một tâm tức là đủ loại,
sau
thì không ngại đủ loại
tức là một tâm, Chánh lý duyên khởi dung hòa vô ngại là ý ấy.
Trong năm kệ trước: Đầu là một kệ về
pháp thuyết,
sau là bốn
kệ về ví dụ. Hoặc có
thể phân ra làm năm phần: Một là tông, hai là nhân, ba là dụ,
bốn là hợp, năm là kết.
Một là các pháp không tự tại thì lập tông, các pháp là pháp có, không tự tại là pháp, pháp và pháp có hòa hợp gọi là tông. Trong đó
có hai nghóa:
1) Tạng tánh duyên khởi chủ động-thụ động huân tập khởi lên thâu nhiếp
nhiều pháp, cho nên nói là các pháp, bởi vì làm nhân duyên với nhau, lại hệ thuộc với nhau, cho nên tất cả đều không thể
nào tự có nơi tồn tại.
2) Từ các duyên khởi lên không có tự tánh, không
có tự tánh cho nên
không thể nào tự tồn tại.
Hai là đưa ra nhân, vì
sao có thể biết là không tự tại?
Nhân mà nói là cầu thật có
thì không thể được, bởi vì các pháp của Thức vốn
có cùng dựa vào duyên
khởi, lại so sánh làm mất lẫn nhau, đều không
có tự tánh, cho nên nói
là cầu thật có thì không thể được. Điều này
có hai nghóa: Một là dựa theo Thức vốn có trình bày về không tự tại, bởi vì
dựa vào các duyên không
có tự tánh, cho nên nói là cầu thật có thì
không thể được. Hai là dựa theo pháp chủ động huân tập… trình bày về
không tự tại, bởi vì
dựa vào Thức vốn có không có tự Thể, cho nên nói là
cầu thật có thì không
thể được. Hoặc là luận chung có bốn nghóa: Một,
bởi vì các pháp dựa
vào Thức, cho nên đối với các pháp mà cầu thật có
thì không thể được;
hai, bởi vì Thức vốn có làm chỗ dựa, cho nên đối với Thức vốn có mà cầu thật không có thì không
thể được; ba, bởi vì các pháp khởi lên Thức, cho nên đối với các pháp mà cầu thật không
có thì không thể được;
bốn, bởi vì Thức tùy theo duyên khởi lên, cho nên đối với Thức vốn có mà cầu thật có thì không thể được. Hoặc tách
ra làm tám câu, nghóa là
đều có bốn câu phân biệt là có-không có-có
cả hai-không cả hai, dựa theo
suy nghó có thể thấy. Lại giải thích điều
này có bốn câu: Một,
bởi vì không dấy khởi không khác dấy khởi, mà cầu không dấy khởi thì thật không thể được, cho nên không dấy khởi
không tự tại. Hai, bởi vì dấy khởi không khác không dấy khởi, mà cầu dấy
khởi thì thật không thể
được, cho nên dấy khởi cũng không tự tại. Ba, bởi
vì không có hai mà cầu
hai thật có thì không thể được, cho nên không
có cả hai tự tại. Bốn,
bởi vì không trở ngại hai nghóa, mà cầu cả hai không phải là thật thì không thể được, cho nên không có cả hai không
phải là tự tại. Vì sao
không tự tại như vậy? Bởi vì duyên khởi tự tại. Vì
sao không thật có? Bởi
vì duyên khởi là lý thật.

Ba từ “Thị cố nhất thiết pháp…” trở xuống là kết luận, bởi vì
kết luận tùy theo pháp
cho nên ở sau Tông và Nhân, trình bày về Hợp tùy theo Dụ cho nên nói ở
sau Dụ. Cả hai đều không nhận biết lẫn nhau, là như trong chủ động-thụ động huân tập trên đây đều có hai nghóa về có- không có,
bởi vì hai có-hai không có đều không đi cùng cho nên không có thể nhận biết lẫn nhau; bởi vì một có-một không có, một
không có-một có đều
không có hai cho nên không có thể nhận biết lẫn
nhau. Chính là bởi vì
không nhận biết… như vậy cho nên nhất định có tất
cả các pháp, vì vậy nói là tất cả không nhận biết lẫn nhau. Đây là hiển
bày không phải dứt
khoát một vị bình đẳng không làm hỏng các pháp,
cũng chính là chỉ vì bình
đẳng mà có các pháp.

Bốn là trong
dụ có bốn dụ, tạng thức này có bốn nghóa:
1) Nghóa về nhân quả nối tiếp dựa vào nơi khác;
2) Nghóa về làm nhân quả với nhau sinh ra Thức;
3) Nghóa về tiếp nhận huân tập;
4) Nghóa về duy
trì dựa vào nhau.

Thứ nhất là dụ như dòng sông chảy xiết, là trong Duy Thức luận trình bày về
Thức A-lại-da luôn luôn chuyển như dòng thác đổ, là
nghóa này. Trong này không
có dứt tuyệt là nghóa về luôn luôn trong luận
ấy, dòng sông chảy mãi
là nghóa về chuyển trong luận ấy. Vì vậy luận
ấy nói: Luôn luôn nói
là ngăn chặn về Đoạn, chuyển là biểu thị về
không phải là Thường.

Nếu phân biệt một cách tỉ mỉ thì lúc dòng nước chảy phải
có bốn nghóa:

Có nước tự nhiên tuôn chảy, uốn cong có ba: a-Thể của nước
thanh tịnh dụ cho Thức vốn có, là tâm thanh tịnh-tánh vốn có Như
Lai Tạng; b-Đất xen tạp trở thành đục ngầu dụ cho tự
tánh thanh tịnh
Như Lai Tạng bị vô minh làm cho vấy nhiễm mà có tâm vấy nhiễm; c-Gặp lạnh trở thành băng dụ cho
Như Lai Tạng vẫn đi cùng với vọng thức làm thành duyên khởi của
Thức vốn có, vì vậy kinh Lăng
Già nói: “Như Lai
Tạng gọi là Thức A-lại-da, mà đi cùng với bảy
Thức vô minh…”

Dựa vào nhau mà có dòng chảy, dùng để dụ cho nghóa về tự tướng của
Thức vốn có, nghóa là vì dòng nước
sau thúc đẩy cho nên dòng nước trước phải chảy, hoặc là dòng nước trước dẫn đường cho nên dòng nước
sau nhất định tuôn chảy, đều có nghóa về có lực-không có
lực…, không nhận biết lẫn nhau mà có thể tuôn
chảy. Đây tức là không
chảy mà chảy, như nói dòng sông cuồn cuộn tuôn
trào mà không chảy,
là nói đến điều này.

Trong kinh nói là
sinh diệt tuôn chảy,
Duy Thức luận quyển
thứ ba nói: “Như thác nước không phải là Đoạn-không phải là Thường nối tiếp nhau mãi mãi mà có nổi chìm; Thức này cũng như vậy, từ vô thỉ đến
nay sinh diệt nối tiếp nhau
không phải là Thường-không phải là Đoạn, hữu tình nổi chìm khiến cho không thoát ra được, cho đến nói là tánh của
Thức này từ vô thỉ đến nay quả
sinh-nhân diệt trong từng
sát-na một. Quả
sinh cho nên không phải là Đoạn, nhân diệt cho nên không phải
là Thường. Không phải
là Đoạn-không phải là Thường, chính là lý duyên khởi, cho đến phải tin chắc Chánh lý duyên khởi của Đại thừa, nghóa là Chánh lý này
sâu xa vi diệu bặt dứt ngôn từ, nói đến nhân quả…
đều là tạm thời thi
thiết. Quán về pháp hiện tại có tác dụng dẫn dắt
về sau, tạm thời lập ra quả
sau này để
so
sánh nói về nhân hiện tại.
Quán pháp hiện tại có tướng đền đáp trước đây, tạm thời lập ra nhân đã từng có để
so
sánh nói về quả hiện tại. Tạm thời nghóa là Thức hiện tại tựa như hiện rõ ra tướng ấy, như vậy lý nhân quả luôn luôn hiển bày rõ ràng,
lìa xa hai bên phù hợp
với Trung đạo, những người có trí nên thuận
theo tu học.” Lại theo kinh Lăng Già nói: “Sát-na không còn rối loạn,
vắng lặng lìa mọi việc
làm, tất cả các pháp không sinh, Ta nói là nghóa sát- na, mới
sinh tức là có diệt, không nói cho người
ngu si, tánh nối
tiếp nhau không dứt, do
vọng tưởng mà huân tập.”

Giải thích rằng: Trong
luận trước thì sinh diệt cách niệm,
trong kinh nói
sinh diệt đồng niệm, vì thế cho nên
sinh diệt là không
sinh- không diệt. (Lại
suy nghó điều ấy)
Kinh dá»±a theo
Chung giáo, thì
không sinh diệt cùng với
sinh diệt hòa hợp gọi là
Thức A-lại-da…; luận
dựa theo Thỉ giáo, chỉ
riêng sinh diệt là Thức, tường tận có thể cũng
không thành
sinh diệt, bởi vì lúc
sinh không có diệt thì lẽ ra không phải
là hữu vi, bởi vì tướng
không đầy đủ. Nếu có diệt thì lẽ ra không thể
nào sinh, bởi vì trái
ngược nhau. Do đó trong Chung giáo là đồng niệm,
bởi vì đều là hư giả
cho nên không ngăn ngại nhau. Lại dựa vào Chân
tâm cho nên có thể là
đồng, tùy theo tướng cho nên có khác. (Lại suy
nghó điều ấy) Quá khứ
diệt có thể trở thành sinh, vị lai diệt có thể làm
hỏng sinh, pháp sinh có thể hủy hoại, đã diệt có
thể trở thành đang diệt.
Lại một tướng diệt
hướng về sinh trước có thể hủy hoại, hướng về
sinh
sau có thể thành tựu;
một tướng sinh hướng về diệt trước có thể hủy
hoại, hướng về diệt sau
có thể thành tựu, cho nên nối tiếp nhau không có dứt tuyệt. (Lại
suy nghó điều ấy)
Lại sinh do diệt mà khởi, cho nên
trong sinh vốn có diệt,
bởi vì vốn có diệt cho nên khiến sinh không trú, cũng lại trở
thành diệt. Diệt do
sinh mà có, cho nên trong diệt hàm chứa
sinh, bởi vì hàm chứa
sinh cho nên khiến diệt không trú, cũng lại trở thành sinh, vì thế
sinh diệt đan xen lẫn nhau, trước
sau cùng lúc, không
trở ngại lẫn nhau, tuôn
chảy không gián đoạn.
Lại trong một tướng
sinh có nghóa về bốn loại diệt, cùng
lúc đầy đủ: a) Tánh không thành tựu gọi là diệt; b) Do diệt mà khởi cho nên
vốn có diệt; c) Có thể trở thành diệt cho nên vốn có diệt; d-Do
sinh
diệt cùng là vọng chấp
trong mộng thấy có trước sau, lúc lý thật chiếu rọi đều không có
trước sau, cho nên
sinh thì vẫn có diệt. (Lại
suy nghó
điều ấy) Niệm trước
diệt đi chảy dài đến nơi sinh, niệm sau sinh ra chảy
dài đến nơi diệt, sinh
diệt hai dòng cho nên nói là chảy dài. Chưa đạt được đạo đối trị về trước không có tạm thời dừng lại, cho nên nói là không
có tuyệt dứt. Hai dòng
đều không có… cho nên không nhận biết nhau.

Dựa vào gió vốn có hai nghóa: a) Dựa vào gió mà được tuôn chảy, dụ cho nghóa về tướng của nhân thuộc tạng thức, nghóa là dựa vào gió của
Hoặc nghiệp huân tập chủng tử mà trôi nổi; đây là dựa theo tướng của nhân mà phân rõ. b) Dựa vào gió
nổi sóng, kinh Lăng
Già nói: “Biển tạng thức thường trú, gió cảnh giới
làm động, đủ loại
sóng
các Thức, tung vọt mà chuyển sinh.” Duy Thức luận
quyển thứ ba nói:
“Lại như dòng thác đổ, tuy gió… đánh tạt vào
nổi lên các làn sóng mà
tuôn chảy không dứt; Thức này cũng như vậy, tuy
gặp các duyên khởi
lên các Thức như Nhãn… mà luôn luôn nối tiếp
nhau.” Trong này, một
là gió thổi mà tuôn chảy, hai là do nước mà
tuôn chảy, cho nên nói là
chảy dài. Dựa vào nhau không có tánh đều không
nhận biết lẫn nhau,
hoặc là dòng chảy của chủng tử và dòng chảy
của Thức đã dựa vào…, tuy không nhận biết lẫn nhau nhưng mà có tuôn chảy.
Nghiệp không
nhận biết tâm ở văn trên dựa theo điều này.

Dựa vào thế đất cao thấp mà tuôn chảy, dụ cho nghóa về tướng của quả thuộc
Thức vốn có, dựa vào đủ loại báo của nơi thọ
sinh cho
nên tuôn chảy, nơi trời-người là cao, nơi đường
ác là thấp; đây là dựa theo tướng của quả.
Trong này, tâm và báo là hai, không có tánh cho nên không nhận biết lẫn nhau. Báo không nhận biết thọ… ở văn trên
dựa theo điều này. Hoặc là kèm theo vật mà tuôn
chảy, cho nên trong
Duy Thức nói: “Lại như dòng thác cuốn trôi các vật như cỏ rác-cá tôm… trên và dưới dòng nước, tùy theo nơi chảy qua không bỏ; Thức này cũng như vậy, cùng với pháp như tập khí bên trong-cảnh tiếp xúc bên ngoài…
luôn luôn chuyển theo nhau.”

Thứ hai là dụ về ngọn lửa đèn, thành tựu nương tựa có ba nghóa:

Nghóa về
sinh ra Thức;
2) Nghóa về làm nhân quả cho nhau;
3) Nghóa về chấp thọ.
Nghóa về sinh ra Thức,
là như nhờ vào ngọn lửa trước đốt cháy tim đèn cho nên ngọn lửa
sau được
sinh ra, chiếu rọi rõ ràng cảnh trước chỉ một niệm vẫn không tạm dừng;
sáu Thức cũng như vậy, danh ngôn… dựa vào Thức của chủng tử vốn có cho nên có thể
sinh ra
Thức sau

chiếu rọi
đối với cảnh giới, trong thời gian trước diệt-sau
sinh không
có tạm dừng. Trong này dùng Thức vốn có như dầu và cây đèn, các
chủng tử trong Thức như
tim đèn, sáu Thức hiện hành đã sinh ra như hơi nóng không có Thể mau chóng diệt đi cho nên không nhận biết lẫn
nhau. Cả hai đều không
nhận biết lẫn nhau, người xưa nói rằng: Hơi nóng và cây đèn là hai, tim đèn và dầu là hai, bốn pháp hòa hợp mà
sinh ra đều không nhận biết lẫn nhau. Điều này
sợ rằng không có lý, ý văn tựa
như chọn lấy ngọn lửa
trước-ngọn lửa sau là hai, bởi vì mau chóng diệt
đi không dừng lại, không
có Thể để có thể nhận biết lẫn nhau; sáu
Thức dựa vào Thức không có Thể vốn có cũng như vậy, tâm không nhận
biết thọ… dựa theo điều này.

Nghóa về cùng lúc làm nhân quả cho nhau, như
Nhiếp Luận quyển thứ hai nói: “Luận nói: Ví như ánh sáng
ngọn đèn cùng với tim đèn
sinh ra và đốt cháy cùng lúc lại làm nhân cho nhau.
Giải thích: Bởi vì Thể của tim đèn làm nơi dựa vào có thể phát
ra hơi nóng ánh sáng, tim đèn là nhân phát
sinh hơi nóng
ánh sáng, hơi nóng ánh
sáng thì
sinh ra trong sát-na này, bởi vì có thể đốt cháy
tim đèn, hơi nóng ánh
sáng làm nhân đốt cháy cho tim đèn, cho đến v.v…
Luận nói: Nên biết
Thức vốn có cùng với chủ động huân tập lại
làm nhân cho nhau, nghóa
ấy cũng như vậy, như Thức làm nhân cho pháp nhiễm
ô, pháp nhiễm ô làm nhân cho Thức.
Giải thích: Thức A-lại-da này là nhân
sinh ra chủng
tử, nếu không có Thức này thì ba nghiệp sinh diệt
không có nơi có thể nương tựa, như thân thể lụi tàn, công năng cũng như vậy. Vì vậy
Thể của các pháp sinh ra do Thức này, công năng cũng
lập, cho nên
Thức vốn có là nhân phát sinh pháp ấy, pháp ấy cũng
như vậy. Nếu pháp ấy
không có Thức này, khởi lên ở hiện tại thì
không có đạo lý chuyển
sau
khác trước, biến đổi sai khác này là quả của
pháp ấy.” Giải thích rằng: Trong này, niệm trước
là tim đèn và hơi nóng cùng một sát-na lại đốt
cháy sinh ra lẫn nhau, đều có nhân quả cũng cùng
lúc lụi tàn, hơi nóng
sau cũng như vậy, cho nên nói là hơi nóng hừng
hực. Chưa đến phạm
vi đối trị thì pháp này luôn luôn dấy khởi, cho
nên không tạm dừng lại. Bởi vì hai nhân-hai quả không đi cùng cho nên không nhận biết lẫn
nhau, một nhân-một quả không có hai cho nên không
có thể nhận biết. Lại cũng có thể hơi nóng của tim đèn đốt cháy và hơi nóng của tim đèn
sinh ra, cho nên nói là hơi nóng hừng hực. Bởi vì
lý sinh ra không dừng lại vốn là đốt cháy, lý đốt cháy cũng như vậy cho nên nói là không tạm
dừng lại. Không nhận biết lẫn nhau, nói như trên.
Trong này, nghóa về làm nhân quả cho nhau
sơ lược đưa ra hai lớp, đều có ba môn: a-Giữ gìn
lỗi lầm;
b-Hiển bày về đức; c-Chỉ ra lỗi lầm. Như trong hỏi đáp v.v…

Nghóa về chấp thọ, trong này ngọn đèn sáng có hai công năng:

a) Tim đèn đốt cháy bên trong, b) Phát ra ánh
sáng chiếu rọi bên
ngoài, dụ cho Thức vốn
có này có sự chấp trì cả bên trong lẫn bên ngoài.
Du- già nói: “Thức này
chấp thọ có hai:
1) Bên trong chấp thọ chủng tử và năm căn thân,
2) Bên ngoài chấp thọ Khí thế gian, giống như hơi nóng ánh sáng bên trong giữ lấy dầu và tim đèn, bên ngoài phát ra ánh
sáng rõ ràng, là nói đến điều này. Bởi vì hai phạm vi
trong-ngoài này
cho nên nói là hơi nóng
hừng hực, luôn luôn giữ gìn không gián đoạn cho nên nói là không dừng lại.
Trong-ngoài là hai, bởi vì không có tánh
cho nên không nhận biết lẫn nhau.
Thứ ba là gió dụ cho nghóa về huân tập.
Trong này, gió
có hai nghóa: a) Có lực luôn luôn lay chuyển vật khác,
 dụ cho chuyển thức luôn luôn huân tập trở thành chủng tử…; b) Nghóa về không có Thể,
 nghóa là gió này không có thể tự mình hiện rõ tướng lay động,
 cần phải thổi vào vật khác làm cho lay động mới nhận biết tướng của gió, bởi vì lay động này chính là vật lay động, cho nên biết rằng gió không có tự Thể. Các pháp chủ động huân tập không có thể tự mình trở thành chủng tử,
 cần phải huân tập Thức vốn có trở thành chủng tử rồi mới hiển bày chủ động huân tập, chủng tử này chính là chủng tử của Thức, cho nên biết chủ động huân tập không có tánh. Cả hai đều không nhận biết lẫn nhau thì gió và vật là hai, lay động dựa vào vật thì gió không có Thể, vật tùy theo gió thì vật không có tự tánh, cũng là hai không có-hai có không đi cùng, một không có-một có không có chủ
động-thụ động, cho nên đều không nhận biết; trong Thức cũng
như vậy, dựa theo điều
đó cho nên nói là các pháp cũng như vậy.

Thứ tư là mặt đất dụ cho nghóa về duy trì dựa vào nhau, như Địa luân dựa vào
Thủy luân, Thủy luân dựa vào
Phong luân, Phong luân dựa vào hư không, hư không không dựa vào nơi nào; nghóa về tâm
cũng như vậy, cảnh giới
dựa vào vọng tâm, vọng tâm dựa vào Thức vốn có, Thức vốn có dựa vào tâm tịnh, tâm tịnh không dựa vào nơi nào.
Lại giải thích hiện hành dựa vào chủng tử, chủng tử dựa vào
Thức vốn có,
Thức vốn có dựa vào
Chân như, Chân như không dựa vào nơi nào.
Không nhận biết là hư không làm chỗ dựa cho gió, bởi vì tự mình không có
Thể cho nên không nhận biết về gió; gió làm chỗ dựa cho nước, tự mình
dựa vào hư không cho nên
không có lực có thể nhận biết về nước; nước đối với mặt đất cũng như vậy, trong Thức cũng dựa theo điều này.
Trên đây là đáp về ngăn
chặn cứu vãn chất vấn sau, xong.

Thứ hai, trong phần đáp về chất vấn thuộc pháp vốn có trước
đây, năm kệ phân làm
hai: Đầu là hai kệ chính thức đáp về chất vấn trước đây,
sau là ba kệ hiển bày về quán môn. Trong phần đầu chất vấn rằng: Tâm tánh đã là một, làm
sao có thể
sinh ra đủ loại quả báo? Nay đáp
là bởi vì tùy theo các
chuyển thức huân tập mà sinh ra, không phải là
một tâm này tự làm ra
đủ loại, cho nên nói Nhãn-Nhó… cho đến vì vậy mà chuyển các khổ; năm cặp như hoặc là đến nẽo thiện… trước đây đều dựa theo báo để phân rõ, cho nên nói chung là các khổ.
Trong này, năm thức như Nhãn… có
thể biết, tâm là Thức vốn có bởi vì có nghóa
về tập khởi, ý là Mạt-na bởi vì có nghóa về suy
nghó, tình là Thức thì thứ
sáu bởi vì là nghóa về phân biệt rõ ràng. Tám loại này đều có căn, năm căn có thể biết, ý là căn
thứ sáu, bảy và tám làm căn cho nhau, đều có nghóa về
sinh ra Thức, vì vậy nói là tình căn, dựa vào chủ động-thụ động
huân tập này hòa hợp
mà chuyển các khổ.

Nghi ngờ rằng: Đã tùy theo huân tập mà chuyển các khổ tức là trở thành nhiều tâm, vì
sao vẫn nói là chỉ một tâm? Đáp rằng: Các pháp chủ động huân tập này nếu như là thật thì có thể khiến cho tùy theo huân tập mất đi một tâm, các khổ đã hư giả cho nên đạt được một tâm mà thật
thì không chuyển đổi.
Nghi ngờ rằng: Nếu thật sự không chuyển đổi thì
vì sao trước đây nói tùy theo huân tập mà chuyển các khổ? Đáp rằng:
Chỉ nêu ra rõ ràng về
chuyển chứ không phải là thật sự chuyển. Nghi
ngờ rằng: Đối với
pháp tánh nếu có nêu ra rõ ràng điều này thì cũng có
thể trái ngược nhau? Đáp
rằng: Chỉ tùy theo nơi khác có nêu ra rõ ràng,
ở trong pháp ấy không
có nêu ra rõ ràng điều này. Vì sao không có?
Bởi vì nêu ra rõ ràng
là không có tất cả.
Trong kệ này,
nửa kệ trước trình bày về không nhiễm mà
nhiễm, nửa kệ sau trình
bày về nhiễm mà không nhiễm. Ba kệ sau là trình bày về quán ba vô tánh: Một kệ đầu là quán về Biến kế không có
tướng, nghóa là tám
thức… trên đây, bởi vì dựa theo chấp chỉ là hư vọng hoàn toàn không có gì. Một kệ tiếp là trình bày về quán Y tha không có
sinh, câu đầu quán về
phương tiện Tầm-Tứ…; câu tiếp quán về cảnh, có
là Nhãn-Nhó… trước
đây, không có gì là bởi vì các duyên không có
tánh cho nên Không; câu
tiếp là chính thức quán, bởi vì thấy lý không hề
có gì, cho nên nói là
không trái ngược; câu sau cuối giải thích rằng bởi vì đạt được mắt thấy pháp không xen tạp vô minh, cho nên nói là tịnh.
Một kệ sau trình bày về quán tánh chân thật không có tánh, trong đó hư vọng là tánh đã chấp, không phải vọng là tánh
Vô tướng, thật là tánh
Vô sinh, không thật là
tánh Y tha. Hai quán nếu thành tựu là xuất thế gian,

hai quán nếu
không có là thế gian, dựa theo quán trí mà nói. Như
vậy có-không có đối đãi với nhau
không thật, cho nên nói chỉ nhờ vào
ngôn từ giảng giải. Có
và không có đều mất, mới tiến vào quán tánh
không có tánh. Ở đây
thuận theo mở rộng nói về quán ba tánh-hai tánh…,
dựa theo Giải-dựa theo
Hạnh để phân tích.

Giáo hóa thậm thâm. Vì
sao đưa ra? Bởi vì trước đây trình bày về thâu nhiếp tâm tiến vào lý, ở đây phân rõ về Hậu trí cứu giúp chúng
sinh, tài là pháp tài. Trong đó, trước là hỏi-sau
là đáp. Trong này hỏi-
đáp tựa như có phần khác nhau, dựa theo đáp
chọn lấy câu hỏi. Trong hỏi nên nói: Như Lai đã tùy theo mười loại giáo hóa, vì
sao lại nói chúng
sanh thì không phải là chúng sinh? Trong đáp trình
bày về thân mạng…
đều Không, là tùy theo mười loại giáo hóa thì
không phải là giáo hóa, bởi vì chúng
sinh không phải là chúng
sinh thì giáo hóa cũng không phải
là giáo hóa, điều này có gì sai? Lại dựa theo
hỏi chọn lấy đáp, ý chất vấn rằng:
Như Giác Thủ đã nói:
Chúng sinh đã Không, làm
sao giáo
hóa? Lúc giáo hóa nếu như Thánh trí hợp với lý
thấy Không, thì không thành tựu giáo hóa. Nếu
giống với phàm phu chấp trước ngang ngược cho là có, thì không có thể giáo hóa. Đây là chất vấn trái ngược nhau về
có-không có. Ý đáp: Chúng sinh là Không, Không
là chúng sinh. Đại Phẩm nói: “Không phải là vì
không có Sắc cho nên gọi là Sắc-Không, mà chỉ vì Sắc tức là Không, Không tức là
Sắc.” Giải thích rằng:
Bởi vì Không ngay nơi Sắc mới là Chân Không, chứ
không phải là
Không của đoạn mất, cho nên đây không phải là cảnh
của trí phàm phu.
Bởi vì chúng sinh như vậy dùng mười loại tùy theo như
vậy để nói về pháp
môn như vậy, mới là chân thật giáo hóa.

Trong chất vấn có hai: Một
là một câu nêu ra nghóa chính, hai từ “Vân hà…” trở xuống là hiển bày trái
ngược nhau.
Trong đó, người
xưa lấy tùy thân là
tổng quát, nay một câu đầu là tổng quát, mười câu còn lại là
riêng biệt. Một câu đầu là lúc phát tâm, lúc đạt được đạo…,
Luận nói: Chất vấn về
nơi sinh vốn là chờ đợi thời gian. Hai là tùy theo thọ mạng của báo ấy, hoặc là thời gian dài, hoặc là thời gian ngắn thích
hợp với tiếp nhận giáo
hóa, thì ở thời gian ấy mà giáo hóa. Ba là tùy
theo thời gian của thân
đã thọ, như phải có được thân người mới giáo hóa… Bốn là tùy theo thời gian của hành nghiệp đã làm, như phải gây ra
việc ác mới đạt được
pháp nhẫn, như kinh Tịnh Chư Nghiệp Chướng nói về thiện hạnh… Năm là tùy theo thời gian đang khởi lên mong muốn
ưa thích điều gì mà tiếp
nhận giáo hóa. Sáu là tùy theo thời gian khởi lên thệ nguyện gì mà tiếp nhận giáo hóa. Bảy là tùy theo thời gian khởi lên
ý niệm gì nhớ đến
sự việc gì. Tám là tùy theo thời gian khởi lên
phương tiện gì mà muốn
tu tập thành tựu. Chín là tùy theo thời gian khởi
lên tư duy điều gì để chiếu rọi quán sát. Mười
là tùy theo thời gian khởi
lên suy nghó tính toán điều gì. Mười một là tùy theo thời gian khởi lên
cách nhìn như thế nào để
thích hợp tiếp nhận giáo hóa. Như Lai vào lúc bấy
giờ liền thuận theo giáo hóa, đã giáo hóa uốn
khúc tùy theo căn cơ
như vậy, mà nói chúng
sinh thì không phải là chúng sinh, lý ấy ở đâu?
Thứ hai trong đáp có hai: Một là một kệ khen ngợi về đức
khuyến khích lắng nghe, nửa
kệ trước khen ngợi đức của Văn thù, bởi vì trong trí không xen lẫn vô minh cho nên nói là
Minh trí, có thể chiếu rọi về
lý duy tâm cho nên nói
là cảnh giới. Vì sao luôn luôn chiếu rọi cảnh này, là bởi vì thường vui với hạnh vắng lặng.
 Hai là trong chín kệ có hai: Bảy kệ đầu chính thức đáp câu hỏi trước, hai kệ
sau ngăn chặn chất vấn
tiếp tục đáp. Trong phần
trước một câu hỏi về tùy thời không có đáp, bởi
vì tổng quát không lìa
riêng biệt. Ba kệ đầu đáp một câu hỏi về tùy
thân, hai kệ tiếp đáp
một câu hỏi về tùy mạng, một kệ tiếp đáp một câu
hỏi về tùy hạnh, một
kệ sau cuối đáp chung về bảy câu hỏi còn lại.

Trong ba kệ đầu, hai kệ trước trình bày về Nhân Không:
Một kệ đầu là xưa nay nói
rằng Ngã ở trong thân, nay trình bày về thân
không có-Ngã cũng không
có, là bởi vì quán về Giới phân biệt, quán xét
thân này không thể đạt
được, thì thông hiểu về Ngã có trong thân đã chấp tức là không có. Một kệ tiếp là xưa nay nói rằng thân nương tựa
vào Ngã, nay trình bày về
Ngã không có-thân cũng không có, là bởi vì
tìm thân chủ động dựa
vào, quán xét về Ngã thụ động dựa vào không
thể đạt được, thì không đắm trước đối với thân. Một kệ tiếp là dùng bên trong giống như bên ngoài để trình bày về pháp không có Ngã, trong đó hai câu đầu là nêu ra, một câu tiếp là
giải thích, một câu
sau cuối là
lợi ích. Tùy thân như
vậy thì không phải là tùy, không khác chúng sinh
thì không phải là chúng
sinh, vì vậy không có gì sai.
Ngay trong hai kệ đáp về tùy mạng, một kệ đầu quán về
cảnh, một kệ sau quán về
trí. Trong kệ trước, thân nói là danh sắc tức là thân của quả báo, mạng nói là chính thọ
sinh ra thức tức là Thức vốn có, Thức vốn có và thân từ đầu tới cuối lại làm nhân quả cho nhau hòa
họp không hai, dụ nói có thể biết. Ở đây làm nhân quả cho nhau,
 không phải là cảnh thuộc về Thức rối loạn của Nhị thừa và phàm phu ngu muội,
cho nên nói là không thể
nhận biết. Nghóa này ai có thể nhận biết? Bởi
vì người trí có thể
quán sát, thì pháp của Phật Bồ-tát như trí. Sở dó có thể nhận biết thân mạng lại làm nhân duyên cho nhau, là bởi vì pháp vô
thường dựa vào nơi khác để phân biệt lại làm nhân với nhau cho nên
có thân mạng, vì pháp
thường trú không trở thành nhân cho nên đã nói vô thường, ngay nơi có-không phải là có đều không có tự tánh, cho nên
nói là Không-Vô ngã,
và lìa tất cả các tướng như tăng thêm-giảm bớt…
Ngay trong một kệ đáp về tùy hạnh, bởi vì Thức vốn có và các pháp huân tập của ý thức lại làm nhân cho nhau. Do công năng của nghiệp phát
sinh chứ không phải là
có người-pháp…, cho nên nói là không có Ngã giống như mộng. Không phải là chỉ có nghiệp hạnh riêng biệt bặt dứt hai Ngã, do nghiệp mà đạt được quả của báo,
cho nên tánh của Ngã
cũng vắng lặng. Nhân quả ấy tựa như trước sau
khác nhau, nghóa về không
có Ngã giống như không hề có sai khác.

Tiếp theo một
kệ đáp về bảy câu hỏi sau, bởi vì tùy theo bảy
loại như mong muốn ưa
thích… đều là tâm sở (tâm số), dựa vào tâm
vương không tự tại, cho nên đưa ra tâm vương thâu nhận toàn bộ để đáp
chung, do đó nói rằng chỉ
lấy tâm làm chủ. Lại giải thích, tất cả các pháp thế gian chỉ là do tự tâm thay đổi
sai khác mà dấy lên, tâm là nguồn gốc
của các pháp, cho nên nói là chủ. Nhưng phàm phu ngu muội không hiểu
rõ về nghóa duy tâm, tùy
tiện thuận theo phân biệt khởi lên bảy loại
tâm niệm như mong muốn ưa
thích… này, bởi vì đều giữ lấy tướng cho
nên đều là điên đảo,
là điên đảo cho nên tức là Không, không hề có gì,
vì vậy tùy theo thì không
phải là tùy theo.

Sau là giải thích ngăn chặn chất vấn, sợ rằng có người chất vấn rằng: Nếu chúng
sinh như vậy thì Không tất nhiên là pháp môn,
tùy theo cũng như vậy đâu
cần phải trải qua giáo hóa? Giải thích rằng:
Bởi vì không có thể
hiểu rõ các pháp tức là không hai, do đó cần phải
giáo hóa. Lại tiếp tục
chất vấn rằng: Vậy thì chúng sinh này không hiểu
rõ chân thật, lẽ nào
không phải là Không hay sao? Giải thích rằng: Bởi
vì thuận theo duyên khởi
cho nên không phải là không có, nhanh chóng diệt đi không dừng lại cho nên không phải là có, hai pháp này không hai là chúng
sinh cho nên nói là không có tướng khác nhau, do đó
có thể giáo hóa. Kệ
trước trình bày về cần phải giáo hóa, kệ sau trình
bày về thành tựu giáo hóa.

Nghiệp quả thậm thâm, trong
phần này trước là chất vấn,
sau là trình bày. Trong chất vấn có hai, trước là nêu ra pháp chính thức chất
vấn, sau từ “Nhiên pháp tánh…” trở xuống là
ngăn chặn cứu vãn tiếp
tục chất vấn. Trong này ý chất vấn, nếu trong bốn
Đại không có
Ngã thì ai làm ra thiện ác, ai có thể nhận lấy báo
ứng? Trong này chấp có tác dụng thuận theo có người làm ra, là lấy Dụng đưa ra Thể để chất
vấn.
Giả sử Tiểu thừa nói cứu vãn, thì tuy không có
Ngã-Nhân-Tác
giả, nhưng có pháp thiện
ác nhân quả, cho nên có thể như vậy. Hãy còn
là chấp pháp, cho nên
lại chất vấn rằng: Nhưng đối với pháp tánh không có
thiện-không có ác, đây là hiển bày về
pháp Không. Đã đối với
pháp tánh là Không,
không có thiện-ác, nếu không có người làm ra thì lại vì pháp nào mà có
nghiệp quả, do đó biết là có Ngã. Ngã đã thật có thì
lý Vô ngã ở đâu? Ý
chất vấn như vậy.

Trong phần trước có hai: Một
câu trước nêu ra nghóa chính, còn lại hiển bày về trái
ngược nhau. Trong đó có năm cặp mười câu:
1) Dựa theo thọ báo cho rằng có người thọ;
2) Dựa theo nghiệp tạo tác cho rằng có người tạo tác;
3) Dá»±a theo
sai biệt trong báo, bên trong dựa
theo hành, bên ngoài dựa
theo thân, nếu không có nghiệp tạo tác thì vì
sao có
sá»±
sai khác này?
4) Dựa theo báo nhiều ít, như trong kinh nói,
chủ động tạo tác nhiều
nghiệp thì thọ báo cũng nhiều, ít cũng như vậy,
cho nên biết có Ngã.
Trên đây là dựa theo Sinh báo.
5) Dựa theo Hiện
báo và Hậu báo. Sau là
ngăn chặn cứu vãn chất vấn có thể biết, cũng là
trở lại tiếp tục đưa ra.

Thứ hai là trong đáp, vì sao Bảo Thủ đáp, nghóa là trong sự
hiển bày lý đạt được
nhiều vật báu đáng quý. Trong đó có hai: Đầu là
một kệ nói về pháp, sau
là nói về chín dụ.
Trong phần trước có hai nghóa: Một là nêu ra nghóa chính thức đáp, hai là dẫn ra chứng đắc của Đức
Phật để nói, không phải là mình có
thể biết. Trong phần đầu,
hai câu trước trình bày về nghiệp quả không hư hoại, một câu
sau trình bày về không có người làm ra, nghóa là tùy
theo các nghiệp sai biệt
đã làm ra huân tập vào Thức vốn có, Thức vốn
có dựa vào nơi khác
biến đổi tựa như do nghiệp ấy mà sinh khởi quả
báo, cho nên có đủ loại
khác nhau như nhiều báo…, chỉ là các Thức
duyên khởi cùng nhau tập
hợp mà thành, không có tự tánh cho nên nhất
định có nghiệp quả, thật
sự không phải là trong bốn Đại có riêng
nhân-ngã có thể làm ra
nghiệp nhận lấy quả, cho nên nói là người tạo
tác không có. Đây là bởi vì lý Vô tánh cho nên pháp tánh không
có thiện-ác, bởi vì Vô tánh mà trở thành nhân quả cho nên có nghiệp quả
sai biệt. Đây
chỉ có nhân quả vô
tánh, liên quan gì có nhân-ngã, cho nên nói trong bốn Đại không phải là
Ngã… Nghóa lý của Chánh pháp quyết định như vậy, do chư Phật ba đời cùng thuyết ra, cho nên nói là chư
Phật thuyết.
Trong kinh Lăng Già quyển
thứ nhất nói: “Ta thường thuyết pháp Không, xa lìa
với Đoạn-Thường,
sinh tử giống như mộng, mà nghiệp ấy
không mất.” Là nói đến điều này.

Trong phần sau
là chín dụ đều có hai nghóa, đó là nghiệp quả
rõ ràng mà không hề có
gì cho nên trở thành dụ.
Thứ nhất trình bày về dụ Y tha lìa tánh, nghóa là Thức vốn có
như tấm gương, tùy theo
huân tập mà hiện bày nghiệp quả như cảnh tượng,
đây là nghóa về Y tha. Trong-ngoài không vốn có gì
là trình bày về ng- hóa lìa tự tánh, điều này có ba lớp bốn câu:
1) Dựa theo hình ảnh,
nghóa là không có sắc
chất cho nên không hiện bày, bởi vì bên trong
không có gì; không phải là gương cho nên không có hiện bày, bởi vì bên
ngoài không có gì; dựa vào một hình ảnh này, cho nên cả hai không có gì;
dựa vào hình ảnh này,
cho nên cả hai không phải là không có gì. Bởi vì tất cả là nghóa về hình ảnh,
 nhất định phải dựa vào bên trong-bên ngoài mới có thể hiện bày được.
2) Dá»±a theo
sắc chất, nghóa là mặt ở
phía Nam-hình ảnh phía Bắc,
cho nên sắc chất bên trong không có gì; bởi
vì như khuôn mặt mà hiện
bày, cho nên sắc chất bên ngoài không có
gì; cả hai-không cả hai,
có thể biết.
3) Dựa theo mặt gương, nghóa là
trong mặt gương bằng sắt
cứng dày không có nơi nào trống rỗng, không
tiếp nhận vật gì, cho nên
hình ảnh không phải là bên trong; hễ muốn
nhìn hình ảnh thì đều
đứng trước gương mà nhìn, cho nên không phải là
bên ngoài; cả hai-không cả hai, có thể biết. Như
vậy không có gì mà hình ảnh rõ ràng, nghiệp như hình ảnh, tánh như mặt gương, cho nên
nói là cũng như vậy.
Khởi Tín luận nói: “Hai là nhờ vào mặt gương
huân tập, nghóa là tất
cả cảnh giới thế gian đều hiện bày trong đó,
không ra- không vào-không mất-không hoại, thường
trú trong một tâm, bởi vì
tất cả các pháp là
tánh chân thật.” Là nói đến điều này.
Thứ hai trình bày về dụ không biết nhau làm
thành nhân, nghóa là Thức vốn có như
thửa ruộng, các nghiệp như chủng tử, nhiều loại
chủng tử cùng chung một
Thức vốn có, cho nên tất cả không có tự Thể để
có thể nhận biết nhau.
Nhưng công năng của Thức không mất-không
hoại mà có thể làm
nhân, như đất sạch sẽ gặp được mưa thì mọc cỏ.
Nhiều loại cỏ này ở trong đất ấy tìm tánh của từng loại đều không thể
được mà có thể làm
nhân, dù cho đào sâu xuống mặt đất mà đất đã lấy
lên gặp được mưa thì
mọc cỏ, hạt cỏ giống như đất tuy trải qua nhiều năm mà không mất; ở đây cũng như vậy.
Kinh nói: “Nghiệp tuy trải qua
trăm kiếp mà cuối cùng
không có biến đổi hư hoại, lúc gặp các duyên hòa hợp thì phải nhận lấy quả ấy.” Vì vậy nói là tánh nghiệp cũng như
vậy. Vả lại, đất và nước là duyên xa, hạt giống là duyên gần, tất cả đều
làm mất đi có-không có,
cho nên không nhận biết lẫn nhau, trong Thức
dựa theo đây biết rõ.
Thứ ba là dụ về nhân có thể hiện rõ quả, nghóa là tánh của nghiệp như
huyễn sư, hiện rõ quả như
huyễn sắc, tuy tựa như có mà
không phải là có.
Thứ tư là dụ về pháp của quả không có ý niệm, nghóa là do các nhân duyên như yết hầu… hòa hợp phát ra tiếng, thật
sự không có công năng của Ngã, chỉ từ danh ngôn huân tập
sinh ra tựa như lời nói; như người gỗ phát ra tiếng không có hai ý niệm tự nghó rằng mình có
thể phát ra tiếng và
không phải là mình phát ra tiếng. Vả lại, gỗ như Tạng tánh, người thợ như các nghiệp
vọng tưởng, người gỗ như tướng báo
của chúng sinh, cho nên
không có Ngã-không phải là Ngã.
Thứ năm là dụ về Thể của nhân không xen tạp, nghóa là lúc
chim còn trong vỏ trứng
chưa phân rõ tướng của tiếng kêu, ra khỏi vỏ
trứng tùy theo loại mới
có tiếng kêu khác nhau. Chủng tử của khẩu nghiệp
ở trong Thức vốn có
tánh vô ký như nhau, không có bao nhiêu tướng, lúc báo chín muồi đến nơi thọ
sinh có thể phát ra các tiếng.
Vả lại, công năng
sinh ra quả không
giống nhau, như chim ra khỏi vỏ trứng;
Thể tánh của nghiệp trống rỗng không có gì
sai khác, như chim còn trong
vỏ trứng. Đây chính là
dụ về trước-sau, dựa theo pháp thì cùng lúc.

Thứ sáu là dụ về hiện rõ quả không có đến, nghóa là như
cha mẹ làm duyên thọ
sinh, Thức có chủng tử như nghiệp-phiền não… làm nhân. Thức này lúc hòa hợp với trắng đỏ thì gọi là nhân duyên hội tụ,
vì vậy gọi là thọ sinh.
Không có nơi đến riêng biệt, tuy không có đến
mà báo dần dần lớn
thêm không trở ngại các căn khác nhau; nghiệp
cũng như vậy,
suy
nghó-chuyển động tạo nghiệp như thân…, không có nơi
đến riêng biệt, về sau
nếu chín muồi thì cảm đến báo ứng sai biệt.
Thứ bảy là dụ về khổ báo không có gốc, nghóa là bởi vì ác
nghiệp huân tập trong tự tâm, vì vậy khiến cho tâm thay đổi làm ra đủ loại
dụng cụ khổ đau, trở
lại tự não hại đến mình. Nhưng dụng cụ khổ đau ấy tuy bên ngoài không có nơi đến, mà việc não hại không hư hoại;
nghiệp cũng như vậy, tuy không có tự tánh mà cảm đến báo ứng không
mất, cho nên nói là tánh
của nghiệp cũng như vậy.
Thứ tám là dụ về quả thù thắng không có rễ, nghóa là nghiệp thiện huân tập vào tâm, tâm huyễn hiện bày quả cũng không có gốc rễ.
Tiểu thừa nói
sau khi
Luân Vương mất đi bảy vật báu cất giữ ở
trong núi Thiết-vi,
sau
Thánh Vương xuất thế thì bảy vật báu trở lại hiện rõ trước mặt
Thánh Vương. Nay ở đây thì không như vậy, chỉ do nghiệp huân tập trong tự tâm mà biến hiện, không có Thể của vật báu nào khác làm
cho đến đi; tánh của nghiệp cũng như vậy,
Luận nói: Thiện ác huân tập vào

tâm, vì sao
nói tâm khác nhau?
Thứ chín là dụ về có-không có cùng tánh, nghóa là nghiệp hữu
lậu chưa đạt được quả
và trước đạo đối trị, là Thức vốn có thâu nhiếp
duy trì công năng không
diệt đi, gọi là Thành; đến lúc đạt được quả và
đạt được đạo đối
trị, công năng của nghiệp không còn, gọi là Bại.
Tìm lúc thành ấy không từ nơi nào đến, tìm lúc bại ấy cũng không có nơi
hướng về, đây là hoàn
toàn không làm hỏng thế gian mà nói Đệ nhất nghóa.

Phật thuyết pháp thậm thâm: Một là trong chất vấn có hai, trước là đưa ra pháp chính thức chất vấn,
sau là ngăn chặn cứu vãn tiếp
tục chất vấn. Trong phần trước có hai:
1) Đưa ra nghóa chính;
2) Chính thức đưa ra chất vấn, đó là mười loại trái ngược nhau, một pháp là một vị Chân như. Ý chất vấn rằng: Đã giác ngộ là
một mà thiết lập nhiều
loại giáo, nếu nghóa không phải là một thì có
thể làm cho tùy theo lời nói đều thật, tức là trái với một vị
sẽ mất đi pháp đã chứng; nếu nghóa là
một vị mà không tùy theo lời nói, thì tất cả
các giáo đều thuận theo hư
vọng. Đây là chất vấn về giáo-nghóa trái ngược
nhau. Vị ấy nếu nói để cứu vãn rằng: Tôi nói trong lý một vị đã chứng này vốn có đủ nhiều đức,
cho nên các giáo đều hiển bày một đức, do đó
không trái ngược nhau. Vì ngăn chặn lời cứu vãn này cho nên tiếp tục chất vấn rằng: Nhưng mà
ở trong pháp tánh, phân biệt suy xét tìm tòi nhiều
loại như vậy thật
sá»±
không thể có được, không thể có được cho nên
giáo đã trái với nghóa.
Lại giải thích: Đây là chất vấn về Thể-Dụng
trái ngược nhau, nghóa là giác ngộ một pháp là Thể, thích ứng với cơ hiện bày nhiều loại là Dụng. Nếu lấy Thể thuận theo Dụng thì
sẽ trái làm mất đi một pháp, nếu Dụng giống như Thể thì các loại
sẽ
không thật. Nếu nói trong một pháp bởi vì
có nhiều loại thì không trái ngược nhau, nhưng mà
trong pháp tánh tìm
cầu nhiều loại không thể có được, cho nên không thành cứu vãn.

Trong mười câu, một câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại
là riêng biệt:
1) Âm thanh của giáo có khắp mọi nơi;
2) Lực của giáo thâu nhiếp chúng sinh;
3) Từng âm thanh sai biệt (ba loại trên đây là khẩu nghiệp);
4) Thân nghiệp;
5) Ý nghiệp;
6) Dụng của thân;
7) Y báo;
8) Trang nghiêm quốc độ;
9) Phạm vi. Nếu nói đầy đủ thì thuận theo đầu mỗi một câu đều nói: Chỉ giác ngộ một pháp sao nói là vô lượng?
Hai là trong
phần đáp, Đức Thủ đáp là bởi vì hiển bày về
lý-đức sâu xa của
pháp. Trong đó có hai: Đầu là một kệ khen ngợi thưa hỏi
sơ lược trả lời. Ý trả lời rằng: Bởi vì pháp giới một vị là nghóa không
có phân biệt chứ không
phải là một thuộc một số, vì vậy tùy duyên
thành nhiều mà không
khác với một vị, một vị trong suốt mà không trở ngại
nhiều loại.
Hai điều này không có hai, vì vậy các giáo đều thật mà lý một vị tồn tại. Như vậy không ngăn ngại gì, cho nên gọi là nghóa vi
diệu thậm thâm. Lại giải
thích: Một này không khác với nhiều, là Như
Lai đã giác ngộ; nhiều không khác với một, là Như Lai đã
thuyết giảng.
Do đó một là vô cùng
sâu xa, bởi vì không khác với nhiều; nhiều cũng như vậy, ngược lại với trên có thể biết, cho nên nói là nghóa vi diệu
thậm thâm. Người cầu
công đức bởi vì biết một phát khởi nhiều có thể
thâu nhiếp chúng sinh, mà
cầu đạt được một pháp này; lại bởi vì biết nhiều quy về một có thể chứng được lý, mà cầu đạt được nhiều pháp này,
cho nên gọi là người trí.
Sau là nửa kệ Đức Thủ tự hiển bày dựa theo pháp làm tên gọi. Trong này chín dụ đều hiển bày không thay đổi một, không có
phân biệt mà thành tựu
sự việc sai biệt:
1) Dụ trình bày về pháp có thể gánh vác vạn cơ;
2) Dụ về duyên diệt mọi phiền não;
3) Dụ về tiến vào pháp khí không có gì thay đổi, đó là như nghóa lưu chuyển thù thắng
trong pháp giới…;
4) Dụ về lay động các căn mở bày giác ngộ, đó là huân
tập trở thành chủng tử,
thường thường khiến cho chán ngán mong cầu;
5) Dụ về thuận theo mong
muốn mà làm lợi ích, rồng như thân Phật,
sấm như Phạm âm, mưa như
Chánh giáo, bởi vì không có phân biệt cho
nên không khác với một;
6) Dụ về duyên phát sinh các đức, đó là dựa vào pháp giới thanh tịnh thành tựu các hạnh về
tu sinh…;
7) Dụ về không cấu nhiễm chiếu rọi căn cơ;
8) Dụ về ứng với căn cơ bất cứ ở đâu;
9) Dụ về tùy duyên bất
biến. Các môn trên đây đều không khác với
một, không có phân biệt
mà hiện bày nhiều loại sự việc ích lợi, như
Phạm ứng Đại thiên dụ
về Phật thuyết vô lượng, thân không khác biệt dụ
về một vị thường còn,
các môn còn lại đều dựa theo như vậy.

Phước điền thậm thâm: Trong
chất vấn, đầu là chính thức chất
vấn, sau là ngăn chặn cứu vãn tiếp tục chất
vấn. Trong ý chất vấn đã
nói đức của Phật không khác biệt, thì lẽ ra thi
thiết đạt được quả không
khác, vì sao nay thấy đạt được báo sai biệt? Đây
là chất vấn về duyên và quả trái
ngược nhau. Sợ rằng vị ấy nói để cứu vãn:
Ruộng phước của Phật tuy là một nhưng nếu người đối với Phật phát khởi cúng dường
thượng diệu, thì Phật đối với người này sinh
niệm thân ái, cho nên đạt được quả báo thù thắng; xấu tệ thì trái lại. Vì ngăn chặn lời cứu vãn này
cho nên sau đó nói rằng: Như Lai bình đẳng không
có oán thân. Đây là
ba pháp về Niệm xứ.

Trong phần chính thức chất vấn, đầu là nêu ra nghóa chính, sau
là hiển bày về trái
ngược nhau. Trong đó, câu đầu là tổng quát, mười câu
là riêng biệt giải thích về lời nói không giống nhau trong phần tổng
quát trước đây:
1) Sắc tướng đẹp xấu;
2) Bốn giòng họ và năm chủng tánh… trong loài người;
3) Như bốn câu là người sang mà không phải là giàu, giàu mà không phải là sang…;
4) Các căn như Nhãn… đủ thiếu đẹp xấu và căn cơ lợi độn…;
5) Tài sản vàng bạc của cải…;
6) Bố thí đứng đầu có được tài vật rất kỳ lạ, như cây Đề-già, vải bông trắng dùng
đinh đóng vào đất bảy
tấc mà không xuyên thủng…;
7) Quyến thuộc thiện ác…;
8) Đã đều nhún mình thực hành bố thí,
 thuận theo cùng được tự tại, ngày nay mới đến,
 hoặc là đối với một người được tự tại,
 những nơi khác không có được…, đều có phạm vi, lên xuống không giống nhau;

9) Phước đức nhiều ít;
10) Trí tuệ sâu cạn. Ngăn chặn cứu vãn có thể biết.
Trong phần đáp, Mục Thủ là người thấy rõ ràng pháp này. Ý đáp là bình thường cúng dường Phật bởi vì hai nhân:
1) Do người cúng
dường dụng tâm không
như nhau, liền khiến cho đạt được báo khác nhau rất nhiều, như kinh Ôn
Thất nói: “Đều bởi vì dụng tâm không như nhau.”
2) Do tâm Đại Bi của Đức
Phật không thể nghó bàn, cuối cùng đều khiến cho tất cả được
giải thoát, kinh Đại Bi quyển thứ hai nói: “Dưới đến
súc sinh có thể nghó đến
Đức Phật, đều đạt được Niết-bàn tối thượng,
cùng tận ranh giới phiền
não, huống là con người…” Lại như tánh bậc thấp khởi lên lợi ích của
thấy nghe…, vì vậy trong kệ nói bởi vì chúng
sinh
có khác nhau, là nghóa
đầu; có thể đốt cháy tất cả các cõi, là nghóa sau.

Hai nghóa này
không hai, cùng một báo cho nên không trái ngược nhau. Dẫn ra mười dụ nêu rõ:
1) Dụ về duyên có thể hiện rõ quả;
2) Dụ về ứng với căn
cơ tùy theo hiểu rõ;
3) Dụ về khéo léo tùy thuận;
4) Dụ về ứng với cơ
cảm khiến cho vui mừng;
5) Dụ về vật cảm hiện
rõ hình tướng;
6) Dụ về
khéo léo trừ diệt chướng ngại mê hoặc;
7) Dụ
về tiêu diệt chướng
ngại do trí;
8) Dụ về tâm Bi phủ khắp mọi nơi;
9) Dụ về thường thường
khiến cho sinh tâm chán ngán, nghóa là không
khiến cho vui thích lâu
dài;

10) Dụ về đốt cháy tất cả, nghóa là khiến cho
đạt được Niết-bàn.

Chánh giáo thậm thâm: Trong
chất vấn có ba: Một là nêu ra
lực của giáo. Hai từ “Vị tri…” trở xuống là
nêu ra lực của hành, trong đó mười pháp phân làm ba: a) Nhận biết toàn bộ năm uẩn; b) Nhận biết báo nhiễm tịnh của ba cõi khác nhau; c) Nhận biết
si ái là duyên của
báo. Ba từ “Nhược tri…” trở xuống là dùng
hành để chất vấn về giáo,
hiển bày giáo không có lực. Ý chất vấn là nhờ
vào giáo pháp mà đoạn trừ phiền não, hay là nhờ vào thường xuyên quán
sát các pháp mà đoạn

trừ phiền não? Nếu nhờ vào giáo có thể đoạn trừ thì không cần
phải tinh tiến, nếu nhờ
vào thường xuyên thực hành có thể đoạn trừ thì giáo không có thêm bớt, nghóa là giáo pháp này đối với công đức không
tăng thêm, đối với
phiền não không giảm bớt. Lại giải thích đạt được giáo không tăng thêm, mất đi giáo không giảm bớt, bởi vì không có tác
dụng. Đây là chất vấn
về lực của giáo trái ngược nhau. Ý đáp bởi vì giáo là duyên của tinh tiến, thường xuyên quán
sát giúp đỡ cho giáo mới
có thể đoạn trừ phiền
não, cho nên nhanh chóng thoát ra. Giáo có lực thù thắng, lười nhác trái với giáo thì không có lực của giáo, cho nên khó mà thoát ra. Người chất vấn dùng lực của hành làm mất đi lực của
giáo, người đáp hiển
bày về hành vốn là nhờ vào lực của giáo. Bởi vì
thuận theo giáo lìa xa lười
nhác, cho nên Tiến Thủ giải đáp điều này.

Trong kệ có ba: Một có một
kệ khuyến khích lắng nghe tổng
quát nói tách ra hai chương
môn. Hai có một kệ phân rõ tinh tiến thuận với giáo để giải thích về môn nhanh chóng thoát ra. Ba có tám kệ trình bày lười nhác trái với giáo để giải thích về môn khó mà thoát ra:
1) Dụ về lười nhác nghe
nhiều hiểu rộng, người này trước đã ít nghe hãy còn không có thể lónh ngộ, như đốm lửa nhỏ; nay lại gắng gượng
cầu học rộng nghe nhiều,
như củi còn ướt. Bởi vì mới cũ đều mất đi, cũng không có gì thành tựu ích lợi, vốn là vì lười nhác.
Vả lại, người này muốn dùng chút ít thời gian nhanh chóng học hỏi
nhiều pháp,
sự học
đã không thành tựu
liền trở thành lười nhác.
2) Dụ về lười nhác không
có năng lực, người
này phước mỏng thiếu tâm lực, lại thường xuyên bỏ
dở luyện tập, không có
gì thành tựu vốn là vì lười nhác. Vả lại, người này tuy cũng trải qua nhiều thời gian nhưng thường xuyên gián đoạn,
cho nên sự nghiệp không
thành tựu gọi là lười nhác.
3) Dụ về lười nhác tu theo một phía, người này rời bỏ
Thiện tri thức, chỉ đối với kinh điển
cầu luyện tập về Văn
tuệ, không có gì đạt được cho nên lười nhác.
Vả lại, người này tuy không
gián đoạn, nhưng thiếu duyên cho nên sự
nghiệp cũng không thành tựu.
4) Dụ về lười nhác tu
trái ngược, người này
nghe nói viết chép trì
tụng kinh điển thì chứng được giải thoát, bởi vì không nhận biết ý nghóa-thời gian khác nhau, lâu mà không đạt được liền
sinh ra lười nhác.
Vả lại, người này tuy có ngoại duyên mà đều là người học
sai lầm, tùy tiện giữ lấy mong cầu
trái ngược, cho nên dao động
rơi rụng.
5) Dụ về lười
nhác vượt quá mong cầu, người này không tự
biết mình không có Văn
tuệ, chỉ mong mỏi thông hiểu tất cả Phật pháp, đã không có thể thông hiểu thì
sinh ra lười nhác.
Vả lại, người này tuy
bên ngoài có duyên tốt
mà nhân bên trong có thiếu hụt, nghóa là không có

lòng tin, tự
mình không có trì giới đầy đủ, không giữ chắc cung
Định, không lắp mũi tên Trí, làm
sao có thể bắn đến mặt đất phiền não.
6) Dụ về lười nhác ít lực, người này dùng ý thức trong
sát-na mà mong
suy xét tận cùng biển
sâu của
Phật pháp, đã không có thể đi vào thì
sinh ra
lười nhác. Vả lại, nghe
xưng danh hiệu Phật một niệm diệt nhiều tội
nặng, chỉ xưng niệm một
câu thì ngừng mà nói rằng tội mình đã diệt…
7) Dụ về lười nhác ít
sửa trị, người này nghe Phật dạy có thể dập tắt lửa
phiền não, thì dùng một
chút nghe mà mong mỏi diệt hết phiền não, lâu
mà không hết thì nói là
Phật dạy không có tác dụng, tất cả đều vứt bỏ,
vì vậy mà lười nhác.
8) Dụ về không có ý mong cầu vượt ra, cũng gọi
là dụ về chấp ngã mạn
cao, người này nghe nói chúng sinh là Chân như, bởi vì không hiểu rõ mê-ngộ, cho nên nói rằng mình đã là Chân như
thì chính là đã chứng
được pháp giới, lại tu điều gì nữa, do đó sinh
ra lười nhác.

Chánh hạnh thậm thâm: Trong
chất vấn có ba: Một, dẫn lời
Đức Phật nói, nêu ra nghóa chính. Hai, từ “Vân
hà…” trở xuống là thiết lập chất vấn hiển bày về
trái ngược, trong đó đầu là câu tổng quát, tiếp
theo tùy mười pháp cấu nhiễm là riêng biệt, luôn
luôn hiện hành trong
tâm cho nên không lìa xa tâm. Ba, tâm không có sở
hành… là kết thúc
chất vấn trở lại nêu ra, nghóa là tuy nghe Chánh
pháp nhưng không có
tâm dựa vào thực hành mà muốn đoạn trừ phiền
não, cho nên biết Đức Phật nói nghe pháp có thể đoạn trừ thì nghóa ấy ở chỗ nào? Lại giải
thích đây là ngăn chặn cứu vãn tiếp tục chất
vấn, nghóa là nếu nói cứu vãn rằng: Nếu dựa vào giáo thực hành thì có thể đoạn trừ phiền não,
cho nên nghóa về nghe pháp có thể đoạn trừ vẫn
còn tồn tại. Nay tiếp tục chất vấn rằng: Đây là dựa vào giáo thực hành, tức là tâm có
sự thực hành,
sao có thể đoạn trừ phiền não? Nếu dựa vào đạo lý, thì phải là tâm không có
sở hành mới có thể đoạn kiết, cho nên nghe pháp rốt cuộc
không có thể đoạn trừ. Ý đáp là tâm này
không có sở hành gọi là như
thuyết thực hành, cho nên có thể đoạn kiết; nếu
chỉ riêng nghe thì thật
sự không có nghóa về đoạn, có thể có nghe mà không thực hành, không
hề có thực hành mà không nghe, cho nên nói tất
cả Phật pháp lấy nghe
pháp làm căn bản. Phần này và Chánh giáo thậm
thâm trước đây có gì khác nhau? Trước dùng hành nêu ra chất vấn về giáo, đáp là lực của giáo thâu
nhiếp hành, nghóa là nếu không có giáo mà thường xuyên thực hành thì không thành tựu; trong này lấy giáo nêu ra chất vấn về
hành, đáp là hành có thể thực hành theo giáo,
nghóa là nếu không thực hành thì đa văn không có tác dụng. Bởi vì chấp giáo
thành hành, cho

nên Pháp Thủ
giải đáp điều này.

Trong mười kệ: Một kệ
đầu là khuyến khích lắng nghe tổng
quát trả lời, không
những tích góp đa văn là trình bày về đa văn không
phải là sai lầm, mà chỉ
vì thiếu thực hành cho nên trở thành sai lạc. Chín
kệ sau là nêu ra dụ chỉ
rõ sai lầm:
1) Dụ về không như thuyết thực hành;

2) Dụ về thuận theo thuyết bỏ
suy nghó;
3) Dụ về chấp vào văn lạc
mất hành;
4) Dụ về tự
nói mình không có phần, cũng gọi là dụ về đắm vào văn lạc mất hành;
5) Dụ về ác nghiệp làm
chướng ngại;
6) Dụ về
không hiểu mà tự nói;
7) Dụ về không thấy tự nghóa, nghóa là trước dựa theo giáo, ở đây dựa
theo nghóa;
8) Dụ về bỏ chánh đạo thành trợ đạo,
nghóa là như Tỳ-kheo Ngưu
Vương Mục tụng tám vạn pháp tụ, luôn luôn
độ nhiều ức chúng sinh
đạt được đạo, mà chính mình không tránh khỏi rơi vào địa ngục…;
9) Dụ về giấu điều
sai-khoe điều đúng, nghóa là
như Điều-đạt khéo léo nói pháp nhưng trong lòng rối bời tối tăm, lại
dựa vào cách nói này
mà tự cao không yên phận, trái lại làm cho bị hại…

Hỏi: Vì sao
trong này quở trách đa văn, trong phẩm Thập Trú
lại khen ngợi đa văn?

Đáp: Bởi vì
trong Tín thì hành kém cỏi, sợ rằng vướng mắc theo văn, lại ban đầu là nghe huân tập khiến cho thành tựu nhất tâm lắng nghe không
trái ngược, từ
Thập Trú trở đi vốn là hành thù thắng, vốn
là không vướng mắc,
vốn là có thể làm lợi ích nhiều cho chúng sinh.

Trợ đạo thậm thâm: Trong
chất vấn có ba: Một, nêu ra
nghóa chính. Hai, từ “Hà cố…” trở xuống là thiết lập chất vấn hiển bày về
trái ngược, trong đó
sáu Độ-bốn Đẳng là mười, đây là dựa theo hành mà phân rõ, nếu dựa theo phần vị mà luận thì thêm bốn loại như
Phương tiện… là mười, trong này Bát-nhã phải là Tuệ
thế gian thâu nhiếp, bởi vì không như vậy thì không phải là
chất vấn. Ba, từ “Thử nhất nhất
pháp…” trở xuống là kết thúc chất vấn trở
lại đưa ra. Ý chất vấn rằng: Trí tuệ là đứng đầu của các hành,
sao không ca ngợi riêng hành này mà
ca ngợi những hành khác; những hành khác lìa xa
Tuệ đều không đạt
được Bồ-đề, đâu cần phải ca ngợi? Đây tức
là lấy trợ đạo nêu ra chánh đạo để chất vấn. Ý đáp là dùng chánh đạo-trợ đạo giúp đỡ nhau mà
đáp. Bởi vì có thể hiểu trợ đạo giống như
chánh đạo, cho nên Trí
Thủ giải đáp điều này.

Trong mười kệ phân ba: Một,
một kệ khen ngợi thưa hỏi khuyến khích lắng nghe. Hai,
hai kệ tách ra hai chương môn, đó là kệ đầu trình bày về quả không phải là do một hành mà thành tựu, chánh đạo cần phải có trợ đạo giúp đỡ; kệ
sau trình bày về ý thích của chúng
sinh
khác nhau, tùy theo căn cơ cho nên ca ngợi
khác nhau. Ba, giải
thích hai chương, ba kệ đầu
giải thích về tùy theo căn cơ ca ngợi khác nhau, lại trong
kinh Niết-bàn nói ở trước những người keo kiệt không
cần phải ca ngợi những
người bố thí, là dựa vào căn chưa thuần thục, bởi
vì mong muốn bảo vệ, văn
này dựa vào căn thuần thục, còn lại cũng như vậy; bốn kệ
sau dựa theo pháp dụ, giải thích về chương môn đầu
chờ đợi theo nhau, bố
thí là thâu nhiếp người khác, trì giới là tự thâu
nhiếp mình, hai loại này
cùng làm căn bản của các hành, thiện căn đã tu thì chịu khó phòng ngừa không mất, thiện căn chưa
sinh thì thúc đẩy
khiến cho sinh khởi. Lại
chịu khó phòng ngừa phiền não bên ngoài, thúc
đẩy phòng ngừa ngạo
mạn bên trong, cho nên nói là phòng hộ. Thiền
định chế phục loại trừ,
trí tuệ mong cầu đoạn dứt, cho nên nói là an ổn.
Vả lại, Thiền thâu nhiếp
phân tán bên ngoài, Tuệ chứng được chân lý, cho nên nói là an ổn; bốn Đẳng lợi ích chúng
sinh vui vẻ hợp với ý
mình, cho nên nói là an lạc.

Nhất thừa thậm thâm: Trong chất vấn có ba: Một là nêu ra
nghóa chính, hai là thiết lập chất vấn hiển bày về
trái ngược, ba là kết
thúc chất vấn trở lại đưa ra. Ý chất vấn rằng:
Hết thảy chư Phật cùng
tu Nhất thừa, nhân hạnh đã giống nhau, đạt được
quả lẽ ra như nhau, vì
sao nay thấy thế giới của chư Phật đủ loại khác nhau, cho đến mười loại
pháp trú, như vậy tất cả đều không giống nhau,
không có gì không đầy đủ, tất cả Phật pháp
sai biệt như vậy mà nói là chỉ dùng
Nhất thừa, lý ấy
ở đâu? Đây là dùng nhân đưa ra quả để chất
vấn, nghóa là nhân giống nhau thì quả cũng
giống nhau; cũng là dùng quả đưa ra nhân để chất vấn, nghóa là quả khác nhau thì nhân cũng khác nhau. Ý đáp rằng lý
thật thì nhân giống như quả không có gì sai biệt,
nhưng tùy theo chúng
sinh cơ cảm mà thấy
sai biệt, không phải là chư Phật tự
có hơn-kém.
Bởi vì trình bày thông hiểu Nhất thừa thuận theo
tướng, cho nên
Hiền Thủ giải đáp điều này.

Trong mười kệ phân hai: Một,
có hai kệ dựa vào thật để trình
bày về nhân quả cùng
là một, trình bày chỉ riêng Nhất thừa được thoát ra
ở phần trên.
Trong đó, trước là một nhân,
sau là một quả.
Trong nhân, nửa kệ đầu trình bày
về một pháp tánh đã dựa vào, nửa kệ sau trình bày
về một hành tu có thể
dựa vào. Trong quả, nửa kệ đầu là một Pháp
thân đã chứng, nửa kệ
sau là một đức thù thắng thuộc tu sinh, trong đó tâm là Đại Định như nhau, tiếp là Đại
Trí như nhau, hai loại này là
Dụng bên trong
giống nhau, Lực-Vô úy… là Dụng giáo hóa bên ngoài
như nhau. Luận chung có ba:
Đầu là Thể giống nhau, tiếp là Đức như nhau,

sau là
Dụng bằng nhau. Hai, có tám kệ trình bày về dùng
Thể thuận theo duyên hiện có
nhiều loại, trình bày thế giới… không giống
nhau ở phần trên, là
tùy theo căn cơ thấy khác nhau chứ không phải là
Phật có sai khác. Vì vậy lần lượt chuyển tiếp giải thích về nghi ngờ,
trong đó: Kệ một trình
bày về Phật tùy theo căn cơ thị hiện sai biệt. Kệ
hai nghi ngờ tại sao thị
hiện khác nhau? Giải thích bởi vì nghiệp của
chúng sinh khác nhau cho nên
thấy sai biệt. Kệ ba nghi ngờ vì sao có thể biết chúng
sinh chỉ dựa vào nghiệp của mình mà thấy khác nhau?
Giải thích bởi vì chúng
sinh đã không thấy nhiều Pháp thân của chư Phật,
biết rõ ràng là chỉ
thấy tự tâm đã hiện bày sai biệt, không phải là
Thể của Phật có như vậy. Đây là trình bày về thân-độ của
Báo Phật, Địa
tiền và Nhị thừa đều
không có thể thấy được. Kệ bốn nghi ngờ Chân
Phật bình đẳng mà chúng
sinh
không thấy, thì ai có thể thấy được?
Giải thích là những người
có công hạnh rộng lớn thanh tịnh… thì có thể thấy,
đây là trình bày về
Bồ-tát Địa thượng thấy thân-độ Thật Báo. Kệ
năm nghi ngờ chúng sinh Địa tiền đã không có thể
thấy, do đâu có thể tiến vào Chân? Giải thích bởi vì Phật lực tự tại đều khiến cho thấy từng
phần, sau trở lại khiến cho tiến vào.
Kệ sáu nghi ngờ Phật lực đã tự tại,
vì sao không khiến cho
chúng sinh thấy cùng một loại? Giải thích là
Phật không có yêu ghét, chúng
sinh dựa vào tự tâm cho nên thấy
sai biệt.
Kệ bảy nghi ngờ rằng nay mình đang thấy Phật tự nhiên
sai biệt, lẽ nào
liên quan đến tâm mình,
vì vậy lỗi sai biệt thuộc về Phật? Giải thích rằng nếu không chỉ riêng tâm ông thì có thể trách móc như vậy,
 đã thật là tự tâm ông biến hiện cho nên không phải là lỗi của Phật. Kệ tám nghi
ngờ rằng nếu Phật không
tự có thị hiện sai biệt, thì vì sao có người
thường thấy, có người
không thấy…? Giải thích rằng tâm khí thanh tịnh thì
tự tâm cảm đến mà
thấy, bởi vì Phật là tâm pháp như vậy.

Cảnh giới
Phật thậm thâm, trên đây là
Văn Thù hỏi
nhiều người, nay nhiều người hỏi
Văn Thù, vốn là chủ-bạn làm
sáng tỏ lẫn
nhau. Trên đây luận về pháp khác, những Bồ-tát
khác nói, nay phân rõ về cảnh giới Phật, cùng nhau thưa thỉnh Văn Thù là bởi vì thành Phật đã
lâu hiển bày về trí sâu xa. Vả lại, Văn Thù hỏi
đều dùng lý trở lại đưa
ra trái ngược nhau để kết thúc chất vấn, nay chỉ
thưa thỉnh không dám
chất vấn là bởi vì hiển bày tôn quý-bậc
trên-đứng đầu chúng. Lại cảnh giới Phật này
gồm chung hai loại: Một là cảnh đã chứng, đó là
Chân- Tục… Hai là phạm vi của cảnh, đó là theo Tiểu
thừa thì từ ba mươi bốn tâm trở đi là cảnh giới Phật, nếu theo Tam thừa thì Thập Địa đầy đủ về
sau là cảnh giới Phật, nếu theo Nhất thừa thì
Thập Tín đầy đủ về
sau

là cảnh giới
Phật, như vậy chính là phân rõ thuộc về trong Tín.
Vả lại, Tam thừa… không gồm chung phần vị của nhân, Nhất thừa thì nhân
quả giống nhau, cũng là
cảnh giới Phổ Hiền; nghóa còn lại như phẩm Tánh Khởi nói.

Trong văn có
hai, trước là hỏi-sau là đáp. Trong hỏi có bốn:
Một là tổng quát nói
cho biết, hai là kết luận về điều đã nói, ba là ca
ngợi Văn Thù, bốn là chính thức bày tỏ
thưa thỉnh. Có mười một câu, hai
câu đầu hỏi về Thể
của đức Tự lợi, năm câu tiếp hỏi về Dụng của đức
Lợi tha, ba câu tiếp hỏi
về đã làm lợi ích cho chúng sinh, một câu sau cuối kết luận về
sự rộng lớn ấy.
Vả lại, một câu đầu là tổng quát về
Thể của quả. Hai là lấy
nhân thành tựu quả, hỏi về Thể của nhân đã
chứng cảnh. Ba là nơi
tiến vào, đó là nhân tròn vẹn-quả đầy đủ, nhờ đó
giáo hóa khắp nơi tiến
vào thế gian… Bốn là đã hóa độ, đó là tiến vào
thế gian phân rõ về
chúng sinh đã hóa độ. Năm là phân rõ về trí nhận
biết phương pháp hóa độ
chúng sinh, đó là trí nhận biết pháp môn pháp giới. Sáu là thuốc pháp đã đưa ra. Bảy là thuận theo cơ
sai biệt mà nói.
Tám là trình bày về cơ tiến vào pháp, đó là không phải
sự nhận biết
của Thức nhiễm ô. Chín
là đã không phải cảnh của Thức nhiễm ô, làm
sao khiến cho có thể biết? Mười là đã có thể biết rồi
soi chiếu trừ diệt pháp nào? Lại giải thích ba câu hỏi này khiến cho chúng
sinh đã được hóa
độ như thứ tự đạt
được lợi ích của ba Tuệ, nên biết. Mười một là tổng
quat kết luận về cảnh
Phật rộng khắp ở nơi nào?

Trong đáp, một kệ thứ tám trong mười kệ đáp hai câu hỏi
tám- chín, kệ còn lại
theo thứ tự đáp chín câu hỏi còn lại.

Kệ một đáp về Cảnh giới, nửa kệ trước đưa ra pháp đã tiến vào, phần này gồm chung hai nghóa, một như nhau (tề) là ngang nhau
(đẳng), nghóa là ngang nhau
với hư không, tức là Chân như làm cảnh sở duyên; hai như nhau là phạm vi, nghóa là phạm vi từ pháp tánh
Chân Không trở đi là cảnh Phật;
lại câu trước là sâu, câu sau là rộng. Nửa kệ
sau
trình bày về chúng sinh
chứng nhập. Nói không có gì tiến vào (vô sở nhập), bởi vì chúng
sinh tức là Pháp thân cho nên không có trở lại tiến vào;
như thường ở trong hư
không, lẽ nào có thể lại nói là tiến vào hư không?

Kệ hai đáp về Nhân, một là nhân thuộc phần khác chỉ riêng
Phật mới có thể phân biệt được; hai là nhân
thuộc phần mình nói không hết, bởi vì tu trải qua
nhiều kiếp, lại bởi vì nhiều cho nên nói không hết,
như Phật cho nên chỉ có
Phật mới có thể phân biệt. Chỉ có Phật mới có thể phân biệt là hiển bày về
sâu thẳm, nói không hết là rộng lớn,
đương nhiên những điều
khác ngoài Đức Phật ra thì người khác nói không có

thể hết được.

Kệ ba đáp về Nhập, nửa kệ trước trình bày về tùy duyên, nửa
kệ sau trình bày về bất biến, nghóa là vắng lặng mà thường
sử dụng cho nên hòa vào khắp nơi;
sử dụng mà thường vắng lặng cho nên vắng
lặng vô cùng. Hòa mà
không giống nhau, cho nên nói không giống như
thế gian đã nhìn thấy,
chính là bởi vì có thể hòa vào cho nên không giống nhau.

Kệ bốn đáp về Độ, nghóa là hòa vào trong thế gian làm việc
như thế nào, đó là hóa
độ chúng sinh, nửa kệ trước nêu ra chúng sinh
hóa độ, nửa kệ sau
trình bày về số lượng hóa độ.

Kệ năm đáp về trí nhận biết phương pháp hóa độ chúng sinh,
nửa kệ trước là chủ
động nhận biết, nửa kệ sau là thụ động nhận biết.

Kệ sáu đáp về
thuốc pháp, nghóa là câu đầu trình bày về
Thể của pháp, câu tiếp là
Dụng của pháp, nửa kệ sau trình bày về Dụng không
khác Thể, cho nên chỉ riêng Đức Phật nhận biết.
Phân biệt đầy đủ có hai: Một, bởi vì không khác với pháp giới, tùy theo cơ nhiều
mà nói nhiều, cho nên khó mà nhận biết, nếu phân biệt đầy đủ thì chỉ riêng Đức
Phật nhận biết. Hai, ở đây nói nhiều bởi vì không có
sai
khác, không có sai khác
thì nói nhiều, như vậy đều không làm hỏng hai môn, không ngăn ngại tức là một, điều này khó mà phân tích, nếu muốn
phân tích đầy đủ thì
chỉ riêng Đức Phật mới có thể nhận biết.

Kệ bảy đáp về trí nhận biết âm thuyết pháp, nửa kệ trước là
thụ động nhận biết, nửa
kệ sau là chủ động nhận biết, nghóa là tuy biết rõ ràng âm thanh ngôn ngữ của chúng
sinh dùng để
thuyết pháp,
nhưng thường không có
đưa ra cho nên không có phân biệt.

Trong kệ tám
đáp về Thức có hai câu, câu đầu không thể bàn nói cho nên bặt dứt con đường nói năng (ngôn ngữ đạo đoạn), không phải
là do Nhó thức… mà
nhận biết; câu sau không thể suy nghó cho nên không còn nơi hoạt động của tâm(tâm hành xứ diệt), không phải là
sá»±
suy nghó của tâm. Lại không phải là Thức nhiễm ô cũng không phải là
Tâm nhiễm ô, như kinh Lăng
Già nói: “Giữ lấy tướng gọi là Thức, không giữ lấy tướng gọi là Trí, cho nên trong bốn nương tựa(tứ y) không
khiến nương tựa vào Thức.

Trong kệ chín
đáp về quyết định biết có hai câu: Câu đầu nêu ra pháp, nghóa là pháp
Như Lai Tạng tự tánh
thanh tịnh; câu
sau nêu
rõ khiến cho quyết định biết.
Trong kệ mười đáp về
soi chiếu, nửa kệ trước
soi chiếu diệt
trừ phiền não chướng,
chứng được Niết-bàn tịch diệt; nửa kệ sau soi chiếu

diệt trừ sở
tri chướng, đạt được Bồ-đề bình đẳng hành thế gian. Vả
lại, vô minh là không có
năng lực soi chiếu, vô sở hành là không có sự
soi chiếu, bình đẳng hành
thế gian là không còn chủ động và thụ động
mà soi chiếu cho nên nói
là bình đẳng hành. Hành giống như soi chiếu.

Trong kệ mười
một đáp về mở rộng, nửa kệ trước là đã nhận
biết rộng rãi, nửa kệ
sau là có thể nhận biết rộng rãi.

Thứ hai là kết luận gồm chung nhìn thấy khắp nới, trình bày đây là tất cả mọi nơi mà
Văn Thù cùng tất cả mọi nơi mà
Giác Thủ… thuyết pháp. Phẩm trước ánh
sáng
soi chiếu khiến cho nhìn thấy chúng hội, trong phẩm này Phật lực khiến cho Đại chúng trông thấy pháp
sá»±
đã nói, đó là nhân
quả. Văn có ba: Một là phân rõ về cõi này, hai là hiển bày về
phương Đông, ba là tương tự
chín phương. Trong phần một có ba:
1) Trình bày về Đức Phật gia hộ Đại chúng,
2) Trình bày về mười sự việc đã trông thấy,
3) Từ “Như thị…” trở xuống là kết luận. Trong mười sự việc, năm sự việc trước là nhân: a) Thực hành
theo pháp chuẩn mực, b)
Dựa vào pháp thành tựu thực hành, c) Thực
hành không phải là xuất
thế, d) Dựa vào thân… phát khởi thực hành, e)
Tùy theo căn mong muốn ưa
thích mà dấy lên hành nghiệp.

Trong năm sự
việc sau là quả: a) Tổng quát, b) Y báo, c) Duy
trì và phá bỏ trong Chánh
báo, d) Thuyết pháp trong Chánh báo, e)
Tổng quát kết luận. Lại
giải thích: Một sự việc đầu là hành pháp Lục độ
do Trí Thủ đã nói; hai
là nghóa về tánh của nghiệp do Bảo Thủ đã nói;
ba là nghóa về lười
nhác khó thoát ra do Tiến Thủ đã nói, cũng là lỗi
lầm đa văn… do Pháp Thủ
đã nói; bốn là nghóa về tùy thân-tùy hạnh
giáo hóa do Tài Thủ đã
nói; năm là Phật pháp một vị tùy theo căn cơ phân ra thành nhiều do Đức
Thủ đã nói, cũng là một nhân tùy theo
nhiều duyên… do
Mục Thủ đã nói;
sáu-bảy-tám là tâm tánh tùy duyên quả báo không giống nhau… do
Giác Thủ đã nói; chín-mười là
Hiền Thủ nói về
Nhất thừa, Văn Thù nói về cảnh Phật có thể biết.
Trong tÆ°Æ¡ng tá»±
các phương khác, chính là
phẩm Quang Minh Giác trước đây đã phân rõ.

--------------------------------

<詞>Phẩm 7: TỊNH HẠNH</詞>
Giải thích phẩm này có bốn môn giống như trước:

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Dựa vào Phạm bản gọi là phẩm
Viên Tịnh Hạnh, trong
Vô Tánh Nhiếp Luận gọi là kinh Thanh
Tịnh Sở Hành, nghóa là ba nghiệp không có lỗi lầm
nói là Thanh Tịnh, tâm
khởi nguyện gọi là Hành, hành thuận với tất
cả các pháp gọi là Viên, đây là
Trì nghiệp thích.
Lại nữa, Tịnh là Lý,
Hạnh là Trí, Lý-Trí vô ngại là Viên, đây là Y chủ thích.
Lại nữa, nguyện là chủ động
thanh tịnh, hạnh là thụ động
thanh tịnh, khiến cho hạnh
sáng ngời xứng với tánh gọi là Viên, bởi vì đều là nguyện hạnh của
Phổ Hiền. Lại nữa, nguyện không có cấu nhiễm gọi là Tịnh, tức
nguyện là hạnh cho nên
nói là Tịnh Hạnh.
Ý: đưa
ra, trước là Giải-tiếp là Hạnh, lại trước là
Hạnh-tiếp là
Nguyện, nghóa theo thứ tự cho nên đưa ra.
TÔNG: là
dùng Nguyện hải làm Tông, nhưng Nguyện có bốn loại:
kỳ…

Thệ nguyện, nghóa là trước khi thực hành cần phải có hạn

Hạnh nguyện, ở đây có hai loại: Một là cùng phát khởi với

hành, hai là chỉ đối với
sự mà
phát nguyện, thì đây là hành để
phòng ngừa tâm không cho tán loạn.

Nguyện sau hành, nghóa là đem hành hồi hướng nguyện đạt
được Bồ-đề…

Nguyện tự
Thể vô ngại, nghóa là Đại nguyện đến cuối cùng
giống như biển pháp tánh, tùy ý vận dụng thành
tựu tất cả các sự việc. Trong này chỉ luận về
Hạnh nguyện, còn lại thì nghóa gồm chung có thể biết.

TRONG GIẢI THÍCH VĂN: có
hai, trước là hỏi-sau là đáp. Bởi vì đối với duyên khéo léo nguyện không phải là trí thì không
thuần thục, cho nên
Trí Thủ hỏi; hiển bày
sự việc gần mà hướng đến xa, vi
diệu khó nhận biết, cho nên Văn Thù đáp.

Trong hỏi thuận theo nhau là mười một câu phân làm hai: Đầu là bảy câu trình bày về nhân hạnh thuộc
Tự phần, sau là bốn câu trình
bày về quả hạnh thuộc
Tha phần. Trong phần trước có hai: Đầu là ba
câu trình bày về ba
nghiệp thành tựu phước trí, sau là bốn câu trình bày
về quả của phước trí.

Trong phần đầu chín loại-ba nghiệp phân làm ba: Ba loại đầu lìa

xa lỗi lầm là bởi vì bắt đầu tu tập, nghóa là lìa xa ba độc. Ba loại tiếp thành tựu ba hạnh là bởi vì lần lượt tu, đó là: a) Tự mình đạt được
không mất; b) Người khác
không có thể lay động; c) Có thể thâu nhiếp
được người khác do đó
khiến cho khen ngợi.
Ba loại
sau hiển bày về ba đức là bởi vì tu cuối cùng, đó là:
a) Phước đức; b) Đoạn
đức; c) Trí đức. Đều lấy sau để giải thích trước, có thể biết.

Trong phần sau là quả có hai: Một,
Trong mười câu trình bày
về phước quả:
1) Y quả thù thắng, kinh Niết-bàn nói: “Thường sinh vào nơi trung tâm có Phật pháp.”
2) Chủng tánh thù thắng, luận Địa Trì nói: “Sinh vào chủng tộc bậc Thượng.”
3) Giàu mà lại sang, là nhà thù thắng, cũng là sinh trong nhà Như Lai.
4) Thân có sắc tướng tốt đẹp, cũng là các căn đầy đủ.
5) Thân có phước tướng, cũng là tướng tốt đầy đủ.
6) Niệm Định cũng là thù thắng, Niệm cũng là tổng trì không quên.
7) Tuệ Quán cũng là báo sinh ra trí, đối với pháp tự nhiên hiểu rõ.
8) Ý thú, nghóa là hướng về lý…
9) Uy đức thù thắng, cũng là tự tại thù thắng, nghóa là rõ ràng không có gì khiếp sợ, theo Trí Luận: “Bồ-tát có bốn loại Vô úy
khác: a) Tổng trì Vô úy, đối với pháp ghi nhớ
không sợ quên mất; b) Nhận biết căn Vô úy, nhận
biết căn trao cho pháp
không sợ
sai lầm; c) Quyết đoán nghi ngờ Vô úy, tùy theo câu hỏi tự nhiên
đáp không sợ không chịu
nổi; d) Giải đáp chất vấn Vô úy, có chất vấn đều thông
suốt không
sợ đuối lý bế tắc.”

10) Thường tự mình giác ngộ thông suốt, cũng là giác ngộ người khác, nghóa là hiểu biết rõ ràng về sinh
tử, tâm sinh chán ngán lìa xa.

Hai- Trong chín câu trình bày về trí quả: Câu
1-2 là hơn hẳn phàm phu; câu
3-4 là hơn hẳn Nhị thừa, câu 5 là sâu thẳm cho nên không thể đo lường; câu 6 là công năng rộng lớn cho nên không thể kể hết; câu 7 là lìa xa phân biệt cho nên tình không có thể
suy nghó; câu 8 là
Thể thật cho nên không thể nói được; câu 9 là lìa xa nói năng cho nên
không thể nói được.

Trong phần thứ hai là nhân lực thành tựu hành, có hai:
Một- Lực có thể thành tựu; hai- Từ “Thiện tri…” trở
xuống là các hành đã thành tựu.
Trong phần một có tám lực:
1) Lực của nhân, như Lương Nhiếp Luận nói: “Đa văn huân tập hòa hợp với tánh hiểu biết trong thức A- lại-da, tất cả Thánh nhân lấy đây làm nhân, tức
là Tánh-Tập, đầy đủ hai chủng tánh cho nên nói là đầy đủ.”
2) Ý hiện hành mạnh mẽ, là lực của Chánh tư duy
trong Nhiếp Luận, nghóa là suy nghó vốn là ý nghóa.

Phương tiện khéo léo tiến vào pháp, cũng là dựa vào
suy nghó tác động thân-khẩu mà phát khởi thực hành, cho nên nói là
phương tiện.

Thiện hữu giúp đỡ thành tựu, là lực của Thiện tri thức trong
Nhiếp Luận.
5) Pháp đã quán sát hiện rõ trước mắt dẫn đến trí phát khởi
quán sát.
6) Căn cơ đã thuần thục, có thể làm pháp khí tiến vào pháp, lại đầy đủ các căn Tín-Tiến…, vả lại tư lương-thiện căn này là hai lực phước-trí trong
Nhiếp Luận.
7) Phòng ngừa tâm soi chiếu lý, Chỉ-Quán cùng thực hành.
8) Chỉ và Quán thuần thục rồi có thể đi sâu vào thiền định. Tám loại trên đây đều có thể thành tựu hành,
 diệt trừ phiền não đạt được Dụng thù thắng của quả, cho nên cùng gọi là Lực. Đối với
Lực thứ nhất, Bồ-tát vì
sao mà có thể khiến cho đầy đủ
Lực ấy, cho nên làm
thành câu hỏi.

Phần hai là thành tựu hành, nghóa là dựa vào các lực trước
đây có thể thành tựu
Giải-Hành có ba: Một-Khéo léo hiểu rõ pháp
tướng, hành có mười
pháp, một là Uẩn, hai là Giới, ba là Nhập, bốn là
Duyên khởi và ba cõi-ba
đời, đều khéo léo nhận biết sai biệt mà không thể
có được… Hai-Thâu
nhiếp niệm tiến vào lý, hành cũng có mười pháp, đó là bảy
Giác-ba Không soi chiếu chân lý.
Ba-Tu nhiều về mười Độ,
hành có thể biết.

Trong phần hỏi thứ hai về hành của quả thắng tiến, có bốn:
Một- Bên trong, nghóa là có đủ mười đức thù thắng;
hai-Bên ngoài, nghóa là
mười vua cung kính bảo vệ; ba-Bi đức bao phủ khắp
nơi; bốn-Trí đức
một mình vượt lên trên.

Trong phần một có mười Lực sơ lược đưa ra ba môn: a) Giải thích
tên gọi; b) Đưa ra Thể; c) Kiến lập (đưa ra riêng biệt).

Trong phần ba là Bi đức có chín câu:
1) Làm thiện hữu che mát;
2) Cứu nỗi khổ hiện tại;
3) Khiến cho lìa xa sợ hãi;
4) Làm nơi đạt được vui vẻ;
5) Ngọn đuốc trừ hết bóng tối mê hoặc;
6) Làm cho Đại trí sáng tỏ;
7) Ngọn đèn soi chiếu hiện rõ nghóa lý;
8) Dẫn đến đạo
phương tiện;
9) Dẫn đến
nơi cuối cùng. Lại giải thích chín câu thuận theo
nhau làm thành bốn: Hai
câu đầu là giáo hóa chúng sinh trừ bỏ chướng
ngại, nghóa là che mát
chúng sinh khiến cho pháp ác bên ngoài không
xâm phạm thì gọi là
nhà, ở trong khổ đau có thể trừ bỏ là cứu giúp; hai câu tiếp là giáo hóa mọi vật phát
sinh
thiện pháp, nghóa là đầu làm nơi quay về cho mọi vật, cuối làm nơi hướng đến cho mọi vật; ba câu tiếp
là dạy dỗ phát sinh trí
tuệ, nghóa là khiến cho hiểu rõ Giáo pháp là
ngọn đuốc, thấy Lý pháp
là sáng tỏ, khiến cho nhận biết Hành pháp là ngọn đèn; hai câu
sau cuối là dẫn dắt để
khởi phước, nghóa là bắt đầu
sinh ra
phước là
dẫn dắt, cuối cùng thành tựu phước là dẫn dắt
Vô thượng. Lại giải thích riêng biệt như sau trong
kinh tự giải thích về Hồi Hướng
thứ nhất, tìm phần ấy phân rõ đầy đủ.

Trong phần bốn là hỏi về Trí đức một mình vượt lên trên, có bảy câu:
1) Đệ nhất là phần vị vượt quá thế gian;
2) Đại là Thể của đức không có đối đãi;
3) Thắng là Dụng của hành thù thắng;
4) Thượng là phía dưới không có
thể sánh kịp;
5) Vô thượng là phía trên không có gì có thể vượt quá;
6) Vô đẳng là những điều khác không có gì có thể sánh bằng;
7) Vô đẳng đẳng là tự tướng… của Đại Thánh không có gì sánh bằng, cho nên nói là Vô đẳng đẳng. Lại giải thích: Đệ nhất có hai
nghóa, một là Đại-hai là
Thắng, cho nên nói là Đệ nhất, nghóa là đức giáo
hóa hơn người gọi là
Đại, đức tự mình hơn người gọi là Thắng. Đại có
hai nghóa, một là
Thượng-hai là Vô thượng, cho nên nói là Đại.
Thắng có hai nghóa, một là Vô
đẳng-hai là Vô đẳng đẳng, cho nên nói là Thắng.

Trong phần đáp thứ hai có hai: Một
là khen ngợi thưa hỏi, hai
là đáp chung. Trong phần
một, nhiều lợi ích là trao cho nhân hạnh,
nhiều an ổn là khiến cho
đạt được quả, đây là hai dấu hiệu, Tuệ lợi giải
thích phần đầu, an lạc giải thích
phần sau.
Lại giải thích: Đầu là lợi ích thành tựu về nhân quả xuất thế,
sau từ “Ai mẫn…” trở xuống là khiến
cho lợi ích về nhân quả
trời-người. Lại trong Phật Địa Luận quyển thứ
bảy nói: “Khiến cho tu
nhân thiện gọi là lợi ích, giúp cho đạt được quả
vui sướng gọi là an lạc. Lại khiến cho lìa xa pháp ác gọi là lợi ích, khiến
cho thâu nhiếp pháp thiện
gọi là an lạc. Lại bạt trừ đau khổ gọi là lợi ích, giúp cho vui
sướng gọi là an lạc. Đời
này-đời khác, thế gian và xuất
thế gian… nên biết cũng như vậy.”
Trong phần hai là đáp chung có ba: Một là nêu ra ý đáp; hai là
đáp bằng kệ tụng; ba là
kết luận về tướng lợi ích. Trong phần một có hai: Trước là đưa ra ý tổng quát nêu lên, nghóa là thành thục
thân-khẩu-ý
là dùng nguyện làm thanh
tịnh ba nghiệp, từ “Năng đắc…” trở xuống là
trình bày về tướng lợi ích đã đạt được. Sau
từ “Ư Phật…” trở xuống
là giải thích về thành
tựu ba nghiệp đạt được công đức tuyệt diệu.
Trong đó có hai: Một-Trình
bày về nhân hạnh thuộc Tự phần, trong đó có ba:

1) Trình bày về đức thù thắng của ý nghiệp;
2) Từ “Khứ lai…” trở xuống là trình bày về đức thù thắng của ngữ nghiệp, trong đó: a) Tổng quát phân rõ; b) Không
rời bỏ chúng sinh là trình bày về Pháp luân ứng cơ;

c) Trình bày
về thông hiểu Thật tướng là Pháp luân ứng lí; d) Đoạn ác là Pháp luân lìa xa
sai lầm; e) Đầy đủ thiện là Pháp luân vốn có
đức đầy đủ.
3) Từ “Sắc tượng…” trở xuống là trình bày về đức thù thắng của thân nghiệp. Hai là trong hành của quả
thắng tiến:
1) Đầy đủ Chủng trí;
2) Đối với pháp vô ngại;
3) Phân rõ về đức của Định, Phật là bậc nhất, chọn lấy khác với Phật cho nên nói là thứ hai. Trong phần thứ hai nêu ra tụng chính thức đáp, có hai: Đầu là
nêu lên, sau là chính
thức đáp. Trong đáp có 140 nguyện đáp chung về
các câu hỏi trước đây,
vì sao như vậy? Bởi vì trong mỗi một nguyện đều
có sáu nghóa, có thể tùy theo
sự chuyển đổi những thói quen vốn có,
phòng ngừa làm thanh tịnh
ba nghiệp, khéo léo thành tựu hạnh Tự lợi-Lợi
tha của Bồ-tát, Thể hợp với pháp
Phổ Hiền đầy đủ các lợi ích trên, cho
nên đáp chung về các
câu hỏi ấy:
1) Chuyển đổi rời bỏ sự việc;
2) Chuyển đổi thành tựu pháp;
3) Chuyển đổi người khác khiến cho lìa xa lỗi lầm;
4) Chuyển đổi người khác khiến cho tiến vào pháp;
5) Chuyển đổi lìa xa lỗi lầm của mình;
6) Chuyển đổi thành tựu công hạnh của mình. Tạm thời dựa theo một
nguyện thứ nhất mà đưa ra, còn lại mỗi một
nguyện đều dựa theo biết
rõ. Nghóa là: Một-Nguyện chuyển đổi việc nhà đã
cư trú, là chuyển đổi
rời bỏ sự việc; hai-Nguyện thành tựu pháp Không
đã chứng, là chuyển
đổi thành tựu pháp, như kinh Tịnh Danh nói nhà
hoàn toàn rỗng lặng, là
nói đến điều này; ba-Nguyện chúng sinh lìa xa hoạn nạn của gia đình, là chuyển đổi người khác khiến cho lìa xa lỗi
lầm; bốn-Tiến vào trong
pháp Không, là chuyển đổi người khác khiến
cho tiến vào pháp; năm-Tự
mình tuy ở nhà nhưng vì vậy mà phát
nguyện, chuyển đổi tâm
của mình nhìn thấy gia đình, không dấy lên tách khỏi gia đình thế gian, khiến cho lỗi lầm tai họa không đưa vào tâm mình, là chuyển đổi tự mình lìa xa;
sáu-Đã không thấy gia đình thế gian thì thấy trở
thành pháp, thương xót nghó đến chúng
sinh khiến cho tiến vào
pháp Không này, là tự
mình chuyển đổi thành tựu Bi-Trí-Hạnh.

Trong sáu nghóa
này, bốn nghóa trước sẽ thành tựu bởi vì là
hạn kỳ chủ yếu của Thệ
nguyện, hai nghóa sau đang chín muồi bởi vì đây là
Hạnh nguyện. Sở dó có
sáu nghóa này là bởi vì trong một nguyện cần phải có ba nghóa: Một là
sự việc đã dựa vào, hai là đều vì
chúng sinh,
ba là trí của mình duyên
vào đó. Ba nghóa này đều có hai loại là xả bỏ
sự việc thế gian-thành
tựu pháp môn, cho nên có sáu nghóa. Như vậy
tùy theo sự việc phòng
ngừa không thuận theo pháp thế gian, thường
trải qua pháp lý không
mất đi chánh quán, là ý này. Lại trong các
nguyện dưới đây tùy
theo sự việc thuận nghịch sai biệt theo nhau sơ lược phân rõ về mười xu thế:
1) Xu thế chuyển đổi Sự tiến vào Lý, như kệ đầu chuyển đổi sự việc gia đình tiến vào lý Không…;
2) Xu thế chuyển đổi nhiễm trở thành tịnh, như nếu có được năm dục là nhiễm, công đức đầy đủ là tịnh…;
3) Xu thế tương tự chủng loại mà chuyển đổi, như bố thí chuyển đổi khiến cho đều xả bỏ tất cả, tâm không có gì vướng mắc…;

4) Xu thế chuyển đổi nhân thành tựu quả, như đảnh lễ tháp Phật là hành thuộc về nhân, đạt được đạo không thấy đỉnh cao là quả…;
5) Xu thế chuyển đổi thế gian giống như xuất thế, như ở phòng ốc… là thế gian, địa vị Hiền Thánh là xuất thế;
6) Xu thế chuyển đổi y báo giống như chánh báo, như thấy thành quách là y báo, thân Kim Cang… là chánh báo;
7) Xu thế chuyển đổi giả tạo quay về chân thật, như thấy người Tiên…, bởi vì Tiên không phải là chân thật giải thoát, chuyển đổi hướng đến Chánh pháp
chân thật đến cuối cùng giải thoát;
8) Xu thế chuyển đổi người giống như pháp, như thấy người tật bệnh…, thân Không là pháp, bởi vì biết thân người bệnh tức là pháp Chân Không thì khổ nào không thoát;
9) Xu thế chuyển đổi cảnh thành tựu hành, như thọ giới mặc ca-sa… là cảnh lìa xa ba độc, tâm hoan hỷ là hai hành Trí-Đoạn;

10) Xu thế chuyển đổi hư giả giống như chân thật, như nếu ở chốn kỹ nhạc là hư giả, vui với pháp là chân thật. Những kệ còn lại đều
tương tự mà biết rõ thôi.

Ngay trong văn này, trường hàng phân làm mười:
1) Trình bày về nguyện lúc Bồ-tát tại gia.
2) Từ “Dó tín xả gia…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc bắt đầu xuất gia.
3) Từ “Thọ trì tịnh giới…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc đã xuất gia rồi thọ cấm giới.
4) Từ “Nhược phu sàng tòa…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc đầy đủ giới rồi tu tập thực
hành Định-Tuệ, bởi vì người xuất gia thì ba Học là
sá»± tu
tập chính thức của mình.
5) Từ “Hạ sàng an túc…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc đã xuất Định rồi ở tại trú xứ đầy đủ oai nghi đi đứng. Từ “Thủ chấp tích trượng…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc
bởi vì khất thực làm lợi ích chúng sinh, cho nên
nhanh chóng bước trên đường đi.
7) Từ “Kiến thú cao lộ…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc ở đường đi thấy-nghe các sự việc, trong này có hai: Một là thấy
sá»±
việc thuộc y báo, hai từ “Kiến nghiêm sức
nhân…” trở xuống là trình bày về thấy
sự việc thuộc về người và vật.
8) Từ “Nhập lý khất thực…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc đi vào thôn xóm khất thực.
9) Từ “Nhược nhập thủy thời…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc ăn xong lễ tụng.
10) Từ “Hôn dạ…” trở xuống là trình
bày về nguyện lúc ngày- đêm ngủ-thức. Như vậy
từ đầu đến cuối tùy theo sự việc phát nguyện, không có điều gì trôi qua
trống rỗng.
Trí Luận quyển thứ 12 nói: “Người trí tuệ có hai: Tại gia gọi
là Bà-la-môn, nghóa là bảy đời
thanh tịnh,
sinh

ra đủ
sáu tuổi đều thọ giới xuất gia gọi là Sa-môn,
Trung Hoa nói
là dừng mọi điều ác (Tức Ác).”

Hỏi: Vì sao
trong kinh Anh Lạc trình bày về nguyện tiến vào
Lý, kinh này phần nhiều
trình bày về nguyện đối với Sự? Đáp:
Kinh này thuận theo
Nhất thừa, ở trong Sự làm lợi ích to
lớn; kinh ấy dựa theo Tam
thừa, ở trong Sự không thù thắng cho nên
phân rõ tiến vào Lý.

-----------------------------

<詞>Phẩm 8: HIỀN THỦ BỒ TÁT</詞>
Giải thích phẩm này đưa ra bốn môn:

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: theo bản Phạm gọi
là Bạt-đà-la,
Trung Hoa nói là Hiền;
Thất Lợi, Trung Hoa nói là
Cát Tường, hoặc nói
là Đức, hoặc nói là Thủ, hoặc nói là Thắng,
vì vậy không phải là Thủ của nghóa ban
đầu-đứng đầu, cũng không phải là Thủ của nghóa
Thượng thủ. Như vậy Phạm ngữ đều có tên gọi sai khác,
ở đây chỉ bởi vì hiển
bày về đức thù thắng siêu tuyệt cát tường là
Thủ, đương Thể rất thuận hòa mềm mại là Hiền. Hiền là dựa theo
Thể tánh, Thủ là dựa theo Đức
dụng, là Trì nghiệp thích. Đối với Tín này đầy
đủ tiến vào phần vị
Phổ Hiền, có đủ hai nghóa, nếu dựa theo quả thì cõi
Phật Hiền Thủ… ở văn
sau, trong này dựa theo nhân cho nên nói là Bồ-tát.
Hoặc chỉ dựa theo người thì
Hiền Thủ là Bồ-tát. Lại bởi vì người này là người
thuyết pháp, cho nên thuan theo người làm tên gọi. Hoặc chỉ là pháp thì Bồ-tát là
Hiền Thủ, cho nên pháp đã nói cũng là pháp môn của
Bồ-tát Hiền Thủ. Hoặc người và pháp hợp lại làm đề mục, là Y chủ thích.
B.Ý:
đưa ra, thâu nhiếp
hạnh nguyện trước đây để thành tựu
đức dụng rộng lớn của
Phổ Hiền cho nên đưa ra.
TÔNG: là
trình bày về Thể-Tướng-Dụng rộng lớn vô biên của
hạnh vị Phổ Hiền từ đầu đến cuối đều bao quát,
thuận theo ở Tín môn thâu nhiếp đầy đủ các phần vị thành tựu diệu quả của Phật, là trình
bày ở phẩm này.

GIẢI THÍCH VĂN: trong
này có hai: Trước là hỏi, sau là đáp. Trong hỏi cũng có hai: Trước là người kết tập kinh đưa ra theo thứ tự, vì
sao Văn Thù hỏi Hiền Thủ đáp, là dùng Tín tiếp
nhận vạn hạnh không
phải là Diệu Đức thì không có thể phát khởi,
Tín bao gồm sáu phần vị
không phải là Hiền Đức thì không có thể tuyên
dương, lại thông hiểu
sâu xa hiển bày về Tuệ, công đức thanh tịnh làm
sáng tỏ về Phước.
Hai là trong phần dùng tụng chính thức thưa hỏi có
hai: Một là kết thúc
phần trước, hai là thưa hỏi
phần sau. Trong phần này cũng có hai:
Trước là hỏi về hành sâu xa, sau là hỏi về đức rộng
lớn. Vì sao trong này hỏi
đáp đều dùng kệ tụng? Giải thích có hai nghóa:
1) Bởi vì đức sâu rộng bao quát từ đầu đến cuối, nói phân tán khó mà đầy đủ, cho nên dùng kệ tụng để thâu nhiếp tổng quát;
2) Bởi vì hiển bày về đức tròn vẹn thù thắng vi diệu, cho nên dùng ngôn từ tốt đẹp để ca ngợi thuật lại. Địa
Luận nói: “Kệ tụng là bởi vì ít chữ mà thâu nhiếp nhiều nghóa.”
Những điều ca ngợi phần nhiều vốn dùng kệ tụng, chính
là hai nghóa trên.

Ngay trong phần
Hiền Thủ đáp, toàn bộ có 363 tụng: 13 tụng
trước theo thể năm chữ,
350 tụng sau theo thể bảy chữ. Trong đó tổng
quát về phần dài có
tám phần:
1) Phần ca ngợi về sâu xa khó nói;
2) Phần sơ lược nêu rõ về hành tướng;
3) Phần sơ lược phân rõ về công năng thù thắng;
4) Phần thâu nhiếp các hành vị;
5) Phần Đại dụng không
có phương hướng;
6) Phần dụ nói về ý chỉ sâu xa;
7) Phần so sánh khuyến khích phát khởi;
8) Phần hiển bày thật chứng thành tựu. Ngay trong phần một ca ngợi về sâu xa khó nói có bảy tụng,
 trong đó phân ba: Hai tụng đầu trình bày về đức rộng lớn mà nói tóm lược,
có thể biết; bốn tụng tiếp là giải thích về
nguyên cớ nói tóm lược; một
tụng sau cuối là kết luận về tướng đã tóm lược.

Ngay trong phần hai là giải thích: Một-
Phân rõ về nơi nương
tựa của đức rộng lớn;
hai-Trình bày về đức thù thắng dựa vào tâm.
Trong phần một có bốn loại khó khăn, cho nên tuy là
sơ tâm mà làm cho
công đức này rộng lớn
vô biên:
1) Xứ khó, đó là ở nơi sinh tử khổ não mà có thể phát tâm, đây là vì khó khăn cho nên sinh ra đức rộng lớn;
2) Thời khó, đó là phát tâm đã lâu mà luôn luôn không lay động chưa đủ để làm khó, nay thì ngược lại với điều này, cho nên sinh ra nhiều đức;
3) Cảnh khó, đó là có thể cầu Bồ-đề vô hạn này, bởi vì tâm thuận theo cảnh cho nên rộng lớn;
4) Tâm khó, đó là nếu phát tâm tiến lùi không nhất định thì sinh ra đức không rộng lớn,
 nay thì trái lại với điều này, cho nên rộng lớn. Một tụng bốn câu như thứ tự nên biết. Đây là trong ba loại phát
tâm của Khởi Tín Luận
là Tín đầu tiên thành tựu phát tâm, cho nên gọi là Sơ, giống như Sơ phát tâm Trú trong
Thập Trú và phẩm
Phát Tâm Công Đức ở
văn sau. Đây là dựa theo
Tín cuối cùng, luận ấy dựa vào
Trú ban đầu, cho nên không
hai. Đã dùng Tín đầy đủ tiến vào Trú mới là
Tín, sao không Trú đầy đủ tiến vào Hạnh là
Trú? Giải thích rằng:
Tín không thành tựu phần vị
cho nên không đưa ra. Hai là trong đức thù thắng
đã khởi: Một tụng đầu
nêu ra ít hãy còn không hết, hai tụng sau hiển
bày nhiều thì mất lời,
đâu có thể nói được, mà nêu ra sơ lược thôi.

Trong phần ba là kết luận về nói, phần ít có ba lớp:
1) Nhiều kiếp đã tu, điều này khó mà phân rõ, cho nên tạm thời luận về công đức trong một niệm;
2) Bởi vì công đức trong một niệm này tự Như Lai cùng tận đời kiếp nói không hết, vì vậy tạm thời luận về công đức đã nói trong một thời;
3) Bởi vì công đức đã nói trong một thời này, hãy còn tự nhiên sâu rộng chỉ riêng Đức Phật mới có thể nói được, Bồ-tát không biết, vì vậy nay
lại từ trong phần Đức Phật đã nói, chọn lấy phần ít
mà Bồ-tát đã biết để nói về điều này.

Vả lại, phần ít này và phần rộng lớn kia dung thông có bốn câu:
1) Bởi vì phần ít này không khác với nhiều, thâu nhiếp ít giống với nhiều thì điều đã nói này cũng là không nói mà nói, như bầu trời mà
chim đã bay qua không khác với bầu trời rộng lớn ở những nơi chưa bay qua, cho nên phẩm
Tánh Khởi nói: Như chim bay giữa bầu trời, trải qua trăm ngàn năm mà nơi đã bay qua-nơi chưa bay qua đều không
thể lường được. Nếu người trăm ngàn kiếp diễn nói về công hạnh của
Như Lai, đã nói và chưa nói đều không thể
lường được.
2) Hoặc là thâu nhiếp nhiều giống với ít thì nghóa cũng đầy đủ trọn vẹn, như Địa Luận nói: “Thâu nhiếp giữ lấy
đầy đủ như thật.”
3) Hoặc là cả hai đều thâu nhiếp bởi vì cũng nói-cũng không nói.
4) Hoặc là cả hai đều không thâu nhiếp bởi vì không phải là nói-không phải là không nói, đều dựa theo
suy
nghó về điều này. Hỏi:
Vì sao trong này Bồ-tát ở phần vị Tín có thể có công
đức rộng lớn như vậy?
Đáp: Đây
là công đức thuộc hành của pháp giới Phổ Hiền, nhưng dựa vào
Tín môn, trong đó biểu hiện rõ ràng mà nói không hết, nếu phân biệt thì luận tổng quát có bốn câu:
1) Hoặc chỉ dựa theo nơi
tướng lên xuống của Tín
môn để phân rõ, thì Tín này chỉ là phần vị của nẽo thiện như mảy lông nhẹ…, như kinh Anh
Lạc-Bổn Nghiệp và
Nhân Vương… nói, đây
là dựa theo Tam thừa.
2) Hoặc chỉ dựa theo đức của đương thể
Phổ Hiền để phân rõ, nói như phẩm
Phổ Hiền Hạnh.
3) Hoặc cả hai, nghóa là dựa theo Tín môn kia để hiển bày về đức của
Phổ Hiền, như phẩm này đã nói, đây là dựa theo phần nhân của Nhất thừa mà nói.

4) Hoặc cả hai đều không phải, toàn bộ không thể nói được, đây là dựa theo nơi lìa xa ngôn
ngữ của phần quả. Vì vậy trong Viên giáo đã trình
bày về phần vị Tín cùng với Thập Tín trong Tam thừa, nghóa ấy
riêng biệt không giống nhau.

Thứ hai từ “Phi thị vô sở nhân…” trở xuống là sáu tụng trình
bày phần sơ lược nêu
rõ về hành tướng, trong đó có hai: Trước là một
tụng tổng quát nêu ra
nhân duyên để giải thích về nguyên cớ thành tựu
phát tâm rộng lớn. Trong
này, nhân gọi là chủng tánh Như Lai, duyên gọi
là do thói quen mà thành
tánh. Lại theo Địa Trì và Du Già, nhân có bốn loại: Một là chủng tánh đầy đủ, hai là
Phật Bồ-tát và thiện
hữu thâu nhiếp, ba là khởi tâm Đại Bi, bốn là không
sợ hãi khổ đau.
Duyên cũng có bốn: Một là thấy những thần biến của Phật, hai là tuy không
thấy Phật nhưng được
nghe pháp, ba là tuy không nghe pháp mà thấy
pháp sắp diệt, bốn là thấy chúng
sinh tạo ác ở những nơi không có
Phật pháp.
Lại có bốn Lực: Một là Tự lực; hai là Tha lực; ba là Lực của Nhân,
đó là vốn có thói quen
nghe và huân tập những pháp Đại thừa; bốn là
lực của phương tiện, đó
là nghe pháp mới có thể tu thiện… Lại bốn
Nhân- bốn Duyên và
Tự lực-Nhân lực là quyết định phát tâm,
Tha lực-Phương tiện lực thì
không nhất định phát tâm. Lại trong luận Khởi
Tín-kinh Trí Ấn có bảy nhân duyên phát tâm, đó là ba vững chắc-bốn
lui sụt,
như kinh-luận ấy nên biết. Trên đây là dựa theo
Tam thừa, nếu theo kinh này thì có mười loại nhân duyên phát tâm Bồ-đề, nói như
văn sau.
Đây là dựa theo Nhất
thừa. Lại dùng sự huân tập trong Như Lai Tạng
làm nhân, những pháp khác làm duyên.

Hai là giải thích về tướng đã phát tâm. Trong này, luận chung
có mười nghóa, đều là nghóa về nhân duyên công đức rộng lớn
của mỗi tâm, cho nên nói không phải là không có nhân gì… Mười nghóa về tâm:

1) Hai câu đầu trình bày về tâm thẳng thắn hướng đến lý, luận nói tâm thẳng thắn vốn là Chánh niệm về pháp Chân như.
2) Tiếp theo một tụng trình bày về tâm tin sâu sắc vào Tam Bảo.
3) Có một tụng về tâm xa lìa bốn lỗi lầm, bốn câu đều là một có thể biết.
4) Một tụng về tâm Đại nguyện cứu độ chúng sinh.
5) Hai câu trình bày về tâm Đại Từ Đại Bi, nghóa là bởi vì bạt trừ đau khổ mang lại niềm vui.
6) Một câu về tâm trang nghiêm thạnh tịnh cõi Phật.
7) Một câu về tâm thường xuyên cúng dường chư Phật.
8) Một câu về tâm kiến lập Chánh pháp.
9) Một câu về tâm đích thực mong cầu quả thù thắng.
10) Tâm thanh tịnh tu nhân của quả. Mười tâm trên đây đều vốn là cảnh sở duyên vô hạn
lượng, khiến cho tâm
thâu nhiếp công đức cũng vô hạn, cho nên văn sau
nói: Bồ-tát không vì
cúng dường một Đức Phật mà phát tâm, không vì
cúng dường trần số chư
Phật ở trăm ngàn thế giới mà phát tâm, bởi vì muốn cúng dường tất cả chư Phật, vì thế cho nên vô hạn. Như cúng dường
chư Phật, tin vào Tam Bảo,
lìa xa lỗi lầm, cứu độ chúng sinh, trang nghiêm quốc độ, tất cả đều vô hạn, cho nên rộng lớn.
Phần sơ lược nêu rõ
về hành tướng, xong.

Thứ ba từ “Thâm tâm tịnh tín bất khả hoại…” trở xuống có
chín tụng, trình bày về
phần sơ lược nêu ra công năng thù thắng. Trong đó, đầu là hai tụng trình bày về Tín có thể thành tựu phát tâm, bởi vì là
căn bản của hạnh; sau là
bảy tụng trình bày về Tín có thể thành tựu
những công đức khác,
bởi vì do hành mà thành tựu.

Trong phần đầu: Một là một tụng dựa theo cảnh của
Tam Bảo, thành tựu Tín bất hoại mới có thể phát tâm; hai là một tụng dựa
theo cảnh của ba Phật
tánh, câu đầu dựa theo tin chắc Phật tánh trú trong tự
tánh, câu
tiếp là dẫn đưa ra Phật tánh, câu tiếp là cuối cùng Phật tánh đạt được quả.
Lại giải thích: Câu đầu là tin Phật và
Giáo pháp, câu tiếp là tin Tăng và
Hành pháp, câu tiếp là chính thức hướng về
Quả pháp của Tín,
sau nhờ vào
Tín sâu
sắc này thành tựu mới có thể phát
tâm. Lại trong này, Tín
bất khả hoại là Tín đầy đủ tâm nhất định không
lui sụt cho nên nói là
Bất hoại, dựa vào Tín này mà phát tâm, cho nên biết tâm này đã tiến vào Trú; nhưng dựa theo phương tiện chủ động tiến
vào cho nên thuộc về Tín cuối cùng.
Trong phần
sau là trình bày về thành tựu công đức, không
phải là dứt khoát thành
tựu phần vị của Sơ phát tâm trước khi tiến vào Thập Trú, lại cũng bao gồm thành tựu tất cả hành vị trong phần vị
sau này,
vì vậy trong này sơ lược
phân rõ về 20 công đức đã thành:
1) Có thể sinh ra phước trí, nghóa là căn bản của giác đạo, mẹ của phước đức.
2) Có thể đoạn trừ nghi ngờ nêu rõ về đạo.
3) Tâm kiên cố có thể lìa xa cấu nhiễm,
 nghóa là trừ kiêu mạn giải thích về lìa xa cấu nhiễm,
 kính trọng nguồn gốc giải thích về tâm kiên cố.
 Ba loại trên đây đều có hai câu như thứ tự nên biết.
4) Thể của Tín đầy đủ đức cho nên như kho báu.
5) Tiếp nhận pháp thành tựu hành cho nên như rửa tay sạch.
6) Có thể bỏ cấu nhiễm lìa đắm trước.
7) Có thể hiểu rõ về pháp sâu xa khó hiểu. Bốn loại trên đây đều có một câu nên biết.
8) Chuyển đổi tiến lên thành tựu quả, hai câu có thể biết.
9) Có thể khiến cho thiện căn rõ ráng sắc bén.
10) Lực dụng
không có gì hư hoại.

11) Có thể diệt trừ ác nghiệp.

12) Có thể đạt được Đại quả.
13) Tiến vào pháp không có gì ngăn ngại. Lìa xa báo chướng của tám nạn.

15) Có thể vượt qua cảnh ma.
16) Khéo léo chỉ ra nhân giải thoát.
17) Làm nhân vững chắc cho Đại quả, nghóa là tất cả các pháp công đức của Phật địa,
 không có pháp nào không lấy Tín bất hoại để gieo nhân của địa ấy.
18) Sinh ra quả của cây Giác.
19) Mở rộng cửa Chủng trí.
20) Chỉ rõ quả Diệu Giác. Trên đây, tám loại là hành thuộc
Tự phần, mười hai loại
sau là đức
Thắng tiến. Những công đức này đều là đức đã thành tựu
của các phần vị sau này
cho đến Phật địa, đều ở trong Tín mà thành tựu.

Một tụng sau
cuối kết luận ca ngợi hiển bày về thù thắng. Vì
thế cho nên (thị cố) là
Tín trước đây có thể thành tựu 20 loại công đức
thù thắng ấy, bởi vì
trong sự tu hành đã nói theo thứ tự, cho nên tin
tưởng vui thích về pháp
thù thắng nhất khó mà đạt được; nửa kệ sau là ví dụ, một là dụ về Thể của
Tín hiếm có, hai là dụ về có thể phát
sinh mọi công đức.

Thứ tư từ “Nhược tín cung kính…” trở xuống có 50 tụng, trình bày

trong phần có
thể mở rộng thâu nhiếp các hành vị, có hai: Một
là thâu nhiếp hành, hai từ “Nhược sinh Vô thượng
Bồ-đề tâm…” trở xuống
là trình bày về thâu nhiếp phần vị.

Trong phần một: Trước là trình bày về hạnh tín kính
Tam Bảo, sau là trình bày về hạnh tín thuận
Tam Bảo. Trong phần trước: Một là có
ba tụng trình bày về tin
Phật thành tựu hai hạnh, hai tụng đầu là thành tựu hạnh trì giới, một tụng
sau là thành tựu hạnh
cúng dường. Hai là có
một tụng về tin Pháp
thành tựu hai hạnh, nghóa là hạnh nghe giáo không có gì chán ngán, hạnh vui mừng chứng được khó mà
suy nghó. Ba là có
một tụng tin Tăng thành
tựu hai hạnh, nghóa là Thể của Tín không có gì
hư hoại và Lực của Tín
không có gì lay động.
Trong phần hai là trình bày về hạnh tín thuận
Tam Bảo: Đầu là hai tụng về thuận theo Tăng thành tựu hai hạnh, đó là lợi căn rời bỏ bạn
ác và gần gũi bạn lành
tu tập công hạnh thù thắng. Tiếp theo một tụng về thuận theo Pháp thành tựu hai hạnh, đó là hiểu rõ pháp về
Hành của nhân quả, thành tựu
pháp về Quả của giải thoát. Sau cuối một tụng
về thuận theo Phật cũng
hai hạnh, đó là thuận theo quả Phật bảo vệ,
dấy khởi nhân để phát
tâm. Trên đây là thâu nhiếp hạnh làm phương
tiện tiến vào Thập Trú, xong.

Trong phần thứ hai là thâu nhiếp phần vị, thâu nhiếp bốn phần vị
sau tức là bốn đoạn:

Một, có hai tụng rưỡi trình bày về thâu nhiếp phần vị Thập
Trú, đó là tâm Bồ-đề
tức là tiến vào phần vị Trú thứ nhất; thường xuyên
tu Phật đức là hạnh
của hai Trú tu hành-trị địa (Trú thứ hai-thứ ba);
sinh vào nhà của Phật là
Trú sinh quý (Trú thứ tư), nghóa là
sinh vào nhà
của Phật vốn là chủng
tánh tôn quý; vô trước là hạnh của hai Trú thứ
năm- thứ sáu; thâm
tâm-diệu tinh là hạnh của hai Trú thứ bảy-thứ tám; tâm thù thắng Vô thượng là hạnh của hai Trú thứ
chín-thứ mười; đều
dựa theo giải thích có thể biết.

Hai, từ “Nhược đắc Vô thượng…” trở xuống là ba tụng trình bày về thâu nhiếp phần vị
Thập Hạnh, trong đó
Ba-la-mật là tổng quát nêu ra
Thập Hạnh. Ma-ha-diễn là khác với Hành thuộc pháp của
Tiểu thừa; cúng dường là hành thuận với lý, đó là bốn
Hạnh đầu; Niệm Phật-Định là Hạnh lìa xa
si loạn (Hạnh thứ năm); thấy
Phật thường trú
là năm Hạnh sau, bởi vì
năm Hạnh sau đều là Bát-nhã thâu nhiếp.

Ba, từ “Nhược
tri Như Lai…” trở xuống là hai tụng rưỡi trình bày về thâu nhiếp phần vị
Thập Hồi Hướng. Trong đó, Hạnh thành tựu xứng với lý cho nên pháp vónh viễn tồn tại, nghóa là Như tướng và Pháp
giới…; biện
tài thuyết giảng-hóa độ chúng sinh, là cứu giúp chúng
sinh lìa tướng của chúng
sinh… Bảy Hồi Hướng trước cũng là nghóa về
các môn Hồi Hướng
chúng sinh. Đại Bi là trong phần vị này đã thành
tựu hạnh Đại Bi, bởi
vì đối trị chướng của Độc giác rời bỏ Đại Bi.

Bốn, từ “Nhược đắc Đại Bi…” trở xuống có 33 tụng trình bày
về thâu nhiếp phần vị
Thập Địa. Trong đó:
Một là nửa tụng thâu nhiếp Địa thứ nhất, đó là vui mừng với
pháp sâu xa là Cực Hỷ
địa thứ nhất, đã chứng đầy đủ tất cả Chân
như gọi là pháp sâu xa.

Hai là nửa tụng lìa xa lỗi lầm của hữu vi, là Ly Cấu địa thứ
hai, bởi vì lìa xa phạm
giới vốn là sai lầm tai họa của hữu vi.

Ba có một tụng trình bày về Địa thứ ba, bởi vì đạt được
thiền-lìa xa kiêu mạn cho
nên không đắm theo ý vị, vì vậy có thể cùng làm
lợi ích cho chúng sinh.
Bốn có một tụng trình bày về Địa thứ tư, bởi vì đạt được Đạo phẩm trí cho nên ở trong
sinh tử mà không có gì buồn lo, trong mười
Độ hạnh, đây là hạnh
Tinh tiến cho nên nói là Tinh tiến Vô thượng.

Năm có một tụng trình bày về Địa thứ năm, bởi vì Địa này
thành tựu Thiền độ dựa
vào Thiền phát khởi thần thông, lại có thể khéo
léo hiểu rõ năm Minh của
thế gian, cho nên nói là hiểu rõ hành của chúng sinh.
Sáu có một tụng trình bày về Địa
thứ sáu, bởi vì Địa này đạt
được Bi-Trí không trú vào Bát-nhã mà Đại trí hiện rõ trước mắt, trong
này thành tựu chúng sinh
là Bi, thành tựu phát sinh trí là Trí.

Bảy có hai tụng trình bày về Địa thứ bảy, một tụng đầu là hạnh thù thắng trong Hữu vốn là bốn Nhiếp pháp thâu nhiếp
chúng sinh,
một tụng sau là trí phương
tiện trong Không dẫn dắt nhau cho nên khiến
trú vào Vô thượng đạo.

Tám có ba tụng trình bày về Địa thứ tám, một tụng đầu vượt
qua bốn ma, nghóa là xả
bỏ Phần đoạn cho nên không có ma Ấm, không có xả mạng cho nên lìa xa ma Tử, hoặc nghiệp vónh viễn không hiện
hành cho nên không có ma
Phiền não, vì vậy Thiên ma cũng không có được dịp thuận lợi, Địa thứ tám này thành tựu nhân vượt qua bốn ma cho
nên gọi là đạo; một
tụng tiếp là đạt được phần vị và Nhẫn, đó là phần giải thích tên gọi và phần tịnh nhẫn; một tụng
sau là thọ ký phần vị, như Tiên nhân
Thiện Tuệ được thọ ký ở Địa thứ tám…, hiện tại trong
cõi Phật bốn loại ấy
luôn luôn ở trước Phật.

Chín có một tụng rưỡi trình bày về Địa thứ chín, nghóa là Bồ-tát ấy làm Đại
pháp sư, vốn hiểu rõ giáo bí mật của Phật, thuận theo giáo nói pháp được
Phật hộ niệm, Phật đức tự trang nghiêm vì người
khác mà nói pháp.

Mười có 21 tụng rưỡi trình bày về Địa thứ mười, trong đó có
ba: Một-mười ba tụng rưỡi trình bày về ba nghiệp thù thắng, trong đó
trước có năm tụng rưỡi
trình bày về thân nghiệp thù thắng, trong này ba
tụng về Chánh báo thù
thắng, hai tụng rưỡi về Y báo thù thắng; tiếp có bốn tụng trình bày về ngữ nghiệp thù thắng, trong này hai tụng đầu hiểu
sâu xa-khéo trình bày, hai
tụng tiếp trình bày về Trí thân thuyết pháp;
sau có bốn tụng trình bày
về ý nghiệp thù thắng, một là Tha tâm trí, hai
là Đoạn hoặc trí, ba là
Chứng thật trí, bốn là Thập Địa-Thập tự tại…
kết luận về phần vị,
mười loại như Mạng tự tại… vốn thành tựu ở
phần vị này.
Hai-Từ “Nhược Thập Địa chủng…” trở xuống có bốn tụng
trình bày về phần tâm
cuối cùng của Thập Địa tiếp nhận phần vị, nước
cam lồ này rưới trên
đỉnh… là trình bày về tiếp nhận chức vị này trong
Tín đầy đủ. Ba-Từ
“Nhược thân…” trở xuống có bốn tụng trình bày về kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng: Một tụng đầu trình bày về tiến vào lý
sâu rộng trời-người
không biết, nghóa là Pháp thân này đầy
khắp hư không mười
phương bất động, vì vậy đối với cõi Vô đẳng đẳng
này thì chư Thiên-người
thế gian không có thể biết được. Một tụng tiếp
về hạnh thành tựu-quả
đầy đủ, thấy nghe nhiều lợi ích, đối với công hạnh vốn có thì không có gì không phải là quả, những mong cầu trọn vẹn
cho nên không có gì không
thành tựu quả; lại như phẩm Minh Pháp ở
sau nói: Người thấy nghe
cúng dường đều trú vào Bất thối địa, cho nên
nói là không trống rỗng. Một tụng rưỡi tiếp là
uy lực hộ pháp thường
thêm không đoạn dứt,
như kinh Duy Ma nói: “Kinh này trú ở thế gian đều
là sức uy thần của
Di-lặc.” Lại đầu là Thể, tiếp là Đức, sau là Dụng.
Nửa tụng sau cuối là
kết luận, câu trước là kết luận về Tuệ, câu sau là
kết luận về Phước, đều
là vô tận như biển.
Lại trong
Tín môn này, lần lượt chuyển tiếp đan móc vào
nhau thâu nhiếp đầy đủ
như vậy, Thập Địa… lấy Tín làm căn bản của đạo, mẹ của công đức, hành tướng của các phần vị đều do
Tín mà thành,
cho nên trên đây tổng
quát nói: Tín có thể chuyển đổi thù thắng thành
tựu các hạnh cuối cùng
chắc chắn đến nơi của Như Lai. Là nói đến
nghóa này. Lại nói: Ở
nơi một Địa thâu nhiếp rộng khắp tất cả công đức
của các Địa, là pháp Viên giáo của
Nhất thừa này, trong Tam thừa thì
không có thể như vậy.

Thứ năm từ “Hoặc hữu sát độ…” trở xuống có 200 tụng rưỡi trình
bày về phần Đại dụng không có
phương hướng, bởi vì Tín đầy đủ thành tựu phần vị
Hiền Thủ này, giống như ba nghiệp rộng lớn của
Phổ Hiền… bao gồm nhân và quả, khắp tất cả mọi nơi chốn, tận cùng tất cả
mọi thời gian, thường
làm Đại dụng vô biên pháp giới. Đây là thể
thức bình thường, ngay nơi tướng mà luận thì không dựa vào các phần vị.
Nay dựa theo trong Tín môn
hiển bày rõ ràng thì thuộc về Tín thâu
nhiếp, nhưng Đại dụng không bến bờ khó mà thuật lại đầy đủ, theo thể lệ phân rõ mười để hiển bày về vô tận, tức là nghiệp dụng của mười
Tam- muội môn:
1) Viên minh hải ấn Tam muội môn;
2) Hoa nghiêm diệu hạnh Tam-muội môn;
3) Nhân-đà-la võng Tam-muội môn;
4) Thủ xuất quảng cúng Tam-muội môn;
5) Hiện chư pháp môn Tam-muội môn;
6) Tứ nhiếp nhiếp sinh Tam-muội môn;
7) Cung đồng thế gian Tam-muội môn;
8) Mao quang giác chiếu Tam-muội môn;
9) Chủ bạn nghiêm lệ Tam-muội môn;
10) Tịch dụng vô nhai Tam-muội môn. Bởi vì
nghiệp dụng
sai biệt mà chủ đều khác nhau, công năng thuần-tạp dựa vào môn không
giống nhau, cho nên dùng
Tam-muội môn mà phân rõ về
sai biệt, như nước ở
tất cả mọi nơi chắc chắn như nhau. Lại bởi vì bắt
đầu phân rõ về căn
bản của Đại dụng, cho nên đầu là hiển bày về
Hải ấn, sau là trình bày về
Dụng không khác Thể, vì vậy cuối cùng phân rõ về
tịch dụng vô ngại.
Ngay trong văn đầu là Viên minh hải ấn Tam muội môn có năm tụng rưỡi phân hai: Đầu là trình bày về
nghiệp dụng,
sau là hiển
bày về sở y. Trong phần
đầu có năm: Một có một kệ trình bày về thị
hiện Phật thuyết pháp.
Hai có một kệ hiển bày về không dụng công
thành tựu sự việc,
nghóa là không dấy lên công dụng cho nên nói là đoạn
dứt hy vọng; lại giải thích bởi vì đầy đủ phần vị của nhân lại không có
gì mong cầu cho nên nói
là đoạn dứt. Ba có một kệ trình bày về thị
hiện tám tướng. Bốn có
một kệ trình bày về hiện rõ Tam thừa. Năm có
một kệ hiện rõ về tạp
loại. Sau là hai câu kết luận về dụng của sở y.

Hải Ấn là từ dụ làm tên gọi, như bốn loại binh lính của
Tu-la xếp hàng ở giữa hư
không, in rõ hình ảnh ấy vào trong biển rộng; Định
tâm của Bồ-tát giống như biển rộng, ứng với căn
cơ hiện bày sai khác,
vốn như hình ảnh của bính
lính kia. Trong kinh Đại Tập quyển thứ 14 nói: “Dụ như thân của tất cả chúng
sinh ở
Diêm-phù-đề và những
sắc
ở bên ngoài, các
sắc như vậy đều có in rõ hình ảnh ở
trong biển, vì thế cho nên gọi là Đại hải ấn;
Bồ-tát cũng lại như vậy, đạt được
Tam-muội Đại hải ấn rồi có thể phân biệt nhìn thấy tâm hành của tất cả chúng
sinh, đối với tất cả pháp môn đều đạt được
Tuệ sáng tỏ, Bồ-tát này bởi vì đạt
được
Tam-muội Hải Ấn, cho nên nhìn thấy tâm hành của tất cả
chúng sinh đã hướng
đến.” Giải thích rằng: Trong này, chữ Kiến (nhìn thấy) cũng là chữ
Hiện (hiện rõ), nghóa là do nhìn thấy mà hiện rõ ra,
gồm chung hai loại nên biết.

Hỏi: Trong này, đã là Bồ-tát Thập Tín hiện rõ thành Phật, đó
là tạm thời hóa hiện,
hay là thật sự thành tựu? Đáp: Nếu trong Sơ giáo Tam thừa thì hoàn toàn không có hóa hiện
thành Phật, bởi vì chưa đạt được
Bất thối; nếu Chung giáo thì
Thập Tín đầy đủ tâm thuộc phần thắng tiến trở lên bắt đầu tiến vào
Thập trú, do đạt được Bất
thối cho nên có thể tạm thời hóa hiện thành Phật.
Như luận Khởi Tín nói: “Nếu trong Viên giáo Nhất thừa thì thật
sá»±
không dựa vào phần vị,
dựa vào tướng của phần vị thuộc Chung giáo để
phân rõ, đối với phạm
vi của Tín đầy đủ không lui sụt, thì trình bày đạt được hành đức thuộc pháp giới
Phổ Hiền ấy, thâu nhiếp đầy đủ nhân
quả viên dung vô ngại.
Nếu dùng môn Nhân để chọn lấy thì thường là Bồ- tát, nếu chọn lấy môn Quả thì luôn luôn là Phật, từ đây dung hòa có
bốn câu: Hoặc chỉ là
Bồ-tát, hoặc chỉ là Phật, hoặc cả hai, hoặc không
cả hai, đều suy nghó dựa theo điều đó. Hỏi:
Trong này, môn Quả thành Phật cùng với hóa hiện của
Chung giáo có gì khác nhau? Đáp: Giáo ấy chỉ đối với một phần vị dựa vào một thế giới hóa hiện một Phật, trong này có đủ Thập Địa… thâu nhiếp tất cả phần
vị. Mười phương thế
giới là tất cả mọi nơi, trong từng niệm niệm là
tất cả thời gian.

Hỏi: Trong này
đã nói thị hiện cũng thuận theo tạm thời hóa
hiện giống như Chung giáo
trên đây hay sao? Đáp: Như văn không có công dụng hy vọng, có thể trong
một niệm đi khắp mười
phương. Nếu đức này tự không phải là đầy đủ cùng tận phần vị của nhân thì vì
sao có thể đầy đủ như vậy, cho nên
biết chắc chắn là đầy
đủ hạnh chân thật, không giống như giáo ấy là
người ở phần vị kém
hơn. Vả lại, tất cả chư Phật ở các thế giới, vì
chúng sinh mà thành đạo đều là thị hiện, bởi vì rời bỏ căn cơ dựa theo mình cho nên không có
thành-không thành… Lại trong kinh Đại Tập quyển thứ
14 nói: “Đạt được
phần vị chính thức Quán đảnh, đối với tất cả các hạnh của Bồ-tát đạt được thần lực tiếp
sau Phật.
Nếu Bồ-tát thành tựu các pháp như vậy, thì có thể thị hiện tám tướng thành Phật ở thế giới
không có Phật, cho đến
nói rộng ra…”

Thứ hai Hoa nghiêm diệu hạnh Tam-muội môn, trong đó có hai
tụng rưỡi phân hai: Đầu là phân rõ về
nghiệp dụng, trong đó
có bảy hạnh:
1) Hạnh trang nghiêm quốc độ;
2) Hạnh cúng dường Phật;
3) Hạnh quang minh;
4) Hạnh giáo hóa;
5) Hạnh trí tuệ;
6) Hạnh thuyết pháp;
7) Hạnh thập độ. Sau là hai câu kết luận về Tam-muội làm chỗ dựa của hạnh, bởi vì hạnh môn vô ngại cho nên gọi là tất cả tự tại.
Hoa Nghiêm là hành pháp cho nên kết luận thuộc về pháp, như Hội thứ
bảy tiến vào Tam-muội Hoa
Nghiêm nói về 2000 hành pháp…
Thứ ba
Nhân-đà-la võng
Tam-muội môn, trong đó có bốn
tụng phân ba: Một-Hai câu
đầu nêu ra Định môn, nghóa là bởi vì muốn
hiện bày quốc độ
Nhân-đà-la võng, cho nên trước phải tiến vào Nhân-đà-la Định.
Hai-Trình bày về
nghiệp dụng, trong đó có hai: Trước là trình bày về hiện trong một mảy trần,
sau là tương tự tất cả các mảy trần.
Ba-Hai câu sau cuối kết luận về Định làm chỗ dựa, tuy pháp giới duyên khởi
lý kể ra thường như
vậy, nhưng nhờ vào trí lực không rối loạn của
Bồ-tát mà được hiển bày rõ ràng, cho nên nói là
Tự tại lực; cũng gọi
Giải thoát là Bất tư nghị
giải thoát, bởi vì lìa xa các chướng ngại; như cuối
phẩm Bất Tư Nghị ở văn
sau nói có mười loại, đó là trong một mảy trần hiện rõ
sự việc của ba đời chư
Phật… Vả lại, có thể câu trên là Định lực,
Giải thoát là Trí lực,
bởi vì không rối loạn là tác dụng của Định, Vô
ngại là giải thoát.
Thứ tư Thủ xuất quảng cúng
Tam-muội môn, trong đó có mười bảy tụng phân ba: Một-Ba câu đầu nêu ra Định môn.
Hai-Phân rõ
về nghiệp dụng, trong này có hai: a-Trong tay đưa ra
cúng dường,
b-Từ “Vô lượng thanh
tịnh…” trở xuống là trình bày về tay sáng ngời
trang nghiêm
cúng dường, bởi vì tay pháp giới này mà cầu tánh
sai biệt thì hoàn toàn không thể có được, nhưng đưa ra đồ vật cúng dường thì không thể nào cùng tận. Ba-Một kệ
sau cuối kết luận về Định làm chỗ
dựa, trong kinh Niết-bàn
gọi Phật là Đại Tiên.

Thứ năm Hiện chư pháp môn Tam-muội môn,
trong đó có tám tụng phân bốn:
Một-Một tụng nêu ra môn và ý.
Hai-Trình bày về nghiệp dụng có 22 môn, thâu nhiếp
chúng sinh
tiến vào thông
suốt cho nên nói là Môn. Ba-Có hai câu kết luận về
Vô tận. Bốn-Một kệ
kết luận về Định làm chỗ dựa.

Thứ sáu Tứ
nhiếp nhiếp sinh Tam-muội môn, trong đó có 16
tụng một câu phân ba:
Một-Một tụng nêu ra Định môn và ý. Hai-Trình
bày về nghiệp dụng.
Ba-Một câu sau cuối là kết luận về Vô tận.
Ngay trong nghiệp dụng có bốn: a) Hai tụng trình bày về
Bố thí nhiếp; b) Từ “Dó chư tướng hảo…” trở xuống là bốn tụng phân rõ về
Ái ngữ
nhiếp, trong đó một là nêu rõ ái sắc khiến cho
rời bỏ, hai là dịu dàng dùng Diệu âm để nói pháp. Nghóa về tám loại Phạm âm này
sơ lược đưa ra ba môn:
Một là Chủng loại, hai là Danh thể, ba là Nghiệp dụng.
Trong phần
Chủng loại, tra tìm các Thánh giáo có bốn
chủng loại:
Một- Dựa theo giáo nghóa để phân rõ, như kinh Thập
Trú nói: “Như Lai có tám loại âm thanh: Một nói là thấy Khổ, hai nói là hướng Khổ,
ba nói là thấy Tập, bốn
nói là hướng Tập, năm nói là thấy Tận, sáu nói
là hướng Tận, bảy nói là thấy Đạo, tám nói là
hướng Đạo.” Tám loại này dùng âm đã nói mà phân rõ, bởi vì dựa theo Dụng của
Phật âm. Hai- Dựa theo Thể của
Phật âm, cũng như kinh Thập Trú nói: “Phạm âm
có tám loại: Một là âm
không nam, hai là âm không nữ, ba là âm
không cứng, bốn là âm
không mềm, năm là âm không trong, sáu là âm
không đục, bảy là âm
không trống, tám là âm không mái.” Ba- Dựa theo đức của Phật âm cũng có tám loại, như kinh Phạm
Ma Dụ nói: “Một là Thanh hay nhất, âm thanh
ấy thanh nhã như tiếng chim Ca-lăng…;
hai là Thanh dễ hiểu, ngôn
từ phân biệt rõ ràng; ba là Thanh điều hòa, lớn nhỏ được thích hợp; bốn là
Thanh dịu dàng, lời nói không thô lỗ…;
năm là Thanh không lầm,
lời nói không sai lầm; sáu là Thanh không nữ, âm thanh ấy mạnh mẽ rõ ràng; bảy là Thanh tuệ cao quý, lời nói không
run sợ, như người tôn
trọng, như người trí tuệ thù thắng, nói không có
gì sợ hãi; tám là
Thanh sâu xa, từ vùng rốn phát ra âm thanh như
sấm động.” Ba loại trên đây là
Thể-Đức-Dụng thuộc Viên âm của Phật phân làm
ba mà thôi. Bốn-Dựa theo
dung thông có 64 loại Thanh của Phạm âm. Ở đây có hai
giải thích:
1-Kể ra riêng biệt 64 loại như trong kinh Mật Tích Lực Só hiển bày bày đủ;
2-Các vị từ trong ba loại trước đây, lấy tám loại đầu đưa vào trong tám loại sau, mỗi một loại có đủ tám, vì thế cho nên tám-tám thành ra
6
4. Hai là Danh thể: Một là Danh, đầy đủ năm nghóa mới gọi
là Phạm âm, như kinh Xà
Ni Sa nói: “Âm thanh ấy có năm loại thanh tịnh mới gọi là
Phạm âm, những gì là năm? Một là âm đó
chánh trực,
hai là âm đó hòa nhã,
ba là âm đó trong trẻo, bốn là âm đó rất tròn,
năm là nghe xa khắp nơi.
Đầy đủ năm nghóa này mới gọi là Phạm âm.” Lại nữa, Phạm là từ ngữ tròn đầy
trong trẻo, lại như
Phạm Thiên ứng với khắp nơi… Thanh là giữ lấy tiếng, âm là trình bày về tiếng ấy có âm vận biểu lộ rõ ràng.
Hai là Thể, Tiểu thừa chỉ là Sắc uẩn thâu nhiếp, Sắc hữu đối này không có thể thấy được, trong 12 Xứ do
Thanh xứ thâu nhiếp, trong 18
Giới do Thanh giới thâu nhiếp. Sơ giáo thì Thanh xứ… lấy
Không làm tánh, lại trong 11 Thức này thì Thức ngôn
thuyết làm Thể; Chung giáo thì Thanh này dùng Thức thanh tịnh của
Phật làm tánh, nhưng Thức
thanh tịnh này lại không khác với Chân như, cho nên
lấy Chân như làm tự tánh của Thanh ấy. Đốn giáo
thì Phạm âm gọi là giống với tánh vốn có thì không thể nói được,
 Viên giáo dùng vô tận pháp giới vô ngại làm tánh, cho nên thâu nhiếp bao gồm tất cả, viên dung tự tại như nói ở phần âm thanh của
Như Lai trong phẩm
Tánh Khởi sau này.
Ba là trình bày về
Nghiệp dụng có hai:
Một-Dựa theo lợi
ích chúng sinh, Tiểu thừa
chỉ lợi ích các chúng ở Hội này, Tam thừa thì lợi ích các
chúng hiển-mật, Nhất thừa lợi ích đối với vô
tận hiển-mật, nghóa là trùng trùng vô tận.
Hai-Dá»±a theo
phần lượng, Tiểu thừa chỉ giống
với âm thanh ngôn ngữ
của loài người; Tam thừa thì Phật âm phủ khắp tất cả các cõi, như
Mục Liên tìm
không biết…; Nhất thừa thì khắp nơi
pháp giới Nhân-đà-la
võng, trùng trùng vô tận vô tận.

Từ “Chúng sinh khổ lạc…” trở xuống là trình bày về
Đồng sự nhiếp.
Trong đó: Một là cùng chung việc làm với họ, hai từ
“Nhược hữu bất thức…” trở
xuống là trình bày về chỉ rõ pháp, mười Hạnh là
mười Độ. d-Từ “Hoặc
hữu chúng sinh…” trở xuống là trình bày về Lợi
hành nhiếp. Trong đó: Một
là chỉ rõ lỗi lầm của sinh tử khiến cho rời bỏ, hai từ “Như Lai thập lực…” trở xuống là hiển bày về Phật đức khiến
cho mong cầu, ba có một câu “Như thị phương tiện vô hữu lượng” là
kết luận về vô tận.

Thứ bảy Cung
đồng thế gian Tam-muội môn, trong đó có 17
tụng một câu phân hai:
Một-Ba câu đầu nêu ra ý; hai-Từ “Bác tổng…” trở xuống là chính thức phân rõ về Đại dụng. Trong đó có hai: a)
Trình bày về Dụng của
thân nghiệp, b)
Từ “Nhược kiến thế gian vô chánh
kiến…” trở xuống là
trình bày về Dụng của ngữ nghiệp.
Trong phần a có năm:
1) Làm lợi ích cho vua quan…;
2) Từ “Hoặc ư khoáng dã…” trở xuống là làm lợi ích cho loài phi tình;
3) Từ “Nhược kiến thế giới…” trở xuống là làm lợi ích cho bậc có Bi tâm;
4) Từ “Chú thuật…” trở xuống là làm lợi ích cho Tiên nhân;
5) Làm lợi ích cho ngoại đạo sinh tâm đều khiến cho giải thoát.
Trong phần b là Dụng của ngữ nghiệp có ba:
1) Một kệ tổng quát nêu ra;
2) Riêng biệt hiển bày;
3) Từ “Tri nhất thiết…” trở xuống là hai câu kết luận về Định làm chỗ dựa, Nhất tâm
thuyết pháp gọi là
Tam- muá»™i.
Thứ tám Mao quang giác chiếu Tam-muội môn, trông đó có 89
tụng phân bốn:
Một- Một tụng nêu ra môn và ý;
Hai- Từ “Sở phóng quang…” trở xuống
là chính thức phân rõ về nghiệp dụng; Ba- Từ “Thị
danh…” trở xuống là kết luận về nguồn gốc làm
chỗ dựa; Bốn- Từ “Sở tu hạnh nghiệp…” trở xuống là tiếp tục giải thích về phạm
vi thành tựu.

Trong phần hai là nghiệp dụng có hai:
1-Trình bày về Dụng của ánh
sáng ở một mảy lông;
2-Từ “Như nhất mao…” trở xuống là tương tự hiển bày về nhiều mảy lông. Trong một mảy lông trước lại có hai: a) Sơ lược phân rõ về 44 môn; b) Từ “Như thị
đẳng tỉ…” trở xuống là mở rộng kết luận về
hằng sa, nghóa là thân
Bồ-tát này giống như pháp giới cùng tận chín đời,
bao gồm tất cả vô số
thế giới (trần đạo), thường có Đại dụng của ánh
sáng như vậy, không có
lúc nào ngừng nghỉ, vì thế ánh sáng này thường xác định luôn luôn có-luôn luôn không có, người có mắt thanh tịnh thì
không có lúc nào không
nhìn thấy cho nên luôn luôn có, người không có
mắt thanh tịnh thì không
có lúc nào tạm thấy cho nên luôn luôn không
có, ánh sáng của pháp
luôn luôn xác định, mất đi hay phát ra vốn là thuộc về duyên.

Trong phần a, trong 44 môn thì mỗi một môn đều có ba nghóa:
Một là đưa ra
tên gọi của ánh sáng, hai là hiển bày về lợi ích
của ánh sáng, ba là nêu ra nhân của
ánh sáng. Trong nhân của ánh
sáng thứ nhất, hoặc dùng lời nói giảng giải để hiển bày về
Tam Bảo, hoặc dựa theo
sự việc như khai mở Phật môn hiện rõ
hình tháp…. Trong nhân của ánh
sáng thứ hai, đèn
sáng lìa xa cấu nhiễm tối tăm cho nên đạt được ánh
sáng
thanh tịnh, hoặc là đèn
chiếu rọi hiện rõ cảnh giới thanh tịnh. Trong hai
nhân của ánh sáng thứ
ba-thứ tư đều có hai, một là nhân thuộc về sự, hai là nhân thuộc về pháp. Trong nhân của ánh
sáng hoan hỷ thứ năm, một
là trang sức hình tượng
Đức Phật khiến cho người thấy hoan hỷ, hai là ca ngợi công đức của Đức Phật khiến cho người nghe hoan hỷ.
Trong nhân của ánh sáng thứ
sáu, một là tự vui với Tam Bảo, hai là dạy cho
người khác cùng vui.
Trong nhân của ánh sáng tịch tịnh, lìa mười loại lời nói không đúng pháp, bởi vì lời nói thô ác não hại người làm cho tâm
người khác không được
yên tịnh, vốn là chướng ngại, theo kinh Nhiên
Đăng: “Mười loại lời
nói không đúng pháp: Một là lời nói xằng bậy, hai là
lời nói làm đau lòng,
ba là lời nói thô ác, bốn là lời nói đắng cay, năm
là lời nói không vui,
sáu là lời nói không thích, bảy là lời nói không
mến, tám là lời nói
không đi vào tâm, chín là lời nói làm buồn người
khác, mười là lời nói
kết buộc oán thù.” Lại trong ánh sáng thấy Phật,
theo
pháp của các nước
Tây Trúc, có người
sắp xả mạng thì để họ nằm
xoay mặt hướng về phía
Tây, ở trước mặt đặt một pho tượng Phật đứng, pho tượng cũng hướng về phía Tây, dùng một lá phan treo trên ngón
tay pho tượng, khiến cho tay người bệnh nắm đuôi lá phan, miệng xưng
danh hiệu Phật, làm dấy
lên ý niệm theo Phật vãng sinh Tịnh độ, cùng
với thắp hương đánh
khánh giúp đỡ xưng niệm danh hiệu Phật. Nếu có thể làm được điều này thì không chỉ người mất được
sinh ở trước Đức
Phật, mà người này cũng
sẽ được thấy ánh
sáng của Đức Phật. Lại trong
nhân của ánh sáng vui
với pháp, có bảy: Một là lắng nghe, hai là giảng nói, ba là viết chép, bốn là yêu quý, năm là bảo vệ,
sáu là bố thí, bảy là
thực hành. Trong này, hộ
pháp thì luận chung có bốn nghóa: Một là bảo
vệ Lý pháp bởi vì
không vướng vào kiến chấp; hai là bảo vệ Hành
pháp bởi vì khiến cho
tăng trưởng; ba là bảo vệ Giáo pháp bởi vì giảng nói không mệt mỏi; bốn là bảo vệ
Quả pháp, nghóa là đối địch với hạng vua chúa tàn ác để bảo vệ trụ trì
Tam Bảo. Đối với bốn điều này đều
không tiếc thân mạng mà
giữ gìn Chánh pháp.

Trong phần b
là mở rộng kết luận, nghiệp là nhân hướng về
ánh sáng, quả là ánh
sáng hiện rõ, cả hai cùng hiện rõ là bởi vì nhân
hạnh quá khứ dựa vào
môn mười đời cho nên cũng hiện rõ ở đời này.

Trong phần ba
là kết luận về chỗ dựa, bởi vì không rối loạn
cho nên hiểu rõ ràng,
vốn là kết luận về hai môn Định-Trí.
Trong phần bốn là tiếp tục
giải thích,
sao cần phải tiếp tục
giải thích, là bởi vì
trên đây nói ánh sáng ấy giác ngộ tất cả chúng sinh,
vì sao lại có chúng sanh
mà không thấy? Trong giải thích có ba:
Một-Hai kệ về pháp
thuyết, trong đó có bảy loại chúng sinh, được gặp
ánh sáng này bởi vì có duyên: Một là cùng
nghiệp, hai là tùy hỷ, ba là nghe tu, bốn là thấy làm, năm là tu nhiều công đức,
sáu là cúng dường
nhiều Phật, bảy là mong
cầu Đại quả. Hai-Có ba kệ rưỡi về dụ thuyết,
trong đó: Một là hai kệ
trình bày dụ về mắt mở nhắm của cơ, hai có một kệ rưỡi trình bày dụ về nghiệp thiện ác của cơ. Ba-Có một kệ trình bày
về lợi ích thù thắng của nghe pháp.
Thứ chín Chủ bạn nghiêm lệ
Tam-muội môn, trong đó có
sáu
tụng phân hai:
Một- Một kệ nêu ra danh và ý;
Hai- Từ “Tam thiên…” trở xuống là chính thức hiển bày về
nghiệp dụng, trong đó có năm kệ: Một kệ đầu hóa hiện thân và tòa là chủ, một kệ tiếp là thâu
nhiếp quyến thuộc, một kệ tiếp là giải thích về quyến thuộc thù thắng, một kệ tiếp
là hiển bày về chủ thù
thắng, một kệ tiếp là kết luận bao gồm thân
pháp giới vô tận khắp mười phương.

Thứ mười Tịch dụng vô nhai Tam-muội môn, trong đó có 35
tụng phân ba: Một-Một kệ
nêu ra ý, trong đó qua lại dựa theo phương,
xuất nhập dựa theo Định;
hai-Từ “Hoặc Đông phương…” trở xuống là chính thức hiển bày về
nghiệp dụng; ba-Từ
“Thị danh…” trở xuống là
kết luận về vô tận.

Trong phần hai là nghiệp dụng có hai:
1) Dựa theo phần vị tổng
quát trình bày về tự tại;
2) Từ “Nhất thiết quỷ thần nhập chánh thọ…” trở xuống là trình bày về tự tại sai biệt vi tế.
Trong phần một có ba: a)
Trình bày về Khí thế gian tự tại; b)
Từ “Đông phương thế giới…” trở xuống là tự tại đối với Trí chánh giác
thế gian; c) Từ “Ư nhãn
căn trung…” trở xuống là tự tại đối với
Chúng sinh thế gian. Phàm luận về Bồ-tát tự tại đối với ba thế gian có hai
nghóa: Một là thân
Bồ-tát làm ba thế gian cho nên được vô ngại, hai
là Bồ-tát ở nơi ba thế gian thị hiện tự tại. Nay trong văn này hai thế gian đầu dựa theo nghóa
sau mà nói,
Chúng sinh thế gian dựa theo nghóa
trước mà nói. Trong văn nêu ra lẫn nhau, lý thật thì gồm chung khắp nơi có
đủ hai nghóa này.
Ngay trong tự tại của hai thế gian đầu, vì
sao có thể thành tựu nhập ở Đông mà xuất ở Tây, luận chung trong văn có bốn tầng vô ngại: Một là
Xứ vô ngại, nghóa là bởi vì phương Đông tức là
phương Tây,
cho nên không dời khỏi
Đông mà thường ở tại Tây.

Hỏi: Trong văn
không nói không dời khỏi mà đến, sao chắc
chắn không phải là ẩn
ở Đông hiện ở Tây? Đáp: Trong văn đã nói thường thấy ở Đông cũng thường thấy
ở Tây, cho nên biết
không phải là chuyển dời.
Hai là
Phật vô ngại, nghóa là bởi vì Phật ở phương Đông tức là Phật ở
phương Tây, cho nên thường ở trước
Phật phương Đông tức là luôn luôn ở bên cạnh
Phật phương Tây. Ba là
Thân vô ngại, nghóa là
bởi vì thân ở phương
Đông tức là thân ở phương Tây, cho nên thân
không rời khỏi phương
Đông mà thường hiện rõ ở phương Tây.

Hỏi: Lẽ nào là không phân thân, một thân ở phương Đông,
một thân ở phương Tây
hay sao?
Đáp: Nếu
nhiều thân ở nhiều nơi thì sao trở thành kỳ lạ hiếm
có, sao có thể gọi là
Dụng không thể nghó bàn? Vì thế nên biết chắc
chắn không phải phân thân.

Bốn là Xuất nhập vô ngại, nghóa là bởi vì nhập Định tức là
xuất Định, cho nên không
hoại nhập Định mà thường thấy xuất Định.

Hỏi: Sao chắc
chắn không phải là trước nhập-sau xuất? Đáp: Đã nói thường thấy nhập cũng thường thấy xuất, cho nên biết là như vậy.
Trong nghóa của lý thật có đủ bốn tầng này, nhưng
ý văn này là chỉ hiển
bày về công lực của Bồ-tát ấy, hai loại đầu
không phải là phân rõ
ở đây, bởi vì hai loại đầu là Bồ-tát không có lực.

Hỏi: Sát-na này nhập Định vì sao tách ra là xuất Định? Đáp: Như cái khăn huyền ảo làm ra con thỏ, con thỏ này tức
sống là chết. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì có tức là không có,
nhập-xuất… cũng như
vậy, dựa theo suy nghó điều đó. Vả lại, Bồ-tát này dùng
pháp giới làm thân, vì
vậy tuy thấy ngoài trăm ngàn cõi ở phương Đông, mà pháp giới luôn luôn là pháp giới chứ không phải là pháp có phạm vi
giới hạn, cho nên tùy
xứ hiển hiện không có xứ nào không hoàn toàn hiện rõ. Bởi vì thân
Bồ-tát thường hiện rõ ở trong nhập Định, luôn luôn
hiện rõ ở trong xuất
Định, vô ngại viên dung khó mà nghó bàn được, vì
vậy nếu hướng đến
trong môn xuất Định thì chỉ thấy xuất chứ không thấy nhập, cũng không thấy lúc đã xuất rồi. Nghóa còn lại dựa theo điều này. Lại nếu dựa theo cảnh mà luận về lý
số thì pháp vốn viên dung như vậy, nếu dựa theo trí mà nói thì do trí của
Bồ-tát thông hiểu rõ ràng pháp
này xoay chuyển tự tại.
Nay trong văn này đầy đủ tất cả hai nghóa.
Ngay trong phần
Chúng sinh thế gian tự tại, có hai: Đầu là dựa
theo Tự thân, sau là dựa theo Tha thân.

Trong Tự thân
dựa theo 12 Xứ phân rõ, trong đó Duyên
khởi-Vô ngại-Định đều viên dung, mỗi một loại đều có mười
sự-năm cặp về tướng của
Vô ngại. Cặp thứ nhất là
Căn-Cảnh vô ngại, đã quán căn tiến vào Định trở lại thuận theo từ căn mà rời ra, bởi vì hiển bày căn này
tức là cảnh, cho nên từ
cảnh mà rời ra. Bởi vì một tâm duyên khởi
không hai mà hai, cho nên
luôn luôn là tướng nhưng căn-cảnh hai phần.
Cặp thứ hai là hai Định
vô ngại, đó là hai Định về Lý-Sự, bởi vì phân
biệt cảnh thuộc Sự nên
tiến vào cảnh Định trở lại tiến vào trong căn, bởi vì quán về căn rỗng lặng nên tiến vào căn Định trở lại tiến vào trong cảnh, bởi vì trí phân biệt cảnh thuộc Sự tức là
Vô sinh trí quán về căn, cho
nên hai Định vô ngại chỉ
là một tâm. Cặp thứ ba là hai Cảnh vô ngại, đó
là sâu rộng, Sự rộng đã phân biệt ở đây tức là
Lý sâu về
Vô sinh-Vô tánh, cho nên chân-tục cùng dung hòa chỉ một pháp giới,
 nhưng bởi vì hai ng- hóa không ngăn ngại, cho nên dựa vào Tục đối với Cảnh, dựa vào
Chân đối với Căn, lý
thật thì thông suốt khắp nơi. Cặp thứ tư là
Nhập-Xuất vô ngại, đó
là bởi vì nhập Định vốn là xuất Định, thì tuy khởi Định mà niệm không tán loạn. Cặp thứ năm là
Thể-Dụng vô ngại, đó là
Tự-Tha, nghóa là tuy hiện bày rộng rãi đối với Cảnh, mà người không có thể
nhận biết, bởi vì luôn luôn vắng lặng; tuy dấy khởi
sâu xa đối với
Định, nhưng tự tâm luôn luôn không tán loạn. Vì thế cho nên mười nghóa
trên đây cùng làm một
tụ, vốn là tướng của pháp giới duyên khởi vô ngại.

Vả lại, trong này còn có ba tầng hy hữu, đó là
Căn nhập-Cảnh xuất đã là một hy hữu; lại có thể trong Cảnh tiếp tục nêu ra vô
biên phân biệt, không
phải là sự nhận biết của trời người, là hai hy hữu; từ Cảnh xuất rồi nêu ra phân biệt này đã rất hy hữu, lại ở lúc ấy tâm Định không tán loạn, lại càng hy hữu.
Vì sao như vậy? Bởi vì muốn hiển
bày về Tam-muội thuần
thục, ở trong văn có thể biết.

Hai từ “Đồng
tử thân…” trở xuống là vô ngại đối với Tha thân, ở đây có hai nghóa: Một là Bồ-tát hóa hiện thân ấy chuyển biến
nhanh chóng; hai là Bồ-tát
đã có đủ thân của ba thế gian, thì dùng thân
Thật báo của tất cả chúng
sinh để làm tự thân, cho nên hiện bày thân ấy
tiến vào-thân này rời
ra, mà chúng sinh biến kế kia không hiểu-không
biết, trừ ra người cần
phải hóa độ. Đây là trình bày về Dụng tự tại của
Định có thể biết.

Trong phần thứ hai là tự tại sai biệt vi tế, cũng
là ba thế gian đều phân tích hiển bày rõ ràng.
Trong đó, đầu mảy lông-lỗ chân lông
là sai biệt của Chúng
sinh thế gian, ánh sáng của Phật là sai biệt của
Trí chánh giác thế gian, còn lại như vi trần… đều là
sai biệt của
Khí thế gian, đều là thân
Bồ tát hiện rõ xuất-nhập Định ở trong những loại
ấy, không phải là quán
về Bồ-tát nhập Định…, bởi vì trong văn đều nói
là hiện bày, hiện là
hiện rõ thân ở trong đó.
Phần thứ ba là kết luận, có hai ý:
1) Gần thì riêng biệt kết luận về Định thứ mười này;
2) Xa thì gồm chung kết luận về mười môn trước đây là tóm lược, dựa theo thật thì vô tận.

Thứ sáu là
phần dụ nói về ý chỉ sâu xa, cũng gọi là phần nêu ra thua kém hiển bày về thù thắng. Bởi vì trên đây đã trình bày chính
thức hiển bày về công
đức của hạnh Phổ Hiền thuộc Nhất thừa cùng tận
đối với cảnh Phật,
nhưng nói phần vị theo thứ tự bởi vì là phần vị
Thập Tín của ngoại phàm, đã vượt qua Tam thừa trở lại đối với nghe nhìn,
vướng vào tình thức
đối với giáo không biết từ đâu để đạt được
Tín, cho nên nêu ra sự việc gần
này dùng làm gương soi, hướng về sâu xa khiến
cho tỏ ngộ thông suốt mà thôi.
Trong đó có 77 tụng phân hai:
Một- Một kệ tổng quát nêu ra, trong đó
chúng sinh-nghiệp…, ở văn
sau nói chư
Thiên Tu-la… là
Chánh báo, biển-gió…
là Y báo; tiếp một câu là về sau các rồng tuôn mưa…; câu
sau cuối là
Tam-muội của Thanh văn và
Phạm Thiên…, đều đối với
thế gian không có ai
suy
lường được, cho nên nói là khó
suy nghó, vì
vậy lấy ví dụ để so
sánh. Hai- Trong phân rõ riêng biệt có 18 dụ lớn:

Dụ về Thanh văn hiện bày thần thông, là dụ về lực tự tại làm lợi ích cho chúng
sinh
của Bồ-tát, trong đó có ba: Một là nêu ra ý, nghóa là lý thật thì thần thông của Thanh văn
so
với Bồ-tát, như nước trong
dấu chân trâu so với biển rộng, ánh sáng đom đóm so với mặt trời, cho nên nói là không có thể làm ví dụ. Nhưng bởi vì nay nêu ra đức của đom
đóm hãy còn như vậy, huống hồ mặt trời chói
chang, khiến cho người
thông tuệ vượt qua hướng về hiểu rõ xa xôi, đó
là nói rằng người thông tuệ có thể hiểu rõ nghóa này. Hai từ “Đắc bát…” trở xuống là nêu ra dụ
về gần, ba từ “Hiện tác…” trở xuống là
hiển bày hướng đến xa.

Dụ về nước hiện rõ bốn loại binh lính, là dụ cho đức
Tam-muội Hải Ấn của Bồ-tát.

Dụ về âm thanh vi diệu
của biển-trời, là dụ cho đức của
Bồ-tát tổng trì khéo léo thuyết giảng khiến cho chúng sinh hoan hỷ.

Dụ về người nữ trao cho biện tài, là dụ cho đức của
Bồ-tát dùng
trí phương tiện trao truyền pháp khiến cho vui mừng.

Dụ về phép thuật hóa hiện của
huyễn sư, là dụ cho đức của
Bồ-tát dùng lực giải thoát không thể nghó bàn chuyển biến làm vui
lòng căn cơ.

Dụ về Tu-la tiến vào sợi tơ, là dụ cho thần thông vô ngại tự
tại của Bồ-tát.

Dụ về voi chúa tùy theo biến hóa, là dụ cho đức của
Bồ-tát dùng Định ẩn hiện tự tại.

Dụ về
Tu-la thân lớn, là dụ cho đức của
Bồ-tát hiện rõ thân như
pháp giới, đó là như trong Tam thiên Đại thiên
thế giới hóa ra một hoa
sen khắp các thế giới đều biết, ở văn trên.

Dụ về Đế Thích phá bỏ oán thù, là dụ cho đức của Bồ-tát phá
tan các ma làm cho phải hàng phục.

Dụ về thuyết pháp không âm thanh, là dụ cho đức của
Bồ-tát không có tâm dụng công thuyết pháp làm
lợi ích cho chúng sinh.

Dụ về an ủi không âm thanh, là dụ cho đức của
Bồ-tát dùng
âm yêu thương trừ hết buồn phiền.

Dụ về Thiên Vương ứng với khắp nơi, là dụ cho đức của
Bồ- tát dùng thân qua lại khắp nơi ứng với căn cơ vô ngại.

Dụ về Ma vương tự tại, là dụ cho đức của
Bồ-tát dùng mười lực
thâu nhiếp chúng sinh khiến cho cùng nhau thực hành.

Dụ về Phạm thân hiện bày khác nhau, là dụ cho đức của Bồ-

tát dùng lực
giải thoát an tọa khắp đạo tràng thuyết giảng về
tất cả các pháp.

Dụ về Ma-hê-số-đế, là dụ cho đức của
Bồ-tát trong một niệm
nhận biết rõ ràng tâm của tất cả chúng sinh.

Dụ về phong luân duy trì phân tán, là dụ cho đức của
Bồ-tát thành tựu Đại nguyện xưa kia vô tâm vô ngại mà biện giải thuyết
giảng ứng với căn cơ.

Dụ về biển rộng chứa đựng, là dụ cho đức của
Bồ-tát tích lũy giữ gìn nhiều công đức hiện
bày hợp với mọi căn cơ.

Dụ về Long vương tuôn mưa khắp nơi, là dụ cho đức của
Bồ- tát rưới làn mưa pháp khắp tận cùng pháp giới.

Thứ bảy là phần so sánh khuyến khích phát khởi, trong đó có 10 tụng rưỡi phân bốn:
Một- Một kệ ví dụ
so
sánh về khó;
Hai- Một kệ trình bày về thuyết giảng là khó; Ba- Có ba kệ rưỡi hiển bày về tin tưởng thực hành là khó; bốn-Từ “Nhược Tam thiên…” trở xuống là năm kệ nêu ra dễ để hiển bày về khó, đều là một
sự việc về
sau dần
dần khó hơn có thể biết.

Thứ tám là trong phần hiển bày thật chứng thành tựu, có ba
kệ: Một, Phân rõ về
lợi ích có ba:
1) Mặt đất rung động;
2) Ma quân hàng phục;
3) Diệt trừ
khổ đau. Hai, Chư Phật xoa đỉnh đầu. Ba-Thuật lại
ca ngợi tùy hỷ. Hội thứ hai, xong.

ï‚¢



<卷>QUYỂN 5</卷>

<詞>Phẩm 9: PHẬT THĂNG TU DI ĐẢNH</詞>

Đem giải thích
văn này, có bốn môn như trước.

GIẢI THÍCH TÊN GỌI có hai:

Tên gọi của Hội, dựa theo pháp gọi là Hội Thập Trú,
dựa theo nơi chốn gọi là Hội Đao Lợi Thiên, dựa
theo giải thích có thể biết.

Tên gọi của Phẩm, Phật là Hóa chủ động tónh vô ngại, không đi
mà tới cho nên gọi là Thăng. Lên cao đến nơi
nào? Đó là đỉnh núi
Tu- di. Tu-di, Trung Hoa nói là núi Diệu Cao, nghóa là do
bốn loại quý báu mà làm thành cho nên nói là Diệu, đó là phía Đông vàng ròng-phía
Tây bạc trắng-phía Nam pha lê-phía Bắc mã não, các núi
khác chỉ có vàng
cho nên không phải là Diệu; một mình vượt ngoài
chín núi cho nên nói là Cao, cao tám vạn bốn ngàn
Do-tuần, dài-rộng bằng nhau, cũng gọi núi
An Minh. Đỉnh là đỉnh núi, nghóa là chính giữa đỉnh núi này có cung
của Đế Thích, bốn mặt đều có tám khối đất như
đài cao, cách cung của Đế
Thích trong ba Do-tuần có riêng cung thành của 32 cõi trời phụ giúp
Đế Thích, cùng với cung của Đế Thích là
3
3. Nay đi đến cung của Đế Thích cho nên nói là Đỉnh. Dựa theo nơi chốn biểu thị cho pháp, trình
bày về Thập Trú thành tựu phần vị thù thắng
không lui sụt, cho nên ở
trên đỉnh núi, tức là thuận theo ba nghóa về con
người- tác dụng và nơi
chốn mà lập ra tên gọi.

Hỏi: Sao không
thuyết pháp ở trong loài người?

Đáp: Bởi vì
hiển bày về phần vị của Hành dần dần tiến lên
cao, lại biểu thị cho thành
tựu phần vị lìa nhiễm cho nên ở cõi trời.

Hỏi: Sao không
đến cõi trời Tứ Thiên Vương?
Đáp: Có ba
ý:
1) Bởi vì cõi ấy là quỷ- thần-trời xen lẫn, hiển bày về pháp không phải là thù thắng cho nên vượt lên trên;
2) Bởi vì dựa vào pháp mà
Thập Tín là phần vị lui
sụt thuộc
ngoại phàm,
Thập Trú là phần vị không lui sụt
thuộc nội phàm, muốn biểu hiện về tiến-lùi khác
xa nhau cho nên vượt qua cõi trời
Tứ Thiên Vương;
3-Nếu chưa đến đỉnh núi thì có thể có tiến-lùi, đến trên đỉnh núi thì an trú không lui sụt, vì thế cho nên vượt qua cõi trời ở lưng chừng núi kia đến nơi đỉnh
này để biểu thị cho pháp.

Ý
đưa ra cũng có hai:

Đưa
ra Hội, một là đáp câu hỏi về Thập Trú trước đây; hai là
trước đây đã trình bày về Tín, nay hiển bày dựa
vào Tín phát khởi về Giải cho nên tiếp tục đưa ra; ba là Tín trước đây chỉ là phương tiện trước phần vị, phương tiện đã đầy đủ, phần vị chính thức hiển bày rõ ràng cho
nên tiếp tục đưa ra.

Đưa
ra Phẩm, phẩm trước phân rõ về Tín đến cuối cùng, nay
sắp đi đến phần vị sau cho nên đưa ra.

TÔNG THÚ cũng có hai:

Tông của Hội cũng có hai: a)
Dựa theo người, đó là Hóa chủ và
Trợ hóa, đều có Thể-Tướng-Dụng, dựa vào Tín
thì Trú có thể biết; b)
Dựa theo pháp, đó là giáo nghóa của
Thập Trú, trong Nghóa thì lấy pháp
giới bình đẳng làm Thể, phần vị thực hành của
Thập Trú làm Tướng,
thuận theo giáo đã nói ra làm Dụng; trong Giáo thì
lấy sáu quyết định làm Thể,
Thập Trú không giống nhau làm Tướng, lợi ích cho căn cơ làm
Dụng. Tương tức vô ngại, dựa theo trên để suy nghó điều đó.

Tông của Phẩm là dùng nơi chốn trang nghiêm thỉnh cầu Đức
Phật, Như Lai hướng đến cảm ứng làm Tông.

GIẢI THÍCH VĂN: Ngay trong Hội này có
sáu phẩm phân hai:
Hai phẩm đầu trình bày về phương tiện phát khởi tức là phần Tựa, bốn
phẩm còn lại là Chánh tông của Hội này.

Trong phần trước có hai: Phẩm
đầu là Tựa về Như Lai ứng cảm trình bày quả đức đầy đủ; phẩm
sau trình bày Tựa ca ngợi ánh
sáng
quy tụ chúng trình bày về
nhân đức tròn vẹn, tức là hiển bày trong phần
vị Thập Trú đầy đủ
nhân quả vốn là tông tròn vẹn đầy đủ.
Trong phẩm trước có ba: Một là phân rõ về hóa duyên; hai
từ “Nhó thời Đế
Thích…” trở xuống là căn dục trang nghiêm; ba từ
“Nhó thời Thế tôn…”
trở xuống là trình bày về căn duyên khế hợp.
Trong phần một có hai: Trước là Thể dung hòa rộng khắp
pháp giới; sau là trình
bày về Dụng dung hòa, nghóa là không chuyển
động mà tiến lên.

Trong phần trước: Một câu
đầu trình bày về nguyên cớ của
Thể dung hòa, đó là
Phật lực; phần sau trình bày về Tướng dung hòa khắp nơi. Trong đó mười phương đều có
Diêm-phù-đề của mỗi
một phương…,

là phẩm Quang
Minh Giác trên đây đã phân rõ. Mười phương đều có… cho đến trong thế giới như bất khả thuyết-bất khả thuyết hư không
pháp giới…, đều có
Phật Lô-xá-na dưới tán cây Bồ-đề, đều cùng với Hải hội chúng Bồ-tát và
Văn Thù Sư Lợi cho đến
Hiền Thủ…, tất cả
đều thuyết pháp. Bởi vì các Hội chúng đều không xen tạp, cho nên nói là tự
tại. Nay đều cùng lúc
quy tụ chúng, đều lên cao trên cõi trời của cõi mình, mà không lìa xa nơi chốn của mình. Nếu dựa theo trong
Tiểu thừa-Tam thừa… nói thì trải qua thi thiết giáo hóa, chỉ luận về nơi nào đó…, không có một nói-tất cả nói… như ở đây. Nay muốn trình bày về
pháp Nhất thừa, tức là chủ-bạn viên minh bởi vì pháp như vậy.
Trong đó:
1) Ba thế gian dung hòa;
2) Y và Chánh dung hòa;
3) Ở trong Chánh báo có Tam Bảo dung hòa với nhau,
nghóa là nói các loại pháp là Pháp bảo,
Bồ-tát là Tăng, bởi vì
hướng về Như Lai;
4) Đối với các Bồ-tát có ba nghiệp dung hòa, đó là
biểu hiện rõ ràng là thân, thuyết pháp là ngữ,
tự mình nói là ý.

Hỏi: Sao cần
phải quy tụ chúng này? Đáp: Muốn trình bày đầy
đủ chủ-bạn, bởi vì hễ một pháp khởi
lên thì cần phải có đủ tất cả.

Hỏi: Tại sao
đều lấy cây Bồ-đề làm căn bản? Đáp: Bởi vì là nơi đạt được pháp đầu tiên, lại bởi vì là
cửa ngõ giác ngộ.

Thứ hai là trong Dụng dung hòa, một câu đầu là nguyên cớ của Dụng dung hòa,
 tiếp đến không rời khỏi… là chính thức trình bày về tướng của Dụng.
Trong này, không rời khỏi nơi này mà lên cao
trên cõi kia, người xưa có ba cách
giải thích: Một nói rằng thân
Thích-ca vốn
có không rời khỏi cây
Bồ-đề mà khởi lên thân ứng hóa khác để lên
trên cõi trời. Nếu theo
cách giải thích này thì thân lên trên cõi trời là
trở lại Hóa thân, đã không phải là sâu xa vi
diệu, sợ rằng trái với ý văn.
Một nói rằng không rời
khỏi là Pháp thân, lên trên cõi trời là dụng của Hóa thân. Điều này
sợ rằng không hợp lý, lẽ nào có thể Pháp thân an tọa nơi cội
Bồ-đề? Một nói rằng lên trên cõi trời này là không hướng về mà đến, bởi vì hướng về tức là không hướng về, cho nên không rời
khỏi; không hướng về
tức là hướng về, cho nên lên trên cõi trời; như
tướng không đến mà đến gọi là thiện lai… Nếu theo cách giải thích này thì
chỉ là không có tướng
lên cao mà lên trên cõi trời, không phải là dưới cội cây này có thân không rời khỏi, cho nên cũng khó mà
sử dụng.
Nay giải thích văn này sơ
lược có tám nghóa:

Dựa theo Xứ tức là tìm được lối vào, nghóa là bởi vì trong một

Xứ có tất cả Xứ, cho nên cung trời… này tức là xưa nay ở trong
phần dưới tán cây chúa
kia, cho nên nói là không rời khỏi. Nhưng trước
chưa sử dụng Xứ của
cung trời này, nay muốn ở trong đó thuyết pháp, bởi
vì sử dụng cho nên nói là lên cao. Lại ngay trong
nhau cho nên không
rời khỏi, môn riêng
biệt cho nên có lên cao.

Dựa theo Phật, nghóa là thân Phật an tọa dưới tán cây chúa này
tức là tất cả Xứ khắp pháp giới, vì vậy thân
Phật xưa nay ở các Xứ như cõi Đao
Lợi… kia, cho nên không cần phải rời khỏi, nay muốn dùng
Phật trong môn Đao Lợi này cho nên nói lên cao. Vì
vậy nếu rời khỏi
thì không thành lên cao.

Dựa theo Thời, nghóa là bởi vì thân Phật trên tòa dưới tán cây này tức là tất cả mọi lúc thuộc chín đời-mười đời như khắp thời gian trước
sau… Vì vậy lúc Phật an tọa dưới tán cây này lên trên cõi trời, lúc đi cho đến lúc ở cõi trời, mỗi một lúc này đều khắp pháp giới thâu nhiếp
tất cả thời gian trước sau, tức là biết lúc an
tọa dưới tán cây, pháp vónh
viễn không có lúc rời khỏi, nói là không rời
khỏi. Nếu lúc đang đi thì
cũng như vậy, cho nên chỉ có đi chứ không có gì
khác, đều niệm niệm không cùng nhau đến, tất cả đều thu vào pháp giới, như vậy môn duyên
khởi vô ngại luôn luôn không xen tạp.

Dá»±a theo
Pháp giới môn, nghóa là
sự lên cao này loại trừ không có tự tánh, cho nên đã thâu nhiếp Chân như pháp giới. Bởi vì an tọa
dưới tán cây ấy… cũng không khác với Chân
như, giống với Chân như
hiển bày rõ ràng ở môn trước, cho nên không
rời khỏi mà lên cao.

Dựa theo Duyên khởi môn, nghóa là ngồi do đi mà ngồi, ngồi
quyết định ở trong đi; đi do ngồi mà đi, đi quyết
định ở trong ngồi.
Vì vậy do ngồi trong đi cho nên lên trên cõi trời tức
là không rời khỏi, do đi trong ngồi cho nên không rời khỏi mà lên trên cõi trời. Đi và ngồi vô
ngại cho nên tức là lên cao mà thường ngồi, tức
là ngồi mà luôn
luôn lên cao.

Dựa theo đức không thể nghó bàn của Phật, nghóa là không rời
khỏi nơi này mà ngồi tức là đi-tức là nằm-tức
là đứng, tức là đến tất cả nơi chốn, tức là
làm tất cả sự việc, đều không phải là sự nhận biết
của Địa dưới.

Dựa vào pháp đã biểu hiện, nghóa là biểu hiện phần vị trước
thực hành thành tựu đến cuối cùng kiên cố
không hoại, cho nên nói là không rời khỏi tòa ngồi trước đây, mà có công dụng đến với căn cơ, cho
nên nói là lên cao.

Dá»±a theo
Hội thành tựu, nghóa là
Hội sau nhất định phải đầy đủ

Há»™i trÆ°á»›c,
cho nên không rời bỏ trước mà thành tựu sau; nếu rời bỏ
thì hư hoại duyên khởi,
vì vậy không rời khỏi thời gian trước mà lên cao ở thời gian sau.
Thứ hai trong phần căn dục
trang nghiêm, từ xa trông thấy
Đức Phật đến, là dựa
theo Phật thì Dụng từ Thể khởi lên, dựa theo
cơ-cảnh vốn là từ tâm mà hiện. Trong đó có hai:
1-Trang nghiêm pháp tòa biểu thị cho tướng, trong đó trước là tổng quát-sau là riêng biệt, trong riêng biệt thì đầu
là Báo bên ngoài-sau là Báo bên trong.
2-Từ “Hiệp chưởng…” trở xuống là phân rõ về mong muốn của căn. Thứ ba trong phần căn duyên khế hợp cũng có hai: Trước là lợi
ích lên cao trên cung điện,
sau là lợi ích lên cao trên pháp tòa. Trong
phần trước có hai: Một
là cảm ứng đi đến, hai là thành tựu lợi ích.
Hai phần này đều có hai, đó
là cõi này và kết luận nối thông.
Trong lợi ích có hai: Đầu là vắng lặng… nêu rõ về lợi ích đạt
được Định; sau là kệ
ca ngợi về lợi ích phát sinh tuệ, trong đó có hai, một là nhớ lại hạnh vốn có, hai là tụng về đức. Trong tụng lý thật thì tất cả chư Phật quá khứ Thể cùng với
Dụng dung hòa, pháp vốn như vậy không
có hai, đều ở tại cung
điện này thuyết về pháp của Thập Trú, mà nay
lại lần lượt chỉ nói
đến mười Đức Phật là bởi vì hiển bày về vô tận, bởi
vì nói đến Thập Trú.

Ca-diếp là họ, Trung Hoa nói là Ẩm Quang.

Câu-na-hàm Mâu-ni, Trung Hoa nói là Kim Tiên Nhân.
Câu-lâu-tôn,
Trung Hoa nói là Sở Ưng Đoạn
Dó Đoạn, nghóa
là phiền não sinh tử…

Tùy Diệp cũng gọi
là Tì-xá-phù,
Trung Hoa nói là
Nhất Thiết Thắng, cũng nói là
Biến Hiện, nghóa là mọi nơi đều hiện thân.

Thi Khí, Trung
Hoa nói là Hữu Kế.
Tỳ-bà-thi,
Trung Hoa nói là Chủng Chủng Kiến, tên gọi mới là Tịnh Quán.

Phất Sa, Trung Hoa nói là
Tăng Thạnh, bởi vì không có
khuyết giảm, cũng là tên
gọi một ngôi sao.
Đề Xá,
Trung Hoa nói là Thuyết, nghóa là thường thuyết
pháp, cũng gọi là Quang.
Ba Đầu Ma,
Trung Hoa nói là Xích Liên Hoa.
Đỉnh Quang là
Phật Nhiên Đăng, Đức Phật này lúc là Thái tử
mới đản sinh, tất cả
thân mình giống như ngọn đèn đang cháy, cho nên
gọi là Thái tử Nhiên
Đăng, lúc Thái tử thành Phật cũng dùng tên gọi này. Hỏi:
Trong này, bảy Đức
Phật sau là Phật trong kiếp Trang Nghiêm ở quá khứ, vì
sao có thể ở cung
trời Đao Lợi trong kiếp
Hiền này để mà thuyết pháp?
Đáp: Cung
trời này đều có thô-có tế, thô thì kiếp trước đốt
cháy không còn, tế thì luôn luôn tồn tại; như trải qua trời người thấy
kiếp không còn, nhưng cõi
này của Ta thường an ổn… Vả lại, Tam thừa
đã nói là Diệt, Nhất
thừa đã phân rõ là Thường tồn tại.
Thứ hai trong phần lợi ích lên cao trên pháp tòa có hai, đầu
là cõi này,
sau là kết luận nối thông. Trong phần đầu có hai, đầu là lên cao trên pháp tòa,
sau là phân rõ về lợi ích. Nghóa là cung điện ấy rộng rãi, bởi vì khác với bình thường đã thấy, cho nên tình thức đã tiêu tan.
Cùng là cõi trời, vốn
là hiển bày về lý giống nhau. Lợi ích lên cao trên
cung điện trước đây là
con người, lợi ích lên cao trên pháp tòa ở đây là
nơi chốn, vốn là hiển
bày về Y-Chánh đều thù thắng.

------------------------------

<詞>Phẩm 10: BỒ TÁT VÂN TẬP</詞>
Bốn môn giống như trước.

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Bồ-tát là Thể;
Vân là Tướng, bởi
vì các Bồ-tát hàm chứa mưa pháp, bởi vì hàm
răng và nướu răng theo
nhau; Tập là Dụng, Điện là nơi quy tập. Diệu Thắng có ba nghóa:

Chúng của Đức Phật là Diệu Thắng, Diệu Thắng là cung điện.

Trong cung điện ấy thuyết về pháp vi diệu thù thắng này.

Cung điện tức là Diệu Thắng, bởi vì xứng tánh.

Nói kệ là ngữ nghiệp gọi là pháp giới, Bồ-tát như mây
mà quy tập, đều dùng biện tài tuyệt vời tuyên dương công đức của Đức
Phật, cho nên nói là
phẩm Bồ-tát Vân Tập Thuyết Kệ.

Y:Ù đưa ra, trước đây trình bày về Như Lai lên trên cõi trời
sắp
thuyết pháp, nhất định phải có cơ duyên được che phủ, cho nên tiếp tục
đưa ra. Lại trước đây trình bày về quả đức
đến với căn cơ, nay nhờ vào
lực Trợ hóa, trước là chủ-sau là bạn vốn có
nghóa theo thứ tự.
TÔNG: nghóa
là phát ra ánh sáng quy tụ chúng, nói kệ ca ngợi
làm Tông. Chúng có ba loại:

Chúng trợ hóa, đó là Bồ-tát mười phương chịu ảnh hưởng
của Như Lai.

Chúng biểu thị cho pháp, đó là các pháp đứng đầu-các pháp
trí tuệ-các pháp như rừng cây-các pháp như cột
cao… đều dựa vào con
người để biểu thị cho pháp.

Chúng đương cơ, đó là giáo đã che phủ. Văn này gồm
chung ba loại này.

TRONG GIẢI THÍCH VĂN có
ba: Một là quy tụ chúng, hai là
phát ra ánh sáng, ba là thuyết kệ.

Trong phần một có hai: Trước là cõi này,
sau là kết luận nối thông.

Trong phần trước có hai: Một- Hiển bày về đã theo đến; Hai-
Từ “Phật thần lực…”
trở xuống là trình bày về Bồ-tát đến quy tụ.

Trong phần một có hai:

Trình bày về phần lượng, trước đây là mười-bây
giờ là trăm, bởi vì hiển bày về hành vị dần dần tăng thêm. Ý trong này chọn lấy trăm thế giới
Phật nghiền vụn làm thành bụi nhỏ (vi trần), như vậy theo
phương Đông vượt ra ngoài số quốc độ như số
bụi nhỏ ấy, có một thế giới tên
gọi Nhân-đà-la; từ phương Đông nơi này lại vượt ra ngoài
số quốc độ gấp trăm lần
số bụi nhỏ như trên, có quốc độ tên gọi Liên Hoa;

như vậy hướng
về phương Đông có mười lớp thế giới, mỗi một lớp
đều vượt ra ngoài số
thế giới gấp trăm lần số bụi nhỏ. Sở dó nói
đến mười lớp, là bởi vì hiển bày về vô tận. Như mười lớp thế giới ở phương
Đông, chín phương còn
lại cũng như vậy. Thế giới Phật-tên gọi Bồ-tát…
đều giống nhau, cho nên nói là mỗi một phương đều có mười lớp thế giới…, đều nêu ra tên gọi như nhau. Đây là chỉ dựa vào Hội ở một cung
trời này, thế giới
mười phương còn lại tất cả đều như vậy, là Hội pháp
giới vô biên mà thôi,
nghóa là một Hội-tất cả các Hội…, như phần kết
luận nối thông phân rõ.

Chính thức hiển bày về tên gọi của ba thế gian ở xứ
sở này.
Thế giới ấy gọi là Tạp, vốn là biểu thị cho pháp
tướng đã giải thích không phải là một. Phật cùng tên gọi là Nguyệt, đây là tướng của quả trong
Trú, có ba nghóa: Một, dựa theo Thể là nghóa về đầy đủ trọn vẹn; hai,
dựa theo Dụng là nghóa về ánh sáng chiếu rọi; ba,
dựa theo Đức là ng-
hóa về mát mẻ trong lành. Lại đầu là Chánh Thể, tiếp là Hậu Đắc,
sau là Đại Bi, dùng Nguyệt để biểu thị
so sánh.
Bồ-tát cùng tên gọi là Tuệ,
là tướng của nhân trong Trú, đó là thông hiểu
rõ ràng về nghóa
Chân- Tục, đều hướng về Đức Phật này mà tu
Phạm hạnh, là hiển bày về nhân
dựa vào quả mà thành tựu, vốn là thuận theo nhau.

Trong phần hai là chính thức đến quy tụ, có hai:
1) Đến nơi này chào hỏi cung kính;
2) Chào hỏi cung kính rồi an tọa. Đều nói đến Phật lực là nguyên cớ đến đây an tọa,
 lực của quả gia hộ thành tựu. Đầy khắp mười phương là nghóa về duyên khởi vô ngại.
Thứ hai trong phần Tựa về phát ra
ánh sáng,
có sáu:
1) Người phát ra ánh sáng.
2) Nơi phát ra ánh sáng, đó là như ngón chân dựa
vào đất mới đứng
vững được, biểu thị cho Thập Trú này thành tựu phần vị không
lui sụt, cho nên gọi là Trú.
3) Số của ánh sáng.
4) Tướng của ánh sáng, đó là tướng tách ra rõ ràng sáng rực cho nên nói là diệu sắc, cũng là tên gọi.
5) Nơi ánh sáng chiếu rọi, đó là phẩm Quang Minh Giác trước đây đã phân rõ, lại là nơi của các văn kết luận nối thông, phẩm trước thì Phật lực hiển bày rõ ràng về các thân dưới tán cây
Bồ-đề, nay ánh sáng
chiếu rọi dưới tán cây và trên cõi trời.
6) Như Lai và Đại chúng… là trình bày do chiếu rọi mà hiển bày rõ ràng tất cả cùng
nhau làm thành một Hội
pháp giới viên minh, lại nói là đỉnh Tu-di dưới
tán cây, biết rõ điều đó.

Thứ ba trong
phần kệ ca ngợi, mười Bồ-tát tức là mười đoạn,
một vị đầu là tổng
quát, chín vị sau là riêng biệt.

Bởi vì là chủ nói pháp cho nên gọi là Pháp Tuệ, vì vậy tổng quát
thuật về đầu đuôi của Hội này để hiển bày công đức của Đức Phật.
Sau đều ca ngợi về đức
sai biệt từ trong ý chỉ tổng quát này, cho nên
tổng quát và riêng biệt
vô ngại, chỉ một thân Pháp giới của Như Lai.
Trong đó, hoặc là tức
Lý-tức Sự, tức Giáo-tức Nghóa, tức Nhân-tức Quả,
tức Người-tức Pháp,
tức Tâm-tức Cảnh, viên dung tự tại, nêu ra Thể hoàn toàn
thâu nhiếp. Những loại này tức là pháp trong
Thập Trú. Các kệ sau thích hợp dựa
theo nhận biết ý này. Trong kệ đầu phân hai:
Trước là nói về sự
việc của Hội này, sau là ba kệ giải thích nghi ngờ.
Trong phần trước: Đầu
là hai kệ nói về sự việc trong phẩm Thăng Thiên;
tiếp là ba kệ nói về
tướng quy tụ nơi này; tiếp là hai kệ nói về sự việc kết luận nối thông, trong đó trước là trình bày về nguyên cớ,
sau là hiển bày về tướng ấy. Hai là giải thích chế phục nghi ngờ, nghi ngờ
rằng: Phật quả tự tại
có thể một thân hướng đến tất cả các Hội không có
gì chướng ngại, nghó bàn
không đến được, Bồ-tát là người thuộc nhân
vị đã hạn chế không
đầy đủ, vì sao cũng có thể khắp nơi như vậy?
Trong giải thích có ba: Kệ đầu là
sơ phát tâm
sâu xa, kệ hai là tu hành
sâu
xa, kệ ba là thành tựu
công đức sâu xa, cho nên có thể khắp nơi giống như Phật.
Hai là
Nhất Thiết Tuệ, bởi vì hiểu rõ tất cả các pháp lìa xa
tướng. Mười kệ
phân năm: Một, ba kệ trình bày về Phật không phải là hư
vọng giữ lấy mà thấy,
kệ một là trình bày về Tiểu thừa Bồ-tát giữ lấy tướng thấy Phật chứ không nhìn thấy pháp chân thật,
 kệ hai là trình bày về phàm phu hư vọng nhiễm trước hoàn toàn không thấy Phật, kệ ba là trình bày về Nhị thừa tuy quán pháp mà chấp vẫn còn vướng vào
giả danh của pháp. Hai, ba
kệ trình bày về đã hư vọng giữ lấy không
thấy, thì ai có thể thấy
được? Nghóa là lìa xa hư vọng đích thực hiểu rõ
Phật thường hiện rõ
trước mắt. Trong đó, kệ một là thấy Phật chân thật;
kệ hai là không còn chủ
động-thụ động, bởi vì không có thụ động giữ
lấy cho nên không có chủ
động nhìn thấy; kệ ba là hiển bày về lợi ích của quán. Ba, một kệ trình bày về hư vọng giữ lấy có gì
sai mà không
thấy? Đó là bởi vì ngu
si tối tăm. Bốn, hai kệ trình bày về Phật chân thật
có đức gì mà vượt
lên trên hư vọng? Đó là bởi vì pháp giới thanh tịnh
bình đẳng. Trong đó, kệ
đầu là dựa theo Phật trình bày về nghóa không
sinh diệt của công đức thuộc
Tu sinh, nghóa là hai câu đầu trình bày về
công đức tướng tốt
lìa xa sinh diệt của ba đời, tức là thiết lập
Tông; hai câu sau nêu ra hai nhân
giải thích về thành tựu, một nói là dùng công
đức này trú vào căn
bản của Vô trú cho nên giống như Vô trú, lại hiển bày tức là không có tự tánh cho nên nói là Vô trú, vì vậy ngay nơi không

sinh diệt mà không phải không có công đức; một nói là nếu
Vô minh chưa hết, chướng ngại cách xa Chân như làm cho đức thuộc
Tu sinh chưa hoàn toàn giống
với Chân như cho nên có sinh diệt, nay thì ngược lại với điều này, Thỉ giác giống với Bổn giác cho nên nói là tất
cả thanh tịnh, cho nên không
sinh diệt.
Kệ sau là dựa theo pháp, bởi vì thấy
pháp duyên khởi tức là
Phật, bởi vì nhân duyên sinh tức là không sinh,
thấy lý Phật giống với
kệ thứ tư không sinh diệt thấy Phật. Năm, một kệ
sau cuối là suy ra công
đức thuộc về gốc.

Ba là Thắng Tuệ, bởi vì Tuệ thanh tịnh-Nhãn thù thắng-trí sâu xa hiểu rõ về Phật,
Trí sâu xa là thù thắng. Mười kệ
phân năm: Một, ba kệ nêu ra
sai lầm của tình thức hư vọng, kệ một là không nhận ra trí
sâu xa của Phật, kệ hai
là hư vọng giữ lấy làm chướng ngại tướng Phật,
kệ ba là không nhận ra
Ấm làm chướng ngại Pháp thân. Hai, hai kệ
phân rõ về lợi ích của
tuệ giải, trong đó trong kệ đầu nếu dựa theo Tam
thừa quán về pháp không
thật thì thấy lý Phật, Nhất thừa thì thấy thân
pháp giới của Lô-xá-na
gồm chung lý-sự; kệ sau là trình bày về Ấm chuyển Vô ngã
là Phật. Ba, ba kệ ví dụ hiển bày về
sai lầm trước đây, trong đó kệ một là tuy nhân thiếu mà duyên
sai lầm; kệ hai là tuy duyên và nhân xen tạp
sai lầm mà nói là bởi vì xen tạp Vô minh cho nên tâm
không thanh tịnh, cũng là
không có tín tâm; kệ ba là tuy duyên thiếu mà
nhân sai lầm. Bốn, một
kệ ví dụ hiển bày về lợi ích trước đây. Năm, một
kệ sau cuối là suy ra công
đức thuộc về gốc.
Bốn là
Công Đức Tuệ, bởi vì phước vốn trang nghiêm cho
tuệ. Mười kệ phân bốn:
Một, bốn kệ phân rõ về mê mờ sai lầm, kệ một
là chấp lấy tướng, kệ
hai là Kiến thủ, kệ ba là Vô minh, kệ bốn là
không có Pháp nhãn. Lại
giải thích: Hai kệ trước là dấy khởi hư vọng, hai
kệ sau là mê mờ về
pháp. Trong hai kệ trước, kệ một là chấp hư giả
làm chân thật, kệ hai là giữ lấy thua kém làm hơn hẳn. Trong hai
kệ sau,
kệ một là mê mờ tự
tâm, kệ hai là mê mờ Chân Không. Hai, bốn kệ
phân rõ về đức của
hiểu biết, kệ một là cầu Pháp nhãn, kệ hai là tâm không có gì vướng mắc, kệ ba là có mắt
thanh tịnh, kệ bốn là lìa xa
thấy về năng-sở, hai câu trước không thấy gì tức là thấy, hai câu
sau thấy tức là không
thấy gì. Ba, một kệ ca ngợi Đức Phật thuận theo pháp thâu
nhiếp chúng sinh. Bốn, một
kệ sau cuối là suy ra công đức thuộc về gốc.
Năm là
Tiến Tuệ, bởi vì lìa xa vọng tưởng phóng dật.
Mười kệ phân hai: Một, một kệ
trình bày về mất đi do ngu si hư vọng; hai, chín kệ trình bày về đạt được do trí tuệ tỏ ngộ.
Trong đó: Một kệ đầu là cùng hiểu
rõ chân-ngụy, nghóa là hiểu rõ hư vọng giả tạo
không thật, chân lý
là thật. Hai kệ tiếp là rời bỏ giả tạo quay về chân thật, đó là kệ đầu
dựa theo quán sát sở
chấp Vô tướng, kệ sau dựa theo Y tha Vô sinh. Ba
kệ tiếp trình bày về
chân thật và giả tạo cùng dung hòa, tức là Viên
thành Vô tánh, kệ một
là đều chân, kệ hai là đều mất đi, kệ ba là giải
thích về nguyên cớ không
đi cùng. Ba kệ sau cuối là giả tạo không
còn-chân thật trọn vẹn,
kệ một là không thể bàn, kệ hai là không thể nghó, kệ
ba là lợi ích của quán.
Sáu là
Thiện Tuệ, bởi vì nhận biết Phật lìa xa tâm làm hại, cho nên khéo léo trình bày về đạo
thanh tịnh. Mười kệ
phân bốn: Một, ba
kệ nêu ra thật đức của
Phật, kệ một là Tự lợi-Lợi tha tròn vẹn tuyệt
diệu, kệ hai là tích lũy
công đức mới thấy, kệ ba là cùng chung lý vượt
quá tình thức. Hai, bốn
kệ phân rõ về pháp mà Đức Phật đã nói, kệ một là hiển bày về pháp
Vô thuyết; kệ hai là trình bày về thuyết của
Vô thuyết cho nên nói không
tận cùng, lại cũng kệ trước trình bày về Vô thuyết cho nên tận cùng ngôn từ, kệ này trình bày về tận cùng ngôn từ cũng
lìa xa cho nên nói là
không tận cùng; kệ ba là giải thích về danh xưng của Đại đã thấy trước đây, trong kệ đầu trình bày về không thấy gì mà
thấy, chúng sinh là thấy,
thấy này cũng không có, trong kệ sau trình bày
về thấy mà không thấy
gì, bất hoại ấy, một là bởi vì thấy không cần
phá bỏ, hai là bởi vì
thấy lý của bất hoại, ba là bởi vì thấy Thể tức là
Chân. Ba, một kệ rưỡi
kết luận về nhận biết Phật và tướng lợi ích của
thuyết giảng trước đây.
Bốn, một kệ rưỡi sau cuối là suy ra công đức thuộc về gốc.

Bảy là Trí Tuệ, vốn là nghe giáo phát sinh trí tuệ. Mười kệ
phân bốn: Một, một kệ
phân rõ tự mình thuận theo giáo phát sinh trí tuệ, cho nên lập thành tên
gọi ấy. Hai,
sáu kệ trình bày về chúng
sinh bị tổn hại vì làm trái lý, trong đó: Hai kệ đầu tùy tiện chấp vào người và pháp
cho nên không thấy Phật,
kệ trước là người-kệ sau là pháp, nghóa là không quán
sát Thật tướng của thân. Bốn kệ
sau dựa theo phần vị trình bày về không thấy Phật, hai kệ đầu dựa theo phần vị phàm phu, kệ một dựa vào tình thức
sai lầm, kệ hai dựa vào
Chánh lý, nghóa là
sinh
tử và Niết-bàn đối
đãi nhau cho nên đều không thể có được, lại bởi vì
là Niết-bàn của
Nhị thừa, lại phần nhiễm là
sinh tử, phần tịnh là
Niết-bàn, cùng dung hòa cho nên đều không thể có được; hai kệ
sau dá»±a theo
Nhị thừa, kệ một dựa
theo mê lầm về giáo, kệ hai dựa theo giữ lấy
tướng, như Am-đề-già
quở trách Xá-lợi-phất rằng: “Ta ở trong tịnh thất,
Đức Thế Tôn thường
hiện rõ trước mắt, Nhân giả nói là A-la-hán thường
đi theo mà không thấy.”
Ba, một kệ khuyến khích khiến cho thuận theo

lý thành tựu
lợi ích. Bốn, hai kệ nêu ra pháp để giải thích về thành
tựu, nghóa là vì sao chấp
có mà không thấy Phật? Giải thích rằng: Pháp
thật sự là không có,
dùng trí Phật mong cầu thì không thể có được. Lại
nói bởi vì biết rõ
ràng tất cả các pháp ba đời là Không, cho nên
gọi là Như Lai. Vì vậy nên biết, nếu giữ lấy các
tướng thì không thấy Phật.

Tám là Chân Tuệ, là bởi vì thấy chân lý Pháp thân, lại tuệ giống như lý gọi là
Chân Tuệ. Mười kệ
phân hai: Một, hai kệ ca ngợi về danh đức của Phật, kệ một là nêu ra, kệ hai là
giải thích. Hai, tám kệ trình bày về nghóa đức của Phật, trong đó có hai: Ba kệ đầu là thông hiểu cảnh của hai Đế mà Đức Phật đã nhận biết thành tựu quán về
Pháp thân, kệ một nêu
ra đó là bởi vì giả tạo không có hòa hợp cho nên
Tục giống như Chân, kệ hai là giải thích dựa theo ba thời gian cầu
tướng hòa hợp không
được, kệ ba là thành tựu lợi ích của quán. Năm kệ
tiếp theo là thông hiểu
cảnh-trí của Phật thành tựu không còn năng hành-sở hành, trong đó có bốn: Một là
nêu cảnh-trí. Hai là mất
đi năng-sở,
nghóa là cảnh-trí một
cũng không được, hai cũng không được, chứng Như
trở lại hướng về,
không có trí ngoài Như cho nên không có chủ động
Giác, cũng không có pháp ngoài trí có thể giữ lấy cho nên không có thụ
động Giác, là pháp của
Đức Phật đã tu cho nên không có một-không có
hai. Điều này có ba nghóa:
1) Dựa theo cảnh Chân-Tục không phải là
má»™t- hai;
2) Dựa theo trí
rỗng rang soi chiếu không phải là một-hai;
3) Dựa theo cảnh-trí không phải
là một-hai, theo giải thích có thể biết.
Ba là giải thích về không
có một-hai, bởi vì cảnh-trí không có hòa hợp.
Lại nửa kệ trước là
nêu rõ về Tông, nửa kệ sau giải thích bởi vì một pháp không có chỗ dựa của chính mình cho nên trở
thành nhiều, trở thành một cũng như vậy, cả hai đều không có tánh,
sao có duyên hòa
hợp? Vả lại, Tạng tánh dựa vào duyên thì một trở
thành nhiều, các pháp dựa
vào Tạng thì nhiều trở
thành một, đều không có tự tánh, đều không có
chỗ dựa, bởi vì không
có chỗ dựa cho nên nói là sao có duyên hòa hợp,
bởi vì Thể-Dụng đều mất đi cho nên nói là người
làm ra và việc đã làm
ra đều không có. Bốn từ
“Nhược năng…” trở xuống là trình bày về quán thành tựu lợi ích, hai câu là nêu ra, bốn câu là
giải thích, nghóa là
nơi không thể nào đạt
được này là chỗ dựa của Phật, trong này không
còn năng-sở cho nên nói
là không có gì nương tựa-không có gì giác ngộ.
Chín là
Vô Thượng Tuệ, bởi vì tuệ lìa xa tướng phía trên.
Mười kệ phân ba: Một, một kệ
giải thích về tên gọi của mình. Hai, tám kệ hiển bày về đức của Phật, trong đó: Sáu kệ đầu phân rõ về đức nội
chứng của Phật, đó là một về cảnh lìa
xa thô-diệu, đức thuộc tu
sinh là thô, bởi
vì Không cho nên không tạo tác, chân lý là tế, bởi vì vốn có cho
nên không hy vọng; hai là
lìa xa số lượng-không có số lượng, hai loại
này dựa theo cảnh; ba là
lìa xa soi chiếu-không có soi chiếu, loại này
dựa theo trí; bốn là một
kệ rưỡi lìa xa nương tựa-không có nương tựa;
năm là một kệ rưỡi
lìa xa tướng một-hai. Trên đây là dựa theo cảnh-trí
cùng dung hòa. Hai kệ sau
là hiển bày về đức ngoại hóa của Phật, kệ một
là chỉ dạy khiến cho trú
vào pháp mà không có gì trú vào, kệ hai là được thấy chân thân mà không có
gì thấy. Ba, một kệ
sau cuối là
suy ra
công đức thuộc về gốc.

Mười là Kiên Cố Tuệ, bởi vì biết ân đức của Phật không thể
hoại được. Mười kệ
phân ba: Một, sáu kệ nêu ra ân đức sâu dày của Phật; hai, ba kệ vui mừng đã
gặp được; ba, một kệ kết luận ca ngợi về vô tận. Trong phần một: Một câu đầu nêu ra ân đức, những câu còn lại
giải thích hiển bày về
tướng của ân đức, một là vì chúng sinh mà xuất hiện, hai là thấy chúng
sinh rất khổ, ba là trình bày về cứu khổ thì chỉ
có Đức Phật, bốn là ban vui cũng chỉ có Đức Phật, năm là chúng của
Phật cũng có năng lực,
sáu là thấy nghe đạt được lợi ích.
 Trong phần hai là vui mừng đã gặp được có ba: Một là vui mừng mình được lợi ích,
 hai là mọi người cùng chung lợi ích,
 ba là vui mừng trở lại thấy lợi ích của trí,
cũng là kết luận về
điều mà mình đã nói. Một kệ sau cuối là tổng quát
kết luận về chín người đã nói trên đây.

-----------------------------

<詞>Phẩm 11: THẬP TRÚ A.</詞>
GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Bồ-tát là con người,
Thập Trú là pháp, nghóa là đạt
được phần vị không lui sụt cho nên nói là Trú.
Pháp của Trú thích hợp
dựa vào tròn vẹn thì nói là mười, tức là Đới
số thích. Lại nữa, mười pháp Trú này là
Bồ-tát vốn có, là
Hữu tài thích.
Lại nữa, Trú
của Bồ-tát, là Y chủ thích.
Lại nữa, Bồ-tát tức là Trú, là
Trì nghiệp thích. Hỏi: Ngoại phàm trước đây trong phẩm
Hiền Thủ chỉ dựa theo
tên gọi con người, phần
vị Thánh ở Thập Địa sau này chỉ dựa theo tên
gọi của pháp, ở trong này ba Hiền thuộc nội phàm thì con người và
pháp hợp lại làm tên
gọi là thế nào?
Đáp: Trước
đây phần vị chưa thành tựu cho nên dựa vào tên
gọi của con người và
pháp, phần vị ba Hiền còn kém cho nên con người
và pháp hợp lại làm
tên gọi, phần vị Thánh rõ ràng cho nên chỉ dựa
theo tên gọi của pháp,
đây cũng là tướng thi thiết dần dần tăng thêm.

Hỏi: Đều là con người và pháp hợp lại làm tên gọi, vì sao
Thập Hạnh-Thập Hồi Hướng
nêu ra tên gọi con người riêng biệt, trong
này đưa ra tên gọi gồm
chung con người và pháp?
Đáp: Ở
trong phần vị Hiền có ba, đó là Hạ-Trung-Thượng, đây
là Hạ phẩm, thua kém cho
nên nêu ra tên gọi gồm chung; Thập Hạnh
là Hiền thuộc Trung phẩm
vốn là tiếp theo, tuy nêu ra tên gọi riêng biệt nhưng dựa theo nghóa ít thay đổi tên gọi là
Hoa Tụ…; Hồi Hướng là Hiền thuộc
Thượng phẩm vốn là hơn hẳn, xứng với riêng biệt vốn
có nêu ra tên gọi là
Kim Cang Tràng Hồi Hướng.
B. Ý: đưa ra,
là nghóa về phần Tựa đã làm sáng tỏ, phần
Chánh tông cần phải hiển
bày cho nên tiếp tục đưa ra.

TÔNG THÚ: là pháp của Thập Trú là Tông, dựa vào đây đạt
được quả là Thú, nghóa còn lại nói như trong phần chính.

GIẢI THÍCH VĂN: ngay trong phần Chánh tông có bốn phẩm phân hai: Ba phẩm đầu là hành đức của phần vị này
(đương vị), một
phẩm sau là thắng tiến hướng về sau.

Trong phần trước, ba phẩm tức là ba đoạn: Phẩm đầu trình bày
về phần vị, phẩm tiếp
trình bày về công hạnh, phẩm sau ca ngợi về công đức. Lại đầu là hiểu rõ, tiếp là thực hành,
sau là hiển bày công
đức, giống như ba phẩm
Minh Nạn… trước đây. Hỏi:
Vì sao Hội trước không có riêng biệt thắng tiến hướng
về sau, mà trong này có? Đáp: Trong này bởi vì thành tựu phần vị, bởi vì hơn hẳn trước
đây, vả lại Tín trước
đây không có phần vị toàn bộ là hướng về, Trú vốn
là phương tiện, nay phần vị này thành tựu, vì thế cho nên có riêng
phương tiện tiến về sau. Hỏi: Nếu như vậy thì tại
sao
sau phẩm
Hồi Hướng không có thắng
tiến?

Đáp: Bởi vì
đầy đủ phần vị thế gian cho nên không cần đến. Lại tổng quát thâu nhiếp các phần vị trước, vốn là làm phương
tiện của chứng.

Ngay trong phẩm này có bảy phần:
1) Phần Tam-muội;
2) Phần gia hộ;
3) Phần phát khởi;
4) Phần căn bản;
5) Phần thuyết giảng;
6) Phần chứng thành;
7) Phần kệ tụng. Trong phần một vì sao nhập Định thì có sáu ý: Một, vì Tam-muội này là
Thể của pháp; hai, hiển bày không phải là chứng thì
không thuyết giảng; ba, hiển bày pháp này không phải là cảnh của
suy nghó; bốn,
xét căn cơ biết rõ
thuốc; năm, bởi vì được Phật gia hộ; sáu, bởi
vì hiển bày chư Phật cùng thuyết giảng.

Trong văn có bốn: Một-
Phân rõ về người nhập Định, vì sao
Pháp Tuệ nhập Định, bởi vì là đứng đầu chúng, vị khác nhập Định thì
rối loạn cho nên chúng
không điều phục được, hiển bày Pháp Tuệ ở
Thập Trú có thể thuyết
giảng; hai-Hiển bày không phải là lực của mình;
ba- Trình bày về Định đã
đạt được đó là lựa chọn quả Phật cho nên nói
là Bồ-tát, quán giải
khéo léo cho nên nói là phương tiện, tức là pháp
của Trú, phương tiện
nhiều cách cho nên nói là vô lượng, tức là mười
loại; bốn-Tiếp nhận pháp
vào tâm cho nên nói là Chánh thọ.

Trong phần hai là phần gia hộ có ba: Một-Tổng
quát phân rõ về chủ động gia hộ; hai-Hiển bày gia hộ bằng việc làm; ba-Chính thức
trình bày về tướng gia hộ.

Trong phần một có sáu:

Hiển bày xứ sở gần xa của Phật chủ động gia hộ.

Số lượng chư Phật chủ động gia hộ,
Luận nói: Vì sao nhiều Đức Phật gia hộ? Bởi vì hiển bày do pháp và
Pháp sư mà tăng trưởng tâm cung kính, lại muốn hiển bày về chư Phật cùng
thuyết giảng, là vì nương
theo thần lực của chư Phật, từ Pháp Tuệ này
thuyết giảng tức là tất cả
chư Phật thuyết giảng. Đây vốn là gồm chung hai
thuyết về nhân quả.

Hiển bày danh hiệu của Phật giống nhau thì có bốn ý: Một là trình bày về pháp đạt được vốn không khác nhau; hai là Bồ-tát ấy nghe
các Đức Như Lai cùng tên gọi với mình cho nên
lại thêm vui mừng; ba

là hiển bày nhân quả trong Trú vốn
giống nhau; bốn là chỉ riêng
chư Phật ở trong môn Trú
này chủ động gia hộ biểu hiện rõ ràng đều là
tên gọi Pháp Tuệ, bởi
vì pháp lực, bởi vì pháp vốn như vậy.

Ca ngợi đạt được Định này, mới có năng lực là lời nói mong
mỏi dâng cao, trình bày hiếm có người có thể
tiến vào Tam-muội này. Hỏi:
Vì sao chư Phật ở giữa Đại chúng khen ngợi về nhập Định

này? Đáp: Bởi vì lúc ấy
Pháp Tuệ im lặng tiến vào Định này, vì Đại
chúng không biết đã tiến vào là pháp gì, không có tâm khao
khát ngưỡng mộ, không thể nào nói cho biết, vì vậy chư Phật đưa ra tên gọi của
Tam- muội, ở trước Đại
chúng khen ngợi làm khởi tâm mong muốn ưa
thích của Đại chúng.

Từ “Thiện nam tử…” trở xuống là trình bày về đạt được Định làm chỗ dựa, nghóa là chư Phật ấy tự nói, nhờ vào lực gia hộ đã thực
hiện mà khiến cho đạt được Định này.

Từ “Hựu Lô-xá-na…” trở xuống là Đức Phật ấy tự giải thích về nguyên cớ thực hiện gia hộ, có ba câu: Một-Do lực bổn nguyện
của Lô-xá-na khiến cho Ta thực hiện gia hộ, theo Địa
Luận giải thích:
“Lô-xá-na trong quá khứ đã từng thấy có một
Đức Phật Lô-xá-na, gia
hộ cho một Bồ-tát Pháp Tuệ thuyết về pháp Thập
Trú, lúc ấy chư Phật chủ động gia hộ cùng tên
gọi là Pháp Tuệ, nhân đó liền phát nguyện: Nguyện con thành Phật cũng có
sự việc này, nay thành tựu như bổn
nguyện, cho nên gia hộ mà thôi.” Hai-Cũng là thần lực của
Lô-xá-na hiện tại cảm ứng cùng nhau gia hộ. Ba-Là tự thiện
căn của Pháp
Tuệ thuần thục, có thể thuyết pháp lợi ích cho Đại
chúng, trên cảm đến chư
Phật cho nên cùng nhau gia hộ. Tóm lược không có
lực cơ cảm của đại
chúng, ở Hội sau có đủ. Vả lại, nguyện vốn có
của Lô-xá-na hiển bày
về gốc rễ sâu xa của pháp, nghóa là từ xa xưa
đến nay tu về pháp
Trú này, nghó rằng vào lúc này vì căn cơ mà
tuyên thuyết. Uy thần lực là chính thức hiển bày về lúc này
trao truyền. Trên đây là lực của
Hóa chủ. Dưới đây là một lực của
Trợ hóa, hiển bày nhân quả cùng dung
hòa, chủ-bạn hợp lại phân rõ, để thành tựu
sự việc hóa độ mà thôi.

Trong phần hai là hiển bày gia hộ bằng việc làm, câu đầu là
tổng quát, chín câu tiếp
là riêng biệt, một câu sau cuối là kết luận,
đồng-dị- thành-hoại dựa
theo có thể biết.

Trong riêng biệt: Một- Tăng
trưởng Chân tuệ-Phật tánh vốn
có, khiến cho hướng về
quả Phật thành tựu không lui sụt; đây là dựa theo trí.
Hai- Mở thông chân lý pháp giới ở trong ràng buộc, khiến cho có

thể hiển bày
rõ ràng; đây là dựa theo cảnh. Lại vốn là khai
mở rõ ràng giải thích về lý của pháp giới.
Ba-Phân tích về tánh loại của chúng
sinh, khiến cho phân rõ
những phần vị ở Thập Trú vốn đều sai biệt, lại
biết năm tánh sai biệt;
đây là dựa theo hậu trí. Vả lại, Giới của chúng
sinh tức là
Như Lai Tạng, phân biệt vốn là hiểu rõ nhân, lại vốn là giải
thích, lại phân biệt Xứ
của một chúng sinh thì có tất cả chúng sinh và tất
cả các pháp môn…
Bốn-Dựa theo Nhất thừa, tức là đối trị diệt tánh,
diệt ba chướng-bốn
chướng-sử-tập…, Tam thừa trừ bỏ Ngã chấp của ngoại đạo, chướng ngại tăm tối trong tâm; đây là dựa theo Đoạn đức.
Năm-Vô minh chướng ngại không còn, trí tiến
sâu vào chân cảnh, cho nên nói
là tiến vào cảnh vô
ngại, lại tiến vào cảnh Nhân-đà-la cho nên nói là
vô ngại; đây là dựa
theo thắng tiến hòa vào cảnh của quả. Sáu-Khéo
léo tiến vào trí của
quả, thâu nhiếp tổng trì lẫn nhau; đây là dựa theo
tiến vào trí của quả,
tức là tiến vào trí bí mật. Bảy-Soi chiếu rõ ràng chân- tục; đây là dựa theo dụng của trí.
Tám-Biết căn của chúng
sinh
chưa thuần-thuần thục
nhiều loại, lại biết cùng là Như, lại biết một căn
tức là tất cả các
căn, như căn dục-tánh hải… Chín-Xứng với căn nói
pháp, tùy ý duy trì căn
tánh khiến cho không sai lạc, lại giữ hành không
sai lầm-giữ nghóa không
phân tán, lại giữ pháp không diệt.

Câu sau cuối kết luận, nghóa là nói rộng về pháp gì thành
tựu những sự việc như
vậy? Đó gọi là Bồ-tát Thập Trú.
Trong phần ba là tướng gia hộ, có ba nghiệp gia hộ: Đầu là gia
hộ bằng miệng khuyến
khích thuyết giảng để tăng thêm biện tài, tiếp
là gia hộ bằng ý âm
thầm che chở ích lợi cho trí, sau là gia hộ bằng
thân thì tay xoa đỉnh đầu
để tăng thêm uy lực. Vì sao trước phải gia hộ
bằng miệng? Bởi vì phương
tiện dựa vào lời nói đầu tiên.

Tiếp trong phần gia hộ bằng ý, có hai: Đầu
là gia hộ, sau là giải thích.
Trong gia hộ có mười câu, một câu đầu là tổng quát, nghóa là
khiến cho ở giữa đại chúng thuyết pháp vô ngại, tức là vô ngại giải; chín câu riêng biệt hiển bày về vô ngại.
Đồng-dị-thành-hoại có thể
dựa theo đây.
Một-Không có gì vướng mắc, vô ngại tức là biện tài
không có gì vướng mắc.
Hai-Lúc thuyết giảng không gián đoạn, nghóa là
không quên danh nghóa, tức
là tùy ý biện tài lưu loát, thuyết giảng không
cần thứ tự, ngôn từ không dứt đoạn…
Ba-Lúc thuyết giảng không xen
tạp Vô minh, bởi vì
không trái với Chánh lý. Bốn-Lý đã nói quyết định, lại bởi vì luận thuyết khác không có thể hủy hoại được.
Năm-Khéo léo trong
sáng không có
sai lầm, nghóa là bởi vì không mong cầu xấu xa như
danh lợi…
Sáu-Đối với tất cả các pháp có thể tùy thuận
thuyết giảng,
lại bởi vì thông hiểu
tất cả các nghóa. Bảy-Vượt lên trên phần vị bên
dưới, lại bởi vì người
khác không có ai có thể vượt qua. Tám-Thuyết
giảng không có gì chán ngán mỏi mệt, lại bởi vì lìa xa kiêu mạn.
Chín-Lời nói không có hủy bỏ
sai lầm, lại lời nói không có
sai lạc nghóa lý, lại lời
nói không hủy bỏ tùy tiện.
Sau là giải thích về nguyên cớ gia hộ, chư Phật có uy lực-có
Từ Bi, vì sao chỉ gia hộ cho
Pháp Tuệ mà không gia hộ cho người khác?
Giải thích có hai nhân:
Một- Bởi vì đạt được Định lực; Hai- Bởi vì
pháp vốn như vậy, nghóa là như pháp của dòng nước
chảy vốn như vậy hướng
về phía dưới, nay điều
này cũng như vậy, hễ có người có thể thuyết
giảng về pháp Thập Trú,
lý thường như vậy thần lực của chư Phật tuôn
chảy tụ vào trong đó,
cho nên nói như vậy.
Gia hộ bằng thân, xoa đỉnh đầu là bởi vì tăng thêm uy lực
cho người ấy, khiến cho
từ Định hiểu rõ, an ủi khiến cho thuyết giảng.
Vả lại, chư Phật ấy đều
không đi đến nơi này, tay cũng không dài mà
xoa đỉnh đầu của người
này. Hơn nữa, tay của chư Phật đều hoàn toàn
xoa đỉnh đầu của người
ấy mà không trở ngại lẫn nhau, là pháp không
thể nghó bàn của duyên khởi pháp giới.
Trong phần ba là phần phát khởi, có bốn ý: Một-Bởi vì đã nội chứng về pháp; hai-Bởi vì đã đạt được lực thù thắng; ba-Bởi vì
lúc thuyết giảng đã
đến; bốn-Bởi vì Định không có nói năng giảng giải,
vì vậy cần phải phát
khởi. Hội thứ nhất trước đây, Phổ Hiền bởi vì pháp của quả
sâu xa vi tế, cho nên thuyết giảng
trong Định, lại bởi vì
hiển bày về Phổ Hiền
tự tại; Hội này trình bày về nhân hạnh, cho nên
dựa vào xuất Định.
Trong phần bốn là phần căn bản, có hai: Trước là
Chứng căn bản,
sau là
Giáo căn bản; cũng là trước
Thể-sau Tướng. Trong ban đầu, trước phải hướng về các phần vị
trước-sau để phân tích, vì
sao trong Tín không có nghóa này? Bởi vì chưa thành tựu phần vị, bởi vì đây
là Thể của phần vị. Vì
sao ở đây gọi là chủng tánh cho đến Thập Địa
gọi là thiện quyết định?
Bởi vì phần vị này kém nhất dựa theo chủng tánh làm tên gọi,
Thập Hạnh tiếp tục tăng lên dựa theo chủng tánh nương tựa đã phát khởi nghiệp hạnh làm tên gọi;
Thập Hồi Hướng lại tăng lên cho nên dựa theo Đại nguyên
sau hành làm tên gọi, bởi vì hồi các hạnh trước đây hướng về
Chứng đích thực; Thập Địa đã đạt được
Chứng chân thật, chắc chắn vì vậy gọi là
Thiện quyết định. Như vậy đều là
Thể gồm chung trong phần
vị, tùy theo phần vị dần dần tăng lên mà có
sá»±

lên-xuống này, cho nên
Thập Trú-Thập Hạnh không có Đại thiện quyết định là bởi vì yếu kém. Lại bởi vì ba Hiền thuộc
phẩm Trung-Hạ, bởi
vì yếu kém nhất cho nên
chưa phân rõ về Đại Dụng này; lại bởi vì Tự
lợi tăng lên, lại bởi
vì dựa theo chủng tánh chưa hiện hành.

Nghóa của chủng tánh sơ lược đưa ra ba môn:

Giải thích tên gọi, chủng là nghóa về nhân, tánh là nghóa về Thể; lại tánh là nghóa về Tộc, gọi là chủng tộc; lại tánh là nghóa về
Loại, gọi là chủng loại.

Đưa
ra Thể có hai: a) Tánh của Tánh chủng, b) Tánh của
Tập chủng. Tánh chủng có hai môn: Một là dựa theo Hữu vi
Vô thường môn,
như luận Du-già nói: “Sáu xứ thù thắng từ vô
thỉ lần lượt chuyển tiếp
do pháp vốn như vậy mà có được…” Hai là dựa
theo Vô vi Thường trú
môn, như luận Bảo Tánh nói: “Tánh Chân như là
như trong kinh nói về
sáu căn tụ…” Tập tánh có-không có: a-Dựa theo
Hộ Nguyệt nói chỉ là
tánh vốn có; b) Thắng Quân nói chỉ là Tập tánh;
c) Hộ Pháp nói có đủ
hai loại; d) Như duyên khởi đều xa lìa.

Các môn phân biệt làm năm môn: Một là dựa theo
Tánh-Tập trước sau, hai là dựa theo năm tánh, ba là dựa theo
sáu tánh, bốn là dựa vào phần vị, năm là các giáo đều như giải thích
riêng biệt. Lại phẩm
Tánh Khởi nói: Bồ-tát Ma-ha-tát tự biết trong
thân đều có Bồ-đề của tất cả chư Phật. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tâm của Bồ-tát ấy không lìa
xa Bồ-đề của tất cả Như Lai. Như trong tâm mình,
trong tâm của tất cả chúng
sinh cũng lại như vậy, vô lượng vô biên, không nơi nào không có,
không thể phá hoại, không thể nghó bàn.”

Trong văn có sáu câu: Một
câu đầu là tổng quát, đó là trong
năm chủng tánh lựa chọn
loại bỏ tánh khác, cho nên nói là chủng tánh Bồ- tát. Năm câu
sau là riêng biệt hiển bày về nghóa của
chủng tánh:
1) Rất sâu xa là nghóa về sâu kín tónh mịch, một là dựa theo tánh Hữu vi,
bởi vì tận cùng thời
gian vị lai; hai là dựa theo tánh Vô vi, bởi vì pháp tánh Chân như lìa
tướng-lìa tánh; ba là dựa theo Dụng, bởi vì
sinh ra
công đức thù thắng
không thể hết được; bốn là xuyên suốt, bởi vì giống
với quả Phật. Vả lại,
soi chiếu cùng tận vượt xa nói là sâu xa (thâm),
hoàn toàn không có đáy
nói là rất (thậm), sâu thẳm vô cùng cho nên nói là rất
sâu xa
(thậm thâm).
2) Rộng lớn là nghóa về chứa đựng, nghóa về khắp nơi,
 nghóa về không giới hạn; ở trước tức là sâu xa không có đáy,
 ở đây tức là rộng lớn không có bờ.
 Đây là gồm chung các pháp như Hữu vi-Vô vi, chủ động
sinh-thụ động sinh, nhân-quả…, dựa theo riêng
biệt để hiển bày.
3) Sánh bằng pháp giới là nghóa về thắng thiện, đó là bởi vì như pháp giới hoàn toàn rõ ràng, lại bởi vì đầy đủ tất cả các pháp như người-pháp,
giáo-nghóa, nhân-quả, lý-sự…
4) Sánh bằng hư không là nghóa về nhân thiện, đó là bởi vì thành tựu nhân quả Vô thường-Ái cho nên giống như hư không. Bởi vì ở Địa tiền lược qua nhân
quả Vô thường, lại cũng bởi vì
sâu xa ở trên cho nên
sánh bằng pháp giới, rộng lớn cho nên giống như hư không, hoặc đều gồm chung cả hai,
hoặc khác với trên có
thể biết.
5) Là nghóa về không yếu hèn, bởi vì sinh ra từ trong chủng tánh Phật. Cũng là nghóa giải thích về tên gọi của chủng tánh, lại cũng được chư Phật sinh ra từ trong
tánh Bồ-tát. Lại là
giải thích những câu
trên, đó là vì sao có thể biết sâu rộng như pháp
giới…? Giải thích rằng:
Bởi vì là chủng tánh của ba đời chư Phật có thể
sinh
ra tất cả Bồ-tát…
Hai là trong phần hiển bày về tướng, có ba: Một-Nêu ra
số để
dẫn chứng, nghóa là quả
của chư Phật ba đời, tất cả đều nhờ vào nhân của Thập Trú mà cảm được, như con đường của nhà vua đi thẳng tắp
không có ngã rẽ, cho nên
nói là cùng thuyết giảng. Hai-Nêu ra tên gọi, nghóa là tất cả trọn vẹn như nhau để trình bày về
mười chủng.
Ba-Kết luận về thuyết giảng.

Trong này, nghóa về Thập Trú sơ lược đưa ra mười môn:
Một-Giải thích
tên gọi; hai-Phân rõ về Thể; ba-Trình bày về thân đã nương
tựa; bốn-Hạnh đã thực
hành; năm-Cảnh đã quán sát; sáu-Chướng đã lìa
xa; bảy-Đức đã thành tựu; tám-Pháp đã nương
nhờ; chín-Phần vị đã
thâu nhiếp; mười-Quả đã thành tựu.
Một là giải thích tên gọi, có hai:
Một-Tổng quát về tên gọi
như trước giải thích.
Trong riêng biệt:
1) Đó là dựa vào ngoại phàm,
mười ngàn kiếp nay tu
tập thiện căn của Tín thực hành đầy đủ phương
tiện, đối với Đại
Bồ-đề khởi tâm quyết định tiến vào phần vị không lui
sụt, cho nên nói là Sơ
phát tâm, Sơ phát tâm tức là Trú, là Trì nghiệp thích. Đây là Tín thành tựu phát tâm trong luận
Khởi Tín.
2) Tập trung rèn luyện tâm này khiến cho lìa xa cấu nhiễm trở thành trong sáng, cho nên nói là Trị địa, nghóa là rèn luyện sửa trị tâm địa.
3) Khéo léo quán sát Không-Hữu mà huân tu về Chánh hạnh, cho nên nói là Tu hành.
4) Chủng tánh tôn quý sinh vào nhà Phật, cho nên nói là Sinh quý, nghóa là nương vào đây mà làm phần vị vô lậu.
5) Khéo léo không vướng vào Chân, khởi tâm Bi mẫn đối với chúng sinh, kèm Chân tùy theo Tục,
 hai loại này hợp lại quán sát lìa xa giới hạn (biên) khéo léo đầy đủ, cho
nên nói là Cụ túc, Trú
này giống như Địa thứ năm khó kết hợp
Chân-Tục mà có thể kết
hợp.
6) Quán sát pháp không hai, đã dần dần thuần thục
nghe ca
ngợi-hủy báng Phật… mà tâm không lay động, cho nên nói
là Chánh tâm. Tâm tức
là Chánh cho nên nói là Chánh tâm, lại Chánh
là cảnh, tâm là trí,
dùng tâm trú vào Chánh lý cho nên nói là Chánh tâm.

Chỉ và Quán cùng vận dụng, duyên không có thể hủy hoại, cho nên
nói là Bất thối, Trú này giống như hai hành tướng của Địa thứ bảy.
8) Ba nghiệp sáng ngời lìa xa cấu nhiễm giống như trẻ thơ, hành động và tính cách của trẻ thơ có được mà pháp không có thể ngăn chặn, cho nên nói là Chân, Trú này giống như hạnh không có
công sức vận dụng của Địa thứ tám.
9) Ứng với cơ khéo léo thuyết giảng, thừa kế nối dõi
Pháp Vương, cho nên nói là Tử. Phần vị
Thập Trú đầy đủ thì thành tựu
Trí thân, dùng nước pháp của chư Phật để rưới trên đỉnh đầu của vị ấy, cho
nên nói là Đảnh. Nếu dựa vào Viên giáo, thì
phần vị Quán Đảnh này
đầy đủ tức là thành Phật, lại không có Thập
Hạnh…, như văn sau nói ở phần Tỳ-kheo Hải Tràng.
Nếu theo giáo của Tam thừa thì không như vậy,
 chỉ là tướng của Giải chưa chứng được Chân, cho nên được tên gọi có ba,
 đó là Trú thứ tư-thứ tám-thứ chín-thứ mười thuận theo dụ làm tên gọi,
 Trú thứ bảy dựa theo lìa xa lỗi lầm mà được tên gọi, những Trú còn
lại đều dựa theo công năng mà làm tên gọi, có thể biết.

Hai- Trình bày về Thể tánh thì đưa ra ba môn:
1) Dựa theo nơi nương tựa thì dùng
Tam-muội Vô lượng phương tiện làm Thể, bởi
vì dựa vào Định này mà
nói về Thập Trú, cho nên về sau Luận nói:
Tam- muội này vốn là
Thể của pháp.
2) Dựa theo căn bản thì dùng chủng
tánh rất sâu xa… trước
đây làm Thể, bởi vì những chủng tánh ấy là Thể
của Thập Trú này, nhưng
tùy theo phần vị nói là mười, mà không có
tánh riêng biệt.
3) Khắc tánh dựa theo duyên thụ động thì dùng hai
đế Chân- Tục, dựa theo duyên chủ động thì dùng hai
hành Bi-Trí, những hành quyến thuộc còn lại đều do loại này
thâu nhiếp.
Vả lại, cảnh
Chân-Tục cùng dung hòa, Bi-Trí chỉ là một, hai loại này lại đầy đủ cùng dung hòa, pháp giới không có
chướng ngại, đầy đủ đức tự tại là
Thể của Trú.
Đây là dựa theo Viên
giáo phân rõ(còn lại đưa ra ở môn riêng biệt).
Trong phần năm là phần
thuyết giảng,
Thập Trú có hai phần:
Một- Phần quả viên dung không thể nói được.
Hai- Phần nhân tùy theo
thuyết giảng có hai phần:
1) Dựa theo hành tự Thể của Phổ Hiền;
2) Dá»±a
theo tướng phần vị của
Phổ Hiền, phần này có hai phần: a) Phần vị
A-hàm như phẩm này nói, b) Phần vị Chứng như phẩm
Thập Địa nói. Nay ở đây chủ yếu nói đến phần vị A-hàm, trong đó có hai: Đầu là trình bày
về phần vị thâu nhiếp
Thể, sau là phân rõ về phần vị tùy theo Tướng.
Trong phần đầu giải thích về
Thập Trú tức là mười đoạn, mỗi một
đoạn đều
có hai, đó là trước nêu ra-sau giải thích. Trong giải thích
đều có hai: Một- Tu hành
là tướng riêng biệt của Trú, bởi vì trong mỗi
một Trú đều tu một
hạnh; hai-Quán giải là tướng riêng biệt của Trú, bởi vì các Trú đều có tướng giải ngộ. Trong phần một đều có hai: Đầu là hành thuộc
Tự phần, sau là học mười pháp làm hành
Thắng tiến. Trong hành Thắng tiến đều có hai: Trước là
Chánh tu, sau từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về ý của tu. Trong đó văn tướng thứ nhất-thứ mười
thêm vào bởi vì đầu
là công hạnh vốn có cho nên dựa vào nhiều duyên,
sau là phần vị đầy đủ cho nên công đức
sâu rộng.
Lại giải thích:
Trong mỗi một đoạn đều có hai, đó là nêu ra và
giải thích. Trong giải thích đều có ba: Một là trình bày về hành tiến vào Trú, hai là học mười pháp
làm hành thanh tịnh của
Trú, ba là Trú đầy đủ đạt được quả. Dựa theo
Địa Luận thì các Địa
đều có Nhân-Thể-Quả ngay trong nhau, tiến vào
Trú là Nhân, thanh tịnh
Trú là Thể, Trú đầy đủ là Quả, đều có thể biết.
Nay lại dựa vào trước giải thích.

Trong Trú thứ nhất: Trước
là nêu ra tên gọi, sau là giải thích về nghóa.

Trong giải thích về nghóa có hai: Trước
trong hành riêng biệt có
hai, trước là Tự phần, sau là Thắng tiến.
Trong phần trước có hai: Một là trình bày về hạnh căn bản,
đó là phát tâm Bồ-đề
làm căn bản của Thập Trú, chỉ chuyển tâm này
dần dần tăng thêm thù
thắng mà thành tựu các Trú sau. Hai là pháp đã đạt được.

Trong phần một: Đầu là
sáu câu nêu ra duyên đã dựa vào của
phát tâm, tiếp là một
câu trình bày về Thể của tâm đã phát, tiếp là một câu trình bày về
sự mong cầu của phát tâm,
sau cuối là một câu trình bày
về không lui sụt trở
lại. Lại giải thích: Đầu là sáu câu giải thích về
phát, tiếp là một câu
giải thích về tâm, tiếp là một câu giải thích về
Bồ-đề, sau cuối là một câu giải thích về nghóa của Trú.
Trong sáu câu
trước, hai nơi nghe thuyết
pháp: Đầu là nghe người khác thuyết giảng, sau là nghe
Phật thuyết giảng. Lại đầu là trước nói tóm lược,
sau là nói
mở rộng. Lại đầu là
nói về pháp của nhân, sau là nói về pháp của quả.
Lại bảy duyên phát tâm
dựa theo phân rõ. Lại luôn luôn không quay lại
là chọn lựa khác với ngoại phàm.
Hai là trong pháp đã đạt được:
1) Phần là nghóa về nhân, đó là do
sơ phát tâm mà đạt được nhân thành tựu về pháp của quả mười
Lực, đây là dựa theo Thỉ giáo phân rõ.
2) Phần là nghóa chưa tròn vẹn, đó là do tiến vào Trú
không lui sụt cho nên bắt đầu sinh vào nhà Phật, đạt
được một
phần Thể của Phật, nghóa là đối với mười Lực tùy phần
mà đạt được, đây là dựa theo Chung giáo phân rõ.
3) Phần tròn vẹn vô ngại cho nên đạt được phần tức là đạt được tròn vẹn,
 nhưng bởi vì ngay trong môn Phổ Hiền phân rõ, là nhân mà không phải là quả, cho nên nói là phần. Trong này đối
với Lậu tận cũng đạt được từng phần là dựa
theo giáo mà biết. Lại
mười Lực này, trong Tiểu thừa đến quả Phật mới đạt được, trong Tam thừa thì Địa thượng mới đạt được từng phần,
Nhất thừa tiến vào phần vị liền đạt được.
Hai là trong Thắng tiến có hai: Trước là chính thức phân rõ,
sau
là giải thích thành tựu.
Trong phần trước có mười câu:
1) Cúng dường
chư Phật.
2) Ca ngợi các Bồ-tát có thể rời bỏ niềm vui của mình chịu đựng khổ đau để mong cầu quả vị.
3) Dùng pháp thù thắng vi diệu giáo hóa các
chúng sinh, không để cho tâm họ rơi vào phần vị phàm
phu Tiểu thừa, cho nên nói là bảo vệ, lại bảo vệ thiện căn làm cho được
tăng trưởng.
4) Dá»±a theo
tụng dưới là thứ ba thường ca ngợi Hiền Thánh, ở đây nói gần gũi thì đây là dựa theo
Tự lợi, tụng dựa theo
Lợi tha, đó là tiến lên mà
thường ca ngợi.
5) Ca ngợi pháp thanh tịnh vi diệu, các ma không phá hoại cho nên biết là không
lui sụt.
6) Dùng công đức của Phật để an
lập Bồ-tát, cho nên nói là tu, điều này thuận với tụng.
7) Khéo léo giáo hóa chúng sinh làm cho được thấy Phật, cho nên nói là ca ngợi sinh ở trước chư Phật.
8) Cố gắng tu Tam-muội để chỉ dạy
chúng sinh, cho nên nói là
phương tiện.
9) Chuyển vòng xoay diệu pháp,
diệt vòng xoay sinh tử,
cho nên nói như vậy.

10) Làm nơi trở về trong lành cho chủng loại khổ đau sinh tử. Lại giải thích:
9) Khiến cho lìa xa Vô thường-Khổ,
10) Khiến cho chúng sinh đạt được Thường-Lạc. Mười câu này đều dựa theo văn
tụng ở sau mà biết rõ.

Hai là trong
giải thích về ý, trước là nêu ra-sau là giải thích.
Nêu ra rằng phát tâm
Bồ-đề rồi, vì
sao lại cần phải học mười hạnh này?
Giải thích có ba nghóa:
1) Bởi vì muốn khiến cho tâm này càng thêm thù thắng;
2) Bởi vì khiến cho kiên cố;
3) Bởi vì khiến cho thành tựu quả.
 Lại một là khiến cho nhân của Tự phần vững chắc,
 hai là Thắng tiến càng tăng thêm,
 ba là cuối cùng thành tựu quả Phật, cho nên cần phải học.
Hai là trong
tướng giống nhau trình bày về ngộ cần phải nhờ vào duyên, cho nên nói là có pháp được nghe; hiểu biết từ bên trong phát ra, cho nên nói là tỏ ngộ không nhờ vào nơi khác.
Nhưng nghóa về nơi
khác có ba: Một là giáo
Tiểu thừa, hai là ở ngoài tâm, ba là ở
ngoài tánh. Tự
hiểu cũng có
ba, ngược lại với trước có thể biết. Vì vậy
văn sau nói
tuy biết tất cả pháp, tỏ
ngộ không nhờ vào nơi khác, mà cầu thiện tri
thức không hề có thỏa
mãn đầy đủ. Trong các Trú sau tùy theo phần vị
dần dần tăng thêm, nghóa
đều giống như ở đây.

Trong Trú thứ hai: Một-
Mười tâm trong Tự phần có hai nghóa, một là hễ
đối với một chúng sinh thì khởi lên mười tâm này bởi vì hiển bày về vô tận, hai là bởi vì phân rõ về tướng
sai khác của mười tâm cho nên trình bày ở nơi mười loại chúng
sinh mà khởi lên:
1) Đối với chúng sinh oán ghét thì không nghó đến trả thù.
2) Đối với chúng sinh nhận chịu đau khổ.
3) Đối với chúng sinh thiếu thốn vật dụng
sinh hoạt.

4) Vì chúng sinh bất thiện khiến cho trú vào thiện hạnh, Luận nói An là thuộc về nhân, Lạc là thuộc về quả.
5) Đối với chúng sinh đạt được nhân Thiện-quả Lạc.
6) Đối với chúng sinh có lưu chuyển, hóa độ khiến cho phát tâm.
7) Đối với chúng sinh mới phát tâm.
8) Đối với chúng sinh tu đạo Bồ-tát thiếu kém hơn mình thì thâu nhiếp khiến cho giống như mình,
9) Người giúp mình học hỏi thì tôn sùng giống như bậc thầy.
10) Người đức có phần hơn mình thì tôn kính giống như đối với Đức Phật.
 Mười tâm này đều giải thích như trong Tập quả của Địa thứ hai. Hai, Mười hạnh trong
Thắng tiến, một hạnh đầu là tổng
quát, nghóa là nếu không đa văn thì hành không có chỗ dựa, lại lấy gì để giáo hóa
chúng sinh, cho nên cần phải tu tập; chín hạnh còn laị
là riêng biệt:
1) Nêu ra ý mong cầu đa văn, lại là rời bỏ ham muốn của mình.
2) Gần gũi thiện hữu.
3) Thuận theo sự chỉ dạy ấy.
4) Không thưa hỏi không đúng lúc.
5) Không sợ không đạt được pháp, lại không sợ pháp sâu xa.
6) Hiểu về nghóa sâu xa.
7) Thông hiểu Chánh giáo.
8) Ở trong giáo nghóa chọn lấy pháp để tu hành.
9) Dựa vào
pháp đích thực tu
tập, lìa xa chướng ngại,
thành tựu công đức, cho nên nói là bất động.
Văn sau giải thích rằng dùng mười hạnh này tu tập Từ Bi đối trị… khiến cho
càng thêm nhiều, cho nên
cần phải tu tập.

Trong Trú thứ ba: Một,
Mười câu thuộc Tự phần là hành bảo
vệ phiền não, nghóa là trong này khiến cho hành không dừng lại, vì
vậy tổng quát trình bày
về nghóa Vô thường:
1) Một câu đầu là tổng quát, Vô thường là không có vật gì có thể là Thường,
 đó là tự tánh không có thật, ba tánh như Vô thường… dựa theo đây.
2) Khổ đó là năm Uẩn hoàn toàn trống rỗng là Khổ…
3) Không đó là ba vô tánh-chân lý Không…
4) Vô ngã đó là không có hai Ngã, Lại đối với Ngã-Vô ngã mà không hai…, đầy đủ như Yểm-đề-già nói.
5) Hệ thuộc nhân duyên không
thể nào tự có tồn
tại.
6- Pháp thế gian là tướng bất tịnh xấu ác hư vọng, lại bởi vì mau chóng diệt mất cho nên niềm vui không đến được.
7) Thành tựu không có gì tụ tập, hư hoại không có gì phân tán.
8) Không có thật nhưng làm tên gọi, lại không có thể dừng lại trong
khoảnh khắc.
9) Tướng có mà Thể không có gọi là hư, chấp hư làm thật gọi là vọng; lại không có thật cho nên hư, giả làm thật cho nên vọng.
10) Pháp thế gian mau chóng diệt mất, cho dù dụng tâm ngăn ngừa bảo vệ mà cũng không có thể làm cho tồn tại.
Lại giải thích:
Trong duyên không có lực cho nên nói là không có tinh cần, bởi vì không có lực cho nên không có hòa
hợp, không có hòa hợp
cho nên không có kiên cố. Mười loại Vô thường
này như trong luận giải thích về Địa thứ ba.

Hai, Mười câu trong phần Thắng tiến là hành bảo vệ Tiểu
thừa, trong đó một câu
đầu là tổng quát, nghóa là phân biệt giả danh
không thật… của chúng
sinh, lại phân biệt chủng loại sai biệt…, chín câu
còn lại là riêng biệt:
Câu một là biết về pháp giới nhiễm tịnh-hoặc nghiệp của chúng
sinh
sai biệt; câu hai là biết về nơi chốn nương tựa khác nhau của
chúng sinh; tiếp bốn câu là biết về bốn Đại thành tựu chúng
sinh khác nhau; tiếp ba câu là biết về ba cõi khác nhau, chúng
sinh thô
tế khác nhau.
Lại giải thích: Câu thứ ba là tổng quát biết về y báo, tiếp đến bốn Đại là đưa ra Thể của căn khí, tiếp đến ba cõi là phân rõ
về Tướng của căn khí,
đều phân biệt tức là trống rỗng và sai biệt…
Trong giải thích nêu ra
rằng trước đây chỉ có quán về Vô thường-Không…,
vì sao lại khởi lên phân biệt như vậy? Giải thích rằng bởi vì ngay nơi
trống rỗng mà phân biệt
về sự mới làm cho Tuệ sáng suốt rõ ràng.

Trong Trú thứ tư: nêu
ra và giải thích tên gọi có thể biết.
Trong kinh Pháp
Hoa nói: “Từ miệng
Phật sinh ra, từ pháp giáo hóa
sinh
ra…” Một-Mười câu về
Tự phần giống như mười loại Pháp trí trong Địa thứ tư. Ba câu đầu là thâu nhiếp tâm tiến vào lý để tu về hạnh Chỉ:
1) Chứng tâm hướng về Phật;
2) Tận cùng nguồn gốc của pháp;
3) An tâm phù hợp với pháp. Bởi vì đây là dựa vào phần vị xuất thế, đối với
Tam Bảo đạt được Tín
thanh tịnh bất hoại.
Bảy câu
sau là
soi chiếu thông hiểu
sự tướng để tu về hạnh Quán:

1) Phân tích về chủng loại đã giáo hóa có nhiều loại;
2) Ứng với cơ hiện rõ quốc độ sai biệt không phải là một;
3) Y báo nhiễm tịnh của chúng sinh khác loại;
4) Nghiệp có thiện ác không giống nhau;
5) Quả có khổ vui khác nhau;
6) Sinh tử có bảy loại sai biệt;
7) Niết bàn có hai-bốn- năm khác nhau. Đều đối với những loại này phân tích mà hiển bày về Không và tụ loại sai
biệt, hai nghóa dựa theo đây. Lại giải thích:
Trong bảy câu, một câu là tổng quát nêu ra Chánh báo
nhiễm tịnh, tiếp hai câu
là Y báo
nhiễm tịnh, tiếp hai câu là nhân quả nhiễm tịnh, tiếp hai
câu là phần vị nhiễm
tịnh có thể biết.

Hai, Mười câu trong phần Thắng tiến: Ba câu đầu là tìm tòi
suy nghó để chọn lựa, ba
câu tiếp là chọn lựa rồi chính thức tu tập, ba câu tiếp là tu tập đã thành tựu đầy đủ, một câu
sau cuối là tổng quát kết luận không có hai.
Lại giải thích: Ba câu đầu là
Giáo pháp, ba câu tiếp
là Hành pháp, ba câu tiếp là
Quả pháp, một câu
sau cuối là
Lý pháp. Nêu ra giải thích có thể biết.

Trong Trú thứ năm:

Má»™t, Trong Tá»±
phần, một câu đầu là tổng quát, chín câu còn
lại là riêng biệt. Trú
thứ hai trước đây phát khởi tâm này, Trú này nêu
ra thiện căn, hiển bày
việc đã làm dần dần chín muồi cho nên riêng
biệt. Trong chín câu
riêng biệt:
1) Khiến cho tu thiện hạnh;
2) Khiến cho đạt được quả vui sướng;
3) Không khiến cho đắm vào vui sướng;
4) Khiến cho tu đạo xuất thế;
5) Khiến cho nơi đã sinh ra xa lìa tám nạn…, lại khiến cho xa lìa những nạn như phiền não-nghiệp…;
6) Cuối cùng mong muốn khiến cho ra khỏi các khổ như Phần đoạn-Biến dịch…;
7) Chỉ rõ dùng Chánh pháp để
diệt trừ không tin và nghi ngờ cho nên vui mừng;

8) Trao cho ba Học để khống chế điều phục đi đến tu tập;
9) Khiến cho đạt được quả của Học, cũng là bảy Trí-tám Định. Hai, Mười quả Đoạn trong Thắng tiến về Học:
1) Bởi vì không có đối trị cho nên sinh tử không giới hạn;
2) Đây là dựa theo quá khứ-vị lai cho nên làm thành hai câu;
3) Dá»±a theo
Khổ hiện tại;
4) Dựa theo mười phương, lại dựa theo
Thể tánh, lại dựa theo căn dục;
5) Dá»±a theo
hai cõi dưới;
6) Dựa theo cõi
Vô sắc, lại dựa theo nhiều
chủng loại;
7) Dựa theo tánh Sở chấp; 8 và
9) Dựa theo tánh Y tha, nghóa là câu trước dựa
vào duyên, câu sau không
có thật, lại đầu là không có tánh-sau tựa như có;

10) Dá»±a theo
Như Lai Tạng Không trong Viên thành thật để phân
rõ. Lại
7) Dựa theo Vô
tÆ°á»›ng,
8) Dựa theo Vô sinh,
9) Dựa theo Vô tánh,

10) Tổng quát kết luận về ba Vô tánh. Sau là trong giải thích về không có nhiễm trước có hai nghóa:
1) Đã dùng thiện căn cứu giúp thâu nhiếp
chúng sinh, dùng pháp
Học nhận biết về chúng
sinh vô biên… cho nên tâm không vướng vào phạm
vi giới hạn…, tức là
hai tâm rộng rãi và bình thường.
2) Học nhận biết về Không… cho nên không chấp trước, thật là tâm không điên đảo, bởi vì những pháp Học này
làm cho Từ Bi… trước đây mới có thể thuận
theo lý thực hành tăng
lên, vì vậy cần phải học.

Trong Trú thứ sáu: Mười câu trong
Tự phần, bốn câu đầu dựa

theo tâm cung
kính Tam Bảo mà tu pháp quán bình đẳng, ba câu tiếp dựa theo tâm thương xót chúng
sinh mà tu pháp quán bình đẳng,
ba câu sau dựa theo nhận
biết về pháp giới mà sáng tỏ về pháp quán bình đẳng. Bởi vì lời khen ngợi-chê bai đều từ duyên khởi và không có
tự tánh, lý của Vô
tánh là cảnh quán này, cho nên Bất động gọi là
Chánh tâm trú. Lại nữa,
Phật có đủ công đức thù thắng thì lý nên ca ngợi,
cho nên nghe ca ngợi không
lay động, nếu chấp Phật là có tình thức thì
đã trái với Chánh lý,
cho nên nghe chê bai không lay động. Vả lại,
tướng chê bai làm cho
không còn, lý ca ngợi làm cho hiển bày, cho nên đều là
Bất động. Vì vậy trong
kinh ThÆ°Æ¡ng
Chủ Thiên Tử nói: “Lại tiếp tục hỏi
Văn Thù Sư Lợi: Nếu lại có người chê bai điều Đại Só đã nói thì
lúc ấy sẽ thế nào? Đáp
rằng: Sẽ hướng về Niết-bàn. Lại hỏi: Vì sao đưa
ra cách nói như vậy? Đáp
rằng: Tất cả không có, ngôn ngữ không chê bai mà có thể đến được trong giải thoát của bậc Thánh, nguyên cớ thế nào?
 Bởi vì trong Thánh đạo ấy không có danh tự-chương cú-ngôn ngữ có thể giảng giải-có thể nêu rõ, nếu không tin thì những người ấy
sẽ
không giải thoát.
Lại hỏi: Vì sao đưa ra cách nói như vậy? Đáp rằng:
Bởi vì không thể nào đã
được giải thoát lại tiếp tục được giải thoát, lại bởi vì pháp giới tùy theo chứng có
sâu cạn, cho nên nói là
lượng-vô lượng,
thế giới nhiều cho nên
nói là pháp giới thành-hoại.” Vì vậy trong tụng
nói thế giới thành-hoại,
Không-Bất Không là có-không có. Bởi vì đạt
được mười loại tâm
quyết định này, cho nên đối với duyên nghịch thuận đều không thể nào lay động. Ở trong phần vị này có thị hiện
lui sụt, là bởi vì dẫn dắt
sơ tâm
lười nhác…, như
Xá-lợi-phất Pháp Tài Vương…, cho
nên Trú thứ bảy mới gọi là Bất thối.

Trong mười Thắng tiến: 1,2,
3) Ba loại đầu dựa theo quán ba
Vô tánh;
4) Dựa theo hoặc
nghiệp;
5) Dựa theo quả báo;
6) Dựa theo chủ động hiện bày;
7) Dựa theo thụ động hiện bày;
8) Không có Thể;
9) Hiện bày chân thật;
10) Duyên tụ tập.
Lại giải thích: Mười loại
này đều lần lượt
chuyển tiếp giải thích về nghi ngờ. Người nghi ngờ
nghe về pháp Sở chấp
không có tướng liền cho rằng Y tha là có. Giải
thích là bởi vì thuận
theo duyên không có tánh. Lại nghi ngờ đã không có
Y tha, Chân như ở trong
ràng buộc lẽ nào không cần phải tu để hiển bày hay
sao? Giải thích là bởi vì tánh thanh tịnh cho nên không cần
phải tu. Lại nói rằng
Chân nếu là tánh thanh tịnh thì nghiệp-phiền não… lẽ nào không đoạn trừ hay
sao? Giải thích là bởi vì không vốn có.
Nghi ngờ rằng nếu như vậy thì vì
sao hiện tại có
Y-Chánh quả báo?
Giải thích là bởi vì
dựa vào Chân mà không thật. Lại nói nếu pháp thế gian
không thật
thì chân lý làm chỗ dựa cho các pháp, điều này phải là
có? Giải thích là bởi
vì như hư không làm chỗ dựa cho Sắc…, nhưng tự
Thể không phải là có. Lại nói chỗ dựa nếu không có thì các pháp tự
động dựa vào lẽ ra
phải có? Giải thích là bởi vì Y tha không có tự tánh.
Lại nói nếu như vậy thì
lẽ ra hủy hoại nghiệp quả? Giải thích là bởi vì
như huyễn. Lại nói nếu
như vậy thì người thế gian sao không thấy là
huyễn mà thấy là thật?
Giải thích là bởi vì còn trong mộng. Lại nói mộng
thì thấy cảnh mộng, tỉnh
rồi thì không thấy, pháp thế gian không phải
như vậy, phàm Thánh cùng
thấy? Giải thích là như tiếng vang tuy lớn
nhỏ đều nghe, nhưng hiểu
rõ và không hiểu rõ khác nhau. Nguyên cớ
thế nào? Hỏi rằng trước
nghe mười pháp thì tâm nhất định không lay
động, đã thuận với
Chánh lý, đâu cần phải trở lại quán như vậy…?
Giải thích là bởi vì muốn tiếp tục tiến
sâu vào khiến cho đạt được Nhẫn không
lui sụt của phần vị sau.

Trong Tự phần của Trú bất thối thứ bảy: Tâm
kiên cố không lay chuyển cùng với Chánh tâm trước đây khác nhau thế nào?
Giải thích là trước đây
Chánh tâm tiến vào lý, nay lý-sự không lui sụt, bởi vì từng niệm thuần thục cùng hiện rõ trước mắt, cho nên giống như Địa thứ bảy. Lại có thể phần vị trước thông hiểu
sự tiến vào lý, đây là cùng
hành; phần vị sau từ lý
hướng về sự, bởi vì dần dần thuần thục. Do đó,
phần vị trước chỉ ở
nơi Tam Bảo… nghe ca ngợi không vui mừng, nghe
chê bai không buồn rầu,
hãy còn chưa có thể nghe về có và không có,
bởi vì không chịu nổi.
Trong Trú này nghe về có-không lợi-hại, càng thêm
kiên cố không lay động, cho nên hơn hẳn so với
trước. Trong này dựa theo lý là không có, dựa theo
sự là có, bởi vì có này tức là có
của không có. Nghe có cũng có thể không có, không bị có làm cho lay động; bởi
vì không có tức là
không có của có, nghe không có cũng có thể có, không bị không có làm cho lay động. Bởi vì đạt được hai hành cho nên
như vậy. Lại dựa theo ba
tánh để giải thích về có-không có. Lại không
ra khỏi sinh tử là bởi
vì không có thể ra, bởi vì Đại Bi cho nên không rời bỏ. Lại bởi vì ba đời cùng là Như, một tướng không hủy hoại
sai biệt
cho nên không phải là một.

Trong Thắng tiến có mười
pháp-năm cặp:
Một- Một và
Nhiều ngay trong nhau. Hai-
Giáo và Nghóa dựa vào nhau, vị là giáo. Ba-
Có và Không có vô ngại:
1) Sở chấp về lý không có là không phải có, ngay nơi tình này có cho nên là có;
2) Có lý không có này, cho nên không phải có là có;
3) Dựa theo lý pháp, đó là không phải tình có mà là lý có;
4) Y tha tựa như có cho nên không phải là có, có pháp có này bởi vì là có;
5) Y tha Vô sinh là không phải có, không hoại tựa như có cho nên là có;
6) Có pháp Vô sinh này cho nên dựa theo đây;
7) Chân như lìa tướng cho nên không phải là có, có pháp Chân này cho nên là có;
8) Không Chân như là không phải có, ngay nơi Bất Không này là có;
9) Tánh thuộc Vô tánh là không phải có, có tánh này là có;
10) Tùy theo nhiễm ẩn kín cho nên không phải là có, tánh vốn thanh tịnh cho nên là có. Có là không phải có thì ngược lại với mười nghóa trước, nên
biết. Bốn-Tướng và Phi
tướng vô ngại. Năm-Tánh và Phi tánh vô ngại. Đều có đủ
mười nghóa, thuận nghịch giống như trước dựa theo biết rõ.
Lại giải thích: Ba cặp sau
dựa theo ba tánh-ba vô tánh, như thứ tự nên biết. Giải thích trong pháp Học, muốn làm cho hai hành vô ngại khéo
léo tròn vẹn đầy đủ,
cho nên nói là cụ túc…

Trong Trú thứ tám: Nghóa là thuận theo lý hướng về
sự mà
không sai lý, cho nên nói là tâm được an lập.
Trong Tự phần: Đầu là ba
nghiệp vô nhiễm, là Thể của đồng chân, bởi vì không
sai lạc chân lý khiến
cho sự thanh tịnh, là hành
thuộc Tự lợi, còn lại là hành thuộc Lợi tha. Bởi vì ba nghiệp
thanh tịnh, cho nên có thể thọ
sinh tự tại. Biết các
tâm như Tín…, thuận theo tâm khởi lên ham muốn vui thích, quen ham
muốn rồi thành tánh, dựa
vào tánh mà tạo nghiệp, đều nói như phần về mười rừng rậm trong Địa thứ chín. Lại như phẩm
Phát Tâm Công Đức nói, nhận biết về hai mươi kiếp thành… của
Khí thế giới, lại nhận biết tụ
tập cho nên thành-phân
tán cho nên hoại… Thần thông tự tại là tổng
quát kết luận về Dụng
thù thắng của ba nghiệp.

Trong Thắng tiến: Sáu câu
đầu là cảnh bên ngoài tự tại, bốn
câu sau là tự thân tự tại.
Lại giải thích: Bảy câu đầu là trình bày về
pháp Học rộng rãi nhận
biết ba nghiệp rộng lớn, ba câu sau trình bày về
ba nghiệp tự tại. Trong
phần đầu, trước là trình bày về ý nghiệp, trong đó:

1) Tổng quát nhận biết về cảnh (khí);
2) Nhận biết về mình có thể sử dụng;
3) Tuy sử dụng
nhưng dùng nguyện lực duy trì khiến cho
không hư hoại, lại duy trì khiến cho
sử dụng
bình thường;
4) Quán sát điều ấy tức là Chân…, lại quán nhiễm tịnh sai biệt, bởi vì sắp đi đến nơi;
5) Trình bày về thân nghiệp, nghóa là quán sát rồi cần phải đi đến nơi đó;
6) Không những theo thứ tự đi đến, mà cũng có thể cùng lúc đến khắp nơi. Cõi Phật chắn chắn có Phật, thế giới bao gồm có Phật và không
có Phật.
7) Trình bày về ngữ nghiệp, nghóa là nếu đến nơi có Phật thì có thể thưa hỏi Đức Phật về diệu pháp, nếu đến cõi không có Phật thì
có thể khéo léo giải
đáp mọi chất vấn, trong bản khác giống như sau giải thích.
8) Trình bày về thân nghiệp tự tại, nghóa là không những một thân đến nhiều thế giới, mà còn có thể biến hóa trở lại làm ra nhiều thân thành tựu thân nghiệp pháp giới;
9) Ngữ;
10) Ý; đều thành tựu về Dụng thù thắng tự tại của pháp giới có thể biết. Trong phần
sau là nêu
ra giải thích, trình bày hễ đối với tất cả các pháp thì có thể khéo léo
sử dụng
tự tại, bởi vì thành tựu viên mãn.

Trong Trú thứ chín: Giống
như Thiện Tuệ địa, ở trong Tự phần:

1) Hiểu rõ sáu nẽo tức là rừng rậm của hành Sinh;
2) Là rừng rậm của hành Sử;
3) là rừng rậm của hành Tập khí. Ba loại trên là chúng sinh đã giáo hóa;
4) Là trí phương tiện chủ động giáo hóa;
5) Là trí thành tựu hiểu rõ về thuốc pháp;
6) Biết rõ nghi thức hóa đạo, chỉ rõ oai nghi của Pháp sư;
7) Hiểu rõ nơi giáo hóa, nghóa là trú xứ của chúng sinh đã giáo hóa;
8) Hiểu rõ thời gian giáo hóa, nghóa là bởi vì biết về ba đời như thời gian chưa chín muồi-đã chín muồi… của căn cơ được giáo hóa;
9) Không thay đổi giới hạn của chân thật (chân tế) mà kiến lập các pháp;
Không hủy hoại giả danh mà nêu rõ thật tướng của các pháp.

Trong phần Thắng tiến, đã là con của bậc Pháp Vương cho nên cần phải học để nhận biết trú xứ… của
Pháp Vương. Trong đó, một-Trú xứ có tám:
1) Dựa theo Pháp thân thì không có trú xứ;
2) Dá»±a theo
Trí thì trú vào chân lý tức là trú vào nơi không hề trú;
3) Dá»±a theo
Báo thân thì trú trong các
Tịnh độ;
4) Dựa theo hạnh đức thì trú trong bốn
Phạm- ba Không và điện Từ Bi…;
5) Dựa theo Hóa thân thì trú
trong nước Ma-kiệt…;
6) Dựa theo mười Phật thì trú trong quốc độ hải;
7) Trú trong Hoa Tạng giới…;
8) Trú trong pháp giới không có chướng ngại. Hai- Khéo léo nhận biết bốn oai nghi hóa hiện bên ngoài, nghóa là tùy
theo chúng sinh cần phải đi
thì đi… Ba-Khéo léo nhận biết nơi chốn của
bậc Pháp Vương an lập,
nghóa là do cơ cảm và Bi nguyện khởi lên cho
nên thân độ mới hiện
bày, cho nên nói là an lập, bản khác gọi là hưng
lập. Bốn-Khéo léo chứng
chân lý, lại khéo léo dựa vào ứng cơ.
Năm-Dựa vào chứng dấy
khởi thuyết giảng, lại dựa vào cơ phân tích riêng
biệt. Sáu-Biết Đức Phật dùng nước Trí rưới trên đỉnh đầu Bồ-tát đạt được phần vị…
Bảy-Biết Chánh pháp của Phật nên lấy gì để duy trì mà
có thể thọ trì. Tám-Biết
mười Vô úy của Phật giải đấp chất vấn không
sợ hãi… Chín-Biết Phật
ở thế gian không nhiễm, lại không đắm vào biện tài…
Mười-Biết ca ngợi quỹ tắc của Phật, lại biết thật đức đáng ca
ngợi của Phật. Trong giải
thích là bởi vì đạt được 40 trí Vô ngại của Địa thứ chín.

Trong Trú thứ mười, Tự
phần có hai: Trước là mười câu hiển bày về trí đã thành tựu,
sau là mười câu ca ngợi về đức thù thắng.
Trong phần trước,
năm câu đầu trình bày về trí thế giới vô ngại:
1) Tùy tâm xoay chuyển;
2) Ánh sáng chiếu rọi giác ngộ;
3) Nguyện cùng tùy ý duy trì;
4) Tự tại tiến vào khắp nơi;
5) Nơi đến đều trang nghiêm. Ba câu tiếp là trí nhận biết tâm hành của chúng sinh:
6) Nhận biết về tâm;
7) Nhận biết cảnh giới hiện hành của tâm;
8) Nhận biết về căn hải. Hai câu sau là trí trao truyền pháp:
9) Thuận theo căn trao cho pháp; 1
0) Khiến cho diệt trừ
phiền não thành tựu công đức, cho nên nói là điều phục. Lại cũng đầu là nêu ra ý,
sau là giải thích thành tựu. Đó là hóa
độ như thế nào? Vốn là
dùng ba pháp Học để điều phục.
Hai là trong mười câu phân rõ về đức thù thắng, bốn câu đầu
trình bày về thân nghiệp
không thể nào biết được tức là nghóa về Nghiệp tự tại,
sáu câu
sau là tâm trí không thể nào biết được tức là nghóa về
Trí tự tại. Trong bốn câu
đầu:
1) Thân sắc vi diệu;
2) Dựa vào thân khởi
lên nghiệp thù thắng;
3) Biến hiện kỳ lạ;
4) Lạ lùng vô ngại. Lại giải thích:
1) Thể của thân;
2) Dụng;
3) Thể của thần túc;
4) Dụng. Đều không thể nào biết được, bởi vì
sự tức là giống như lý
mà hiển bày sự, lại
bởi vì hiển mật sử dụng khắp nơi. Trong sáu câu
sau: Ba trí đầu là cùng
tận ba đời, tức là ba trí thông hiểu vi diệu, nhận
biết tất cả thời gian;
bốn là trí trang nghiêm thanh tịnh quốc độ, tức là trí
tự tại về Khí thế gian,
nhận biết tất cả mọi nơi; năm là trí tự tại về
Chúng sinh thế gian, bởi
vì nghiệp nhiễm tịnh-tâm tập khởi là chúng sinh;
sáu là trí tự tại về
Trí chánh giác thế gian. Lại giải thích: Tâm tức là
Định, sau là Tuệ. Lại
giải thích: Tâm cảnh là Tục đế, bởi vì là Tập khởi,
tức là trí vốn có của
chín loại trên; cảnh là Chân, bởi vì chiếu rọi lý, tức là kết luận quy về Chân. Bởi vì
Chân-Tục này vô ngại cùng chiếu rọi
như gương treo cho nên đều
không thể nào biết được. Sau là chọn lựa
xác định phần vị ấy,
nói là lẽ nào có thể cùng phần vị Bồ-tát và
Phật cũng không biết hay sao?
Nay giải thích như văn.
Sau là trong mười
Thắng tiến, học về Nhất thiết trí-Nhất
thiết chủng trí của Phật, ngay nơi phần vị ấy đầy đủ Quán đảnh làm Phật, bởi vì thâu nhiếp các phần vị đều đầy đủ; như
sau ở phẩm
Nhập Pháp Giới, Tỳ-kheo
Hải Tràng đảnh lễ nơi Đức
Phật thuyết pháp mà nhận
biết. Một- Dựa theo văn
tụng sau tổng quát học về trí của chư Phật ba
đời; hai- Học về trí
Giáo pháp của Phật; ba- Trí về Lý pháp; bốn- Trí về
lý sự nhiều môn vô
ngại; năm- Trí về Đại Dụng rộng khắp mọi nơi;
sáu- Trí về đối với duyên
soi chiếu tỏ ngộ; bảy- Trí về thế giới nương tựa
duy trì; tám- Trí về phía
dưới cùng cùng tận thế giới chúng sinh; chín-
Trí về phía trên tận cùng quả Phật; mười- Trí về quả đức nhiều môn. Trong này, Quán
đảnh có nghóa về tiếp nhận chức vụ, cùng với
Pháp Vân địa sai khác như nhau…
Trong phần
sáu là phần
chứng thành, có hai: Trước là hiển bày chân thật,
sau là chứng minh thành tựu. Hai phần này đều có hai:
Trước là cõi này, sau là kết luận nối thông.

Trong phần hiển bày chân thật, trong cõi này có ba: Một- Trong mặt đất rung động:
1) Nhân rung động,
2) NÆ¡i rung Ä‘á»™ng,
3) Tướng rung động. Hai- Mưa cúng dường tức là thân nghiệp. Ba-
Phát ra âm thanh
tức là ngữ nghiệp, dùng pháp để dựa theo.
Trong phần chứng minh thành tựu, trong cõi này có bốn:
Một, Bồ-tát đến
nơi này, trong đó có nguyên nhân đến, nơi đến, người
đến. Hai, phát ra lời ca
ngợi. Ba, trong thuật rõ đã dẫn ra chứng minh, một là người thuyết giảng như nhau, hai là nơi chốn như nhau, ba là chủ
như nhau, bốn là nghóa như
nhau, năm là chúng như nhau, sáu là giáo như nhau. Bốn, hiển bày về ý đưa ra là chính thức kết luận về
thành tựu chứng đắc.
Trong phần bảy là phần kệ tụng, dùng bốn câu làm
thành một tụng, tức là có 101 tụng rưỡi, phân hai: Đầu có 92 tụng rưỡi, tụng về pháp của
Thập Trú trước đây;
sau có 9 tụng kết luận ca ngợi
khuyến khích tu tập.

Trong phần trước tụng về Thập Trú tức là mười đoạn. Ngay
trong Trú thứ nhất có 46
tụng, trong đó phân bốn: Một có ba tụng về
Duyên và Thể của phát tâm trước đây; hai có 32 tụng về đạt được một
phần của mười Lực; ba
từ “Bồ-tát như thị phát tâm…” trở xuống có mười kệ tụng về mười pháp cần phải học; bốn từ
“Thị thuyết
Bồ-tát…” trở xuống có một kệ tụng về tổng quát kết luận. Trong phần hai cũng có ba: a) Mười tụng về hành của mười Lực; b) Có hai tụng về phát tâm cầu pháp thuộc hai Đế đã nhận biết; c)
Từ “Chấn động…” trở xuống là 20 tụng
về phát tâm vì cầu ba
nghiệp của Phật, trong đó một là mười tụng về thân nghiệp, hai từ
“Thập phương…” trở xuống là ba tụng về
ngữ nghiệp, ba từ
“Nhất thiết thập phương…” trở xuống là
sáu tụng về ý nghiệp, bốn là một tụng về kết luận ca ngợi. Lại ba nghiệp rộng lớn này là pháp đã
đạt được trong Trú
này, đó là ba nghiệp tùy theo trí hành… Trong ba tụng về Thắng tiến đã học, Giáo không lui
sụt là thuyết giảng về
Giáo thuận với Chánh lý
không thay đổi, lại thuyết giảng về Giáo tiến vào phần vị này là nghóa không
lui sụt, lại bởi vì thuận theo Giáo pháp này nhất
định không lui sụt; trước
là Trì nghiệp thích, hai loại sau là Y chủ thích.

Ở trong mười
pháp Thắng tiến trước đây, mười tụng theo thứ tự

đều tụng về
một pháp, một tụng sau cuối là tổng quát kết luận,
đều có thể biết.

Trong Trú thứ hai có
sáu tụng, hai tụng đầu về
Tự phần, bốn
tụng sau về Thắng tiến.
Trong Trú thứ ba có năm tụng, hai tụng đầu về
Tự phần, ba tụng sau về
Thắng tiến. Trong Trú thứ tư có sáu tụng, ba tụng
đầu về Tự phần, ba tụng sau về Thắng tiến. Trong
Trú thứ năm có bốn tụng rưỡi, ba tụng đầu về
Tự phần, một tụng rưỡi
sau trình bày
về Thắng tiến.
Trong Trú thứ
sáu có năm tụng, bốn tụng đầu về
Tự phần, một tụng
sau về
Thắng tiến. Trong Trú thứ bảy có bốn tụng, hai tụng đầu
về Tự phần, hai tụng sau
về Thắng tiến. Trong Trú thứ tám có năm tụng, ba tụng đầu về
Tự phần, hai tụng
sau về
Thắng tiến. Trong Trú thứ chín có ba tụng, hai tụng đầu về
Tự phần, một tụng
sau về
Thắng tiến. Trong Trú thứ mười có tám tụng, năm tụng đầu về
Tự phần, một tụng tiếp
hiển bày về đức, hai
tụng sau về Thắng tiến.
Trong đoạn lớn thứ hai là kết luận ca ngợi khuyến khích tu tập, có chín tụng phân ba: Một có một tụng tổng quát ca ngợi về
Thập Trú, hai có bảy tụng riêng biệt ca ngợi về
Trú thứ nhất, ba có một tụng dùng
Trú thứ nhất tăng lên
tương tự hiển bày về Trú sau.

----------------------------

<詞>Phẩm 12: PHẠM HẠNH</詞>

GIẢI TH1CH TÊN GỌI: Giải
thích tên gọi: Một- Lìa xa cấu nhiễm của vọng niệm cho nên nói là Phạm,
 thông hiểu về lý Vô ngã cho nên nói là Hạnh, Hạnh này tức là Phạm.
Hai- Lìa xa cấu nhiễm đến cuối cùng gọi là Phạm, tức là cảnh chân thật; Trí có năng lực chứng được cảnh này cho nên nói là Hạnh.
Ba- Quả của
Niết-bàn là Phạm, bởi vì vắng lặng; nhân của tu là Hạnh, đây là Hạnh của hai Phạm.
Tịnh và Phạm khác nhau thế nào? Có sáu khác nhau:
1) Dựa theo Báo, trời
cõi Dục là Tịnh, trời cõi Sắc là Phạm.
2) Dá»±a
theo Người, Giới tại gia
là Tịnh, Giới xuất gia là Phạm.
3) Dựa theo Hành
vị, trong Tín thì tu là
Tịnh hạnh, tiến vào phần vị trở đi thì tu là Phạm
hạnh.
4) Dựa theo hai Lợi, ba Học thuộc về Tự lợi là
Tịnh hạnh, bốn Đẳng thuộc về Lợi tha là
Phạm hạnh, điều này như kinh Niết
Bàn nói.
5) Dựa theo hai Hành, tùy theo
sự việc mà thực hành tu tập Bố thí-Trì giới… là
Tịnh hạnh, lìa niệm phù hợp với
sâu xa là
Phạm hạnh, như trong văn.
6) Dựa theo nhân quả,
Niết-bàn là Tịnh, hành thuộc Đạo đế là Phạm,
chính là trong kinh nói:
Phạm hạnh đã lập.

Ý đưa
ra có năm:
1) Trước là phần vị-tiếp theo là hành, nghóa là trước trình bày về phần vị chính thức, nay phân rõ về hành của phần vị thành tựu, do đó văn nói tu tập Phạm hạnh gì
để đầy đủ Thập Trú?

2) Trước trình bày về phần vị chính thức, nay phân rõ dựa vào phần
vị để khởi hạnh.
3) Trước là riêng-đây là chung, nghóa là trong Thập Trú trước đây đều tu một loại công hạnh riêng biệt, nay phân rõ công
hạnh trong các phần vị
thực hành như nhau.
4) Trước là chung-đây là riêng, nghóa là trước đây phân rõ chung về phần vị, nay trình bày riêng về hạnh của người xuất gia.
5) Trước đây hiển bày về tướng sai biệt của phần vị, nay gặp duyên tiến vào thật, tức là Tướng trước-Thể sau.

TÔNG THÚ, dùng Chánh hạnh vô niệm làm Tông, phần vị
Thập Trú đã thành tựu và mau chóng thành
Phật… làm Thú. Quán lý
Vô niệm sơ lược làm thành năm môn v.v…

GIẢI THÍCH VĂN có hai: Đầu là
hỏi-sau là đáp. Trong hỏi
trình bày về căn khí tiếp nhận pháp lìa nhiễm cho
nên dựa vào
Thiên Tử, căn khí lìa vọng niệm mới có thể tiếp nhận
cho nên gọi là
Chánh niệm, đầy đủ trong phần Thiên chủ Quang Nữ ở văn sau.

Trong văn: Một, Nêu ra người tin theo
sự việc, không phải là người thì Không, pháp không phải
là người; Hai,
Từ “Bỉ chư…” trở xuống là chính thức hỏi có ba:
1) Hỏi về tu Phạm hạnh;
2) Thành tựu phần vị;
3) Đạt được quả. Trong đáp sở dó
Pháp Tuệ thuyết giảng, là bởi vì Tuệ chiếu
rọi pháp mới có thể
nêu rõ pháp. Trong đó cũng có ba:
1) Đáp câu hỏi về tu Phạm hạnh;
2) Từ “Hựu phục tu tập…” trở xuống là đáp câu hỏi về thành tựu phần vị;
3) Từ “Như thị quán giả…” trở xuống là đáp câu hỏi về đạt được quả.
 Lại cũng có thể phẩm này trở lại tiếp tục giải thích về nghóa thành tựu của Trú thứ nhất trong Thập Trú trước đây, trong đó có ba, đó là một giải thích về phát tâm trước đây, hai là giải thích về mười Lực do phát tâm
mà đạt được, ba là giải thích về tự giác ngộ đạt được quả thông hiểu giống như pháp giới trước đây, vì vậy ngay Trú thứ
nhất này thâu nhiếp đầy đủ Thập Trú.
Trong phần một có bốn:
1) Trình bày về quán sát tìm tòi suy nghó,

Từ “Hựu tri quá khứ…” trở xuống là trình bày
về quán sát đúng như
thật,
3) Từ “Bồ-tát chánh niệm…” trở xuống là tướng thành tựu lợi ích của quán,
4) Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận về tên gọi của quán. Trong phần một có ba: a) Nêu ra mười pháp làm cảnh đã quán
(sở quán), b)
Từ “Ưng như thị quán…” trở xuống là dùng lý nêu ra rõ
ràng để hiển bày về chân lý của Phạm hạnh, c)
Từ “Đương như thị…”
trở xuống là kết luận.

Vì sao chỉ dựa vào mười pháp mà quán, bởi vì thâu nhiếp
tóm lược toàn bộ các
pháp, nghóa là thân-khẩu-ý là quả hữu vi, ba nghiệp là nhân của quả ấy, Phật và Pháp là quả xuất thế, Tăng và
Giới là nhân của quả ấy.
Lại người xuất gia tu hạnh xuất thế cần phải dựa vào mười pháp này mới thành tựu
Phạm hạnh, nghóa là Tam Bảo và
Giới là bốn cảnh thanh tịnh không hư hoại, tức là thụ động tin-thụ động tiến vào;
thân-khẩu-ý là dụng cụ có thể tu hành, tức là chủ động
tin-chủ động tiến vào, ba nghiệp là hành đối với cảnh thụ động tu tập-thụ động
thành tựu. Nay suy xét tìm
hiểu Phạm hạnh này ở trong pháp nào?
Đã cầu không thể được,
tức là Tướng không còn-Lý hiển bày mới là
Phạm hạnh chân thật, cho
nên trong văn dựa theo mười pháp này chỉ nêu
ra Phạm hạnh mà không
nêu ra pháp khác.
Trong văn
có hai: Một, Dùng lý đối chiếu để xác định;
Hai,Từ “Nhược thân
thị…” trở xuống là phá bỏ từ ngoài vào trong để hiển
bày về không phải. Lại
đầu là tổng quát-sau là riêng biệt, đầu là tóm
lược- sau là mở rộng.
Trong này nêu ra mười pháp để đối chiếu, tức là mười phần.

Trong phần một, nếu thân là Phạm hạnh thì nhất định đã thiết
lập điều ấy; sau dùng
lý mở rộng nêu ra, nghóa là Phạm đã là pháp thanh tịnh, thân là tạp uế cho nên
không phải. Bởi vì
sáu
sự như thân… này
là gồm chung pháp
nhiễm-tịnh, chỉ dựa theo nhiễm-tịnh trái ngược nhau trình bày không phải là
Phạm hạnh, không phá bỏ tự Thể của
sau
sự ấy; bốn phần
sau là pháp
thanh tịnh, bởi vì thuận với
Phạm hạnh, tức là
mở rộng phân tích riêng
biệt để hiển bày về chân lý.
Trong phần một là thân có tám câu, một câu đầu là tổng quát,
bảy câu còn lại là
riêng biệt:
1) Không có quỹ tắc thích hợp thì không phải là pháp xuất thế;
2) Ăn uống cung cấp để thành tựu;
3) Tập khí tệ hại bừng bừng;
4) Có đủ ba mươi sáu vật;
5) Vấy nhiễm bụi bặm dơ bẩn;
6) Tự nuôi dưỡng bằng
tà mạng;
7) Các loài trùng rúc rỉa. Theo kinh Quán Phật Tam Muội: “Lúc Đức Phật sắp thành
đạo, có các ma đến
quấy nhiễu. Lúc ấy Đức Phật dùng lông trắng nhỏ
dài để hóa ra, khiến cho
ma nữ kia tự thấy máu mủ, nước miếng-nước mũi, chín lỗ căn bản,
sinh
tạng-thục tạng, tạng phủ
trong thân, uốn lượn
qua- nh co,
sinh ra các
loài trùng. Có tám vạn hộ trùng, mỗi hộ có chín ức các trùng nhỏ cùng chui rúc tiến vào trong ruột non, há miệng hướng
lên phía trên, trùng lớn chui rúc tiến vào trong ruột già, há miệng
cũng như vậy, rúc rỉa ăn các tạng
phủ-mạch tủy,
sinh trùng nhỏ như lông tơ,
số
ấy rất nhiều. Các ma nữ
trông thấy sự việc này lập tức nôn mửa…”

Lại trong Tiểu thừa nói: “Đầu
trùng hướng vào phía trong, đuôi trùng hướng ra
phía ngoài, đan làm lớp da người.” Lại trùng này là cảnh quán cho nên tuy thật có mà lúc dấy lên quán về trùng thì
mới trông thấy, như xương trắng… cũng quán
sát thì mới
trông thấy. Tiểu thừa
tức là thật, Sơ giáo
tức là Không, đều dựa theo đây.

Trên đây chỉ
là phá bỏ từ ngoài vào trong, vì vậy nói là nên biết Phạm hạnh tức là các
loài trùng. Nếu đầy đủ thì phải nói là các loài trùng đã không phải là
Phạm hạnh, biết rõ ràng Phạm hạnh không ngay nơi thân này, như thân không có Phạm hạnh thì môn khác cũng như
vậy. Bởi vì dựa vào
những điều này mà thành tựu Phạm hạnh, cho nên đối với mười pháp này cầu Phạm hạnh không thể được, lìa xa mười
pháp này cũng cầu không
thể được. Văn sau nói như thế nào là Phạm hạnh, pháp của Phạm hạnh là ở nơi nào…? Ý là như vậy, tùy văn
dựa theo biết được.

Trong phần hai
là thân nghiệp có thể biết.

Trong phần ba
là khẩu, tâm tiếp xúc là Xúc thường xuyên duyên với cảnh dấy khởi lời nói, giúp cho phát ra thành
khẩu nghiệp.
Luận Câu Xá gọi là
Tăng ngữ xúc trong mười sáu loại Xúc.

Trong phần bốn
là khẩu nghiệp, ngôn ngữ so với trước có gì khác
nhau? Trước là dựa theo
Thể của báo,
sau là dựa theo Dụng của nghiệp cho nên khác nhau.
Thật sự mà luận thì Thể của khẩu thuộc về
thân thâu nhiếp, nhưng chọn lấy bên lời nói chủ động phát ra gọi là
Ngữ, pháp của lời nói thụ động phát ra gọi là
Ngữ nghiệp. Vì vậy Tân dịch ra là
Ngữ nghiệp, Cổ dịch dựa vào tướng gọi là Khẩu. Tác-Vô tác là
nghóa về Biểu-Vô biểu
trong Thể của Ngữ nghiệp.
Trong phần năm là ý, huyễn mộng là bởi vì ý thức hiện hành
trong lúc ngủ, những sự
việc chủ động-thụ động… đã trông thấy trong
mộng, đều vốn là tâm
huyễn dấy lên. Trong đó Giác quán… đã là tâm
pháp, giống như là nêu
ra tâm sở(số) để chứng minh cho tâm vương.

Trong phần sáu
là ý nghiệp, dựa theo năm Biến hành để nêu
ra, bởi vì là hoạt động
hiện hành căn bản. Tưởng là Tưởng số, thi thiết
là Tư, nóng lạnh-đói
khát là Xúc, khổ… là Thọ, đại khái là không có tác ý.
Trên đây chỉ là nhiễm-tịnh trái ngược nhau hiển bày về không phải là
Phạm hạnh, không cần phải phá bỏ tường tận; bốn phần
sau thuận với Phạm hạnh cho nên phá bỏ
riêng biệt, phân tích tường
tận mới hiển bày về
chân lý, cho nên không giống nhau.

Trong phần bảy là Phật:
1) Dựa theo năm Ấm;
2) Dá»±a theo
tướng tốt;
3) Dá»±a theo
thần thông. Nghiệp báo là nêu rõ sự việc cây
thương vàng… Ba điều trên đây đều dựa vào phần trước phát khởi phần
sau theo thứ tự nêu ra.

Trong phần tám là Pháp, có sáu câu:
1) Giáo thanh tịnh;
2) Lý về quả;
3) Dựa theo duyên
sinh-không sinh;
4) Dựa vào
Thể thật-không thật;
5) Dựa vào tình là hư vọng;
6) Thành và hoại là hợp và tán. Trong này gồm chung có ba nghóa: a) Tịnh là hai câu đầu; b) Nhiễm là hư vọng; c) Không phải nhiễm-không phải tịnh là những câu còn lại. Bởi vì dựa theo ba tánh tùy theo thấy một phần, tánh thuộc phần còn
lại không khác, cho nên đều không phải là pháp. Lại dựa theo chấp,
Lương Nhiếp Luận nói:
“Chấp Niết-bàn lấy
Vô sinh tịch tịnh làm Thể, có năng lực
lìa xa ba khổ làm Dụng…,
đều thành Pháp-Ngã và Ngã sở chấp, cho
nên đều không phải là pháp.”
Trong phần chín là Tăng:
1) Dựa theo phần vị mà cầu,
Tăng nghóa là bốn Hướng-bốn
Quả, bởi vì cùng chứng Vô ngã. Hòa hợp là ai?
Vì vậy không có Tăng.
2) Dựa theo đức dụng mà cầu, nghóa là ba
Minh- sáu Thông.
3) Dựa theo căn mà cầu, nghóa là
A-la-hán độn căn nhờ vào thời gian-nơi chốn mới đạt được
giải thoát, gọi là
Thời giải thoát; lợi
căn ngược lại với
điều này, gọi là Phi thời giải thoát.
Trong phần mười là Giới, Tầm-Tư có thể biết. Trên đây là bốn phương tiện
Tầm-Tư cũng gọi là cầu trí:
1) Cầu theo danh,
2) Cầu nghóa, Cầu tự tánh,
4) Cầu sai biệt. Từ đây trở xuống là phần thứ hai trình bày về trí quán
sát
đúng như thật. Trong đó
có sáu:
1) Nêu ra thời gian làm chỗ dựa của Phạm hạnh, đó là ba đời đều Không, đầu là tổng quát
quán sát,
sau là giải thích
riêng biệt. Nghóa là bởi vì pháp hiện tại này không có
Thể cho nên có thể dừng lại, không có chuyển vào trong đời quá khứ.
Lại bởi vì không có Thể,
cho nên không thể nào tiếp tục chuyển vào đời vị
lai. Lại bởi vì quá khứ diệt mất không có, cho
nên không có vật nào có
thể nối tiếp nhau chuyển
vào hiện tại. Lại bởi vì vị lai không có Thể,
cho nên không có pháp
nào có thể dấy khởi khiến cho đến hiện tại,
sát-na trước
sau nên biết cũng như vậy.
2) Nêu ra Thể của Phạm hạnh.
3) Nêu ra nơi chốn làm chỗ dựa của Phạm hạnh, đó là đối với mười pháp trên đây, pháp nào là Phạm, Phạm ở nơi nào?
4) Nêu ra chủ của Phạm hạnh. Dựa theo có-không có để nêu ra.
6) Dựa theo năm Ấm để nêu ra.

Trong phần thứ ba là quán thành tựu lợi ích: Một
là trong thành tựu về quán, trước nói về pháp,
như trên dựa theo ba đời quán sát
mười pháp đều Không,
cho nên nói phân biệt các pháp ba đời bình đẳng;
sau nói về dụ, có thể
biết. Hai từ “Như thị…” trở xuống trình bày về tướng của lợi ích có hai:
1) Lợi ích về hư vọng không trở ngại tâm, nghóa là vì sao có thể không trở ngại?
 Bởi vì không giữ lấy tướng. Vì sao không giữ lấy? Bởi vì không có tánh.
2) Lợi ích về soi chiếu rõ ràng pháp giới, pháp-dụ có thể
biết. Lại cũng có thể trước quán sát sáu pháp là
thân… bình đẳng như
Không, sau quán sát bốn pháp là Phật… như Không.

Thứ tư là kết luận về tên gọi của quán, có thể biết. Giải đáp
câu hỏi thứ nhất, xong.
Từ đây trở xuống là đáp về câu hỏi thứ hai. Do thành tựu về hành của quán trước đây, cho nên lại tiếp tục tu thắng hạnh tiến vào
phần vị Thập Trú. Trong
văn có ba: Một là quán sâu vào quả trí; hai là
tăng trưởng Đại Bi; ba từ “Tất phân biệt…” trở xuống là dùng lý dẫn
dắt hai loại trước, tức
là ba tâm-ba giới thành tựu ba đức-ba thân… Bởi vì văn trước kia, ở trong Trú thứ nhất đạt được một phần của mười
Lực, nay hành thành tựu tiến vào phần vị cho nên phân rõ về lúc đầu,
 văn phần một-hai có thể biết. Trong phần ba có hai: Đầu là pháp,
sau là dụ. Trong pháp có hai:
1) Dùng lý dẫn dắt Bi, nghóa là không rời
bỏ tịch diệt, không rời bỏ
chúng sinh, bởi vì
Không-Hữu không hai là
chúng sinh, Bát-nhã Đại
Bi là một tâm.
2) Dùng lý dẫn dắt quả, nghóa là thực
hành về
nghiệp Vô thượng mà không cầu báo, bởi vì tức là Không
cho nên không cầu, bởi
vì không hoại cho nên thường hành, cũng là
hành Trung đạo Chỉ-Quán
cùng thực hành không vướng vào Không-Hữu.
Vì sao đạt được như
vậy? Bởi vì quán sát các pháp như huyễn…, không có Thể như huyễn, hiện tại thật như mộng, có tác dụng như chớp, duyên
tụ như tiếng vang, thành sự như biến hóa.

Trong đáp về câu hỏi thứ ba, có hai: Một
là nhắc lại phần trước, hai là phát khởi
phần sau. Trong phát khởi
phần sau, có hai lớp
hiển bày về nhân ít đạt
được quả lớn, trong đó đều có hai: Trước là nêu
ra, sau là
giải thích. Lớp thứ nhất trong nêu ra, dùng ít phương tiện là
nhân, mau chóng đạt
được… là quả. Trong giải thích, vì sao ít nhân mà mau chóng đạt được quả lớn? Giải thích bởi vì thường vui với quán
sát về pháp không hai
như Bi-Trí, Không-Hữu…, cho nên mau chóng đạt
được, vì vậy nói rằng
điều này là có. Trong lớp thứ hai, nêu ra lúc mới phát tâm là nhân, liền thành Chánh giác là quả; cũng là trở lại giải
thích điều trước, nghóa
là trước đây nói mau chóng đạt được quả Phật,
nhưng chưa biết lúc nào gọi là mau chóng đạt được,
nay giải thích là lúc phát tâm liền đạt được.
Văn sau nói Bồ-tát mới phát tâm tức là Phật, cho nên cùng với các
Như Lai trong ba đời như nhau. Đây là trình bày về lúc hạnh đầy đủ tiến vào phần vị liền đạt được phần vị
Phổ Hiền, một phần vị tức là tất cả các phần vị, cho đến quả Phật không có gì không đầy
đủ trọn vẹn, cho nên
nói là Chánh giác. Sau giải thích vì sao đạt được như vậy? Bởi vì nhận biết tất cả chân thật, là hiển bày về lý đầy đủ; đầy
đủ thân Tuệ, là hiển
bày về trí đức đầy đủ; không từ nơi khác mà tỏ
ngộ, là bên trong tự
nhiên giác ngộ thông suốt, lẽ nào là trong nhân
nói quả hay sao? Đây là hành vị Phổ Hiền của Nhất
thừa, nhân quả viên
dung ngay trong nhau vô ngại,
cho nên đưa đến như vậy. Thích hợp nên
suy nghó dựa theo đây.

------------------------------

<詞>Phẩm 13: SƠ PHÁT TÂM BỒ TÁT CÔNG ĐỨC</詞>

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Bổn
giác huân tập từ bên trong, Đại
tâm bắt đầu phát khởi, cho nên nói là Phát
tâm; thành tựu công hạnh,
thiết lập phần vị gọi là Bồ-tát; công vượt
lên trên nhiều kiếp, đức rộng lớn như trần sa,
cho nên nói là Công đức; đây là trình bày về công đức
sơ phát tâm của Bồ-tát. Ở đây đã phân rõ
bởi vì giản lược Nhị thừa cho
nên nói là Bồ-tát, giản lược tâm cuối cùng
cho nên nói là Sơ phát; đây là trình bày về công đức do phát tâm
thâu nhiếp, không phải là phân rõ
về tướng của phát tâm, cho nên lấy làm tên gọi của phẩm.

Ý
đưa ra có ba:

Thập Trú và Phạm Hạnh trước đây trình bày về Thể của hành
vị, nay hiển bày về đức thù thắng ấy cho nên đưa ra.

Cuối phẩm trước vào lúc mới phát tâm liền thành
Chánh giác, nhưng chưa biết tâm này có công đức gì mà có
thể như vậy, vì thế đưa
ra để giải thích về nghóa này.

Hai phẩm trước đây dùng pháp dựa vào cơ mà nói
khiến cho hành vị có phạm vi giới hạn, nay thì dùng
cơ dựa vào pháp để hiển bày
về đức lượng là không có giới hạn. Vì vậy
hai phẩm trước gồm chung
hai Giáo đồng-biệt, nay thì chỉ trình bày về Biệt
giáo vốn là sự huyền
diệu của Nhất thừa, về sau trong kệ dùng ngôn từ
tuyệt vời để ca ngợi
thuật lại, cho nên tiếp tục đưa ra.

TÔNG THÚ: Phân rõ về sơ phát tâm thâu nhiếp công đức của
Phổ Hiền, đầy đủ phần lượng nhân quả
sánh cùng pháp giới, là
Tôn của phẩm này.

GIẢI THÍCH VĂN: Ở trong phẩm này có phần thuyết giảng là
bốn phần: Một là Thỉnh, hai là Thuyết, ba là Chứng, bốn là Tụng.

Nay là
phần Thuyết, trong đó có hai: Đầu là trường hàng nói phân
tán, sau là kệ tụng thâu nhiếp toàn bộ.

Trong phần đầu cũng có hai: Trước
là cõi này, sau là kết luận nối thông.
Trong phần trước cũng có hai: Một là chính thức
thuyết giảng, hai
là chứng minh thành tựu.

Trong phần một cũng có hai: Đầu
là hỏi, sau là đáp.
Trong đáp có ba:
Một- Tổng quát ca ngợi về rất
sâu xa(thậm
thâm) khiến cho sinh tâm
mong mỏi; Hai- So sánh hiển bày về thù thắng
làm sinh khởi niềm tin
thanh tịnh (tịnh tín); Ba- Ngay nơi tướng phân rõ
về sâu xa khiến cho phát
sinh hiểu biết chính xác (Chánh giải).
Đầu trong
phần thưa hỏi, Đế Thích thưa hỏi là ở cõi trời cho nên hiển bày về công đức tự tại,
Pháp Tuệ thuyết giảng là Tuệ xứng
với pháp thì mới cùng
tận ranh giới của công đức.
Hai là trong phần
thuyết giảng, có hai:
Một- Ca ngợi về
sâu xa khiến cho tin tưởng;
Hai- Từ “Tuy nhiên…” trở xuống là chính
thức thuyết giảng khiến
cho hiểu biết. Lại giải thích trước là dấy khởi mong mỏi của họ,
sau là chính thức trao cho lý pháp. Lại giải thích trước
là hiển bày về Thể rất
sâu xa, sau là trình bày về Dụng rộng lớn. Lại giải thích trước là hiển bày về Nghóa rất
sâu xa,
sau là hiển bày về
Giáo rất rộng lớn.

Trong phần trước, câu đầu là tổng quát, sáu câu là riêng biệt:
1) Tự mình không có thể biết được;
2) Người khác nghe không tin được;
3) Tư duy không
hiểu được;
4) Nói ra không sáng tỏ;
5) Tu tuệ không có thể thông suốt;
6) Trí do báo sinh ra không có thể phân biệt, bởi vì rất sâu xa.

Lại giải thích:
1) Giáo lượng khó biết;
2) Nghóa sâu khó tin;
3) Tư duy khó hiểu;
4) Ứng giáo khó nói;
5) Muốn chứng khó thông;
6) Kể ra cùng tận cho nên khó phân biệt. Thứ hai là trong phần so sánh hiển bày về thù thắng, toàn bộ có 11 đoạn
so sánh:
1) Dựa theo dụ để
so
sánh về lợi ích
chúng sinh;
2) Dựa theo dụ để
so
sánh về bước đi và quốc độ;
3) Dụ về tính
kiếp thành hoại;
4) Dụ về khéo léo nhận biết dục lạc;
5) Dụ về khéo léo nhận
biết các căn;
6) Dụ về
khéo léo nhận biết hy vọng;
7) Dụ về khéo léo
nhận biết phương tiện;
8) Dụ về khéo léo nhận biết tâm ý người khác;
9) Dụ về khéo léo nhận
biết tướng của nghiệp;

10) Dụ về khéo léo nhận
biết phiền não;

11) Dụ về công đức cúng
dường Phật. Trong luận thâu
nhiếp làm thành sáu: Ba
loại đầu là ba, năm loại tiếp là một, hai loại tiếp
là một, một loại sau là
một, cho nên làm thành sáu. Giải thích có ba
môn: Một-Đối với sáu
thậm thâm trước đây; hai-Dựa theo tâm Bồ-đề
tương tự của Bồ-tát;
ba-Dựa theo đối trị sáu chướng.

Trong Dụ một có hai: Trước
là so sánh để hiển bày về thù
thắng, sau từ “Hà dó
cố…” trở xuống là giải thích nguyên cớ về thù thắng.

Trong phần trước có mười lớp làm thành hai: Đầu là một lớp nói
riêng biệt, sau là chín lớp nói gồm chung.
Trong lớp đầu có bốn: Một-Nêu ra
sự rộng rãi; hai-Chính thức
nêu ra hỏi; ba-Đáp để
hiển bày về rộng rãi; bốn-Phân rõ về vượt lên trên.

Trong phần một cũng có bốn rộng rãi:
1) Đã cúng dường rộng rãi đó là Tăng-kỳ chúng
sinh…;
2) Sự cúng dường rộng rãi đó là tất cả vật
dụng ưa thích;
3- Thời gian cúng dường rộng rãi đó là một kiếp…;
4- Lợi ích rộng rãi khiến cho tu năm giới… Trong chín lớp
sau cũng có bốn:
1) Cùng nêu ra chín sự, trong đó cũng có đủ bốn rộng rãi, dựa theo phần một thì biết, chỉ tăng
thêm nhiều… là khác;
2) Hỏi;
3) Đáp;
4) Vượt lên trên; đều có thể biết mà thôi.
Trong phần hai là giải thích hiển bày về thù thắng có hai:
1) Nguyên cớ thế nào là chính thức nêu ra vặn hỏi, nêu ra vặn hỏi có hai ý: Một là nói rằng như trước đã nói công đức rất nhiều, vì sao so với
đây mà không phải là
tương tự; vì vậy giải thích rằng Bồ-tát mới phát
tâm không vì phạm vi giới
hạn bấy nhiêu… cho nên không phải là so
sánh. Hai là nói rằng
sơ tâm của Bồ-tát có công đức thù thắng gì mà vượt
lên trên phần vị trước;
giải thích rằng bởi vì đều mong muốn không đoạn mất chủng tử Phật…, cho nên vượt qua trước. Các văn
sau đều dựa
theo đây.
2) Từ “Phật tử…” trở xuống là giải thích về thành tựu. Trong giải thích về thành tựu có hai: Một là trình bày không bởi vì sự có phạm vi giới hạn mà phát tâm, hiển bày về bốn rộng rãi trước
đây không phải là rộng
rãi; hai từ “Dục bất đoạn Phật chủng…” trở
xuống là trình bày bởi
vì sự không có phạm vi giới hạn mà phát tâm, cho
nên hiển bày phần vị
này vượt lên trên phần vị kia.

Trong phần này có mười hai câu: Một
câu đầu vượt qua phần vị là tổng quát, bởi vì tâm Bồ-đề là chủng tử Phật mà
Bồ-tát luôn luôn phát khởi gọi là không đoạn mất; lại
Bồ-tát giáo hóa chúng
sinh tồn tại trong chủng tử
Như Lai, không khiến cho chọn lấy quả nhỏ bé cũng gọi là không đoạn mất, không giống như năm giới trước đây.
Những câu còn lại là
riêng biệt:
1) Tâm vượt qua, dựa theo
sau nên nói là
muốn dùng tâm Từ Bi làm
cho tràn đầy mười phương thế giới, vượt qua mười
Tăng-kì thế giới… trước đây.
2) Hạnh vượt qua, đó là muốn hóa độ tất cả chúng sinh, vượt qua phạm vi giới hạn trước đây, cho nên nói là
tất cả.
3) Biết vượt qua tướng của Khí thế giới thành-hoại, là biết nơi chốn mà mình giáo hóa, đó là biết thành-hoại sai biệt; lại biết thành tức
là hoại…, là Nhất
thiết trí của Phật, cho nên rộng rãi.
4) Biết chủng loại quả báo cấu-tịnh của chúng sinh trong Khí thế giới, đều do
nghiệp khác nhau, tức là trí về
nghiệp lực.
5) Biết Thể của Khí thế giới trước đây vốn thanh tịnh, là trí như lý.
6) Biết về Sinh-Sử-Tập thô tế của chúng sinh đã giáo hóa, là trí lậu tận, đó là biết ngay nơi Không ấy cũng tức là trở thành chướng ngại…
7) Sinh tử trí thông này tức là Thiên nhãn lực.
8) Căn lực trí.
9) Tha tâm trí.
10) Tam đạt trí này cũng có Túc mạng trí.
Cũng là trí như lý.

Lại trong 11
loại này, hai loại đầu là Đại Bi, chín loại còn lại
là Đại Trí; trong trí thì loại thứ năm và mười một là Nhất thiết trí của
Phật địa, còn lại là
Nhất thiết chủng trí, bởi vì hoàn toàn không có phạm
vi giới hạn cho nên vượt lên trên.

Trong Dụ hai là
so
sánh về bước đi và quốc độ cũng có hai:
Trước trình bày về ví dụ vốn không kịp được,
sau từ “Hà dó cố…” trở xuống là
giải thích hiển bày về tướng thù thắng.

Trong phần trước, tướng của dụ có 100 lớp, mười lớp đầu nói
riêng biệt, còn lại là nói tổng quát.

Trong giải thích có hai: Trước
là nêu ra vặn hỏi, sau là giải
thích thành tựu.

Trong giải thích thành tựu cũng có hai: Trước
trình bày về không bởi vì
sự có phạm vi giới hạn để hiển bày không kịp được trước đây,
sau từ “Tất vi…” trở xuống là trình bày về không có phạm vi giới hạn
để hiển bày phần vị
này vượt qua phần vị trước.
Trong phần này cũng có 12 câu: Hai câu đầu dựa theo
Bi tâm, đầu là tổng quát nêu ra,
sau là giải thích
riêng biệt, đó là muốn giúp để
vượt qua mà đạt được
quả cho nên nói là Vì; mười câu tiếp dựa theo Trí,
bởi vì thành tựu trí
tự tại, trong đó một câu đầu là tổng quát nhận
biết, tám câu tiếp là hiển bày riêng biệt, một
câu sau cuối là kết luận về ý.
Lại một câu đầu là
nhận biết rộng rãi khắp tất cả mọi nơi, tám câu tiếp
là nhận biết lớp lớp
liền tiến vào vô ngại.

Trong này:
1) Đại và Tiểu ngay trong nhau;
2) Nhiều và ít ngay trong nhau;
3) Rộng và hẹp;
4) Một và nhiều;
5) Hòa vào nhau;
6) Nhiễm và tịnh;
7) Trùng trùng Đế võng;
8) Sinh khởi lẫn nhau. Trong tám loại này có hai nghóa, là ngay trong nhau-hòa vào nhau (tương tức-tương nhập); hai loại này đều có hai, đó là đồng thể-dị thể; hai loại này lại có hai nghóa, có thể thành tựu hòa vào
trong nhau:
Một- Dựa theo Duyên khởi
môn; hai-Dựa theo Chân tánh môn.

Trong môn đầu cũng có hai nghóa:
1) Dựa theo Thể, có nghóa
về Không-Hữu cho nên có thể ngay
trong nhau; hai-Dựa theo Dụng, có nghóa về có lực-không có lực cho nên có thể hòa vào nhau.
Dựa theo Duyên, có nghóa đợi
chờ-không đợi chờ, cho nên có hai môn
đồng-dị. Dựa theo Tánh cũng có hai nghóa:
1-Không hoại duyên cho nên hòa
vào nhau;
2) Tướng của duyên không còn cho nên ngay trong nhau, đều
là nghóa về viên dung vô
ngại tự tại, dựa theo trên suy nghó về điều này.

Trong Dụ ba là
so
sánh về tính
số kiếp, trong này cũng có hai: Đầu
là trình bày về ví dụ vốn không có thể kịp được,
sau từ “Hà dó cố…”
trở xuống giải thích về
tướng vượt lên trên.
Trong phần đầu cũng có hai: Một là phân rõ về dụ rộng lớn, hai là
so sánh để hiển bày về vượt lên trên.

Trong phần một: Đầu là phân rõ về Đông phương có mười lớp tăng lên gấp bội có thể biết,
sau là tương tự kết luận về chín
phương cũng đều có mười.

Hai là trong
giải thích, trước là nêu ra-sau là giải thích.
Trong giải thích có hai: Đầu là không bởi vì nhận biết phạm
vi giới hạn như vậy…,
cho nên vượt qua trước; sau từ “Bồ-tát dục tất liễu tri…” trở xuống là trình bày bởi vì nhận biết về
sự không có phạm
vi giới hạn, cho nên không thể ví dụ.
Trong phần này có mười câu: Một câu đầu là nhận biết tổng quát; tám câu tiếp là nhận biết
riêng biệt. Sao nói là phân biệt nhận biết? Đó là như vậy hòa vào trong nhau trùng trùng thâu nhiếp nhau tự tại
vô ngại, như vậy nhận
biết mà thôi. Cũng có thể đầu là bình thường khắp nơi mà nhận biết,
sau là trùng trùng hòa vào trong nhau vô ngại
mà nhận biết hiển bày
về tướng thuần thục. Trong tám câu này:

Dài và ngắn ngay
trong nhau, dài là Đại kiếp-ngắn là
Tiểu kiếp, lại thế giới Ta-bà là kiếp ngắn, thế giới An Lạc… là kiếp dài, ngay
trong nhau cho nên vô ngại.

Một và nhiều ngay trong nhau.

Dựa theo có và không có Phật, như
Trang Nghiêm kiếp và Hiền kiếp… là kiếp có Phật, như vượt qua
Tinh Tú kiếp về
sau có
sáu vạn
hai ngàn kiếp đi qua trống trải không có Phật, bởi
vì hai kiếp này
ngay trong nhau.

Dựa theo Phật nhiều và ít, như trong Tinh Tú kiếp có tám vạn
Đức Phật xuất thế, là vô lượng Đức Phật
trong một kiếp, như lúc Đức
Phật Đại Thông Trí Thắng xuất thế, Phạm Vương ca
ngợi rằng: Có lúc ngàn kiếp… đi qua trống trải không có Phật, nay mới được thấy một Đức
Phật Đại Thông, cũng ngay trong nhau cho nên nói vậy.

Khác và không khác, là thuần-tạp vô ngại, hoặc quá khứ-vị lai gọi là khác, hiện tại gọi là
không khác, quá khứ-vị lai tiến vào hiện tại,
hiện tại tiến vào quá khứ-vị lai cho nên nói vậy.

Hết và không hết, là còn-mất vô ngại, như trời-người thấy kiếp
không còn, quốc độ này thường an ổn…

Một niệm tức là vô lượng kiếp, bởi vì tích lũy nhiều niệm trở
thành kiếp, không có Thể của kiếp riêng biệt cho nên tức là niệm.

Có và không có hòa vào nhau, là
suy ra vọng trở về chân, kiếp hòa vào không có kiếp, dựa vào chân khởi lên vọng, không có kiếp hòa vào kiếp; lại đầu là lấy
sự theo lý,
sau là lấy lý
theo sá»±, cho
nên vô ngại.

Trong kết luận, đầu là tổng quát kết luận về điều đã nhận
biết, sau là kết luận về
bổn thệ ấy, vì thế công đức giống như quả Phật,
cho nên không thể nói được.

Trong Dụ bốn là
so
sánh về nhận biết dục lạc của chúng
sinh, cũng có hai: Trước là trình bày về ví dụ vốn không có thể kịp
được, mười phương đều
có mười lớp tăng lên gấp bội có thể biết; sau từ
“Hà dó cố…” trở
xuống là giải thích về vượt lên trên.
Trong đó đầu là nêu ra nguyên cớ thù thắng,
sau là giải
thích nguyên cớ thù thắng.
Trong này,
trước không bởi vì phạm vi giới hạn… là trình bày về trước đây không kịp được lúc này,
sau từ “Dục tất tri…” trở xuống
là trình bày về tướng vượt qua trước.

Trong phần này: Một câu
đầu là tổng quát, đó là dùng trí lực
của Như Lai nhận biết dục
lạc của tất cả chúng sinh, nhận biết đối với
biển dục lạc của chúng
sinh, cho nên nói là đủ loại dục lạc. Sau trong
phần hiển bày riêng biệt
có hai: Đầu là dựa theo pháp nhận biết riêng
biệt, sau từ “Nhất nhất
chúng sinh…” trở xuống là dựa theo con người
nhận biết tất cả.

Luận nói rằng trước là nhận biết tất cả, sau gọi là nhận biết vi
tế cũng được. Trước
là tướng khác nhau, sau là tướng giống nhau.
Trong phần trước có 23 câu:

Dựa theo tâm mong cầu của
chúng sinh, riêng biệt gọi là vô lượng ham
muốn (dục), cùng mong mỏi một quả thì gọi là một ham muốn, tuy cùng mong mỏi một quả, nhưng mong cầu thực hành luôn
luôn sai khác, cho nên nói là không hủy hoại tánh
của tất cả các ham muốn. Lại bởi vì niệm của hy vọng không hai, cùng là trong cảnh
sai
khác do nhiều ham muốn thâu nhiếp, tâm-pháp không khác nhau cho nên nói tức là một, mà do vui thích
sai biệt cho nên nói là không hủy
hoại. Đây là dựa theo tâm của một chúng sinh, dục
lạc trước sau nhiều
loại nhưng ngay trong nhau vô ngại mà thôi.

Chỉ ra dục lạc nhiều loại sâu rộng như biển.

Chúng sinh khác loại, biển tâm dục lạc duyên khởi vô ngại vốn là ngay
trong nhau; lại biết thiện ác vô ký của một
chúng sinh, tất cả
chúng sinh cũng như vậy, cho nên nói vậy.

Ở
trong một chúng sanh tuỳ theo ba đời, dục lạc trước
sau đủ
loại mà biết, mỗi một chúng sinh thảy đều như
vậy, cho nên nói là
tất cả như nhau.

Trong đó chủng loại giống nhau thì gọi là tương tự, những vui
thích khác nhau thì gọi là không tương tự.

Dựa theo Tam thừa thì ham muốn sai khác gọi là tất cả, cùng quy về Nhất thừa thì gọi là chỉ một ham muốn, thật ra thì Nhất thừa gọi
là một ham muốn, quyền biến tách ra Tam thừa gọi
là tất cả các ham muốn. Lại dựa theo duyên khởi vô ngại, gồm chung các phần vị
Tự- Tha…, có thể biết.

Cùng quả trí của Phật, vốn là trí lực về dục là trong mười Lực.

Cầu mong Tam thừa… gọi là có ham muốn
bậc Thượng, cầu
mong Nhất thừa gọi là ham muốn Vô thượng.

Đối với nơi đã mong cầu, nếu như đến cuối cùng thì gọi là ham
muốn Vô dư, trái lại với trước thì gọi là Hữu dư.

Cầu lý gọi là như nhau, cầu sự gọi là không như nhau.

Nhờ vào tâm
sở khác thì có chỗ dựa, một mình khởi lên nhiều ham muốn gọi là không có chỗ dựa; lại dựa vào cảnh khởi lên ham muốn gọi là có nương tựa, nhận biết cảnh chỉ là tâm, tâm khởi lên
không có nhờ cậy gọi là không có nương tựa.

Mong cầu giống nhau gọi là chung, mong cầu khác nhau
gọi là không chung.

Ham muốn còn ở phần vị của nhân gọi là
Hữu biên, đến phần vị của Phật quả gọi là
Vô biên, bởi vì hoặc chướng phiền não không còn.

Thuận với lý gọi là ham
muốn thiện, trái với lý gọi là
ham muốn bất thiện.

Tùy theo lưu chuyển gọi là Thế gian, ngược với lưu chuyển
gọi là Xuất thế gian.

Mong cầu Trí đức của Phật gọi ham muốn thuộc Đại Trí.

Mong cầu Đoạn đức của Phật gọi là ham muốn thanh tịnh.

Vượt qua phần vị phàm phu-Tiểu thừa gọi là ham muốn thù thắng.

Mong cầu thành tựu các địa Bồ-tát là ham muốn chứng trí
Bát- nhã. Lại trong luận
giải thích: Ham muốn Đại Trí ở phần vị
chủng tánh,
ham muốn thanh tịnh là phần vị Kiến đạo, thù thắng
là phần vị Tu đạo,
Vô ngại trí là phần vị không có công dụng từ
Địa thứ tám trở lên.

Ở phần vị của
Phật quả, Đại Trí vô ngại viên minh
giải thoát.

Nhiễm mà không nhiễm gọi là ham muốn thanh tịnh, không nhiễm mà nhiễm gọi là không
thanh tịnh; lại nếu lìa xa danh lợi của thế
gian thì gọi là thanh tịnh, mong cầu danh lợi của thế
gian thì gọi không thanh tịnh.

Nhiều mong cầu gọi là rộng, ít mong cầu gọi là hẹp; lại Đại
Bi cứu giúp chúng sinh gọi là rộng, chuyên cầu tự
mình giải thoát
gọi là hẹp.

2
3-Mong cầu sâu xa gọi là vi tế, mong cầu cạn cợt gọi là thô thiển. Trong phần
sau là dựa theo con người phân rõ về tướng
giống nhau của ham muốn,
đầu là đưa ra mười số nêu ra tên gọi có tám,
đây là giảm số mười:

Bởi vì nỗi khổ
sinh tử bức bách cho nên mong muốn vui
với Niết-bàn, nghóa là bởi vì khổ mà nghó đến vui, như ở trong tù mong
cầu thoát ra.

Ở
trong sự việc thiện ác, nhờ nghe rồi tư duy mà sinh
khởi dục lạc, cho nên gọi là ham muốn phương tiện.

Đối
với sự việc vừa ý mong cầu gọi là ham muốn hy vọng.

Đạt
được rồi không rời bỏ gọi là ham muốn vướng vào ý vị.

Do chủng tử của nhân vốn có sinh ra gọi là tùy theo nhân
sinh
ra; lại từ Tư và Tưởng sinh ra, kinh nói: “Ham
muốn-ham muốn nhận
biết nguồn gốc của ông chỉ từ Tư và Tưởng sinh
ra, nay ta không nghó
đến ông, ông cũng không có thể sinh ra.”

Bên ngoài dựa vào cảnh
sinh ra gọi là tùy
duyên sinh, lại vì
thiện ác thay đổi trái ngược dẫn dắt sinh ra cũng
gọi là tùy duyên sinh.

Không có pháp nào không cầu gọi là ham muốn tất cả, lại cầu
Niết-bàn diệt hết tất cả cũng gọi là ham muốn tất cả.

Mở rộng mong cầu các pháp gọi là ham muốn tất cả, lại mong
cầu Vô biên Bồ-đề cũng gọi là ham muốn tất cả.

Trong phần sau
là tổng quát kết luận, mạng lưới ham muốn (dục võng) có ba nghóa:
1) Nghóa về khó thoát ra, như lưới giăng của thế gian thì cá chim khó thoát khỏi, do đủ loại lưới giăng của ham muốn mà
sinh tử khó thoát ra. Đây
là dựa theo nhiễm dục.
2) Nghóa về gạn lọc, như lưới gạn lọc ở thế gian, nghóa là khởi lên ham muốn thanh tịnh lọc lấy các hữu tình, khiến cho ra khỏi biển khổ sinh tử.
Văn sau nói:
Bậc Pháp Vương trí tuệ đã nói ham muốn là nguồn gốc của các pháp, nên
dấy khởi ham muốn thanh
tịnh quyết chí mong cầu Vô thượng đạo. Đây là dựa theo tịnh dục.
3) Nghóa về chiếu rọi kín đáo, như lưới giăng của Đế Thích sai biệt, các ham muốn nhiễm-tịnh đan xen qua lại, trùng trùng vô ngại hòa vào
nhau cho nên nói là lưới giăng. Đây là dựa theo
Thể của ham muốn.

Trong Dụ năm là
so
sánh về nhận biết các căn dựa theo ví
dụ, cũng thuận theo hiển
bày đầy đủ bởi vì chủng loại giống nhau, cho
nên trong văn sơ lược
phân rõ, là mong cầu đủ loại trí lực về các căn
trong mười Lực của Như Lai.

Trong Dụ sáu
hy vọng và dục trước đây khác nhau thế nào?
Gồm chung tức là một.
Trong đó có phân biệt, dục dựa vào bắt đầu cho
nên nói trước căn, hy
vọng dựa vào cuối cùng cho nên nói sau căn.

Trong Dụ bảy về nhận biết
phương tiện, tạo ra duyên dấy khởi hạnh gọi là
phương tiện, là phương tiện phát nghiệp cho nên
không giống như nghiệp.

Trong Dụ tám
về nhận biết tâm ý, bởi vì cầu Tha tâm trí của Như Lai, trước đây trình bày về pháp của tâm, ở đây phân rõ về
Thể của tâm.

Trong Dụ chín về nhận biết tướng
của nghiệp, là cầu trí lực
về nghiệp trong mười Lực
của Phật. Năm môn trên đây đều tóm lược
nêu ra, tương tự dục
môn ở trên, nên biết!

Trong Dụ mười là
so
sánh về khéo léo nhận biết phiền não,
có hai: Trước là trình
bày về ví dụ vốn không có thể kịp được, sau là
giải thích hiển bày về tướng thù thắng.

Trong tướng thù thắng: Trước
là nêu ra, sau là giải thích.

Trong giải thích: Trước là không bởi vì nhận biết phạm vi giới hạn cho nên hiển bày ở đây vượt qua trước,
sau từ “Tất dục phân biệt…”
trở xuống là trí lực
Lậu tận không có phạm vi giới hạn cho nên trình
bày trước đây vốn không kịp được.

Trong này, câu đầu là tổng quát, từ “Sở vị…” trở xuống là
hiển bày riêng biệt, có
mười tám câu, sơ lược đưa ra mười môn phân biệt:

Hai câu đầu dựa theo nặng nhẹ phân biệt, đó là tâm hời hợt
khởi lên gọi là phiền não nhẹ, tâm sâu nặng
khởi lên gọi là phiền não nặng. Lại vi tế khởi lên dễ ngăn chặn gọi là nhẹ, thô thiển khởi lên khó
chấm dứt gọi là nặng. Lại chánh sử là nặng,
tập khí sót lại là nhẹ.
Lại căn bản phiền não là nặng, tùy phiền não là
nhẹ. Lại trong tùy phiền
não thì Tiểu tùy là nhẹ, Thượng-Trung tùy là
nặng có thể biết.

Có hai câu, dựa theo
Sử-Triền phân biệt. Sử gọi là mười Sử, tức
là năm Kiến và Nghi-Tham-Sân-Si-Mạn. Triền gọi là mười Triền, tức
là Vô tàm-Vô quý-Thụy-Hối-Kiên-Tật-Trạo-Hôn-Phẫn và Phú. Luận
Địa Trì và Du Già nói là tám Triền trừ ra
Phẫn và Phú, vì
sao trừ ra?
Bởi vì có Luận sư nói:
“Phẫn và Phú là tánh của Sử, nghóa là Phẫn là tánh của
Sử thuộc Sân, Phú là tánh của
Sử thuộc Tham, vì ham lợi của
người khác mà che giấu
lỗi lầm của mình.” Sử và Triền khác nhau thế nào? Luận
Tạp Tâm nói: “Căn bản gọi là Sử, tất cả dịch thể trong thân gọi
là Triền cấu, ràng buộc
nặng gọi là Triền, ràng buộc nhẹ gọi là Cấu.
Lại trong này Kiết tức
là chín Kiết, có thể biết.

Có hai câu, dựa theo nhân quả phân biệt, vô lượng
phiền não của mỗi một chúng
sinh là quả đã dấy khởi
do tham-sân-si…, phiền não
giác quán là phiền não làm nhân mà sinh ra quả
ấy. Kinh Niết Bàn nói
có tám loại giác quán, cho nên nói là đủ loại:
1) Dục giác là mong cầu
sự việc vừa ý;
2) Sân giác là nghó đến người khác muốn nổi giận;
3) Não giác là nghó đến người khác muốn làm hại;
4) Thân lý giác là nhớ nghó về duyên gần gũi;
5) Quốc độ giác là nghó đến sự an nguy của thế gian;
6) Bất tử giác là tích lũy tài sản để nuôi sống;
7) Tộc tánh giác là nghó đến dòng họ cao
thấp;
8) Khinh vũ giác là kiêu mạn nghó đến cậy thế ức hiếp người.
Có hai câu, dựa theo gốc ngọn phân biệt, cũng là phân biệt về
Si-Ái, nghóa là Vô minh là Vô minh trú địa, dựa
vào Vô minh khởi lên là hằng
sa phiền não
bậc Thượng; Ái là Dục-Sắc có ba Ái, là Hữu ái trú
địa, tương ưng là phiền não tương ưng với Ái,
gọi là bởi vì Ái mà
sinh ra Ưu…

Có bốn câu, dựa theo ba căn bất thiện phân biệt, có thể biết.

Có hai câu, địa-khởi phân biệt, câu đầu là năm trú khởi, câu
sau là năm trú địa.

Dựa theo lợi-độn phân biệt, Ngã-Ngã sở là lợi, Mạn là độn.

Dựa theo thứ tự sinh ra nhau phân biệt, tà niệm hư vọng là ba
điên đảo thuộc Tâm-Tưởng-Kiến, sinh ra phiền não
là từ ba điên đảo
sinh ra bốn điên đảo.

Dựa theo gốc ngọn của các Kiến phân biệt, đó là 62 kiến đều
dựa vào Thân kiến mà sinh ra, bởi vì Thân kiến làm nguồn gốc.

Có hai câu, dựa theo lỗi lầm phân biệt, Cái đó là năm Cái, tức
là Tham-Sân-Thụy miên-Trạo-Hối và Nghi, che lấp người thực hành
không đạt được thiền trí cho nên gọi là Cái.
Chướng đó là hai chướng,
tức là phiền não và sở tri, vì vậy sở tri
chướng cũng có thể gọi là phiền não.

Trong phần
sau là kết luận, bởi vì phiền não khó thoát ra
cho nên gọi chung là mạng
lưới mê hoặc, bởi vì nhận biết rõ ràng về ngọn
nguồn
sâu xa của tất cả phiền não là Nhất thiết chủng trí, đều
muốn đoạn trừ làm cho
vónh viễn không còn là Đại Từ Bi.

Trong Dụ mười
một là so sánh về công đức cúng dường Phật,
có hai: Đầu là nêu ra
sự việc so sánh để trình bày về ví dụ vốn không
kịp được, sau từ “Hà
dó cố…” trở xuống là giải thích hiển bày về
vượt lên trên.

Trong phần đầu
có mười lớp, một lớp đầu là nói riêng biệt,
chín lớp còn lại là
nói tổng quát. Trong lớp đầu có bốn: Một là nêu ra
rộng rãi, hai là so sánh
để hỏi rộng rãi hay không, ba là đáp để hiển bày
rất rộng rãi, bốn là so
sánh để hiền bày về thù thắng.

Trong phần một: Trước là nêu ra
Đông phương,
sau là tương
tự chín phương còn lại.
Trong phần trước có năm:
1) Một niệm thấy nhiều Phật-nhiều chúng sinh;
2) Tự mình ở thời gian dài phát khởi nhiều sự
cúng dường;

Khuyến khích chúng
sinh cúng dường giống như mình trước đây;

Chính mình xây dựng chùa tháp đẹp đẽ để cúng dường;
5) Khuyến khích người khác cũng cùng nhau xây dựng chùa tháp
cúng dường.
Văn còn lại có thể biết.

Ngay trong phần giải thích hiển bày về vượt lên trên, có hai:
Trước là nêu ra,
sau là
giải thích. Ý nêu ra hỏi rằng: Tạm thời như
Đông phương trong một
niệm đã thấy vô biên chư Phật, bởi vì niệm lực này trải qua vô lượng kiếp
cúng dường, trình bày về chư
Phật rất nhiều;
như Đông phương, chín phương còn lại cũng như vậy, tức là hiển bày
về vô cùng nhiều. Như
một người đã như vậy lại còn khuyến khích tất cả chúng
sinh khác cũng như vậy, huống hồ tăng thêm gấp bội vượt qua trước? Đến lớp thứ mười trình bày về phạm vi giới hạn của công
đức này khó biết, dựa
vào đâu để so sánh công đức phát tâm này, cho
đến không bằng một phần
ở trong phần không thể nói được, cho nên nói
là nguyên cớ thế nào?
Trong phần
sau là
giải thích: Trước là trình bày không bởi vì phạm vi giới hạn cho nên hiển bày về trước kém hơn ở đây,
sau từ
“Dục tất…” trở xuống là
bởi vì không có phạm vi giới hạn cho nên hiển bày ở
đây vượt qua trước.

Trong này, tướng vượt qua tuy là vô lượng, nhưng nói tóm
lược thì có sáu loại:

Xứ vượt qua, nghóa là bởi vì mong muốn cúng dường tất cả chư Phật ở vô tận thế giới như hư không pháp giới vô tận khắp
mười phương, đây là tất cả nơi chốn như lưới giăng của Đế Thích cho nên không giống

vá»›i trÆ°á»›c.

Thời vượt qua, nghóa là tất cả chư
Phật ba đời, tức là tất cả thời
gian trùng trùng vô tận như chín đời-mười đời.

Phật vượt qua, nghóa là tất cả các cảnh giới Phật vốn có chư
Phật, đều cúng dường cho nên không phải là chỉ giống như trước.

Cúng dường vượt qua, nghóa là trong tất cả pháp giới có
Tự- Tha, Sắc-Tâm, Lý-Sự, Hành… đều dùng đẻ cúng
dường, không phải là
chỉ giống như trước.

Tâm vượt qua, nghóa là đối với vô tận cảnh Phật trước đây, nơi mỗi một Đức Phật đều dùng
sự vật cúng dường vô tận, đều trải qua thời
gian vô tận mà tâm cúng dường hãy còn không
cạn, cho nên vượt qua.

Hành vượt qua, nghóa là thông hiểu rõ ràng về
năng-sở, ba
sá»±
bình đẳng viên dung vô ngại, cho nên vượt qua.
Hỏi: Chỉ có thể hoàn toàn
so
sánh không phải là như nhau, lẽ
nào có thể không giống
như một phần trong phần không thể nói được hay sao?
 Đáp: Công đức phát tâm này tức là giống như pháp giới,
 vì vậy không có thể phân tích,
 cho dù một phần trong phần không thể nói được cũng tức là khắp nơi pháp giới, không hỏi gì nhiều ít đều không
gì sánh được; như một Hộc thóc gạo của Thường trú Tăng cũng là của tất
cả mười phương Tăng,
cho đến một Đấu cũng là của tất cả mười
phương Tăng, bởi vì chính
là không có thể phân ra, suy nghó có thể biết.
Trong phần thứ ba là ngay nơi tướng hiển bày về
sâu xa, có hai:

Trước là nêu ra, sau là giải thích.

Trong phần trước, phát tâm này rồi, là nhắc lại tâm đã so
sánh ở các ví dụ trước đây, tức là nêu ra chữ
Phát Tâm; từ “Đắc tri…” trở
xuống là nêu ra phân rõ
về công đức rất sâu xa. Trong đó: Một là thâu
nhiếp tất cả nhân cho
nên sâu xa, hai là giống như quả Phật cho nên sâu
xa. Trong này, Phát là xuyên
suốt Bồ-đề của thời gian
trÆ°á»›c sau,
Tâm là cùng tận tất cả cảnh Phật.

Trong phần trước: Một là nêu ra cảnh đã nhận biết, đó là nhận biết về công đức trí tuệ của chư
Phật ba đời; hai là thành tựu công hạnh
sâu xa, đó là Tín hướng là
Thập Tín, Thọ trì là
Thập Trú, Tu tập là
Thập Hạnh-Thập Hồi Hướng, Đắc chứng là Sơ Địa trở lên, Thân chứng là Thập Địa đầy đủ trở
về sau.
Lại nữa, Nội chứng là Đắc chứng, tướng bên ngoài rõ ràng cho nên nói là
Thân chứng, như trong Tiểu thừa lấy Diệt tận định làm
Thân chứng, ở đây cũng như vậy.
Lại nữa, đầu là
Hành chứng, sau là
Vị chứng. Lại nữa, đầu là Trí tương ưng,
sau là
Thân tương ưng.
Lại nữa, có thể Đắc chứng là dựa theo
nhân tròn vẹn, Thân chứng là dựa theo quả đầy đủ. Hai là đều giống
như công đức của chư
Phật, là giống như quả Phật cho nên sâu xa.

Hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích hai phần nêu ra trước đây, trong đó có ba: Đầu là giải thích về nhân như nhau, tiếp là
giải thích về quả như
nhau, sau là kết luận về phạm vi giới hạn của nhân.

Trong phần đầu: Trước là
nêu ra hỏi, nghóa là vì sao biết Sơ phát tâm đã lập tức có thể chứng được Đại phước trí của chư Phật ba
đời? Sau trong phần giải
thích có 20 câu hiển bày, nghóa là cùng âm với
con đường đã đi qua của
chư Phật ba đời, cho nên nói là như nhau.
Trong đó 11 câu đầu là đức giáo hóa bên ngoài, 9 câu
sau là đức tự nhiên
bên trong. Lại trước là
Bi đức, sau là Trí đức.
Trong 11 câu trước: Một câu đầu là tổng quát, đó là giáo hóa chúng
sinh làm cho phát tâm Bồ-đề, nối tiếp chủng tử Phật cho
nên nói là không đoạn
dứt. Mười câu sau hiển bày riêng biệt:
1) Khởi tâm thương xót chúng sinh.
2) Thực hiện ý định cứu độ.
3) Biết về trú xứ đã giáo hóa.
4) Biết về chủng loại khác nhau đã giáo hóa, nghóa là nghiệp thiện ác sinh khởi quả báo khổ vui cho nên nói là khởi lên cấu tịnh, cũng là trí lực về nghiệp trong mười Lực.
5) Khởi ý rộng lớn cũng là khiến cho lìa xa nghiệp chướng.
6) Biết về hoặc chướng nặng nhẹ của chúng sinh đã giáo hóa, cũng là mong cầu trí lực về Lậu tận, cũng là khiến cho đoạn hết phiền não chướng.
7) Biết về tướng luân chuyển, cũng là trí lực về Thiên nhãn, cũng là khiến cho rời bỏ báo chướng.
8) Biết về căn thuần thục-chưa thuần thục, là khởi hạnh làm chỗ dựa,
tức là trí lực về các
căn.
9) Biết về tâm thành tựu tu đích thực sáng tỏ khởi hạnh, cũng là trí lực về Tha tâm.
10) Tổng quát kết luận về những gì đã nhận biết, cũng là trí lực về Tam đạt.
Trong 9 câu sau
là cầu đức Tự lợi của Phật, một câu đầu là tổng quát, tám câu còn lại là
riêng biệt.
Trong đó: Hai câu đầu là
Nhân-Quả phân biệt, một
là biết về quả Bồ-đề, hai là biết về nhân
Bồ-đề, đó gọi là pháp thanh tịnh.
Hai câu tiếp là Lý-Hành phân biệt, một là biết
về Lý pháp bình đẳng,
hai là biết về Trí hành thanh tịnh. Bốn câu tiếp
là Thể-Đức phân biệt,
ba câu đầu là Đức của Phật, một là Thập lực,
hai là Vô úy, ba là Bất
cộng; một câu sau là Thể của Phật, đó vốn là
Thật trí bình đẳng.
Trong phần hai là giải thích về quả như nhau: Trước là nêu ra phát
khởi, sau là giải thích thành tựu.

Trong giải thích thành tựu: Một
câu đầu là tổng quát, hai là riêng

biệt, ba là kết luận.

Trong câu đầu, bởi vì chính là Phật, có người giải
thích: Hoặc nói rằng trong nhân nói về quả, hoặc nói rằng hiểu biết giống như
cảnh Phật, hoặc nói rằng
dựa theo lý bình đẳng. Nếu dựa theo giáo của
Tam thừa thì cũng có thể
nói như trên, nay tìm theo văn trên dưới, dựa
theo Viên giáo của Nhất
thừa thì từ đầu đến cuối thâu nhiếp lẫn nhau, viên dung vô ngại, đạt được bắt đầu tức là cuối cùng, cùng tận cuối cùng
mới bắt đầu:
1) Bởi vì Đà-la-ni môn duyên khởi thâu nhiếp nhau;
2) Bởi vì tâm Bồ-đề của Phổ Hiền đầy đủ tất cả sáu phần vị, ngay nơi nhân là quả;
3) Bởi vì pháp tánh không có bắt đầu và cuối cùng, cho nên phát tâm tiến vào bắt đầu thì chính là cuối cùng.
 Vì vậy văn trên nói: Lúc mới phát tâm liền thành Chánh giác, thân đầy đủ Tuệ, không từ
nơi khác mà tỏ ngộ, là
nói đến nghóa này.
Trong phần hai là
riêng biệt, có 15 câu: Năm câu đầu dựa theo
đức bên trong đầy đủ như Phật, mười câu sau dựa
theo dụng giáo hóa
bên ngoài rộng khắp mọi nơi như Phật.

Trong năm câu
đầu là Nội đức, một câu là tổng quát, bốn câu
là riêng biệt.
Trong riêng biệt: Hai câu đầu là pháp Sở y như nhau, một
là cảnh Tục đế, hai là
cảnh Chân đế; hai câu sau là đức Năng y như
nhau, một là thân-hai là trí.
Trong mười câu
sau là
Ngoại dụng, một câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại là
riêng biệt.
Trong riêng biệt: Ba câu đầu là giáo hóa
khiến cho thoát khỏi khổ,
một là tác động làm cho sinh khởi niềm tin, hai
là chiếu rọi làm cho kinh sợ thức tỉnh, ba là chính thức làm cho thoát
khổ. Năm câu tiếp là
giáo hóa làm cho tiến vào pháp, một là trang nghiêm nơi chốn giáo hóa, hai là hiện tướng
thành Phật, ba là hiện bày thần thông làm cho vui mừng, bốn là chính thức làm cho tiến vào pháp,
năm là tiến vào pháp
rồi bảo vệ làm cho không sai lạc. Một câu sau cuối
là kết luận về trí giáo hóa bên ngoài.

Lại giải thích, trong 15 câu này, một câu đầu là tổng quát, 14
câu là riêng biệt. Trong
riêng biệt: Năm câu đầu là Trí chánh giác thế
gian tự tại…, trong đó hai câu đầu dựa vào pháp như nhau, câu một là
sở duyên và phạm vi giới hạn như nhau, câu hai là lý giáo như nhau, ba
câu sau là ba nghiệp như nhau, đó là đã giáo hóa dựa theo ngữ nghiệp
phân rõ. Bốn câu tiếp
là Khí thế gian tự tại…, trong đó một là rung động, hai là
soi chiếu, ba là loại trừ, bốn là
trang nghiêm. Năm câu
sau cuối
là Chúng sinh thế gian tự
tại…, một là thị hiện, hai là làm cho vui
mừng, ba là trao cho pháp,
bốn là bảo vệ giữ gìn, năm là đạt được quả. Bởi vì
nếu không
bảo vệ thì sợ rằng rơi vào địa vị của Nhị thừa.
Trong phần ba là kết luận về phạm vi giới hạn của nhân,
trong ba đời không lìa xa
các pháp nhiễm tịnh như Tam Bảo-chúng sinh…,
ở đây có hai nghóa: Một
là do Bồ-tát đạt được thân nối thông của ba đời, cho nên luôn luôn khắp nơi ba thời gian, không thời gian nào không
tồn tại. Hai là do Bồ-tát
đạt được thân ngay nơi pháp giới, về không gian thì hàm chứa
nhiễm tịnh, về thời gian thì có khắp ba đời, cho nên nói
là không lìa xa. Văn còn lại có thể biết.

Thứ hai là trong phần hiển thật chứng thành, có hai:
Một-Trong hiển thật, một
là mặt đất rung động, hai là mưa hoa cúng dường, ba
là âm thanh chấn động,
bốn là phát ra ánh sáng. Hai-Trong chứng
thành, có hai: Trước là thị hiện về
Thân chứng, sau là nêu ra lợi ích của
Chứng. Trong phần trước,
vì sao Phật tự chứng, là bởi vì Sơ phát tâm liền thâu nhiếp nhân quả của Phật,
sự việc này khó tin cho nên
Phật tự chứng. Lại bởi vì biểu thị cho tánh giống nhau của nhân quả.
 Lại bởi vì biểu thị cho nhân quả Thắng tiến thâu nhiếp thành tựu. Trong phần
sau là nêu ra
lợi ích, nêu rõ những
điều mà Pháp Tuệ thuyết giảng trong tất cả thế
giới kia, đã có lợi
ích này thì nhận biết rõ ràng pháp này quyết định
không hư vọng, cũng bởi vì thuyết giảng về pháp này khó tin nhận, cho nên dẫn đến
Chứng này, bởi vì tâm này thâu nhiếp chứa đựng công đức
tròn vẹn thanh tịnh, cho
nên gọi là Tịnh Tâm Như Lai.

Trên đây là phần Thuyết giảng trong một thế giới này, xong.
Thứ hai là trong phần kết luận nối thông, có hai: Trước là hiển bày về pháp rộng khắp vô tận thế giới,
sau là có mười câu giải thích về nguyên cớ rộng khắp, nghóa là vì
sao pháp này rộng khắp
mười phương, mà nơi
thuyết giảng-người thuyết giảng-pháp thuyết giảng
và Chứng thảy đều
giống nhau như vậy? Giải thích là bởi vì mười câu
như Phật lực…:
1) Phật Lô-xá-na này và tất cả chư Phật, đều dùng lực của uy thần hiện tại cùng nhau gia trì cho nên khiến như vậy;
2) Do bổn nguyện của chư Phật
đã thâu nhiếp hộ trì;
3) Bởi vì muốn biểu hiện rõ ràng về pháp mà chư Phật đã đạt được, lý thường xuyên như vậy khắp nơi mười phương;
4) Trình bày về ánh sáng trí tuệ của Phật khiến cho soi chiếu khắp nơi;
5) Muốn làm cho hiểu rõ ràng về chân lý rộng khắp mọi nơi;
6) Tướng duyên khởi của pháp giới bởi vì pháp vốn như
vậy cho nên phải thuyết
giảng khắp nơi;
7) Bởi vì người vui mừng đối với Đại pháp thì nêu rõ pháp rộng lớn xứng tánh này khiến cho hoan hỷ;
8) Bởi vì muốn ca ngợi đầy đủ về công đức của Phật rộng khắp mọi nơi;
9) Biểu hiện rõ ràng về pháp mà tất cả chư Phật trong mười phương đã đạt được như nhau, pháp ấy vốn là bình đẳng không có gì khác nhau;
10) Bởi vì làm cho hiểu biết mười phương pháp giới không có hai đường.
 Bởi vì mười nghóa này cho nên thuyết giảng rộng khắp mọi nơi, sở dó nói là mười cũng
là phương thức phép tắc hiển bày về vô tận mà
thôi. Nghóa của các văn trên dưới kết luận nối thông, đều dựa theo
đây có thể biết.

Trên đây là phần trường hàng nói phân tán về tất cả các nơi,
bao gồm vô tận thế giới
thuộc cõi này-phương khác, xong.
Trong đoạn lớn thứ hai là kệ tụng tổng quát
thâu nhiếp, có hai:
Trước là tựa về ý thuyết giảng, sau là chính thức tụng lại. Trong phần
trước có mười câu:

Bởi vì vô tận thế giới khắp mười phương cùng thuyết giảng về
pháp này, do đó cần phải quán sát.

Bởi vì muốn để cho tất cả hải chúng trong mười phương
đều nghe giống nhau.

Bởi vì hiển bày tự tâm như hư không, vốn không có gì
thiên lệch hạn hẹp.

Vốn là pháp môn quán sát thành tựu chúng sinh.

Quán sát phù hợp với pháp tánh tuy thanh tịnh như hư không mà
nhân quả vốn không mất.

Muốn khiến cho lìa xa phiền não.

Đạt
được giải thoát của Nhất thừa.

Thông hiểu rõ ràng về căn hải.

Hội tụ duyên tiến vào thật.

Hiện rõ công đức phát tâm tự nhiên vô tận để cho Đại chúng
thấy rồi mà tu học.

Ngay trong phần
chính thức tụng, toàn bộ có 241 tụng rưỡi phân bốn: Một có 163 tụng rưỡi,
 tụng ngược lại văn của đoạn thứ ba ngay nơi tướng trước đây; hai có 29 tụng, tụng về văn
so
sánh của
Dụ thứ hai trước đây; ba
có 39 tụng, tụng về văn đầu tiên sơ lược hiển bày
về thậm thâm trước
đây; bốn có 10 tụng về tổng quát ca ngợi hiển
bày thù thắng.

Ngay trong văn phần một, phân dài có 27 đoạn:

Sáu tụng, tụng về văn mong muốn làm cho tâm Từ Bi đầy khắp
mười phương thế giới… trước đây.

Từ “Dục tất phân biệt tri…” trở xuống là bảy tụng, tụng về văn mong muốn biết rõ tất cả thế giới rộng hẹp ngay trong nhau-hòa vào
nhau… trước đây, trong này đều hiển bày về tác
dụng làm lợi ích cho

chúng sinh…

Từ “Dục linh chư Phật chủng…” trở xuống là ba tụng, tụng về
văn bởi vì mong muốn không đoạn mất Phật chủng… trước đây.

Từ “Tín tâm bất khả tữ…” trở xuống là hai tụng, tụng về văn
đều đạt được ánh sáng rực rỡ của trí tuệ
chư Phật trước đây.

Từ “Tất năng phân biệt tri…” trở xuống là hai tụng, tụng về văn
mong muốn biết các loại nghiệp-các loại tâm-các
loại căn tánh… của
chúng sinh trước đây.

Từ “Bồ-đề tâm vô lượng…” trở xuống là sáu
tụng, tụng về văn mong muốn đạt được trí tuệ bình đẳng của chư Phật ba đời như
pháp giới trước đây.

Từ “Thanh tịnh vô lượng tâm…” trở xuống là hai tụng, tụng về
văn cúng dường tất cả chư Phật trước đây.

Từ “Ư chư thậm thâm pháp…” trở xuống là tám tụng, tụng về
văn nhân duyên đạt được trí tuệ của Phật trước
đây, nghóa là nhân của trí tuệ tức là
Tam-muội rất
sâu xa, và từ cảnh Chân như mà
sinh ra.
Bởi vì trong này đều hiển bày về tác dụng của thông tuệ.

Từ “Cụ túc Đại Bi tâm…” trở xuống là chín tụng, tụng về văn
độ thoát tất cả chúng sinh… trước đây.

Từ “Thế giới nhược thành hoại…” trở xuống là ba tụng, tụng về văn biết thế giới thành hoại… trước đây, nghóa là thành hoại này chỉ có cảnh thuộc trí Phật, nay tin Phật không nghi ngờ gì cho nên cũng
nhận biết rõ ràng.

Từ “Tận ư vị lai tế…” trở xuống là năm tụng rưỡi, tụng về văn chấm dứt các khổ đau ở nẽo ác của chúng
sinh trong tất cả thế
giới trước đây.

Từ “Bồ-tát phóng đại quang…” trở xuống là bảy tụng, tụng về
văn đều có thể soi chiếu khắp tất cả các thế
giới trước đây, trong này
bao gồm phân rõ thưa hỏi Đức Phật thuyết pháp
trong quốc độ đã
soi chiếu.

Từ “Minh tịnh lợi trí tuệ…” trở xuống là bốn tụng, tụng về văn
cùng với Chánh pháp của chư Phật ba đời… trước đây.

Từ “Thanh tịnh diệu pháp thân…” trở xuống là mười một tụng,
tụng về văn đều ở tại tất cả thế giới thị
hiện thành Phật… trước đây.

Từ “Nhất thân tất
sung mãn…” trở xuống là tám tụng, tụng về
văn đạt được trí tuệ bình đẳng của Phật… trước đây.

Từ “Nhất thiết chư thế giới…” trở xuống là tám
tụng, tụng về văn đạt được một thân-vô lượng
thân… của Như Lai trước đây.

Từ “Kỳ tâm vô sở nhiễm…” trở xuống là mười tụng, tụng về
văn cũng cùng cảnh giới chư Phật ba đời… trước
đây. Đây là phạm vi giới hạn của cảnh giới, có mười loại như nhau: Một là lìa nhiễm như nhau, hai là cứu giúp chúng
sinh như nhau, ba là trí tuệ như nhau, bốn là
tướng tốt như nhau, năm là sự nhận biết như nhau,
sáu là chứng lý như nhau, bảy là định
sâu xa như nhau, tám là hành vững chắc như nhau,
chín là tâm an như nhau, mười là sung mãn như nhau.

Từ “Dục cầu Đạo sư tuệ…” trở xuống là hai tụng nêu ra đức
khuyến khích tu tập.

Từ “Bồ-tát Ma-ha-tát…” trở xuống là bốn tụng hiển bày về
phạm vi giới hạn của thuyết giảng.

Hai đoạn trên
không tụng về văn trước đây.

Từ “Thiện phân biệt chúng
sinh…” trở xuống là
sáu tụng, tụng về đạt được ánh
sáng trí tuệ rực rỡ của chư
Phật ba đời, nghóa là
soi
chiếu cảnh Tục thường thuộc về Chân.

Từ “Vô lượng bất khả
số…” trở xuống là bốn tụng, tụng về
văn đều có thể trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới trước đây.

Từ “Tuệ nhãn vô chướng ngại…” trở xuống là
tám tụng, tụng về văn cùng với chúng
sinh mà chư Phật đã giáo hóa thảy đều
giống nhau… trước đây.

Từ “Tất năng thiện phân biệt…” trở xuống là bốn tụng, tụng về văn nhận biết về kiếp dài-ngắn ngay trong nhau-hòa vào
nhau… trước đây.

Từ “Thành tựu trí tuệ lực…” trở xuống là mười hai tụng, tất cả
tụng về văn Sơ tâm đã đạt được trí về mười
lực của Phật trước đây.

Từ “Nhất nhất mao khổng trung…” trở xuống là chín tụng,
tụng về văn đều có thể chấn động vô lượng
thế giới trước đây, nghóa là
hòa vào lưới giăng của Đế Thích…

Từ “Như thị thâm pháp môn…” trở xuống là bảy tụng, tụng về
văn đều mong muốn trưởng dưỡng trí tuệ của chư Phật trước đây.

Từ “Bồ-tát Ma-ha-tát…” trở xuống là sáu tụng, tụng về văn
Bồ-tát không lìa xa chư Phật, Bồ-tát và Nhị thừa chúng
sinh… trước đây.

Từ đầu đến đây toàn bộ là tụng ngược lại đoạn thứ ba, văn
phân rõ ngay nơi Tướng.
Từ đây về
sau là phần hai có 29 tụng, tụng về văn thứ hai dựa
vào Dụ để so sánh, trong đó:

Sáu tụng đầu, tụng về Dụ thứ nhất là lợi ích chúng sinh.

Từ “Vô lượng vô hữu biên…” trở xuống là hai tụng, tụng về
Dụ thứ hai là bước chân và quốc độ trước đây.

Từ “Khứ-lai-hiện tại kiếp…” trở xuống là bốn tụng, tụng về
Dụ thứ ba là tính số kiếp trước đây.

Từ “Thập phương thế giới trung…” trở xuống là
sáu kệ, tụng về
năm Dụ như dục… trước đây, một là dục, hai là
hy vọng, ba là căn, bốn
là phương tiện, năm là tâm, pháp hợp có thể biết.

Từ “Nhất thiết chúng sinh loại…” trở xuống là bốn tụng, tụng
về hai Dụ thứ chín-thứ mười là nhận biết
nghiệp-phiền não trước đây.

Từ “Thập phương chư thế giới…” trở xuống là bảy tụng, tụng
về Dụ thứ mười một là công đức cúng dường
chư Phật thứ trước đây.

Trên đây đoạn lớn thứ hai về Dụ so sánh, xong.

Thứ ba từ “Tam thế nhân trung tôn…” trở xuống có 39 tụng,
tụng về văn thứ nhất
là nêu ra ca ngợi hiển bày sâu xa trước đây,
trong đó phân làm bảy:

Có bảy tụng, tụng về văn của câu tổng quát rất
sâu xa đầu tiên
trước đây, đó là sâu xa bởi vì thấu suốt quả
Phật, sâu xa bởi vì vượt lên
trên quả báo của chúng sinh, sâu xa bởi vì giống
như pháp tánh, sâu xa bởi vì tác dụng rộng khắp mọi nơi,
sâu xa bởi vì trí nhận biết xa vời, đều
như văn có thể biết.

Từ “Thường tu diệu công đức…” trở xuống là bảy tụng, tụng
về phần thứ hai rất sâu xa khó biết trước đây,
trong đó bốn tụng đầu là tự nhiên
sâu rộng khó biết, hai tụng tiếp là Phật dùng đức
sâu xa gia
trì khó biết, một tụng sau cuối là kết luận về
đức khó biết, nghóa là đức như hư không, không phải là tính toán mà có thể biết được, cho nên
gọi là khó biết.

Từ “Sơ phát tâm Bồ-đề…” trở xuống là năm
tụng, tụng về rất
sâu xa khó tin trước đây, nghóa là bởi vì mới phát tâm liền thành tựu
công đức vô biên của quả Phật, cho nên điều
này khó tin nhận.

Từ “Nhất thiết
Bích-chi Phật…” trở xuống là tám tụng, tụng về
rất sâu xa khó hiểu trước đây, nghóa là khiến
cho Nhị thừa có được an lạc trong ba cõi, chính là ở trong
sơ phát tâm
của Bồ-tát,
sự việc này khó
hiểu, vì thế trong văn: Bốn tụng đầu nêu ra hai
phần vị đạt được niềm
vui, mỗi phần vị có hai tụng; bốn tụng sau giải thích
về nguyên cớ đạt
được niềm vui của hai phần vị ấy, cũng đều có
hai tụng có thể biết.

Từ “Vô lượng trí tuệ minh…” trở xuống là năm tụng, tụng về rất
sâu xa khó nói trước đây, nghóa là trí
sâu xa-đức rộng lớn, nghiệp dụng rất nhiều, bàn nói giảng giải khó đến được, cho nên nói là ca ngợi

không thể hết được.

Từ “Phổ quán nhất thiết pháp…” trở xuống là bốn tụng, tụng về
rất sâu xa khó thông suốt trước đây, nghóa là
tâm trú trong bình đẳng vì
chúng thuyết pháp, bởi vì hai phần vị trái ngược
nhau làm cho hết
sức
thuận theo nhau, cho nên rất khó lónh hội thông suốt.

Từ “Vô lượng diệu công đức…” trở xuống là ba tụng, tụng về rất
sâu xa khó phân biệt trước đây, nghóa là Sơ tâm này giống như phạm
vi giới hạn của phần vị Phật, cho nên khó phân biệt.

Đoạn lớn thứ tư từ “Dục đắc nhất thiết Phật…” trở xuống có mười tụng về kết luận ca ngợi khuyến khích tu tập, hai tụng đầu là nêu ra
đức để khuyến khích tu
tập, hai tụng tiếp là hiển bày về đức sâu rộng, bốn tụng tiếp là hiển bày về công năng thù thắng của đức dụng, hai tụng
sau cuối là khuyến khích
học hỏi đến cuối cùng.

---------------------------------

<詞>Phẩm 14: MINH PHÁP Bốn môn giống như trước.</詞>

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: có bốn nghóa:

Hành pháp của phần vị
sau nhờ vào hiểu rõ phần vị trước,
Minh này tức là pháp.

Minh là giáo, Pháp là nghóa.

Minh là trí-Pháp là cảnh, đây là hiểu rõ
về pháp-pháp đã hiểu rõ

Trí hành lìa nhiễm ngay nơi tướng gọi là Minh, ngay nơi Minh hợp với quy phạm là bởi vì xứng với pháp. Lại các hành
soi chiếu rõ
ràng xứng với tánh là Minh, quy phạm tuyệt diệu
của Thể ấy vốn cũng nói là Pháp, cho nên nói là
Minh Pháp, không như vậy là tối tăm thì
cũng không phải là pháp.

Ý đưa
ra: Trước đây trình bày về Thể đức của phần vị ấy, nay phân rõ về nơi của
Dụng thù thắng, bởi vì nghóa
sau theo thứ tự cho nên đưa ra; lại trước đây trình bày về
Tự phần, nay hiển bày về
Thắng tiến, cho nên tiếp theo đưa ra.

TÔNG THÚ: Trình bày về pháp
không giống nhau có bốn loại:

Lý pháp, đó là tánh Chân như.

Hành pháp, đó là các hạnh như sáu Độ….

Giáo pháp, đó là mười hai phần giáo.

Quả pháp, đó là Bồ-đề Niết-bàn.

Nay ở đây chính là trình bày về
Hành pháp, bao gồm trình bày
ba loại còn lại, cho nên
lấy làm Tông. Lại trong bốn loại này, dựa vào Lý
mà khởi Hạnh, dựa vào Hạnh mà thành Quả, Giáo
giải thích về ba
loại trước, cho nên chỉ
có bốn loại mà thôi.

GIẢI THÍCH VĂN, văn
này phân ba: Một là phần Thỉnh, hai
là phần Thuyết, ba là phần Chứng tín.

Trong phần một có hai: Đầu
là trường hàng, sau là kệ tụng.
Trong phần trước có hai: Đầu là hiểu rõ Tự phần trước đây,
sau là
hỏi về Thắng tiến sau này.

Trong phần đầu: Nếu không
phải là căn cơ chịu khó thúc đẩy,
thì không làm sao có thể
tiếp nhận pháp Thắng tiến chuyển đổi tăng lên. Lại nếu không phải là đầy đủ Hành pháp thanh tịnh chân thật
thấu suốt này, thì không làm
sao có năng lực
thuyết giảng, cho nên
Tiến Tuệ thưa hỏi-Pháp Tuệ thuyết giảng.
Trong tụng có tám câu, một câu là tổng quát, bảy câu
là riêng biệt.
Trong riêng biệt:
1) Đại thệ tự trang nghiêm;
2) Hành thừa và Quả thừa;
3) Tiến vào phần vị của nhân, lìa ra hãy còn không có, nghóa là đến đạo của phần vị Vô sinh, nơi khác giải thích là phần vị Sơ Địa,
đây là thuộc về Địa
tiền cho nên thâu nhiếp lẫn nhau;
4) Tách ra;
5) Hướng về;
6) Cùng trú như Phật;
7) Nhất định thành tựu quả. Hai là trong phần chính thức hỏi về Thắng tiến sau này, có hai: Trước là chính thức
hỏi về Thể của Hành pháp, sau là hỏi về Đức
dựa vào hành mà thành tựu.

Trong phần trước toàn bộ có 11 câu: Sáu
câu đầu là hành Tự lợi,
bốn câu tiếp là hành Lợi tha, một câu sau cuối là
tổng quát kết luận về
hai Lợi cứu cánh.

Trong phần đầu, Bồ-tát ấy là nhắc lại người đầy đủ đức phát tâm trước đây.
 Câu một là hỏi tu tập hạnh gì khiến cho công đức trở nên thù thắng?

Hỏi: Trong phẩm trước nói: Các Tam-muội rất sâu xa, vô
lượng Đà-la-ni môn, lực tự tại của chư Phật, vô lượng công đức tuyệt
diệu, trang nghiêm cho sơ
phát tâm; lại nói tức là giống như Phật, thiếu
pháp gì mà tu tập thêm nữa? Đáp: Đây là phần vị Đại trong hạnh
Phổ Hiền thuộc Viên giáo
có hai môn, đều thâu nhiếp pháp giới, trước là dựa theo Tự phần, ở đây phân rõ về
Thắng tiến. Trong trước cũng đầy
đủ sau, trong
sau cũng
đầy đủ trước, nhưng
trước luôn luôn không phải là sau, sau luôn luôn không phải là trước, nghóa là đầy đủ
sau của trước không phải là trước, đầy
đủ trước của sau không
phải là sau, cho nên phần vị phân ra trước sau, mà
thâu nhiếp nghóa luôn luôn đầy đủ.

Câu hai là hỏi tu tập hạnh gì khiến cho Như Lai hoan hỷ, vì thế cho nên nói tu tập thế nào, nối thông đến các
câu sau, đều dựa theo như
vậy.
3) Hỏi về phần vị.
4) Dựa vào phần vị khởi
hạnh.
5) Đại nguyện giúp đỡ thành tựu.
6-Tích lũy công đức thành kho tàng. Trong Lợi tha: Một là giáo
hóa thuận theo căn cơ chúng sinh; hai là không bỏ dở công hạnh của mình; ba là đi đến mong muốn hóa
độ chúng sinh, đời trước căn cơ này thuần thục là khác; bốn là giáo
hóa khiến cho hướng về
Bồ-đề, làm cho Tam Bảo không đoạn tuyệt mà
trở nên hưng thịnh.
Trong một câu
sau cuối là kết luận về hai Lợi, cảnh của thiện
căn là kết luận về Tự
lợi, phương tiện là kết luận về hạnh giáo hóa, cả
hai đều cứu cánh cho nên
nói là không hư vọng.

Từ “Thiện tai…” trở xuống cho đến “… dục văn”, văn này có
hai ý: Hướng lên trên
thì trở thành kết luận thưa thỉnh khuyến khích thuyết

giảng, hướng
xuống dưới tức là mong mỏi nghe câu hỏi sau.

Trong phần hai
là hỏi về đức đã thành tựu, như công đức mà
các Bồ-tát đã tu, là
tổng quát nêu ra đức đã dựa vào.

Từ “Diệt trừ…” trở xuống là trình bày về dựa vào đức mà thành tựu là pháp đã hỏi. Trong đó dựa theo phần đáp ở
sau toàn bộ có 18
câu phân hai: Đầu là 17 câu trình bày về Đức đầy đủ,
sau từ “Đắc thiện
căn lực…” trở xuống
là trình bày về Dụng thù thắng.
Trong phần đầu có hai: Trước là 16 câu về đức bên trong tròn
vẹn, sau từ “Thiên
Vương…” trở xuống là bên ngoài tôn kính.

Trong phần trước có hai: Trước
là 9 câu trình bày về đức Tự
lợi, sau từ “Cụ túc
Phật sát…” trở xuống là 7 câu hỏi về đức Lợi tha.

Trong phần trước có hai: Trước có 7 câu hỏi về đức thuộc
nhân, sau từ “Trang
nghiêm…” trở xuống là 2 câu hỏi về đức thuộc quả.

Trong phần trước có hai: Trước
là 6 câu trình bày về hành tu
đầy đủ, sau từ “Bồ
tát nhất thiết…” trở xuống là các đức tròn vẹn đầy đủ.

Trong phần trước có hai: Một,
bốn câu là hành đoạn chướng, đó là trước lìa
Vô minh trú địa là lìa nhân ác, hai là làm cho ma phải
hàng phục, ba là chế
phục ngoại đạo là lìa duyên ác dấy khởi, bốn là lìa trần cấu là lìa tập
khí ác. Hai, tu thiện hạnh có ba:
1) Tu thành tựu phước đức;
2) Vượt lên trên lìa xa quả ác, là lìa ba ác-tám nạn,
3) Tu đầy đủ Tuệ thanh tịnh. Tuệ này ở văn sau lấy làm giải đáp,
 cho nên chỉ có sáu câu, tổng quát là trừ bỏ hai chướng ngại, thành tựu hai trang
nghiêm, vốn là hành tu đầy đủ.
Sau là trong đức tròn vẹn, có bảy: Một là thâu nhiếp mười
Địa, hai là đầy đủ
mười Độ, ba là nhiều Tam-muội, bốn là Tổng trì vi
diệu, năm là sáu Thông,
sáu là ba Minh, bảy là tổng quát kết luận về pháp thanh tịnh.
Sau là trong đức thuộc quả, có hai: Trước là quả về ba nghiệp thuộc
y-chánh, sau là Lực-Vô úy… thâu nhiếp quả sai
biệt của các đức.
Sau là trong
Lợi tha, có bốn:
Một-Một câu về ứng cơ hiện bày quốc độ đầy đủ.
Hai-Từ “Tùy thành tựu chúng
sinh…” trở xuống là dùng Chánh hạnh để thâu nhiếp
chúng sinh, trong đó:
1) Tùy duyên thành tựu hạnh;
2) Từ “Cập chư Bồ-tát…” trở xuống là chính thức kết luận về Hành pháp, có năm: a) Đức thù thắng; b) Quy phạm vốn có;
c) Dựa vào pháp thành
tựu về tu; d) Thực hành có thể đến quả; e)
Thâu nhiếp rộng rãi sở
duyên và phạm vi giới hạn, thảy đều đầy đủ là
tổng quát kết luận.
3) Mau chóng thành tựu… là trình bày về hành có phân rõ về công năng của quả, cho nên nói là mau chóng thành tựu.
4) Thành tựu hành bảo vệ pháp có bốn, một câu đầu tổng quát trình bày về hành bảo vệ pháp, tại sao bảo vệ? Ba câu sau hiển bày
riêng biệt: a)
Nói nhiều về giáo, nêu
rõ thông suốt về nghóa; b) Không bị ngoại đạo xâm lấn; c) Tự có đủ văn nghóa tổng trì luôn luôn
thuyết giảng, lập tức
thuyết giảng mà không có
gì cùng tận. Trên đây là đức bên trong tròn vẹn.

Sau là trong phần trình bày về bên ngoài tôn kính bảo
vệ, có hai: Một là tổng quát nêu ra
sự bảo vệ của mười vị vua thế gian và bậc
Pháp Vương là Phật. Hai là trong hiển bày
riêng biệt, có ba:
1) Tất cả thế gian… là hiển bày sự bảo vệ của mười vị vua trước;
2) Từ “Thường vị…” trở xuống là hiển bày sự bảo vệ của bậc Pháp Vương;
3) Từ “Nhất thiết Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về cùng phần vị bảo vệ. Phần nói về Thể của hành và Đức
trọn vẹn đầy đủ, xong.

Sau là trình
bày về Dụng thù thắng, nghóa là dựa vào các đức
có Dụng thù thắng này.
Trong đó có bốn câu: Một là tăng thêm pháp
vô lậu của mình cho nên
nói là pháp thanh tịnh, tức là tự thành tựu
chứng về hạnh; hai là
có thể làm cho thông suốt…, là dùng pháp đã chứng
để dạy cho người; ba là
tự mình đầy đủ giáo hạnh; bốn là theo thứ tự
như nhau dạy cho người về giáo hạnh.

Hai là trong
kệ tụng, bốn câu thành một tụng, có 11 tụng, đầu
là một tụng tổng quát
về thưa thỉnh, sau là tụng về riêng biệt.

Trong riêng biệt có hai: Một
là một tụng, tụng về văn trước đây; hai từ “Vân hà…” trở xuống là chính thức tụng hỏi về hành pháp
sau này. Trong đó: Một
tụng về mười một loại hành pháp trước đây; hai từ “Nhân hùng…” trở xuống là tụng về dựa vào hành mà thành tựu
đức trước đây. Trong
đó: Đầu là hai câu tụng về văn tốt lành thay nguyện xin thuyết giảng trên đây; tiếp là một tụng rưỡi tụng về hành tu lìa chướng trên đây; tiếp là hai câu tụng về các đức đầy đủ; tiếp là một
câu lược tụng về pháp
của đức thuộc quả; tiếp từ “Tùy kỳ…” trở xuống là ba câu tụng về hành duyên trong Lợi tha trên đây; tiếp từ
“Nhất thiết…” trở xuống là
một tụng, tụng về hành bảo vệ pháp trên đây; sau cuối
là một tụng về mười
vua cung kính bảo vệ trên đây. Trong đó có bốn:
1) Trí đức Vô úy giống như sư tử;
2) Phước đức tròn vẹn đầy đủ như vầng trăng tròn;
3) Đoạn đức lìa nhiễm như hoa sen;
4) Quả thanh tịnh hiện rõ trước mắt như thù thắng nhất. Bốn loại này cũng là tụng về văn thuộc Dụng thù thắng như lực thiện căn tăng thêm pháp thanh tịnh
sáng ngời… trên đây.

Thứ hai là trong phần đáp, có hai: Đầu là nói thẳng, sau là trùng tụng.

Trong phần đầu, có hai: Trước là khen ngợi thưa hỏi nhận lời
thuyết giảng, sau là dùng pháp chính thức giải đáp.

Trong phần trước, có hai: Trước là khen ngợi thưa hỏi,
sau
từ “Phật tử…” trở
xuống là nhận lời thuyết giảng về phạm vi giới hạn.

Trong phần trước: Trước
là khen ngợi về lợi ích đã thưa hỏi,
sau là khen ngợi về đức
của người có thể thưa hỏi.

Trong phần trước: Trước là phân rõ về lợi ích, lợi ích nhiều là tăng thêm
nhân thiện, an vui là trao cho quả
vui sướng, trí tuệ
sắc bén
khiến cho đạt được lợi
ích của pháp xuất thế.
Trong phần
sau từ “Ai mẫn…” trở xuống là kết luận về ý
khen ngợi người có thể
thưa hỏi: Trước là khen ngợi về đức của Tự
phần có năm:
1) Xứng với Tuệ chân thật;
2) Bất động mà tiến lên cho nên nói là Đại lực;
3) Không gián đoạn tu tập cho nên nói là Nhất tâm…;
4) Phần vị thành tựu cho nên nói là Bất thối;
5) Ngay nơi phần vị đầy đủ cho nên vượt ra khỏi thế gian. Lại nữa, câu đầu là trình bày về có hiểu biết (giải), bốn câu sau trình bày về có thực
hành (hạnh).
Lại nữa, những câu này cũng là
giải thích về tên gọi của Tiến Tuệ, có thể biết.
Sau là khen ngợi về đức
Thắng tiến, đó là đối với thưa hỏi tự tại
không khác gì Như Lai.
Sau là trong phần chính thức giải đáp, có hai: Trước là giải đáp 11 câu hỏi về Thể của Hành pháp trước đây,
sau là giải đáp về đức dựa
vào Hành ấy mà thành tựu.

Trong phần trước dựa vào câu hỏi theo thứ tự giải đáp.
Giải đáp câu thứ nhất về công đức chuyển
sang thù thắng, có 20 câu: 10 câu đầu là bắt đầu tu tập, 10 câu
sau là cuối cùng thành tựu. Lại đầu là
Tự phần, sau là Thắng tiến.

Trong phần trước, đã đạt được kho tàng của phát tâm, là nhắc
lại phần trước-nghó đến
phần sau; thuận theo lìa xa ngu si là tổng quát
nêu ra. Lại kinh Niết Bàn
nói: “Gốc rễ không phóng dật ăn sâu vững chãi khó nhổ lên, nhờ vào gốc rễ không phóng dật vững chãi, cho nên tất
cả các thiện căn đều
được tăng trưởng.” Không phóng dật có hai:
1) Dựa theo Sự như luận giải thích v.v…
2) Dựa theo Lý như kinh Pháp Tập v.v… Trong phần
sau là
riêng biệt, có ba: Một là nêu ra
số lượng, hai là
nêu ra tên gọi, ba là kết luận về số lượng.
Trong phần nêu ra, trong này đối trị mười loại phóng dật:
1) Phóng dật về phá giới;
2) Phóng dật về lạc mất Bồ-đề;
3) Phóng dật về làm
mất tâm Bi;
4) Phóng dật về lười biếng;
5) Phóng dật về vui với ồn ào
hỗn tạp;
6) Phóng dật về vui với thế gian;
7) Phóng dật về vui với
thiện yếu kém;
8) Phóng dật về vui với
Nhị thừa;
9) Phóng dật về nhiễm
theo công đức;

10) Phóng dật về phát
sinh hết phần. Như thứ tự mười câu
đối trị nên biết.

1) Đã có thể phát tâm rồi cần phải giữ gìn (trì) ba tụ giới thanh tịnh của Bồ-tát, như vậy giữ gìn ba loại: Một- Không làm ba nghiệp ác; hai- Không vì danh lợi; ba-
Không khởi lên kiến chấp về Giới, đây là
bảo vệ trong phần nêu ra.
2) Không đối với Bồ-đề khởi lên thấy có-không có… mà phát tâm, đây là lìa xa ngu si trong phần nêu ra.
3) Dựa vào lời nói thâu nhiếp chúng
sinh cho nên lìa xa nịnh bợ quanh co.
4) Thiện căn đã đã dấy lên cần phải làm cho cuối cùng thành tựu, cho nên nói
là không lui sụt, đây
là tinh tiến trong nêu ra, còn lại đều không lìa xa
ba loại như vậy.
5) Tạo nghiệp cầu sinh là hạnh của phàm phu, Bồ-tát lìa xa điều này thường vui với vắng lặng có hai loại: Một- Dựa theo
thân có hai, một là thụ động cư trú yên lặng, nghóa là lìa xa những nơi ồn ào náo loạn như gia đình…; hai là chủ động cư trú yên lặng, nghóa là giữ gìn
tịnh giới lìa xa ba nghiệp
sai trái, đây là lấy Phước-bỏ Tội lìa xa phàm
phu tại gia.
Hai- Dựa theo tâm cũng có hai: Một là thụ động cư trú, nghóa
là cảnh vi diệu của Chân
Không; hai là chủ động cư trú, nghóa là tâm
của Định-Tuệ, đây là
lấy Tuệ bỏ Hoặc lìa xa phàm phu xuất gia.
6) Chán ngán rồi bỏ niềm vui thế gian.
7) Dốc lòng tu theo nghiệp xuất thế gian.

Tuy cầu xuất thế nhưng rời bỏ Nhị thừa không có tâm Bi cứu giúp
thế gian.
9) Tuy tu công đức Đại Bi của Bồ-tát nhưng không thấy chủ động-thụ động tu tập cho nên không có nhiễm ô.
10) Biết thân hình có bốn nghóa: Một là biết thân từ duyên mà có, lìa
xa Ngã-Ngã sở; hai là
biết lực thực hành về đạo của mình, nếu yếu
kém thì cuối cùng không
miễn cưỡng hướng về cảnh giới phiền não; ba là
biết lực nếu mạnh thì cần phải chịu khó chịu khổ thực hành công hạnh tu tập; bốn là biết chắc
chắn chính mình có chủng tử Bồ-đề, cho nên sẽ được quả Phật.

Hai là trong
phần Thắng tiến, pháp thanh tịnh nghóa là luyện
tập sửa trị các hành
trước đây khiến cho thuần thục lìa xa cấu nhiễm, cho nên nói là
thanh tịnh.
Trong mười:
1) Chánh niệm thanh tịnh;
2) Từ “Xả ly…” trở xuống là lìa xa lỗi lầm thanh tịnh;
3) Từ “An trú…” trở xuống Chánh hạnh thanh tịnh;
4) Từ “Thường lạc…” trở xuống là cầu pháp thanh tịnh;
5) Từ “Tùy sở…” trở xuống là trừ bỏ nghi ngờ thanh tịnh;
6) Từ “Cụ túc…” trở xuống là trí tuệ thanh tịnh;
7) Từ “Tâm thường…” trở xuống là Tam-muội thanh tịnh;
8) Từ “Văn hảo…” trở xuống là hiểu rõ về Không thanh tịnh, cũng là hướng về Nhẫn thanh tịnh;
9) Từ “Đẳng thị…” trở xuống là Tưởng thù thắng thanh tịnh;
10) Từ “Cung kính…” trở xuống là báo ân thanh tịnh, cũng là kính dưỡng thanh tịnh.

Giải đáp câu thứ hai khiến cho Như Lai hoan hỷ, có 20 câu,
cũng 10 câu đầu là Tự
phần, 10 câu sau là Thắng tiến.

Trong phần trước: Một là
kết thúc phần trước, hai từ “Bất
xả…” trở xuống là
sinh khởi phần sau. Trong đó: Câu đầu nhắc lại năm
câu đầu ở phần sau; hai
tâm không nương tựa nhắc lại câu thứ sáu ở
phần sau; tu pháp rất sâu
xa nhắc lại hai câu thứ bảy-thứ tám ở phần sau;
từ “Ư Vô tranh đẳng…”
trở xuống nhắc lại câu thứ chín-thứ mười ở phần sau. Vì vậy tổng quát nêu ra mười môn thực hành ở
phần sau, thích
hợp với Thánh tâm, do
đó làm cho Như Lai hoan hỷ.
Trong mười câu riêng biệt của
phần sau: Ba câu đầu là tu
về hạnh Hữu, một câu đầu là hạnh chịu khó hăng hái, hai câu tiếp là hạnh
lìa xa lỗi lầm ở trong
Hữu, nghóa là thân bên trong không luyến tiếc,
vật bên ngoài không mong
cầu. Ba câu tiếp là tu về hạnh Không Tuệ, một là gia hạnh tu Không, hai là đích thực chứng đắc
soi chiếu chân thật,
ba là sau khi đạt được
phân biệt nhưng hãy còn không nương tựa. Bảy
là thường cầu Bồ-đề,
cho nên gọi là Đại nguyện. Tám là tướng thù
thắng hiện rõ trước
mắt, cho nên nói là ánh sáng rạng ngời. Chín là tùy
theo có lìa xa lỗi lầm,
cho nên nói là khéo léo nhận biết về lợi ích-tổn hại… Mười là dùng tâm không đắm trước hướng đến thực hành các pháp,
cho nên nói là thanh tịnh.
Sau là trình bày về mười pháp
Thắng tiến, tu đã thành tựu cho nên nói là an trú.
Trong mười:
1) Đối với lỗi lầm không nhiễm;
2) Chứng chân thật rời bỏ tướng; 3 và
4) Từ Bi thâu nhiếp chúng sinh; 5 và
6) Hành đầy đủ lìa xa nhiễm; bốn loại còn lại là Nguyện-Trí đầy đủ,
 một là Đại nguyện đầy đủ, hai là Trí tuệ phương tiện song hành, ba là
Lực suy nghó chọn lựa
thù thắng, bốn là Đạt được tánh vô ngại, cho nên
nói là không có gì nương tựa.
Giải đáp câu thứ ba về công đức mà
Bồ-tát an trú, cũng có
20 câu. Đầu là trong 10
câu thuộc Tự phần:
1) Tâm phát khởi thực hành;
2) Thực hành Chánh hạnh;
3) Trí thuận với Lý cho nên vượt lên trên lời nói. Trên đây là bắt đầu tu.
4) Gần gũi thiện hữu;
5) Nếu không chịu khó chịu khổ thì tuy gần gũi mà không có lợi ích;
6) Nếu không chọn ý để hiểu pháp thì tuy chịu khó mà không có lợi ích. Lại khéo léo chọn lấy ý Phật thì có
ba loại: Một là dựa theo Giáo, dùng hai Đế, ba
Tánh, ba Lượng, bốn Lý,
bốn Tất-đàn, bốn Ý, bốn Mật,
sáu Tướng,
sáu
Thích, tám Thanh, năm
Lực… để thông hiểu chọn lấy ý kinh mà thọ trì; hai là
dá»±a theo
Nghóa, đó là lời gần mà ý xa, tuy nói các môn về pháp
tướng nhưng ý ở nơi
chân lý vượt lên trên lời nói; ba là dựa theo
Hạnh, đó là ý ở nơi diệt trừ phiền não thành tựu công đức, vốn không phải chỉ là miệng nói ra.
7) Nếu không dựa vào hành để hiểu về ý thì cũng đâu lợi ích gì? Trên đây là tu tiếp theo.
8) Thành tựu Đại thệ phước trí trang nghiêm;
9) Phần vị của nhân thành tựu đầy đủ;
10-Tròn vẹn giống như phần vị của quả. Trên đây là tu cuối cùng. Trong phần Thắng tiến có hai: Trước là trình bày về quán xét
hiểu rõ, sau từ
“Ma-ha-tát tác thị niệm…” trở xuống là trình
bày về dựa vào hiểu rõ phát khởi thực hành.
Trong phần trước: Đầu là kết thúc phần trước
sinh khởi
phần sau, nghóa là khéo léo thành tựu các địa gọi là phương tiện khéo léo, lại đối với địa không vướng mắc cũng gọi
phương tiện khéo léo, điều quan trọng để thành tựu địa, cho nên nói là
trước nên tu tập. Trong
mười, tám loại đầu là pháp đã thành tựu địa:
1) Tổng quát,
2) Chứng trí các địa,
3) Thực hành Thí-Giới…;
4) Tịnh độ làm chỗ dựa;
5) Sở duyên và phạm vi giới hạn;
6) Thần thông thù thắng và mười tự tại…;
7) Thị hiện thân khác nhau;
8) Hậu trí thuyết pháp. Đây đều là các địa chứ không phải là một, cho nên đều nói là tùy theo sự thích hợp.
Sau là trình bày về có thể thành tựu
phương tiện, nghóa là tuy phân biệt mà không đắm trước là
phương tiện. Bởi vì tâm tạo là giải
thích về nguyên cớ không
đắm trước, nghóa là biết không có pháp nào ngoài tâm, cho nên không có gì đắm trước. Tâm tạo có ba lớp: Một là
Chuyển thức phân biệt dấy lên, hai là Bổn thức tùy theo huân tập dấy lên, ba là Chân tâm nương tựa giữ gìn dấy lên, đều là tâm dấy lên cho
nên không có, tâm dấy lên cho nên không phải không có, vì thế cho nên
không đắm trước. Từ
“Bồ-tát nhược năng…” trở xuống là kết luận về có
thể thành tựu địa.
Sau là trình bày về phát khởi thực hành, trong đó có ba: Một là nêu
ra, hai là giải thích, ba là kết luận, đều có thể biết.
Giải đáp câu thứ tư về hạnh
thanh tịnh, có 20 câu. Đầu là trong 10 câu thuộc
Tự phần, đó là mười Độ thuần thục ra
khỏi chướng.
Thanh tịnh đó là:
1) Thí tức là không có gì không rời bỏ,
2) Giới tức là không hủy phạm…, đều trình bày về tướng thanh tịnh. Sáu câu trước có thể biết.
7) Khéo léo thành tựu các hạnh vốn đều là phương tiện;
8) Đại nguyện vững vàng lời thề tôn trọng như núi, đây giống với hạnh tôn trọng ở sau;
9) Nhờ vào năng lực suy nghó chọn lựa, năng lực tu tập, thuyết pháp trừ bỏ nóng bức, như hồ nước mát ở thế gian;
10) Trí độ thâu nhiếp chúng sinh khiến cho cùng chung pháp Phật.
Sau là trong
phần Thắng tiến, bởi vì sau vượt qua trước cho
nên nói là chuyển sang
thù thắng. Trong mười: Ba loại đầu là hạnh thành tựu vốn có, ba loại tiếp là hạnh dựa vào duyên, bốn loại
sau
là hạnh Bi-Trí.

Trong phần đầu:
1) Bên trong có thật đức, bên ngoài cảm được Phật nghó đến.
2) Nhờ dựa vào hộ niệm cho nên càng tăng thêm
thiện thù thắng.
3) Có thể hiện rõ phần thô-ẩn kín phần tế giống như tám tướng của Phật cho nên gọi là phương tiện bí mật; lại thông hiểu rõ ràng về nghóa sâu kín bí mật của Như Lai, như ngọc châu trong búi tóc của vua; lại khéo léo
hiểu rõ các giáo quyền biến-bí mật…, cho nên gọi là an trú.
Trong phần tiếp là dựa vào duyên:
1) Gần gũi thiện hữu, nghóa là thân tiếp cận-tâm nương tựa.
2) Dựa vào thiện hữu phát
khởi Chánh hạnh.
3) Sinh khởi Chánh giải, nghóa là thu nhận riêng biệt trở thành tổng quát cho nên không phải là tổng quát,
 phân tích tổng quát trở thành riêng biệt cho nên không phải là riêng biệt, hoàn toàn làm mất đi
cả hai không còn, cả hai
dung hòa vô ngại, vì thế cho nên duyên khởi
đều không phải là tổng
quát hay riêng biệt.

Trong phần sau là hạnh Bi-Trí: Một
loại trước là Đại Bi, ba
loại sau là Đại Trí.
Trong đó: Một loại đầu là
Thật trí; hai loại
sau là
Xảo trí, một là khéo léo
thành tựu nhân, hai là khéo léo hướng về quả.

Giải đáp câu thứ năm về Đại nguyện đầy đủ, có 20 câu. Đầu là trong Tự phần mọi mong cầu đều đạt được gọi là
Nguyện đầy đủ:
1) Nén chịu phiền muộn thâu nhiếp chúng sinh.
2) Trang nghiêm quốc độ vì chúng sinh.
3) Phát khởi cúng dường đối với Đức Phật.
4) Bảo vệ đối với pháp. Luận chung về bảo vệ pháp, có bốn lớp: Một là bảo vệ Lý pháp, nghóa là soi chiếu Lý không xen tạp
Vô minh; hai là bảo vệ
Hành pháp, nghóa là thực
hành không xen tạp lợi danh-lười nhác…; ba là bảo vệ
Giáo pháp, nghóa là như pháp giảng dạy lưu truyền rộng ra
khắp nơi…; bốn là bảo
vệ Quả dụng của pháp, nghóa là giữ gìn bảo vệ
hình tượng…
5) Khiến cho Thân của chúng sinh vãng sinh Tịnh độ.
6) Khiến cho Trí của chúng sinh tiến vào pháp môn.
7) Khiến cho nguyện của người khác được đầy đủ.
8) Tu hành không có thỏa mãn, nghóa là thực hành tận cùng thời gian vị lai, khiến cho không sinh tâm mỏi mệt chán ngán dù chỉ là
khoảnh khắc, lại nguyện kiếp tùy theo tâm mà chuyển.

9) Nguyện cho nhân đến cứu cánh.
10) Nguyện cho quả tròn vẹn thanh tịnh. Sau là phần Thắng tiến, trong mười:
1) Đại thệ trang nghiêm tâm không lo không thành cho nên không buồn rầu.
2) Nghó đến nương nhờ bạn tốt chuyển đổi phát khởi nguyện ấy.
3) Đều nguyện vãng sanh thì lập tức phát khởi các hành.
4) Cuối cùng giống như bình thường phát khởi thực hành. Trên đây là Tự lợi.
5) Giáo hóa làm cho nguyện đầy đủ.
6) Thường giáo hóa không mệt mỏi.
7) Ở nơi đau khổ làm lợi ích cho chúng sinh.
8) Rời bỏ niềm vui để làm lợi ích cho chúng sinh.
9) Dùng pháp của quả để
trao cho.

10) Đạt được quả bình đẳng. Trên đây là Lợi tha. Giải đáp câu thứ sáu về đạt được Bồ-tát tạng. Đầu là kết thúc phần trước
sinh khởi
phần sau, toàn bộ có 10 câu, nghóa là bởi vì tích
trữ công đức trở
thành kho tàng rộng sâu vô tận, cho nên không có Thắng tiến:
1) Thấy Phật;
2) Trì pháp tức là Trì tạng;
3) Thuyết pháp tức là Biện tạng;
4) Tâm Bi rộng khắp;
5) Định tuyệt diệu;
6) Dụng thù thắng;

7) Tiến vào Chứng;
8) Dựa vào Chứng phát khởi Thần thông, nghóa là dùng Thiên nhãn nhìn thấy kho tàng chìm dưới đất và các vật
báu trong biển, hoàn toàn biết rõ các
sự việc như xuất xứ-giá trị… của các vật báu.

9) Phật gia hộ tăng thêm đức.
10) Trí thông hiểu về Khí thế giới. Giải đáp câu thứ bảy về tùy theo điều kiện thích hợp mà hóa độ chúng sinh: Một là kết thúc phần trước
sinh khởi
phần sau, nghóa là
hợp với cơ trao cho pháp,
gọi là tùy theo sự thích ứng mà hóa độ, trong đó có ba:
1) Nhận biết căn cơ;
2) Dạy dỗ lìa xa lỗi lầm;
3) Dạy dỗ
tu tập pháp thiện.

Trong phần một cũng có ba: a)
Nhận biết thích hợp về bệnh hoạn của
chúng sinh; b) Nhận biết về nhân duyên của tập khí đời trước;
c) Nhận biết về tâm niệm hiện tại.

Trong phần hai là dạy dỗ lìa xa lỗi lầm có ba: a)
Một câu đầu là tổng quát; b) Chín câu tiếp là
riêng biệt, câu thứ tám là do quán
Tự-tha bình đẳng cho nên không khởi lên kiêu mạn đối với
người khác, câu thứ chín là tâm nịnh hót quanh co thì phần nhiều vì danh lợi làm cho tâm
rối loạn không ngay thẳng,
Bồ-tát nhận biết điều ấy không phải là có
cho nên tâm vắng lặng; c)
Từ “Như thị…” trở xuống là kết luận.

Trong phần ba là dạy dỗ tu tập pháp thiện: Một
câu đầu là tổng quát, 13 câu
sau là hiển bày
riêng biệt.
Trong đó: Đầu là tám câu
về pháp giáo hóa thuộc
Tự phần, sau là năm câu về pháp giáo hóa
thuộc Thắng tiến.

Trong phần đầu:
1) Hai câu đối với pháp chủ động thuyết giảng, một là quán xét về Lý như nhau mà không trái với Sự riêng biệt, hai là
phân tích Sự hủy hoại mà không trở ngại
Lý giữ lại, bởi vì Lý-Sự tuy
là làm mất lẫn nhau, cả
hai không còn mà không trở ngại giữ lại cả hai. Lại
giải thích: Phân biệt là
thuyết giảng, nghóa là ở trong pháp
bình đẳng tuy lại dùng
môn khác để thuyết giảng riêng biệt đủ loại,
nhưng đều không mất đi
tông chỉ ban đầu, cho nên nói là trước sau không
có trái nhau; đây là gốc-ngọn vô ngại.
2) Thuyết giảng về pháp duyên khởi không có tánh gọi là phá hoại, mà cũng không trở ngại
duyên khởi, bởi vì pháp giới không có gì phân tán diệt đi; đây là thành-hoại vô
ngại. Dưới đây là đối
với người chủ động làm lợi ích:
3) Giáo hóa khiến cho phát sinh niềm tin, tin tưởng trừ hết nghi ngờ cho nên hoan hỉ;
4) Giáo hóa khiến cho phát sinh hiểu biết, hiểu rõ về thật lý gọi là tiến vào, sau là giáo hóa khiến cho
phát khởi thực hành;
5) Phước thực hành hướng đến quả, sau là giáo hóa thực hành về Tuệ;
6) Thực hành phá bỏ tướng; Thực hành tiến vào thật;
8) Thực hành không đắm trước, pháp đều dựa vào tâm, hai bên cùng lìa xa cho nên nói là
vô nhiễm. Trong phần
sau là trình bày về pháp giáo hóa thuộc Thắng
tiến:
9) Giáo hóa dùng
niệm niệm bình đẳng không hai này để tôn kính chư
Phật, đây là tiếp cận thân Phật;

10) Giáo hóa tự học âm thanh êm dịu mà không có gì
đắm trước;

11) Đối với âm thanh kỳ lạ của người khác mà không có gì sai biệt, đây là hai pháp học về ngữ nghiệp của Phật;
12) Học theo giáo pháp của Phật;
13) Từ “Cụ túc…” trở xuống là tu tập trí tuệ của Phật, đây là hai pháp học về ý nghiệp của Phật. Phần sau là kết luận có thể biết.

Giải đáp câu thứ tám về không rời bỏ các Ba-la-mật:
Một là kết thúc phần trước
sinh khởi phần sau, phần này có hai nghóa: Một là tuy thường giáo hóa
chúng sinh, mà trong tâm luôn luôn vắng lặng, cho nên nói là không rời bỏ công hạnh của mình; hai là thực hành công
hạnh này vì người khác,
cho nên không rời bỏ công hạnh của mình, chính
là nói đến Lợi tha.
Bởi vì trong mười Độ, bốn Độ
sau là trong Độ thứ
sáu tách ra,
cho nên chỉ nêu ra sáu
Độ. Lại dùng bốn Độ sau để trang nghiêm sáu
Độ trước, cho nên nói
là có đủ tất cả các Độ.

Sáu Độ trang nghiêm ở trong mười Độ:

Trong Độ thứ
hai, không cậy vào Giới mà tự cao, lại không
chấp Giới làm có mà
khiến cho thanh tịnh.
Trong Độ thứ ba, đầu là an tâm nhẫn nại nhận chịu khổ đau,
nghe tiếng xấu không buồn
rầu… mà nhẫn nại nhận chịu oán hại, nghe
tiếng tốt không vui mừng
mà nhẫn nại tư duy về pháp, chưa từng có… là kết

luận lìa xa cả hai.
Trong Độ thứ tư, đầu là chịu khó tu tập về nhân của Phật, từ
“Cứu cánh…” trở xuống là chịu khó tu tập về quả của Phật.
Trong Độ thứ năm là Thiền: Một là Thể của nhập Định, rời bỏ dục… là
Thiền thứ nhất, theo thứ tự tiến vào là ba
Thiền sau, đây
là Định thuộc Sự, tiến
vào mà không đắm trước cho nên nói là Vô
nhiễm; sau là trình bày
về diệt trừ mê hoặc phát sinh Định, là Định thuộc
Lý; sau là trình bày về Dụng của Định phát khởi
thần thông. Hai là vượt
lên trên thứ tự, nghóa
là đối với tám-chín theo thứ tự tiến vào, và vượt
qua tiến vào, đây là Dụng của Định thuộc Sự. Ba là tiến vào một biết
nhiều, bốn là dần dần
đầy đủ trí đức, hai loại này là Dụng của Định thuộc
Lý. Trong Độ thứ
sáu là Trí:
1) Mong cầu Văn Tuệ;
2) Từ “Sở văn đẳng…” trở xuống là trình bày về Tư Tuệ;
3) Từ “Nhập chân đẳng…” là trình bày về Tu Tuệ. Trên đây là Trí về gia hạnh.
4) Từ “Diệu thiện đẳng…” là phân rõ về chính thức chứng trí;
5) Từ “Cụ túc đẳng…” là trình bày về Hậu đắc trí hướng đến Tuệ của Phật.
Trong Độ thứ bảy là
Phương tiện, có
sáu loại phương tiện đều dùng Bi-Trí dẫn dắt nhau khéo léo, bởi vì không có gì đắm trước cho nên nói là
Phương tiện:
1) Bi chỉ ra oai nghi, Trí lìa xa ái kiến;
2) Bi là hiện thân, Trí là vô nhiễm;
3) Bi bên ngoài thị hiện trẻ thơ, Trí bên trong đầy đủ thông tuệ;
4) Bi thị hiện thoát khỏi trói buộc, Trí khéo léo không giữ lấy;
5) Bi và Trí hiện rõ trang nghiêm;
6) Bi có thể tiến vào nơi chốn, Trí hiểu rõ những việc đã làm. Trong Độ thứ tám là
Nguyện có mười, mỗi một
Nguyện đều Nguyện tận cùng nguồn cội ấy, đều nói là cứu cánh:
1) Nguyện giáo hóa chúng sinh;
2) Nguyện thanh tịnh cõi Phật;
3) Nguyện cúng dường Đức Phật;
4) Nguyện thâu nhiếp trí tuệ;
5) Nguyện tu theo hạnh pháp giới;
6) Đại chí nguyện, nghóa là dùng chí lực tu hạnh bậc
Thượng, tận cùng thời gian kiếp trú vị lai, nói là giống như
khoảnh khắc;
7) Nguyện tu rút ngắn, nghóa là nguyện dùng kiếp dài làm ngắn,
 câu trên chỉ chuyển tâm chủ động thấy,
 câu này quay lại kiếp thụ động trú,
 vì thế cho nên câu trên có chữ trú, câu này không có;
8) Nguyện thành hoại, nghóa là nguyện thông hiểu rõ ràng về sự thành hoại của thế giới, một là duyên quy
tụ mà thành không làm cho hư hoại, hai là kiếp
mới thành-kiếp chưa hoại
đều nguyện thông hiểu rõ ràng;
9) Nguyện hiện rõ Tịnh độ;
10) Nguyện thành tựu Chánh giác. Trong Độ thứ chín là Lực, có mười nghóa đều có năng lực chịu đựng được, không thể khuất phục cho nên gọi là Lực. Mỗi một loại đều
đầu là nêu ra tên gọi,
sau là giải thích về nghóa. Trong
1) giải thích, bên trong lìa xa phiền não… là lìa xa lỗi lầm, có đủ thanh tịnh… là thành tựu đức, hai loại này thành tựu Tự hành cho nên gọi là Tự chuyên
chánh. Trong
2) giải thích, nghóa là bởi vì Lực thù thắng của Chánh lý cho nên lực khác luôn luôn không có thể hủy hoại được, hai loại này tổng
quát nêu về Lợi tha.
3) Tâm bạt trừ đau khổ đầy đủ;
4) Tâm mang lại niềm vui như nhau đều có thể che chở bảo vệ tất cả, là nghóa về Lực, hai loại này là tâm Lợi tha.
5) Lực về Trì là bên trong tích trữ nghóa của pháp;
6) Lực về Biện là bên ngoài thích nghi để ứng cơ, hai loại này là đức Lợi tha.
7) Lực về Đại hạnh có đủ trang nghiêm.
8) Lực về hoằng nguyện không đoạn dứt.
9) Lực về nhân sinh ra nhiều.
10) Lực về quả che phủ rộng khắp. Trong Độ thứ mười là Trí, nghóa là nhận biết bệnh-hiểu rõ căn- xứng với lý trao truyền pháp cho nên nói là Trí, cũng có mười
câu. Trong đó: Bốn câu
đầu là biết bệnh nặng nhẹ; ba câu tiếp là biết
căn mong muốn, một là
biết bệnh ở phần vị Học, hai là biết thói quen
lang thang của hành trong
tâm ấy tức là hoạt động của căn, ba là biết
ham thích hy vọng; ba câu
tiếp là biết về thuốc pháp, một là biết pháp
của cảnh, hai là biết
pháp của trí, ba là biết pháp môn vô ngại vô biên
của cảnh-trí, cho nên nói là pháp giới.

Giải đáp câu thứ chín về chúng sinh đã thưa thỉnh đều có
thể độ thoát, trong đó có ba: Một là kết thúc phần trước
sinh khởi
phần sau.
Hai từ “Giáo hóa nhất
thiết…” trở xuống là mười câu chính thức hiển
bày về độ thoát. Trong đó:
Đầu là hai
câu, một là giáo hóa ra khỏi đường ác, đó là câu
đầu tu nhân thiện về sau
thoát khỏi quả khổ; hai là giáo hóa thoát khỏi
các nạn, đó là tinh
tiến tu nhân thoát khỏi, vượt lên trên nạn thoát
khỏi quả của tám nạn.
Tiếp theo là ba câu về giáo hóa đối trị ba độc, nhưng tham dục
có hai loại, một là tham
sắc thì dạy cho quán về bất tịnh, hai là tham tài
sản thì dạy cho quán về lìa dục;
sân cũng có hai loại, một là
sân với hữu
tình thì dạy cho quán về
tâm Từ Bi, hai là sân với vô tình thì dạy cho
quán về bình đẳng, bởi
vì vật vô tình không xứng ý và vật xứng ý không hai, cho nên nói là bình đẳng; ngu
si cũng có hai loại, một là ngu ngốc
không biết gì thì dạy cho
quán về phân biệt thế giới, hai là tà kiến ngu si thì dạy cho quán về
nhân duyên, bởi vì các pháp từ nhân duyên mà
sinh
ra chứ không phải là tự
tại cùng làm ra, lại bởi vì không tin nhân quả
do đó dạy cho quán về nhân duyên.

Tiếp theo là
ba câu về giáo hóa khiến cho thoát khỏi ba cõi, một là dạy cho lìa xa
dục sân…, rời bỏ cõi Dục đến
Sơ thiền…; hai là dạy cho quán
tăng thượng, rời bỏ tăng thượng của cõi Sắc đến
Vô sắc xứ; ba là dạy cho trí vi tế, dùng để
soi chiếu xem xét về Tưởng vi tế khiến
cho đoạn hết, chứng
Không vượt lên trên ba cõi.
Tiếp theo là hai câu về giáo hóa khiến cho tiến vào
Tam thừa, trong đó có ba:
Một-Dạy cho hạnh vắng lặng có ba nghóa, một là dùng Nhị thừa ấy tu hạnh lìa xa ồn ào xen tạp của
sinh tử; hai là khiến
cho tu hạnh vắng lặng
chứng nhập Nhân Không; ba là Niết-bàn Vô dư
gọi là vắng lặng, tu
pháp ấy gọi là hạnh. Hai-Dạy cho dùng mười Lực…,
là vượt lên trên phàm
phu-Tiểu thừa, trang nghiêm hiển bày về Đại thừa. Ba-Sau là giải thích về nghóa của Độ đã
thưa thỉnh, nghóa là như
Sơ phát tâm nêu ra Bổn
nguyện ấy, chỉ rõ Bổn gọi là Như, thấy chúng sinh
rơi vào nẽo ác là nêu
ra nguyện bằng việc làm, Đại Sư Tử Hống là nêu ra lời nguyện ấy, lời thề quyết định gọi là
Sư Tử Hống, biết bệnh
dùng pháp để cứu giúp
là chính thức hiển bày về tướng của Nguyện.

Ý văn trong
này hiển bày từ lúc mới phát tâm, bởi vì thấy
chúng sinh đau khổ, cho nên dùng lời quyết định để thưa thỉnh chọn lấy lời
thề độ hết tất cả chúng sinh.

Ba từ “Cụ túc…” trở xuống là ý kết luận có thể biết.

Giải đáp câu thứ mười về làm cho Tam Bảo hưng thịnh, trong
đó có ba: Một là nêu
ra, hai là giải thích, ba là kết luận.

Trong giải thích, chín câu đầu là riêng biệt, một câu sau là
tổng quát. Trong riêng
biệt, chín câu làm thành ba lớp.
Có nơi giải
thích rằng: Đầu là dựa theo
Giáo đạo, tiếp là dựa
theo Chứng đạo,
sau là dựa theo không trú vào đạo. Nay lại
giải thích: Đó
là đầu-giữa-sau phân làm ba.

Một là dựa theo Phật Bảo: Đầu là dạy cho phát tâm Bồ-đề,
tiếp theo là đã phát
nguyện Bồ-đề thì khen ngợi Đại nguyện ấy khiến cho không
thối chuyển,
sau là khiến cho dựa vào nguyện khởi hạnh
làm cho nhân của Phật
tròn vẹn cho nên nói là gieo giống Phật…, nhân
đầy đủ-quả phát sinh
gọi là nảy mầm Chánh giác, vì vậy trước sau nối
tiếp nhau khiến cho Phật
Bảo không đoạn mất.
Hai là dựa theo
Pháp Bảo: Đầu là chỉ rõ về Giáo pháp
sâu xa, tiếp theo là giải thích về
Lý pháp, sau là hộ trì… trình bày về
Hành pháp. Lại giải thích: Đầu là tổng quát nêu rõ về pháp
sâu xa, tiếp theo bởi vì
pháp sâu xa khó hiểu do
đó cần phải giải thích khiến cho hiểu rõ về pháp
để lưu hành,
sau là pháp đã thực hành rồi thì thêm
sự bảo vệ không tiếc

thân mạng, vì
vậy làm cho Pháp Bảo này lưu hành rộng ra không đoạn tuyệt.
Lại giải thích: Đầu là
Khế kinh, tiếp là Đối pháp,
sau là Tỳ-ni,
vì vậy cần phải nghiêm khắc bảo vệ.
Ba là dựa theo
Tăng Bảo: Đầu là thọ trì oai nghi về
Giáo pháp, là phương tiện thực
hành của Tăng; tiếp theo là thực hành sáu pháp
hòa kính, Tăng thực hành
thành tựu, trở thành hạnh không trái nhau gọi là Hòa, hạnh hòa đồng dẫn dắt nhau gọi là Kính, nghóa là ba nghiệp
Từ là ba, Giới như
nhau-Thí như nhau cũng nói là Xả như nhau, Kiến như nhau cũng nói là
Tuệ như nhau, cho nên
có sáu. Sau là khéo léo cai quản Đại chúng, tâm không có gì lo buồn,
 là đức của Tăng đã thành tựu cai quản tất cả chung một khối, cho nên có thể khiến cho
Tăng Bảo thường tồn tại.

Sau là tổng quát kết luận, có thể biết. Trong này có chương
Tam Bảo, giải thích như ở phần khác.
Giải đáp câu thứ mười một về cảnh giới đã hiện bày
không hư vọng.
Trong đó: Đầu là kết thúc
phần trước, từ
“Bồ-tát như thị an
trú…” trở xuống là
sinh khởi phần sau. Trong đó có ba: Đầu là tổng quát,
tiếp là riêng biệt, sau là kết luận.
Trong phần tổng quát, có ba: Một là ngữ nghiệp không trống rỗng; hai từ
“Bỉ Bồ-tát…” trở xuống là thân nghiệp không hư giả, nghóa là những việc làm đều không
sai lầm; ba từ “Như thị nhất thiết…”
trở xuống là ý nghiệp,
trí tuệ hồi hướng không hư giả.

Hai là trong
phần riêng biệt, có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp.

Trong pháp: Đầu là nêu
rõ, tiếp là đưa ra, ba là kết luận.
Trong phần đưa ra, năm loại đầu là trình bày về tự mình y-chánh trang
nghiêm, năm loại
sau trình bày về pháp thâu nhiếp chúng
sinh trang
nghiêm. Trong năm loại
đầu: Ba loại đầu về ba nghiệp tức là Chánh báo
trang nghiêm; hai loại tiếp
là Y báo trang nghiêm, trong đó đầu là trình
bày về quốc độ lìa
nhiễm, đó là thọ dụng quốc độ này nuôi lớn đạo để diệt trừ phiền não,
sau là trình bày về quốc độ có đủ đức
thanh tịnh, đó là
bởi vì thường có ánh
sáng rực rỡ. Năm loại sau:
1) Thâu nhiếp chúng thù thắng;
2) Thị hiện thần lực khiến cho sinh khởi niềm tin;
3) Trao truyền Thánh giáo khiến cho phát sinh hiểu biết;
4) Hóa hiện thành Phật, gọi là Niết-bàn, đây không phải là nghóa của viên tịch, tiếng Phạm nói là Nê-bạn, Trung Hoa gọi là Hóa, là những tác dụng của quốc độ này
cho nên thuận theo nói là
Hóa địa nghiêm, vốn gọi là hiện bày xứ sở
giáo hóa;
5) Tùy theo cơ trao cho pháp. Còn lại là kết luận có thể biết. Dụ-
hợp cũng có
thể biết. Trên đây là đáp về phần hỏi thứ nhất, xong.

Thứ hai trong
phần giải đáp về do thực hành mà thành tựu công đức, có 20 câu:
1) Diệt ngu
si là nhắc lại câu hỏi trước đây, vốn
đầy đủ trí tuệ là
giải đáp. Những câu dưới đều trước là nêu ra câu hỏi,
sau là hiển bày giải
đáp.
2) Từ Bi là giải đáp câu hỏi về hàng ma.
3) Lực công đức của tuệ là giải đáp câu hỏi về chế phục ngoại đạo.
4) Nhập định Kim Cang trừ diệt tập khí cấu nhiễm của tâm là giải đáp câu
hỏi về lìa bỏ trần cấu.
Trên đây là hạnh lìa xa lỗi lầm.
5) Ở tại trú xứ của chư Phật trước đây… là giải đáp câu hỏi về thành tựu đầy đủ tất cả công đức.
6) Tuệ thanh tịnh đầy đủ là giải đáp câu hỏi về có thể lìa xa nẽo ác… Sáu câu trên đây là tổng quát về thực hành tu tập đầy đủ.
7) Lực trí tuệ phương tiện theo thứ tự là giải đáp câu hỏi về sáu loại tên gọi-các đức đầy đủ
trọn vẹn như các Địa…: Một là Địa, hai là Độ, ba là
Định, bốn là Thông, năm
là Minh, sáu là Vô úy. Trên đây là nhân tròn vẹn.

Lực của pháp thanh tịnh là giải đáp câu hỏi về ba nghiệp y-chánh của Phật.
9) Trí tuệ phân biệt mau chóng hiểu rõ các pháp… là giải đáp câu hỏi về đạt được mười Lực… của Phật. Câu trước là trình bày về quả thuộc tướng tốt của y-chánh, câu này trình bày về quả thuộc công đức
sai biệt, hai câu này là tổng quát trình bày về
quả đầy đủ. Trên đây là
tổng quát về phần Tự lợi, xong.

10) Nguyện lực-thần lực-trí lực là giải đáp câu hỏi về tùy theo cõi Phật.
11) Tùy theo sự thích hợp tiếp nhận giáo hóa… là giải đáp câu hỏi về tùy theo thành tựu chúng sinh…

12) Bồ tát tu tập thực hành như vậy… là giải đáp câu hỏi về tu hành thành Phật.

13) Đối với vô lượng quốc độ… là giải đáp câu hỏi về hộ trì pháp tạng.
14) Thành tựu bốn Biện… là giải đáp câu hỏi về phân biệt thuyết giảng rộng ra.
15) Ở giữa Đại chúng không có gì sợ hãi… là nhắc lại câu hỏi trước,
 Bát-nhã tăng thượng đầy đủ là giải đáp câu hỏi về ma không có thể phá hoại.

16) Phân biệt theo thứ tự… là giải đáp câu hỏi về thâu nhiếp duy trì Chánh pháp vô cùng tận.

17) Từ “Cụ túc Đại Bi…” trở xuống là giải đáp câu hỏi về đối với tất cả thế giới đều có thể diễn thuyết.

18) Mười vị vua tôn kính bảo vệ lược qua không có văn giải đáp, lại bởi vì đây là quả của hành cho nên không có giải đáp,
 lại trừ Đức Phật ra không có ai hơn được… cũng là giải đáp tổng quát mà thôi. Hỏi: Thập Địa đầy đủ về
sau tiếp nhận chức vị Bồ-tát mới nói chỉ trừ ra
Như Lai, còn lại không có ai hơn được, vì
sao trong này phần vị
là ở Thập Trú thuộc
Địa tiền mà lại có lời này? Đáp: Đây là pháp Đà-la-ni của phần vị
Phổ Hiền thuộc
Viên giáo, cho nên ở một phần vị thành tựu đầy đủ thì thâu nhiếp tất cả các phần vị

đều hết. Như
văn sau Tỳ-kheo Hải Tràng đảnh lễ nơi Đức Phật
thuyết pháp trước đây, nói
Thập Trú đầy đủ về
sau tức là Bổ xứ thành
Phật, lại không nói tiến
vào Thập Hạnh thì giống như ở đây nói. Đây là
dựa theo phần vị bắt đầu
mà nói. Như trong phẩm Tiểu Tướng sau này,
từ địa ngục thoát ra
liền đến phần vị sau Vô sinh nhẫn của Thập Địa, đến trước
Tam-muội Ly Cấu…, đó là dựa theo phần vị cuối cùng mà nói. Ở giữa hai phần vị, dựa theo đó có thể biết.

19) Tất cả thế gian cung kính… cũng không có giải đáp, bởi vì giống như quả của hành, cũng có thể cùng nối thông ở trong câu hỏi sau.
2
0) Từ “Phật tử…” trở xuống là giải đáp câu hỏi về đạt được lực của thiện căn-tăng trưởng pháp
thanh tịnh…

Trong đó đầu
là tổng quát nêu ra, sau là giải thích về thành
tựu. trong phần đầu,
trước là lợi ích thù thắng của thân nghiệp, tiếp từ
“Dó Từ tâm..” trở xuống là ý nghiệp thù thắng,
sau từ “Cụ túc biện tài…”
trở xuống là ngữ
nghiệp thù thắng. Trong phần sau là giải thích có 11
câu: Sáu câu đầu là
thành tựu về đức của nhân thuộc Tự phần, một là thành tựu Chứng trí
thanh tịnh, hai là như Chứng mà khéo léo
thuyết giảng, ba là đối với giáo có thể nghó nhớ duy trì, bốn là như nghó đến có thể
khéo léo thuyết giảng,
năm là đối với pháp đã đạt được có thể ghi nhớ
duy trì, sáu là đối với
pháp chưa đạt được có thể suy xét tìm tòi. Năm
câu sau là thành tựu về
đức của quả thuộc Thắng tiến, một là đạt được lực dụng bên ngoài của Phật,
 hai là đạt được thật trí bên trong của Phật, ba là đạt được trí khéo léo thuyết giảng của Phật, bốn là chính thức
thuyết giảng về pháp sâu
xa, năm là thành tựu trí thù thắng của Phật, nghóa
là đầy đủ Lý-Lượng
và Nguyện trí của Bồ-tát…

Trong phần thứ hai là kệ tụng có 20 kệ: Đầu
là 13 kệ tụng về 11 loại hành pháp của đoạn thứ nhất trước đây,
sau có 7 kệ tụng về 18 loại
công đức do hành mà thành tựu sau này.

Trong phần đầu: Đầu là
bốn kệ tụng về hai đoạn đầu, đó là
một kệ rưỡi đầu tụng
về chuyển sang thù thắng do tu tập, đó là gọi Sơ
phát tâm trú là Địa
thứ nhất, bởi vì đã đạt được kho tàng của công đức phát tâm cho nên nói là
trưởng dưỡng; câu tiếp là tụng về diệt trừ phóng dật; câu tiếp là tụng về lìa xa
si ám; hai câu tiếp là tụng về không
quên tâm Bồ-đề…; hai câu
sau là tụng về
Như Lai hoan hỷ. Tiếp một kệ trùng tụng về tu thù thắng, ba câu đầu là tụng về không
thối chuyển, một
câu sau là tụng về lìa
xa phàm phu tại gia-xuất gia. Còn lại lược qua
không tụng. Sau là một
kệ trùng tụng về Đức Phật hoan hỷ có thể biết.
Tiếp có hai kệ, tụng về ba đoạn tiếp theo, đó là năm câu đầu vượt
qua tụng về hạnh thanh tịnh thứ tư, tiếp một câu đầy đủ các Địa là lùi
lại tụng về sở trú
thứ ba, từ “Công đức…” trở xuống là nửa kệ tụng về Đại nguyện thành tựu đầy đủ thứ năm. Tiếp nửa kệ tụng về đạt được
Bồ-tát tạng thứ sáu. Tiếp một kệ rưỡi tụng về tùy theo
sự thích hợp mà hóa
độ thứ bảy. Tiếp một kệ tụng về không rời bỏ các
Ba-la-mật thứ tám.
Tiếp một kệ tụng về
tùy theo chúng sinh đã thưa thỉnh thảy đều độ thoát
thứ chín. Tiếp một kệ
tụng về làm cho Tam Bảo hưng thịnh thứ mười.
Tiếp hai kệ tụng về việc
Bồ tát đã làm không hư giả.

Từ đây trở xuống là bảy kệ tụng về công đức do hành mà thành tựu.
Trong đó: Đầu là một kệ rưỡi tụng về văn ở 9 câu đầu là nhân
tròn vẹn-quả đầy đủ
trong 18 câu. Tiếp hai kệ rưỡi là tụng về hộ trì
Chánh pháp và thuyết
giảng rộng rãi… Tiếp ba kệ tụng về văn lợi ích của
ba nghiệp lợi ích ở câu
thứ 18, nghóa là tụng về ở giữa Đại chúng yên tâm vững vàng uy lực mạnh mẽ kiên cố thuyết giảng về pháp rất
sâu xa
diệt trừ mê hoặc trước đây.
Sau là trình bày về điều đã nói là hợp với lý, cho nên
Như Lai tùy hỷ; điều đã nói
là hợp với cơ, cho nên Đại chúng vâng theo thực
hành. Trên đây là Hội thứ ba, xong.

ï‚¢



<卷>QUYỂN 6</卷>

<詞>Phẩm 15: PHẬT THĂNG DẠ MA THIÊN CUNG TỰ TẠI</詞>

GIẢI THÍCH TÊN GỌI, có hai:

Một là tên gọi của Hội, dựa theo Xứ gọi là
Hội Dạ-ma Thiên;
dựa theo Pháp gọi là
Hội Thập Hạnh, theo giải thích có thể biết.
Hai là tên gọi của Phẩm, Phật là
Hóa chủ, dựa vào
Thể khởi Dụng, đến với cơ
nói là lên cao (thăng).
Ứng cảm nơi nào, đó gọi là Dạ-ma. Dạ-ma nếu đầy đủ thì
nói là Tô-dạ-ma, Tô ở
Trung Hoa nói là Thiện, Dạ-ma ở
Trung Hoa nói là Thời, nghóa là cõi trời này không có mặt trời-mặt trăng nhưng có thể biết thời gian.
Vì vậy, kinh Đại
Tập nói: “Nhìn hoa
sen đỏ nở
ra là ban ngày, hoa sen xanh
nở ra là ban đêm.” Luận Câu Xá giải
thích: “Gọi là
Xướng Nhạc Thiên, cũng gọi là Đa
Hý Lạc Thiên, Thiên là nghóa về thanh tịnh,
nghóa về ánh sáng rực rỡ. Cõi trời này đắm say
vui sướng hoàn toàn không nghó đến
điều thiện, nhờ có
Bồ-tát Khổng Tước Vương, và Thiên
chủ cõi ấy tên gọi Mâu-tu-lâu-đà Thiên Vương, từng vì
Thiên chúng giảng giải
khuyên bảo, vì thế hoặc có vị trời thật
sá»±
mất bạn, đau buồn khóc
lóc bày tỏ với nhà vua; hoặc có vị trời biến
hóa rơi xuống nước, sợ hãi khiến cho sinh lòng chán nản.”

Hỏi: Trước sau đều là không rời xa mà lên cao, nên đều gọi là
tự tại, vì sao chỉ riêng
Hội này nêu về tự tại? Đáp: Không lay động mà lên cao dạo khắp, cõi trời ở giữa hư không (không cư) này vượt qua cõi trời ở trên mặt đất (địa
cư) trước đây, cho nên gọi là tự tại; bắt đầu vượt qua cõi trời ở trên mặt đất
không giống
như Đâu-suất, cho nên một mình nêu ra tên gọi. Lại dựa
theo thực hành tiến vào
sâu xa vượt qua hiểu biết trước đây, cho nên dùng tự tại để biểu thị cho điều đó. Lại bởi vì hiểu biết và thực hành nối
liền với nhau, cho nên sau
Đao-lợi rồi đến Dạ-ma, cùng là nội phàm
không giống như Tín trước
đây. Bởi vì cảm quả ở đây biểu thị cho hành lìa xa
tÆ°á»›ng, cho
nên đến cõi trời Không này.

Ý đưa ra cũng có hai: Một- Đưa ra Hội, đó là bởi vì dựa vào hiểu biết phát khởi thực hành, bởi vì giải đáp câu hỏi về
Thập Hạnh trước đây, cho nên đưa ra; hai- Đưa ra Phẩm, nói
Minh Pháp là Trú cuối
cùng của Hội trước, Thăng Thiên là nguyên do đưa
đến của Hội này,
sát nhau theo thứ tự, vì thế cần phải đưa ra. Lại
Minh Pháp là hiểu biết
sâu xa phát khởi tác dụng tiến vào thực hành,
cho nên Thăng thiên, vì
vậy cần phải đưa ra. Đây là dựa theo pháp mà phân rõ.

TRONG TÔNG THÚ cũng
có hai: Một,
Tông của Hội, dựa theo con người là Hóa chủ và
Trợ hóa, dựa theo pháp là
Giáo sự và
Nghóa lý, đều có
Thể-Tướng-Dụng dung hòa với nhau vô ngại, dựa theo
trước có thể biết, nhưng mà thực hành là khác;
Hai, Tông của Phẩm, là
trang nghiêm trú xứ thỉnh Phật Như Lai thuận theo cảm đến, là
Phẩm này đã trình bày.

GIẢI THÍCH VĂN Hội
này có bốn phẩm kinh, hai phẩm đầu
là phần Tựa, hai phẩm sau là phần Chánh thuyết.
Trong phần trước có
hai: Đầu là Tựa về thỉnh Phật, sau là Tựa về ca
ngợi Phật. Lại đầu là
Đức Phật lên trên cõi trời, sau là Bồ-tát quy
tụ, bởi vì Phật là Hóa chủ cho nên ở trước, Bồ-tát là bạn cho nên tiếp theo
ở sau. Lại trước là quả-
sau là nhân, trước là Năng hóa-sau là Sở hóa.

Trong phần đầu
phân định về văn, cùng giải thích giống như
nói ở phần đầu của
Hội trước. Lại giải thích có bảy:
1) Cây Bồ-đề và bậc Pháp Vương ở mười phương cùng hiện rõ;
2) Chư Phật ở mười phương đều lên trên cõi trời Dạ-ma;
3) Thiên Vương ở mười phương đều trang nghiêm pháp tòa cầu thỉnh Đức Phật;
4) Chư Phật ở mười phương nhận lời cầu thỉnh lên trên cung điện;
5) Thiên Vương ở mười phương có được lợi ích ca ngợi chư Phật;
6) Chư Phật ở mười phương cùng lên trên pháp tòa hoa sen;
7) Cung điện quý báu ở mười phương thảy đều rộng lớn. Vì sao đều đối với mười phương phân rõ như nhau? Bởi vì pháp môn Viên giáo luôn luôn rộng khắp pháp giới, hễ một pháp khởi lên thì chắc chắn tất cả cùng
hiện rõ, cho nên sắp thuyết giảng về pháp này, bởi vì lý không phải là hạn chế
thiên lệch, do đó dẫn đến mười phương
vô tận cùng thuyết
giảng, tức là một thuyết giảng-tất cả thuyết
giảng như nhau.

Trong này có ba lớp vô ngại:
1) Một tức là nhiều, Phật dưới một tán cây tức là dưới tất cả tán cây;
2) Động tức là tónh, Phật dưới tán
cây tức là lên trên
cõi trời;
3) Động và tónh là một và nhiều, vì thế ở tất cả mọi nơi không lay động mà lên trên cõi trời. Đây là tướng của mười Phật đầy đủ đức viên dung vô ngại, không phải là do Tông khác
mà phân rõ, suy nghó dựa theo điều đó.

Trong văn: Hai đoạn trước
giống như giải thích ở Hội trước.

Ngay trong đoạn
thứ ba là trang nghiêm cầu thỉnh có ba: Một là từ xa nhìn thấy duyên thù thắng, hai là trang nghiêm pháp tòa
biểu thị cho căn, ba là
cầu thỉnh Phật hiển bày về mong muốn. Trong
phần hai là trang nghiêm
pháp tòa: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt.
Hội trước là một vạn, trong Hội này thì mười vạn, là biểu thị cho tướng tăng thêm của phần vị. Lại cung điện ở Hội trước không phải là vật
báu, trong Hội này trang
nghiêm bằng vật báu là hiển bày về tướng đầy
đủ đức của hạnh đáng
quý. Trong phần riêng biệt có 23 câu: Đầu là 7
câu phân rõ về Khí thế
gian trang nghiêm, tiếp từ “Thập vạn Thiên
tử…” trở xuống là 7
câu hiển bày về Chúng sinh thế gian trang nghiêm,
sau từ “Thập phương Như
Lai…” trở xuống là 9 câu về Trí chánh giác
thế gian trang nghiêm. Lại
giải thích: Đầu là 7 câu về trang nghiêm Y
báo bên ngoài, tiếp là
6 câu về trang nghiêm Chánh báo bên trong, sau là 10 câu về trang nghiêm pháp môn.
Trong trang nghiêm pháp môn: Câu một là tướng của Nhân, hai là tướng của Quả, ba là tướng của Đức,
bốn là tướng của Định,
năm là tướng của Nguyện, sáu là tướng của
Thắng, bảy là tướng
của Pháp, tám là tướng của Dụng, chín là tướng của
Diệu, mười là tướng của Giáo. Trong phần ba là cầu
thỉnh Phật: Đầu là
kết thúc phần trước,
sau là chính thức cầu thỉnh.

Đoạn thứ tư
là nhận lời cầu thỉnh lên trên cung điện, hiển bày
về cơ duyên phù hợp
với nhau, trước là trình bày về cõi này, sau là
tương tự các phương khác.
Trong đoạn thứ năm là
Thiên Vương có được lợi ích, cũng trước là phân rõ về cõi này,
sau là tương tự các
phương khác. Trong phần trước, đầu là lợi ích đạt được Định,
sau là lợi ích phát
sinh Tuệ.
Trong Tuệ, trước là nhớ lại thiện căn của mình,
sau là ca ngợi mười Phật xưa
kia để hiển bày về thù
thắng hôm nay. Lý thật thì tất cả chư Phật quá
khứ đều cùng ở nơi
này thuyết về pháp Thập Hạnh. Nhưng nay bởi vì biểu thị cho tướng của phần vị dần dần tăng lên, cho nên đối với mười
Phật ở Hội trước, theo thứ tự về trước nêu ra danh xưng của Phật này giống như mười Phật để ca ngợi. Ca-diếp về
sau giống như chư Phật khác về
trước, tất cả đều đã
từng như nhau ở nơi này thuyết về pháp Thập Hạnh.
Đoạn thứ
sáu là lên trên pháp tòa, đoạn thứ bảy là cung điện
rộng lớn, đều dựa theo
trước có thể biết.

-------------------------

<詞>Phẩm 16: BỒ TÁT THUYẾT KỆ A.</詞>
GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Tự
Thể là nhân vi diệu, thực
hành-tu tập đan xen lẫn nhau, giáo pháp mẫu mực hiển bày rõ ràng, cho nên
nói là Bồ-tát Thuyết Kệ.
Nghóa còn lại cùng với phần B là Ý đưa ra và phần C là
Tông thú, đều giải thích giống như trước. D.
GIẢI THÍCH VĂN: Ba
nghóa giống như trước.

Một là trong
phần quy tụ chúng: Trước là cõi này, sau là tương
tự nối thông. Trong phần trước: Đầu là hiển bày
về nơi chốn bắt đầu đến đây,
sau từ “Phật thần lực…” trở xuống là trình bày về Bồ-tát quy
tụ đến. Trong phần đầu:
Một, phần lượng xa gần là hiển bày về phần
vị dần dần tăng lên,
trước là một trăm, ở đây là mười vạn…, phạm vi
giới hạn còn lại giống
nhau, dựa theo như trên. Hai, chính thức hiển bày
về tướng của ba thế
gian ở trú xứ của mình. Thế giới cùng tên gọi là
Tuệ, là bởi vì dùng Tuệ hiểu biết (Giải) trước đây làm chỗ dựa cho
thực hành (Hành). Phật cùng tên gọi là Nhãn, là bởi vì biểu thị cho tâm thực
hành thấy pháp rõ ràng,
lại biểu thị về thực hành các Độ vốn là dẫn dắt
cho thế gian.
Bồ-tát cùng tên gọi là Lâm, là biểu thị về thực hành hạnh
của pháp giới, thành tựu đức của pháp giới. Đức cao mới là cây,
Hành nhiều gọi là rừng, mười
Độ tươi tốt như thế đều tu, vạn hạnh sừng sững
chen kín ngầm phát, pháp
so sánh tương tự cho nên gọi là rừng. Văn còn lại có thể biết.

Hai là trong
phần phát ra ánh sáng, ngón chân là nơi phát ra ánh sáng, nhưng ngón chân có hai năng lực đi và đứng, phẩm trước làm
sáng tỏ về Trú, phẩm
này hiển bày về Hạnh, vốn là khác nhau, còn lại
giải thích giống như trước.
Ba là trong phần kệ ca ngợi, kệ của mười Bồ-tát tức là mười đoạn, đầu là một kệ tổng quát nói về Sự-Lý của
Hội này, sau là chín kệ
riêng biệt hiển bày về
phần nghóa thuộc đức của Phật.

Thứ nhất, Đức Lâm là nêu ra người thuyết
riêng biệt, bởi vì là
Hội chủ cho nên thuyết
đầu tiên, nương theo thần lực của Phật hiển bày
về chỗ dựa thuyết kệ
ca ngợi. Quán sát rộng khắp mười phương, có bốn ý: Một, Địa
Luận nói: Hiển bày về không có ngã mạn, không có
tâm thiên lệch. Hai, hiển bày về pháp đã thuyết giảng khắp nơi
mười phương.
Ba, mười phương giáo hóa
như nhau. Bốn, Dạ-ma ở mười phương cùng có thuyết
về pháp này,cùng lúc hợp lại rồi mới nói thuyết giảng.
Mười một bài kệ phân hai: Đầu là bảy kệ tổng quát nêu ra
sự việc

trong Há»™i, sau
là bốn kệ ca ngợi về đức tự tại của Phật.

Trong phần đầu: Đầu một kệ tụng về
sự việc phát ra ánh
sáng trong phẩm này, bởi
vì gần cho nên hiển bày trước. Tiếp là hai kệ tụng về
sự việc trong
phẩm trước, trong đó trước là một kệ rưỡi tụng cõi
này, sau là nửa kệ tụng
về tương tự mười phương khác. Tiếp là ba kệ tụng về
sự việc trong phẩm này, tức là tụng chung hiển bày rõ ràng khắp
nơi mười phương. Tiếp
là một kệ tụng về văn không rời xa cội cây
Bồ-đề mà đến cõi
trời Dạ-ma…, trong loài người là mỗi một cõi
Diêm-phù trước đây,
đạo tràng là dưới tán cây Bồ-đề trước đây.
Trong phần
sau là bốn kệ ca ngợi về đức của Phật: Một kệ
đầu là ca ngợi về Đức
sâu-Dụng rộng của Phật, đều hiển bày trong nửa kệ. Tiếp là hai kệ giải thích về Dụng rộng trước đây:
1- Thuận theo thế gian-rời xa thế gian, cũng đều hiển bày trong nửa kệ;
2- Một và nhiều vô ngại, nửa kệ trước nêu ra, nửa kệ sau giải thích. Đây chính là hiển bày về một thân
Lô-xá-na, hiện rõ dưới tất cả các tán cây Bồ-đề.
Sau cuối là một kệ giải
thích về Đức sâu trước đây, cũng nửa kệ trước
nêu ra, nửa kệ sau giải
thích, có thể biết.

Thứ hai, tỏ ngộ về lợi ích của nhân quả, cho nên gọi là Tuệ
Lâm. Mười kệ phân hai: Đầu là một kệ nêu ra Chương, đó là nửa kệ trước
nêu ra đức của Phật
khó gặp trình bày về gặp được đáng mừng, nửa kệ
sau nêu ra chúng khó gặp
hiển bày về gặp được đáng vui, Đại Nhân lìa
xa cấu nhiễm là Bồ-tát.
Sau là trong chín kệ
giải thích: Đầu là một kệ giải thích về
nguyên cớ khó gặp được
chúng Bồ-tát, nửa kệ trước hiển bày về trí
sáng
suốt của mình, nửa kệ
sau phân rõ về lợi ích thù thắng cho chúng sinh. Sau là tám kệ giải thích về nguyên cớ khó gặp được đức của Phật, trong đó: Sáu kệ đầu chính thức hiển bày về đức của Phật, hai kệ
sau dá»±a
theo hiểu biết để so sánh.

Trong sáu kệ: Kệ một trình bày về Phật là ngọn đèn phá tan
bóng tối, kệ hai là sáu
Độ chiếu rọi đầy đủ, kệ ba là Đức thù thắng
vượt quá tình thức, kệ bốn là Dụng vắng lặng làm lợi ích cho
chúng sinh, kệ
năm là thấy nghe đạt
được lợi ích, kệ sáu là nhân sâu quả dày.

Trong hai kệ
sau là trình bày về lợi ích của hiểu biết, một kệ đầu dựa vào hướng đến cúng dường Phật để
so
sánh về lợi ích của hiểu biết, một kệ
sau dựa vào hướng đến bố thí rộng rãi để làm
sáng tỏ về
tổn hại của mê lầm.

Thứ ba, do tỏ
ngộ về pháp thù thắng, cho nên gọi là Thắng
Lâm. Mười kệ phân hai: Đầu là bốn kệ ca ngợi về ánh
sáng
sâu rộng của

Phật, sau là
sáu kệ trình bày về chiếu rọi lý thấy Phật.

Trong phần đầu: Hai kệ trước là nêu ra dụ, hai kệ
sau là
pháp thuyết.

Trong hai kệ trước có tám câu: Câu
một là dụ về lúc Phật thành Phật; hai là dụ về tâm Phật không còn cấu nhiễm
chướng ngại; ba là dụ về thân Phật phát ra ánh
sáng
thanh tịnh, nói mặt trời là dụ cho
thân Phật; bốn là dụ
về ánh sáng chiếu rọi khắp nơi; năm là dụ về
ánh sáng rộng nhiều; sáu là dụ về không biết
được giới hạn; bảy là dụ về trí
hãy còn không biết; tám
là dụ về huống gì hạng ngu si.

Trong hai kệ sau là pháp thuyết: Một
kệ đầu là hiển bày về ánh
sáng rộng lớn, một kệ
sau là hiển bày về ánh
sáng rất
sâu xa, bởi vì
giống như pháp tánh.

Trong phần sau là sáu kệ: Đầu
là ba kệ về lìa tướng, tiếp là một
kệ về lìa tánh, sau cuối là hai kệ về giải thích nghi ngờ.
Trong ba kệ đầu: Một là lìa tướng ba đời; hai là lìa tướng
sinh diệt, nửa kệ
sau là trình bày về lợi ích của quán, các kệ
sau đều dựa
theo đây; ba là lìa tướng vốn có.

Tiếp là một kệ về lìa tánh, bởi vì từ duyên hư giả cho nên
không có tánh, không có
tánh cho nên không có gì cởi bỏ.

Tiếp là hai kệ về giải thích nghi ngờ, hiển bày về Vô sinh.
Nghi ngờ rằng nếu duyên khởi không có tánh thì vì
sao có
sinh?
Giải thích rằng bởi vì thụ
động sinh, thụ động sinh tức là vọng tưởng, bởi vì vọng tưởng dựa vào duyên mà khởi cho nên gọi là thụ
động sinh. Bởi vì
chấp vào vọng tưởng
này cho nên nói là có sinh, mà thật thì không có
sinh, đây là dựa theo tánh Sở chấp.

Lại giải thích: Thụ
động sinh là quả, do đối đãi với quả này
mà nói là nhân chủ
động sinh ra quả, đã dựa vào nơi khác không có
nhân sinh ra, cũng không
có đối đãi cho nên không sinh ra, đây là dựa
theo tánh Duyên khởi.

Lại giải thích: Vốn nói đến có
sinh là trình bày về nghóa tùy duyên của
Như Lai Tạng, bởi vì thụ động
sinh là do chủ động xông ướp
thường xuyên, cho nên
tùy theo duyên. Chủ động xông ướp đã không thật, thụ động xông ướp không lay động, cho nên cũng không
có sinh. Bởi vì chủ động xông ướp kia cũng là tâm thụ động
sinh ra, cho nên gọi là thụ
động sinh, đây là dựa
theo tánh Viên thành. Kệ này là đối đãi với thụ
động sinh làm phai mờ
chủ động sinh, kệ sau tương tự chủ động loại trừ
thụ động sinh, cho nên
nói là quán về thụ động sinh cũng như vậy.

Thứ tư, do tin tưởng vui với lý sâu xa, không sợ nẽo ác, cho
nên
gọi Vô Úy
Lâm. Mười kệ phân năm:

Hai kệ đầu trình bày về nghe đến lợi ích tin vào pháp mà Đức
Phật này đã thuyết, kệ trước là phân rõ về
pháp đã nghe, xứ này là xứ
Hoa Tạng này, lại là xứ mà Đức Phật này đã
thuyết pháp, hai câu trước
hiển bày về rộng lớn, câu tiếp phân rõ về tùy
duyên, câu sau hiển bày
về bất biến; một kệ sau hiển bày về nghe đến lợi
ích tin vào pháp này.

Có hai kệ trình bày về nghe đến pháp của Phật ở phương khác
có lợi ích, kệ trước trình bày về pháp đã
nghe, nửa kệ đầu hiển bày về
nghe nơi rộng lớn, câu tiếp là đã nghe sâu xa, câu
cuối là nghe
không quên; kệ
sau làm
sáng tỏ về lợi ích, nửa kệ trước nhắc lại pháp đã nghe
trước đây, câu tiếp là dùng để cầu Phật, câu
cuối trình bày về cầu nhất định đạt được, cho
nên nói là cứu cánh…

Có hai kệ trình bày về nghe-tin vào pháp của Phật quá khứ có
lợi ích, đều là nửa kệ trước nêu ra niềm tin,
nửa kệ sau trình bày về lợi
ích của niềm tin, có thể biết.

Có hai kệ, nghe-tin vào pháp của Phật hiện tại có lợi ích, trong đó câu đầu là chủ động tin, hai câu tiếp là
Phật đã tin, câu cuối là pháp
đã tin; kệ sau hiển bày về lợi ích, bởi vì khó
được nghe. Lại giải thích:
Kệ trước, nửa kệ đầu trình bày về tin vào
Phật hiện tại, nửa kệ
sau trình bày về lợi ích của niềm tin, nghóa là vị ấy nhờ vào niềm tin này mà
thành tựu Đẳng Chánh Giác…; kệ sau hiển bày về
nghe pháp thù
thắng là khó.

Có hai kệ, tổng quát dựa vào pháp của tất cả chư Phật trên đây để kết luận khuyến khích tu học.
Trong đó: Kệ đầu là khuyến khích thọ
trì-khuyến khích thuyết giảng, câu đầu là nhắc lại pháp trên đây, câu
tiếp là khuyến khích thọ trì, câu tiếp là khuyến
khích thuyết giảng, câu
cuối là ca ngợi thù thắng để khuyến khích. Kệ sau
là khuyến khích thọ trì-khuyến khích thực hành, nửa kệ trước là khuyến khích thực hành, do
khuyến khích thực hành tu tập mà thành tựu hai
trang nghiêm, câu tiếp là khuyến khích thọ trì cùng với trước khác nhau, trước do thọ trì cho
nên có thể thuyết giảng, ở đây do thọ trì cho
nên có thể thực hành, câu cuối là trình bày về
lợi ích của tu hành, đó là đạt được Bồ-đề.
Thứ năm,
rời xa phân biệt không có dần dần, cho nên gọi là
Tàm Quý Lâm. Mười kệ phân hai: Trước là chín kệ riêng biệt ca ngợi
về pháp của Phật, sau là
một kệ cùng kết luận về hai phần trước.

Trong chín kệ trước: Đầu
là một kệ ca ngợi về pháp mà Phật
đã chứng, nửa kệ
trước là pháp thù thắng, nửa kệ sau là lợi ích của
niềm tin. Sau là tám kệ
ca ngợi về trí chủ động chứng của Phật, có hai: Một kệ đầu trình bày về chứng pháp đầy đủ tất cả, nửa kệ trước trình bày
về tất cả chư Phật đều
nói tự mình đã chứng, nửa kệ sau trình bày về
tuệ chứng của một Đức
Phật không có gì không cùng tận. Bảy kệ sau
trình bày về Vô chứng là Chứng.
Trong đó một kệ đầu là nêu ra Chương, nửa kệ trước là
Vô chứng, nửa kệ sau là
Chứng. Trong nửa kệ trước có năm giải thích:

Dựa theo Trí đế
giải thích, đây chính là chứng Trí vô phân biệt, không
sinh ra từ Trí phân biệt của thế gian, cũng không
sinh từ ngu
si và
sắc pháp…, cho nên Nhiếp Luận nói: “Trí này
không phải là
Trí-không phải là không phải Trí, không phải là Trí thì không phải là Trí phân
biệt, không phải là không phải Trí thì không phải
là sắc pháp.”
Trong này, không phải là Trí dựa theo ngu si.

Dựa theo Cảnh để giải thích, đó là Trí đã chứng lý chỉ là
Liễu nhân, vốn không phải là
Sinh nhân, bởi vì ngu
si không có Trí,
Sinh- Liễu cả hai đều không phải, cho nên đều nói là không sinh.

Dá»±a theo
Cảnh-Trí đích thực thông hiểu để
giải thích, đó là
Trí như Cảnh cho nên không phải là Trí, Cảnh như Trí cho nên không
phải là không có Trí.

Dá»±a theo
Tịch-Chiếu để
giải thích, đó là Trí tức là Tịch cho nên
không phải là Trí, không mất đi chiếu rọi cho nên
không phải là
không có Trí.

Dựa theo bặt dứt đối đãi để
giải thích, đó là tướng của
Trí không còn cho nên không phải là Trí, không có Trí
có thể đối đãi cho
nên không phải là không có Trí.

Trong ná»­a
kệ sau, như vậy Trí là không có Trí thì mới có thể
chiếu rọi pháp diệt trừ
tăm tối vốn là Chứng.

Trong sáu
kệ sau: Năm kệ đầu giải thích về nửa
Chương trước, một kệ sau giải
thích về nửa Chương sau.

Trong năm kệ đều nửa kệ trước là nêu ra dụ, nửa
kệ sau là pháp- hợp: Kệ
(1) là dụ về tánh ngu-trí khác nhau;
(2) là dụ về cùng thành
hư vọng;
(3) là dụ về
hai tánh trái ngược nhau;
(4) là dụ về duyên
ngu-trí cách xa;
(5) là dụ
về Dụng không có tác thành lẫn nhau. Năm kệ
này đều hiển bày về
sự khác nhau giữa ngu-trí, đều không chân thật, mê- ngộ này bặt dứt, tướng của
Trí không còn. Một kệ
sau giải thích về Dụng thù thắng của
Diệu Trí, trong nửa kệ trước là nêu ra dụ,
Già-đà ở Trung Hoa nói là thuốc tốt, nghóa là có năng lực loại trừ tất cả chất
độc, nửa kệ sau là
pháp-hợp có thể biết.
Sau là trong một kệ cùng kết luận, nửa kệ trước là kết luận về

trí thù thắng
của Phật, nửa kệ sau là kết luận về pháp thù
thắng trước đây.
Thứ sáu,
thường thường quán sát về Sự-Lý mà không có
gì phân biệt, cho nên gọi là
Tinh Tiến Lâm. Mười kệ tổng quát ca ngợi về
trí soi chiếu không có sai
biệt của Phật: Một kệ đầu là tổng quát, chín
kệ còn lại là riêng biệt.
Trong kệ trước là tánh-tướng của các pháp không có
nghóa sai biệt, chỉ riêng Phật có năng lực nhận biết, nhưng nhận biết đầy đủ tường tận ngọn nguồn gọi là nhận biết phân biệt, câu tiếp là nhận biết đầy
đủ, câu sau cuối là
nhận biết sâu xa.

Trong chín kệ riêng biệt đều trước là dụ, sau là pháp:

Dụ về chân-vọng đan xen đến cùng, nghóa là dựa vào chân
khởi vọng, như vàng hiện rõ màu sắc. Không phải
pháp là vọng dụ cho màu
sắc của vàng, không có Thể tức là chân, cho nên tánh không có
sai khác. Lại chân tâm tùy duyên là pháp-không phải pháp, tâm Thể không
khác cho nên tánh không có sai khác. Vì vậy kinh Lăng Già nói:
“Như Lai Tạng làm nhân thiện-bất thiện.” Lại kinh Niết
Bàn nói: “Cùng với bất thiện đều gọi là
Vô minh, cùng với pháp thiện đều nói là Minh,
Minh và Vô minh tánh ấy không hai, tánh không hai tức là thật tánh.”
Là nói đến nghóa này. Lại phẩm Bất Nhị Pháp Môn
trong kinh Duy
Ma đều là nghóa này.

Dụ về cả hai đều không có thật, nghóa là chúng sinh dựa theo
Chánh báo bên trong (nội báo) dụ cho pháp, không
phải là chúng
sinh dựa theo Y báo bên ngoài (ngoại khí) dụ cho không phải pháp, đều không có tánh nhất định, cả hai đều không có.
Lại giải thích: Bởi vì chúng
sinh tức là
Vô ngã, cho nên chúng
sinh
không thật; Vô ngã không trở ngại
chúng sinh, cho nên không phải là chúng
sinh cũng
không thật,
lý-sự làm mất lẫn nhau cho nên đều
không thật.
Kinh nói: “Đối với
Ngã-Vô ngã không hai là nghóa về Vô ngã, lại bởi
vì chúng sinh tức là không phải cho nên không phải tướng cũng lìa xa, do đó đều
không thật.
Pháp-hợp có thể biết.

Dụ về
sinh không có
tướng diệt, nghóa là pháp
sinh tức là không
có sinh, giống như không có
tướng diệt. Lại ngay nơi tướng vị lai này tức
là không có, giống như vị lai không có tướng quá khứ.

Dụ về diệt không có
tướng sinh, nghóa là pháp
sinh tức là
không sinh, giống như pháp đã diệt. Lại pháp quá khứ tức là không có quá khứ,
giống như không có hiện tại-vị lai.

Dụ về Thể của pháp lìa xa giữ lấy, nghóa là
Niết-bàn lìa xa

tÆ°á»›ng cho
nên không thể nào giữ lấy, dựa theo nơi diệt hết
báo chướng phiền não nói là còn lại-không còn
lại, mà thật thì lý về diệt không có gì sai biệt.

Dụ về tánh không có sai biệt, nghóa là kể ra pháp
không khác,
pháp cùng là tánh tróng rỗng.

Dụ về tùy duyên thành ra khác nhau, nghóa là lấy
số mười làm căn bản, tăng lên đến nhiều lần mười, trí tuệ ở trong đó dấy lên
hiểu như trăm-ngàn…, cho nên nói là sai biệt, nhưng
đối với số ấy đều
là những số mười, vì vậy nói đều là số căn
bản.Ví như chân lý ấy tùy duyên thành ra khác nhau, cầu tìm pháp khác nhau ấy không khác nhau
mà hoàn toàn chân, lược qua không có pháp-hợp.

Dụ về Thể cứng không hủy hoại, nghóa là tuy cùng hữu vi mà
luôn luôn trong suốt.

Dụ về chấp khác nhau trái với giống nhau, có thể biết.

Thứ bảy, thông hiểu về thế gian Không gọi là
Lực Thành Tựu Lâm, ý kệ trình
bày về thông hiểu nhiễm-tịnh Không, hiển bày ca
ngợi về Chân Phật. Mười
kệ phân hai: Chín kệ trước là thông hiểu về
cảnh, một kệ sau là thành tựu hạnh.
Trong chín kệ trước: Sáu kệ đầu dựa theo tánh Duyên khởi
để hiển bày về Vô
sinh, ba kệ sau dựa theo tánh Sở chấp để hiển bày về Vô tướng.

Trong sáu kệ đầu có hai: Bốn
kệ trước hiển bày về pháp thế gian
Vô sinh, hai kệ sau tương tự hiển bày về pháp xuất thế.
Trong bốn kệ trước: Hai kệ đầu là
Sinh Không, hai kệ
sau là
Pháp Không.
Trong hai kệ đầu: Trước
là một kệ rưỡi suy ra ngọn quy về gốc; nửa kệ
sau lấy gốc để hiển bày ngọn, nghóa là tâm tùy theo huân tập biến đổi mà làm
chúng sinh, tâm đã như huyễn
không thật, thì
tâm chúng sinh lẽ nào có
thể có thật?
Trong hai
kệ sau: Đầu là bởi vì không biết thế gian hư giả, cho
nên lại tiếp tục xoay
vòng ở trong thế gian trống rỗng; sau là bởi vì
không biết thế gian khổ
đau, cho nên lại thường lưu chuyển ở trong thế
gian khổ đau. Trong này,
thế gian không phải là mình làm ra, không phải là
người khác làm ra, có bốn lớp: Dựa theo ngoại đạo v.v…
Trong hai kệ
sau tương tự hiển bày về pháp xuất thế: Kệ đầu là
nêu ra, nghóa là ngược
lại với thế gian này gọi là xuất thế gian; thế gian
đã trống rỗng, lẽ nào
có xuất thế gian mà có thể giữ lấy hay sao? Vì vậy nói là cả hai đều không phải chân thật. Nửa kệ trước là lý chân thật,
nửa kệ
sau là tình hư vọng.
Kệ sau là
giải thích: Ba câu đầu giải thích
để hiển bày về thế
gian trống rỗng, câu sau không có thế gian để so
sánh, cho nên xuất thế gian cũng không chân thật.
Lại dựa theo văn này, chỉ ngăn chặn thế gian mà gọi là xuất thế gian, không biểu thị điều gì
khác, cho nên cũng không trống rỗng.

Trong ba kệ sau dựa theo tánh Sở chấp để hiển bày về
Vô tướng, cũng có hai: Đầu là
hai kệ về thế gian trống rỗng, sau là một kệ
tương tự xuất thế gian.
Trong hai kệ trước, một kệ đầu là nêu ra tình, một
kệ sau là hiển bày lý.
Trong kệ đầu, câu trước là nêu ra Thể, câu tiếp là nêu ra Tướng, hai câu
sau là trình bày về
sai lầm mê muội
của phàm phu.
Trong kệ sau, nửa kệ trước trình bày về tình chấp không có, nửa
kệ sau trình bày về lý tánh hiện rõ. Trong kệ
sau là tương tự xuất thế
gian, Phật và pháp là
xuất thế gian, đều dựa theo tình chấp, cả hai không hề vốn có.

Một kệ sau
cuối trình bày về thành tựu hạnh, nửa kệ trước là
diệt vọng thấy chân, nửa
kệ sau trình bày về Pháp Phật thường hiện rõ.

Thứ tám, chiếu rọi Pháp thân Phật gọi là
Kiên Cố Lâm, ca ngợi về Thể vắng lặng của
Pháp thân Phật. Mười kệ phân hai: Bảy kệ đầu
hiển bày pháp, ba kệ sau thành tựu quán.
Trong bảy kệ đầu: Hai kệ trước nêu ra hai
Chương về năng-sở,
kệ trước là hiển bày
về Thể vắng lặng đã ca ngợi, nghóa là đất sinh ra cỏ cây, nhưng ở trong đất tìm hạt giống của cỏ cây thật
sự không thể
có được, dụ cho Phật
ứng với cơ hiện bày có sai biệt, đối với Phật cầu tìm ý khác thì không thể có được, cho nên văn
sau nói vô lượng thân
không phải là Phật…;
kệ sau hiển bày về chủ động ca ngợi bình đẳng, có
thể thấy. Năm kệ sau
trong giải thích rộng ra: Trước là ba kệ giải thích
về chủ động ca ngợi
Không trước đây, kệ một trình bày về nghiệp không phải là có,
 kệ hai bởi vì nghiệp giống như thân cho nên thân cũng không phải là có, kệ ba bởi vì
nghiệp-thân giống như Thức cho nên
Thức cũng không phải là có.
Sau là hai kệ giải thích trong không phải là có đã
ca ngợi trước đây, kệ
đầu trình bày về Đại Dụng ứng với cơ, kệ sau
trình bày về Thể không
phải là bao nhiêu.
Trong ba kệ
sau trình bày về lợi ích của hành, kệ một là lợi ích
về chứng được thấy
Pháp thân, kệ hai là phá tướng quy về chân, kệ ba
là chứng thật sự lìa xa tướng.

Thứ chín, do
quán sát về tâm Chân như, cho nên gọi là Như Lai Lâm. Mười kệ phân hai: Sáu kệ đầu trình bày về tâm làm ra phàm,
bốn kệ sau trình bày về
tâm sinh khởi Thánh.

Trong sáu kệ đầu: Bốn kệ rưỡi trước là nêu ra dụ, một kệ rưỡi
sau là pháp-hợp. Trong
phần trước: Hai kệ đầu là dụ về thợ vẽ họa ra
bức tranh, dụ cho pháp hư
vọng dựa vào chân thật; tiếp hai kệ trình bày
dụ về tâm vẽ họa ra
bức tranh, dụ cho vọng dựa vào tâm; nửa kệ sau
trình bày dụ về thợ vẽ không biết tâm vẽ, dụ
cho duyên khởi không có
nhận biết. Trong này ý
nói: Tất cả chúng sinh đều dựa vào duyên khởi chân thật, tâm của Thức vốn có tùy theo
sự huân tập của
Danh ngôn-Hữu chi-Ngã kiến…, có thân của
sáu nẽo hiện bày, duyên khởi hư giả
không ngăn ngại, không
có gì không hủy hoại quả báo của chúng
sinh(hữu), cho nên hội tụ thâu nhiếp vào hai môn ấy. Nếu hội tụ duyên thuận
theo thật thì tướng sai
biệt không còn, chỉ là một Chân như. Nếu thâu nhiếp ngọn quy về gốc thì hình thể
sai khác trong
sáu nẽo, chỉ do tâm
mà chuyển. Dựa theo môn
đầu thì duyên khởi không tồn tại, vốn là
Chân như môn; dựa theo môn
sau thì duyên khởi không hủy hoại, vốn là
Sinh diệt môn. Vì vậy tồn tại và hủy hoại không hai mà chỉ một duyên khởi, hai môn vô ngại vốn chỉ là một tâm.
Luận Khởi Tín nói: “Dựa vào pháp một tâm có hai loại môn, một là tâm chân như môn, hai là tâm
sinh
diệt môn, nhưng hai môn
này đều tự nhiên thâu nhiếp tổng quát tất cả các pháp.” Là nói đến nghóa này. Nay trong văn này, họa ra cũng
có hai nghóa: Một là dựa vào vách tường vốn chỉ có
bằng phẳng, hai là dựa
vào tâm khéo léo của
thợ vẽ cho nên tựa như có cao thấp.
Hai kệ đầu trình bày về môn thứ nhất:
Kệ đầu, nửa kệ trước dụ cho tùy theo huân tập khắp nơi khác nhau, câu tiếp hiển bày khác
nhau do vọng tình, câu cuối
là tướng không còn giống như chân, bốn Đại dụ cho chân tâm,
sắc màu dụ cho tướng hư giả của
duyên khởi.
Kệ sau, nửa kệ trước trình bày về chân-vọng không ngay
trong nhau, câu trước trình bày dụ về chủ động tạo ra không phải là thụ động tạo ra, thâu nhiếp chân của vọng không ngay
trong vọng, bởi vì tánh chân thật, câu
sau trình bày dụ về thụ
động tạo ra không phải là chủ động tạo ra, dựa vào vọng của chân không ngay
trong chân, bởi vì tánh hư giả; nửa kệ
sau trình bày về vọng
không lìa xa chân, nghóa là bởi vì hư giả xuyên
suốt chân, hư giả không
còn thì chân hiện bày, cho nên nói là không lìa
xa. Vì thế cho nên không
lìa xa, không khác nhau, không ngay trong
nhau, suy nghó điều này!

Hai kệ tiếp trình bày về hình vẽ dựa vào tâm vẽ dụ cho Sinh diệt môn, tâm thợ vẽ này dụ cho tâm chủ động biến hiện như Thức vốn
có…, màu vẽ dụ cho báo
thụ động biến hiện của thân năm Uẩn. Kệ đầu,
nửa kệ trước trình bày
về chủ động-thụ động không ngay trong nhau; nửa
kệ
sau hiển bày về gốc-ngọn không rời xa nhau, nghóa là bởi vì
tâm gốc-hình ngọn cho nên
không ngay trong nhau, tâm biến hiện làm báo cho nên không rời xa nhau. Đây là trình bày về tâm chủ động
biến hiện cảnh, Thể của không phải là cảnh; cảnh từ tâm biến hiện, tướng
của cảnh không phải là
tâm; từ nơi tâm biến hiện, cho nên cảnh không
rời xa tâm; chủ động biến hiện cảnh, cho nên tâm không rời xa cảnh; vì
vậy tuy không ngay trong
nhau-không rời xa nhau, mà chủ yếu chỉ là
Thức chứ không phải là chỉ riêng cảnh. Hỏi: Kệ trước chỉ trình bày về màu
sắc không rời xa bốn
Đại, không trình bày về
bốn Đại không rời xa màu sắc, vì sao cùng với
kệ này không giống nhau?
Đáp: Kệ
trước trình bày về chân không biến thành vọng, kệ
này hiển bày về tâm
biến hiện cảnh, cho nên không giống nhau.

Kệ sau, nửa kệ trước trình bày về tâm khéo léo của thợ vẽ dụ
cho Thức chủ động biến
hiện, không có dừng lại làm căn bản cho nên
khó suy nghó; nửa kệ
sau hiển bày về màu vẽ thụ động hiện ra dụ cho tướng thụ động biến hiện, đều từ nơi tâm hiện ra không có Thể để có thể
nhận biết lẫn nhau.

Sau là nửa kệ về thợ vẽ không nhận biết hình vẽ này đều từ
nơi tâm hiện ra, dụ cho
các chúng sinh mê muội tâm lượng của mình.

Một kệ rưỡi sau cuối là pháp-hợp có thể biết.

Thứ hai là trong bốn kệ sau trình bày về tâm khởi Phật. Như
tâm, Phật cũng như vậy,
lấy phàm giống như Phật, như tâm tạo phàm,
làm Phật cũng như vậy,
đều từ nơi tâm khởi lên; như Phật, chúng sinh
cũng như vậy, lấy Phật giống như phàm. Hai câu
sau cuối hợp lại để hiển
bày về giống nhau, nghóa
là tâm làm Phật, tâm-Phật không có gì sai khác; tâm làm phàm phu, tâm-phàm không có gì
sai khác, chủ động-thụ động nương tựa giống nhau cho nên nói là không có gì
sai khác.
Lại giải thích: Đây là trong
phần thứ hai kết luận khuyến khích tu học. Một
kệ đầu dung hòa kết hợp
gốc-ngọn, gốc-ngọn có ba:
1) Chỉ riêng gốc, đó là chân lý, bởi vì dựa vào tánh thanh tịnh của Bổn giác gọi là Phật;
2) Chỉ riêng ngọn, đó là chúng sinh thụ động biến hiện;
3) Cả hai, đó là tâm chủ động biến hiện, bởi vì dựa vào chân có thể biến hiện.
Ba duyên khởi này dung thông
vô ngại, tùy theo một loại thâu nhiếp đầy đủ
hai loại còn lại, tánh
không khác nhau cho nên nói là không có gì sai
biệt. Một kệ tiếp là
nêu ra lợi ích để khuyến khích tu tập, nửa kệ trước trình bày về
Phật đã biết, nêu ra bậc trên để khuyến khích hạng dưới,
câu tiếp là khuyến khích
hạng dưới giống như bậc trên, câu sau cuối là kết
luận trình bày về lợi ích của nhận biết. Một kệ tiếp là trình bày về thân- tâm không ngay trong nhau-không rời xa nhau, nửa kệ trước là
thân-tâm khác nhau cho nên
không ngay trong nhau, nửa kệ sau là dựa vào tâm hiện rõ thân cho nên không rời xa nhau. Một kệ
sau cuối là
khuyến khích tu tập, nửa
kệ trước là nêu ra sự mong cầu, nửa kệ sau là
khuyến khích dựa vào lý quán, nghóa là hiểu được
tâm này tiến vào thật tức
là Như Lai, ngược lại với điều này vốn là mất đi.
Lại giải thích:
Cũng vốn là tâm biến thành
tướng Phật mà hiện rõ ra. Thứ mười,
biết Thể-Dụng sâu rộng của Phật, cho nên gọi là Trí Lâm. Mười kệ phân ba: Ba kệ đầu ca ngợi về Pháp thân Phật lìa
tướng, một kệ tiếp
trình bày về chủ động ca ngợi Phật đạt được
Đại công đức, sáu kệ sau ca ngợi về sắc-thanh
ứng hiện của Phật.

Trong ba kệ: Một kệ đầu
trình bày về lìa xa tướng của sáu
trần, câu đầu lìa xa ba
trần Hương-Vị-Xúc cho nên nói là không thể giữ lấy, câu tiếp là lìa xa
Sắc trần, câu tiếp là lìa xa
Thanh trần, câu
sau cuối là lìa xa
Pháp trần. Một kệ tiếp là lìa xa tướng
Lượng-Vô lượng,
Vô lượng là nhiều, Hữu lượng là ít, đều là vọng chấp, đều không thể giữ lấy.
Một kệ tiếp là lìa xa
tướng ngôn thuyết, có hai nghóa: Một là như tám
thời không nên nói mà
nói, cho nên mình và người không có lợi ích; hai
là không biết Pháp thân
không phải là cảnh của ngôn thuyết, mà lại
cho rằng như lời nói để
nói cho người khác thì rơi vào có-không có. Bởi
vì bốn loại bài báng…,
cho nên lừa dối mình và người, chính là năm
loại sai lầm như tùy theo tiếng giữ lấy nghóa ở
văn sau. Hai kệ trước
trình bày về tâm hành
xứ diệt của Pháp thân, kệ này trình bày về ngôn
ngữ lộ tuyệt cho nên
không thể nghó bàn.

Thứ hai là một kệ trình bày về ca ngợi công đức mà Phật đã
đạt được, có thể biết.

Thứ ba là ca
ngợi về đức ứng hiện của Phật. Sáu kệ phân hai: Ba kệ đầu trình bày về tướng thân của Phật, nghóa là không có thân
mà hiện thân, thân tức
là không có thân. Ba kệ sau trình bày về tướng
ngữ của Phật, nghóa là không có thanh mà
hiện thanh, thanh tức
là không có thanh.
Trong ba kệ đầu: Kệ một dụ về thân đã hiện bày không phải
là chân thật, nghóa là như ngọc châu như ý dùng áo vàng
soi vào thì
trở thành màu vàng.
Điều này có hai nghóa: Một, ngọc châu không phải
là màu vàng mà hiện ra
màu vàng; hai, màu vàng đã hiện ra không phải là thật
sự màu vàng, thân Phật cũng như vậy, cơ
soi vào mà hiện
ra. Hai nghóa cùng dụ, cho
nên câu sau hợp lại nói là Phật cũng như vậy.

Như kinh Trí
Tuệ Trang Nghiêm nói rộng về dụ này, nên biết. Kệ hai dụ về chủ động hiện bày lìa xa thấy, nghóa là dựa vào hư không hiện rõ màu
sắc mà hư không không phải là có thể
trông thấy, dụ cho
Phật ứng với cơ hiện bày
sắc, mà Phật không phải là sắc, không thể trông
thấy. Kệ ba nêu ra
pháp-hợp, nghóa là Phật địa. Đại Trí có hai nghóa:
Một là nghóa về viên minh, dụ
trước hiển bày về nghóa này; hai là nghóa về lìa tướng, dụ
sau hiển bày về nghóa này. Đều có ứng với cơ mà hiện rõ
sắc, nhưng không phải
là sắc, cho nên nói là không ai có thể nhìn thấy.
Dựa theo văn này, rõ ràng thân tự thọ dụng không có công đức thô thiển
như Sắc… Như trong Phật
Địa luận nói v.v…
Trong ba kệ
sau trình bày về ngôn thanh của Phật: Một kệ đầu trình bày không phải là
thanh-không phải là
không thanh, đều là nửa
kệ hiển bày, bởi vì dựa vào giải thích để hiểu về thật, cho nên nói là lìa xa thanh thì không nhận biết. Một kệ tiếp là ca ngợi
sâu xa khuyến khích
tu học, lợi ích của
hướng đến chân thật trang nghiêm cho đạo Vô
thượng, lợi ích của
rời bỏ không thật lìa xa các pháp hư vọng. Một kệ
sau
trình bày không phải là
thuyết giảng-không phải là không thuyết giảng, đều
là nửa kệ hiển bày, có thể biết. Cũng là trong
Phật Địa luận trình
bày về không có thuyết
giảng mà thuyết giảng thuộc về cơ duyên.

----------------------------

<詞>Phẩm 17: CÔNG ĐỨC HOA TỤ BỒ TÁT THẬP HẠNH</詞>

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Mười
Độ làm lợi ích tưới nhuần
Thể gọi là Công Đức, có công trang nghiêm cảm được
như hoa kết trái, các hành tô điểm qua lại như hoa tích tụ.
Lại nữa, Đức là
Thể của hành, Hoa là
Dụng của hành, Tụ là
Tướng của hành, Bồ-tát là người có những đức ấy, đây là
Hữu tài thích. Đây là tên gọi khác của
Công Đức Lâm, tương
tự như phẩm Kim Cang Tràng Hồi Hướng sau này. Thập
Hạnh là pháp của phần vị là kèm theo
số mà lập thành tên gọi.
Thập Hạnh của
Bồ-tát cũng dựa vào chủ mà có được tên gọi, người
và pháp làm đề mục
của chương.

Ý ĐƯA RA:
Phần Tựa trước đây đã làm
sáng tỏ, do đó phần
Chánh tông cần phải hiển bày. Lại phần trước là chúng đã quy tụ, tiếp
theo chính thức thuyết giảng truyền trao cho nên tiếp tục đưa ra.

TÔNG THÚ có ba:

Trình bày dựa theo Tam thừa nương vào pháp của phần vị.

Trình bày về pháp thuộc hạnh riêng biệt.

Pháp của hạnh vị Phổ Hiền thuộc Nhất thừa.

Trong phần thứ nhất, các
Thánh giáo nói phân tán ra nhiều môn, thâu nhiếp tổng quát có mười: Một là phần vị của Nhân Độ trong hai
Độ nhân-quả; hai là
thuộc về Tinh tiến hạnh tăng-kỳ trong ba tăng-kỳ
của Địa tiền trong bảy
A-tăng-kỳ; ba là thành tựu về hạnh Tam-muội
phá hư không khí giới
trong bốn hạnh của Địa tiền; bốn là thành tựu
chủng loại Lạc đức-Liễu
nhân trong bốn đức Liễu nhân của Pháp thân;
năm là người Thập Hạnh
thứ ba trong bốn người phương tiện của Địa
tiền. Trên đây đều như
Lương Nhiếp Luận… nói. Sáu là phần vị Tư Tuệ
thứ hai trong sáu Tuệ;
bảy là Hạnh Nhẫn trong sáu Nhẫn; tám là thuộc
về tánh của chủng tánh
trong sáu chủng tánh. Trên đây đều như kinh Bổn Nghiệp… nói. Chín
là thuộc về Trì hạnh phương tiện trong ba Trì, như luận
Du Già-Địa Trì nói; mười là thứ ba chế phục loại trừ
sợ hãi khổ đau của
Thanh văn, khiến cho đạt được quả báo của
Ngân Luân Vương làm vua ba thế giới hệ,
trong bốn chướng trừ bỏ của Địa tiền.
Thứ hai là trình bày về hạnh riêng biệt ấy, trong kinh Nhân
Vương quyển thứ hai: “Phần vị tánh của chủng tánh có 10 tâm, đó là
quán Thân-Thọ-Tâm-Pháp-Bất
tịnh-Khổ-Vô thường-Vô ngã, ba thiện căn
là Thí-Từ-Tuệ, ba ý chỉ
đó là Nhẫn thuộc nhân quá khứ-Nhẫn thuộc
nhân quả hiện tại-Nhẫn
thuộc quả vị lai, đã vượt qua Tưởng về
Ngã-Nhân- Tri
kiến-Chúng sinh…, và Tưởng điên đảo của ngoại đạo vốn không thể
nào hủy hoại được.”
Kinh Bổn Nghiệp cũng giống như vậy.
Lại nữa, hạnh có hai loại:
1) Thông, đó là Thập Hạnh như Tín…;
2) Biệt, đó là Thập Độ này. Trong này trình bày về Biệt chứ không phải là Thông. Trong Biệt lại có hai,
 một là nhân, hai là quả. Trong này trình bày về nhân thuộc Ba-la-mật.
Đây đều là dựa theo trong giáo Tam thừa
nương vào pháp để hiển bày về hạnh.

Thứ ba là dựa vào Viên giáo để trình bày về hạnh Phổ Hiền,
là trong Thập Hạnh này
thâu nhiếp đầy đủ hạnh trong các phần vị
trước sau, tất cả đều
tận cùng. Vì thế cho nên lúc phần vị này đầy đủ
thì đến phần vị cuối cùng, như Hạnh thứ mười đầy đủ nói là tự tại tiến vào pháp giới
Nhân-đà-la võng, thành tựu vô ngại giải thoát của
Như Lai, làm Đại
Sư Tử Hống uy hùng giữa
loài người, làm
Pháp Luân Vương chuyển pháp luân vô
ngại… Giải thích rằng: Đây là Bồ-tát trong phần vị
cuối cùng hãy còn không
phải là Phật, bởi vì ngay phần quả cho nên
không thể nói được.

GIẢI THÍCH VĂN: Trong phần
Chánh thuyết này có hai
phẩm, phẩm đầu trình bày về những công hạnh ấy,
phẩm sau hiển bày về những thành tựu ấy. Lại phẩm đầu là dựa theo hạnh cao thấp của
phần vị, phẩm sau là tướng chung của hạnh từ đầu
đến cuối. Lại phẩm đầu là phần vị, phẩm
sau là công hạnh. Lại phẩm đầu là
Tự phần, phẩm
sau là Thắng tiến.

Ngay trong phẩm đầu có bảy phần giống như trước:
1) Phần Tam- muội;
2) Phần gia hộ;
3) Phần phát khởi;
4) Phần căn bản;
5) Phần thuyết giảng;
6) Phần chứng thành;
7) Phần kệ tụng. Vì sao như vậy? Bởi vì muốn trình
bày dựa vào Chứng phát khởi thuyết giảng cho nên trước phải nhập Định, hiển bày về pháp thù thắng cho nên
Phật cùng gia hộ, lúc thuyết giảng
sắp đến cho nên từ Định đứng lên, lời nói không lập tức
sáng tỏ cho nên tóm lược nêu ra phần căn bản, không phải là tóm lược có thể đầy đủ cho nên
sau giảng giải rộng ra, hiển bày về pháp đã nói hợp với tất cả cho nên kết luận về
Chứng cứu cánh, đối với
pháp đã nói để cho dễ
dàng thọ trì vì vậy có phần kệ tụng.
Trong phần thứ nhất, vì
sao nhập Định thì có
sáu ý, giải
thích giống như trước.
Trong này có ba: Một, nêu ra người nhập Định, nghóa là thực hành thành tựu công đức như rừng, nói là mười bởi vì
không khác cho nên gọi
là Nhập. Hai, hiển bày không phải là sức của
mình, nghóa là
suy ra cảm hóa quy về Phật, cho nên nói là
Thừa lực. Ba,
chính thức trình bày đạt
được Định, nghóa là thần sắc kín đáo chứng thực
phù hợp, cho nên nói là Nhập.

Bồ-tát là nêu ra người riêng biệt, pháp lựa chọn quả Phật. Định khéo léo điều phục là nêu ra năng lực hiển bày về khác lạ. Thiện có
hai nghóa, một là nghóa về
năng lực khéo léo, hai là nghóa về thuận với
lý. Phục cũng có hai
nghóa, một là nghóa về chế phục, hai là nghóa về điều phục. Một là dựa theo chướng có thể khéo léo chế phục,
 khiến vónh viễn không khởi lên cho nên nói khéo léo điều phục; hai là dựa theo hạnh tu tập thực hành thuận với lý, hạnh điều phục cho nên nói là
khéo léo điều phục.
Tam-muội giải thích giống như trước.

Thứ hai là trong phần Gia hộ, có ba: Một, Tổng quát hiển bày về năng lực
gia hộ; Hai, Giải thích về gia hộ bằng
việc làm; Ba,
Chính thức phân rõ về tướng gia hộ.

1) Trong phần một có năm:
1) Trình bày về chư Phật hiện thân;
2) Làm sáng tỏ về Phật cùng chung tên gọi;
3) Ca ngợi đạt được Định này; Trình bày về đạt được Định nhờ vào gia hộ;
5) Đức Phật ấy tự mình giải thích về nguyên nhân đã thực hiện gia hộ.
Trong phần một Hỏi:
Chư Phật này là đang ở một nơi vượt
ra ngoài vô số quốc độ
(sát trần) của vạn Đức Phật nhập lại có bấy
nhiêu Đức Phật, hay là
đang ở phân tán? Đáp: Là ở phân tán.
Vì sao phân tán? Lại như từ phương
Đông vượt ra ngoài trần
số quốc độ thuộc thế giới của vạn Đức Phật, có
một Đức Phật danh hiệu
là Công Đức Lâm. Từ đây hướng về phương Đông lại vượt ra ngoài trần
số quốc độ thuộc thế giới của vạn Đức Phật, lại
có một Đức Phật danh
hiệu là Công Đức Lâm. Như vậy hướng về
phương Đông lần lượt chuyển tiếp
số lượng đến thế giới của vạn Đức Phật,
trần số chư Phật đều cách xa nhau,
số cũng giống như trước; như
phương Đông, chín phương
còn lại cũng như vậy. Lại nhiều Đức Phật gia hộ
là bởi vì tăng trưởng
tâm cung kính người-tôn trọng pháp của Đại
chúng. Lại vốn là hiển
bày về lực của chư Phật hội tụ cùng thuyết giảng.

Phật cùng chung tên gọi, có bốn ý giống như trước: Một là bởi
vì làm cho Công Đức Lâm thêm vui mừng; hai là
bởi vì chư Phật cùng đạt được pháp này; ba là bởi vì hiển bày trong phần vị này có đủ hai đức
của nhân-quả; bốn là ở môn này được Phật
chủ động gia hộ, pháp vốn
như vậy đều được tên gọi là Công Đức Lâm,
vốn là nhờ vào pháp lực.

Trong phần ca ngợi đạt được Định này, mới có năng lực là nói
về hiếm có vượt qua, hiển bày về năng lực
tiến vào Định hiếm có này. Nguyên cớ thế nào?
Bởi vì Công Đức Lâm im lặng tiến vào Định này,
Đại chúng đã không biết tiến vào là pháp gì,
không có tâm khao khát ngưỡng mộ, không có thể nói cho biết, đợi Đức Phật khen ngợi hiển bày

thì Đại
chúng mới khởi tâm mong muốn ưa thích.

Đạt được Định này nhờ vào gia hộ, nghóa là chư Phật từ các phương khác tự nói rõ ràng đã thực hiện gia hộ khiến cho vị ấy đạt được Định.

Trong phần giải thích về nguyên nhân tự mình đã thực hiện gia
hộ, có ba câu: Một, Bởi vì nguyện lực vốn có
của Phật Lô-xá-na, cho nên thực hiện gia hộ.
Vì sao? Bởi vì Địa
Luận giải thích:
Lô-xá-na trong quá khứ từng thấy có một Đức
Phật Lô-xá-na gia hộ
Bồ-tát thuyết giảng
về pháp Thập Hạnh này, Đức Phật chủ động gia
hộ cùng tên gọi
Công Đức Lâm, nhân đó liền phát nguyện: Nguyện cho
con thành Phật cũng có
sự việc này, nay thành tựu như xưa, cho nên
gia hộ. Hai, Nói rằng
cũng là uy lực của Phật Lô-xá-na hiện tại cảm
ứng với nhau cùng gia hộ, cho nên gia hộ mà thôi.
Ba-Nói rằng lại bởi vì lực thiện căn của các
Bồ-tát nghe pháp này cảm được chư Phật cùng gia hộ.
Lại nữa, trước
là nói về Thập Trú thì nói bởi vì lực thiện
căn của Pháp Tuệ, nay nói
các Bồ-tát là hiển bày về trước yếu kém-ở
đây hơn hẳn cho nên nhiều.
Lại nữa, trước là hiển bày về Tự lợi tăng lên, ở đây hiển bày về Lợi tha
rộng rãi. Lại nữa, là văn sơ lược phỏng theo
hiển bày lẫn nhau, lý thật
thì đều có như nhau.

Trong phần hai là trình bày về gia hộ bằng việc làm: Câu đầu
là tổng quát, nghóa là muốn giúp cho ông thuyết giảng rộng về
Thập Hạnh pháp giới của
Phổ Hiền, các phần vị trước
sau và các nhân hạnh,
không có gì không đến
nơi này, không có gì không thâu vào nơi này, cho
nên nói là rất sâu xa
(thậm thâm). Rất sâu xa có chín loại:

Nuôi giữ quả sâu xa, nghóa là nhân vốn có tăng lên khiến cho
thành tựu quả, đây là dựa theo Trí của mình.

Chiếu rọi tánh sâu xa, nghóa là phân tích chủng loại sai biệt về tánh của
chúng sinh. Lại biết tánh chủng khác nhau. Lại giải thích rõ ràng thông
suốt đối với
Như Lai Tạng tánh của
chúng sinh, cho nên nói
là phân biệt. Lại biết một chúng sinh thì đầy đủ
tất cả pháp môn và tất cả
chúng sinh, bởi vì tánh dung thông mà phân biệt. Như trong
Hạnh thứ tám ở văn sau nói: Không lìa một chúng sinh
mà theo nhiều chúng
sinh, không lìa nhiều chúng sinh mà theo một chúng
sinh, không tăng thêm chúng
sinh giới, không giảm bớt chúng
sinh giá»›i.
Cho đến nói:
Bồ- tát hiểu sâu xa về chúng sinh giới-pháp giới
không có hai, trong pháp
không có hai không có tăng thêm-không có giảm
bớt, không có
sinh-
không có diệt, là pháp tánh chân thật… Đây là
dựa theo những điều
đã nhận biết.

Trừ chướng ngại sâu xa, nghóa là chướng dựa theo
phiền não, ngại là dựa theo điều đã nhận biết,
chủng tử hiện hành đang huân tập
đều không còn, cho nên nói là lìa tất cả… Nếu
theo Tam thừa thì trong
này dựa vào điều phục chướng ngại tối tăm
hiện hành, sợ hãi khổ đau
của hàng Thanh văn.

Tiến vào pháp sâu xa, nghóa là chứng thực tiến vào cảnh chân lý mà tâm không ngăn ngại, cho nên nói là vô ngại.
Kệ sau nói: Đều
tiến vào các pháp giới, tùy thuận đến bờ giải
thoát, cuối cùng đạt được tự tại, luôn luôn thực hành giáo pháp. Lại cũng có thể tiến vào cảnh của
pháp giới Đế võng ngay trong nhau-hòa vào nhau viên
dung tự tại vô ngại.
Văn sau nói: Tiến vào pháp giới
Nhân-đà-la võng, tự tại thành tựu
vô ngại giải thoát của Như Lai. Là nói đến nghóa này.

Phương tiện khéo léo sâu xa, nghóa là khéo léo dùng một pháp
thâu nhiếp tất cả các pháp, lại khéo léo dùng
một công hạnh-một phần vị đều thâu nhiếp tất cả, một thân hướng về với tất cả, có-không có đều không vướng mắc, nhiều môn khéo léo như vậy cho nên nói là thành
tựu tất cả phương tiện. Văn sau nói là cùng tận
biển rộng phương
tiện của chư Phật.

Thành tựu quả
sâu xa, nghóa là có thể thành tựu quả của
Chủng trí, trước nuôi giữ là dựa vào bắt đầu, ở
đây thành tựu là dựa theo cuối
cùng, vốn là Trí chủng như lượng phân biệt mà biết.

Lý trí
sâu xa, nghóa là như lý trí hiểu rõ tất cả các pháp đều
một tánh như nhau.

Biết về căn sâu xa, nghóa là khéo léo biết căn khí sai biệt của
chúng sinh, lại biết thuần thục-không thuần thục khác nhau, lại biết
cùng một tánh như nhau, lại biết một căn là tất
cả các căn; như nói
về các căn hải.

Nghe giữ
sâu xa, nghóa là thành tựu mười loại
Đại Đà-la-ni, như
nói trong Hạnh thứ chín ở văn sau.

Sau là một câu kết luận, nghóa là nói rộng ra như trên, tổng quát và riêng biệt về mười loại pháp rất
sâu xa là pháp của phần vị nào?
Đó chính là Thập Hạnh của Bồ-tát.
Trong phần ba là tướng gia hộ,
có ba: Một, một câu khuyến
khích thuyết giảng là khẩu nghiệp
gia hộ. Hai, trong ý gia hộ có hai:
Trước là gia hộ,
sau là
giải thích. Đây đều là ngay lúc ấy có
sự việc chứ không
có thuyết giảng, người kết tập như
sự việc mà kết tập lại. Trong phần
trước có mười câu:
Một câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại là riêng biệt. Hỏi:
Vì sao trong Hội này trao cho pháp, Hội trước thì trao cho
trí? Đáp: Đã trao cho là một, nhưng Hội trước là thành tựu về Giải,

thấy lý tăng
lên cho nên gọi là trí; trong Hội này là thành tựu về
Hạnh, quỹ phạm tăng lên
cho nên gọi là pháp.

Đầu là trong
tổng quát, nghóa là phát khởi thuyết giảng tự tại
gọi là vô chướng ngại,
lại trao cho Vô ngại biện tài để thuyết giảng
không vướng mắc trở
ngại. Sau là trong riêng biệt:

Đối với pháp không nghi ngờ, tình thức không có duyên gì
khác, cho nên nói là an trú; lại trao cho trí Vô úy
khiến cho lúc thuyết
giảng, tâm được yên ổn không sợ người khác phá hoại.

Hiểu biết phát sinh từ bên trong, cho nên nói là không có thầy; lại trao cho trí giống như Phật, khiến cho ở trước Đại chúng thuyết giảng
giống như Phật, vốn là không có thầy.

Thấy pháp rõ ràng, cho nên nói là không có
si mê, bởi vì không
xen tạp vô minh; lại khiến cho lúc thuyết giảng không có chướng
ngại do nhận biết.

Thấy pháp theo thứ tự, cho nên nói là không rối loạn; lại không
xen tạp Thừa khác và chương cú của thế gian…

Pháp đã hiểu biết thật sự đúng đắn, cho nên nói là
thanh tịnh,
lại Thể của trí không sai lầm.

Pháp đã hiểu biết
nhiều rộng, cho nên nói là vô lượng, lại là
phù hợp với pháp môn Pháp giới.

Pháp đã hiểu biết
sâu xa thù thắng, cho nên nói là thù thắng
nhất, lại tương ưng với pháp của quả.

Khiến cho lúc thuyết giảng không kiêu mạn-không nịnh bợ-
không lười nhác-không tham lam, cho nên nói là vô cấu.

Pháp đã đạt được không quên, cho nên nói là không lui sụt, lại
nói không có lui sụt mất đi, lại không có lui sụt
đối với lý, lại không có
lui sụt khuất phục.

Ba, giải thích
về nguyên nhân gia hộ cùng với thân nghiệp gia
hộ và phần phát khởi,
đều giải thích giống như trước.
Trong phần bốn là phần Căn bản có hai: Một là Thể của hạnh, hai là
Tướng của Hạnh. Trong phần một là
Thể của Hạnh, hạnh
nghiệp không suy nghó là
nêu ra Thể để hiển bày đức, nghóa là hạnh Phổ
Hiền viên dung này đầy
đủ đức vượt lên trên tình thức gọi là không thể
nghó bàn. Hạnh không thể
nghó bàn này gồm có mười loại:

Bởi vì rộng lớn, nghóa là dùng tất cả các thân, ở
tất cả mọi nơi,
khắp tất cả mọi lúc, trong từng niệm niệm đều tu
hạnh xứng với pháp

giới, cho nên
hạnh này gọi là không thể nghó bàn.

Bởi vì rất sâu xa, nghóa là hạnh rộng lớn này thì không thể nào
suy nghó kể ra, đều không có tự tánh, là giống
với chân như, mà tướng của hạnh ấy rõ ràng không mất, là hạnh của tánh khởi, cho nên cũng
không thể nghó bàn.

Bởi vì thù thắng, nghóa là vượt quá Thừa khác, không phải là
phần vị dưới mà tính toán được, cho nên cũng
không thể nghó bàn.

Bởi vì thâu nhiếp phần vị, nghóa là hạnh này ở Địa tiền có thể
thâu nhiếp tất cả các phần vị trước sau, gọi là
không thể nghó bàn.

Bởi vì chứng lý, nghóa là hạnh này có thể chứng lý không thể
nghó bàn, gọi là không thể nghó bàn.

Bởi vì đoạn trừ chướng ngại, nghóa là hạnh này có thể lập tức
đoạn trừ chướng ngại khó đoạn trừ không thể nghó bàn.

Bởi vì
Lợi tha, nghóa là hạnh này có thể trong một niệm làm lợi
ích nhiều đến cùng tận chúng sinh giới, cho nên
không thể nghó bàn.

Bởi vì viên dung, nghóa là một hạnh tức là tất cả các hạnh,
tất cả các hạnh tức là một hạnh, khó xác định
số lượng cho nên gọi là
không thể nghó bàn.

Bởi vì trở lại thành tựu, nghóa là hạnh này đã thực hiện trùng
trùng vô tận như Nhân-đà-la võng, cho nên không thể nghó bàn.

Bởi vì thành tựu quả, nghóa là có thể thành tựu quả Phật không
thể nghó bàn, cho nên cũng không thể nghó bàn.

Sở dó phân rõ về mười là muốn hiển bày về vô tận, như Đại
Long đã thực hiện… trong
kệ sau, dựa theo biết rõ. Đây là dựa theo
Viên giáo phân rõ. Nếu dựa
theo Tam thừa thì không có thể đưa ra giải thích
như vậy, bởi vì hạnh
này hãy còn là phần vị hữu lậu.
Rộng lớn như pháp giới-tận cùng như hư không, là hiển bày về tướng không thể nghó bàn trước đây. Nhưng pháp giới có mười, như
văn sau nói. Nay đưa ra hai
môn để giải thích về hạnh này, nghóa là hạnh rộng lớn gọi là Quảng, hạnh
sâu xa gọi là Đại,
Quảng này-Đại này
đều xứng tánh mà thành
tựu, cho nên nói là như pháp giới. Hư không cũng có
mười nghóa, như nói ở phần Thân hư không của Địa thứ tám
trong văn sau. Nay cũng đưa ra hai nghóa:
1) Hạnh có thể phá tướng chứng nhập đến tận cùng pháp tánh hư không, cho nên nói là cứu cánh như hư không.
2) Hạnh có thể sinh ra vô lượng quả yêu quý, như dựa vào
hư không hiện rõ màu
sắc, màu sắc vô tận cho nên nói là cứu cánh như hư không.
Hai là trong
giải thích: Trước là nêu ra,
sau là
giải thích. Bởi vì

hạnh này vốn
là công hạnh của chư Phật ba đời, cho nên như vậy.
Lại giải thích:
Hạnh nghiệp trước đây là quán về tướng thiện quyết
định, không nghó bàn là
thiện chân thật, pháp giới là thiện thù thắng, như hư không là nhân của thiện, học ba đời… là không yếu hèn, còn lại
giải thích giống như Hội trước.

Trong phần hai là Tướng của Hạnh: Một
là nêu ra số để hiển bày chủ yếu, nghóa là bởi vì chư Phật ba đời cùng thuyết giảng như nhau;
hai là nêu ra tên gọi.

Nghóa của Thập Hạnh này sơ lược đưa ra mười môn phân biệt:
1) Giải thích tên gọi;
2) Thể tánh;
3) Kiến lập;
4) Chủng loại;
5) Tướng của tu;
6) Xác định phần vị;
7) Hành tướng;
8) Thân đã dựa vào;
9) Chướng đã rời xa;
10) Quả đã đạt được.
1) Giải thích tên gọi có hai: Mười loại như Thí-Giới… thuận theo Thể của hạnh làm tên gọi, mười loại như Hoan Hỷ… dựa theo
Dụng của hạnh làm đề mục.
Nay phân rõ về tên gọi sau. Trong đó tên gọi chung như đầu phẩm
giải thích.
Tên gọi riêng: Một là Bố thí làm vui lòng mình và người gọi là
Hoan hỷ, hoan hỷ do thực hành gọi là Hoan hỷ hạnh, đây là dựa theo tự mình vui mừng, là
Trì nghiệp thích; lại cũng thực hành hoan hỷ gọi là
Hoan hỷ hạnh, đây là dựa theo làm cho người
khác hoan hỷ, thành tựu Tự hành vốn là Y chủ thích. Hai là giữ gìn ba tụ
giới thanh tịnh làm lợi
ích cho mình và người. Ba là năng lực nhẫn nhục dứt trừ
sự giận dữ của mình và người. Bốn là luôn luôn chịu khó tu tập
thâu nhiếp công đức
thù thắng vô tận. Năm là Chỉ-Quán cùng vận dụng bặt dứt ngu
si mê loạn ấy. Sáu là
Bát-nhã chiếu rọi lý, pháp thiện hiện
bày rõ ràng; lại quán
sát Thật tướng của pháp, Bát-nhã hiện rõ trước
mắt. Bảy là khéo léo
phát khởi công hạnh thù thắng, không vướng mắc
đối với Không; lại
dùng tâm không đắm say để phát khởi các công hạnh. Tám là Đại nguyện vô ngại thâu nhiếp thiện căn thù thắng,
sâu xa
đáng tôn trọng. Chín là
thông hiểu sâu xa về căn khí, khéo léo đối với
pháp giáo hóa. Mười là lời nói và việc làm tương ưng, không nhận lấy
tên gọi trống rỗng.

Lại trong mười
loại này thích hợp được tên gọi có ba, đó là
loại thứ tám thuận theo
đức lập thành tên gọi, loại thứ ba-thứ năm-thứ bảy dựa theo lìa xa lỗi lầm mà được tên gọi, còn lại đều thuận theo
công năng làm tên gọi, có thể biết.

2.Thể tánh có hai: Trước là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong tổng quát có
ba môn: Một, Dựa theo nơi nương tựa, dùng
Tam-muội Thiện Phục làm
Thể, bởi vì dựa vào Định này để chứng Thể của
Thập Hạnh,
sau đó mới
thuyết giảng. Địa Luận nói
Tam-muội này vốn là
Thể của pháp. Hai, Dựa theo căn bản, dùng hạnh nghiệp không thể
nghó bàn… trong phần căn
bản để làm tánh, đây là mười nghóa về suy
nghó kể ra rộng lớn…
như trước giải thích, bởi vì căn bản là thuyết giảng
về rộng lớn, cho nên
lấy làm Thể. Ba là thâu nhiếp tất cả, dựa theo
Cảnh là hai Đế cùng dung hòa, dựa theo Hành là
Bi-Trí vô ngại; lại
tâm-cảnh viên dung, pháp giới vô ngại, đầy đủ vô biên công đức để làm
Thể tánh, suy nghó có thể thấy.

Hai là phân rõ riêng biệt về Thể tánh, tất cả đều như sau phân
rõ ở phần giải thích
văn (những môn còn lại cần phải riêng biệt đưa ra).

Trong phần năm
là phần Thuyết giảng, giải thích về Thập
Hạnh có hai phần: Một là phần quả, bởi vì cùng chung tánh hải bình đẳng không thể nào nói được, cho nên trong này không luận đến. Hai là
phần nhân, dựa theo tùy
duyên mà nói thì có bốn lớp:
1) Chỉ dựa theo hạnh của phần vị
kề sát, như kinh Nhân Vương và kinh Bổn
Nghiệp… nói.
2) Chỉ trình bày về tự Thể của hạnh Phổ Hiền, như phẩm Phổ Hiền Hạnh ở sau nói, ở đây không dựa vào phần vị.
3-Dùng hạnh thuộc tự
Thể thuận theo phần vị mà
nói, tức là như trường hàng đã nói trong này.
4-Hội tụ thâu nhiếp tướng của phần vị thuận theo hạnh viên dung của tự
Thể, như trong kệ ở sau nói.
Nay trong phần thuyết giảng chỉ phân rõ về hai
lá»›p sau, trong
văn có hai: Đầu là trình bày về
Thập Hạnh của một thế giới này,
sau
từ “Như thử…” trở
xuống là trình bày về Thập Hạnh trong thế giới mười phương, bởi vì một thế giới này thuyết giảng thì tất cả các thế
giới thuyết giảng, cho
nên hợp lại làm một Bộ.

Trong phần đầu có hai: Một
là chính thức phân rõ về Thập
Hạnh, hai là mặt đất
rung động… hiển bày về tướng lợi ích của thuyết giảng.
Trong phần một giải thích riêng biệt về
Thập Hạnh, tức là
làm thành mười đoạn.

Giải thích trong Hạnh thứ nhất là Bố thí Ba-la-mật, đưa ra
sáu môn:

Một, Phân rõ
về Thể tánh có ba:
1) Dựa theo Tùy tướng cũng có

ba: a) Bởi vì
thiện căn không tham; b) Căn ấy đi cùng tư duy; c)
Cùng chọn lấy Vô biểu của ba nghiệp.
Giả-thật cùng luận ba loại này
làm tánh, đây là dựa
theo Sơ giáo.
2) Dựa theo tánh thì hoặc là dùng chân như làm tánh, luận
Khởi Tín nói: “Biết Thể của pháp tánh không
có tham keo, tùy thuận tu hạnh
Đàn Ba-la-mật, đây là hiển bày thuận theo công đức không tham giống như trong
pháp tánh”. Đây là dựa theo

Chung giáo.
3) Dựa theo thật thì theo văn
sau ở trong Bố thí môn
đã thâu nhiếp pháp giới
viên dung vô tận làm tánh. Đây là dựa theo Viên giáo.

Hai- Trình bày
về Chủng loại, Thí có ba loại, đó là Tài-Pháp
và Vô uý thí. Trong Tài
thí cũng có ba, đó là Ngoại-Nội và cả hai.

Trong Ngoại thí có hai:
1) Vật không có lỗi lầm tùy theo xin liền cho;
2) Vật có sai lầm, đó là dao gậy-lưới
giăng-thuốc độc… đều
không nên cho, bởi vì
tăng thêm bất thiện.

Trong Nội thí cũng có hai:
1) Dựa theo tự mình phá tâm bủn
xỉn đối với người ấy
có ích thì liền giúp cho, nhưng cũng có hai: a) Thí
cho sức lực của thân…;
b) Thí cho từng bộ phận của thân thể…
2) Nếu tâm bủn xỉn của mình đã phá, đối với người ấy hoặc là tuy có an lạc mà không có lợi ích, hoặc là cả hai đều không có nhiều lợi ích an lạc giống như hữu tình khác thì không nên giúp cho; hoặc vốn là ma trời… muốn làm tổn hại Bồ-tát
mà không giúp cho thì không phạm, bởi vì cứu
giúp nghiệp ác kia. Trên
đây đều như Du-già… nói. Hoặc là Bồ-tát sơ tâm chưa có năng lực chịu đựng
khổ sở, tạm thời hứa mà không giúp cho thì cũng
không phạm. Vì vậy luận
Thập Trú nói rằng: Khiến cho nói
kệ an ủi người cầu xin
ấy, nói rằng đạo tâm tôi mới phát, thiện căn
chưa thành tựu, nguyện cho tôi mau chóng thành tựu,
sau này nhất định
sẽ
tự mình giúp cho.
Trong cả hai cũng có hai:
1) Thân và ngôi vua là Y báo-Chánh báo cùng xả bỏ, cho nên nói là Nội-Ngoại thí, nói như Thập Tạng.
2) Nhổ thức ăn và tóc móng cũng đều là Nội-Ngoại thí, nói như Du-già…
Hai là Pháp thí đến phần Hồi Hướng thứ mười
sẽ phân rõ về điều đó.
Ba là Vô úy thí, hoặc là dùng Tài thí để cứu giúp nguy khốn,

hoặc là dùng
Pháp thí để giữ lại thân mạng, hoặc là giúp cho cả hai
để tránh khỏi khổ đau,
đều là Vô uý thí. Hoặc cả hai đều không phải,
đó là đối với oán
thù không đền trả…, hoặc là cứu giúp trừ hết khốn khổ. Nói tổng quát có hai loại:
1-Căn duyên tương ưng là cứu giúp;
2-Gây ra nghiệp nhận chịu quả báo, hai loại nhất định tạm thời rời bỏ.
Lại nữa, chủng loại về Vô úy thí này, trong Du Già và Địa
Trì luận có chín môn, phẩm
Thập Tạng và phẩm
Ly Thế Gian đều có mười
môn, Hồi Hướng thứ
sáu có 120 môn, đều nói như trong những phần ấy.

Ba, Thâu nhiếp
có hai:
1) Dựa theo ba Đàn thâu nhiếp hành sáu Độ, nghóa là Tài thí thâu nhiếp một Độ; Vô úy thí thâu nhiếp hai Độ,
bởi vì Trì giới cho nên
đúng ra phải giết mà không giết, bởi vì Nhẫn nhục
cho nên đúng ra phải báo thù mà không báo thù; Pháp thí thâu
nhiếp ba Độ, nghóa là chịu khó
thuyết giảng, một lòng
thuyết giảng,
thuyết giảng không trái
ngược. Bởi vì bốn loại như phương tiện… giúp đỡ
sáu Độ trước, cho nên
Thập Hạnh chung quy là do loại thứ nhất
thâu nhiếp.

2) Chỉ một Tài thí cũng là mười Độ và vạn hạnh…, như sau nói trong Địa thứ bảy, nên biết! Bốn, Nhân quả có ba:
1) Tùy theo phạm vi của quả, đó là Đại-Tài v.v…
2) Phần vị của quả, đó là Địa tiền thuộc nhân, Địa thượng thuộc quả v.v…
3) Đạt được quả Phật, luận Phật Tánh quyển thứ hai nói: “Xả có hai loại: Một là do xưa kia xả vật để giúp cho người khác,
 cho nên nay đã giảm bớt tham ái. Hai là do xưa kia xả pháp giúp cho người,
cho nên nay đã diệt bớt
vô minh. Do xả này cho nên tham ái vô minh
đều có phần giảm dần,
nhờ vào nhân duyên này mà đạt được quả giải
tho- át.” Lại thành tựu
Đại công đức tụ của Phật quả…, nói như phẩm Phổ Hiền.

Năm, Hạnh bí
mật, kinh Thương Chủ Thiên Tử nói: “Lại tiếp
tục hỏi: Văn Thù Sư
Lợi, ông lẽ nào bủn xỉn hay sao? Đáp rằng: Tôi
thật là bủn xỉn. Lại
hỏi: Vì sao? Đáp: Nếu tâm không xả thì đã gọi là bủn xỉn.
Lại hỏi: Vì sao không xả gọi là bủn xỉn? Đáp: Tôi thường không
xả pháp chúng của chư
Phật mà không xả tất cả chúng sinh, bởi vì
nghóa này cho nên nói tôi
là bủn xỉn.”

Sáu, Trong phần giải thích văn có ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.
Trong giải thích có hai: Trước là trình bày về
Tài thí, sau từ
“Quán sát…” trở xuống là trình bày về Pháp thí.

Trong phần trước,
Pháp sư Ý ở
Bắc Đài nói: Trước là trình bày về
Thể của hạnh,
sau từ “Bồ-tát tu hoan hỷ hạnh thời…” trở xuống là
Hạnh này sửa trị làm cho thanh tịnh.

Lại giải thích phân ba: Một,
trình bày về hạnh thuận theo lý
tự mừng vui hoan hỷ; hai,
từ “Bồ-tát tu…” trở xuống là được vật như
tâm mong cầu khiến cho
người khác sinh lòng vui thích; ba, từ “Ly chư
ngã tưởng…” trở
xuống là trình bày về lìa ba Luân để thành tựu Đàn độ.

Trong phần một, trước
là giải thích, sau là kết luận.
Trong giải thích có ba: Một là chính thức thực hành về hạnh
bố thí; hai là lựa chọn
điều đã lìa xa; ba là hiển bày về điều đã mong cầu.

Trong phần một có ba:
1) Thí chủ, luận Đối Pháp quyển thứ tám nói: “Làm Đại thí chủ, đây là hiển bày về nghóa thường xuyên bố thí, do thói quen xuyên suốt
trở thành tánh, luôn luôn chủ động bố thí cho nên
làm chủ.”
Lìa bỏ tất cả là giải thích hiển bày về nghóa của chủ, tức
là giải thoát buông xả
tự tay mình bố thí.
2) Tâm bình đẳng…, là nghóa về bố thí không có cố ý bênh che trong luận.
3- Thực hành thành tựu Đại Hỷ, cho nên nói là không ân hận gì. Hai là điều đã lìa xa, là ý thích vô nhiễm trong Đối Pháp.
Trong đó có bốn câu:
1) Không trông mong quả báo tiền của tài sản ở vị lai; Không mong cầu danh tiếng ở hiện tại;
3) Không mong mỏi nơi chốn thù thắng của trời-người ở tương lai;
4) Không hy vọng lợi dưỡng ở hiện tại.

Ba là điều đã mong cầu, đã không mong cầu quả báo… thì làm
vì điều gì? Mười câu
sau hiển bày về ý này:
1) Cứu giúp nỗi khổ nghèo khó ở hiện tại;
2) Thâu nhiếp làm cho hướng về đạo;
3) Lợi ích giúp cho tu tập thực hành hạnh của giải thoát. Ba loại trên đây là dùng bố
thí chúng sinh để thâu
nhiếp chúng sinh.
4) Học tập công hạnh vốn có xưa kia của chư Phật, là bắt đầu thuộc Tự phần.
5) Đích thực nhớ lại, là cuối cùng thuộc Tự phần.
6) Bắt đầu thuộc Thắng tiến;
7) Là cuối cùng thuộc Thắng tiến. Bốn loại trên đây là tùy theo chúng sinh mà thực hành.
8) Hiển bày làm cho lớn mạnh, hạnh này làm cho người khác luyện tập bố thí.
9) Thực hành đầy đủ rồi thuyết giảng, khiến cho người khác tiếp nhận học hỏi.
10) Kết luận về ý truyền dạy. Ba loại trên đây là
dùng thực hành để làm
lợi ích cho chúng sinh.

Trong Hạnh thứ hai là Đối Duyên bố thí chúng
sinh làm
cho chúng sinh vui mừng, có
hai: Một- Tổng quát để nêu ra; hai- Từ
“Tùy phương…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về tướng ấy.
Trong đó có hai: Trước là trình bày về phương tiện tu hạnh bố thí,
sau từ
“Ư niệm niệm…” trở xuống
là chính thức trình bày về thành tựu hạnh.

Trong phương tiện, nơi nghèo khó là dựa vào thửa ruộng
khốn khổ, nguyện sinh là
dựa vào nguyện. Đối Pháp nói: “Dựa vào nguyện tu, nghóa là bởi vì dựa vào nguyện lực vốn có mà tu tập
Chánh hạnh đối với
Ba-la-mật-đa.” Giàu sang là dựa vào quả báo để tu trong
Đối Pháp, nhờ vào lực
thù thắng của tự Thể mà tu tập Chánh hạnh đối
với Ba-la-mật-đa; tiền
của vô tận là dựa vào rất nhiều tài sản mà tu
thành tựu hạnh bố thí.

Hai từ “Ư niệm…” trở xuống là trong phần chính thức trình bày về hạnh bố thí, theo trong Đối Pháp luận quyển thứ 12:
“Bồ-tát dựa vào
sáu loại ý thích để tu
tập Ba-la-mật-đa:
1) Ý thích không chán ngán, nghóa là các Bồ-tát trong một sát-na đối với một hữu tình, giả
sá»­
đem bảy báu trong khắp
thế giới như số cát sông Hằng dùng để bố thí,
lại dùng thân mạng như
số cát
sông Hằng để bố thí, như vậy trải
qua Đại kiếp như số cát
sông Hằng; như đối với một hữu tình đã như
vậy, cho đến tất cả hữu
tình giới cũng như vậy, lúc bố thí đều khiến cho
họ mau chóng được thành
tựu tu hành đối với A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề. Lúc bố thí
sai biệt như vậy, ý thích của Bồ-tát hãy còn
không thỏa mãn, đó gọi
là ý thích không chán ngán của Bồ-tát đối với
Bố thí Ba-la-mật-đa.
2) Ý thích rộng lớn, nghóa là cho đến Bồ-đề mà hạnh bố thí không tạm thời ngừng lại…
3) Ý thích hoan hỷ, nghóa là gặp được người tiếp nhận bố thí…
4) Ý thích ân đức, nghóa là thấy người tiếp nhận bố thí đối với mình có ân bởi vì giúp cho mình thành tựu Bồ-đề.
5) Ý thích không nhiễm ô, nghóa là tuy mang lại phước Đại thí cho hữu tình, mà không mong báo
ân dị thục ở tương lai.
6) Ý thích tốt đẹp, nghóa là quả của bố thí rộng lớn đều giúp cho hữu tình, lại dùng phước này
cùng với các hữu tình
hồi hướng Bồ-đề.” Nói đầy đủ như văn trong luận ấy.

Văn này có bốn: Một là
trình bày về ý thích không chán ngán
và ý thích rộng lớn,
không có tài sản nói là nghèo khó, trống rỗng tất
cả nói là khốn cùng.
Hai từ “Bất dó cầu sách…” trở xuống là trình bày
về ý thích hoan hỷ. Ba từ
“Tác như thị niệm…” trở xuống là trình bày về ý thích ân đức, nghóa là
sinh ra phước của mình cho nên gọi là
phước điền, khởi lên
hạnh của mình cho nên gọi là thiện hữu, từ “Ngã
kim…” trở xuống là
kết luận báo đáp ân đức ấy. Bốn từ “Ngã ư tam thế…” trở xuống là trình bày về ý thích tốt đẹp, trong đó có ba:
1-Dùng hạnh thành tựu quả để cứu giúp
chúng sinh; b-Bố thí phước cho chúng
sinh giúp
cho thành Phật trước;
c-Sau đó mình tự đạt được, có thể biết.

Thứ ba là trình bày về lìa xa đắm trước ba Luân thành tựu Ba-la- mật, trong đó có hai: Đầu là quán xét hiểu rõ phá chấp,
sau từ
“Như thị quán thời…” trở xuống là quán thành tựu về tướng xả. Lại giải
thích: Đầu là gồm chung
lìa xa hai chấp, sau là riêng biệt phai mờ ba Luân.

Trong phần đầu, bảy câu trước trình bày lìa xa chấp về
Người, trong đó
Phước-già-la thì Trung Hoa nói là Số Thủ Thú, nghóa
là bởi vì luôn luôn dẫn đến các nẽo, xưa phiên ra tên gọi là Người.
Theo Du-già quyển thứ 83: “Có tám tên gọi:
1) Ngã, đó là đối với năm Uẩn khởi lên Ngã-Ngã sở, bởi vì thấy hành hiện rõ trước mắt.
2) Hữu tình, đó là các Hiền Thánh biết rõ ràng đúng như thật,
 bởi vì chỉ có pháp này lại không có gì khác, lại cũng bởi vì có ái trước đối với pháp ấy.
3) Ý sinh, đó là bởi vì đây là tánh chủng loại của ý.
4) Ma-nạp-phược-ca, đó là bởi vì dựa vào ý hoặc cao hay thấp.
5) Dưỡng dục, đó là bởi vì có thể
tăng trưởng về nghiệp của các cõi, bởi vì có thể làm tất cả công dụng của

só phu.
6) Bổ-đặc-già-la, đó là bởi vì có thể luôn luôn hướng về chọn lấy các nẽo, không có gì thỏa mãn.
7) Mạng, đó là bởi vì tuổi thọ hòa hợp hiện đang còn sống.
8) Sinh, đó là bởi vì có đủ tất cả các pháp như Sinh…” Theo Đại Bát Nhã có 13 tên gọi, tám tên gọi giống như Du-già, lại thêm vào năm loại:
1) Tác giả;
2) Thọ giả;
3) Kiến giả;
4) Tri giả;
5) Só phu. Trải qua tra tìm ba bản giải thích trong luận Bát Nhã. Hai từ
“Pháp giới…” trở xuống là bảy câu trình bày lìa xa
chấp về Pháp:
1) Đó là Chúng sinh giới trống rỗng cùng với pháp giới không có sai khác.
2) Thể trống rỗng không có giữ lấy cho nên nói là lìa dục.
3) Tánh không có nhất định là thật.
4) Tướng không hề vốn có.
5) Không có thể tự tại.
6) Không phải là nơi có thể dựa vào.
7) Duyên thành
tựu lìa xa tạo tác.
Hai là trong phần quán thành tựu về tướng xả, có chín câu: Ba câu đầu là thấy ba
sự Không, luận
Trang Nghiêm nói: “Bố thí có ba
chướng ngại, đó là
tướng của mình-tướng của người khác-tướng của bố thí. Bố thí đắm vào ba tướng này là bố thí (đàn) thế gian chứ không phải
là Ba-la-mật, bởi vì ở
trong thế gian không thay đổi-không vượt ra; rời xa
đắm trước ba tướng này gọi là xuất thế gian
Ba-la-mật, bởi vì trong
thế gian có thể thay đổi
vượt ra.” Bốn là không thấy ruộng phước sinh ra. Năm là không thấy phước nghiệp đã
sinh ra. Sáu là không thấy nhờ
vào bố thí đạt được
quả Dị thục. Bảy là không thấy đạt được quả
Đẳng lưu. Tám là không thấy đạt được Đại quả
của Phật địa. Chín là không
thấy Tiểu quả đã đạt
được ở trong Bồ-tát địa.
Trong phần thứ hai là
Pháp thí, có hai:
Một- Nghó đến nỗi khổ của
chúng sinh bị làm hại; hai- Khởi lên ý làm lợi ích.

Trong phần một, đó là quán xét chúng sinh ba đời:
1) Do vô minh mà che khuất;
2) Do bốn trú mà ràng buộc, đây là đầy đủ nhân của khổ;

Nhận chịu quả khổ vô cùng;
4) Trình bày về thiếu sự cứu giúp chính đáng, nghóa là không có được ba pháp kiên cố của Phật.
Từ “Ngã đương…” trở xuống là khởi lên ý làm lợi ích, trong đó: Một là tự mình tu theo nhân của Phật để cảm hóa người khác
cùng luyện tập; hai là tự mình
sẽ thành Phật giúp cho người khác cùng
đạt được, làm cho thanh
tịnh là đối với nhân của khổ trước đây, thuận
theo diệt trừ là đối
với quả khổ trước đây; ba là kết luận có thể biết.

Trong phần thứ hai là làm lợi ích cũng đưa ra sáu môn:

Một, Thể tánh có ba môn:
1) Tùy tướng môn, đó là ở trên tư duy giả lập về
Vô biểu, cũng có
ba sá»±: a) TÆ° duy; b)
Vô biểu; c)
Biểu nghiệp

của thân-ngữ, cho nên luận nói
Bồ-tát giới lấy ba nghiệp thiện
làm tánh.
2) Dựa theo căn
bản cũng lấy chân như làm tánh, luận Khởi
Tín nói: “Như Thể của
pháp tánh thanh tịnh không cấu nhiễm, tùy thuận tu
hạnh Trì giới Ba-la-mật.”
3) Dựa theo thật thì lấy
pháp giới vô tận làm Thể v.v…

Hai- Chủng loại thì có mười loại
sai biệt:
1) Theo kinh Phạm Võng… thì có ba Quy giới của Bồ-tát.
2) Theo kinh Thiện Sinh thì năm giới là giới của Bồ-tát tại gia.
3) Theo kinh Văn Thù Vấn thì tám giới gọi là giới của Bồ-tát thế gian.
4) Cũng theo kinh ấy thì mười giới, đó là ngay Sa-di đã thọ
trì thì gọi là giới của Bồ-tát xuất gia.
5) Theo kinh Phương Đẳng thì hai mươi bốn giới cũng là Bồ-tát tại gia thọ trì.
6) Theo kinh Anh Lạc-Phạm Võng thì mười giới vô tận gồm chung Bồ-tát tại gia và xuất gia thọ trì.
7) Theo luận Du-già và Địa Trì thì bốn giới
Ba-la-di, quán xét về giới tướng này phần nhiều tựa như là xuất gia đã thọ trì,
mà cũng gồm chung tại
gia.
8) Kinh Thiện Giới và kinh Trùng Lâu Giới… có tám Trọng giới,
 đó là trên bốn Trọng của Thanh văn thêm vào bốn Trọng trong Du-già, cho
nên trở thành tám. Văn này giới hạn là Bồ-tát
xuất gia thọ trì, bởi vì trước phải thọ trì năm
giới-mười giới-cụ túc giới mới được thọ
giới Bồ-tát, vốn là như lầu đài bốn tầng dần dần thành tựu…
9) Theo Lương Nhiếp Luận Giới Học nói: “Như kinh Tì Nại Da Cù Sa Tỳ Phật Lược
nói: Bồ-tát giới có mười vạn loại sai biệt.”

10) Theo kinh Hoa Nghiêm có mười-mười đều là Vô tận giới phẩm, như phẩm Thập Tạng và phẩm Ly Thế Gian nói.
Ba- Thâu nhiếp
công hạnh, theo luận Du-già: “Bảy chúng đã thọ trì Giải thoát giới là Luật nghi giới của
Bồ-tát thâu nhiếp,
sáu
Độ-mười Địa… là
Nhiếp thiện pháp giới thâu nhiếp, bốn Nhiếp-bốn
Vô lượng… là Nhiêu ích
hữu tình giới thâu nhiếp.” Lại có nghóa về thâu nhiếp,
như trong Đối Pháp luận
quyển thứ 12 nói.
Bốn- Đạt được quả cũng có ba:
1) Tùy theo phân vị đạt được quả, Nhiếp Luận gọi là Đại Sinh Nhiếp,
 vì vậy nói tức là do giới mà đạt được lợi ích thù thắng thuộc về nẽo thiện.
2) Do tư lương này
sẽ đạt được
quả báo thù thắng và
tự tánh giới mà Địa thượng đã đạt được.
3) Đạt được quả Vô thượng Bồ-đề, đó là do Luật nghi giới mà đạt được quả Đoạn đức của
Pháp thân, do
Nhiếp thiện giới mà đạt được quả Trí đức
của Báo thân, do Nhiêu ích chúng
sinh giới mà đạt được quả Ân
đức của Hóa thân.
Năm- Bí mật,
Bồ-tát cũng phá giới, như kinh Thương Chủ
Thiên Tử nói: “Lại tiếp tục hỏi rằng: Như tôi
suy nghó về
Văn Thù đã nói, ông
giờ đây
cũng là phá giới? Đáp rằng:
Tôi cũng phá giới. Hỏi: Vì sao?
Đáp: Nếu
người phá giới thì người ấy rơi vào ba đường ác, tôi cố ý tư duy rơi vào đường ác để thành tựu
chúng sinh, vì nghóa này cho
nên nói tôi là phá giới.”

Sáu- Trong giải thích văn có ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.

Trong giải thích có hai: Một
là sơ lược phân rõ lìa xa lỗi lầm để
trình bày về
Thể của hạnh; hai từ
“Bồ-tát như thị…” trở xuống là đối
với duyên mở rộng hiển
bày về Dụng của hạnh kiên cố.
Trong phần một cũng có ba: Trước là nêu ra hạnh trì
giới thanh tịnh, nghóa là tự mình trì giới thanh tịnh không nhiễm trước
sáu trần;
tiếp là nói về là
người hóa độ thành tựu hai hạnh Tự lợi và
Lợi tha; sau
là hiển bày về hai ý,
đầu là trình bày về đã lìa xa, sau từ “Đản kiên
trì…” trở xuống là
trình bày về những việc đã làm.

Trong những việc đã làm đều không vì cầu quả báo thù thắng ở thế gian này, thì làm vì điều gì? Làm vì có bốn loại:
1) Bởi vì lìa xa lỗi lầm tai họa lớn của sinh tử, phiền não… là nhân của khổ, đau buồn khốn khổ… là quả
của khổ, khổ này là do Luật nghi giới mà lìa xa.
2) Dưới đối với chúng
sinh không làm trái Bi nguyện cho nên nói
là không phụ, nghóa là xứng với hoằng thệ vốn có mà cứu giúp
thâu nhiếp, bởi
vì điều này do Nhiêu ích
chúng sinh giới mà thành tựu.
3) Trên thuận với ý của Phật vì thế khiến cho hoan hỷ, điều này là do Nhiếp thiện pháp giới mà thành tựu. Trên đây là nhân tròn vẹn.
4) Bởi vì làm cho đầy đủ quả Bồ-đề. Trong phần thứ hai là đối với duyên mở rộng hiển bày, có ba:
Một là trình bày
về khó giữ mà có thể giữ, là Luật nghi giới;
hai từ “Tác thị niệm chúng sinh trường dạ…”
trở xuống là trình bày về khó cứu mà
có thể cứu, là Nhiêu ích chúng
sinh giới; ba từ “Ngã đương xả ly…”
trở xuống là trình bày
về khó làm mà có thể làm, tức là Nhiếp thiện pháp giới.
Trong phần một
có sáu:
1) Không phải là cảnh ấy bức bách;
2) Từ “Nhó thời Bồ-tát…” trở xuống là thấy rõ ràng về lỗi lầm ấy;
3) Từ “Thị cố…” trở xuống là trình bày về tâm kiên cố giống như Phật;
4) Không trái với phương tiện mà trong tâm càng kiên cố;
5) Từ “Bất vi…” trở xuống là giải thích hiển bày về tướng kiên cố, trong đó trước là giải thích thuận chiều, từ “Ninh xả…” trở xuống là giải thích ngược lại;
6) Từ “Tự kiến Phật…” trở xuống là nêu ra nhẹ để so sánh nặng,
 nghóa là bắt đầu từ xưa mới phát tâm đến nay gọi là đã thấy Phật, trong thời gian ấy đến nay chưa từng khởi lên Tưởng, là nêu ra nhẹ; huống hồ thuận theo
sự việc là
so
sánh về nặng, nghóa là Tưởng hãy còn không khởi
lên huống hồ có hình
tướng sự việc. Sau cuối là trở lại kết luận về
không có điều ấy.
Trong phần hai là trình bày về
Nhiếp sinh giới, có ba:
1) Nghó đến chúng sinh vì ham muốn làm cho ràng buộc;
2) Từ “Ngã kim…” trở xuống là thành lập chí nguyện nêu lên những lợi ích đã làm;
3) Từ “Quán nhất thiết Phật…” trở xuống là dựa vào nêu lên thuận với
lý dùng pháp chính thức làm lợi ích.

Trong phần một có năm câu: a)
Chưa đạt được suy nghó mong cầu gọi là ức niệm; b) Bắt đầu thấy ràng buộc vấy nhiễm gọi là
tham trÆ°á»›c;

Đạt được ý vị
sâu xa gọi là ái lạc; d) Ở lâu không rời bỏ gọi là
thường lưu; e)
Về sau không chán ngán gọi là vónh viễn chìm đắm không
có thể ra khỏi.

Trong phần hai là nêu lên ý làm ích lợi, có hai: Trước là nêu lên
những việc làm, sau từ “Hà dó…” trở xuống là
giải thích hiển bày về ý ấy.

Trong phần trước có ba: Một,
thiết lập về giới thanh tịnh của Địa tiền; hai, khiến cho đạt được Địa thượng không
lui sụt; ba, thành tựu
quả Bồ-đề Niết-bàn.
Trong phần
sau là
giải thích: Trước là nêu ra ý của người khác có điều ác đối với mình đâu vội vàng? Sau giải thích đây là nghiệp
của mình, nghóa là khiến
cho chúng sinh vững vàng đối với giới thanh tịnh cho
đến Niết-bàn, là pháp vốn như vậy trong gia nghiệp của các
Bồ- tát, vì vậy cần
phải làm. Chư Phật ba đời trong thời gian đầu ở nhân
vị cũng cùng thực hiện
điều này, an lập người khác trong giới thanh
tịnh cho đến Niết-bàn, vì
vậy nói là lìa xa những việc làm không đúng.
Sau khi làm hại đã quá
muộn mà không kịp thực hành, xưa nay không làm bởi vì mình không biết gì, nay mới bắt đầu làm hãy còn hối hận
là chậm mà thôi.

Trong phần ba là dựa vào nêu lên thuận với lợi ích cũng có ba: a) Tổng quát trình bày về đạt được pháp bình đẳng pháp là nói đến loại trừ điên đảo; b) Từ “Bất ly chúng
sinh…” trở xuống là phân rõ về tướng điên đảo loại trừ, tức là bình đẳng; c)
Từ “Ngộ nhất thiết pháp…”
trở xuống là trình bày
về lợi ích của quán xét hiểu rõ.

Trong phần b: Một, chúng
sinh là tánh duyên khởi dựa vào nơi
khác, điên
đảo là tánh sở chấp do vọng tưởng, nghóa là dựa vào tương tự mà chấp làm thật, không lìa xa chúng
sinh có điên đảo; dựa vào chấp mà tương tự khởi lên, không lìa xa điên đảo có
chúng sinh. Hai,
điên đảo có thể khởi
lên chúng sinh từ trong điên đảo không có chúng
sinh, chúng sinh có thể
khởi lên điên đảo từ trong chúng sinh không có
điên đảo. Ba, điên đảo
từ chúng sinh khởi lên mà không phải là chúng
sinh, chúng
sinh từ điên đảo mà có nhưng không phải là
điên đảo. Bốn,
ngay chúng sinh không phải
là điên đảo, điên đảo không phải là bên trong, lìa xa chúng
sinh không có điên đảo, điên đảo không phải là
bên ngoài. Năm, chúng
sinh cũng như vậy, dựa vào nhau-làm mất lẫn nhau
đều không phải là bên
trong-bên ngoài. Từ “Không vô sở hữu…” trở
xuống là tương tự tất
cả các pháp còn lại, đều là hư vọng không thật.

Trong phần c là lợi ích của quán xét: Trước
là lợi ích của tự
mình nhận biết, sau từ
“Vị độ…” trở xuống là lợi ích về hóa độ người
khác. Trong đó có chín
câu:
1) Khiến cho vượt qua Khổ;
2) Khiến cho thoát khỏi Tập;
3) Trao cho Giới học;
4) Trao cho Định học;
5) Trao cho Tuệ học;
6) Khiến cho lìa xa mê hoặc thô thiển;
7) Tập khí vi tế cũng không còn cho nên nói là thanh tịnh;
8) Khiến cho đạt được Niết-bàn;
9) Đạt được Bồ-đề. Trong phần thứ ba là Nhiếp thiện giới, có năm:
1) Phát khởi tâm nguyện tu tập pháp thiện, bởi vì thuận với trên do đó làm cho Đức
Phật hoan hỷ;
2) Đưa ra những sự việc hoan hỷ, thành tựu nhân của Phật, an trú trong quả Phật;
3) Thành tựu về quán xét hiểu rõ, nghóa là hiểu rõ chúng sinh bình đẳng, hiểu rõ về pháp cũng trống rỗng;
4) Rời xa cấu nhiễm chướng ngại, trong đó lìa xa pháp ác là từ bỏ nghiệp chướng, còn lại là phiền não;
5) Thành tựu công đức thanh tịnh, câu đầu là nhân, từ “Tất đắc…” trở xuống là thành tựu quả; đầu đạt được Trí về Giáo, sau Không Tuệ là Trí về Chứng.
Hạnh thứ ba là không
sân hận, tức là
Nhẫn nhục Ba-la-mật,
cũng đưa ra năm môn:

Một- Thể tánh, luận
Du-già nói: “Nhẫn có ba loại:
1) Nhẫn nại nhận chịu oán hại, dùng Tuệ số tương ưng với thiện căn không sân làm Thể, duyên với chúng
sinh làm cảnh;
2) An tâm nhẫn nại nhận chịu khổ đau, dùng
Tuệ số tương ưng với Tinh tiến làm Thể, duyên với
pháp làm cảnh;
3) Nhẫn nại tư duy về pháp hiểu rõ thù thắng, dùng hai
số Định-Tuệ làm Thể,
duyên với không có pháp làm cảnh, bởi vì
Chánh trí tiến vào quán
vốn là cảnh và trí giống như nhau.” Lại trong
Thông Luận dùng bốn pháp
làm Thể, đầu là không sân, tiếp là chịu khó,
sau
là Tuệ và tư duy, vốn là ba nghiệp gồm chung trước đây. Lại trong luận Khởi Tín biết Thể của pháp tánh không
sân lìa xa phiền não cho
nên tùy thuận tu hạnh
Nhẫn nhục Ba-la-mật. Hai,
Phương tiện tu Nhẫn là dựa theo
Sơ Nhẫn, luận
Trang Nghiêm nói: “Nhờ vào
ba Tư-năm Tưởng thì có thể Nhẫn nại chịu đựng, ba Tư:

Nghó đến người khác chê bai mình là tự nghiệp của mình, nếu đáp trả thì lại tự mình tạo ra khổ chứ khổ không bởi vì
người khác;
2) Nghó đến người ấy và mình cùng là hành khổ, bởi vì người ấy không hiểu biết từ khổ lại thêm khổ, nay mình có hiểu biết vì sao lại như vậy?
3) Nghó đến Thanh văn tự lợi ích cho mình hãy còn không làm khổ thêm cho người, Bồ tát làm lợi ích cho người lẽ nào có thể làm khổ thêm cho chúng sinh hay
sao?

Năm Tưởng:
1) Tu tưởng về thân thích của mình, bởi vì tất cả chúng sinh từ xưa đến nay đều là thân thuộc;
2) Tu tưởng về pháp, bởi vì sự đánh mắng không thể nào đạt được;
3) Tu tưởng về Vô thường, bởi vì tánh chúng sinh là tử, pháp hãy còn không nên giận, huống gì làm hại;
4) Tu tưởng về Khổ, bởi vì chúng sinh không lìa xa ba khổ, chỉ nên làm cho họ lìa xa chứ không nên thêm nữa;
5) Tu tưởng về thâu nhiếp tiếp nhận, bởi vì bổn nguyện làm cho vui vẻ chứ không làm cho khổ sở.” Lại trong Trí Luận nói: “Nếu bị chê bai làm hại thì chỉ
suy nghó về pháp đối trị chứ không nên nổi giận, như gặp phải gió mưa chỉ tìm cách che chắn chứ không nên nổi giận.” Rộng ra như
Trí Luận có
nhiều môn phân rõ.

Ba, Chủng loại: Hoặc là chỉ một, đó là Nhẫn độ. Hoặc là hai,
Trí Luận nói một là
Nhẫn chúng sinh, hai là Nhẫn pháp. Hoặc là ba,
giống như trước. Hoặc
là năm, đó là Tín Nhẫn… Hoặc là mười, như sau nói
ở phẩm Thập Nhẫn và
phẩm Ly Thế Gian.
Bốn, Bí mật,
kinh Thương Chủ Thiên Tử nói: “Lại hỏi Văn
Thù: Ông có tâm nóng giận ư? Đáp rằng: Đúng như vậy.
Lại hỏi: Vì sao? Đáp: Lẽ nào tâm không giận? Hỏi: Là không yêu quý ư? Đáp:
Đúng như vậy. Văn Thù
nói: Tôi không có ý niệm yêu quý gì đối với phiền não và
Nhị thừa, bởi vì nghóa này cho nên tôi có tâm nóng giận.”
Những môn còn lại như
nói riêng biệt v.v…

Năm, Trong giải thích văn, trong giải thích: Một- Nêu ra hạnh để
hiển bày ý; hai- Từ “Bồ-tát thành tựu…” trở
xuống là đối duyên
phân rõ về tướng.

Trong phần một: Đầu là một câu tổng quát để nêu lên,
sau
từ “Khiêm ti…” trở
xuống là riêng biệt hiển bày. Trước là hiển bày về tự

hành, sau là
khuyên dạy cho người.

Trong phần trước: Trước
là dựa theo tánh của ba nghiệp có
tướng của Nhẫn, nghóa là tự mình khiêm nhường kính trọng người khác
là tướng Nhẫn thuộc
tâm, sắc mặt hòa nhã là tướng Nhẫn thuộc thân,
lời nói nhẹ nhàng là
tướng Nhẫn thuộc khẩu. Sau là dựa theo lìa xa ba
độc hiện rõ thành tựu
tướng Nhẫn: Một là dựa theo lìa sân, đó là không tự làm hại mình… Tự mình có điều khổ
sở không có thể an tâm nhẫn
chịu, tự đày đọa làm
hại mình…, trái với hạnh an tâm nhẫn nại khổ đau.
Đối với oán thù không
thêm, gọi là không làm hại người khác. Đây là nhẫn nại nhận chịu oán hại, cùng phân rõ về hai
loại trước, cho nên nói
là cả hai. Trí Luận có
hai Nhẫn: “
1) Đối với trái có thể Nhẫn;
2) Đối với thuận có thể Nhẫn.” Trên đây là Nhẫn với trái ngược. Hai là dựa
theo lìa tham, đối với thuận có thể Nhẫn, đó là không vì danh lợi mà khởi lên kiêu mạn, tự cao ngạo đối với người khác và cả hai đều có thể
biết. Ba là dựa theo lìa
si, không nói đến mình là lìa xa kiêu mạn, không giả dối là người khác lìa xa nịnh bợ, cả hai lìa xa không đi cùng. Lại đối
với điều mình đã làm
không nói là đúng, đối với điều mình yêu quý
không nói điều ấy là đúng, cả hai đều rời bỏ
không nói cả hai là đúng. Đây là tướng Nhẫn nại tư duy về pháp.
Lại giải thích: Dựa theo ba nghiệp,
đầu là do sắc mặt hòa
nhã cho nên không làm hại, tiếp là do khiêm tốn
cho nên không cao ngạo, sau
là do lời nói nhẹ nhàng cho nên không đúng. Sau là khuyên dạy cho người cũng là hiển bày về ý, vì
muốn khuyên dạy cho người
đoạn ác thì trước phải tu tập về Nhẫn. Trong
đó: Một là khuyên dạy
lìa xa lỗi lầm; hai từ “Dó Đại Nhẫn…” trở xuống là thành tựu hành đối trị, nghóa là đầy đủ ba Nhẫn đối trị ba độc…, cho nên

nói là Đại Nhẫn.

Hai là đối với duyên phân rõ về tướng của hạnh Nhẫn, nghóa
là khó Nhẫn mà có thể
Nhẫn. Trong đó có hai: Một là mở rộng nêu rõ về
bôi nhọ làm hại, hai là đối với bôi nhọ có thể Nhẫn nhục.
Trong phần một có bốn:
1) Nhiều chúng sinh;
2) Nhiều mắng nhiếc bôi nhọ;
3) Nhiều tổn thương có hại;
4) Trải qua nhiều kiếp. Đây là khó Nhẫn. Hai là an tâm có thể Nhẫn nhục, trong đó cũng có bốn:
1) Nhẫn nại thấy rõ lỗi lầm của nóng giận;
2) Nhẫn nại suy nghó xưa để động viên nay;
3) Nhẫn nại về thân và khổ đều Không;
4) Nhẫn nại giống như Phật thâu nhiếp chúng sinh. Trong phần một
gặp phải khổ đau sinh tâm nóng giận, trở lại đưa
ra không Nhẫn; sau làm sáng tỏ về lỗi lầm ấy có
tám câu, bảy câu đầu
là lỗi lầm mất đi công hạnh của mình, trong đó: Một là lỗi lầm không
tự điều phục tâm mình.
Hai là lỗi lầm không giữ gìn thân-miệng. Hai loại này là
sai lầm vì không có giới. Ba là trình bày về không có Tuệ, bởi vì nóng giận che mờ tâm cho nên không thấy lý của pháp, gọi là không
rõ ràng. Bốn là bởi vì
tâm nóng giận rối loạn khiến cho không vắng lặng, đây là chướng ngại đến phương tiện tu Định. Năm là chướng ngại
về tu Chánh Định. Sáu là
lỗi lầm do hành giả dối chứ không phải là chân thật. Trên đây là
sai lầm làm trở ngại đến
pháp thiện. Bảy là lỗi
lầm tăng thêm pháp ác,
đó là bởi vì tự yêu quý thân mình, không chịu
được sự xâm hại của
người khác, cho nên dẫn đến nóng giận phiền muộn
mà tăng thêm ác nghiệp.

Câu sau cuối
trình bày về lỗi lầm mất đi lợi ích của người khác, làm
sao có thể khiến cho hoan hỷ là trình bày về không có thiện bắt
đầu, mà lại có thể
giải thoát là trình bày về không có lợi ích cuối cùng.

Trong phần hai
là suy nghó xưa để tự động viên mình, nghóa là
tự suy nghó từ xưa kia bởi vì bảo vệ thân tâm này, khởi lên tranh cải
tạo ra nghiệp ác nhận
chịu đau khổ vô cùng, nay nếu không Nhẫn nại
thì lại chồng thêm khổ,
nhiều kiếp không dừng được. Dùng điều này để
tự động viên mình,
khiến cho tâm hoan hỷ Nhẫn nại.

Lại giải thích: Bởi vì mình có thân
tâm này là nhân của khổ, khiến cho người khác có thể có
sự não hại, nguồn gốc khổ là do mình,
sao không tự trách mình? Vì vậy kinh Niết
Bàn nói: “Bởi vì tay-dao gậy cho đến thân mình cho nên có thể gọi là đánh, nay mình không nên nóng giận thô bạo
đối với người khác, mà chính là thân
mình tự chuốc
lấy lỗi lầm này, ví như bởi vì có đích thì có mũi
tên bắn trúng, mình cũng như vậy, bởi vì có thân thì có đánh.” Dùng điều này để tự động viên mình.

Lại giải thích: Mình ở xưa kia chưa từng không có thân
tâm phàm ngu, hoặc là do ác nghiệp vào nơi địa ngục…, hãy còn trải qua vô lượng kiếp oan uổng nhận chịu khổ đau vô cùng, không có một điều gì lợi ích, huống gì nay nhận chịu nỗi khổ nhỏ bé này để thành tựu hạnh Đại
Nhẫn của Bồ-tát hay sao?
Dùng điều này để tự động viên mình, cho nên
sinh tâm hoan hỷ.
Đối với
Nhẫn ở môn trước để nói đến môn này là nặng,
khuyến khích tâm không lui
sụt, động viên tâm để tiến lên. Bởi vì thấy lợi
ích này mà đối với sự
bôi nhọ hoan hỷ nhận chịu, gọi là tâm hoan hỷ; điều phục tâm lìa xa nóng giận, thâu nhiếp không tạo ra điều ác, cho nên
nói là điều phục thâu nhiếp.
Sau là giải thích về ý điều phục
thâu nhiếp: Trước là nêu ra,
sau là
giải thích.
Bởi vì làm cho mình và người trú vào pháp Vô thượng,
cho nên loại này cũng là
an tâm Nhẫn nại nhận chịu khổ đau.
Trong phần ba là Nhẫn về thân và khổ đều Không, đối với
hai môn trước nói là
lại trải qua suy nghó. Kinh Tư Ích nói: “Các pháp
diệt đi trong từng niệm,
tánh ấy luôn luôn không tồn tại, trong đó không có mắng nhiếc làm nhục, cũng không có cung kính tôn trọng. Nếu cắt
thân ra làm từng mảnh,
tâm ấy luôn luôn không chuyển động, thì biết tâm không ở bên trong, lại cũng không ở bên
ngoài thân, oán thù và
dao gậy đều từ bốn Đại
mà khởi lên, đối với đất-nước-gió-lửa chưa từng
có thương tổn.”

Trong này, trước là
Sinh Không, từ “Vô chân thật…” trở
xuống là trình bày về
Pháp Không, đây là Tự quán; từ “Chư Pháp
Không…” trở xuống là
trình bày về Lợi tha, còn muốn giảng giải về Không
cho người khác, lẽ nào có thể tự mình mê muội không Nhẫn hay
sao?
Từ “Thị cố…” trở
xuống là kết luận, có thể biết. Đây cũng là
Nhẫn nại tư duy về pháp.
Trong phần bốn là Nhẫn nại giống như Phật thâu nhiếp
chúng sinh: Trước có bảy
câu về nghó đến nỗi khổ của chúng sinh, sau là
một câu muốn cứu giúp
che chở giống như Phật.
Trong bảy câu trước:
1) Thương xót chúng sinh có những điều ác;
2) Làm lợi ích giúp cho tu điều thiện;
3) Làm yên lòng với quả vui sướng ấy;
4) Không để cho đắm say vui sướng, cho nên nói là thâu nhiếp giữ lấy;
5) Mau chóng giúp cho đến Phật, cho nên nói là không rời bỏ, đây là giúp cho đến Địa tiền;
6) Khiến cho đạt được Địa thượng không lui sụt;
7) Khiến cho đạt được quả Bồ-đề cứu cánh. Sau là trình bày về hạnh giống như Phật, nghóa là chư Phật lúc
ở nhân vị, tu tập thực
hành pháp này, nay mình cũng giống như vậy đang làm lợi ích to lớn cho
chúng sinh, lẽ nào không
Nhẫn nại, mà lại
làm não hại chúng sinh,
cho nên nói là những công hạnh của Phật…
Hạnh thứ tư là
Vô tận, tức là
Tinh tiến Ba-la-mật, đưa ra bốn môn:

Một, Dùng hai
pháp chịu khó-suy nghó làm Thể, theo luận Khởi
Tín là biết pháp tánh… Hai,
Chủng loại, theo luận Du-già có ba loại
Tinh tiến: “
1) Bị giáp tinh tiến là bắt đầu tu;
2) Gia hạnh tinh tiến là tiếp tục tu;
3) Vô yếm túc tinh tiến là tu đến cuối cùng.” Dùng ba nghiệp thúc giục chịu khó làm tánh, dựa vào văn này và phẩm
Ly Thế Gian ở sau, đều nói về
mười loại Tinh tiến.
Ba- Bí mật,
kinh Thương Chủ Thiên Tử nói: “Hỏi: Văn Thù, ông có lười nhác ư?
Đáp rằng: Có.
Lại hỏi: Vì sao? Đáp: Đã lười nhác thì không dùng
thân-khẩu-ý phát khởi tu tập các hạnh, nay tôi như
vậy, cũng không phát
khởi thực hành, cũng không muốn thực hành,
không rời bỏ-không giữ
lấy. Bởi vì nghóa này cho nên tôi gọi là lười nhác.”

Bốn- Giải thích văn, trong giải thích có hai: Trước là nêu ra hạnh để hiển bày về ý,
sau từ
“Bồ-tát thành tựu như thị tinh tiến…” trở xuống là đối với duyên phân rõ về tướng. Lại cũng trước là Thể của hạnh
ở phần vị ấy, sau là
khó thực hành mà có thể thực hành, hạnh này
sửa trị làm cho thanh tịnh.
Trong phần trước có hai: Trước là nêu ra hạnh,
sau từ
“Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là hiển bày về ý.
Trong phần trước có hai: Một là
Thể của hạnh, hai từ “Bỉ Bồ-
tát…” trở xuống là trình bày về lìa xa lỗi lầm.

Trong phần một: Câu
đầu là tổng quát, chín câu còn lại là riêng biệt.

Trong riêng biệt:
1) Vượt qua phàm phu gọi là Thắng;
2) Vượt qua Tiểu thừa gọi là Tối;
3) Tu tập thiện hạnh cao nhất gọi là Đệ nhất;
4) Hạnh giáo hóa người khác cao nhất gọi là Đại;
5) Hạnh lìa xa lỗi lầm cao nhất gọi là Diệu;
6) Trên có thể vượt qua dưới gọi là Thượng;
7) Dưới không có thể thêm vào gọi là
Vô thượng;
8) Dưới không có
thể sánh bằng gọi là
Vô đẳng;
9) Vượt qua dưới giống như trên gọi là Vô đẳng đẳng.

Trong phần hai
là hạnh lìa xa lỗi lầm, lìa xa phiền não
Đại-Tiểu, tất cả có mười loại, như văn v.v… Trên đây là Bị giáp tinh tiến cũng
gọi là Cần dũng tinh tiến.
Trong phần
sau là hiển bày về ý: Đầu là không muốn não hại
chúng sinh là hiển bày về điều đã lìa xa; sau là
chính thức hiển bày
về việc đã làm.
Trong này có 20 phân ba: 3 câu đầu là đoạn trừ mê hoặc, 7 câu tiếp là nhận biết về giáo hóa thâu nhiếp
chúng sinh, 10 câu
sau là
nhận biết về lý của pháp.

Trong phần đầu: Câu đầu là chế phục lìa xa hiện hành, câu tiếp
là chính thức làm hại
chủng tử, câu sau là lìa xa tập khí còn sót lại.
Trong phần tiếp là nhận biết về giáo hóa: Một câu đầu là
tổng quát, 6 câu còn lại
là riêng biệt. Trong riêng biệt: Hai câu đầu là
biết lỗi lầm của nhiễm
ô, câu 1 là biết chuyển đổi quả báo của Khổ, câu
2 là biết nhân Tập của
phiền não; bốn câu sau là biết căn khí tiếp nhận

pháp, câu 1
là vui thích nhiều môn, câu 2 là phạm vi giới hạn
sai
biệt, câu 3 là căn có
lợi-độn, câu 4 là tâm đã suy nghó khác nhau.

Trong phần sau là nhận biết về pháp: Câu
đầu là tổng quát, 9 câu còn lại là
riêng biệt.
Trong riêng biệt: Bốn câu đầu là biết về lý
của pháp Phật, câu 1 là biết
Như Lai Tạng có đủ hằng
sa công đức
thuộc Thật tánh Bất
Không, câu 2 là biết Như Lai Tạng ở trong nhiễm ô
mà tướng ấy bình đẳng,
câu 3 là dựa theo nhân vị trước sau ba đời
không khác nhau, câu 4 là ở phần vị của quả thanh tịnh cũng bình đẳng vô
sinh. Lại ba câu này cũng là ba loại
Phật tánh: Đầu là dựa theo tự tánh an
trú, tiếp là dựa theo
dẫn dắt phát ra, sau là đến đạt được quả. Lại đầu là
tự tánh Vô sinh trong Địa
Luận, tiếp là thuộc số sai biệt về Vô sinh,
sau là Phật quả tác nghiệp
Vô sinh. Hai câu tiếp là chứng về pháp của
quả, câu 1 là nêu ra,
câu 2 là giải thích, nghóa là dùng một môn trí khéo léo mở rộng thâu nhiếp về pháp của quả Phật. Hai câu tiếp là muốn biết
về pháp thuộc Đại Dụng
của quả Phật, câu 1 là biết về đức thần thông
vô tận của Phật, câu 2
là biết về đức trí tuệ quyền-thật của Phật,
phương tiện là quyền. Một câu
sau cuối là biết về giái pháp của Phật.
Lại cũng có thể: Bốn câu
đầu dựa theo Gia Hạnh, hai câu tiếp dựa theo Chánh Thể, ba câu
sau dá»±a theo
Hậu Đắc. Lại trong 20 câu này, 3 câu đầu
dựa theo Tự lợi, 17 câu
sau dựa theo Lợi tha.
Trong Lợi tha,
7 câu đầu biết về căn khí đã giáo hóa, 9 câu
tiếp biết về thuốc pháp
để giáo hóa, 1 câu sau là chính thức dùng pháp
trao cho căn cơ, có thể biết.
Thứ hai là đối với duyên khó thực hành hiển bày về hạnh kiên cố, trong đó có hai: Một là tạm thời nêu ra khổ
sâu nặng để chủ yếu hỏi hiển bày về hạnh, trước là hai câu hỏi,
sau là hai câu giải đáp; hai
là tạm thời dùng trần
hải để kể ra điều cần phải hiển bày, cũng trước là hỏi,
sau là giải đáp. Trong giải đáp có hai: Đầu là khiến cho người khác tránh khỏi nỗi khổ vì lợi,
sau là lợi ích về thành tựu quả của
mình và người. Trên đây cũng là Tinh tiến khó hủy hoại trong
Nhiếp Luận, Tinh tiến không thỏa mãn
trong luận Du-già.

Hạnh thứ năm là lìa si loạn, tức
là Thiền Ba-la-mật, cũng đưa ra bốn môn:

Một, Dùng Định trong biệt cảnh làm Thể, luận Khởi Tín là
nhận biết pháp tánh…

Hai, Chủng loại, theo Du-già cũng có ba loại: Một là Hiện pháp
lạc trú tónh lự, đó là tám Định…; hai là Nhiêu
ích hữu tình tónh lự, đó là dựa vào đây khởi
lên bốn Nhiếp, thâu nhiếp hữu tình…; ba là Dẫn thần
thông công
đức tónh lự, đó là có thể dẫn khởi 18 thần
biến… Lại ở
văn sau có 10 loại để
hiển bày về Vô tận.
Ba, Bí mật,
trong kinh Thương Chủ Thiên Tử: “Văn Thù nói:
Tôi có tâm tán loạn,
nguyên cớ thế nào? Bởi vì tâm tán loạn không có trú xứ, tâm tôi ở trong Thánh đạt được
giải thoát, thành tựu tất cả
chúng sinh, cho nên không
có trú xứ. Bởi vì nghóa này cho nên nói là tâm
tôi tán loạn.” Bốn,
Giải thích văn, trong giải thích nhờ vào tu quán lìa xa tập
khí ngu si, chấm dứt tán
loạn. Lương Nhiếp Luận nói: “Các Bồ-tát ở trong các phần vị thường tu hai hạnh, một là không điên đảo, hai là không
tán loạn, chính là hạnh này.”
Trong văn có ba: Một là Hiện pháp lạc trú thiền; hai từ
“Bồ-tát thành tựu tịch
tónh…” trở xuống là dẫn dắt sinh ra công đức thiền; ba
từ “Bồ-tát văn
thử…” trở xuống là lợi ích chúng sinh thiền.

Trong phần một có hai: Trước
là tổng quát, sau là riêng biệt.
Trong phần trước có 11 câu: Hai câu đầu là nêu ra hai
Chương, đó là câu đầu
nêu ra lìa xa tán loạn, câu sau nêu ra lìa xa ngu si.
Tám câu tiếp là trải
qua pháp gồm chung phân rõ, thuận theo nhau làm bốn: Đầu là một câu dựa theo pháp đã thọ trì, tiếp là hai câu dựa theo lưu chuyển mà thọ thân. Đây là Bi nguyện giữ lại phiền não để thọ thân cho nên không ngu
si tán loạn,
sau trong Địa thứ
sáu nói chết có hai
loại tác nghiệp, một là
bởi vì không biết, do đó khiến cho Sinh sau nối tiếp nhau, là dựa theo phàm phu mà nói. Lại trong kinh Đại
Tập nói: “Phàm phu thọ thai, nam
đối với mẹ sinh ra ái, nữ đối với cha sinh ra ái,
vì thế cho nên tiến vào thai mà ngu si tán loạn. Lại
ở trong thai thì tình
thức rõ ràng, lúc ra vì bức ép khốn khổ mà liền mê mờ tán loạn,
Bồ-tát khác với chúng sinh, tiến
vào-sinh ra đều không có gì ngu si tán loạn…”
Lại luận Du-già quyển thứ 2 nói: “Bốn loại tiến vào thai:
1) Đích thực nhận biết tiến vào mà không đích thực nhận biết an trú và sinh ra, đó là Luân Vương;
2) Đích thực nhận biết tiến vào và an trú mà không đích thực nhận biết sinh ra, đó là Độc giác;
3) Đều có thể đích thực nhận biết, đó là Bồ-tát;
4) Đều không đích thực nhận biết, đó là những hữu tình khác.” Tiếp là ba câu dựa theo tu đạo mà khởi hạnh, có thể biết;
sau cuối là
hai câu dựa theo tỉnh giác
lìa xa ma sự, bởi vì lúc tu Chỉ-Quán phần nhiều bị tà ma quỷ mî… làm não loạn, cho nên phân rõ về điều này, như
trong sớ Khởi Tín v.v…
Một câu cuối là kết luận về nhiều kiếp tu.
Trong phần
sau là riêng biệt phân rõ, có hai: Trước là trình bày về
lìa xa ngu si, sau là trình bày về lìa xa tán loạn.

Trong phần trước: Đầu là nhắc lại
phần trước; từ “Ư vô…” trở xuống là hiển bày
phần sau, trong đó một là do lìa xa ngu
si tăm
tối mà nghe pháp không
quên, hai từ “Hà dó…” trở xuống là giải thích về thành tựu.
Trong phần một có ba:
1) Tổng quát;
2) Từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt;
3) Từ “Bồ-tát văn thử…” trở xuống là kết luận. Trong riêng biệt có 17 câu về pháp:
1) Thể sâu;
2) Tướng diệu, hai câu này là pháp thuộc Lý;
3) Đủ đức;
4) Nhiều đức, hai câu này là pháp thuộc Hành.
5) Pháp thuộc Giáo;
6)Pháp thuộc Nhân;
7) Pháp thuộc Quả;
8) Pháp thuộc Dục nguyện.
9) Ở thế gian lìa xa pháp nhiễm,
10) Khéo léo phân biệt đối với pháp thế gian, hai câu này là pháp thuộc Trí.
11) Đã nhận biết rộng rãi gọi là pháp rộng,
12) Đã nhận biết nhiều môn gọi là Vô lượng,
13) Phân tích rõ ràng về pháp,
14) Chân gồm chung gọi là Cọng,
15) Tục riêng biệt là Bất cọng,
16) Nhân vị đã biết là pháp có hạn lượng,
17) Quả vị đã biết là pháp không có phạm vi giới hạn. Sau là kết luận, do lìa xa ngu
si tăm tối cho nên tuy nghe
nhiều pháp trải qua thời
gian dài mà không quên.

Trong phần hai
là giải thích, trước là nêu ra, sau là giải thích,
có bốn câu:
1) Không làm trở ngại Định của người khác;
2) Thường bảo vệ Chánh pháp;
3) Không ngừng tu thiện;
4) Thường thực hành trí tuệ cho nên không quên. Hai là trong giải thích về không tán loạn, có hai: Đầu là nghe nhiều tiếng, bởi vì
không có chướng ngại của đời trước, cho nên
không tán loạn;
sau từ “Như thị đẳng…” trở xuống là nghe nhiều tiếng lớn,
bởi vì khéo léo quán
sát cho nên không tán loạn.

Trong phần đầu có ba: Trước
là nghe sáu tiếng; tiếp là trình
bày về 12 pháp không tán
loạn; sau là không có bốn chướng.

Trong giải thích về 12 pháp: Đầu
là tám pháp về Tự hành không
tán loạn, sau là bốn pháp về Lợi tha không tán loạn.

Trong phần đầu:
1) Biết Thể của tiếng là Không cho nên ý niệm không tán loạn,
 nhưng Bồ-tát đối với cảnh của sáu trần đều có thể không tán loạn, bởi vì tiếng cao to là mạnh hơn trong sự tác
động tán loạn, cho nên cố ý nêu ra;
2) Chánh Định không bỏ dở;
3) Sở duyên không sai lầm;
4) Tiến vào lý không sai lầm;
5) Thường thực hành Bố thí…;
6) Không quên mất tâm ban đầu, đó là huân tập hạnh nguyện Bồ- đề;
7) Nghó đến Định của Phật;
8) Chứng được lý chân thật. Sau là trình bày về Lợi tha:
1) Sắp khởi lên trí giáo hóa;
2) Chính thức thành tựu sự giáo hóa;
3) Do giáo hóa mà thành tựu lợi ích;
4) Quán xét sự giáo hóa là Không, tuy nghe tiếng ấy mà không bỏ dở những
việc này, thường thực
hành những gì vốn có, cho nên nói là không tán loạn.
Sau là trong phần giải thích về nguyên cớ thành tựu, bởi vì không có
bốn chướng, đó là hai câu trước không gây ra hai chướng của
nghiệp- phiền não, hai câu
sau là cung kính đối với người-tôn trọng đối với pháp, cho nên đạt được như vậy.
Trong phần
sau là nghe nhiều tiếng lớn mà không
tán loạn, có hai: Một là tổng quát trình bày về nghe nhiều tiếng lớn không có
thể tán loạn. Hai là giải thích về nguyên cớ không tán loạn, có ba:
1) Quán xét phương tiện tìm tòi suy nghó, trước là quán xét tướng của tiếng sinh diệt
không ngừng, tiếp là quán xét tánh ấy cũng không thể có được,
sau là quán xét duyên
chủ động nghe hội tụ là nghe cũng không có người nghe;
2) Từ “Văn hảo ác…” trở xuống là trình bày về quán xét lìa nhiễm đúng như thật;
3) Từ “Tri nhất thiết…” trở xuống là trình bày về quán xét pháp tánh chính thức chứng được. Trong đó, trước là trình bày về tướng không còn
và pháp tánh…; sau là trình bày về tánh, hiển bày tiếng này không phải cứ như không có thể làm tán loạn hủy hoại
chánh niệm của Bồ-tát,
mà chính là làm cảnh tiến vào pháp tánh cho
Bồ-tát, lại trở thành
duyên tăng thêm đạo nghiệp chứ không phải là cảnh
làm tâm tán loạn. Trong
kinh Như Huyễn Tam Muội nói: “Giả sử dùng
mặt đất làm trống, núi
Tu-di làm dùi trống, ở bên tai Tu-bồ-đề đánh
trống một kiếp, cũng không có thể khiến cho tâm tán loạn dù chỉ là một
niệm bé nhỏ. Vì sao như
vậy? Bởi vì tiến vào Không Định.”
Trong phần hai là dẫn dắt
sinh ra công đức, dẫn dắt thành tựu
sáu loại công đức dần
dần tăng thêm:
1) Trình bày lìa xa tán loạn đạt đươc Định;
2) Lìa xa ngu si dẫn đến Trí;
3) Định tăng lên thâu nhiếp bạn;
4) Trí tăng thêm Bi;
5) Định tròn vẹn không gián đoạn;
6) Trí đầy đủ hướng về quả. Trong phần ba là Định làm lợi ích cho chúng sinh, có ba:
1) Lợi ích khiến cho lìa xa tán loạn;
2) Từ “Ư nhất thiết…” trở xuống là lợi ích khiến cho lìa xa ngu si, đây là giúp cho thành tựu nhân;
3) Từ “Cứu cánh…” trở xuống là lợi ích khiến cho đạt được quả. Hạnh thứ sáu là Thiện hiện, tức
là Bát-nhã Ba-la-mật:
Một, Dùng pháp thuộc Tuệ trong biệt cảnh làm tánh.

Hai, Chủng loại, luận Duy Thức nói có ba: “Một là Tuệ về Sinh Không, hai là Tuệ về
Pháp Không, ba là Tuệ về
Câu Không.” Luận Du-già cũng
có ba: “Gia Hạnh,
Chánh Thể, Hậu Đắc.” Lại có bốn
Tuệ: Một là Năng chứng
trí, hai là Hậu đắc trí, ba là Lợi tha trí, bốn là
Câu
sinh tuệ. Văn
sau có mười Tuệ để hiển bày về Vô tận, như văn ấy
nên biết. Lại Trí Luận
nói: “Nếu không có Bát-nhã thì năm Độ như mù,
là dùng mắt Tuệ dẫn
dắt cho những Độ khác khiến cho có thể thành
tựu Ba-la-mật.” Ba,
Bí mật, kính
Thương Chủ Thiên Tử nói: “Văn Thù nói:
Tôi là không có trí, vì
sao như vậy? Bởi vì không có trí tuệ thì không
sợ hãi
sinh tử, không mong cầu
Niết-bàn, cùng với chúng sinh mê hoặc, vui
chơi chung một nơi; tôi
cũng ở trong sinh tử Niết-bàn, không sợ
hãi-không mong cầu, cùng
với chúng sinh mê hoặc, an trú chung một nơi, vui
chơi cùng với họ để
mà thành tựu, cho nên nói là tôi không có trí tuệ.”

Bốn, Trong giải thích văn có ba: Một là nhắc lại phần trước
sinh khởi phần sau; hai từ
“Vô sở y…” trở xuống là chính thức trình bày
về tướng của hạnh; ba
từ “Thị Bồ-tát trú thử…” trở xuống là làm
sáng
tỏ về tác dụng lợi ích của hạnh.

Trong phần một có bốn câu: Hai
câu đầu hợp lại nêu ra, nghóa là Thể của ba nghiệp trống rỗng không hề có gì, Dụng của ba nghiệp trống rỗng không có gì để nêu ra rõ ràng; hai câu
sau là tách ra giải
thích, nghóa là tách ra
nhiễm-tịnh, nhiễm trống rỗng không có ràng buộc,
tịnh trống rỗng không có
giải thoát, giải thích về Thể trống rỗng trước
đây, câu sau tách ra giải
thích về Dụng trống rỗng. Bởi vì Thể-Dụng nhiễm tịnh này đều Không, cho nên gọi là nghiệp
thân-khẩu-ý rỗng
lặng. Muốn dựa vào đây
khởi lên quán xét chiếu rọi đạt được lý sâu xa,
cho nên trước phải nhắc lại để nêu ra.
Trong phần hai là hiển bày về hạnh, có bốn:
1) Trình bày về trí thuộc Gia Hạnh, suy ra tướng tiến vào Thật quán;
2) Từ “Bất sinh bất diệt…” trở xuống
là trình bày về trí thuộc Chánh Thể, tướng không
còn chứng được Thật
quán;
3) Từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống là trình bày về trí thuộc Hậu Đắc, dựa vào Thật khởi lên quán về
tướng Thật vô ngại;
4) Dùng Đại Bi tùy theo quán về tướng thâu nhiếp
giáo hóa, bởi vì tướng
này tức là Thật, cho nên chỉ có tướng cũng không có gì sai lầm.

Trong phần một: Đầu là ba câu trình bày về quán
Duy thức Vô tướng, nghóa là quán về tướng Không đã chọn lấy, bắt đầu không có
chỗ dựa, cuối cùng
không có chỗ trú, vì sao biết cảnh Không không có
chỗ dựa-chỗ trú? Bởi
vì tùy theo tâm mà trú, đây là trình bày chính thức
trú vào Duy thức quán,
đây tức là dựa vào Thức loại trừ cảnh vọng.
Luận Biện Trung Biên nói:
“Dựa vào Thức có Cảnh đã đạt được, không có Sinh đã đạt được.”
Cựu Luận nói: “Bởi vì dựa vào Duy thức cho nên
nghóa về cảnh không có Thể thành tựu.” Là nói đến nghóa này.
Tiếp là trình bày về
quán Thức thể vô sinh, Vô lượng tâm… là quán về tâm tánh chủ động chọn lấy cùng với tất cả pháp tánh đã chọn lấy, giống như không có
tánh tướng…, hãy còn như nhau, đây là dựa vào
không có Trần để loại
trừ Thức. Luận Biện Trung Biên nói: “Dựa vào
Cảnh không có Thức đã đạt được, không có Sinh đã đạt được.”
Cựu Luận nói: “Bởi vì Trần không có cho nên Thức vốn có đã không
sinh.” Là nói
đến nghóa này. Thị hiện Tướng của Vô tướng tức là Không đã chọn lấy
trước đây, nghóa là
bởi vì Tướng của Vô tướng hiện rõ trước mắt.
Sâu thẳm không có đáy tức là chủ động chọn lấy
Thức Không, bởi vì
Thức Không làm gốc, Thức hết
cho nên không có đáy. Như Như tánh là một cặp
tức là hai Không, nghóa
là Tâm Như-Cảnh Như, cùng một chân tánh, tuy ở trong Như mà không có Tướng có thể khởi lên gọi là lìa xa nghiệp báo. Như vậy bởi vì Gia hạnh có thể khởi lên chính thức
chứng được, cho
nên nói là phương tiện
khéo léo ra khỏi Sinh-lìa xa Sinh. Lìa xa Sinh tức
là phần vị của Chứng,
đó là tổng quát kết luận về Gia hạnh trước đây
có công năng khởi lên Chứng.

Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về chính thức Chứng
trí, nghóa là lý của
Cảnh-Trí như nhau, không vì sinh diệt mà chuyển
biến cho nên nói là
không sinh diệt, phai mờ giống như chân lý cho nên
nói là Niết-bàn…. Đây là trình bày về không có, không có tức là
không không có cho nên
nói không phải có mà nói là có. Có và không có
đều bặt dứt nói năng,
dựa vào không có khởi lên cho nên nói là đoạn dứt lộ trình của ngôn ngữ (ngôn ngữ đạo đoạn). Chọn lấy Chứng khác nhau
để so sánh, nghóa là trí thế gian chỗ
dựa-chỗ trú, trong này không có
nương tựa cho nên nói
là lìa xa tất cả…

Từ đây trở xuống là hiển bày về lợi ích của Chứng, có năm câu:

1) Lợi ích tăng thêm thiện, đó là nhờ vào Chứng Chân mà làm cho pháp thiện đã phát khởi trước đây tăng trưởng rất nhiều, cho nên nói là trưởng dưỡng… Lại trí Vô lậu khởi lên trong
sát-na đầu, bởi vì tiếp tục được xông ướp thành tựu mà làm cho trí ấy tăng thêm.
2) Trình bày về lợi ích của đoạn trừ chướng, nghóa là thuận theo Chứng gọi là tiến vào, rời bỏ Vọng gọi là lìa xa, đoạn trừ chủng tử chướng ngại của phiền não gọi là không có ràng
buộc, làm hại chủng tử chướng ngại của sở tri gọi
là không có vướng mắc.
3) Lợi ích của Chứng Chân, nghóa là chứng được chân lý mà xưa kia chưa chứng.
4) Lợi ích vượt lên trên phần vị, nghóa là vượt qua thế gian.
5) Lợi ích về khởi lên trí, nghóa là do chứng
được lý này mà có
thể khởi lên trí Hậu Đắc phân biệt về pháp thế gian.

Trong phần ba trình bày về Hậu đắc trí, có hai: Một là trình bày về dùng Lý hiểu Sự làm phương tiện
suy nghó tìm cầu; hai từ
“Bồ-tát giải như thị…” trở xuống là trình bày về Lý-Sự vô ngại làm
sáng tỏ hiểu biết đúng đắn như thật. Trước là tổng quát,
sau là
riêng biệt.
Trong riêng biệt có tám câu:
1) Hiểu về thế gian vắng lặng, biết Vọng là Thể Không;
2) Hiểu về pháp sâu xa của Phật, biết Chân là lìa tướng; Nhiễm và tịnh cùng dung hòa vốn như nhau không có gì
sai khác;

Ngay nơi nhiễm luôn luôn tịnh, pháp thế gian hòa vào
Phật pháp;

Không nhiễm mà nhiễm, Phật pháp hòa vào pháp thế gian;
6) Môn nhiễm tịnh sai khác vốn không tạp loạn, nghóa là toàn Thể ngay nơi tịnh mà vẫn có thể nhiễm, toàn Thể là nhiễm mà vẫn có thể tịnh, đó gọi là
nhiễm-tịnh không hai mà hai;
7) Giải thích về nghóa không xen tạp,
 bởi vì pháp thế gian hư giả cho nên không cần hủy hoại-không ngại tồn tại,
 bởi vì không cần hủy hoại cho nên chưa hề không phải là Phật pháp,
 bởi vì không ngại tồn tại cho nên chưa hề xen tạp với Phật pháp, cho nên nói là pháp thế gian không hủy hoại;
8) Bởi vì Phật pháp chân thật cho nên không thể phá hủy-không ngại thuận theo,
 không ngại thuận theo cho nên chưa hề không phải là pháp thế gian,
không thể phá hủy cho nên chưa hề xen tạp với pháp thế gian, cho nên nói là Phật pháp chân thật…

Lại giải thích: Phật
pháp tuy hòa vào thế gian mà không bị
pháp thế gian làm cho hủy
hoại. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì pháp giới
chân thật không thể nào hủy hoại.

Hỏi: Nếu như
vậy thì vì sao không nói là pháp thế gian hòa
vào Phật pháp, pháp thế
gian cũng không hủy hoại? Đáp: Bởi vì pháp thế gian hòa vào Phật pháp thì có thể có hủy hoại không còn, cho nên không luận đến. Bởi vì chân-vọng
không giống nhau, cho nên như vậy. Sở dó chà đạp nhiễm-tịnh như vậy, là
muốn thường xuyên nhiếp hóa ở thế gian mà luôn luôn trú trong
Niết-bàn. Sau Đại Bi thâu nhiếp chúng
sinh mà không trái với lý quán
chính là pháp này.
Trong phần bốn là Đại
Bi quán, có năm: Một là an trú ba đời… trình bày về dựa vào
Lý khởi Bi; hai là xây dựng chí nguyện thâu
nhiếp chúng sinh; ba là vì mình mà thương xót
chúng sinh; bốn là tự nhắc
nhủ mình không rời bỏ;
năm là đối với duyên đích thực cứu giúp.

Trong phần hai có năm câu:
1) Mình không thành tựu chúng sinh thì ai thành tựu giáo hóa khiến cho thành tựu pháp thiện;
2) Điều phục lìa xa nghiệp ác;
3) Phiền não diệt hết không còn;
4) Vui mừng đạt được nhân thành tựu;
5) Thanh tịnh đạt được quả đầy đủ. Trong phần ba vì mình mà thương xót chúng sinh, là một câu hiển bày về chính mình
đã hiểu. Sau là đích thực thương xót chúng sinh
đau khổ, có hai:
1) Trình bày về có đủ các nỗi khổ sâu nặng;
2) Từ “Bất ly tam chướng…” trở xuống là không có niềm vui giải thoát. Trong phần một
là pháp-dụ-hợp. Trong pháp thấy chúng
sinh nhận chịu đau khổ là đang đau khổ, hướng về nẽo đường nguy hiểm là
sẽ
đau khổ, đây là quả
của khổ; phiền não ràng buộc là nhân của khổ. Trong hợp-pháp, ân ái ràng buộc là nhân của khổ, ở trong
sinh tử… là
quả của khổ, đây là nghóa về bốn nẽo ác v.v…
Diêm-la vương ấy theo các
Thánh giáo nói có năm
loại: Một là thuộc về nẽo Địa ngục, như luận
Du-già quyển thứ hai nói;
hai là thuộc về nẽo quỷ, như Du-già Bồ-tát Địa nói, lại có kinh văn nhưng chưa thấy; ba là không phải thuộc về hai nẽo, như văn kinh này vốn có riêng nẽo của
Diêm-la vương; bốn là biến hóa
làm Diêm-la, như kinh Quán
Phật Tam Muội quyển thứ 5 nói và luận
Nhị Thập Duy Thức… nói; năm là Bồ-tát hóa
làm Diêm-la, như luận
Du-già quyển thứ 58 nói:
“Viêm ma gọi là Pháp Vương, là làm lợi ích hay là làm tổn hại, nên nói là chỉ làm lợi ích.” Vì vậy biết là Bồ-tát.
Lại trong kinh Chánh Pháp Niệm
nói: “Diêm-la vương vì người tội nói kệ rằng:
Ông được thân người không tu đạo, như đến kho
báu về tay không,
nay ông tự làm thì tự
chịu, kêu gào đau khổ mong được gì?”

Hỏi: Vua này
là đoạn chúng sinh Trung hữu, hay là đoạn
chúng sinh Bổn hữu?
Đáp: Đoạn
chúng sinh Bổn hữu, bởi vì Trung hữu không ở trong địa ngục.

Trong phần hai là không có niềm vui giải thoát: Đầu là trình
bày về có chướng ngại,
nghóa là không lìa xa phiền não-nghiệp-khổ là ba chướng;
sau là trình bày về không có
giải thoát, văn có ba cặp:
Một, Không có nhân của
giải thoát, ngu si tăm tối là có chướng ngại,
không thấy chân thật rõ
ràng là không có sửa trị; Hai, Không có quả của
giải thoát, sinh tử không
cùng tận là có chướng ngại, không được giải
thoát cũng là không có
sửa trị; Ba, Thành tựu hai cặp trước, đó là trước trình bày về có
chướng ngại, không thấy Chánh đạo là trình bày về
không có sửa trị.

Trong phần bốn
là tự nhắc nhủ mình, chúng sinh có nỗi khổ
sâu nặng này, nếu không
giáo hóa họ trước mà tự mình thành tựu trước
thì không hợp với đạo lý.
Trong phần năm là đích thực thâu nhiếp chúng
sinh có ba câu,
đó là thành tựu
pháp thiện, điều phục pháp ác, hóa độ khiến
cho giải thoát.
Đoạn lớn
thứ ba là lợi ích của hạnh, bởi vì hạnh Bát-nhã này hơn hẳn những hạnh khác, vì thế cho nên
sau các hạnh trước đây đều
không có lợi ích này,
như văn có thể biết.

Hạnh thứ bảy là Vô trước, dùng
tâm Vô trú quy tụ các thiện căn, lại dùng Bi-Trí dẫn dắt nhau khéo léo không có gì đắm theo vướng mắc. Hạnh là
Vô trước, Vô trước là Hạnh, là
Phương tiện độ, dùng
Bi-Trí hậu đắc làm Thể.
Chủng loại có hai, luận
Duy Thức nói: “
1) Phương tiện hồi hướng,
Phương tiện cứu giúp.” Văn sau có mười loại, có thể biết.

Trong giải thích có ba: Một-Tu
hạnh Vô trước trong hạnh
thuộc Tự phần; hai-Từ
“Bồ-tát ư chư Phật quốc…” trở xuống là tu trong
hạnh Thắng tiến; ba-Từ
“Ư nhất niệm…” trở xuống là trình bày về tu
trong hạnh thành tựu đầy đủ.

Trong phần một có hai:
1) Trình bày về hạnh Đại Trí làm sáng tỏ Tự lợi Vô trước;
2) Từ “Bồ-tát như thị quán chân…” trở xuống là trình bày về hạnh Đại Bi hiển bày Lợi tha Vô trước.
Trong phần một có ba: a) Thấy tịnh
không nhiễm; b) Thấy dơ
không chê; c) Cùng giải thích hai mục trước.
Trong mục a có hai: Trước là riêng biệt
giải thích,
sau từ
“Thử Bồ-tát…” trở
xuống là nhắc lại để kết luận.
Trong phần trước có
14 câu: Một, Bốn câu về hạnh thành
tựu Tịnh độ, ở trong niệm niệm là tu không gián đoạn.
Trong đó, một là quán về quốc độ trang nghiêm không đắm trước; Hai là đến cúng dường
Phật không đắm trước; Ba là tu tập thành tựu khéo léo không đắm
trước, nghóa là không
có gì đã thực hành thì không đắm trước; Bốn là
nghiệp đã thành không
đắm trước, nói Tư là Thể của nghiệp phai mờ mà tiến vào chân thật, gọi là không trú vào pháp tư duy thì không đắm
trước. Hai, Từ “Ư niệm
niệm…” trở xuống là mười câu trình bày về
hạnh của Pháp thân, trong đó: Ba câu đầu là thấy
Phật Bảo không đắm trước.
Hai câu tiếp là đối với
Pháp Bảo không đắm trước, một câu đầu là
nơi nghe pháp, một câu
sau là chính thức nghe pháp. Ba câu tiếp là đối với
Tăng Bảo không đắm
trước, câu một là thấy trú xứ của Tăng, câu hai là
thấy Thanh văn Tăng, câu
ba là thấy Bồ-tát Tăng. Tám câu trên là đối
với cảnh Tam Bảo mà tu
hạnh Vô trước. Hai câu sau cuối là đối với chính mình thực hành tu hạnh
Vô trước, một là tu ở trong hạnh
nhiếp pháp,
hai là tu thành tựu trong
tu về Chánh hạnh.
Trong phần
sau là nhắc lại để kết luận, có hai:
Một- Nhắc lại hạnh Tịnh độ trước đây; hai-
Từ “Kiến Phật…” trở xuống là nhắc lại hạnh
Pháp thân trước đây.

Sau là kết luận đã thành tựu trang nghiêm, nghóa là dùng
những pháp này để trang
nghiêm Tịnh độ ấy.

Kết luận riêng biệt thành tựu tổng quát hiển bày ở câu một.

Hai là ở trong nhiễm mà không đắm trước chỉ có một câu, là
bởi vì pháp thanh tịnh
thuận theo mong cầu dễ đắm trước-khó rời bỏ,
cho nên dựa theo nhiều môn.
Ba là trong
giải thích: Trước nêu ra câu hỏi: Tất cả người thế
gian đều yêu quý thanh
tịnh mà chán ghét dơ bẩn, vì sao Bồ-tát không như vậy? Sau trong
giải thích: Đầu là đối với câu hỏi tổng quát
giải thích,
bởi vì quán xét về
pháp nhiễm-tịnh rỗng lặng bình đẳng; sau từ “Vô tăng ái…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về
sáu cặp pháp, đối đãi
nhau- làm mất lẫn nhau,
đều không có tự tánh cho nên không yêu-ghét.
Trong phần hai là hạnh Đại Bi: Đầu là nhắc lại phần trước hòa
vào phần sau, nghóa là
nhắc lại trí quán pháp tánh trước đây, thì do thuận theo hòa vào trong tánh
chúng sinh, bởi vì tánh
giống nhau, cho nên
hóa sinh mà luôn luôn không đắm trước. Sau là chính thức hiển bày về
tướng có bảy: Một là
không đắm trước đối với chúng sinh đã hóa độ.
Hai là không đắm trước
đối với Pháp hóa độ. Ba là không đắm trước đối với Tâm hóa độ, nghóa là Đại Bi trú chung quả mà
Phật đã trú. Bốn là
không đắm trước đối
với Giáo hóa độ, nghóa là tùy theo ngôn ngữ địa
phương khác nhau, cho nên
nói là đủ loại ngôn ngữ… Năm là không đắm trước đối với Xứ hóa độ, nghóa là
sáu đường đều là nơi cư trú của chúng
sinh; lại là không đắm
trước thực hành hóa độ, nghóa là bởi vì Tam
thừa đều là nơi thực hành hóa độ cho nên nói là đạo. Sáu là không đắm trước
đối với chỗ dựa khởi
lên hóa độ, nghóa là dựa vào Tam-muội khởi lên
việc làm hóa độ người khác. Bảy là không đắm
trước đối với quốc độ đã đi qua. Như vậy đều đối với các hạnh và việc làm khiến cho trí
chuyển sang tròn vẹn mà
không có gì đắm trước.

Trong phần hai là hạnh Thắng tiến, có ba:
1) Tự thành tựu công hạnh thù thắng;
2) Từ “Đắc thọ ký dó…” trở xuống là Đại Bi thâu
nhiếp giáo hóa;
3) Từ “Bất trước thân…” trở xuống là Đại Trí chiếu rọi lý để hiển bày về Vô trước.

Trong phần một có chín câu: Một
là ngộ Thật giáo, ở nơi quốc
độ của chư Phật đã đi
qua trước đây, dùng tâm không đắm trước tiếp
nhận hiểu hết lý trong giáo của Phật thuyết ra, cho
nên nói là Thật giáo. Hai
là tìm theo
giáo đạt được ý chỉ, cho nên vô ngại đối với đạo. Ba là dựa vào giáo lập hạnh, cho nên nói là đối với pháp đã lập. Bốn là nhờ vào
tu hành thành tựu, cho
nên nói là đầy đủ hạnh Bồ-tát. Năm là hạnh
thành tựu không thay đổi, cho nên nói là trú vào
tâm Bồ-tát. Sáu là dựa vào tâm thành tựu đức, cho nên nói là thành tựu giải thoát vắng lặng.
Bảy là đức thành tựu lìa
xa tướng, cho nên nói là không nghó đến việc đã
làm. Tám là lìa xa tướng tiến vào chứng, cho nên
nói là trú trong đạo thanh tịnh. Chín là chứng thành tựu thâu nhiếp quả, cho nên nói là thọ
ký. Nghóa về thọ ký nói
đầy đủ như trong phẩm Ly Thế Gian sau này.
Trong phần hai là hạnh Đại Bi, có hai: Một là nghó đến chúng
sinh không có thiện mà chỉ có ác; hai từ “Nhó thời
Bồ-tát…” trở xuống
là phát khởi tâm Bi cứu
độ. Lại một là tăng trưởng Đại Bi, hai là tùy theo Đại Bi.
Trong phần một có ba:
Một- Trình bày bởi vì
si ái cho nên
lưu chuyển trong sinh tử,
nghóa là không biết gì về Khổ, không thấy gì về Diệt, tối tăm không có niềm tin, không đoạn trừ về Tập, tâm không chân thật thì rời xa đạo. Trên đây là lỗi lầm của
ngu si, thường thực hành pháp nhiễm là lỗi lầm của ái, lưu chuyển là bởi vì nghiệp của
Tập khí si ái trước đây, cho nên quả khổ cứ nối tiếp nhau.
Hai- Từ “Bất kiến Phật…” trở xuống là trình bày bởi vì tà
kiến-kiêu mạn, cho nên
nhận chịu đủ loại khổ
đau, trong đó có hai:
1- Bởi vì chướng cho nên không gặp được người-pháp chính đáng, vì thế cho nên khởi lên tà kiến;
2- Từ “Bất cầu…” trở xuống là trình bày bởi vì kiêu mạn cho nên bài báng người-pháp chính đáng mà đi vào cảnh của tà ma. Trong đó: a-
Không cầu thiện hữu; b- Nghe về
Không sinh ra
sợ hãi mà cự tuyệt không
nghe Chánh pháp; c- Không tư duy đúng đắn cho nên bài báng; d-
Từ bỏ… là trình bày về
sự tu hành trái ngược; cuối cùng là trình bày bởi vì
đắm theo tà kiến-kiêu
mạn này mà có nhận chịu khổ đau. Ba-Từ “Nhó
thời Bồ-tát kiến…”
trở xuống là kết luận về tâm Bi tăng trưởng không
đắm vào điều thiện của mình.

Trong phần hai là tùy theo Đại Bi, có ba: Trước
là khởi tâm giáo hóa, tiếp là hiển bày về
Vô trước, sau là thành tựu công hạnh giáo hóa.

Trong phần trước: Một, Tổng quát hiển bày về ý, nghóa là vì
nhiều chúng
sinh đều trải qua
nhiều kiếp, đều không có tạm thời lìa xa,
không rời bỏ như đầu
mảy lông, trình bày về tâm Đại Bi theo đuổi chúng
sinh như trâu nghé đi theo trâu mẹ… Hai, Riêng biệt hiển bày về tâm
Bi sâu sắc, nghóa là một
đời vì giáo hóa nhiều nơi đều nhiều thời gian, nhiều
đời cũng
như vậy. Trong từng niệm niệm không dứt là trình bày về tu không gián đoạn,
sau mỗi một nơi chốn đầy đủ… trình bày về phát
khởi thực hành giáo
hóa, là tu trải qua thời gian dài.

Phần ba là Đại Trí chiếu rọi lý để trình bày về nguyên cớ
của Vô trước, trong đó: Trước có mười câu thẳng thắn phân rõ về
Vô trước; sau từ “Hà dó cố…”
trở xuống là giải thích về nguyên cớ thành tựu.

Trong giải thích: Trước
nêu ra câu hỏi: Vì sao Bồ-tát không đắm trước
tất cả? Sau trong giải thích dựa theo tám dụ để
hiển bày: Một là tổng quát
giải thích, bởi vì quán tất cả pháp giới duyên khởi không
phải là có, vì có giống
như huyễn, cho nên không đắm trước; sau là theo
thứ tự loại bỏ nghi ngờ.

Hai, nghi ngờ
rằng: Lửa huyễn của thế gian không có được công dụng đốt cháy, nay Đức Phật xuất thế làm nhiều lợi ích cho chúng
sinh, lẽ nào giống như điều ấy hay
sao?
Giải thích rằng: Như chớp điện cũng có tác dụng
soi chiếu bóng tối…, lẽ nào là thật có? Nhưng chớp
điện có ba nghóa:
1-Nghóa về bỗng nhiên có;
2-Nghóa về soi chiếu bóng tối;
3-Nghóa về mau chóng tắt đi. Quả Phật có ba nghóa:
1-Ngay nơi Tịch khởi Dụng, là nghóa về bỗng nhiên có;
2-Ngay nơi Dụng luôn luôn
Tịch, là nghóa về mau chóng tắt đi;
3-Tịch và Dụng vô ngại làm nhiều
lợi ích cho chúng sinh, là
nghóa về soi chiếu bóng tối. Đây là hiển bày
về không đắm trước
đối với Phật trên đây. Ba, nghi ngờ rằng:
Nếu Phật như chớp điện, vì
sao
Bồ-tát phát khởi công hạnh hướng đến mong cầu, nhân đã không trống rỗng thì quả lẽ nào không thật?
Giải thích rằng: Công hạnh của
Bồ-tát như mộng,
lẽ nào có thể là thật?
Nhưng mộng cũng có ba nghóa:
1) Nghóa về không có Thể;
2) Nghóa về hiện rõ thật sự, vì vậy khiến cho trong mộng thấy có;
3) Nghóa về có tác dụng, bởi vì làm duyên cho tỉnh giấc. Như
trong mộng bởi vì đuổi
chạy liền giật mình tỉnh giấc, nhìn lại không có
đến- không chạy, nhìn
thân mình vốn không chuyển động.

Bồ-tát đã chưa thành Phật, chưa hoàn toàn tỉnh ngộ đối với giấc mộng lớn của tự tâm, cho nên tu tập thực hành cũng có ba nghóa:
1) Chứng lý vốn là Không;
2) Vô minh chưa hết vốn là thật;
3) Có thể thành tựu quả Phật vốn là tác dụng, nghóa là ở trong giấc mộng của
Vô minh, hăng hái chịu
khó trải qua nhiều kiếp, bỗng nhiên Đại ngộ quả Phật hiện rõ trước mắt,
 nhìn lại trong giấc mộng đều không có gì đã làm, thuận theo nhìn lại bổn tánh thì khác nào đầy đủ công đức.
Như phần sau trong Địa thứ tám dụ về giấc mộng vượt
qua sông, dựa
vào đây giải thích về
không đắm trước đối với công hạnh của Bồ-tát ở văn trên. Bốn, nghi ngờ rằng: Nếu công hạnh của
Bồ-tát hạnh như giấc
mộng không
hề có gì, thì tại sao kinh nói đây là hạnh của Bồ-tát, đây là hạnh của Nhị thừa?
Giải thích rằng: Pháp đã nghe như tiếng
vang, tiếng vang cũng có ba nghóa:
1) Nghóa về bởi vì tiếng vang-hang trống… duyên nhau mà
thành;
2) Nghóa về không có gốc;
3) Nghóa về ngôn từ giải thích. Thánh giáo cũng có ba:
1) Cơ cảm đến Phật ứng hiện;
2) Thể ấy không có gốc;
3) Hợp với căn cơ giải thích nêu rõ. Vì thế cho nên giáo này là không nói mà nói. Như vậy trên đây là giải thích về không
đắm trước đối với
công hạnh của mình.

Năm, nghi ngờ
rằng: Trước đây nói về hành của quả… có thể hạn hẹp là Không,
sự việc về thế giới rộng rãi thì điều này phải là thật?
Giải thích rằng:
Như hóa hiện, hóa hiện cũng có ba nghóa:
1) Thần lực duy
trì phát khởi;
2) Thuộc về số Phi chúng sinh;
3) Có dụng của chúng sinh.
Thế giới cũng giống như vậy:
1) Tự Thức biến hiện khởi lên;
2) Tánh và tướng không có thật;
3) Chứa đầy hữu tình. Đây là hiển bày về tâm quán xét quốc độ tịnh-uế không có gì đắm trước ở văn trên. Sáu, nghi ngờ rằng: Nếu quốc độ như hóa hiện không có thì vì sao nhân của quốc độ có thiện ác
sai biệt?
Giải thích rằng: Nghiệp báo
khởi lên như Ma-nậu-ma
Hóa thân. Cổ đức giải thích rằng: Đây gọi là
thân trở lại hóa hiện,
nghóa là trên hóa hiện lại khởi lên hóa hiện, cho nên nhân quả vốn là đều hóa hiện. Nay lại hỏi
Tam tạng sư:
Ma-nậu-ma, Trung Hoa nói là
Ý sinh, hoặc nói là Ý thành, tức là Ý sinh thân.
Thân ấy lại khởi lên hóa hiện, cho nên còn nói là
Hóa thân, thân này cũng
có ba nghóa:
1) Hai hóa hiện đều không phải là có;
2) Hai tướng hiện bày giống nhau;
3) Có dụng
của nhân quả sinh khởi qua lại. Nghiệp quả
có ba nghóa giống như vậy,
dựa theo đây biết rõ, vì thế cho nên ngay
nơi có tức là không có.

Bảy, nghi ngờ
rằng: Nếu nghiệp quả đều Không, thì chủng
loại báo ứng của chúng
sinh do đâu mà sai biệt? Giải thích rằng: Vốn là
do tâm vẽ ra, vẽ ra cảnh
tượng cũng có ba nghóa:
1) Nghóa về bình thường phai mờ, bởi vì giống như bức tường;
2) Nghóa về có cao thấp, bởi vì thợ vẽ không thay đổi;
3) Nghóa về không ngăn ngại, bởi vì thấp cao không ngăn ngại.
 Chúng sinh cũng như vậy, ở trên bức tường chân như bằng phẳng, tâm vẽ ra thành
cảnh tượng:
1) Là nghóa về Không, bơi vì phai mờ cùng là chân;
2) Nghóa về Hữu, bởi vì nghiệp quả không thay đổi, tâm tùy theo huân tập
mà biến hiện;
3) Nghóa về vô ngại, đó là Không-Hữu vô ngại. Bởi vì đều là tướng Không giống hệt nhau, hiển bày không hề có gì, cho nên thâu nhiếp giáo hóa không bỏ dở; luôn luôn không có
gì giáo hóa, cho nên không đắm trước. Tám, nghi ngờ rằng: Nếu chúng
sinh như vậy thì tại
sao
Bồ-tát đến với cơ mà thuyết pháp?
Giải thích rằng: Pháp đã thuyết giảng đúng như thật tế, nghóa là ngay nơi ngôn từ thuyết giảng này luôn luôn
giống như thật tế, không
phải là nói không có ngôn từ mới là giống như thật tế. Trên đây là bốn môn giải thích về nghóa không đắm trước trong
hạnh Lợi tha trước đây.

Trong phần thứ
ba là dựa vào hạnh thành tựu đầy đủ trình bày
về Vô trước, trong đó có ba: Một là
Tự hành, hai là
Hóa tha, ba là giải
thích về thành tựu.

Trong phần một có ba:

Hành rộng rãi: a) Niệm là thời gian nhanh chóng; b) Đầy
khắp mười phương là nơi chốn rộng rãi; c) Hạnh
to lớn; d) Như pháp giới là
hiển bày về hạnh thù thắng; e) Như hư không là
làm sáng tỏ về hạnh rộng rãi, nghóa là do
soi chiếu thấy rõ pháp tánh mà thành tựu hạnh
xứng với tánh này.

Trình bày về hiểu rộng rãi, nghóa là hiểu biết về tất cả phương
tiện quyết định chứng lý của chư Phật.

Giải thích thành tựu hai loại trước để hiển bày về
Vô trước, nghóa là do nhận biết rõ ràng về tâm của mình mà
nhanh chóng trong một niệm có thể đến khắp mười phương thế giới,
 lập tức thành tựu hiểu biết thực hành như thành tựu trước đây. Lại biết tánh tùy duyên của tâm
mình mà khởi lên, tức là cũng không khởi lên,
lý-sự vô ngại không trú vào một nơi cố định, cho nên nói là xoay chuyển mau chóng. Vì vậy cho
nên có thể xứng với pháp mà khởi lên Đại hạnh.

Trong phần hai là hạnh Đại Bi lợi tha: Trước
là thực hành, sau từ
“Nãi chí…” trở xuống là trình bày về Vô trước.

Trong phần trước có năm câu:
1) Thấy pháp thù thắng sinh tâm hoan hỷ;
2) Từ “Khởi Đại Từ…” trở xuống là mình và người không buồn lo;
3) Từ “Vị thành…” trở xuống là nêu ra ý giáo hóa của mình, nghóa là thành tựu pháp thiện-điều phục pháp ác;
4) Từ “Viễn ly…” trở xuống là trình bày về phát khởi thực hành giáo hóa;
5) Từ “Nhược văn…” trở xuống là còn có chính thức giáo hóa, đó là: Một, ngôn âm không giống nhau; hai, tạo nghiệp
đều khác nhau; ba, các phương pháp thì gọi là thi thiết; bốn, nhiếp chúng
sai biệt cho nên nói là
hòa hợp; năm, thú hướng

không giống
nhau cho nên nói là lưu chuyển; sáu, sự tu tập khác
nhau gọi là các hạnh;
bảy, phạm vi giới hạn sai biệt cũng là sở duyên;
tám, đạt được phần vị
cũng khác nhau; chín, hướng về quả không như
nhau; mười, từ “Ngã
đương…” trở xuống là khởi nguyện chính thức giáo hóa.

Phần ba là giải thích cả hai phần trước, có thể biết.

Hạnh thứ tám là Tôn trọng, đưa
ra năm môn:

Một, Giải thích tên gọi, nguyện hạnh của Bồ-tát sâu rộng cao
xa thù thắng đáng quý mà lập thành tên gọi. Hai,
Thể tánh, dùng Đại Nguyện làm
Thể của hạnh, nhưng vốn
là Hậu đắc trí. Trong
luận Du-già quyển thứ 49 nói: “Mong cầu tánh
thù thắng của trí ở sau
mỗi một Địa, gọi là Nguyện Ba-la-mật-đa, lại
dùng ba pháp là
Tín-Dục-Thắng giải làm tánh.” Lại luận Khởi Tín nói v.v… Ba,
Chủng loại, trong luận
Duy Thức nói: “Nguyện có hai loại:
1) Nguyện cầu Bồ-đề,
2) Nguyện làm lợi ích vui sướng cho người.” Hoặc là bốn Hoằng-năm Nguyện, như luận
Du-già nói; hoặc là mười Nguyện
như văn sau nói. Bốn,
Công năng, do Đại nguyện này có khắp tất cả các hành,
nhờ vào sự giúp đỡ
khiến cho cao xa thù thắng, từ công năng này mà gọi
là hạnh Tôn trọng.

Năm- Giải thích văn, phân rõ trong tướng có hai: Trước là
trình bày về hạnh thuộc
Tự phần, sau từ “Bỉ Bồ-tát…” trở xuống là trình
bày về hạnh thuộc Thắng tiến.

Trong phần trước có ba: Một,
trình bày về chỗ dựa của hạnh
phát khởi, đó là các
thiện căn, thiện là nghóa về thuận theo lý, căn là nghóa về tăng
thượng-nghóa về
sinh trưởng. Trong đó có chín câu, một câu
đầu là tổng quát, tám
câu còn lại là riêng biệt.

Trong riêng biệt:
1) Tâm khởi hạnh kiên cố;
2) Tình thức biểu hiện vượt lên cao;
3) Hạnh sâu xa khó lường;
4) Sinh ra công đức rộng nhiều;
5) Chứng được vắng lặng khó lay động;
6) Hạnh tuyệt diệu không
có so sánh;
7) Không còn tâm giữ lấy-rời bỏ;
8) Hạnh rộng rãi giống như Phật. Đầy đủ các nghóa này, cho nên gọi là Tôn trọng.
Hai, chính thức
hiển bày về tướng của hạnh, trong đó có bốn:
1) Nội tâm kiên cố, đó là phát khởi hai niệm Nguyện-Hạnh;
2) Ngoại duyên thù thắng, đó là hai
duyên thuận-nghịch, ma là nghịch duyên cũng có thể thành tựu hạnh;
3) Hạnh thành tựu tôn trọng, đó là hai hạnh thanh tịnh và chịu khó;
4) Nguyện thành tựu không lui sụt. Ba, từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về hạnh thành tựu lợi ích, trong đó đã an trú vào hạnh tôn trọng là kết luận về hạnh thuộc
Tự phần đã thành tựu; từ “Ư niệm niệm…” trở xuống là chính thức
trình bày về hai Lợi.
Trước là trong Tự lợi, đối với tai họa làm thay
đổi rời xa, đối với công đức làm chuyển biến tăng thêm, lý thật gồm chung tăng thêm tất cả các
hạnh nguyện. Dựa theo nguyện hiển bày thì
bởi vì đây vốn là
nguyện vượt qua phần vị. Sau là trình bày về Lợi
tha, bởi vì Bồ-tát này bên trong có đủ thật đức,
khiến cho bên ngoài thấy
nghe đều không hư vọng.
Trong phần
sau là hạnh thuộc
Thắng tiến, có ba: Một, tu thành tựu về Tâm hạnh
tôn trọng; hai, dựa vào Tâm tu thành tựu về Tuệ hạnh tôn
trọng; ba, dựa vào Tuệ tu thành tựu về Bi hạnh tôn trọng.
Trong phần một cũng có ba:
1) Trình bày về tu Tâm hạnh vô ngại; Từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là trình bày về
tu Tâm hạnh vô tận;

Từ “Nhi Bồ-tát…” trở xuống là cùng kết luận về hai hạnh.

Trong phần một có hai: a)
Dựa vào lý phát khởi giáo hóa là
trình bày về hạnh vô
ngại; b) Từ “Ư chúng sinh số…” trở xuống là trình
bày về lý sự dung hòa
tự nhiên của hạnh vô ngại.

Trong mục a là pháp-dụ-hợp.

Hỏi: Đã không hướng về sinh tử, không hướng đến
Niết-bàn thì nên nói là lưu chuyển giữa hai nơi này không dừng lại, tại
sao chỉ nói
là lưu chuyển giữa sinh
tử không dừng lại? Đáp:
Pháp sư Viễn giải
thích rằng:
Trước không hướng về
hai nơi là lìa xa có,
không dừng lại giữa dòng là lìa xa không có, nghóa
là sinh tử không có nơi chốn gọi là ngừng lưu chuyển giữa dòng;
không dừng lại nơi không
có này, cho nên nói là lưu chuyển giữa dòng
không dừng lại. Nay lại
giải thích như nước chảy về phía Đông, không dừng lại bờ Nam,
 không dừng lại bờ Bắc, cũng có thể nói là không ngừng lưu chuyển giữa bờ Bắc, bởi vì ở giữa không có
Thể riêng biệt, dựa theo
bờ mà phân định. Nếu
như vậy thì bờ Nam cũng được, vì sao không nói
là lưu chuyển giữa
Niết-bàn? Giải thích: Bởi vì chúng sinh đã hóa độ vốn ở bờ bên này, cho nên chỉ dựa vào
sinh tử mà luận, dựa vào
bên kia cũng được.

Hỏi: Vì sao
lìa xa bờ không có ở giữa riêng biệt? Đáp: Như đối với tất cả
chúng sinh, bởi vì
Như Lai Tạng như
nước là bờ bên kia,
bởi vì vọng tâm như sóng là bờ bên này. Bởi vì nước
tức là sóng, không phải
là động cho nên bờ bên kia chứ không phải là
bờ bên này. Bởi vì
sóng tức là nước, không phải là tịnh cho nên bờ bên
này chứ không phải là
bờ bên kia. Bởi vì nghóa này cho nên hai bờ đều
tồn tại. Lại bởi vì
nước không phải là động, tức là sóng cho nên bờ bên kia
mà không
phải là bờ bên kia; sóng không phải là tịnh, tức là nước cho nên bờ bên này mà không phải là bờ bên này. Không phải là
bờ bên này, không phải là bờ bên kia, đó gọi là lưu chuyển giữa dòng, cho
nên Bồ-tát ở giữa
chưa hề không phải là bờ, phàm phu Tiểu thừa ở bên bờ chưa hề không phải là giữa dòng. Dựa vào nghóa này, cho nên
Bồ-tát là chủ động giáo hóa cuối cùng là không chủ động, chúng
sinh là thị động giáo hóa cuối cùng cũng không có gì giáo hóa, bởi vì giữa dòng-bên
bờ ngay trong nhau, chủ
động-thụ động viên dung vô ngại, suy nghó điều này.
Trong mục b là
lý-sự dung hòa tự nhiên, đưa ra hai cách
giải thích:

Một là dựa theo Tướng, hai là dựa vào Thật.
Trong một là dựa
theo Tướng: Câu đầu là tổng quát gồm chung đối với tất cả; từ “Tâm vô
sở trước…” trở xuống là trong riêng
biệt hiển bày: Trước là thẳng thắn phân rõ có năm
cặp-mười câu:
1) Trên đây nói không đắm trước, không phải là không đắm trước đối với một chúng sanh mà còn lại đều có đắm trước, cũng không phải là lìa xa nhiều
mà đắm trước một, bởi
vì tất cả đều không đắm trước.
2) Lợi ích bởi vì tu thiện không tăng thêm, giáo hóa khiến cho đoạn ác không giảm bớt, đây là hướng về phần vị nhân chưa thành tựu quả mà nói.
3) Thiện đầy đủ quả khởi lên mà không sinh, hoặc chướng vónh viễn không còn mà không diệt; lại công
đức của quả đầy đủ mà không sinh, trú trong
Đại Niết-bàn mà
không diệt, đây là hướng về bắt đầu thành tựu quả mà nói.

Dù cho đều thành tựu quả, chúng sinh giới không tận cùng mà quả
vị không tăng thêm, đây là hướng về sau khi đã
thành tựu quả mà nói.

Tuy như trên nói không có tăng thêm-giảm bớt…, nhưng
sự giáo hóa
này thành tựu lợi ích không trống rỗng, sự giáo
hóa tuy là không trống rỗng mà không trái với cách nói trước đây, cho nên cũng không hai.
Đây cũng là kết thúc phần trước.

Trong phần
sau là
giải thích, có hai: Trong phần đầu là nêu ra
câu hỏi, hiện tại giáo
hóa chúng sinh có tăng thêm-có giảm bớt, vì sao lại nói không hai? Giải thích bởi vì chúng
sinh giới giống như pháp giới, cho nên không có tăng
thêm-giảm bớt,
sinh-diệt đều không có đắm trước dựa vào, giải thích về không đắm trước một-nhiều… trước
đây. Sau trong giải thích,
trước nêu ra câu hỏi: Giả sử giống như pháp giới thì lẽ nào có thể không hai? Giải thích bởi vì pháp giới không hai do
đó khiến cho chúng sinh
giới cũng không có hai loại như tăng
thêm-giảm bớt…
Hai là dựa theo Thật để
giải thích: Câu đầu là hiển bày về tự tâm
của
Bồ-tát không nhiễm, bởi vì trí có đắm trước thì không có thể
soi chiếu đến pháp vô
ngại này; sau là hiển bày về tướng vô ngại. Đầu
là trong năm cặp phân ba:
Hai cặp đầu là một, hiểu về sự khiến cho dung hòa, một-nhiều không ngăn ngại, cặp trước là nêu ra-cặp
sau
là giải thích, đắm trước giống như đưa vào. Nghóa là đối với một chúng
sinh đưa vào nhiều chúng
sinh, đối với một không tăng thêm, đối với
nhiều không giảm bớt;
đối với nhiều đưa vào một, ngược lại với trên có
thể biết. Chúng sinh giới
ấy là Như Lai Tạng, bởi vì tánh gồm
chung-tướng dung hòa cho nên có thể
sự tùy theo lý mà không ngăn ngại.
Hai cặp tiếp là một, trình bày về
sự đã giống với lý khởi lên đều
không ngăn ngại, cũng một cặp là nêu ra-một cặp là
giải thích, có thể biết.
Một cặp sau cuối là cùng kết
luận về hai phần trước, trình bày về lý-sự vô
ngại, nghóa là cùng chung
chân lý mà không mất đi sự, cho nên nói là không
hư giả; hiện rõ tướng của sự mà tức là chân
thật, cho nên không hai.
Trong phần
sau là
giải thích, có hai: Trước là giải thích về
sự giống với lý,
sau là giải thích về dùng lý để thâu
nhiếp sự.
Kinh Bất Tăng
Bất Giảm nói: “Chúng sinh giới-Pháp giới không hai-không khác, tức là Pháp thân này bởi vì phiền não nhiễm ô, cho nên lưu
chuyển trong năm đường gọi là chúng
sinh.”
Lại nói: “Pháp thân là chúng
sinh, chúng sinh là Pháp
thân. Pháp thân và chúng sinh một nghóa mà khác tên gọi.”
Lại nói: Nếu có người nói chúng
sinh giới-pháp giới có
hai-có khác, thì Ta nói
người ấy gọi là Nhất xiển đề.”

Phần thứ hai
từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là dựa vào
Tâm vô tận tu đức vô tận,
trong đó có hai: Trước là thẳng thắn hiển bày, sau
là giải thích về thành tựu.

Trong phần trước: Đầu là dựa vào lý khởi hạnh,
sau là đức
thù thắng tự trang
nghiêm. Đầu là hiển bày về phước thù thắng, từ
“Thiện năng phân biệt…” trở xuống là trình bày về
Tuệ sâu xa, bởi vì
soi chiếu đến nguồn cội của pháp gọi là Đáo bỉ ngạn; từ “Nhị tất phân biệt…”
trở xuống là trình bày
về ứng hiện khắp nơi giáo hóa bên ngoài, trước là thân nghiệp hiện rõ khắp nơi, tiếp là ý nghiệp
không nhiễm,
sau là
ngữ nghiệp thuyết giảng rộng rãi.

Trong phần sau
là giải thích về thành tựu, có pháp-dụ-hợp. Trong pháp, nghóa là tuy đối với tất cả pháp lìa xa bến bờ của các dục, mà không gián đoạn Đạo của
Tự phần, không rời bỏ Hạnh của
Hóa tha, cho nên dựa vào vắng
lặng mà dấy khởi hạnh, hạnh đức vô tận, khiến
cho tướng của đức Tự
lợi-Lợi tha trước đây thêm thù thắng. Nói đến
công đức vô tận là
đức rộng lớn, tiến vào pháp giới thanh tịnh là chứng
sâu
xa. Trong hợp,
hai Lợi có thể biết.
Phần ba là cùng kết luận, nghóa là bởi vì dung hòa hai tâm trước đây làm một hạnh, cho nên hai tướng
so
sánh và làm mất nhau đều
phai mờ. Trong đó có năm
cặp-mười câu: Cặp đầu dựa theo Hạnh tu, nghóa là cứu cánh thì tâm hạnh vô ngại, bởi vì tiến vào lý ngừng mong cầu
cho nên không phải là
cứu cánh thì tâm hạnh vô tận, bởi vì phát sinh công đức vô cùng tận, bởi vì phát
sinh công đức thì tiến vào lý, tiến vào
lý luôn luôn phát sinh
công đức, cho nên cả hai đều không phải; sau đều dựa theo điều này. Cặp hai dựa theo Đoạn hoặc, nghóa là chiếu rọi
tánh của Hoặc trống rỗng
thì không thể đoạn trừ-lìa xa, khác với soi
chiếu gốc ngọn cho nên
không phải là không lìa xa. Cặp ba dựa theo
Chứng lý, nghóa là bởi
vì lý không có tướng, không phải là nơi có thể dựa vào, thì do chiếu rọi lý về không dựa vào này, khiến cho trí tròn vẹn
sáng ngời không phải là không dựa vào. Cặp bốn dựa theo đã thành
tựu, nghóa là lúc chứng
lý dựa theo nhiễm trống rỗng không có gì đáng
rời bỏ, cho nên không
phải là thế gian; tịnh không phải là mới có, cho
nên không phải là Phật pháp. Vả lại, không có
nhiễm nào đáng chán
ngán, không có tịnh nào đáng vui mừng. Cặp năm dựa theo phần vị không phải là phàm
phu-Tiểu thừa, nghóa là đạt được quả đều là bốn quả
thuộc Nhị thừa…

Từ đây trở xuống là phần hai dựa vào Tâm tu thành tựu về
Tuệ hạnh tôn trọng. Trong đó câu đầu nhắc lại phần trước
sinh khởi
phần sau, nghóa là thành
tựu tâm sâu nặng thì nhắc lại tâm trước đây.
Tu tập hạnh Bồ-tát là chính thức trình bày dựa vào hạnh trí tuệ tu tập trước đây, trong đó có hai: Một là trình bày về trí
soi chiếu hạnh tiến vào lý, hai
từ “Thí như hư không…”
trở xuống là trí dung hòa cả lý và hạnh.

Trong phần một:
1) Trình bày về Hóa hạnh Vô giáo,
2) Tự hành Vô niệm. Trong phần 1: a) Năm cặp
mười câu, chính thức hiển bày có thể biết; b)
Từ “Hà cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu.
Trong đó, không có thọ-không có chuyển, là không có Chánh pháp có thể
tiếp nhận, không có tà
hoặc có thể chuyển diệt. Lại không tiếp nhận duyên khác cho nên không có thọ, Chánh hạnh vững vàng tồn tại cho
nên không có chuyển. Lại
đối với các pháp Nhị thừa như năm cặp trên
đây mà có thể không
tiếp nhận, đối với Chánh lý không chỉ dạy mà có thể không
chuyển đổi, xứng với lý mà khởi hạnh không có lui
sụt ngừng
lại cho nên nói là không lui sụt.
Trong phần hai là Tự hành vô niệm, có hai: Trước là chính thức

hiển bày, sau
là giải thích về thành tựu.

Trong phần trước, lúc thực hành thì vắng lặng là nhắc
lại phần trước. Không nhớ… là chính thức hiển bày về
Vô niệm, hạnh này giống như hạnh không có công dụng của Địa thứ tám cho nên
Vô niệm. Không lay động ý niệm vì
mười pháp, đó là ba Thời-ba Khoa-ba Vị, bên
trong là Chánh báo, bên
ngoài là Y báo, bên trong-bên ngoài đầy đủ cả hai, lại ba pháp là
Căn-Cảnh-Thức cũng được, một pháp
sau cuối là dựa
vào phần vị để kết
luận, bởi vì trong phần vị này tuy là tu tập Đại
nguyện mà cũng Vô niệm.

Trong phần sau là giải thích: Trước
là giải thích vì sao Vô
niệm, bởi vì thông hiểu
rõ ràng trong các pháp bình đẳng không có trí
hạnh, mà có thể hướng
về duyên vốn có để thành tựu, cho nên Vô niệm.
Sau là giải thích vì
sao không hướng về, bởi vì chủ động hướng về-thụ động hướng về không hai, mà không hai cũng lìa xa, cho nên nói là không
có không hai.
Vả lại, đây cũng là giải thích phần trước
sinh khởi phần
sau, lý hạnh không hai là giải thích
phần trước; tuy hợp lại mà không
hai nhưng chủ động-thụ
động rõ ràng, cho nên nói là không có không
hai, đây là văn sinh khởi phần sau.
Trong phần hai là trí dung hòa cả lý và hạnh, có hai:
1) Chính thức trình bày về lý hạnh vô ngại;
2) Từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về công thành tựu thì đức thiết lập.
Trong phần một có hai: a)
Pháp dụ nêu ra phát khởi, nghóa là
Vô sai biệt hiển bày về
hạnh giống như lý phai mờ tướng của hạnh,
không phải là không
thành tựu… trình bày về lý giống như hạnh giữ lại
công của hạnh. Hai loại này là một hạnh, dựa theo trong dụ chỉ là không phải không có hư không
Vô sai biệt này, không phải nghóa là có vật
khác. Vậy thì trong pháp
không phải là không thành tựu Chánh giác Vô
sai biệt này, không phải
nghóa là không sai khác dựa theo lý, thành
tựu… dựa theo hạnh.
Đây là trình bày về lấy không có thành tựu làm
thành tựu, suy nghó điều này!
Trong phần b là
giải thích: Trước là giải thích về hạnh của
Vô hạnh, sau là giải
thích về hạnh tức là Vô hạnh. Lại đầu là trình bày
về lý không trái với
hạnh, hạnh tiếp nhận lý mà thành tựu công đức;
sau là trình bày về hạnh
không trái với lý, lý phai mờ hạnh mà trở về vắng lặng.

Phần trước là giải thích về nghóa đầu, nghóa là hạnh tiếp nhận
lý tuy là vạn hạnh mà
luôn luôn vắng lặng, đây là hạnh của Địa thứ
tám. Trong đó: Đầu là một câu chính thức hiển bày về Chân lý không trái
vá»›i
Chánh hạnh; sau là làm
sáng tỏ về tướng của hạnh ngay nơi lý:
Một là hạnh Tự lợi;
hai từ “Điều phục…” trở xuống là hạnh Lợi tha.
Không hủy hoại nhân quả
là kết luận về hai hạnh, nghóa là bởi vì không
ngăn ngại tồn tại, bởi
vì không cần phải hủy hoại. Phần sau là giải thích
về hạnh không trái với lý, có thể biết.
Trong phần hai là trình bày về công thành tựu thì đức
thiết lập, có hai:
Một là đối với Phật có thể
sánh bằng, nghóa là ba đời
Như Lai đều cùng thành tựu
hạnh Vô ngại này, nay cũng đạt được hạnh ấy cho nên
giống nhau. Đây là tổng quát. Sau là riêng biệt phân rõ:
a-Hiển bày về Bổn giác
bên trong, cho nên nói là không đoạn mất Phật
tánh; b-Hạnh tuy ngay nơi lý mà thành tựu tu luôn luôn dấy khởi, cho nên
nói là không hủy hoại
Chánh pháp, vì vậy sánh bằng Phật.
Hai là đối với Pháp có thể làm cho
phát triển, câu đầu là
tổng quát, từ “Biện
tài…” trở xuống là riêng biệt hiển bày có ba: a-Biện
tài Vô nhiễm làm cho
pháp phát triển; b-Từ “An trú…” trở xuống là trình bày về trí Vô úy làm cho pháp
phát triển; c-Từ “Bất xả…” trở xuống
là trình bày về hạnh Vô
trước làm cho pháp phát triển.

Thứ ba là dựa vào Tuệ tu tập thành tựu về Bi hạnh tôn
trọng. Trong đó: Đầu là trình bày nhắc lại phần trước
sinh khởi
phần sau,

Bồ-tát thành
tựu trí tuệ tôn trọng như vậy là nhắc lại trí
tuệ sâu xa
đã thành tựu trước
đây, tu tập Bồ-tát hạnh là dựa vào trí tuệ ấy để tu tập hạnh Đại
Bi này. Sau là trong phần chính thức hiển bày có hai:
1) Tổng quát nêu ra ý của Bi hạnh, nghóa là trước cảm hóa khiến cho thoát khỏi nghiệp chướng là giáo hóa thành tựu,
sau cảm hóa khiến cho trú
vào đạo. Lại trước là
khiến cho thoát khỏi nạn nẽo ác đạt được lợi ích
của trời người, sau là
khiến cho thoát khỏi sinh tử đạt được lợi ích của
giải thoát.
2) Từ “Như thị giáo…” trở xuống là dùng sự để xét tâm hiển
bày về thành tựu Bi
hạnh, trong đó có hai: Một, trình bày về tâm không
có mong cầu gì khác; hai,
từ “Đản dục điều phục…” trở xuống là chỉ vì
lợi ích cho chúng sinh.

Trong phần một, trước là thẳng thắn phân rõ,
sau là giải
thích. Trong phần trước,
đầu là người ác, sau là người thiện, nghóa là giả
sử người ác kia đều có thiện hữu trí tuệ
sáng
suốt đầy khắp thế gian, mình cuối cùng không vì danh lợi… mà tranh nhau cảm hóa để tu tập.
Lại giải thích: Bồ-tát cuối
cùng không đối với người ác tà kiến mà rời
bỏ cảm hóa, bởi vì họ không biết đến ân nghóa cho nên không có được
danh lợi; đối với người
thiện trí tuệ sáng suốt mà thâu nhiếp cảm hóa, bởi vì
họ chú ý
đến ân nghóa cho nên có được danh lợi, vì vậy nói rằng
mình không vì ở nơi
người thiện có được danh lợi mà tu hạnh Bồ-tát.
Sau là giải thích về không
có mong cầu gì khác, một sợi tơ là nhỏ nhất trong Lợi, một lời yêu thương là ít nhất
trong Danh, ít hãy còn không
làm, huống hồ là nhiều.
Trong phần hai là chỉ vì lợi ích cho
chúng sinh, cũng trước là
thẳng thắn phân rõ, vì
điều phục người khác là trao cho ba Học, thanh tịnh là khiến cho đoạn trừ phiền não, hóa độ là khiến cho đạt được quả.
Sau là trong giải thích, trước
nêu ra vì sao không mong cầu yên ổn cho
mình, mà chỉ vì lợi ích
cho chúng sinh? Giải thích rằng: Pháp của tất cả
chư Phật như vậy, là nêu
ra Phật giống như mình. Sau là làm sáng tỏ mình giống với Phật, trong đó một là tâm hóa độ
giống nhau, hai từ
“Dục linh…” trở xuống
là lợi ích hóa độ giống nhau.

Trong Hạnh thứ chín là Thiện pháp, đưa
ra bảy môn: Một, Dùng trí lực khéo léo có được thuyết pháp cho căn
cơ mà gọi tên.

Hai, Ý đưa ra, Đại nguyện dần dần thanh tịnh tăng lên thành
tựu Lực độ, lại v.v… Ba,
Thể tánh, lại dựa vào
Nhiếp Luận dùng
Hậu đắc trí, Đại
Bi vô biên trí, có năng lực làm Thể.

Bốn, Nghiệp dụng, dựa vào Nhiếp Luận có hai loại:
1) Lực của tư duy chọn lựa, có
năng lực làm cho chướng ngại đã đối trị phải
khuất phục như tất cả
Chánh hạnh, khiến cho không khởi lên.
2) Lực của tu tập, có năng lực làm cho tất cả thiện hạnh kiên cố quyết định.
Năm, Chủng loại, hoặc là hai Lực như trước, lại có mười loại
nói như từ đầu đến cuối. Sáu,
Sai biệt, phần vị này vốn giống như Vô ngại biện lực
của Địa thứ chín. Bởi
vì dựa theo Viên giáo, phần vị này sau khi đầy đủ
thì liền thành Phật không
cần gì khác, trong văn hiển bày về điều này có thể thấy. Bảy, Trong giải thích văn có bốn:
1) Nêu ra;
2) Phân rõ;
3) Kết luận;
4) Ca ngợi. Trong phần hai phân rõ về tướng, có hai: Trước là hạnh thuộc
Tự phần, sau là hạnh thuộc Thắng tiến.

Trong phần trước: Đầu là
tổng quát hiển bày về tướng ấy có ba câu: a) Dùng pháp làm lợi ích cho căn cơ, nghóa là có thể dùng pháp thanh tịnh để loại trừ phiền não bức bách
chúng sinh, gọi là hồ giáo pháp
trong lành; b)
Hoằng dương
Chánh pháp, nghóa là dùng chí nguyện

rá»™ng lá»›n duy
trì thuyết giảng về Chánh pháp, gọi là giữ gìn bảo vệ; c) Lợi ích của
hoằng pháp, nghóa là dùng mười thân trải qua nhiều
kiếp thuyết giảng hóa độ
không ngừng, gọi là Phật chủng không đoạn
mất. Vì vậy trong Trí Luận
nói: “Làm cho Bát-nhã lưu hành ở thế gian,
thì Phật chủng này không
đoạn mất.” Là nói đến điều này.
Những điều này cũng là
sơ lược hiển bày về tên gọi của
hạnh Thiện pháp. Trong
phần sau là riêng biệt phân rõ, có bốn: a) Trì
thành tựu; b) Thuyết
thành tựu; c) Vấn đáp thành tựu; d) Ngữ ích thành tựu.
Trong phần a nhờ vào giữ gìn pháp không quên mới có thể thuyết giảng rộng ra, cho nên trước là trình bày về điều này. Trong mười loại đều đầu là trình bày về
Thể của Trì,
sau là hiển bày về
Dụng của Nghiệp. Bởi vì giữ gìn pháp rõ ràng cho nên nói là
thanh tịnh, dựa vào đây thuyết pháp cho nên không có
chướng ngại, đây là câu tổng quát. Chín câu còn lại là
riêng biệt: Một là bốn Trì khởi lên bốn Biện. Năm là do hạnh tiến vào cảnh Phật, chư
Phật thuyết cho nghe về
Nhất thiết trí, dùng pháp Cam lộ rưới vào đỉnh tâm ấy, giữ gìn pháp này
không quên, thuyết giảng hợp với căn cơ
chúng sinh, do đó làm cho hoan hỷ.
 Sáu là do bên trong tự chứng pháp cho nên phát khởi biện luận vô tận giống như Chứng.
 Bảy là do biện luận giống như lý tiến vào cho nên văn nghóa thuyết ra rộng nhiều vô tận.
 Tám là do phương ngữ chính xác khéo léo, cho nên có thể phân ra bàn luận khác nhau. Cùng với trước
sai khác thế nào? Trước dựa vào lời nói tròn vẹn-ý nghóa đầy đủ cho nên gọi là
Chánh ngữ, lại là lời nói ngay nơi nghóa ấy, cho nên khác với ở đây.
 Chín là có năng lực hiện thân giống như Phật, ca ngợi không thể cùng tận. Sau là hiển bày về
Dụng của Nghiệp, có thể biết.
Trong phần b từ
“Tùy sở ứng hóa…” trở xuống là trình bày
về Thuyết thành tựu, có
hai: Một là chính thức hiển bày về tướng
Thuyết; hai từ
“Tùy sở ứng ư nhất nhất…” trở xuống là trình bày về mở đầu
giáo hóa vô ngại.

Trong phần một: Đầu là trình bày về cơ đã ứng, có ba câu:
1) Tùy theo nhiều căn cơ mà giáo hóa thuần thục;
2) Tất cả đều dùng căn cơ ấy mà hiểu rõ ngôn ngữ âm thanh;
3) Đều tùy theo căn cơ ấy thích hợp mà nghe sai biệt, sau mới chính thức tuyên thuyết cho nghe, thuyết giảng hợp với tâm giáo
hóa gọi là không trái với Bi.
Trong phần hai là mở đầu giáo hóa vô ngại:
1) Nhiều âm thanh mở đầu giáo hóa không có chướng ngại;
2) Từ “Thiết hữu…” trở xuống là dùng một âm thanh mở đầu giáo hóa tự tại
vô ngại. Lại trước là một

trong nhiều,
sau là nhiều trong một, hai loại này vô ngại là một
âm thanh tròn vẹn.

Trong phần c
từ “Nhó thời…” trở xuống là trình bày về
Vấn đáp thành tựu, có bốn
nghóa vi tế hơn Thuyết thành tựu trước đây:
1) Trước chỉ nói đến thế giới mà chưa hiển bày về tự tại ở nơi vi tế, ban đầu tạm thời nêu ra, trong này đầu một mảy lông trong một niệm có vô lượng chúng;
2) Một niệm tương tự niệm khác cho đến tất cả kiếp quá khứ-vị lai;
3) Nói khác nhau-hỏi khác nhau;
4) Lời nói của Bồ-tát không sợ hãi gì, giả sử tất cả chúng sinh hỏi thì hãy còn giải đáp một lời,
huống là một ít chúng
sinh này mà lại dùng nhiều lời? Đây là trình bày về
Trí lực biện tài có thừa tự tại, tự tại này thuộc về Địa tiền. Đạt được
Trí lực tự tại này là
phần vị Phổ Hiền trong Viên giáo, nếu như Tông khác
thì chưa hẳn có thể như
vậy, nói như luận Du-già…
Trong phần d là Ngữ ích thành tựu, hiển bày những lời đã nói
trên đây có đủ năm
câu về ý nghóa lợi ích:
1) Câu đầu là tổng quát;
2) Lời nói có đủ Tuệ sâu xa;
3) Có thể thành tựu kho tàng của phước, nghóa là thọ trì sinh ra phước;
4) Soi chiếu lý đầy đủ tất cả;
5-Có thể thành tựu về trí thuộc quả. Trong phần sau là hạnh thuộc
Thắng tiến, có hai: Trước là tổng
quát nêu ra, sau từ “Như thử…” trở xuống là
riêng biệt giải thích.

Trong phần trước: Đầu là nhắc lại
phần trước, nghóa là hạnh thuộc Tự phần thành tựu cho nên nói là an trú, giống như phần An trú
địa trong Sơ địa sau này;
tiếp là nêu ra hai Chương về hai Lợi.
Trong phần
sau là
giải thích, có hai: Trước là tóm lược,
sau từ
“Phật tử…” trở xuống là mở rộng.

Trong phần trước: Trước
là giải thích về tự mình thanh tịnh, trong Tự phần trước đây chỉ nói hiện rõ ba nghiệp của Phật ở ba ngàn
thế giới, nay hiển bày
vượt qua số ấy cho nên nói là như ba ngàn thế
giới cho đến Bất khả
xưng số thế giới. Thân-khẩu có thể biết. Vô ngại
đối với tất cả các
pháp là trình bày về ý nghiệp thanh tịnh, làm Phật
sá»±
là trình bày về những
việc đã làm của ba nghiệp này. Sau là giải thích
về lợi ích, Tha nghóa là ba nghiệp tự mình thanh tịnh
trước đây có thể
làm sự việc hóa độ người khác.
Trong phần
sau là mở rộng
giải thích, có hai: Trước là mở rộng về tự mình thanh tịnh trước đây,
sau từ
“Ma-ha-tát…” trở xuống là mở rộng
về Lợi tha trước đây.

Trong phần trước: Một là nêu
ra số; hai là riêng biệt giải thích
về mười thân đưa ra năm môn:

Phân rõ về Thể tánh, dùng ba pháp là Pháp giới thanh tịnh và Căn bản trí cùng với Hậu đắc trí làm Thể, như văn có thể thấy. Lại tổng
quát chỉ riêng Cảnh-Trí làm Tánh, lại Cảnh-Trí
cùng dung hòa chỉ một pháp giới làm Tánh.

Giải thích về Tướng, mỗi một thân đều trước là
nêu ra-sau là
giải thích.
Trong một, lý không có gì không Chứng cho nên tiến vào vô biên pháp giới,
 thời gian(Thế) không lúc nào không vượt lên trên cho nên diệt tất cả thời gian, thời gian diệt-lý hiện bày là thân
Pháp giới thân. Hai, lý không có thể vướng mắc cho
nên hướng về đời vị lai, không nơi nào không
sinh cho nên sinh ở tất cả các nẽo, trước thì vượt lên trên thời gian khiến cho tận cùng, ở đây thì tất cả thời gian cùng
sinh. Ba, tuy cùng sinh ở tất cả các nẽo nhưng trú
trong vắng lặng bất
động cho nên nói là không sinh. Bốn, tuy ngay nơi
sinh mà không sinh, nhưng trong nẽo ấy thân luôn luôn
không diệt, đây là không khác không
sinh mà không diệt, lời nói không đạt tới cho
nên nói là đoạn tuyệt lộ trình của ngôn ngữ (ngôn ngữ
đạo đoạn). Năm, thân lìa xa ngôn ngữ
ấy không có hình dáng thật, bởi vì vốn là chân
như; lại giải thích là lấy
chân như làm thân, nhưng chân lìa xa tướng cho nên
nói là không thật,
bởi vì là lý tánh chân thật cho nên lìa xa thật.
Sáu, lìa xa ngu si là
Thể ra khỏi vọng nhiễm, tùy theo thích ứng là Dụng
thanh tịnh vô ngại, như Dụng tự tại của mặt trời mọc chiếu
rọi mây. Bảy, tuy khởi lên tác dụng thích ứng mà thường lìa xa cái chết không có đến-đi, như vậy giải thích
về thành tựu, dựa theo đây nhất định ra khỏi
Phần đoạn sinh tử. Tám, không phải chỉ là Dụng không có đến-đi, mà cũng là Thể không có
biến hoại, cũng là duyên không có thể ngăn cản.
Chín, không phải là
dứt khoát không bị bốn tướng làm cho thay đổi,
mà cũng là khéo đoạn
tuyệt ba đời, cho nên không thể dùng ngôn từ như
quá khứ-vị lai… mà
đạt được. Mười, Vô tướng không ngăn ngại
Tướng, bởi vì tất cả
Danh Thân đều có nghóa về nương tựa.

Thâu nhiếp lẫn nhau có hai môn:
Một- Dựa theo ba thân, nghóa
là trong này Nhất tướng pháp giới-không
thật-không hoại, bốn loại này
là Pháp thân; Vô tướng không sinh-không
diệt-không có đến-không có đi, bốn loại này là
Thật Báo thân; vị
lai-lìa vọng, hai loại này là
Hóa thân. Hai- Dựa theo mười thân có ba: a) Dựa theo
phẩm Ly Thế
Gian sau này nói về mười thân v.v… b) Dựa theo mười thân trong kinh Thắng
Thiên Vương v.v… c) Dựa theo mười thân trong kinh Pháp Tập v.v…

Nơi đạt được có bốn phần vị: Một, Hoặc là chỉ Địa thượng đạt
được, như mười thân trong kinh Thắng Thiên Vương
và kinh Pháp Tập,

đây là dựa
theo Tam thừa phân rõ. Hai-Hoặc là chỉ Địa tiền đạt
được, như ở đây đã
nói. Ba-Hoặc là cả hai nơi đạt được, như mười thân
trong phẩm Ly Thế Gian sau
này. Bốn-Hoặc không phải là Địa
tiền-không phải là Địa thượng đạt được, như ba thân mười Phật đều đạt được
ở phần vị của quả.

Xác định phạm vi giới hạn, nếu trong Tam thừa thì
Bồ-tát Địa tiền chắc chắn là thân
Phần đoạn, Địa thượng còn có thân
Biến dịch thân, ngoài ra Hồi tâm
Nhị thừa-Địa tiền cũng có, vì vậy mười thân này không phải là nơi ấy
thâu nhiếp. Nếu trong Nhất thừa thì có hai cách nói, nếu nói phương tiện thâu nhiếp thì Địa tiền-Địa thượng đều có thân
Biến dịch, bởi vì mỗi một phần vị cuối cùng đến
Phật địa; nếu dựa vào Tự giáo mà nói thì đều là thân
Phần đoạn, bởi vì Nhục nhãn có thể thấy khắp nơi lưới báu
sáng ngời của
Chuyển Luân Thánh Vương đều là Bồ- tát
Thập Địa, như văn
sau nói. Lại như Đồng tử
Thiện Tài dùng thân
Phần đoạn mà đến phần vị Phổ Hiền, nhưng đều
là dựa vào pháp môn
Phần đoạn cho nên không phải là sai lầm.

Phần sau là mở rộng về Lợi tha trước đây: Đầu
là nhắc lại
phần trước sinh khởi
phần sau, đó là dựa vào mười thân này để cảm hóa dẫn dắt
chúng sinh. Sau là câu riêng biệt có mười: Một là phát
sinh điều thiện, hai là lìa xa đau khổ, ba là trú trong an vui; ba câu trên đây
là lợi ích thuộc thế
gian. Bốn là chỉ rõ cho họ con đường thoát ra, năm là khiến cho họ hướng đến tiến vào,
sáu là khiến cho hiểu về
Tục đế, bảy là khiến cho đạt được
Chân đế, tám là khiến cho họ đoạn trừ phiền não, chín là khiến cho thành tựu phần vị của nhân, mười là nêu ra quả
khiến cho hướng về.

Trong phần bốn là ca ngợi: Trước
làm hồ trong lành là tổng
quát ca ngợi,
sau đạt được ngọn nguồn của Phật pháp là giải thích về nguyên cớ có thể làm hồ giáo pháp. Lại đầu là kết luận ca ngợi về
Tự phần trước đây, sau là
kết luận ca ngợi về Thắng tiến.

Trong Hạnh thứ mười là Chân thật, cũng
đưa ra bảy môn:

Một, Giải thích tên gọi, dựa vào lời nói-dựa vào việc làm,
thành tựu đức xứng
với lời nói và việc làm không hư giả, cho nên
nói là chân thật. Chân thật tức là hạnh, trì
nghiệp mà được tên gọi. Hai,
Theo thứ tự, năng lực thực hành càng thêm thù thắng mà
tiến vào Thật trí. Ba,
Thể tánh, lấy Dụng của Hậu đắc trí làm tánh, bao gồm cả Đại
Bi…
Bốn, Nghiệp dụng, theo Lương Nhiếp Luận không trú trong
sinh
tử và
Niết-bàn là Dụng của Trí, lợi ích Thánh phàm là do Trí mà
thành tựu sự việc.

Năm, Chủng loại có hai:
1-Trí soi chiếu căn cơ chúng sinh,
2-Trí trao cho thuốc pháp. Lại có mười trí như văn sau nói. Sáu, Đã thành tựu,
 bởi vì phần vị này giống như tướng đầy đủ của Địa thứ mười sau này, cho nên tăng thượng về Trí Ba-la-mật.
Tất cả Hạnh khác đều
đầy đủ, cho nên phần vị này đầy đủ công hạnh
rồi tiến vào cảnh giới
vô biên của Phổ Hiền, do đó văn sau nói: Tiến vào pháp giới
Nhân-đà-la võng, tự tại thành tựu Vô ngại giải thoát của Như Lai…
Bảy, Trong giải thích văn cũng có bốn:
1) Nêu ra;
2) Giải thích; Kết luận;
4) Ca ngợi. Trong giải thích có ba: Một, Nêu ra lời thề
ban đầu; Hai,
Từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là dựa vào lời nói thành tựu
công hạnh; Ba,
Từ “Đắc nhất thiết
pháp…” trở xuống là công hạnh thành tựu thì đức thiết lập. Lại một là lời nói thật, hai là công hạnh thật, ba là lợi ích thật.
Trong phần một cũng có
ba: a) Tổng quát nêu ra; b) Sơ lược giải thích; c)
Từ “Thử Bồ-tát thành
tựu…” trở xuống là nêu ra sự mở rộng giải thích.

Trong phần a: Như thuyết
giảng có thể thực hành, nghóa là thực hành phù hợp với lời thề ban đầu mà thành tựu, hiển bày về lời nói
thật trước đây. Như
thực hành có thể thuyết giảng, là lời nói phù hợp
cuối cùng thực hành
thành tựu, hiển bày lời nói thật sau này. Bởi vì lời nói này chân thật trước
sau không hai, cho nên gọi là lời nói chân thành
bậc nhất. Như vậy hai lời
nói thành thật trước sau, tổng quát có ba loại:

Dựa theo Tự hành, như Bồ-tát ban đầu thề rằng bố thí đôi mắt, nếu có người cầu xin đến thì như lời nói mà bố thí, có hỏi về nguyên cớ
thì đáp là vì Bồ-đề. Lời này lấy gì chứng
minh? Liền phát lời thề rằng: Nếu
sự việc không hư dối thì khiến cho đôi mắt bình phục,
 biểu hiện không phải là lời nói dối.
 Đôi mắt thuận theo lời nói mà bình phục.
 Đây là lời nói ban đầu có thể phát khởi thực hành, lời nói
sau có thể
tăng thêm công hạnh.

Dựa theo hạnh Lợi tha, như Bồ-tát ban đầu thề cứu độ chúng
sinh thì như lời nói mà cứu độ, cho dù Tự hành
đầy đủ cũng không đến
quả, mà cần phải xứng với lời thề ban đầu để
tận cùng chúng sinh giới. Đây cũng là lời nói ban đầu có thể phát khởi, lời nói
sau có thể đầy đủ.

Dựa theo nhân quả, nghóa là như Bồ-tát ban đầu phát ra lời
thành thật, cần phải tu vạn hạnh để được thành tựu quả Phật, như lời nói

sau khi thá»±c
hành đầy đủ thì thành tựu quả Phật, Sư Tử gầm lên rằng: Ta là tôn quý nhất… Đây tức là lời nói ban đầu phân rõ về nhân, lời
nói sau hiển bày về quả. Sau nói Đại Sư Tử hống uy hùng giữa loài
người…, chính là môn
này. Trong ba nghóa trên, ở trong hạnh này đầy đủ tất
cả ba nghóa, văn chỉ có
hai nghóa sau, có thể biết.

Trong phần b là sơ lược giải thích, có hai câu: Câu đầu giải thích về như thuyết giảng có thể thực hành,
 nghóa là như lời nói phát khởi thực hành cho nên nói là thật ngữ, chứng nhập Thật tánh bình đẳng
của chư Phật, phát khởi tiến vào
Lý hành, thiện căn như nhau phát khởi duyên với
Sự hành. Câu hai là giải thích về như thực hành có
thể thuyết giảng, nghóa là tuy thành tựu nhiều pháp thiện mà không trái với
chí nguyện hóa độ, không
thay đổi lời nói trước kia cho nên không có
hai lời. Bởi vì cuối
cùng không khác bắt đầu cho nên gọi là không hai, đây chính là ban đầu có thể thực hành cho nên chân thật,
sau cuối không khác cho nên không hai. Đây đều là cùng thực hành thuận theo trí
thuộc quả Phật của ba
đời chư Phật, cho nên nói tùy thuận…

Trong phần c là mở rộng giải thích, có hai: Một
là hạnh đức tuy
cao mà không rời bỏ lời thề ban đầu; hai từ “Hà
dó cố…” trở xuống là
giải thích về ý không rời bỏ.

Trong phần một: Trước là
thành tựu trí thuộc Thập Lực hiển
bày về đức tôn quý
cao vời; sau từ “Nhi bất xả…” trở xuống là trình bày
về không rời bỏ lời
thề ban đầu cứu giúp thâu nhiếp chúng sinh. Nghóa về Thập Lực là hạnh
của Bồ-tát, như ở phẩm
Tịnh Hạnh đã
giải thích.
Kinh Tịnh Danh nói: “Tuy
đạt được Phật đạo, chuyển vận Pháp luân,
nhập Niết-bàn, mà không
rời bỏ đạo của Bồ-tát, là hạnh của Bồ-tát.

Trong phần hai là giải thích về ý, có ba:
1) Giải thích ngược lại, đó là nêu ra sai lầm, làm trái lời thề tự khuyên nhủ mình không nên.
2) Từ “Ngã đương…” trở xuống là giải thích thuận theo, đó là thực hiện thành tựu bổn
nguyện theo lý tự nhiên thông suốt.
3) Từ “Hà dó…” trở xuống là giải thích xoay vòng, đó là nhớ lại ý niệm ban đầu nay
làm cho tâm hăng hái
mạnh mẽ. Trong đó có hai: a) Nhớ lại ban đầu, đó
là lời nói phát ra từ
bên trong, lẽ nào lại tự quên mất hay sao? Điều
này sợ rằng sai lầm làm
trái lời thề ban đầu; b) Từ “Thị cố…” trở xuống là nghó đến hôm nay, đó là do mình vì người chứ không phải là người
khác đã cầu thỉnh mà
có thể bỏ dở, vì vậy khiến cho đức của mình thành
tựu thù thắng. Nay nếu rời bỏ cứu giúp thì trái với đức này, điều này
sợ
rằng sai lầm làm trái
với đức hiện có, nhờ vào trước phát khởi
sau, cho
nên nói là vì thế cho nên.

Lại giải thích: Mình đối
với chúng sinh thì có đức thù thắng,
có thể cứu độ cho
chúng sinh, nếu rời bỏ không không cứu độ thì trái
với đức này. Trong đó có
sáu câu, đều trước là nêu
ra-sau là
giải thích:
Một, không đắm trước
cho nên thù thắng; hai, có thể điều phục cho nên lên cao; ba, hiểu rõ về Không mà lìa xa
tăm tối; bốn, nguyện đầy đủ
đã đạt được; năm, có đủ đức có thể
thay đổi; sáu, nghó đến Phật có
thể thâu nhiếp.

Trên đây là thành lập Bổn thệ, hiển bày không thể nào làm trái.

Từ đây trở xuống là phần hai, dựa vào lời thề ban đầu mà
thành tựu công hạnh
giáo hóa, trong đó có ba câu:
1) Do không rời bỏ lời
thề trước đây mà đạt
được trí tuệ Vô thượng cứu độ chúng sinh này;
2) Từ “Tùy nhất thiết…” trở xuống là chính thức trình bày về cứu độ;
3) Tùy theo những chúng sinh ấy là trình bày về thành tựu đầy đủ Bổn nguyện, nghóa là như lời
nói mà thực hiện thì không có gì không đến cuối
cùng, cho nên nói là đã đầy đủ.
Từ đây trở xuống là phần ba, công hạnh thành tựu thì
đức thiết lập, nghóa là phần vị này thành tựu đầy đủ đức tròn vẹn
sáng ngời tự
tại của pháp giới Phổ
Hiền. Trong đó có hai: Trước là thành tựu đầy đủ
về nhân, sau từ
“Ma-ha-tát trú Đại Bi…” trở xuống là trình bày thành
tựu đầy đủ công đức về quả.

Trong phần trước có ba:
1) Nêu ra hai Lợi;
2) Giải thích hiển bày về thành tựu đầy đủ;
3) Từ “Thử Bồ-tát nghóa thân…” trở xuống là kết luận về đức vô tận.
 Trong phần một, đạt được trí tự tại là nêu rõ Tự hành đầy đủ,
làm cho chúng sinh thanh tịnh
là nêu rõ Lợi tha tròn vẹn.
Trong phần hai là riêng biệt
giải thích, có hai: Một là hiển
bày về tự tại trước
đây cũng có hai: a) Trình bày về thân không có nơi nào không đến giống như hư không pháp giới,
 vô lượng vô ngại là trình bày về hiện rõ ở một nơi tức là hiện rõ ở tất cả mọi nơi, không có chỗ dựa
là trình bày về thân
phát khởi không có nguồn gốc cho nên được tự tại. b) Trình bày bên trong thân chứa đựng tất cả không có gì không dung nạp, nghóa là tất cả ba thế gian đều hiện rõ ở
trong thân, bởi vì thân pháp
giới này dọc thì hàm
chứa ba phần vị, ngang thì bao gồm chín đời, cho
nên chư Phật vị lai cũng
hiện rõ trong đó.
Hai từ
“Thử Bồ-tát…” trở xuống là hiển bày về làm cho
chúng sinh thanh tịnh trước đây, trong đó có ba: a) Nhận biết căn khí hóa độ;
b) Từ “Tùy kỳ…” trở
xuống là hiện thân thuyết pháp, cũng là chúng
sinh hóa hiện ở trong thân mình; c-Đối với hóa độ không đắm trước, nghóa là
dùng các
pháp huyễn ảo hóa độ chúng sinh trong mộng, vì vậy
tuy hóa độ nhưng luôn luôn là không có hóa độ.
Trong phần ba là kết luận về đức vô tận, có hai: Một là do bên ngoài hóa độ đầy đủ trước đây hiển bày về Lượng trí vô tận; hai từ “Nhập chư
Tam-muội…” trở xuống là nhờ vào nhân hạnh tròn vẹn hiển bày về
Lý-Trí không hai, chúng
sinh dựa vào hai pháp này là nêu ra phàm để hiển bày về Thánh. Trên đây là phần đức thuộc về
nhân, giống như phần vị Đẳng Giác. Trong luận Trí Độ quyển thứ 40 nói:
“Lại nữa, Bồ-tát Thập
Trú so với Phật không có gì sai biệt, như Biến
Cát- Văn Thù Sư Lợi-Quán Thế Âm…, đầy đủ những công đức như
Thập Lực… của Phật mà
không làm Phật, bởi vì cứu độ nhiều chúng
sinh.” Cho đến nói: “Các
Bồ-tát này đối với Bồ-tát khác là lớn nhưng
so
với Phật thì không có
thể nhận biết tất cả, như ánh sáng của mặt trăng tuy lớn nhưng
so với mặt trời thì không hiện rõ được.”
Giải thích rằng:
Luận ấy dựa theo Thập
Địa để nói về Thập Trú, là Địa thứ mười, giống
như Dụng của nghiệp trong
Hạnh thứ mười này.
Trong phần
sau là giống như Dụng của đức thuộc về quả:
Một- Nhắc lại phần trước phát khởi
phần sau; hai-Từ
“Đắc Phật…” trở xuống
là chính thức hiển bày về đã thành tựu, đây
là giống như phần vị
Diệu Giác.
Trong văn bao gồm thành tựu về trí thuộc mười loại công đức của
NhÆ° Lai:
1) Trí đạt được Thập Lực viên minh của Phật;
2) Trí tiến vào pháp giới Đế võng;
3) Trí thành tựu Giải thoát vô ngại của Phật, đó là Bất tư nghị giải thoát, như phẩm Bất Tư Nghị nói có mười loại;
4) Trí thành tựu Vô úy hùng mạnh giữa loài người, đó vốn là Thật đức của Sư Tử hống;
5) Trí đạt được chuyển Đại pháp luân, đó vốn là Pháp Vương thuyết pháp;
6) Trí thành tựu Vô ngại của Phật, hiển bày về không còn Vô minh vi tế làm trở ngại;
7) Từ “Tuyệt sinh tử…” trở xuống là trí thành tựu Vô cấu của Phật, hiển bày về không còn Vô minh vi tế đắm trước, cũng hiển bày về xứ sở của Biến dịch không còn;
8) Trí làm nhiều lợi ích cho chúng sinh;
9) Trí phát khởi hộ trì Chánh pháp;
10) Trí không dụng công nhiếp
hóa, đó là có thể hoàn toàn giống như
phương tiện nhiếp hóa của Cổ Phật.

Sau là phần ba phần bốn là kết luận và ca ngợi, có thể biết.
Trên đây là phần Chánh thuyết, xong.
Từ đây trở xuống là phần thứ hai trình bày về lợi ích riêng
biệt của thuyết giảng,
có hai: Một, Mặt đất rung động là công đức của
sinh Tín, hai-Rưới mưa
cúng dường… là công đức của kính trọng, có bốn:
1) Rưới mưa cúng dường;
2) Trỗi nhạc tấu khúc về Thập Hạnh;
3) Trời tỏa ánh sáng;
4) Tiếng trời ca ngợi công đức của Thập Hạnh. Toàn bộ trên
đây là nói về Thập Hạnh trong một thế giới, xong.

Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ hai trình bày về Thập Hạnh đã nói trong vô tận thế giới khắp
mười phương, cúng dường… cũng
như vậy, cùng với nơi
này hoàn toàn như nhau, hợp lại làm thành một
Bộ, nghóa là một Thập
Hạnh vốn chính là tất cả Thập Hạnh.

Trên đây là một thuyết giảng tức là tất cả thuyết giảng, tổng
quát trình bày về phần
Thuyết giảng, xong.
Từ đây trở xuống là phần
sáu trình bày về phần
Chứng thành, trong đó có hai: Đầu là trình bày về Chứng ở xứ này,
sau là trình bày
về Chứng ở tất cả các xứ.
Trong phần đầu có bốn: Một là trình bày về Bồ-tát đến quy tụ;
hai là ca ngợi về pháp
đã thuyết giảng; ba là đều đưa ra sự việc về
Chứng; bốn từ “Thị
cố…” trở xuống là thuật lại ý thành tựu về Chứng.

Hỏi: Đã nhờ vào hành pháp viên dung khiến cho chư Phật và
thế giới của Bồ-tát
ấy cùng tên gọi Công Đức, vì sao Phật ở nơi này và
thế giới không gọi là
Công Đức? Đáp:
Trong kinh này tất cả thụ động Chứng thảy đều như
nhau là Phật Lô-xá-na,
thế giới như nhau là Ta-bà thuộc Hoa Tạng,
Bồ-tát thuyết pháp ấy
tức là từ pháp mà được tên gọi; tất cả chủ động
Chứng tất nhiên cùng
tên gọi của pháp, bởi vì chủ-bạn khác nhau. Nếu ở
nơi này hướng về nơi
kia thì nơi này là chủ động Chứng, tức là tên gọi
nơi này giống như nơi kia,
tên gọi nơi kia giống như nơi này, quả là
trong kinh này quán xét
thể lệ rộng lớn đến mức trở thành như vậy.

Trên đây là mười phương đều có mười vạn quốc độ cùng thuyết về
Thập Hạnh, toàn bộ thuộc về bạn của một chủ này, hãy còn tự mình không phải là chủ thâu nhiếp
mười phương, vì vậy về
sau lại kết hợp
với mười phương, trình
bày về tất cả các xứ cùng Chứng.

Trên đây là một Chứng thì tất cả đều Chứng, tổng quát trình
bày về phần Chứng Thuyết, xong.

Trong phần bảy là phần Trùng tụng, có hai: Trước
là thuật về
ý, sau là chính thức tụng.
Trong phần trước, câu riêng biệt có mười:
1) Quán sát mười phương hiển bày về cùng thuyết giảng;
2) Từ “Quán quyến thuộc linh đồng văn…” trở xuống là chính thức hiển bày về ý thuyết giảng;
3) Vì làm cho quả tiếp nối;
4) Vì làm cho nhân thanh tịnh;
Nguyện kiên cố;
6) Hạnh nối tiếp. Trên đây là Tự phần.
7) Thắng tiến thâu nhiếp Phật. Trên đây là đức thuộc Tự phần, sau là trình bày
về
Lợi tha.
8) Thuyết về Thập Hạnh do thiện căn
sai biệt của
chúng sinh, khiến cho chúng
sinh luyện tập học hỏi;
9) Tùy theo căn khí trao cho pháp;
10) Tổng quát để kết luận. Những câu trên đều dựa theo
phần Nhân mà nói, cho
nên cùng gọi là Chủng, lại vốn là phần vị của chủng tánh.

Trong phần chính thức trùng tụng, bảy chữ-năm chữ trong
Phạm bản không có sai
khác, đều dùng bốn câu làm một tụng, tổng cọng
có 101 kệ mà thôi. Trong
này, kệ tụng cùng với trường hàng trước đây
có trạng thái văn không
như nhau, sơ lược luận về năm trường hợp:

Trước thì dựa theo phần vị từ đầu đến cuối trải rộng ra mà nói,
nay thì tụ lại dung hòa với trước mà nói khiến
cho không còn đầu cuối, vì vậy trong mỗi một hạnh
có đủ tất cả các hạnh.

Trước dựa theo hành riêng biệt, ở đây trình bày về hành rộng khắp,
 bởi vì hai văn rộng khắp và riêng biệt vô ngại hiển bày lẫn nhau.

Trước chỉ dựa theo nhân, ở đây gồm chung hành của quả, bởi vì
nhân quả viên dung là pháp môn Pháp giới của hạnh này.

Trước dựa theo Đồng giáo thâu nhiếp căn bậc Trung ấy, nay
hiển bày về Biệt giáo phủ khắp căn thông hiểu
bậc Thượng này, bởi vì
Đồng-Biệt vô ngại vốn là một Viên giáo.

Trước dựa theo biện tài không xen tạp, ở đây dựa theo biện tài
tùy ý, thuyết giảng không cần thứ tự, ngôn từ không gián đoạn.

Trong văn
có hai: Một, Có năm kệ ca ngợi công đức của
Phật khiến cho người
nguyện cầu; Hai, Từ “Thập phương nhất thiết…”
trở xuống là tụng về
hạnh của Bồ-tát khiến cho người luyện tập học
hỏi, hiển bày trong phần
vị này vốn có đủ hai hạnh thuộc nhân quả. Lại
là do Phật gia hộ mà
thuyết giảng, cho nên trước là ca ngợi Phật do
hạnh mà thuyết giảng, sau là tụng về hạnh.

Trong phần một có hai:

Hai tụng ca ngợi
Phật Lô-xá-na, vốn là Hóa chủ nơi này.
Trong đó đầu là một kệ ca ngợi về trí Vô cấu-Vô
quái ngại của Phật; tiếp là
hai câu ca ngợi về đức thù thắng rộng lớn của
Phật; sau cuối là hai câu ca ngợi Phật chứng hạnh
tròn vẹn thanh tịnh.

Ca ngợi chư Phật mười phương, bởi vì là giúp đỡ
gia hộ. Trong đó đầu là một kệ hiển bày về quả đầy đủ hai
trang nghiêm, nghóa là Giải chân thật-Tuệ
sâu xa, phước thù thắng không gì
sánh bằng, quả
đầy đủ nhanh chóng đến cùng; tiếp là một kệ về
Bi chân thật làm lợi
ích rộng rãi; sau cùng là một kệ hiển bày về Trí
đức và Đoạn đức bằng
nhau.

Trong phần hai là tụng về hạnh của Bồ-tát, có ba:
1) Sáu kệ bảy chữ tụng về
hạnh nghiệp không nghó bàn, rộng lớn như pháp giới,
cứu cánh như hư không
trong phần Căn bản trước đây;
2) Từ “Cú cú quảng phân biệt…” trở xuống tụng về Thập Hạnh sai biệt trong phần Thuyết giảng trước đây;
3) Bốn kệ cuối cùng là kết luận ca ngợi hiển bày về thù thắng. Trong phần một là sáu kệ hiển bày về sáu loại hạnh nghiệp đều không thể nghó bàn: Một kệ đầu là hạnh về thấy Phật lìa xa hư vọng;
hai là hạnh về thấy lý
thành tựu đức; ba là hạnh về không dụng công rộng lớn; bốn là hạnh về
Tịch-Dụng vô ngại; năm là hạnh về
Nguyện kiên
cố tôn quý thù thắng;
sáu là hạnh về thâu nhiếp phần vị nhiều môn
hạnh; đều là một kệ
tụng hiển bày có thể biết.
Trong phần hai là tụng về mười hạnh trước đây: Đầu là một kệ
tổng quát nói về mười hạnh. Sau là trong hiển bày riêng biệt:
Thứ nhất có
sáu kệ tụng về hạnh
Hoan Hỷ, trong đó: Đầu là ba kệ về Vô úy thí, một là lìa bỏ giết hại làm lợi ích cho
chúng sinh, hai là cứu giúp nghèo khổ khiến cho yên vui, ba là lời nói và ý nghó chịu
đựng phiền muộn. Tiếp
là hai kệ về Pháp thí, một là suy xét nghóa lý, hai là giảng giải
khuyên dạy. Sau là một kệ về
Tài thí. Trăm phước, trong
kinh Niết Bàn nói: “Năm
phẩm Hạ-Trung-Thượng-Thượng
Trung-Thượng Thượng trong
tâm đều tu mười thiện, thì trở thành 50, bắt đầu tu là
50, tu đến cuối cùng cũng
như vậy, cho nên có 100 phước, 100 phước
trang nghiêm một tướng.”
Thứ hai từ
“Thiện nhập…” trở xuống có năm kệ tụng về
hạnh nhiêu ích, trong đó: Đầu là 1 kệ tụng về
Luật nghi giới, đó là lỗi
lầm không thể nào lay
động. Tiếp là hai kệ tụng về Nhiếp thiện pháp giới, một là thuận theo pháp hành, hai là lìa xa hai hành. Tiếp là một kệ rưỡi tụng về
Nhiếp chúng
sinh giới, một là nơi giáo hóa, nửa kệ là hạnh
giáo hóa. Sau cuối là
nửa kệ tổng quát kết luận về ba Tụ.

Thứ ba từ “Trí tuệ bất khả lượng…” trở xuống có bốn kệ tụng
về hạnh không sân hận,
trong đó: Đầu là một kệ về Nhẫn nại tư duy
pháp hiểu biết thù
thắng. Tiếp là hai kệ về Nhẫn nại yên tâm chịu đựng khổ sở, đó là lúc tự mình tu hành có những khổ đau có thể chịu được; một
là Nhẫn nại nỗi khổ
của tâm, nửa kệ trước nêu ra pháp đã tu, tâm không lười nhác là trình bày về Nhẫn nại làm cho tâm yên ổn; hai là
Nhẫn nại nỗi khổ của thân,
cũng nửa kệ trước nêu ra pháp đã tu, thân thực
hành không trở ngại là
trình bày về Nhẫn nại làm cho thân yên ổn. Tiếp là
một kệ về
Nhẫn nại người khác không làm lợi ích, nửa kệ trước nêu ra cảnh đã
Nhẫn nại, Bồ-tát đều cứu giúp là nêu ra lợi ích trở thành có
hại chính thức trình bày
về có năng lực Nhẫn nại.
Thứ tư từ “Tu tập
Phật pháp…” trở xuống có năm kệ tụng về
hạnh Vô tận, trong đó: Đầu là hai kệ về Gia hạnh tinh tiến, một là tụng về mười câu như chịu khó tu tinh tiến… trước đây, hai là tụng về muốn biết rõ
Căn-Dục-Tánh… của chúng
sinh cho nên tu hành tinh tiến trước đây. Tiếp là một kệ về Bị giáp tinh tiến, tụng về vì chúng
sinh nhận chịu khổ đau của địa ngục… trước đây. Sau là hai kệ về Vô yếm túc tinh
tiến, một là ánh sáng
trí tuệ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, hai là thần
lực thường làm lợi
ích cho chúng sinh mà không hề đầy đủ.
Thứ năm
“Thiện giải…” trở xuống có hai kệ tụng về hạnh lìa xa
si loạn, trong đó: Đầu
là một kệ về Hiện pháp lạc trú thiền, nửa kệ trước là gia hạnh, tụng về phân biệt
sắc pháp thế gian trước đây,
như kinh luận…; nửa kệ
sau là trú trong Định trình bày về Tuệ làm
sáng tỏ lìa
xa ngu si, không lay động là hiển bày về lìa xa tán loạn. Sau là một kệ dẫn đến công đức của thiền, Vô tận địa là tụng về nghe và tiếp nhận
Chánh pháp cho đến nhiều
kiếp không lui sụt quên mất… trước đây.

Thứ sáu từ
“Vô lượng…” trở xuống có hai kệ tụng về
hạnh Thiện hiện, trước là Chánh Thể của gia hạnh
lược qua không tụng; trong Hậu đắc trí, một là Đại
Trí thuộc Tự hành tụng về nhưng cũng không rời bỏ tâm
Bồ-đề… trước đây, hai là Đại Bi thuộc Lợi tha tụng về không rời
bỏ giáo hóa chúng sinh
tăng thêm Đại Từ… trước đây.
Thứ bảy từ “Phật cam lộ…” trở xuống có bốn kệ tụng về hạnh
Vô trước, trong đó: Đầu
là một kệ tụng về được thật sự thọ ký trước
đây, bởi vì Phương tiện
độ đầy đủ trong này, cho nên nói là cứu cánh.
Tiếp là một kệ tụng về Bi niệm chúng
sinh… trước đây. Sau là hai kệ tụng
về tâm không đắm trước
đối với ngôn ngữ đạo lý trước đây.
Thứ tám từ “An trú…” trở xuống có tám kệ tụng về
hạnh Tôn trọng, trong đó: Đầu là một kệ tụng về hiểu
sâu xa Pháp giới
trú-Vô tướng trú trước
đây; tiếp là một kệ tụng về ở vô lượng kiếp thực
hành Bồ-tát đạo không
nghó đến những khổ đau mà sinh tâm lo buồn… trước
đây; tiếp là hai kệ về dùng ánh mắt rộng khắp
thấy Phật, cũng là
tụng về giống như chư
Phật ba đời… trước đây; tiếp là một kệ về giải
thoát nhanh chậm, là Giải
thoát Bất tư nghị cũng được, tụng về không
phải là cứu cánh-không
phải là không cứu cánh… trước đây; tiếp là một
kệ tụng về nếu có
chúng sinh nào thấy nghe cung kính thì đều được an
trú không thối chuyển… trước đây; tiếp là một
kệ tụng về tâm thường yêu
thích diệu
pháp của chư Phật trước đây; sau cuối là 1 kệ tụng về
không lìa xa một chúng
sinh-đắm theo nhiều chúng sinh… trước đây.

Thứ chín từ “Cụ túc trí…” trở xuống có ba kệ tụng về
hạnh Thiện pháp, trong đó: Đầu là một kệ tụng về Trì thành tựu hồ
pháp trong lành…; tiếp là một kệ tụng về Thuyết và Vấn đáp
thành tựu…;
sau
cuối là một kệ dựa
vào Định hiện thân tụng về thân sắc vàng ròng và
mười thân… trước đây.
Thứ mười từ
“Cứu cánh…” trở xuống có 46 kệ tụng về hạnh
Chân thật trước đây,
trong đó phân năm:

Một, Có ba kệ tụng về tổng quát, đầu là một kệ về Nhẫn trí
vượt qua tất cả; tiếp
là hai kệ về thân-độ vô ngại, một kệ về Như ý
thông, một kệ về Huyễn thông.

Hai, Có bảy kệ tụng về lời nói và việc làm tương ưng trước
đây, trong đó: Đầu là
ba kệ tụng về Trí của Thập Lực đã thành tựu, tiếp là một kệ tụng về lời nói và việc làm đích thực không hư dối,
sau là ba
kệ tụng về tiến vào
Phật tánh ba đời và thiện căn… Ba,
Từ “Thâm nhập trí hải…” trở xuống có 12 kệ tụng về dựa vào lời thề phát khởi thực hành, như lời nói thâu nhiếp chúng
sinh trước đây. Văn trên tóm lược, trong này mở rộng.
Trong đó: Đầu là ba kệ trao cho pháp
nhãn-pháp vũ; tiếp là hai kệ về Tín kiên cố biết tâm giáo hóa; tiếp từ “Bất tư…” trở xuống là bốn kệ hiển bày về ba nghiệp tự tại giáo
hóa; tiếp là hai kệ về
biết căn trao cho pháp; sau cuối là một kệ kết luận
ca ngợi hiển bày thù thắng.

Bốn, Từ “Bỉ trí vô dữ đẳng…” trở xuống có chín kệ tụng về nhân đã thành tựu đức đầy đủ trước đây, trong đó: Đầu là bốn kệ về hai
trang nghiêm-hai
Lợi đầy đủ;
sau là năm kệ về ba nghiệp-hai Dụng cao nhất, một là thân, hai là ý, ba là ngữ, bốn là
Dụng của thân, năm là
Dụng của ngữ dụng. Như
thứ tự nên biết, văn trên đây là Nghóa thân-Vị
thân không thể cùng tận của Bồ-tát này. Năm, Từ “Tu tập Phật giải thoát…” trở xuống có 15 kệ tụng về đức của quả Phật đã thành tựu trước đây, trong đó có hai: Đầu là bảy
kệ riêng biệt tụng về
văn trên; sau là tám kệ gồm chung tụng về đức ấy.

Trong phần đầu: Đầu là
một kệ tụng về thành tựu Vô ngại
giải thoát-Vô úy hùng mạnh giữa loài người… của
Như Lai trước đây; tiếp
là một kệ tụng về đoạn
tuyệt dòng chảy sinh tử, hòa vào biển trí tuệ, làm lợi ích cho
chúng sinh…; tiếp ba kệ về tám tướng luôn luôn vắng lặng
là tụng về tận cùng
biển rộng phương tiện của chư Phật trước đây; tiếp
là một kệ tụng về quán
sát không hai nơi… trước đây; tiếp là một kệ tụng
về bảo vệ
Chánh pháp của ba đời chư Phật trước đây.
Trong phần
sau gồm chung tụng về đức của hạnh này, trong đó có tám kệ: Đầu là bốn kệ về hai Lợi thành tựu đầy đủ đức, trong
ba kệ trước về Tự
lợi, đầu là một kệ ca ngợi về Sắc căn thù thắng, chỉ
ca ngợi về mắt-tai và
thân, bởi vì là tánh chung mà không bàn đến mũi- lưỡi; tiếp là hai kệ ca ngợi về tâm thù thắng, một kệ về Tuệ, một
kệ về Định; lại kệ đầu ca ngợi chung là ca ngợi về trí, kệ
sau ca ngợi về Định-ca ngợi về Tuệ. Sau cuối là một kệ về
Lợi tha. Tiếp từ
“Nhất thiết tri kiến…” trở
xuống là bốn kệ về đức thù thắng của ba nghiệp, một
là nơi sinh thù thắng, hai
là ngôn tự biện tài thù thắng, ba là ánh sáng
nơi thân thù thắng, bốn
là ứng với cơ thù thắng.
Trong phần ba là bốn kệ cuối cùng tổng quát kết luận về
Thập Hạnh, ca ngợi để
hiển bày về thù thắng, có thể biết.

----------------------------

<詞>Phẩm 18: THẬP VÔ TẬN TẠNG</詞>

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Nêu
ra người phân biệt với pháp cho
nên nói là Thập Tạng của Bồ-tát; không phải là
người và pháp kết lợp
làm đề mục, nghóa là mười loại này là pháp đã
thực hành của các
Bồ- tát. Thập Tạng của Bồ-tát, là dựa vào chủ mà
lập thành tên gọi.

Một, Dựa vào số tròn vẹn đầy đủ thì nói là Thập, hàm chứa thâu nhiếp tích tụ
sinh ra gọi là Tạng, trong mỗi một Tạng này hàm chứa
Thể của pháp giới không
có phạm vi giới hạn, cho nên nói là Vô Tận. Hai, Mỗi một Tạng đều thâu nhiếp tất cả
hành tướng, cho
nên nói là Vô Tận.
Ba-Mỗi một Tạng đều có thể sinh ra quả đức không
hề có cạn hết, cho nên
nói là Vô Tận. Vô Tận tức là Tạng, là Trì
nghiệp thích. Dựa theo
mười Đới số, Bồ-tát là Y chủ thích, ba cách giải
thích có thể biết.

Ý
ĐƯA RA có năm nghóa:

Bởi vì giải đáp câu hỏi về Thập Tạng ở Phổ Quang Đường.

Trước đây trình bày về
Chánh vị, nay dựa vào phần vị phát khởi
thực hành, giống như phẩm Phạm Hạnh ở phần trên.

Trước đây trình bày dựa theo hạnh riêng biệt của phần vị, nay
phân rõ tất cả hạnh từ đầu đến cuối.

Trước đây thành lập phần vị của hành, nay phân rõ đối trị làm
cho hành ấy thanh tịnh, giống với Thập Hạnh như Tín… ở Thập Địa.

Trước đây là Tự phần cứu cánh, nay Thắng tiến hướng
về sau, giống như phẩm
Minh Pháp ở phần trên, dựa theo câu hỏi nên ở
sau
Hồi Hướng. Nay ở đây phân rõ thì Tạng chỉ có hai
nghóa, dựa theo nghóa về tích lũy thì ở
sau
Thập Hạnh, dựa theo nghóa về
sinh ra thì ở
sau
Hồi Hướng, nghóa gồm chung hai nơi, hỏi đáp hiển bày lẫn nhau.

TRONG TÔNG đưa ra hai môn: Một- Phân rõ chung về nghóa của Tạng, hoặc một giống như một pháp giới Tạng; hoặc hai đó là Đại- Tiểu; hoặc ba đó là Khế kinh… cùng với
Tam thừa…; hoặc bốn là thêm
Tạp Tạng; hoặc năm đó là
Danh Tướng…; hoặc
sáu đó là Đại-Tiểu
đều có ba; hoặc chín đó là Độc giác cũng có
ba; hoặc mười như phẩm
Ly Thế Gian sau này; hoặc vô tận như phẩm này. Hai-
Riêng biệt hiển
bày về Tông này, thì trong này chính là mười loại
hành pháp bao gồm
trọn vẹn trước sau, đầy đủ hành đức pháp giới
Phổ Hiền làm Tông
của Phẩm này.

TRONG GIẢI THÍCH VĂN, tất cả văn và nghóa tổng quát
đưa ra sáu môn: Một, Nêu ra số lượng; Hai, Giải
thích tên gọi; Ba, Thể
tánh; Bốn,
Thâu nhiếp hạnh; Năm, Giải thích về tướng; Sáu,
Kết luận ca ngợi.

Một, Trong phần một: Công Đức Lâm thuyết giảng bởi vì vốn
là Hội chủ, lại vốn là biểu thị cho kiến lập về các đức của hành pháp này. Ba đời cùng
thuyết giảng, nghóa là Phật xuất hiện tuy khác mà
cùng thuyết giảng về
Thập Tạng, hiển bày về mười loại hạnh của pháp giới này, như đường đi của Đại Vương, ba đời không có gì thay đổi, cho
nên nói là cùng thuyết giảng.

Hai, Giải thích
tên gọi: Tên gọi tổng quát như trước. Trong riêng
biệt: Một, Tín là đối với Thật đức có năng
lực nhẫn nại sâu sắc,
mong muốn vui với tâm
thanh tịnh là tánh; đối trị không tin, vui với thiện là nghiệp. Vì vậy hàm chứa thâu nhiếp
sinh ra các đức, cho nên gọi
là Tạng, là Trì nghiệp
thích. Xuống dưới đều giống như vậy. Hai, phòng ngừa điều
sai trái gọi là Giới, ba nghiệp thiện là tánh; ngăn điều ác làm điều thiện
là nghiệp. Ba, Tàm là dựa vào lực của tự pháp, kính trọng Hiền thiện là tánh; đối trị
Vô tàm, chấm dứt làm ác là nghiệp.
Bốn, Quý là dựa vào
lực của thế gian, dễ dàng cự tuyệt bạo ác là tánh; đối trị
Vô quý, chấm dứt làm ác
là nghiệp. Năm, nuôi dạy học rộng
biết nhiều, Văn Tuệ là
tánh; thông minh nhanh nhạy là nghiệp. Sáu, bỏ của mình giúp cho người, không tham lam
suy nghó là tánh; phá bỏ keo
kiệt là nghiệp. Bảy, Tuệ
là đối với cảnh sở quán, chọn lựa là tánh; đoạn trừ nghi ngờ
là nghiệp. Tám, Niệm là đối với cảnh đã từng luyện tập,
khiến cho tâm ghi nhớ rõ
ràng không sai lạc là tánh, Định dựa vào là
nghiệp. Chín, Trì là do duy
trì giữ gìn mà ghi nhớ, Niệm Tuệ là tánh; trải
qua thời gian dài không
quên là nghiệp. Mười, Biện là khéo léo nói ra điều đã duy trì, lấy
Tuệ làm tánh; tùy theo căn cơ là nghiệp.
Trong mười loại trên đây,
Tín-Tàm-Quý-Niệm-Tuệ, năm loại này đều ngay nơi
Thể mà được tên gọi, năm
loại còn lại thuận theo công năng mà được tên
gọi, đó là Giới-Thí
lấy Dụng của Hành mà lập thành tên gọi,
Văn-Trì-Biện lấy Dụng của Trí làm tên gọi. Ba,
Trong Thể tánh có hai môn:
1) Dá»±a theo TÆ°á»›ng,
Tín-Tàm- Quý là ba pháp trong 11 pháp thiện đều ngay nơi tự Thể làm
tánh, Niệm-Tuệ là hai
pháp trong năm biệt cảnh cũng ngay nơi tự Thể
làm tánh, Giới lấy Tư
thiện của ba nghiệp và Biểu-Vô biểu làm tánh,
Thí lấy Tư tương ưng với Vô tham làm tánh, dựa vào
Trí Luận thì
Trì lấy Định-Tuệ làm tánh, hai loại
Văn-Biện đều lấy Dụng của
Tuệ làm tánh.

Dựa theo Dung thông thì toàn bộ là hạnh của một pháp giới, tùy theo nghóa nói
thành mười: Một là nghóa về tánh pháp giới tự lắng trong như

Thanh Thủy châu. Hai là nghóa về tánh pháp giới tự lìa xa lỗi lầm.
 Ba và bốn đều là nghóa về tánh pháp giới có năng lực diệt trừ lỗi lầm.
Năm là nghóa về pháp giới thâu nhiếp đức
rộng nhiều. Sáu là nghóa về tự
tánh pháp giới buông
xả. Bảy là nghóa về tự tánh pháp giới hiểu biết thông suốt. Tám là nghóa về tự tánh pháp giới
soi chiếu rõ ràng. Chín là nghóa về tự Thể pháp giới tùy ý duy trì. Mười là nghóa về pháp giới tùy
duyên ứng cơ. Vì thế cho
nên một pháp giới là tánh.

Bốn- Thâu nhiếp hạnh đưa ra bảy môn:

Dựa theo Tự lợi-Lợi tha để phân biệt: Luận riêng
biệt thì chín loại trước là
Tự lợi, một loại
sau là
Lợi tha; luận tổng quát thì đều
có đủ hai hạnh.

Dựa theo căn bản-đầu ngọn để phân biệt: Một loại đầu là hạnh căn bản, cho nên trước đây nói Tín là căn bản của đạo, mẹ của công
đức…, còn lại đều dựa vào mà thành tựu vốn là đầu ngọn.

Dá»±a theo
Chánh-Trợ để phân biệt:
Tuệ là Chánh, còn lại là
Trợ.

Dựa theo giúp đỡ-dẫn dắt để phân biệt: Tuệ là có năng lực dẫn
dắt, còn lại là thụ động được dẫn dắt; còn lại là có năng lực giúp
đỡ, Tuệ là thụ động để giúp đỡ.

Dựa theo tài sản-canh giữ để phân biệt: Bảy loại trước tức là
bảy Thánh tài, do Niệm-Trì canh giữ bảo vệ khiến
cho không tổn thất,
do Biện mua bán khiến cho được tăng trưởng.

Dựa theo hành tướng để phân biệt: Bốn loại trước là hạnh lìa
xa lỗi lầm, một là căn bản, hai là phòng ngừa
lỗi lầm chưa khởi lên, ba và bốn là diệt hết lỗi lầm đã khởi lên;
sáu loại còn lại là hạnh tu tập
pháp thiện, Văn là bắt đầu tu, Thí-Tuệ là tiếp
tục tu, sáu Độ là đều tu, nêu ra loại đầu-nêu ra
loại sau, những loại trung gian có thể biết.
Ba loại sau là tu đến cuối cùng, hai loại đầu là Tự
thuần thục, một loại
sau là Hóa tha.

Dựa theo thứ tự
sinh khởi để phân biệt: Tín là ban đầu tiến
vào pháp, cho nên trước phải phân rõ. Dựa vào
Tín khởi Hạnh, lìa xa
lỗi lầm là trước tiên, cho nên tiếp theo trình
bày về Giới. Giới hoặc có phạm vào thì
sinh tâm
Tàm-Quý sâu sắc, trang nghiêm giới hạnh khiến cho
sáng ngời, vì thế nói là có hai pháp thiện có thể cứu giúp lỗi lầm của
chúng sinh. Đã phòng ngừa lìa xa mong mỏi tăng thêm
phẩm thiện,
thì cần phải lấy sự nghe rộng biết nhiều làm đầu
tiên. Bởi vì mong cầu được nghe, thì cần phải
buông xả trong ngoài của mình. Đã quên mình vì pháp, thì chắc chắn
Chánh Tuệ hiện rõ trước mắt.
Chánh Tuệ đã hiện

rõ, thì nhất
định Chánh Niệm phải sáng tỏ thêm. Chánh Niệm đã
sáng tỏ, thì nhất định
ghi nhớ giữ gìn phải làm cho lâu dài. Giữ gìn đã
không quên, thì nhất định
phải biện luận giảng giải cho người khác, khiến
cho Tự lợi-Lợi tha tròn
vẹn mới là cứu cánh.

Năm, Trong giải thích về tướng: Giải thích về mười Tạng này
tức là mười đoạn.

Ngay trong đoạn thứ nhất là Tạng Tín có bốn, đó là nêu ra-giải
thích-kết luận-ca ngợi.
Trong giải thích có hai: Trước là trình bày về tướng tu,
sau
từ “Thành tựu như thị
vô lượng…” trở xuống là trình bày về tu thành tựu.
Trong phần trước có ba: Một là trình bày về đối với
pháp khởi Tín; hai là trình bày nhờ vào Tín cho nên nghe pháp không
sợ hãi; ba
từ “Hà dó…” trở
xuống là giải thích về nguyên cớ không sợ hãi.
Lại giải thích: Đầu là tin về
Lý pháp, tiếp là tin về
Giáo pháp, sau là tin
về Quả pháp.

Trong phần một, Tín có mười pháp, trong đó: Đầu
là ba Tín thuộc Sở chấp
Vô tướng, Không nghóa là tình có mà lý không có gọi là
Không, Không không có tướng Không gọi là
Vô tướng, Vô tướng cho nên không có gì
nguyện cầu. Tiếp là ba Tín thuộc Y tha
Vô sinh, một là
Duyên khởi vô tác, hai là Như huyễn
không thật, ba là không có Thể tự giữ lấy. Sau là bốn Tín thuộc Viên thành
Vô tánh, một là tánh đức
Vô lượng, hai là thù thắng cho nên
Vô thượng, ba là sâu xa không thể đến được, bốn là thường không thể
sinh ra. Lại trong phần đầu là tất cả pháp,
lượng không thể đạt
được, trên cũng không thể đạt được tướng trên, văn nói tướng trên không thể đạt được cho nên gọi là
Vô thượng; là
nói đến nghóa này.

Trong phần hai
là nhờ vào Tín cho nên nghe pháp không sợ hãi, trong đó có mười câu: Đầu là hai câu không
sợ hãi đối với pháp
thù thắng trên cao, tiếp
là bốn câu không sợ hãi đối với pháp rộng
nhiều. Thế nào là đã
giáo hóa? Đó là chúng sinh giới. Dùng pháp gì để
giáo hóa? Đó là pháp
giới. Giáo hóa nơi nào? Đó là tận cùng hư không giới. Giáo hóa đưa vào nơi nào? Đó là
Niết-bàn giới. Sau cuối là bốn
câu không sợ hãi đối
với pháp xa rộng, đó là ba đời hòa vào kiếp
làm mười đời. Không nghó bàn trong mười câu này có hai nghóa: Một là không
hề có gì mà nói là
có, vì vậy không phải là có thể có, không có gì có
thể nghó bàn; hai là mười
pháp như vậy đều vô biên vô tận, không phải là trí của phần vị khác có thể biết được, cho nên nói là không nghó
bàn. Cũng nhờ vào hai
Tín cho nên nghe mà không kinh sợ: Một là nhờ vào
Tín thông hiểu về lý của ba
Tánh-ba Vô tánh, cho nên nghe môn
thứ nhất mà không kinh sợ; hai là nhờ vào Tín trí Phật bình đẳng vô
lượng vô biên, đây đã là trí Phật nhận biết thì mình cũng tùy theo Tín, cho nên nghe môn thứ hai mà không
kinh sợ. Nghóa thứ nhất như trước hiển
bày, nghóa thứ hai trong
giải thích làm sáng tỏ.

Trong phần ba là giải thích: Trước
là nêu ra, sau là giải thích.
Trong giải thích, một câu đầu hiển bày về tâm tin
Phật kiên cố,
câu tiếp
trình bày về mười pháp trước đây là do trí Phật nhận biết,
cho nên nói là Phật nhận
biết như vậy. Cảnh rộng lớn ấy Đức Phật làm sao nhận biết? Bởi vì trí Phật cũng vô tận vô biên như cảnh ấy, cảnh ấy
Đức Phật đã nhận
biết, Bồ-tát tin theo Phật cho nên không kinh sợ.

Từ “Thập phương…” trở xuống giải thích về trí Phật là nguyên cớ đáng tin: Một là Đại Dụng không hư rỗng cho nên đáng tin; hai từ “Bỉ chư Phật…” trở xuống trình bày về Thể không có thêm bớt cho
nên đáng tin. Trong đó
có mười pháp hay không? Văn này hiển bày về
trí Phật không phải là
pháp sinh diệt giống như vô vi.

Trong phần sau là tu thành tựu Tướng, có hai: Một, một câu
tổng quát về nương theo
Như Lai thừa hướng đến quả Phật. Hai, trong
riêng biệt hiển bày có
hai: Trước là thành tựu Thể của hành có tám câu:
1) Xứng với Tín cho nên vô biên,
2) Thể kiên cố không lui sụt,
3) Tín không xen tạp cho nên gọi là không rối loạn,
4) Duyên không có
thể ngăn cản,
5) Tín sâu sắc lìa xa tướng,
6) Tín từ Tuệ phát khởi. Kinh Niết Bàn nói từ Văn Tuệ phát sinh.
Lại nữa, Tín có Tuệ gọi là có căn,
Tín mà không có Tuệ thì lớn thêm
Vô minh, Tuệ mà không có Tín thì lớn
thêm Tà kiến, cho nên Tín và Tuệ đầy đủ thì mới có thể tiến vào pháp.
Lương Nhiếp Luận quyển
thứ 11 nói: “Bởi vì Bồ-tát tự chứng về Thí cho nên thực hành về Thí, không bởi vì tin theo người khác mà thực hành về
Thí. Tín trước có căn
cho nên trở thành Tín, Tín sau không có căn cho
nên không trở thành
Tín.”
7) Thuận theo giống như Cổ Thánh,
8) Pháp của gia nghiệp vốn như vậy. Sau là hiển bày công năng của hạnh, có bốn câu:
1) Có năng lực bảo vệ Chánh pháp;
2) Có năng lực tăng thêm về nhân;
3) Có năng lực thuận theo quả;
4) Đức từ Phật sinh ra. Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận. Từ “Trú thử…” trở
xuống là ca ngợi có hai
Lợi, có thể biết.
Trong đoạn thứ hai là
Tạng Giới có ba, đó là nêu ra-giải thích-kết luận.

Trong giải thích có hai: Trước
là đưa ra mười chương, sau là nhắc
lại từng
chương một để mở rộng giải thích.

Quang Thống nói: “Một chương đầu là
Nhiếp chúng
sinh
giới, tám chương tiếp
là Nhiếp thiện pháp giới, một chương sau là Luật
nghi giới.”
Lại trong chương thứ hai, không thọ các giới quạ gà nai
chó… của ngoại đạo.

Trong chÆ°Æ¡ng
thứ tư, bởi vì trước không phạm cho nên sau
không có nghi ngờ hối
hận. Dựa theo văn này, tựa như người cố tình phạm
tất cả giới, xưa kia đã
từng gây ra năm tội nghịch mà đến, đó là tập khí ác của họ.

Lại kinh Niết Bàn nói: “Vì
sao trì giới? Bởi vì không hối hận.
Vì sao không hối hận? Bởi vì hoan hỷ.
Vì sao hoan hỷ? Bởi vì vui thích,
cho đến bỏi vì đạt được
Đại Niết-bàn.”

Trong chương thứ năm, không ăn bơ-muối… bởi vì trải qua
tạo lập; lại đoạn tuyệt
gạo mè chỉ nuốt không khí… đều là pháp của
ngoại đạo chế lập.

Trong chÆ°Æ¡ng
thứ bảy, nếu dùng Đoạn kiến-Thường kiến để
trì giới, thì tức là
xen tạp Vô minh, cho nên gọi là phạm giới.

Trong chÆ°Æ¡ng
thứ tám, tà mạng hoặc có bốn loại: Một là
Phương khẩu thực, hai là
Ngưỡng khẩu thực, ba là
Duy khẩu thực, bốn
là Hạ khẩu thực.

Lại luận Thập Trú quyển thứ 2 nói: “Thế
nào gọi là năm pháp tà mạng? Một là cố ý làm
khác người, hai là tự mình gần gũi, ba là làm cho xao động, bốn là ghìm xuống nâng lên, năm là dựa vào
lợi mong cầu lợi.

Một là cố ý làm khác người, có người bởi vì tham cầu lợi
dưỡng, cho nên hoặc ở
chốn A-luyện-nhã, hoặc mặc nạp y, hoặc thường
khất thực, hoặc một lần
ngồi ăn, hoặc thường ngồi, hoặc sau bữa trưa không uống nước đặc, thọ những hạnh Đầu-đà như vậy, dấy lên nghó
rằng: Người khác thực hành những hạnh này được cung kính cúng
dường, mình thực hành những hạnh này có lẽ cũng được điều đó. Bởi vì
lợi dưỡng cho nên thay
đổi oai nghi, gọi là cố ý làm khác người.
Hai là tự mình gần gũi, có người vì tham lợi dưỡng mà đến nhà Đàn việt nói rằng: Như cha mẹ-anh chị em-thân thích của tôi
không khác, nếu có cần
thiết thì tôi có thể qua lại với nhau, nếu có việc làm thì tôi làm cho, tôi không kể xa gần có thể đến thăm hỏi, tôi ở đây là
vì tướng chính đáng mà
thôi. Bởi vì tham cầu cúng dường, đắm theo Đàn việt, mà luôn luôn dùng lời nói hoa mỹ dắt dẫn tâm người, như vậy đều

gọi là tự mình gần gũi.
Ba là làm cho xao động, có người không nghó đến tội lỗi của tham, mong muốn có được tiền bạc đồ vật,
 dấy lên ý tưởng có được đồ vật mà nói như vậy: Bình bát này đẹp, hoặc y phục đẹp, hoặc móc cửa đẹp,
 hoặc tọa cụ đẹp, nếu mình có được thì có thể thọ dụng.
 Lại nói tùy ý có thể giúp cho. Người này khó có được, lại đến nhà Đàn việt nói ra
lời này: Nhà ông cơm
canh bánh thịt thơm ngon, y phục lại đẹp, nên cúng dường cho tôi. Mình vì gần gũi đã lâu, chắc chắn
sẽ được cho.
Hiện bày rõ ràng tướng tham
như vậy, thì gọi là làm cho xao động.

Bốn là ghìm xuống nâng lên, có người vì tham lợi dưỡng cho
nên nói với Đàn việt
rằng: Ông thật là keo kiệt, hãy còn không thể nào
gi- úp cho cha mẹ-anh chị
em-vợ con thân thích của mình, thì ai có thể
có được đồ vật của
ông? Đàn việt hổ thẹn vội vàng đem cho. Lại đến
nhà khác nói ra lời
này: Ông có phước đức có được thân người không
trống rỗng, A-la-hán
thường ra vào nhà ông, cùng đứng ngồi trò chuyện
với ông. Dấy lên ý
nghó này, Đàn việt hoặc sinh khởi tâm này: Lại
không có người nào
khác ra vào nhà mình. Nhất định nói là chính mình.
Đây gọi là ghìm xuống nâng lên.
Năm là dựa vào lợi mong cầu lợi, có người lấy đồ vật
sinh
hoạt được giúp đỡ
như bình bát, y Tăng-già-lê hoặc là tọa cụ…, mang ra chỉ rõ nói với người: Như vua chúa quan lại và những người cao quý cho tôi vật này. Dấy lên nghó rằng: Đàn việt hoặc có thể
sinh tâm, vua chúa quan lại và những người cao quý kia hãy còn có thể
cúng dường,
huống gì là mình mà
không tặng cho người này hay sao? Dựa vào lợi này
lại cầu lợi khác, cho
nên nói là dựa vào lợi mong cầu lợi.”

Trong chương thứ chín, kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Nếu thấy người phá giới thì không nói lỗi lầm xấu ác của họ, nên nghó rằng người
ấy về lâu dài cũng đạt được đạo.

Hỏi: Kinh Niết
Bàn nói: “Thấy người phá giới thì cần phải trách mắng đuổi ra ngoài trú xứ, nên biết người này có được phước vô
lượng.” Văn này vì sao
lại che chở không trách mắng, lẽ nào là vì thâu
nhiếp chúng sinh?

Đáp: Kinh ấy
dựa theo tâm Từ trách mắng khiến cho ăn năn hối lỗi, bởi vì căn khí
thuần thục; văn này dựa theo che chở người ấy,
sợ rằng lại tăng thêm
tâm ác, bởi vì căn chưa thuần thục. Văn còn lại có thể biết.
Đoạn
thứ ba-thứ tư là Tạng Tàm-Tạng Quý, kinh Niết Bàn nói: “Tàm là thẹn với trời, Quý là thẹn với người; Tàm là tự mình không làm
ác, Quý là
không dạy người khác làm ác; Tàm là bên trong tự mình
hổ thẹn, Quý là hướng
về người mà bày tỏ lỗi lầm.” Lại luận Câu Xá nói: “Vô tàm là nếu bị người thiện
trách mắng, ở trong đó không thấy
sợ
hãi, thì gọi là Vô tàm;
Vô tu là không tôn trọng đối với công đức và
người có công đức,
tâm không có kính sợ, gọi là Vô tu.” Vô tu ấy là Vô
quý. Kinh Bộ nói: “Quán
xét tự thân do lỗi lầm không hổ thẹn gọi là Vô
tu, quán xét thân khác do
lỗi lầm không hổ thẹn gọi là Vô tàm.” Lại
luận Du Già-Đối Pháp-Duy Thức v.v…
Trong Tạng Tàm giải thích có ba: Một,
nghó đến lỗi lầm Vô tàm của mình và người xưa kia, trong đó trước là
mình-sau là người,
lục thân đó là cha
mẹ-anh em-vợ con là sáu. Hai, từ “Tự duy…” trở
xuống là nêu ra lỗi lầm
tự nhắc nhủ mình. Ba, từ “Thị cố…” trở xuống là
đích thực tu tập hạnh
Tàm. Trong Tạng Quý có ba nghóa, giống như Tàm có thể biết.
Đoạn thứ năm là
Tạng Đa Văn, trong giải thích có hai: Trước là pháp đã học,
sau từ
“Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về ý của Học.

Trong phần trước cũng có hai: Trước
là đưa ra mười chương,
sau
là lần lượt giải thích.

Trong mười chương, bốn chương đầu dựa theo 12 duyên sinh (tra tìm
trong Du-già), lý thật thì xuất thế gian cũng có lúc không có giữ
lấy năm uẩn, nay thì giữ lấy uẩn tích tập gánh nặng của khổ, cho nên là
thế gian. Lại dựa theo
Tiểu thừa cũng được. Lại năm phần Pháp thân
vượt qua năm uẩn trước
đây, cho nên là xuất thế. Lại lý thật thì hữu vi trải qua tất cả phần vị khác, nay giữ lấy ba cõi và chúng
sinh đều là
việc làm của hoặc
nghiệp, cho nên là hữu vi.
Ở trong pháp Vô vi:
1) Khai hợp, hoặc chỉ nói là ba, đó là Hư không-Trạch diệt và
Phi trạch diệt, đây là dựa theo
Tiểu thừa. Hoặc nói là bốn, thêm vào
Chân như, như luận
Chưởng Trân nói. Hoặc nói
là sáu, thêm vào Bất
động…, là Thiền thứ tư và Diệt định, như luận
Bách Pháp… nói. Hai loại này dựa theo Sơ giáo ban đầu mà nói.
Hoặc nói là tám, ở trong
Chân như tách ra Chân như thuộc pháp thiện, Chân như thuộc pháp bất thiện, Chân như thuộc pháp vô kí, như
Du Già-Đối Pháp nói. Đây là dựa
theo Sơ giáo cuối cùng mà nói. Trong bốn loại,
Trạch diệt có
hai nghóa: Một, diệt trừ
Hoặc chướng gọi là
Trạch diệt; hai,
diệt trừ Định chướng
gọi là Bất động và Diệt định, vì thế cho nên
tổng quát thâu nhiếp ở trong Trạch diệt. Trong tám
loại, bởi vì muốn dần dần
mở rộng tất cả pháp
đều là Chân như, cho nên tách ra ba tánh như thiện…

để hiển thị
về môn giải thích.
2) Giả thật, chỉ riêng Chân như Vô vi là thật, còn lại đều là giả,
 bởi vì đối với giả mà kiến lập như trên, như luận Phật Địa nói v.v…
Lại trong Chân như cũng có hai:
1) An lập bởi vì là Tướng phần;
2) Không phải là an lập bởi vì không phải là Thức hiện bày. Đầu là giả, sau là thật. Ba nghóa chuyển đổi khác nhau thì như
sáu Vô vi trong văn này:
1) Sự không có nơi chốn gọi là hư không;
2) Quả của tánh thanh tịnh gọi là Niết-bàn;
3) Do đạo
Vô gián thường xuyên đoạn kiết mà đạt được gọi là
Số duyên diệt;
4) Duyên khác không khởi lên gọi là
Phi số duyên;
5) Mười hai nhân duyên
là Vô vi, theo luận Câu Xá-Tăng Kỳ Bộ-Độc Tử Bộ đều nói mười hai nhân duyên là pháp Vô vi, bởi vì
Như Lai xuất
thế hay không xuất thế
thì pháp này vẫn thường trú. Sư thuộc Kinh Bộ phá bỏ như thuyết của bộ phái ấy.
Vả lại, Pháp sư Viễn dẫn ra
kinh Niết Bàn giải thích, ngay
nơi con người luận về ba đời lưu chuyển thì đó
là Hữu vi, rời bỏ con
người bàn về pháp thì pháp tướng thường xác định, cho nên nói là
Vô vi. Như mười hai
nhân duyên,
Ấm-Giới-Nhập… tất
cả đều như vậy, như kinh Niết Bàn nói. Nay giải thích, bởi vì duyên
khởi này đều không có
tự tánh, đều không có tạo tác, cho nên gọi là
Vô vi. Kinh Niết Bàn nói:
“Mười hai nhân duyên tức là Phật tánh.” Lại kinh Đại
Phẩm nói: “Bồ-tát quán xét mười hai nhân duyên giống như
hư không, không thể cùng
tận…”
6) Pháp giới là Thể của Như Lai Tạng, thật sự không sinh diệt, cho nên là Vô vi.
Lại đối với một nghóa về Chân như thiết lập
sáu loại này:
1) Nghóa về Vô tướng;
2) Nghóa về Sở chứng;
3) Nghóa về Hoặc không còn;
4) Nghóa về Tánh thanh tịnh;
5) Nghóa về Tùy duyên;
6) Nghóa về Bất biến, cũng là nghóa về làm nhân. Trong Hữu ký, bốn Đế… là dựa theo pháp thiện thuận với lý
có thể ghi nhớ. Trên
đây phần nhiều là pháp Tiểu thừa.

Sau trong Vô
ký, bởi vì pháp hư vọng cho nên không thể ghi nhớ. Trí Luận nói mười bốn nạn, trong này có mười
sáu loại.
Trong luận Câu Xá nói: “Có
ngoại đạo tên gọi Úc-chi-ca, Trung Hoa nói là Năng Thuyết, hỏi Đức Phật về bốn loại như thế gian
Hữu biên-Vô
biên…, đây là dựa
theo Thỉ-Chung để hỏi; bốn loại như Thường-Vô
thường…, là dựa theo
Đoạn-Thường mà hỏi, cho nên không đáp. Nếu người ấy đã chấp Ngã là thế gian thì bởi vì
Ngã không có, cho nên đáp
không đúng lý. Nếu chấp
tất cả sinh tử gọi là bốn thế gian thì đáp cũng
không đúng lý. Nếu thế
gian thường trú thì không có một người nào đạt được Niết-bàn.
Nếu không phải là thường trú thì tất cả đều
đoạn diệt mà
tự nhiên Niết-bàn. Nếu có đủ hai loại thì nhất định một phần không
đạt được Niết-bàn, một phần tự
nhiên Niết-bàn. Nếu không phải là
Thường, không phải là
không Thường, thì lẽ ra không phải là đạt được
Niết-bàn, không phải là
không đạt được Niết-bàn.”

Hỏi: Nếu tự nhiên đạt được Niết-bàn thì có gì sai? Đáp: Nếu tự nhiên đạt được thì từ
Niết-bàn mà đến, bởi vì
đạt được tùy thuộc
vào đạo, do đó như Ni-càn-tước-ác không thể nhất định đáp.
Hỏi về Như Lai có bốn loại
như Dị-Tử…, đây là dựa theo
buộc vào-cởi ra mà hỏi, bởi vì ngoại đạo chấp
Phạm Vương và thầy của mình đã đạt được
giải thoát, gọi là
Như Lai. Do quán xét ý của người hỏi,
cho nên Đức Phật không
đáp, bởi vì người ấy chấp đã giải thoát Ngã
gọi là Như Lai, đã chấp có Ngã cho nên Đức
Phật không đáp. Ngoài ra tra
tìm trong Trí Luận quyển
thứ 2, thứ 17, Du-Già, Câu Xá, Xá-lợi-phất
A-tỳ- đàm cùng với
Chánh sớ thì toàn bộ có thể có đưa ra điều này.

Trong bốn câu
thứ ba, trong bốn câu như đi-không như đi…, Như Lai là như từ trước đến nay, về
sau này cũng như vậy, cho nên nói
là Như Lai, không phải là
Phật. Bốn câu sai khác thế nào? Có người
chấp Thần ngã và Ấm như
nhau, Ấm diệt thì Ngã cũng diệt, nếu nói đi vẫn như lúc đến, thì lời này không chấp nhận. Hai là chấp Ngã và
Ấm khác nhau, Ấm diệt mà
Ngã không diệt, nếu nói đi không như lúc đến,
thì điều này cũng không
chấp nhận. Ba là chấp Thể của Ngã thường còn như hư không, nói có đến-đi đều không chấp nhận. Bốn là chấp
Ngã có thô-tế, nói không có đến-đi cũng không chấp nhận, nghóa là
Ngã thô và Ấm như nhau, cùng
diệt cho nên như đi; Ngã tế và Ấm khác
nhau, không cùng diệt cho
nên không như đi, không chấp nhận.
Trong bốn câu thứ tư, Ngã là
Thể-chúng sinh là Dụng, do Ngã mà có
chúng sinh, dựa vào Thể mà có Dụng. Hai là trái lại với điều này.
Ba là giữ lại cả hai.
Bốn là trái lại với cả hai. Văn còn lại có thể biết.
Đại khái là pháp đã học trên đây đều bởi vì nhận biết về pháp của Tiểu thừa và pháp của
ngoại đạo…, vì muốn dựa vào đây để thâu
nhiếp chúng sinh, cho nên
sau là trình bày về ý của Học, có thể biết.

Trong đoạn thứ sáu là Tạng Thí, trong
giải thích: Trước là đưa
ra mười môn, sau là lần
lượt giải thích từng môn một. Mỗi một môn
đều có ba, đó là nêu
ra-giải thích và kết luận.

Trong môn thứ
nhất, do thói quen vốn có từ lâu cho đến tự
mình ăn uống, cũng có
tâm bố thí, nghóa là rời bỏ mạng sống cần thiết nhất
mà nhận lấy
sự chết yểu, tiếp cận bên cái chết gọi là tai nạn cuối cùng. Lại vốn là ở
sau cuối trong các loại bố thí. Trong bố thí thuộc
phần bên trong,
Luân Vương trẻ trung là trình bày về khó rời bỏ mà có thể
rời bỏ. Bố thí thuộc
phần bên trong-bên ngoài, theo Du-già thì cắt
tóc-xỉa răng-nhổ thức
ăn… là thuộc phần bên trong-bên ngoài. Trong này gồm chung y báo và chánh báo, chỉ trừ ra vợ con. Trong tất cả bố thí cùng
có vợ con vốn là riêng biệt.
Trong môn thứ bảy là bố thí quá khứ:
1) Nêu ra cảnh của tham lam;
2) Từ “Văn dó…” trở xuống là dùng lý chính thức quán xét, trong đó trước là thẳng thắn quán xét về Không mà không
sai lạc
phương tiện, sau là so
sánh về sự lụi tàn ấy;
3) Từ “Bồ-tát…” trở xuống là đích thực thành tựu hạnh Xả. Bố thí ba đời này chỉ xả bỏ tâm tham của mình,
 tương ưng với thiện căn không tham, thu nhận đưa vào trong này.
Lại luận chung về bốn câu:
1) Xả mà không phải là Bố thí, như bố thí ba đời,
2) Bố thí mà không phải là Xả, như tự mình ăn uống bố thí cho trùng trong thân…
3) Cũng Bố thí cũng Xả, như môn trước;
4) Không phải là Bố thí cũng không phải là Xả,
 như Tạng Tín… Vị lai-hiện tại cũng đều có ba nghóa,
 giống như trên có thể biết. Trong tham ở hiện tại,
 trong pháp thanh tịnh chỉ nêu ra Nhị thừa, bởi vì duyên hiện tại
của Phật Bồ-tát thành
tựu không phải là không mong cầu, vốn không giống như quá khứ chưa tàn lụi và vị lai chưa đến bởi vì không có duyên
khởi, cho nên không giống như trước.
Trong môn thứ mười có bốn: Một là người cầu xin đến; Hai là
Bồ- tát vui mừng; Ba là
quán xét lỗi lầm tai họa của thân; Bốn là ý
thông suốt thành tựu
Bố thí, nghóa là dù cho vật tốt đẹp mà mình hãy còn thuận theo xả bỏ, huống gì vật xấu xa này?
 Lại dù cho không có lợi ích gì mà mình hãy còn thuận theo bố thí, huống hồ còn khiến cho
mình đạt được ba pháp
kiên cố, thân thể và tài sản tự tại hay
sao?
Trong đoạn thứ bảy là
Tạng Tuệ, giải thích
có ba: Một,
Trình bày chiếu rọi pháp thành
tựu về Tuệ; Hai-Từ “Bồ-tát thành…” trở xuống
là trình bày về tướng
thành tựu lợi ích của Tuệ; Ba, Hiển bày về nghóa vô tận.
Trong phần một có hai: Trước là trình bày về Tuệ tự chiếu
rọi pháp, sau là trình
bày về chính thức thuyết giảng cho người khác.

Trong phần trước:
1) Tổng quát nêu ra pháp đã nhận biết;
2) Giải thích về thành tựu năng lực nhận biết sâu xa tuyệt diệu.
Trong phần một dùng bốn Đế trải qua nhận biết về mười pháp,
đó là năm Uẩn-Vô
minh-Ái và Tam thừa. Năm Uẩn dựa theo quả nhiễm,
Si-Ái dựa theo nhân, bảy loại này đều ngay nơi tướng là Khổ,
duyên thành tựu là Tập, Vô tánh tức là Diệt, hiển bày về
Diệt là Đạo, dùng làm môn giải thích để hiển bày về Diệt. Lại là
Bồ-tát khéo léo hồi hướng thành đạo đầy đủ công dụng, cho nên như luận về các
Hoặc thành tựu
Giác phần, sinh tử
là Niết-bàn. Ba loại
sau dá»±a theo
thanh tịnh, Thanh văn là
người, bốn Đế là pháp, Đạo phẩm đã thực hành
là Tập, quả đã thành
tựu là Niết-bàn, mười hai duyên là pháp của
Duyên giác, vô biên pháp
giới là pháp của Bồ-tát. Lại giải thích: Biết
Thanh văn tức là biết
Khổ, bởi vì Khổ của Thanh văn là đã biết, cho nên
chỉ nêu ra phần vị ấy.
Hai là pháp mà họ đã thực hành tức là Đạo đế.
Ba là Tập khí phiền
não… của họ chưa hết tức là Tập đế. Đã có đoạn
trừ cho nên sau pháp mới
nói về điều đó, Niết-bàn là Diệt. Duyên giác
và Bồ-tát dựa theo đây có thể biết.

Trong phần hai là giải thích về năng lực nhận biết: Đầu là ý
hỏi, nhận biết có hai
loại, một là tùy theo tướng nhận biết như người
Tiểu thừa, hai là hợp
với lý nhận biết như hàng Bồ-tát. Nay chỉ nói về nhận biết, ở trong hai loại này thì loại nào nhận biết? Vì vậy nói là nhận biết thế nào? Sau là
giải thích, chính là hợp với lý. Nhận biết có
sáu câu:

1) Tổng quát nêu ra nhân phát khởi;
2) Từ “Phi ngã…” trở xuống là hai câu hiển bày về không có hai Ngã, câu trên trình bày về tướng không thật, câu dưới
là Thể trống rỗng không có;
3) Từ “Bất thủ…” trở xuống là ba câu trình bày về đối với pháp lìa xa nhiễm, một là không giữ lấy kiên cố đối với
câu trên trước đây, hai là không giữ lấy vốn có đối với câu dưới trước đây, ba từ “Tri nhất thiết…” trở xuống là giải thích
về nguyên cớ không giữ lấy.
Trong phần
sau là thuyết giảng cho
người khác: Một là câu nêu ra;
hai từ “Vân hà…” trở xuống là giải thích.
Trong giải thích có ba:
1) Tổng quát;
2) Từ “Hà đẳng…” trở xuống là riêng biệt, đối với mười pháp trước đây sơ lược nêu ra chín
môn, bởi vì tức là cùng Như cho nên không thể
hủy hoại;
3) Từ “Hà dó cố…” trở xuống là đưa ra nguyên cớ. Trước là nêu ra hiện tại thấy
sắc… là có
thể phá hoại, vì
sao nói là không hủy hoại? Giải thích bởi vì từ duyên
khởi, mình và người
cùng nói đều không đến, cho nên sắc-tâm cùng lìa xa. Hai,
Từ “Bồ-tát thành tựu…” trở xuống là trong phần thành tựu
lợi ích của Tuệ, có hai
câu:
1) Công ít mà đạt được nhiều;
2) Tự mình ngộ chứ không phải là người khác. Ba,
 Trong phần hiển bày về nghóa vô tận,
 trong mười câu: Ba câu đầu là Tự phần,
 trong đó hai câu trước là Tự lợi, một câu
sau là Lợi tha;
bảy câu sau
là Thắng tiến, trong đó bốn câu đầu là Tự lợi,
ba câu sau là Lợi tha.

Trong đoạn thứ tám là Tạng Niệm, giải
thích có ba: Một-Đối với cảnh trình bày về Niệm; hai-Từ
“Bồ-tát…” trở xuống là hiển bày về tướng thù thắng của Niệm; ba-Từ
“Bồ-tát tác thị…” trở xuống là
làm sáng tỏ về tướng
lợi ích của Niệm.
Trong phần một có mười câu:
1) Nhớ lại một đời quá khứ cho đến nhiều đời;
2) Nhớ lại một kiếp quá khứ cho đến nhiều kiếp;
3) Nhớ lại một Đức Phật cho đến vô lượng;
4) Nhớ lại một Đức Phật thọ ký cho đến vô lượng;
5) Nhớ lại một Đức Phật xuất thế cho đến vô lượng;
6) Nhớ lại từ một Đức Phật tiếp nhận kinh điển cho đến vô lượng, mười hai bộ kinh như chương khác;
7) Nhớ lại một Hội-một Thời thuyết pháp cho đến vô lượng;
8) Nhớ lại một căn thuộc pháp khí cho đến vô lượng;
9) Nhớ lại một phiền não đã đối trị cho đến vô lượng;
10) Nhớ lại một Tam-muội cho đến vô lượng. Phần hai là hiển bày về tướng thù thắng của Niệm, có mười câu:

1) Niệm tuyệt diệu là tuyệt diệu vượt quá người khác;
2) Niệm thanh tịnh là đã ghi nhớ rõ ràng;
3) Niệm không hỗn loạn là không xen tạp tối tăm chướng ngại;
4) Niệm thanh tịnh khắp nơi là đối với pháp đều rõ ràng;
5) Niệm lìa xa trần cấu là đối với sự việc đã ghi nhớ không sinh tâm tham nhiễm;
6) Niệm lìa xa các loại trần cấu là không phát sinh những kiết khác;
7) Niệm lìa xa cấu nhiễm là không chấp vào năng lực của mình;
8) Niệm soi chiếu sáng ngời là soi chiếu rộng đến vô
cùng tận;
9) Niệm vui thích là vui với tu tập không ngừng;
10) Niệm không ngăn ngại là ý phát khởi liền nhận biết không cần phải suy nghó.
Trong phần ba
là làm sáng tỏ về lợi ích của Niệm, có bốn câu:
1) Thế gian khổ đau không hỗn loạn;
2) Căn thanh tịnh không cấu nhiễm;
3) Niệm kiên cố không hủy hoại;
4) Duy trì pháp không sai lầm.
Trong đoạn thứ chín là
Tạng Trì, giải thích có mười một pháp:

Một phẩm kinh cho đến vô lượng;
2) Danh hiệu của Phật;
3) Tên gọi của thế giới;
4) Tên gọi của kiếp;
5) Phật thọ ký;
6) Một bộ kinh cho đến nhiều bộ kinh;
7) Tên gọi của Hội;
8) Thuyết pháp;
9) Căn cơ;
10) Phiền não;
11) Tam muội. Trong phần sau là kết luận ca ngợi, chỉ riêng cảnh Phật vốn
là hiển bày về nhân
sâu xa thấu suốt quả.
Trong đoạn thứ mười là
Tạng Biện cũng có bốn:
Nêu ra-giải
thích-kết luận-ca ngợi.

Trong giải thích có hai: Trước
là nêu ra Thể của Biện, đó vốn là
Hậu đắc trí vô cùng
sâu xa;
sau là hiển bày công năng của Biện có
hai: Một là Tự phần; hai
từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là Thắng tiến.

Trong Tự phần: Đầu là mở
rộng nói về không trái với kinh điển là tổng quát hiển bày;
sau là riêng biệt phân rõ, trong đó có hai:
Một là trình bày về thuyết
giảng tự tại, nói về mười pháp đã duy trì trước
đây; hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải
thích về nguyên cớ tự tại.

Trong phần hai là Thắng tiến có hai: Một,
tổng quát hiển bày đó là ánh
sáng của pháp phân rõ diễn giảng về pháp
sâu xa; hai từ
“Dó quảng trường…” trở xuống là riêng biệt phân rõ. Trong đó có hai:
Trước là thuyết giảng
vô ngại, có bốn câu:
1) Trình bày về lợi ích của thuyết giảng;
2) Từ “Thiện nhập…” trở xuống là tự tại đối với giáo;
3) Từ “Nhập phổ chiếu…” trở xuống là tự tại đối với nghóa;
4) Từ “Bất xả…” trở xuống là trình bày về không sai lạc Tự hành.
 Sau từ “Hà dó…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ vô ngại, nghóa là phần vị này tức là phần vị cứu cánh cho nên thành tựu Pháp thân thanh tịnh đầy khắp
pháp giới hư không này,
là Chân thân vô cấu cho nên nói là thanh tịnh.
Trong phần ca ngợi có mười câu:
1) Vô lượng là bởi vì nhiều môn; Không có phạm vi giới hạn là mỗi một loại đều vốn là vô biên;
3) Nhiều môn không gián đoạn;
4) Dung hòa xen nhau không hủy hoại;

Tự Thể không đoạn mất;
6) Không bị duyên đoạn mất bởi vì không phải là pháp có thể đoạn mất;
7) Nói không có gì run sợ;
8) Xa xăm sâu thẳm;
9) Rộng rãi không cùng tận;
10) Thâu nhiếp pháp giải thích thành tựu. Sáu, Kết luận ca ngợi về mười Tạng: Đầu là một câu kết luận,
sau là ca ngợi về thù
thắng. Trong phần ca ngợi về thù thắng: Đầu là một câu kết luận ca ngợi, nghóa là vốn khiến cho chúng
sinh đạt được
Bồ-đề; sau là mười
môn riêng biệt hiển bày. Riêng biệt giải thích chỉ
có bảy câu, đều là nêu ra và
giải thích: Một là ca ngợi về lợi ích thực hành;
hai là thực hành thường
xuyên; ba là thực hành rộng rãi; bốn là thực
hành khéo léo; năm là
thực hành nhiều; sáu là thực hành vững vàng; bảy
là thực hành tiến vào lý.

Từ “Thị danh…” trở xuống là tổng quát kết luận ca ngợi.
Sau phần này lẽ ra có phần
Chứng thành và phần
Kệ tụng…, nhưng văn không
đủ, hoặc là bởi vì
lược bớt mà thôi.

Trên đây là toàn bộ Hội thứ tư, xong.

ï‚¢



<卷>QUYỂN 7</卷>

<詞>Phẩm 19: NHƯ LAI THĂNG ĐÂU SUẤT THIÊN CUNG NHẤT THIẾT BẢO ĐIỆN</詞>
Từ đây trở xuống là trình bày về
Hội thứ năm, bốn môn
giống như trước.

TRONG GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Tên
gọi của Hội, dựa theo Xứ gọi là hội Đâu
Suất Thiên Hội, dựa theo Chủ gọi là
Kim Cang Tràng Hội, dựa theo Pháp gọi là Thập Hồi Hướng Hội.
Tên gọi của Phẩm, là
Như Lai trình bày về thân Pháp giới của Phật;
Thăng hướng đến căn cơ
khởi lên tác dụng, Đâu-suất là nơi đã hướng
đến, ba nghóa làm tên gọi của Phẩm. Lại hướng đến cõi trời Hỷ Túc này vốn là biểu thị về đầy đủ hạnh thế gian, tất cả vật báu là biểu thị về thâu nhiếp hành thuộc nhiều
môn, vốn là điểm tô qua lại đáng quý.

Ý ĐƯA RA:
Đưa ra Hội, là bởi vì giải đáp câu hỏi về
Thập Hồi Hướng trước đây. Vả lại, trước đây trình bày về
Giải-Hạnh, nay phát khởi Đại
nguyện, nếu không phát khởi Đại nguyện thì sợ
rằng chứng đến Vô vi,
cho nên tiếp theo đưa ra. Lại vốn là xoay Giải-Hạnh trước đây
hướng về chứng Chân.

Đưa
ra Phẩm, là bởi vì sắp thuyết pháp, trước phải phân rõ về nơi dựa vào, cho nên trình bày rõ ràng.
Vả lại, Hội trước đã kết thúc, bắt
đầu đến Hội sau, cho nên trước phải phân rõ về điều này.

TÔNG THÚ: Tông của Hội trước cũng
có người-pháp, chủ-bạn,
giáo-nghóa, tất cả đều có Thể-Tướng-Dụng, dựa
theo trước có thể biết. Lại dùng hạnh vô tận của Đại nguyện hồi hướng làm Tông của
Hội này, về
sau
sẽ phân rõ.
Tông của Phẩm, nghóa là
Thiên Vương trang nghiêm Y báo xứng với pháp giới, cung điện là chủ động cảm đến;
Như Lai dùng thân Chánh báo khắp nơi pháp giới, mây là chủ động ứng hiện.
Cảm ứng hợp nhau mà không xao động, không xao
động vắng lặng mà

phát khởi
đầy đủ, duyên khởi vốn có đức là Tông của Phẩm này.

GIẢI THÍCH VĂN: Hội này có ba phẩm, hai phẩm đầu là phần Tựa, một phẩm
sau là phần
Chánh thuyết.
Vì sao không có tiến lên hướng về
sau? Bởi vì thâu nhiếp
Giải-Hạnh trước đây tổng quát làm
phương tiện để hướng về Địa, ngay nơi Thể của
hồi hướng tất nhiên là
Thắng tiến, cho nên không có. Kinh này từ trên
xuống dưới, thể lệ này có bốn:
1) Dựa theo hạnh đầy đủ tiến vào phạm vi của phần vị, như
Hiền Thủ đầy đủ Tín, tổng quát làm phương tiện tiến vào phần vị.
2) Dựa theo tương đối đầy đủ tiến vào phạm vi của
Chứng, như phẩm
Hồi Hướng này, đầy đủ Tăng-kỳ thứ nhất, tổng
quát làm phương tiện tiến vào Địa.
3) Dựa theo công dụng đầy đủ tiến vào phạm vi của không còn công dụng, như Địa thứ tám đầu tiên tổng quát thâu nhiếp bảy Địa trước
làm phương tiện, đây là đầy đủ Tăng-kỳ thứ
hai.
4) Dựa theo phạm vi của nhân vị thành tựu đầy đủ, như Địa mười đầu tiên thâu nhiếp chín
Địa trước làm phương tiện tiến vào, đây là
dựa theo thâu nhiếp đầy đủ
ở Tăng-kỳ thứ ba. Còn lại cùng phần vị tiếp
nhận nhau thì có phương
tiện riêng, cho nên không phải là một thể lệ.

Ngay trong phần
Tựa trước, hai Phẩm có hai Tựa sai biệt,
giống như trước phân rõ
khác nhau. Trong phẩm đầu có bảy:
1) Hội này hiện bày trọn vẹn;
2) Không chuyển động mà lên đến nơi này;
3) Thiên Vương trang nghiêm nơi chốn;
4) Nghênh đón Đức Phật thiết bày cúng dường;
5) Nhìn thấy đức thù thắng của Phật;
6) Thiên Vương cung kính thưa thỉnh;
7) Nhận lời thưa thỉnh thành tựu lợi ích. Trong phần thứ
nhất, nghóa là Hội thuyết pháp ở tán cây
Bồ-đề, Phổ Quang, Đao
Lợi, Dạ Ma… khắp mười phương trước đây, tất cả
đều chưa phân tán mà
lên đến nơi này, pháp đã thuyết giảng cùng lúc
với những nơi ấy. Vì
thế cho nên ngang thì phủ khắp mười phương, dọc thì gồm chung tám Hội, cùng lúc trước
sau vô ngại mà
thuyết giảng.
Nghóa còn lại giải thích giống như trước.

Trong phần thứ ba là Thiên Vương trang nghiêm nơi chốn, có hai: Một là trình bày về trang nghiêm
một phương; hai là kết luận trang
nghiêm các Hội khắp mười phương.

Trong phần một có hai: a) Từ
xa trông thấy Phật là trình bày về nhìn thấy duyên thù thắng; b)
Từ “Tức ư…” trở xuống là hiển bày
về trang nghiêm pháp tòa
thù thắng, trong đó trước là tổng quát hiển
bày, sau từ “Dó vô
lượng…” trở xuống là riêng biệt phân rõ.

Trong phần trước, bởi vì pháp tòa này là do thật đức mà thành
tựu, cho nên có 13 tướng viên mãn:
1) Tự tướng, đó là do pháp tòa quý
báu có đủ
đức;
2) Tướng của nhân, đó là do thiện vốn có mà sinh ra;
3) Tướng không hủy hoại là do Đức Phật hộ niệm;
4) Tướng thù thắng là do nhiều nhân mà sinh
ra;
5) Tướng chân thật thanh tịnh là do từ
pháp thanh tịnh của Đức
Phật khởi lên;
6) Cọng tướng là do chúng sinh cùng
trang nghiêm thọ dụng như nhau;
7) Tướng có đủ đức;
8) Tướng lìa xa ác;
9) Tướng vi diệu
ngắm nhìn không hề chán ngán;

10) Tướng vượt khỏi thế gian;
11) Tướng không cấu nhiễm;
12) Tướng như nhau, đó là do tướng cùng thuộc
về thế gian từ duyên quy tụ mà thành;

13) Tướng vô tận, đó là chúng sinh thấy không thể hết được, cũng là tướng rất sâu xa bởi vì chỉ có ở cảnh Phật.

Trong phần sau là riêng biệt hiển bày: Một
là một câu nêu ra;
hai từ “Sở vị…” trở
xuống là chính thức hiển bày. Trong đó có hai:
1) Phân rõ về Khí thế gian trang nghiêm;
2) Từ “Bách vạn ức chư thiên thần…” trở xuống là phân rõ về Chúng sinh thế gian trang nghiêm, trong này cũng phân ra có nghóa
về Trí chánh giác.

Trong phần một cũng có hai: a)
Trang nghiêm sự việc bên ngoài;

b) Từ “Bách
vạn ức thần lực…” trở xuống là trình bày về
trang nghiêm thuộc pháp bên trong.

Trong phần a có hai: Trước
là trang nghiêm về sắc tướng; sau
từ “Bách vạn ức
Thiên cái tràng nhất thiết bảo linh…” trở xuống là
trang nghiêm về âm thanh.

Trong phần trước có bốn: Thứ
nhất là trang nghiêm về sự xen tạp có 52 loại; thứ hai từ “Bách vạn ức đại hải nguyệt…” trở xuống là
trang nghiêm về sự riêng
biệt, trong đó vật báu có 21 loại, hương vi diệu
có 17 loại, mây mưa có 21 loại; thứ ba từ “Bách vạn ức Thiên bảo
tràng…” trở xuống là
trở lại trình bày về trang nghiêm xen tạp có 29 loại; thứ tư từ “Thiên tạp bảo y…” trở xuống là trở lại trình bày về trang nghiêm
sự riêng biệt, trong đó
y và tràng đều có mười loại.

Trong phần sau là trang nghiêm về âm thanh, có 42 câu phân
hai: Trước là Nhạc
âm có mười loại; sau từ “Diệu âm…” trở xuống là trình bày về
Pháp âm. Trong đó có hai: Đầu là tổng quát ca ngợi về công đức của
Tam Bảo; sau là riêng biệt ca ngợi về công đức của
Bồ-tát Thập Trú. Trong mục trước
có ba:
1) Mười câu ca ngợi về công đức của Phật Bảo;
2) Từ “Thán nhất thiết Bồ-tát…” trở xuống là bốn câu ca ngợi về công đức của Bồ-tát thuộc Tăng Bảo;
3) Từ “Thán thâm pháp…” trở xuống là tám câu ca ngợi về công đức thành tựu lợi ích của Pháp
Bảo. Hai câu riêng biệt ca ngợi về công đức của
Thập Trú, bởi vì là
nhân hạnh thuộc về phần
vị chính thức, có thể biết. Phần trang nghiêm bên
ngoài, xong.
Trong phần b là trang nghiêm thuộc pháp bên trong, cũng là
trang nghiêm đã nói trên
đây. Nay phân rõ trang nghiêm đã phát sinh công đức thù thắng là hiển bày về đức dụng của pháp tòa, trong đó có
31 câu phân ba: Một là 13
câu phát sinh các hành xen nhau như
Tín-Tiến- Niệm-Định-Tuệ…,
Tịnh giải thoát là Giải thoát không nghó bàn; hai
có 11 câu phát sinh về
hành thuộc 10 Độ, trong đó câu cuối là kết luận về 10 Độ có thể biết; ba từ
“Phổ nhập…” trở xuống là bảy câu trình bày
về phát sinh Đại Dụng
của ba nghiệp, đây là tòa Sư Tử của ba nghiệp,
bởi vì y-chánh vô ngại.
Phần trang nghiêm Khí thế gian, xong.
Trong phần hai là
Chúng sinh thế gian
trang nghiêm, cũng
có hai: Trước có 58
chúng là trang nghiêm thuộc tướng bên ngoài; sau từ “Xuất
Bồ-tát tịnh nguyện…” trở xuống là trang nghiêm thuộc
pháp bên trong.

Trong phần trước có hai: Đầu
là 44 chúng hiển bày về trang
ng- hiêm chúng trời-người,
sau là 14 chúng phân rõ về trang nghiêm chúng Bồ-tát.

Trong phần đầu: Một là 15
chúng trời-người-tám bộ… thuộc cõi Dục; hai là 29 chúng thuộc trời cõi
Sắc… Nhưng nơi khác nói ở
trong bốn Thiền đều có
ba cõi trời, ở đây mỗi Thiền có bốn, đều một là tổng quát, còn lại ba là
riêng biệt, đó là trời quyến thuộc của cõi
Phạm trong Sơ thiền, trời
Thiểu Quang trong
Nhị thiền, trời
Biến Tịnh trong Tam thiền, trời
Mật Thân trong
Tứ thiền, những trời này đều là tổng quát cho nên không
giống nhau. Lại trời
Tiểu Mật Thân trong
Tứ thiền, nơi khác nói là trời
Phước Ái, trời
Vô Lượng Mật Thân thì gọi là trời
Phước Sinh, trời Mật Quả là trời
Quả Bảo, cũng gọi là
Quảng Quả, bởi vì cõi trời
Tứ thiền đoạn hết hoạt động của thân không còn hơi thở ra vào, cho nên đều gọi là Mật. Tiếp là năm cõi trời
Tịnh Cư. Sau lại nói là bách vạn
ức chủng chủng Thiên,
phải là trời cõi Vô sắc, đã không hiển bày tên
gọi thì có lẽ gồm chung tất cả.

Trong phần sau là chúng Bồ-tát: Một
là 10 chúng dựa vào tên
gọi thuộc phần vị của
mình hiển bày về đức dụng; hai là bốn chúng
dùng tên gọi của cõi trời mà nói.
Trên đây đều là thật đức
sai biệt pháp giới tự tại trong
Hải Ấn, bởi vì người và pháp
vô ngại, y báo và chánh báo dung hòa tự nhiên,
cho nên dẫn đến như vậy.
Trong phần
sau là pháp bên trong, cũng là trang nghiêm đã
nói trên đây. Nay là
trang nghiêm đã thành tựu công đức có thể làm
Dụng thù thắng,
có hai mươi câu về hành tướng-pháp môn, có thể biết.
Trên đây là trang nghiêm
pháp tòa của một phương, xong.

Phần thứ hai
là như thế giới này, kết luận về trang nghiêm
pháp tòa ở vô tận thế
giới khắp mười phương, có thể biết.

Trên đây là phần Thiên Vương mười phương trang nghiêm
pháp tòa chủ-bạn, xong.

Trong phần thứ tư là nghênh đón Đức Phật thiết bày
cúng dường,
có hai: Một-Ra
ngoài nghênh đón phát khởi cúng dường thuộc về
Tự phần; hai-Từ “Phật thần lực…” trở xuống là thiết bày cúng dường
thuộc về Thắng tiến.

Trong phần một có hai:
1) Chư Thiên phát khởi cúng dường
thuộc cõi trời, trong đó trước là mưa xuống mười loại
cúng dường,
sau là
thuận theo thân phát ra
nhiều loại tổng hợp để ngắm nhìn lễ lạy.
2) Từ “Bất khả số…” trở xuống là trình bày về Bồ-tát phát khởi cúng dường
thuộc xuất thế gian.

Trong phần hai là cúng dường thuộc về Thắng tiến, cũng có hai:
Trước là chư Thiên phát khởi cúng dường, sau là Bồ-tát phát khởi cúng
dường thuộc xuất thế gian.
Trong phần trước có bốn:
1) Phật lực khiến cho trời nhìn thấy mong mỏi tự vui mừng.
2) Từ “A-tăng-kỳ…” trở xuống là áo chứa đầy hoa… đi đến nơi Đức Phật tôn kính rải ra để cúng dường.
3) Từ “Ức na- do-tha…” trở xuống là trang nghiêm hư không ở nơi Đức Phật đi qua, trong đó có mười loại, một loại đầu là tổng quát, chín loại còn lại
là riêng biệt; trong riêng
biệt thì mỗi một loại đều là trước khởi tâm
thù thắng, sau phát khởi
cúng dường tuyệt diệu, có thể biết.
4) Từ “Vô số ức…” trở xuống là từ thân đưa ra vật cúng ở bên đường cúng dường
Đức Phật, có tám câu có thể biết.
Trong phần
sau là
Bồ-tát phát khởi cúng dường thuộc xuất thế
gian, có ba:
1) Từ ý nghiệp đưa ra cúng dường;
2) Từ thân nghiệp đưa ra cúng dường;
3) Ngữ nghiệp ca ngợi Đức Phật. Trong phần một có hai: Trước là tổng quát hiển bày về sự cúng dường,
sau từ
“Nhất thiết bảo cái…” trở xuống là riêng biệt trình bày
về cúng dường Đức Phật.

Trong phần trước có hai: Đầu
là nêu ra, lìa ba cõi là nêu ra
phạm vi giới hạn của
cúng dường, từ pháp chân thật phát sinh là nêu ra
nhân của cúng dường.
Sau là trong giải thích, trước là giải thích về phạm
vi giới hạn, bởi vì lìa phiền não, bởi vì tâm
Từ rộng khắp, bởi vì trí
sâu
xa, bởi vì chỉ có Đức
Phật có thể biết được, bởi vì lìa xa ba cõi; sau là giải
thích về
nguyên nhân, sinh ra từ bốn nhân cho nên gọi pháp chân
thật phát sinh:
1) Tín kiên cố là trí Gia hạnh;
2) Thiện không nghó bàn là trí Chánh chứng;
3) Biến hóa là trí Hậu đắc;
4) Pháp chân thật là lý đã chứng. Đã từ đây phát khởi, lại xứng với tánh bình đẳng cho nên dùng pháp ấn Vô hành mà ấn định.

Trong phần sau là riêng biệt phân rõ về chín loại cúng dường Đức
Phật, trong mỗi một loại đều có năm nghóa:
1) Nêu ra sự cúng dường;

2) Khắp nơi pháp giới trình bày về xứng với chân tánh;
3) Dùng để cúng dường Đức Phật;
4) Hơn hẳn chư Thiên hiển bày về thù thắng;
5) Nguyên nhân phát ra. Lại cũng bốn nghóa đầu là phạm vi giới hạn trong phần tổng quát trên đây,
 một nghóa sau là nguyên nhân trên đây. Ở trong phần cúng dường tòa cao, tâm-cảnh giống như Phật là trình
bày về chứng lý giống
với Phật, dựa vào đây sinh khởi pháp tòa khiến cho pháp tòa cũng giống với cảnh Phật, bởi vì Bồ-tát này đều là phần vị
cao nhất thuộc Phổ Hiền,
nhân quả như nhau, còn lại dựa theo có thể biết.
Trong phần hai là thân nghiệp
cúng dường, từ thân phát ra tám
sự như mây… để cúng
dường có thể biết.
Trong phần ba từ “Vô lượng
Bồ-tát…” trở xuống là ngữ
nghiệp cúng dường, ca
ngợi công đức vô biên của Pháp thân Phật có thể biết.

Trong phần thứ năm là nhìn thấy đức thù thắng của
Phật, có hai: Một, Đại chúng nhìn thấy thân mây pháp giới
của Phật; hai, từ
“Nhó thời Như Lai…” trở xuống là trình bày về ý của
Đức Phật hiện ra
thân mây này.

Trong phần một cũng có hai:
1) Thấy đức dụng vô biên của
thân pháp giới;
2) Từ “Nhó thời chư Thiên kiến Như Lai thân…” trở xuống là trình bày về thấy
diệu dụng vô tận trong ánh sáng của thân Phật.

Trong phần trước, như vậy đã hiện rõ, đã thấy thân pháp giới của Phật lẽ nào có hạn lượng, nay lại dựa vào văn kết luận ở phần
sau
phân ra làm mười môn,
trong đó có hai: Trước là hiển bày về đức của mười môn,
sau từ “Như thị chánh niệm…” trở xuống là kết luận về tên
gọi của mười môn.
Trong phần trước phân rõ về mười môn này tức là mười
đoạn, nhưng hướng về
sau kết luận thì không theo thứ tự.
Đoạn một từ đầu đến thanh tịnh thiện căn là vượt lên trên
trình bày về môn thứ
mười thấy Phật thị hiện thần lực tự tại không
thể nghó bàn, trong đó trước là nêu ra người có thể
trông thấy,
sau là hiển bày
về thân Phật đã trông
thấy. Vô lượng là chính thức hiển bày về thân pháp giới không có hạn lượng, hiển bày ở dưới tán cây Bồ-đề khắp tất cả thế
giới trước đây, không có nơi nào không hiện rõ. Thần túc không nghó bàn là hiển bày không rời xa tán cây Bồ-đề mà lên trên cõi trời…
trước đây. Trong văn có
bốn:
1) Diệu dụng làm lợi ích cho chúng sinh;
2) Từ “Châu biến…” trở xuống là đức rộng khắp làm lợi ích cho chúng sinh;

Từ “Thành tựu…” trở xuống là Dụng sâu xa khiến cho cung kính;
4) Từ “Tùy sở…” trở xuống là ứng cơ thành tựu cứu giúp. Đoạn hai từ “Hiển hiện
Như Lai…” trở xuống là lùi lại phân rõ
về môn thứ nhất Đại
chúng chánh niệm Như Lai như vậy, trong đó có hai: Trước là trình bày
Như Lai hiện rõ về đức thù thắng của mình, đó là
Đại phước-Đại trí-Đại định và
Thể rộng khắp. Sau từ “Linh nhất thiết…” trở xuống là làm nhiều lợi ích cho
chúng sinh, trong đó có ba: Một là lợi ích cho Địa tiền; hai từ
“Tất năng…” trở xuống là lợi ích cho
Địa thượng;
ba từ “Nhất thiết pháp
vân…” trở xuống là lợi ích làm cho quả đầy đủ.
Đoạn ba từ
“Dó Chánh giác…” trở xuống là trình bày về môn thứ hai quán
sát
Chánh giác, trong đó có hai: Trước là trình bày về
Tự giác thành tựu đầy
đủ, nghóa là đầu hiểu rõ về cảnh Tục đế, sau từ
“Ư bất thối…” trở
xuống là hiểu rõ cảnh Chân đế. Sau từ “Giáo hóa
nhất thiết…” trở
xuống là trình bày về Giác tha thành tựu đầy đủ.

Đoạn bốn từ
“Thị hiện sắc thân…” trở xuống là trình bày
về môn thứ ba tiến vào trí tuệ sâu xa, trong đó
sắc thân là chỗ dựa để khởi
trí, sau hiển bày về
tướng của trí có bốn:
1) Trí quán xét chúng sinh;
2) Từ “Thiện giải…” trở xuống là trình bày về trí nhận biết mười Lực… của Phật;
3) Từ “Trú nhất thiết…” trở xuống là trí nhận biết về pháp môn;
4) Từ “Tất năng…” trở xuống là trình bày về thành tựu biển sâu của trí.
 Đoạn năm từ “Như Lai…” trở xuống là trình bày về môn thứ tư tiến vào công đức hải, trong đó có bốn công đức:
1) Đức của Tịch-Dụng vô ngại, là
mặt trời chiếu rọi căn cơ không lặn mà luôn luôn trú trong tịch diệt của Phật;
2) Từ “Ư ngã-ngã sở…” trở xuống là trình bày về đức của Đại Hạnh vô nhiễm;
3) Từ “Tại đại chúng…” trở xuống là trình bày về đức của Đại Trí vô trước;
4) Từ “Dó Đại Bi…” trở xuống là trình
bày về đức của Đại
Bi nhiếp hóa. Trong đó đầu là nêu ra sự nhiếp hóa,
từ “Tất thiện phân
biệt…” trở xuống là trình bày về ý nhiếp hóa,
nghóa là vì chúng sinh mà phân biệt các hành như
Trí-Tín… khiến cho thành
tựu Chánh giác, lúc ấy mới phát ra tâm Đại Từ của Phật hiển bày về tâm
Bi của Phật, không như
vậy thì lẽ nào ở trong tâm Từ của Phật?
Đoạn
sáu từ “Phật thân vô lượng…” trở xuống là trình bày về môn thứ bảy Chánh tri của
Như Lai, trong đó đầu là phân rõ hai
nghiệp thân-ngữ của Như
Lai, sau từ “Ư khứ lai…” trở xuống là trình bày về ý
nghiệp của
Như Lai. Trong đó có hai:
1) Chiếu rọi ba đời để thâu nhiếp chúng sinh;
2) Từ “Phổ ư…” trở xuống là khắp mười phương mà hóa độ chúng sinh.
 Đoạn bảy từ “Phật trí tuệ nguyệt…” trở xuống là trình bày về môn thứ năm đạt đến tuệ như hư không, văn
sau nói: Bồ-tát là vầng
trăng trong lành qua lại giữa cảnh
Không tuyệt đối. Trong này hiển bày về vầng trăng của Phật qua lại giữa
cảnh Không. Trong đó có hai:
Một là trình bày về tuệ vô ngại
soi
chiếu Không, trước là
soi chiếu
Chân, tiếp từ “Tuệ
tâm…” trở xuống là soi chiếu Tục, sau từ “Nhất thiết thế gian…” trở xuống là thông hiểu Tục hiển bày Chân. Hai từ
“Thuận chúng sinh…”
trở xuống là tuệ làm lợi ích cho chúng sinh không
đắm trước, trong đó có
ba:
1-Lợi ích hiện thân hàm chứa tiếp nhận, từ “Giải liễu…” trở xuống là trình bày về không đắm trước;
2) Từ “Tùy thuận…” trở xuống là
lợi ích cứu khổ lìa xa cấu nhiễm, từ “Vị tằng…” trở xuống là không đắm trước;
3) Từ “Chánh quán…” trở xuống là khiến cho thành tựu lợi ích tốt đẹp, từ “Vónh ly…” trở xuống là không đắm trước.

Đoạn tám từ
“Phóng quang minh võng…” trở xuống là trình bày về môn thứ tám quán
sát tướng tốt thuộc nghiệp thanh tịnh của
Như Lai, trong đó có hai: Một là ánh
sáng của
Phật soi chiếu hiện rõ; hai từ
“Linh nhất thiết chúng…”
trở xuống là trình bày về chúng tìm theo ánh
sáng thấy tướng tốt thuộc nghiệp thanh tịnh khắp mười phương của
Phật. Trong phần này có
hai:
1) Thấy nghiệp thuộc tự tướng của Phật, nghóa là trước thấy tướng tốt của Phật đã hiện rõ ở mười phương thế giới; sau từ “Bồ-tát sở
hành…” trở xuống là thấy nghiệp thanh tịnh của Phật,
ng- hóa là trước thấy
nghiệp thanh tịnh thuộc Tự lợi, từ “Thiện phân
biệt…” trở xuống là
nghiệp thanh tịnh thuộc Lợi tha.
2) Từ “Thành tựu…” trở xuống là thấy Phật có thể thành tựu tướng tốt cho người khác, nghóa là trước có thể thành tựu, sau từ “Giai linh thành tựu…” trở xuống
là đã thành tựu.

Đoạn chín từ
“Tự tại Pháp Vương…” trở xuống là lùi lại trình bày về môn thứ
sáu nhận biết về phước điền của
chúng sinh, trong đó
có hai: Một là tổng quát
hiển bày, hai là riêng biệt hiển bày. Trong phần một là tổng quát: Đầu là chiếu rọi hiện rõ về tướng thù thắng
thuộc phước điền của
Như Lai, sau là giải thích hiển bày về nghóa thù thắng, bởi vì dựa vào trí duyên
sinh cho nên thù thắng. Hai là trong phần
riêng biệt hiển bày về
mười loại công đức của Như Lai làm phước điền
cho thế gian:
1) Đức của thân trí khắp nơi thế gian.
2) Từ “Vô ngại Thiên hội…” trở xuống là đức của phước thù thắng đến với cơ. Hai loại này là Thể trạng
của ruộng, bởi vì nghóa của ruộng sinh ra phước thuộc
về thế gian, cho nên đều
nói là thế gian. Từ đây trở xuống là trình bày
về lợi ích cho chúng sinh
trở thành đức, hiển bày về Dụng thù thắng của ruộng.
3) Từ “Vô thượng Đạo Sư…” trở xuống là trình bày về đức khéo léo dẫn dắt của bậc Đạo Sư, Vô úy Thừa là nơi qua lại của bậc Đạo Sư.

Từ “Nhất thiết thế…” trở xuống là trình bày về đức khéo léo chữa trị của bậc
Y Vương, đầu là
sửa trị
hoặc chướng, tiếp từ
“Thiện năng…” trở xuống là khiến cho lìa xa khổ báo,
sau từ “Tùy kỳ…” trở xuống là khiến
cho lìa xa ác nghiệp.
5) Từ “Tùy kỳ sở ứng hiện Phật…” trở xuống là tùy theo thích hợp để hiện thân mới tăng thêm công đức phước thiện.

Từ “Nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là đức
giác ngộ mê mờ làm cho yên ổn.
7) Từ “Như Lai tối thắng…” trở xuống là đức của Trí Vương làm cho hiểu biết thông suốt.
8) Từ “Vô lượng công đức…” trở xuống là đức của nhân tròn vẹn-quả thanh tịnh, trong đó câu đầu là nêu ra quả,
từ “Nghiệp hạnh…” trở xuống là hiển bày về
nhân tròn vẹn, nghóa là thời gian thuộc nhân vị ở thế gian đã tu nghiệp hạnh chỉ có thể cảm đến
quả báo thị hiện của thế gian, và lúc tuệ đạt
được giải thoát thành
Phật khiến cho những hạnh trước đây thảy đều thanh
tịnh, bởi vì ra khỏi cấu nhiễm.
9) Từ “Năng mãn…” trở xuống là đức có thể đầy đủ nguyện của thế gian.
10) Từ “Thị thế…” trở xuống là đức có thể làm bạn với thế gian, vì thế cho nên nói Phật là ruộng phước thù thắng.
Đoạn mười từ
“Quang minh thanh tịnh…” trở xuống là lùi lại trình bày về môn thứ chín Chánh tri Pháp thân
soi chiếu rộng
khắp mười phương, trong đó có bảy:
1) Soi chiếu loại trừ chướng ngại của hành, trong sáu sai lầm nêu ra sai lầm thứ nhất.
2) Từ “Tất linh…” trở xuống là làm thanh tịnh hạnh nguyện ấy.
3) Từ “Đẳng quán…” trở xuống là đức phá bỏ cấu nhiễm phát sinh thanh tịnh,
 trong đó quán xét bình đẳng giống như trí Phật soi chiếu khắp nơi, khởi nghiệp thanh tịnh giúp cho
tu đối trị, làm cho ma
phải hàng phục diệt sạch duyên nhiễm, diệt hết
mê hoặc trừ bỏ nhân
nhiễm, phát sinh năng lực là đức đã thành tựu, gọi
là mười Lực.
4) Từ “Nhất thiết thế gian…” trở xuống là phá trừ ngu si trao cho trí, trước là
phá bỏ bốn Trụ, ở đây diệt trừ Vô minh, đầu là phá
trừ ngu si, từ
“Pháp thí…” trở xuống là trao cho trí.
5) Từ “Như Lai trí…” trở xuống là khiến cho lìa xa oán thù thỏa mãn ý nguyện.
6) Từ “Tối thắng…” trở xuống là làm duyên phát
sinh thiện, đầu là tổng quát,
từ “Thiểu tu…” trở
xuống là riêng biệt, nghóa là bởi vì ruộng của
Phật thù thắng cho nên tu một phần cúng dường đạt được công đức to lớn, đặt chúng
sinh vào trí địa vô tận, cho nên đức to lớn hiển bày về quả báo vô
lượng trước đây, trí địa hiển bày về đầy đủ thanh tịnh trước đây.
7) Đức hoan hỷ trừ nạn, nghóa là thiện do tâm phát khởi, tâm đã thấy
Phật sinh ra hoan hỷ, trong tâm
hoan hỷ sinh ra pháp thiện rộng lớn, cho nên
trừ diệt ba ác-tám nạn.
Trên đây là mười môn riêng biệt phân rõ, xong.
Từ đây trở xuống là phần
sau tổng quát kết luận về tên gọi,
nhưng công đức của Đức
Phật này đã viên dung vô ngại cùng một thân
pháp giới, cho nên ở
đây kết luận đều có gồm chung và riêng biệt.
Như vậy Chánh niệm về
Như Lai, luận gồm chung đầy đủ toàn bộ các công đức trên đây gọi là
Như Lai, trình bày về Đại chúng
này chuyên tâm trú tưởng
đối với Như Lai như vậy, gọi là Chánh niệm
như vậy; luận riêng biệt
thì đây là kết luận về môn thứ hai trước đây.
Hai là luận gồm chung về các công đức trên đây tổng quát gọi là
Chánh giác, bởi vì tất cả đều xem xét rõ ràng, trình bày về
chúng ở đây thâu nhiếp
suy nghó soi chiếu thông suốt, cho nên gọi là
Chánh giác quán
sát như vậy; luận riêng biệt thì đây là kết luận về môn
thứ ba trước đây.

Ba là luận gồm chung về các đức của Phật trên đây, tất cả đều là trí tuệ
sâu xa, bởi vì
soi chiếu rõ ràng không có đáy, trình bày về
chúng tương ưng với trí tuệ này, gọi là tiến vào như vậy; luận riêng biệt thì
đây là kết luận về
môn thứ tư trước đây.
Bốn là luận gồm chung về các công đức của
Phật trên đây, toàn
là biển rộng của công
đức, trình bày về trí của chúng này khế hợp, gọi
là tiến vào; luận riêng
biệt thì đây là kết luận về môn thứ năm trước đây.

Năm là luận gồm chung về các đức của Phật trên đây, tổng quát gọi là trí tuệ hư không, bởi vì xem xét chiếu
soi gọi là tuệ, bởi vì tuệ xứng với tánh cùng một vị vô hạn-vô ngại gọi là Không, trình bày về trí của chúng này đạt đến bến bờ ấy, gọi là đến như vậy; luận riêng biệt
thì môn này vượt lên
trên kết luận về môn thứ bảy trước đây.
Sáu là luận gồm chung về Phật đầy đủ các đức trên đây, gọi
là làm ruộng phước cho
chúng sinh, bởi vì ruộng này có thể tự nhiên
sinh ra phước thù thắng, chúng hiểu rõ về điều này, gọi là biết như vậy;
luận riêng biệt thì vượt
lên trên kết luận về môn thứ chín trước đây.

Bảy là luận gồm chung đầy đủ các đức trên đây gọi là Như
Lai, bởi vì đều từ chứng lý mà thành, cho nên chúng biết có thể hiểu rõ;
luận riêng biệt thì lùi
lại kết luận về môn thứ sáu trước đây.

Tám là luận gồm chung về đức trên đây, tất cả đều là tướng tốt thuộc nghiệp thanh tịnh của quả Phật, chúng nhìn có thể biết; luận
riêng biệt thì đây là
kết luận về môn thứ tám trước đây.

Chín là luận
gồm chung về đức trên đây, tất cả đều là pháp
công đức to lớn mà
thành thân Phật, tất cả đều soi chiếu rõ ràng rộng
khắp mười phương, chúng biết có thể hiểu rõ; luận riêng biệt thì vượt lên
trên kết luận về môn
thứ mười trước đây.
Mười là luận gồm chung về đức trên đây, tất cả đều là thần lực
tự tại không thể nghó
bàn của Như Lai; luận riêng biệt thì lùi lại kết
luận về môn thứ nhất trước đây.

Vả lại, mười
môn trên đây cần phải dùng lý của sáu tướng
dung hòa thâu nhiếp chọn
lấy mới hiển bày mà thôi.

Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về chúng nhìn thấy diệu dụng trong ánh
sáng của thân Phật, trong đó
có ba: Một, thấy diệu dụng trong ánh
sáng phát ra từ lỗ chân lông của Phật có mười câu, câu đầu
là gốc, chín câu còn
lại là ngọn, là sự việc trong ánh sáng và pháp
môn, có thể biết; hai,
từ “Nhó thời chư Thiên phục kiến…” trở xuống là
trình bày về thấy diệu
dụng trong ánh sáng phát ra từ thân của Phật; ba, từ “Hựu đổ tự tại…” trở xuống là thấy diệu dụng lợi ích cho chúng
sinh trong thần lực của Phật.
Ngay trong ánh
sáng của thân có hai: Trước là thấy phát ra ánh
sáng nhiều màu sắc; sau từ “Hựu Phật thân…”
trở xuống là phát ra ánh
sáng quý báu tuyệt diệu.
Trong phần trước có bảy câu: Một là ánh
sáng chiếu rọi pháp giới. Hai từ
“Thị hiện…” trở xuống là trong ánh
sáng hiện rõ
thuyết pháp.
Ba từ “Hiển hiện
A-tăng-kỳ…” trở xuống là trong ánh sáng hiện rõ
trang nghiêm khác lạ, trong vô tận đời kiếp là giải thích về nghóa không
cùng tận. Bốn từ “Tất
phổ chiếu…” trở xuống là trong ánh sáng hiện rõ
Đức Phật làm lợi ích
cho chúng sinh trong quốc độ. Năm từ “Hiển hiện…” trở xuống là hiện rõ nhiều
Hóa thân. Sáu từ “Phổ chiếu vô
lượng…” trở xuống
là chiếu rọi tận cùng pháp giới. Bảy từ “Trì
nhất thiết…”
trở xuống là trình bày
về ý phát ra ánh sáng.

Trong phần sau
là nhân của ánh sáng phát ra, nghóa là Chân
như bình đẳng là nơi an
trú của Phật, từ đó sinh ra.
Trong phần hai là thân phát ra ánh
sáng quý báu tuyệt diệu có hai:
Trước nêu ra ánh sáng phân rõ về nhân có ba: Một là
công đức; hai là
Đại nguyện; ba là không phóng dật.
Sau sinh ra vô lượng là hiển bày về
diệu dụng của ánh sáng.

Trong phần ba trình bày về thấy diệu dụng lợi ích cho chúng
sinh trong thần lực của
Phật có hai: a) Gồm chung lợi ích cho
chúng sinh; b)
Từ “Ư nhất thiết…” trở xuống là lợi ích
nhiều cho Bồ-tát. Trên đây là
Đại chúng
nhìn thấy thân mây pháp giới của Phật, xong.
Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về ý của Đức Phật hiện
ra thân mây này, trong đó có hai:
1) Hiện rõ thân mây này làm lợi ích cho chúng sinh, khiến cho thuận theo Chánh hạnh;
2) Từ “Như Lai hiển hiện…” trở xuống là khiến cho chúng sinh nhận biết về đức thù thắng
tự tại vô biên của Phật.
Trong phần một Đại Bi che phủ khắp nơi là trình bày về tâm
hiện bày công đức của
Phật, trí tuệ trang nghiêm là hiển bày về đức đã
thị hiện, nghóa là nhắc
lại đức đã hiện rõ ở văn trên nêu ra, bởi vì đều
là hiển bày về Đại Trí trang nghiêm.

Từ “Dục linh…” trở xuống là chính thức hiển bày về việc đã
làm, trong đó có ba: Một-
Lợi ích dần dần tùy theo phần vị có sáu câu,
tức là lợi ích của
sáu phần vị như Tín…, ở trong quả vị đạt được pháp
sâu xa là
Đại Niết-bàn, đầy đủ ánh
sáng trí tuệ là Đại Bồ-đề, còn lại
có thể biết.
Hai- Từ “Mãn túc…” trở xuống là lợi ích dần dần tùy theo
công hạnh, trong đó cũng
có sáu câu:
1) Tâm kiên cố mong cầu quả;
2) Từ “Bất hoại pháp tánh…” trở xuống là quán xét hiểu rõ đối với pháp;
3) Từ “Mãn túc…” trở xuống dựa vào hiểu biết phát khởi thực hành;
4) Từ “Thành tựu thanh tịnh…” trở xuống là thực hành thành tựu tiến vào chứng;
5) Từ “Cụ túc tu…” trở xuống là trình bày về chứng đầy đủ-đức tròn vẹn gọi là hạnh Phổ Hiền;
6) Từ “Thành tựu Như Lai…” trở xuống là nhân tròn vẹn đạt được quả.

Ba- Từ “Viễn ly…” trở xuống là lợi ích tùy theo nghóa
sai
biệt, trong đó có ba:
1) Khiến cho xa rời tà ma, đạt được Chánh trí nguyên;
2) Khiến cho thường thấy Phật, đạt được Đại trí đoạn;
3) Khiến cho thường dựa vào Phật,
đạt được Pháp nhập chúng.

Trong phần hai
là khiến cho chúng nhận biết về đức vô biên
của Phật, hiện bày vô
số pháp thiện thanh tịnh tương tự như vậy, tổng
quát nhắc lại đức đã
hiện rõ ở văn trên. Bởi vì đều là tướng
thuộc thiện
căn thanh tịnh của Phật,
điều phục chúng sinh mà tổng quát nêu ra ý ấy.
Vì sao hiện rõ đức để
mà điều phục chúng sinh? Nghóa là đều khiến
cho biết công đức to lớn của Phật.
Chính thức hiển bày về việc đã làm có hai: Đầu là riêng
biệt phân rõ,
sau là tổng quát kết luận.
Trong riêng biệt có năm:
1) Khiến cho nhận biết về đức đầy đủ của Phật;
2) Từ “Như Lai…” trở xuống là dụng rộng rãi;
3) Từ “Bổn sở…” trở xuống là quả cao nhất;
4) Từ “Thành tựu Pháp Vương…” trở xuống là trí tròn vẹn;
5) Từ “Thành tựu tối thắng…” trở xuống là đức sâu xa, nghóa là Thể thanh tịnh-Đức đầy đủ-Tướng
trang nghiêm
sáng ngời. Trong tổng quát từ “Ư nhất thiết kiếp…”
trở xuống là kết luận
về đức vô tận, bởi vì riêng biệt giải thích khó đầy
đủ cho nên tổng quát
gồm chung để kết luận.
Trong phần thứ
sáu là
Thiên Vương cung kính
thưa thỉnh, thiện
lai là trình bày về Phật
đầy đủ đức pháp giới, không chuyển động mà
đến, khéo ứng cơ mà
đến, thuận với lý mà đến.
Trong phần thứ bảy là Đức Phật nhận lời thưa thỉnh thành
tựu lợi ích, có hai:
Đầu là lợi ích lên trên cung điện; sau từ “Nhó thời
Thế Tôn…” trở xuống
là lợi ích lên trên pháp tòa.

Trong phần đầu có hai: Trước
là nhận lời thưa thỉnh lên trên
cung điện; sau từ “Nhó
thời…” trở xuống là trình bày về tướng của lợi ích.
Trong phần trước
có hai: Một, lên trên cung điện ở cõi này, vô biên tướng hải là tướng trang nghiêm của Phật, khiến cho
Thiên Vương hoan hỷ… là chính thức trình bày về ý nhận lời
thưa thỉnh, tức là lên trên cung điện… trình bày về cơ duyên
khế hợp. Hai, từ “Như thử…”
trở xuống là kết luận
hội tụ mười phương lên trên cung điện viên mãn.
Trong phần
sau là tướng của lợi ích
có ba: Một, lợi ích về nơi chốn trang nghiêm có mười câu có
thể biết. Hai, từ
“Nhó thời…” trở xuống là trình bày về
Thiên Vương đạt được lợi ích của Định. Trong đó đầu là Chánh niệm không tán loạn, chính thức trình bày về đạt được Định;
sau là dựa vào Định
tăng thêm thiện. Tăng thêm thiện có bốn:
1) Tâm tiến lên;
2) Tâm hoan hỷ;
3) Tâm Bồ-đề;
4) Tổng trì. Ba, khiến cho Thiên Vương nhớ lại thiện nghiệp đời trước của mình ca ngợi Phật.

Trong phần hiển bày về nơi chốn lợi ích, có hai: Trước
là thế giới này, nghóa là ca ngợi mười Đức
Như Lai trước mười vị Phật ở cõi trời Dạ-ma trước đây, nhờ vào đó hiển bày dần dần
sâu xa vượt qua trước,
lý thật thì nối thông
với tất cả chư Phật. Sau là kết luận về mười phương.
Trong phần hai là lợi ích lên trên pháp tòa, có hai: Trước là lên
trên pháp tòa ở thế giới này, sau là lên trên
pháp tòa ở mười phương.

Trong phần trước, có hai: Trước là lên trên pháp tòa,
sau là
tướng của lợi ích.

Trong tướng của lợi ích, có hai: Trước
là lợi ích của pháp, một
là hiện rõ thân giống
như thân của chư Phật ba đời, hai là ứng cơ
thuyết pháp, ba là trình
bày về Pháp thân Vô trước. Sau là trình bày về
lợi ích của sự việc và kết luận đều có thể biết.

------------------------------

<詞>Phẩm 20: ĐÂU SUẤT THIÊN CUNG BỒ TÁT VÂN TẬP TÁN TÁN PHẬT</詞>

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Trình
bày về Như Lai sắp thuyết ra diệu pháp thì nhất định có những người tài năng và trí tuệ theo đến, như
điện chớp mây cuộn đầy khắp hư không, quy tụ ở
pháp giới, đều dùng kệ tụng tuyệt diệu ca ngợi thật đức của Phật, cho nên dùng làm tên gọi.
Lại nữa, Thiên Cung là nơi chốn, Bồ-tát biểu
hiện cho người, Vân Tập là thân nghiệp tự tại,
Tán Phật là công đức của
ngữ nghiệp, dựa theo
thân-ngữ và nơi chốn dùng làm tên gọi đầu đề.

Còn lại phần
B là Ý đưa ra và phần C là Tông thú đều giải
thích giống như trước,
chỉ có phần Gia hộ-Ca ngợi đức của Bồ-tát và lợi
ích của ánh sáng là khác nhau. D.
TRONG PHẦN GIẢI THÍCH VĂN, có bốn:
Một-Quy tụ chúng;
hai-Phát ra ánh sáng; ba-Ca ngợi chúng; bốn-Ca ngợi Đức Phật.

Trong phần một
là quy tụ chúng: Trước là cõi này quy tụ, sau
là mười phương quy tụ.

Trong phần trước có ba:

Nêu ra phần vị vốn có.

Từ “Nhất nhất Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về quy tụ đến.

Từ “Dó chánh trực…” trở xuống là hiển bày về đức.

Trong phần một, Phật lực là hiển bày về nhân của quy tụ,
các phương là hiển bày
về phần lượng. Nước tên gọi Kiên Cố là biểu
hiện rõ ràng về hành
thành tựu làm chỗ dựa cho nên khó hủy hoại. Phật và Bồ-tát cùng tên gọi là Tràng,
 biểu hiện khéo léo hồi hướng vốn là nhân quả một mình vượt ra thâu nhiếp chế phục. Màng lưới báu che phủ
thân biểu hiện cho đức
đầy đủ. Phát ra ánh sáng có công dụng rộng lớn.
Trong phần ba là ca ngợi về đức,
có hai: Một, ca ngợi về
hành đức ấy. Trong đó có hai: Trước là
Tự hành, sau từ
“Nhất thiết chúng
sinh…” trở xuống là hạnh
Lợi tha. Nghóa là từ Thập Địa trở
về sau, cùng với
tất cả chúng sinh đồng
thời đối với thân của Bồ-tát này, trong từng
niệm quán xét nhìn thấy,
từng pháp môn riêng biệt đều dẫn dắt thâu
nhiếp mới lạ, cho nên nói là ngắm nhìn không hề
thỏa mãn. Hai, từ
“Thử Bồ- tát…” trở xuống
là hiển bày về pháp môn đã đạt được. Trong đó: Đầu là tổng quát,
sau từ “Sở vị…” trở xuống là
riêng biệt. Có mười
loại pháp môn:
1) Thân đi lại khắp nơi;
2) Trí thấy lý;
3) Nhiều thân khắp nơi; Tiến vào dụng của quả;
5) Đạt được trí về quả;
6) Ánh sáng phương tiện khéo léo;
7) Phân rõ rộng ra;
8) Duy trì sâu xa;
9) Thấy pháp giới;
Khắp nơi hư không. Cần phải dùng sáu tướng dung hòa thâu
nhiếp để suy nghó.

Trong phần hai là phát ra ánh sáng: Hai
đầu gối phát ra là
vượt qua ngón chân trước
đây, biểu thị cho hành dần dần thù thắng. Vả lại, đầu gối có tác dụng của co duỗi đi đến, biểu thị cho tướng của hồi
nhân- hướng quả tiến lên trên cao. Trong đó có bốn:
1) Nơi phát ra;
2) Số lượng ánh sáng;
3) Đã chiếu rọi;
4) Duyên nhìn thấy, nghóa là nhân
thì cùng thực hành, quả
thì cảm đến hội tụ, cho nên nhìn thấy.
Trong phần ba là ca ngợi về đức của chúng, có hai: Trước là riêng
biệt ca ngợi, sau là tổng quát kết luận.
Trong phần trước
có hai: Một, trình bày về niềm vui, nghóa
là dụng giải thoát không
thể nghó bàn của Phật; hai, trình bày về pháp
đã đạt được. Trong đó có năm:

Đạt
được thân pháp giới.

Từ “Đắc vô ngại…” trở xuống là trình bày về đạt được tâm pháp giới, trong đó có bốn: a)
Tâm Tam-muội; b)
Tâm vô trước; c)
Tâm vô ngại; d)
Tâm ly cấu, tâm quý báu là chứng tâm cho nên có thể lìa
xa cấu nhiễm.

Từ “Đắc Phật vô lượng…” trở xuống là hiển bày về đạt được
Phật lực, đầu là nêu ra, từ “Quyết định…”
trở xuống là giải thích hiển bày.

Từ “Đắc chư…” trở xuống là trình bày về đạt được pháp chứng của Phật, đầu là nêu ra, từ
“Nhập thâm…” trở xuống là
giải thích, nghóa là tiến
sâu vào trí là chủ động chứng được pháp này, thanh tịnh
Pháp thân đều là đã chứng được pháp này.

5-Từ “Đắc nhất thiết…” trở xuống là trình bày về đạt được trí Phật,
 trong đó có mười câu: Câu đầu là tổng quát nêu ra, chín câu sau là riêng biệt giải thích.
Trong đó:
1) Trí dựa vào lý phát khởi cho nên nói là
sinh vào nẽo tốt đẹp;
2) Trí phát khởi sáng suốt;
3) Thành tựu Đại trí Kim Cang;
4) Kim Cang Dụ
định phá trừ ngu si vi tế. Trên đây là Bổn trí, dưới đây là trình bày về
Hậu trí.
5) Trí thâu nhiếp chúng sinh;
6) Trí tự tại;
7) Trí vô trước;
8) Trí chiếu rọi Tục. Đầu gọi là Học số, sau gọi là Cứu cánh.
9) Từ “Thiện trú…” trở xuống là trí chiếu rọi Chân. Trong phần sau
từ “Thành tựu…” trở xuống là tổng quát kết luận về vô tận. Những pháp này đều là trong phần vị cứu cánh,
Bồ-tát và Phật cùng một pháp giới, cho nên đều nói là đạt được pháp mà
Phật đạt được, nhưng dựa
vào phần vị của nhân nói là Bồ-tát mà thôi.

Trong phần bốn
là kệ ca ngợi Đức Phật có mười đoạn.

Thứ nhất, Kim Cang Tràng là nêu ra người thuyết giảng
riêng biệt, lấy Bồ-tát
này làm vị đầu tiên, bởi vì là Hội chủ, nương theo lực hiển bày về thuyết giảng làm chỗ dựa, bốn ý về quán xét khắp nơi giống như Hội trước
giải thích. Mười tụng ca ngợi về đức
Tịch Dụng vô ngại của Phật, trong đó phân năm:

Hai kệ trình bày về Phật không có sinh diệt mà thị hiện có:
Kệ đầu là chính thức phân rõ, trong đó nửa kệ
trước là không có sinh diệt, nửa kệ
sau là thị hiện có.
Kệ sau là dựa vào
so
sánh làm
sáng tỏ
sâu xa, nghóa là nửa kệ trước dựa vào yếu kém hiển bày về
sâu xa, đó là Dụng của Tịch chứ không phải là cảnh của bốn tâm cho nên khó
suy nghó; nửa kệ
sau dựa vào thù thắng hiển bày về
tuyệt diệu, đã không phải là cảnh
của bốn tâm thì cảnh giới ở đâu? Nghóa là trí
ấy vẫn là trí Phật và cảnh
thuộc trí đầy đủ của phần vị Phổ hiền, bởi vì
trí xứng với cảnh Phật thì
phải là trí Phật mới tận cùng, cho nên trình bày về sâu xa.

Có hai kệ trình bày về Phật không phải là
Sắc-Thanh mà thị hiện có, cũng kệ đầu là chính thức phân rõ, kệ
sau là dựa vào hiển bày. Nửa kệ trước cũng dựa vào yếu kém làm
sáng tỏ
sâu xa, nghóa là phàm
phu-Tiểu thừa và Địa tiền gọi là trí yếu kém;
nửa kệ sau dựa vào thù
thắng hiển bày về tuyệt diệu, nghóa là Địa thượng
chứng trí có thể làm căn bản của Phật, gọi là trí
Bổn nghiệp. Phần vị Thập Địa đầy đủ gọi là
thành tựu, tức là trí Phổ Hiền. Vả lại, thành
tựu cũng là trí Phật.

Có hai kệ trình bày về Phật không có đến-đi mà thị hiện có:
Kệ đầu chính thức phân rõ, kệ sau hiển bày về
sâu rộng. Nghóa là đến-
đi này tức là không có đến-đi, thân khắp nơi
các cõi, ngữ thuyết giảng nhiều về diệu pháp, ý luôn luôn trú trong vắng lặng. Lại ba câu trước là
hiển bày về rộng, một câu sau là hiển bày về sâu xa.

Có hai tụng trình bày về trí Phật không tác động mà thị hiện tác
dụng, cũng kệ đầu là chính thức phân rõ, hai câu
trước tiến vào chứng, hai câu
sau hiện rõ tác dụng; kệ
sau là hiển bày về
sâu rộng, nửa kệ
trước là sâu, nửa kệ sau là rộng.

Hai kệ sau cuối khuyến khích tu tập phân rõ về lợi ích, kệ đầu
là khuyến khích tu tập, kệ sau là phân rõ về lợi ích của thấy.

Thứ hai, dùng
tâm kiên cố quán về Phật, gọi là Kiên Cố
Tràng. Mười tụng phân ba:
1) Bảy kệ ca ngợi về đức thù thắng của Phật;
2) Hai kệ khuyến khích tu tập tiến vào;
3) Một kệ kết luận về lợi ích của thấy nghe. Trong một có năm: Một, có hai kệ trình bày về Thể-Dụng vượt lên trên tình thức, nghóa là đầu một kệ về
Thể sâu xa, tiếp nửa kệ về Dụng
rộng rãi, sau
nửa kệ về vượt lên trên tình thức. Hai, có hai
kệ trình bày về đức
sâu xa khuyến khích gần gũi, kệ đầu về đức
sâu xa, nửa kệ
trước nói về pháp sâu
xa, nửa kệ sau phát khởi thân thanh tịnh, nghóa là trình bày về thân thanh tịnh của Phật tùy thuận nhân duyên của vạn
hạnh mà khởi, nghóa là tánh vốn có làm nhân, pháp đã tu làm duyên.
Vì sao
hiển bày về đức này,
là trình bày thuận theo duyên khởi thì có thể thành
tựu pháp; kệ sau là
khuyến khích cầu tìm nghóa lý phương tiện. Ba, có
một kệ ca ngợi về Phật
khiến cho cúng dường rộng rãi thêm đức, nghóa là tâm thanh tịnh-tâm thường xuyên cúng dường khiến cho
thành Phật. Bốn, có một kệ ca ngợi về Phật khiến cho quán
sát tăng thêm hạnh
đức, câu đầu là đức
tăng trưởng, câu hai là thực hành lâu dài, câu ba là lìa xa phiền não, câu bốn là kết luận về
quán xét. Năm, có một kệ ca ngợi về đức quán xét hiểu rõ của bậc Đại nhân, nghóa là Phật tử
suy xét
đến cùng pháp tánh mới
hiểu biết rõ ràng.
Trong hai là khuyến khích tu tập, kệ đầu là khuyến khích phát khởi mong muốn cầu đạo, kệ
sau là khuyến khích báo ân cung
kính gần gũi.

Trong ba là kết luận về lợi ích, nửa kệ trước là kết luận ca
ngợi, nghóa là thấy Phật
kết luận về đức của Phật trước đây, nghe Phật
pháp kết luận về những
pháp mà bậc Đạo Sư đã thuyết giảng trước đây;
nửa kệ sau là hiển bày về lợi ích.

Thứ ba, trí lực dũng mãnh tận cùng nguồn gốc của biển Phật, gọi là
Dũng Mãnh Tràng. Mười kệ phân hai:
1) Bảy kệ đầu ca ngợi về Phật làm duyên thù thắng cho
sự tu hành;
2) Ba kệ sau hiển bày về đức tự tại của Phật.
Trong một: Kệ
một trình bày về Phật khó thấy, cần phải đầy
đủ Tín tâm thanh tịnh làm
nhân, Phật lực làm duyên mới có thể thấy
Phật, bởi vì
sắc vi tế hợp lại cho nên Phật khó mà thấy được. Kệ hai trình bày về thấy khó hết được, nghóa là cần phải dùng trí dũng mãnh
của Phổ Hiền mới tận
cùng nguồn gốc. Kệ ba trình bày về Phật khó
thành, nghóa là cần phải
dựa vào biển tâm hoàn toàn thanh tịnh của Thập
Địa mà sinh ra. Kệ bốn
trình bày về pháp của Phật khó gặp, đạt được
liền lìa xa cấu nhiễm. Kệ
năm trình bày về Phật khó gặp, thấy được có thể diệt trừ mê hoặc.
Kệ sáu trình bày về nghe rồi tin khó thành tựu, cần phải nhờ vào thiện hữu. Kệ bảy
so
sánh hiển bày về thù thắng, nếu
cảm hóa một người
khiến cho tin vào công đức của Phật thì hơn hẳn bố thí trước đây.

Trong hai là
hiển bày về đức tự tại của Phật, kệ một là Đức tròn

vẹn, kệ hai
là Dụng rộng lớn, kệ ba là Thể vắng lặng.

Thứ tư, bởi vì trong đêm đen
sinh tử hiện bày ánh
sáng trí tuệ
rạng ngời, gọi là Dạ
Quang Tràng. Mười kệ phân ba:
1- Một kệ ca ngợi về Dụng rộng lớn của
Phật, khắp mười phương đều thấy;
2- Bảy kệ trình bày về Dụng sâu xa
của Phật, dung hòa với lý mà phát khởi;
3- Hai kệ cùng kết luận về sâu rộng không có giới hạn tận cùng.
Trong hai là Dụng sâu xa: Kệ
một là Thể như nhau không có một cho nên hiện ra nhiều. Kệ hai là trình bày về không có hai mà hai,
hiện rõ trang nghiêm. Kệ
ba là trình bày về một-hai cùng dung hòa đức
vô tận, nghóa là Không
dụ cho Thể, Huyễn dụ cho Dụng, trước là ca ngợi Đức Phật ở cõi này,
sau là tương tự Đức Phật ở cõi khác. Kệ bốn
là dựa vào Thể khởi
Dụng. Kệ năm là Dụng tự nhiên không có công
sức. Nhiếp Luận nói:
“Như ngọc Ma-ni, như trống cõi trời, không suy nghó gì mà
sự việc tự nhiên thành tựu, như vậy không phân biệt mà thành tựu rất nhiều
Phật sự.”
Kệ sáu là trình bày về
Thể-Dụng vô ngại,
nghóa là ngay nơi Thể trở
thành Dụng mà không lạc mất Thể, cho nên nói là không hủy hoại pháp tánh; ngay nơi
Dụng thường là Thể mà không
phế bỏ Dụng, cho nên nói là không vướng vào pháp giới, do đó bởi vì
không vướng theo lý cho
nên luôn luôn Dụng không phế bỏ, bởi vì không hủy hoại tánh cho nên Dụng luôn luôn vắng lặng. Kệ bảy là cả hai dung
hòa tự tại, nửa kệ
trước dựa theo Thể bặt dứt đối đãi, nghóa là
Hóa-Phi hóa đều không thể có được; nửa kệ
sau dựa theo duyên thị
hiện Hóa-Phi hóa. Lại hai câu trước là nêu ra, hai câu
sau như thứ tự giải thích
có thể biết.

Lại giải thích kệ này trình bày dựa vào Chân phát khởi
Hóa để giải thích làm hai môn: Một là
Khai nghóa, hai là
Dung hợp. Trong môn Khai nghóa, Chân ứng đều có hai nghóa.
Trong Chân, một là nghóa về
Bất biến, nghóa là tuy
hiện hóa mà thường vắng lặng, câu đầu hiển bày
về điều này; hai là nghóa về
Tùy duyên, nghóa là không giữ tự tánh,
không có gì không hiện
ứng, cho nên nói cũng không phải là Phi hóa. Hai
là trong Hóa, một là
nghóa về Vô Thể tức Không, nghóa là giữ lấy
duyên không có tánh, cho
nên nói các pháp không có Hóa; hai là nghóa thuận theo duyên huyễn có, cho nên nói thị hiện có Hoá. Trong môn
Dung hợp cũng có hai nghóa, một là
Biệt hợp, hai là
Thông dung. Trong nghóa Biệt hợp, bởi vì
trong Chân, Tùy duyên tức là Bất biến, cho nên
cũng Chân-cũng
không Chân, không phải
Chân-không phải
không Chân, gọi là
Chân Pháp thân; trong Hóa,
Thể Không tức là huyễn có, cho nên
cũng Hóa-cũng không Hóa,
không phải Hóa-không phải không Hóa, gọi là

Phật Hóa thân. Trong nghóa
Thông dung, nghóa là dựa vào Chân vốn
Bất Biến để hiển bày
về Hóa vốn Thể Không, đây là Chân không phải
là không có-Hóa không
phải là có, bởi vì là Pháp thân không phải không có tác dụng của Hóa, bởi vì có nghóa
Không trong Hóa. Lại dựa vào Chân là Tùy duyên để hiển bày về Hóa là huyễn có, đây là
Hóa không phải là không có-Chân không phải là có, bởi vì là Hóa thân không
phải không có lý của
Chân, bởi vì có nghóa Tùy duyên trong Chân. Lại
bởi vì Tùy duyên là
huyễn có không khác với Bất biến là Thể Không,
cho nên hiện hóa nhiều
loại mà chưa từng không vắng lặng, Chân tánh
sâu thẳm không có gì đã từng không Hóa, Chân và Hóa dung hòa hoàn
toàn thành một pháp giới
thanh tịnh vô ngại, suy nghó có thể thấy.

Trong ba là hai
kệ cùng kết luận, kệ đầu kết luận về Thể sâu xa không có đáy, rộng lớn không bến bờ trước đây; kệ
sau kết luận về Dụng trước đây, trước là hiển bày về
sâu xa,
sau là làm
sáng tỏ
về rộng lớn. Thứ năm,
tuệ sâu xa vô ngại, gọi là Trí Tràng. Mười kệ phân ba:

Bốn kệ ca ngợi về đức dụng vô hạn của Phật;
2) Bốn kệ ca ngợi về một-khác vô ngại của Phật;
3) Hai kệ ca ngợi về sinh diệt tự tại của Phật.

Trong má»™t, hai
kệ đầu hiển bày về Dụng vô hạn, hai kệ sau trình bày về Đức vô cùng. Trong hai kệ đầu, trước là phân rõ về căn khí
cảm đến Dụng, nghóa là người tu hành có đủ Trí vô ngại và Bi vô hạn
thì khắp nơi mười phương
thường thấy chư Phật. Đây là hiển bày về Như Lai ở nơi Đại cơ ấy không có lúc nào tạm thời ẩn kín.
Nhưng có năm nghóa: Một, Một thân tròn vẹn rộng lớn, cho nên nói là mười
phương nhìn thấy; Hai, Một thân tức là tất cả, cho nên nói là nhìn thấy tất
cả chư Phật; Ba, Trình bày
về Dụng này chưa hề tạm hết, cho nên nói
là thường nhìn thấy;
Bốn, Hiển bày về Dụng này chưa từng không
vắng lặng, cho nên nói
là không có nơi đến; Năm, Làm sáng tỏ những pháp đã nói lại
sâu xa, cho nên nói là pháp cũng không vướng mắc.
Trong hai kệ sau là trình
bày về đức vô cùng, nghóa là tất cả các thân đã hiện rõ trước đây, mỗi một thân ấy đều thâu nhiếp công đức vô tận của
pháp giới, cho nên đối
với kiếp số không nghó bàn nói về công đức của một thân ấy hãy còn không thể hết được, huống gì tất cả các thân
khác, chúng sinh ba đời
cùng so sánh hiển bày về nhiều.
Trong hai là ca ngợi về một-khác vô ngại: Một kệ đầu là
pháp thuyết, nghóa là không có hai bởi vì pháp giới dung hòa, cho nên không thể nghó bàn.
Vì sao nói không thể không có hai
suy nghó bởi vì hiện
rõ nhiều
thân, không thể nhiều thân suy nghó bởi vì chưa từng
có khác nhau, không thể một-nhiều
suy nghó bởi vì không có hai pháp, không thể cả hai đều không phải là
suy nghó bởi vì
Thể-Dụng không khác,
vốn là viên dung khó suy
lường. Tiếp một kệ là dụ so sánh, tiếp một kệ là pháp-hợp,
sau cuối là một kệ giải thích không phải
là một-khác,
đều có thể biết.
Trong ba là
sinh diệt tự tại, một kệ đầu là trình bày về không
sinh diệt mà hiện rõ sinh
diệt, một kệ sau là trình bày về sinh diệt đã
hiện rõ vẫn là không sinh diệt.
Thứ sáu,
chiếu rọi lý đáng quý, cho nên gọi là Bảo Tràng.
Mười kệ phân hai:
1) Ba kệ đầu ca ngợi về thân tâm tự tại của Phật;
2) Bảy kệ sau ca ngợi về Phật xuất thế tự tại.
Trong má»™t, hai
kệ đầu trình bày về thân, kệ một là không có
hạn lượng mà hiện rõ
về hạn lượng, kệ hai là không có nơi chốn mà
khắp mọi nơi chốn; một
kệ sau là tự mình trình bày về tâm, câu trước
trình bày về không có
tám Thức-Tâm vương, câu tiếp trình bày về không
có tâm sở hữu, nửa kệ sau kết luận về Thể của pháp.

Trí Luận nói: “Phật
địa không có tâm-tâm pháp”. Hỏi: Nếu dựa theo Pháp thân thì có thể nói như trên; dựa theo thân thọ dụng
nếu không có tâm pháp,
thì lẽ nào có thể khiến cho Phật giống như loài phi tình hay
sao? Đáp: Nếu dựa vào Sơ giáo thì Phật địa có đủ tám
Thức thanh tịnh và hai mươi mốt
tâm sở, giả
sử nói không có thì chỉ
không có Thức nhiễm ô,
chứ không phải là nói không có thanh tịnh; lại do
Trí thù thắng chỉ nói có Trí, chứ không phải là nói không có Thức.
Nếu dựa vào
Chung giáo, thì chỉ là một
Trí tròn vẹn, bên trong chứng
được Chân như, bên ngoài khởi lên
Hóa dụng, cũng không có tâm vương-tâm
sở khác nhau và tám
Thức sai biệt. Theo Lương Nhiếp Luận thì quả
Phật chỉ là Như Như và
Như Như trí tự mình tồn tại. Nếu dựa theo Đốn
giáo thì bởi vì Thỉ giác
tức là giống như Bổn giác, không có sai khác về Thỉ giác, liền hợp với Trí này ngay nơi tướng tức là Như, tướng của
Trí cũng không còn, chỉ một
Diệu lý lìa xa ngôn ngữ-bặt dứt suy nghó làm
Phật quả. Nếu dựa theo
Viên giáo thì Lý và Trí đã tự nhiên dung hòa, tất
cả pháp giới đều là
Trí, nói mười để hiển bày về vô tận, cho nên
Trí này chưa từng không ngay
nơi pháp giới. Suy nghó về điều này.
Trong hai là bảy kệ, bốn kệ đầu trình bày về Phật ở cõi này, ba
kệ sau tương tự Phật ở cõi khác.

Trong bốn kệ đầu: Hai kệ
trước trình bày về Phật xuất thế để
làm lợi ích mà chính là
không có xuất thế, nghóa là một kệ đầu trình bày về
không xuất
thế thì có tổn hại, nửa kệ tiếp trình bày về
lợi ích của
xuất thế, nửa kệ sau
hiển bày thật sự không có xuất thế.

Kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Như Lai không xuất thế, cũng không độ
chúng sinh, chúng
sinh gượng phân biệt, là Phật độ
chúng sinh.” Giải thích
rằng: Trình bày về thân Thích-ca này lúc xuất thế
thì thường không có
xuất thế, không phải là nói riêng biệt dựa theo Pháp thân.
Hai kệ
sau giải thích về nguyên do không xuất thế, nghóa là
phàm luận về Phật xuất
thế thì đều đối với Thời-Xứ, nay suy ra hai điều
này đều không phải là
Đẳng giác, cho nên ngay nơi xuất thế mà không
có xuất thế. Sau là trình bày về căn cơ chúng
sinh
thuần thục, từ trong tâm mình thấy mặt trời
Phật mọc lên, nhưng Tự giác của Phật vốn
không phải là mặt trời trong sáng.

Trong ba kệ sau là tương tự Phật ở cõi khác: Một kệ đầu là
pháp thuyết về chính thức
tương tự, nửa kệ trước nhắc lại xuất thế trước đây, Phật ở cõi này xuất thế thì không có nghóa về xuất thế, nghóa là tâm chúng
sinh trước đây đã thấy Phật đều là hư vọng không có, bởi vì
ngôn ngữ đoạn mất; nửa
kệ sau là chính thức tương tự chư Phật ba đời
xuất thế, lý cũng giống
như vậy. Tiếp một kệ là dụ so sánh, nửa kệ trước dụ về Phật xuất thế tức là không có xuất thế, nghóa là phá tan bóng tối
gọi là mặt trời mọc
lên, mặt trời mọc lên thì bóng tối đã không còn,
bóng tối không còn thì
mặt trời không phải là mọc lên, cho nên xuất thế
tức là không phải xuất
thế; nửa kệ sau dụ về không xuất thế mà xuất
thế, xuất thế chỉ có
tên gọi. Một kệ sau cuối là pháp-hợp, nửa kệ trước kết hợp xuất thế tức là không có xuất thế, nửa kệ
sau kết hợp không có
xuất thế mà xuất thế,
xuất thế chỉ có tên gọi, vì thế cho nên không khác
với không xuất thế. Thứ bảy,
thường xuyên quán xét diệu lý, gọi là Tinh Tiến
Tràng. Mười kệ phân hai:
1) Một kệ nêu chung về chư Phật, nêu ra Đức giống nhau mà Ứng khác nhau;
2) Chín kệ chính thức ca ngợi Phật ở cõi này. Trong 1, thân giống nhau là Pháp thân giống nhau, nghóa là
công đức giống nhau, nửa
kệ sau Ứng khác nhau cũng là Dụng giống
nhau. Ý văn thì lý thật
về Thể đức của chư Phật như nhau, vốn có khác nhau thì đều là tùy theo ứng hiện. Công đức này như nhau, như
Vô Tánh Nhiếp Luận nói: “Ở trong Pháp thân dựa vào ý thích làm việc không
có công đức sai biệt,
tức là khai mở rõ ràng đến được tánh bình đẳng
của tất cả chư Phật. Nơi
dựa vào không sai biệt là bởi vì tất cả đều dựa
vào trí thanh tịnh. Ý thích
không sai biệt là bởi vì tất cả đều có ý thích thù
thắng làm
lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Tác nghiệp
không sai
biệt là bởi vì tất cả
đều làm việc Lợi tha thọ dụng biến hóa.”
Trong hai là chín kệ, có hai: Đầu là ba kệ
sơ lược
giải thích;
sau
là sáu kệ mở rộng
hiển bày. Trong ba kệ đầu: Kệ một trình bày về
nghóa sâu rộng của cảnh, giải thích về nghóa giống nhau trước đây.
Kệ hai trình bày về thân không phải là căn-cảnh
trong ngoài, giải thích về
thân giống nhau trước
đây. Kệ ba là tùy cơ thấy sai khác, giải thích về
Ứng sai khác trước đây.
Trong sáu
kệ sau: Một là hai kệ trình bày về
Thể của Pháp thân không phải là phạm vi
số lượng, kệ trước là pháp
thuyết, kệ sau là dựa
theo dụ. Như tùy tiện chấp về Ngã vốn không hề có
gì, dù cho bốn Trí-năm
Nhãn suy nghó cũng không đạt được, bởi vì
không có vật gì. Đây
là nêu ra vọng chấp về tình có mà lý không, không phải là cảnh của
Thánh trí, để
so
sánh với Pháp thân là lý có mà tình
không, không phải là
phần vị dưới mà suy lường được. Hai là tiếp một kệ trình bày dựa vào Thể hiện rõ Tướng, tiếp một kệ thuận theo duyên
thấy Dụng, tiếp một kệ
trình bày về Dụng thành tựu lợi ích, sau cuối một
kệ hiển bày về Dụng rộng lớn. Thứ tám,
tuệ thanh tịnh soi chiếu Thật, chướng ngại nhiễm ô
đã loại trừ, gọi là
Ly Cấu Tràng. Mười kệ phân bốn:

Ba kệ trước ca ngợi thân-trí thanh tịnh của Phật, trong đó: Một kệ trước ca ngợi về trí thanh tịnh lợi ích cho thế gian; hai kệ
sau ca ngợi về thân
thanh tịnh, kệ một là giúp đỡ Ứng hiển bày Chân, kệ hai là dựa
vào Chân hiện rõ Ứng.

Tiếp hai kệ ca ngợi về ba nghiệp thanh tịnh: Một kệ đầu là ý nghiệp
thanh tịnh, nghóa là danh đức tuy cao mà tâm thường an ổn; một
kệ sau là thân ngữ có thể biết.

Tiếp ba kệ là dung hòa thâu nhiếp
thanh tịnh: Kệ một là
soi chiếu lý. Kệ hai là hiện
rõ sự. Kệ ba là dung hòa hiển bày vô ngại.
Bởi vì Khí thế gian tức là Trí chánh giác, cho nên nói
tức là thân. Thân này
không có tánh, lại chính là Chân đế, cho nên nói
tức là Tối thắng. Tối thắng vốn là lý thuộc
Thắng nghóa. Nửa kệ
sau giải thích hiển bày về vô
ngại, là dung hòa thâu nhiếp trước đây, ngay trong
nhau đều nhận biết
điều ấy, cho nên gọi trí vô ngại.

Hai kệ
sau cuối là lìa
xa vọng-tịnh, kệ một là phai
mờ cảnh-trí,
nói Bồ-đề là Phật chủ động soi chiếu, Pháp là
thụ động soi chiếu vắng lặng, bởi vì không có đạt được; kệ
sau là bặt dứt ba đời, nghóa là đối với ba thời gian cầu trí chứng trước đây hoàn toàn không có đạt được, bởi vì
lìa xa sự trái ngược ấy.
Thứ chín,
hiểu rõ Ứng thân Phật tức là giống với Chân, cho
nên gọi là Chân Thật
Tràng. Mười kệ phân hai:

Hai kệ trình bày về Đại Dụng không có nơi chốn của Phật, trước là một kệ trình bày về nơi đã Ứng,
sau là một kệ trình bày về
Dụng thuộc tám tướng của thân đã hiện bày.

Tám kệ về thông hiểu Dụng giống như Thể.
Trong đó: Một, hai kệ dựa theo
suy nghó và thấy mà hiểu, trước là một kệ nêu ra Dụng,
sau là một kệ giống
như Thể. Hai, tiếp một kệ dựa
theo thân-độ, nửa kệ
trước nêu ra Dụng, nửa kệ sau hiểu về Thể. Ba,
tiếp một kệ dựa theo
Hóa Dụng mà hiểu có thể biết. Bốn, tiếp hai kệ
dựa theo đức của
Phật mà hiểu, câu đầu là nêu ra đức
của Niết-bàn, câu tiếp là nêu ra đức của Bồ-đề, nửa kệ
sau như thứ tự giải thích có thể biết; trong kệ tiếp, nửa kệ trước là nêu ra đức của thần lực, nửa kệ
sau là tổng quát hiểu về không
vốn có gì. Năm, hai kệ sau cuối dựa theo nhân quả
của Phật mà hiểu,
một kệ đầu là nhắc lại tất cả nhân quả, nghóa
là trình bày về Phật xưa kia nhận biết đạo lý duy tâm, hiểu rõ ràng về các pháp thảy đều như
vậy không thể nào đạt được, cho nên mau chóng
thành tựu Chánh giác,
vì vậy quả Phật bình đẳng lìa xa ngôn từ cùng
một Chân Thể; một kệ
sau là đích thực thông hiểu hiển bày về Thể, có thể biết.

Thứ mười, khéo léo hiểu rõ về pháp
thành Phật, cho nên gọi
là Pháp Tràng. Mười kệ phân bốn:

Hai kệ trình bày về lợi ích gần gũi Phật, trước là một kệ tổng
quát nêu ra; sau là một kệ giải thích về thành
tựu, nửa kệ trước nêu ra
tổn hại để hiển bày về lợi ích, nửa kệ sau
làm sáng tỏ về lợi ích
khác với tổn hại.

Tiếp ba kệ trình bày về lợi ích của phát tâm ở nơi Phật: Kệ một
là tổng quát nêu ra; kệ hai là giải thích về thành
tựu; kệ ba là so
sánh hiển bày về thù thắng, nghóa là không biết phương tiện phát tâm
Bồ-đề hãy còn không phải là cúng dường, nếu có thể
một niệm phát tâm
Bồ- đề thì chính là cúng dường pháp Tối thượng.

Tiếp hai kệ trình bày về lợi ích nghe pháp ở nơi Phật, trong đó:
Kệ một nhờ vào nghe mà mong cầu nhân, kệ hai nhờ
vào nghe mà
đạt được quả.

Sau cuối là ba kệ trình bày về lợi ích phát sinh hiểu biết ở nơi
Phật, trong đó: Đầu là hai kệ nêu ra tổn hại để
hiển bày về lợi ích, kệ một là nêu ra, kệ hai là
giải thích, nghóa là từ vô lượng kiếp quá khứ bởi vì không nhận biết về pháp này cho nên đã không
thành Phật, ngày nay dù cho tận cùng đời kiếp vị lai nếu không nhận biết về pháp thành Phật

này thì cuối
cùng cũng không thành; sau là một kệ làm sáng tỏ về
lợi ích khác với tổn
hại, nửa kệ trước nêu ra pháp thuộc Lý cảnh, nửa
kệ sau là lợi ích thành
tựu pháp thuộc Trí hành.

Trăm kệ ca ngợi Phật của mười Bồ-tát trên đây, hoặc tổng
quát làm một, bởi vì dung hòa quy tụ làm một pháp giới Phật; hoặc
riêng biệt, bởi vì trăm
môn đức của mười Phật sai biệt; hoặc giống nhau, bởi vì trăm kệ không có kệ nào không phải là hiển bày về đức của
Phật; hoặc khác nhau, bởi vì mỗi một môn khác biệt nhau; hoặc thành tựu,
 bởi vì đức này duyên với Phật quả mà tồn tại; hoặc hủy hoại, bởi vì đều
trú trong pháp của mình
vốn không tạo tác; dựa theo suy nghó về điều
này. Lại sau kệ này phải
có kết luận gồm chung về thế giới mười
phương, nhưng vì các
Bồ-tát trước đều nói quán xét khắp nơi
mười phương, là đã hiển bày rõ ràng cho nên không bàn luận nữa. Ở các Hội trước đều
dựa theo đây mà nhận biết.

---------------------------

<詞>Phẩm 21: KIM CANG TRÀNG BỒ TÁT HỒI HƯỚNG</詞>

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Đức thành tựu không hủy hoại dụ cho tên gọi của
Kim Cang, một mình vượt khỏi thế gian nêu ra Tràng để biểu hiện. Trong này tức là dùng
Kim Cang làm Tràng,
Bồ-tát là người, người có đức ấy, là
Hữu tài thích.
Xoay chuyển thiện căn của mình hướng về ở ba nơi, đây là pháp thuộc hành đức, gọi là hồi hướng của
Kim Cang Tràng, là Y chủ thích cũng gồm chung
Hữu tài thích. Lại gồm
chung Trì nghiệp thích, bởi vì người và pháp ngay trong nhau. Nhưng bởi vì dựa vào người để hiển bày về pháp, cho nên nêu ra cả hai vậy
thôi. Đây tức là thuận theo đức nêu ra tên gọi,
dựa vào người để
hiển bày về pháp.

Ý
ĐƯA RA: Phần
Tựa đã rõ ràng, phần Chánh Tông cần phải
hiển bày, cho nên tiếp theo đưa ra.

TÔNG THÚ: Mười loại Đại Hạnh hồi hướng ba nơi, là
Tông của phẩm này. Lại dùng Hạnh hải vô biên tùy
thuận với Đại
Nguyện không bến bờ, thành tựu đức dụng của pháp giới
Phổ Hiền làm nơi
hướng đến của Tông này, dẫn ra rõ ràng như văn sau.

TRONG GIẢI THÍCH VĂN có sáu phần:

Phần Tam-muội.

Phần Gia hộ.

Phần Phát khởi.

Phần Căn bản.

Phần Thuyết giảng.

Phần Chứng thành.

Bởi vì tụng riêng biệt tùy theo hạnh, cho nên không có phần
Kệ tụng, giống như phẩm
Thập Địa sau này.
Trong phần một là
phần Tam-muội, vì
sao nhập Định cũng
có sáu ý giống như
trước. Trong giải thích văn có ba: Một là nêu ra
người nhập Định, bởi
vì thuyết giảng về pháp Kim Cang, pháp cao vượt cho nên không khác tên gọi là Nhập; hai là tiếp nối uy lực; ba là chính
thức hiển bày về người
Nhập. Bồ-tát là nêu ra người khác với pháp, chọn lấy không phải là Định thuộc quả. Minh trí thì luận chung có bốn nghóa:

Định
thuộc gia hạnh ban đầu, gọi là Minh của chứng trí cho nên nói là
Minh trí, như Minh đạt được-Minh tăng lên…
2) Dựa theo Định thuộc trí
Căn bản, trí Căn bản chứng lý phá trừ Vô minh… gọi là
Minh trí, như Tam-muội Quang Minh của Đại thừa, Địa Luận giải thích:
“Quang Minh là bởi vì đối trị với Vô minh.”
3) Dựa theo Định thuộc trí Hậu đắc,
hiểu rõ về
sở duyên cho nên gọi là Minh trí.
4- Dựa theo Định thuộc
trí tự tại, nghóa là trí tròn vẹn của
Phổ Hiền soi chiếu rõ ràng pháp
giới, cho nên gọi là
Minh trí, như ngọc Pha-lê Đính Quang soi chiếu thế
giới của mười Đức
Phật… Trong này, Trí là Thể, Minh là Dụng. Vả lại, nếu Tam thừa dựa vào phần vị mà nói, thì trong này chỉ là Định ban
đầu. Nếu dựa theo đức
của Kim Cang Tràng mà luận, thì có đủ Định
thuộc hai trí Căn bản-Hậu
đắc. Nếu dựa theo Viên giáo để hiển bày, thì
chỉ căn cứ vào một môn
Hậu đắc. Tam-muội, Trung Hoa nói là Đẳng
Trì, giải thích như trước.

Trong phần hai là phần Gia hộ, có ba: Một
là tổng quát hiển bày
về chủ động gia hộ; hai là phân rõ về gia hộ qua
việc làm; ba là chính
thức hiển bày về tướng gia hộ.

Trong phần một cũng có năm:

Trình bày về chư Phật hiện thân, nghóa là khắp mười phương
trăm vạn đều ở phân tán cách xa nhau, giống như
trước giải thích; lại
nhiều Đức Phật gia hộ thì thêm kính trọng pháp,
hiển bày cũng
giống như trước.

Cùng tên gọi thì có bốn ý giống như trước.

Tỏ ý khen ngợi đạt được Định.

Từ “Thiện nam tử…” trở xuống là trình bày về chỗ dựa đạt được Định, nghóa là mười phương chư Phật tự nói thực hiện gia hộ khiến
cho đạt được Định này.

Từ “Hựu Lô-xá-na…” trở xuống là Đức Phật ấy tự giải thích
về nguyên do thực hiện gia hộ, có bốn câu: a) Nhờ
vào nguyện lực vốn có của
Lô-xá-na mà khiến cho Ta thực hiện gia hộ; b) Nhờ vào thần lực hiện tại của
Lô-xá-na cảm đến với nhau cùng gia hộ; c) Nhờ vào
trí thanh tịnh bậc Thượng của Kim Cang Tràng cảm đến cho nên thực
hiện gia hộ; d) Nhờ vào thiện căn thuần thục của
các Bồ-tát thích hợp
nghe pháp này mà cảm được chư Phật gia hộ, vì
thế cho nên Kim
Cang Tràng cần phải tiến vào Định này. Lại trước
đây trong Thập Trú chỉ có lực thiện căn của mình chứ không có lực của
các Bồ-tát, trong
Thập Hạnh có lực của các Bồ-tát mà không có lực thiện căn của mình.
Trong này có đủ là hiển bày về tướng của phần vị
dần dần tăng lên, vốn là
sơ
lược phỏng theo trước sau. Trong bốn câu, hai câu
đầu là lực của quả, hai câu
sau là lực của nhân.
Vì sao phải có bốn lực này? Một là lực hiển
bày về gốc sâu dày của pháp tích lũy đức lâu
dài mà thành, hai là đức
thành tựu hiện tại làm cho có tác dụng gợi mở
căn cơ. Trên đây là lực
của Hóa chủ. Ba là lực của Trợ hóa, bốn là lực của cơ cảm.

Trong phần hai là phân rõ về gia hộ qua việc làm, có 22 câu: Đầu
là 10 câu nêu rõ đã thành tựu, sau là 12 câu
trình bày về việc đã làm.

Trong phần đầu chữ “Dục linh Bồ-tát” nối thông với
các câu sau,
10 câu phân ba: Một, bốn câu đầu là giúp cho các Bồ-tát đạt được Trí đức
tròn vẹn:
1) Mười trí Vô úy đối với duyên không sợ hãi gì;
2) Bốn mươi trí Vô ngại thường thuyết giảng không gián đoạn;
3) Trí tự tại ngay trong nhau tiến vào pháp giới duyên khởi;
4) Làm cho trí thuộc nhân tiến vào quả hiển bày thành tựu tâm rộng lớn vô cùng tròn vẹn là Đại Bi. Hai, ba câu tiếp là giúp cho các Bồ-tát đầy đủ phước đức:
1) Trình bày về thiện căn rộng nhiều;
2) Trình bày về khéo léo lìa nhiễm, nghóa là vô lậu vốn gọi là Bạch tịnh;
3) Trình bày về khéo léo rất sâu xa,
 nghóa là tiến vào pháp giới rộng khắp.
 Lại hiển bày về trùng trùng vô tận,
 bởi vì trong mỗi một môn thâu nhiếp tất cả các môn, cho
nên gọi là Phổ Môn,
nương theo Phổ Môn này mà tiến sâu vào pháp
giới, do đó đầy đủ
đức không có cùng tận.

Ba, ba câu sau
cuối là giúp cho các Bồ-tát khởi lên Dụng tự tại:

Khiến cho hiện bày Thần túc thông của Phật;
2) Khiến cho nghó đến Túc mạng thanh tịnh;
3) Khiến cho đạt được trí lực của các căn,
 nghóa là phân biệt cảnh Phật để giữ gìn căn cơ. Lại có việc làm trước đây,
 nghóa là giữ gìn thiện căn ấy khiến cho tăng trưởng.
 Vì thành tựu sự việc lợi ích như vậy, cho nên gia hộ.

Trong phần sau là trình bày về việc đã làm, có 12 câu phân hai: Một, ba câu đầu chính thức trình bày về việc đã làm, nghóa là thuyết giảng nhiều về
Chánh pháp: Một là tổng quát hiển bày
về nhiều môn;
sau là riêng biệt phân rõ, câu đầu trình bày về Trì thành tựu là phương tiện phát khởi
thuyết giảng, câu
sau chính thức hiển bày
về Thập Hồi Hướng đầy
đủ trọn vẹn đã nói, cho nên nói là Cụ túc.

Hai, chín câu
sau hiển bày về việc làm đã nói, phân ba: Ba
câu đầu dựa theo phần
vị:
1) Thâu nhiếp Địa tiền;
2) An lập Địa thượng;
3) Tiếp nối quả Phật. Ba câu tiếp dựa theo tu tập:
1) Khiến cho bắt đầu phát khởi Đại nguyện Thập Hồi Hướng;
2) Khiến cho thuyết giảng tiến vào hồi hướng thật tế;
3) Khiến cho nhận biết hồi hướng pháp giới rộng lớn. Ba câu tiếp dựa theo con người:
1) Khiến cho người gieo trồng thiện căn phát sinh hoan hỷ, lại bởi vì hồi hướng là pháp mà tất cả Bồ- tát cùng tu tập, cho nên đều hoan hỷ;
2) Trình bày về hồi hướng này là pháp mà tất cả chư Phật cùng tu tập, cho nên khuyến khích khiến tu;
3) Kết luận thành tựu về nhân hạnh, hạnh là Liễu nhân có thể biểu hiện về tánh, cho nên gọi là hộ trì.

Lại giải thích: Mười
câu trước là thành tựu hạnh Tự lợi của các Bồ-tát, mười hai câu
sau là thành tựu hạnh Lợi tha của các
Bồ-tát, nhưng cũng nối
thông với nhau. Lại đều đầu là tổng quát, sau là
riêng biệt. Đồng-dị,
thành-hoại dựa theo Địa Luận nên biết.
Trong phần ba là tướng gia hộ có ba: Trước là gia hộ bằng ngữ
nghiệp, tiếp là gia hộ bằng ý nghiệp, sau là gia hộ
bằng thân nghiệp.
Trong phần trước là gia hộ bằng ngữ nghiệp có chín câu,
ông thuyết giảng về pháp
này là tổng quát, còn lại là riêng biệt.
Ở đây thuyết pháp có hai loại:
1) Tha lực thuyết giảng, cũng là lực của quả, cũng là lực của Tăng thượng duyên, như kinh nương theo uy lực của Phật mà
thuyết giảng;
2) Tự lực có thể thuyết giảng, cũng là lực của nhân vị, cũng là lực của nhân duyên. Vì thế cho nên pháp này
dùng nhân quả tự-tha,
dung hợp thân-sơ mới có thể có thuyết giảng.

Trong Tự lực có tám câu: Đầu là ba câu trình bày về lực của
pháp thanh tịnh có tạo
tác:
1) Tổng quát, nghóa là đã trú trong nhà của Phật, thì lý nên thuyết giảng về pháp để làm gia nghiệp;
2) Riêng biệt, câu một là nuôi lớn công đức vô lậu, câu hai là tiến vào trí tuệ tổng trì vốn là ở trong nhà của Phật.
Tiếp là hai câu về lực của pháp thanh tịnh không có tạo tác:
1) Chứng được Thường thân của Phật;
2) Chiếu rọi Chân tánh của pháp. Sau cuối là ba câu hiển bày về lực thanh tịnh của thân:
1) Bạch tịnh như nhau là tất cả không giống như Nhị thừa;
2) Trú rộng rãi như nhau là tất cả Bồ-tát;
3) Trú vô ngại như nhau là tất cả Phật. Đây là Địa tiền mà nói tất cả Phật,
 là thuộc phần vị Phổ Hiền của Viên giáo, như trước sau đã nói.
Trong phần tiếp là gia hộ bằng ý nghiệp có hai: Trước là chính
thức gia hộ, sau là giải thích riêng về ý gia hộ.
Trong phần trước có mười câu: Một câu đầu là tổng quát, chín câu
còn lại là riêng biệt.

Trong riêng biệt: Đầu là
ba câu trao cho trí thuyết giảng:
1) Phân biệt Cú thân là Từ vô ngại;
2) Không có chướng ngại là Lạc thuyết vô ngại;
3) Vô ngại pháp minh và vô ngại pháp nghóa. Tiếp là ba câu trao cho trí thuộc ba nghiệp cùng giáo hóa, khiến dùng ba Luân giống
như Phật để thành tựu
giáo hóa có thể biết.
Sau cuối là ba câu trao cho trí thuộc nghi thức
thuyết pháp:
1) Khiến cho lúc thuyết pháp tâm không thiên lệch, chỉ làm lợi ích cho nên nói là hướng về phước trí;
2) Tiếp xúc đối với các pháp đều có thể phát sinh phương tiện khéo léo hiểu biết rõ ràng;
3) Đối với duyên đích thực thuyết giảng không có cùng tận. Lại đầu là nói về tâm, tiếp
là nói về hiểu biết,
sau là nói về việc làm. Tất cả mọi nơi là Đốn
thuyết, không gián đoạn
là Thường thuyết.
Phần giải thích riêng về ý gia hộ và thân gia hộ cùng với
phần Phát khởi, đều
giải thích như trước.

Trong phần bốn
là phần Căn bản, trước là nhắc nhở Đại
chúng, sau là chính thức hiển bày có hai: Trước là trình bày về Thể,
sau là
hiển bày về Tướng.
Trong phần trước có hai: Một là tổng quát nêu ra, hai từ
“Tất phổ…” trở
xuống là riêng biệt phân rõ về không nghó bàn. Đại
nguyện là tổng quát nêu
lên, nghóa là mong muốn gọi là Nguyện, sâu rộng
gọi là Đại, vượt quá
phạm vi hạn lượng gọi là Bất tư nghị. Đây là nguyện vô chướng ngại thuộc tự Thể của
Phổ Hiền có đủ tất cả đức dụng vô hạn của pháp giới, như đã nói ở
sau phẩm này. Toàn bộ các đức ở
trong một câu Đại nguyện
này, cho nên nói là Bất tư nghị. Nói tổng quát
tuy là như vậy, nhưng luận
riêng biệt thì có mười:

Điều
mong muốn không nghó bàn, nghóa là cần phải đạt
được Vô thượng Đại Bồ-đề.

Chịu đựng khổ đau không nghó bàn, nghóa là không có khổ đau nào bằng đường ác thế gian trải qua nhiều kiếp chịu đựng có thể hủy
hoại được nguyện này.

Nhận chịu phiền muộn không nghó bàn, nghóa là đối với
chúng sinh khó cảm hóa, vong ân bội nghóa não hại
Bồ-tát, Đại nguyện như
ban đầu nhiếp hóa không thay đổi.

Khó hủy hoại không nghó bàn, nghóa là không có
Thiên ma, Nhị thừa, dị thuyết nào có thể hủy hoại nguyện này
mà không thuận
theo cảm hóa.

Rộng lớn cho nên không nghó bàn, nghóa là tất cả pháp giới-
chúng sinh giới… như nói mười câu đến tận cùng.

Sâu xa cho nên không nghó bàn, hợp cùng pháp tánh như
tánh khởi nguyện.

Thâu nhiếp đức của Phật không nghó bàn, ngay nơi Thể thâu
nhiếp đầy đủ biển công đức rộng lớn vô hạn của pháp giới.

Sinh ra không nghó bàn, nghóa là dựa vào Đại nguyện này
sinh
ra tất cả các hạnh Ba-la-mật không thể cùng tận,
giống như biển rộng
sinh ra vật báu không bao giờ hết.

Đại
dụng không nghó bàn, nghóa là Đại nguyện vốn có thành tựu không có công phân rõ
sự việc, như Diệt định nghe tiếng nguyện
lực khởi lên…

Nghịch thuận không nghó bàn, nghóa là Đại nguyện ứng với khắp nơi, tương tự với cơ thành tựu lợi ích, nghịch thuận nhiều cách
không phải là phần vị dưới mà suy lường được.
Như vậy Thật đức của Đại nguyện vô tận, dựa vào quy phạm phân rõ làm mười, tất cả đều hiển bày như trong phần
Thuyết giảng
ở sau. Sau là riêng biệt cứu giúp khắp nơi… trình bày về Lợi tha rộng lớn,
 Học ba đời… là hiển bày về Tự lợi rộng lớn, đều có đủ mười nghóa trước đây, có thể biết.
Lại trong này,
đầu là Quán tướng, tiếp là Đại thiện, sau là
không khiếp nhược.
Trong sáu quyết định có ba loại, nghóa còn lại giống như
trước giải thích.

Trong phần
sau là hiển bày về Tướng,
có hai: Một, nêu ra
số
lượng hiển bày về thù
thắng, nghóa là ba đời cùng thuyết giảng hiển bày
về pháp yếu thù thắng;
hai, nêu ra tên gọi hiển bày về thù thắng, trước
là nêu ra tên gọi, sau
là dẫn ra ba đời cùng thuyết giảng để hiển bày
về thù thắng. Nêu ra tên
gọi thì nghóa về mười Hồi Hướng sơ lược đưa
ra năm môn:
1) Giải thích tên gọi;
2) Nghóa tướng;
3) Thể tánh;
4) Xác định phần vị;
5) Pháp hành sai biệt. Phần một là giải thích tên gọi: Một, Giải thích về tên gọi tổng quát, một
số tròn vẹn dựa vào quy phạm nói là mười, hồi hướng là
nghóa tức là Đới số
thích. Nhưng hồi hướng có ba: Một là dựa theo lý, rời bỏ tướng gọi là Hồi, tiến vào lý gọi là Hướng; hai là dựa theo lợi ích
chúng sinh, đạt được
lý không chứng gọi là Hồi, Đại Bi tùy theo có cứu
giúp chúng sinh gọi là
Hướng; ba là dựa theo Bồ-đề, thiện căn đã tu không mong cầu
Nhị thừa-Tam hữu gọi là Hồi, đích thực hướng đến
Vô thượng Bồ-đề gọi là
Hướng. Hai, Tên gọi riêng biệt:
1) Thiện căn của Bồ-tát cứu giúp phiền não-nghiệp-khổ cho các chúng sinh gọi là Cứu, khiến cho trú trong Bồ-đề gọi là Hộ, tuy thành tựu cứu hộ nhưng đối với chúng sinh soi chiếu tánh
bình đẳng, cho nên gọi là Ly tướng. Lại cứu giúp
là Đại Bi, lìa xa là Đại
Trí. Lại đầu là tâm bình đẳng rộng lớn, sau là
tâm không điên đảo. Hồi hướng là hạnh, nghóa là
dùng thiện căn hồi hướng thành tựu hạnh lìa xa tướng cứu giúp chúng
sinh như vậy, cho nên gọi
là Hồi Hướng, từ
những pháp hướng đến mà lập thành tên gọi.
2) Đối với Tam Bảo đạt được niềm tin bất hoại, dùng thiện căn này mà thành
tựu hồi hướng, đây là dựa theo chủ động xoay chuyển Thể của hành
làm thành tên gọi.
3) Học theo chư Phật ba đời đã thực hiện hồi hướng, gọi là giống như chư Phật,
 từ những pháp đã học mà lập thành tên gọi, gồm chung chủ động-thụ động xoay chuyển.
4) Bồ tát làm cho thiện căn đến tất cả mọi nơi, mà cũng hồi hướng cho tất cả mọi nơi, gồm chung chủ động-thụ động mà lập thành tên gọi.
5) Dùng kho tàng công đức vô
tận của mình đã thành
tựu mà thành tựu hồi hướng, từ hạnh chủ động hồi hướng làm thành tên gọi.
6) Bố thí bặt dứt ba Luân gọi là thuận
bình đẳng, đây cũng là
hạnh chủ động hồi hướng. Lại gọi là thiện căn
kiên cố, là rời bỏ ba
loại không kiên cố, thuận theo thành tựu ba kiên cố
mà gọi tên.
7) Dùng
thiện căn của tâm bình đẳng để thuận theo làm lợi ích cho
chúng sinh, từ chủ động-thụ động mà lập thành tên gọi.
8) Thiện căn phù hợp theo nhau, lấy thành tựu chỗ dựa của hồi hướng
làm tên gọi.
9) Không để cho ràng buộc nhau, không vướng mắc đối với kiến giải, tác dụng tự tại cho nên gọi là
giải thoát, như Giải thoát không nghó bàn… cũng là chủ động-thụ động kết hợp làm tên gọi.

10) Xứng với tánh phát khởi Dụng, nghóa là dùng thiện căn pháp giới hồi hướng
về pháp giới, ngay nơi
pháp mà lập thành tên gọi.

Phần hai là hiển bày về Nghóa tướng, có hai: Trước
là riêng biệt,
sau là gồm chung.

Trong riêng biệt: Bảy
loại trước là tùy theo Sự hành, ba loại
sau
xứng với Lý hành.

Trong bảy loại trước: Đầu
là một loại không trú vào Bi-Trí trình bày về hạnh căn bản. Tiếp là bốn loại trình bày về tướng của
hạnh, trong đó một là
tâm kiên cố phát khởi hạnh, hai là dựa theo Phật phân rõ về rộng rãi,
 ba là dựa theo Pháp hiển bày về khắp nơi, bốn là dựa theo Đức hiển bày về nhiều. Sau cuối là hai loại trình bày về
hạnh thành tựu, một là
Trí hạnh thành tựu, hai là Bi hạnh thành tựu.

Trong ba loại sau: Một là
chính thức cùng với lý kết hợp để
hiển bày về Thể sâu
rộng, hai là trình bày dựa vào Thể phát khởi Đại
dụng không giới hạn, ba
là hiển bày về Thể-Dụng vô ngại tự tại viên minh.
Trong phần
sau là luận gồm chung, trong mỗi một hạnh đều có
ba loại hồi hướng, nghóa
là dùng thiện căn hồi hướng về Chúng sinh, hồi hướng về Bồ-đề, hồi hướng về
Thật tế, những loại này đều có hai
nghóa cho nên thành tựu hồi hướng. Một, chúng
sinh có hai:
1) Bởi vì thiện căn của Bồ-tát cần phải dựa vào chúng
sinh mà thành tựu, là phạm vi của
chúng sinh, do
đó pháp vốn như vậy
vẫn hướng về chúng sinh;
2) Nói chung đã là Bồ-tát chắc chắn vì hóa độ chúng sinh, thì cứu giúp chúng sinh đầy đủ cho
nên lý cần phải hướng
về họ, không như vậy thì giống như Nhị thừa tự
độ mình chứ không phải là Bồ-tát. Hai,
Bồ-đề có hai:
1) Thiện căn của Bồ-tát dựa vào Đại
Bồ-đề mà thành tựu, bởi vì
từ Đại Bồ-đề phát ra, vốn là phạm vi của Đại
Bồ-đề, pháp vốn như
vậy quy về Đại Bồ-đề;
2) Nói chung là tâm ý của Bồ-tát chắc chắn vì cầu Vô thượng Bồ-đề,
 vì thế cho nên phép tắc trong gia tộc là hướng về Đại Bồ-đề.

Ba, Thật tế có hai:
1) Thiện căn của Bồ-tát duyên theo thành
tựu vô tánh, dựa vào
Chân mà thành tựu, bởi vì từ Chân phát ra, là vật của Chân, pháp vốn như vậy mà hướng về Chân;
2) Nói chung là Bồ-tát nhất định vì chứng Chân mà rời xa Vô minh, bởi vì hiểu rõ hai Không.
Hỏi: Vì sao
cần đến ba pháp hồi hướng này?

Đáp: Ba pháp
này có nhiều nghóa, luận sơ lược về mười loại:
1) Dựa theo tâm Bồ-đề vốn có ba tâm, luận
Khởi Tín nói: “Tâm Bồ-đề có ba: Một là
Trực tâm, bởi vì Chánh niệm về pháp
Chân như; hai là
Thâm tâm, bởi vì vui với
tu tập tất cả các thiện hạnh; ba là Đại Bi tâm,
bởi vì cứu giúp trừ diệt khổ đau cho tất cả
chúng sinh.”
2) Dựa theo thành
tựu ba tụ giới của
Bồ-tát, nghóa là Luật nghi lìa xa lỗi lầm hướng về Thật tế,
Nhiếp thiện tu tập nhiều pháp hướng về Bồ-đề,
Nhiếp sinh phát khởi Đại Bi hướng về
Chúng sinh, vì thế cho nên kinh Pháp
Tập nói: “Nếu Bồ-tát rời bỏ tâm hồi hướng đối với ba tụ thì
Bồ-tát không
nên cọng trú.”
3) Dá»±a
theo thành tựu hai hạnh, Thật tế hướng về hạnh bảo vệ phiền não, hai loại còn lại là hạnh bảo vệ
Nhị thừa.
4) Thành tựu về hạnh thuộc hai Lợi, hướng về Thật tế là Tự lợi,
 hướng về Chúng sinh là Lợi tha, hướng về Bồ-đề gồm chung hai Lợi.
Lại giải thích: Bồ-đề là
Tự lợi, Chúng sinh là
Lợi tha, Thật tế cả hai đều không phải.
5) Dá»±a
theo thành tựu ba Đức-ba
Thân, nhờ vào ba Hạnh của nhân vị thành tựu ba Đức của quả vị, hướng về Thật tế thành tựu Đoạn đức, hướng về
Bồ-đề thành tựu
Trí đức, hướng về
Chúng sinh thành tựu Ân đức; ba
Thân như thứ tự có thể
biết.
6) Dựa theo thành tựu Bi-Trí, trong Trí soi chiếu
Lý hiển bày về Sự
phân làm hai cho nên có ba.
7) Chỉ dựa theo Bi,
nghóa là vì sao hướng về
Bồ-đề? Là bởi vì chúng sinh. Tại sao vì chúng
sinh? Bởi vì chúng sinh
tức là Chân mà không biết.
8) Dựa theo Trí, nghóa
là vì thấy tướng nhiễm
của chúng sinh không còn, tức là tướng nhiễm của
Thật tế không hủy hoại, do đó bởi vì chúng sinh
trao cho trí Phật, cho nên hướng về Bồ-đề.
9) Dá»±a theo
Vô ngại, nghóa là Trí chứng
Bồ-đề giống như lý
tánh, tướng nhiễm của chúng sinh tức là không
khác với Chân, cho nên hướng về một tức là hướng về ba.

10) Dá»±a theo
Viên minh, nghóa là ba pháp
viên dung đều thâu nhiếp đầy đủ đức tự tại
của pháp giới. Tất cả pháp môn ngay trong nhau-hòa vào nhau vô ngại,
suy
nghó điều này!

Phần ba là trình bày về Thể tánh, có hai: Trước là tổng quát,
sau là riêng biệt.

Trong tổng quát có ba: Một
là dựa theo chỗ dựa dùng
Tam-muội Minh trí làm Thể;
hai là lấy Đại nguyện trong phần Căn bản làm
Thể; ba là luận đầy đủ
có sáu pháp làm Tánh:
1) Định;
2) Trí;
3) Nguyện;
4) Bi;
5) Dựa vào pháp giới;
6) Cùng với tác dụng của thông tuệ-giải
thoát không nghó bàn… làm tánh.

Trong riêng biệt phân rõ về Thể,
sau ở phần
Thuyết giảng
tùy theo phần vị mà hiển bày về Thể.
Phần bốn là xác định phần vị, đây là cuối cùng phần vị
Giải-Hạnh đầy đủ
Tăng-kỳ thứ nhất.
Theo Phật Tánh luận thì đến phần vị này
đầy đủ mới gọi là
phần vị Bất thối. Theo Du-già thì trong phần vị này
hãy còn tự rơi vào trong địa ngục.
Có chỗ nói phần vị này hãy còn thuộc về phần vị
Tư lương, bởi vì ở sau hồi hướng,
nói riêng biệt về bốn thiện căn vốn là gia hạnh. Có chỗ nói phần vị này gồm chung hai phần vị, bởi vì ở trong Hồi hướng
thứ mười thuộc về gia
hạnh. Có chỗ nói phần vị này tổng quát là gia hạnh, bởi vì Trú tâm trở về
sau thuộc phần vị của hai thiện căn trước,
Mãn tâm trở về
sau thuộc phần vị của hai thiện
căn sau. Trên đây là
tổng quát dựa theo Sơ giáo mà nói.
Có chỗ nói bắt đầu
Thập Trú là phần vị
Bất thối, huống gì đến phần vị này.
Vả lại, Tam Hiền đều là phương tiện hướng tới
Thánh, không phân biệt
Tư lương-Gia hạnh xa gần. Đây là dựa theo
Chung giáo, Đốn giáo thì
tất cả hành vị đều không thể nói được. Lại dựa theo văn
sau này, ở trong phần vị này thâu nhiếp tất cả phần vị, đầy đủ
hạnh Phổ Hiền, cho nên phần vị đầy đủ tức là nhân tròn vẹn. Đây là dựa
theo phần vị Phổ Hiền
thuộc Viên giáo mà nói.
Phần năm là pháp hành
sai biệt, có hai: Một là dựa theo tướng của hạnh
Phổ Hiền thuộc phần vị thật tế; hai là dựa theo tướng của hạnh
sai biệt nhờ vào pháp.
Đều phân rõ như trong phần Thuyết giảng sau này. Trong phần năm là phần
Thuyết giảng, nhưng phần vị Đại hồi hướng có hai phần:
Một- Phần quả, phần này không thể nói
được, không phải là ở
đây luận bàn. Hai- Phần nhân, tùy theo nói có bốn:
1) Chỉ dựa theo tướng
của phần vị, như Thỉ giáo-Chung giáo nói, như
kinh Anh Lạc-Bổn Nghiệp…
phân rõ.
2) Chỉ dựa theo tự Thể, như Đại
hạnh hồi hướng của Phổ
Hiền không dựa vào các phần vị.
3) Bởi vì Thể của hạnh thuận theo pháp môn sai khác của phần vị mà nói, tức là như văn
sau này phân
biệt Hồi hướng làm thành mười môn.
4) Dùng pháp môn của phần vị tùy theo Thể viên dung của hạnh mà nói, như trong mỗi
một phần vị sau này thâu
nhiếp tất cả phần vị, thứ mười tức là đến phần
vị viên mãn của nhân
pháp giới cứu cánh. Nay trong văn này chính
thức phân rõ hai loại
sau thâu nhiếp đầy đủ hai loại trước, cũng là bên
trong thâu nhiếp phần quả,
dựa theo suy nghó về điều này.

Trong văn có hai: Trước là
phân rõ một phương thuyết về Thập Hồi Hướng, sau
là kết luận nối thông mười phương đã thuyết về tất
cả vô tận Thập Hồi Hướng.

Trong phần trước cũng có hai: Một,
chính thức thuyết giảng; hai,
mặt đất rung động… là trình bày về lợi ích của thuyết giảng.
Trong phần một thuyết giảng về
Thập Hướng tức là mười đoạn,
mỗi một đoạn đều có hai: Trước
là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng đều có hai: Đầu là hạnh của phần vị,
sau là quả của phần vị. Cũng có đoạn không đầy đủ, đến văn biết rõ. Hạnh của các phần vị đều có ba:
Một là nêu lên; hai là giải thích để hiển bày; ba
là kết luận về tên gọi.
*
Hồi Hướng thứ nhất, trong giải thích có hai: Một,
nêu ra Thể của hạnh, nghóa là thiện căn thuộc các hạnh như
sáu Độ-bốn
Vô lượng… mà Bồ-tát này
đã thực hành, nghó muốn hồi hướng, văn ấy có
thể biết. Hai, từ “Tu thiện căn dó…” trở xuống là chính thức trình bày về
Hồi hướng. Trong đó có
hai: Đầu là hồi hướng Chúng sinh và Bồ-đề
trình bày về hạnh cứu
hộ chúng sinh; sau từ “Bồ-tát như thị hồi hướng diệc vô trước…” trở xuống là hồi hướng Thật tế trình bày về lìa xa
tướng chúng sinh.
Trong phần đầu
có bốn: Một, Trình bày vì lợi ích an lạc cho
chúng sinh mà thực hiên hồi hướng, trong đó có ba:
1) Tổng quát nêu ra;
2) Từ “Dó thử sở tu…”
trở xuống là riêng biệt phân rõ;
3) Từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận. Trong riêng biệt có hai: a) Dùng thiện căn cứu giúp ba đường ác gọi là Cứu; b)
Từ “Phục tác thị niệm…” trở xuống là
trừ diệt khổ đau đưa
vào nẽo thiện gọi là Hộ.

Lại đầu khiến cho lìa xa khổ đau gọi là An lạc, sau khiến cho tu thiện gọi là
Lợi ích, trong đó có mười câu:
1) Trừ diệt khổ đau hiện
hiện tại;
2) Khiến cho trừ bỏ phiền não chướng;
3) Lìa xa nghiệp chướng vì thế cho nên không còn sợ hãi;
4) Khiến cho đạt đến Bồ-đề;
5) Khiến cho đạt được Niết-bàn;
6) Khiến cho đoạn trừ Sử của sở tri chướng;
7) Khiến cho đoạn trừ Tập của sở tri chướng;
8) Khiến cho đạt được trí như Lý;
9) Khiến cho đạt được trí như Lượng;
10) Khiến cho đạt được trí vô ngại về Lý-Lượng. Từ “Phật tử…” trở xuống là tổng quát kết luận, khiến cho đạt
được Nhất thiết trí.

Hai- Từ “Phật tử thử
Bồ-tát…” trở xuống là đối với chúng
sinh
oán thù xấu ác điều
hòa rèn luyện tâm Bi sâu xa hồi hướng nhận chịu khổ não, trong đó có năm:
1) Đối với chúng sinh oán thù điều hòa rèn luyện tâm Bi;
2) Đối với chúng sanh xấu ác điều hòa rèn luyện tâm Bi;
3) Từ “Hà dó cố…” trở xuống là dùng lý để giải thích về nguyên do thực hành rèn luyện thành tựu;
4) Từ “Bồ-tát như thị quán…” trở xuống là điều hòa rèn luyện thực hành thành tựu tâm Bi càng tăng lên;
5) Từ “Bồ-tát dó chư thiện
căn hồi hướng thời…” trở xuống là chính thức dùng thiện căn
hồi hướng thành tựu lợi ích.
Trong một có hai: a) Trình bày về tâm quán bình đẳng của
Bồ-tát, có nêu ra-giải
thích; b) Từ “Nhược chúng sinh hoại ác…” trở xuống
là hướng về cảnh oán
thù để rèn luyện tâm, có pháp-dụ-hợp.
Trong hai từ
“Nhất thiết đồng mông…” trở xuống là đối với
chúng sinh xấu ác điều hòa rèn luyện tâm Bi, trong đó cũng có hai: Đầu là tổng quát đối với chúng
sinh xấu ác mà tâm không loạn động,
có pháp- dụ-hợp. Trong hợp có hai: Một là trình bày về tâm mình
không lay động; hai từ “Chánh ý…” trở xuống là lợi ích không thay đổi.
Trong phần một, bị phiền não làm lui
sụt Đại mà học theo Tiểu gọi là tán
loạn; hai từ “Nhất
thiết chúng sinh…” trở xuống là riêng biệt đối với
chúng sinh xấu ác không
rời bỏ làm lợi ích. Trong đó có năm loại chúng sinh:
a) Đối với loại nhiều xấu ác mà không ghét bỏ; b) Đối với loại khó cảm hóa mà không rời bỏ; c)
Từ “Tuy hữu…” trở xuống là đối với loại
tà- sân mà không thay
đổi; d) Từ “Nhược kiến…” trở xuống là đối
với loại không có niềm tin mà không vứt bỏ; e)
Từ “Nhược dữ…” trở xuống
là thâu nhiếp chúng sinh
ngu si mà không có gì phiền muộn.
Trong ba là dùng lý để
giải thích, trước là đưa ra,
sau là giải
thích. Đưa ra ý là vì sao
người xấu ác may mắn được cứu giúp mà lại phụ ân, vì
sao Bồ-tát gặp phải phiền muộn mà vẫn cứu giúp?
Sau trong giải thích:
Một là tổng quát
giải thích, nghóa là nhờ vào Đại trí mà
Bồ-tát thấy lý có thể không nghó đến xấu ác, nhờ có Đại trí mà có thể cứu giúp người xấu ác, như mặt trời có hai nghóa, một là tuy người mù bài
bác không có mặt trời
mà mặt trời không có suy nghó tính toán, hai là
cũng không rời bỏ mà
vẫn soi chiếu đến người bài bác; mặt trời trí tuệ
của Bồ-tát cũng như
vậy, do đó nói là cho đến điều phục tấ cả chúng
sinh. Hai là riêng biệt
giải thích có hai: Một, nghó đến Đại chí vốn có thành
tựu hạnh điều phục cũng có hai câu:
1) Trở lại nêu ra sáu sự việc, nghóa là Chí nguyện vốn
có đã không vì một chúng sinh…, lẽ nào gặp ngang trái nhỏ nhoi mà làm trái với Chí nguyện vốn có hay
sao?
2) Thuận theo hiển bày cũng có sáu sự việc có thể biết, nghóa là phương tiện thành
tựu Đại sự, lý phải
nhận chịu trái ngược để cứu giúp người xấu ác kia. Hai, trở lại hiện rõ Đại tâm bởi vì thành tựu công hạnh điều
phục, trong đó: Câu đầu
là tổng quát, nghóa là Thể của tâm Bồ-đề này đáng tôn quí cho nên gọi là Bảo, do đó giả
sử có phiền muộn ngang
trái, nhưng vì giữ gìn tâm này thì lý cần phải không có thay đổi. Sau là
trong riêng biệt có sáu
câu:
1) Nghóa về thế lực, nghóa là có thể sinh ra cảnh của Như Lai, cho nên gọi là lực của cảnh ấy;
2) Nghóa về khắp nơi, cho nên nói là rộng lớn;
3) Nghóa về rất sâu xa, cho nên nói là bình đẳng;
4) Nghóa về lìa cấu nhiễm, cho nên nói là không có lười nhác;
5) Nghóa về hiếm có, cho nên nói là tu khó mà đạt được;
6) Nghóa về thù thắng nhất, cho nên nói là sánh bằng Phật. Bởi vì Đại tâm này mà lý cần phải cứu giúp người xấu ác như vậy, do đó Bồ-tát khiến cho công hạnh tăng thêm.
Trong bốn từ
“Bồ-tát như thị quán…” trở xuống là kết luận
về điều hòa rèn luyện
thực hành thành tựu khiến cho tâm Bi tăng
trưởng. Trong đó, quán
xét như vậy là khéo léo nhắc lại hiểu rõ về công
hạnh trước đây, Tín tâm thanh tịnh là tâm tin tưởng quyết định đối với đạo lí đã hiểu rõ trước đây. Sau dựa vào quyết định này làm cho tâm
Bi tăng trưởng, nghóa là
tâm Bi thực hành không trống rỗng, cho nên
nói là không những
miệng nói. Tâm Bi này là tổng quát, từ “Ư chư
chúng sinh…” trở xuống chín tâm là
riêng biệt:
1) Vui vẻ làm điều lợi ích;
2) Không hề nghi ngờ lẫn lộn, cho nên nói là Minh tịnh;
3) Nén mình hướng về chúng sinh, cho nên nói là Nhu nhuyến;
4) Lòng dạ thương xót thiết tha, cho nên nói là Từ tâm;
5) Nghó nhớ yêu thương sâu xa, cho nên nói là Ái niệm;
6) Thâu nhiếp khiến cho giống như mình trong pháp Bồ-đề, cho nên nói là Nhiếp thủ;
7) Trao cho Đại hạnh, cho nên nói là Nhiêu ích;
8) Khiến cho đạt được Niết-bàn, cho nên nói là An lạc; Khiến cho đạt được Bồ-đề, cho nên nói là Tối thắng.
Nhờ vào năng
lực hiểu biết thực hành suy nghó chọn lựa trước
đây, cho nên phát
sinh những tâm này đối với
chúng sinh, vì vậy dựa vào đây để thành tựu hồi hướng.

Trong năm là điều hòa rèn luyện thiện căn đích thực để hồi
hướng. Trong đó, trước
là nêu ra thiện căn, nghóa là Bồ-tát ấy dựa vào
tâm thù thắng, lúc chính thức dùng thiện căn hồi hướng dấy lên nghó đến lời thề như vậy:
Không phải là dứt khoát khiến cho thiện căn vốn có xưa
kia của mình hồi hướng
chúng sinh, nếu mình nhờ vào tất cả công đức hồi hướng chúng
sinh trước đây, và tất cả công đức vì chúng
sinh
hồi hướng Bồ-đề, thì trở lại đem công đức này hồi hướng chúng
sinh khiến cho đạt được những nẽo thanh tịnh như vậy. Dùng lời thề quan trọng này chuyển các thiện căn khiến cho đến nơi
chúng sinh. Trong đó có hai: Một là hồi hướng chúng
sinh khiến cho thành tựu pháp khí; hai từ
“Phục tác niệm…” trở
xuống là khiến cho đạt được pháp thành tựu đầy đủ.

Trong phần một, có hai:
1) Khiến cho đạt được thân pháp khí,
 nghóa là nẽo thanh tịnh là nơi tu hành,
 đời sống thanh tịnh là thân tu hành,
 còn lại là duyên thực hành, đầy đủ không thể hết được.
2) Từ “Thường đắc…” trở xuống là khiến cho đạt được tâm pháp khí,
 có hai: a-Khiến cho không nhiễm đối với lỗi lầm,
 nghóa là thân tuy tôn quý mà tâm không sai lạc lỗi lầm,
 tuy ở nẽo thanh tịnh mà không mê mờ cấu nhiễm, cho nên nói là nẽo phân biệt. b-Từ “Tư lượng…” trở xuống là đối với đức khởi lên mong cầu
có thể biết.
Trong phần hai là khiến cho đạt được pháp đầy đủ, có hai:
1) Thấy Phật có được niềm tin;
2) Nghe pháp giữ gìn thực hành. Ở trong thực hành pháp, có hai: a) Khiến cho thành tựu đức của hạnh thuộc Tự phần. Bảy loại tài sản, theo kinh Niết Bàn thì
Tín-Giới-Tàm-Quý-Văn-Thí-
Tuệ là bảy, tức là bảy loại trước trong Thập
Tạng. b) Từ “Tu học
nhất thiết…” trở xuống là khiến cho thành tựu đức thuộc
Thắng tiến, trong đó có ba: Một là khiến cho đầy đủ đức thuộc
Tự lợi; hai từ “Ư nhất
thiết…” trở xuống là thành tựu đầy đủ
Lợi tha mãn, có ba nghiệp có thể biết;
ba từ “Linh nhất
thiết…” trở xuống thành tựu Phật quả cứu cánh.

Ba- Từ “Bồ-tát phục niệm chúng
sinh tạo tác…” trở xuống là
trình bày về đối với
chúng sinh nhận chịu đau khổ, dùng Đại Bi sâu dày
hồi hướng chịu thay khổ
đau, trong đó có bảy:

Tổng quát đối với chúng sinh khổ đau khởi niệm thay thế cứu giúp, trong đó có hai: a) Nghó đến chúng
sinh vì tội lỗi nghiệp báo nhận chịu khổ đau; b)
Từ “Ngã đương ư bỉ…” trở xuống là khởi niệm thay thế
cứu giúp. Trong đó có hai: Trước là tổng quát
nêu ra, không bởi vì khổ mà tâm lui
sụt… là điều hòa rèn luyện tâm
Bi sâu dày không hề mệt
mỏi; sau từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải
thích hiển bày về ý thay thế
cứu giúp. Trong đó trước là nêu ra ý rằng: Các
chúng sinh ấy tự nhận
chịu khổ não, đối với Bồ tát đâu cấp bách mà
phải thay thế nhận chịu? Sau trong giải thích có hai: Một là vì đầy đủ Bổn nguyện của mình, cho
nên thay thế cứu giúp, nghóa là Bồ-tát từ ban
đầu phát Đại thệ nguyện

xả bỏ thân mạng của mình chỉ vì chúng
sinh lìa xa đau khổ có được
niềm vui, chứ không vì
điều gì khác, cho nên chúng sinh đều là gánh
nặng của Bồ-tát đã
đảm nhận; bởi vì đầy đủ Đại nguyện đồng Thể như vậy, cho nên chúng
sinh khổ đau là nỗi lo buồn
của Bồ-tát. Sau từ
“Độ thoát nhất thiết…” trở
xuống là hiển bày về việc mà Bồ-tát đã làm, nghóa là cứu giúp nhân quả khổ đau. Hai từ
“Chúng sinh thường vi…” trở xuống là vì thương xót chúng
sinh mê lầm mà thay thế cứu giúp
không mệt mỏi, trong đó có ba: a) Nêu ra Si-Ái là nhân của khổ đau; b)
Từ “Nhiễm trước…” trở xuống là trình bày về dựa vào Ái mà nhận chịu khổ đau;
c) Từ “Tùy
chư…” trở xuống là trình bày về dựa vào Si mà nhận
chịu khổ đau, trong đó
thuận theo ma là Si theo Tà, nghi ngờ Phật là Si
trái với Chánh. Đây là
không có nhân thiện, không đạt được đạo xuất thế là trình bày về không đạt
được Bồ-đề, không thấy an ổn là trình
bày về không đạt được
Niết-bàn. Đây là không có quả thiện, thường
rong ruổi… là trình bày
về luôn luôn nhận chịu quả khổ.

Từ “Bồ-tát kiến chúng
sinh…” trở xuống là nêu ra nghi thức cứu
giúp hồi hướng những việc làm của mình, trong đó
có ba: a) Tổng quát
nêu ra như hồi hướng tâm Bi thấy chúng sinh nhận
chịu khổ đau trước đây; b) Từ “Dó Đại hồi…” trở xuống là chính thức hiển bày về nghi thức thực hành, có
ba câu: Một, Dùng Đại hồi hướng bằng tất cả Đại tâm của mình, câu này có
bốn nghóa: Một, dùng thiện căn xứng với pháp giới hồi hướng cho một
chúng sinh, tất cả chúng
sinh khác cũng
như vậy; hai, vì
tất cả chúng sinh trải qua vô lượng kiếp nhận
chịu khổ đau không mệt
mỏi; ba, cần phải khiến cho tất cả chúng sinh đạt
được Vô thượng
Bồ- đề trước mình; bốn, nhưng đối với chúng sinh và
công hạnh hồi hướng không thấy chủ
động-thụ động, cùng một pháp giới bình đẳng không
hai, đó gọi là hồi hướng thuộc Đại hồi hướng.
Hai, Thuận với việc làm của
Bồ-tát ba đời, nghóa là Bồ-tát ba đời đã thuận theo thực hiện hồi
hướng, mình cũng như các vị ấy mà thực hiện.
Ba, Thuận với Giáo cao nhất, nghóa là như Viên giáo đã nói
Phổ Hiền hồi hướng, mình nên thu- ận theo Giáo ấy mà thực hiện. c-
Từ “Linh nhất thiết…” trở xuống là
trình bày về nhờ vào hồi hướng khiến cho có sự đạt được.

Từ “Phục tác thị niệm ngã đương tất linh…” trở xuống là nêu ra
hồi hướng cứu giúp của mình đã thành tựu lợi
ích, trong đó có ba câu:

Trú xứ của Trí Vương là Niết-bàn; b) Khiến cho đạt được tâm Nhất thiết trí là Bồ-đề; c) Gạt bỏ mà vượt ra… khiến cho lìa xa
sinh tử, nghóa
là gạt bỏ những ác hiểm mà ra khỏi nỗi khổ
Phần đoạn, vượt qua dòng
chảy sinh tử mà ra khỏi nỗi khổ Biến dịch.

Từ “Phục tác thị niệm ngã đương vi nhất…” trở xuống là trình bày đã thấy lợi ích trên đây phát khởi chí nguyện đích thực mong muốn
thay thế khổ đau của ngục tù ấy, trong đó có
bốn: a) Tổng quát nêu ra;

Từ “Ngã đương vị nhất thiết…” trở xuống là phát khởi chí nguyện
mong muốn chịu thay khổ đau cho tất cả mọi nơi; c) Từ
“Ngã đương ư
nhất nhất…” trở xuống là trình bày về chịu thay
khổ đau cho tất cả mọi
lúc; d) Từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải
thích về ý chịu thay khổ đau.

Hỏi: Tự mình
làm thì tự mình chịu, vì sao Bồ-tát có thể thay thế được? Đáp:
Trong này, Bồ-tát chịu thay khổ đau cho
chúng sinh,
luận tổng quát có sáu nghóa:

Nghóa là bởi vì
sự việc khổ đau tự mình cần phải tăng
thêm nguyện hạnh ấy.

Trong Du-già
quyển 49 nói: “Hỏi: Lúc Bồ-tát từ Thắng giải hạnh địa thuận theo tiến vào Tịnh thắng ý lạc địa, vì
sao vượt lên trên
các nẽo ác…? Đáp:
Các Bồ-tát này dựa vào Tónh lự thanh tịnh của thế
gian ngăn chặn, đối với Thắng giải hạnh địa tự mình khéo léo tích tập tư
lương của Bồ-đề, đối
với 110 nỗi khổ của các loại hữu tình như trước nói, tu tập thương xót không tư duy điều gì khác.
Do sự tu tập này
làm nhân duyên, cho nên đối với Sắc loại của các hữu tình ấy đã đạt được ý
thích xót thương và ý
thích của Bi. Nhờ vào nhân duyên này làm lợi ích
cho các hữu tình trong nẽo
ác, cho nên thề ở trong nẽo ác như nhà cửa
của mình, phát ra lời
thề như vậy: Nếu mình chỉ ở trong xứ sở như vậy
mà có thể chứng được
Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì cũng có thể chịu đựng để trừ diệt khổ đau cho tất cả hữu tình, vốn là nghiệp thuộc
các nẽo ác của tất cả
hữu tình. Dùng ý thích thanh tịnh đều nguyện tự mình chịu thay
chúng sinh, tiếp nhận quả dị thục khổ đau, bởi vì làm cho cuối cùng tất cả nghiệp ác vónh viễn không hiện hành, tất cả nghiệp thiện luôn luôn hiện hành, cho nên tâm phát ra
Chánh nguyện. Bồ-tát ấy
nhờ vào nguyện lực của
Bi, tu tập Tónh lự thanh tịnh của thế gian như vậy,
 cho nên các phẩm phiền não của tất cả nẽo ác vốn có thô nặng,
 đối với Sở y của mình đều được trừ diệt.
 Bởi vì đoạn trừ phiền não này,
cho nên Bồ-tát không bao
lâu đạt được Chuyển y, đối với tất cả nghiệp ác của các nẽo ác hoàn toàn không dấy lên, đối với các nẽo ác quyết định không qua lại. Đến phạm vi này thì Bồ-tát gọi là vượt lên trên tất cả
nẽo ác, cũng gọi là
vượt lên trên Thắng giải hạnh địa, cũng gọi là đã tiến vào Tịnh thắng ý lạc địa.”
Giải thích rằng: Tịnh thắng ý lạc địa là Sơ
địa, bởi vì
ở Địa tiền khởi lên Bi nguyện này đoạn trừ nghiệp của nẽo ác liền tiến vào
Sơ địa, đối với hữu tình ấy chưa hẳn thật
sá»± thay
thế, đây là dựa vào Sơ giáo phân rõ.

Dựa theo Bồ-tát giữ lại phiền não đồng
sự thọ thân có khổ,
giống như chúng sinh đau khổ mà thuyết pháp cho họ, khiến cho nghe
pháp tránh khỏi đau khổ, cho nên gọi là thay thế.

Giả sử có chúng sinh nào mà sắp tạo tác các nghiệp vô gián, thì Bồ-tát cảm hóa ngăn lại, không thuận theo liền đoạn mạng
sống của
chúng sinh ấy, bởi vì đoạn mạng sống của chúng
sinh ấy mà Bồ-tát tự nhận chịu khổ báo của nẽo ác, để cho chúng
sinh ấy được tránh khỏi
khổ đau vô cùng của vô gián, đây cũng gọi là
thay thế. Đây là dựa vào
Lương Nhiếp luận quyển thứ 11 phân rõ. Hai cách
giải thích trên đây
dựa vào Chung giáo.

Bởi vì Bồ-tát từ lúc bắt đầu Chánh nguyện vì chúng
sinh nhận
chịu khổ đau, tu tập Nguyện này đến phần vị cuối
cùng, Nguyện thành tựu tự tại, thường ở trong nẽo ác cứu giúp chịu khổ thay cho
chúng sinh,
như Bồ-tát Địa Tạng… và Bồ-tát Trang Nghiêm Vương…
Bởi vì Nguyện này của Bồ-tát phù hợp với
Chân như, chúng
sinh khổ đau ấy cũng là duyên thành tựu Vô tánh tức là Chân như. Bởi vì
Nguyện giống với Như vẫn bí mật đến, tức là khổ của Chân, dựa vào
sự dung thông này cũng gọi là thay thế. Đây là dựa theo
Nguyện lực đồng Thể.

Bởi vì
Phổ Hiền dùng pháp giới làm thân, tất cả chúng
sinh đều là pháp giới, tức là chúng
sinh nhận chịu khổ đau luôn luôn là
Phổ Hiền, cho nên gọi là thay thế.
Nay kinh văn này thuận theo ba cách giải thích
sau, tuy là Địa tiền mà chính là phần vị Phổ Hiền,
cho nên có thể thay thế.

đau? Hỏi: Nếu như vậy thì tại
sao còn có chúng
sinh nhận chịu khổ Đáp: Điều này không nhất định, nếu khiến cho nhận chịu khổ đau

mà có lợi
ích thì Bồ-tát khiến cho nhận chịu cũng gọi là thay thế.
Lợi ích bí mật này
không phải là người bình thường mà biết được, cho
nên không thể chất vấn.
Lại giải thích bởi vì nghiệp khổ có hai, đó là định và bất định, nhận lấy quả báo cũng như vậy. Quả báo bất định ấy
do lực của hai duyên, thì
cũng có thể thay đổi:
1) Do lực của nhân,
nghóa là lực tác ý
tăng thượng của chúng sinh ấy;
2) Do lực của duyên, nghóa là do lực của cảnh tăng thêm hơn hẳn của duyên bên ngoài.
Nay Bồ-tát đối với quả
báo bất định đã làm lực của duyên thù thắng,
và khiến cho

chúng
sinh ấy phát khởi tác ý
tăng thượng, khiến cho quả báo ấy có
nhẹ nhàng-có thoát khỏi.

Từ “Bồ-tát phục tác thị niệm ngã đương…” trở xuống là trình
bày về lời chân thành biểu lộ chí nguyện hiển
bày vì chúng sinh không
trống rỗng, trong đó có ba: a) Lời chân thành vì
chúng sinh, có tổng quát nêu ra-riêng biệt
giải thích, nghóa là bởi vì thấy chúng
sinh khổ
đau mà phát tâm để cứu giúp, lời này nếu
trống rỗng thì vốn là không
phát tâm, tâm nhờ vào đây mà phát, cho nên lời
nói và việc làm không
trống rỗng. b)
Từ “Bất cầu tôn…” trở xuống là làm
sáng tỏ không vì
mình, cũng đầu là tổng quát phân rõ, tiếp từ
“Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu,
sau từ
“Bồ-tát minh kiến…” trở xuống là kết luận về không vì mình. c-Từ “Đản dục…” trở xuống là kết luận về
việc đã làm.

Từ “Bồ-tát phục tác thị niệm ngã đương dó chư thiện căn…”
trở xuống là trình bày chính thức dùng thiện căn
như lời nói hồi hướng
khiến cho có được lợi ích vui sướng, trong đó
có hai: Một là khiến cho
có được niềm vui, hai là khiến cho thành tựu lợi
ích. Trong phần một:
Có được các loại niềm vui là tổng quát nêu ra; b) Riêng biệt có mười câu:
1) Phật quả cùng cực gọi là Cứu cánh;
2) Lợi ích thấm nhuần không giới hạn gọi là Nhiêu ích;
3) Vượt lên trên người khác gọi là Bất cộng;
4) Vô vi thường an gọi là Tịch tónh;
5) Lìa lỗi thanh tịnh gọi là Vô nhiễm;
6) Duyên không có thể hủy hoại gọi là Vô
Ä‘á»™ng;
7) Xứng tánh rộng nhiều gọi là Vô lượng;
8) Tánh không có biến dịch gọi là Bất tử
bất chuyển;
9) Thường hằng vô tận gọi là Bất diệt, đây là niềm vui của
Đại Niết-bàn;

10) Minh tuệ tự tại gọi là Nhất thiết trí, đây là niềm vui hiểu biết của Đại Bồ-đề.

Theo kinh Giải Tiết cũng có năm Lạc:
1) Niềm vui xuất gia, bởi vì giải thoát gánh nặng gia đình;
2) Niềm vui xa lìa, bởi vì đoạn dục
đạt được Sơ thiền;
3) Niềm vui tịch tónh, bởi vì Nhị thiền là đầu tiên hiểu rõ về quán hơi thở;
4) Niềm vui Bồ-đề, bởi vì hiểu rõ như thật đối với pháp;
5) Niềm vui Niết-bàn, bởi vì ngừng chuyển hóa tiến vào Vô dư.
Hai từ “Ngã đương vi tác điều ngự…” trở xuống là khiến cho
thành tựu lợi ích, trong
đó có mười câu, sáu câu đầu là gộp lại để nêu ra:
1) Bậc thầy;
2) Bề tôi;
3) Sáng suốt;
4) Ánh đuốc;
5) Nơi chốn;
6) Lìa xa chướng nạn và hiểu về pháp, bởi vì đều giống như trước cho nên tóm lược mà thôi.
7) Khiến cho hiểu rõ về lý sâu xa;
8) Trí hành thành Độ;
9) Phước hành cầu Quả;
10) Khiến cho hướng về Niết-bàn, cho nên nói là nêu rõ đến bờ kia.
7) Từ “Bồ-tát dó thị vô lượng…” trở xuống là trình bày về
hành chân thật thành tựu
lợi ích, trong đó có mười câu: Đầu là một câu nhắc lại hồi hướng trước đây; tiếp hai câu là dưới thì cứu giúp nỗi khổ
của chúng sinh, trên thì thuận với ý Phật; tiếp hai câu là đạt được
Chánh-rời bỏ Tà; tiếp
hai câu là lìa xa ác-gần gũi thiện; tiếp hai câu là thành
tựu thanh tịnh-diệt trừ
cấu nhiễm; sau từ “Cụ túc…” trở xuống là
tổng quát kết luận.

Bốn- Từ “Bồ-tát dó thiện căn chính hồi hướng dó…” trở xuống
là trình bày về chỉ nêu
rõ Đại chí nguyện vì tất cả chúng sinh chứ không nghó đến hồi hướng, trong đó có ba:
1) Nêu rõ Đại chí nguyện của mình;
2) Trình bày về không có ý niệm mong cầu;
3) Trình bày về hồi hướng cao nhất. Trong phần một: Đầu là kết thúc phần trước; từ “Tác thị niệm…” trở xuống là
sinh khởi
phần sau. Trong đó có hai: Trước là dụ có hai, một là dụ về một mặt trời chiếu rọi nhiều nơi, hai là dụ về mặt
trời chiếu rọi nghiệp
thành tựu. Sau từ “Bồ-tát diệc như thị…” trở xuống
là pháp hợp, trong đó có hai: Một là trình bày chỉ có chí nguyện làm
nhiều lợi ích, kết hợp với dụ đầu; hai từ “Dục vi…” trở xuống là chính
thức thành tựu việc
làm lợi ích, kết hợp với dụ sau, trong đó có
mười câu có thể biết.

Trong phần hai:
Từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là không có ý niệm mong cầu, trong đó có hai: Đầu là trở lại nêu ra, nghóa là không có ý niệm mong cầu đền ân đối với chúng
sinh thuần
thiện, không có ý niệm
rời bỏ lìa xa đối với chúng sinh xấu ác. Sau từ
“Đản cần…” trở
xuống là thuận theo hiển bày, nghóa là trước khiến cho đạt được quả
vui sÆ°á»›ng;
sau từ
“Nhiếp thiểu…” trở xuống là khiến cho thành tựu
nhân thiện, nghóa là dùng thiện căn nhỏ bé để hồi hướng mong cầu quả Đại Bồ-đề, cho nên gọi là hồi hướng rộng lớn. Đây là hiển bày về
Bi sâu xa, dù cho thiện nhân nhỏ bé mà cũng dùng
phương tiện để thành
tựu hồi hướng rộng lớn.

Trong phần hai: Từ “Nhược
chư thiện căn…” trở xuống là chính thức trình bày về hồi hướng cao nhất, nghóa là tất cả pháp thiện
đều thâu nhiếp, tất cả
hồi hướng đều cao nhất. Trong đó có hai: Một là
nêu ra thiện căn cao nhất,
đầu là trở lại nêu ra, nghóa là nếu thiện căn của mình thật
sự không có thể lợi ích cho
chúng sinh, thì mình cũng không
tu pháp thiện ấy, cũng
không thực hiện hồi hướng; sau là thuận theo
hiển bày, nghóa là bởi
vì thiện căn của mình thật sự có thể lợi ích cho chúng sinh, cho nên hồi hướng mà thôi. Đây là trình bày về hồi hướng đến tận cùng. Hai từ “Linh nhất thiết chúng
sinh…” trở xuống là trình bày
về hồi hướng thành tựu
đến tận cùng, không đắm vào pháp… là khiến cho
rời bỏ Vọng, bởi vì tánh chúng sinh… là trình
bày tiến vào Chân,
đây cũng là khiến cho
chúng sinh tiến vào Thật tế.
Đoạn lớn
thứ hai từ “Bồ-tát như thị hồi hướng diệc vô
sở
trước…” trở xuống là trình bày về lìa tướng
chúng sinh, tức là hồi hướng
Thật tế. Trong đó có hai: Một,
Trình bày về hiểu rõ tướng tiến vào Thật;
Hai, Từ “Tùy phương tiện trí…” trở xuống là trình bày về dựa vào
Thật phát khởi Dụng, cũng là
đầu trình bày về không có hồi hướng, sau là
trình bày về tất cả đều hồi hướng.
Trong phần một có hai:
1) Hiểu rõ hồi hướng Chúng sinh trước đây trình bày về tiến vào Thật tế;
2) Từ “Tu hành thanh tịnh…” trở xuống là hiểu rõ hồi hướng Bồ-đề trước đây trình bày về tiến vào Thật tế.
Trong phần một có ba: a) Chính thức hiển bày; b)
Từ “Đản dục…” trở xuống là
giải thích nghi ngờ; c) Từ “Dó như thị…” trở xuống là
tổng quát kết luận.
Trong phần a cũng có ba: Một là lìa xa
Tướng hư vọng; hai từ “Bất trú tâm điên…” trở xuống là trình bày về lìa xa Tưởng hư vọng; ba từ
“Bất trước…” trở xuống là trình bày về lìa xa Danh không
thật. Trong các kinh phần
nhiều dựa theo ba loại này để trình bày về lìa xa hư vọng.
Trong mục một có ba:
1) Hiểu rõ về Đại Bi cứu hộ chúng sinh trước đây;
2) Từ “Bất cầu…” trở xuống là hiểu rõ về điều hòa rèn luyện tâm Bi đối với oán thù-xấu ác… trước đây;
3) Từ “Bất thủ chúng sinh tướng…” trở xuống là hiểu rõ về những hạnh chịu thay khổ đau trước đây. Trong mục một có hai: a) Hiểu rõ về hạnh chủ động hồi
hướng, nghóa là không thấy có chủ động hồi hướng, có ba câu: Một là tổng quát hiển bày về
Vô trước; hai là phá bỏ tánh; ba là phá bỏ tướng. b) Từ
“Nghiệp báo…” trở xuống là hiểu rõ về chúng
sinh đã hồi
hướng, nghóa là không
thấy có thụ động hồi hướng, chủ động-thụ động
đều bặt dứt, hoàn toàn bình đẳng. Trong đó đầu là tổng quát hiển bày về nghiệp quả của chúng
sinh đều hư vọng, vì vậy
Bồ-tát không vướng mắc;
sau
là riêng biệt hiển bày,
không giữ lấy năm Ấm là không trú vào có, không hủy hoại năm Ấm là không trú vào không có. Trên đây là không
vướng mắc đối với
quả báo của chúng sinh. Không giữ lấy nghiệp hư
vọng, là không vướng mắc đối với nghiệp nhân của chúng sinh.
Trong mục hai là hiểu rõ điều hòa rèn luyện tâm trước đây, không
vì mong cầu đền đáp đối với người bội ân… mà khởi tâm oán ghét…;
từ “Hư vọng nhân
duyên…” trở xuống là giải thích, nghóa là Nhân trống rỗng vốn
không sinh,
Duyên trống rỗng vốn
không khởi, Báo trống
rỗng vốn không trú, Đại
Bi chịu đựng não hại gọi là kiên cố, trống rỗng
cho nên không trú vào
đó, cầu mong báo ân… là pháp hư vọng cũng
trống rỗng cho nên không trú vào.
Trong mục ba là hiểu rõ về chịu thay khổ đau, không giữ
lấy tướng chúng sinh là
trình bày về đã thay thế chúng sinh trống rỗng
cho nên không có thay thế;
không phân biệt thế giới là trình bày về nơi
đã nhận chịu khổ đau,
là ở văn trên đối với tất cả quốc độ-tất cả địa ngục đều trống rỗng cho nên không có nơi thay thế, nghóa là thấy thế
giới khổ-vui-nhiễm-tịnh bình đẳng cho nên nói là không phân biệt.
Trên đây là lìa xa Tướng hư vọng, xong.
Trong mục hai là lìa xa
Tưởng hư vọng, ba Đảo tức là ba
phiền não của tâm da thịt.

Trong mục ba
là bởi vì Tướng và Tưởng đều trống rỗng, tên gọi- ngôn từ cũng bặt dứt, cho nên nói là không vướng vào lộ trình
của ngôn ngữ.
Trong phần b là giải thích nghi ngờ, nghi ngờ rằng:
Nếu chúng sinh đều trống rỗng thì hồi hướng cũng lìa xa, Bồ-tát vì
sao mà thực hiện hồi hướng? Trong giải thích
có năm: Một, câu tổng quát
về giải thích, vì khiến cho chúng
sinh hiểu rõ về
Sinh Không này không
có thật pháp hồi hướng,
cho nên hồi hướng, chứ không phải là nói có
hồi hướng, điều này
giống như kinh Tịnh Danh vì chúng sinh nói pháp như vậy chính là
Từ chân thật. Hai, quán
sát như nhau là quán
sát riêng
biệt đã hồi hướng
chúng sinh bình đẳng mà thực hiện hồi hướng. Ba,
pháp giới phù hợp bình
đẳng riêng biệt hiển bày có thể hồi hướng thiện căn xứng với tánh hồi hướng, trước là dùng lý phù hợp thực hành,
sau
là tánh của hành lìa xa
cấu nhiễm, cho nên nói là lìa dục… Bốn, từ
“Giải nhất thiết…” trở xuống là trình bày về chủ động-thụ động không
hai, cùng một pháp giới,
không có hồi hướng mà hồi hướng. Năm,
chuyển sang nghi ngờ rằng nếu hồi hướng như vậy thì đối với các chúng
sinh đâu có gì thêm bớt? Giải thích rằng đây là hồi hướng không hai, đối với công đức không
sinh ra, đối với phiền não không diệt đi. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đều tức là Không, cùng là
Chân tánh, cho nên nói là
không sinh-không diệt.
Trong phần c từ “Dó như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận
hồi hướng bình đẳng.
Trong phần hai từ “Tu hành thanh tịnh…” trở xuống là hiểu rõ
hồi hướng Bồ-đề trước
đây mà tiến vào Thật tế, trong đó có ba: Một,
Nhắc lại tất cả hành trước đây tu đối trị là nhân của xuất thế, thiện căn
hồi hướng xuất thế
chính là hồi hướng Bồ-đề trước đây. Hai, Từ
“Ư thiện căn…” trở xuống
là chính thức hiểu rõ tiến vào Thật, trong đó: Đầu là câu tổng quát nêu ra không dấy lên hai tướng, thiện căn-nghiệp là
nhân đã hồi hướng,
xuất thế Tát-bà nhã là quả tùy theo tướng làm thành hai, bởi vì hiểu rõ duyên quy về tánh bình đẳng không hai. Sau là riêng
biệt hiển bày: Trước
trình bày về nhân quả không thân cũng không sơ, hiển bày đều lìa
xa có-không, cho nên gọi là không hai. Sau từ
“Nguyện trí-nghiệp…”
trở xuống là trình bày về lìa xa nhân quả có-không,
xứng với tánh đều
trong sáng, tánh trong sáng không khác nhau cho nên
gọi là không hai. Những
điều này đều giống như kinh Tịnh Danh nói bố thí hồi hướng Nhất thiết trí là hai, tánh của bố thí tức là tánh của hồi hướng Nhất thiết trí, đó gọi là tiến vào pháp môn
Bất nhị. Ba-Từ “Xả ly…” trở xuống là trình bày về lợi ích của quán,
 đầu là lợi ích của lìa xa tán động, lợi ích của lìa xa kiêu mạn…, lợi ích của lìa xa
hoặc nhiễm. Trên đây
là phần hiểu rõ Tướng
tiến vào Thật, xong.

Từ đây trở xuống là phần hai dựa vào Thật phát khởi Dụng,
trong đó có ba:
1) Tổng quát nêu ra, nghóa là đối với vắng lặng không đình trệ, ngay nơi Thật phát khởi Dụng, gọi là trí tùy theo
phương tiện.
2) Từ “Linh nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là trình bày việc đã làm, nghóa là khiến cho chúng
sinh đạt được giải thoát ngay nơi Chân này,
không vướng mắc pháp
tánh là không đắm vào vắng lặng, thiện căn xứng với tánh cho nên nói là Vô lượng… Không có nghiệp báo ra khỏi nghiệp báo là trình bày dựa vào Lý dấy khởi Sự để thành tựu Đại
Dụng mà không có công sức,
trình bày về nghiệp quả không mất.
3) Kết luận về lợi ích của quán, lìa xa pháp ác là lợi ích lìa xa lỗi lầm, Đức Phật khen ngợi là lợi ích thành tựu pháp thiện. Lại lìa xa pháp ác là lợi ích vượt
lên từ dưới thấp, Đức
Phật khen ngợi là lợi ích thuận theo tiến lên cao.

Từ “Phật tử…” trở xuống là phần ba tổng quát kết luận về tên gọi.

Trong phần thứ hai là trùng tụng có hai: Trước là thuật rõ ý,
sau

là chính thức tụng.

Trong phần trước: Nương
theo Phật lực, là hiển bày về chỗ dựa của
thuyết giảng. Quán xét
mười phương, trình bày về phạm vi giới
hạn của thuyết giảng,
nghóa là bởi vì mười phương cùng thuyết giảng.
Cùng với tất cả các
chúng, làm sáng tỏ về thuyết giảng những việc đã làm.

Quán xét pháp giới, hiển bày về lý đã thuyết giảng. Tiến
sâu vào câu nghóa, trình bày về giáo nghóa
sâu xa. Đại Bi che phủ khắp nơi, phân rõ về tâm thuyết giảng rộng lớn.
Hộ trì…, trình bày về lợi ích
đã truyền trao, nghóa là làm cho pháp này lưu hành tức là chủng tử
Phật không đoạn mất. Hòa vào tất cả chư Phật…, hiển bày về lợi ích đã hòa
vào. Sinh ra…, trình bày
về lợi ích đã sinh ra. Khéo léo có thể phân biệt…, làm
sáng tỏ dùng pháp thuận theo căn cơ, nghóa là tâm phân biệt
là nhận biết về Dục,
thiện căn quá khứ là nhận biết về Căn, nhận
biết về Thời không
sai lạc là căn cơ chín muồi trao pháp không mất thời
cơ. Đầy đủ…, trình bày đã hiện thân
thuyết pháp, nghóa là bên trong đầy
đủ Pháp thân, bên ngoài
hiện rõ Sắc thân, đây là bởi vì có thân của pháp môn.

Trong phần sau là chính thức kệ tụng, dùng bốn câu làm tụng, có
28 kệ phân hai: Một,
năm tụng tổng quát ca ngợi về thù thắng, không
phải là tụng về văn trước đây; hai-Từ “Thập
phương nhất thiết…” trở
xuống là riêng biệt tụng về văn trước đây.

Trong phần một phân hai: Một, Hai tụng trình bày về Đại tâm vì chúng
sinh mới tiến
vào Tạng này. Trong đó
có sáu Tâm:
1) Hai câu trình bày về tâm rộng lớn,
2) Tâm kiên cố,
3) Thường cầu… là tâm thù thắng,
4) Tâm thanh tịnh,
5) Tâm cung kính cúng dường,
6) Tâm sâu xa. Hiểu rõ pháp là Trí, cứu giúp chúng sinh là Bi,
 vị ấy có thể khéo léo tiến vào… là kết luận về hành tiến vào phần vị. Đầy đủ sáu loại Đại tâm thù thắng này mới
có thể tiến vào Tạng
của Hồi Hướng này, vì thế cho nên Tạng này là rất thù thắng.

Hai, Có ba tụng trình bày về Đại lực làm lợi ích cho chúng
sinh mới tiến vào Địa
này, cũng có sáu Lực. Trong đó: Một, trong một
tụng có ba lực về cứu
giúp chúng sinh, một là lực dũng mãnh tinh tiến, hai là lực trí tuệ
thanh tịnh, ba là lực kiên quyết nhẫn nại, từ
“Thường năng…” trở xuống là một câu chính thức kết luận về cứu giúp
chúng sinh. Hai, trong một
tụng có hai lực làm lợi ích cho chúng sinh: a)
Lực của Tín thanh tịnh,
nghóa là Vô đẳng là Phật, tâm an là tín tâm an
định kiên cố, hoan hỷ-thanh tịnh là giải thích hiển bày về tướng của Tín;

Lực của Đại nhẫn, nghóa là bởi vì nhận chịu gánh vác não hại vốn
như mặt đất; câu sau là kết luận về làm lợi ích
cho chúng sinh. Ba, từ “Bất dó khổ hạnh…” trở xuống là ba câu trình bày về lực Đại Bi cứu giúp
chúng sinh, hai câu đầu nêu ra hạnh Đại Bi, một câu
“Thường năng…” là kết luận về cứu giúp
chúng sinh. Trên đây là tổng quát trình

bày về Đại
lực cứu giúp chúng sinh là hạnh có thể tiến vào.
Sau người ấy nhanh chóng
tiến vào… là kết luận về hạnh tiến vào phần vị, nghóa là đầy đủ Đại lực ấy mới có thể nhanh chóng tiến vào Địa thuộc Đại
vô ngại của hồi hướng
như vậy. Vì thế cho nên Địa này là rất thù thắng.

Trong phần hai là chính thức tụng về văn trước đây, có ba: Một, Có ba kệ tụng về Thể của hạnh đã hồi hướng trước
đây. Trong đó: Đầu là một kệ tụng về hạnh Tứ Đẳng trước đây, nghóa
là thâu nhiếp tất cả
chúng sinh, tâm an trú thần thông đầy đủ bốn tâm,
tu hồi hướng là trình
bày về hạnh có thể hồi hướng; sau là hai kệ tụng về hạnh Lục Độ. Hai,
Từ “Thập phương nhất thiết thế giới trung…” trở xuống
là mười kệ tụng về
cứu hộ chúng sinh trước đây, tức là hồi hướng
Chúng sinh và Bồ-đề,
phân bảy: Một, hai kệ tụng về hồi hướng chúng
sinh lợi lạc trước đây, kệ một tụng về an lạc, kệ hai tụng về
lợi ích. Hai, có
một kệ tụng về hồi
hướng chịu thay khổ đau trước đây. Ba, có một kệ
tụng về ý hồi hướng
trước đây, nghóa là không vì năm dục, chỉ vì chúng
sinh cầu Phật. Bốn, có hai kệ tụng về hồi hướng
hạnh Bi-Trí, trước là
Trí và hạnh,
sau là
Bi và hạnh, nghóa là đi qua thế giới làm an ổn chúng
sinh
là Bi, đây giống như là
hạnh điều hòa rèn luyện trước đây. Năm, từ
“Trừ diệt…” trở
xuống là hai kệ tụng về hồi hướng tâm lìa nhiễm, giống
như là không khởi tâm
ghét bỏ… đối với chúng sanh xấu ác trước đây.
Sáu, từ “Bồ-tát vị tằng…” trở xuống là một
tụng trình bày về hồi hướng
ba cõi không vướng mắc
năm uẩn. Bảy, từ “Chư Phật…” trở xuống có
một tụng, tổng quát kết
luận về hạnh thâu nhiếp chúng sinh đến cuối cùng của Bồ tát. Ba,
Từ “Bồ-tát nhất thiết tâm an trú…” trở xuống là mười kệ
tụng về lìa tướng chúng
sinh, tức là hồi hướng Thật tế, phân hai: Một, ba kệ tụng về hiểu rõ tướng tiến vào
Thật trước đây, hai tụng đầu trình bày về ba nghiệp hợp với Chân, một tụng
sau trình bày về ba nghiệp
thuận với lý, do đó khiến cho Đức
Phật hoan hỷ. Hai, bảy kệ tụng về dựa vào
Thật phát khởi
Dụng trước đây, trong đó có bốn:
1) Một tụng trình bày về hạnh thù thắng của thân nghiệp.
2) Có bốn tụng trình bày về hạnh thù thắng của ý nghiệp, trong đó một là ngăn điều ác,
 hai là hợp với Chân, ba là hạnh kiên cố, bốn là hạnh đầy đủ.
3) Có một tụng trình bày về hạnh thù thắng của ngữ nghiệp, nghóa là ngôn từ không vướng mắc, lời nói không ngăn ngại.
4) Cuối cùng là một tụng kết luận về hạnh thuận với lý khiến cho Đức Phật hoan hỷ.
*
Thứ hai trong Bất Hoại Hồi Hướng, có hai: Trước là trường

hàng, sau là kệ tụng.
Trong phần trước cũng có hai: Đầu là hạnh của phần vị,
sau là
quả của phần vị.

Trong phần đầu
có ba, đó là nêu ra-giải thích-kết luận.

Trong giải thích có ba: Một,
nêu ra Thể của hành đã hồi
hướng; hai, từ “Bồ-tát
như thị đẳng thiện căn…” trở xuống là chính thức phân rõ về
hồi hướng; ba, từ
“Bồ-tát như thị thiện căn hồi hướng dục độ
nhất thiết…” trở
xuống là trình bày về tướng lợi ích của hồi hướng.

Trong phần một có hai:
1) Trình bày về Tín bất hoại;
2) Từ “Phật tử Bồ-tát an trú…” trở xuống là trình bày về dựa vào Tín bất hoại
sinh ra và nuôi lớn thiện căn.

Trong phần một có mười câu phân ba: a)
Ba câu đối với cảnh của
Tam Bảo đạt được
Tín bất hoại, trước là Phật, tiếp là Pháp,
sau là Tăng.
b) Có bốn
câu đối với hạnh đã tu đạt được Tín bất hoại, trong đó:
Một là tin hộ trì Chánh
pháp quyết định thành tựu công hạnh; hai là tin
hồi hướng chúng sinh
quyết định làm cho lợi ích; ba là tin thiện căn đã tu thuận với lý
thanh tịnh, văn có nêu ra
giải thích; bốn là tin hạnh
hồi hướng đã thực
hành, tâm thẳng thắn… giải thích về thành tựu. c) Có ba câu đối với cảnh khó biết đạt được
Tín bất hoại: Một là tin
Sư thuyết pháp, như Dạ-xoa
thuyết pháp cũng khởi lên tưởng về Phật, lại dù
cho thấy thực hành trái
ngược nhưng vì trọng pháp cho nên không hủy hoại
niềm tin của mình; hai là tin tác dụng của quả Phật,
nghịch thuận
khó biết, như hiện ra làm
Tỳ-kheo già…; ba là tin Bồ-tát phương tiện
khéo léo, thị hiện sự
việc bí mật thực hành trái ngược, như hiện ra dâm
nữ…, như vậy đều khó
biết mà có thể kiên quyết tin tưởng.
Trong phần hai là
sinh trưởng thiện căn có ba: a) Nhắc lại
cảnh Tín trước đây
trình bày về gieo trồng phát sinh thiện căn, trong đó
đầu là nhắc lại Tín
bất hoại trước đây, từ “Ư chư Phật…” trở xuống là trình bày đối với phát
sinh thiện căn. Trong đó Thanh văn… cũng là
Tăng Bảo thâu nhiếp,
chúng sinh là cảnh của mắt yêu thích đã quán
xét-đã lợi ích trước
đây, vô lượng cảnh như vậy gồm chung kết luận về
nhiều cảnh đã tin trước
đây. Nhờ vào Tín bất hoại đối với cảnh ấy, cho nên gieo trồng phát
sinh đạt được vô lượng thiện căn này. b)
Từ “Phân biệt…” trở
xuống là trình bày dựa vào thiện căn này lại tăng thêm Đại tâm để phát
sinh thiện căn. Cũng trước là nhắc lại thiện căn, nghóa là tư duy phân biệt về thiện căn đã phát
sinh trước đây, khiến cho tâm
nhanh nhạy sắc bén tăng
thêm Đại tâm. Lại phát sinh thiện căn, nghóa là
do phân biệt đối với
Tam Bảo… trước đây mà phát sinh thiện căn, vì vậy

làm cho tâm
Bồ-đề tâm được nuôi lớn. Do phân biệt thiện căn đã
phát sinh đối với cảnh chúng
sinh trước đây, cho nên tu tập Đại Từ.
Nhờ vào hai tâm này tăng
thêm nhiều, cho nên dựa vào đây lại tiếp tục phát
sinh các thiện căn, cho nên nói là thiện căn đã
phát sinh. c)
Từ “Quảng tu…” trở xuống là
trình bày về dựa vào Đại tâm này lại tăng thêm Đại
hạnh để phát sinh thiện
căn, có hai: Một là thành tựu hạnh A-hàm, trước
là dựa vào tâm Từ
trước đây khởi lên quán hạnh như Đại Bi…; sau là học theo những pháp
Học của Phật, dựa vào tâm Bồ-đề phát khởi thực hành những pháp
Học của Phật, dựa vào hai hạnh Bi-Trí này thâu nhiếp
phát sinh tất cả thiện căn
thanh tịnh. Hai là trình bày về hạnh chứng lý,
trước là dựa vào Trí
chứng lý tích tập công đức, sau là dựa vào Bi tuệ thí
tu tập công đức. Lại
giải thích: Hạnh A-hàm trước là thâu nhiếp thiện căn tiến vào Thật trong
Gia hạnh, là hạnh tích tập công đức
trong Chánh chứng, Đại tuệ thí… là tu tập công đức trong
Hậu đắc. Thể của hành, xong.

Trong phần hai là chính thức hồi hướng, có hai:
1) Hồi hướng Bồ- đề và Chúng sinh;
2) Từ “Quán vô sinh tánh…” trở xuống là trình bày về hồi hướng Thật tế. Trong phần một cũng
có hai: Một, Chính thức dùng thiện căn
trước đây để hồi
hướng; Hai, Từ “Bồ-tát thiện căn hồi hướng dó…” trở xuống là trình bày về dùng quả báo thù thắng đã phát
sinh do hồi hướng
lại tiếp tục đem hồi hướng.

Trong mục một cũng có hai: Đầu
là chính thức hồi hướng; sau từ
“Bồ-tát như thị tinh cần…” trở xuống là kết luận thành tựu.

Trong mục đầu có mười câu: Câu
đầu hồi hướng Nhất thiết trí
là tổng quát nêu ra
Bồ-đề mà mình mong cầu; từ “Thường kiến
Phật…” trở xuống là chín câu hồi hướng thành tựu nhân hạnh. Trong đó
năm câu đầu là thành
tựu chỗ dựa của hạnh: a) Thường được thấy Phật;
b) Gần gũi thiện hữu; c)
Cùng với Bồ-tát tụ hội. Ba câu này là thành tựu duyên của hành. Tiếp một câu là thành tựu nhân của hành, nghóa
là nghó đến Tát-bà-nhã,
là Nhất thiết trí đã hồi hướng trên đây. Tiếp một câu là thâu nhiếp các pháp thực hành, nghóa là tiếp nhận giáo pháp
của Phật ở nơi Phật
pháp hưng thịnh, bảo vệ giáo pháp để lại của Phật
sau khi Phật diệt độ.

Từ đây trở xuống bốn câu là hành đã thành tựu: Đầu là một
câu về thành tựu hạnh
Lợi tha, nghóa là nguyện có thể ở nơi có lợi ích cho chúng
sinh mà luôn luôn không lìa xa chí hướng xuất thế. Tiếp là ba
câu về thành tựu hạnh
Tự lợi: a) Hạnh cúng dường Thầy; b) Hạnh hiểu rõ

lý; c) Hạnh đầy đủ nguyện.
Trong mục
sau là kết luận thành tựu,
có ba: Một, Kết luận về thiện căn đã hồi hướng trên đây, nghóa là vô lượng thiện là dựa
vào Tín trước đây mà
phát sinh thiện căn, tích tập trưởng dưỡng đều là dựa vào tâm
Bồ-đề… trước đây mà phát
sinh
thiện căn. Hai,
Từ “Chánh niệm đẳng…”
trở xuống là kết luận về trí chủ động hồi
hướng, nghóa
là suy nghó quán chiếu về
đạo lý hồi hướng vốn là nghóa chân thật, vì
thế cho nên hồi hướng.
Ba, Từ “Cung kính…” trở xuống là chính thức
thâu nhiếp oai nghi để
thành tựu hồi hướng.
Mục hai là dựa vào hồi hướng trước đây mà đạt được quả báo
thù thắng lại tiếp tục
hồi hướng, trong đó: Đầu là nhắc lại khởi hạnh trước đây tổng quát nêu ra những điều đã hồi hướng;
sau từ
“Linh ngã…” trở xuống là
chính thức quay lại những nơi đã hướng về. Trong đó:
1) Cúng dường Phật;
2) Trình bày về cúng dường qua việc làm;
3) Kết luận về phạm vi giới hạn cúng dường;
4) Phân rõ về tâm chủ động cúng dường.

Trong mục một có hai: Trước
là cúng dường Phật hiện tại; sau là
cúng dường xá-lợi.

Trong mục trước: Trước
là nêu ra đã cúng dường Phật, từ “Ư
chư Như Lai…” trở xuống
là chính thức trình bày về phát khởi cúng
dường. Trong đó có ba:
a) Tổng quát, nghóa là như Phật đã ứng là trình bày
về cúng dường xứng
với cảnh giới Phật đã ứng để mà cúng dường; nghóa là khắp pháp giới đều không thể biết, cho nên chỉ nói là như
Phật đã ứng. b) Từ “Dó
A-tăng-kỳ…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về
cúng dường, có 67 câu
về A-tăng-kỳ cúng dường đầy đủ. c) Từ “Dó như
thị đẳng thượng diệu…”
trở xuống là tổng quát kết luận về thường xuyên cúng dường.

Mục sau từ
“Thử chư tối thắng…” trở xuống là trình bày về
cúng dường xá-lợi.
Mục hai từ
“Dục linh…” trở xuống là trình bày về cúng dường
qua việc làm, có ba:

Một, Vì lợi ích chúng sinh cho nên cúng dường Phật, trong đó có ba câu: a) Khiến cho chúng
sinh trông thấy
sự cúng dường thù
thắng này, hoan hỷ yêu
thích sinh trưởng thiện căn cho nên nói là nhiếp thủ, chứ không phải là
Bồ-tát thâu nhiếp thiện căn của
chúng sinh. b)
Khiến cho dựa vào pháp thiện lìa khổ mà phát tâm Bồ-đề. c) Dựa vào
tâm Bồ-đề phát khởi
thực hành tự trang nghiêm biểu thị cho vượt lên trên thế gian. Hai,
Từ “Thị hiện…” trở xuống có hai câu, bởi vì trọng đức
của Phật cho nên phát
khởi cúng dường: a) Bởi vì Phật hiếm được gặp;
b) Bởi vì đầy đủ sức
lực cúng dường Phật, nghóa là đối với Đức
Phật phát khởi cúng dường rất thù thắng này, là hiển bày uy lực của
Như Lai trọn vẹn đầy đủ. Ba,
Từ “Thanh tịnh…” trở xuống có hai câu, vì tự tâm đối với
Phật tin tưởng vui thích
rất kính trọng cho nên phát khởi cúng dường: a) Bởi vì tin tưởng kính trọng đức của Phật; b) Bởi vì yêu quý bảo vệ giáo
pháp của Phật, nghóa là phát khởi cúng dường thù thắng này vốn là khiến
cho mọi người kính trọng
đối với Đức Phật.

Mục ba từ “Như thị…” trở xuống là kết luận về phạm vi giới
hạn của cúng dường,
nghóa là không cùng tận.

Mục bốn từ “Chư Phật thành tựu…” trở xuống là phân rõ về
tâm thực hành chủ động
cúng dường, trong đó có mười câu:
1) Bắt đầu thì không lui sụt;
2) Giữa chừng thì không có ngưng nghỉ;
3) Cuối cùng chưa hề lơi lỏng;
4) Trong ba thời gian vui mừng không gián đoạn, gọi là ưu não không làm hỏng;
5) Tình thức không có mong cầu danh
lợi… gì khác, cho nên
nói là không đắm trước;
6) Cũng không nghó đến điều ấy, cho nên nói là không có tâm tưởng;
7) Cũng không có mong cầu hiện tại, cho nên nói là không có nhiễm trước, không có chỗ dựa;
8) Đối với thiện căn đã phát sinh cũng không sinh tâm đắm trước, cho nên nói là không phân biệt
ý vị…;
9) Đã không mong cầu danh lợi hiện tại, lại không phân biệt ý vị thì thiện căn làm
sao thành tựu công hạnh, nghóa là pháp ấn chân thật của Phật phù hợp với nghiệp hạnh đã thực hiện của
vị ấy;

10) Tâm thanh tịnh bình đẳng xứng với cảnh giới Phật, cho nên nói là trú trong trú xứ của Phật. Trong phần hai là hồi hướng
Thật tế, có hai: Một là bắt đầu tu; hai từ
“Bồ-tát như thị xả ly…” trở xuống là trình bày về cuối cùng thành tựu.

Trong phần một có hai:
1) Trình bày về hồi hướng xứng với Thật;
2) Từ “Dó thử thiện…” trở xuống là trình bày về tướng lợi ích
của hồi hướng.

Trong phần một có bảy câu về hồi hướng: Một,
một câu trình bày về trí quán gia hạnh, nghóa là quán
sát cảnh vô
sinh phù hợp với tâm chủ động khởi lên trình bày về chủ động-thụ động tịch diệt, thọ trì… trình bày về thuận theo
Phật Thánh thuyết giảng. Hai, quán
sát pháp tánh bình đẳng là một câu trình bày về
Chánh Thể của trí chứng tiến vào
Thật tế. Ba, từ “Nhập vô hạnh…” trở xuống là bốn câu trình bày về

Hậu trí tu hạnh quán, trong đó:
1) Trình bày về hướng đến chứng phát khởi thực hành;
2) Hạnh khéo léo tùy theo quả báo;
3) Hạnh ở nơi có lìa nhiễm;
4) Thực hành hai hạnh vô ngại. Bốn, sau cuối là một câu tổng quát kết luận về đều hồi hướng. Phần hai từ “Dó thử thiện căn…” trở xuống trình bày về tướng
của lợi ích, trong đó
có tám câu-bốn cặp:
1) Chán ngán quả báo bởi vì tâm kiên quyết cho nên không thể hủy hoại;
2) Cầu mong quả vị bởi vì tâm thấu triệt cho nên không lui sụt;
3) Tự hành không tán loạn;
4) Hóa tha không vướng mắc;
5) Tự hành rộng lớn;
6) Hóa hạnh kiên cố;
7) Nhân hạnh tròn vẹn thanh tịnh;
8) Quả đức đầy đủ tận cùng cho nên nói là cứu cánh… Từ đây trở xuống là trong phần hai cuối cùng thành tựu hạnh:
1- Nhắc lại phần trước phát khởi phần sau;
2- Từ “Quán sát bình đẳng…” trở xuống là chính thức hiển bày về hạnh tiến vào pháp. Trong đó có hai: Trước là trình bày về hạnh vô ngại; sau từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là trình bày
về hồi hướng thâu nhiếp hạnh.
Trong phần trước
có hai: Một, Mười câu trình bày về hiểu rõ
pháp rất sâu xa; Hai, Từ
“Phân biệt Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về
phát khởi hạnh vô ngại.

Trong phần một: Một câu đầu tổng quát quán
sát các pháp
Lý- Sự vô ngại cho nên
nói là bình đẳng, nghóa là Sự của Lý bình đẳng tận cùng thấu
suốt nguồn Thánh cho nên nói là tiến
sâu vào, Lý của
Sự bình đẳng tận cùng giới hạn thuộc Sự này cho nên cũng nói là
sâu xa, cả hai dung hòa không giới hạn, trí hiểu rõ tận cùng cho nên nói là
tiến sâu vào. Chín câu
sau hiển bày
riêng biệt:
1) Trình bày về nghiệp không có Thể;
2) Báo tạm thời đáp lại nhân;
3) Các hành không có chủ;
4) Duyên sinh không có hệ thuộc;
5) Chánh hạnh tựa như có;
6) Pháp nhãn không có gì vướng mắc, phát sinh là giải thích về nguyên do của hạnh
Bồ-tát như bóng, nghóa là như con ngươi trong mắt thế gian đã hiện ra
hình ảnh, nay ở đây
cũng như vậy, dựa vào pháp nhãn mà hiện ra;
7) Đã do Pháp nhãn vô tác mà
dấy lên, cho nên tánh ấy luôn luôn vắng lặng;
8) Hiểu rõ hữu vi giống như vô vi, cho nên nói là tiến vào;
9) Cả hai dung hòa không hai, cho nên nói là hiểu rõ như thật tánh.
Kinh Niết Bàn nói: “Minh và Vô minh,
người ngu nói là hai, người trí hiểu rõ ràng tánh
ấy không hai, tánh không hai tức là thật tánh.” Ở
đây nói đến điều này.
Trong phần hai là trình bày về phát khởi hạnh vô ngại, có bốn câu:

1) Trình bày về thực hành lý sự vô ngại, nghóa là do hiểu rõ về pháp không hai trước đây, cho nên phân biệt về tướng của hành mà không
vướng mắc vào tướng.
2) Thực hành hai Lợi vô ngại, nghóa là đồng sự Lợi tha mà không rời bỏ pháp thiện thanh tịnh làm Tự lợi.
3) Lìa xa chướng ngại này, cho nên kết luận là không có chướng ngại vướng mắc.
4) Do hiểu rõ thực hành
sâu xa, cho nên chư Phật hộ niệm là
ngoại duyên thù thắng, xa
rời ngu si là nội hành tăng thêm.
Từ đây trở xuống là phần
sau thâu nhiếp hạnh thành tựu hồi hướng, có ba: Một là Sự không hủy hoại mà rõ ràng thấy Lý, bởi vì Sự tức là
Lý không cần phải hủy
hoại. Hai từ “Thiện giải…” trở xuống là trình bày về không trở ngại Lý mà khéo léo hiện rõ Sự, bởi vì Sự không cần phải hủy hoại cho nên không trở ngại tồn tại; Vô ngại như vậy mới
hướng về pháp tánh mà
đến được bờ giải thoát. Ba là hiểu rõ pháp hồi
hướng, nghóa là như lý mà quay lại để hướng đến Đại trí của
Phật địa, khiến
cho các thiện căn khác
đều xứng với lý thành tựu, cho nên nói là tâm thanh tịnh.
Do đó, quay lại hành này luôn luôn quay lại mà không có quay
lại, cho nên nói là thực
hành mà không có gì thực hành.

Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ ba trình bày về
tướng lợi ích của hồi hướng, có bốn:
1) Vì lợi ích cứu độ chúng sinh, trong đó: Đầu là kh- iến tăng thêm chủng tử Phật, diệt trừ các
nghiệp khổ;
sau từ
“Nhất thiết chúng sinh đắc…”
trở xuống là khiến cho thành tựu trí thuộc quả,
diệt trừ các phiền não.
2) Từ “Cứu cánh…” trở xuống là trình bày về lợi ích thành tựu Bồ-đề.
3) Từ “Đắc bình đẳng…” trở xuống là kết luận về lợi ích của Thật tế.
4) Từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là tổng quát kết luận về hồi hướng thành tựu lợi ích hướng đến quả. Trên đây là riêng biệt
giải thích, xong.

Từ “Phật tử…” trở xuống là phần ba kết luận về tên gọi.
Trên đây là hạnh của phần vị, xong.

Từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là phần thứ hai trình bày về quả
của phần vị, trong đó:
Đầu là mười câu riêng biệt hiển bày; sau là một
câu tổng quát kết luận.

Trong phần đầu:
1) Lợi ích được thấy Phật;
2) Lợi ích đạt được pháp. Tám câu sau là lợi ích thành tựu hạnh.
3) Từ “Phổ ư chúng sinh…” trở xuống là thành tựu tâm làm lợi ích cho chúng sinh;
4) Rời bỏ ngu si tiến vào pháp là thành tựu hiểu rõ thuộc Tự lợi. Trên đây là thành tựu hạnh thuộc Tự
phần, sau là trình bày về Thắng tiến.
5) Được các Như Lai… là trình bày về lập hạnh phá bỏ tà pháp;
6) Đầy đủ sinh ra tôn quý… là trình bày có đủ Chánh hạnh căn bản, nghóa là tâm xuất thế gian làm cho sinh ra tôn quý, lại vốn từ Chánh pháp của Phật sinh ra;
7) Đạt được trí vô ngại… là trình bày về Đại trí phát ra từ bên trong;
8) Đối với tất cả các pháp… là trí phát khởi soi chiếu Thật. Trên đây là thành tựu về trí thuộc
Trí chánh giác thế gian.
9) Từ “Ư nhất thiết sát…” trở xuống là thành tựu về trí thuộc Khí thế gian;

10) Từ “Trí tuệ cụ túc…” trở xuống là thành tựu về trí thuộc Chúng sinh thế gian.
Sau cuối là một câu tổng quát kết luận, có thể biết.
Phần thứ hai là kệ tụng, toàn bộ có 25 tụng phân bốn: Một,
Hai tụng về Thể của hành đã hồi hướng trước đây. Hai,
Từ “Nhất thiết thượng diệu…” trở xuống có chín tụng
rưỡi tụng về hồi hướng
Chúng sinh và Bồ-đề trước đây, trong đó phân bốn:

1) Bốn tụng về nhờ vào hồi hướng đạt được quả báo thù thắng cúng dường chư Phật
trước đây;
2) Từ “Thiện phân biệt…” trở xuống là hai tụng về cúng dường Đức Phật qua việc làm, bởi vì lợi ích cho
chúng sinh trước đây;
3) Từ “Nhất thiết chư Phật…” trở xuống là hai tụng rưỡi tụng về cúng dường xá-lợi
Phật trước đây;
4) Từ “Bồ-tát thiện tri…” trở xuống là một tụng, tụng về hạnh hồi hướng cúng dường Đức Phật trước đây. Ba,
Từ “Thắng diệu trí…” trở xuống có bảy tụng rưỡi, tụng về hồi hướng Thật tế trước đây, trong đó phân bốn:
1) Ba tụng trình bày về hạnh quán sát lý tùy theo duyên, một kệ rưỡi về Tự lợi, một kệ rưỡi
về Lợi tha;
2) Từ “Quán chúng sinh tâm…” trở xuống là hai tụng rưỡi trình bày về hạnh suy ra duyên tiến vào Thật;
3) Từ “Phân biệt sở hữu…” trở xuống là một kệ rưỡi trình bày về thực hành cả hai dung hòa vô ngại;
4) Từ “Phương tiện hồi hướng…” trở xuống là một tụng trình bày kết luận về tướng thành tựu của hạnh.
Bốn, Từ “Bồ-tát nhất tâm…” trở xuống có sáu tụng kết luận
về tướng lợi ích của
hồi hướng trước đây, trong đó:
1) Trên nghó đến chư Phật, luận Thập Địa nói như Phật đã đạt được, mình cũng sẽ đạt được, gọi là nghó đến Phật;
2) Dưới cứu giúp
chúng sinh;
3) Giữ gìn bảo vệ Chánh pháp;
4) Ở nơi có lìa nhiễm;
5) Thâu nhiếp pháp lìa chúng sinh;
6) Đức tròn vẹn lìa xa tướng; đều có một tụng hiển bày, có thể biết. * Thứ ba trong Đẳng Chư Phật Hồi Hướng cũng có hai, đó là
trường hàng và kệ tụng.
Trong phần trước cũng có hai: Đầu là hạnh của phần vị,
sau là
quả của phần vị.

Trong phần đầu
có ba, đó là nêu ra-giải thích-kết luận.

Trong giải thích có ba: Một,
Nêu ra ý hồi hướng về pháp đã
Học, tức là giải thích
tên gọi; Hai, Từ “Thử Bồ-tát tu hành thời…”
trở xuống là chính thức hiển bày về hồi hướng;
Ba, Từ “Như thị Ma-ha-tát dó chư
thiện căn
chính hồi hướng, dó thành tựu diệu thân…” trở xuống là
trình bày về lợi ích đã
thành tựu do hồi hướng.

Trong phần hai là chính thức hồi hướng, có hai: Đầu là hồi hướng
Chúng sinh và Bồ-đề; sau từ “Phục tác thị niệm
như bỉ quá khứ…” trở
xuống là trình bày về hồi hướng Thật tế.

Trong phần đầu cũng có hai: Một,
Nhờ vào Sự để thực hành
hồi hướng; Hai, Từ
“Ma-ha-tát nhược tại gia…” trở xuống là hồi
hướng tùy theo duyên thâu nhiếp thiện.

Trong phần một có ba:
1) Nêu ra hạnh nhờ vào Sự;
2) Chính thức dùng để hồi hướng;
3) Từ “Ma-ha-tát dó đại nguyện nhiếp thủ
hành đẳng…” trở
xuống là kết luận về tướng thành tựu lợi ích.
Trong mục một nghóa là đối với hai cảnh đạt được ba tâm
thanh tịnh: a) Đối với hai cảnh nghịch thuận đạt được lìa xa kiết
của yêu-ghét;
b) Đã lìa xa kiết này mừng vui không có gì hủy hoại; c) Đã lìa xa kiết thì tình thức vui vẻ, khiến cho thân tâm điều hòa
thông suốt, nhẹ nhàng
thư thái yên ổn. Đã
đạt được nhân của niềm vui này chính là hồi hướng.

Trong mục hai chính thức dùng niềm vui của mình để hồi hướng, có ba: a)
Hồi hướng về Phật; b) Hồi hướng về Bồ-tát; c)
Hồi hướng về chúng sinh.

Trong mục a trình bày về lúc tự mình có được niềm vui nghó
đến muốn hồi hướng để
cúng dường Đức Phật, cho nên trước nhắc lại
niềm vui của chư Phật mà nói là chư Phật tuy có
niềm vui thanh tịnh vi diệu; sau có mười câu, chính
thức hiển bày về niềm vui của chư Phật đã đạt được.

Hỏi: Chư Phật
vui trọn vẹn-đức đầy đủ đâu cần phải nguyện
cho Đức Phật có được
niềm vui, giả sử có nguyện thì đức của Phật lẽ
nào tăng thêm? Đáp: Đức Phật lẽ nào cần đến hương hoa của nhân gian để biểu
lộ hiếu tình cúng dường,
nhưng bởi vì Bồ-tát này ái kính đối với Như
Lai, cho nên tự mình đã
cố được niềm vui quay lại để hướng về Đức Phật.

Trong mười câu: Một câu
đầu là tổng quát, nghóa là nguyện
Đức Phật đạt được
không phải là mình suy lường niềm vui mà Đức Phật
an trú; chín câu còn lại
riêng biệt hiển bày, đếu là không thể nghó bàn.
1) Niềm vui Tam-muội là chỗ dựa thuộc công đức của Đức Phật, nghóa
là ra vào qua lại vốn
thích hợp.
2) Niềm vui Đại Bi là căn bản thuộc công đức giáo hóa của Đức Phật, nghóa là ở nơi sinh tử như qua lại ngắm nhìn vườn cảnh.
3) Niềm vui Giải thoát là Giải thoát không thể nghó bàn của Đức Phật,
 như phẩm Bất Tư Nghị ở sau nói có mười loại…, nghóa là lìa xa chướng ngại tự tại, vốn nói là niềm vui.
4) Niềm vui Thần túc là thần thông của Đức Phật sử dụng tự tại, vốn là niềm vui, như mười Thông…
5) Niềm vui Tôn trọng là đức thù thắng đức của Đức Phật,
 một mình vượt ra không có gì sánh bằng,
 cho nên nói là niềm vui thù thắng,
 niềm vui che phủ người khác gọi là Như Lai che phủ.
6) Niềm vui Vô lượng lực là Trí-Dụng-Thập Lực của Đức
Phật tự tại, gọi là niềm vui
thuộc về Lực. Trên đây là niềm vui thuộc Đại Bồ-đề, dưới đây là niềm vui
thuộc Đại Niết-bàn.
7) Niềm vui Ly giác là Đức Phật Niết-bàn cho nên lìa xa giác quán, kinh Niết Bàn nói: “Lìa xa các giác quán gọi là
Niết-bàn.”
8) Niềm vui Bất biến là bởi vì không còn Biến dịch
sinh tá»­;
9) Niềm vui Bất hoại là đức tròn vẹn thường an lạc của Đức Phật. Sơ lược nêu ra ba sự việc: a) Đức của
Phật vô ngại, không có gì có thể làm cho ngăn ngại;
b) Thường
xuyên ở trong Định, không có gì có thể làm cho tán loạn;
c) Không có hai hành của
biết và không biết, không có gì có thể làm
cho khác nhau, cho nên nói là
Bất hoại. Lại chín loại này thâu nhiếp
làm thành bốn: Một loại đầu là niềm
vui Tam-muội; hai là niềm vui Đại
Bi; tiếp bốn loại gọi là
niềm vui Đại Trí; sau cuối ba loại gọi là niềm vui Tịch Diệt.

Trong mục b là hồi hướng về Bồ-tát, có mười câu phân hai: Một, Khiến cho thành tựu về đức
của mình; Hai,
Từ “Năng linh…” trở xuống
là khiến cho thành tựu về đức giáo hóa.
Trong phần một
có sáu:
1) Khiến cho đạt được 140 nguyện của phần vị Tín;
2) Khiến cho tiến vào Chánh giải trực tâm của Thập Trú;
3) Khiến cho tu tập về hạnh Ba-la-mật của Thập Hạnh;
4) Khiến cho trú vào tâm Đại Bồ-đề của Kim Cang Tràng thuộc Thập Hồi Hướng;
5) Khiến cho thành tựu tâm cầu trí Phật từ Sơ Địa trở lên, chứng Bất thối chuyển;
6) Khiến cho đạt được hạnh không có công dụng trên tám
Địa, cho nên nói là
không rời bỏ Đại trang nghiêm thủ hộ Bồ-đề…

Trong phần hai là khiến cho thành tựu về đức Lợi tha:
1) Hóa độ khiến cho thành tựu hạnh của Địa tiền;
2) Từ “An trú…” trở xuống là hóa độ khiến cho thành tựu hạnh của Địa thượng;
3)Từ “Đắc chư…” trở xuống là hóa độ khiến cho đạt được đức trên tám Địa;
4) Từ “Chứng Tát-bà-nhã…” trở xuống là hóa độ khiến cho thành tựu về quả. Trong mục c là hồi hướng về
chúng sanh: Đầu là kết thúc phần trước
sinh khởi
phần sau; tiếp là chính thức hồi hướng. Trong đó có
hai: Một, Trình bày về tự
lực của Bồ-tát hồi hướng lợi ích chúng sinh;
Hai, Từ “Như Phật…”
trở xuống là mong mỏi giống như chư Phật hồi hướng
lợi ích chúng sinh.
Trong phần một có mười câu về hồi hướng: Một câu đầu là hồi hướng khiến cho thấy
Phật-nghe Pháp-gần Tăng; tiếp ba câu là hồi hướng khiến cho nghó đến
Tam Bảo; còn lại
sáu câu là hồi hướng khiến cho khởi hạnh,
5) Không lìa xa Phật là gần gũi người thiện,
6-Khiến cho phát khởi niềm tin thanh tịnh đối với Phật,
7) Khiến cho phân biệt phát sinh hiểu biết,
8) Khiến cho khởi hạnh thành tựu về đức,
9) Khiến cho thành tựu về nhân của thần thông thanh tịnh,
10) Khiến nghi hoặc vónh viễn không còn. Trong phần hai là giống như chư Phật lợi ích chúng sinh:
Một, Tổng quát nêu ra giống
như Phật; Hai,
Từ “Linh nhất thiết…” trở
xuống là riêng biệt hiển
bày về tướng ấy. Trong đó có mười sự việc: Đầu là năm
sự việc khiến cho lìa xa khổ đau, nghóa là ra khỏi bốn nẽo ác và các nơi tai nạn. Sau từ
“Ma-ha-tát…” trở xuống là năm
sự việc khiến cho trú vào thiện, trước là ba câu về thành tựu hạnh của Địa tiền, một
là phát tâm, hai là tăng
trưởng tâm, ba là lìa xa
chướng-thường an vui;
sau là thành tựu hạnh của
Địa thượng, khiến cho tất cả chúng
sinh đến
cuối cùng đều thành tựu quả đức.

Trong mục ba
là kết luận ca ngợi về tướng của lợi ích, dùng các Đại nguyện nhiếp thủ các hạnh… thì ý văn này khó thấy, khiến cho
các vị giải thích đều
không giống nhau.

Sư Quang Thống nói: Đây là kết luận về nghóa của ba đạo
cứu cánh trên đây,
hạnh như nhau thực hành là kết luận về niềm vui cùng với Phật thành tựu hạnh
Chứng đạo, tích tụ như nhau là kết luận về niềm vui cùng với
Bồ-tát thành tựu hạnh
Trợ đạo, trưởng dưỡng như nhau là kết luận về niềm vui cùng với chúng
sinh thành tựu hạnh
không trú vào đạo.

Pháp sư Viễn nói: Chứng
tâm dạo trong lý gọi là hành, một
đầy đủ tất cả gọi là
cùng thực hành; Trợ đạo dần dần đầy đủ gọi là tích
tụ, trong mỗi một hạnh
đầy đủ tất cả các hạnh gọi là cùng tích tụ;
không trú vào dần dần
tăng lên gọi là trưởng dưỡng, trong mỗi một môn
thâu nhiếp đầy đủ tất
cả gọi là cùng trưởng dưỡng.

Pháp sư Phạm nói: Chỉ
phát khởi một hạnh gọi đó là hạnh, tổng hợp rất nhiều hạnh gọi là tích tụ, tăng tiến hơn trước gọi là trưởng
dưỡng, cũng là hiển
bày tên gọi khác nhau của hành trước đây mà thôi.
Hạnh mà Bồ-tát thực hành đã vô lượng, không thể nào nêu ra đầy đủ, chỉ
như nhau mà nói cho nên đều nói là Đẳng.

Pháp sư
Chánh nói: Thiện căn là những pháp thiện như
Thí… Dùng các Đại nguyện nhiếp thủ thì Nguyện lớn cho nên Hành lớn.
Hành là hành
Tự lợi-Lợi tha. Cùng thực hành là cùng thực hành tất
cả các hạnh. Tích tụ là tích lũy công hạnh thành tựu đức của phần vị.
Cùng tích tụ là thành
tựu tất cả các đức. Trưởng dưỡng là từ hạnh phát
sinh hạnh. Cùng trưởng
dưỡng là phát sinh tất cả các hạnh.

Pháp sư
Biện nói: Hành là những công hạnh của Phật ở trong phần vị
Nguyện Lạc, Bồ-tát dùng Đại nguyện thâu nhiếp giống
như hạnh ấy, cho nên nói
là cùng thực hành. Tích tụ là tu tập tích tụ ở phần vị công dụng của Phật,
Bồ-tát cùng tu tập gọi là cùng tích tụ.
Trưởng dưỡng là tu tập
ở phần vị không có công dụng của Phật, Bồ-tát cùng
tu tập gọi là cùng
trưởng dưỡng. Vì vậy, trên đây nói như Phật hồi hướng rộng mở hóa độ tất cả, Bồ-tát hồi hướng cũng lại như vậy, là
nói đến điều này.

Nay lại giải thích: Tất
cả thiện căn của Bồ-tát đều dùng lực của Đại nguyện hồi hướng mà khiến cho thiện căn này thâu nhiếp thành
tựu hạnh thù thắng, các
hạnh thực hành như nhau, cho nên nói là cùng thực hành. Lại do Nguyện lực thâu nhiếp thiện căn này mà thành tựu
các hạnh, khiến cho không
thất lạc tản mác, cho nên nói là tích tụ. Có thực hành tích tụ này, cho nên nói là cùng tích tụ. Lại do Nguyện lực
thâu nhiếp thiện căn này
mà tích tụ nhiều hành, lại phát sinh các hành
gọi là trưởng dưỡng.
Mỗi một hành phát sinh tất cả các hành, gọi là
cùng trưởng dưỡng. Vì vậy đều do Nguyện lực khiến cho những thiện căn này thảy đều rộng lớn đầy đủ trọn vẹn. Trên đây là phần thứ nhất, hạnh
nhờ vào Sự để thành
tựu hồi hướng, xong.

Từ đây trở xuống là phần thứ hai, tùy theo duyên phát khởi
hạnh để thành tựu hồi
hướng. Lại giải thích: Cũng có thể trên đây là vì Bồ- đề hồi hướng
chúng sinh, cho nên kết luận nói là trưởng dưỡng
như nhau. Từ đây trở
xuống là vì chúng sinh hồi hướng Bồ-đề, cho nên
kết luận nói là nay
thiện căn tích tụ như nhau đều hồi hướng. Trong đó
có ba: Một, Trình bày về
hồi hướng tùy thuận Đại Bi; Hai, Từ “Phục tác niệm… cho đến
Tiểu-Đại…” trở xuống là trình bày về hồi hướng
sâu nặng
Đại Bi; Ba,
Từ “Như thị
Bồ-tát…” trở xuống là tổng quát kết luận
về hồi hướng ba đời.

Trong phần một: Trước là
riêng biệt hiển bày; sau từ “Thị
vi…” trở xuống là
tổng quát kết luận.

Trong riêng biệt có ba:
1) Trình bày về Bi cho nên tùy theo nhiễm mà trí khéo léo không có gì cấu nhiễm.
2) Từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là Chánh niệm hiện rõ trước mắt thường thường phù hợp với đạo.
3) Từ “Ma-ha-tát dó như
thị…” trở xuống là trình bày đối với các chúng
sinh
mở rộng
thành tựu lợi ích an vui, trong đó có ba: a) Tổng
quát nêu ra.
b)
Từ “Vô lượng chư nguyện…” trở xuống là riêng biệt thành tựu
nhiều lợi ích, trong đó: Một là phân rõ về hạnh có thể làm lợi ích; hai từ
“Trừ diệt…” trở xuống là trình bày về lợi ích đã thành tựu, trước là khiến cho trừ chướng nghó đến pháp,
sau từ “Tu tập…” trở xuống là thành tựu hạnh tiến vào Địa. c)
Từ “Linh nhất thiết…” trở xuống là riêng biệt thành
tựu an lạc, nghóa là lìa
xa các khổ. Hai, Hồi hướng sâu nặng Đại Bi, nghóa là cho đến
súc
sinh… khổ đều cứu giúp loại trừ. Trong đó có hai: Đầu
là cứu giúp chúng sinh
lìa xa đau khổ; sau từ “Như thị đẳng…” trở
xuống là tổng quát kết
luận về hồi hướng thành tựu lợi ích.

Trong phần đầu: Một là khiến cho lìa xa nhân của khổ; hai từ
“Ly súc sinh thú…” trở
xuống là trình bày về lìa xa quả của khổ. Vónh viễn vượt qua biển khổ là tổng quát, nghóa là các khổ nhiều loại
sâu
rộng như biển, Khổ thọ là dẫn đến Khổ thọ trong ba Thọ, Khổ ấm là
năm Ấm của nẽo ác, Khổ
giác là khổ từ bên trong phát ra, bởi vì giác
quán là Khổ. Trên đây đều là khổ thô nặng, gọi là Đại khổ
tăng thượng.
Dưới đây là trình bày về khổ vi tế, Khổ hành là Hành khổ cũng là lấy
khổ làm nghiệp hành, Khổ
tạng là thân tâm thâu nhiếp tích chứa rất nhiều khổ, Khổ căn nghóa là nơi
Hoặc nghiệp
sinh ra khổ. Lại lấy khổ làm
chỗ dựa, khổ làm căn
bản. Lại cõi Dục-Nhị thiền trở đi là Khổ căn. Khổ xá là bởi vì khổ tự che phủ, cho nên nói là
Xá (nhà). Lại giải thích: Khổ thọ là
Thọ ấm, Khổ ấm là
Sắc ấm, Khổ giác là
Tưởng ấm, Đại khổ
tăng thượng là Thức
ấm, Khổ hành là Hành ấm, luận chung tất cả Uẩn hữu lậu là
Khổ tạng. Nhân của khổ có thể
sinh ra là căn, quả của khổ tự che phủ là nhà. Tiểu thừa là khổ vì Thật, Sơ giáo tức là khổ vì Không.
Kinh nói hiểu rõ năm Thọ ấm trống rỗng không có gì khởi lên là
nghóa về Khổ. Chung giáo ngay nơi Chân như là nghóa của Khổ, Đốn giáo bặt dứt ngôn ngữ là Khổ, Viên giáo bao gồm pháp giới đầy đủ tất cả pháp
môn là Khổ. Từ “Như
thị đẳng…” trở xuống là tổng quát kết luận.
Trong phần
sau là hồi hướng
có hai: Một, Vì chúng
sinh hồi hướng và khuyên dạy chúng
sinh hồi hướng cảnh giới
Bồ-đề như vậy.
Hai, Từ “Chánh niệm…”
trở xuống là hồi hướng thành tựu hạnh Tự lợi-Lợi tha. Trước là thành tựu
Tự hành, sau từ “Tu Như Lai…” trở xuống là thành tựu hạnh
Lợi tha, có mười
sự-năm cặp:
1) Từ Bi rộng khắp;
2) Khiến cho đạt được niềm vui giữ gìn pháp thiện;
3) Khiến cho suy xét về Chánh rời xa Tà;
4) Khiến cho vào sâu ra cạn;
5) Khiến cho đầy đủ nhân trú vào quả, văn đều có thể thấy. Ba, Từ “Như thị
Bồ-tát…” trở xuống là tổng quát kết luận về thiện
căn ba đời
thảy đều hồi hướng.

Hỏi: Thiện căn vị lai chưa có thì lấy gì để hồi hướng?

Đáp: Có hai
nghóa, một là từ nay ngược lại khởi lên Đại nguyện hồi hướng thiện căn vị lai, cũng là lúc tu thành tựu thì hướng đến
Bồ-đề, lại không chờ đợi hồi hướng mà cần phải hồi hướng; hai là dựa vào
tông chỉ của Viên giáo
thì ba trong chín đời hiện tại là có, vì vậy hồi
hướng vốn cũng gồm chung ba đời.

Trong phần sau là hồi hướng Thật tế, có hai: Đầu
là học theo chư
Phật ba đời hồi hướng; sau từ “Ma-ha-tát học tam
thế…” trở xuống là
kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng.
Trong phần đầu
có hai: Một, học theo hạnh của
Phật quá khứ;
Hai, thể lệ giống như hiện tại-vị lai.
Trong phần một cũng có hai:
1) Học theo công hạnh của Bồ-tát quá khứ;
2) Từ “Như bỉ…” trở xuống là dùng thiện căn của mình
hồi hướng giống như các vị ấy.
Trong phần một có hai: a) Nêu ra thiện căn của các vị ấy
hồi hướng Bồ-đề; b)
Từ “Nhi vô sở trước…” trở xuống là trình bày về
Bồ- tát ấy tu hạnh lìa tướng.

Trong đó có hai: Một, Lìa
xa Vọng vui với Chân, nghóa là lìa
xa Ấm-Nhập-Giới không trú vào pháp thế gian là
18 Giá»›i. Hai,
Từ “Tri pháp như Không…”
trở xuống là thực hành tận cùng Chân tế, trong đó có hai:
1) Tổng quát về tận cùng giới hạn của Không, nghóa là vượt qua năm nẽo cho nên nói là không còn bến bờ hướng đến; lại đến nguồn cội của Chân cũng không có nơi nào hướng đến, cho nên nói là không còn hướng đến.
2) Từ “Chiếu giải…” trở xuống là riêng biệt dựa theo ba tánh chiếu rọi ba vô tánh,
trong đó: Một, trong mục trình bày về
sở
chấp Vô tướng, trước là chiếu rọi Thật rời bỏ tướng, từ
“Nhất thiết chư…” trở xuống là trình bày đích thực phù hợp với
Vô tướng, nghóa là
pháp tướng tự nhiên
không có, nơi nào nói là trống không, vốn là không
có thanh tịnh có thể
hướng đến, không có cấu nhiễm có thể hủy hoại.
Hai, từ “Vô hữu tự
tánh…” trở xuống trong mục trình bày về duyên khởi
Vô tánh, trước là hiển
bày về pháp Vô tánh, từ “Ư nhất niệm trung…” trở xuống trình bày đích thực phù hợp với chân lý
Vô tánh. Ba, từ
“Thường lạc…” trở
xuống trình bày về Viên thành thật đầy đủ đức
mà thành tựu quả Phật.

Phần hai là dùng thiện căn của mình hồi hướng giống như các vị ấy, như các vị ấy quá khứ đều đã giống như Phật, mình cũng như vậy rõ ràng đã giống như Phật; đối với pháp hành mà chư Phật quá khứ đã thực
hành, khởi
tâm bắt đầu vui thích, khởi tâm cuối cùng chứng được.
Lại đối với pháp thuộc
lý của pháp hành ấy, cho nên nói là vui thích chứng được. Nhưng ở trong pháp lìa xa tướng như vậy, phát tâm tu tập mà
cũng không trái với
tướng của các pháp, nguyên cớ vì sao? Bởi vì tất cả các pháp khởi lên đều như huyễn, cho nên có pháp này mà không ngăn ngại đối với không có; lại đã có pháp này mà không ngăn ngại đối với
không có, cho nên đối
với Chân không có mà như thật tu tập tiến vào. Một là nêu ra Dụ để hiển bày Pháp, đều phân biệt… là giải thích về
Pháp giống như Dụ, chỉ riêng
Như Lai địa… là chọn lấy quả khác với nhân để
trình bày về nơi hướng
đến của hồi hướng. Hai là trình bày theo thể lệ
quá khứ giống như hiện
tại-vị lại, có thể biết.

Trong phần sau là kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng:
Trước tiên nêu ra
sự hồi hướng thù thắng của ba đời chư
Phật Bồ-tát, mình cũng như vậy đã giống như
sự hồi hướng thù thắng ấy.
Từ “Đệ nhất…” trở xuống là kết luận hiển bày về tướng thù thắng có 20 câu: Mười câu đầu dựa theo hình tướng
so
sánh phân rõ về thù thắng:
1) Vượt qua phàm phu gọi là Đệ nhất;
2) Vượt qua Tiểu thừa gọi là Thắng;
3) Vượt lên trên nhân gọi là Tối thắng;
4) Một mình vượt ra cho nên gọi là Thượng;
5) Không có gì vượt qua nữa cho nên gọi là Vô thượng;
6) Không có gì sánh bằng cho nên gọi là Vô đẳng;
7) Cao nhất không có hai cho nên nói là Vô đẳng mà bằng nhau;
8) Không có so sánh tương tự;
9) Không có đối đãi;
10) Đức sâu dày đáng tôn trọng.
Mười câu
sau dựa theo tự Thể để hiển bày về thù thắng:
1) Thể sâu xa;
2) Xứng với Thật;
3) Lý chính xác;
4) Thâu nhiếp đức;
5) Dụng to lớn;
6) Lìa xa chướng;
7) Đầy đủ thiện;
8) Hạnh thanh tịnh;
9) Lìa lỗi lầm;
10) Rời bỏ nhiễm. Trên đây là chính thức hồi hướng, xong. Từ đây trở xuống là phần ba trình bày về lợi ích thành tựu do
hồi hướng. Trong đó có
hai:
1) Nhờ vào hồi hướng trước đây thành tựu ba nghiệp thanh tịnh;
2) Nhờ vào ba nghiệp thanh tịnh khiến cho những việc làm thanh tịnh. Đầu là tổng quát hiển bày về thanh tịnh; từ “Trú Bồ-tát…” trở xuống là riêng biệt trình bày về hạnh
thanh tịnh.
Trong đó có hai: Một, Trình
bày về lìa pháp ác đạt được trú; Hai, Từ “Nhập nhất thiết pháp
Không…” trở xuống là trình bày tiến vào lý rời bỏ
vướng mắc. Trước là
quán về Không; từ “Vô trước phân biệt…” trở xuống là hiểu rõ về có-không có dựa vào nhau, nghóa là
Không-Hữu vô ngại,
tâm vốn không có gì trú trước.
Ba từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận về tên gọi, có thể biết.

Trên đây là hạnh của phần vị, xong.

Từ đây trở xuống là trong phần thứ hai trình bày về quả của phần vị, đạt được một phần vị này thành tựu mười loại công đức thù thắng:
1) Tiến sâu vào nhân của Phật;
2) Hướng đến đức của quả Phật;
3-Trí tiến vào lý sâu xa;
4) Không lìa xa nghiệp Bi;
5) Khéo léo không có gì trú trước;
6) Tiến vào lý càng sâu xa;
7) Thành tựu phước thiện to lớn;
8) Chiếu rọi hiểu rõ Phật tánh;
9) Khéo léo nhận biết các pháp;
10) Không đắm trước đối với thọ sinh. Trong phần hai
là kệ tụng có 24 kệ phân sáu: Một, Một kệ tụng về nêu ra ý giải thích tên gọi
trước đây. Hai, Tiếp hai kệ tụng về
hồi hướng niềm vui về
Phật trước đây. Ba, Từ “Nhất thiết thế gian…” trở xuống có 11 kệ tụng về hồi hướng chúng
sinh khiến cho thành
Phật trước đây, trong đó có ba:
1) Bốn kệ về dùng tùy hỷ và niềm vui
hồi hướng chúng sinh;
2) Từ “Bồ-tát tu thử hồi hướng thời…” trở xuống là bốn kệ trình bày về giống như Phật hồi hướng lợi ích cho chúng sinh;
3) Từ “Bồ-tát sở tu chư hạnh nghiệp…” trở xuống là ba kệ trình bày về chánh niệm hồi hướng làm an lạc cho chúng sinh. Bốn, Từ “Thập phương vô lượng…” trở xuống có bốn kệ tụng về hồi hướng
Bồ-đề trước đây. Năm, Từ
“Tâm bất xứng lượng…” trở xuống có hai kệ tụng về
hồi hướng Thật tế
trước đây, kệ trước là thông hiểu về giới hạn của
pháp; kệ sau là tận cùng
căn nguyên của Tưởng, nghóa là biết Tưởng
không có tánh, gọi là
vượt qua tất cả các Tưởng, cũng không hủy hoại
Tưởng bởi vì tâm Tưởng
nhất định không có tánh cho nên không cần phải hủy
hoại, cũng không hủy hoại không có Tưởng bởi vì
tất cả đều không
có tánh, như vậy biết
rõ ràng Tưởng của chúng sinh lìa xa có-lìa xa không có.
Sáu-Sau cùng có bốn kệ tụng về ca ngợi lợi ích, trong đó đầu là
một kệ tụng về ba nghiệp
thanh tịnh, tiếp là hai kệ tụng về học theo ba đời chư
Phật hồi hướng,
sau cuối là một kệ ca ngợi về thù thắng có bảy
Tuệ, có thể biết.
*
Thứ tư trong Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng, cũng có
trường hàng và kệ tụng.
Trong phần trước cũng có hai: Một là hạnh của phần vị, hai là
quả của phần vị.

Trong phần một
cũng có ba, đó là nêu ra-giải thích-kết luận.

Trong giải thích có ba:
1) Hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề;
2) Từ “Ma-ha-tát như thị thiện căn hồi hướng liễu vô sở hữu…” trở xuống là hồi hướng Thật tế;
3) Từ “Ma-ha-tát như thị thiện căn hồi hướng linh chúng sinh…” trở xuống là kết luận ca ngợi về lợi ích.

Trong phần một có ba: a)
Dùng thiện căn hồi hướng cúng dường

Tam Bảo; b)
Từ “Như thị trang nghiêm…” trở xuống là trình bày
về cúng dường bằng
việc làm, chính thức hiển bày hồi hướng khắp nơi; c) Từ “Thí như vô ngã…” trở xuống là phân rõ về Dụng thù thắng
thâu nhiếp đức của thiện căn ấy.
Trong phần a có hai: Trước là
sơ lược trình bày;
sau từ
“Ma-ha-tát phục tác thị
niệm…” trở xuống là mở rộng hiển bày.

Trong mục trước có ba: Đầu
là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp.

Trong pháp, hồi hướng như vậy là tổng quát, bởi vì nêu ra lực
của đức; đến tất cả
là chỉ hiển bày về tướng ấy, nghóa là tất cả mọi nơi
là thụ động đến, thiện
căn là chủ động đến, chủ động đến cho nên gọi
là Lực. Đây là nhờ
vào hồi hướng mà khiến cho như vậy.

Trong dụ, Thật tế không có nơi nào không đến,
sơ lược luận
về mười nơi để hiển
bày về Vô tận, đây là dùng lý để dụ cho hành.
Tất cả các Hữu là ba
Hữu-hai mươi lăm Hữu…, còn lại đều có thể biết.
Trong hợp có hai: Một là tổng quát hiển bày về cúng dường ba
đời chư Phật; hai từ
“Quá khứ…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về
cúng dường ba đời,
trước là khiến cho bổn nguyện của Phật quá khứ đã
thực hiện đều được
thành tựu đầy đủ, tiếp là khiến cho Phật đương lai mau chóng đầy đủ
Phật trang nghiêm,
sau từ
“Hư không…” trở xuống đối
với Phật hiện tại và
đại chúng thảy đều cúng dường là trình bày về
Bồ-tát này cúng dường khắp những nơi ấy. Như chư Thiên là như chư
Thiên đã thực hiện tùy theo ý nghó đều thành tựu,
Bồ-tát trong một ý nghó
đầy đủ khắp nơi cũng
như vậy, hiển bày về cúng dường tự tại. Từ
“Quảng đại…” trở xuống là hiển bày về nguyên cớ thành tựu
cúng dường,
nghóa là nhờ vào lực
hồi hướng phước trí rộng lớn vốn khiến cho thành tựu
sự cúng dường đối
với chư Phật trước đây mà thôi.
Trong mục
sau là mở rộng hiển bày,
có hai: Một, cúng dường
chư Phật hiện tại ở tất cả các thế giới; hai,
từ “Phục tác thị niệm…” trở
xuống là cúng dường chư Phật ba đời ở tất cả các kiếp.

Trong mục một có ba:
1) Nêu ra chư Phật đã cúng dường;
2) Từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về phát khởi cúng dường;
3) Từ “Dó thử nhất thiết…” trở xuống là chính thức dùng tâm
sâu xa
để hồi hướng.
Trong mục một có hai: Trước là tất cả thế giới Phật;
sau từ
“Bỉ hữu Bồ-tát…” trở
xuống là trình bày có Bồ-tát đã thực hiện giống như
Phật, nghóa là chư Phật
đã cúng dường có hai loại, một là Thật báo Phật, hai là Bồ-tát ở phần vị cuối cùng có thể ở mười phương thị hiện thành
Phật. Hai loại này đều là
Phật hiện tại, bởi vì đều thuộc về
sự cúng dường

hiện tại, cho
nên luận đến điều này. Văn có mười câu:
1) Sự hiểu biết sâu xa;
2) Hóa hiện rộng rãi;
3) Thân ứng khắp nơi;
4) Chứng nguồn gốc của pháp;
5) Thể giống như Phật;
6) Khéo léo ứng hiện trọn vẹn;
7) Thuận theo lý phát khởi;
8) Thể kiên cố;
9) Trì dụng lâu dài;

10) Từ đức sinh ra. Trong mục hai là phát khởi cúng dường, cúng dường Phật hiện
tại và cúng dường đối
với tháp tượng sau khi Phật diệt độ.

Mục ba từ “Dó thử…” trở xuống là trình bày về dùng tâm
sâu
xa để hồi hướng. Trong
đó có mười tâm, nghóa là hồi hướng như thế
nào? Bởi vì một tâm như
nhau, thì lấy tâm này để sử dụng. Sau mỗi một tâm đều phải có chữ
Hồi Hướng, nhưng người
soạn văn lại lược bớt đưa vào phần đầu và phần cuối, phần giữa thì theo đó biết được. Một là tình
thức chuyên chú, hai là
niệm không phân tán, ba là không duyên ngăn
cản, bốn là sùng kính
hết sức, năm là vui thích thực hành, sáu là không
làm cho dừng lại, bảy
là không nhiễm trước, tám là không có năng lực thực hành cũng là lìa xa những việc làm, chín là thẳng thắn lìa xa tổn
hại, mười là đích thực
thuận với Niết-bàn.

Từ đây trở xuống là mục hai cúng dường chư Phật ba đời ở tất
cả các kiếp, trong đó
có hai: Một, Nêu ra ruộng (Điền) đã cúng
dường, nghóa là đã lâu
nhiều Đức Phật trang nghiêm cho tướng của Báo
thân, trang nghiêm cho lý của Pháp thân và
nhiều chúng. Hai,
Từ “Ngã dó…” trở xuống là chính thức hồi hướng phát khởi
cúng dường, nghóa là do mười tâm hồi hướng thuộc thiện căn trước đây trở lại thành tựu
sá»±
cúng dường này. Trong đó
tâm thứ nhất có mười vật cúng dường:
1) HÆ°Æ¡ng; Hoa;
3) Tràng hoa;
4) HÆ°Æ¡ng xoa;
5) HÆ°Æ¡ng bá»™t;
6) Y phục;
7) Vật báu;
8) Đèn sáng;
9) Vật dụng
trang nghiêm;

10) Ngọc Ma-ni. Lại trong mười vật này đều có 20 môn như Hương cái…, cho nên trở thành 200 môn. Trong đó mỗi một môn lại đều có 10 môn như A-tăng-kỳ lan
can…, cho nên trở thành 2000 môn. Tất cả A-tăng-kỳ
cùng với hai lớp trước tổng cọng có 2210 môn, đều nói là
Bất khả thuyết, hoặc nói là không có phạm vi giới hạn…
Lại giải thích: Trước là cúng dường Chánh báo của Phật;
sau từ “Ư nhất nhất cảnh…” trở xuống là trình bày về
trang nghiêm Y báo của Phật.

Phần b từ “Như thị trang nghiêm…” trở xuống là trình bày về
cúng dường bằng việc
làm, trong đó có hai: Trước là tổng quát hiển bày về việc đã làm, nghóa là khiến cho chúng
sinh ra khỏi
sinh tử đến
được Phật địa. Sau từ
“Ư chư…” trở xuống là riêng biệt phân rõ có ba:
Một, khiến cho thành tựu đầy đủ hạnh hóa độ, trong đó pháp
sáng tỏ là pháp
hóa độ, giáo hóa… là hạnh hóa độ, vô lượng tâm… là pháp rộng
rãi thuộc tâm hóa độ,
không có nơi đến là hóa độ bặt dứt công dụng,
sinh ra thiện là do hóa độ mà thành
tựu đức. Hai, từ
“Linh sinh đổ
Phật…” trở xuống là khiến cho
thành tựu trọn vẹn về đức của mình, trong đó
thấy Phật là duyên thực
hành, an trú… là đã thành tựu, tiến vào khắp
nơi… là hạnh thành tựu,
tiến vào lý hồi hướng thiện căn… là hạnh thành tựu hướng
đến quả. Ba, từ
“Linh sinh nhân thử…” trở xuống là khiến
cho nhân thành tựu đạt được quả.

Phần c từ “Thí như…” trở xuống là trình bày về Dụng thù
thắng thâu nhiếp đức
của thiện căn đến tất cả mọi nơi, trong đó: Trước
là dụ- sau là hợp.
Trước là nêu ra Dụ để hiển bày về Pháp; thiện căn của mình
cũng như vậy, là Pháp
giống như Dụ, đây cũng là dùng Lý để dụ cho
hạnh, nghóa là thiện căn này đã như Vô ngã khắp tất cả mọi nơi, vì thế
cho nên thâu nhiếp chọn
lấy pháp ấy để tăng thêm hạnh của mình. Văn
có 20 câu, 12 câu đầu
thâu nhiếp thành tựu hạnh Tự lợi, tám câu sau
thâu nhiếp thành tựu hạnh Lợi tha.

Trong 12 câu đầu: Ba câu
đầu là thâu nhiếp thành tựu hạnh
kính thuận Tam Bảo;
4) Thành tựu về Hạnh;
5) Thành tựu về Giải,
6) Thâu nhiếp thần thông của Phật thành tựu pháp thiện của mình;
7) Thâu nhiếp đức hóa độ thành tựu tâm thực hành;
8) Thâu nhiếp đức thuộc về nhân để thành tựu hiểu rõ về lý;
9) Thâu nhiếp phương tiện khéo léo nêu rõ Dụng của quả;

10) Thâu nhiếp Dụng của quả để thành tựu phát
khởi cúng dường;

11) Thâu nhiếp quốc độ làm trang nghiêm;
12) Thâu nhiếp đời kiếp làm thời gian tu tập.
Trong tám câu sau trình bày về Lợi tha: Đầu
là một câu vì
chúng sinh mà hiện thân.
Tiếp là hai câu về hóa độ khiến cho thành tựu
đức: Một là Hành đức,
hai là Đoạn đức. Tiếp là bốn câu về lợi ích xứng với căn khí hóa độ: Một là ứng với căn khí hóa độ, hai là đến với
mong muốn thanh tịnh, ba là
hiện thân để điều phục, bốn là khiến cho
hiểu rõ. Sau cùng là một
câu về bảo vệ pháp.

Từ đây trở xuống là phần hai hồi hướng Thật tế,
trong đó có ba:
Một, Trình bày tất cả
Sự mà quy về Lý; Hai, Không ngăn ngại Sự mà hiển bày Lý, không ngăn ngại Lý mà thành
tựu Sự; Ba, Lý phai mờ
mà Sự có ích. Dựa vào
ba nghóa trên dung hòa cùng một thời gian, cho nên phai mờ Lý mà chỉ có Sự, không hẳn Sự mà không phải là Lý; tất cả
Sự mà chỉ là Lý, không
hẳn Lý mà không phải là Sự. Bởi vì Sự trống rỗng thuộc về Lý, không có Sự nào không phải Lý; Lý thật
sự thuận theo

duyên, không
có Lý nào ngăn ngại Sự. Bởi vì ba môn này, hoặc là phá bỏ Hữu để hiển bày Không mà Hữu chưa hề tổn hại, dựa vào
Không để thiết lập Hữu mà
Hữu chưa hẳn tồn tại. Vì thế cho nên dựa theo Lý
thì không ẩn-không hiện,
dựa theo Sự thì không còn-không mất, suy
nghó có thể biết.

Trong đoạn trước, như vậy hồi hướng là nhắc lại
phần trước,
rõ ràng không hề có gì
là tổng quát trình bày về tiến vào Thật tế. Sau
là riêng biệt hiển bày,
có hai: Trước là lìa xa thụ động chọn lấy (sở
thủ); sau là lìa xa chủ động chọn lấy
(năng thủ), nghóa là không chấp
quả trong nhân, không chấp nhân trong quả, cho nên nói là trong
nghiệp không chọn lấy…
Lại giải thích: Vốn là Nghiệp trống rỗng không thấy Báo có thể
sinh ra, Báo trống rỗng không thấy
sinh ra từ Nghiệp.
Trước là trình bày lìa xa Vọng,
sau là trình bày tiến vào Chân. Thiện thù thắng là thiện thuộc về Lý.
Từ “Viễn ly…” trở xuống là trình bày về tướng
của lợi ích, nghóa là lìa xa tán loạn mà tu
pháp thiện, bởi vì hiểu rõ về pháp trống rỗng đã chọn lấy, cho nên đối với các pháp có tình thức mà không tin tưởng tiến vào, cầu có pháp vọng ấy không thấy tự tánh mà lại
chính là thành tựu; sau
giải thích hiển bày, bởi vì tạo tác-hủy hoại đều không thể đạt được, đây là trình bày về thành-hoại đều lìa xa. Sau là trình bày chủ động chọn lấy cũng
trống rỗng, bởi vì biết rõ về pháp trống rỗng
đã chọn lấy, cho nên hiểu rõ ràng chủ động chọn lấy cũng không thấy gì… Luận nói lìa xa chủ động chọn lấy-thụ động chọn lấy mới chính là
Chân Không, là nói đến
nghóa này. Trên đây là phần một trình bày về tất
cả Sự mà quy về Lý, xong.
Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về Lý-Sự vô ngại
mà thiết lập, là bởi vì dần dần thuần thục mà
Sự vẫn còn, nghóa là thông hiểu
Lý mà không ngăn ngại
Sự tồn tại mới là hiểu rõ đầy đủ trọn vẹn.
Vì sao không ngăn ngại tồn
tại? Bởi vì đạt được Địa của nhân duyên, đây
là hiểu rõ bổn thức
duyên khởi làm Địa. Làm sao lại chiếu rọi Lý? Nghóa là ở nơi Địa của nhân duyên này, thấy được phạm vi của Pháp thân
Như Lai Tạng… Làm sao Lý-Sự có thể
soi chiếu vô ngại? Bởi vì quán
xét như nhau. Lại vì sao
Sự này giống như Lý mà không ngăn ngại tồn
tại? Bởi vì hiểu rõ
thế gian giống như hóa hiện, cho nên Sự hóa hiện
giống như Lý mà hiện
rõ. Thấu triệt rõ ràng chúng sinh… là trình bày về
Lý- Sự dung hòa với nhau hoàn toàn thâu nhiếp vô ngại, cho nên nói là một pháp không hai. Lại bởi vì Sự này đã cùng với
Lý không hai, cho nên
sự nghiệp này không thể
rời bỏ. Sau là trở lại giải thích hiển bày, nghóa
là tất cả Sự mà hiển
bày Lý, nhưng Sự không tổn hại, cho nên nói là đối
với hữu vi…; phai mờ Lý mà hiện rõ Sự, nhưng Lý không ẩn kín, cho nên nói là đối với vô vi… Đây tức là không tổn hại về Sự mà tất cả
hiển bày về Lý, không
ẩn kín Lý mà phai mờ hiện rõ về Sự, vì thế cho
nên hữu vi-vô vi vốn
không hai mà tất cả đều là hai.
Từ đây trở xuống là phần ba trình bày về Lý phai mờ mà thành tựu Sự, trong đó:
1) Tổng quát trình bày về quán xét Lý mà khởi Sự thực hành;
2)Từ “Tinh cần…” trở xuống là riêng biệt dựa theo Sự xứng với Lý mà phát khởi Đại hạnh có ba: a) Thành tựu hạnh thuộc Trí; b)
Từ “Dó hư không…”
trở xuống là thành tựu hạnh thuộc Phước; c) Từ
“Đắc ly si…” trở xuống là cùng kết luận về hai hạnh. Trên đây là phần
hồi hướng Thật tế, xong.

Từ đây trở xuống là phần ba kết luận về lợi ích,
trong đó có hai: Một là kết luận về thành tựu lợi ích
chúng sinh, trong đó có mười:
1) Khiến cho Khí thế gian thanh tịnh;
2) Đạt được Trí chánh giác thế gian; Có thể hóa hiện Chúng sinh thế gian;
4) Đạt được Đại tổng trì;
5) Làm ruộng phước cho thế gian;
6) Làm vật báu phước đức cho chúng sinh chọn lấy;
7) Làm mặt trời trí tuệ xuất hiện giữa thế gian;
8) Thiện nghiệp đầy khắp pháp giới;
9) Cứu giúp chúng sinh;
10) Khiến cho thành tựu công đức thanh tịnh.
 Hai từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là kết luận về thành tựu công đức của mình,
 trong đó có mười câu: Đầu là một câu tổng quát,
 nghóa là thành tựu các hạnh có thể làm nhân của Phật gọi là Như Lai tánh, tâm kiên quyết thâu nhiếp thành tựu gọi là giữ
gìn-gọi là duy trì.

Sau là riêng biệt hiển bày về quả đức đã thành tựu, tất cả
so
sánh phân rõ về nhân
mà đều nói là tánh, bởi vì tánh vốn là nhân:
1) Nhân thành tựu quả Phật hóa độ chúng sinh;
2) Nhân thanh tịnh quốc độ;
3) Nghiệp dụng của Phật địa vô tận cho nên nói là
Bất hoại, khiến
cho thành tựu nhân ấy
cho nên nói là tánh;
4) Nhân thành tựu Lượng trí;
5) Nhân của Lý trí;
6) Nhân của Thân thông;
7) Nhân của Ngữ biện;
8) Nhân của Niết-bàn;
9) Nhân của Bồ-đề. Hai phần trên là ý nghiệp, từ “Thị danh…” trở xuống là phần ba kết luận về tên gọi. Trên đây là
phần một trình bày về
hạnh của phần vị, xong.

Từ đây trở xuông là phần hai phân rõ về quả của phần vị,
nghóa là phần vị này
thành tựu đã đạt được quả như vậy, giống như quả
Điều nhu-Nhiếp báo… trong Thập Địa
ở sau. Trong đó
có ba: Một,
Tổng quát hiển bày, nghóa là
nhắc lại phần vị thành tựu trên đây, cho nên nói
là an trú, có thể dùng
tất cả… để phân rõ về công năng thù thắng ấy.
Hai, Riêng biệt hiển bày
về pháp đã đạt được, nghóa là dùng thiện căn
hồi
hướng đến
tất cả mọi nơi, cho nên đạt được quả đến tất
cả mọi nơi như vậy, có mười câu: Đầu là ba câu trình bày về ba nghiệp rộng khắp;
tiếp là ba câu về Dụng
rộng khắp của ba nghiệp, một là dựa vào thân
phát khởi thần thông,
hai là dựa vào khẩu biện giải thuyết giảng, ba là
dựa vào ý nhận biết
về pháp; sau cuối là bốn câu hiển bày về Dụng tự tại, một là tự tại đối với
Khí thế gian, hai là đối với
chúng sinh, ba là
đối với kiếp, bốn là đối
với niệm. Ba,
Từ “Phật tử…” trở xuống là tổng quát kết luận về những năng lực của mình, nghóa là dùng tất cả thiện
căn đều như Thật tế
cùng hồi hướng đến tất cả mọi nơi, cho nên thành tựu phần vị này.
Trong phần thứ hai là kệ tụng tổng trì, bốn câu thành một
tụng, có 11 tụng phân ba:
Một, Bảy tụng về hồi hướng chúng sinh và
Bồ-đề, trong đó có hai: Bốn kệ đầu trình bày về hạnh xứng với chân lý
mà khéo léo hồi hướng,
ba kệ sau trình bày về các nghiệp giống như
Phật mà học theo
hồi hướng. Hai,
Từ “Vị tằng…” trở xuống là ba tụng về
hồi hướng Thật tế.
Ba-Từ “Như thị…” trở xuống là một tụng trình bày
về quả do hồi hướng mà thành tựu.
* Thứ năm là
Vô Tận Công Đức
Tạng Hồi Hướng, trong đó trong phần trường hàng cũng có hai: Đầu là hạnh của phần vị,
sau
là quả của phần vị.

Trong phần đầu
cũng có ba, đó là nêu ra-giải thích-kết luận.

Trong giải thích có năm: Một,
Trình bày về Thể của hạnh đã hồi hướng; Hai,
Từ “Ma-ha-tát dó thử thiện căn giai tất hồi hướng…”
trở xuống là trình bày
về hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh; Ba, Từ “Ma-ha- tát dó như thị đẳng vô đẳng đẳng…” trở xuống là trình bày về hồi
hướng Thật tế; Bốn, Từ
“Ma-ha-tát như thị thiện căn hồi hướng dó đắc vô
tận thiện…” trở xuống là trình bày về dựa vào hồi hướng trước đây lại
phát sinh thiện căn tiếp
tục đem hồi hướng; Năm, Từ “Ma-ha-tát như thị
hồi hướng thời…”
trở xuống là kết luận về thành tựu công đức của hạnh.

Trong phần một, Bồ-tát này tu pháp sám hối về lỗi lầm của
mình mà lìa xa nghiệp chướng, nay tóm lược tất cả
phân rõ về nghóa sám
hối lỗi lầm… đưa ra tám môn:

Trình bày về khai hợp, trong các Thánh giáo khai hợp nhiều
loại. Hoặc là tám lớp, một cúng dường Phật,
hai ca ngợi đức của Phật,
ba lễ Phật, bốn sám hối, năm khuyến thỉnh, sáu
tùy hỷ, bảy hồi hướng, tám
phát nguyện, như kinh Ly
Cấu Tuệ Sở Vấn Lễ Phật Pháp nói. Hoặc là bảy, vì ca ngợi và lễ Phật hợp lại phân rõ.
Hoặc là sáu, vì lược bớt
không có cúng dường. Hoặc là năm, vì phát
nguyện và hồi hướng như

luận
Thập Trú nói. Hoặc là bốn, vì trừ ra lễ Phật. Hoặc là ba như
Trí Luận nói: “Bồ-tát
ngày ba thời-đêm ba thời đều thực hành ba sự, đó
là sám hối-khuyến thỉnh và tùy hỷ, thực hành ba
sự này công đức vô
lượng càng được gần
Phật.” Hoặc là hai, chỉ hồi hướng thiện căn sám
hối tội chướng, như kinh Thiện
Giới nói. Nay tạm thời dựa vào năm
sá»±
mà giải thích.

Giải thích về tướng: Một là
Lễ Phật có ba, hoặc bảy… như
chương Lễ Phật Nghi Thức trước đây phân rõ. Hai
là Sám Hối, tội có hai loại: a) Trái với Giáo về Già tội vẫn dựa vào Giáo tác pháp
sám hối để trừ diệt; b) Trái với Lý về Tánh tội phát khởi thực hành
sám hối diệt
trừ. Điều này có hai loại: Một, Tùy theo Sự
thực hành sám hối, hoặc là
Phương đẳng-tụng chú… tương ưng với Giáo, hoặc
là thuận theo
Thánh giáo ấy hết sức lễ lạy một vạn năm ngàn danh
hiệu chư Phật…, hoặc là ngày đêm
sáu thời thiết tha lễ lạy
sám hối, bởi vì trải qua nhiều năm hoặc là đọc tụng kinh điển Đại thừa mà chuyển từ nhận lấy nặng nề trở thành nhẹ nhàng… Như vậy không phải là ca ngợi công đức của
Như Lai mà cũng có thể diệt trừ tội lỗi phát sinh phước
thiện. Hai, Dựa vào Lý quán về diệt, nghóa là quán xét các pháp là Không,
 tướng của tội không thể có được, không có gì không tiêu diệt.
Như kinh nói: “Nếu muốn cầu trừ diệt thì ngồi ngay thẳng quán xét về tướng…” Lại như phẩm
Tiểu Tướng ở sau nói cũng là điều này, bởi vì
nghóa của môn này cũng gồm
chung diệt trừ Già tội-Tánh tội.

Hỏi: Như thọ
trì Chánh pháp và sám hối tội lỗi trước đây, thì
tội này là diệt hay là
không diệt?

Đáp: Có thể
nói cũng diệt-cũng không diệt, nhờ vào trì pháp
và sám hối khiến cho nhận chịu nặng nề hay nhẹ nhàng, bởi vì không nhận chịu nặng nề cho nên nói là diệt, như vậy bởi vì nhận chịu nhẹ nhàng cho nên cũng là
không diệt. Luận về kinh Kim
Cang Bát Nhã mới phiên dịch nói:
“Như mười ác nghiệp nhờ vào trì pháp và sám hối, bởi vì không
sinh vào nẽo ác cho nên gọi là nhổ
sạch gốc rễ không
còn, nhưng đối với thân
hiện tại nhận chịu khổ báo nhẹ nhàng cũng nói
là không mất.” Vì vậy,
Luận ấy dẫn ra phẩm Như Lai nói rằng: Nếu
lại có người thọ trì
kinh này cho đến diễn nói, thì người này ở đời hiện
tại hoặc là thấy ác
mộng, hoặc là gặp phải bệnh nặng, hoặc là bị dồn đuổi cưỡng bức khiến phải đi xa, bị mắng nhiếc làm nhục đánh đập thậm
chí mất mạng, ác nghiệp
vốn có đều được tiêu trừ. Kinh Đại Tập cũng
nói giống như vậy.
Ba là
Khuyến Thỉnh,
Trí Luận nói: “Khuyến thỉnh chư Phật có

hai, nghóa là
lúc mới thành đạo thì khuyến thỉnh Chuyển pháp luân,
lúc nhập Niết-bàn thì
khuyến thỉnh trú lâu dài ở thế gian, tuy biết chư
Phật tự biết rõ thời
gian, nhưng phát sinh phước thù thắng cho nên cần
phải khuyến thỉnh.” Lại
theo kinh Địa Tạng Bồ Tát: “Ba thời khuyến
thỉnh lại thêm khuyến
thỉnh, Bồ-tát mau thành Chánh giác.” Bốn là Tùy
Hỷ, theo Trí Luận và luận Thập Trú thì có ba phần
vị: Một, tất cả chư
Phật ở khắp nơi mười
phương vốn có vô tận công đức đã thành tựu; hai,
Bồ- tát Thanh văn… ở
mười phương thế giới vốn có tất cả công đức đang tu tập; ba, dưới đến thiện căn của
trời-người-phàm phu. Đối với ba phần vị trên đây đều là tâm
sâu xa mà phát
sinh tuỳ hỷ đạt được vô lượng
thiện căn. Năm là Hồi
Hướng cũng có ba, đó là Chúng sinh, Bồ đề và
Thật tế rộng ra như trên phân rõ.

Phân biệt
về Chỉ-Tác, hoặc là năm
sự cùng Chỉ, bởi vì cùng lìa
xa chướng; hoặc là năm sự cùng Tác, bởi vì
phát khởi hạnh thù thắng; hoặc là
sám hối ngăn chặn chướng ngại mà phát khởi pháp thiện
thù thắng khác.

Phân biệt về trừ chướng, lễ Phật trừ bỏ chướng
về Ngã mạn,
sám hối trừ bỏ chướng về ác nghiệp, khuyến thỉnh trừ bỏ chướng về phỉ báng pháp, tùy hỷ trừ bỏ chướng về ganh tî, hồi hướng trừ bỏ chướng về
cầu khác lạ và trừ bỏ chướng về quả báo thế gian vui sướng.

Phân biệt về
sinh đức, lễ
sám phát
sinh phước thù thắng, khuyến
thỉnh phát sinh tuệ thù thắng, tùy hỷ gồm chung
phước-tuệ, hồi hướng
gồm chung hai hạnh trước, khiến cho có những thành
tựu. Lại nhờ vào
lực thâu nhiếp giữ gìn của hồi hướng mà khiến
cho Bồ-tát này không
rơi vào Nhị thừa-ba cõi.

Phân biệt về thứ tự, một là lễ lạy ca ngợi Phật chính vì cầu diệt
trừ tội lỗi, và duyên phát sinh phước thiện, cho
nên phân rõ trước tiên;
hai là dựa vào duyên thù thắng của Phật khiến
cho tội lỗi diệt trừ-căn
khí thanh tịnh, cho nên tiếp đến sám hối; ba là dựa
vào căn khí thanh tịnh này mà tâm mong mỏi thỉnh cầu pháp; bốn là đối với hạnh thù
thắng của người khác quên đi riêng mình sinh tâm
hoan hỷ, thâu nhiếp
giống như tự mình thực hành; năm là hồi hướng
những thành tựu trước
đây để hướng về Bồ-đề, mới làm thành một nhân.

Đạt được quả
sai biệt, quả có hai loại:
Một-Quả riêng biệt, nghóa là lễ Phật đạt được quả tôn quý,
sám hối trừ chướng đạt được
quả y-chánh đầy đủ, khuyến thỉnh đạt được quả
Chánh tuệ, tùy hỷ đạt
được quả nhiều quyến thuộc cùng nhiều phước
đức và nhiều của cải…; hồi hướng đạt được quả lìa xa tà, nghóa là thường gặp được đời có Phật,

thường có
thể tu hành mà không lui sụt. Hai-Quả gồm chung, là tất
cả đều xa thì đạt được Vô thượng Bồ-đề.

Dựa theo giáo hiển bày khác nhau, nếu dựa theo năm hạnh của
Tiểu thừa đều là thật thì trong tông cũng không
còn, Sơ giáo ngay nơi Không để thành tựu năm hạnh, Chung giáo ngay nơi Như mà thành tựu,
Đốn giáo bặt dứt ngôn từ là năm, vô tận
pháp giới trong Viên giáo thì
trong mỗi một hạnh thâu nhiếp tất cả các hạnh,
đều là vô tận làm năm hạnh.

Phần một là Thể của hạnh, trong văn có bảy:
1) Thiện thuộc sám hối lỗi lầm.
2) Thiện thuộc tùy hỷ.
3) Từ “Ư chư Như Lai…” trở xuống trình bày về thiện thuộc lễ lạy cúng dường.
4) Thiện thuộc khuyến thỉnh.
5) Thiện thuộc tiến vào pháp, trong đó có bốn Tuệ: a) Văn Tuệ; b) Ức niệm là Tư Tuệ; c) Như thuyết thực hành là Tu Tuệ; d)
Tiến vào không nghó bàn là tất cả thiện căn chứng trí.
6) Trở lại trình bày về thiện thuộc tùy hỷ, vì sao trình bày, là bởi vì thâu nhiếp nhiều thiện.
Theo phẩm Tùy Hỷ trong kinh Đại Phẩm: “Hỏi: Đối với công đức của
Bồ-tát Sơ phát tâm cho đến công đức của
Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, khởi tâm tùy hỷ có được bao nhiêu phước đức? Đức
Phật dạy: Quốc độ trong thế
giới hệ có thể cân
biết cân lượng, cho đến quốc độ trong ba ngàn Đại thiên đều có thể cân biết cân lượng, phước đức của tâm tùy hỷ này
không thể cân lường.
Lại nước biển đầy trong các quốc độ khắp ba ngàn Đại thiên thế giới,
 lấy mảy lông chẻ ra làm 100 phần, dùng một phần chấm lấy nước biển, có thể biết
số lượng của chấm, phước đức của tâm
tùy hỷ này không thể
biết được số lượng.” Trong văn có ba: Một là tùy
hỷ đối với thiện căn
của Phật và Bồ-tát, nghóa là Bồ-tát này nhờ vào
tâm sâu xa tăng thượng mà tùy hỷ với thiện căn ấy, vì vậy khiến cho tâm phù hợp thâu nhiếp thiện căn ấy, cho nên nói là hoan hỷ rồi an trú
trong thiện căn ấy. Hai,
Từ “Tam thế…” trở xuống là tâm sinh tùy hỷ đối
với thiện căn của chúng
sinh mà chư Phật đã hóa độ. Ba, Từ “Tam thế…” trở xuống là tổng quát kết luận, tất cả thiện căn thuộc phần vị
nhân quả của chư Phật ba
đời thảy đều tùy hỷ.
7) Từ “Bỉ chư Như Lai…” trở xuống là tu những thiện căn khác, có bốn: a) Thiện thuộc Hộ pháp; b) Thiện thuộc niệm Phật;
c) Thiện thuộc phần vị của nhân, nghóa là đạo pháp của Bồ-tát là cảnh giới của
chính mình; d)
Thiện thuộc
phần vị của quả.

Trên đây là phân rõ về Thể của hạnh đã hồi hướng.
Từ đây trở xuống là phần hai hiển bày về hồi hướng
Bồ-đề và chúng sinh. Trong đó,
dùng thiện căn này thảy đều hồi hướng là tổng
quát nêu ra hồi hướng. Sau là riêng biệt hiển bày
có ba: Một,
Nhắc lại thiện căn trước
đây; Hai, Từ “Như thử thiện căn tận quá khứ…”
trở xuống là chính thức
đem hồi hướng; Ba, Từ “Như thị Ma-ha-tát
thiện căn hồi hướng…”
trở xuống là kết luận về hồi hướng đã thành tựu.

Trong phần một có 12 câu:
1) Đối với thiện căn trước đây như lúc mới tu đã có được công đức;
2) Như lúc tiến vào Học đã phát sinh thiện căn đều đem hồi hướng để trang nghiêm các quốc độ…;
3) Như lúc đã lâu tích lũy công đức;
4) Như lúc hiểu rõ sâu xa về thiện căn ấy;
5) Lúc đối với thiện căn ấy sinh ra vui mừng;
6) Mà thiện căn ấy như lúc đầy đủ;
7) Lúc thiện căn ấy thành tựu;
8) Lúc dựa vào thiện căn ấy
thành tựu những hạnh
khác;
9) Lúc dựa vào thiện căn ấy đạt được
chứng;

10) Lúc suy nghó lựa chọn thiện căn ấy;
11) Lúc tiếp nhận duy trì giữ gìn;

12) Lúc thâu nhiếp giống như tự mình thật sự giữ chí nguyện duy
trì. Vào những lúc như
vậy đều phát sinh thiện căn đem hồi hướng tất cả.

Từ đây trở xuống là phần hai chính thức trình bày về hồi
hướng, nghóa là Bồ-tát
này dùng thiện căn hồi hướng để trang nghiêm quốc
độ Phật ba đời khiến
cho chúng sinh thanh tịnh, tức là hồi hướng Bồ-đề
và chúng sinh. Luận chung
về trang nghiêm quốc độ có ba loại thanh tịnh:

1) Xứ sở thanh tịnh;
2) Trú xứ của chúng sinh thanh tịnh;
3) Pháp môn lưu truyền khắp nơi thanh tịnh, cũng gọi là thọ dụng thanh tịnh.

Nay trong văn này có đủ ba nghóa này:
1) Trình bày về Bồ-tát hồi hướng cầu sự trang nghiêm;
2) Từ “Ma-ha-tát phục như thị hồi hướng…” trở xuống là trình bày về cầu người quý báu trang nghiêm;
3) Từ “Ma- ha-tát dó thiện căn
phương tiện hồi hướng…” trở xuống là trình bày
về thọ dụng thanh tịnh.
Trong phần một có ba: a) Riêng biệt hiển bày về trang
nghiêm khác là ở quốc
độ Phật ba đời; b) Tổng quát thâu nhiếp dùng để
trang nghiêm các thế giới;
c) Hiển bày về phạm vi giới hạn của quốc độ đã trang nghiêm.
Trong phần a có ba: Một là phân rõ về trang nghiêm quốc độ
Phật quá khứ; hai là trang nghiêm quốc độ
Phật vị lai; ba là trang
nghiêm quốc độ Phật hiện tại.
Trong mục một là trang nghiêm quá khứ, như thiện căn này là nhắc lại tận cùng thời gian quá khứ đã tu tập trước đây, trình bày về thời gian lâu dài. Tất cả cõi Phật, là làm
sáng tỏ về xứ
sở rộng lớn.
Vô lượng hành phát khởi là hiển bày về
nhiều nhân.
Phật biết, Bồ-tát hiểu là dựa vào con người, là hiển bày về
sâu xa. Ứng với
chúng sinh…, là trình
bày về cõi ứng với
căn cơ. Như Lai đã duy trì…, là trình bày do Thức thanh
tịnh của Phật mà hiện bày, do nhân thanh tịnh mà thành tựu, đây là
Chủ tròn vẹn thanh tịnh.
Phổ Hiền… là trình bày do nhân rộng lớn mà
khởi lên, là quyến
thuộc tròn vẹn thanh tịnh. Thế giới ấy nếu có…, là
hiển bày về cõi Phật
này, bởi vì thành tựu Chánh giác từ trong cõi này.
Trong mục hai là trang nghiêm quốc độ vị lai, có hai:
Trước là trình bày về trang
nghiêm quốc độ, có bốn:
1) Xứ sở rộng lớn;
2) Thời gian dài;
3) Từ “Nhất thiết chư Phật…” trở xuống là trình bày về nhân thanh tịnh của quốc độ;
4) Từ “Tạp bảo…” trở xuống là trình bày về quả trang nghiêm của quốc độ.
Sau từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về nhân hạnh tu
tập của Bồ-tát, có
năm:
1) Hiểu rõ pháp thanh tịnh;
2) Duy trì không quên;

Dựa vào pháp khởi hạnh;
4) Tiến vào chứng Định là nhân tròn vẹn trước đây;
5) Ánh sáng trí tuệ của Phật soi chiếu thâu nhiếp thành tựu quả đầy đủ. Vì thế cho nên khiến cho quốc độ được tròn vẹn thanh tịnh.
Trong mục ba từ “Như vị lai…” trở xuống là trình bày về
trang nghiêm quốc độ hiện tại, trong đó: Trước là tương tự cùng với vị lai. Từ
“Chủng chủng…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về tướng
trang nghiêm, đủ loại là
trang nghiêm nhiều thanh tịnh, đầy đủ là lìa xa
cấu nhiễm đến tận cùng,
đức khắp nơi là lợi ích rộng lớn, bảy loại như
sắc- hương… là riêng biệt hiển bày về trang
nghiêm. Từ “Tùy thiện tri
thức đẳng…” trở xuống là dùng mười ba loại như tất cả các hương…
để trang nghiêm.

Phần b từ “Dó như vậy đẳng…” trở xuống là tổng quát thâu
nhiếp trang nghiêm quốc độ ba đời trên đây dùng để trang nghiêm cho
cõi của mình, trong đó
có ba: Trước là tổng quát, tiếp là riêng biệt,
sau
là kết luận.
Trong riêng biệt có 27 câu, những loại này đều là trang ng- hiêm quốc độ khác nhau của chư Phật ba đời mà dùng toàn bộ để
trang nghiêm cho thế giới của mình.

Phần c từ “Như thị trang nghiêm ư nhất thế giới…” trở xuống
là hiển bày về phạm vi
giới hạn đã trang nghiêm, có hai: Một là dùng
sự trang nghiêm ba đời mà trang nghiêm một thế giới; hai là dùng một giống như nhiều đều tận cùng ba đời,
sơ lược luận về chín loại
trang nghiêm quốc độ
Phật. Trên đây là sự trang nghiêm, xong.

Từ đây trở xuống là phần hai cầu người quý báu thuộc hàng
Bồ- tát trang nghiêm quốc độ ấy, tức là trú xứ của chúng
sinh thanh
tịnh, cho nên gọi là Tịnh
độ. Trong văn có ba: a) Tổng quát trình bày về hồi hướng cầu người quý báu đầy khắp nơi; b)
Từ “Thử chư…” trở xuống là
riêng biệt hiển bày về tướng
trang nghiêm; c) Từ “Ư nhất
Phật sát
thiểu phần…” trở
xuống là kết luận về phạm vi giới hạn đã trang nghiêm.

Trong phần riêng biệt có hai: Đầu
là trình bày về người đức hạnh đầy khắp quốc độ;
sau từ
“Sung mãn…” trở xuống là hiển bày về
tướng trang nghiêm thành tựu.
Trong phần đầu phân rõ về đức của Bồ-tát có hai lớp: Trước là trình bày về hạnh tu đầy đủ
của Bồ-tát;
sau từ
“Tất tùng…” trở xuống là
hiển bày về đức dụng đầy đủ của các Bồ-tát.
Trong phần trước có hai:
Trước là riêng biệt hiển bày, sau là tổng quát kết luận.

Trong mục trước có hai: Đầu
là hiển bày về phước tuệ thù
thắng có năng lực thực
hành; sau từ “Thành tựu thù đặc…” trở xuống là
trình bày về thiện căn
tâm chí thực hành.
Trong mục đầu có hai:
Một- Phước tuệ thành tựu hai Lợi, trong đó: Trước nêu ra phước tuệ thiện căn có năng lực… là thành tựu
Lợi tha; sau tiến
sâu vào… là thành tựu
Tự lợi. Hai- Từ “Thành tựu niệm
Phật…” trở xuống là trình bày
về phước trí sinh ra đức thù thắng, ở trong sáu niệm lược bớt không có hai niệm
về Giới-Thiên, đây là
phước hạnh; từ
“Pháp nhật…” trở
xuống là trình bày về trí hạnh, trong đó: Đầu là trí rộng
lớn chiếu rọi khắp nơi;
tiếp là hiển bày về trí sâu xa tiến vào huyền
diệu, nghóa là từ không
có gì mà sinh ra giải thích hiển bày về tướng sâu
xa, trí dựa vào lý phát
khởi cho nên sâu xa; sau là trình bày về sinh ra đức, nghóa là từ trí
sinh ra tất cả các đức thanh tịnh như
Lực-Vô úy…, cho
nên nói là sinh ra…

Trong mục sau là thiện căn tâm chí thực hành:
1) Thành tựu thiện căn, nghóa là thành tựu chính là thiện của Chân lý gọi là thù đặc, cấu nhiễm này không cho nên nói là thanh tịnh, vượt qua dưới gọi
là tối thắng, vượt lên trên gọi là
tăng thượng.
2) Từ “Kiến lập…” trở xuống là hiển bày về Đại chí thực hành: Trước là nêu ra gốc của hạnh đó là
tâm Đại Bồ-đề;
sau từ “Tịnh ma nghiệp…” trở xuống là năm câu phân rõ về năng lực thực hành thù thắng, một là hết
sạch ma nghiệp, hai là hiểu
rõ căn cơ chúng sinh, ba
là chiếu rọi pháp Không, bốn là rời bỏ bốn
điên đảo, năm từ
“Diệt vô minh…” trở xuống là kết luận, tu các thiện pháp là kết luận về thiện căn trên đây, đầy đủ Đại nguyện là kết luận
về nguyện tâm Bồ-đề trên đây.

Mục sau từ
“Thành tựu như thị…” trở xuống là tổng quát kết
luận về nhiều đức, có thể biết.

Từ đây trở xuống là trong phần sau trình bày về đức dụng đầy
đủ của các Bồ-tát, có ba: Một-Đều từ pháp môn
sinh ra là tổng quát hiển
bày do đức thù thắng mà thành tựu; hai-Riêng biệt hiển bày;
ba-Từ “Thành tựu như
thị…” trở xuống là kết luận.

Trong riêng biệt có hai:
1) Đức thuộc Tự phần;
2) Từ “Tùy thuận…” trở xuống là trình bày về đức thuộc Thắng tiến.
Trong phần một có ba: a) Trình bày về đức dụng của thiện căn; b) Từ
“Đắc Bồ-đề…” trở xuống là trình bày về đức dụng của Đại trí; c)
Từ “Ư chư Bồ-tát…”
trở xuống là trình bày về đức dụng của Tam-muội.
Trong phần a thiện căn thù thắng là Đức, thường thực hiện…
là hiển bày về Dụng.
Ngay trong phần b là Dụng của Trí có ba: Một là trình bày về đức dụng của trí, trước là nêu ra
Thể của trí, nghóa là không có
si mê tăm
tối cho nên là sáng
suốt, một thân… là hiển bày về Dụng. Hai từ
“Thành tựu…” trở xuống là đức dụng của Đại trí, trước là trí đức phân biệt
pháp giới là Dụng của
trí. Ba-Từ “Biến du…” trở xuống là đức dụng của
trí thanh tịnh, tâm thanh tịnh dạo qua quốc độ là Thể thanh tịnh của
trí, nghóa là không có
công dụng cho nên như hư không; đều có thể
phân biệt là diệu dụng rộng lớn.
Trong phần c là đức dụng
của Tam-muội: Trước là hiển bày
về Tam muội đã đạt
được, nghóa là Thể-Dụng sâu rộng gọi là không nghó bàn;
sau là làm
sáng tỏ về Dụng thù thắng có ba, một là phương tiện hướng đến
Dụng của quả, hai là an trú dựa vào Dụng rõ ràng đích thực, ba là thông hiểu
sâu xa về Dụng của
Vô úy. Trên đây là
Tự phần, xong.
Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về tiến vào cảnh giới
Phật thuộc Thắng tiến,
trong đó có mười câu phân hai: Một là sáu câu trước thâu nhiếp đức của cảnh giới Phật; hai từ
“Tất năng…” trở xuống là
bốn câu trình bày về
đức của diệu dụng không có nơi chốn.

Trong sáu câu trước:
1) Giống như nhân thiện của Phật;
2) Dựa theo sở chứng của Phật;
3) Duy trì pháp mà
Phật đã thuyết;
4) Phát huy viên âm của Phật;
5) Đạt được biện tài ngôn ngữ thuyết pháp giống như Phật;
6) Đạt được Phật địa Vô thượng là kết luận về đạt được phần vị của quả. Trong bốn câu
sau là trình bày về diệu dụng:
1) Khắp nơi quốc độ vô ngại;
2) Thâu nhiếp các pháp vô nhiễm;
3) Dụng rộng rãi của
tâm- trí;
4) Thuyết pháp xứng với thật. Trong bốn loại này, một loại đầu là thân nghiệp, hai loại tiếp là ý nghiệp, một loại sau cuối là ngữ
nghiệp, có thể biết.

Từ “Thành tựu…” trở xuống là kết luận về đức hiển bày nhiều

trang nghiêm. Thế giới là hiển bày về người quý báu
trang nghiêm,
bởi vì kinh Pháp Hoa nói:
“Nước tên là Đại Bảo Trang Nghiêm, lấy
Bồ-tát làm Đại Bảo.”
Vì vậy câu này tổng quát về trang nghiêm.
Sau là riêng biệt hiển bày có
sáu câu:
1) Người thù thắng đầy khắp quốc độ;
2) Thật đức thành tựu trang nghiêm;
3) Xứng với lý mà an trú; Tiến và đức giúp đỡ lẫn nhau, nghóa là khéo léo tu
là tiến thêm đức
của mình, huân tu là đức của các Bồ-tát xông
ướp giúp đỡ lẫn nhau;
5) Đức thanh tịnh vô nhiễm, nghóa là không xen tạp Vô minh, lại không nghó đến Thừa khác nhau;
6) Ngừng nhiều thuận với đạo. Sau là phần c
kết luận về phạm vi giới hạn đã trang nghiêm,
có ba: Một, Dựa vào
trong một quốc độ, một phần ít của Xứ đã có đầy đủ Bồ-tát thuộc mười loại của
số lớn
như vậy; Hai, Tương tự hiển bày
trong một quốc độ ấy,
mỗi một phần ít của Xứ còn lại đều có đầy đủ
Bồ-tát thuộc mười loại của
số lớn
như vậy; Ba, Trong một quốc độ đã có
trùng trùng
Bồ-tát thuộc mười loại của
số lớn nhiều như vậy, giống như
hư không pháp giới…,
thế giới cũng đều đầy đủ Bồ-tát như vậy.

Từ đây trở xuống là phần ba trình bày về thọ dụng trang
nghiêm thanh tịnh, cũng là pháp đầy đủ trang nghiêm
thanh tịnh, trong đó
có mười sự:
1) Hướng về quốc độ làm cho trang nghiêm thanh tịnh như trước phân rõ;
2) Khiến cho đầy đủ Bồ-tát cũng như trước;
3) Khiến cho Phật xuất hiện;
4) Có pháp của quả đã mong cầu;
5) Có Đại nguyện có thể mong cầu;
6) Thực hành pháp giải thoát quan trọng;
7) Khiến cho thanh tịnh căn cơ đã hóa độ;
8) Khiến cho ở thế giới ấy sẽ được thấy Phật;
9) Khiến cho Phật thường trú;
10) Chuyển pháp luân Thật giáo, bởi vì không phải là Quyền giáo cho nên nói là Bất thối chuyển. Trên đây là chính thức
hồi hướng thành tựu trang nghiêm, xong.
Sau là kết luận về hồi hướng đã thành tựu có năm câu, có thể biết.
Phần ba là hồi hướng
Thật tế, trong đó
có ba: Một, Chính thức hồi
hướng Thật
tế; Hai, Phân rõ về tiến vào Thật thành tựu lợi ích; Ba,
Kết luận về tướng
thành tựu của hành.
Trong phần một có
sáu câu:
1) Nhắc lại phần trước phát khởi phần sau.
2) Tâm thanh tịnh… nhờ vào thành tựu hành trước đây, nghóa là nhờ vào hồi hướng trước đây hướng về quả to lớn cao nhất, vì vậy làm cho tâm vô cùng thanh tịnh
như hư không, an ổn vững chắc như mặt đất.
3) Từ “Nhập bất tư…” trở xuống là chính thức trình bày về tiến vào Thật, nghóa là bặt dứt không có chủ động-thụ động mà có hồi hướng gọi
là không nghó bàn.
4) Vui với quán xét… là giải thích hiển bày về nguyên do không có chủ
động-thụ động.
5) Vô tận… nghóa là không có chủ động-thụ động, thành tựu xứng với tánh công đức.
6) Bình đẳng thuận theo… là trình bày giải thích rõ ràng về nguyên do của vô tận.

Hai từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày tiến vào Thật,
thành tựu lợi ích lìa
xa hư vọng, có mười cặp: Đầu là một cặp lìa xa vọng
của chủ động hồi hướng.
Tiếp theo ba cặp như không vọng giữ lấy
Phật…, là trình bày về
lìa xa vọng của thụ động hồi hướng. Tiếp theo hai cặp như không giữ
lấy nghiệp…, là trình bày về lìa xa nghiệp quả hồi hướng, cặp trước lìa xa nghiệp quả của báo tổng quát, cặp
sau lìa xa nghiệp quả của báo
riêng biệt. Trên đây là lìa xa về có. Tiếp theo một cặp là
không hoại…, trình bày
về lìa xa không có, bởi vì ngay nơi Không mà
không ngăn ngại tồn tại
cho nên không hoại, lại tánh tự nhiên ngay nơi
Chân cho nên không cần
phải hoại. Tiếp theo một cặp là không giữ lấy có…, trình bày về có-không có xa lìa cả hai, bởi vì không giữ lấy có là loại
bỏ về chấp có, không
hủy hoại có là loại bỏ về chấp không có. Tiếp theo một cặp là
sinh tử không phải là xen tạp…, trình bày về lìa xa tướng
rời bỏ-hướng về, bởi vì pháp lìa xa tướng
sinh tử cho nên không phải là
tạp loạn, cũng lìa xa
tướng Niết-bàn cho nên không phải là tịch tónh.
Nay nói ý văn chỉ như
vậy, nhưng Cổ đức có nhiều cách giải thích.

Pháp sư
Viễn nói: Giải thích chung có hai:
1) Dựa vào
Tướng phá bỏ để giải thích,
hiểu rõ Thể của sinh tử là Không, cho nên không phải là tạp loạn;
Niết-bàn cũng như vậy, cho nên không phải là tịch tónh.

Giải thích về Dụng sâu xa, hiểu rõ Thể của sinh tử là
Tịch, cho nên
không phải là tạp loạn. Vì sao? Bởi vì là Thể
gần thì nói là Không, là
Thể sâu xa thì nói là Bất Không Như Lai Tạng, là
Đại bát Niết-bàn có
thể kiến lập về nghóa Đại, diệu dụng phát sinh
rất nhiều, không có gì
không thực hiện, cho nên không phải là tịch tónh.
Nhưng dựa vào
nghóa sau, hai loại này là cảnh giới của
Phật-đạo thực hành của Phật, cho nên
gọi là cảnh giới đạo; sinh tử và Niết-bàn là
pháp không có tướng nhất
định, cho nên nói là không có pháp. Các Thánh
cùng dựa vào, cho nên
gọi là cùng nương tựa.

Pháp sư
Diễn nói: Bởi vì duyên dựa vào thật
sinh tá»­ cho
nên không phải là tạp
loạn, bởi vì thật thuận theo duyên Niết-bàn cho
nên không phải là tịch tónh.

Pháp sư Biện nói: Cảnh
giới đạo của Như Lai thì cảnh này không phải là có-không phải là không có, Chân như là nơi thực hành chứng
trí của Phật cho nên nói
là cảnh đạo. Không phải là nơi khác
làm-không có pháp cùng nương tựa, vốn là Chân như của tự tâm cho nên không

phải là nơi
khác làm, chỉ riêng Phật trí dựa vào cho nên không có
pháp cùng nương tựa.

Nay lại giải
thích về cặp thứ mười này trình bày lìa xa tướng
của quả và hạnh hồi
hướng, nghóa là có năng lực hướng đến đạo
của cảnh Phật, đạo này vô tánh tức là Không, cho nên không phải là
nơi khác làm, ngầm hướng đến quả Phật giống như tánh hải, không có trí
chủ động dựa vào và
lý thụ động dựa vào, cùng chung nơi chốn mà nương tựa cho nên nói là không có pháp cùng nương tựa.
 Lại bặt dứt tướng của nhân cho nên đạo không phải là nơi khác làm, lìa xa tướng của quả
cho nên không có pháp cùng nương tựa.

Ba là trình bày kết luận về thành tựu của hạnh, trong đó có hai: Trước là kết luận về tu tập tiến vào thành tựu hạnh trên đây,
sau từ
“Ly chư…” trở xuống là kết luận về tướng thành tựu lợi ích của hạnh
trên đây, có thể biết.
Trong phần bốn là dựa vào thiện căn vô tận đã đạt được trước
đây tiếp tục đem hồi
hướng, có ba:
1) Hiển bày về thiện căn vô tận đã đạt được;
2) Từ “Dó như thị đẳng…” trở xuống là chính thức đem hồi hướng;

Từ “Nhãn chung bất kiến…” trở xuống là trình bày
về tướng lợi ích ấy.

Trong phần một có mười câu: Câu
đầu là tổng quát, nhờ vào hồi hướng trước đây mà đạt được thiện căn vô tận này.
Từ “Thường niệm…” trở xuống là
chín câu riêng biệt phân rõ:
1) Nhờ vào ý niệm học theo chư Phật ba đời hồi hướng trang nghiêm quốc độ trước đây, cho nên phát sinh thiện căn vô tận;
2) Nhờ vào nguyện cầu người quý báu trang nghiêm quốc độ phát sinh thiện căn vô tận trước đây, cho nên nói là độ nhiều Bồ-tát;
3) Nhờ vào trang nghiêm quốc độ khiến cho các quốc độ thanh tịnh trước đây mà sinh ra thiện căn;
4) Nhờ vào hồi hướng cầu chúng sinh thanh tịnh trước đây mà sinh ra thiện căn;
5) Nhờ vào tùy thuận pháp giới trong hồi hướng Thật tế trước đây mà đạt được thiện căn;
6) Nhờ vào tâm thanh tịnh như hư không-bất động như mặt đất… trước đây mà đạt được thiện căn;
7) Nhờ vào hiểu rõ cảnh giới đạo của Như Lai không phải là nơi khác làm… trước đây mà đạt được thiện căn;
8) Nhờ vào không hư vọng chọn lấy… thành tựu nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát trước đây mà đạt được thiện căn;
9) Tổng quát kết luận, nhờ vào các hạnh như trang nghiêm quốc độ… trước đây đều nối thông với ba đời mà đạt được thiện căn. Từ đây trở xuống là trong phần hai chính thức dùng thiện căn trước đây tiếp tục hồi hướng: Trước là tổng quát nêu ra năng lực của hồi
hướng, bởi
vì dùng thiện căn trước đây để hồi hướng cao nhất, cho
nên có thể xứng với
tánh độ thoát chúng sinh. Sau là riêng biệt hiển bày
có mười câu:
1) Bởi vì hóa độ cho nên tiến vào chúng sinh giới, biết Thể là Không cho nên không thấy chúng sinh, hồi hướng cầu đức
không có chướng ngại
này cho nên gọi là hồi hướng;
2) Không có thọ mạng;
3) Không có Ngã tự tại;
4) Không có phước của người, Già-la xưa kia dịch nghóa là Người,
nay tên gọi chính xác dịch là Số Thủ Thú, bởi vì thường xuyên chọn lấy các nẽo mà
thọ sinh. Bốn câu trên đây dựa
theo Sinh Không, dưới đây là dựa theo
Pháp Không.
5) Bởi vì pháp không có đúng-sai cho nên lìa xa giận dữ tranh cãi;
6) Duyên sinh không có thật;

7) Lý thật không đắm trước;
8) Biết rõ về Thể của quốc độ chân thật cho nên không có cấu nhiễm;
9) Hiểu rõ về hành thuận theo duyên
cho nên không kiên cố;

10) Thông hiểu về cảnh chỉ do tâm cho nên
trống rỗng không có.
Từ đây trở xuống là trong phần ba phân rõ về tướng lợi ích, có ba:

Thấy lợi ích của lý, trong đó có chín câu, năm câu đầu trình bày về lìa
xa tướng, sau từ “Ư Như Lai…” trở xuống là
bốn câu về đạt được Thật.

Từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về thành tựu lợi ích của đức,
 trong đó trước là thâu nhiếp quả Phật, giữa là có đủ nhân Phật,
sau
là thâu nhiếp chúng sinh.
3) Từ “Bỉ Bồ-tát…” trở xuống là lợi ích của diệu dụng, trong đó Bảo Tạng là Thể của Dụng,
tiếp là trang nghiêm quốc độ,
sau là thâu nhiếp chúng
sinh hiển bày về
Tướng của Dụng.
Trên đây là đoạn thứ tư, xong.

Từ đây trở xuống là phần năm trình bày nhờ vào hồi hướng
trước đây mà thành
tựu đức của hạnh, nhờ vào uy lực là dựa vào phần trước phát khởi
phần sau, có mười câu:
1) Hạnh thù thắng không gì sánh bằng;
2) Hạnh kiên cố không gì hủy hoại;
3) Uy lực cao vời phá dẹp quân ma;
4) Thành tựu đức không lui sụt;
5) Đầy đủ hạn kỳ yêu cầu vốn có;
6) Tâm rộng lớn;
7) Dụng nhanh chóng;
8) Trí sâu xa;
9) Trí rộng rãi;
10) Lực của tâm Bồ-đề xứng với pháp giới. Trên đây là riêng biệt giải thích, xong.
Sau là phần ba kết luận về tên gọi, có thể biết. Trên đây là
hạnh của phần vị, xong.
Từ đây trở xuống là phần thứ hai trình bày về quả của phần
vị này. Đạt được phần
vị này do đó lại đạt được quả này, có ba:
Trước là nêu rõ về số, tiếp
là đưa ra giải thích, sau là kết luận.

Trong giải thích, trong mười loại đều trước là nêu ra tên
gọi của Tạng,
sau là giải thích về nghóa của Tạng:
1) Thấy Phật Tạng;
2) Pháp; Niệm;
4) Tuệ;
5) Nghóa;
6) Nguyện;
7) Đức;
8) Trí;
9) Biện;
10) Quả. Lại trong mười loại này, sáu loại trước là hành về Tự lợi, một loại là thấy Phật, năm loại là biết pháp.

Trong năm loại:
1) Biết về lý pháp;
2) Nghe về trì giáo;
3) Hiểu rõ văn giáo;
4) Lónh ngộ ý nghóa;
5) Chứng được pháp thật, cũng là Văn- Tư-Tu chứng. Tiếp là ba hạnh về Lợi tha:
1) Dùng thân công đức để ứng hiện;

Dùng ý nghiệp để hiểu rõ;
3) Dùng ngữ nghiệp để biện giải
thuyết giảng. Sau cuối là một loại thâu nhiếp quả thành tựu của hạnh,
 nghóa là nhờ vào lực hồi hướng này khiến cho hạnh Bồ-tát mau chóng được viên mãn, cho nên tiếp nhận phần vị mà được
thành Phật. Sau từ “Phật tử…”
trở xuống là kết luận.

Trong phần thứ hai là kệ tụng tổng trì, có 25 kệ phân năm:

Một kệ tụng về Thể của hành trong
sám hối lỗi lầm… trước
đây, chỉ tụng về đức của hạnh tùy hỷ.

Từ “Tam thế…” trở xuống có chín kệ tụng về hồi hướng
Bồ- đề và chúng sinh trước đây, trong đó có ba:
Một, Bốn kệ tụng về trang
nghiêm quốc độ chư Phật ba đời trước đây, một
là học theo Phật
trang nghiêm, hai là thâu nhiếp pháp
trang nghiêm, ba là hiển bày về đã
trang nghiêm, bốn là kết luận giống như
Phật trang nghiêm. Hai,
Từ “Bỉ chân Phật tử…” trở xuống là bốn tụng
về Bồ-tát là người quý báu
trang nghiêm cho quốc độ trước đây, trong đó một
kệ đầu tụng về
sinh
trong pháp môn trước đây, một kệ tiếp tụng về
nghiệp thù thắng có
đủ thân-khẩu, hai kệ
sau ca ngợi về đức thù thắng, cũng là ý nghiệp thù
thắng. Chưa hề tưởng niệm… là thuần tịnh không
xen tạp… ở văn trên.
Ba, Một kệ tụng về thọ dụng thanh tịnh trước đây,
cũng là pháp đầy đủ
thanh tịnh, khiến cho chúng sinh thành Phật đầy đủ
Phật pháp, cho nên gọi là Phật độ.

Từ “Thập phương…” trở xuống có hai kệ,
 vượt lên trên tụng về phần thứ năm kết luận đức đã thành tựu trước đây,
 trong đó: Hai câu đầu tụng về uy lực nhiếp phục chúng ma trước đây,
 câu tiếp tụng về tất cả thế gian vốn không có thể hủy hoại trước đây, câu tiếp là quyết định
tu… tụng về hạnh không gì sánh bằng trước đây,
câu tiếp là thành tựu đầy đủ Đại nguyện trước đây, câu tiếp là hồi hướng công đức… tụng về
thành tựu công đức bất thối trước đây, hai
câu tiếp gồm chung tụng về
báo rộng lớn-đức sâu xa đã thành tựu.

Từ “Thiện năng quán…” trở xuống có năm kệ tụng về phần thứ ba hồi hướng Thật tế trước đây, trong đó: Một kệ đầu tụng về chính

thức hồi hướng Thật tế bao gồm tụng về không vọng giữ lấy nghiệp báo trong phần thành tựu lợi ích trước đây. Bốn kệ còn lại đều tụng về
thành tựu lợi ích. Tiếp
hai câu trình bày về có-không có của vô sắc-tâm,
tức là tụng về ý
nghiệp không vướng mắc và quả báo trước đây.
Tiếp hai câu tụng về không
giữ lấy hữu vi và vô vi trước đây. Tiếp một kệ
tụng về nhân quả không
hủy hoại, không giữ lấy có-không có… trước
đây. Từ “Nhất thiết
chúng sinh…” trở xuống là một kệ ba câu tụng về
sinh tử không phải là
tạp loạn trước đây. Một câu sau cuối về quốc độ
Phật cũng như vậy, là
cũng có thể tụng về Niết-bàn không phải là tịch
tónh trước đây, tương
tự với pháp thế gian trống rỗng như nhau, cho nên
nói là cũng như vậy.

Từ “Bồ-tát như thị tri…” trở xuống có tám kệ, tụng về phần thứ tư dựa vào thiện căn phát
sinh trước đây lại đem hồi hướng trên đây, trong đó: Đầu là một kệ tụng về mười loại thiện căn vô tận đã đạt được
trước đây. Tiếp theo hai kệ tụng về nhờ vào
thiện căn trước đây chính thức thành tựu mười loại hồi hướng trên đây. Tiếp theo năm kệ tụng
về tướng lợi ích của hồi hướng trước đây,
trong đó hai kệ đầu là vọng thấy đã diệt, rời bỏ… là mắt hoàn toàn không thấy không làm thanh tịnh quốc độ
Phật… trước đây; ba kệ
sau tụng về không thấy tướng khác nhau của chúng
sinh trước đây, nghóa là chúng
sinh xứng với tánh lìa
có-không có… không khác nhau. Hồi Hướng thứ năm xong.

ï‚¢

HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ

<卷>QUYỂN 8</卷>
*
Thứ sáu là Tùy Thuận Nhất Thiết Kiên Cố Thiện
Căn Hồi Hướng. Ở trong trường hàng cũng có hai, đó là hạnh của phần vị và
quả của phần vị.
Trong hạnh của phần vị có ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.

Trong thích có ba: Một, Thân
là chỗ dựa của hạnh; Hai, Từ
“Ly chư nghiệp chướng…”
trở xuống là trình bày dựa vào thân khởi
hạnh; Ba, Từ “Ma-ha-tát
nhược năng dó thử thiện căn hồi hướng…” trở
xuống là phân rõ về
hạnh đã thành tựu lợi ích. Phần một,
thân là chỗ dựa của hạnh, là dựa vào thân của
Chuyển Luân Thánh Vương
mà khởi hạnh bố thí, có bốn ý:
1) Tại gia là phần vị có thể bố thí;
2) Có bảy báu có thể bố thí;
3) Trình bày về khó bố thí mà có thể bố thí;
4) Nhiếp hóa không dám trái lịnh. Trong văn có
hai: Trước là hiển bày
về đức thống lãnh thâu nhiếp tự tại của vua; sau từ “Thử
Ma-ha-tát…” trở xuống là phân rõ về đức thuộc Chánh báo
rất tuyệt vời của vua.

Trong phần trước Luân Vương thành tựu bảy báu, nghóa sơ
lược đưa ra ba môn: Một, Hiển bày về tên gọi, văn
sau nói:
1) Vòng vàng quý báu tên gọi Thắng Tự Tại;
2) Voi quý báu tên gọi Thanh Sơn;
3) Ngựa tía quý báu tên gọi Dũng Tật Phong;
4) Ngọc thần quý báu tên gọi Quang Tạng Bảo Vân;
5) Quan chủ quản kho tạng quý báu tên gọi Đại Tài;
6) Ngọc nữ quý báu tên gọi Tịnh Diệu Đức;
7) Quan chủ quản binh lính quý báu tên gọi Ly Cấu Nhãn. Có được bảy loại quý báu này làm Chuyển Luân Thánh Vương ở Diêm-phù-đề.

Hai, Phân rõ về tướng:

1) Phân rõ về vòng vàng quý báu, theo kinh Niết Bàn: “Vua Đảnh Sinh vào ngày 15, ở tại lầu cao tắm gội thọ trai xong, lập tức ở
phương Đông xuất hiện
vòng xe vàng, đầy đủ ổ trục ngàn tia, không phải là do công thợ làm ra, liền nghó rằng mình
sẽ thử xem. Dùng tay trái nâng
vòng xe vàng này lên, tay phải bưng lư hương, đầu gối bên phải quỳ
sát đất mà phát ra lời
nguyện: Nếu là vòng xe quý báu ứng hiện không hư giả, thì giống như
Chuyển Luân Thánh Vương quá khứ mà đi hành đạo. Phát ra lời thề này rồi, vòng vàng quý báu này bay vút lên hư
không đến khắp bốn
thiên hạ rồi trở về nằm trong tay trái của Luân Vương.”
Theo luận Câu Xá: “Chỉ
riêng cõi Diêm-phù-đề có Luân
Vương xuất hiện. Bởi vì
phước lực cho nên làm đất trong cung Đế Thích
nóng lên, Đế Thích liền
biết có Luân Vương xuất thế, phái 500 Dạ-xoa canh giữ cửa cung mang xuống cho
Luân Vương một vòng xe quý báu.
Bởi vì có được vòng xe quý
báu, cho nên gọi là Luân Vương.”
Lại có luận
Tiểu Thừa nói: “Luân Vương chưa xuất hiện thì
những vật quý báu như
vòng xe quý báu… này ở trong núi Thiết Vi, được các Đại lực quỷ thần giữ gìn bảo vệ,
Luân Vương vừa xuất hiện thì đưa
đến chỗ vua, vì vậy
trước phải có trú xứ.”

Nếu theo kinh này, thì văn trên nói ví như Chuyển Luân Vương
thành tựu bảy vật quý báu thù thắng, mà những
vật quý báu ấy không hề có nơi đến, biết rõ chỉ do nghiệp lực mà khởi lên chứ không có từ nơi khác đến. Nhưng vòng xe này có bốn loại:
1) Vòng xe bằng sắt 250 tia;
2) Vòng xe bằng đồng có 500 tia;
3) Vòng xe bằng bạc có 750 tia; Vòng xe bằng vàng có 1000 tia.

Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh nói: “Vòng
xe có ngàn tia, ngang dọc 40 dặm, chu vi 250 dặm, lúc
Luân Vương sắp đi thì vòng xe ở phía trước dẫn đường,
người không phục tùng thì vòng xe vàng tự nhiên xoay
tròn ở trên đầu, tự
nhiên làm cho hàng phục, không cần đến binh khí.”

Voi quý báu, bảy ngà chấm đất, sáu chỗ nổi lên tròn đầy như
hoa sen trắng, đi nhanh như gió, Luân Vương cỡi trên
mình, trong một
niệm đi khắp bốn thiên hạ.

Ngựa quý báu màu đen pha hồng, bờm và đuôi màu vàng ròng,
đi không nhảy chồm nhanh chóng hơn gió, đến phương
xa không mệt mỏi, người cỡi an lành vui vẻ, đi khắp bốn phương không
sai ý người
chủ, trong một niệm đi khắp bốn thiên hạ.

Ngọc thần quý báu, theo kinh Niết Bàn nói: “Ở trong cung vua tự nhiên có
ngọc Ma-ni, lớn bằng mắt người, có thể ở trong đêm tối chiếu rọi
một Do-tuần. Nhờ vào lực của ngọc này, nếu trời tuôn mưa
hạt lớn bằng trục xe, thì có thể làm tán che phủ
một Do-tuần, ngăn hạt
mưa lớn này không để cho rơi đến ngọc này được.”

Theo kinh Quán Phật Tam Muội: “Ngọc
thần ấy là tim của chim cánh vàng.”

Theo Trí Luận: “Ngọc thần ấy là xá lợi của Phật,
sau vào thời
mạt pháp biến làm ngọc Ma-ni.” Lại theo
kinh Hiền Ngu:
“Có ba phẩm:
Phẩm Thượng thì đặt
trên đầu trụ cao, nhà
vua đốt hương cầu thỉnh, tùy theo ý nhà vua mà
mưa xuống các loại tiền
của châu báu-đồ ăn thức uống… khắp 80
Do-tuần; phẩm Trung thì mưa
khắp 40 Do-tuần; phẩm Hạ thì mưa khắp 20 Do- tuần, ngọc thần ấy luôn luôn
sáng chói ngăn che trời mưa cũng như vậy.”
Lại trong kinh Bồ
Tát Bổn Hạnh: “Ngọc thần quý báu đêm ngày
thường chiếu sáng 1600 dặm.”
Lại theo Tam tạng
Chân Đế nói: “Ngọc châu Như ý có ba loại:
1) Ngọc châu Như ý có thể tùy theo ý người mà thuận theo tâm đã mong muốn.
2) Ngọc châu Thanh thủy làm cho nước đục trở thành trong.
3) Ngọc châu Thổ kim tự có ba phẩm: a) Phẩm Hạ đưa vào một lượng vàng thì nhả ra gấp ngàn lần; b) Phẩm Trung đưa vào một lượng vàng thì nhả ra gấp vạn lần; c) Phẩm Thượng đưa vào một lượng vàng thì nhả ra
gấp vô lượng lần.”

Quan chủ quản kho tạng quý báu, theo
Câu Xá luận: “Quan chủ
quản kho tạng quý báu này có được lực của
nhãn căn, có thể nhìn thấy
tất cả kho tạng ẩn kín trong lòng đất, đưa tay vào
biển thì vật báu hiện
ra theo năm ngón tay.”

Lại kinh Bồ Tát Bổn Hạnh: “Quan
chủ quản kho tạng quý
báu, lúc ý nhà vua cần
đến vàng bạc bảy báu-áo quần chăn màn-đồ ăn thức uống thì mở hai tay mình ra, tất cả tài
sản bảy báu-các thứ cần dùng
tùy ý mong muốn, từ
trong tay đưa ra mà không có cùng tận.

Quan chủ quản binh lính quý báu, nơi nào chưa quy phục thì lập
tức suy nghó làm cho yên ổn, không có nơi nào không quy phục.

Lại kinh Bồ Tát Bổn Hạnh: “Quan
chủ quản binh lính quý báu, lúc ý nhà vua muốn có được trăm ngàn vạn binh lính, thì tất cả tự
nhiên mà đến.”

Ngọc nữ quý báu, thân không cao không thấp-không đen
không trắng, các lỗ chân lông phát ra mùi thơm chiên đàn, ánh mắt nhìn xa
một Do-tuần, tai nghe-mũi ngửi cũng như vậy, lưỡi che kín mặt,
 đưa tay chạm vào áo nhà vua thì biết rõ thân nhà vua an lạc hay là bệnh tật,
cũng biết rõ tâm nhà vua. Ngọc nữ quý báu này
hóa sinh từ hoa sen.

Lại theo kinh Bồ
Tát Bổn Hạnh: “Ngọc nữ thơm ngát thanh khiết như
hoa Ưu-đàm, lúc ý nhà vua muốn được mát mẻ thì thân tự
nhiên mát lạnh, lúc nhà vua muốn được ấm áp thì thân tự nhiên ấm áp, âm

thanh như âm
thanh cõi Phạm, thường làm cho nhà vua vui vẻ.” Ba,
Các môn có năm lớp:

Dựa theo báo thô thiển, nghóa là có vật báu ấy có thể ngăn mưa
trong 40 dặm…, là bảy vật báu tương tự, như kinh Tát-già-ni nói v..v…

Dựa theo báo vi tế, nghóa là Thật báo của
Kim Luân Vương, bảy vật quý báu như trước phân rõ.

Dá»±a theo
hành duyên, nghóa là đồ vật của Bồ-tát như bảy báu…
của Luân Vương, đều là do nghiệp thanh tịnh của
Bồ-tát mà phát khởi, có thể sử dụng cho sự tu
hành của Bồ-tát. Chính xác có năm nghóa: a) Khiến cho Bồ tát không
sinh tâm ái nhiễm; b) Khiến cho thành tựu công
hạnh bố thí; c) Thỏa mãn ý người cầu xin; d) Khiến
cho người cầu xin
phát tâm tu hành; e) Có thể giúp cho sự giáo hóa chúng sinh.

Trí Luận quyển thứ 12 nói: “Vật
báu có ba loại:
1) Vật báu trong loài người có thể mưa xuống đồ vật, như vật báu của Luân Vương…;
2) Vật báu của cõi trời có thể hiểu rõ lời nói sai bảo…;
3) Vật báu của Bồ- tát có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sinh…”
Dựa theo báo
sâu xa, nghóa là như Viên giáo từ Thế giới tánh… trở lên có vạn người con, từ
Luân Vương trở đi vốn có vật báu… như lưới báu
sáng ngời,
Chuyển Luân Thánh Vương có ngọc
Pha-lê Đính
Quang soi chiếu trần số thế giới hải của mười cõi
Phật, nhờ vào thiện căn của
một hằng hà sa Kim Chuyển Luân Vương mà phát sinh như vậy…

Dựa theo đức của hành, như văn
sau kinh nói:
Ba-la-mật là
vòng xe vàng, các thần thông là voi quý báu, thần
túc là ngựa quý báu, tịnh tuệ vô thượng và diệu hạnh thù thắng là ngọc nữ quý báu, tứ nhiếp phương tiện là quan chủ quản kho tạng quý báu, Vô thượng
Chuyển Luân Vương là quan chủ quản binh lính quý báu. Nay trong văn này dựa vào ba môn
sau mà nói, bởi vì ở trong pháp giới vô tận thành tựu vô
biên hạnh hải của Phổ Hiền.

Sau từ
“Thử Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về Chánh báo rất tuyệt vời
của vua. Na-la-diên,
Trung Hoa nói là
Kiên Lao Lực. Theo luận Câu Xá thì có
thể duy trì tầng Phong luân của một Đại thiên
giới, là hạn lượng
của Na-la-diên. Theo kinh Niết Bàn thì so sánh hạn
lượng có thể biết.
Trong phần hai là dựa vào thân khởi hạnh, có ba:
1) Sơ lược nêu ra sự của hạnh;
2) Từ “Ma-ha-tát như thị chư thiện căn hồi hướng dó tác như thị niệm…” trở xuống là mở rộng hiển bày về tướng của hạnh;
3) Từ “Ma-ha-tát dó thử
thiện căn hồi hướng thời…” trở xuống là hạnh rất phù hợp với Chân. Hai phần trước tức là hồi hướng Bồ-đề và
chúng sinh,

một phần sau
tức là hồi hướng Thật tế. Lại hai phần trước
là hồi hướng rộng lớn, một phần sau là hồi
hướng rất sâu xa.

Trong phần một có ba:

Sơ lược nêu ra 70 sự về vật đã bố thí, từ đồ
ăn thức uống đến giường ghế là 10,
 từ trú xứ đến tán che là 20, từ cờ phướn đến mắt là 30,
 từ tai đến thịt là 40, từ tim đến móng là 50,
 từ vì pháp lao vào lửa đến dùng thân che chở Đức Phật là 60, từ dùng thân bố thí tất cả đến
thảy đều có thể rời bỏ là
7
0. Trong đó có nội thí-ngoại thí và nội ngoại thí. Lại có tài-pháp và vô úy thí,
 thế mạng cứu giết hại là Vô úy thí.
 Ngăn chặn giết hại có hai loại: Hướng về thụ động giết hại là Vô úy thí,
 hướng về chủ động giết hại khiến cho giữ năm giới… là Pháp thí, truyền bá danh hiệu Phật khắp nơi cũng là
Pháp thí. Lại giải thích, những hạnh
này đã đều là pháp môn, cho nên cùng bao gồm ba
loại thí. Lại những hạnh này đều là hạnh tự tại vô ngại thuộc về môn Đại duyên khởi pháp giới vô tận của
Phổ Hiền, dùng những hạnh này hoặc là trong hay ngoài,
hữu tình hay phi tình, chúng sinh và pháp môn đều
đem bố thí cho một
chúng sinh. Như một
chúng sinh, tất cả chúng
sinh cũng như vậy. Bố thí
cho tất cả chúng sinh ở một vi trần xứ-một thế
giới, tất cả trần xứ cũng đều như vậy. Như pháp giới hư không của một thế giới…, tất cả thế giới-
xứ cũng đều như vậy, nhanh chóng thành tựu Đại
thí. Thực hành hạnh bố thí này đối với một
sát-na đã khắp nơi thế giới pháp giới như vậy,
niệm niệm như vậy tận cùng thời gian trước sau,
tất cả các kiếp, tất cả
sát-na cũng đều như vậy. Đây là một Bồ-tát
dùng thân khắp nơi pháp giới, khởi lên đầy đủ Đại thí vô biên như vậy, vẫn có môn thuần-tạp
khác nhau. Nếu dựa theo môn thuần dùng mắt để bố
thí, thì thấy tất cả nơi chốn-tất cả thời gian, tất cả đồ vật-tất cả ruộng phước như trước đây chỉ là bố thí mắt, hoàn toàn không thấy những môn khác. Nguyên có
thế nào? Bởi vì những môn khác không quán xét như hư không.
Ngay một môn này khắp nơi pháp giới cho nên không
thấy thời gian bắt đầu bố thí mắt, cũng không thấy thời gian cuối cùng bố thí mắt, bởi vì không có bắt đầu và kết thúc, môn khác cũng như vậy, tùy theo thuần-tạp thảy
đều không giống nhau, có thể dựa theo suy nghó.

Từ “Nhược chư chúng sinh…” trở xuống là trình bày về thành
tựu bố thí đối với ruộng phước.

Từ “Tác như thị niệm…” trở xuống là trong phần hiển bày về bố
thí bằng việc làm, có tám câu. Có người giải
thích rằng: Phần này thâu nhiếp chọn lấy quả
Phật, ba tâm kiên cố là hồi hướng Bồ-đề, nay nói
văn này giống như Bồ-tát thâu nhiếp chọn lấy,
xứng với y-chánh của

pháp giới.
Ở trong môn thiện căn kiên cố này, khiến cho đầy
đủ duyên của hạnh thù thắng, lại có thể thành tựu hạnh xứng với pháp giới.
Người thù thắng là người ở trung tâm đất nước, quyến thuộc là quyến
thuộc của mình, văn còn lại có thể thấy.
Trong phần hai là mở rộng hiển bày về tướng của hạnh, có hai:

Riêng biệt hiển bày hướng về hạnh Đại thí thuộc 70
môn trước đây, riêng biệt trình bày về hồi hướng; b)
Từ “Thử Ma-ha-tát dó như thị
đẳng…” trở xuống là tổng quát kết luận về
hồi hướng rất hoan hỷ
bằng việc làm.

Trong phần a là 70 môn có tách ra-có hợp lại, đến văn
sẽ phân rõ.

Trong 10 loại thứ nhất. Bố thí thức ăn, có hai: Trước là trình bày
về tâm tự bố thí lìa xa lỗi lầm;
sau từ “Dó thử tuệ thí…” trở xuống
là chính thức trình bày
về dùng thiện căn bố thí thức ăn này để hồi
hướng chúng sinh. Nhưng
dùng thức ăn thuộc pháp, theo kinh A Hàm:
“Thức ăn xuất thế gian
có năm loại:
1) Thiền duyệt thực;
2) Nguyện thực;
3) Niệm thực;
4) Giải thoát thực;
5) Pháp hỷ thực.” Vónh viễn lìa xa Đoàn thực, theo kinh A Hàm: “Thức ăn thế gian có bốn loại, đó là Đoàn-Tư- Xúc-Thức. Vì giáo hóa
chúng sanh, hiện tại tiếp nhận Đoàn thực, khiến cho chúng
sinh thành tựu Hóa thân
Phật.” Trong Nhiếp Luận nói: “Làm phát sinh thiện căn của người bố thí, nhưng lúc
Như Lai thọ thực thì chư Thiên vì các chúng
sinh mà tiếp nhận bố thí, khiến được thành
Phật cho nên thị hiện dùng tay
chạm vào thức ăn.” Bố thí thức ăn đạt được
năm quả, kinh nói là
thường có được thân mạng-sắc tướng-sức
lực-an ổn-vô ngại biện; luận
Du-già nói: Bố thí đồ ăn thức uống có thể cảm
được Đại lực. Hỏi: Nếu nghèo khó không có nhiều thức ăn thì có thể có
hạnh Đại thí được
thành tựu hay không? Đáp: Có, như kinh Đại
Thừa Phương Tiện quyển
Thượng nói: “Nếu là
Bồ-tát sinh trong nhà nghèo khó, thì thậm chí khất thực
nếu có được một nắm
cơm, cũng giữ lại để bố thí cho Tăng. Nếu bố thí một người không lấy làm xấu hổ, thì thuận theo dấy lên ý niệm này:
Như Đức Phật đã nói,
tâm thêm rộng lớn thù thắng nhờ vào bố thí tiền của, mình bố thí tiền của tuy ít mà tâm nguyện Nhất thiết trí là thiện
căn thành tựu Nhất
thiết trí, khiến cho các chúng sinh đều có được bàn
tay quý báu, giống như
Đức Như Lai nhờ vào duyên này mà đầy đủ bố
thí hoặc là thiền
định-thiền xứ, đó gọi là Bồ-tát thực hành đối với
phương tiện.”
Trong bố thí thức uống, hồi hướng bên trong đạt được
Pháp ái thanh tịnh là
Pháp hỷ thực, Pháp thân mềm mại là
Giải thoát thực,
Tam- muội điều tâm là
Thiền duyệt thực.

Trong bố thí mùi vị: Một
là nêu ra vật đã bố thí; hai là thiện
căn hồi hướng. Trong đó đạt được tướng của mùi vị
bậc Thượng,
Cam lộ tràn đầy là tướng
của mùi vị bậc Thượng trong 32 tướng của Đức
Phật. Kinh nói: “Răng
cửa của Như Lai lại có mạch Cam lộ, chỉ đưa thức ăn vào miệng đều trở thành Cam lộ.” Trong các
Hồi Hướng sau đều bởi
vì Sự giống như pháp,
tương tự cùng loại mà thành tựu hồi hướng. Ba
từ “Thị vi…” trở
xuống là kết luận về tên gọi.

Bố thí xe là
khiến cho vui mừng được thay cho đi bộ.

Bố thí áo quần khiến cho vui mừng được che kín thân hình.
Trong luận Du-già nói: “Bố thí áo quần có thể cảm được
sắc tướng tuyệt
diệu. Lại giống như tự
mình may y mới hoàn thành mang đến để cúng
Phật, có hai loại:
1) Tạm thời dâng cúng liền đạt được phước vô lượng;
2) Đưa ra thời gian cúng dường cũng cảm được phước to lớn, như giờ ngọ
hôm nay đem y cúng dường
Phật cho đến giờ ngọ ngày mai, nếu trong thời gian ấy mà lấy thì tức là lấy vật của Phật, đến kỳ hạn đầy đủ mà lấy
thì có phước chứ không mất gì.”

Bố thí hoa khiến cho vui mừng được cúng dường, vả lại hoa
làm cho người vui vẻ.

Bố thí thân mình, như Trí Luận quyển thứ 13 nói:
“Trái với Bồ-tát La-ma bố thí, ngoại đạo có chư
Thiên sai khiến, tự mình bố thí thì phước
hơn hẳn ngoại đạo vô lượng.” Như luận ấy nói đầy đủ.
Niềm vui tràng hoa trang
sức có hai loại:
1) Xâu hoa làm vòng đặt ở trên đầu;
2) Lấy tơ xâu hoa đeo vào thân mình. Tây Vức chú trọng điều này.
Bố thí Chánh
báo trang nghiêm, hương cũng cúng dường, bởi vì giới đức thơm ngát cho nên giống như hương, hương thoa cũng
trang nghiêm thân.
Bố thí giường ghế khiến cho vui mừng được an ổn. Trên đây
là mười loại thứ nhất.

Bố thí trú xứ và phòng ốc, cũng khiến cho vui mừng được an ổn.
Bố thí đèn
sáng khiến cho vui mừng được xua tan bóng tối, gần
thì khiến cho cảm được
báo về sắc đẹp, xa thì khiến cho chúng sinh cảm được ánh
sáng trí tuệ của Phật.
Luận Du-già nói bố thí các loại đèn
sáng có thể cảm được
mắt sáng. Lại trong kinh Nhiên Đăng Công Đức
nói: “Thắp đèn cúng
dường làm cho tội diệt phước sinh, khiến phát nguyện rằng: Nguyện có thể lấy biển rộng làm dầu, núi Tu-di làm bấc đèn,
thắp ngọn đèn sáng to
lớn, chiếu khắp vô lượng cõi Phật, cúng dường
không ngưng nghỉ. Lại nguyện lấy pháp tánh làm dầu, Đại trí làm bấc đèn, thắp Đại Bi làm ngọn đèn,
soi
sáng khắp nơi thế gian.” Vì vậy
kinh nói: Tín tâm thanh tịnh
làm bấc đèn, Từ Bi làm dầu thơm, Chánh niệm
làm đồ chứa quý báu,
thắp lên ngọn đèn ấy chiếu sáng thế gian.
Bố thí thuốc thang khiến cho vui mừng được trừ bệnh, tự mình
gần thì được vô bệnh
như Tỳ-kheo Bạc-câu-la cảm được năm loại Bất
tử, xa thì cảm được
thân là cây thuốc chúa. Lại như Dược Vương Tử,
tay chạm vào người bệnh
thì tất cả đều khỏi bệnh, sau khi chết lấy tro
đất ở chỗ thiêu thân
cũng có thể trừ khỏi bệnh, bệnh thân đã trừ mà
bệnh tâm cũng hết.

Bố thí đồ đựng khiến cho vui mừng được chứa đầy.

Bố thí xe khiến cho vui mừng được vận chuyển, cũng là thay cho đi bộ.
Luận Du-già nói: “Bố thí xe cộ có thể cảm được
vui sÆ°á»›ng.
Trong đó có ba: Trước là nêu ra năm loại
phước điền, tiếp là nêu ra mười loại xe quý báu,
sau là tùy theo ruộng phước thành tựu bố thí dùng thiện
căn để hồi hướng.”
Trong này bố thí năm ruộng phước tức là năm đoạn:
1) Bố thí Phật và tháp, có hai loại hồi hướng tương tự lưu chuyển, một là hồi hướng tương tự dựa theo
ruộng phước, như văn khiến cho chúng
sinh… cho
đến nói đạt được
Nhất thiết chủng trí-Vô ngại giải thoát… của các
Như Lai; hai là hồi hướng
tương tự dựa theo vật đã bố thí, khiến cho chúng
sinh thâu nhiếp chọn lấy
Đại thừa… Trong văn khác cũng có hồi hướng
dựa theo tâm bố thí,
nghóa là tâm hoan hỷ bố thí cũng tức là tùy thuận
phát khởi hồi hướng…
2) Bố thí hồi hướng Bồ-tát và thiện tri thức;
3) Bố thí hồi hướng Đại chúng Tăng Bảo của chư Phật ba đời;
4) Bố thí hồi hướng Thanh văn-Duyên
giác;
5) Bố thí hồi hướng tất cả ruộng phước. Mười loại đạo của Bồ-tát là Thừa thuộc mười Độ-Hạnh, lại là đạo của Thập Địa.

Nghóa về bốn Luân sơ lược đưa ra ba môn:

Phân rõ về tướng: Một là Trú chánh quốc Luân, luận
Trang Nghiêm quyển thứ sáu nói: “Có bốn loại Luân không phóng dật:
Má»™t,
Thắng độ Luân, độ thù thắng có năm
nhân duyên:
1) Dễ dàng mong cầu, nghóa
là bốn sự cúng dường thì thân không khó mà
có được;
2) Bảo vệ tốt lành, nghóa là Quốc vương đúng như pháp cho nên người ác và đạo tặc không có thể tồn tại;
3) Nơi chốn tốt lành, nghóa là xứ sở điều hòa cho nên không có dịch bệnh;
4) Bạn bè tốt lành, nghóa là giới giống nhau-kiến giống nhau cho nên làm bạn bè;
5) Vắng lặng tốt lành, nghóa là ban ngày không có ồn ào, ban đêm bặt dứt âm thanh.

Hai, Thiện nhân Luân, thiện nhân cũng có đủ năm nhân duyên:

1) Đa văn cho nên thành tựu A-hàm;
2) Kiến đế cho nên đạt được quả Thánh;
3) Khéo léo thuyết giảng cho nên có thể phân biệt các pháp;
4) Xót thương cho nên không tham lợi dưỡng;
5) Không lui sụt cho nên không có mệt mỏi. Ba, Tự chánh Luân, cũng có đủ năm nhân duyên:
1) Khéo léo duyên với diệu pháp
làm duyên;
2) Khéo léo tích tụ phước trí đầy đủ;
3) Khéo léo tu tập Chỉ Quán cho nên các hành tu tập luôn luôn tương ưng;
4) Khéo léo thuyết giảng cho nên không có mong cầu lợi dưỡng;

5) Khéo léo đưa ra pháp bậc Thượng vốn có cho nên cung kính tu tập. Bốn, Tiên phước Luân, phước trước kia cũng có đủ năm nhân duyên:
1) Đáng vui vốn là do ở trong quốc độ thù thắng làm nhân;
2) Không có hoạn nạn vốn là do gặp được người tốt lành làm nhân;
3) Không bệnh tật;
4) Thiền định;
5) Trí tuệ, ba loại này lấy Tự chánh Luân làm nhân.”

Trừ diệt hoạn nạn, theo luận
Thành Thật nói bốn Luân trừ diệt tám nạn. Trú chánh quốc Luân thì luận ấy gọi là Trú thiện xứ Luân,
nghóa là sinh vào trung tâm đất nước loại trừ
năm nạn, đó là ba nẽo ác,
Bắc Câu-lô châu và cõi trời Trường Thọ; Y
chánh só Luân thì luận ấy
gọi là Y thiện nhân Luân, nghóa là gặp được
thời có Phật, loại trừ nạn
trước Phật-sau Phật; Bình đẳng nguyện Luân thì
luận ấy gọi là Tự phát
chánh nguyện, nghóa là Chánh kiến loại trừ nạn Thế trí
biện thong; Bổn công đức Luân thì luận ấy gọi là Túc thực thiện căn,
 loại trừ nạn đui điếc câm ngọng. Năm loại trước là nạn của nơi chốn xấu ác, loại thứ
sáu là nạn của thời gian xấu ác, loại thứ bảy là nạn của nghiệp nhân xấu ác,
loại thứ tám là nạn của quả báo xấu ác.

Thành tựu công đức, trong đó có bốn loại, hai loại đầu là duyên
bên ngoài, hai loại sau là nhân bên trong, nghóa là
Nguyện là nhân của
trí, Đức là nhân của phước, vô biên tịnh hạnh
của Bồ-tát đều nhờ vào
nhân duyên này mà đức thành tựu đầy đủ.

Trên đây là cùng dựa theo giáo của Tam thừa để
phân rõ. Lại nữa, Chánh quốc là Chân như pháp tánh độ, Chánh độ là
Bát-nhã chánh quán, Công đức
thí… là năm Độ hạnh, Bổn nguyện của Bồ-tát là mười loại
Đại nguyện, đây là dựa theo Chung giáo mà phân rõ.
Lại nữa, Chánh quốc tức là
Quốc độ hải của mười Phật, Chánh só tức là
Chánh báo của mười Phật, Công đức tức là Tánh khởi công đức, Nguyện tức là

Nguyện hải của Phổ Hiền, đây là dựa theo Viên giáo, bởi vì cùng
một duyên khởi của Đại
pháp giới vô tận.

Bố thí voi-ngựa riêng biệt, hợp lại để hồi hướng.
Trong bố thí
giường ghế, đã bố thí trước đây là nói chung về giường ghế như vậy, nay ở đây là pháp tòa mà
Thánh Vương an
tọa, cho nên không giống nhau.

Ba loại thế gian vốn không thể nào hủy hoại được. Pháp sư
Biện giải thích: “Địa
tiền là Nguyện lạc thế gian, Địa thứ nhất đến Địa
thứ bảy gọi là Công
dụng thế gian, Địa thứ tám đến Đẳng giác là Vô
công dụng thế gian, khiến
cho có được pháp tòa thù thắng của Phật, ở
phần vị của nhân thì ba
loại Vô thường của thế gian vốn không thể nào hủy hoại được.”
Pháp sư
Diễn nói: “Là ba tai họa không hủy hoại
được.” Nay giải thích:
Bởi vì thích hợp thì không bị ba đời quá khứ-vị lai…
làm cho thay đổi hủy hoại
ba tướng cũng được, bởi vì là tòa xứng với
pháp tánh, kinh nói các
pháp Không làm tòa.
Trong 10 loại thứ hai. Bố thí tán che, như
Bảo Tích đã cầm tán che
Như Lai che khắp ba ngàn thế giới, trình bày về cảnh nhiếp
hóa. Lại kinh Bồ Tát Bổn
Hạnh nói: “Đức Phật ở tại nước Uất-ti-la, trải
qua nóng nực mà đi, có
người chăn dê liền dung tâm thanh tịnh bện cỏ
làm tán che, đi theo che cho
Đức Phật. Đức Phật liền mỉm cười, A-nan thưa hỏi nguyên cớ, Đức
Phật nói: Người này lấy cỏ làm tán che mát
Ta, trong mười ba kiếp
không rơi vào địa ngục, sinh trên cõi trời hay trong loài người thì nhất định có tán che bằng bảy báu, đi theo mà che ở
phía trên, sau được xuất
gia thành vị Bích-chi Phật.”
Cột cao và cờ phướn kết hợp bố thí, cũng có thể là trên cột
cao treo cờ phướn cùng
bố thí. Trong kinh Bách Duyên nói: “Lúc Đức Phật xuất thế, có con của vị Trưởng giả tên
gọi Ba-đa-ca, vừa
sinh ra thì giữa bầu trời có một lá phướn lớn che khắp phía trên
kinh thành, đi theo mà che mát.
Về sau vị ấy được gặp Đức Phật, xuất gia đạt
được quả A-la-hán. A-nan
thưa hỏi nguyên cớ, Đức Phật đáp rằng: Xưa
kia, sau khi Đức Phật
Tỳ-bà-thi diệt độ, dựng tháp bằng bảy báu, lúc ấy
có một người ở nơi
tháp thiết hội, làm một lá phướn dài treo lên che
trên tháp, phát nguyện
mà đi. Người ấy trong 91 kiếp không rơi vào
đường ác, tùy theo
những nơi sinh ra, lá phướn thường che mát phía trên,
nay được gặp Ta.”
Mở kho tạng quý báu bố thí, trong đó khiến cho đạt được 16
trí quý báu, theo Tiểu
thừa thì tám Nhẫn-tám Trí là

16. Pháp sư Biện nói: “Địa tiền là bốn Định như Quang Đắc…, Địa thượng là bốn Định như Đại thừa quang minh…, đều có Tự phần và Thắng tiến là 16, dựa vào
đây phát trí là 16 trí
quý báu.” Dưới đây giải thích rằng: Tam-muội
Chánh thọ cứu cánh thêm
rộng là vật báu của trí tuệ. Lại có người giải
thích: Phật địa là bốn
trí, mỗi trí đều có bốn là 16, bởi vì quả vị tự tại cho
nên có thể dung thông lẫn nhau.

Trong bố thí đồ vật trang nghiêm, trăm phước đầy đủ tốt đẹp, theo kinh Niết
Bàn nói: “Bồ-tát tu thân, mười thiện như giới bất
sát… có
năm loại tâm, đó là
Hạ-Trung-Thượng-Thượng Trung và Thượng
Thượng, cho đến Chánh kiến cũng lại như vậy; 50 tâm này gọi là Sơ phát
tâm đầy đủ, cuối cùng thành tựu có 50 tâm, như vậy 100 tâm gọi là
trăm phước đầy đủ.
Bởi vì trăm phước này cùng thành tựu tốt đẹp như
nhau, cho nên nói là trăm
phước đầy đủ tốt đẹp mà tự trang nghiêm.”
Lại theo trong
Du-già Quyết Trạch nói: “Trăm phước hạnh, đó
là lìa bỏ mười nghiệp
đạo bất thiện, phần ít lìa bỏ sát sinh, cho đến
phần ít lìa bỏ tà kiến,
là mười hạnh thứ nhất. Phần nhiều lìa bỏ sát sinh, cho đến phần nhiều lìa bỏ tà kiến, gọi là mười hạnh thứ hai. Nếu hoàn toàn lìa bỏ
sát sinh, cho đến hoàn toàn lìa bỏ tà kiến, thì gọi là mười hạnh
thứ ba. Nếu một thời
gian ngắn lìa bỏ sát sinh, cho đến một thời gian
ngắn lìa bỏ tà kiến, thì
gọi là mười hạnh thứ tư. Nếu một thời gian dài lìa
bỏ sát sinh, cho đến một
thời gian dài lìa bỏ tà kiến, thì gọi là mười
hạnh thứ năm.
Nếu suốt đời lìa bỏ
sát sinh, cho đến
suốt đời lìa bỏ tà kiến,
thì gọi là mười hạnh
thứ sáu. Nếu tự mình lìa bỏ sát sinh, cho đến tự mình lìa bỏ tà kiến, thì gọi là mười hạnh thứ bảy. Nếu khuyên nhủ người
khác không sát sinh, cho
đến khuyên nhủ người khác không tà kiến, thì gọi là mười hạnh thứ tám. Nếu tự mình ca ngợi tán thưởng nói về
không sát sinh, cho đến tự mình ca ngợi tán thưởng nói về không tà kiến, thì gọi
là mười hạnh thứ chín.
Nếu thấy người lìa bỏ sát sinh, cho đến thấy người
lìa bỏ tà kiến mà vui mừng hoan hỷ, thì gọi là
mười hạnh thứ mười.”
Lại theo trong
Pháp Hoa Sớ của
Pháp sư Triệu, lấy mười thiện
làm căn bản, một thiện
lấy chín thiện để trang nghiêm gọi là trăm
phước, không biết trích
ra từ Thánh giáo nào?
Trong bố thí mũ ngọc, dùng bố thí để xông ướp tâm khiến
cho càng thành tựu Đại
thí thuộc Thắng tiến, cho nên nói là luôn luôn
tăng thượng. Nhờ vào
ý niệm bố thí này làm cho tuệ sâu xa, thấy Chánh
lý trong bố thí, cho nên
nói là Tu tuệ. Lại nhờ vào tác ý bố thí khiến cho thành tựu
Xả căn, nghóa là Đại xả đến cuối cùng. Nhờ vào tác ý bố thí khiến cho tuệ hiểu biết rộng rãi. Còn lại tất cả các hạnh
trong hồi hướng, làm cho đạt được Vô kiến
đảnh tướng, là Vô kiến đảnh tướng
trong 32 tướng của Đức Phật, vốn là biểu thị cho Đức Phật thù thắng vượt ra lại không có gì hơn được. Mũ vật báu Ma-ni, như mũ cõi trời
đội trên đầu của
Văn-thù Sư-lợi, là do vật báu Tỳ Lăng-già mà làm
thành, do Tam-muội Thủ
Lăng Nghiêm mà khởi lên, trong đó thường hiện
rõ vô lượng cõi Phật
và thân chư Phật cứu giúp nỗi khổ của ngục tù.
Như Bồ-tát Đại Bi…, là những Bồ-tát này chủ yếu ngay môn này, ở tất
cả mọi nơi-tất cả mọi
lúc, thường xuyên thực hành hạnh này. Còn lại
các môn sau đã dẫn ra
Bồ-tát cũng đều như vậy.
Thân thay thế cho tử tù, là xả bỏ thân mạng này,
so với bố thí tài vật trước đây thật là
cao siêu. Như trong kinh Bồ
Tát Bổn Hạnh: “Quá khứ có 500
vị Trưởng giả, đều đưa ra châu báu-voi ngựa-xe
cộ- áo quần-chăn màn-đồ
ăn thức uống, hễ ai đến xin thì đều giúp cho. Có
một người nghèo khó thấy vậy mà hỏi rằng: Các
ông bố thí phước cầu nguyện như thế nào? Đáp: Muốn cầu
Phật đạo. Lại hỏi: Phật đạo là
gì? Đáp: Trong đó ca ngợi
nhiều về công đức của Đức Phật. Người nghèo nghe rồi tự nghó: Nay mình muốn học tập nguyện này rộng độ tất cả,
lại còn nghèo khó không
có tiền của để thực hành bố thí, trước mắt
đem thân mình mà dùng để
bố thí. Nghó xong lấy mật thoa lên thân thể nằm ở giữa bãi tha ma, nói rằng: Nay tôi đem thân bố thí cho tất cả, nếu cần
máu-thịt-da-đầu-mắt-tủy-não thì đều đem cho hết,
đem công đức
này để cầu Phật đạo
rộng độ tất cả. Phát ra lời nguyện này rồi, lập tức ba ngàn Đại thiên thế giới đã chấn động dữ dội, chư
Thiên kinh hoàng, Đế Thích dung Thiên nhãn trông thấy Bồ-tát nằm giữa bãi tha ma dùng thân để bố thí, bước xuống muốn thử xem, hóa làm nhiều
chim-chó-thú vật, đi đến muốn ăn thịt.
Bồ-tát thấy có loài muốn đến ăn thịt
mình, tâm liền hoan hỷ,
không có ý dao động thay đổi lui sụt. Đế Thích
hiện nguyên hình, ca ngợi hỏi về điều mong cầu, là cầu
Luân Vương hay Đế Thích-Phạm Vương?
Đáp rằng: Không phải như vậy, chỉ cầu
Phật đạo rộng độ
chúng sinh. Đế Thích và chư Thiên cùng nhau ca ngợi:
Tốt lành thay lời nói
của Bồ-tát, lời nói dũng mãnh này của ngài vượt
qua sự bố thí của 500
Bồ-tát kia gấp trăm ngàn ức, gấp bội không thể tính kể,
sẽ làm
Phật trước hết.
Người nghèo khó lúc ấy nay chính là Ta, 500 vị Trưởng giả nay chính là 500 Bồ-tát như
Di Lặc… này. Ta nhờ vào
sức mạnh tinh tiến dũng
mãnh, cho nên vượt qua công đức của các
Bồ-tát đã thực hiện
mà thành Phật trước hết.”
Bố thí tóc liền với da đầu và viên ngọc quý trong búi tóc, có hai
sự việc:
1) Cắt lột da đầu liền với tóc mà bố thí;
2) Theo chủng tộc cao quý ở các nước phía Tây, đều vào lúc mới sinh ra, lấy dao mổ da đầu đặt

vào bên trong
một hạt ngọc thần, phủ thuốc dán kín rồi hạt ngọc còn
ở trong da, nay có người
xin cầm dao mổ ra để bố thí. Tiếng Phạn là
Chu La, Trung Hoa nói là Đảnh Phát.

Trong 10 loại thứ ba. Bố thí mắt, theo Du-già quyển thứ 49:
“Bồ- tát nội thí có hai:

Cầu toàn bộ thân thể của Bồ-tát thì dùng thân thể bố thí mà
làm tôi tớ, có ba ý: a)Vì nhanh chóng chứng được
Bồ-đề; b) Vì lợi ích an lạc cho
chúng sinh; c) Vì bố thí
Ba-la-mật phần nhiều mau
chóng viên mãn.

Cầu riêng biệt đầu-mắt-tay-chân-máu-thịt-gân-xương cho đến tủy não, tất cả đều bố thí tùy theo
sự mong muốn ấy. Lại trong
Trí Luận quyển thứ 14,
Xá-lợi-phất trong 60 kiếp thực hành
Bồ-tát đạo, sắp vượt qua dòng
sông bố thí, gặp người xin đôi mắt, lui
sụt mà không đến được
bờ bên kia. Trong hồi hướng khiến cho chúng sinh
được mười loại mắt. Lại như xâu kim cho người khác nêu rõ đạo, đều là dụng của bố thí mắt,
cũng nên hồi hướng như vậy, dần dần về sau có
thể xả bỏ toàn bộ.

Bố thí tai-mũi, dụng cũng dựa theo thích hợp như nhau.

Diện môn, có người giải thích là miệng. Quang Thống nói: Phần dưới mũi là trụ làm diện môn, lẽ nào lấy mũi bố thí mà cảm được miệng
đoan chánh hay sao?
Trong bố thí răng.
Tượng Vương, như kinh Thập
Luân nói: Lại trong Trí Luận quyển thứ 14 nói: “Như voi chúa bố thí ngà là
Pháp thân Bồ-tát.” Lại dẫn
ra Pháp thân Bồ-tát biến thân làm chim cùng với khỉ vượn và voi làm bạn thân thiết giữ lòng nhân ái cung kính để hóa
độ con người và thú vật…

Trong bố thí
lưỡi cũng có dụng của bố thí.
Trong bố thí đầu, kinh Bồ
Tát Bổn Hạnh nói: “Nguyệt Quang Vương muốn bố thí đầu
cho Bà-la-môn, các quan can ngăn nhà
vua: Thân nhà vua là tất
cả mọi người chúng tôi cùng có, như một báu
vật tuyệt diệu mọi người
cùng có, lẽ nào có thể một người tự mình sử
dụng hay sao? Nhà vua nói
với Bà-la-môn: Sao ông không lấy ở nơi kín đáo, nay ông rời xa một chút, để tôi an ủi các quan. Nhà vua nói với các
quan rằng: Người này đối
với Ta có thù oán từ đời trước, nay nếu không
đền trả thì vẫn còn
mãi về sau đến bao giờ hết được? Rời xa các quan,
gọi Bà-la-môn nói: Ông vào trong rừng đợi tôi. Sau đó đến nơi khiến người ấy chặt lấy đầu mình. Người ấy liền lấy tóc nhà vua buộc vào cành
cây, đưa dao mà chặt
đầu, nhưng chặt lầm vào cành cây. Bà-la-môn nói
là đã chặt rồi, liền
sinh lòng hoan hỷ. Bởi vì lực của chư Thiên không để
cho thấy
đầu-thân của nhà vua… Thần cây quở trách Bà-la-môn.
Bà-la- môn cho rằng thật
sự chặt đứt đầu oán thù, tâm được cởi bỏ liền
quay trở về.”
Tay và chân cùng
bố thí. Hỏi:
Nếu Bồ-tát bố thí từng bộ
phận của thân…, thì vì tất cả cầu xin mà đều bố thí, hay là có lúc không bố
thí? Đáp: Du-già quyển
thứ 39 nói: “Nếu các Bồ-tát ý thích thanh tịnh đối với thực hành bố thí, thấy có vô lượng
sự việc lợi ích cho chúng
sinh đang hiện rõ ở trước mắt, giả
sử có người đến cầu xin từng bộ phận
của thân thể, thì không nên bố thí. Bồ-tát ấy bởi vì khiến cho ý thích đối với bố thí được
thanh tịnh, cần phải xả bỏ
sự việc lợi ích chúng
sinh hiện
rõ trước mắt mà bố
thí từng bộ phận của thân thể. Nếu như chúng
Thiên ma và chúng sinh do
ma sai khiến, đến cầu xin từng bộ phận của
thân thể Bồ-tát, thì
không nên bố thí, bởi vì tâm ác của ma ấy sợ rằng
người ấy sẽ chuốc lấy
tội lỗi phẩm Thượng. Có người ngu si điên cuồng,
đến cầu xin từng bộ
phận của thân thể Bồ-tát, thì không nên bố thí, bởi vì người ấy không trú trong tâm thuộc tự tánh, vốn không vì ý nghóa
lợi ích mà cầu xin, tâm
người ấy điên cuồng tán loạn vốn không tự tại,
có- không đủ loại lời
lẽ nói năng phù phiếm hư vọng, vì vậy không nên
bố thí từng bộ phận của thân thể. Trừ ra những
loại đã nói trên đây, thì hễ đến cầu xin từng
bộ phận của thân thể Bồ-tát, tùy theo mong muốn
ấy thảy đều bố thí, đó
gọi là Bồ-tát nên bố thí và không bố thí đối
với bên trong.
Hủy hoại thân chảy máu và tủy não-da thịt cùng bố thí.
Trong Trí Luận quyển thứ
14 nói: “Thái tử Nguyệt Quang ra khỏi thành thấy người mắc bệnh hủi, hỏi người chữa bệnh rằng: Có thể chữa trị hay không?
 Người chữa bệnh nói: Có thể chữa trị, nhưng thuốc khó có được, đó là phải dùng máu tủy của người từ khi
sinh ra đến nay không
nổi giận, hòa với thuốc
xoa vào thì lành bịnh. Bồ-tát tự nhớ lại, từ khi
sinh ra đến nay không thấy
mình có nổi giận, liền lấy máu tủy của mình để cứu giúp người ấy khiến cho lành bệnh, nguyện đạt được
Pháp thân chữa lành bệnh của
tâm. Bố thí thịt này là thứ
4
0. Trong ngũ tạng, tim riêng biệt, bốn tạng là ruột-thận-gan-phổi cùng chung bố thí.
Lại trong
Trí Luận quyển thứ 14: “Thí có ba loại: Bố thí đồ ăn thức uống… là bố thí bậc Hạ, bố thí áo quần châu báu… là bố
thí bậc Trung, bố thí
đầu-mắt-ngũ tạng… là bố thí bậc
Thượng.” Mở rộng dẫn
ra Bổn hạnh của Phật
Thích-ca, ba sự bố thí này như luận ấy nói.

Từng bộ phận của thân thể và các long xương cùng chung bố thí.
Bố thí da, trong
Trí Luận quyển thứ 16: “Như rồng độc thọ giới một ngày một đêm, bị lột da năm màu, nén chịu đựng để mà bố thí.” Lại
Kim Cang Hiếp Lộc Vương, trong kinh Bồ
Tát Bổn Duyên Tập quyển thứ tư:
“Bồ-tát ở đời quá khứ rơi vào trong loài súc
sinh mà
làm thân Nai, hai bên sườn
màu vàng ròng, sống lưng tựa như Lưu ly,
phần thân còn lại nhiều
màu xen lẫn, chủng loại khác nhau khó mà gọi tên, mắt cá chân như
Xa cừ, sừng như
Kim tinh, thân hình trang nghiêm như kho tạng bảy báu, thân
sắc
sáng rực như mặt trời mới mọc, mà làm nhiều lợi ích cho các đàn nai. Ở bên dòng
sông lớn chảy xiết, trông
thấy người sắp chết
chìm, liền lao xuống cứu người ấy. Người ấy được
cứu giúp sau đó liền
bội ân, trình với nhà vua dẫn quân lính đến muốn
giết nai lấy bộ da. Dẫn
nhà vua và quân lính đến chỗ của nai, đưa tay chỉ ra thì hai cánh tay cùng rơi xuống. Nhà vua biết bội ân liền phát tâm lễ
lạy nai sám hối lỗi lầm
mà đi.” Rộng ra như trong kinh ấy nói.
Trong bố thí ngón
tay-ngón chân, như có người luyện tập ngón
tay để cúng dường… cũng là loại ấy.
Trong 10 loại thứ năm. Bố thí móng dính liền với thịt, cũng là
cầu pháp mà bố thí.

Vì pháp mà lao mình vào trong hầm lửa bảy Nhẫn, một Nhẫn
là bảy thước, 7 lần 7
là hầm lửa 49 thước.
Vì pháp mà nhận chịu khổ đau như vua
Dũng Kiện, trong
kinh Bồ Tát Bổn Hạnh
nói: “Quá khứ có vị vua tên gọi Xứ-xà-na-di-lê,
cắt thân làm ngàn ngọn
đèn để cầu một bài kệ. Sau nhân Đế Thích hỏi
mà lập thệ nêu tâm,
liền trở lại bình phục. Mong cầu một bài kệ nói
rằng: Thường thì đều không còn, cao thì cũng rơi xuống, hội tụ có chia
li, sinh ra thì có chết.
Nhà vua nghe kệ vui mừng quên hết mọi khổ
đau, truyền lệnh tất cả
mọi người trong nước đều ghi chép học thuộc bài
kệ ấy v.v…”

Vì pháp mà rời bỏ đất nước…, như phẩm Đề-bà-đạt-đa trong
kinh Pháp Hoa nói…

Khuyên dạy chấm dứt giết hại… là Vô úy thí.

Dùng mạng sống của mình để bố thí, cho nên vượt qua tất cả.
Trí Luận nói điều mà thế gian quý trọng, tất cả chỉ có mạng
sống của
mình, bởi vì không có gì
giá trị hơn mạng sống.

Năm giới… hướng về chủ động giết hại là Pháp thí, hướng
về thụ động giết hại là Vô úy thí. Ba loại giới
là ba Tụ giới như Luật nghi…

Cứu giúp nỗi khổ hủy bỏ hình thể cũng là Vô úy thí. Trong
luận Câu Xá có sự
việc của người Hoàng môn cứu 500 con trâu hủy bỏ hình thể, nhờ vào lực của thiện căn này, cho nên hình thể người nam đầy
đủ. Đó là hiện báo.
Chữ Tứ trong văn là nghóa về phóng túng. Đầy đủ
Vô thượng Trượng phu
Chánh pháp, theo
kinh Niết Bàn: “Đừng hỏi
nam hay nữ, đầy đủ nghóa
về bốn tướng thì gọi là Trượng phu, đó là tự
mình ngay thẳng, ngay thẳng với
người khác, có thể tùy theo hỏi mà
đáp, khéo léo giải thích
về nghóa của nhân duyên. Nếu không có đủ nghóa về bốn loại tướng này, thì tuy nói là người nam mà không gọi
là Trượng phu. Nữ bởi vì ngược lại với trên vẫn gọi là
Trượng phu.”
Lại nói: “Tuy là người nữ mà có thể tin tự mình có Phật tánh thì tức là
Trượng phu. Nếu có người nam không biết tự mình có
Phật tánh, thì Ta nói người
ấy giống như là người nữ.”

Lại nói về bảy Trượng phu-Thú thì có bốn thuyết:

Dựa vào thế gian,
theo trong luận Du-già: “Trượng phu có bảy
nghóa:
1) Thọ mạng dài sống lâu;
2) Sắc tướng tuyệt vời đoan nghiêm;
Không có bệnh tật ít
phiền muộn;
4) Không phải là tôi tớ, không phải là người nữ, không phải là bán nam-bán nữ;
5) Trí tuệ mạnh mẽ sắc bén;
6) Phát ra lời nói uy thế nghiêm túc;
7) Có sự nghiệp to lớn chính đáng. Có đủ bảy pháp này gọi là Trượng phu, cũng vốn là có hướng đến.”

Dựa vào Tiểu thừa cũng
có bảy Trượng phu, tức là bảy
Hiền Thánh:
1) Tùy tín hành;
2) Tùy pháp hành;
3) Tín giải thoát;
4) Kiến đáo;
5) Thân chứng;
6) Tuệ giải thoát;
7) Câu giải thoát. Tin theo người khác mà được độ gọi là Tín hành, không tin theo người khác gọi là Pháp hành, ba quả thuộc Độn căn là do Tùy tín hành mà
đạt được. Tin chắc quả lìa xa ràng buộc gọi là
Tín giải thoát, ba quả thuộc Lợi căn là do
Tùy pháp hành mà đạt được, cho nên gọi là
Kiến đáo. Diệt tận Chánh thọ là pháp tựa như
Niết-bàn kết hợp với thân, cho nên gọi là
Thân chứng. Chướng có hai loại, một là Phiền não
chướng, hai là Giải thoát
chướng, chỉ lìa xa phiền não chướng gọi là Tuệ
giải thoát, hai chướng
đều loại trừ gọi là Câu giải thoát.

Dựa vào Đại thừa thì
Du-già có bảy Địa, cũng là nơi mà bảy
Hiền Thánh-Trượng phu thường xuyên qua lại, cho nên gọi là hướng
đến (Thú):
1) Chủng tánh địa;
2) Thắng giải hạnh địa;
3) Tịnh thắng ý lạc địa;
4) Hành chánh hạnh địa;
5) Quyết định địa;
6) Quyết định hạnh địa;
7) Đáo cứu cánh địa. Hai loại đầu là Địa tiền, một loại tiếp là Địa thứ nhất, một loại tiếp là từ Địa thứ hai đến Địa thứ bảy, một loại tiếp
là Địa thứ tám, một loại tiếp là Địa thứ chín,
loại cuối cùng là Địa thứ
mười và Phật địa nói kết hợp, bởi vì nhân
quả đều cứu cánh.

Dựa vào kinh Anh Lạc-Bổn Nghiệp…
cũng có bảy phần vị:
1) Thập Tín;
2) Thập Trú;
3) Thập Hạnh;
4) Thập Hồi Hướng;
5) Thập Địa;
6) Đẳng Giác;
7) Diệu Giác.

Ca ngợi Đức Phật xuất thế là
Pháp thí, như Đồng tử
Phổ Trang Nghiêm ca ngợi Đức Phật tiếng kệ phát ra vang khắp thế giới trước đây. Lại như trong
kinh Bi Hoa:
“Thích-ca xưa kia thực hành hạnh
Bồ-tát Đại Bi, đi khắp các nước lớn tiếng dạy rằng:
Như Lai xuất thế,
Như Lai xuất thế là rất khó gặp được…”
Trong bố thí đất đai,
Như Lai và tháp, Bồ-tát tri thức cùng cha mẹ đều là Ân điền cũng là
Kính điền, Thánh Tăng Nhị thừa là
Đức điền cũng là Kính
điền, còn lại người ăn xin là người nghèo khó…
là Bi điền cũng là Khổ điền, như vậy đều có
thể sinh ra phước cho nên
gọi là Phước điền, từ
Dụ làm tên gọi. Lại có bốn câu: Tự nhiên có là
Kính mà không phải là
Bi, như Đức Phật…; tự nhiên có là Bi mà không
phải là Kính, như chúng
sinh
nghèo khổ…; tự nhiên có cũng là Bi mà
cũng là Kính, như
La-hán nghèo khó bệnh tật…; tự nhiên có không phải là
Bi cũng không phải là
Kính, trừ ra những loại trên đây đã nói.

Trí Luận quyển thứ 14 nói: “
1) Thương xót mà bố thí, nghóa là đối với người nghèo khó hèn hạ và các súc sinh;
2) Cung kính mà bố thí, nghóa là đối với Đức Phật và Pháp thân Bồ-tát…;
3) Thương xót và cung kính mà bố thí, nghóa là đối với người già yếu-bệnh tật-nghèo khó và A-la-hán, Bích-chi Phật…

Hỏi: Bi điền
và Kính điền, loại nào là hơn hẳn? Đáp:
Có ba nghóa:
1) Nếu dựa theo cảnh là cứu giúp nỗi khổ hiện tại của họ, dựa theo tâm là tăng thêm hạnh Đại Bi làm căn bản của hạnh
Lợi tha, thì Bi điền là hơn hẳn, vì vậy trong kinh Tượng
Pháp Quyết Nghi nói: “Thậm
chí chúng sinh cúng dường Phật Bồ-tát
Thanh văn, không bằng
người bố thí cho súc sinh một chút đồ ăn thức uống…”

Nếu dựa theo cảnh thì ân
sâu đức dày, dựa theo tâm thì tiếp nhận giáo pháp-tăng them trí tuệ làm nguồn gốc của hạnh
Tự lợi, thì
Kính điền là hơn hẳn, vì vậy trong kinh Giảo Lượng Công
Đức nói: “Bố thí
súc
sinh
so
sánh đạt được gấp trăm lần…” Lại trong kinh Thậm
Hy Hữu nói: “Dùng bảy báu… cung cấp đầy khắp bốn
châu, cúng dường Thánh nhân bốn quả và sau khi
diệt độ xây tháp rất nhiều, không bằng công đức làm ra tháp Phật như hạt thóc…, thậm chí toán
số thí dụ cũng không
sánh bằng…” Lại trong kinh Đại Phẩm: “Thiên Đế
nói: Ta không phải
là không muốn cúng dường xá-lợi, nhưng xá-lợi
từ trong Bát-nhã sinh ra, cho nên thà rằng cúng
dường Bát-nhã.”
3) Nếu dựa theo Tự lợi-Lợi

tha
ngang nhau,
Bi-Trí cùng nêu ra, thì Bi điền và Kính điền bình
đẳng, như kinh Tịnh Danh
nói: “Một phần cúng dường Như Lai khó hơn được một phần bố thí người ăn xin thấp nhất, giống như tưởng đến phước
điền của Như Lai không
có gì phân biệt, chẳng khác gì Đại Bi.” Là nói đến nghóa này. Hỏi: Cùng là trong
Kính điền, như Ân điền của cha mẹ và
Đức điền của Thánh
Tăng thì hơn kém thế nào?

Đáp: Như kinh Giảo Lượng Công Đức cho đến nói: “Cúng dường trăm vị La-hán, không bằng cung dưỡng cha mẹ một đời của mình.”
Lại trong kinh A-hàm nói: “Công đức cung dưỡng cha mẹ cùng với
công đức cúng dường
Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ bằng nhau.”

Hỏi: Cùng là
Ân điền, Sư Tăng và Phụ Mẫu hơn kém thế nào?

Đáp: Kinh Xá
Lợi Phất Vấn nói: “Người tại gia thì lớn nhất
là ân cha mẹ, tiếp đến là ân
Sư Tăng; người xuất gia thì lớn nhất là
ân Sư Tăng, tiếp đến là ân cha mẹ. Bởi vì Sư đối với tại gia thì năng lực
giảng dạy kém hơn, xuất
gia thì trái lại với điều này. Lại bởi vì Sư
Tăng sinh ra và nuôi dưỡng
Pháp thân, Pháp thân thì nhiều kiếp không cùng tận; cha mẹ
sinh ra và nuôi dưỡng thân này, ân
sinh ra thân này chỉ đến bảy đời.”

Hỏi: Cùng là
Đức điền, cúng dường riêng biệt và Đại chúng
hơn kém thế nào?

Đáp: Như kinh Phạm Võng nói: “Biệt thỉnh 500 vị La-hán
không bằng thỉnh một phàm
phu Tăng theo thứ tự của chúng Tăng.”

Hỏi: Bố thí có ba sự việc, một là Điền, hai là Vật, ba là Tâm.
Ba loại này hơn kém thế nào? Đáp:
Có bốn câu:
1) Tự mình có Điền thua kém mà Tâm… hơn hẳn, như vua Kế-ni-tra lễ lạy ca ngợi tháp của Ni-kiền-tử, thì tháp ấy lập tức sụp đổ.
2) Điền hơn hẳn mà Tâm và Vật thua kém, như Đồng tử chơi đùa cúng dường đất vào trong bát của Đức Phật, lúc ấy vốn là Tâm nhẹ nhàng, do Điền hơn hẳn cho nên được làm
Thiết Luân Vương.
Điền
và Tâm hơn hẳn mà Vật thua kém, như trong Trí Luận quyển thứ chín: “Người tớ già đem nước rửa bát dâng cúng Đức Phật, cảm được 15 lần thọ
phước trời-người,
sau đạt được quả vị
Bích-chi Phật,
có người nghi ngờ Đức Phật đã vọng ngữ, Đức
Phật dùng lưỡi che kín
mặt để quyết định mối nghi ngờ ấy rằng: Khiến
cho Ni-cẩu-tử nhỏ
sinh
ra cây lớn…”
4) Ba sự đều hơn hẳn, như Long Nữ dâng cúng ngọc châu
quý báu mau chóng thành Phật… Nay trong này Bồ-tát
phát tâm bố thí
thì Bi-Trí sánh bằng hư không, phân rõ về chủng
loại sự việc của Vật
bố thí thì
cùng tận pháp giới, nêu ra Điền bố thí thì phàm
Thánh khắp nơi
mười phương. Vì vậy trong này tánh của ba
sự việc đều
sâu
thẳm không có đáy, ba
sự việc đặc biệt thù thắng không gì sánh được, ba
sự việc rộng lớn không có bến bờ, ba
sự việc dung hòa với nhau
đều không ngăn ngại.

Lại trong luận Câu Xá: “Hỏi:
Cúng dường tháp xá-lợi, trong này không có chủ động thọ dụng thì tại
sao thành
phước? Đáp:
Phước nghiệp có hai loại:
1) Xả bỏ làm chủng loại, nếu do xả bỏ vật thì phước
nghiệp này được phát
sinh;
2) Thọ dụng làm chủng loại, nếu do thọ dụng mà xả bỏ vật thì phước nghiệp này
phát sinh. Nếu cúng dường xá-lợi
thì có phước thuộc
chủng loại xả bỏ, không có phước thuộc chủng loại
thọ dụng, chủng loại là nghóa về nhân.

Hỏi: Nếu không thọ dụng thì tại sao có phước?
Đáp: Nếu
phước chủ yếu do Lợi tha mà có thể thành tựu phước, thì tu
Tam-muội Từ tâm và
Chánh kiến…, lẽ ra đều không có
phước. Như trong quán về
Từ tâm…, tuy không có chủ động thọ dụng và lợi
ích cho người khác mà
có vô lượng phước phát sinh, từ tự tâm khởi lên.”

Nay trong văn
này, trước thì cúng dường Phật, tạo dựng điện
thờ phòng ốc, thọ dụng phát
sinh phÆ°á»›c;
sau cúng dường tháp là xả
bỏ phát sinh phước.
Xá-lợi, chánh âm gọi là Thiết-lợi-la, Trung Hoa
nói là Thân, gọi là hoặc thân toàn vẹn, hoặc thân vỡ vụn của
Như Lai. Tháp, chánh âm là
Túy-đổ-ba, nhầm gọi là Thâu-bà, lại nhầm gọi
tắt là Tháp; Trung Hoa
phiên dịch là nơi Quy Tông. Dựa vào kinh Trường A-hàm: “Bốn người nên dựng tháp, một là Đức Phật, hai
là Bích-chi,
ba là Thanh văn, bốn là
Luân Vương.”
Tam tạng Chân Đế dẫn ra kinh Thập
Nhị Nhân Duyên: “Tám người nên dựng tháp:
1) Như Lai, Lộ bàn tám tầng trở lên, là tháp Phật;
Bồ-tát bảy Lộ bàn;
3) Duyên giác sáu Lộ bàn;
4) A-la-hán năm Lộ bàn;
5) A-na-hàm bốn Lộ bàn;
6) Tư-đà-hàm ba Lộ bàn;
7) Tu-đà-hoàn hai Lộ bàn;
8) Luân Vương một Lộ bàn, nếu thấy không được lễ lạy bởi vì không phải là tháp bậc Thánh.”

Lại dựa vào luật Tăng-kỳ: “Có
phàm Tăng cũng dựng tháp, đó
là Pháp sư trì luật,
Tỳ-kheo quản lý công việc, Tỳ-kheo đạo đức và
danh vọng nên xây tháp.
Đã không phải là Thánh nhân thì toàn bộ không
có Lộ bàn, nhưng làm ở
nơi ngăn che, nếu làm trái thì mắc tội.” Dựa
theo những văn này, nay
mới có người vì Thầy mà làm tháp rộng lớn,
dựng lên Lộ bàn, không
riêng gì người còn sống mang tội, mà cũng làm
liên lụy đến Tiên vong của họ, rất đáng thương xót!

Lại nói chung về tạo tháp có sáu ý:
1) Vì biểu thị cho người hơn hẳn;
2) Vì làm cho người khác phát sinh niềm tin thanh tịnh;
3) Khiến cho nêu rõ tâm có tồn tại;
4) Khiến cho cúng dường
sinh ra phÆ°á»›c;
5) Vì hạnh báo ân đến cùng;
6) Sinh phước diệt tội.

Hỏi: Như tạo
tháp Phật cảm được bao nhiêu phước? Đáp: Có hai:

Gần thì cảm được phước cõi Phạm, dựa vào trong luận Câu
Xá nói: “Cảm được phước cõi Phạm có bảy loại:
a) Nơi này chưa tạo tháp (Chi-đề) thì ở trong đó mà làm; b)
Xây dựng Tăng-già-lam; c)
Tăng đã phân tán có thể hòa hợp; d) Tu bốn Vô lượng
tâm; e) Hy sinh mạng
sống thay cho cha mẹ;
6-Tự mình xuất gia khuyên dạy người khác xuất gia; f) Kiến lập
pháp tràng. Nếu người từ trong bảy nghiệp trên đây, tùy
theo thực hiện một nghiệp, như Phạm Quang Hành Thiên thọ báo vui
sướng một kiếp. Lượng phước của cõi Phạm ấy,
dùng cọng nghiệp của
các chúng sinh cảm đến nghiệp của một Tam thiên
Đại thiên thế giới
làm lượng của một phước cõi Phạm.”

Xa thì tận cùng giới hạn của khổ được thoát khỏi
sinh tử, vì vậy trong kinh Vô
Thượng Y nói: “Cúng dường Xá-lợi của Phật nhỏ như hạt
cải…, đều được cứu cánh thoát khỏi nỗi khổ
sinh tử.” Kinh Đại Bi
cũng nói như vậy.

Bố thí trẻ nhỏ sai bảo để làm thay mọi việc, lại xả bỏ tự mình
để làm tôi tớ cho
người, đây là 10 loại thứ sáu, là Đồng sự
nhiếp. Chính
là dùng thân mình làm
tán che-làm bóng mát, che kín Như Lai thành
tựu hiếu hạnh cúng
dường. Lại chính mình làm tôi tớ bố thí chúng sinh,
là tự mình chịu thay vất
vả mệt nhọc. Lại dùng thân mình làm người
hầu hạ cho chư Phật, là
hạnh báo ân…
Bố thí đất nước và
ngôi vua. Hỏi: Nếu như có người ác cầu xin ngôi vua này muốn não hại
chúng sinh, thì lẽ nào có thể bố thí
hay sao? Đáp:
Bồ-tát thấy điều này cũng không bố thí.
Như Du-già quyển thứ 49 nói: “Nếu có người hành nghiệp tàn ác, bức bách não hại chúng
sinh thuộc phẩm Thượng,
đến cầu xin ngôi vua thì hoàn toàn không bố thí.”

Bố thí khu thành rộng lớn tô điểm trang nghiêm, là trước đây bố thí tất cả đất nước, văn này thì bố thí riêng biệt nơi
sinh hoạt của
nhà vua, bởi vì tự nghó
là khu thành rộng lớn khác với những khu thành nhỏ còn lại.
Người nữ quý báu tức là người hầu, không phải là hai
vật này cùng bố thí. Hỏi:
Những người nữ quý báu này là
Hóa hiện, hay là Thật báo? Đáp:
Là Thật báo, kinh nói đều là quả báo thuộc nghiệp thanh
tịnh của Bồ-tát mà dùng để bố thí. Lại về
sau trong phẩm
Pháp Giới nói đều là xưa kia cùng chung thiện căn mà
nguyện cầu, như người nữ
Diệu Đức…, cho nên nói
nếu có thể nhận làm quyến thuộc thì tôi bằng
lòng nhận chịu nỗi khổ
này. Lại như người nữ bán hoa…, cho nên bố thí
đều không sinh lòng phiền muộn.

Hỏi: Trong luận Du-già nói: “Nếu có chúng sinh đến cầu xin
các loại đồ vật đã
bố thí mà có thể dẫn đến vui chơi, có thể dẫn
đến vô ng- hóa, thì không nên bố thí.” Nay người nữ quý báu này đã phát
sinh
tham nhiễm của họ thì tại
sao bố thí?
Đáp: Trong
này vốn có ba nghóa, vì vậy mà bố thí:

1.Bồ-tát quán xét người đó có lợi ích mà không có tham nhiễm thì mới bố thí, nếu có lỗi của tham nhiễm thì không bố thí;
2.Người nữ này đã thật sự là quyến thuộc cùng hạnh với Bồ-tát, vì vậy không khiến cho người trước
mặt sinh tâm tham nhiễm;
3.Người nữ này có thể dùng pháp môn có lợi ích cho người ấy, vì vậy mà bố thí. Nếu trái với ba nghóa trên đây thì
không nên bố thí.

Trong Nhiếp Luận nói: “Có lợi ích cũng có nhiễm ô, không có lợi ích cũng không có nhiễm ô, có nhiễm ô mà không có lợi ích, ba loại này Bồ-tát không thực hành; có lợi ích mà không có nhiễm ô thì
Bồ-tát mới thực hành.” Luận
Du-già dựa theo ba loại trước, văn này dựa vào
một loại sau, cho nên
không trái với nhau.

Bố thí vợ con trai gái, sự việc này cũng hợp lại mà nói.
Như Tu- đạt-noa, Trung Hoa nói
là Thiện Ái, hoặc nói là Hảo Ái, như kinh Thái Tử nói đầy đủ về bố thí vợ con…
Hiện Trang Nghiêm Vương, tức
là trong kinh Đại Vương
Trang Nghiêm nói về bố thí vợ con…
Lại trong kinh Bồ
Tát Bổn Duyên nói: “Vương tử
Nhất Thiết Thí, bố thí voi chiến hùng mạnh nhất của nhà vua cho người ở nước
đối địch, nhà vua và
các quan cùng nổi giận đuổi Vương tử vào núi
Tuyết. Trong núi bố thí
hai người con rồi, Thiên Đế hóa thân đến, đi theo cầu xin người vợ được rồi vẫn nương nhờ
Vương tử. Sau lại cầu xin đôi mắt, Vương tử
sắp móc ra, người cầu xin ngăn lại nói rằng: Tạm thời vẫn
gởi nơi ông, tôi cần
đến thì lấy, ông lại không được bố thí cho người
khác. Vương tử nói: Nay
tôi đâu có thể tiếp nhận hai vật nương nhờ…”
Rộng ra như kinh ấy nói. Hỏi: Trong này vợ con đã bố thí… là Thật báo hay là
Hóa hiện, và người cầu xin ấy
cũng là Thật báo hay cũng là Hóa hiện?

Đáp: Điều này có ba nghóa:

Dựa theo Thượng phẩm, đều là Thật mà bố thí. Như:
“Vương tử Nhất Thiết Thí, bố thí con cho Bà-la-môn,
Bà-la-môn đánh đập dẫn
đi, đến dưới một tán gốc cây lại muốn đánh
đập, thần cây đưa tay định
ngăn Bà-la-môn, Bà-la-môn lập tức ngã nhào. Thần muốn đoạn mạng
người ấy, giành lấy Vương tử đưa trở về. Vương
tử thưa với thần:
Xin đừng làm hại người này, nếu tôi trở về lại
sẽ khiến cho Phụ vương tôi thực hành bố thí không đầy đủ, thì trở thành con bất hiếu. Thần liền tha
cho người ấy.” Giải thích rằng: Dựa theo đây thì
vợ con cũng là người
cùng tu Bồ-tát hạnh, thân mạng của mình hãy còn
tự xả bỏ, lẽ nào có
tránh né khổ đau mà lui sụt hay sao?

Dựa theo Trung phẩm, cùng có Thật-Hóa cũng thực hành bố
thí. Như kinh Hiền Ngu nói: “Xưa kia Phật làm vua, có
Tỳ Sa-môn hóa
làm Dạ-xoa đi theo vua cầu xin vợ con để ăn. Ăn
xong vì vua mà nói
kệ rằng: Tất cả các hành là vô thường, sinh ra
thì đều có khổ đau, năm ấm trống rỗng không có
tướng, không hề có ngã và ngã sở. Nói kệ này
rồi trở lại hình dáng vốn có, vợ con hãy còn
tồn tại.” Đây thì vợ con là Thật, người cầu xin là Hóa.
Trong kinh Tịnh
Danh nói: “Bồ-tát phần nhiều là trú trong Giải thoát bất tư nghị, vì điều phục luyện tập cho
Bồ- tát nhỏ khác làm tăng thêm hành vị của họ, mà
hóa làm người cầu xin
này. Muốn phá hết ái niệm về vợ con của Bồ-tát
này, cho nên ở trước
mặt họ thị hiện ăn thịt vợ con của họ.” Lại
trong Nhiếp luận nói:
“Vua Tỳ-tuần-đà bố thí con
cho Bà-la-môn, là
sự việc bức bách não hại
người khác, người con này là
Hóa hiện, cho nên không có gì não hại.”
Giải thích rằng: Ở đây người cầu xin là Thật, người con là Hóa. Bởi vì
Bồ-tát phương tiện mà làm mãn nguyện
của Bà-la-môn, khiến cho tâm oán thù
không còn, cho nên Hóa hiện như vậy. Lại như
Bồ-tát hóa làm nữ sắc,
bố thí cho người tham ái để điều phục khiến cho
họ lìa bỏ các dục…

Dựa theo Hạ phẩm, đều là Thật không bố thí. Trong luận
Du- già quyển thứ 39: “Bồ-tát đối với vợ con-tôi
tớ-thân thích-quyến thuộc của mình, nếu như không dùng lời lẽ chính đáng nói cho biết trước khiến họ hoan hỷ, thì cuối cùng không cưỡng bức làm cho họ ưu
sầu
phiền muộn, mà bố thí cho người đến cầu xin. Tuy
là trước phải dùng
lời lẽ oán giận nói cho biết rõ, khiến họ hoan
hỷ sinh tâm vui thích, mà
không bố thí cho kẻ làm điều hung bạo như kẻ thù, bạn ác, Dược-xoa,
La-sát. Không bởi vì hình thể và dung mạo yếu
đuối-dòng họ-trai gái của vợ con, bố thí cho người đến cầu xin để làm tôi tớ.”
Giải thích rằng:
Đây là dựa vào sơ tâm của căn cơ yếu đuối mà
nói. Vả lại, nếu cả hai

đều là Hóa
hiện thì không có ý nghóa lợi ích lẫn nhau, cho nên
không có câu này.

Bố thí nhà cửa khiến cho mọi người vui mừng có được chỗ
ở. Bố thí vườn rừng khiến cho vui mừng được
dạo chơi thích thú.

Thiết hội Đại thí là Đại hội Vô già, các loại đều bố thí, nghóa
là không giới hạn đồ
vật, không hạn chế thời gian, không ngăn cản mọi người, không có
trước-không
có sau, vốn là bình đẳng bố thí tất cả.
Như tổ chức Đại hội nơi vườn
Hương Nha… ở
văn sau, tiếng Phạm gọi
là Bàn-già-vu-sắt, Trung
Hoa nói là Vô Già Đại Hội.

Bố thí tất cả đồ dùng cung cấp cho sinh hoạt, là 10 loại thứ bảy. Bởi vì riêng biệt nói đến các loại không thể nào hết được, cho nên cuối cùng tổng quát dựa vào tất cả đồ dùng cung cấp cho
sinh hoạt mà
thành tựu Đại thí.

Trên đây là tùy theo Đại môn có 70 loại. Nếu trải qua tường tận mà nói về chủng loại không giống nhau trong vật đã bố thí, thì
theo Pháp sư Quang Thống
nói có 120 loại, thứ tự rộng ra có 84000 loại.
Vì sao? Nghóa là trong 120
sự việc đều có mười thiện nghiệp mà thực
hành bố thí cho nên trở
thành 1200 loại, lấy bảy pháp thí nhân lên trở
thành 8400 loại, trong mỗi một hạnh có đủ mười loại hồi hướng cho nên
thành ra 84000 môn thực hành bố thí.
Bảy pháp thí,
tùy theo tướng có sáu, hòa vào lý thì trở lại một
tức là bảy. Tùy theo tướng
có sáu, tâm có ba loại, tức là ba thời vui
mừng…; sự có ba loại,
tức là người bố thí-người tiếp nhận và tài vật… Hòa
vào lý có một, nghóa là
soi chiếu ba sự Không, cùng một lý vắng lặng.
Lại giải thích: Dùng bảy Thánh tài nhân lên cũng được, như một hạnh bố
thí có 84000 loại, mỗi
một hạnh khác cũng đều như vậy. Nếu nói rộng
về tướng của hành thì
vô lượng không thể nào nói hết.
Đoạn lớn thứ hai từ
“Thử Ma-ha-tát dó như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận về việc làm,
sinh tâm hoan hỷ hồi hướng, trong đó có bốn:
1) Kết luận về hạnh đã làm;
2) Từ “Hữu lai cầu giả…” trở xuống là hiển bày về hạnh thành tựu không sai lầm;
3) Từ “Bồ-tát nhó thời…” trở xuống là Độ hạnh không sai lầm mà sinh tâm Đại hoan hỷ;
4) Từ “Ma- ha-tát thiện căn…” trở xuống là lấy hạnh hoan hỷ đã thành tựu dùng để hồi hướng.
Trong phần một có hai: Một là dựa theo hạnh để kết luận về ý;
hai từ “Dó Đại Bi…”
trở xuống là dựa theo tâm hiển bày về ý.
Trong luận
Du-già quyển thứ 39 nói: “Lại các Bồ-tát đối với những người có oán thù thì dùng ý vui với Từ mà thực hành
Tuệ thí, đối
với những người có khổ đau thì dùng ý vui với Bi mà thực hành
Tuệ thí, đối với những người có đức thì dùng ý vui với Hỷ mà thực hành
Tuệ thí, đối với những người có ân thân thiện cùng chung ý thì dùng ý vui với
Xả mà thực hành Tuệ
thí, nên biết cũng gọi là trí tuệ khéo léo của
Bồ-tát mà thực hành bố thí.” Kiến lập
Như Lai luận, là trên thì nói rằng thọ
trì Bổn hạnh của chư
Phật biểu hiện rõ ràng Bổn hạnh của chư Phật, như thực hành có thể nói cho nên nói là
Lập Luận, nhờ lập ra luận này
khiến cho chúng sinh không
đoạn mất pháp thiện của Phật.
Trong phần hai là hiển bày về hạnh thành tựu không
sai lầm, có hai: Một
là trình bày về ba sự thành tựu hạnh không sai
lầm, trong đó:

Trình bày về xứng ý người cầu xin lìa xa
sai lầm về trái ý; b) Tâm bố
thí không hối hận lìa xa sai lầm về tạp niệm; c) Xả
bỏ tất cả… trình bày
về vật bố thí rộng nhiều lìa xa sai lầm thiếu thốn.
Hai từ “Ư chư chúng
sinh…” trở xuống là trở lại giải thích về
thành tựu: Đầu là giải thích về tâm bố thí trước đây, tâm
Bi sâu
sắc nhìn như con một, là mình khéo
biết mang nặng ân ấy, nhờ vào tâm đầu mà nuôi
lớn Đại Bi, nhờ vào tâm
sau mà nuôi lớn tâm Hỷ, đều nhờ vào hai tâm trên khiến cho
Bi và Hỷ không hủy hoại, dựa vào Bi-Hỷ này mở
rộng thực hành tâm Đại thí. Sau là giải thích
phần trên, nhờ vào vật dụng dồi dào thì cầu
mong xứng ý vui mừng.
Hỏi:
Vì sao
Bồ-tát thấy người cầu xin
sinh lòng vui vẻ, không
đắm nhiễm đối với tài
sản? Đáp: Bởi vì hạnh bố thí
thuần thục, bởi vì chướng ngại bố
thí không còn. Thế nào là chướng ngại bố thí? Trong luận
Du-già quyển thứ 39 nói: “Lại
các Bồ-tát đối với chướng ngại bố thí và biết rõ
ràng như thật về đối
trị. Chướng ngại bố thí có bốn:
1) Trước chưa luyện tập xuyên suốt;
2) Vật bố thí ít ỏi thiếu thốn;
3) Đắm trước vật xinh đẹp tuyệt vời;
4) Vui thích quả báo tài sản đầy đủ ở tương lai.” Một, Nếu các
Bồ-tát hiện có các loại tài vật có thể bố thí, người cầu xin đang ở trước mặt mà tâm bố thí không phát khởi, thì dùng
Chánh tuệ nhận biết mình đối với bố thí, trước đây
sơ
suất chưa luyện
tập xuyên suốt; quyết định nhận biết đời trước mình đối với bố thí chưa từng
luyện tập xuyên suốt,
khiến cho bây giờ có tài sản mà người cầu xin đang
ở trước mặt nhưng tâm
bố thí không phát khởi. Nếu đời này không mạnh mẽ bố thí, thì tiếp tục ở đời
sau nhất định rời bỏ thực hành bố thí.
Vì vậy Bồ-tát gắng sức
suy nghó chọn lựa mà thực hành Tuệ thí.

Hai, Người cầu xin đang ở trước mặt, bởi vì tài vật ít ỏi cho nên tâm bố thí không phát khởi, liền dùng Chánh tuệ
thông suốt, hoặc bởi vì
nghiệp đời
trước của mình có sơ suất, hoặc bởi vì đời
hiện tại lệ
thuộc người khác, khiến cho mình đang nhận chịu những nỗi khổ đói
khát, không có thể làm ích lợi cho tất cả
chúng sinh, giả
sử khiến cho
thực hành bố thí thậm
chí mất mạng thì hãy còn là thù thắng nhất, huống
hồ có rau lá có thể
dùng để cứu sống tính mạng? Vì vậy chịu đựng khổ
sở mà thực hành
Tuệ thí. Ba-Người cầu xin đang ở trước mặt, bởi vì vật
có thể bố thí rất tuyệt
vời cho nên tâm bố thí không phát khởi, liền
dùng Chánh tuệ thông
suốt, là mình sơ suất đắm trước, nay mình đối với khổ đau tùy tiện phát
sinh ý tưởng vui thích, bởi vì điên đảo này mà
sinh ra nỗi khổ ở tương lai. Vì vậy
Bồ-tát gắng
sức thực hành bố thí.
Bốn- Nếu Bồ-tát bố thí
rồi vui thích quả báo tài sản lợi ích to lớn ở tương lai, không mong cầu Vô thượng
Chánh đẳng Bồ-đề, thì dùng
Chánh tuệ thông suốt, là quả
sai trái thấy rõ sơ suất, quán xét các hành ấy đều là niệm niệm diệt đi, quả đã thọ dụng mau chóng diệt hết, mau
chóng chia lìa. Vì vậy diệt hết niềm vui với quả
sai trái ấy, thấy rõ thực hành bố
thí hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Hỏi: Dựa theo trong kinh này nói thì các Đại
Bồ-tát tiền của châu báu vô tận, tâm Bi lại rộng lớn, tại
sao thế gian vẫn còn có các
loại chúng sinh nghèo khổ?

Đáp: Theo kệ
trong Nhiếp Luận nói: “Thấy nghiệp làm
chướng ngại điều thiện,
ngán hiện tại và ghét điều ác, chúng sinh kia làm
hại người khác, không
cảm được Bồ-tát bố thí.”
Điều này có năm nghóa:
1) Bồ-tát thấy chúng sinh nghèo túng thì không gây ra
nghiệp ác, mà giàu có thì gây ra nghiệp ác;
2) Chúng sinh nghèo túng thì tu phước, mà giàu có thì chướng ngại điều thiện;
3) Chúng sinh nghèo túng thì tâm chán ngán sinh tử hiện rõ trước mắt, mà giàu có thì không chán ngán;
4) Chúng sinh nghèo túng thì hiền lành thân thiện, mà giàu có thì căm ghét người khác;
5) Chúng sinh nghèo túng thì không có thể làm hại mạng sống của chúng sinh, mà giàu có thì làm tổn hại mạng sống của loài khác. Bồ-tát bởi vì thấy nghóa của
năm loại này, mà khiến
cho chúng sinh trải qua trăm ngàn vạn kiếp
thường nghèo túng không
gây ra nghiệp ác nhiễm trước sinh tử, không khiến cho chúng
sinh ở trong một
sát-na giàu có phóng túng gây ra điều ác
rơi vào bốn nẽo khổ đau.
Vì vậy trong luận Du-già nói: “Đối với các
hữu tình có an lạc mà
không có lợi ích, thì Bồ-tát cũng không làm.”

Trong phần ba là sinh tâm Đại hoan hỷ, có hai: Đầu là niềm vui thù thắng nuôi dưỡng
thần sắc, trong luận
Trượng Phu Hạnh nói: “Bồ-tát vui mừng vượt quá niềm vui của thế gian và niềm vui
Niết-bàn của Nhị
thừa.” Trong
này chỉ hướng về cao hơn thế gian. Sau từ
“Ma-ha-tát…” trở
xuống là nhờ vui mừng tăng thêm tâm, có năm câu có thể biết.

Trong phần bốn là hồi hướng thiện căn, có mười câu-năm cặp:
1) Khiến cho lìa xa nhân quả khổ đau;
2) Khiến cho đạt được nhân quả vui sướng, hai cặp trên đều trước là nhân-sau là quả;
3) Cảnh và tâm;
4) Tâm và hành;
5) Phần và mãn. Trên đây là mở rộng hiển bày về tướng của hành, tức là phần hồi hướng Chúng sinh và Bồ-đề, xong.
Từ đây trở xuống là phần 3 trình bày về hạnh rất phù
hợp với Chân, tức là hồi hướng
Thật tế. Lại trước là trình bày về hạnh rộng lớn, từ đây trở xuống là làm
sáng tỏ về hạnh rất
sâu xa, trong đó có hai: Một là hiển bày về hạnh thuộc tâm
Vô niệm, tổng quát trình bày về
hồi hướng mà không
ràng buộc vướng mắc; hai từ “Ma-ha-tát…” trở
xuống là trình bày về
đối với cảnh không nhiễm trước, riêng biệt hiển bày
về hồi hướng mà không
ràng buộc vướng mắc.

Trong phần một, lúc hồi hướng như vậy là nhắc lại hạnh
trước đây đối với
thân… không ràng buộc vướng mắc, tổng quát trình bày
về chủ động hồi hướng
ba nghiệp Vô niệm mà thành tựu hồi hướng.
Sau là riêng biệt hiển
bày về tướng của Vô niệm, trong đó có hai: Trước
là trình bày Vô tưởng
về Ngã-Pháp…, sau là trình bày Vô niệm về nghiệp báo…

Trong phần trước: Một, chín câu trình bày Vô tưởng về
Ngã. Thiền đầu, người xưa nói: Đây gọi là thấy tất cả chúng
sinh
có Hình-có Thể. Nay lại hỏi Tam tạng
Pháp sư nói rằng: Ở đây dịch là Sinh. Hai từ “Vô hữu tưởng…” trở xuống là mười câu-năm cặp trình bày Vô tưởng
về Pháp:
1) Lìa xa Tưởng về pháp có-không;
2) Lìa xa Tưởng về pháp lưu chuyển ba đời;
3) Lìa xa Tưởng về Thường-Vô thường;
4) Lìa xa Tưởng về ba cõi-không phải ba cõi;
5) Cũng lìa xa Tưởng-lìa xa Vô tưởng. Trên đây là trình bày về Vô tưởng chủ động duyên vào tự Thể.

Phần sau là trình bày về Vô niệm chủ động duyên
vào nghiệp dụng, nghóa là không bị Tưởng và Niệm làm cho ràng buộc, gọi là không ràng buộc vướng mắt. Qua lại rỗng rang vô ngại mà thành
tựu hồi hướng, cho nên
nói là hồi hướng tâm giải thoát không ràng
buộc- không vướng mắc.
Trong đó, suy nghó và báo của suy nghó là dựa
theo ý nghiệp, nhân của
nghiệp và nghiệp báo là dựa theo thân-ngữ
nghiệp. Vả lại, nghiệp dựa theo nghiệp tương tự,
suy nghó dựa theo
Thể của nghiệp. Như vậy Vô tâm không có Vô tâm mà thực hiện hồi hướng
Đại thí như trước đây.

Từ đây trở xuống trình bày về đối với cảnh không nhiễm trước,
riêng biệt
trình bày về hồi hướng. Trong đó có bốn:
1) Riêng biệt trình bày về không vướng mắc;
2) Từ “Ma-ha-tát nhược ư…” trở xuống riêng biệt trình bày về không ràng buộc;
3) Từ “Nhược ư thử pháp nhi bất phược…” trở xuống riêng biệt trình bày về tâm giải thoát;
4) Từ “Ma- ha-tát dó thử nhất thiết thiện căn…” trở xuống riêng biệt trình bày
về hồi hướng.

Trong phần một, lúc hồi hướng như vậy, là cần phải giải
thích riêng biệt, như lúc hồi hướng Đại thí đã thực hiện trước đây,
thường không duyên vào
niệm, vì vậy nay tiếp tục tổng quát để nhắc lại.
Sau là riêng biệt hiển bày về không vướng mắc, trong đó Nội là
sáu
căn, Ngoại là sáu trần,
Duyên là chủ động duyên, Cảnh là thụ động
duyên, còn lại có thể biết.
Trong phần hai là không ràng buộc, trước tiên nhắc lại phần
trước, không vướng mắc
là dựa vào phần trước phát khởi phần sau, nghóa
là tâm nhiễm trước đối
với cảnh gọi là vướng mắc, cảnh quấn lấy tâm
gọi là ràng buộc. Trong
kinh Lăng Già nói: “Tâm ràng buộc đối với cảnh giới, trí hiểu rõ về tưởng tùy chuyển.” Là nói đến nghóa này. Bởi vì
hết sức tham đắm vào
cảnh, cho nên tâm bị cảnh ràng buộc không được tự tại, nay đều không có. Ở trong năm Uẩn đều có ba nghóa:
1-Không ràng buộc Sắc là tổng quát hiển bày về không ràng buộc gì;
2-Không ràng buộc Sắc thủ là riêng biệt dựa theo phàm phu chấp thủ năm Uẩn;
3- Không ràng buộc Sắc diệt là riêng biệt dựa theo Thánh nhân không
giữ lấy năm Uẩn. Lại
không ràng buộc-không giữ lấy là không ràng buộc về Hữu; không ràng buộc Diệt là không ràng buộc về Vô; cả hai
không có chấp trước,
không bị ràng buộc.
Trong phần ba là trình bày về tâm
giải thoát, trong đó có ba: Đầu là nêu ra, nghóa là nhắc lại phần trước phát khởi
phần sau, đối với pháp này là đối với pháp
Hữu-Vô thuộc năm
Uẩn trước đây. Bởi vì hiểu rõ
nguồn gốc pháp ấy vốn
tự nhiên không có ràng buộc, tánh vốn giải thoát
chứ không phải là nay
mới giải thoát, cho nên nói là cũng không có gì giải thoát. Tiếp là nêu ra,
sau là
giải thích.
Trước riêng biệt giải thích nguyên cớ về tánh giải thoát ở trong pháp có trước đây, nghóa là pháp có này
tức là không có sinh
diệt…, vốn là tánh tự nhiên giải thoát. Sau từ
“Bồ-tát như thị kiến pháp…” trở xuống là riêng biệt giải thích nguyên cớ về
tánh giải thoát ở trong
pháp không có trước đây. Thấy pháp là Phi pháp bởi vì đoạn dứt ngôn ngữ, nhắc lại pháp có ngay nơi tánh tự nhiên không
có trước đây; Phi pháp
là pháp, phát khởi phần sau đối với không có mà cũng lìa xa tánh, bởi vì không trú vào không có cho nên không ngăn ngại có.
Trước thì có mà không có, cho nên giải thoát đối với có; ở đây thì không có mà không phải không có, cho nên giải thoát đối với
không có. Bởi vì không
hủy hoại nghiệp cho nên tu hành đầy đủ, không đắm vào Không cho nên không giống như
Nhị thừa, vì vậy cầu Nhất thiết
trí không lui sụt, những
câu còn lại có thể biết.
Trong phần bốn là riêng biệt giải thích về hồi hướng:
Trước là tổng quát, nghóa là hướng về
Chủng trí, từ “Dó hóa chúng
sinh…”
trở xuống là riêng biệt
hiển bày. Trước là hỏi về phát khởi, sau là đáp
để hiển bày có mười
câu, đều là giáo hóa chúng sinh thành tựu những
sự việc này, cho nên
gọi là hồi hướng, có thể biết. Trên đây là phần
hồi hướng Thật tế,
xong. Tổng quát là đoạn lớn thứ hai dựa vào thân khởi hạnh, xong.

Từ đây trở xuống là phần ba phân rõ về hạnh đã
thành tựu lợi ích, trong đó có hai:
1) Lúc chính thức thành tựu hồi hướng lợi ích thuận theo nhân quả như nhau. Câu riêng biệt có chin: Đầu là hai câu thuận theo Phật Bảo-Pháp Bảo như nhau; tiếp là hai câu
Nhân trí-Quả trí như
nhau; tiếp là hai câu
Tâm-Cảnh tùy theo sự như nhau, nói nghóa là nghóa
về cảnh; tiếp là hai câu
Tâm-Cảnh hòa vào lý như nhau; sau cuối là một câu thuận theo pháp giới thanh tịnh như nhau.
2) Từ đây trở xuống trình bày về lợi ích khiến cho mình và người tiến vào pháp sau khi đã hồi hướng,
 trong đó cũng có chín câu: Một câu đầu là lợi ích về Lợi tha, tám câu còn lại là lợi ích thuộc
Tự hành, nghóa là xứng với pháp mà hiểu rõ cho nên không có
sai trái. Lại không rời bỏ
Chân Không, không
trái với duyên Hữu,
Không-Hữu vô ngại cho nên nói là pháp lực đầy đủ.

Từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận về tên gọi. Trên
đây là hạnh của phần vị, xong.
Từ đây trở xuống là phần thứ hai trình bày về quả đã thành tựu của phần vị. Câu riêng biệt có mười:
1) Ngoài được Phật gia hộ;
2) Trong được pháp kiên cố;
3) Tiến lên tu trí Phật;
4) Khéo léo hiểu rõ nghóa lý;
5) Chiếu rọi thông hiểu lý tánh;
6) Đạt được thiện căn kiên cố;
7) Sở nguyện đầy đủ;
8) Đạt được pháp hành thuận theo kiên cố không thể hủy hoại;
9) Đạt được nguyện kiên cố;
10) Tự tại đối với pháp. Lại mười loại này hướng về lợi ích của hạnh trước đây phối hợp giải thích, có thể biết.
Trong đoạn lớn thứ hai là kệ tụng, có hai: Trước là tựa về nhân
duyên thuyết kệ, sau là chính thức hiển bày về kệ.
Trong phần trước nương theo Phật lực là trình bày về chỗ dựa phát khởi
thuyết giảng. Sau là phân rõ dựa vào lực mà thành tựu, có mười câu:
1) Quán xét mười phương là hiển bày mười phương cùng thuyết giảng;
2) Quán xét Đại chúng là trình bày về thuyết giảng đã phủ khắp;
3) Quán xét pháp giới là trình bày về nghóa đã thuyết giảng;
4) Tiến sâu vào… là hiển bày về giáo chủ động thuyết giảng;
5) Tu vô lượng… là hiển bày về tâm phát khởi thuyết giảng;
6) Giác ngộ… là trình bày về trí thuyết giảng mở mang giác ngộ;
7) Hòa vào công đức của Phật là trình bày về đạt được đức thuyết giảng của Phật;
8) Đến được… là trình bày về đạt được thân thuyết giảng của Phật;
9) Phân biệt… là trình bày về hiểu rõ căn hợp thời;
10) Tùy thuận Pháp thân… là trình bày về dựa
vào Chân phát khởi Ứng,
Ứng phát khởi thuận theo Chân, vì vậy ngay
nơi thuyết giảng mà
thường không thuyết giảng.
Trong phần chính thức kệ tụng, bốn câu làm
thành tụng, có 41 kệ, chỉ tụng về hạnh của phần vị chứ không tụng về quả của phần vị.
Trong đó phân ba: Một, có
năm kệ tụng về thân làm chỗ dựa của hạnh
trước đây; hai, từ
“Bồ-tát cụ hành bố thí…” trở xuống có 30 kệ rưỡi tụng
về dựa vào thân mà
khởi hạnh trước đây; ba, từ “Tùy thuận tư duy…”
trở xuống có năm kệ
rưỡi tụng về hạnh đã thành tựu lợi ích trước đây.

Ngay trong phần hai đã khởi hạnh: Đầu
là 19 kệ tụng về sơ
lược nêu ra sự việc
thực hành và mở rộng phân rõ về tướng của
hạnh trước đây, tức là hồi hướng
Chúng sinh và Bồ-đề, đối với 70 môn bố thí khéo léo tóm lược không nói tất cả.
Từ “Bồ-tát quán
sát nhất thiết pháp…” trở xuống là 11 kệ rưỡi tụng về hạnh rất hợp với
Chân trước đây, tức là hồi hướng
Thật tế, trong đó: Đầu là hai kệ rưỡi tụng về tổng
quát trình bày Vô niệm
hồi hướng trước đây; tiếp từ “Tâm bất phân biệt…” trở xuống là bảy kệ rưỡi riêng biệt tụng về đối với có nhưng
không vướng mắc mà
tánh tự nhiên giải thoát trước đây; sau cuối từ
“Bồ-tát tuy phục
suy cầu…” trở xuống là hai kệ riêng biệt tụng về đối với
không có nhưng không trú
vào mà tự nhiên giải thoát trước đây. Văn còn lại có thể thấy.
* Thứ bảy là Đẳng
Tâm Tùy Thuận Nhất Thiết Chúng Sinh Hồi Hướng, ở
trong trường hàng cũng có hai: Trước là hạnh của phần
vị, sau là quả của phần vị.

Trong phần trước cũng có ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.
Ngay trong giải thích phân ba:
1) Trình bày về tất cả tướng của hạnh đã tu;
2) Từ “Ma-ha-tát ly cấu thanh tịnh Bồ-đề tâm…” trở xuống là thâu nhiếp để hồi hướng;
3) Từ “Ma-ha-tát hành như thị hồi hướng thắng xuất…” trở xuống là trình bày hồi hướng đã thành tựu lợi ích.
Trong phần một có hai: Một,
trình bày về thiện căn đã tu; hai, từ

“Ma-ha-tát hành như thị đẳng…” trở xuống là trình bày về thành tựu
đức nhờ vào tu. Lại
giải thích: Trước là trình bày về Thể của hạnh,
sau
là trình bày về Dụng của hạnh.
Trong phần một có 30 câu, đầu là 10 câu nói thẳng về
Thể của thiện, tiếp là 10
câu dựa theo cảnh để trình bày về thiện căn, sau là
10 câu dựa theo mười Độ
hành để trình bày về thiện căn.

Pháp sư
Quang Thống nói: 10 câu đầu là thực hành phát ra từ
bên trong, 10 câu tiếp là
sinh khởi thuận theo duyên phát ra, 10 câu sau
là công phu thành tựu thuộc về mình.

Trong 10 câu đầu tăng trưởng ba phẩm thiện thì có hai nghóa:
1) Ba phẩm khác nhau, tăng trưởng khác nhau khiến cho cùng mở rộng…;
2) Đối với một thiện căn lúc bắt đầu tu tập xông ướp vào Thức mới trở thành chủng tử gọi là Hạ phẩm tăng lên,
 từ chủng tử phát sinh hiện rõ khiến cho càng tăng trưởng gọi là Trung phẩm tăng lên, trở lại xông
ướp thành tựu chủng
tử gọi là Thượng phẩm tăng lên.

Lại giải thích: Phát khởi thực hành tùy theo
sự việc gọi là
Hạ phẩm tăng lên, khiến cho thực hành tiến vào lý tăng thêm thành tựu gọi là Trung phẩm tăng lên, dựa vào lý khởi hạnh khiến cho xứng với lý rộng lớn gọi là
Thượng phẩm tăng lên.
Từ “Vô lượng đẳng…” trở xuống đều là
sai biệt trong thiện thuộc
Thượng phẩm.
4) Hành đức không phải một gọi là vô lượng thiện;
5) Tất cả giống như pháp giới gọi là thiện rộng lớn;
6) Tùy duyên không giống nhau gọi là đủ loại thiện;
7) Thể sâu sa khó suy lường;
8) Diệu dụng khó nghó bàn;
9) Kể ra không thể nào cùng tận;
10) Không còn ranh giới. Trong 10 câu tiếp là dựa theo cảnh:
1) Nhờ mong cầu cảnh của Phật mà phát sinh đạt được thiện;
2) Nhờ mong cầu cảnh của Pháp;
3) Nhờ học theo hạnh của Tăng;
4) Nhờ mong cầu thiện hữu. Dựa vào bốn cảnh trên mà phát
sinh thiện căn thuộc Trí.
5) Duyên với
chúng sinh làm cảnh phát
sinh thiện căn thuộc Bi;
6) Khiến cho Bi-Trí dẫn
dắt lẫn nhau gọi là cảnh
phương tiện;
7) Đều cùng nhau hợp với Chân gọi là cảnh vi diệu
cảnh;
8) Thiện thuộc Tự lợi gọi là bên trong;
9) Thiện thuộc Hóa tha gọi là bên ngoài;
10) Tổng quát kết luận về nhiều môn gọi là vô lượng công đức, bởi vì đều phát sinh thiện căn.
Trong 10 câu
sau dựa theo cảnh của mười Độ hành mà phát
sinh thiện căn: 6 câu đầu có thể biết;
7) Phương tiện khéo léo nhận biết tâm khí chúng sinh;
8) Đại nguyện tích tập các công đức thanh tịnh;
9) Niệm lực vượt qua nghiệp dụng;

10) Đại trí. Từ “Phổ bỉ…” trở xuống là trình bày trong phần hai về đức đã thành tựu, cho đến giải thích xong là nhắc lại phần trước phát khởi
phần sau; từ “Tắc
năng…” trở xuống là chính thức trình bày về đã thành tựu, trong đó có hai: Trước là trình bày về đức của Thể tròn vẹn đầy đủ;
sau từ “Phổ năng…”
trở xuống là trình bày về tác nghiệp thù thắng.

Trong phần trước có hai: Trước
là thành tựu đức thuộc Tự
phần, có hai:
Trong Tự lợi, một là Nhẫn, hai là Giới như khéo léo điều phục…, ba là Tuệ như vónh viễn lìa xa…, có thể làm… là kết luận về ba
hạnh thành tựu pháp khí;
rộng khắp vì… là Lợi tha. Sau từ “Thường vi…”
trở xuống là trong phần
thành tựu đức thuộc Thắng tiến: Trước là nhờ
Đức Phật che chở gia hộ mà phát sinh thiện-đầy
đủ nguyện; sau là nhờ
rất vui với Phật tâm mà
đạt được giống như Phật.

Trong phần sau là tác nghiệp thù thắng, có hai: Một, Trên là nghiệp cúng dường Đức Phật, nghóa là thực
hành cúng dường thuận
với lý, không mong cầu… là lìa xa lỗi lầm.

Hai, Từ “Nhất
thiết thiện căn…” trở xuống trình bày dưới là ng- hiệp cứu giúp
chúng sinh, trong đó có hai:
1) Đầy đủ đức Hóa tha.
2) Từ “Ư sinh tử trung…” trở xuống là thành tựu đầy đủ hạnh Hóa tha, trong đó có ba: a) Khiến cho vượt khỏi sinh tử, đưa vào Đại trí Bồ-đề;

Từ “Phổ thị…” trở xuống là khiến cho rời bỏ
trần nhiễm, đạt được
công đức rất thanh tịnh; c) Từ “Linh nhất thiết
chúng sinh…” trở xuống là tổng quát kết luận về lợi ích. Trên đây là trình bày về hạnh đã
hồi hướng, xong.

Từ đây trở xuống là phần hai thâu nhiếp để hồi hướng, trong đó có
bốn: Một, Dựa theo
tâm Bồ-đề thâu nhiếp thiện căn. Hai, Từ “Ma-ha-
tát phục tác thị niệm như thử thiện căn nhược
hữu quả báo…” trở xuống là dùng thiện căn trước đây hồi hướng thành tựu đầy đủ hạnh,
nghóa là giúp cho lúc tu
tập thực hành, các duyên không thiếu hụt, xứng với nguyện mong mỏi ban đầu mà thành tựu
Đại hạnh. Ba, Từ “Dó thử
thiện căn niệm niệm hồi
hướng…” trở xuống là dùng thiện căn này dựa
vào hạnh, mà phát khởi
thiện căn hồi hướng chúng sinh khiến cho đạt được Bồ-đề. Bốn,
Từ “Tu hành như thị hồi hướng thời bất trước
nghiệp…” trở xuống là
trình bày về hành rất phù hợp với Chân, thực hành
không có gì thực hành,
hồi hướng không có gì hồi hướng. Trước thì hồi
hướng Chúng sinh và
Bồ-đề, đây thì hồi hướng Thật tế. Lại trước thì dùng
Trí thuận theo Bi thành tựu
hồi hướng rộng lớn, sau thì dùng Bi thuận
theo Trí thành tựu hồi
hướng rất sâu xa.

Trong phần một: Trước là nêu ra Đại tâm đã thâu nhiếp
thiện căn; từ “Tác thị
niệm…” trở xuống là hiển bày về tướng của thiện căn
đã thâu
nhiếp, trong đó có mười câu, năm câu trước dựa theo Thể
của tâm phát khởi
thiện, năm câu sau dựa theo nghiệp dụng của tâm thành tựu thiện.

Trong năm câu trước: Một
câu đầu là tổng quát. Bốn câu sau
là riêng biệt:
1) Bắt đầu thuộc Tự phần,
2) Cuối cùng thuộc Tự phần,
3) Bắt đầu thuộc Thắng tiến,
4) Cuối cùng thuộc Thắng tiến. Trong năm câu về nghiệp dụng: Một
câu đầu là tâm này lấy
Đại Bi làm căn bản,
thương xót chúng sinh mà phát khởi thiện; hai câu tiếp là vì chúng
sinh cho nên cầu trí của quả Phật, một là bắt đầu, hai
là cuối cùng; hai câu
sau cuối là tập trung phát khởi nhân ấy, một là hành
rộng lớn xứng với
pháp giới, hai là hành kiên cố không lui sụt.
Từ đây trở xuống là phần hai hồi hướng thiện căn trước đây để thành tựu đầy đủ hạnh, trong đó:
1) Tổng quát nêu rõ về hạn kỳ cần thiết, nghóa là tâm Bồ-đề này đã thâu nhiếp thiện căn, nếu quyết định có quả không trống
rỗng, thì mình thực hành hạnh Bồ-tát đến tận cùng đời kiếp vị lai, không rời bỏ chúng
sinh… Điều này có
hai ý: Một, bởi
vì thiện căn này như ý
nguyện của mình thành tựu quả lợi ích cho
chúng sinh; hai, bởi vì
thiện căn này đã đạt được quả thuộc y báo(Y quả), kh- iến cho mình tu hành thâu nhiếp
chúng sinh, thì duyên không có
gì thiếu hụt, vì thế cho nên mình có thể tu
Bồ-tát hạnh đến tận cùng thời gian
vị lai. Văn này chọn lấy
ý sau.
2) Từ “Linh vô số thế giới…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về hạnh đã thành tựu đầy đủ, trong đó có hai: Một, hồi hướng thành tựu hạnh bố thí cung cấp
tiền của; hai, từ
“Phục thứ…” trở xuống là
khiến cho thành tựu hạnh bố thí phát sinh tiền của. Hỏi: Sao không hồi hướng khiến cho thành tựu các hạnh khác,
mà lại thành tựu hạnh
Tuệ thí này? Đáp: Trong này
Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-tát làm lợi ích
cho chúng sinh, bởi vì hạnh bố thí này có đủ có ba nghóa:
1) Tiền của… hiện có thêm nhiều khiến cho lìa xa khốn khổ;
2) Nhờ bố thí thâu nhiếp khiến cho tiến vào pháp thành tựu hạnh;
3-Bởi vì thiện căn đã phát sinh hồi hướng bố thí chúng sinh, hạnh khác không đầy đủ cho nên chỉ riêng hạnh này. Trong phần một là bố thí cung cấp tiền của, có bốn:
1) Cung cấp tiền của rộng rãi, vốn có 11 sự việc;
2) Trình bày về người cầu xin rộng rãi, vốn là tất cả chúng sinh;
3) Trình bày về tâm bố thí rộng rãi;
4) Thời gian bố thí rộng rãi, vốn là tận cùng vị lai. Ngay trong tâm bố thí, có 11 loại:
1) Không chọn lựa đối với oán thù, gọi là tâm bình đẳng;
2) Không chú trọng đối với thân thích, gọi là tâm không thiên vị;
3) Không vì danh tiếng thế gian;
4) Tâm tư vui thích không phải là cưỡng ép, cho nên gọi là không phiền
muá»™n;
5) Bố thí rồi xứng với niềm vui, cho nên không có giữa chừng hối hận;
6) Tập trung nghó đến Bồ-đề;
7) Không xen tạp Vô minh, cho nên nói là thanh tịnh;
8) Tâm tư không có ý niệm gì khác, cho nên nói là nhất hướng;
9) Đại Bi hiện rõ trước mắt;
10) Điều phục lìa xa Hữu vi;
11) Tiến vào an trú Vô vi. Trong phần hai là bố thí phát sinh tiền của, có ba: Một, Tiền của rộng rãi cũng có 10 sự việc.
Bà-la Mã Vương là Tam tạng nói, chánh
âm nói đầy đủ là Bà-la-ha, Trung Hoa gọi là Vân Mã, nghóa là đi lại giữa mây trời nhanh chóng không ngăn ngại, nhân
đó lấy làm tên gọi.
Lại nói trong biển rộng có một châu tên gọi
Bạt-đà-la, ngựa này
thường ở trong đó, luôn luôn phát ra tiếng nói rằng: Ai
muốn ra biển, ta
sẽ đưa đi. Ngựa này chính là
Long Mã, nhưng có tâm
Từ, hoặc là do Bồ-tát hóa hiện. Hai,
Từ “Tu tập…” trở xuống là dựa theo thời gian-nơi chốn
đối với người trình
bày về thực hành bố thí rộng lớn.

Ba, Từ “Ma-ha-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là
trình bày về tâm bố thí hoàn toàn
thanh tịnh, có 14 loại tâm:
1) Không đắm vào nhân bố thí;
2) Không mong cầu quả bố thí;
3) Qua lại rỗng rang lìa xa ràng buộc;
4) Rộng rãi che phủ khắp nơi;
5) Tương ưng với lý. Năm loại trên là tâm tiến vào lý.
6) Khéo léo bố thí thâu nhiếp chúng sinh;
7) Bình đẳng bố thí không hề thiên vị;
8) Không kể đến thân mạng;
9) Keo kiệt bủn xỉn đã phá trừ, gọi là tâm khéo léo điều phục;
10) Tâm nhất định làm lợi ích cho chúng sinh;
11) Không phiền muộn đối với chúng sinh. Sáu loại trên là tâm thâu nhiếp chúng sinh. Ba loại sau là tâm mong
cầu quả.

12) Mong cầu quả không rời bỏ, gọi là an trú…;
13) Quán xét hiểu rõ về pháp;
14) Hướng đến tiến vào quả Phật. Lại năm loại trước là tâm lìa xa hữu vi, sáu loại tiếp theo là
tâm thâu nhiếp chúng
sinh, ba loại sau là tâm mong cầu Phật quả. Lại năm loại trước là bảo vệ phiền não,
sáu loại tiếp theo là bảo vệ tâm hẹp
hòi của Nhị thừa, ba
loại sau là bảo vệ tâm nhỏ bé của Nhị thừa. Lại năm loại trước là tâm
thẳng thắn,
sáu loại tiếp theo là tâm Đại Bi, ba
loại sau là tâm sâu xa.
Trên đây là phần hồi hướng thành tựu đầy đủ hạnh, xong.
Trong phần ba là hồi hướng chúng
sinh khiến cho đạt
được Bồ- đề, đây tức là
Xả thí. Trí Luận quyển thứ 14 nói: “Bố thí có hai loại:

Người thế gian có thể xả bỏ tiền của mà không có thể
xả bỏ bố thí;

Người xuất thế gian có thể xả bỏ tiền của cũng có
thể xả bỏ bố thí.”

Văn trong này
dài, phạm vi giới hạn khó thấy, nhưng mỗi một câu
đều là một hạnh, cũng
không thể nào phân biệt.

Nay tạm thời dựa vào Pháp sư Viễn phân làm hai phần:
1) Trình bày về hồi hướng tâm Từ;
2) Từ “Như thị Bồ-tát lân mẫn dó…” trở xuống
là trình bày về hồi hướng tâm Bi.

Trong phần một tổng cọng có 118 câu phân hai: Một, 80 câu
đầu là hồi hướng
chúng sinh khiến cho tu nhân hướng về quả; Hai, từ
“Linh chúng sinh nghệ chư
Phật sở văn pháp…” trở xuống là 38 câu hồi
hướng chúng
sinh khiến cho nhân tròn vẹn-quả đầy đủ. Lại có thể trước
là trình bày về Tự
phần, sau là trình bày về Thắng tiến.
Trong mục một
có sáu:
1) Khiến cho tu thiện hướng đến hạnh thuộc phần vị Hiền Thủ;
2) Từ “Linh đắc bất khả hoại chánh trực chi tâm…” trở xuống là khiến cho tu hành thành tựu trong phần vị Chủng tánh;
3) Từ “Linh cụ túc Bồ-tát vô lượng thanh tịnh…” trở xuống là kh- iến cho tu hành thành tựu trong phần vị Giải hạnh;
4) Từ “Linh thành tựu thanh tịnh bình đẳng thí…” trở xuống là khiến cho tu các hạnh như mười Độ… trong phần vị Thập Địa;
5) Từ “Linh tu bình đẳng hạnh cụ chư thiện…” trở xuống là khiến cho tu hành ở trong phần vị Đẳng Giác;

6) Từ “Linh hiển hiện nhất thiết nghiêm tịnh…” trở xuống là khiến cho thành tựu hạnh thuộc quả Phật.
Trong mục hai là hạnh Thắng tiến, nhân tròn vẹn-quả đầy đủ, có
bốn:
1) Khiến cho chúng sinh tròn vẹn đầy đủ nhân hạnh đối với phần vị Chủng tánh;
2) Từ “Linh ư chư pháp trung đắc ly hư vọng…” trở xuống là khiến cho tròn vẹn đầy đủ nhân hạnh trong phần vị Giải hạnh;
3) Từ “Linh tất đắc Bồ-tát bất thối…” trở xuống là khiến cho tròn vẹn đầy đủ nhân hạnh trong phần
vị Thập Địa;
4) Từ “Linh đắc Tát-bà-nhã thành đẳng…” trở xuống là trình bày về thành tựu đầy đủ Phật quả. Trên đây là phần hồi hướng tâm Từ, xong.

Trong phần hai là hồi hướng tâm Bi, có ba: Một,
Khiến cho lìa xa Hoặc nghiệp mà thành tựu
khổ hạnh; Hai,
Từ “Linh chúng
sinh an trú…” trở xuống là khiến cho lìa xa ồn ào đạt được yên lặng thành tựu
tâm hạnh bình đẳng; Ba,
Từ “Dó như thị đẳng…” trở xuống là tổng quát
kết luận về tướng lợi
ích của hồi hướng, có thể biết. Trên đây là phần
hồi hướng rộng lớn, xong.

Từ đây trở xuống là phần bốn trình bày về hồi hướng rất
sâu
xa, tức là hồi hướng
Thật tế. Trong đó có hai: Đầu là trình bày về hiểu
rõ Sự giống như Lý,
hồi hướng mà không có gì hồi hướng; sau từ
“Ma-ha- tát như thị hồi
thời tác như thị…” trở xuống là trình bày về dựa vào Lý phát khởi
Sự, không có hồi hướng mà hồi hướng. Lại đầu
tức là lìa xa có,
sau tức là lìa xa không có. Lại đầu là Tự hành giống với Như,
sau
là khiến cho người khác
cũng giống với mình. Lại đầu chính là hồi hướng
Thật tế, sau là hồi hướng bằng việc làm.

Trong phần đầu, tu hành như vậy lúc hồi hướng, là nhắc lại
hồi hướng rộng lớn
trước đây; sau là hiển bày về rất sâu xa, có mười
câu- năm cặp:
1) Dựa theo nghiệp báo của mình là một cặp về nhân và quả;

2) Dựa theo Chánh báo của mình là một cặp về thân và tiền của;
3) Dựa theo Y báo là một
cặp về phương hướng và xứ sở;
4) Dá»±a theo
chúng sinh đã hóa độ
là một cặp về có và không có;
5) Dựa theo pháp
hành đã hồi hướng là
một cặp về tổng và biệt. Đều nói không vướng mắc
là không hề có phân
biệt, đều nói hồi hướng là trình bày về thời gian hồi hướng rộng lớn trước đây.
Thường xuyên như vậy không vướng mắc
mà luôn luôn làm sự
việc thực hành hồi hướng ấy, cho nên cũng không
thể không có hồi hướng ấy.

Trong phần sau
là trình bày về tu hồi hướng bằng việc làm,
như vậy lúc hồi hướng
là nhắc lại hồi hướng rất sâu xa trước đây;
sau hiển bày bằng việc làm có năm câu: Hai câu đầu là nêu ra, hai câu tiếp
theo là giải thích, một
câu sau cuối là phân rõ phần vị. Trong đó:
1) Phật trí là Bồ-đề;
2) Tịnh tâm là Niết-bàn.
3) Giải thích về câu đầu;
4) Giải thích về tâm thanh tịnh;
5) Phật gia là phần vị. Trên đây là phần trình bày về hạnh hồi hướng, xong. Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ ba trình bày về lợi ích của
hồi hướng, tức là
hạnh này đã thành tựu đức rộng lớn. Trong đó có bốn:
1) Thành tựu đức của nhân rộng lớn;
2) Từ “Ma-ha-tát tu hành thời thành tựu…” trở xuống là trình bày thành tựu đức của quả thanh tịnh;
3) Từ “Ma-ha-tát như thị hành hồi bất vi…” trở xuống là trình bày về thành tựu đức tự tại trái với hiểu biết;
4) Từ “Ma-ha-tát đắc bình đẳng nghiệp…” trở xuống là trình bày về đạt được đức bình đẳng không còn trái nhau.
 Lại một là thành tựu đức hiện tại, hai là thành tựu đức vị lai, hai loại này là một cặp về nhân
quả; ba là hiểu rõ về tướng, bốn là đạt được
chân thật, hai loại này
là một cặp về nhiếp pháp.
Trong phần một có mười câu, hai câu đầu là tổng quát ca ngợi hiển bày thù thắng, tám câu
sau là riêng biệt hiển bày về tướng
thù thắng:
1) Hành rộng lớn thù thắng;
2) Từ “Dó thiểu…” trở xuống là nhìn thấy khắp nơi thù thắng;
3) Từ “Tất đắc…” trở xuống là giữ gìn biện giải thù thắng;
4) Từ “Ư niệm niệm…” trở xuống là hiện rõ chúng sinh thù thắng;
5) Từ “Hựu ư niệm niệm…” trở xuống là trang nghiêm quốc độ thù thắng;
6) Từ “Linh bất khả thuyết…” trở xuống là lợi ích chúng sinh thù thắng;
7) Từ “Đắc vô ngại…” trở xuống là nghe pháp thù thắng;
8) Từ “Trú vô sở hữu…” trở xuống là thần túc thù thắng. Dựa theo
Dụng của đức này, nếu
không phải là các phần vị của Viên giáo thâu
nhiếp lẫn nhau, thì đâu
cho phép Địa tiền có thể có đức vô ngại như vậy?
Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về có thành tựu đức
của quả, trong đó có ba:
Một là nhắc lại hiện tại để so sánh với tương
lai; hai là phân rõ xa về
tướng tương lai; ba là nêu ra tương lai để kết
luận về hiện tại.
Một là nhắc lại hiện tại để
so
sánh với tương lai, kết luận
phần trước sinh khởi
phần sau, nghóa là kết luận về đức của nhân trước
đây hãy còn vô tận như
vậy, huống gì thành tựu quả vị tương lai lẽ nào có thể lường tính hay
sao? Hai từ “Sở vị…” trở xuống là phân rõ xa
về tướng trạng của đức
thuộc quả thành tựu ở tương lai, câu riêng biệt có mười,
sáu câu đầu là tướng của quả tròn vẹn, bốn câu
sau là đức của quả đầy đủ.
Trong tướng của quả: Hai câu đầu là trang nghiêm quốc
độ thâu nhiếp chúng sinh
thanh tịnh; hai câu tiếp là Chánh báo
tổng-biệt thanh tịnh, căn
là các căn như Nhãn…; hai câu sau cuối là chủ-bạn
tròn vẹn thanh tịnh, nghiệp
báo là chủ thanh tịnh. Bốn câu sau là trong
đức đầy đủ: Hai câu
đầu là hạnh tròn vẹn chứng tận cùng, tiến vào pháp là Chứng; hai câu
sau là nguyện đầy đủ tự tại, đều nói thanh tịnh là
nhiễm không có gì không hết, bình đẳng là lý không có gì
không chứng.
Những loại này đều là
nhờ vào lực hồi hướng trong phần vị này mà khiến
cho Bồ-tát này sẽ thành
tựu đức của quả Phật như vậy. Ba từ
“Ma-ha-tát…” trở
xuống là nêu ra tương lai để kết luận về hiện
tại, nghóa là đạt được pháp môn thanh tịnh là đạt được
Thể lìa nhiễm, trang nghiêm là
đức tướng trọn vẹn
đầy đủ. Đây là hiện tại đã đạt được.

Từ đây trở xuống là phần ba trình bày về tự tại trái với hiểu
biết, trong đó có 30 câu
làm thành 15 cặp phân ba: Đầu là bảy cặp trình
bày về dung hòa với Sự
duyên khởi khiến cho tướng trái nhau không còn; tiếp là một cặp về
lý-sự dung hòa lẫn nhau, cả hai không có
chướng ngại; sau là bảy
cặp về hiểu rõ duyên ngay nơi Thật hiển bày lý
dung hòa không có trái
nhau, đây cũng là hiển bày pháp theo thứ tự.

Trong bảy cặp đầu:
1) Hạnh hồi hướng này, bởi vì thanh tịnh cõi Phật cho nên nói là cõi không trái nhau, bởi vì an lập chúng sinh cho nên cũng không trái nhau;
2) Khiến cho chúng sinh dựa vào cõi
khởi hạnh, cõi và
nghiệp không trái nhau;
3) Nghiệp dựa vào tâm mà
khởi, tâm vương-tâm sở
không trái nhau, lại Tư là Thể của nghiệp xông ướp

Thức-Tâm vốn có cho nên không trái nhau;
4) Nghiệp dựa vào cảnh
mà thành, Tư và cảnh
không trái nhau, bởi vì cảnh là chỉ do tâm mà
hiện bày, cho nên nói là
tâm cảnh;
5) Do nghiệp mà cảm quả thì duyên
và báo không trái nhau;
6) Nghiệp và dấu tích của nghiệp tích, chính
thức và phụ giúp không
có gì trái nhau. Viễn Công nói: “Hiểu rõ phiền não đều là tâm khởi lên, chỗ dựa của nghiệp gọi là dấu tích của
nghiệp.” Pháp sư Biện
nói: “Phương tiện tạo tác gọi là nghiệp, nghiệp đạo
căn bản gọi là dấu
tích.” Nay giải thích: Tư quyết định là nơi mà
thân-khẩu nghiệp thường
xuyên qua lại, gọi là dấu tích của nghiệp. Lại giải thích: Tư ở
sát-na thứ nhất là đạo dẫn phát, Tư ở
sát-na thứ hai là
Thể của nghiệp, đạo tức là
dấu tích. Lại giải thích: Thể của Tư là nghiệp, xông ướp vào Thức vốn có làm thành chủng tử là dấu tích
của nghiệp.
Lại giải thích:
Tư là nghiệp, nghiệp có công năng cảm đến quả báo của
các đạo là nghiệp đạo,
đạo tức là dấu tích.
7) Thể và tướng của pháp, chủ động-thụ động không trái nhau, nghóa là những nghiệp ấy đã là hữu vi, chắc chắn có đủ bốn tướng.

Trên đây có hai loại không trái nhau:
1) Bởi vì đều là duyên
khởi giúp đỡ nhau-thuận
theo nhau, cho nên không trái nhau;
2) Đã đều là dựa vào nhau không
có tự tánh, tự tánh không có thì cái gì trái nhau?
Một cặp tiếp là dựa theo
lý-sự cùng dung hòa để trình bày về không trái nhau, nghóa là pháp
sinh không trái với tánh, bởi vì
duyên sinh thì vốn là vô
tánh; tánh không trái với sinh, là dựa vào căn bản vô trú mà thiết lập tất cả các pháp. Lại đầu thì không hủy hoại giả danh mà nói đến
Thật tướng, sau thì không động đến Chân tế mà
kiến lập các pháp.

Bảy cặp sau
dựa theo lý dung hòa trình bày về không trái
nhau, nghóa là tướng của
cõi và chúng sinh tuy tựa như khác nhau, mà lý bình đẳng không khác lẫn nhau, cho nên không trái nhau. Những câu còn
lại, có thể biết.

Từ đây trở xuống là phần bốn đạt được bình đẳng không còn trái nhau,
 trong đó có hai: Đầu là mười câu trình bày về đạt được bình đẳng,
bởi vì tướng trái nhau trước đây không còn, cho
nên đạt được Sự xứng với tánh bình đẳng này, nghóa là mười loại như
nghiệp báo…;
sau từ
“Đắc kiến Phật…” trở xuống có mười câu về
có thể thành tựu hạnh vị
cứu cánh, đều có thể biết.

Từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận về tên gọi. Trên
đây là hạnh của phần vị, xong.

Từ đây trở xuống là trong phần thứ hai trình bày về quả của phần vị, có mười
sáu câu, mỗi hai câu làm một, thâu nhiếp làm thành
tám cặp:
1) Đoạn quả nhiễm ô, nghóa là chế phục ma oán ngăn chặn duyên
ác, nhổ bỏ gai dục đoạn dứt nhân ác.
2) Tiến vào chứng quả, nghóa là đạo Vô sinh là nhân của tu chứng,
 đến không hai là đích thực chứng tánh, đó là Lý bặt dứt chủ động-thụ động cho nên không hai,
Trí phù hợp với pháp ấy cho nên nói là đến.
3) Từ “Đắc vô lượng…” trở xuống là quả thành tựu lợi ích cho chúng sinh, nghóa là đạo pháp cứu giúp chúng sinh, thần thông hóa
độ mọi vật.
4) Từ “Thường lạc…” trở xuống là quả của Tịch-Dụng vô ngại.
5) Từ “Tất năng…” trở xuống là trình bày về quả của Hạnh và Nguyện rộng lớn.
6) Từ “Phân biệt…” trở xuống là quả của Trí và Thông thù thắng, trước là Trí-sau là Thông.
7) Từ “Đắc vô ngại…” trở xuống quả của thấy nghe tự tại.
8) Từ “Tu chư…” trở xuống là quả của thực hành tu tập đầy đủ. Sau là kết luận, có thể biết.
Trong phần hai là kệ tụng, có 21 kệ phân ba: Đầu là nửa kệ tụng về tướng của hạnh trước đây; tiếp là các kệ trung gian tụng về hồi hướng
trước đây; sau cuối là một kệ tụng về lợi ích
của hồi hướng trước đây.
Ngay trong tụng về hồi hướng, có ba: Một có ba kệ tụng về
hồi hướng thành tựu
đầy đủ hạnh trước đây; hai từ “Dó thử…” trở xuống
có sáu kệ tụng về nhân hạnh
sinh thiện trước đây, hồi hướng chúng
sinh khiến cho đạt được
Bồ-đề; ba từ “Thâm nhập…” trở xuống có mười kệ rưỡi tụng về hồi hướng Thật tế trước đây. Trong đó có hai:
1) Ba kệ rưỡi tụng về các nghiệp không vướng mắc, thuộc Tự hành giống với Như trước đây;
2) Từ “Bồ-tát quán sát…” trở xuống là bảy kệ tụng về khiến cho người khác tiến vào Thật trước đây.

Một kệ sau
cuối là kết luận ca ngợi về lợi ích, có thể biết.
* Thứ tám là
Như Tướng Hồi Hướng Đồng Lý, thiện căn là tướng Như xứng với lý mà hồi hướng gọi là
Như Tướng Hồi Hướng. Hồi hướng này cùng với trên-dưới khác nhau thế nào? Nghóa là bảy
Hồi hướng trước đây
trình bày hiểu rõ Sự hướng về Lý, Hồi hướng thứ tám này trình bày Sự không còn thì
Lý hiện bày, vì vậy các hạnh… đều là Như Tướng mà hồi hướng, về
sau Hồi hướng thứ chín trình bày từ
Lý khởi Dụng, Hồi hướng
thứ mười trình bày Dụng giống như Thể, giống như
Thể mà Dụng, cho nên nói là Hồi Hướng Pháp Giới.

Trong trường hàng cũng
có hai: Một, trong hạnh của phần vị cũng
có ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.

Trong giải thích cũng có ba:
1) Nêu ra Thể của hạnh;
2) Từ “Ma- ha-tát dó như thị đẳng thiện căn hồi hướng dục linh…” trở xuống là chính thức đem hồi hướng;
3) Từ “Ma-ha-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là trình bày về do hồi hướng mà thành tựu đức.

Trong phần một: Trước có
30 câu, nêu ra thiện căn sai biệt;
sau cuối là một câu kết
luận thành tựu một quán.

Trong phần trước: Một là
10 câu hiển bày về thiện căn đã tu; hai từ
“Tuệ nhãn…” trở xuống là 10 câu trình bày về nuôi lớn thiện
căn khiến cho tăng nhiều
hơn nữa; ba từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là 10
câu kết luận ca ngợi
thiện căn sai biệt đầy đủ đức.

Trong 10 câu thứ nhất: Trước
là hai câu trình bày về quán
thành tựu tiến vào lý
thiện, câu đầu là nêu ra, câu sau là giải thích hiển
bày. Nghóa là Lìa si giải
thích về Trí, Chánh niệm giải thích về Niệm,
Kiên cố giải thích về an trú, Bất thối giải thích về bất động. Đây là
Chánh niệm thành tựu về
Chỉ, Lìa si thành tựu về Quán, Chỉ-Quán cùng vận dụng vô ngại hiện rõ trước mắt, cho nên nói là thành tựu… Sau từ
“Đắc Đại thừa…”
trở xuống là trình bày về Đại hạnh tùy theo sự việc để quy tụ thiện căn, có dựa vào tám loại tâm để quy tụ thiện căn:
Một-Dựa vào tâm sâu xa để phát
khởi thiện căn, trước là nêu ra công năng của
tâm, nghóa là tâm dựa
vào lý phát khởi cho nên dũng mãnh không sợ, sau
là dựa vào tâm dũng mãnh này phát khởi hai thiện
căn.
1) Rộng nhiều vô tận;
2) Xứng lý thù thắng vi diệu;
3) Dựa vào pháp thiện thanh tịnh
phát khởi Đồng Thể Đại
Bi, tức là tâm Bi;
4) Trình bày về tâm thẳng thắn chánh niệm chư Phật;
5) Tâm hồi hướng xứng với lý không thay đổi;
6) Dựa vào tâm cầu đạo khéo léo phát
sinh thiện kiên cố;
7) Dựa vào tâm chánh niệm phát
sinh tất cả các thiện;
8) Dựa vào tâm tuệ khéo léo
hồi hướng thành tựu Lợi tha.

Trong 10 câu thứ hai trình bày về nuôi lớn thiện căn: Đầu là
Tuệ nhãn quán
sát thiện căn tức là Thật, vì vậy khiến cho thiện căn này
tăng trưởng, đây là
nguyên cớ nuôi lớn thiện căn lành. Sau là trình bày
về thiện căn đã tăng
trưởng, trong đó câu đầu là tổng quát hiển bày,
tám câu sau riêng biệt
phân rõ:
1) Trình bày về phạm vi giới hạn của thiện căn không giống nhau, cho nên nói là phân biệt…;
2) Đầy đủ đức không thiếu sót, cho nên nói là cụ túc;
3) Thể lìa xa lỗi lầm nhiễm ô;
4) Chỉ trú vào Bồ-đề không giống với phàm phu-Tiểu thừa, cho nên nói là nhất hướng;
5) Tu tập sửa trị khiến cho tăng thêm;
6) Tư duy khiến cho
mở rộng;
7) Do tu hành mà
thành tựu;
8) Xứng với Thật nói rộng ra. Trong 10 câu thứ ba là kết luận ca ngợi sai biệt,
 trong đó trình bày thiện căn này có nhiều công năng-đức khác nhau cho nên có thể thành tựu hồi hướng. Trong mười:
1) Các loại Môn là qua lại thông suốt không phải một;
2) Các loại Cảnh là sở duyên không
giống nhau;
3) Các loại Tướng là Thể trạng phân biệt;
4) Các loại Sự là duyên thành tựu khác nhau;
5) Các loại phân biệt là phạm vi giới hạn không xen tạp;
6) Vô lượng hạnh là nhiều loại như bố thí…;
7) Con đường ngôn ngữ thì thiện căn này là nơi đi lại của vô lượng ngôn giáo;
8) Sinh ra… là dựa vào thiện căn này
có thể sinh ra nhiều trí phân biệt;
9) Tu hành… là các pháp thiện trang nghiêm lẫn nhau;
10) Đều có năng lực… là cùng hướng về quả Phật. Trong một câu
sau cuối là kết luận thành tựu một quán hiển
bày về rất sâu xa, nghóa
là tuy có đủ loại nhiều môn như vậy, nhưng đều là một ý vị như nhau, cùng chung
Chân tánh, cho nên nói là không
hai. Cảnh Nhất thiết trí,
nghóa là thiện đồng tánh này chỉ riêng trí Phật mới có năng lực nhận biết.
Lại giải thích: Thiện đồng tánh này có
thể thành Phật, bởi vì chính là cảnh của
Nhất thiết trí. Đây là
sai biệt trong vô
sai biệt của các môn trước, cho nên có nhiều môn. Đây chính là vô
sai
biệt trong sai biệt, cho nên
chỉ có một ý vị quay về với Phật quả. Trên
đây là nêu ra Thể của
hạnh thuộc thiện căn đã hồi hướng, xong.

Từ đây trở xuống là phần hai chính thức đem hồi
hướng, trong đó
có bốn: Một, Nhờ vào thành tựu Tự hành để tu
hồi hướng; Hai,
Từ “Phục thứ…” trở
xuống là nhờ vào sự khởi hạnh tiếp tục tu hồi hướng; Ba,
Từ “Ma-ha-tát thiện căn như thị hồi hướng bất trước thế…” trở xuống là trình bày về không có tướng hồi hướng của hai hồi hướng trước đây, hai loại trước là hồi hướng
Chúng sinh và Bồ-đề, loại này là hồi
hướng Thật tế; Bốn,
Từ “Như pháp môn…” trở xuống là trình bày về hồi hướng tự
tại thuần thục xứng
tánh. Lại hai loại đầu là hồi hướng rộng lớn, một
loại tiếp là hồi hướng
rất sâu xa, một loại sau là hồi hướng sâu rộng.
Dùng thiện căn cùng là Như thành tựu hồi hướng xứng với Chân để giải
thích về thành tựu Như Tướng.
Trong phần một có hai: Trước là dùng thiện căn trước đây
hồi hướng thành tựu
Tự hành; sau từ “Như vị dó thân…” trở xuống là
chính thức hồi hướng Chúng sinh.

Trong phần trước có hai:
1) Hồi hướng thành tựu hạnh thuộc ba nghiệp của Pháp thân;
2) Từ “Đắc ly si…” trở xuống là hồi hướng thành tựu hạnh trang nghiêm Tịnh độ. Trong phần một có ba: a) Thành tựu hạnh về
thân nghiệp;
b) Thành tựu hạnh về
khẩu nghiệp; c) Thành tựu hạnh về ý nhiệp.

Trong hạnh về ý nghiệp có ba: Một,
trình bày dựa vào tâm
thành tựu đức thuộc
Tự hành; hai, từ “Nhậm trì…” trở xuống là thành tựu đức thuộc
Lợi tha; ba, từ “Cụ túc…” trở xuống là một câu tổng quát kết luận

về đã thành tựu.

Trong mục một, dựa vào bảy loại tâm thành tựu bảy hạnh thù thắng:
1) Dựa vào tâm Vô ngại thành tựu hạnh
thanh tịnh, nghóa là
thấu suốt lý vô ngại khiến cho hạnh
thanh tịnh;
2) Dựa vào tâm Đại thí
thành tựu hạnh Tài thí,
vừa ý chúng sinh;
3) Dựa vào tâm Chiếu pháp thành tựu hạnh
Pháp thí;
4) Dựa vào tâm Bất hoại thành tựu hạnh kiên cố cầu mong
Phật trí;
5) Dựa vào tâm
Bồ-tát thành tựu hạnh
soi chiếu tất
cả các pháp;
6) Dựa vào tâm
Niệm Phật thành tựu
hạnh Tam-muội;
7) Dựa vào tâm Chánh trực
thành tựu hạnh lìa nhiễm.
Trong mục hai,
trình bày về hạnh Lợi tha, câu riêng biệt cũng có bảy: Đầu là một câu về thành tựu hạnh
Hóa tha, nghóa là thâu
nhiếp căn không sai lạc
gọi là tùy ý giữ gìn, đầy khắp tất cả là giáo hóa rộng rãi, mà không dừng nghỉ là thường xuyên giáo hóa. Tiếp là hai câu
trình bày về chỗ dựa
của hạnh Hóa tha, một là giáo hóa giống như Phật trí cho nên nói là an trú, hai là dựa vào Định khởi Dụng để đến với
mọi căn cơ cho nên nói
là đạt được Tam-muội sâu xa. Tiếp là hai câu trình bày về nơi chốn nhiếp hóa, một là qua lại rộng khắp, hai là an trú
khắp nơi. Tiếp là một
câu về thành tựu sự việc Hóa tha, cho nên nói là giáo hóa chúng
sinh
không nghỉ. Sau cuối là một câu về thành tựu trí
Hóa tha, nghóa là thành
tựu về Tuệ phương tiện.
Mục ba là một câu tổng quát kết luận về đã thành tựu, nghóa là thành tựu đầy đủ
hạnh Tự-Tha,
Tuệ sâu rộng khó
suy lường cho nên
nói là không nghó bàn.
Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về hạnh trang
nghiêm Tịnh độ, trước là riêng biệt hiển bày có
sáu cặp:
1) Lìa si là Thể, phân biệt là Dụng, nghóa là lìa xa phân biệt mà phân biệt;
2) Một niệm trang nghiêm quốc độ là Dụng rộng lớn, đối với các
Thông-Tuệ là chỗ dựa của Dụng;

3) Tiến vào Thật pháp là Thể sâu xa, thị hiện… là Dụng rộng lớn;
4) Một thấy tất cả là Dụng vô ngại, cứu cánh… là chỗ dựa của Dụng, nghóa
là giữ gìn tất cả
không để cho hư hoại;
5) Dùng Bồ-tát trang nghiêm
đầy đủ là Thể của
Đức, ứng hiện điều phục chúng sinh là Tướng của Dụng;

6) Một thế giới Phật… là Thể rộng lớn, đạt được cứu cánh… là Dụng duy trì. Sau là tổng quát kết luận về quốc độ đã trang nghiêm khiến cho chúng
sanh vừa lòng, nghóa là trang nghiêm quốc độ này chỉ vì
thâu nhiếp chúng sinh. Trí
duy trì phân biệt hồi hướng, là tổng quát kết
luận về trí duy trì quốc
độ hồi hướng trước đây. Trên đây là phần thành
tựu Tự hành, xong. Bởi vì muốn hồi hướng cứu giúp
chúng sinh, cho
nên trước phải phân rõ
Tự hành làm căn bản, mới có thể trải qua đời
kiếp

thâu nhiếp chúng sinh.
Từ đây trở xuống là phần
sau chính thức hồi hướng
chúng sinh, trong đó: Trước là nêu ra Tự ví dụ về Tha, kết thúc phần trước
sinh
khởi phần sau. Sau là chính thức hiển bày về hồi hướng có hai:
1) Hồi hướng khiến cho ra khỏi chướng có sáu câu, ba câu đầu là ra khỏi ba chướng, một là lìa xa
báo chướng, hai là lìa xa
nghiệp chướng, ba là lìa xa
phiền não chướng; ba câu
sau là thành tựu hạnh đối trị, một là đối trị lìa
xa phiền não, hai là đối trị lìa xa nghiệp, ba là đối trị lìa xa khổ,
có thể biết.
2) Khiến cho thành tựu đức, như mây-mưa lớn thì có năm nghóa: a) Rộng khắp nơi; b) Trở thành lợi ích; c) Có thể tuôn mưa; d) Mưa có
thể dập tắt tro nóng; e)
Mưa có thể sinh ra cỏ cây. Đại nguyện hồi
hướng cũng có đủ năm
nghóa, có thể biết.
Sau là riêng biệt hiển bày về đã thành tựu có chín câu: Hai câu đầu là thành tựu hạnh, một là lìa xa lỗi lầm gọi là
thanh tịnh, hai là phát
sinh pháp thiện gọi là
ruộng đất. Hai câu tiếp là khiến cho tiến vào chứng, một là quán xét phương tiện tiến vào chứng là
Như Lai Tạng khiến
cho không quên mất gọi
là thọ trì bảo vệ, hai là chính thức thành tựu
chứng cho nên nói là
trú trong pháp giới thanh tịnh. Hai câu tiếp là khiến
cho thành tựu đức, một
là thành tựu đức tự tại của tâm, hai là giúp cho
đức tự tại của thân.
Ba câu sau cuối là thành tựu ba thiện căn, một là
thiện Vô ngại, hai là
thiện Vô tham cho nên gọi là thâu nhiếp thanh tịnh,
ba là thiện Vô sân.
Từ đây trở xuống là phần hai nhờ vào
sự khởi hạnh tiếp tục tu
hồi hướng, trước đã
thành tựu hồi hướng thuộc Tự hành, nay lại thành tựu hồi hướng nhờ
vào sự, cho nên nói là lại tiếp tục. Trong đó có ba:
1) Nhờ vào sự khởi hạnh;
2) Từ “Ma-ha-tát như thị hồi hướng…” trở xuống là chính thức đem hồi hướng;
3) Từ “Như thị Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về hồi hướng đã thành tựu lợi ích. Trong phần một
có hai: Một, Nhờ vào thấy
sự việc thù thắng;
Hai, Khéo léo thuận theo khởi hạnh có ba: a) Trình bày đã thành tựu
đức của hạnh,
có pháp-dụ-hợp, nghóa là tùy theo
sự việc đã thấy nhờ vào đó thành tựu hạnh cho nên nói là phương tiện khéo léo tu tập…. Đã thấy
sự việc đáng vui, thì có vui thích mong cầu Thật nghóa như vậy. b)
Từ “Xảo diệu…” trở xuống là trình bày về Dụng thù thắng của hạnh; c)
Như thiện căn… là kết luận
về Thể giống nhau của hạnh.

Trong phần hai
là chính thức hồi hướng chúng sinh đều khiến cho đạt được
sự việc đáng vui, là nhờ trước đây thấy cảnh đáng vui
liền phát khởi thiện
niệm đáng vui, khiến cho hồi hướng chúng sinh thành
tựu công
đức đáng vui, đây là Dụng của phương tiện khéo léo mà
thôi. Trong đó
có ba: Một, Người chưa tiến vào pháp thì khiến cho có thể
tiến vào pháp, đây là thuộc về
Địa tiền; Hai,
Từ “Linh Bồ-tát…” trở xuống
là người đã tiến vào
pháp thì khiến cho có thể tiến vào Địa, đây là thuộc về
Địa thượng; Ba,
Từ “Cụ Bồ-tát…” trở xuống là người đã đạt được
Địa thì cuối cùng khiến
cho đạt được quả.

Trong phần một có bảy câu:
1) Trong câu một không những thấy Phật không chấp lấy Thể tánh, mà cũng là thấy chúng sinh cũng
không chấp lấy, cho nên nói là cũng lại như vậy.
Lại giải thích:
Khiến cho thấy Phật đúng như
pháp, đối với Phật không vướng mắc; không chấp lấy pháp tánh, thấy pháp không vướng mắc; vô
số chúng
sinh giống
như Tăng, không có gì
vướng mắc, cho nên nói là thanh tịnh. Kinh Duy
Ma nói: “Không đắm vào
cầu Phật, không đắm vào cầu Pháp, không đắm vào cầu
Tăng.” Giống như ý câu này.
2) Khiến cho làm thị giả xứng với ý Phật;
3) Khiến cho đất nước thanh tịnh đáng vui;
4) Vui trong pháp đã mong cầu;
5) Khiến cho vui với pháp xuất thế;
6) Vui với giữ gìn không quên;
7) Đạt được pháp sáng tỏ thuộc Chánh tuệ. Trong phần hai trình bày về hạnh của Địa thượng: Một, hai câu thành tựu hạnh
Tài thí-Pháp thí của Địa
thứ nhất. Hai, từ
“Đắc Tam- muội…” trở xuống trình bày về hạnh thuộc phần vị công dụng từ Địa thứ hai trở đi:
1) Đạt được Định sâu xa;
2) Đạt được tổng trì;
3) Đạt được trí ghi nhớ;
4) Đạt được thần thông thù thắng. Trên đây là đức thuộc Tự phần, dưới đây trình bày về đức thuộc
Hóa tha.
5) Thuyết giảng rộng rãi;
6) Thuyết giảng khéo léo;
7) Tâm hóa độ chính là Bi;
8) Thường xuyên hóa độ không ngừng;
9) Hóa độ rộng rãi, nghóa là ở nhiều nơi trải qua thời gian dài.
Trong phần ba trình bày về hạnh thuộc phần vị Vô công dụng từ
Địa thứ tám trở lên, trong đó:
1) Nhờ Đức Phật hiện tại khuyến khích có thể rời bỏ vắng lặng phát khởi tu tập, gọi là phương tiện khéo léo;
2) Xứng với lý khởi hạnh, gọi là phương tiện sâu xa;
3) Từ “Vónh ly…” trở xuống là trình bày về Địa thứ tám, bởi vì vô ngại mà rời bỏ tâm tham như ái Bồ-đề của
Phật…, cho nên nói là ly dục-hiểu sâu… trình bày
về thâu nhiếp thành tựu
hạnh đối trị;
4) Từ “Cụ túc…” trở xuống trình bày về Địa thứ tám tiến vào quán Vô sinh;
5) Trong Địa thứ chín thuyết pháp xứng với cơ, gọi là Vô tranh;
6) Trong Địa thứ mười đạt được đạo Vô gián thuộc pháp Kim Cang hiện rõ trước mắt,
 gọi là thành tựu đầy đủ, bởi vì diệt hết mọi chướng ngại vướng mắc vi tế, cho nên nói là
diệt chướng đạo pháp.
Sau cuối là trình bày về Địa thành tựu đầy đủ Phật
quả, có thể biết.

Từ đây trở xuống trình bày về phần ba là hồi hướng đã thành
tựu lợi ích, nghóa là
do lực hồi hướng nhờ vào sự khởi hạnh mà khiến
cho thiện căn của mình
chuyển đổi tăng lên nhiều hơn, gọi là nuôi lớn.
Từ “Đắc tịnh…” trở
xuống riêng biệt hiển bày có mười câu:
1) Bên trong tăng thêm Tuệ sáng suốt;
2) Bên ngoài được thiện hữu bảo vệ, đây là lợi ích về phát sinh hiểu biết;
3) Phật tuệ chiếu sáng tâm;
4) Ngu si ám chướng không còn, hai loại trên đây là lợi ích về đoạn trừ chướng ngại;
Tu pháp tiến vào trí, là lợi ích về
chứng pháp;
6) Từ “Thiện học…” trở xuống là lợi ích về phát khởi Hậu trí;
7) Từ “Nhất thiết thiện căn…” trở xuống là lợi ích về Đại nguyện;
8) Từ “Nhất thiết Bồ-tát…” trở xuống là lợi ích về cùng tận nguồn phước;
9) Từ “Thành tựu…” trở xuống là lợi ích về thành tựu trí tuệ kiên cố;
10) Từ “Minh giải…” trở xuống là hiển bày về lợi ích hiểu biết rộng rãi. Trên đây là hồi hướng nhờ
vào sự, xong.

Từ đây trở xuống là phần ba trình bày về không có tướng
hồi hướng của hai hồi
hướng trước đây, tức là hồi hướng Thật tế.
Các hồi hướng Thật tế
trước đây cùng với hồi hướng Thật tế này
khác nhau thế nào? Trước đây đều thâu nhiếp Tướng quy về Thể, trong này thâu
nhiếp Tướng quy về
Tướng, vì vậy mà khác nhau. Trong đó có hai: Trước
là dựa theo hạnh để
phân rõ; sau từ “Như thị…” trở xuống là dựa
theo tâm hiển bày.

Trong phần trước có hai: Một,
Trình bày về hồi hướng này tức
là luôn luôn không đắm
trước; Hai, Từ “Quán thậm thâm…” trở xuống
là trình bày nhờ vào
không đắm trước mà thành tựu hồi hướng.

Trong phần một có bốn:

Không đắm vào có, nghóa là đối với trang nghiêm quốc độ thâu nhiếp chúng
sinh trước đây, bởi vì đều không đắm trước, cho nên nói là
không đắm trước thế giới…. Tâm không dựa
vào là trình bày về không có tướng thụ động chấp thủ, vắng lặng không tán loạn là không khởi lên
chủ động chấp thủ; Chánh niệm đối với pháp là
trình bày về tương ưng với Chánh lý khéo léo
bặt dứt chủ động-thụ động. Luận Khởi Tín nói: “Trú chánh niệm là biết chỉ có tâm, không có cảnh giới bên ngoài.”
Là nói đến nghóa này.

Từ “Cụ túc…” trở xuống là đối với không có
nhưng không đắm trước-không ngăn ngại mà khởi hạnh, trí vô phân biệt gọi là không có chọn lựa, không trái với hồi hướng là khởi hạnh không ngăn ngại,
không trái với Chánh pháp là tiến vào lý không ngăn ngại.

Từ “Bất hoại
Phật tướng…” trở xuống là trình bày về có và không có đều lìa xa.
 Ban đầu không hủy hoại tướng Phật là không đắm vào không có, quán xét ba đời như nhau là không đắm vào có, ở đây
dựa theo tôn kính mà không đắm trước, biết rõ
chúng sinh trống rỗng là không đắm vào có. Không hề dựa vào là không trú vào không có,
nghóa là không hướng về không có mà trú trước.
Đây là dựa theo cảnh Bi không đắm trước, là ngay nơi quán xét
Như Lai trống rỗng mà không mất đi
sá»±
kính dưỡng, hiểu rõ chúng
sinh vắng lặng mà không mất đi
sá»±
nhiếp hóa, là nói đến nghóa này.

Từ “Thuận Như Lai…” trở xuống là trình bày về
lợi ích lìa xa đắm trước, có ba: a) Hiểu biết chính đáng dần dần đến lợi ích; b)
Từ “Như thật phân biệt…” trở xuống là lợi ích của trí tuệ tròn vẹn; c)
Từ “Vị tằng…” trở xuống là trình bày về lợi ích của
Tịch-Dụng cùng thực hành,
có pháp-dụ-hợp, có thể biết.

Trong phần hai
là trình bày nhờ vào không đắm trước mà thành tựu hồi hướng. Quán xét về pháp
sâu xa trước đây mà phát
sinh Thật trí, nghóa là trí không đắm vào có và không có, dựa vào Thật trí này mà thành tựu hồi hướng. Sau là riêng biệt hiển bày:
1) Trình bày về hồi hướng Lý-Sự vô ngại, Chỉ-Quán dung thong;
2) Nhờ vào vô ngại trước đây mà thành tựu hồi hướng thuộc Tự hành;
3) Từ “Nhiếp thủ…” trở xuống là thành tựu hồi hướng thuộc hạnh Hóa tha. Trên đây là dựa theo hạnh, xong.

Từ đây trở xuống là phần sau dựa theo tâm phân rõ, có tám loại tâm:
1) Tâm không yếu hèn hồi hướng Phật pháp;
2) Tâm rộng lớn hồi hướng thanh tịnh chúng sinh;
3) Tâm không hề điên đảo hồi hướng quốc độ không nhiễm ô;
4) Tâm không sót lại gì hồi hướng cảnh không nhiễm ô;
5) Tâm lìa xa thế gian hồi hướng đạt được xuất thế gian;
6) Tâm không đắm trước hồi hướng thành tựu hạnh Bi;
7) Tâm thấy pháp hồi hướng thành tựu đạo thù thắng hướng đến quả;
8) Tâm chán ngán lìa xa hữu vi hồi hướng phát sinh pháp thiện chân thật. Trên đây là hồi hướng Thật tế, xong.

Từ đây trở xuống là phần bốn trình bày về hồi hướng sâu rộng
tự tại thuần thục, trong
đó mở rộng trình bày về hồi hướng Như Tướng.

Giải thích về nghóa Chân Như đưa ra bốn môn:

Giải thích tên gọi, không hư hoại gọi là Chân, không có gì khác gọi là Như, trước là không phải bốn
Tướng thay đổi,
sau là
Thể không có sai biệt, đây là dựa theo Thỉ giáo. Lại
không biến đổi gọi là Chân, thuận theo duyên gọi là Như. Do nghóa trước cho nên cùng với

pháp hữu vi không phải là như nhau, do nghóa
sau cho nên cùng
với pháp hữu vi không
phải là khác nhau, hai nghóa hợp lại làm một
pháp gọi là Chân Như.

Chủng loại: Hoặc chỉ có một ý vị, đó là dựa theo Thật vốn
không có gì sai biệt. Hoặc hai, đó là an lập đế
Chân Như, phi an lập đế
Chân Như. Lại do hai Không mà hiển bày cũng là hai, tức là do
Sinh Không mà hiển bày
Chân Như, do
Pháp Không mà hiển bày
Chân Như. Lại hai, đó là
Không Chân Như, Bất Không Chân Như, pháp nhiễm
mà không nhiễm gọi là Không, có đủ tánh công
đức gọi là Bất Không.
Hoặc ba, đó là dựa theo ba
Vô tánh, tức là
Vô Tướng Như, Vô Sinh Như, Vô Tánh Như… Lại có thiện pháp Chân Như,
bất thiện pháp Như,
vô ký pháp, như trích từ Tạp Tập Luận, đây là
dựa theo giải thích phân
rõ. Hoặc bảy, luận Hiển Dương nói: “
1) Lưu chuyển Chân Như, đó là tư duy về Thật tánh lưu chuyển của các hành;
2) Thật tướng Chân Như, đó là tư duy về các pháp không có tánh của hai
Ngã;
3) Duy thức
Chân Như, đó là tư duy về tánh Duy thức của các pháp;
4) An lập Chân Như, đó là Thể của pháp nhiễm ô tư duy về Khổ đế;
5) Tà hạnh Chân Như, đó là nhân của pháp nhiễm ô tư duy về Tập đế;
6) Thanh tịnh Chân Như, đó là Thể của pháp thanh tịnh tư duy về Diệt
đế;
7) Chánh hạnh Chân Như, đó là hạnh thanh tịnh tư duy về Đạo đế.”
Hoặc mười Chân Như, đó là dựa theo Chân Như đã chứng trong mười
Địa có mười lớp… Hoặc một trăm môn, đó là mười-mười vô tận, thuận theo pháp môn viên
thông vô ngại. Hoặc bao gồm tất cả các pháp.

Trình bày về Đức Dụng:
1) Thành tựu Dụng nương tựa duy trì,
nghóa là pháp nhiễm-tịnh nương tựa duy trì mà thiết
lập;
2) Thành tựu cảnh quán, nghóa là Dụng tiến vào chứng;
3) Theo luận Khởi Tín: “Có ba Đại: a) Thể Đại, đó là Chân Như vốn bình đẳng
không tăng-giảm; b)
Tướng Đại, vốn đầy đủ công đức thuộc tánh vô lậu; c)
Dụng Đại, vốn có
thể thành tựu tất cả nhân quả thiện của thế
gian và xuất thế gian.”
Hỏi: Các pháp bất thiện… đã không phải là Dụng của
Chân thì thuận theo lìa xa Thể
của Như chăng?

Đáp: Bởi vì
trái với Chân cho nên không lìa xa Chân, bởi vì
trái với Chân cho nên
không phải là Dụng của Như. Ý luận này bởi vì
các thiện pháp thuận với
Chân, cho nên đều là Dụng của Chân.

Hỏi: Kinh nói
Như Lai Tạng phát khởi và tạo ra tất cả thế
gian, giống như người có tay nghề làm ra các loại kỹ thuật…, thì nhất
định pháp nhiễm này cũng
là thụ động tạo ra, vì sao nói là không?
Đáp: Lý
thật thì nhiễm-tịnh đều là thụ động duy trì mà được kiến lập, nhưng trái-thuận
sai khác không
giống nhau. Điều này thế nào? Bởi vì như quán
sát về thực hành bố thí, ba quan hệ đều rỗng rang, khiến cho phước bố thí rộng lớn giống như hư không; nếu quán
sát Thể của
tội lỗi rỗng rang là
khiến cho tội chướng diệt mất, thì tại sao cũng
không khiến cho tội lỗi rộng lớn? Vậy thì biết tội lỗi trái với Chân,
 tiến vào Như thì diệt mất; thiện thuận với Chân, tiến vào Như thì rộng thêm, cho nên không
giống nhau. Vậy thì khắp nơi phát khởi nhiễm-tịnh thuận
với Dụng chứ không
trái. Trên đây là dựa theo Thỉ và Chung giáo mà
nói. Vả lại, tùy duyên
sai khác gồm chung tất cả các pháp, toàn bộ là
Dụng của Chân, có đủ Đế võng vi tế, trùng trùng vô tận, viên dung tự tại, ngay nơi
Tướng không cần hội tụ, ngay nơi Tánh không cần tùy theo.
Như trăm môn này đã
phân rõ dựa theo Viên giáo để hiển bày mà thôi.

Dựa theo Giáo hiển bày: Chân
Như có hai môn, là Nhất thừa
Chân Như và Tam thừa Chân Như.

Nhất thừa cũng có hai môn:
1) Biệt giáo là viên thông các sự hàm chứa tất cả vô tận như Nhân-đà-la võng và vi tế…, mở rộng về trăm câu này nói trong phần Như.
2) Đồng giáo thì nghóa giống với Tam thừa, nhưng bởi vì hồi hướng trí cho nên thâu nhiếp vào Nhất thừa. Tam thừa
Chân Như cũng có hai môn:
1) Đốn giáo là như Duy Ma cứ im lặng để hiển bày về ý
sâu xa, Như này bặt dứt tướng của
giáo nghóa, Tưởng đều
không theo kịp, nói như phần Na-già Thất-lợi
trong kinh Đại
Bát Nhã.
2) Tiệm giáo thì tóm lược có ba môn: Một là Chung, hai là Thỉ, ba là Thế gian đã nhận biết. Một, trong Chung giáo lại có hai loại: a) Thỉ là như 32 Bồ-tát hiển bày về pháp môn
Bất Nhị; b) Chung tức là Bất Nhị mà Văn-thù
Sư-lợi đã hiển bày.
Hai môn Thỉ-Chung này đều có đủ hai môn Không-Hữu
thuộc giáo nghóa Vô phân biệt. Hai, trong Thỉ giáo cũng có hai: a) Thỉ là như luận
Bách Pháp thâu nhiếp tất cả pháp
thuộc về sáu Vô vi, hiển bày về Nhân
Không-Pháp Không, có thể biết
Chân Như không
sánh kịp, hai Không là trên
hết, môn này bao gồm
giáo nghóa Phân biệt và Vô phân biệt. b) Chung
thì như Duy Ma vì
Ca-chiên-diên mà nói không sinh-không diệt là
nghóa Vô thường… Lại
trong Kim Cang Bát Nhã nói vi trần thì không phải
là vi trần… Lại trong
luận Đối Pháp tách sáu Vô vi thành tám, thì ba
loại Chân Như thuộc về
Vô vi thâu nhiếp, có thể biết Chân Như trở thành Vô vi là trên hết.
Thỉ-Chung thuộc Sơ giáo này đều bao gồm giáo nghóa Phân biệt và
Vô phân biệt. Nghóa vô phân biệt gọi là chứng
Chân Như, Giáo vô phân biệt là dựa vào cảnh quán
sát về ý của ngôn ngữ vô phân
biệt mà tỏ
ngộ ngôn giáo Đại thừa. Nghóa phân biệt thì nói giáo nghóa vốn là Không. Nay trong Sơ giáo thì
Chân Như chỉ là nghóa
Không, không giống như Chung giáo.

Ba, thế gian
đã nhận biết chân thật lại có hai loại: a) Thỉ là
chính thiện căn của
trời-người và Nhị thừa ngu pháp đều thâu nhiếp vào
tánh chân thật. Luận
Trung Biên nói: “Thế gian đã nhận biết chân thật
thâu nhiếp vào tánh chân
thật.” Theo văn của luận ấy thì thế gian chỉ trừ ra hư cuồng vọng ngữ…,
 còn lại đều đưa vào chân thật, bởi vì thừa nhận là phương tiện xa của Bồ-đề. b) Chung là bởi vì luận nói tất cả pháp chỉ
có tên gọi, nghóa là
phân biệt tên gọi, tư duy tên gọi mà biết được,
không giống như pháp thuộc phương tiện xa. Nghóa này chỉ hạn chế trong mười tên gọi thuộc hai loại, bởi vì là phương tiện gần của Đại thừa;
Chân Như thì thậm chí lưu chuyển vào mười tên gọi, lý không thể nào hủy
hoại cho nên cùng là Chân Như.
Ở trong văn này đếm tất cả có trăm câu, kiểm tra văn thiếu đi
một câu, một câu đầu
là tổng quát, còn lại đều là riêng biệt.
Trong tổng quát thì Chân tánh không khác gọi là Như; tự
Thể tuyệt diệu, quy phạm
xứng với pháp, thần thông trí tuệ qua lại phù hợp nói là Môn, cũng là không giống với
sinh diệt môn, cho nên gọi là
Môn. Đến tất cả các
đạo là hiển bày về phạm vi giới hạn, nghóa là trình bày về lý rộng khắp các hành.
 Hồi hướng thiện căn vô lượng vô biên là trình bày về hành rộng khắp như lý, nghóa là xứng với Như mà
thành tựu hồi hướng.
Lại giải thích: Lý thật thì Chân Như là pháp sai biệt vô lượng vô biên rộng khắp tất cả các đạo, bởi các pháp ấy là
Như Thuyên Môn, Chân Như đối
với Dị Thuyên Môn sai khác ấy mà khiến cho
Thể hiển bày rõ ràng, Môn chính là nhiều phạm vi cho nên nói là rộng
khắp tất cả… Nay tạm
thời dựa vào Bách Môn để trình bày về mười-mười
vô tận, vậy thì tất cả
các pháp là Môn của Chân Như, cho nên nói là
Như Pháp Môn. Đây vốn
là chuyển đổi thuận theo tiếng Phạm. Nghóa chính xác nên nói là Như rộng khắp tất cả các đạo vô lượng vô biên, tất
cả các pháp ấy là pháp
môn của Như, cho nên nói là Như Pháp Môn,
đây là nêu ra. Rộng
khắp tất cả… là giải thích để hiển bày, nghóa là tất cả các đạo thì đạo là Môn, bởi vì có thể hiển bày về
Chân Như. Hồi hướng thiện căn, nghóa là trình bày về dùng thiện căn rộng khắp giống
với Như, tùy theo Môn sai
khác mà thành tựu hồi hướng.

Sau là riêng biệt hiển bày, trong mỗi một câu đều có ba nghóa:
1) Như Như là nêu ra như lý, nghóa là như Chân Như ấy;
2) Thiện căn cũng như vậy là nêu ra thiện giống với Như;
3) Hồi hướng… là dùng thiện
căn giống với Như để hồi hướng thành tựu lợi ích giống với Như, vì
vậy thiện căn đã hồi
hướng và chúng sinh đã hồi hướng cùng với tướng
lợi ích đã thành tựu
đều là Chân Như mà có những thành tựu.
Lại trong ba nghóa này:
1) Giải thích về Như;
2) Hiển bày về Tướng của Như;
3) Giải thích về hồi hướng, cho nên gọi là Như Tướng Hồi Hướng. Lại một là phân rõ về Thể của Như, hai là Tướng,
ba là Dụng, tức là ba Đại của
Chân Như. Mỗi một câu
sau cũng
đều như vậy.

Ở trong phần
riêng biệt này, Pháp sư Anh phân làm mười
phần, đó là 10 câu thứ
nhất trình bày về Như trong phần vị Hiền Thủ, 10 câu thứ hai trình bày về Như trong phần vị
Thập Trú, 10 câu thứ ba
trình bày về Như trong
phần vị Thập Hạnh, 10 câu thứ tư trình bày về
Như trong phần vị Thập Hồi
Hướng, 10 câu thứ năm trình bày về Như
trong địa Tịnh Tâm, 10 câu
thứ sáu trình bày về Như trong địa Hành Tích, 10 câu thứ bảy trình bày về Như trong địa
Quyết Định, 10 câu thứ tám trình bày về Như trong địa
Cứu Cánh, 10 câu thứ chín trình bày về
Như trong phần vị Đẳng Giác,
10 câu thứ mười trình bày về Như trong Phật
Địa. Phân văn như vậy
cũng chưa thấy thuận với điều ấy.

Vả lại, Pháp
sư Linh Dụ, Pháp sư Ý-Pháp sư Cự… ở Bắc Đài
đều phân làm mười,
tất cả đều không giống nhau, nhưng đối với xu thế
của văn thì tất cả đều không thuận theo cho nên không nói đến.

Pháp sư Viễn nói: Như
vậy nào khác nhau, tướng khác nhau khó nhận biết. Nay lại nói về điều đó: 10 câu đầu dựa theo những
công hạnh của Địa tiền
mà phân rõ về Như, 88 câu sau dựa vào những công hạnh từ Địa thứ nhất trở lên để phân rõ về Như. Cách phân định
này cũng khó. Nay nói
các Môn đều là một pháp, đều chọn lấy tất cả
Thể- Tướng-Dụng của
Chân Như, cũng không thể phân chia làm thành từng đoạn thuận theo nhau. Ở trong các môn
Chân Như đều là
Thể thuận theo duyên
sai khác, nghóa là
Tánh Như mà không phải là
Tướng Như…, thiện căn giống với Như cũng tùy theo môn
riêng biệt, vì vậy
Tánh Như của thiện căn không
phải là Tướng Như của thiện căn… Thể thuận theo
môn sai khác, khởi Dụng cũng sai khác, vì vậy các
môn sau như
Tánh Môn hồi hướng,
Vô Tánh Môn hồi hướng,
Thật Tướng hồi hướng…,
đều dựa theo đó nhận biết.
Quá khứ không phải là như nhau,
Pháp sư Đại Phạm ở
Tương Châu nói: Đây là
phá chấp về ba đời của Tiểu thừa, nghóa là họ chấp quá khứ làm có. Nếu là có thì giống như hiện tại, nay đã diệt không có, cho nên nói là không
giống nhau. Nói vị lai không vốn có, Tiểu thừa

cũng chấp vị
lai có pháp lưu chuyển đến hiện tại. Nếu như vậy thì lẽ ra vốn có pháp nay đã là vị lai, duyên chưa đến cho nên rốt cuộc là
không có pháp, cho nên nói là không vốn có. Hiện tại không khác nhau, họ chấp hiện tại quyết định là có, nay trình bày chờ duyên tạm thời hội
tụ, suy ra thì không vốn có, không khác gì không có quá
khứ-vị lai, cho
nên nói là không khác nhau.

Pháp sư
Dụ nói: Quá khứ không giống nhau là Tập khởi mà không có
Tập khởi, không vốn có là chuyển biến mà không phải chuyển
biến, không khác nhau là
tướng sai khác mà không phải tướng sai khác.
Phát khởi mới hoài thì
hợp với quá khứ, trừ diệt sinh tử thì giống như vị
lai, thanh tịnh sinh ra thì
tựa như không khác nhau.

Pháp sư
Viễn nói: Quá khứ không
thường còn, cùng trở
về diệt hết, đối với hiện tại vốn không có, cho nên nói là không giống nhau. Pháp vị lai mới
sinh khởi, không phải tánh vốn có, cho nên nói là
không vốn có. Pháp hiện
tại đều trống rỗng, cho nên nói là không khác
nhau. Tất cả ba không (Phi)
này, lấy đó để làm Như.

Pháp sư Cự nói: Quá
khứ không giống nhau là trình bày về
Thể của Như, tuy ở quá khứ mà không thay đổi diệt đi, không giống
với không có. Vị lai không vốn có, tuy là Tập khởi mà không có tướng
khởi, trình bày về nơi đã khởi không vốn có. Hiện tại không khác nhau, tuy
ở hiện tại mà không
có hình thể-xứ sở, không khác gì quá khứ-vị lai.

Pháp sư
Anh nói: Pháp quá khứ diệt đi tương tự với không có, gọi đó là
giống nhau. Nay trình bày dựa vào Như mà phát khởi
hạnh nguyện mới, không
giống với pháp quá khứ không có, cho nên nói
là không giống nhau.
Nghiệp cũ tàn lụi rơi rụng thì mới nhận lấy báo
vị lai, gọi đó là vốn
có. Nay trình bày về chứng Như, rời bỏ nghiệp cũ ấy, cho nên nói là không vốn có. Hiện tại tạo nghiệp kết buộc không giống với quá
khứ-vị lai, gọi đó là khác nhau. Nay quán
sát về nghiệp kết buộc vốn không có tạo khởi, hoàn toàn
thanh tịnh, cho nên nói là
không khác nhau. Phát khởi mới hoài… là giải thích về quá khứ, trừ diệt…
là giải thích về vị lai,
thanh tịnh… là giải thích về hiện tại.
Nay lại giải thích rộng ra, luận về pháp ba đời, có hai môn:
1) Tánh Không môn;
2) Thành Hữu môn. Tánh Không, nghóa là quá khứ đã diệt cho nên Không, vị lai chưa đến cho nên Không, hiện tại không dừng
lại cho nên Không. Nay
trong văn này dựa theo Thành Hữu môn, nghóa
là pháp ở niệm trước
là quá khứ diệt, bởi vì có thể dẫn dắt phát khởi
sinh ra pháp ở niệm sau,
cho nên quá khứ không giống nhau. Luôn luôn
chỉ có đoạn diệt, niệm
sau là nhà của niệm trước. Vị lai tuy do niệm trước
diệt khiến cho niệm
sau này
sinh ra, nhưng nay không có pháp của niệm trước có thể truyền đến
niệm sau, cho nên nói là vị lai không vốn có.
Vì vậy pháp cũ trong niệm
trước, nay không có ở niệm sau. Pháp hiện tại hướng về niệm trước giống như vị lai, hướng về niệm
sau giống như
quá khứ, cho nên nói là
không khác nhau. Vì vậy niệm trước tàn lụi diệt
đi, tuy không giống như
hết sạch, nhưng không có pháp đến sau. Niệm
sau nối tiếp niệm trước,
tuy dựa vào niệm trước khởi lên, nhưng pháp
mới không vốn có. Vì
vậy trong hồi hướng, phát khởi tâm Bồ-đề mới
hoài. Bởi vì niệm trước
không giống nhau, khiến cho niệm sau nối tiếp khởi lên, làm cho tâm
Bồ-đề không Đoạn. Bởi vì niệm
sau không vốn
có, cho nên niệm niệm
mới hoài, khiến cho tâm Bồ-đề không Thường.
Trừ diệt sinh tử-thanh tịnh
phát sinh, hiển bày về tác nghiệp của tâm, ý
văn như vậy suy nghó có
thể thấy. Vả lại, hiện tại niệm niệm thành
Chánh giác, nghóa là
thông hiểu rõ ràng hiện tại cũng bình đẳng, cho nên
thấy Lý gọi là Giác.
Bốn đoạn trên đây toàn bộ là phần thứ hai chính
thức hồi hướng, xong.

Từ đây trở xuống là phần thứ ba kết luận do hồi hướng mà
thành tựu đức. Lúc
hồi hướng như vậy, là nhắc lại phần trước phát khởi
phần sau, nghóa là do hồi
hướng thiện căn giống với Như trước đây, cho nên đạt được tất cả các pháp ngay nơi bình đẳng mà có tác dụng làm lợi ích. Mười câu phân năm:
1) Hai câu dựa theo
xứ sở, một là ngay nơi bình đẳng mà thành tựu
trang nghiêm, hai là ngay nơi bình đẳng mà từ trong đó chuyển
Pháp luân.
2) Hai câu tiếp dựa theo con người, một là
Bồ-tát ngay nơi bình đẳng
mà phát ra nguyện ấy, nghóa là khởi nguyện
Nhất thiết trí là Bồ
tát, hai là quán sát Thể của nhiều Đức Phật
không khác nhau.
3) Hai câu tiếp dựa theo pháp, một là dựa theo
Tánh của pháp,
hai là dựa theo Tướng
của pháp tướng; lại một là Chân, hai là Tục.
4) Hai câu tiếp dựa theo hạnh, một là hạnh
của Bồ-tát, hai là hạnh của Phật.
5) Hai câu sau cuối dựa theo đức, một là dựa theo Thể của Phật bình
đẳng, hai là dựa theo
Dụng của Phật bình đẳng.

Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận về tên gọi, có thể biết.
Trên đây là hạnh của phần vị, xong.

Từ đây trở xuống là trong phần thứ hai trình bày về quả của
phần vị, đạt được
mười quả:
1) Đạt được quả pháp của Phật, đó là đạt được pháp môn thanh tịnh vô biên là Chứng pháp, vừa nhiều vừa sâu là đạt được Thể của
Phật làm người hùng mạnh là thành tựu Tướng
của Phật, gầm lên tiếng Vô úy là đạt được sự
Thuyết giảng của Phật, thành
tựu Bồ-đề là đạt
được sự Hóa độ của Phật, không ngưng nghỉ là đạt được
Thời gian hóa độ của Phật. Lại một là chứng pháp
sâu xa, hai là
trở thành người cao
quý, ba là lợi ích hóa độ rộng rãi, bốn là thời gian
hóa độ lâu dài. Trên
đây là câu tổng quát. Chín câu sau là hiển bày
riêng biệt:
1) Đạt được Thân viên mãn của Phật;
2) Đạt được Âm viên mãn của Phật;
3) Đạt được Lực viên mãn của Phật;
4) Đạt được Pháp viên mãn của Phật, nghóa là vượt ra ngoài chúng sinh cho nên nói là thù thắng, mà vẫn đến với cơ cho nên nói là thị hiện tất cả;
5) Đạt được Thông viên mãn của Phật;
6) Đạt được Dụng viên mãn của Phật, đó chính là Giải thoát không nghó bàn;
7) Đạt được Định viên mãn của Phật;
8) Đạt được Biện viên mãn của Phật;
9) Đạt được Giác viên mãn của Phật, nghóa là hiện rõ Đẳng Giác của Phật đối với chúng sinh. Sau là kết luận.
Trong phần thứ hai là kệ tụng, có 29 có kệ phân năm:
1) Đầu có hai kệ tụng về Thể của hạnh trước đây;
2) Từ “Bồ-tát tư duy…” trở xuống có bốn kệ tụng về hồi hướng
Chúng sinh và Bồ-đề;
3) Từ “Dó thử…” trở xuống có hai kệ tụng về hồi hướng
Thật tế;
4) Từ “Thâm lạc…” trở xuống có 16 kệ tụng về hồi hướng tự tại vô ngại thuần thục, đối với trăm môn
trên đây sơ lược tụng không hết, lại không theo thứ tự, trong đó bảy kệ đầu chính thức tụng về hồi hướng giống với
Như thuần thục trước đây, chín kệ
sau bao gồm tụng về quả của phần vị
sau, suy nghó có thể thấy;
5) Cuối cùng có năm kệ tụng về do hồi hướng
mà thành tựu đức, có thể biết.
* Thứ chín là
Vô Phược Vô Trước Giải Thoát Tâm Hồi Hướng,
có bốn môn phân biệt:

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Vô
Phược Vô Trước Giải
Thoát Tâm Hồi Hướng này dựa theo Đại hạnh Vô đẳng
mà lập thành tên gọi.
Không ràng buộc không vướng mắc, có sáu loại:
1) Bởi vì lìa xa phàm phu cho nên không ràng buộc sinh tử, bởi vì ra khỏi Tiểu thừa cho nên
không vướng mắc Niết-bàn;
2) Không ràng buộc vì lìa xa sáu Thức giữ lấy cảnh bên ngoài, không vướng mắc vì lìa xa Thức thứ bảy chấp ở bên trong;
3) Lìa xa hiện hành ràng buộc, không có chủng tử vướng mắc;
Không ràng buộc giữ lấy Hữu, không vướng mắc chấp
vào Không;

Không có ràng buộc của Hoặc chướng, không có vướng
mắc của Trí chướng;
6) Không có ràng buộc của Sử thô thiển,
 không còn vướng mắc của tập khí,
 cho nên gọi là Vô Phược Vô Trước,
 đây là trình bày về Thể của hạnh.
Giải Thoát là Đại
Dụng vô ngại, không phải là chỉ thoát khỏi
các chướng, đây là Dụng của hạnh. Tâm là Thể
của hạnh, tâm là chỗ dựa của Dụng, nghóa là tâm Đại Trí của Bồ-tát là chỗ dựa của thiện căn,

dùng thiện căn đã thâu nhiếp trong tâm này đều dùng để hồi
hướng, thành tựu đức
sâu rộng của
Phổ Hiền, cho nên lấy làm tên gọi, đây là
từ chủ động hồi hướng
mà lập thành tên gọi.

Hỏi: Văn sau
cũng có Vô Phược Vô Trước Giải Thoát Thân… đã thâu nhiếp thiện căn, cũng thành tựu hồi hướng, vì
sao nêu ra tên gọi
chỉ dựa vào tâm mà lập
thành tên gọi? Đáp: Lý thật thì gồm chung các loại còn lại, nhưng các loại
ấy ở trong ngàn môn
thuộc văn sau, trăm môn trong Vô Phược Vô
Trước Giải Thoát Tâm
này, ở phần văn hồi hướng mở rộng phân rõ, các loại còn lại đều dựa theo nối thông với nhau, vì vậy dựa vào nơi rộng
rãi này để làm tên gọi.

Ý
ĐƯA RA: Trước
là hiểu rõ Tướng thuận theo Thể, nay dựa
vào Thể phát khởi Dụng, bởi vì hiển bày thuần
thục tự tại, cho nên
đưa ra phần vị này.

THỂ CỦA PHÁP: Dùng
Đại Dụng thuộc ba nghiệp vô biên-tự
tại rất sâu-rộng lớn vô ngại của Phổ Hiền, làm
pháp của phần vị này.

GIẢI THÍCH VĂN: Ngay trong trường hàng cũng có hai, trước
là hạnh của phần vị, sau là quả của phần vị.

Trong phần trước là giải thích, trong giải thích có ngàn môn
phân hai: Đầu là mở rộng giải thích về trăm môn
trong tâm giải thoát không ràng buộc-không vướng mắc; 900 môn còn lại dựa theo thể lệ
giải thích chung.
Ngay trong phần đầu, trong trăm môn lại phân hai: 20 môn đầu phân rõ về Thể của hạnh có thể hồi hướng, 80 môn còn lại hiển bày về
Dụng của hạnh đã hồi hướng.

Ngay trong 20 môn đầu cũng có hai: Một,
10 môn đầu dùng tâm Bất khinh thâu nhiếp
thiện căn; Hai,
Từ “Thường lạc…” trở xuống là
10 môn tích tập nuôi lớn
muốn sử dụng để hồi hướng.

Trong 10 câu phần một: Đầu
là một tâm tổng quát phân rõ,
chín tâm còn lại là
hiển bày riêng biệt. Trong riêng biệt, dựa theo tổng quát nói đầy đủ thì phải nói là:
Không sinh tâm coi khinh đối với thiện căn ra khỏi
sinh tử, cho nên nói là tâm không coi khinh ra khỏi
sinh tá»­.
Sau đều dựa theo đây. Vì
sao? Bởi vì không coi khinh có hai nghóa:
1) Bởi vì từ Phật quả phát ra;
2) Có thể thành tựu Vô thượng Đại Bồ-đề, như trong kinh Pháp Hoa nói thậm chí xưng niệm một tiếng nhỏ đều đã thành Phật đạo…, như cây
Ni-câu-đà hạt nhỏ trái lớn…, như thiện niệm quét
tháp… trong phẩm
Hiền Thủ trước đây thành tựu đoan nghiêm
sáng ngời
trong Phật quả…, cho nên
không thể coi khinh.

Hỏi: Lý ra còn có thiện căn thù thắng vi diệu, vì sao văn sau
dựa theo một lần chắp
tay mà trình bày về không coi khinh? Đáp: Đây là điều nhỏ bé nhất mà người thế gian coi khinh,
Bồ-tát thâu nhiếp cho
đến đối với điều này hãy còn không coi khinh như
vậy, huống hồ tất cả
những điều khác, cho nên dựa theo như vậy mà phân rõ.

Trong riêng biệt:
1) Lìa bỏ pháp ác;
2) Thâu nhiếp pháp thiện;
3) Rộng tu những pháp còn lại, có thể biết. Trong phần hai là tích tập có mười câu: Đầu
là một câu tổng quát bởi vì không coi khinh các thiện căn trước đây, cho nên thường vui
thích thâu nhiếp tiếp
nhận pháp thiện ấy. Sau là chín câu riêng biệt:
1) Thâu nhiếp khiến cho không mê lầm;
2) Khế hợp tương ưng cho nên nói là an trú;
3) Nhớ nghó không gián đoạn;
4) Phương tiện khéo léo tăng thêm gọi là nuôi lớn;
5) Không để tâm nhiễm ô làm vấy bẩn thiện căn ấy, cho nên nói là không vướng mắc;
6) Chỉ dùng tâm ngay thẳng mà thành
tựu thiện căn, cho nên
nói là đầy đủ chính đáng…;
7) Không có sai lầm có thể loại trừ cho nên nói là không lựa chọn, lại cũng có pháp thiện này thu nhận cho nên nói
là không lựa chọn;
8) Có thể thành tựu Phật quả cho nên nói là tùy thuận;
9) Có thể đạt được Phật quả cho nên nói là đạt được tự tại.
 Câu trước thuận theo hướng về Phật quả,
 câu này chính thức đạt được Phật quả.
 Nêu ra thiện đã hồi hướng, xong.

Từ đây trở xuống là trong phần sau chính thức hồi
hướng, có hai: Một,
60 môn trình bày về hồi hướng rộng lớn; Hai, Từ
“Bất vọng thế gian…” trở xuống là 20 môn trình bày về hồi hướng rất
sâu xa,
sâu rộng vô ngại là Đại hồi hướng. Lại cũng đầu là hồi hướng
Chúng sinh và
Bồ- đề, sau là hồi hướng Thật tế.
Trong phần một có 60 môn, bên trong rộng lớn là hiển bày về
Đức Dụng tự tại của
Phổ Hiền. Trong đó, một môn đầu là tổng quát, nghóa là tâm giải thoát không gì ràng buộc-không gì vướng mắc là tâm có
thể hồi hướng; thiện căn ấy là các thiện căn đã thâu nhiếp trước kia,
hồi hướng đầy đủ…
chính là đã hồi hướng.

Hỏi: Vì sao
trong này không nói đến hồi hướng Chúng sinh? Đáp: Chỉ khiến cho thành tựu ba nghiệp của
Phổ Hiền, mới có thể tận cùng chúng
sinh giới mà thâu nhiếp giáo hóa, vì vậy cũng là
hồi hướng Chúng sinh…

Sau là riêng
biệt hiển bày về Đức Dụng thuộc ba nghiệp của
Phổ Hiền. Trong đó, chỉ
biết mỗi một môn đều thâu nhiếp Đức Dụng tự tại của pháp giới, hoặc là
Lý-hoặc là Hạnh, hoặc là
Trí-hoặc là Cảnh,
hoặc là hạnh
Tự lợi-hoặc là Hóa độ
chúng sinh, hoặc là
Thể-hoặc là Dụng, hoặc là
Nhân-hoặc là Quả, hoặc là
Người-hoặc là Pháp,
mỗi một loại đều tổng
quát thâu nhiếp tất cả các pháp, cho nên không thể nào thuận theo nhau phân tích
riêng biệt.
Nay sơ lược phân hai:
Một, 24 môn hiển bày về
nhân vị cứu cánh của Phổ Hiền; Hai, Từ “Ư
nhất nhất cảnh giới…”
trở xuống là 35 môn hiển bày về quả vị cứu cánh
của Phổ Hiền, bởi vì
trong môn Phổ Hiền gồm chung nhân quả, cho nên
có hai môn này. Lại giải
thích: Trước là dựa theo Tự phần, sau là
Thắng tiến, bởi vì hai
phần vô ngại vốn là đức của Phổ Hiền.
Trong phần một cũng có hai:
1) Mười bốn môn trình bày về ba nghiệp tự tại của Phổ Hiền;
2) Từ “Phục tác thị niệm…” trở xuống là mười môn trình bày về ba nghiệp rộng lớn của Phổ Hiền.

Trong phần một: Một môn
đầu là chỗ dựa của hạnh, nghóa là nhờ dũng mãnh tinh tiến khiến cho thành tựu đức của hạnh. Sau là trình
bày về đức đã thành
tựu: Đầu là bốn môn trình bày về Tổng trì vô ngại,
là ý nghiệp tự tại;
tiếp là sáu môn trình bày về Lực dụng vô ngại, là
thân nghiệp tự tại; tiếp là một môn trình bày về Viên âm vô ngại, là ngữ nghiệp tự tại;
sau cuối là hai môn trình bày về tự tại đối với
Chúng sinh thế gian và Khí thế gian.
Trong phần hai là trình bày về ba nghiệp rộng lớn, mười môn phân bốn: Đầu là ba môn trình bày về ngữ nghiệp rộng lớn của
Phổ Hiền, một là âm thanh thuyết giảng khắp nơi, hai là duy trì những pháp
đã thuyết giảng, ba là thuyết giảng
không ngừng; tiếp là hai môn trình
bày về thân nghiệp rộng
lớn, một là Thể, hai là Dụng; tiếp là hai môn
trình bày về ý nghiệp
rộng lớn, một là trí thuộc Nhân, hai là trí thuộc
Quả; sau cuối là ba môn
bao gồm kết luận về ba nghiệp, một là trình bày về
chịu khó mở rộng ba nghiệp, hai là trình bày về
thân-ngữ sâu rộng, ba là trình bày về ý nghiệp thâu
nhiếp pháp. Trên đây là nhân
của Phổ Hiền, xong.
Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về quả đức của
Phổ Hiền có 35 môn, tùy theo tướng phân ba:
1) Mười môn trình bày về đạt được đức thâu nhiếp pháp rộng lớn của Phổ Hiền;
2) Từ “Ư nhất niệm khoảnh tất năng…” trở xuống là mười lăm môn trình bày về thâu nhiếp pháp tự tại; Từ “Diệu trí tri sắc vi tế…” trở xuống là mười
môn trình bày về trí vi tế của Phổ Hiền.

Lại phần một
là biết về pháp trong một lớp bằng phẳng khắp nơi, phần hai là biết về pháp ngay trong nhau-hòa vào nhau trùng
trùng, phần ba là biết
về pháp vi tế dung nạp duy trì rất sâu xa. Đây cũng
là

tướng dần dần theo thứ tự.

Trong phần một là 10 môn:

Trí khéo léo tự tại, gọi là Vương phương tiện.

Vô minh trú địa không còn, gọi là Pháp Vương lìa si.

Tuệ soi chiếu pháp hành, gọi là Pháp Minh.

Khéo léo thành tựu hóa độ, gọi là
Phương tiện, trong đó nêu
ra mười loại, từ “Như thị đẳng…” trở xuống
là tổng quát kết luận về Vô tận.

Hỏi: Đoạn trước trình bày về nhân của Phổ Hiền, vì sao trong
đó cũng có hạnh của
Phật? Trong phần này trình bày về quả, vì sao
cũng có hạnh của Bồ-tát? Đáp: Biện
Công giải thích là phần trước nêu ra quả để hiển
bày nhân, phần này nêu
ra nhân để hiển bày quả. Lại nói là Bồ-tát tu hạnh cùng với Phật như nhau gọi là hạnh
Phổ Hiền, Phật thực hành Đại hạnh gọi là hạnh
Phổ Hiền. Nay lại giải thích trong kinh nói: Tuy đạt
được Phật đạo, chuyển
vận Pháp luân, tiến vào Niết-bàn, mà không rời bỏ đạo
của Bồ-tát, là hạnh
của Bồ-tát. Nghóa là nhân đầy đủ thành
tựu Dụng của quả, đạt
được quả mà không rời bỏ nhân. Lại do hai phần vị nhân-quả, ngay trong nhau-hòa vào nhau vô ngại đều thu
nhận pháp giới, nghóa là nhân tận cùng pháp giới đầy đủ đối với quả, quả
thâu nhiếp pháp giới
hàm chứa đối với nhân.

Thân nghiệp khiến cho vui mừng được thấy.

Khẩu nghiệp nhận biết lời nói thanh tịnh.

Trí biết tất cả các pháp.

Đạt
được tự Thể-Tướng-Dụng thuộc Pháp thân của Phật.

Đạt được căn viên mãn, căn có hai nghóa: a) Nghóa về
sinh sau, đó là xuất
sinh vô tận; b) Nghóa về thọ pháp, đó là căn khí tiếp nhận
giáo pháp. Không có hạn lượng cho nên dựa theo
nơi đã phát ra-nơi đã
tiếp nhận mà nói, và tự Thể sai biệt nêu ra 15
loại, có thể biết.

Đạt
được thần lực vô tận, trong đó một câu đầu
là tổng quát, mười câu
sau là
riêng biệt, dựa vào những Lực này mà tu hạnh Phổ Hiền.
Từ đây trở xuống là 15 môn trình bày về tự tại vô ngại thâu
nhiếp pháp trùng trùng, trong đó:

Thân và Trí vô ngại, nghóa là Thân có thể khắp nơi bên ngoài
mà hàm chứa bên trong, Trí hòa vào Vô sinh mà
phát sinh Đại hạnh.

Sinh vào nhà Như Lai, tu Trí thuộc hạnh pháp giới.

Dùng ánh mắt rộng khắp nhìn thấy pháp giới tự tại, cho nên

nói là đối với một phàm phu (mao đạo)… Con đường dung nạp một
mảy lông gọi là mao đạo,
trong đó có ba pháp viên mãn: a- Dung nạp tất
cả quốc độ dựa theo
Sự; b- Tất cả pháp giới dựa theo Lý; c- Đến tận
cùng Không giới ngay nơi Sự Không. Vì sao như vậy?
Nghóa là có hai nghóa: Một là bởi vì pháp tánh dung thông cho nên Sự thuận theo Lý dung hòa,
 hai là bởi vì tướng duyên khởi vô ngại cho nên ngay trong nhau-hòa vào nhau dung nạp duy trì tự tại. Môn này có Đồng Thể và
Dị Thể, dựa
theo trên suy nghó.

Trí tiến vào Kiếp tự tại, nghóa là dài-ngắn vô ngại.

Thân nghiệp tự tại, là khiến cho một thân ngay nơi nhiều, đều
dung nạp trong nhiều.

Thấy Phật nghe pháp tự tại, nghóa là không đắm vào Phật,
không trái với pháp.

Trí tiến vào Thế giới tự tại, nghóa là chuyển biến qua lại tùy
theo trí vô ngại.

Trí nhận biết về Tưởng tự tại, nghóa là tất cả
các pháp đều vốn là trong
Niệm Tưởng mà thành lập, vì vậy tất cả đều là Tưởng, trong đó có ba: a) Một câu là tổng quát; b) Nêu ra 38 loại Tưởng đã nhận biết; c)
Từ “Như thị…” trở xuống là hiển bày về đức
chủ động nhận biết, trước là trình bày về đức lìa xa tướng,
sau từ
“Nhất thiết
Như Lai…” trở xuống
là trình bày do nhận biết tâm mà thành tựu đức, có thể biết.

Trí nhận biết về
Tâm tự tại, là các tâm hòa vào nhau và nghiệp
dựa vào tâm khác.

Trí nhận biết về Xứ tự tại, nghóa là một ngay nơi tất cả…

Trí nhận biết về Nghiệp tự tại.

Trí nhận biết về Pháp tự tại.

Trí nhận biết về Ngữ tự tại, nghóa là đạt được
Nhó căn thanh tịnh vô ngại.

Trí có thể nhận biết về Căn mà thuyết pháp.

Trí nhận biết về Căn tự tại. 15 môn trên đây đều là một trong
tất cả mà nhận biết rõ ràng vậy thôi.

Từ đây trở xuống là 10 môn trình bày về Trí vi tế tự tại của Phổ Hiền:

Trình bày Trí vi tế nhận biết về Pháp thế gian, trong đó có ba:

Một câu tổng quát nêu ra Trí chủ động nhận biết.

Nêu ra 11 loại pháp vi tế.

Pháp sư
Diễn nói: Sự thụ động nhận biết
sâu xa, Trí chủ động

nhận biết vi tế.

Biện Công nói: Những loại này đều khó biết, cho nên gọi là vi
tế. Nay dựa theo kinh văn
trên-dưới, ở trong một pháp có tất cả các
pháp, rõ ràng như nhau
cùng lúc hiển hiện, là nghóa về vi tế.

Từ “Như thị…” trở xuống là trình bày về đức chủ động nhận
biết.

Trí vi tế nhận biết về Chúng sinh, đầu là nêu ra mười loại thụ

động nhận
biết, sau là kết luận về đức chủ động nhận biết.

Trí vi tế nhận biết về Đức thuộc hạnh của Bồ-tát,
nghóa là nêu ra
Sơ phát tâm…, chọn lấy tất cả Bồ-tát, nêu ra 21 loại vi tế đã nhận biết.

Trí nhận biết về Đại Dụng của đức ở phần vị
Bồ-tát: a) Nêu ra
42 loại đã nhận biết, 11 loại đầu trình bày về
phần vị của hạnh thành
tựu đầy đủ, từ “Đâu-suất Thiên…” trở
xuống trình bày về phần vị đầy đủ Đại Dụng, đó là tám tướng… b)
Từ “Như thị…” trở xuống trình bày về đức chủ động nhận biết, đó là thành tựu đức thuộc hạnh tự tại
của Phổ Hiền.

Trí nhận biết về Tánh của
chúng sinh, trước là nêu ra 10 loại đã
nhận biết, sau từ “Như thị…” trở xuống là đức
chủ động nhận biết.

Trí nhận biết về
Thế giới, đầu là một câu tổng quát, tiếp là nêu
ra 20 loại riêng biệt có ba thế gian tự tại, sau từ
“Như thị…” trở xuống
là kết luận về đức chủ động nhận biết. Lại
những môn này đều nói về Trí vi tế là Trí thuận theo cảnh mà gọi tên. Lại vi tế này ở trong Trí cho
nên Trí tức là vi tế.

Trí nhận biết về
Pháp giới, trước là nêu ra đã nhận biết, một loại là tổng quát, mười loại là
riêng biệt;
sau là kết luận về đức
chủ động nhận biết.

Trí vi tế nhận biết tiến vào Kiếp, đầu là một câu tổng quát, từ
“Vô lượng…” trở xuống là riêng biệt nêu ra
10 loại; sau từ “Như thị…”
trở xuống là kết luận về đức chủ động nhận
biết, thành tựu mười loại
tâm, có thể biết.

Trí vi tế nhận biết về Pháp, trước là nêu ra 10 loại
Trí vi tế về pháp,
sau từ “Như thị…” trở xuống là kết luận về thành tựu đức chủ động
nhận biết. Nghóa về pháp trong mục trước có bốn
lớp: a) Thể của pháp đầy đủ đức; b) Tất cả tức là một… trình bày về Dụng của pháp ngay
trong nhau; c) Tiến vào không phải pháp… là trình
bày về Lý-Sự ngay
trong nhau; d) Tiến vào phương tiện vô dư là Thể-Dụng khéo léo.

Trí vi tế nhận biết về
Vô dư, trước là nêu ra mười loại đã nhận biết,
sau từ “Như thị…” trở xuống là kết luận về đức chủ động nhận
biết. Đều
xuất sinh, nghóa là
Lượng Trí từ Lý phát khởi gọi là xuất
sinh; nhận biết không có gì không tận cùng gọi là vô dư. Môn này cũng
là tổng quát kết luận,
cho nên nói là nhận biết không sót lại gì. Trên
đây là phần hồi hướng rộng lớn, xong.
Từ đây trở xuống là trong phần hai trình bày về hồi hướng
rất sâu xa, trong 20 câu đều hai câu một kết hợp nêu ra tổng quát làm thành 10 cặp:
1) Thế gian và pháp thế gian giả-thật trái ngược nhau.
2) Bồ-đề và Bồ-tát toàn phần là một cặp.
3) Thể và Dụng là một cặp, hành
là Thể, ra khỏi sinh tử
là Dụng. Lương Nhiếp Luận nói: “Đối với tánh
Y tha phân biệt, không
thấy hạnh mà Bồ-tát đã thực hành và hành
đạo.” Là nói đến
nghóa này.
4) Nhân và Pháp.
5) Sinh và Thục.
6) Hành và Nguyện.
7) Tự và Tha.
8) Thí và Thọ.
9) Nhân và Quả.
10) Cảnh và Trí. Những loại này là các sự việc trong hồi hướng rộng lớn trước đây, tuy thành tựu đức tự
tại rộng lớn mà đối với pháp ấy không có chấp
thủ sai trái, vì vậy đều nói là không giữ lấy hư vọng. Trên đây là
trăm môn, xong.

Từ đây trở xuống là trong phần hai tương tự 900 môn còn lại, nêu
ra 10 loại Chương môn: Một
Chương đầu là kết luận những loại
thuộc về 100 môn trước
đây, chín Chương còn lại theo thứ tự kết luận về
900 môn sau, nghóa là như thiện căn do Tâm không ràng buộc-không vướng mắc đã thâu nhiếp thành tựu 100 môn hồi hướng này, thiện căn do
Thân giải thoát không
ràng buộc-không vướng mắc đã thâu nhiếp cũng
hồi hướng như vậy; còn
lại đều dựa theo đây.

Trong mười Chương: Đầu là
ba chương về ba nghiệp; tiếp là hai chương về
nghiệp báo; tiếp là hai chương về quốc
độ nhiễm-tịnh, nghóa là thế gian nhiễm ô là nơi giáo hóa; tiếp là hai chương về căn và
thuốc, nghóa là chúng
sinh là đã giáo hóa, pháp là
thuốc pháp;
sau cuối là
một chương về Chánh trí.
Mười chương này đều là tự tại không có gì ràng buộc mà phát
sinh thiện căn, bởi vì thành tựu hồi hướng đầy đủ đức
của Phổ Hiền, cho nên
đều nói là giải thoát không ràng buộc-không vướng mắc. Một chương đầu thiết lập hồi hướng thiện căn như vậy, còn lại
tóm lược mà dựa theo,
đều có đủ tất cả, nên biết! Trên đây là mở rộng
và tóm lược toàn bộ
1000 môn về Đại hồi hướng, xong.

Từ đây trở xuống trong phần sau là trình bày về quả
của phần vị,
có hai: Đầu
là quả thuộc thực hành, sau là quả thuộc phần vị.

Trong phần đầu có mười câu: 1,2,
3) Ba câu đầu là thực hành hồi hướng giống như chư Phật và Bồ-tát ba đời;
4) Đạt được Chánh giáo;
5) Đầy đủ Chánh pháp, nghóa là Chứng pháp;
6) Cảnh giới như nhau, nghóa là chúng sinh làm cảnh của Bi;
7) Thiện căn như nhau;
8) Cư trú như nhau, nghóa là vùng đất Đại Bi là nơi cư trú, luận gọi là Phạm Trú;
Cùng chung một cảnh, đó là
Chân đế;

10) Không trái với chủng loại, không ngăn ngại nhiều. Trên đây là phần giải thích, xong.

Từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận về tên gọi.
Quả thuộc thực hành, xong.

Phần sau là trình bày về quả thuộc phần vị, trong đó có 12 câu
đạt được hai loại quả:
1) Hiện thành quả;
2) Chuyển sinh quả.
Hiện thành cũng có hai: a) Quả của hạnh kiên cố; b) Quả của hạnh
thù thắng. Một, hai câu đầu nêu ra hai quả này, từ
“Nhất thiết
chúng ma…” trở xuống là giải thích hiển bày về
quả của hạnh kiên cố;
hai, từ “Phổ hiện…” trở xuống là ba câu giải
thích về quả của hạnh thù thắng, một là hạnh rộng lớn thù thắng, hai là khéo léo hóa độ thù thắng,
ba là lìa nhiễm thù thắng.

Từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là
sáu câu trình bày về
Chuyển sinh quả, cũng có hai: a-Bên ngoài đạt được quả
quyến thuộc, nghóa là
không hủy hoại quyến thuộc; b-Bên trong đạt được
quả thành tựu đức có năm câu, một là thành tựu đức của pháp khí, hai là đức của hạnh
sâu
xa, ba là đức của nhân tròn vẹn, bốn là đức
của Dụng thuộc quả, năm
là đức của nhân quả vô ngại.

Trong phần thứ hai là kệ tụng, có 51 kệ phân ba: Một, ba kệ tụng về Thể của hạnh đã
hồi hướng; hai, từ “Sở tác…” trở xuống là 44
kệ tụng về hồi hướng
rộng lớn, lược qua không tụng về hồi hướng rất sâu xa; ba, từ “Quá khứ nhất thiết…” trở xuống là bốn kệ tụng về do
hồi hướng mà thành tựu quả.
Ngay trong phần hai là 44 kệ: Một kệ đầu tụng về nhân vị cứu cánh của
Phổ Hiền, kệ còn lại tụng về nhân tròn vẹn-quả
đầy đủ, trong đó: Đầu từ “Thế gian vô lượng quần
sinh…” là một kệ tụng về
Trí vi tế nhận biết Thế gian;
tiếp một kệ tụng về Trí vi tế nhận biết Nẽo
của chúng sinh; tiếp một kệ tụng về Trí nhận biết
Thế giới; tiếp một kệ
tụng về Trí nhận biết
Tâm; tiếp một kệ tụng về Trí nhận biết Căn; tiếp
một kệ tụng về Trí nhận
biết Nghiệp; tiếp ba kệ tụng về Trí tiến vào
Kiếp và nhận biết
Si-Mạn… của ba đời. Tiếp từ
“Thập phương thế giới chư Như Lai…” trở xuống là 27 kệ tụng về phần vị của hạnh
Bồ-tát thành
tựu đầy đủ Đại Dụng,
trong đó: Đầu là một kệ tụng về tổng quát; tiếp một kệ tụng về an trú cõi
trời Đâu-suất; tiếp một kệ tụng về
Nhập thai, là vi tế cho nên trong thai có đủ tám tướng; tiếp hai kệ tụng về
Đản sinh; tiếp bốn kệ tụng về bảy bước-ngay lúc đó mỉm cười-thử gầm lên-phát ra ánh

sáng, đều
là một kệ tụng, có thể biết; tiếp một kệ tụng
về tại cung
và xuất gia; tiếp năm kệ tụng về ngồi nơi đạo tràng-hàng ma-thành
Chánh giác; tiếp năm kệ
tụng về chuyển Pháp luân; tiếp ba kệ tụng về
nhập Niết-bàn, cũng là
hiển bày thị hiện tự tại ở những nẽo khác; tiếp
một kệ kết luận về hồi
hướng thiện căn của Bồ-tát này; tiếp ba kệ tụng về nghi thức thực hành của hồi hướng Đại quả. Trên đây là
Dụng của phần vị, xong. Tiếp từ
“Hữu số vô
số…” trở xuống là bốn kệ tụng về tiến vào Kiếp và quốc độ đều là hạnh đã thực hành; tiếp hai kệ tụng về
Trí xuất sinh-vô dư; tiếp một
kệ tụng về Trí vi tế thuộc Tánh của chúng sinh.

Trong phần ba
là bốn kệ tụng về phạm vi của quả ấy, hai kệ
đầu tụng về quả thuộc
thực hành, hai kệ sau tụng về quả thuộc phần vị, có thể biết.
* Thứ mười là
Pháp Giới Đẳng
Vô Lượng Hồi Hướng, cũng
đưa ra bốn môn:

GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Pháp Giới Đẳng
Vô Lượng Hồi Hướng là từ pháp lập thành tên gọi, có bốn nghóa:
1) Dựa theo pháp thực hành mà hồi hướng, nghóa là bởi vì thực hành Pháp thí mà thành tựu hồi
hướng, cho nên gọi là Pháp Giới Đẳng;
2) Dá»±a
theo Thể của hạnh đã
hồi hướng, nghóa là Thể của hạnh đã hồi hướng
rộng lớn vô biên giống như pháp giới;
3) Dá»±a
theo trí chủ động hồi hướng;
4) Dựa theo đức đã
hồi hướng, nghóa là dùng thiện căn sánh bằng
pháp giới để hồi hướng Đại Trí xứng với pháp giới, nhờ vào Đại Dụng hồi hướng pháp giới cho nên lập thành tên gọi. Đây là phần vị đầy đủ đến tận cùng, cho nên nêu
ra mà gọi là Pháp Giới.

Ý ĐƯA RA:
Trước trình bày dựa vào
Thể khởi Dụng, ở đây trình bày về
Thể-Dụng vô ngại, trọn vẹn vô cùng tự tại cho nên
tiếp theo đưa ra.

THỂ CỦA PHÁP: Dùng
Pháp thí rộng lớn thành tựu đức Đại
thiện xảo tự tại của Phổ Hiền, là Thể của pháp này.

TRONG VĂN GIẢI THÍCH: Trong
trường hàng cũng có hai:
Hạnh của phần vị, quả của phần vị.

Trong hạnh có
ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.

Trong giải thích có ba: Một,
Nêu ra Thể của hạnh; Hai, Từ
“Ma- ha-tát ư bỉ thiện
căn hồi hướng…” trở xuống là chính thức trình bày
về hồi hướng; Ba, Từ
“Như thị hồi hướng thời…” trở xuống là trình bày
do hồi hướng mà thành tựu đức.

Trong phần một có ba:
1) Nêu ra hạnh đã thành tựu;
2) Từ “Ma- ha-tát…” trở xuống trình bày về nuôi lớn thiện căn. Lại trước là Tự phần,
 sau là Thắng tiến. Lại trước là Lợi tha, sau là hạnh Tự lợi.

Trong phần một có mười câu: Đầu
là một câu tổng quát trình
bày về đạt được phần
vị Pháp sư, như Địa thứ mười tiếp nhận phần vị từng phần đạt được
Tam-muội Ly Cấu, cấu nhiễm này không còn thì
tiếp nhận chức vị đầy
đủ, bên trong đạt được Định ấy rưới vào đỉnh đầu
của tâm, tướng bên
ngoài biểu hiện rõ ràng, cho nên nói là Hệ Đảnh. Pháp từ dụ gọi tên là
Ly Cấu Hội, chỉ có màu vẽ (Hội) này gắn trên đỉnh
đầu liền biết. Người
ấy đạt được pháp lìa xa cấu nhiễm, tiếp nhận phần vị thành tựu đầy đủ,
 nhờ đạt được phần vị này mới có thể thuyết pháp như mây ùn mưa tuôn, làm nhiều lợi ích cho
chúng sinh, vì vậy nói là thọ ký Đại
Pháp sư. Lại như trong
kinh Lăng Già,
Bồ-tát Thập Địa như Đại Tuệ… được Đức Phật tự tay dùng thần lực rưới trên đảnh, cho nên có
thể tự tại thuyết pháp, giống như ở đây.
Nhưng tiếp nhận chức vị
có hai: Một,
Dựa theo Dụ, như
Thái tử của
Luân Vương tiếp nhận địa vị… Hai, Dựa theo
Lý hành, như trong tâm chứng Lý rưới trên đỉnh của
Trí ấy, dựa theo Sự của phần vị
có năm lớp: a) Dựa theo
Tín-Hạnh đầy đủ, nói như phẩm
Hiền Thủ; b)
Dựa theo Trú đầy đủ, như
Trú thuộc quán đảnh trên đây và phân rõ ở phần Đức Phật thuyết pháp trên đỉnh đầu
Tỳ-kheo Hải Tràng sau này; c)
Dựa theo phần vị của Hạnh, nói như ở phần
Thập Hạnh đầy đủ, tiến vào pháp
giới Nhân-đà-la vi tế…; d) Dựa theo phần vị
Thiện xảo, nói như phần vị này;

e) Dá»±a theo
phần vị Chứng, nói như Địa thứ mười.
Trong năm lớp này tùy theo một nơi thành tựu thì chắc chắn có đủ
Lý hành, bởi vì tương ưng bên trong. Lại trong năm lớp này, chỉ một phần vị đầy đủ thì nhân tròn vẹn cứu cánh lại không cần đến phần
vị khác. Lại nếu đạt
được một phần vị thì đạt được phần vị khác.
Lại toàn bộ là tiếp nhận
chức vị thuộc một pháp giới, tùy theo môn sai biệt mà năm phần vị không
giống nhau, Thể của pháp dung thông hàm chứa thâu nhiếp vô ngại. Đây là dựa theo tong chỉ của Viên giáo mà nói, nếu trong những Giáo khác thì không nối thông với
sự việc này, dựa
theo đó suy nghó.
Sau là chín câu riêng biệt hiển bày về đức của
Pháp sư:
1) Một câu trình bày thiết lập về đức của Pháp sư, có thể mở rộng pháp thí là phân rõ về Tuệ không
cạn; thành tựu Đại Từ Bi là hiển bày tâm thí vô tận; an lập như nhau là do bố thí mà thành tựu lợi ích, nghóa là khiến
cho đạt được Đại tâm,
thành tựu Đại hạnh, mới chính là pháp thí. Kinh nói: “Nếu vì Tiểu thừa mà hóa độ thì Ta rơi vào tham lam keo kiệt.”
Vả lại, Pháp thí vượt qua Tài thí trăm ngàn ức lần cho đến bất
khả thuyết, phạm
vi không gì
sánh được
Pháp thí, như luận
Trượng Phu Hành v..v…
Cổ đức nói: “Nói đến
Pháp thí: Một là phát khởi, dùng trí tuệ làm phương
tiện tuyệt vời để phát
sinh hiểu biết; hai là chuyển hóa, dùng nhiều
người làm dấu chân mở
rộng của bến bờ vượt qua; ba là làm căn bản để
khởi hạnh, dựa vào đây mà giải thích tốt đẹp;
bốn là làm bậc thềm tiến
vào Thánh, dấu hiệu
hướng dẫn đến con đường chính.” Trong kinh này dựa vào con người để hoằng đạo, phần nhiều khen ngợi về đức thù thắng của
Pháp sư, dựa vào hạnh để biểu thị cho pháp, thường dẫn ra
Phổ Hiền làm bài cuối,
cho nên biết Pháp thí là đạo của cứu cánh, Trí tuệ là cuối cùng của đầy đủ, công lao Tự lợi-Lợi tha còn mãi chỉ là
Pháp thí.
2) Lợi ích nhiều thêm…, là trình bày về thường xuyên bố thí, nghóa là dùng tâm Bồ-đề
sinh ra và nuôi lớn thiện căn làm lợi ích nhiều cho chúng
sinh không
ngừng nghỉ.
3) Thành lập tên gọi của Sư, nghóa là làm vị thầy giảng dạy,
chỉ ra con đường thành Phật.
4) Dùng mặt trời
giáo pháp để soi chiếu,
trước Sư là pháp này cho nên gọi là Pháp sư, tức là trao cho pháp thực hành.
5) Hiển bày về tâm của Pháp sư, đó là tâm bình đẳng, là tâm không thiên vị, tâm rộng lớn, tâm không điên đảo, muốn khiến cho như
nhau là tâm bình thường.
6) Tăng trưởng…, là trình bày về phước-tuệ chuyển hóa tăng thêm hai trang nghiêm, nói thiện căn là phước.
7) Vì chúng sinh…, là trình bày về tướng của dẫn dắt, chọn lấy nơi quý báu là chỉ rõ con đường đúng đắn.
8) Bởi vì Lợi tha là trước phải tu các hạnh, cho nên có thể lầm Pháp sư Từ Bi.
9) Giáo hóa khiến cho sự việc thay đổi, những thiện hữu khác không hạn chế đối với mình, là Pháp sư Vô Trước, như tri thức
Thiện Tài lại chỉ rõ người khác
khiến cho họ mong cầu là vậy.
Trong phần hai là trình bày về nuôi lớn thiện căn, có
sáu câu:
Một, Dựa vào
Pháp thí này khéo léo thâu nhiếp tâm đạt được Phật quả;
Hai, Thấu đến bờ
giải thoát; Ba, Dựa vào Pháp thí khéo léo tu tâm
Bồ-đề Kim Cang; Bốn,
Thành tựu Đại nguyện; Năm, Dựa vào thiện hữu
với ý đích thực cầu
pháp; Sáu, Thông hiểu rõ ràng về cảnh của quả, vì
vậy khiến cho Pháp thí
trước đây lại càng rộng thêm. Thể của hành, xong.

Từ đây trở xuống là phần hai chính thức trình bày về hồi hướng,
trong đó cũng có hai: Đầu là dùng thiện căn thành
tựu hồi hướng rộng lớn;
sau từ “An lập pháp giới…” trở xuống là thành tựu hồi hướng rất
sâu
xa. Trước là hồi hướng Chúng sinh và Bồ-đề, sau
là hồi hướng Thật tế. Trong phần đầu là rộng lớn có 15 môn: Thứ nhất là một môn dùng thiện căn
ấy hồi hướng thấy Phật mà tu Phạm hạnh Tự-Tha, trong đó có ba:
1) Dùng thiện căn hồi hướng nghó đến giống như hạnh của chư

Phật Bồ-tát ba đời, thiết lập về
Tưởng kỳ lạ.
2) Từ “Đắc thị tưởng cố…” trở xuống là trình bày dựa vào Tưởng mà được thấy Phật.
3) Từ “Chư Phật Bồ-tát…” trở xuống là trình bày dựa vào Phật khởi hạnh, trong
đó có ba: Một, Vì người
mà tu tập công hạnh của mình; Hai, Dùng
chính mình để chuyển hóa
người khác thực hành; Ba, Từ “Hà dó…” trở
xuống là giải thích về
người khác chuyển hóa bởi vì thuận theo mình.

Trong phần một có 20 câu: Đầu
là 10 câu trình bày về đã thành tựu; sau là 10
câu thuận theo trên.

Trong 10 câu đầu: Trước
là năm câu về lìa nhiễm:
1) Tổng quát hiển bày;
2) Tánh thành tựu;
3) Oai nghi đầy đủ;
4) Tánh lìa cấu trược;
5) Oai nghi trong sáng. Sau là năm câu thuận theo pháp:
1) Giữ gìn tâm hạnh vững chắc;
Duyên bên ngoài không hủy hoại;
3) Trên thuận với tâm Thánh;
4) Dưới không có mong cầu gì khác, cho nên nói là không nương tựa gì;
5) Xứng với lý bình đẳng, cho nên không hề có gì.
Trong 10 câu sau là thuận theo trên:
1) Không chấp trước gọi là lìa xa điên đảo;
2) Không bị trói buộc gọi là Vô ngại;
3) Không giữ lấy Giới tướng mà còn lìa xa Giới thủ;
4) Dùng
tâm bảo vệ chúng sinh gọi là
Vô tranh, lại không phản đối chế định trước đây, không tạo
lập thêm nữa;
5) Không sai lầm gì có thể chọn lựa;
6) Khế hợp tương ưng cho nên nói là an trú;
7) Vượt qua Nhị thừa;
8) Tâm niệm chuyên chú cho nên bất động;
9) Không phân tán;
10) Lìa xa nóng giận, đều lìa nhiễm đến cuối cùng, cho nên nói là Phạm. Từ đây trở xuống là tự mình thực hành để chuyển
hóa người khác, có 12 câu: Đầu là một câu nêu ra chính mình để ví dụ
người khác;
từ “Tu tập…” trở
xuống là riêng biệt hiển bày khiến cho người khác thành tựu:
1) Bắt đầu tu;
2) Thực hành đầy đủ;
3) Không có sai lầm;
4) Không chấp;
5) Hiểu rõ lý;
6) Lìa xa Ngã;
7) Lìa xa mê hoặc;
8) Lìa xa vi phạm,
9) Lìa xa vô tàm;
10) Giữ tâm quyết định;
11) Không miễn cưỡng sinh ra buồn phiền. Trong phần ba là giải thích về thành tựu, có hai: Đầu là giải thích
ngược lại, sau là giải thích thuận theo.

Trong phần đầu, nguyên cớ thế nào là nêu ra hỏi rằng:
Trong này Bồ-tát hạnh đã
đầy đủ, vì sao không chỉ thuyết pháp chuyển hóa
người khiến cho tu Phạm
hạnh mà lại tự mình tu tập? Sau giải thích: Nếu tự mình không tu tập mà khiến cho người khác tu tập, thì không có
điều này, có mười câu
có thể biết. Nhiếp Luận nói: “Nếu tự mình ở
trong tà hạnh, giả sử muốn sửa chữa điều sai lầm
của người khác, thì người này
rốt cuộc
không thể nào chặn đứng sai lầm của người khác.”

Sau từ “Hà dó cố…” trở xuống là trong phần giải thích thuận
theo. Trước nêu ra hỏi
rằng: Tự mình đã không tu tập thì khuyên dạy người khác
không được, nếu mình thực hành thì có thể khuyên dạy người
khác chăng? Sau trong giải
thích: Trước là tổng quát giải thích, tự mình như lời nói thực hành lìa bỏ
sai trái, có thể giải thích về lìa bỏ
sai trái
để giảng dạy cho người,
thì lời nói và việc làm tương ưng, cho nên nói
là lời nói chân
thật-việc làm chân thật. Sau trình bày về lợi ích
thanh tịnh ba nghiệp, lìa nhiễm-diệt chướng. Sau là
riêng biệt giải thích, tự
mình thực hành khuyên
dạy người khác có năm câu: a) Thẳng thắn, b) Nhẫn nại, c) Lìa bỏ nghi ngờ, d)
Tin tưởng, e) Kiên định đối với pháp.
Hồi hướng thiện căn như
vậy là kết luận về hồi hướng trên đây. Thứ hai từ
“Phục thứ…” trở xuống là trình bày về hồi hướng khiến cho đạt
được các pháp, trong đó
có mười câu:

Khiến cho đạt được pháp môn, nghóa là có thể Chứng pháp, có
thể bẻ gãy tà luận.

Từ “Tất đắc tam thế…” trở xuống là khiến cho đạt được
Pháp Hải: Trước là tổng quát nêu ra;
sau từ “Ư nhất nhất…” trở xuống là riêng
biệt hiển bày về mười loại pháp hải: Một, Sinh
pháp là thiết lập
Tông tướng; Hai, Phương tiện là nhờ vào các ví dụ
khéo léo thành tựu
Tông pháp; Ba, Ngữ ngôn pháp là tùy theo quy phạm ngôn
ngữ của từng
địa phương; Bốn, Thi thiết là đưa ra tên gọi đối với nghóa, và tùy theo ý thích của căn cơ mà lập nghóa, thành tựu theo thứ tự
trước sau; Năm, Văn giáo làm thành quy phạm, lại
sắp xếp phân bố theo quy phạm
của giáo; Sáu,
Nhờ vào ngôn từ hiển bày nghóa lý, giải thích
trao cho nghi thức; Bảy,
Thuyết giảng hiểu rõ thông
suốt gọi là Môn, cũng là pháp môn của
các Tông; Tám, Khiến cho người hiểu rõ thông
suốt gọi là Nhập; Chín, Tông nghóa rõ ràng khiến cho quyết định
hiểu rõ; Mười, Kết luận về Tông cứu cánh thành tựu về nghóa an lập gọi là
Trú pháp, đều đạt được
pháp tạng vô tận là tổng quát kết luận về pháp đã đạt được.

Từ “Đắc vô úy pháp…” trở xuống là khiến cho đạt được Pháp Biện.

Từ “Đắc bất thối…” trở xuống là khiến cho đạt được Pháp Minh.

Từ “Đắc pháp giới đẳng vô lượng thân…” trở xuống là khiến
cho đạt được Pháp Thân.

Đạt được Pháp Trú.

Đạt
được Pháp Thật cho nên nói là pháp quyết định.

Học nhiều pháp.

Trú trong pháp thực hành.

Hướng về Nội chứng.

Từ “Như thị hồi hướng…” trở xuống là kết luận về thành tựu quả.
Thứ ba từ
“Phục thứ…” trở xuống là trình bày về hạnh Tự lợi-Lợi tha tròn vẹn: Đầu là 10 câu về hạnh Tự lợi tròn vẹn, nghóa là thấy pháp
giới cùng với vô lượng chư Phật…, có thể
biết; từ “Phục tác thị niệm…”
trở xuống là trở lại giúp cho chúng sinh giống như
mình, cho nên nói là
như mình không khác, 11 câu đều hiển bày về không có khác nhau.

Thứ tư từ “Phục thứ…” trở xuống là trình bày về hạnh xứng với pháp giới, cũng có 10 câu: Đầu là Trí dựa vào Lý phát khởi bởi vì cũng
cùng là tánh vô biên; pháp giới trang nghiêm chúng
sinh, có ba nghóa:

1) Dựa vào pháp giới này mà chúng
sanh được thành tựu, cho nên nói
là trang nghiêm;
2) Bởi vì chúng sinh tức là giống như pháp giới, khiến cho chúng sinh ngay nơi đó thanh tịnh, cho nên nói là trang nghiêm;
3) Bởi vì chúng sinh giống như pháp giới thâu nhiếp ở trong Duyên khởi
môn của Đại pháp giới,
vì vậy khiến cho chúng sinh đầy đủ đức.
Thứ năm từ
“Phục thứ…” trở xuống là trình bày về được thấy
Phật hiểu rõ pháp, trong đó có ba: Một,
Tổng quát. Hai, Có 10 câu về
được thấy Phật thành tựu hạnh. Ba, Có 10 câu về
hiểu rõ pháp giới:
1) Không biến đổi tùy theo duyên, cho nên
không sinh;
2) Bởi vì không giữ lấy tánh;
3) Bởi vì không hai;
4) Không phải là chủ động dựa vào;

5) Hư vọng không thể nào vấy nhiễm;
6) Không phải là thụ động duyên, cho nên lìa xa
tÆ°á»›ng;
7) Không phải là chủ động duyên, cho nên
vắng lặng;
8) Khắp tất cả mọi nơi mà không phải là tất cả mọi nơi, cho nên nói là không có nơi chốn;
9) Tùy theo lưu chuyển không mất đi nhiễm ô hiện tại không quy tập, lại rời bỏ nhiễm không mất đi thanh tịnh hiện tại không quy tập;
10) Tánh ở trong các phần vị không thay đổi, cho nên nói là không hủy hoại, chiếu rọi thông hiểu pháp giới như nhau gọi là Giải.
Thứ sáu từ “Phục thứ…” trở xuống là khiến cho
chúng sinh trở thành
Pháp sư. Trong đó khiến cho trở thành 20 loại
Pháp sư, khiến
cho chúng sinh thành Phật
và Đại Bồ-tát là Pháp sư. Trong 20 câu đều
có hai, đều trước là
nêu ra tên gọi của Pháp sư, sau là giải thích hiển
bày về nghóa, cũng là do
việc làm, bởi vì vốn là cùng loại hồi hướng, là
hồi hướng thiện căn
của Pháp thí khiến cho trở thành Pháp sư… Như
phẩm Pháp Sư trong kinh Pháp Hoa v..v… Như phẩm Pháp Sư trong kinh Đại Bồ
Tát Tạng v..v…
Kinh Nhân Vương có 13 loại
Pháp sư, đó chính là 12

Trú và Phật. Lại ở mười phương thế giới
sau khi
Phật diệt độ, bảo vệ
và thọ trì Chánh pháp
của Như Lai, thuyết giảng rộng ra, truyền bá khắp nơi, khai hóa không dứt là
Pháp sư, như
Pháp sư
Biện Tích, Pháp sư Na-la-diên,
Pháp sư
Tha-ma Thất-lợi…., đều do những người ấy làm
cho Phật pháp tiếp tục
phát triển tồn tại lâu dài ở thế gian…, đây là
Pháp sư duy trì Chánh pháp.
Hiểu rõ các ma sự, như trong luận Trang
Nghiêm: “Có ma giả hiện bày
thần thông, dấy lên hình
dạng La-hán, làm cho mê hoặc rối loạn, các
Tỳ-kheo ngu
si đều quy phục.
Có Tỳ-kheo đa văn dùng tấm
đá A-tỳ-đạt-ma, mài vào vàng giả tức thì lộ bày, liền
trách mắng ma đó, những
người ngu si khác nổi giận đối với Pháp sư này,
về sau quả nhiên mới
biết v..v…”

Thứ bảy từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về hạnh không phân biệt lựa chọn, không lựa chọn là không phân biệt. Lại bởi vì những
việc đã làm đều xứng với tánh, không có gì sai
lầm, không thể nào lựa chọn loại bỏ, cho nên nói là không lựa chọn. Trong văn có 10 câu thành
tựu pháp, là pháp của quả đã thành tựu. Những
câu còn lại có thể biết. Thứ tám từ
“Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về thành tựu
Đại
hạnh Vô trước, trong đó có hai: Một
là trình bày về Vô trước,
tóm lược những điều
không mong muốn; hai từ “Đản dục…” trở xuống
trình bày về ý nguyện
vui thích là vì thành tựu Đại hạnh.
Trong phần một có 18 câu: Đầu là 17 câu về bảo vệ phiền não không đắm theo thế gian;
sau là một câu về bảo vệ Nhị thừa không đắm theo quả nhỏ bé. Hồi hướng tâm hiểm ác là như Sa di hồi hướng
làm rồng… Hồi hướng
hủy hoại thiện căn là hồi hướng làm Ma vương… và làm Đại Lực vương tiêu diệt
Tam Bảo…, ở đây không có điều ấy.
Trong phần hai là mong muốn thành tựu Đại hạnh có 9 câu, nghóa là bởi
vì thành tựu Đại hạnh
Phổ Hiền của mình và người, cho nên hồi hướng.

Thứ chín từ “Ma-ha-tát như thị bình đẳng tâm…” trở xuống là trình bày về đích thực mong cầu Đại hạnh,
 trong đó có bốn: Một có 10 câu trình bày về tâm chủ động hồi hướng. Hai từ “Linh nhất thiết
chúng sinh…” trở xuống
là 42 môn hồi hướng mong muốn thành tựu Đại
hạnh của mình và người,
trong đó phân biệt duyên khởi đạt được pháp
hóa sinh ra tâm, nghóa là do phân biệt pháp ấy mà
sinh khởi
Trí của tâm,
cho nên nói là từ pháp
hóa sinh, những loại này đều là Đại hạnh Phổ
hiền. Ba là trình bày về
lìa nhiễm, trước là nêu ra, từ “Hà dó cố…” trở
xuống là giải thích về
thành tựu lìa nhiễm. Bốn từ “Như thị hồi hướng
thời…” trở xuống là
kết luận về lợi ích của hồi hướng.
Thứ mười từ
“Phục thứ…” trở xuống là hồi hướng khiến cho
chúng
sinh đạt được pháp âm thuộc về
ngữ nghiệp, một âm đầu là tổng quát, 32 âm còn lại là
riêng biệt, đều là chủng loại đầy đủ đức thuộc
Viên âm của Phật, có thể biết.
Thứ mười một từ
“Phục thứ…” trở xuống là hồi hướng chúng
sinh khiến cho đạt được
Pháp thân, trong đó có ba: Một là 10 câu khiến cho đạt được Thể của hạnh thuộc mười thân. Hai từ
“Ma-ha-tát…” trở xuống là 10 câu khiến cho đạt được Tướng của hạnh thuộc mười thân:
1) Chiếu rọi không có gì không thấu suốt, gọi là thân Minh Tịnh;
2) Trong đó hiện rõ tất cả chúng sinh ở năm đường, Thể không có gì ám chướng, gọi là thân Ly Trược;
3) Nhân tròn vẹn-quả đầy đủ, gọi là thân Cứu Cánh;
4) Đức thanh tịnh tràn đầy bên trong, gọi là thân Thanh Tịnh;
5) Phiền não chướng không còn, gọi là thân Ly Trần;
6) Sở tri chướng không còn, gọi là thân Ly Chủng Chủng Trần;
7) Tập khí cũng diệt hết, gọi là
thân Ly Cấu;
8) Ánh sáng thường có luôn luôn chiếu rọi, gọi là thân Quang Minh;
9) Trên mỗi một thân đều có vô lượng tướng tốt của mười Liên Hoa Tạng, gọi là thân Khả Lạc;

10) Hình thể đầy khắp pháp giới, màu sắc khắp nơi mười phương, rỗng rang thông suốt không
chướng ngại, gọi là thân
Vô Ngại. Ba từ “Dó như thị…” trở xuống là trình bày về
Dụng thù thắng của mười thân, câu đầu là tổng quát, từ “Thị hiện chúng
sinh
Bồ- tát hạnh…” trở
xuống là 10 câu riêng biệt hiển bày về tướng của
Dụng, cuối cùng một câu là kết luận về hồi hướng đã thành tựu.
Thứ mười hai từ
“Phục thứ…” trở xuống là trình bày về thành tựu Đại hạnh
Vô biên, trong đó: Đầu là thân khắp nơi khởi hạnh làm duyên chủ động lợi ích; từ “Kiến giả bất không…” trở xuống là chính thức
trình bày về lợi ích đã
thành tựu:
1) Khiến cho phát tâm;
2) Tâm bất hoại;
3) Hạnh rộng lớn;
4) Đầy đủ Bi chuyển hóa chúng sinh;
5) Được thấy Phật tu thiện;
6) Sống yên ổn trú vào pháp, đạt được Văn tuệ về Pháp luân, Pháp minh là Tư tuệ, thực hành Bồ-tát hạnh là Tu tuệ;
7) Từ “Nhập chúng sinh…” trở xuống có 11 câu trình bày về soi sáng nguồn cội của pháp cho nên nói là
Nhập. Sơ lược nêu ra 11 câu, thật sự tức là vô
tận, đây là kết luận về hồi hướng.

Thứ mười ba từ “Phục thứ…” trở xuống là hồi
hướng thành tựu
trang nghiêm quốc độ, trong đó có hai: Một
là trình bày về đồng
Thể trang nghiêm có hai:
1) Cùng chung pháp giới;
2) Thâu nhiếp lẫn nhau đạt được Chánh giác bậc nhất hiển bày về đã thành Phật, làm sáng tỏ về Phật độ mà thôi. Hai từ “Bỉ nhất nhất sát…” trở xuống là tướng trang
nghiêm riêng biệt, trong đó có mười sự việc trang
nghiêm:
1) Vật báu trang nghiêm;
2) HÆ°Æ¡ng;
3) Hoa;
4) Tràng hoa;
5) HÆ°Æ¡ng thoa;
6) HÆ°Æ¡ng bá»™t;
7) Y phục;
8) Tán che;
9) Cá»™t cao;
10) Cờ phướn. Ngay trong phần một là vật báu trang nghiêm, có ba: a) Phân rõ về chủ động trang nghiêm sai biệt; b) Từ “Phục như thị niệm…” trở xuống
là hiển bày về phạm vi giới hạn đã trang nghiêm;
c) Từ “Thị vi…” trở
xuống là kết luận.

Trong mục a có trăm sự việc trang nghiêm bên trong: Bắt đầu từ pháp tòa-màn che cho đến nhạc khí có 83
sự việc thuộc pháp bên ngoài; từ
“Trang nghiêm bảo thân dó…” trở xuống là 17
sự việc trình bày
về trang nghiêm thuộc pháp
bên trong, đó là ba nghiệp-sáu căn… Bảo thú là ý thú, lại là chí thú cao xa. Còn lại có thể biết. Bởi vì
Y-Chánh vô ngại trang nghiêm lẫn nhau hiển bày về thù thắng. Phần 1 là vật
báu trang nghiêm, xong.

Hai từ “Như bảo nghiêm…” trở xuống là nêu ra vật báu để ví dụ cho 9 môn còn lại đều có 100
sự việc, thành 1000 loại trang
nghiêm khiến cho dựa theo
biết rõ, cho nên nói là cũng lại như vậy.
Thứ mười bốn từ “Như thị
Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày kết luận về ý chính của hồi hướng, trong đó
có ba: Một, Một câu vì nuôi lớn thiện căn, nghóa là nhờ vào lực hồi hướng rộng lớn này mà khiến cho thiện căn lớn thêm, cho nên
hồi hướng. Hai, Có một câu vì
trang nghiêm làm thanh tịnh
cõi Phật, cho nên hồi hướng. Ba, Có 20 câu vì khiến cho chúng
sinh thanh tịnh bình đẳng, cho nên hồi hướng.
Một câu này là tổng quát,
19 câu sau là riêng biệt, vì khiến cho chúng sinh
đều bình đẳng đạt được
hai trang nghiêm thanh tịnh-công đức trọn vẹn đầy đủ; từ
“Ma-ha-tát…” trở xuống là kết luận về bình đẳng, kết luận
về thanh tịnh, có thể biết.

Thứ mười lăm từ “Ma-ha-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là trình bày về khiến cho chúng
sinh Chứng pháp mà phát khởi thuyết
giảng, trong đó có ba: Một
là khiến cho Chứng pháp, nghóa là đạt được thì nói là Chứng, pháp đã
Chứng sâu rộng gọi là Vô lượng
Pháp hải; hai từ “Ư nhất nhất…” trở xuống là dựa vào Chứng mà khởi Trí; ba từ
“Linh chúng sinh…” trở xuống là trình bày về dựa vào Trí mà phát
khởi thuyết giảng, có mười câu:
1) Khiến cho khéo léo giảng dạy;
2) Khiến cho duy trì
được nghóa;
3) Quả biện tài như nhau;
4) Thân Phật như nhau;
5) Tâm thuyết pháp;
6) Đạt được Trí thuyết giảng;
7) Thuyết giảng khắp nơi;
8) Thuyết giảng không gián đoạn;
9) Khiến cho vui thích mong cầu;
10) Khiến cho hoan hỷ thuyết giảng. Trên đây là hồi hướng Chúng sinh và Bồ-đề, xong. Từ đây trở xuống là phần
sau trình bày về hồi hướng Thật tế, dựa theo phẩm Thập Địa
sau này nói là an trú, văn này thích hợp
là thực hành hồi hướng
làm cho thanh tịnh mà thôi. Có 28 câu: Đầu là
10 câu dựa theo ba
nghiệp-năm ấm-ba khoa trong ngoài, ngay nơi
Tướng cùng là Chân mà
hồi hướng pháp giới, trong là Chánh báo, ngoài là
Y báo. Còn lại 18 câu
dựa theo hạnh-dựa theo sự hiểu rõ giống như
pháp giới, cho nên nói
là hồi hướng. Trên đây là phần chính thức hồi hướng, xong.
Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ ba trình bày do hồi hướng
mà thành tựu lợi ích,
nghóa là bởi vì ba nghiệp… đều giống như pháp
giới, cho nên đạt được
ba nghiệp bình đẳng an trú trong pháp giới bình đẳng
vô lượng thanh tịnh. Trong mười câu: Sáu câu đầu
trình bày về ba ng- hiệp bình đẳng nhiếp hóa pháp giới; bốn câu
sau trình bày về ba
nghiệp rộng lớn, điều
hòa chúng sinh an ổn tốt lành, có thể biết.

Trên đây là phần giải thích, xong,

Từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận về tên gọi. Trên
đây là hạnh của phần vị, xong.

Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về quả của phần vị, nghóa là phần vị này đầy đủ thành tựu bốn loại quả:
1) Đạt được quả thành tựu đầy đủ hạnh nguyện của Phổ Hiền;
2) Quả trang nghiêm thanh tịnh pháp giới quốc độ Phật;
3) Quả chứng lý viên mãn thành Phật;
4) Quả thuộc Dụng về trí
đức rộng lớn của Phổ Hiền.

Một và hai như văn; Ba từ “Cụ túc thành tựu…” trở xuống
là trình bày về quả thứ ba, trong đó có ba câu:
1) Lý-Trí sâu xa chứng được Thể của Phật;
2) Hiện thân thành Phật đạt được phần vị;
3) Từ “Tất đắc…” trở xuống có 12 câu trình bày về đức tự tại đạt được Lượng trí của Phật, có thể biết. Bốn từ “Tất đắc vô biên mãn túc…” trở xuống là trình bày về
quả thứ tư, trong đó có mười câu:
1) Đạt được mắt của Phổ Hiền;
2) Đạt được tai của Phổ Hiền;
3) Đạt được Lượng trí của Phổ Hiền;
4) Đạt được thanh tịnh của Phổ Hiền;
5) Đạt được Lý trí của Phổ Hiền;
6) Đạt được ngữ nghiệp của Phổ Hiền;
7) Đạt được ánh sáng của Phổ Hiền;
8) Đạt được nghiệp quả nhanh chóng thành tựu của Phổ Hiền;
9) Có thể khiến cho chúng sinh thanh tịnh như Phổ Hiền;
10) Từ “Cụ túc thành…” trở xuống là có thể cuối cùng đến bờ giải thoát như Phổ Hiền.
Trên đây là phần Chánh thuyết, xong.

Phần sau là trình bày về lợi ích
thuyết giảng, nghóa là mặt đất
rung động-phát sinh niềm
tin. Trong văn phát khởi cúng dường biểu thị
cho hạnh: Trước là mặt
đất rung động, sau là phát khởi cúng dường.

Trong cúng dường: Một là
cúng dường bên ngoài; Hai từ
“Thiên thân…” trở
xuống là cúng dường bên trong.

Toàn bộ trên
đây là thuyết về pháp Đại hồi hướng này trong
một thế giới, xong.

Hai từ “Như thử…” trở xuống là trình bày trong thế giới như
mười phương pháp giới…
cũng cùng thuyết về pháp này, cho nên hợp thành tất cả các Hội.
Trong đó, tất cả thế giới hệ (Tứ thiên hạ) là trình bày
về trăm ức thế giới
hệ trong thế giới này.

Trên đây là một thuyết-tất cả thuyết, tổng quát trình bày về
phần Thuyết giảng, xong.
Từ đây trở xuống là phần thứ
sáu trình bày về phần
Chứng thành, trong đó: Trước là chứng về thuyết giảng trong thế giới này,
sau
là chứng về thế giới mười phương.

Trong phần trước có hai: Một
là đến nơi ca ngợi về thuyết giảng; hai từ
“Ngã đẳng…” trở xuống là thuật về thế giới ấy giống như thế
giới này. Phần Chứng thành, xong.
Trong phần hai là kệ tụng, có hai: Trước là ý phần Tựa, có
thể biết; sau là trong
phần chính thức nói tụng, có 94 kệ phân bốn: Một,
có 14 kệ tụng về Thể
của hạnh trước đây, một kệ tụng về đạt được
phần vị Pháp sư, những
kệ còn lại tụng về đức của Pháp sư. Hai, từ
“Bồ-tát pháp thí…” trở xuống là 68 kệ tụng về hồi hướng rộng lớn trước đây.
Ba, từ “Thí như Như Như…”
trở xuống là hai kệ tụng về hồi hướng rất sâu xa. Bốn, từ “Như thị thù thắng…” trở xuống là 10 kệ kết luận ca
ngợi hiển bày thù thắng.
Ngay trong phần hai là hồi hướng rộng lớn, hiển bày về tùy ý phát ra biện tài thuyết giảng không cần đến thứ tự, ngôn từ không gián
đoạn là đức thuộc
hạnh vô ngại tự tại của Phổ Hiền. Trong đó sơ
lược phân làm tám:

Một có tám kệ tụng về Tự hành thù thắng của Bồ-tát trước đây.

Hai từ “Thập
phương nhất thiết vô lượng…” trở xuống có tám
kệ tụng về hạnh trang
nghiêm quốc độ thâu nhiếp chúng sinh.
Ba từ
“Nhất thiết Phật tử…” trở xuống có bốn kệ tụng về đạt
được quả tự tại của Phật trước đây.

Bốn từ “Bồ-tát năng ư nhất niệm…” trở xuống có 12 kệ trình
bày về ở tất cả mọi
nơi cúng dường tất cả chư Phật.

Năm từ “Vô lượng vô biên nhất thiết chư kiếp…” trở xuống có
6 kệ trình bày về ở
tất cả mọi lúc cúng dường tất cả chư Phật.

Sáu từ “Tất năng giác ngộ nhất thiết pháp giới…” trở xuống có 15
kệ trình bày về dùng tất cả vật cúng dường để cúng dường tất
cả chư Phật.
Bảy từ “An trú
Phổ Hiền…” trở xuống có 13 kệ tụng về thâu
nhiếp hạnh Phổ Hiền đều
dùng để hồi hướng.

Tám từ “Thân khẩu chư nghiệp…” trở xuống có hai kệ tụng về
do hồi hướng mà thành
tựu đức trước đây. Văn còn lại có thể biết. Hỏi:
Kinh này từ trên xuống dưới phần nhiều nói về hạnh
nguyện Phổ Hiền, trong
phẩm này nói rộng nhất, vì sao tiến vào Địa lại
không trải qua ngôn ngữ?
Đáp: Đây
là dựa theo Nhất thừa, Địa vốn dựa theo Tam thừa. Hỏi: Nhất thừa lẽ nào không có
Địa thượng, Tam thừa lẽ
nào không có Địa tiền,
sao không hiển bày như nhau? Đáp: Lý thật là như nhau, nhưng Địa tiền hiển bày về phương
tiện của Nhất thừa, Địa
thượng thâu nhiếp phương tiện của Tam thừa, cho nên đưa ra cách nói như vậy. Thế nào là phương tiện? Nghóa là Địa tiền thuộc phần vị yếu kém mà đạt được hạnh nguyện của
Phổ Hiền, vốn
là hiển bày về phương
tiện tự tại của phần vị; nếu như đối với Địa
thượng là phần vị thù
thắng, thì đạt được tướng tự tại của Phổ
Hiền không cần phải hiển bày. Ý còn lại về
sau
sẽ riêng biệt phân rõ.
Hội thứ năm, xong.

<篇></篇>