<經 id="n1732">ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯ HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1732 ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ Đời nhà Đường, Sa môn Trí Nghiễm thuật. <卷>QUYỂN 1 (Phần 1) <詞>Phẩm 1: THẾ GIAN TỊNH NHÃN Kinh này vốn ở nước ngoài, gồm có mười vạn bài kệ. Xưa kia vào thời nhà Tấn, Đạo nhân Chi Pháp Lónh từ nước Vu Điền găp được ba vạn sáu ngàn bài kệ này. Vào ngày mồng 10 tháng 03 năm Thuần Hỏa thuộc niên hiệu Nghóa Hy năm thứ 14 đời Tấn, ở tại chùa Tạ Tư Không-Dương Châu, Thiền sư người Thiên Trúc là Phật-độ Bạt-đà-la tự mình cầm bản Phạn văn, dịch âm Hồ thành âm Tấn, Sa-môn Thích Pháp Nghiệp đích thân đi theo ghi chép. Lúc ấy, Nội sử quận Ngô là Mạnh Nghỉ, Hữu vệ tướng quân Chử Thúc Độ làm đàn việt. Đến ngày mồng 10 tháng 06 niên hiệu Nguyên Hy năm thứ 02, đưa ra bản tiếng Hồ hoàn tất. Ngày 28 tháng 12 năm Tân Dậu thuộc niên hiệu Vónh Sơ năm thứ 2 thời Thái Tống thì hiệu đính xong. Nay phân định văn nghóa theo năm môn phân biệt: Ca ngợi đức tùy cơ hóa độ của Phật. Trình bày phạm vi thâu nhiếp của tạng. Phân rõ về Tông chỉ sở thuyên và giáo thể năng thuyên. Giải thích đề mục của kinh. Phân văn giải thích. Thứ 1: Ca ngợi đức tùy cơ hóa độ của Phật: Đại Thánh Như Lai, từ lúc mới ngộ dấu tích huyền diệu, phát khởi giáo pháp đối với Vô trú, điều hòa thần diệu đối với yên lặng, chí hướng sùng kính đối với Bồ- đề. Cho nên tự nhiên Đạo chủng sinh khởi ở đời trước, nghiệp thiện tích chứa ở Vô ngã, Chánh trí say sưa ở Kim cang, Như Như trong sáng ở Trí cảnh. Vì vậy vọng tưởng không cắt mà trong ngoài không còn, gương linh không sáng mà Đẳng giác viên minh, lắng sâu Ngã-Tịnh rất vắng mà không ẩn, ngưng dấu Thường-Lạc không gì mà không làm, sinh tử Niết-bàn phẳng lặng cùng quán sát, đức đủ viên thông đại trí không chướng ngại, giải thoát phương tiện vô cùng kỳ diệu thay! Thứ 2: Trình bày phạm vi thâu nhiếp của tạng: Sự vắng lặng sâu xa này lẽ nào có thể nói được ư? Chỉ vì Đại Bi rủ lòng dạy bảo, không giữ kín riêng mình, cho nên tùy duyên thuyết ra pháp môn không phải là một, giáo phân biệt như cát bụi, lẽ nào có thể hạn định từng phần? Như dựa theo để phân rõ, thì giáo môn trong một thời kỳ hóa độ từ đầu đến cuối có ba loại: Tiệm giáo. Đốn giáo. Viên giáo. Thứ nhất trong Tiệm giáo đã giải thích (sở thuyên) có ba, cho nên giáo tức là ba. Bởi vì ước định làm thành hai, cho nên giáo tức là hai. Nói giáo là ba: Một là Tu-đa-la, Trung Hoa nói là Tuyến (sợi chỉ), cũng gọi là Kinh (sợi dọc), vì sợi chỉ có thể xuyên qua hoa, kinh có thể giữ được vó (sợi ngang), nghóa dùng tương tự. Nhưng bởi vì người Trung Hoa coi trọng danh từ Kinh chứ không coi trọng tên gọi là Tuyến, vì vậy phiên dịch thuận theo sự coi trọng ấy, cho nên bỏ danh từ Tuyến giữ lại tên gọi là Kinh. Ví như ngôn giáo của Đức Phật có thể xuyên suốt pháp tướng khiến cho không thiếu mất, làm cho pháp tồn tại mãi, Kinh và Tuyến tương tự. Đây là từ ví dụ mà đặt tên, tức là giải thích về Định giáo. Hai là Tỳ-na-da, Trung Hoa nói là Diệt, bởi vì nghiệp ác của thân miệng ý đốt cháy hành giả, nghóa giống như lửa đốt mà giới có thể dập tắt lửa, cho nên gọi là Diệt. Đây là từ công năng làm cho sáng tỏ, giáo thuận theo sự giải thích cũng gọi là Diệt, tức là giải thích về Giới giáo. Ba là A-tỳ-đạt-ma, Trung Hoa nói là Vô tỷ pháp, cũng gọi là Đối pháp, có thể phá trừ phiền não và phân biệt pháp tướng, tuệ không phân biệt là thù thắng nhất, lại không có pháp nào có thể sánh được pháp này, cho nên gọi là pháp Vô tỷ. Đây là thuận theo không có khác mà có tên gọi, giáo thuận theo sự giải thích cũng gọi là pháp Vô tỷ. Đây tức là giải thích về Tuệ giáo. Gọi là Đối pháp, thì A-tỳ là trí năng đối, Đạt-ma là cảnh sở đối, pháp ngay nơi cảnh dùng để lập tên. Hai Tạng sau này đều thuận theo sự giải thích mà có tên gọi. Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao Nhiếp Luận nói: “Vì nói về ba loại tu học mà thiết lập riêng Tu-đa-la, là trở thành dựa vào giới-dựa vào tâm học cho nên thiết lập Tỳ-na-da.” Lấy văn này để nghiệm xét, thì kinh giải thích về ba hạnh, giới giải thích về hai hạnh, tuệ giải thích một hạnh? Đáp: Có hai nghóa: Khắc tánh môn. Kiêm chánh môn. Khắc tánh môn như trước đã nói. Kiêm chánh môn có hai nghóa, một nghóa về Bổn-Mạt thì kinh là Bổn giáo, hai loại còn lại theo thứ tự là Mạt giáo. Kiêm chánh môn: Định trong kinh là Chánh, Giới-Tuệ là Kiêm; luật-luận cũng như vậy, theo đó có thể biết. Kinh này tức là thuộc về tạng Tu-đa-la. Bởi vì làm thành hai, cho nên giáo tức là hai. Căn có nhanh-chậm, pháp có cạn-sâu, cho nên dựa theo căn tánh chậm chạp của Thanh văn ngay nơi tánh phân biệt mà thiết lập ba Tạng, cho nên thành pháp hành Thanh văn; vì căn tánh nhanh nhạy của Bồ-tát, dựa theo nghóa của ba vô tánh như Vô phân biệt… mà thiết lập ba Tạng, cho nên làm thành pháp hành Bồ-tát. Hỏi: Kinh nói “Vì các Duyên giác mà nói về pháp quán nhân duyên.” Tức là Duyên giác cũng có giáo, vì sao không thiết lập Tạng? Đáp: Dựa vào kinh Phổ Diệu thì ba thừa giáo thiết lập ba Tạng, nay dựa vào Nhiếp Luận và Địa Trì luận…, chỉ mượn giáo mà đưa vào Thanh văn Tạng, cho nên không thiết lập. Ở đây dùng hai nghóa để trình bày: Thanh văn Thanh văn, là người trước đây cầu đạo Thanh văn vui thích quán về bốn Đế, nay gặp Đức Phật thuyết về pháp bốn Đế đạt được đạo, trước có chủng tánh, nay lại nghe tiếng cho nên gọi là Thanh văn Thanh văn; như trong kinh nói: “ Người cầu Thanh văn thì Như Lai vì họ nói về pháp bốn Chân đế.” Dựa vào đây để nói vậy. Duyên giác Thanh văn, trước đây cầu đạo Duyên giác, nay gặp Đức Phật thuyết về giáo pháp nhân duyên; như trong kinh nói: “Người cầu Duyên giác thì Như Lai vì họ nói về pháp mười hai nhân duyên.” Dựa vào đây để luận bàn. Nghóa trước là biết pháp qua tướng chung, nghóa sau là biết pháp qua tướng riêng. Nhanh chậm tuy khác, nhưng cùng mong mỏi quả nhỏ, cho nên cuối cùng làm thành một Tạng. Nếu là người căn tánh nhanh nhạy bậc thượng sinh ra gặp thời không có Phật, tự ngộ nhân duyên mà đạt được đạo quả, thì có hành nhưng không có giáo, dựa vào đây mà phế bỏ. Dựa vào kinh Phổ Diệu, hướng về lý giáo khác. Ngay trong Thanh văn có hai loại ấy, đó là đầu tiên chấp tánh giáo và các bộ chấp giáo như thuận phá tánh… Phá tánh giáo là phân biệt biết về pháp Không, cùng dựa vào bốn Đế hướng đến Tiểu quả, cho nên cùng đưa vào Thanh văn Tạng. Trong Bồ-tát Tạng có hai: Trước tu tập pháp Đại, sau lui vào pháp Tiểu, nay trở lại tiến vào pháp Đại. Trong kinh nói: “Trừ ra người trước đây tu tập học theo Tiểu thừa, nay ta cũng khiến cho tiến vào trong pháp này.” Gọi là Tiệm nhập. Người đã từ lâu tu tập Đại thừa nay mới gặp Phật, thì có thể tiến vào Đốn giáo, cho nên trong kinh nói: “Hoặc có chúng sanh từ nhiều đời đến nay thường được ta giáo hóa, mới thấy thân ta, nghe pháp ta đã nói, thì đều tin nhận tiến vào trí tuệ Như Lai.” Kinh này tức là thâu nhiếp vào Đại thừa giáo. Thứ hai là Đốn giáo thâu nhiếp, vì vậy về sau kinh nói: “Nếu chúng sanh yếu kém, tâm họ chìm đắm thì ta nêu rõ dùng đạo Thanh văn khiến cho thoát khỏi các khổ. Lại có chúng sanh các căn có phần nhanh nhạy sáng suốt, vui với pháp nhân duyên, thì ta vì họ nói về đạo Bích-chi Phật. Nếu người căn tánh sáng suốt nhanh nhạy, làm lợi ích cho chúng sanh, có tâm Đại Từ Bi, thì ta vì họ nói về đạo Bồ-tát; nếu có tâm Vô thượng quyết định vui với việc lớn, thì ta vì họ thị hiện thân Phật, thuyết ra vô lượng pháp Phật.” Lấy văn này để chứng minh thì biết là có Nhất thừa và Đốn giáo ba Thừa sai biệt. Lại dựa vào Nhiếp Luận của Chân Đế: Một là Nhất thừa, hai là Tam thừa, ba là Tiểu thừa. Hỏi: Đốn ngộ và Nhất thừa phân biệt thế nào? Đáp: Điều này cũng không nhất định, hoặc không phân biệt, hoặc dựa theo trí và giáo để phân biệt, nhưng là một cạn-một sâu. Nhất thừa Tạng tức là mười Tạng. Thứ ba nói về Viên giáo, là thông đạt giới hạn tầng bậc ở trên cảnh giới Phật, nói về pháp môn giải thoát cứu cánh, đầy đủ Phật sự cho nên gọi là Viên. Kinh này tức là thuộc về Đốn giáo và Viên giáo. Sở dó biết có Viên giáo là như văn sau nói: Như dựa vào biển lớn mà có mười núi báu đều chắc chắn. Hỏi: Kinh này vì sao bắt đầu nối thông ba Thừa phân biệt và thâu nhiếp? Đáp: Bởi vì tông của kinh này cùng có đồng giáo-biệt giáo, cảnh của ba Thừa, thấy nghe và tu tập… Như kinh Pháp Hoa nói trong ba cõi dùng ba xe để dẫn dắt các con ra khỏi nhà lửa, đến chỗ trống riêng trao cho xe trâu lớn. Nhưng hai giáo này cùng ở ba cõi là cảnh của thấy nghe, mà Thanh văn đều là người nghèo khổ, là những người đã được dẫn dắt. Vì vậy biết ngoài Tiểu thừa có ba Thừa khác biệt, chủ bạn cùng có thể dẫn dắt nhau làm thành tông. Trình bày phạm vi thâu nhiếp của Tạng, xong. Thứ 3: Phân rõ về Tông chỉ sở thuyên thì có hai loại: Một là chung (Tổng), hai là riêng (Biệt). Chung đó là nhân quả-duyên khởi-lý thật làm tông chỉ. Riêng có bốn phần: Giáo nghóa đối nhau để phân rõ tông chỉ. Cảnh hành. Lý sự. Nhân quả. Giáo là tông-nghóa là chỉ, cảnh là tông-hành là chỉ, sự là tông-lý là chỉ, nhân là tông-quả là chỉ. Tiếp đến là Giáo thể năng thuyên thì có năm loại: Nghóa thứ nhất là thật âm thanh-danh vị cú, nghóa thứ hai là có thể tựa âm thanh-danh vị cú, nghóa thứ ba là không có thể tựa âm thanh-danh vị cú, nghóa thứ tư là chỉ biết âm thanh-danh vị cú, nghóa thứ năm là Chân như âm thanh- danh vị cú. Vì thế kinh nói: Tất cả pháp đều là Như. Thứ 4: Giải thích đề mục của kinh: Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Thế Gian Tịnh Nhãn Phẩm: Đại là bởi vì Thể-Tướng- Dụng không có gì hơn được, nghóa là Thể bình đẳng không thêm bớt, Tướng đầy đủ tánh công đức, Dụng phát sinh nhân quả thiện của thế gian và xuất thế gian. Phương là lý chánh chứ không phải tà. Quảng là lý số pháp môn đầy đủ tất cả các đức. Phật là giác ngộ, đây là gồm chung mười hiệu Phật và ba thân Phật. Hoa có hai loại, một là hoa tập quả không đi cùng với quả, như sinh tử là đồ dùng của đạo… cho đến nhân vị căn thiện…; hai là hoa trang nghiêm quả đồng thời với quả, như hoa Thất tịnh… và các đức của quả vị tròn đầy, một là do tu mà sinh ra, một là vốn có trang nghiêm lẫn nhau có thể biết. Nghiêm là trang sức. Lại nói Đại là dấu hiệu nêu rõ từng phần đều rất thù thắng, cho nên luận nói: Một Thể thù thắng cao rộng mà khác tên gọi, giáo thừa- tông chỉ đầy đủ ngang dọc không ngoài, gọi là gốc của Đại, không phải là hạn hẹp. Nói đến Phương là làm cho Viên thông, mọi nơi đều thiện, gặp duyên thì thuận theo, không chọn vật mà làm, cho nên nói là Phương. Nói đến Quảng thì cuồn cuộn mà sâu lắng, nhỏ bé mà xa vời, thăm thẳm mà lại rộng lớn, gọi là Quảng. Nói đến Phật thì chánh âm của Trung Hoa nói là Phật-đà, phương này gọi là Giác Giả, bởi vì thông suốt rõ ràng nguồn gốc của sự việc, tập khí trần lao vónh viễn không còn, trong lòng sáng suốt chỉ có tuyệt diệu, ánh sáng chiếu rọi đêm dài, dẫn dắt quần sinh mê hoặc, tự mình giác ngộ mà giác ngộ cho người, cho nên gọi là Phật-đà. Nói đến Hoa Nghiêm, đây là so sánh vẻ đẹp đức hạnh của Pháp thân, Thể không phải là Chân thì không có thể làm sáng tỏ sự vi diệu ấy, Công không phải là cao nhất thì không có thể biểu hiện sự thù thắng ấy, nghóa tỏa sáng lẫn nhau đều rất siêu việt. Có thể nói là đạt tới cực điểm của tự Thể viên thông vi diệu thù thắng. Điều ấy giống như các loại trân báu kỳ lạ, trang điểm trên khuôn mặt sắc vàng chỉ rất diễm lệ, thế gian không gì sánh được. Vì vậy dựa vào ví dụ này để nêu tên gọi, cho nên gọi là Hoa Nghiêm. Kinh là giáo pháp chân tịnh, dạy bảo bàn luận về phép tắc thông thường, văn giải thích về nghóa lý, hiển bày về dụng-hành-tâm, cho nên gọi là kinh. Thế Gian Tịnh Nhãn, đó là Thời-Trung-Khí như ba thế gian, và tướng có thể so sánh, nhưng Thể-Dụng sai biệt, cho nên hiện rõ ở thế gian, không ngại không nhiễm ví như mắt sáng. Cũng có thể Như Lai chưa xuất thế, không có người khéo léo dẫn dắt cho nên như mù, nay Phật xuất thế, hiện rõ tự-tha thanh tịnh ví như mắt sáng mà thôi. Nói là Thế Gian Tịnh Nhãn, đây là thuận theo danh tự, nhưng Thời-Hội này đều là những dòng chảy thù thắng hòa vào các biển Phật, đức ở cõi tịnh mà trần vốn không nhiễm, sinh ra từ Thiên chân, tin không phải là hữu vi, cho nên nương nhờ để hiển bày duyên khởi vi diệu của đạo vô cùng trọn vẹn, không bỏ sanh tử mà không nhiễm ô. Vì vậy dựa vào sự làm tên, cho nên gọi là Thế Gian Tịnh Nhãn. Khó suy lường, không phải là ví dụ thì không thể nào hiểu được, cho nên thiết lập theo tướng trạng như vậy. Nếu như mắt trong ngoài đều sáng, trong ngoài đều trong suốt, thì cảnh tượng dọc ngang đều thuộc về một chuyển động, không nhỏ không lớn, không xa không gần, không trở ngại nhau, cho nên có thể dựa theo so sánh nêu ra như mắt. Vì vậy phần sau có kệ ca ngợi: Thế gian thanh tịnh giống như mắt. Nghóa hiển bày về giáo pháp của Phật như vậy. Phẩm là ngôn ngữ nghóa lý như nhau, quy cách chủng loại theo nhau, gọi đó là Phẩm. Kinh này có ba mươi bốn phẩm, phẩm này xuyên suốt ở đầu tiên, cho nên gọi là thứ nhất. Đề mục của kinh ví như tông yếu, chỉ trình bày ở phẩm này, cho nên nói là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Thứ 5: Phân văn giải thích: Đầu tiên phân tích chung về phạm vi của giáo, tiếp đến giải thích riêng theo phạm vi của văn. Có hai: Một là đối với tà hiển bày chánh, trình bày về phạm vi ấy; hai là dựa theo nghóa đã giải thích trình bày về phạm vi ấy. Một là, đối với tà hiển bày chánh, trình bày về phạm vi ấy có bốn phần: Dựa theo duyên phân rõ tà, như tám thời không nên nói… Dựa theo nghiệp phân rõ tà, như người cầu danh lợi, tự cho mình đúng người khác thì sai, thích quả báo thế gian… Dựa theo mê hoặc trình bày về tà, nghe làm nghe hiểu không thể không nghe, cho đến y pháp bất y nhân… Dựa theo trước sau phân rõ tà, như kinh nói: Tám người Đại thiện đều sẽ thành bất thiện. Hai là, dựa theo nghóa đã giải thích trình bày về phạm vi ấy, sơ lược có mười phần: Đồng thời cụ túc tương ưng môn, trong đó có mười ý: Một là giáo nghóa đầy đủ, hai là lý sự đầy đủ, ba là giải hạnh đầy đủ, bốn là nhân quả đầy đủ, năm là nhân pháp đầy đủ, sáu là phạm vi cảnh vị đầy đủ, bảy là thầy trò pháp trí đầy đủ, tám là chủ bạn y chánh đầy đủ, chín là thể dụng nghịch thuận tự tại đầy đủ, mười là tùy theo căn cơ chúng sinh mong muốn thị hiện đầy đủ. Mười ý như vậy tương ưng không có trước sau. Nhân-đà-la võng cảnh giới môn, trong này có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo dụ khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên. Bí mật ẩn hiển câu thành môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo duyên khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên. Vi tế tương dung an lập môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo tướng khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên. Thập thế cách pháp dị thành môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo đời khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên. Chư tạng thuần tạp cụ đức môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo đời khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên. Nhất đa tương dung bất đồng môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo lý khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên. Chư pháp tương tức tự tại môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo dụng khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên, cũng có thể dựa vào tánh. Duy tâm hồi chuyển thiện thành môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo tâm khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên. Thác sự hiển pháp sanh giải môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghóa thuận theo trí khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên. Mười môn sâu xa trên đây thảy đều sai khác. Nếu phạm vi giáo nghóa tương ưng với mười môn này, thì chính là Nhất thừa Viên giáo và pháp môn Đốn giáo. Nếu các phần giáo nghóa tương ưng với mười môn này mà không đầy đủ, thì chính là do Tiệm giáo ba thừa thâu nhiếp, nghóa còn lại dựa vào pháp môn như Thiên Vương…ở sau, theo đó có thể hiểu. Tùy văn giải thích: Thứ nhất sơ lược nêu ra tám loại giáo để trình bày về thành tựu lẫn nhau, và dựa theo ba giáo tướng để trình bày theo thứ tự ấy; tiếp đến tùy văn giải thích. - Tám giáo là: Phạm vi của Nhất thừa và Tam thừa. Ứng chân. Xoay ba vào một. Không hữu. Phàm Thánh theo nhau. Thường và Vô thường. Tam thừa cùng hành. Phân rõ pháp tà chánh. Tám nghóa này trên dưới đều nối thông, nói mở rộng-nói tóm lược theo nhau thành tựu hai tướng gốc ngọn, nên có thể theo đó suy nghó. Dựa theo ba giáo tướng thành tựu, đó là bắt đầu ở cội cây Bồ- đề, vì các Đại hạnh, luôn luôn thẳng thắn trình bày kỹ càng về tông bổn, pháp luân rộng lớn thú hướng huyền diệu, lại không nhờ duyên là Đốn. Nói là Tiệm, là ở lúc bắt đầu luyện tập thi thiết phương tiện, khai phát Tam thừa dẫn dắt tiếp nhận hóa độ, đầu nhỏ sau được, từ cạn đến sâu, lần lượt theo nhau để bước lên bờ giác, cho nên gọi là Tiệm. Nói là Viên giáo, là thông đạt giới hạn tầng bậc ở trên cảnh giới Phật, nói về pháp môn giải thoát của Như Lai, thấu triệt tận cùng tông chỉ, đến nơi quả hạnh cao nhất, đầy đủ Phật sự, cho nên gọi là Viên. Như cùng tận mà thật, hướng về đầy đủ không có gì hai, một vị như nhau cuối cùng không sót lại gì, có gì khác nhau. Nhưng vì công dụng đối trị không giống nhau, tùy theo căn khí cạn sâu khác nhau, mà nói phân biệt có ba. Theo thứ tự ấy thì dựa vào Nhất thừa liễu nghóa, thật sự mà nói là dựa theo hạnh môn phương tiện đối trị khác nhau. Cần phải dựa theo có ba để trình bày thứ tự: Dựa vào phương tiện tu tướng đối trị duyên khởi tự loại nhân hạnh để trình bày về ba giáo, Tiệm tức là ở đầu tiên, Đốn ở giữa, Viên sau cùng. Ba nghóa này thuận theo Tiệm mà nói, đầu tiên dùng Tiệm để sinh Tín, tiếp đến dùng Đốn để thành Hạnh, tiếp đến dùng Viên để thành Thể-Dụng mà thôi. Nếu lúc dựa theo thật tế duyên khởi tự Thể nhân hạnh để trình bày, thì trước là Đốn, tiếp là Tiệm, sau là Viên. Đầu tiên nêu rõ Đốn để khiến cho tu tập, tiếp theo nêu rõ Tiệm để làm sáng tỏ là vật, sau cùng nêu rõ Viên vốn là quả đức đầy đủ. Nếu lúc dựa theo cùng tận thực tế pháp giới không tăng không giảm, không chướng ngại duyên khởi, tự Thể sâu xa, đạo quả bí mật, thì trước là Viên, tiếp là Đốn, sau là Tiệm. Sở dó như vậy, chính là vì dựa vào tông nhưng không mất đi huyền tưởng, Viên đạo không lựa chọn ở phần bắt đầu. Vì vậy sự tuy gần mà rất xa, tướng tuy được mà rất tinh tế, cạn đến rất sâu mới cùng tận. Đầu tiên nêu rõ Viên khiến cho thấy nghe, tiếp theo làm sáng tỏ Đốn khiến cho tùy hỷ, sau cùng phân rõ phần vị của Tiệm, hiển bày đức phát khởi niềm tin mà thực hành. Đây chính là dựa theo Viên để trình bày về ba giáo mà thôi. Nhưng giáo mới có thể như vậy, luận về ý chỉ ấy, thì chính là trình bày về đạo vô cùng viên mãn là Bồ-đề Vô thượng Pháp thân của Như Lai, phù hợp cùng tận Thật tướng, đức đầy đủ sâu rộng, nghóa phát khởi chân bổn, hiển bày sáng tỏ đời sau, nói về quả rõ ràng ở nơi không đạt được, luận về nhân biểu hiện ở nơi không phát khởi, vốn là tướng của Vô tướng, nơi ấy sâu xa vắng lặng giống như hư không, ý chỉ đoạn tuyệt danh tướng. Có thể nói là Đại đạo không ngôn từ mà sách vở huyền diệu khắp nơi, Chân dung không hình tượng mà diệu tướng trang ng- hiêm đầy đủ, hòa vào trí tuệ Phật, có đủ công hạnh Phật, đức biểu hiện vô cùng tuyệt vời, vượt qua thế gian. Vì vậy đầu kinh xuyên suốt dùng Phật Hoa Nghiêm để xưng danh, thì nên biết là nói đến Chỉ Nam, tông yếu ở tại nơi này. Tùy văn giải thích: Một bộ giáo này có ba phần lớn, đó là Tựa- Chánh tông và Lưu thông. Nếu phân tích theo chiều dọc, thì tùy theo tám Hội có mười nghóa khác nhau, còn lại dựa theo có thể biết. Một bộ kinh này gồm có bảy Xứ tám Hội, trong cõi người có ba, cõi trời có bốn gọi là bảy Xứ, hai Hội ở Phổ Quang gọi là tám Hội. Đây là thứ tự của pháp cho nên có bảy Xứ tám Hội mà thôi. Văn tướng của bảy Xứ tám Hội này không giống nhau về có-không, sơ lược dùng mười môn để phân biệt. Ngay trong tám Hội, sở dó đầu tiên trình bày về Đức Phật, bởi vì Phật là Hóa chủ, nay thâu nhiếp vật nhất định phải lấy Hóa chủ làm đầu, cho nên trình bày đầu tiên. Hai là Đại Thánh thuyết pháp có nơi nương tựa, tiếp đến phân rõ về nơi chốn. Ba là nhiếp hóa có người tiếp nhận, tiếp đến trình bày về Bồ-tát. Bốn là căn khí tuy đầy đủ, mà nếu thưa thỉnh không đầy đủ, thì không nói cho biết, tiếp đến sinh nghi. Năm là giáo pháp thấm nhuần khắp nơi, tiếp đến phân rõ về quy tụ chúng mới. Sáu là pháp sâu xa không xem xét thì không có thể lập tức nói ra, tiếp đến phân rõ về nhập định. Bảy là muốn phân rõ về pháp thù thắng, cho nên trình bày về Phật gia hộ. Tám là hiển bày phạm vi trước sau của pháp, tiếp đến trình bày về sự khác nhau của xuất thế và không xu- ất thế. Chín là pháp thù thắng đã nói ra, tiếp đến là trình bày về lợi ích của pháp, cho nên phân rõ về động đất-mưa hoa… Mười là công dụng rõ ràng như vậy, giáo hóa không sai lệch quanh co, mười phương cùng chuyển khế hợp không trống rỗng, cho nên tiếp đến phân rõ về kết thúc pháp hội bình đẳng, hiển bày chứng đắc thuật lại thành tựu. Mười môn này nếu tách rời mưa hoa…, thì quả là có mười lăm, rải hoa-đốt hương- tỏa ánh sáng-trỗi nhạc-mưa vật báu, thâu nhiếp năm làm thành một, nay đều thâu nhiếp thuộc về mười mà thôi. Đối với Hội giải thích về có-không. Bảy Xứ trong ba thân Phật là thân nào? Giải thích về điều này có hai: Một là hạn chế, hai là mở rộng. Hạn chế thì tám Hội đều không phải là Tiểu kiến, cho nên là Báo thân. Hỏi: Đã là Báo thân thì không phải là Hóa thân, vì sao Xứ cùng với sau lại giống nhau? Đáp: Đây là bởi vì trước phải lưu truyền ở đời Mạt pháp, cho nên nương thời gian xứ sở để phân rõ. Lại hỏi: Nếu nương thời gian thì vì sao kinh nói cõi trời A-ca-ni-tra thành tựu? Đáp: Điều này có hai nghóa, một là nương Hóa thân hiển bày Báo thân, tức là tám Hội; hai là nương Báo thân hiển bày Hóa thân, tức là cõi Sắc Cứu Cánh, vì làm sáng tỏ cõi Dục là Hóa thân cho nên dựa theo tướng là Hóa thân, nay luận về ý giáo mà thôi. Mở rộng thì có đủ ba thân, mỗi một thân thành tựu lẫn nhau. Lại trong văn Phổ Hiền nói: “Ở trong thân con không có chướng ngại.” Lại phân rõ về thế giới hải Hoa Nghiêm, lại nương vào cội cây Bồ-đề…, cho nên biết vậy. Đây là dựa theo ba Thừa để phân rõ. Nếu dựa theo Nhất thừa thì về sau mười Phật thảy đều có tất cả. Phân văn làm ba phần Tựa-Chánh tông và Lưu thông, phần Tựa là tướng phương tiện, phần Chánh tông là nói về tướng Thể, phần Lưu thông là tướng Dụng. Phẩm Tịnh Nhãn này là phần Tựa, phẩm Lô-xá- na về sau là phân rõ về phần Chánh tông, vì kinh không đến cuối cùng cho nên không có phần Lưu thông, vì lẽ đó mà biết. Đại Luận nói: “Kinh Bất Tư Nghị có mười vạn bài kệ, ở đây chỉ có ba vạn sáu ngàn kệ.” Vì vậy biết cũng có thể có phần Lưu thông, là văn từ câu “Chúng sanh tâm vi trần…” về sau, nhưng vì Bồ-tát Long Thọ kết hợp mười vạn bài kệ ở phần Sự…, theo đó giản lược cho nên không đủ. Nếu theo văn nghóa để phân tích, thì đến văn phân rõ khác nhau mà thôi. Văn phần Tựa phân hai: Một là trình bày về Chứng tín, hai là từ “Thiên Vương thiết lễ cúng dường…” trở xuống trình bày về Tựa phát khởi. Văn phần Tựa chứng tín có hai nghóa: Một, hai câu bốn chữ giới hạn trong Chứng tín này; hai, từ “Một thời…” trở xuống là nghóa có mở rộng. Đây là dựa theo một nghóa mà thôi. Vả lại, cũng có thể nghóa hai câu nối thông một bộ kinh mà văn giới hạn. Bắt đầu từ “Một thời…” trở xuống văn nối thông mà nghóa giới hạn, dựa theo nghóa này thì có sáu câu: Như thị. Ngã văn. Nhất thời. Phật. Trú xứ. Chúng đồng văn. Giải thích Như thị: là Thánh chúng-lý giáo tương ưng với văn nghóa, cũng có thể nói tôi biểu đạt văn nghóa như Phật đã nói, là nghóa của Thánh giáo, lại là từ tin thuận mà thôi. Ngã văn: có thể biết. Nhất thời: là lúc căn tiếp nhận và giáo pháp truyền trao tương ưng. Thời có ba nghóa: Một là Bình đẳng thời, đó là không chìm nổi điên đảo; hai là Hòa hợp thời, đó là khiến nghe-có thể nghe-đích thực nghe; ba là Chuyển pháp luân thời, đó là Chánh thuyết-Chánh thọ. Phật: thì có thể biết. Trú xứ: là Đạo tràng Tịch Diệt ở nước Ma-kiệt-đề, đây là nơi Đại Thánh nhờ cậy. Dùng một nơi để giải thích tất cả các nơi, nước thì mở rộng, đạo tràng thì giới hạn, Trung Hoa nói là nước Vô Hại, Tịch diệt là biểu thị cho đức tịch tónh quả viên mãn lìa chướng. Mới thành là có hai nghóa: Một là mới đắc đạo, thời gian bảy ngày thứ nhất; hai là mới hiện thế, thời gian bảy ngày thứ hai thuyết pháp. Từ đó khiến cho mọi người biết mới thành đạo. Văn này có hai: Một là hai câu tổng quát nêu ra y-chánh thiết lập tông; hai là riêng biệt phân rõ. Trong phần riêng biệt phân hai: Một là giải thích về Y báo; hai là từ “Như Lai ở nơi này…” trở xuống phân rõ về Chánh báo. Phần một: Y báo tức là khí thế gian, văn có ba: Một, phân rõ về địa điểm Đạo tràng; hai, từ “Kỳ Bồ-đề thọ…” trở xuống phân rõ về cây Bồ-đề ấy; ba, từ “Bất khả tư nghị…” trở xuống trình bày về tòa Sư tử. Đây là lập ý, đất là căn bản để an trú hạnh nghiệp, cây là xây dựng các đức, tòa là công dụng thâu nhiếp làm lợi ích. Một trong Đạo tràng có ba câu: Một, phân rõ về Thể đạo tràng trang nghiêm đầy đủ; hai, từ “Phật thần lực…” trở xuống trình bày về giúp đỡ thành tựu quả đức; ba, từ “Vô lượng thiện căn…” trở xuống đưa ra nhân hạnh ấy. Một là Thể, văn lại có ba: Một, tổng quát phân rõ về Thể; hai, từ “Chúng tạp bảo hoa…” trở xuống sáu câu phân rõ về đức tự lợi; ba, từ “Vũ vô tận bảo…” trở xuống là đức tự lợi lợi tha. Trong sáu câu về tự lợi, đầu tiên một câu là vi diệu viên tịnh, tiếp một câu là có đủ tịnh đức, tiếp một câu là sắc tướng tịnh, tiếp một câu là cao hiển tịnh, tiếp một câu là quyến thuộc tịnh, tiếp một câu là ẩn ánh tịnh. Trong hai câu về lợi tha, câu đầu là trình bày tân dụng tịnh, tiếp một câu là phú nhuận tịnh. Hai câu này nối thông tự-tha. Tiếp từ “Phật thần lực…” trở xuống trong câu thứ hai có ba câu, một là trình bày biến hiện Tịnh độ làm cho mặt đất rộng lớn, hai từ “Quang minh phổ chiếu…” trở xuống là đức dụng, ba là tất cả vật báu tuyệt vời kỳ lạ tích chứa… là Thể thâu nhiếp các đức. Ngay phần cây Bồ-đề, văn có hai câu: Một, có chín câu phân rõ về Thể trang nghiêm của cây; hai, từ “Phật thần lực…” trở xuống phân rõ về giúp đỡ thành tựu quả đức. Văn phần một phân ba: Một, trình bày về Thể của cây cao lớn tốt đẹp có thể che mát; hai, từ “Thanh tịnh lưu ly…” trở xuống năm câu chính thức phân rõ về trang nghiêp; ba, từ “Thọ quang phổ chiếu…” trở xuống ba câu trình bày về dụng của lợi tha, trong này có ba nghiệp: Đầu là ý, tiếp là thân, tiếp là khẩu. Văn về tòa Sư tử phân năm: Một, trình bày Thể của tòa vượt quá sự nhận biết thường tình; hai, từ “Chúng diệu bảo hoa…” trở xuống chính thức phân rõ về trang nghiêm; ba, từ “Lưu quang như vân…” trở xuống phân rõ về dụng của lợi tha, cũng có ba nghiệp: Đầu là thân, tiếp là ý, sau là khẩu; bốn, từ “Như Lai quang minh du…” trở xuống, trên là quả-dưới là gia hộ, có năm câu: Che mát thù thắng, Cảm hóa thù thắng, Vô ngại thù thắng, Nhanh khắp thù thắng, Đủ đức thù thắng; năm, từ “Vô lượng chúng bảo…” trở xuống là tổng kết thành tựu. Phần hai: phân rõ Chánh báo, văn có hai: Một, Như Lai xứ… là giải thích tổng quát; hai, từ “Liễu tam thế…” trở xuống là giải thích riêng biệt. Phần thứ hai giải thích riêng biệt, văn có ba: Một, trình bày về Pháp thân; hai, từ “Kỳ thân biến tọa nhất thiết đạo tràng…” trở xuống trình bày về Báo thân; ba, từ “Tất năng phổ hiện nhất thiết chúng hội…” trở xuống trình bày về Hóa thân. Đây là dựa theo ba Thừa mà phân văn. Nếu dựa vào Nhất thừa thì trong này có đủ Thể-Đức-Dụng của mười Phật, theo đó để suy nghó thâu nhiếp. Một là Pháp thân, văn có ba câu: Một, phân rõ đức của thân ng- hiệp có hai câu; hai, từ “Diệu Âm biến chí…” trở xuống hai câu trình bày về đức của khẩu nghiệp; ba, từ “Bình đẳng pháp tướng…” trở xuống ba câu phân rõ về đức của ý nghiệp. Hai là Báo thân, văn phân làm ba: Một, thân dụng có bốn câu, một là phạm vi của tòa Sư tử, hai là biết căn hạnh, ba là trừ hoặc nhiễm, bốn là phát sinh đức; hai, từ “Phổ quang tam thế trí hải quang minh…” trở xuống ba câu phân rõ về khẩu nghiệp; ba, từ “Lực vô úy…” trở xuống một câu trình bày về ý nghiệp ấy. Ba là văn phân rõ Hóa thân: Một, thân nghiệp có ba câu; hai, từ “Liễu đạt nhất thiết…” trở xuống hai câu là ý nghiệp; ba, từ “Nhất thiết quang minh…” trở xuống hai câu là khẩu nghiệp. Ngay phần khẩu nghiệp, văn phân làm hai: Một, phân rõ về các nghóa phóng ánh sáng có thể hiển hiện khắp nơi; hai, từ “Chư Phật thế giới…” trở xuống là phân rõ về phạm vi lợi ích. Chúng đồng văn: tức là thế gian chúng sanh, văn trình bày về đại chúng viên tập, phần này phân rõ làm hai môn: Một, trình bày về các Hội có-không khác nhau; hai, dựa vào văn giải thích. Thứ nhất có-không phân làm hai: Một, Đại-Tiểu; hai, tạp loại. Đại-Tiểu thì bảy Hội đều là Đại, Hội thứ tám gồm chung Tiểu thừa, vì lẽ đó bảy Hội trước là hiển bày Thể của Đốn giáo Đại thừa, Hội thứ tám là nhập pháp giới, thâu nhiếp tất cả Tiểu thừa khiến cho hòa vào Đại thừa, hiển bày về nhân lực. Tạp loại thì chỉ một Hội trước và một Hội sau, nêu ra tên gọi của các Thần Vương với chủng loại xen tạp, còn lại tóm lược không nêu ra, vì lẽ đó Hội trước là biểu hiện sự ngưỡng mộ tu tập tin như hợp với pháp giới, người tin hiểu về tướng vạn hạnh, Hội sau là biểu hiện hợp với pháp giới thâu nhiếp pháp giới, người tu tập hòa vào đức đầy đủ tướng. Hỏi. Nếu như vậy thì vì sao kinh Niết-bàn thâu nhiếp nhiều loại chúng, mà kinh này lại ít? Đáp: Kinh Niết-bàn hướng về thuần thục cho nên nói xa, kinh này dựa theo mới bắt đầu mà luận về gần, cho nên có thể biết. Nhưng cũng có thể mới bắt đầu dựa theo phần vị thứ nhất làm giới hạn, cho nên không gồm chung Tiểu thừa Hạ căn, còn lại như phần sau phân rõ. Thứ hai giải thích văn, phân làm ba: Phân biệt Tịnh độ của Pháp thân Như Lai thâu nhiếp ba mươi bốn chúng. Từ “Nhó thời ư Phật sư tử tòa…” trở xuống lại dùng sức phương tiện của Tịnh độ Pháp thân thâu nhiếp phát khởi một chúng, từ đầu đến cuối gồm có ba mươi lăm chúng. Một, sơ lược nêu ra tên gọi của chúng; hai, nêu ra tên gọi ca ngợi về đức. Văn phần một phân làm hai: Một, phân rõ Bồ-tát… là trình bày về chúng Vô vi duyên tập; hai, các thần… là trình bày về chúng Hữu vi duyên tập. Phần hai nêu ra tên gọi ca ngợi về đức, theo đó có thể biết. Phần một trong chúng Bồ-tát phân ba: Một là nêu ra số; hai là nêu ra tên Bồ-tát, phần này có ba, một là phân rõ, hai là kết thúc, ba là ca ngợi đức. Dữ câu (cùng với) thì có hai: Một, Phật cùng với Bồ-tát cùng nói; hai, truyền pháp cùng với Bồ-tát cùng nghe. Phổ là đức đầy đủ pháp giới gọi là Phổ, rất thuận theo điều hòa mềm mỏng gọi là Hiền. Vì vậy trong này trình bày tên gọi Bồ-tát xen tạp có hai ý: Một là bởi vì hiển bày thế giới xen tạp như thô tế… phía dưới; hai là bởi vì chúng này nối thông xuống dưới tám Hội theo thứ tự hiển bày nhiều loại pháp. Còn lại thì có thể biết. Ba là ca ngợi đức, văn có bốn: Một, ca ngợi tổng quát; hai, từ “Chư Ba-la-mật…” trở xuống ca ngợi riêng biệt về đức của phần mình (tự); ba, từ “Vô thượng trí nguyện…” trở xuống phân rõ riêng biệt có thể hòa vào đức của phần khác (tha); bốn, từ “Tất đắc chư Phật…” trở xuống phân rõ hạnh nguyện Phổ Hiền nhiếp hoá tự tại. Ca ngợi tổng quát, văn phân hai: Đều là bạn tốt hiển bày về người thù thắng, Lô-xá-na ở đây nói là rộng lớn nghiêm tịnh; Phân rõ về phần mình, văn có ba câu, một là trình bày về hạnh tự lợi, hai từ “Biện tài đại hải…” trở xuống là hạnh lợi tha, ba từ “Trú ư nhất địa…” trở xuống trình bày về dùng công hạnh thành tựu địa vị, phân rõ về phạm vi đã thâu nhiếp. Nói trú vào một địa thâu nhiếp khắp tất cả các địa…, là dựa vào hành tướng theo thứ tự cuối cùng đến tận cùng tự Thể chân thật mà luận, sơ lược cần phải có bốn: Một, bởi vì từ ban đầu mà có thể sinh ra sau cùng, cuối cùng đầy đủ, cho nên gọi là Nhiếp; hai, tuy đầy đủ từ đầu, nhưng đều có thể thực hành công hạnh ở các địa, các pháp không khác, cho nên nói là Nhiếp, mà công hạnh đã thành chỉ thuộc về phần vị của mình, trên dưới hơn kém chỉ lấy sáng tỏ-mê mờ làm khác; ba, nhưng ban đầu mà thâu nhiếp tất cả công đức của các địa, cho nên gọi là Nhiếp; bốn, không phải nói là bởi vì ban đầu cho nên gọi là Nhiếp, nhưng ban đầu mà đích thực là cuối cùng cho nên gọi là Nhiếp. Ngay phần Tự lợi phân ba, đó là tổng quát-chính thức và hỗ trợ. Văn phần Lợi tha có ba, đầu một câu phân rõ về khẩu nghiệp, tiếp một câu là thân nghiệp, tiếp ba câu từ “Thiện tri…” trở xuống là ý nghiệp. Trong này một là biết căn, hai là biết pháp về lý, ba là biết pháp về sự. Văn về Tha phần có bốn câu: Một-Trình bày về Tự lợi có năm câu, một là đạt được nguyện, hai là đạt được giáo, ba là đạt được pháp của quả, bốn là đạt được đức của phần vị, năm là đạt được định; hai-Từ “Ư chúng sinh hải…” trở xuống là Lợi tha có hai câu, đầu là thiết lập, sau là giải thích; ba-Từ “Thiện nhập…” trở xuống hai câu là khéo hòa vào Pháp thân, đầu là thiết lập, sau là giải thích; 4-Từ “Biến du…” trở xuống hai câu là vật sinh ra cõi tịnh, đầu là thế giới hải, sau là quốc độ hải. Thứ tư là Hạnh nguyện Phổ Hiền, văn có bốn: Một, đạt được phương tiện của chư Phật ba đời; hai, phân rõ về cúng dường; ba, đạt được nguyện Phổ Hiền; bốn, thâu nhiếp chúng sinh thành trí đức, cũng có thể đối với vật thâu nhiếp hơn hẳn. Ngay văn của chúng Hữu vi duyên tập, có ba mươi ba chúng, sở dó nêu ra tên gọi từ dưới lên trên, bởi vì biểu hiện tiến vào công hạnh thêm sâu xa. Hỏi: Các chúng này trú trong cõi nào? Đáp: Chúng này một thân trú trong một cõi của bốn cõi, một phần trú trong cõi hóa hiện của ba cõi, điều này có thể suy nghó. Vì sao? Bởi vì sau văn ca ngợi Phật từ trên đến dưới nêu ra, là làm sáng tỏ địa vị tôn quý theo thứ tự. Đầu tiên là chúng Lực só phân ba: Một, đưa ra số; hai, nêu ra tên; ba, ca ngợi đức. Văn ca ngợi đức có ba: Đầu tiên là tổng quát; tiếp theo năm câu riêng biệt, một có đủ nguyện môn, hai có đủ đức môn, ba có đủ định môn, bốn có đủ thần lực môn, năm có đủ giải thoát môn, tức là đức Tự lợi; ba từ “Xử nhất thiết chúng sinh…” trở xuống hai câu là Lợi tha. Nêu ra tên gọi ca ngợi đức của các chúng còn lại có thể biết. Ca-lâu-la là chim cánh vàng. Khẩn-na-la ở đây nói là Nghi thần, trỗi nhạc. Ma-hầu-la-già ở đây nói là Mãng thần. Dạ-ma ở đây nói là Thời Thiên, cũng gọi là Diệu Thiện. Đâu-suất ở đây nói là Tri Túc. Đại Phạm là chúng này do mới lìa nhiễm cõi Dục. Ma-hê-thủ-la ở đây nói là Đại Tự Tại Thiên. Văn có ba, hai phần trước có thể biết, ngay phần ca ngợi đức văn có bốn đoạn: Một, ca ngợi tổng quát; hai, từ “Ư nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là ca ngợi riêng biệt về Lợi tha; ba, từ “Vô lượng diệu sắc…” trở xuống là ca ngợi về Tự lợi; bốn, từ “Đổ Phật tư nhan cho đến sở dó giả hà…” trở xuống là dựa vào sự việc để phân rõ về nguyên cớ thành tựu hai dụng. Ba là văn Tự lợi phân ba: Một, trình bày về thân nghiệp của Pháp thân; hai, từ “Ư thập lực trung…” trở xuống trình bày về ý nghiệp; ba, từ “Xử nhất thiết chúng…” trở xuống là khẩu nghiệp, văn này có năm câu, lần lượt chuyển tiếp có thể biết. Bốn là phân rõ về nguyên cớ, văn có hai: Một, trình bày về sở y; hai, phân rõ về nguyên cớ. Trong phân rõ về nguyên cớ, đầu là hỏi-tiếp là đáp. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về duyên sở y; hai, từ “Ư chư Như Lai…” trở xuống trình bày dựa vào duyên thành hạnh; ba, từ “Các tùy…” trở xuống là kết luận về thành tựu riêng biệt, suy ra công lao thuộc về Phật. Trong văn phần hai có sáu câu: Một là ở phần vị Tín được Phật nhiếp thọ phát sinh căn thiện; hai là Phật dẫn dắt tiến vào phần vị Giải; ba là Phật nhiếp thọ tiến vào phần vị Chứng trở lên; bốn từ “Đãi đắc vô lượng công đức…” trở xuống trình bày về đạt được tám Địa trở lên không có thế lực dụng công; năm từ “Giai tất thành tựu…” trở xuống phân rõ về nguyện hạnh Phổ Hiền từ mười Địa trở lên; sáu từ “Bồ-tát sở hành…” trở xuống là kết luận về thành tựu riêng biệt. Ba là trong văn kết luận công lao thuộc về Phật, phân bốn: Một là kết luận; hai là chính thức suy ra ánh sáng trí tuệ của Như Lai chiếu rọi khắp nơi; ba là được thành tựu nương nhờ lực giải thoát tiến vào biển quả của Phật, đích thân phân rõ về nguyên cớ; bốn là đối với pháp môn được thành tựu tự tại nói rõ đã thực hành đầy đủ. Cũng có thể bốn câu lần lượt chuyển tiếp phân rõ về thành tựu. Tiếp theo là mười tám chúng trong văn ca ngợi Phật, ở đây chỉ tóm lược trên ẩn hiển, cho nên trình bày về mười tám, tất cả phân làm hai: Một, các chúng như Thiện Hải… đều đối với một pháp môn đạt được tự tại; hai, Bồ-tát Phổ Hiền là chúng thứ mười tám đối với tất cả pháp môn đạt được tự tại. Trong này dựa theo duyên khởi lầu quán để hiển bày về phạm vi của phần đức đồng sinh-dị sinh, nên đáng suy nghó! Cũng có thể mười bảy chúng trước là dị sinh, Bồ-tát Phổ Hiền thuộc chúng thứ mười tám sau cùng là đồng sinh. Ngay văn dị sinh có mười bảy: Một, trong Thiện Hải có hai, một là nêu ra pháp môn tự tại tức là ý nghiệp thực hành cúng dường, thân Vương hiện tại tức là thân nghiệp cúng dường, hai từ “Thuyết kệ…” trở xuống là phân rõ khẩu nghiệp cúng dường. Văn kệ ca ngợi tổng quát là ca ngợi ba nghiệp của Như Lai đầy đủ công dụng pháp giới. Trong đó, đầu tiên là sáu kệ tổng quát ca ngợi ba nghiệp của Phật thù thắng ở thế gian, hai có sáu kệ từ “Nhất thiết thế gian chúng sinh…” trở xuống là ba nghiệp ở thế gian khởi lên đức dụng thù thắng, tiếp từ “Như Lai diệu sắc thân…” trở xuống hai kệ ca ngợi riêng biệt về thân nghiệp, tiếp theo từ “Như Lai âm thanh vô ngại…” trở xuống hai kệ ca ngợi riêng biệt về khẩu nghiệp, tiếp theo từ “Nhất thiết thập phương vô biên Phật…” trở xuống hai kệ phân rõ về ý nghiệp của Phật, tiếp theo hai kệ nêu ra nhân giải thích về thành tựu. Hai, kệ của Lạc Nghiệp Quang Thiên ca ngợi đức tịch dụng song hành của Phật, văn phân ba: Một là một kệ ca ngợi tổng quát, hai là mười sáu kệ nêu ra riêng biệt, ba từ “Vô số vô lượng kiếp…” trở xuống hai kệ nêu nhân kết thành. Ba, Tam thiền có bảy trời, Tịnh Trí có hai mươi hai kệ, tổng quát ca ngợi công năng của thân nghiệp Như Lai, sáu kệ đầu ca ngợi Pháp thân, tiếp theo sáu kệ ca ngợi Báo thân, tiếp theo sáu kệ ca ngợi Hóa thân, tiếp theo bốn kệ tổng quát ca ngợi đức Từ Bi của Như Lai. Bốn, Nhị thiền có mười trời, hai mươi kệ tổng quát ca ngợi pháp hành Đại phương tiện và pháp đã chứng đắc của Như Lai, sáu kệ đầu tổng quát ca ngợi pháp hành phương tiện của Phật, tiếp theo sáu kệ ca ngợi dùng pháp môn để thâu nhiếp giáo hóa, tiếp theo sáu kệ ca ngợi hóa hiện tám tướng thành đạo, tiếp theo hai kệ nêu nhân kết thành. Năm, Sơ thiền có mười trời, trong tụng có mười sáu kệ ca ngợi đức tịch dụng vô ngại tự tại của Như Lai, bốn kệ đầu ca ngợi thân ng- hiệp của Phật, tiếp theo bốn kệ ca ngợi khẩu nghiệp vô ngại của Phật, tiếp theo bốn kệ ca ngợi ý nghiệp của Phật, tiếp theo bốn kệ ca ngợi ba nghiệp vô biên. Sáu, cõi Tha Hóa có mười trời, văn tụng có hai mươi kệ ca ngợi về dụng Hậu đắc trí của Phật, bốn kệ đầu là Pháp thân lợi ích khắp nơi sinh thiện diệt ác, tiếp theo bốn kệ là dụng khẩu nghiệp của Phật, tiếp theo hai kệ là dụng ý nghiệp của Phật, tiếp theo sáu kệ tổng quát ca ngợi Phật có thể diệt ác sinh thiện, tiếp theo bốn kệ ca ngợi Phật ứng cơ tự tại mà không có tâm cao xa. Bảy, cõi Hóa Lạc có hai mươi kệ, trong đó ca ngợi về đức của ba thân Phật, sáu kệ đầu ca ngợi đức dụng tự tại của Pháp thân, tiếp theo mười bốn kệ ca ngợi Báo thân. Trong mười bốn có bốn: Hai kệ đầu phân rõ về khẩu nghiệp của Phật, tiếp theo sáu kệ là thân nghiệp, tiếp theo bốn kệ ca ngợi nhân vốn có của Phật, tiếp theo hai kệ ca ngợi Phật tự tại thâu nhiếp chúng sinh. Tám, cõi Đâu Suất có tám trời, trong tụng có mười sáu kệ tổng quát ca ngợi Phật tự tại thuyết pháp khắp nơi pháp giới, sáu kệ đầu tổng quát ca ngợi về dụng vô ngại của Phật, tiếp theo sáu kệ ca ngợi đức trừ diệt ba chướng sinh khởi của Phật, tiếp theo hai kệ ca ngợi Phật có thể thành tựu chúng sinh thực hành lợi ích không trống rỗng, tiếp theo hai kệ ca ngợi Chúng viên tập hiển bày lực thâu nhiếp của Thánh mà thôi. Chín, cõi Dạ Ma có mười trời, tụng có mười sáu kệ tổng quát ca ngợi về công đức ba nghiệp của Phật, tám kệ đầu là ý nghiệp, tiếp theo hai kệ là khẩu nghiệp, tiếp theo sáu kệ là thân nghiệp. Mười, cõi Đao Lợi có mười trời, tụng có hai mươi kệ tổng quát ca ngợi về trí môn Bồ-đề Quyền Thật của chư Phật ba đời, bốn kệ đầu phân rõ về người niệm Phật thì gặp được Thánh duyên, tiếp theo tám kệ phân rõ về phương tiện che phủ vật của Phật, tiếp theo sáu kệ ca ngợi Phật thành tựu thân Thắng trí khiến cho người tu tập tiến vào thành tựu lợi ích thù thắng, tiếp theo hai kệ kết luận khuyến khích niệm Phật trừ diệt ba chướng, tức là nghiệp báo phiền não mà thôi. Mười một, Nhật Thiên có mười trời, trong tụng có hai mươi hai kệ tổng quát ca ngợi về công năng của trí Phật như mặt trời, mười hai kệ đầu ca ngợi về các đức trang nghiêm của Phật, tiếp theo tám kệ ca ngợi về trí phương tiện thù thắng của Phật, tiếp theo hai kệ ca ngợi về sự sâu rộng của pháp. Mười hai, Nguyệt Thiên có mười trời, trong tụng có mười sáu kệ tổng quát ca ngợi Phật ở trong ngu si tối tăm phóng ánh sáng trí giáo thành tựu quán hành, mười kệ đầu phân rõ ánh sáng trí của Phật lợi ích chúng sinh thành tựu chứng đắc mà tâm không lay động, tiếp theo sáu kệ trình bày về phóng ánh sáng trí chuyển tướng chỉ bày thành tựu Chánh quán. Mười ba, tiếp theo xuống dưới bốn chúng như Càn-thát-bà… tức là Tứ Thiên Vương, từ sự thống lónh làm tên gọi cho nên đưa ra cách nói này. Nếu từ tên gọi của người đứng đầu, thì trong Đại Luận nói: “Cõi trời phương Đông gọi là Đề-đầu-lại-tra, Trung Hoa nói là Trị Quốc, thống lónh hai bộ qủy thần, một tên là Càn-thát-bà, hai tên là Tỳ-xá- xà. Cõi trời phương Nam gọi là Tỳ-lâu-lặc-xoa, Trung Hoa nói là Tăng Trưởng, thống lónh hai bộ quỷ thần, một tên là Cưu-bàn-trà, hai tên là Tích-lệ-đa. Cõi trời phương Tây gọi là Tỳ-lâu-bác-xoa, Trung Hoa nói là Tạp Ngữ, thống lónh hai bộ qủy thần, một là các Rồng, hai là Phú-đa- na. Cõi trời phương Bắc gọi là Tỳ-sa-môn, Trung Hoa nói là Đa Văn, thống lónh hai bộ quỷ thần, một là Dạ-xoa, hai là La-sát. Sự thống lónh này tức là tám bộ qủy thần trong kinh, đây chính là một cõi trời trong hai mươi tám cõi trời.” Cõi trời phương Đông có mười, đó là Trì Quốc…, trong tụng có hai mươi kệ tổng quát phân rõ về đức Từ Bi phương tiện thị hiện pháp sự ở Tịnh độ thành tựu hạnh Lợi tha, sáu kệ đầu ca ngợi Phật thâu nhiếp chúng sinh khiến cho thấy Pháp thân, tiếp theo có tám kệ ca ngợi Phật ở Tịnh độ nhiếp hóa chúng sinh đạt được quả, tiếp theo có sáu kệ ca ngợi Phật tùy theo nơi chốn làm lợi ích cho mọi loài. Cõi trời phương Nam có mười, tụng có hai mươi kệ ca ngợi về pháp môn Từ Bi của Phật, sáu kệ đầu ca ngợi Phật Đại Bi chịu khổ điều phục chúng sinh, tiếp theo mười bốn kệ trình bày về đức Bi bao trùm mười phương mà Dụng không có tướng. Trong đó có hai, mười hai kệ đầu phân rõ về tướng Từ Bi, tiếp theo hai kệ phân rõ về Dụng lìa tướng. Cõi trời phương Tây có mười, trong tụng có hai mươi kệ ca ngợi đức Bi của Phật làm lợi ích khiến cho chúng sinh đạt được pháp hỷ, sáu kệ đầu phân rõ về lực Từ Bi độ của Phật cứu độ chúng sinh, tiếp theo bốn kệ ca ngợi Phật ở trong sinh tử khiến cho chúng sanh tiến vào biển pháp, tiếp theo bốn kệ khiến cho ở nơi khổ đau có được Tịnh độ, tiếp theo sáu kệ ca ngợi ca ngợi Phật ở trong Tịnh độ thuyết về pháp hải vi diệu thành tựu pháp cúng dường. Như kinh Tu Di Tạng nói: “Quả báo loài rồng có năm loại hình: Thiện Trú long là hình voi. Nan-đà long là hình rắn. A-na-bà-đạt long là hình ngựa. Bà-lâu-na long là hình cá. Ma-na-tô-bà-đế long cũng gọi là Ma-na-tư là hình ểnh ương.” Biến đổi hình dạng như trong luật nói, đều thống lónh những loài hình rồng. Cõi trời phương Bắc, Dạ-xoa là nhẹ nhàng nhanh nhạy, trong tụn có mười sáu kệ ca ngợi Phật vì cứu khổ cho nên ở thế gian, tám kệ đầu ca ngợi đức Từ bình đẳng của Phật, tiếp theo sáu kệ phân rõ Trí thân- Pháp thân của Phật thâu nhiếp chúng sinh hướng về Chánh đạo, tiếp theo hai kệ nêu nhân kết thành. Trong ba mươi ba chúng trên gọi loại này là quỷ vương, trong tám bộ chỉ có Khẩn-na-la, Rồng và Tỳ-xá-xà là súc sinh, nhưng Dạ-xoa và La-sát nhiều sức mạnh cho nên mang tên gọi là quỷ, năm loại trong này đều là qủy. Mười bảy, Lực só Kim Cang có mười, trong tụng có hai mươi kệ phân rõ về ba nghiệp khó hủy hoại của Pháp thân Phật, sáu kệ đầu ca ngợi về thân nghiệp tự tại của Phật, tiếp theo sáu kệ phân rõ khẩu ng- hiệp của Phật, tiếp theo tám kệ ca ngợi ý nghiệp của Phật. Các loại trên đây đều là hình tượng hiện bày xấu kém mà Thể tánh là thù thắng, cho nên trong Đại Tập nói: “Chư Phật bảo các Bồ- tát: Các ông muốn đến nơi Phật Thích-ca thì nên hiện làm thân Phạm Vương…” Vì vậy mà biết như thế. Vả lại, cõi Hoa Tạng này lẽ nào thật có loại này? Ý như Nhiếp Luận. Tiếp đến là chúng Bồ-tát thứ mười tám nói kệ ca ngợi Phật. Ở đây chỉ nêu ra Bồ-tát Phổ Hiền, không nêu ra tên gọi những Bồ-tát khác, bởi vì biểu hiện chúng này ở phần vị của đạo, đức nêu rõ các môn, làm sáng tỏ một tức là tất cả, tất cả tức là một. Văn này có hai: Một, nêu tên gọi ca ngợi đức, tiếp theo là kệ tụng biểu hiện ba nghiệp cúng dường có thể biết. Hai chúng trên dưới là văn Trường hàng ca ngợi đức, là các kinh gia nêu ra không phải là văn đương thời. Dựa theo văn Trường hàng có hai: Đầu tiên là tổng quát, tiếp theo từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt. Văn tổng quát phân hai: Một, đức của phần mình (tự); hai, từ “Năng nhập Như Lai…” trở xuống là hòa vào đức của phần khác (tha). Văn riêng biệt phân hai: Mở rộng tám pháp môn trước là phần mình (tự) trước đây, mở rộng hai pháp môn sau là phần khác (tha) trước đây. Vả lại, năm cặp mười câu này, trong tụng của hai cặp tự lợi-lợi tha có hai mươi kệ, nghóa phân ra có sáu: Hai kệ đầu ca ngợi trú xứ và quyến thuộc thanh tịnh của Phật, tiếp theo hai kệ ca ngợi Giáo chủ thanh tịnh cõi Phật, tiếp theo hai kệ rưỡi ca ngợi lợi ích trọn vẹn thanh tịnh, tiếp theo có bảy kệ rưỡi là hóa dụng trọn vẹn thanh tịnh, tiếp theo hai kệ ca ngợi quả vị thù thắng phát sinh trọn vẹn thanh tịnh của Phật, sau cùng bốn kệ là Thể dụng thanh tịnh. Ngay trong bảy kệ, ba kệ rưỡi đầu là thân nghiệp thanh tịnh của Phật, tiếp theo hai kệ là khẩu nghiệp thanh tịnh của Phật, tiếp theo từ “Nhất thiết tam thế…” trở xuống hai kệ phân rõ về ý nghiệp thanh tịnh của Phật. Văn bốn kệ sau phân hai: Một kệ đầu phân rõ về Thể thanh tịnh của Pháp thân, tiếp theo ba kệ là Dụng thanh tịnh tức là Dụng của ba nghiệp, thì phân làm ba mà thôi. Trong này giải thích về phạm vi của Phổ Hiền dùng tám môn để trình bày về Nhân-đà-la, có thể biết đó là: Một là Lý, hai là cõi, ba là thân, bốn là giáo, năm là pháp, sáu là hạnh, bảy là thời, tám là sự, sự tức là trần… Hễ luận về đại ý, dựa theo văn có hai: Một, chỉ có khiến cho tập khí phiền não nghiệp nhiễm ô và quả báo đều đưa vào cảnh phàm; hai, từ ngoài tiến vào cảnh Thánh. Trong Thánh có hai, đó là hai pháp Lý và Lượng. Hai loại này đều có hai pháp, cảnh giới Nhân-đà-la võng tức là Lượng trong Lý, và một phần trong Lượng mà thôi. Điều này nên suy nghó chính xác. Tiếp theo xuống dưới là đoạn lớn thứ hai không động mà tập chúng. Các chúng trên đây chưa hẳn có động, nhưng muốn hiển bày cùng Thể thâu nhiếp, cho nên có như vậy mà thôi, lại bởi vì hiển bày quả vị có đủ nhân pháp. Trong đó có tám đoạn: Một, trình bày về xuất xứ, đó là tòa Sư tử bên cạnh lầu quán; hai, nêu ra số; ba, nêu ra mười tên gọi, sở dó nêu ra tên gọi xen tạp, là bởi vì muốn hiển bày nói thêm nhiều loại pháp sâu xa; bốn, từ “Thiết chư cúng dường…” trở xuống là nêu ra vật dụng cúng dường; năm, từ “Giai đại hoan hỷ…” trở xuống là chính thức cúng dường Phật; sáu, tùy nơi mà ngồi; bảy, từ “Bỉ Bồ-tát đẳng…” trở xuống là ca ngợi đức; tám, nói kệ ca ngợi Phật. Trước đây địa điểm là tổng quát, nay lầu quán là trú riêng biệt. Vật dụng cúng dường có năm, đó là rải hoa-đốt hương-phóng ánh sáng- trỗi nhạc và mưa vật báu. Ngay phần ca ngợi đức có mười câu: Một, nhân hạnh môn của phần mình; hai, lúc thắng tiến chứng đạt, phần khác vô ngại; ba, vô tận biện tài trong cảnh của Chân Phật; bốn, đạt được ý nghiệp của Phật thành tựu công dụng khó suy nghó; năm, đạt được cảnh Phổ môn thân nghiệp của Phật hiện rõ khắp nơi; sáu, tổng quát nói rõ có thể tiến vào trí địa ba đời; bảy, tổng quát ca ngợi đầy đủ nhân lực của hai Niết-bàn là Thường-Vô thường; tám, phương tiện thanh tịnh Niết-bàn; chín, tự thanh tịnh nhân-quả Thường; mười, tổng quát kết thành công hạnh cúng dường pháp. Phần kệ tụng ca ngợi có mười chín kệ phân làm bốn, ca ngợi về ba nghiệp và đức tự tại ngồi nơi đạo tràng của Phật: Ba kệ đầu ca ngợi công dụng ý nghiệp của Phật, tiếp theo mười kệ phân rõ thân tự tại ở Thọ vương, tiếp theo hai kệ là khẩu nghiệp tự tại; tiếp theo bốn kệ ca ngợi Đại dụng tự tại trang nghiêm của tòa. Tiếp theo xuống dưới là phần thứ ba các vua phát khởi thực hành cúng dường, cũng có thể là phần Tựa phát khởi thứ hai. Trong đó phân ba: Một, thần lực của Phật chấn động mặt đất… Nói đến chấn động là một phương chấn động, khắp nơi chấn động là bốn phương cùng lúc chấn động, khắp nơi cùng chấn động là tám phương chấn động. Ở đây giải thích về mười tám chấn động trích trong Đại Luận: Gầm rống cảm giác chấn động là thanh, còn lại là sắc. Văn phần sau có sáu loại chấn động, tức là vọt lên ở phương Đông, chìm xuống ở phương Tây. Trong các kinh có những chấn động khác nhau, nhưng không ra ngoài hai loại này, theo đó để suy nghó chọn lấy. Hai, trình bày về phát khởi cúng dường; ba, từ “Thử thế giới trung Phật tọa đạo tràng…” trở xuống là kết luận về nghiệp đã đạt được. Văn phần hai phân bốn: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận, bốn là như những phương khác. Văn về đức nghiệp của các vua có hai: Một, chính thức ca ngợi vua cõi này; hai, như những thế giới khác. Ngay văn chính thức ca ngợi có sáu câu: Ba câu trước là Tự lợi, tiếp theo một câu là Lợi tha, tiếp theo hai câu là hạnh tự lợi-lợi tha thành tựu đầy đủ hòa vào phần thù thắng. Một câu thứ nhất là nói tổng quát đều tùy theo ý thích mà tiến vào pháp và có thể tiến vào pháp môn phương tiện, câu thứ hai là dựa vào pháp môn chứng đạt đưa ra quán tâm phát sinh hoan hỷ, câu thứ ba là nói riêng biệt về pháp phương tiện đối trị, câu thứ tư là thông đạt pháp môn dũng mãnh lợi tha của các phương, câu thứ năm là đã tiến vào một phần cảnh giới thù thắng của phần vị Như Lai, câu thứ sáu là vô lượng pháp hải của chư Phật đã chứng đều đã được trải qua. Văn kết luận có hai ý có thể biết. Giải thích phẩm Tịnh Nhãn xong, tổng quát có bốn loại pháp phát sinh hiểu biết, để phát khởi đoạn sau, trừ ra thiết lập-phá bỏ bốn cách trả lời khéo léo phương tiện vượt qua dựa vào…: Thứ đệ môn, bởi vì so sánh chọn lấy cách giải. Tổng biệt môn, như sáu tướng…, bởi vì từ tướng tiến vào thật. Nhiếp thủ môn, bởi vì như dựa vào ngôn ngữ thâu nhiếp nghóa. Lệ thanh môn, bảy loại ví dụ về thanh-ví dụ về văn chọn lấy nghóa. -------------------------- <詞>Phẩm 2: LÔ-XÁ-NA PHẬT Từ đây trở xuống chính thức trình bày về phần Chánh tông, văn có bốn môn phân biệt: Phân rõ tên gọi. Mục đích đưa ra. Trình bày về Tông thú. Giải thích văn. Giải thích tên gọi: Lô-xá-na Trung Hoa nói là rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh (quảng bác nghiêm tịnh). Hỏi: Phẩm này phân rõ về y báo, vì sao thuận theo tên gọi của giáo chủ? Cõi này và giáo chủ là sở y, bởi vì chánh báo ưu việt cho nên nêu người để hiển bày cõi. Mục đích đưa ra: Vì sao đưa ra phẩm này? Bởi vì chúng đã tề tựu rồi, cho nên tiếp đến trình bày về pháp đã biểu hiện. Phân rõ về Tông thú, có hai: Một là Nhân, hai là Pháp. Nhân có hai, đó là người chủ động tiến hành và người thụ động tiến hành, đều có Thể-Tướng-Dụng, các Hội sau đều đồng nhất dựa theo Xứ và Hội phân ra khác nhau mà thôi. Thể của người chủ động tiến hành là dùng pháp trí chứng đạt từ bên trong làm Thể, bảy ngày tư duy vui mừng để hiển bày về đức Tướng, tiến hành thuyết giảng là Dụng. Thể của người thụ động tiến hành giúp đỡ giáo hóa là lấy nhập định làm Thể, được tiến hành là Tướng, bắt đầu thuyết giảng là Dụng; Hội khác cao thấp hơn kém theo đó có thể hiểu mà thôi. Pháp là lấy bốn loại Tịnh độ làm tông của hội này, nhưng cũng có thể là pháp giới và thế giới hải làm tông. Pháp ấy dùng Chân như làm Thể, đức riêng biệt làm Tướng, lợi ích cho vật là Dụng. Giải thích văn có hai: Một là đối với Hội, hai là tùy theo Phẩm. Một là đối với Hội, phẩm Lô-xá-na này, quả mở rộng mà nhân tóm lược, cho nên thuộc về quả đức, hai Danh hiệu về sau thì nhân mở rộng mà quả tóm lược, cho nên phân định là nhân hạnh. Lại có cách phân định khác, như Hội thứ hai đầu tiên là giải thích; hai là dựa vào phẩm phân tích có ba: Một, đến phẩm Quang Minh Giác… là phần nêu ra quả khuyến khích vui mừng phát sinh niềm tin; hai, từ phẩm Minh Nạn trở xuống là phần trình bày tu nhân hợp quả phát sinh hiểu biết; ba, từ phẩm Ly Thế Gian trở xuống là phần phân rõ dựa vào duyên tu hành thành tựu đức. Sở dó cần phải như vậy, là vì căn thiện của chúng sanh mỏng manh ít ỏi tín tâm khó phát khởi. Trong phẩm này Phật tiến hành nói về y quả Tịnh độ cho Bồ-tát Phổ Hiền. Trong Hội thứ hai, Bồ-tát Văn Thù nhờ vào uy lực nói đến ba nghiệp của Phật trình bày về chánh báo ấy, dùng y báo-chánh báo thù thắng này để phát khởi tín tâm. Đã phát khởi tín tâm rồi, tiếp theo cần phải nói pháp cho nghe để giúp họ khởi lên hiểu biết, cho nên phẩm Minh Nạn trở xuống mở rộng phân rõ về hành tướng khuyến khích nương tựa. Đã thấy pháp rõ ràng, tiếp theo cần phải khuyến khích nương tựa phát khởi thực hành thì sẽ có đạt được, cho nên phẩm Ly Thế Gian trở xuống trình bày về phần dựa vào duyên thành tựu đức; cũng có thể dựa vào Hội phân văn xác định mà thôi, nghóa còn lại có thể biết. Lại dựa vào kinh Anh Lạc nói: Hội thứ nhất trình bày về thế giới và pháp giới hải, Hội thứ hai trình bày về Tịnh độ. Đây là dựa vào kinh phân định rất tuyệt diệu, văn có ý này, rất cần phải suy nghó chọn lựa, đến văn sẽ biết. Tiếp theo dẫn chứng thứ hai, như phẩm Phật Quốc của kinh Duy Ma ở trước đây. Như vậy không phải là một có thể biết. Toàn bộ Phẩm này phân hai: Tổng quát giải thích tất cả. Riêng biệt dựa theo văn phân rõ. Tổng quát có hai: Một, giáo năng thuyên; hai, pháp sở thuyên. Nghóa của pháp không nhất định, giải thích rộng ra như trong phần bốn mươi vô ngại biện tài… Riêng biệt dựa theo văn phân rõ có hai: Một, Đại chúng sinh khởi ý niệm trình bày sự nghi ngờ; hai, từ “Nhó thời Thế Tôn tri chư Bồ- tát tâm…” trở xuống trình bày về tướng trả lời. Dựa vào ban đầu thưa hỏi để phân tích về tám Hội, các câu hỏi không giống nhau, tức là phần thứ tư trong mười môn. Ở đây tóm lược có ba: Một, phân rõ về có-không; hai, trình bày về pháp môn mở rộng tóm lược trước sau; ba, phân rõ về người hỏi nhiều ít không như nhau. Một là có-không, hai Hội đầu và ba Hội cuối bắt đầu có câu hỏi. Nguyên cớ thứ nhất là bởi vì hỏi chung về hai pháp nhân quả, nguyên cớ thứ hai là lại hỏi về pháp hành ban đầu, nguyên cớ thứ ba là hỏi về giống và khác nhau trong tu hành, còn lại dựa theo văn phân rõ. Tiếp theo dựa vào trong văn giải thích về nghi vấn phân hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Trường hàng có ba: Một, nêu ra người chủ động hỏi phát khởi ý niệm; hai, từ “Hà đẳng…” trở xuống là chính thức thưa hỏi; ba, từ “Duy nguyện…” trở xuống là kết thúc thưa hỏi. Trong thưa hỏi có hai mươi ba câu hỏi, nhưng Đức Phật làm trước thành ra mười bốn câu phân hai: Một, hai mươi mốt câu hỏi về pháp đạt được quả; hai, từ “Nhất thiết Bồ-tát…” trở xuống là hỏi về pháp của nhân dựa vào văn của quả. Theo văn trả lời về năm biển-mười trí về sau có năm đoạn: Một, mười hai câu trình bày về Thể sai biệt của quả ba thân, nhưng nếu dựa vào Nhất thừa thì tức là Thể-Đức-Dụng, còn lại dựa theo đó; hai, một câu thế giới hải phân rõ về y quả Tịnh độ; ba, một câu chúng sinh hải phân rõ về chúng sinh đã giáo hóa; bốn, một câu pháp giới phương tiện phân rõ về thuốc pháp hóa độ chúng sinh; năm, từ “Phật hải…” trở xuống là sáu câu phân rõ nghóa về tác dụng thâu nhiếp hóa độ của quả đức. Một, mười hai câu văn phân ba: Một, bốn câu đầu phân rõ về đức của Pháp thân; hai, từ “Phật lực…” trở xuống năm câu phân rõ về đức của Báo thân; ba, từ “Phật nhãn…” trở xuống ba câu trình bày về đức của Hóa thân. Đây là dựa theo văn xác định của ba Thừa mà thôi. Phật địa là bởi vì quả vị phát sinh các đức. Cảnh giới Phật là phạm vi giới hạn. Phật trì là Pháp thân duy trì các đức. Phật hạnh là hạnh nghiệp. Văn phần Hóa thân thì mắt-tai… phân rõ về thân nghiệp, Phật phóng ánh sáng… là phân rõ về khẩu nghiệp, Phật trí hải là phân rõ về ý nghiệp. Từ “Phật hải…” trở xuống sáu câu trong văn tác dụng giáo hóa, ba câu đầu phân rõ về tác dụng giáo hóa của Báo Phật, ba câu sau phân rõ về tác dụng giáo hóa của Hóa Phật. Ngay phần hỏi về nhân phân hai: Một, biển tu hành của tất cả Bồ- tát là tổng quát; hai, riêng biệt. Văn phần riêng biệt phân hai: Một, tâm Đại thừa… là phân rõ các loại như Tín-Lạc… của Địa tiền làm nhân; hai, từ “Xuất sinh chư độ…” trở xuống phân rõ về công hạnh của Địa thượng, tức là thâu nhiếp mười Độ, Ba-la-mật tức là sáu Ba-la-mật, Nguyện tức là phương tiện Nguyện, Trí tức là Trí lực. Văn tụng có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Kệ có mười tám, kệ là theo Địa Luận ở đây gọi là khẩu nghiệp. Trong đó phân ba: Sáu kệ đầu là tổng quát ca ngợi thưa thỉnh, tiếp theo mười một kệ rưỡi là văn thưa thỉnh trong tụng, tiếp theo nửa kệ là kết thúc sự thưa thỉnh trên. Trong văn sáu kệ trước thưa thỉnh phân ba: Một kệ đầu là đức Tự lợi trọn vẹn, tiếp theo ba kệ là đức Lợi tha trọn vẹn, hai kệ cuối cùng là căn khí thích nghe. Dựa vào mười một câu khéo léo tóm lược cho nên không thể hết được, tám tụng đầu là mười hai câu về ba thân, tiếp theo một tụng từ “Thế giới hải…” trở xuống là ba câu, tiếp theo hai tụng từ “Thượng Phật hải…” là sáu câu và nhân hạnh… là hai câu. Tiếp đến phần thứ hai trình bày về tướng trả lời, văn phân bảy: Một, phân rõ phóng ánh sáng quy tụ đại chúng trình bày về phần Tựa; hai, từ “Nhó thời Phổ Hiền tức nhập tịnh tạng định…” trở xuống là phần Tam-muội; ba, từ “Phổ Hiền nhập định dó…” trở xuống là phân rõ phần gia hộ; bốn, từ “Đại chúng đồng thanh…” trở xuống là phần thưa thỉnh; năm, từ “Nhó thời Phổ Hiền Bồ-tát thừa Phật thần lực dó…” trở xuống là trình bày về phần căn bản; sáu, từ “Nhó thời Phổ Hiền tùng định…” trở xuống là phân rõ về phần phát khởi; bảy, từ “Nhó thời Phổ Hiền Bồ-tát dục linh chúng hoan hỷ…” trở xuống là trình bày về phần tuyên thuyết. Văn phân hai: Một, mở rộng nghi thức tập chúng thuyết giảng; hai, từ “Như thử Tứ Thiên hạ dó…” trở xuống là kết thúc tất cả bình đẳng. Văn phần một có bốn: Một, phóng ánh sáng; hai, tập chúng; ba, nêu rõ cho đại chúng để biết người thuyết pháp; bốn, từ “Ư bỉ hữu liên hoa sinh…” trở xuống là hiển bày về nghi thức phép tắc thuyết giảng. Tiếp là phần phóng ánh sáng có hai ý: Một, hiện tướng biểu hiện chân thật; hai, phát khởi tín tâm của đại chúng. Hai ý của văn này nối thông đến Hội sau, vì vậy phóng ánh sáng lần đầu liền trình bày, kệ tụng trong các Hội phóng ánh sáng quy tụ đại chúng có ba nghóa không giống nhau. Đây tức là lần thứ năm trong mười lần. Phần quy tụ đại chúng thuyết kệ đối với văn phân rõ, trong Tựa của các Hội hiển bày về hiểu biết-thực hành pháp và đức vị cạn sâu không giống nhau. Nhưng ba Hội thứ sáu-bảy-tám không có phóng ánh sáng quy tụ đại chúng. Sở dó Hội thứ sáu không phóng ánh sáng, bởi vì hễ phóng ánh sáng là biểu hiện cho chúng quy tụ qua lại…, Địa tiền thế gian cho nên có qua lại, Địa thượng chứng được Thể vô lậu không còn tánh ấy, nơi chốn không có thể thâu nhiếp mà quy tụ ở nơi khác, nhưng có thể cùng nhau tiến hành hiển bày sâu xa mới nói. Hội bảy- tám không phóng ánh sáng, bởi vì phát khởi ánh sáng vốn là để hiển bày quy tụ đại chúng làm sáng tỏ giáo pháp, pháp của hai Hội sau đã hiển bày trước, nay y theo tu hành cho nên không cần phóng ánh sáng. Nhưng phóng ánh sáng trong phần chánh thuyết của Hội thứ tám kia, là vì trình bày về phạm vi thâu nhiếp làm lợi ích của quả đức, chứ không phải vì quy tụ đại chúng. Vả lại, Hội thứ bảy là pháp chỉ tương ưng với cảnh giới chứng hành, phân rõ về tín chứ không phải là nói về sự có thể chứng thành, cho nên không có ánh sáng và không có đại chúng quy tụ. Lại nữa, một là Hội thứ nhất phóng ánh sáng vì quy tụ chúng chứng kinh; hai là phẩm Quang Minh Giác hiển bày về pháp nương tựa cạn-sâu, nối thông về sau làm quy phạm; ba là Hội thứ ba trở đi ba Hội phóng ánh sáng để hiển bày ngay phần vị đạt được phạm vi của lý. Lại hỏi về Hội thứ sáu thì phóng ánh sáng và quy tụ chúng đều không có, là bởi vì muốn hiển bày phần vị của đức vô lậu không có thể dùng sự để làm sáng tỏ. Văn phần phóng ánh sáng phân hai: Một, khuôn mặt là thân ng- hiệp; hai, trong ánh sáng phát ra âm thanh nói kệ là khẩu nghiệp. Bởi vì Liên Hoa Tạng Hải không phải là con người đến được, cần phải tiến hành phóng ánh sáng thì mới có thể thấy, cho nên khuôn mặt phóng ánh sáng là biểu hiện đích thực hướng về giáo đạo rộng mở được thuyết ra. Nói diện môn là dung mạo đích thực của khuôn mặt chứ không phải là khác với miệng, vì lẽ đó mỗi một chiếc răng biểu hiện có thể hướng về giúp đỡ thiết lập thành tựu công hạnh. Ngay trong văn phóng ánh sáng có năm: Một, phân rõ về sở y; hai, tổng quát nêu ra mười môn; ba, từ “Như thị đẳng…” trở xuống là phát ra ánh sáng của hàng quyến thuộc; bốn, từ “Hậu nhất nhất quang…” trở xuống phân rõ về công dụng; năm, hiển bày ánh sáng thâu nhiếp lợi ích. Mười môn ánh sáng phân ba: Sáu môn đầu là tướng Chánh báo của Pháp thân, tiếp theo hai môn trình bày về tướng Y báo Tịnh độ, tiếp theo hai môn trình bày về tướng thâu nhiếp giáo hóa. Văn tụng có mười chín kệ phân ba: Mười kệ đầu ca ngợi đức hạnh khéo léo có thể khai mở giác ngộ của Phật; tiếp theo bảy kệ khuyến khích đến nơi Đức Đạo Sư phát khởi cúng dường, tức là đi đến chỗ Phật; tiếp theo hai kệ là trở lại ca ngợi đức dụng nội chứng sâu rộng của Phật, phát sinh mong muốn thù thắng của vật. Ngay trong văn thứ hai là quy tụ chúng mới, một là trình bày về các Hội có-không, hai là tiếp theo phần văn có-không, có bốn: Một, có-không; hai, nơi đến xa gần; ba, danh hiệu Phật và tên gọi Bồ-tát của bổn xứ không như nhau; bốn, cúng dường nhiều ít. Một là có-không: Chỉ ở cõi trời Tha Hóa thuyết về Thập Địa, và trở lại Hội này là hai nơi không có chúng mới. Đại chúng quy tụ có bốn ý: Một là biểu hiện căn cơ đã thâu nhiếp, hai là chứng pháp, ba là phát khởi cúng dường, bốn là trình bày về chúng quy tụ đầy đủ. Những ý như vậy cho nên có thể biết, Hội thứ tám ấy nhất định quy tụ sau, biểu hiện hiểu biết phương tiện khéo léo khiến cho mình và người tiến vào pháp giới, không phải vì hiển bày về pháp, cũng có thể là hiển bày tác dụng thâu nhiếp người khác chứ không phải là chứng minh về nghóa của mình, vẫn là chúng quy tụ để chứng minh về pháp mà thôi. Hai là phân rõ chúng đến từ xa-gần: Mười-một trăm-một ngàn… như văn, nghóa còn lại đối chiếu văn giải thích. Quy tụ chúng có bốn tướng: Một, tên gọi xứ sở làm sáng tỏ pháp tướng; hai, danh hiệu Phật hiển bày hiểu biết; ba, tên gọi Bồ-tát trình bày về phần vị trước sau; bốn, tên gọi của tòa phân rõ tác dụng thâu nhiếp lợi ích của pháp. Ở đây chỉ giới hạn về chúng mới, chúng còn lại thì gồm chung. Trong văn về chúng mới ở mười phương, có năm: Một, chúng đến đây đầy đủ; hai, từ “Như thị đẳng…” trở xuống là tổng kết; ba, Bồ-tát theo thứ tự ngồi xuống đều hiển bày đã đạt được pháp môn, hiển bày có đức giáo hóa; bốn, từ “Niệm niệm trung ư nhất nhất thế giới…” trở xuống trình bày về duyên khởi lực dụng tự tại giáo hóa chúng sinh; năm, trình bày về nói kệ. Văn phần một trong mười phương đều có bảy phần: Một, nơi chốn; hai, cõi Phật; ba, danh hiệu Phật; bốn, tên gọi Bồ-tát ấy được Phật ấy khai mở giác ngộ; năm, cho thị giả cùng đến; sáu, đưa ra vật dụng cúng dường để cúng dường Phật; bảy, đều ngồi theo phương của mình. Văn phần hai kết thúc mười ức cõi Phật đều có mười ức Bồ-tát đến, đây là Thể của các cõi nước giống nhau không khác. Tên gọi cõi nước chúng sanh này không giống nhau, là bởi vì biểu hiện quả đức luôn luôn thâu nhiếp lợi ích trong pháp hiện tại sai biệt không giống nhau. Văn phần ba có sáu: Một, ngồi rồi; hai, lỗ chân lông phát ra ánh sáng; ba, trong ánh sáng xuất hiện Bồ-tát; bốn, Bồ-tát phương tiện khắp nơi các mảy trần; năm, trong mỗi một mảy trần có cõi Phật; sáu, trong mỗi một cõi có Phật thị hiện. Đây là sự việc chân thật chứ không phải là tạm thời hóa hiện. Văn phần bốn có ba: Một, phân rõ về chúng sanh đã giáo hóa; hai, từ “Dó mộng tự tại pháp môn…” trở xuống phân rõ về pháp chủ động giáo hóa, đầu là phân rõ, tiếp là kết luận; ba, từ “Ư nhất niệm khoảnh…” trở xuống phân rõ về giáo hóa thành tựu lợi ích. Ngay văn thành tựu lợi ích có sáu câu: Lợi ích trời người. Lợi ích nội phàm. Lợi ích thành tựu mười Quả Hướng. Lợi ích khiến cho thành tựu mười Hồi Hướng trở về sau. Lợi ích khiến cho đạt được bảy Địa trở về sau. Lợi ích thành tựu tám Địa trở lên. Văn tụng thứ năm có hai: Mười kệ đầu khen ngợi Bồ-tát mười phương trước đây từ lâu tu hạnh thù thắng đến đây, mười kệ sau khen ngợi Bồ-tát theo thứ tự ngồi xuống trước đây và văn về lợi ích chúng sinh. Trong mười kệ trước phân ba: Hai kệ đầu phân rõ đức của Bồ-tát; tiếp theo có năm kệ phân rõ có thể cứu giúp chúng sinh lìa khổ; tiếp theo có ba kệ là do đức thành tựu, cho nên có thể đi khắp mười phương cõi Phật, hiển bày khả năng thù thắng của Bồ-tát. Mười kệ sau gồm chung văn khen ngợi Bồ-tát theo thứ tự ngồi xuống, đã đạt được pháp môn, có đức giáo hóa… trước đây, tướng còn lại có thể biết. Thứ ba là Phật nêu rõ Bồ-tát Phổ Hiền khiến cho biết người thuyết pháp để đại chúng cung kính thưa thỉnh, văn có bốn: Một, phân rõ về ý phóng ánh sáng làm lợi ích; hai, chính thức phóng ánh sáng, phần này có năm câu có thể biết; ba, chính thức nêu rõ nơi ánh sáng chiếu đến; bốn, từ dưới chân đưa vào thâu nhiếp dụng trở về gốc, hiển bày sự dung thông của nhân quả. Thứ tư là xuất hiện hoa sen và Bồ-tát, hiển bày trong nghi thức thuyết pháp có ba: Một, hoa xuất hiện ở đạo tràng, cũng có thể là lần lượt theo nhau, phần này có bảy câu, đây là hiển bày phạm vi thâu nhiếp giáo hóa; hai, từ giữa chặng mày của Phật xuất hiện một vị Đại Bồ-tát, dựa theo người hiển bày về giáo; ba, thuyết kệ ca ngợi là trình bày về phạm vi của giáo. Ngay trong phần hai là xuất hiện Bồ-tát, có bảy: Một, phân rõ nơi chốn; hai, trình bày về người đã xuất hiện; ba, nêu ra tên gọi; bốn, quyến thuộc; năm, xuất hiện rồi cung kính vây quanh chỗ ngồi; sáu, lui về an tọa có hai; bảy, từ “Thành tựu…” trở xuống là ca ngợi đức của người đã xuất hiện, phần này có bốn câu. Phần ba thuyết kệ có hai: Một, Bồ-tát Thắng Âm nói sáu kệ ca ngợi Hóa thân Phật ứng với căn khí tự tại, và hiển bày phạm vi của pháp, tức là hiển bày về đức của giáo thanh; hai, Sư Tử Diệm Quang Phấn Tấn nói mười bảy kệ, tổng quát ca ngợi Lô-xá-na và Phổ Hiền có thể giống như chư Phật, và phân rõ về tướng chuyển pháp luân, tức là hiển bày về oai đức của giáo mà thôi. Tụng đầu phân ba: Hai kệ đầu trình bày về ý Hóa thân đầy khắp pháp giới hiện rõ trước mắt chúng sinh, tiếp theo hai kệ hiện rõ tác dụng thuyết pháp cũng là phạm vi của giáo, tiếp theo hai kệ là oai đức khó nghó bàn. Thứ hai trong kệ của Bồ-tát Phấn Tấn: Ba kệ đầu phân rõ Lô-xá- na tự tại chuyển pháp luân, tiếp theo mười bốn kệ trình bày về ba ng- hiệp chuyển, tức là duyên có đủ. Đây là trình bày dựa theo duyên hiển bày ba loại pháp luân. Văn phần đầu có bốn: Một, nửa kệ là tổng quát hiển bày; hai, nửa kệ phân rõ về Thể của luân; ba, một kệ trình bày tùy theo nơi chốn thích hợp mà chuyển; bốn, một kệ trình bày về tướng của nghóa mà thôi. Pháp luân có bốn loại: Giáo. Hạnh. Lý. Sự. Hỏi: Chuyển pháp luân này cùng với ba chuyển mười hai hành luân của ba Thừa khác nhau thế nào? Đáp: Ở đây chỉ một chuyển trở thành mười hành, đó gọi là một chuyển vô tận chuyển, nói rộng ra như sau. Vả lại, trong kinh Phật Bổn Hạnh nói: “Phật vào xế chiều của ngày 12 trong mười lăm ngày đầu tháng có sao Ki, lúc quá nửa bóng người khó được, ngồi quay mặt về hướng Bắc, vào lúc sao Quỷ và sao Phòng xuất hiện, chuyển Phạm pháp luân.” Ngay trong phần hai là mười bốn kệ, sáu kệ đầu trình bày về ý nghiệp giáo hóa, tiếp theo bốn kệ phân rõ về thân nghiệp giáo hóa, tiếp theo bốn kệ phân rõ về khẩu nghiệp giáo hóa. Nhưng giải thích có bảy: Một, hai kệ tổng quát phân rõ về hạn lượng của nhân quả phát khởi giáo hóa; hai, có hai kệ phân rõ về thân nghiệp; ba, có hai kệ trình bày về khẩu nghiệp ấy; bốn, có hai kệ trình bày về ý nghiệp; năm, hai kệ trở lại phân rõ phạm vi của thân; sáu, hai kệ trở lại trình bày về khẩu; bảy, hai kệ trở lại trình bày về ý. Thứ hai trình bày về Thể của pháp thuộc phần Tam-muội, tức là cung kính tiếp theo Phật lực, được gia hộ để phát khởi, trong đó có hai: Một, phân tích dựa theo các Hội; hai, giải thích văn. Phân tích phân bốn, tức là lần thứ sáu: Một, có-không là nhập định để biểu hiện pháp sâu xa, chỉ riêng Hội thứ hai do đối với căn cơ cạn cợt, cho nên pháp không có thể sâu xa; lại là trú trong phương tiện không có Thể thuộc phần vị của mình, cho nên không nhập định, bởi vì pháp đối với căn cơ phần vị. Hai, trở lại nhập định-không trở lại nhập định, Hội thứ nhứt có nghóa trở lại, Hội khác không có; cũng có thể không trở lại bởi vì phần căn bản này nói trong Định, cho nên về sau giải thích riêng biệt mà thôi. Ba, Thể của nhân quả khác nhau, trình bày trong Hội thứ nhất-thứ bảy và thứ tám, là Định của Phật, trong Hội thứ ba-bốn- năm-sáu đều là Định của Bồ-tát. Vì sao? Bởi vì Hội thứ nhất là Vô cấu như tạng, là Thể thanh tịnh cho nên nhập định Tịnh Tạng, Hội thứ bảy thành thục quả hành tự lợi cho nên nhập định Phật Hoa Nghiêm, đây là nói theo Hóa chủ. Nếu dựa theo hành giả thì nhân là tu-quả là Hoa Nghiêm, vì tu từ lúc bắt đầu cho nên hai lần thuyết ở Phổ Quang. Hội thứ tám là giải thoát pháp giới, quả Lợi tha đầy đủ, cho nên Phật tự nhập định Sư Tử Phấn Tấn, đây cũng là dựa theo Hóa chủ. Nếu dựa theo tu hành thì biểu hiện nhờ vào người khác làm cảnh để kiến chí lập thân. Vả lại, ba Hội này đã hiển bày pháp đều gồm chung nhân quả, cho nên nhập định của quả mà thôi. Bốn Hội trung gian nhập định của nhân, đối với văn mới giải thích. Bốn, người chủ động nhập khác nhau, trong bảy Xứ nhập định thì sáu Hội trước trình bày về Bồ-tát nhập định, vì làm sáng tỏ về phần khế lý, cũng trình bày về sự vui mừng nhờ vào người khác. Hội thứ tám Phật tự nhập định là trình bày về Thể của quả cứu cánh giải thoát pháp giới chỉ riêng Phật có thể cùng tận, cũng có thể nêu ra Phật để hiển bày về giới hạn của pháp; cũng đối với Phật để hiển bày về phạm vi đã biết của mọi người, ý còn lại phân rõ ở phần sau. Tiếp theo dựa vào văn giải thích phân ba: Một, phân rõ Phổ Hiền nhập định Tịnh Tạng; hai, soi chiếu chư Phật không ngại, trong này Trí Đoạn phân hai; ba, từ “Ư thử dó…” trở xuống phân rõ Định giống như chư Phật đã đạt được, cũng có thể kết luận gồm chung. Thứ ba từ “Nhập thị Tam-muội…” trở xuống là trình bày về Phật gia hộ, văn phân hai: Một, Nhân là phân tích sự gia hộ sai biệt của các Hội, tức là lần thứ bảy; hai, giải thích văn. Phần phân tích có hai: Một, phân rõ về có-không; hai, phân rõ chư Phật xa gần và danh tự nhiều ít có khác. Có-không, là Hội thứ hai-bảy-tám không trình bày về chư Phật gia hộ. Vì sao? Bởi vì gia hộ là quả thâu nhiếp làm lợi ích khiến cho phần vị dưới-trí kém cỏi có được khả năng có thể nói pháp của phần vị trên và phát khởi công hạnh thắng tiến. Hội thứ hai là phân rõ căn cơ ban đầu không nhất định, phòng ngừa sự tiến tới-lùi lại cho nên không nhập định, bởi vì biểu hiện về pháp rất sâu xa. Vả lại, người không nhập định xem xét thấy rõ pháp cho nên không gia hộ. Hội thứ bảy có hai: Một, tức là Hội này thực hành về pháp sở y không khác với các Hội trước; hai, trình bày về hành giả phát khởi tu tập thô-tế không nhất định. Hội thứ tám phân rõ về Phật tự nhập Tam-muội, quả giải thoát pháp giới vô cùng tròn đầy, cho nên không nhờ gia hộ. Tiếp theo danh hiệu Phật không giống nhau là hiển bày về đức sai biệt. Tiếp đến dựa vào văn giải thích phân ba: Một, miệng gia hộ và phân rõ cho đến gia hộ bằng việc làm; hai, từ “Nhó thời nhất thiết chư Phật dữ…” trở xuống trình bày về ý gia hộ cùng với trí; ba, từ “Nhó thời thập phương…” trở xuống trình bày về thân gia hộ xoa đảnh cùng với sự Vô úy. Nhưng văn này phân hai: Một, phân rõ nhập định cho nên gia hộ; hai, từ “Sở vị…” trở xuống phân rõ về gia hộ bằng việc làm, tức là tướng gia hộ. Văn phần một có ba: Một, vì gia hộ cho nên chư Phật hiện thân; hai, từ “Bỉ chư Như Lai…” trở xuống ca ngợi về nhập định sâu xa có năng lực thuyết pháp; ba, từ “Thị giai…” trở xuống trình bày về nguyên cớ ca ngợi gia hộ. Trong văn về miệng gia hộ phân ba: Một câu là tổng quát, tiếp theo hai câu phân rõ về Thể của hạnh tự-tha, tiếp theo bảy câu trình bày về Dụng của hạnh lợi tha. Ý gia hộ phân ba: Đầu một câu là tổng quát, tiếp theo riêng biệt phân rõ về mười trí, tiếp theo từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu. Đầu tiên là văn mười trí, ba trí trước là tự lợi, bảy trí sau là lợi tha. Mười trí này cùng với mười trí sau phần nhiều giống nhau. Vì sao đã nói về quả đức mà Phật không tự thuyết ra, bởi vì đây là biểu hiện về quả thù thắng-nhân kém cỏi cho nên có thể hạn định. Vả lại, bởi vì Phổ Hiền đạt được Định, vốn là trưởng tử, là vị đứng đầu đại chúng, đầy đủ hạnh nguyện của Phật Lô-xá-na, bởi vì bổn nguyện. Vả lại, bởi vì lực thuộc căn thiện của mình, theo phần sau ở đây phải có xoa đảnh rồi lập tức xuất định. Nay tóm lược không có xuất định, về sau mới trình bày về xuất định, và ý lợi ích có thể biết mà thôi. Vì vậy trình bày về các Hội xuất định thuyết pháp ông giống nhau, tức là lần thứ tám. Trước phân rõ về khởi định không giống nhau, các Hội thuyết pháp đối với văn mới phân rõ. Hội thứ tám có nhập không có xuất, bởi vì biểu hiện nhập pháp giới cho nên không có trở lại. Hội thứ hai xuất- nhập đều không có. Hội thứ nhất thì văn không nhất định, cũng có thể quán cả chân tục, hoặc là người viết văn đan xen, các Hội còn lại có đủ xuất nhập vậy thôi. Thứ tư Bồ-tát đồng thanh trở lại thỉnh cầu Bồ-tát Phổ Hiền, tức là phần thưa thỉnh, văn phân hai: Đầu là trường hàng vì văn ít thảo nào có ý không nói, sau là văn thưa thỉnh. Bồ-tát Phổ Hiền vì trước đây chỉ có chúng của mình thưa thỉnh, chưa có chúng mới-cũ cùng nhau thưa thỉnh, bởi vì thưa thỉnh không đầy đủ cho nên không nói mà thôi. Tụng thưa thỉnh có hai mươi kệ phân hai: Một, ca ngợi đức thưa thỉnh; hai, hai kệ sau cùng là kết thúc thưa thỉnh. Văn ca ngợi đức thưa thỉnh có năm: Hai kệ đầu phân rõ Phổ Hiền từ lâu ở nơi chư Phật đã tu các nguyện hạnh, cho nên dựa vào Đại nguyện vì chúng liền nói; tiếp theo bốn kệ phân rõ Phổ Hiền thường thấy chư Phật ở trong cõi trần thu- ận theo cùng thị hiện thuyết pháp, cho nên nay thuận theo mà nói; tiếp theo sáu kệ phân rõ Phổ Hiền từ lâu thành tựu định lực biết tất cả căn khí của chúng sinh, có thể rộng ra vì họ mà nói, cho nên cùng ở nơi ấy nguyện vì đại chúng mà nói; tiếp theo bốn kệ phân rõ về ba nghiệp của Phổ Hiền, có thể làm mây mưa lợi ích cho chúng sinh, vì sao không nói; tiếp theo hai kệ chính thức nêu ra hai cõi Tánh-Báo là mười Lực tu tập đạt được, khuyến khích thuận theo căn cơ mà nói; cuối cùng hai kệ là kết thúc thưa thỉnh. Vì lẽ đó chỉ trong Thập Địa có đủ gia hộ-thưa thỉnh để thành tựu nhân chứng được pháp hành, còn lại thì không như vậy.  ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 1 (Phần 2) Thứ năm là văn chính thức trả lời về Bổn Tông, toàn bộ phân làm hai: Một là quán sát năm Hải… trình bày về phần căn bản; hai là trình bày về mười trí, tức là trí của năm Hải. Văn phần một có hai: Một, trình bày được nhờ thần lực của Phật hiển bày không phải tự lực có thể tiến vào; hai, chính thức quán sát năm Hải xét kỹ về pháp ấy. Nay ở đây nói chung về việc làm phát khởi giáo pháp có mười nghóa: Thành tựu bổn nguyện của Phật cho nên gọi là kinh Bổn Nguyện của chư Phật, lấy kinh này làm chuẩn mực. Thành tựu Bổn nguyện của Bồ-tát có thể biết. Luôn luôn lợi ích cho căn cơ có thể biết. Lợi ích thấy nghe cho đời sau có thể biết. Muốn hiển bày về lý vốn có và trình bày về tu thành tựu hai hạnh nhân quả. Phân rõ hai phần vị nhân quả thêm vi tế không giống nhau, như quả trong nhân-nhân trong quả là vậy, và trình bày về trước thô-sau tế… Trình bày về tướng của hành vị so sánh phân rõ nối thông-hạn chế, đây là hướng về cùng lúc có thể biết. Nhân quả hành vị trước sau nối thông-hạn chế không giống nhau. Phân rõ về tướng của tu đức tác thành lẫn nhau. Muốn hiển bày về giáo luân A-hàm hoàn toàn thanh tịnh, và dựa theo sự việc hợp thời hiển bày hai hành tướng chân-ứng, điều này có thể suy nghó. Dựa vào văn những phần sau, tám Hội cùng có mười nghóa, đến văn của Hội sau có thể cũng dựa theo đây. Nếu theo chiều ngang thì chọn lấy văn tướng hiển bày có thể biết. Phần một Thế giới hải là trả lời về thế giới hải trước đây, là hành Tịnh độ thành tựu trú xứ của chúng sinh. Chúng sinh hải là chúng sinh đã được hóa độ, trả lời về chúng sinh hải trước đây. Pháp giới nghiệp hải là nghiệp dụng, thành tựu Pháp thân sau này mà thôi. Dục lạc chư căn hải là trả lời gồm chung hai câu về nhân hạnh trước đây. Tam thế chư Phật hải là phân rõ về tác dụng giáo hóa rộng lớn của Phật, trả lời mười hai câu về ba thân và sáu câu trong tác dụng giáo hóa trước đây. Cũng có thể sáu câu này thuộc về chư căn hải trước đây, nhưng tâm và cảnh giới khác nhau dùng tướng để hiển bày căn mà thôi, cũng có thể cùng nhau đưa vào nghiệp dụng hải. Phần hai Mười trí phân năm: Một, nói cho biết; hai, nêu tên gọi; ba, kết luận khó suy nghó; bốn, hứa thuyết giảng; năm, trình bày về ý thuyết giảng mà thôi. Tức là Phật đã trao cho mười trí trước đây. Nay bởi vì ca ngợi có thể hiển bày về pháp sâu xa, cũng có phần nào không giống nhau là đối với căn cơ thiết lập riêng biệt, cho nên khác nhau mà thôi. Phật tử thì có năm nghóa như luận. Mười trí: Thế giới thành bại thanh tịnh trí, trả lời một câu hỏi về thế giới Phật trong câu hỏi về quả trước đây. Chúng sanh giới khởi trí, trả lời một câu về chúng sanh hải đã được giáo hóa trong câu hỏi về quả trước đây. Pháp giới trí, trả lời một câu về thuốc pháp có thể giáo hóa trước đây. Từ “Như Lai tự tại…” trở xuống là trả lời mười hai câu về đức của ba thân trước đây, một câu này tức là trả lời ba câu về Phật địa-Phật trì… trong Pháp thân trước đây. Tịnh chuyển pháp luân trí, trả lời một câu về Phật hạnh trước đây. Lực vô úy bất cộng pháp trí, trả lời ba câu về Phật lực-pháp thù thắng của Phật thị hiện Bồ-đề… trong Báo Phật trước đây. Quang minh tán thán âm thanh trí, trả lời một câu về ánh sáng của Phật trước đây. Tam chủng giáo hóa trí, trả lời về đức của Hóa Phật là ba luân như mắt-tai của Phật, trí hải của Phật… trước đây. Tam muội pháp môn bất hoại trí, trả lời về Tam-muội của Báo Phật trước đây, bởi vì Thể của quả đức cho nên trả lời riêng biệt. Như Lai tự tại trí, trả lời sáu câu về Phật hải… trong đức Hóa dụng trước đây. Dưới đây mở rộng văn tùy theo tướng giải thích về năm Hải ở trên: Đầu tiên là Thế giới thành hoại trí trong mười trí thế giới hải, cũng có thể nói chung về trả lời mở rộng sau này. Mười trí này tức là trí về ba thế gian: Một là Khí thế gian; hai là Chúng sanh thế gian; trí thứ ba- thứ tư là Chánh giác; năm là Nguyện chuyển pháp luân trí, nói về hành của ba thế gian trước đây; sáu là Lực vô úy bất cộng trí dựa vào pháp thành tựu hành đối trị, lực đối trị ma giáo, vô úy đối trị ngoại đạo, bất cộng đối trị Nhị thừa; bảy là Quang minh âm thanh trí, dùng Phật sự khéo léo thành tựu, ca ngợi Tam bảo; tám là Tam chủng giáo hóa trí, phát triển làm hưng thịnh Tam bảo, khiến cho không đoạn tuyệt; chín là Tam-muội pháp môn bất hoại trí, trình bày về Chứng trí; mười là Như Lai chủng chủng tự tại trí, tức là Hậu đắc trí. Vả lại, đây là nói về một Hải trước đây, vẫn có đủ mười trí như vậy, bởi vì trí pháp chính thức và hỗ trợ đều tác thành lẫn nhau, là năm hải dựa vào ba thế gian chuyển thành mười thân, vốn là pháp tương tự. Ba từ “Như thị…” trở xuống là kết thúc ca ngợi khó nói-khó nghe; bốn, từ “Ngã đương…” trở xuống là hiển bày được nhờ Phật lực mới nhận lời thuyết giảng; năm, từ “Dục linh…” trở xuống trình bày về ý thuyết giảng. Nhưng nghóa nói về quán năm Hải-mười Trí của Phật là nói về mười Trí của mình, lại quán tất cả năm Hải-mười Trí của nhân địa là nói về mười Trí của mình, bởi vì Trí phương tiện khởi lên thuyết giảng cùng với pháp căn bản thi thiết không giống nhau. Vả lại, cũng có thể về sau trong văn phân rõ riêng biệt, luận về cõi thì biết cảnh huân tập, điều này có thể suy nghó chuẩn xác. Cũng có thể chỉ riêng Phật địa mà thôi. Nhưng cũng có thể người ở Địa tiền nói là trí huân tập cảnh, Bồ-tát ở Địa thượng và người trong quả nói là Chứng chứ không phải là huân tập. Thứ sáu là phần phát khởi, văn phân hai: Một là phân rõ về lợi ích phát khởi, hai là lỗ chân lông ca ngợi. Văn phần một phân hai: Một, chính thức phát khởi về Định của chủ bạn có hai câu, câu một là khởi định, câu hai là Thể vốn có bất hoại; hai, từ “Nhất thiết tam thế Tam-muội…” trở xuống là phân rõ tác dụng lợi ích lúc khởi định có hai, một là lợi ích bên trong, hai là từ “Động địa…” trở xuống là lợi ích về sự việc bên ngoài có ba, đó là mặt đất chấn động và hai lợi ích. Một là văn phần tác dụng có hai: Một, chúng ở cõi này lợi ích; hai, từ “Như thử…” trở xuống là chúng ở phương khác lợi ích. Chúng ở cõi này lợi ích có bốn: Đạt được định. Đạt được phương tiện bên trong. Đạt được trí phân rõ về dụng bên ngoài. Đạt được nguyện hạnh Đại Bi. Văn phần hai là lỗ chân lông nói kệ ca ngợi đức của Bồ-tát Phổ Hiền, văn mười bốn kệ tức là phóng ánh sáng ca ngợi gia hộ, phân hai: Tám kệ đầu trình bày về Bồ-tát Phổ Hiền tự tại đến cùng nguồn cội của Phật, tiếp theo sáu kệ trình bày về Bồ-tát Phổ Hiền ứng hóa và cõi thuận theo tất cả chúng sinh tự tại thành tựu nghóa. Trong tám kệ trước, ba kệ đầu là thân nghiệp tự tại, tiếp theo một kệ là khẩu nghiệp tự tại, tiếp theo một kệ là ý nghiệp tự tại, tiếp theo ba kệ là tổng quát ca ngợi ba nghiệp tự tại khắp cảnh giới Phật. Thứ bảy là phần Bồ-tát làm cho đại chúng càng vui vẻ cung kính, văn chính là phần thuyết giảng có hai: Một, làm cho đại chúng vui vẻ tức là phương tiện thuyết giảng; hai, chính thức trao cho pháp. Văn phần một đại chúng vui vẻ phân hai: Một, trường hàng là trình bày về ý lại muốn thuyết giảng; hai, chính thức nói kệ làm cho đại chúng vui mừng. Văn kệ phân năm: Một, mười kệ đầu dựa theo Phật ca ngợi đức dụng sâu rộng; hai, từ “Phổ Hiền Bồ-tát…” trở xuống là bốn kệ trình bày về Bồ-tát Phổ Hiền khéo léo hòa nhập có thể lợi ích rộng rãi cho chúng sinh mọi loài; ba, từ “Vô lượng…” trở xuống là hai kệ suy ra công đức thuộc về Phật; bốn, từ “Nhất thiết sát độ…” trở xuống là hai kệ giải thích về ý Bồ-tát Phổ Hiền làm lợi ích mà công đức ấy thuộc về Phật; năm, có hai kệ kết luận về đức khuyến khích lắng nghe, hứa thuyết giảng ở tại lúc ấy. Văn phần một là mười kệ phân bốn: Hai kệ đầu tổng quát ca ngợi; tiếp theo hai kệ ca ngợi công dụng của Phật; tiếp theo bốn kệ nêu ra chúng sinh giới và pháp khó suy nghó, lại có thể thâu nhiếp khắp nơi thúc đẩy tiến vào; tiếp theo hai kệ nêu ra lợi ích của pháp. Văn phần hai là bốn kệ có hai: Hai kệ đầu là Phổ Hiền khéo léo hòa nhập, tiếp theo hai kệ trình bày công năng thù thắng lợi ích chúng sinh của Phổ Hiền. Phổ Nhãn là có đủ trí tự tại của năm nhãn cho nên là Phổ, lại có đủ mười nhãn, Lý-Lượng đều biết cho nên nói là Phổ mà thôi. Tiếp theo thứ hai là chính thức nói rộng ra như văn, người có thể nói ở các Hội khác nhau, chỉ hai phẩm A-tăng-kỳ và Tiểu Tướng là Phật tự thuyết, các phẩm còn lại do người khác thuyết. Dựa vào Đại Luận thì nói có năm: Một là Phật, hai là đệ tử, ba là thần tiên, bốn là chư thiên, năm là biến hóa. Đây là dựa vào thanh-danh-cú-vị đã nói ra. Nếu hướng về sự truyền trao thì bao gồm tình và phi tình. Lại có năm loại nói, như văn sau. Dựa theo văn phân hai: Một, mở rộng ra Thể tướng thế giới tức là trả lời hai mươi mốt câu hỏi về quả đức trước đây; hai, từ “Nãi vãng quá khứ…” trở xuống là trả lời hai câu hỏi về nhân pháp trước đây. Văn phần một phân ba: Một, tổng quát trình bày về nghóa của mười loại sự việc trang nghiêm như nhân duyên thế giới…; hai, từ “Nhó thời Phổ Hiền Bồ-tát dục phân biệt…” trở xuống là trình bày về tướng trạng nhân duyên tập khởi của thế giới hải này; ba, từ “Pháp giới bất khả hoại…” trở xuống là dùng kệ tụng về hai đoạn văn trên. Hỏi: Vì sao phần căn bản quán về Hải nói về Trí, phần thuyết này bỏ Trí nói về Hải mà không trình bày đầy đủ, chỉ luận về thế giới hải là thế nào? Đáp: Đây là vì người lập văn chỉ đạt được trí tín giải mà chưa đến nguồn cội của Hải. Vả lại, thế giới do trí đạt được, nói về Hải tức là trí. Lại bởi vì ở đây sơ lược trình bày biểu hiện cùng là tướng giải thích. Hơn nữa, ở đây nói bởi vì là tướng phương tiện, tức là trí. Điều này cần phải suy nghó. Văn phần một phân hai: Một, nêu ra mười tên gọi; hai, riêng biệt giải thích. Văn tổng quát nêu ra mười tên gọi trang nghiêm phân bốn: Một, nêu ra số cùng dẫn chứng; hai, nêu ra mười tên gọi; ba, kết luận về Thể; bốn, dẫn ra các thế giới khác như vi trần thành tựu đầy đủ trang nghiêm. Hai là riêng biệt giải thích, trong mười tên gọi thì một tên gọi đầu và một tên gọi sau nêu tên gọi mà không giải thích. Vì sao như vậy? Bởi vì nói gồm chung chín tên gọi khác, nay dựa theo không trình bày, muốn thành tựu thế giới Liên Hoa cho nên tóm lược không trình bày về hư hoại, cũng có thể thành tức là hoại. thông thường dựa theo ba Thừa thì Tịnh độ có bốn loại: Tánh. Báo. Sự. Hóa có thể biết. Nếu dựa theo Nhất thừa của Bộ này thì chỉ có hai loại, đó là Thế giới hải và quốc độ hải, hoặc là mười loại như Cù Di nói ở phần sau. Nay đem mười tên gọi này, so sánh mười tám tướng viên tịnh của Nhiếp Luận để đối chiếu phân rõ về giống-khác. Văn trong Nhiếp Luận thâu nhiếp trú xứ riêng biệt của Phật gồm có mười chín, trú xứ riêng biệt của Phật đã trình bày trong Đại Bảo Trùng Các, cho nên trong này tóm lược không có, tức là trú xứ riêng biệt của Nhiếp Luận. Nay ở đây phát khởi đầy đủ nhân duyên, thì nhân viên tịnh của Nhiếp Luận cũng gồm chung. Thứ nhất sắc tướng tịnh và tam lượng viên tịnh, bởi vì kệ nói “Do nhiều thứ báu làm thành và không có giới hạn” cho nên biết. Trong văn phân hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng, các kệ đều như vậy. Trường hàng phân bốn, có thể biết. Ba, trong phần riêng biệt có tám: Thần lực Phật tức là thắng tiến lực, thâu nhiếp thành tựu tức là hậu trí của Phật. Lý duyên khởi như vậy. Là nhân đạt được. Cảm quả của hành nghiệp. Tất cả các hành thâu nhiếp thành tựu. Do cùng nhân mà đạt được vì chúng sinh chọn lấy cõi thâu nhiếp thành tựu. Là y báo của Phật. Do tất cả các nguyện mà cảm được. Phần kệ có hai mươi kệ, văn có ba: Một kệ đầu là tổng quát, tiếp theo mười tám kệ là lấy mở rộng để hiển bày tóm lược, tiếp theo một kệ cuối cùng là kết luận. Thứ hai trong trú có ba mươi kệ rưỡi: Một, tám kệ đầu trình bày về tướng của cõi; hai, hai mươi kệ mở rộng hiển bày về nghóa của sự an trú; ba, có hai kệ rưỡi năm chữ hiển bày về tướng an trú của Nhân-đà-la. Thứ ba trong kệ về hình dạng có ba: Một, ba kệ mở rộng hiển bày về hình dạng; hai, từ kệ bốn chữ trở xuống sáu tụng là nhân của cõi; ba, từ “Nhất thiết nghiệp hải…” trở xuống tám kệ rưỡi phân rõ về trú trì Nhân-đà-la. Thứ tư trong Thể có mười kệ, lấy mở rộng để hiển bày tóm lược, có thể biết. Thứ năm trong trang nghiêm có hai mươi kệ, cũng lấy mở rộng để hiển bày tóm lược, có thể biết. Thứ sáu trong thanh tịnh có mười tám kệ, cũng lấy mở rộng để hiển bày tóm lược, có thể biết. Thứ bảy trong Phật xuất thế có hai mươi kệ, có hai: Bốn kệ đầu phân rõ về Phật xuất thế, tiếp theo là phần thứ hai mở rộng trình bày về lợi ích có thể biết. Thứ tám là văn về kiếp số tóm lược không có tụng. Tiếp theo là phần thứ hai mở rộng nêu rõ về tướng trạng nhân duyên thành lập thế giới hải, trong văn có bốn: Một, phân rõ về ý Phổ Hiền trở lại phân biệt; hai, trình bày về nhân của Tịnh độ có ba, đó là Thời-Duyên-Hành…; ba, phân rõ về tác thành lẫn nhau; bốn, nơi thường thuyết pháp và nơi kết thúc thuộc về con người. Trong này nói mở rộng về tướng trạng của sự, còn lại lý-hạnh-giáo đều nói tóm lược. Văn phần ba có ba: Một, trình bày về Hương thủy hải trên Phong luân phân rõ gốc ngọn tác thành lẫn nhau; hai, trên Hương thủy hải trở về sau lại duy trì tánh của thế giới, hiển bày về nghóa trở lại thành tựu; ba, trong các Hương thủy hải ấy về sau lại duy trì tánh của bảy thế giới tánh như mười hai cõi Phật… hướng lên trên, trình bày về nghóa của phạm vi. Ngay trong phần một có bảy đoạn: Phong luân cùng địa luân nối thông là gốc. Bảo Vương địa. Từ “Hữu Chước-ca-la…” trở xuống trình bày có Bảo Vương ánh hiện thọ dụng như ý. Từ “Đại địa xứ…” trở xuống trình bày trên địa luân có Tiểu hương thủy hải…. Trình bày Hương hà vây quanh Hương hải làm nhiều lợi ích; Trình bày trong sông có cây báu trang nghiêm. Có một phần trường hàng. Mỗi một cảnh giới có vô lượng sự trang nghiêm, cũng có thể kết luận về phạm vi mà thôi. Các văn đều có hai: Một là trường hàng, hai là kệ tụng. Thứ nhất trong phần bổn-mạt của phong luân có năm: 1- Gió; 2- Nước; 3- Hoa; 4- Thế giới Kim Cang; 5- Núi Kim Cang. Văn về gió có ba, đó là một tổng quát, hai riêng biệt, ba kết luận. Trong phần hai là riêng biệt có mười tầng gió mà thôi. Văn kệ có hai mươi kệ, chỉ trình bày về tướng Dụng, tóm lược không phân rõ về tướng duy trì, văn có năm: Một, có bảy kệ phân rõ về nhân trú trì trang nghiêm, cũng tụng về văn trước; tiếp theo năm kệ trình bày về đức của Phật phủ khắp mười phương; tiếp theo một kệ trình bày về cõi này cùng tận Thể của lưới giăng Nhân-đà-la; tiếp theo sáu kệ trình bày về Phật sự tùy tâm Đại dụng tự tại; tiếp theo một kệ phân rõ có đủ trí hạnh Phổ Hiền được thấy nghe về cõi này. Thứ hai là văn về đất Kim Cang có năm: Một, đất bằng vật báu; hai, biển trên đất; ba, các vật báu; bốn, đất Kim Cang sinh ra vật báu; năm, ánh sáng. Trong tụng có mười bảy tụng: Chín tụng đầu là năm câu trên, bởi vì lực của Phật; tiếp theo tám tụng là Pháp luân và Phật khắp nơi mười phương, tức là công dụng của đất. Trong chín tụng ba tụng đầu là đất ngọc tròn phía trên, tiếp theo một tụng là đất Kim Cang, tiếp theo một tụng là vật báu trang nghiêm, tiếp theo hai tụng là biển, tiếp theo hai tụng là ánh sáng. Chước-ca-la, Trung Hoa nói là Luân. Trong tám tụng phân hai, bốn tụng đầu là Thể của thân nghiệp, tiếp theo bốn tụng là phân rõ về Dụng. Thứ ba trong Ma-ni bảo vương ảnh hiện có năm câu, trong tụng có hai mươi kệ, ba tụng đầu dựa vào đất để trình bày về sự ảnh hiện trong suốt, tiếp theo năm tụng về hoa-bốn tụng về mây, tiếp theo hai tụng về cõi trang nghiêm, tiếp theo bốn tụng trình bày về Bồ-tát mười phương thường đến thế giới này không ngớt, còn lại trình bày về tu hạnh Phổ Hiền được tiến vào vô biên cõi Phật. Thứ tư trong phần trình bày về Hương hải trên địa luân, một là trong phần tổng quát có mười bốn câu, hai là phần tụng riêng biệt có hai mươi tụng về làm nhiều Phật sự như vật báu-hương hoa… thượng diệu. Thứ năm trong sông có hai: Một là trường hàng, hai là kệ tụng. Trường hàng có bốn có thể biết. Tụng có hai mươi, mười hai tụng đầu là Thể của sông và ánh sáng, tiếp theo tám tụng là mở rộng về tự tại viên mãn của Phật. Thứ sáu là văn về cây báu có năm có thể biết. Tụng có bốn kệ có hai, hai kệ đầu trình bày về Quả hành tự tại, tiếp theo hai kệ trình bày về Nhân hành tự tại. Thứ bảy từ “Đương tri…” trở xuống trình bày về thế giới thanh tịnh trang nghiêm và kết luận. Phần thứ hai là do phong luân duy trì trên Hương hải, riêng biệt duy trì an trú trong tánh thế giới của cõi Phật không thể nói, trong này có hai: Một là trường hàng, hai là kệ tụng. Văn phần một phân ba: Một, tổng quát trình bày về cõi Phật; hai, từ “Hoặc hữu…” trở xuống riêng biệt trình bày về an trú; ba, từ “Hoặc Tu-di…” trở xuống trình bày về hình thể của thế giới. Phần hai là kệ tụng có hai mươi kệ, tụng về văn thứ hai trong trường hàng trước đây: Một tụng đầu về tánh tướng của Tịnh độ, tiếp theo ba tụng sơ lược tụng về an trú, tiếp theo năm tụng về hình tướng trang nghiêm, tiếp theo hai tụng trình bày dựa theo nghiệp sâu cạn hiển bày về cõi hơn-kém, tiếp theo ba tụng tổng quát hiển bày về hơn-kém, làm phương tiện tiến sâu vào, tiếp theo hai tụng phân rõ về thành tựu, tiếp theo bốn tụng trình bày về công lực phương tiện có thể thành tựu. Phần thứ ba trình bày về hướng lên trên duy trì thế giới, văn có bốn câu: Một, nhắc lại Hương hải-Hương hà…trước đây và nêu ra tên gọi; hai, trình bày về hoa sen đã xuất hiện; ba, trình bày về tánh của bảy thế giới-mười hai cõi Phật do hoa đã duy trì; bốn, từ “Như thị…” trở xuống là kết luận giống như phương khác, phần này có hai có thể biết. Nếu dựa vào trong văn của Cù Di sau này, thì trừ ra tam thiên giới còn có mười thế giới: Tánh. Hải. Luân. Viên mãn. Phân biệt. Toàn. Chuyển. Liên hoa. Tu di. Tướng. Vả lại, nghóa nói mười cõi này làm đầu lẫn nhau, chín cõi còn lại trang nghiêm thành một trăm câu. Nay thế giới này, hoặc là hoa sen, hoặc là biển, còn lại là cùng trang nghiêm, có thể theo đó suy nghó. Tướng thành tựu của thế giới tuy có rất nhiều, nhưng bởi vì nghóa khó hiểu, vì sao biết vậy? Bởi vì dựa vào văn kinh này lại có tên gọi của cõi nhưng không biết là gì. Nay dựa vào một nghóa, cõi này không phải là các tướng như trên, bởi vì nói cõi Phật không có các tướng cao thấp riêng biệt trên đây, dựa vào Phật chọn lấy nơi gọi là Sát, gọi là Độ, thì không có cao thấp sai khác. Nếu dựa theo chúng sinh chọn lấy Độ, thì có các tướng cao thấp. Văn nói “Nơi thường chuyển pháp luân” là dựa theo chúng sinh mà nói. Nếu dựa vào văn giải thích này thì có thể tìm được chút ít. Lại trong quyển thứ 50 trong Đại Luận nói: “Lại nữa, tam thiên đại thiên thế giới gọi là một thế giới, cùng lúc khởi lên, cùng lúc diệt đi. Giống như vậy, thế giới mười phương như số cát sông Hằng là một thế giới Phật, như vậy một thế giới Phật có nhiều thế giới như số cát sông Hằng là một thế giới hải của Phật, như vậy thế giới hải của Phật nhiều như số cát sông Hằng ở mười phương là một thế giới chủng của Phật, như vậy vô lượng thế giới chủng ở mười phương thì gọi là một thế giới Phật, ở trong tất cả thế giới chọn lấy phần như vậy thì gọi là phạm vi do một Đức Phật hóa độ (Đây là dựa theo Tam thừa mà nói).” Lại nữa, mười loại thế giới trong kinh Đại Bổn: Thế giới tánh, là nghóa cùng loại. Thế giới hải, là nghóa nhiều loại sắc, lại là nghóa sâu rộng. Thế giới luân, bởi vì nghóa tác dụng bằng nhau. Thế giới viên mãn, bởi vì nghóa có đủ đức. Thế giới phân biệt, là nghóa không xen tạp. Thế giới toàn, là nghóa xoay thẳng. Thế giới chuyển, là nghóa chuyển nghiêng. Thế giới liên hoa, là nghóa phát khởi. Thế giới Tu-di, là nghóa thắng diệu. Thế giới tướng, là nghóa hình dạng. Vì sao nói mười? Bởi vì muốn hiển bày về vô lượng. Hỏi: Vì sao trong một thấy có đủ tất cả các cõi? Đáp: Vì người tu hành ở Báo độ của mình, tất cả đều không giống nhau. Phật thâu nhiếp chúng sinh mà hiện bày thế giới và cõi Phật đều tương tự Báo độ của họ để dẫn dắt các chúng sinh, vẫn thâu nhiếp tất cả cảnh Phật cho nên khiến như vậy. Lại hỏi: Vì sao Đại Luận trình bày về thế giới hải không giống với kinh này? Đáp: Đại Luận vì người ba Thừa mà phương tiện dần dần giải thích cho nên không giống nhau. Thứ ba là phần tụng về văn của hai đoạn lớn trên đây, có bảy mươi kệ, toàn bộ phân làm chín: Hai mươi kệ đầu là Thế giới hải thành hoại trước đây, tiếp theo hai kệ là Trang nghiêm và thế giới an trú trước đây, tiếp theo mười tám kệ là Thế giới thanh tịnh, tiếp theo năm kệ là Thể của thế giới, tiếp theo năm kệ là nhân duyên thế giới phát khởi đầy đủ, tiếp theo sáu kệ là hình dạng của thế giới, tiếp theo hai kệ là kiếp của thế giới, tiếp theo năm kệ là thế giới Phật xuất hiện, bảy kệ còn lại là nói về thế giới. Ngay trong hai mươi kệ đầu, mười một kệ đầu là nói về pháp, tiếp theo chín kệ là nói về dụ. Vả lại, phần kết này đối với thế giới của căn nhiễm đan xen mà kết luận, nguyên cớ là vì muốn dẫn dắt tín tâm dưới thấp cho nên hiển bày phương tiện tiến vào pháp phía trên. Vì vậy dựa theo đây, hai văn lần lượt phân rõ về nhân duyên đạt được quả để trả lời hai câu hỏi về sự tu hành của tất cả Bồ-tát trong hai mươi ba câu hỏi trước đây, luận về nhân của cõi thì như kinh có thể biết. Trong văn có bốn: Một, nêu ra Phật và cõi của thời quá khứ là phát khởi nhân duyên; hai, từ “Phật tử bỉ Diệm Quang thành trung…” trở xuống là phân rõ nhờ vào người khác, tức là Đồng tử; ba, trình bày về gặp Phật đạt được định, tức là Chánh nhân của phần mình; bốn, từ “Bỉ Phật diệt hậu…” trở xuống trình bày lại gặp Phật đạt được định, có hai có thể biết, tức là nhân thắng tiến. Văn này làm sáng tỏ vốn có thành tựu đầy đủ về nhân môn lý-giáo-hạnh-sự, nhân quả ba đời, tự-tha chủ- bạn, người-pháp, nhân duyên, bổn sanh, thọ ký, pháp môn Phổ Hiền…, có thể dựa theo trước chọn lấy. Hỏi: Những loại này vì sao không có kệ trùng tụng? Đáp: Tất cả tụng có hai, một là ít thâu nhiếp nhiều nghóa, hai là khác thời vì hàng hậu lai. Những loại này nếu là tụng thì không có hai nghóa trên, điều này có thể suy nghó. Văn phần đầu phân bốn: Một, trình bày về kiếp số lâu xa; hai, từ “Nhó thời hữu thế giới…” trở xuống trình bày về xứ sở cõi nước; ba, từ “Thời bỉ lâm trung…” trở xuống trình bày có tòa sen ở đạo tràng; bốn, từ “Quá bách tuế…” trở xuống trình bày về Phật xuất thế. Phần ba gặp Phật đạt được định có bốn: Một, từ “Thời bỉ Đồng tử…” trở xuống trình bày đạt được định có hai có thể biết; hai, từ “Thời Phổ Trang Nghiêm Đồng tử…” trở xuống là dùng định lực nói kệ; ba, từ “Nhó thời Thiện Tuệ vương…” trở xuống trình bày vua nghe kệ hoan hỷ lại tiếp theo nói kệ; bốn, từ “Nhó thời Thiện Tuệ vương…” trở xuống trình bày cùng khuyến khích đại chúng đi đến chỗ Phật. Văn kệ của Đồng Tử có ba: Một, sinh khởi; hai, chính thức tụng kệ; ba, trình bày về phạm vi của âm thanh. Trong kệ, bốn kệ đầu ca ngợi khó gặp được Phật, tiếp theo ba kệ ca ngợi ánh sáng Từ Bi của Phật lợi ích thế gian, tiếp theo một kệ khuyến khích chúng đến chỗ Phật cúng dường. Trong chín kệ của vua có hai: Một, sinh khởi; hai, chính thức tụng kệ. Trong kệ, một kệ đầu tổng quát khuyến khích đại chúng đi đến chỗ Phật, tiếp theo bảy kệ nhắc nhủ khiến chuẩn bị nghiêp túc vật dụng cúng dường Phật, tiếp theo một kệ nhắc nhủ để cùng với quyến thuộc cúng dường gặp Phật. Phần bốn đi đến chỗ Phật, văn phân bốn: Một, đi đến chỗ Phật có hai có thể biết; hai, từ “Nhó thời Như Lai…” trở xuống là Phật thuyết kinh cho nghe; ba, từ “Nhó thời Đồng tử…” trở xuống trình bày về được lợi ích, tức là sự thắng tiến trong phần mình; bốn, từ “Nhó thời công đức…” trở xuống phân rõ về thọ mạng của Phật gợi mở văn nói sau này. Ba là nghe kinh đạt được định được lợi ích, văn phân bốn: Một, trình bày về đạt được định; hai, Đồng tử nói kệ ca ngợi khiến cho đại chúng được lợi ích; ba, từ “Thuyết thị kệ thời…” trở xuống chính thức trình bày về tướng lợi ích; bốn, Phật nói kệ ấn chứng thành tựu khiến cho tâm của đại chúng phát tâm kiên cố. Ngay trong mười kệ của Đồng tử, hai kệ đầu ca ngợi Pháp thân Phật, tiếp theo bảy kệ trình bày về nguyện hạnh tu tập đã lâu của Phật nay khiến cho đại chúng được thấy, cuối cùng một kệ nêu ra công đức của Phật khuyến khích Bồ tát tu hành. Văn kệ của Phật phân bốn: Ba kệ đầu khen ngợi Đồng tử có năng lực dũng mãnh; tiếp theo bốn kệ khen ngợi năng lực đại tinh tiến của Đồng tử Phổ Trang Nghiêm; tiếp theo một kệ là thọ ký, nhờ cúng dường Phật cho nên được thành Phật; tiếp theo một kệ là dẫn chứng, khuyến khích khiến cho dũng mãnh đối với tất cả các thế giới. Trong này nhân đạt được định là phần vị lúc ấy, Đồng tử lần thứ nhất gặp Phật đang ở Thập Tín đầy đủ tâm của phần mình, lần thứ hai nghe pháp đang ở Thập Tín đầy đủ tâm thắng tiến, lần thứ ba gặp Phật đang ở phần vị Giải bắt đầu tâm của phần mình, lần thứ tư nghe pháp đang ở phần vị Giải bắt đầu tâm tăng thượng. Vì sao biết như vậy? Bởi vì Đồng tử đã đạt được Tam-muội, dùng điều này so sánh các phần vị trên dưới trong kinh văn, vì vậy có thể biết mà thôi. Phần này tóm lược không có kệ. Vì sao cuối Hội không trình bày về đạt được lợi ích, là có hai ý: Một, kinh này tổng quát hiển bày về Thể pháp luân lúc Phật mới thành đạo, chỉ biểu hiện về Phật có pháp lợi ích vào thời gian sau, chứ không lập tức làm lợi ích; hai, như ánh sáng mặt trời mới mọc chiếu rọi trên đỉnh núi cao, tám Hội này theo thứ tự lợi ích cho Bồ-tát khiến cho họ thắng tiến, tức là lợi ích. Bởi vì không có căn bậc Trung-Hạ cho nên không phân rõ riêng biệt về tướng lợi ích mà thôi. Hội thứ nhất xong. ------------------------- <詞>Phẩm 3: NHƯ LAI DANH HIỆU (Hội thứ hai ở Phổ Quang Đường) Có bốn: Giải thích tên gọi. Ý đưa ra. Tông thú. Phân văn giải thích. Giải thích tên gọi có hai: Một, tên gọi nơi chốn, Phổ là đức phủ khắp, Quang là ánh sáng trí tuệ, cũng có thể là Quang Phổ; hai, tên gọi của phẩm, Danh tức là tên gọi chung, Hiệu là tên hiệu riêng. Ý đưa ra thì có hai ý: Một, ý đưa ra Hội; hai, ý đưa ra Phẩm. Vì sao đưa ra Hội? Bởi vì trước nêu ra Tịnh độ là cảnh giới của Tín, tiếp theo phân rõ về tâm có thể Tín. Đưa ra ý Phẩm, bởi vì trước phân rõ về cõi nương tựa, tiếp theo tên gọi của người đứng đầu trong cõi. Thể của tông phân biệt có hai: Một, dựa theo người; hai, dựa theo pháp. Người là Hóa chủ và các vị giúp đỡ giáo hóa đều có Thể- Tướng-Dụng, như văn nên biết, nhưng giới hạn trong Hội này. Hai là dựa theo pháp đưa ra Thể, đó là hành pháp Thập Tín, sau sẽ phân biệt. Phẩm Danh Hiệu lấy tướng tự tại-đức Bi để hóa độ làm Tông, cũng có thể là cõi nước Phật làm Tông. Giải thích văn: Theo Luật sư Đại Quang nói: Hội trước, Bồ-tát Phổ Hiền nhờ vào uy lực của Phật nói về y quả của Tịnh độ, từ đây xuống dưới trình bày về nhân hạnh. Ý này thuận theo Hội mà phân định. Đây là Hội trước mở rộng về quả mà tóm lược về nhân, Hội này mở rộng về nhân mà tóm lược về quả cho nên như vậy. Hỏi: Vì sao nhân và quả cùng chung một Hội? Đáp: Tính về hành cần phải khác biệt, nay chỉ vì hiển bày pháp dựa vào người mở rộng, cho nên cùng chung một Hội không phân biệt. Ngay trong Chánh báo ở ba phẩm trước, thứ nhất phẩm Danh Hiệu trình bày về thân nghiệp của Phật, thứ hai phẩm Tứ Đế là khẩu nghiệp của Phật, thứ ba phẩm Quang Minh Giác phân rõ về ý nghiệp của Phật. Nhưng cũng có thể thứ nhất phẩm Danh Hiệu hiển bày về cõi để sinh khởi niềm tin, thứ hai phẩm Tứ Đế làm sáng tỏ pháp là quí báu, thứ ba phẩm Quang Minh Giác hiển bày về pháp càng vi tế làm thành phép tắc cho đời sau. Ngay phẩm Danh Hiệu toàn bộ có hai: Một, phân rõ về Tựa của Hội này; hai, từ “Thị thời Văn Thù Sư Lợi…” trở xuống trình bày về chính thức tuyên thuyết. Văn phần Tựa phân bốn: Một, trình bày về trú xứ và đức của Phật; hai, từ “Dữ thập Phật quốc độ…” trở xuống phân rõ chúng sinh được giáo hóa và các vị giúp đỡ giáo hóa; ba, từ “Chư Bồ- tát tác thị niệm…” trở xuống trình bày về muốn thưa thỉnh; bốn, từ “Nhó thời Thế Tôn…” trở xuống phân rõ quy tụ chúng mới ở phương khác để phát khởi. Nay dựa theo phần Trường hàng để xác định. Vì sao? Bởi vì phần Trường hàng phân thành tám: Nêu ra nơi chốn và Hóa chủ đồng thời ca ngợi đức của Phật là trình bày về nhân duyên hiển bày pháp. Trình bày về chúng sinh được giáo hóa. Trình bày rõ ràng về sự nghi ngờ. Phân rõ về quy tụ chúng mới. Từ “Văn Thù thán viết khoái thay…” trở xuống là ca ngợi sự việc giáo hóa rất sâu xa thành tựu cảnh giới khó nghó bàn; Từ phẩm Tứ Đế trở xuống là giáo pháp rất sâu xa-lời kỳ diệu thiết lập phép tắc. Từ phẩm Quang Minh Giác trở xuống là nhận lời thuyết giảng phương tiện hiển bày về pháp dần dần làm sáng tỏ mức độ cạn sâu của pháp. Từ phẩm Minh Nạn trở xuống chính thức trình bày nghi thức thực hành phân rõ về tướng trạng sâu cạn của pháp. Vì sao cây và nhà đều nói? Bởi vì nhà này ở phía Nam của cây cùng chung nơi chốn, các qủy thần rồng vì Phật mà làm cho nên như vậy. Ngay phần một ca ngợi đức, văn có hai: Một, phân rõ về chứng tánh trình bày về Tự lợi; hai, từ “Chí vô ngại thú…” trở xuống là phân rõ đức Lợi tha. Tự lợi có năm câu có thể biết, Lợi tha có năm câu có thể biết. Phần hai nêu ra chúng được giáo hóa, trong này có bốn: Một, chọn lấy Đại khác Tiểu; hai, chọn lấy trước khác sau; ba, chọn lấy mới khác cũ; bốn, ca ngợi đức. Ngay văn ca ngợi đức có mười phân hai: Một, nêu ra hai chương môn, hai chương môn có tám câu, bốn câu so sánh một môn trước; hai, hai lợi ích về tự-tha. Phần ba là lúc ấy đại chúng thưa thỉnh, văn có bốn mươi bốn câu hỏi, cho nên Hội này hỏi chung về phần vị trên và quả đức. Hội này là bắt đầu khởi hạnh đồng thời lại hướng về Hóa chủ, văn tiếp theo cho nên như vậy. Cũng có thể ở đây hỏi về cõi Phật, chứ không phải là thế giới hải, có thể suy nghó điều đó. Trong phần hỏi phân ba: Một, mười câu hỏi phân rõ về quả ba luân của Pháp thân, tức là cảnh giới phát sinh niềm tin, tức là pháp của Phật trong thời gian trước, tức là trả lời ở Hội này; hai, từ “Khai thị…” trở xuống có hai mươi câu hỏi phân rõ về pháp của Phật trong thời gian giữa, đến phẩm Bồ-tát Trú Xứ trở đi mới trả lời; ba, từ “Phật vô thượng…” trở xuống có mười bốn câu hỏi phân rõ về pháp của Phật ở thời gian sau, hết phẩm Tiểu Tướng trở đi mới trả lời. Pháp sư Đại Quang chỉ đưa ra ba mươi ba câu hỏi, tức là hợp lại toàn bộ mười câu như tùy hỷ… làm một câu hỏi, điều này rất thuận lợi. Trong thời gian trước, năm câu hỏi đầu trả lời ở phẩm Danh Hiệu, tiếp theo hai câu là trả lời ở phẩm Tứ Đế, tiếp theo một câu là trả lời ở phẩm Quang Minh Giác, tiếp theo hai câu là tùy cõi Phật khởi lên… thì trả lời ở ba phẩm như phẩm Minh Nạn…, nêu rõ thành Chánh Giác cũng trả lời ở phẩm Quang Minh Giác. Phẩm Hiền Thủ cũng có tướng trả lời, cũng có thể đến hết phẩm Tánh Khởi trở đi mới trả lời. Trong thời gian giữa, ba câu đầu và câu thứ năm hỏi về pháp của phần vị, câu thứ tư từ mười Tạng mười Nguyện trở xuống có năm câu hỏi về pháp thực hành và pháp của phần vị có thể biết, mười Nguyện mười Tự tại… trả lời từ phẩm Thăng Đao Lợi Thiên đến hết phẩm Thập Địa, tiếp theo mười bốn câu về mười Định… trả lời ở các phẩm từ Thập Minh đến hết phẩm Bồ-tát Trú Xứ. Trong mười ba câu hỏi thời gian sau, trả lời ở các phẩm từ Phật Bất Tư Nghị đến hết phẩm Tiểu Tướng, mười Nguyện trả lời ở phẩm Thập Minh, mười Tự tại trở xuống trả lời ở phẩm Thập Vô Tận Tạng, mười Đảnh không thấy trả lời riêng biệt, phẩm Thập Nhẫn trả lời về mười Định này, Định tức là Nhẫn. Đây là do phẩm phân chia cho nên như vậy, nếu gồm chung thì đối với văn nên biết. Phần bốn là quy tụ chúng mới, văn có hai: Một, chủ động quy tụ, câu này văn giới hạn mà nghóa gồm chung Hội sau; hai, phân rõ về chúng quy tụ, tức là như trạng thái ấy, một là như trạng thái của căn khí, hai là như cảnh tượng của căn khí đã hướng về. Trạng thái là duyên quy tụ tương tự, hình ảnh hiện rõ. Tức là như trạng thái ấy hiện bày sức thần thông, chính là dùng Thể vô cùng tròn đầy của quả đức hòa hợp rất thuận với sâu xa, không có gì ngoài duyên, tất cả đều có mặt, có thể tùy theo hành riêng biệt, phần vị sai khác, hiển bày về Hội tương ưng. Vì lẽ đó sau khi phóng ánh sáng ở phẩm Quang Minh Giác trở lại trình bày, đây là bởi vì một sự việc biểu hiện hai pháp, cho nên phân văn hai nơi: Một, vì quy tụ chúng; hai, vì dựa vào pháp sâu cạn. Hai là phân rõ về chúng quy tụ. Cõi cùng sắc là biểu hiện công đức hiển bày bên ngoài. Phật cùng trí là căn bản hiểu rõ bên trong. Bồ-tát cùng đứng đầu là bắt đầu tiến hành. Tòa ngồi giống như hoa sen là sắp thành tựu quả thứ nhất. Vì lẽ đó quy tụ các chúng trước tiên từ phương Đông, là bởi vì hiển bày bắt đầu mở mang sáng tỏ, bắt đầu sinh trưởng. Phần hai là văn chính thức tuyên thuyết, nếu phần Trường hàng thì đây chính là phần thứ năm ca ngợi Hóa chủ sâu xa. Sở dó Hội này không nhập định, là bởi vì trình bày về Thể pháp không trú, tùy theo căn khí không giống nhau, nếu đối với căn khí thù thắng, pháp sâu xa thì cần phải suy xét. Nay sự hiểu biết của Thập Tín yếu kém không biểu hiện về pháp sâu xa, gia hộ khuyến khích… theo đây có thể biết. Sở dó Văn Thù thuyết ba phẩm là bởi vì trí diệu tuệ bình đẳng an trú trong cảnh thù thắng thì mới hiển bày pháp. Sở dó Văn Thù thuyết phẩm này là bởi vì diệu tuệ khéo léo thông đạt về cõi Phật. Văn này có bốn: Một, hai câu ca ngợi chúng hy hữu có thể biết; hai, từ “Chư Phật tử…” trở xuống là sơ lược nhắc lại pháp đã hỏi để trình bày về không thể nghó bàn; ba, từ “Hà dó cố…” trở xuống là nêu ra tên gọi mở rộng giải thích; bốn, từ “Thị giai Như Lai…” trở xuống là kết thúc ca ngợi về lợi ích thâu nhiếp giáo hóa. Phần hai có mười câu có thể biết. Trong văn phần ba, đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong phần tổng quát phân bốn: Một, vặn hỏi; hai, trả lời; ba, lại hỏi; bốn, lại trả lời. Trong này một câu đầu là tổng quát, mười sáu câu còn lại là riêng biệt có thể biết. Từ “Chư Tứ Thiên…” trở xuống nêu ra mười sáu câu, tướng căn cơ đã giáo hóa không giống nhau, chứng thành-danh hiệu đều khác nhau, những tên gọi này là riêng biệt chứ không phải là gồm chung, bởi vì trong này chính thức nêu ra giải thích hiển bày về Tịnh độ. Hai, từ “Hà dó cố…” trong văn mở rộng phân hai: Một, vặn hỏi; hai, trả lời. Văn trả lời phân ba: Một, trình bày về danh hiệu Tam thiên Đại thiên giới này không giống nhau; hai, từ “Hữu mật huấn…” trở xuống trình bày về Tam thiên giới khác; ba, từ “Như thị Đông phương…” trở xuống là mở rộng giải thích danh hiệu của tất cả cõi nước. Ở đây đã trình bày tên gọi của một cõi Phật, vì sao chọn lấy trên dưới? Đây là trên dưới cũng không có phương hướng, chiều ngang cũng không có ranh giới, bởi vì hiển bày về giáo viên mãn. Ý này như văn mà thôi. ------------------------- <詞>Phẩm 4: TỨ ĐẾ Bốn môn giống như trước. Phân rõ tên gọi, Tứ là số đếm, Đế là hữu tác-vô tác vốn là Thánh đế chân thật. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì trước đây ca ngợi về Hóa chủ, nay ca ngợi về giáo pháp đã thuyết ra. Vì sao chỉ trình bày ở Hội này? Bởi vì đây là bắt đầu phát khởi giáo hóa, cho nên tổng quát ca ngợi nhân pháp sâu xa thù thắng. Phân rõ về Tông, đây là ca ngợi giáo pháp chân thật vô cùng sâu xa làm Tông. Phân văn giải thích, văn này phân ba: Sơ lược nêu ra tên gọi ba ngàn Đế ở phương này; Nêu ra ba ngàn Tứ đế trong mười phương; Từ “Phật tử như thử Ta-bà…” trở xuống mở rộng phân rõ về vô biên thế giới. Tất cả Tứ đế có hai: Hữu tác và Vô tác. Văn trong này ý chung chỉ là Vô tác, chân thật không hư dối. Hỏi: Vì sao không dựa vào một Đế mà dựa vào bốn Đế để thiết lập phép tắc? Đáp: Bởi vì tất cả làm cảnh thấy nghe cho người ba Thừa thành tựu duyên nhập đạo sau khi phát khởi niềm tin. Nhưng cũng có thể là pháp này gồm chung Hữu tác và Vô tác, bởi vì là cọng giáo của Nhất thừa, Nhất thừa Hữu tác tức là Không, Nhất thừa Vô tác không phải Không. Điều này đáng suy nghó. Sở dó Văn Thù thuyết ra là bởi vì diệu tuệ khéo léo thông đạt về thật-hư. Nghóa về Tứ đế xong. --------------------------- <詞>Phẩm 5: QUANG MINH GIÁC Bốn môn giống như trước. Phân rõ về tên gọi, Như Lai tức là Hóa chủ, Quang là Thể của trí, Minh là Dụng, Giác là mở ra rõ ràng đối với duyên mà thôi, đồng thời giác ngộ cho các Bồ-tát. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì cần phải nói ra, quy tụ chúng có duyên và hiển bày về phạm vi của pháp. Phân rõ về Tông, Tông là quy tụ chúng cùng pháp, cũng hiển bày về pháp thêm sâu xa, nhân pháp và Thể-Tướng-Dụng chính xác. Phân văn giải thích, ba phẩm trên đây cùng nối thông xuống Hội thứ sáu về sau, thêm sâu xa có khác mà văn giới hạn nhưng nghóa nối thông, nên suy nghó chính xác. Văn này có mười, văn phần một phân sáu: Một, hai chân Phật phát ra ánh sáng; hai, trình bày về nơi ánh sáng đã chiếu đến, đó là pháp vốn có sinh ra nhân quả của ba ngàn thế giới này đều có hai văn; ba, kết luận về phạm vi; bốn, do thần lực của Phật cho nên thấy các Bồ tát đến quy tụ có hai, đầu là rổng quát, sau là riêng biệt, phần riêng biệt có ba văn là Bồ-tát-cõi và Phật; năm, Văn Thù nói kệ ca ngợi Nhất thừa của Phật, pháp Tiểu thừa-ba Thừa là phương tiện để tin pháp Nhất thừa; sáu, từ “Như thử xứ…” trở xuống là kết luận tương tự các phương khác. Chín phần còn lại giống như vậy, tóm lược không có phần văn kết luận. Vì vậy phân tích về ánh sáng phát ra và ẩn kín ở các Hội giống-khác, thì Hội thứ nhất phát ra ánh sáng có mười ý như văn, tức là bắt đầu chứng pháp. Đầu phẩm Danh Hiệu là thần lực quy tụ chúng hiển bày về tướng của phần vị ấy, đầu phẩm Quang Minh Giác là ánh sáng tướng vòng tròn hiển bày phạm vi của pháp sở y ở phần vị Tín. Tiếp theo thần lực của Phật quy tụ chúng hiển bày về đức đã thành tựu trong phần vị ấy, trong kinh này nói thần lực, không hẳn là phát ra ánh sáng. Tiếp theo Bồ-tát nói kệ, tức là trình bày về phạm vi của pháp lý-sự đã hiểu trong Hội này, pháp này dựa vào phần vị thành tựu mà thôi. Hỏi: Nơi này hiển bày phần vị quy tụ chúng, vì sao trình bày ở phẩm khác, bốn Hội sau không như vậy? Đáp: Bởi vì muốn hiển bày do thâu nhiếp giáo hóa mà dựa vào cõi Phật, và hiển bày về giáo nghóa chân thật tiến vào phần vị ấy, cùng làm phép tắc cho phần vị sau, cho nên như vậy. Chân Phật phát ra ánh sáng tướng vòng tròn bởi vì nêu rõ Thập Tín là hạnh đầy đủ trọn vẹn. Trong này phạm vi phát ra ánh sáng có hai mươi lăm lần, chín lần đầu nêu ra riêng biệt, còn lại là tổng kết, văn tướng như kinh. Văn thứ hai phân rõ về ánh sáng chiếu soi hiện rõ có thể biết. Trong văn thứ tư sở dó Văn Thù ở trước, Hiền Thủ ở sau là bởi vì biểu thị trí là trước mà phước sau, lại bởi vì trình bày trước là trí hành- sau là phần vị. Văn Thù ở Trung Hoa nói là Diệu Đức, là Diệu Tuệ Hạnh. Lại trong này Quang Minh Giác ở cùng một lúc, mà có thể thấy chúng xa gần riêng biệt. Lại các phương vận dụng quy tụ chỉ là một người mà khiến cho chúng thấy khác nhau, chưa hẳn là có nhiều. Lại chúng các phương qua lại chỉ thấy chúng quy tụ nơi này, chưa hẳn là thấy chúng phương khác qua lại. Lại ánh sáng các phương và hiện rõ chúng ở tất cả mười phương đều thấy ở chính giữa, không thấy ở một bên, đây là bởi vì pháp của Báo thân thâu nhiếp giáo hóa ở cõi vốn có. Lại cũng ở trước căn cơ tự biến hiện nơi ấy, lấy tự tâm làm căn bản, cho nên các việc tùy tâm làm hóa hiện chính thức thì không có tướng riêng biệt này, điều này đáng suy nghó. Văn kệ tụng thứ năm là lời Bồ-tát Văn Thù nói ra, mà ý biểu thị về mười Bồ-tát khác. Sở dó Bồ-tát Văn Thù nói là bởi vì nêu rõ pháp từ Tuệ sinh ra, kệ nói tổng quát trình bày về Bát-nhã đã chứng, chân tánh giống như hành của Địa thứ nhất, nhưng cũng bởi vì có thể cùng từ từ tăng nhiều, cho nên không có thể biểu thị riêng về Thập địa và tụng của mười Bồ-tát. Vả lại, mười tên gọi cũng hiển bày về số đầy đủ, dần dần nhiều lên và xa hơn là hiển bày về pháp dần dần sâu hơn mà thôi. Toàn phần có ba: Một, một kệ phân rõ về chấp tướng không hợp với chân pháp; hai, có tám kệ phân rõ về lìa chấp hợp với thật pháp; ba, một kệ ca ngợi về hiểu biết có công năng thù thắng. Trong tám kệ: Ba kệ đầu phân rõ về phân biệt Vô tánh, tiếp theo ba kệ phân rõ dựa vào nơi khác không sinh, tiếp theo hai kệ là chân thật lìa tướng, cũng có thể tám hành cùng quán dựa vào một cảnh. Nhưng nay phân rõ về tướng tăng lên, dựa theo nhân quả đều có hai loại, một là chiều dọc, hai là chiều ngang. Nhân chiều dọc là dựa theo pháp trong sáng, chiều ngang tức là biết pháp rộng hẹp; quả chiều dọc tức là phần mình chứ không phải là phần khác, quả chiều ngang thì nơi đạt được nhiều ít. Nhưng về sau các chúng quy tụ ca ngợi đức đều là ca ngợi phạm vi của phần vị lúc ấy, đã thành tựu thấy biết về sau có thể dựa theo đó. Thứ hai là văn kệ của Bồ-tát Giác Thủ, từ đây xuống dưới chín kệ tăng lên là khác nhau mà thôi. Toàn bộ trình bày về biết rõ thiện ác…, Từ Bi hóa độ lợi ích chúng sinh, giống như giới hành của Địa thứ hai. Văn phân làm hai: Một, sáu kệ trình bày về Phật giác ngộ chúng sinh khiến cho lìa hai bên; hai, có bốn kệ trình bày về lợi ích Bồ-tát giống như Phật. Thứ ba là kệ của Bồ-tát Tài Thủ tổng quát phân rõ về pháp tài bình đẳng giúp đỡ thành tựu lợi ích cho vật, giống như Địa thứ ba, sau trí dùng giáo pháp lưu truyền lợi ích chúng sinh. Trong văn một kệ đầu trình bày về tánh đức của Phật có thể lợi ích chúng sinh không ngăn ngại, tiếp theo chín kệ phân rõ về biến hiện tám tướng, chính thức nói về Pháp thân. Thứ tư là kệ của Bồ-tát Bảo Thủ giống như nghóa không có thâu nhiếp của Địa thứ tư, lúc này tuy chưa đạt được nhưng có thấy hiểu. Trong văn kệ có ba, năm kệ đầu trình bày về Phật thành tựu sự không thâu nhiếp ấy, tiếp theo bốn kệ như mình đã hiểu làm lợi ích cho chúng sinh, tiếp theo một kệ ví dụ để hiển bày thanh tịnh. Thứ năm là kệ của Bồ-tát Đức Thủ giống như nghóa nối tiếp nhau không khác trong Địa thứ năm, trình bày không trú vào đạo Từ Bi lợi ích chúng sinh. Trong văn kệ có ba, năm kệ đầu phân rõ Bồ-tát Từ Bi không trú vào đạo, tiếp theo một kệ chính thức quán về nghóa nối tiếp nhau không khác, tiếp theo bốn kệ phân rõ làm cho người khác thành tựu cảnh thanh tịnh chân thật. Văn còn có mười bình đẳng thanh tịnh, một hành là một nghóa có thể biết. Thứ sáu là kệ của Bồ-tát Mục Thủ giống như nghóa không có nhiễm tịnh của Địa thứ sáu. Trong văn kệ có mười bảy phân làm bốn: Hai kệ đầu phân rõ bởi vì chấp thủ cho nên không thấy Chân Phật, tức là phân rõ về mất mát; tiếp theo bốn kệ là thành tựu trí Như Lượng thấy được Báo Phật, đây tức là đức mà thôi; tiếp theo sáu kệ phân rõ đạt được trí Chánh Thể thấy Pháp thân; tiếp theo năm kệ trình bày về pháp sâu xa hiển bày phạm vi của hiểu biết. Nhưng trong này trên dưới có hai văn giống-khác, một là nhiều trong một, cho nên trong một số thấy mười, một trong nhiều cho nên trong mười số thấy một. Vả lại, một chính là nhiều thì một số tức là nhiều mà không thấy một, nhiều chính là một thì nhiều số tức là một mà không thấy nhiều, điều này nên chính xác. Lại ngay nơi sự phân rõ về một nhiều, hai sự khác nhau phân rõ về một nhiều, nên suy nghó. Thứ bảy là kệ của Bồ-tát Tiến Thủ giống như nghóa các loại pháp không có sai khác trong Địa thứ bảy, trong văn kệ có ba: Sáu kệ đầu phân rõ trí phương tiện trong Không, hành thù thắng trong Hữu, tức là ca ngợi về đức; tiếp theo mười kệ khuyến khích quán Thật tánh hiển bày nghi thức phương pháp hiểu biết; tiếp theo bốn kệ trình bày đối với hai cảnh Lý-Lượng tiến vào đạt được pháp thù thắng. Thứ tám là kệ của Bồ-tát Pháp Thủ giống như nghóa pháp giới không có thêm bớt của Địa thứ tám, trong văn hai kệ đầu trình bày về Phật thành tựu lý trí cho nên có thể diệt trừ chướng ngại, tiếp theo sáu kệ ca ngợi về lợi ích từ pháp sâu xa của Phật, tiếp theo mười hai kệ khuyến khích lực dụng thâu nhiếp quả tánh của ba đời. Hợp hai kệ làm một đôi, một đôi đầu là phân rõ trí tiến vào pháp, tiếp theo một đôi là kết luận thành tựu công dụng của trí, nhưng văn trường hàng phân làm mười mà thôi, ngoài tức là Tịnh độ thâu nhiếp chúng sinh, trong thì thành tựu thật pháp của mình. Thứ chín là pháp môn của Bồ-tát Trí Thủ giống như Địa thứ chín trình bày về trí tự tại Đại Bi làm lợi ích cho người. Trong văn kệ, hai kệ đầu phân rõ về ý nghiệp, tiếp theo mười sáu kệ trình bày về khẩu nghiệp, tiếp theo hai kệ phân rõ về đạt được pháp vô ngại cho nên Đại dụng vô ngại. Lại nữa, hai kệ đầu là tổng quát, tiếp theo là mở rộng ca ngợi về tướng của Dụng. Thứ mười là kệ của Bồ-tát Hiền Thủ giống như dụng sau trí trong nghiệp tự tại của Địa thứ mười. Trong văn kệ, mười bốn kệ đầu là chính thức phân rõ về nghiệp tự tại, tiếp theo sáu kệ là nói ví dụ. Trong mười bốn kệ, năm kệ đầu trình bày về quán Thật tánh đạt được nhân của Y quả, tiếp theo chín kệ trình bày về quán nghiệp tự tại cho nên đạt được nhân của Chánh quả. Trong văn năm kệ đầu, hai kệ là Thể của hành, ba kệ là Dụng của hành. Trong văn chín kệ phân bốn, ba kệ đầu trình bày thuận theo quán Chân như cho nên đạt được quả Bồ-đề, tiếp theo hai kệ tu quán về sự cho nên đạt được quả của Pháp thân, tiếp theo hai kệ tu về Từ Bi cho nên đạt được quả của Hóa thân, tiếp theo hai kệ là từ Phật nghe pháp cho nên đạt được quả của Báo thân. Phẩm này trả lời câu hỏi thứ tám về thế lực công đức của Phật và câu hỏi thứ mười về thị hiện thành Chánh giác trước đây. Hỏi: Vì sao quy tụ chúng dựa theo Quang Minh Giác tăng lên? Đáp: Bởi vì biểu hiện pháp có cạn sâu, hành có thêm vi tế. Văn này làm quy phạm cho văn sau. Nay sơ lược phân các phần vị ra làm hai mươi hai môn: Nhân quả của sáu đường tức là sáu môn; nhân quả của hai hàng Thanh văn và Bích-chi , nói chung lại làm hai môn; Thanh văn và Bích-chi dựa vào Phật, vì hai căn cơ ấy mà nói về giáo Tứ đế và giáo Thập nhị nhân duyên, thì phần của Phật gồm chung nhân và quả, lại làm hai môn; Thanh văn và Duyên giác hồi tâm tiến vào Đại thừa, ở nơi giáo ban đầu, gồm chung nhân và quả, lại làm hai môn; Bồ-tát mới phát tâm thẳng tiến gồm chung nhân và quả, lại làm một môn; giáo thẳng tiến thuần thục và giáo hồi tâm thuần thục gồm chung nhân và quả, lại làm một môn; nhân quả Đốn giáo lại làm một môn; từ Thanh văn ngu pháp tổng quát thâu nhiếp các phần vị từ Càn Tuệ địa trở lên Bồ-tát và Phật, lại làm một môn; trong phần vị Phổ Hiền từ Tín trở lên cho đến Thập Địa, đều gồm chung nhân quả, Bồ-tát và Phật lại làm năm môn. Đây là dựa vào Phổ Hiền trong A-hàm mà nói. ------------------------- <詞>Phẩm 6: MINH MẠNG Có năm môn phân biệt: Giải thích tên gọi của phẩm và Ý đưa ra. Minh Nạn có hai: Một- Dựa theo pháp, bởi vì trình bày về mười nghóa sâu xa vi tế; hai- Dựa theo từ, bởi vì luận về chất vấn để hiển bày rõ ràng nghóa lý. Minh là Giáo, Nạn là mười nghóa. Lại nữa, Minh là Trí, Nạn là luận về đạo. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì chúng quy tụ rồi, vì nói về pháp Tín thành tựu về Giải, cho nên đưa ra, nghóa còn lại có thể biết. Nêu ra pháp đối trị, một chướng Sân là chướng ngại của Bách pháp minh môn, từ đây về sau phát sinh hiểu biết đoạn chướng gồm có bốn nghóa: Dựa theo sinh Tín, tức là Địa thứ nhất đoạn trừ chủng tử của kiết sử; Dựa theo phần vị, tức là phần vị hiểu rõ thì tập khí và chủng tử của kiết sử cùng đoạn; Dựa theo hành, tức là Thập Tín đầy đủ tâm thì tập khí và chủng tử của kiết sử… cùng đoạn; Dựa theo thật, tức là xưa nay không cần phải đoạn, bởi vì tự Thể thanh tịnh. Điều này có thể dựa theo suy nghó. Lại hỏi: Tướng của đoạn hoặc là thế nào? Đáp: Bởi vì không phải đầu, không phải giữa, không phải cuối mà chấp là trước-giữa và sau. Đoạn thế nào? Như hư không. Đây là nghóa về pháp cùng học của ba Thừa. Trình bày về sở đắc, đạt được Bách pháp minh môn, nếu dựa theo hành môn thì tức là đạt được Hoa Nghiêm Tam-muội. Phân rõ về thành tựu. Thành tựu Tín, gọi là mười tâm của Tín: Tín tâm. Niệm tâm. Tinh tiến tâm. Tuệ tâm. Định tâm. Bất thối tâm. Hồi hướng tâm. Hộ tâm. Giới tâm. Nguyện tâm. Như trong kinh nói: “Sơ phát tâm Trú chưa có cõi của Trú về trước, có tên gọi của mười tâm này tăng thêm tu tập về tâm này, một kiếp-hai kiếp-ba kiếp mới có thể tiến vào trong phần vị Sơ Trú, tăng thêm tu tập về Bách pháp minh môn, mỗi một tâm trong mười tâm có mười cho nên thành một trăm pháp, thường phát Đại nguyện về hữu hành-vô hành, có thể tiến vào trong huân tập chủng tánh, tu hành tất cả các nguyện.” dựa vào văn sau này có hạnh nguyện trong một trăm bốn mươi sự. Dựa vào kinh Anh Lạc: “Có nguyện thành tựu trong hai mươi bốn hạnh.” Chính là tông của phẩm này. Đây là dựa theo tướng riêng biệt mà nói. Nghóa gồm chung như luận nên biết. Tông thì có hai nghóa, nếu dựa theo Phẩm thì dùng mười nghóa sâu làm Tông, nếu dựa theo Hội thì dùng pháp của phần vị Thập Tín làm Tông. Phân rõ về văn, trong văn phần Chánh tông, trước là phân rõ nêu ra quả để khuyến khích vui thích phát sinh phần Tín, từ phẩm thứ hai về sau tu nhân hợp quả phát sinh phần Giải tức là pháp tu học. Cũng có thể là phẩm thứ tám hiển bày về nghóa của giải hạnh, hoặc là phân rõ về tướng trạng của pháp cạn sâu. Trong văn phân hai: Một, hết phẩm Tiểu Tướng về sau trình bày về phương tiện đối trị, tu thành nhân quả; hai, sau phẩm Phổ Hiền Bồ-tát đến hết phẩm Tánh Khởi trình bày về tự Thể của nhân quả. Ý giải thích có thể biết. Bắt đầu là tu thành, bởi vì dựa vào pháp đã nghe mà phát khởi tu tập. Sở dó gọi là tánh khởi tu hiển, là bởi vì bổn tánh nay mới thành tựu, lại bởi vì nhân quả tròn đầy sáng tỏ từ trong sự giác ngộ chân thật phát ra. Dựa theo ba thời gian để phân rõ, thì phẩm Minh Nạn này kết thúc, phẩm Hiền Thủ trình bày mới khởi lên là ở thời gian trước, hai từ “Đao Lợi Thiên…” trở xuống khéo léo tu tập là ở thời gian giữa, ba là phẩm Bất Tư Nghị Pháp kết thúc đến cuối phẩm Tiểu Tướng hiển bày là ở thời gian sau. Tiếp là dựa theo bốn thành tựu: Một, phân rõ chưa tin thì khiến cho tin; hai, từ “Đao Lợi Thiên…” trở xuống trình bày đã tin thì thành tựu giải hạnh, ba, từ phẩm Thập Địa về sau là đã tiến vào thì thành tựu; bốn, từ “Bất tư nghì…” trở xuống là đã thành tựu thì khiến cho giải thoát. Còn lại theo văn có thể biết. Nhưng dựa theo phần tu thành cũng được. Vả lại, từ đây trở xuống đều là phần Tựa, một Hội thứ sáu là Chánh tông, bởi vì trướclà A-hàm, sau gọi là nghóa chứng. Lại nữa, bởi vì trong Hội thứ sáu này nêu rộng về Thể tướng tu thành vốn có… cho nên biết được, điều này nên suy nghó chính xác. Văn về Sơ Tín phân ba: Một, một phẩm trình bày dựa vào Pháp sinh Giải; hai, phẩm Tịnh Hạnh dựa vào Giải thành Hạnh; ba, phẩm Hiền Thủ trình bày dựa vào Hạnh làm sáng tỏ Đức vì thành tựu phần vị mà thôi. Trong văn phần một phân hai: Một là trình bày hỏi đáp hiển rõ về mười loại nghóa sâu xa; hai là từ “Nhó thời Ta-bà giới…” trở xuống hiển bày giải hạnh tiến vào viên thông vô ngại, tức là trình bày về lợi ích của pháp. Văn phần một có hai: Văn Thù hỏi, mọi người đáp, trình bày về diệu tuệ dẫn dắt các hành. Mọi người hỏi, Văn Thù đáp, trình bày dùng các hành thành tựu diệu tuệ. Văn có mười nghóa: Duyên khởi sâu xa. Giáo hóa sâu xa. Nghiệp quả sâu xa. Phật thuyết pháp sâu xa. Ruộng phước sâu xa. Chánh giáo sâu xa. Chánh hạnh sâu xa. Trợ đạo sâu xa. Nhất thừa sâu xa. Cảnh giới Phật sâu xa. Sở dó bắt đầu là Duyên khởi, bởi vì Bồ-tát mới học thuận theo trước phải quán xét nhân duyên như thật của các pháp. Duyên khởi là bởi vì tập khởi của Lê-da cùng ba tánh như thiện… và Vô vi, trong văn hỏi đáp tức là hai mà thôi. Trong phần hỏi có bốn: Một, tổng quát nói cho biết; hai, thiết lập nghóa chính; ba, nói rõ câu hỏi; bốn, khởi lên chất vấn sau có hai ý như văn cùng thành. Một là duyên khởi chất vấn trái ngược nhau, ý hỏi vì sao tâm lấy vô phân biệt làm một tánh? Làm sao có thể thành tựu các loại sự việc? Nếu có thể thành tựu thì không thuận với vô phân biệt mà thôi. Hai là các pháp đã đều không biết, những việc làm vì sao vẫn có chân-tục? Nhưng giải thích chỉ là một câu hỏi. Văn sau chỉ là kết thúc. Văn hỏi về mười việc có thể biết, ý đáp chỉ là vô phân biệt không trú cho nên có thể thành tựu mọi việc, nếu biết phân biệt thì không thể thành tựu. Hỏi: Đã không phân biệt, vì sao thành nhân quả? thôi. Đáp: Bởi vì làm không có chủ, trái lại nêu rõ có thể thấy mà Văn kệ phân ba: Một, một kệ ca ngợi thưa thỉnh khuyến khích lắng nghe mà nhận lời nói; hai, có bảy kệ về nói pháp ví dụ để hiển bày lý; ba, có hai kệ so sánh pháp trước kia trình bày về quán hạnh. Văn thứ hai phân hai: Năm kệ đầu nêu ra pháp trả lời câu hỏi trước, tiếp theo hai kệ khiến cho loại trừ chấp. Năm kệ đầu có hai, đầu là pháp, sau là dụ. Vì sao có thể biết không trú cho nên làm? Kệ nói bởi vì “Các pháp không tự tại.” Vì sao biết lúc làm không biết? Kệ nói bởi vì “Cầu thật không thể được.” Còn lại có thể biết mà thôi. Tiếp theo phần Dụ có bốn: Kệ đầu dựa theo duyên thành tựu nối tiếp nhau trải qua thời gian làm dụ, tiếp theo một kệ dựa theo duyên khởi hữu vi sinh diệt làm dụ, tiếp theo một kệ dựa theo nhân duyên bất ngờ kích động thành tựu làm dụ, tiếp theo một kệ dựa theo Thể tướng thể duyên khởi dựa vào nhau làm dụ. Dựa vào nghi ngờ rằng đã không phân biệt thì vì sao lưu chuyển? Kệ nói bởi vì mắt-tai. Lại nói đã không có chính mình thì vì sao có tướng hiện bày? Kệ nói bởi vì thị hiện chuyển. Văn nói không biết nhau là không phải nói rằng biết rõ, nay nói có làm do lực tánh, cả hai tự mình không hướng về cho nên nói là không biết nhau, bởi vì tự tánh là bắt đầu biết pháp. Văn quán phân ba: Một, nhắc lại lý trước, đối với pháp phân rõ quán, thành tựu quán phân biệt Vô tướng; hai, một kệ dựa vào nơi khác quán về Vô sinh; ba, một kệ về Vô tánh chân thật. Vì lẽ đó Giác Thủ nói là bắt đầu biết pháp giác ngộ. Thứ hai là trong Giáo hóa sâu xa phân hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Ý gì đưa ra, trước đây thâu nhiếp tâm vào lý, ở đây sau trí độ sanh, tài là pháp tài? Hỏi có hai: Đầu là tổng quát nói cho biết, tiếp theo là riêng biệt. Trong riêng biệt có ba: Một, một câu tổng quát; hai, mười một câu riêng biệt; ba, một câu kết thúc phần hỏi. Văn thứ hai có mười một câu tương sinh, văn hỏi có thể biết. Ý hỏi vì sao như trên nói, nếu chúng sinh vô tánh thì sao nói là giáo hóa? Nếu tùy theo giáo hóa, thì sao nói là tâm trú vô tánh? Văn đáp có hai: Một là sinh khởi, hai là kệ đáp. Ý nghóa chỉ vì biết cảnh là vô tánh, tuy còn duyên mà lìa chấp sai trái, chỉ vì vô sinh cho nên giáo hóa trở lại nêu rõ có thể biết. Văn kệ phân hai: Một, khen ngợi người hỏi đồng ý nói khuyên lắng nghe; hai, nêu rõ nghóa chính. Văn phần nghóa chính phân ba: Ba kệ đầu tổng quát nêu rõ về nghóa chính, tiếp theo bốn kệ dựa theo Quán môn để biểu hiện rõ ràng, tiếp theo có hai kệ nêu rõ điều phục nghi ngờ. Văn ba kệ đầu phân ba, một kệ đầu tổng quát nêu rõ, tiếp theo một kệ chính thức trình bày dựa theo trong thân nêu rõ quán hạnh, tiếp theo một kệ lấy bên trong suy ra bên ngoài phân rõ giáo hóa chúng sinh không có chấp trước. Thứ hai là dựa theo quán môn phân rõ có bốn: Một kệ đầu nêu ra nhân duyên vô thỉ trình bày về pháp sở quán; tiếp theo một kệ khuyến khích tu quán; tiếp theo một kệ trình bày về các pháp là không có, tức là dựa theo quán giải thích về tướng; tiếp theo một kệ chính thức dựa theo môn duy thức để loại trừ. Thứ ba là điều phục nghi ngờ có hai: Một, đã là pháp thế gian vốn tự nhiên không có tánh, chúng sinh vì sao không biết, kệ nói bởi vì đều là hư vọng; hai, nếu pháp không có thì vì sao hiện rõ đủ loại, kệ nói bởi vì từ duyên khởi không có tướng khác. Vì lẽ đó Tài Thủ nói có thể đem tài sản Chánh pháp bố thí cho chúng sinh. Thứ ba là trong Nghiệp quả sâu xa có hai văn về hỏi đáp. Hỏi có năm: Nói cho biết. Thiết lập nghóa. Hỏi. Kết luận. Sinh khởi phần sau. Văn hỏi thứ ba có năm đôi mười câu có thể biết. Ý hỏi tánh đã không có ngã sở, sao nói cảm thọ khổ vui? Nếu cảm thọ khổ vui thì tại sao vẫn nói là vô tánh? Đây là lý sự chất vấn trái ngược nhau. Hỏi: Cùng với chất vấn về Duyên khởi trước đây nào khác? Đáp: Trước là hai việc trái ngược nhau cho nên khác. Ý trả lời bởi vì khổ vui tức là tánh không có Thể riêng biệt, vì vậy không trái nhau mà thôi. Văn kệ phân hai: Đầu là pháp, sau là dụ. Văn phần dụ có chín: Phân rõ dựa vào nơi khác lìa tánh làm dụ; Duyên khởi trở thành có làm dụ; Nhân duyên hiện rõ quả làm dụ; Duyên quả lìa tánh làm dụ, đây là hướng về chủ động huân tập; Thể của nhân không xen tạp làm dụ; Thọ sinh lìa tạo tác làm dụ; Quả báo không có gốc làm dụ; Sự việc thù thắng không có gốc rễ làm dụ, đây là hướng về Dụng mà thôi, cũng có thể làm sáng tỏ nhau; Có và không có cùng tánh làm dụ, đây đều là thế gian bất hoại, nói đến Đệ nhất nghóa. Vì lẽ đó Bảo Thủ nói là có thể trong sự hiển bày lý, cho nên bắt đầu đạt được là đáng quí. Thứ tư là trong Thuyết pháp sâu xa: Đầu là hỏi, sau là đáp. Văn hỏi có hai văn là tổng quát và riêng biệt. Trong riêng biệt phân bốn: Một, phân rõ về pháp đã đạt được; hai, mười câu chính thức nêu ra hỏi; ba, từ “Nhi pháp…” trở xuống là kết thúc; bốn, sinh khởi phần sau. Văn chất vấn có mười loại trái ngược nhau. Ý hỏi là pháp nếu không phải một thì có thể tùy ngôn ngữ đều là thật, nếu pháp không thuận theo lời nói thì giáo sẽ là hư vọng? Đây là chất vấn về giáo nghóa trái ngược nhau. Ý đáp vốn nói là một nghóa thì pháp chỉ có một nghóa không trú, cũng có thể một thiện xảo vì vậy có thể xuyên suốt, các giáo vẫn thành tựu một nghóa. Văn kệ phân hai: Một là khen ngợi người hỏi, hai là dựa theo dụ để biểu hiện rõ ràng. Trong phần dụ có chín: Trình bày về pháp có thể gánh vác tất cả căn cơ làm dụ. Duyên diệt các hoặc làm du. Hòa vào căn cơ không thay đổi làm dụ, đây là hướng về đức dụng. pháp. Lay động các căn làm dụ. Thuận theo mong muốn mang lại lợi ích làm dụ. Duyên sinh các đức làm dụ. Lựa chọn nhiễm hướng đến tịnh làm dụ. Thuận theo vật không hướng về làm dụ. 9)Thuận theo duyên trú vào Thể làm dụ. Vì lẽ đó Đức Thủ nói là bắt đầu hiển bày về nhiều công năng của Thứ năm là trong Ruộng phước sâu xa, văn tướng dựa theo trước có thể biết. Trong phần hỏi có hai: Một, nói ra cho biết nghóa chính; hai, làm thành chất vấn. Trong chất vấn có bốn: Một là tổng quát nói cho biết, hai là riêng biệt, ba là kết luận, bốn là sinh khởi phần sau. Phần riêng biệt có mười câu, tướng hỏi đáp cho thể hiểu. Đây là chất vấn về nhân duyên trái ngược nhau. Văn kệ có mười: Duyên có thể hiện rõ quả làm dụ. Hướng về căn cơ tùy theo giải thích làm dụ. Quyền biến khéo léo khiến cho vui thích làm dụ. Thuận theo cơ cảm khiến cho vui thích làm dụ. Vật cảm được hiện hình làm dụ. Duyên diệt các hoặc làm dụ. Đối trị các hoặc làm dụ, cũng có thể khởi lên phạm vi của duyên. Tâm Bi che phủ khắp nơi làm dụ. Lay động các quả báo làm dụ. Độc diệt ba cõi làm dụ. Vì lẽ đó Mục Thủ nói là bắt đầu thấy pháp rõ ràng. Thứ sáu là trong Chánh giáo sâu xa, văn có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong phần hỏi có bốn: Một, tổng quát nói cho biết; hai, chính thức hỏi; ba, kết thúc; bốn, sinh khởi phần sau. Văn hỏi dựa theo mười pháp đã biết làm câu hỏi. Ý hỏi vì sao nếu giáo có thể đoạn, thì không cần phải sau khi biết nhân quả mới có thể đoạn, nếu cần phải biết nhân quả mới đoạn thì lập giáo có ích lợi gì? Ý đáp có hai: Một là tiến lên, hai là lùi lại. Lùi lại là tự mình không có lợi ích. Tiến lên là Giáo, tức là có công dụng thù thắng. Chất vấn trên là chất vấn về giáo lực trái ngược nhau. Văn kệ đáp phân ba: Một kệ khuyến khích lắng nghe, tách ra hai môn lập tông. Một kệ khuyến khích tinh tiến để làm sáng tỏ uy lực của giáo, tức là đối với môn thứ nhất. Tám kệ phân rõ về lỗi lười nhác, đối với môn thứ hai trên đây. Văn này: Một kệ về đa văn giải đãi làm dụ; Mệt mỏi giải đãi làm dụ. Tu tất cả giải đãi làm dụ. Tu trái ngược giải đãi làm dụ. Cầu vượt quá giải đãi làm dụ. Ít năng lực giải đãi làm dụ. Ít đối trị giải đãi làm dụ. Không có ý vượt ra giải đãi làm dụ, lại chấp ngã khinh mạn làm dụ. Vì lẽ đó Tiến Thủ nói là bắt đầu tiến lên có thể biểu hiện thành tựu về đức thù thắng. Thứ bảy là trong Chánh hạnh sâu xa, có hai văn hỏi đáp. Văn hỏi có hai: Đầu là nói cho biết, sau là hỏi. Trong phần hỏi có bốn có thể biết. Phần thứ ba nêu ra câu có tám có thể biết. Ý hỏi vì sao bậc Thánh nói nghe nói pháp có năng lực đoạn phiền não, vì sao có người nghe pháp không đoạn phiền não, mà phiền não dựa vào tâm, tâm không có sở hành nhưng có thể đoạn phiền não? Đây gọi là chất vấn về Thánh thuyết và hành giáo trái ngược nhau. Ý đáp là giáo không phải không có năng lực, nhưng bởi vì chọn lấy phương pháp không thích hợp. Văn đáp phân hai: Một là tổng quát khuyến khích lắng nghe về nói tóm lược, hai là dùng ví dụ để thành tựu. Văn phần dụ có chín, ở đây chỉ nêu ra lỗi để hiển bày đức: Thực hành không như pháp làm dụ. Thuận theo nói bỏ suy nghó làm dụ. Chấp vào văn không phân biệt thực hành làm dụ. Tự cho mình không có phần làm dụ. Nghiệp ác chướng ngại làm dụ. Không hiểu tự nói làm dụ. Phân rõ điều nghe giữ lấy điều nói làm dụ. Bỏ chánh trở thành phụ làm dụ. Giấu sai hiện bày đúng làm dụ. Vì lẽ đó Pháp Thủ nói là có thể bắt đầu hiển bày pháp hợp với quy phạm chứ không phải là tà vạy. Thứ tám là trong Trợ đạo sâu xa, cứ chấp đây là bậc Thánh nói Chánh-Trợ trái ngược nhau. Văn hỏi có năm: Một là nói cho biết, hai là thiết lập nghóa chính, ba là chính thức hỏi, bốn là kết thúc, năm là sinh khởi phần sau. Văn đáp phân hai: Một, khen ngợi người hỏi đồng ý nói, đây là khen ngợi gồm chung chủ động và thụ động; hai, chính thức đáp. Văn chính thức đáp phân ba: Một, một Hội tổng quát trả lời; hai, bốn Hội chỉ khen ngợi về ý; ba, có bốn kệ trình bày về Chánh-Trợ tác thành lẫn nhau không có thể bỏ ý. Văn trong Hội do Phật thuyết có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt, văn tướng có thể biết. Văn phần Chánh-Trợ tác thành lẫn nhau có bốn có thể biết. Vì lẽ đó Trí Thủ nói là có thể bắt đầu khéo léo sử dụng Chánh-Trợ. Thứ chín là trong Nhất thừa sâu xa có hai văn hỏi đáp. Văn hỏi có hai: Một là nói cho biết, hai là hỏi. Trong phần hỏi có bốn: Một, thiết lập nghóa chính; hai, hỏi; ba, kết thúc; bốn, sinh khởi phần sau có thể biết. Đây là chất vấn về Thể-Dụng nhân quả trái ngược nhau. Ý đáp là Thể-Dụng nhân quả của mình và Phật đều cùng một pháp, đó là một pháp của pháp tánh, cũng có thể là một pháp phương tiện Đại Bi, nhưng chúng sinh thấy khác mà thôi. Văn kệ phân sáu: Hai kệ đầu nêu ra nhân quả đều một để đáp câu hỏi trên, tiếp theo hai kệ trình bày về tự nghiệp đều thấy khác nhau, tiếp theo một kệ thành Phật vốn là một chứ không có tinh thô sai khác, tiếp theo một kệ trình bày về hạnh thiện thì được thấy, tiếp theo một kệ trình bày về nghiệp của Phật tự tại tùy theo vật hợp với căn cơ, tiếp theo ba kệ giải thích về ý điều phục. Ý có ba có thể biết, cũng có thể chỉ là một mà thôi. Vì lẽ đó Hiền Thủ nói là khéo léo phân tích pháp Phật thuận với lý đạt được thành tựu. Trên đây phân rõ về một người hỏi nhiều người, tiếp theo sau trình bày về nhiều người hỏi một người, tức là thứ mười trong Cảnh giới Phật sâu xa, có hai văn hỏi đáp. Văn hỏi có năm: Một là nói cho biết, hai là kết luận về pháp đã nói, ba là khen ngợi người hỏi phân rõ đức để tiếp tục hỏi, bốn là chính thức hỏi, năm là kệ tụng sinh khởi phần sau. Nay phần đã hỏi có mười một tướng. Vì sao trước đây Văn Thù che mất chất vấn, nay chỉ hỏi thẳng, là bởi vì làm sáng tỏ phần vị bậc trên. Trong văn mười một câu hỏi phân ra bốn lớp: Một, ba câu về đức Tự lợi; hai, bốn câu về đức Lợi tha; ba, ba câu về chúng được lợi ích, nhưng ba câu này gồm chung chủ động và thụ động(năng-sở); bốn, một câu tổng quát trình bày về nhiều điều đã hỏi: Phần lượng cảnh giới mà Phật đã chứng biết. Nhân có thể chứng được cảnh. Hỏi về nơi đã nhập. Trong cảnh giới của Phật hóa độ bao nhiêu chúng sinh. Trí tùy thuận cảnh giới. Pháp đã thuyết tùy theo chúng sinh. Trí như lượng phân biệt biết rõ. Cảnh Phật là thức phân biệt vốn không biết. Ở trong cảnh giới nào có thể khiến cho chúng sinh quyết định biết là cảnh Phật. Trí soi chiếu tâm những chúng sinh nào làm cảnh. Như trong cảnh nói về những nghóa rộng lớn nào. Vì lẽ đó Văn Thù nói là diệu tuệ thông đạt cảnh giới Phật làm bắt đầu. Văn đáp có mười kệ: Một kệ đầu trả lời về cảnh giới mà Phật đã chứng trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về nhân của cảnh Phật trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về nơi cảnh đã nhập trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về chúng sinh mà Phật đã hóa độ trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về những trí nào tùy theo cảnh Phật trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về pháp tùy chúng sinh nói ở cảnh Phật trên đây, tiếp theo một kệ trả lời như thế nào là trí có thể phân biệt biết rõ về cảnh của Phật đã biết trên đây, tiếp theo nửa kệ trả lời về nhận biết cảnh Phật trên đây, tiếp theo nửa kệ trả lời về như thế nào có thể quyết định biết là cảnh Phật trước đây, tiếp theo một kệ trả lời về cảnh giới Phật rộng lớn trước đây, tiếp theo một kệ trả lời về cảnh giới soi chiếu trước đây, cũng có thể dựa vào câu hỏi để lần lượt trả lời. Theo thứ tự hai văn lớn trình bày đã đạt được tin hiểu (tín giải) bình đẳng vô ngại hiện rõ không có nghóa của hai tướng. Trong văn có hai: Một, trình bày nhờ vào uy lực thấy cõi này không ngăn ngại; hai, từ “Như thị…” là tương tự tất cả phương khác đều thấy được lợi ích, văn này có hai có thể biết. Phần một trong văn lợi ích cõi này, lại nói một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận. Trong phần riêng biệt: Như pháp đã thực hành, là như pháp thực hành về sáu Độ, mà Trí Thủ là vị thứ chín đã phân rõ trước đây. Như nghiệp đã thực hành, là như tùy theo nghiệp đã thực hành nhận lấy quả báo cũng như vậy…, mà Bảo Thủ là vị thứ tư đã phân rõ trước đây. Như hạnh thế gian, là như hạnh tinh tiến mau vượt ra lười biếng khó thoát khỏi, mà Tiến Thủ là vị thứ bảy đã phân rõ trước đây; cũng như tu hạnh xuất ly-đa văn không được, mà Pháp Thủ là vị thứ tám đã phân rõ trước đây. Tùy thân hành, là như tùy thân-tùy hành thấy là giáo hóa gọi là tùy thân hành, mà Tài Thủ là vị thứ ba đã phân rõ trước đây. Tùy căn hành, là như pháp của Phật tuy một, nhưng tùy căn tánh cho nên phân ra nhiều, mà Đức Thủ là vị thứ năm đã phân rõ trước đây; cũng như ruộng phước của Phật tuy một, nhưng tùy công hạnh cho nên phân ra nhiều, mà Mục Thủ là vị thứ sáu đã phân rõ trước đây, tùy theo công hạnh ấy phân ra nhiều, tùy theo công hạnh ấy mà nhận lấy quả báo ở nơi sinh ra. Trì giới-phá giới, là như tâm tánh tuy một, nhưng tùy theo thực hành không giống nhau, nhận lấy quả báo đều khác biệt như thiện ác…, mà Giác Thủ là vị thứ hai đã phân rõ trước đây. Thuyết về pháp của quả báo, là như tùy theo chúng sinh mong muốn, các nghiệp và quả đều khiến cho thấy chân thật gọi là nói về quả báo, mà Hiền Thủ là vị thứ mười đã phân rõ trước đây; lại như pháp của cảnh giới Phật, cũng được gọi là nói về quả báo, mà Văn Thù đã phân rõ trước đây. Vả lại, sự hiển hiện này có hai: Một, biểu thị về pháp thuận theo lý, là pháp phương tiện đều thật sự thành Thánh; hai, biểu thị cho Thể của pháp thuận theo lý, công năng trong sáng tất cả đều thấy. ----------------------- <詞>Phẩm 7: TỊNH HẠNH Bốn môn giống như trước. Phân rõ về tên gọi, trong này mở rộng về tướng phạm hạnh thanh tịnh thù thắng vi diệu của Bồ-tát tu hành, cho nên gọi là phẩm Tịnh Hạnh; cũng có thể Tịnh là Đức vô cấu, Hạnh là Thể. Lại nữa, Tịnh là Nguyện, Hạnh là sự thanh tịnh mà thôi. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì dựa vào hiểu biết(giải) mà phát khởi thực hành(hạnh); cũng có thể trước là hạnh sau là nguyện. Lấy các nguyện làm Tông. Giải thích văn, văn này có hai: Đầu là Bồ-tát Trí Thủ hỏi, sau là Bồ-tát Văn Thù đáp. Sở dó Bồ-tát Trí Thủ hỏi, Bồ-tát Văn Thù đáp, là vì tướng của nguyện ban đầu vi tế, không phải là trí thì không tiếp nhận, tùy tướng phát nguyện không phải là diệu tuệ thì không sáng tỏ. Nghóa trong phần hỏi tương tự theo nhau có mười một sự việc, toàn bộ có hai: Một, bảy sự việc trước hỏi thế nào là tướng của nhân thuộc phần mình; hai, từ “Đắc thị xứ trí…” trở xuống trình bày hỏi về tướng của quả thuộc phần thù thắng. Ngay trong văn phần một: Một sự việc về nhân hành của phước. Một sự việc về quả hành của phước. Một sự việc về nhân hành của trí. Một sự việc về quả hành của trí. Một sự việc về nhân hành của pháp trí. Một sự việc về quả hành của chứng trí. Một sự việc về tu đầy đủ thành tựu các Độ. Hỏi về sự việc thứ 1 có chín: Một, ba câu về chủng tử lìa ba độc; hai, một câu về kiên định không lui sụt, đây là không giống với phàm phu; ba, một câu về thành tựu Tự lợi; bốn, một câu về Lợi tha thắng diệu, đây là khác với Nhị thừa; năm, ba câu về lìa thấy của Bồ-tát giả danh trước phần vị Tín. Cũng giải thích ba câu đầu là Đoạn đối trị, tiếp theo ba câu là Thể, tiếp theo ba câu là Tánh đối trị, suy nghó thì có thể biết mà thôi. Hỏi về sự việc thứ hai có mười, hỏi về sự việc thứ ba cũng có chín sự việc, trong câu hỏi về sự việc thứ tư có tám, văn còn lại có thể biết . Thứ hai trong quả, trong câu hỏi về quả thắng tiến, văn có bốn: Một, tiến vào phần quả cho nên có thể nhận vật cúng dường; hai, được trời thần… cung kính bảo vệ; ba, phân rõ về đức thực hành Đại Bi; bốn, phân rõ về đức của phần vị. Ngay phần thứ hai là Bồ-tát Văn Thù trả lời, trả lời tất cả, suy nghó có thể biết, nêu một nguyện trả lời nhiều câu hỏi trước đây không sót lại gì. Văn có ba: Một, trường hàng tóm lược trả lời; hai, kệ tụng mở rộng trả lời; ba, trường hàng kết thúc. Văn phần một có hai: Một là khen ngợi người hỏi nói rõ về lòng dạ của mình có hai có thể biết; hai là từ “Phật tử…” trở xuống chính thức trả lời. Văn trả lời có ba: Một, phân rõ về Tự lợi; hai, từ “Khứ lai kim…” trở xuống là Lợi tha; ba, từ “Minh đạt thật tướng…” trở xuống trình bày về quả hành thắng tiến, văn có hai có thể biết. Thứ hai là bậc dẫn dắt tôn quý, Phật là một, bởi vì chủ động thưa thỉnh cho nên là hai. Lại đối với nhân của Phổ Hiền là người hướng về quả, lại đầy đủ đạo Tự lợi là đầu, nay trọn vẹn đức Lợi tha là sau mà thôi. Văn kệ có hai: Một là nhắc lại, hai là kệ trả lời giải thích. Nguyện có hai: Một là trước hành, hai là sau hành. Đây là sau hành, cũng có thể cùng lúc bởi vì chính là hành. Ở đây tổng quát có hai ý: Một, đã chuyển đổi tâm thấy điều ấy liền trở thành Thể của hành; hai, chuyển sang cầu sự việc khác thành tựu sự việc của nguyện kia. Nguyện này có mười loại thế lực: Thông hiểu sự tiến vào lý, như Bồ-tát tại gia… Bởi vì nhân giống như quả, nếu như đang tụ hội… Bởi vì mình giống như người khác, như thấy không hổ thẹn… Bởi vì người giống như pháp, như thấy người bệnh tật… Bởi vì nhiễm giống như tịnh, như thấy người bội ân… Bởi vì thế gian giống như xuất thế gian, như ở trong nhà… Dùng cảnh đạt được tâm, nếu như đi vào phòng Tăng… Lấy Thể tùy theo Dụng, như thấy người khổ hạnh… Tương tự cùng loại thành tựu, như bố thí những vật quý báu… Bởi vì thật giống như hư, nếu như đang ca hát…, theo đúng như vậy. Kệ có một trăm bốn mươi kệ, tất cả phân làm hai: Mười một kệ đầu trình bày về pháp của Bồ-tát tại gia không rời bỏ hành thế gian, văn còn lại trình bày về hành của Bồ-tát xuất gia, là không trú vào hành hữu vi. Văn về xuất gia có năm: Một, mười lăm kệ đầu trình bày về xuất gia thọ giới pháp; hai, từ “Nhược nhập phòng xá…” trở xuống là hai mươi kệ phân rõ tiến vào trú xứ theo pháp hành oai nghi; ba, từ “Thủ chấp tích trượng…” trở xuống là năm mươi bảy kệ trình bày về pháp hành ở đường đi; bốn, từ “Nhập lý khất thực…” trở xuống là hai mươi kệ trình bày về pháp hành khi vào thành ấp xóm làng khất thực; năm, từ “Nhược nhập thủy thời…” trở xuống là mười bảy kệ trình bày về pháp hành xuất ly tu đạo. Nguyện có ba loại: Một là Thệ nguyện, hai là Hạnh nguyện, ba là tự Thể không chướng ngại nguyện. Một là chưa thành thì mong thành, hai là đích thực thành hạnh, ba là thành đã là nguyện chân thật. Tức là tất cả các nguyện như sáu quyết định và tánh khởi… đều có ba văn: Một câu đầu là cảnh của phần mình, tiếp theo một câu cùng với chúng sinh, tiếp theo hai câu là thâu nhiếp giống như sự việc thù thắng. Lại hỏi: Vì sao kinh Anh Lạc nguyện nhiều hướng về nơi tiến vào Lý, kinh này nguyện nhiều hướng về Sự? Đáp: Bởi vì kinh này thuận theo giáo Nhất thừa lợi ích nhiều thuộc về Sự, kinh Anh Lạc thuận theo giáo ba Thừa lợi ích phần nhiều thuộc về Lý, có thể theo đó suy nghó. ------------------------------ <詞>Phẩm 8: HIỀN THỦ Bốn môn giống như trước. Phân rõ về tên gọi, phần vị Thập Tín đã đầy đủ là sự bắt đầu của Thánh Hiền, là bậc thứ nhất đến trong Bồ-tát cho nên gọi là phẩm Hiền Thủ. Trình bày về ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì hạnh đã thành lập, tiếp theo cần phải mở rộng ca ngợi về đức dụng thành tựu phần vị cho nên đưa ra. Tông là ca ngợi về đức. Giải thích văn, phẩm này có bảy trăm mười lăm kệ rưỡi, trong văn có ba: Một, Văn Thù hỏi; hai, có bảy trăm lẻ bảy kệ rưỡi là Hiền Thủ chính thức trả lời; ba, Hiền Thủ nói. Cuối phẩm này đương thời có sáu kệ, do các vị kết tập kinh(kinh gia) hiển bày về sự chứng đắc thành tựu của chư Phật. Văn hỏi có hai: Một là trường hàng, các vị kết tập kinh tổng quát hiển bày về tướng ý hỏi của Văn Thù; hai, có hai kệ, nhắc lại tịnh hạnh thành tựu trước đây là nhân của Tín, để chính thức thưa hỏi, một kệ đầu là kết thúc phần trước, tiếp theo một kệ là phát khởi phần sau. Sở dó Văn Thù hỏi, Hiền Thủ đáp là bởi vì đức viên thông trong phần vị Thập Tín không phải là diệu tuệ thì không thể tiếp nhận, nghóa sâu xa-đức thanh tịnh chỉ có bậc Hiền mới đạt được. Trình bày trong phần trả lời thứ hai, văn có bốn: Một, mười ba kệ đầu tổng quát trình bày về Hành tướng phát tâm của phần vị Tín; hai, từ “Thâm tâm…” trở xuống là năm trăm mười chín kệ rưỡi mở rộng trình bày về công năng thù thắng-Thể của đức thuộc phần vị Tín; ba, từ “Nhất thiết chư Phật giai cọng thuyết…” trở xuống là một trăm năm mươi bốn kệ trình bày về tôn chỉ sâu xa đã nói, chúng sinh không hiểu dùng ví dụ để giải thích; bốn, từ “Như ngã sở thuyết chư thí dụ…” trở xuống là hai mươi mốt kệ so sánh khuyến khích phát tâm. Phần một là tổng quát có ba: Một, nửa kệ đầu nhắc nhủ lắng nghe đồng ý nói; hai, sáu kệ rưỡi tiếp theo nêu ra nghóa mở rộng để hiển bày văn tóm lược; ba, sáu kệ tiếp theo chính thức nói về hành tướng công đức phát tâm. Phần hai tiếp theo nêu ra nghóa mở rộng để hiển bày văn tóm lược: Đầu có ba kệ rưỡi trình bày nói về phạm vi, tiếp theo hai kệ hiển bày mở rộng là sâu xa, tiếp theo một kệ thành tựu về nói tóm lược ban đầu. Phần ba tiếp theo tổng quát ca ngợi đức, trong văn có ba: Một là nửa kệ nêu ra hai môn nhân duyên tổng quát ca ngợi đức; hai là một kệ rưỡi sơ lược phân rõ về duyên phát tâm và nhân gồm chung phân rõ hai môn trên; ba là bốn kệ biểu thị về ý phát tâm có hai, một kệ đầu trình bày về sự xa rời, ba kệ sau phân rõ về sự thành tựu. Trong ba kệ này, một kệ đầu tách ra hai môn, hai kệ tiếp theo giải thích hai môn trước đây. Trong phần thứ hai là năm trăm mười chín kệ rưỡi, có ba: Một, một trăm ba mươi hai kệ phân rõ trong nhân của phần mình tập trung đầy đủ Bồ-đề; hai, từ “Thí giới nhẫn nhục tinh tiến thiền…” trở xuống là ba trăm lẻ năm kệ phân rõ trong quả thắng tiến tập trung đầy đủ Bồ-đề; ba, từ “Thần lực ư thử đắc tự tại…” trở xuống là tám mươi mốt kệ về thành tựu công đức Tự tha không ngăn ngại. Văn phần một phân hai: Một là một trăm mười chín kệ phân rõ tướng sai biệt của Tự lợi; hai là từ “Hoặc hữu sát độ vô hữu Phật…” trở xuống có mười bốn kệ về hạnh Lợi tha. Văn phần một về Tự lợi có mười: Mười tám kệ đầu trình bày tướng của phần vị thứ nhất của Thập Tín, nói rõ về Tín bốn bất hoại. Từ “Nhược tín cung kính nhất thiết Phật…” trở xuống có mười kệ, là phần vị thứ hai giống như tướng của Địa thứ hai. Từ “Nhược tín kiên cố bất khả động…” trở xuống có bảy kệ, trình bày về phần vị thứ ba giống như tướng của Địa thứ ba. Từ “Nhược vi nhất thiết Phật sở hộ…” trở xuống có tám kệ, trình bày về phần vị thứ tư giống như tướng của Địa thứ tư. Từ “Nhược năng cụ túc Ma-ha-diễn…” trở xuống có chín kệ, trình bày về phần vị thứ năm giống như tướng của Địa thứ năm. Từ “Nhược đắc Đại Bi tâm kiên cố…” trở xuống có tám kệ, trình bày về phần vị thứ sáu giống như Địa thứ sáu lấy Đại Bi làm đầu để quán sát…. Từ “Nhược giải nhất thiết chúng sinh hạnh…” trở xuống có tám kệ, trình bày về phần vị thứ bảy giống như tướng của Địa thứ bảy. Từ “Nhược năng siêu xuất tứ ma đạo…” trở xuống có mười chín kệ, phân rõ về phần vị thứ tám giống như hành tướng của Địa thứ tám; Từ “Nhược thuyết vi diệu thậm thâm pháp…” trở xuống có mười ba kệ, trình bày về phần vị thứ chín giống như tướng thuyết pháp của Địa thứ chín. Từ “Nhược thân công đức trí tuệ cụ…” trở xuống có mười tám kệ, phân rõ về phần vị thứ mười giống như tướng của Địa thứ mười. Văn của phần vị thứ nhất có hai: Một là mười sáu kệ đầu phân rõ về đức của phần vị thứ nhất, hai là từ “Thị cố…” trở xuống hai kệ gồm chung ca ngợi đức theo thứ tự của mười phần vị. Văn phần một có hai: Một, bốn kệ đầu phân rõ về cảnh giới của Tín; hai, có mười hai kệ mở rộng nghóa ca ngợi về đức sinh thiện diệt chướng của Tín. Văn phần một về cảnh giới có hai: Hai kệ đầu là Tam bảo, hai kệ tiếp theo là ba loại Phật tánh. Nếu Tín không thể hoại, thì vì sao Luận nói căn thiện ít Hỷ-Xả…? Giải thích có hai: Một, đây là trình bày về người lập tức tiến vào Nhất thừa; hai, trình bày chủng tử này không phải là phần vị tâm hành bậc Thượng, cũng có thể Tín này đầy đủ tâm luôn luôn không lui sụt. Đây là nói trú trong Tín đầy đủ tâm thực hành mười Giải có thể thành tựu hạnh, bởi vì các kinh nói khác nhau, theo đây suy nghó để thâu nhiếp. Hai là từ “Thị cố…” trở xuống kết luận có hai kệ, một kệ đầu là pháp thuyết, một kệ tiếp là ví dụ, hai kệ là văn về hai phần nhân hạnh của phần mình. Trong phần hai là Lợi tha có bốn: Tám kệ đầu trình bày về phương tiện thanh tịnh tám tướng thành đạo giáo hóa. Tiếp theo hai kệ là phương tiện giáo hóa không nhiễm ô. Tiếp theo một kệ trình bày về Thể của Đại dụng. Tiếp theo ba kệ là kết luận ca ngợi tự tại. Phần hai, từ “Thí giới nhẫn nhục tinh tiến thiền…” trở xuống phân rõ về thắng tiến, văn có hai: Một, chín mươi kệ đầu trình bày về hạnh Tự lợi đầy đủ Phật sự; hai, từ “Thuyết pháp giáo giới cập thiền định…” trở xuống có hai trăm mười lăm kệ nói về hạnh Lợi tha. Văn về hạnh Tự lợi có ba: Bảy mươi kệ đầu là thân nghiệp không Không. Từ “Nhu nhuyến mỹ thanh như ai loan…” trở xuống có bốn kệ là khẩu nghiệp. Từ “Chúng sinh khổ lạc lợi vô lợi…” trở xuống có mười sáu kệ là ý nghiệp. Tiếng (thanh) có tám loại như trong kinh Phạm Ma Dụ nói: Tiếng hay nhất, tiếng ấy thanh nhã như tiếng Ca-lăng… Tiếng dễ hiểu, ngôn từ phân biệt rõ ràng. Tiếng điều hòa, tiếng ấy sang sảng oai hùng. Tiếng mềm mại. Tiếng không sai. Tiếng không yếu đuối. Tiếng trí tuệ tôn quý nói không run sợ, như người tôn trọng, như người trí tuệ thù thắng nói không hề sợ hãi. Tiếng sâu xa phát ra từ phần rốn, tiếng giống như sấm chấn động. Văn bảy mươi kệ đầu có ba: Một, mười kệ đầu là đưa ra Dụng của thân nghiệp, Thể gọi là Định; hai, từ “Nhược dục cúng dường nhất thiết Phật…” trở xuống có ba mươi bốn kệ chính thức trình bày về thân nghiệp; ba, từ “Dục an nhất thiết…” trở xuống có hai mươi sáu kệ trình bày về hiện rõ các pháp môn giáo hóa, cũng chính là việc đã làm. Hai là văn phần Lợi tha thắng tiến có ba, tức là Tam Luân: Một, hai mươi tám kệ đầu trình bày về Thần túc hóa; hai, từ “Nhược kiến thế gian vô chánh kiến…” trở xuống có chín kệ về Thuyết pháp luân; ba, từ “An ẩn chúng sinh…” trở xuống có một trăm bảy mươi tám kệ về Túc trú luân hóa, tức là nhớ lại giáo hóa. Đây là dựa theo nhân vốn có mà nói, nếu hướng về duyên hiện tại thì tức là Ký tâm luân. Văn về nhớ lại, có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba từ “Như thị đẳng tỷ…” trở xuống là kết thúc. Trong riêng biệt gồm có bốn mươi bốn sự việc, mỗi sự việc đều có ba: Một là nêu ra tên gọi và Thể, hai là ánh sáng có tác dụng căn bản, ba là nói về nhân vốn có. Trong văn có mười loại lời nói phi pháp là dựa vào luận sau dùng mười bảy loại lời nói vốn có trong kinh làm mười loại lời nói phi pháp, đó là: Lời nói làm não hại, lời nói thô lỗ, lời nói làm khổ người khác, lời nói làm người khác tức giận, bốn lời nói này là một loại; lời nói ở trước mặt, lời nói không ở trước mặt, lời nói thô ác, lời nói không dứt, bốn lời nói này là bốn loại; lời nói không thích nghe, lời nói nghe không vừa lòng, hai lời nói này là hai loại; lời nói tức giận buồn phiền là một loại; lời nói như lửa giận có thể đốt cháy, lời nói làm cho tâm nóng bức phiền muộn, lời nói không mến, lời nói không thích, bốn lời nói này là một loại; lời nói không khéo tự làm hại mình, cũng làm hại đến người khác, hai lời nói này là một loại; mười lời nói phi pháp này phát sinh phiền não đến sự việc của người khác làm chướng ngại đến Định của họ. Lại dựa vào mười loại lời nói phi pháp trong kinh Nhiên Đăng: Lời nói dối. Lời nói làm khổ tâm. Lời nói thô lỗ. Lời nói tệ hại. Lời nói không vui; Lời nói không thích. .Lời nói không yêu thương. Lời nói không hợp lòng người. Lời nói não hại người khác. Lời nói kết buộc oán thù. Văn kết luận có bốn: Một có bốn kệ nêu ra Thể của pháp; hai có sáu kệ phân rõ về lợi ích; ba có bảy kệ về dụ; bốn có ba kệ kết luận khuyến khích có thể biết. Tiếp theo phần thứ ba có tám mươi mốt kệ, trình bày về thành tựu công đức Tự tha không ngăn ngại có ba: Một, từ “Thần lực ư thử đắc tự tại…” trở xuống có mười bảy kệ trình bày về tự tại đối với Khí thế gian; hai, từ “Đông phương thế giới vô hữu dư…” trở xuống có mười kệ trình bày về tự tại đối với trí Chánh giác; ba, từ “Ư nhãn căn trung nhập chánh thọ…” trở xuống có năm mươi bốn kệ trình bày về tự tại đối với chúng sanh thế gian. Văn chúng sanh thế gian có năm: Một, có hai mươi bốn kệ trình bày về Tự thân nhập định; hai, từ “Đồng tử thân nhập chánh thọ…” trở xuống có mười bốn kệ trình bày về nhập định đối với thân khác; ba, từ “Nhất mao khổng nhập…” trở xuống có bốn kệ trình bày về Tự-tha xuất nhập tự tại; bốn, từ “Nhất vi trần nhập…” trở xuống có mười kệ trình bày về nhập định ở ngoài bốn đại; năm, từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận ca ngợi vô tận. Văn về Tự thân có mười hai Nhập tức là hai mươi bốn mà thôi. Ba thế gian trên đây tạm thời dựa theo một tướng mà nói, Lý có hai nghóa: Một, Tự thân Bồ-tát làm ba thế gian; hai, Bồ-tát thị hiện tự tại đối với ba thế gian. Văn trên tức là môn thứ hai. Thứ ba có một trăm năm mươi bốn kệ trình bày về tôn chỉ sâu xa của pháp, chúng sinh không hiểu được, đưa ra ví dụ tương tự để trả lời. Trên đây là chính thức trả lời để bắt đầu kiến lập, nghóa về đức hành- căn thiện hiển bày ở đây, mà phần vị thì nói sau, là bởi vì ngoại phàm mới bắt đầu hạnh của phát tâm. Nhưng kinh văn đã phân rõ, chính là nói Thập Địa cuối cùng tiến vào cảnh giới Vô thượng Bồ-đề của Phật đầy đủ Phật sự. Nói như vậy thì mâu thuẫn, nguyên cớ thế nào? Nếu suy xét kỹ về sự thật ấy, thì đó là hạnh chủ yếu nối thông tông chỉ của Nhất thừa, nghóa phát khởi nguồn gốc Chân như mà không rời bỏ thế gian, thấu suốt nguồn cội sâu xa, trải rộng khắp nơi pháp giới, diệu tuyệt tình thức thấp kém, công hiển bày không ở ngoài, Thể không có gì không dung hợp, Hạnh không có gì không có mặt, trước sau không hai, mục đích ở tại một Vị. Vốn là quả của quả không khác nhân, nhân của nhân không khác quả, mà nhân quả phù hợp dựa nhau hiển bày đối với duyên, duyên ấy chính là phẩm loại sai khác, cùng vượt qua thiếu đủ tự nó, đối với mình là tự nhiên. Vì vậy dựa vào sự học hỏi của mình để làm sáng tỏ dấu tích phát khởi, công thành có nơi chốn, mà pháp thì mở rộng, hành thì giới hạn, sự hiển bày nghi thức thông thường, hoặc có lúc xem xét chân thật. Vì vậy cần phải lựa chọn rõ ràng, làm cho gương sáng của Viên tông soi chiếu huyền chân thù thắng, lời nói phát ra biểu thị không phải là cảnh giới của suy nghó. Như vậy mà tình thức nông cạn vướng mắc, tôn chỉ sâu xa khó lường, trái lại đối với thấy nghe, che kín giáo pháp giữ lấy giải thích, càng thêm mê hoặc tình thức. Tự mình không nhờ vào ví dụ để mô phỏng dẫn dắt đạt được tâm ấy, thì không biết từ đâu dẫn đến tin tưởng, cho nên đưa ra việc gần để hướng về gương sáng huyền diệu mà thôi. Văn có hai: Một, hai kệ đầu tổng quát nêu ra những sự việc không thể nghó bàn của rồng thần và Phật…; hai, từ “Kim thuyết…” trở xuống mở rộng nêu ra nói về dụ. Có ví dụ về hai mươi sự việc: Dụ về hình tướng sâu rộng của đức hạnh. Dụ về đức chân thật lìa xa sai trái. Dụ về trì pháp rõ ràng. Dụ về biện tài khiến cho vui thích. Dụ về khéo léo sử dụng khiến chô vui thích. Dụ về giảm lớn tăng nhỏ. Dụ về tác dụng tự tại của Định. Dụ về biến hóa tự tại. Dụ về đức hơn hẳn thù oán. Dụ về lợi ích chúng sinh rộng lớn. Dụ về chúng sinh yên ổn trừ bỏ sợ hãi. Dụ về tùy cơ ứng hiện. Dụ về thâu nhiếp thực hành tự tại. Dụ về giải thoát tự tại. Dụ về nhanh chóng biết pháp. Dụ về thành tựu việc làm không ngăn ngại. Dụ về thuận theo giáo pháp khiến cho vui thích. Dụ về rõ ràng thêm cơ. Dụ về nêu ra dưới thành tựu trên. Dụ về tự tại đến cùng nguồn cội. “Như ngã sở thuyết chư thí dụ” là phần thứ tư khuyến khích phát tâm tu hành, văn có hai: Một, bốn kệ đầu phân rõ có thể thuyết giảng là khó; hai, bảy kệ tiếp theo trình bày tin nhận là khó. Tiếp theo mười kệ mượn ví dụ khó có năm sự việc để ca ngợi về thù thắng vi diệu, mà pháp nói ra đã sâu xa, nghóa ấy hướng về chân thật phát khởi đạt được tâm Thánh cảm ứng. Tiếp theo phần thứ ba có sáu kệ trình bày về thụy tướng xoa đầu khen ngợi thuyết giảng…, thành tựu khéo léo thuyết giảng. <篇> ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 2 (Phần 1) <詞> Phẩm 9: PHẬT THĂNG TU DI ĐẢNH (Hội thứ ba) Bốn môn giống như trước. Giải thích tên gọi, Phật là Hóa chủ, Thăng là tiến lên phía trên, Tu-di là núi Diệu Cao, Đảnh là ở trên cao nhất. Hỏi: Vì sao từ đây về sau bốn Hội lại thuyết ở cõi trời? Đáp: Đức hạnh và phần vị thành tựu, trừ chướng được thanh tịnh thù thắng, cho nên thuyết ở cõi trời. Đây là trả lời câu hỏi về phần vị Thập Trú trước đây. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì tin cho nên hiểu. Đây là bắt đầu phân rõ về ý đưa ra của Hội. Nhưng vì sao đưa ra Hội, Thể của Báo thân đã thành tựu rồi, tiếp theo cần phải phát khởi Hóa thân đến với căn cơ cho nên đưa ra. Vì vậy sơ lược phân tích do giáo phát khởi mà biểu hiện. Nhưng các Hội này không rời xa bổn xứ, tức là biểu hiện từ hạnh thành Thể của Báo thân kiên cố không thay đổi, mà đến các Hội tức là biểu hiện tùy cơ khởi dụng, đây là giải thích dựa theo Thể của tu hành. Nếu hướng về phần sinh ra hiểu biết phát khởi niềm tin, thì hiển bày về hành vị thêm sâu xa mà thôi. Vả lại, trong văn giải thích dựa theo Phật khởi dụng đến với căn cơ để giải thích tức là năng lực của thiện tri thức, nếu dựa theo phần vị… để giải thích thì tức là giải thích dựa theo sự tu hành của mình, có thể suy nghó chính xác. Vả lại, Hội này trở xuống bốn Hội sau đều tăng về tướng của phần vị, có phần khác biệt so với Tín hành trước đây, đối với nghóa của pháp ba Thừa và Nhất thừa cũng cần đan xen qua lại, suy nghó chính xác điều này, những Hội còn lại đều chung ý này. Phẩm đưa ra là trước nói về pháp của Tín rồi, tiếp theo phân rõ hướng đến, sau là nói về nơi dựa vào mà thôi. Tông. Dựa theo Hội phân biệt có hai: Một là dựa theo người, hai là dựa theo pháp. Dựa theo người thì có Hóa chủ và trợ giúp giáo hóa, đều có Thể-Đức-Dụng, chỉ giới hạn ở Hội này. Dựa theo pháp, đó là pháp Thập Giải, về sau sẽ phân rõ. Dựa theo Tông của phẩm, nếu dựa vào lúc Lợi tha hiện rõ nơi chốn và cúng dường, thì chính là hiển bày về duyên của pháp; nếu dựa theo lúc Tự lợi thì đây chính là cơ cảm tương ưng, duyên với cơ thành tựu Thể-Dụng. Phân rõ văn. Hội này có sáu phẩm, phân ba: Hai phẩm đầu trình bày về phương tiện phát khởi, tiếp theo hai phẩm trình bày về tướng của Chánh vị, tiếp theo hai phẩm trình bày về hành tướng sau khi thành tựu đầy đủ. Hai phẩm đầu phân hai: Một là khởi dụng tùy vật, hai từ “Đế Thích dao kiến…” trở xuống phân rõ cơ cảm tương ưng. Văn trước có hai: Một là phân rõ về sự dung thông của y báo-chánh báo, tức là hiển bày Thể thanh tịnh trước đây; hai là tiếp tục hiển bày Dụng thanh tịnh sau này, vốn là tự tại vô ngại thành tựu mọi việc. Các Hội có văn, đều chung cách giải thích này mà thôi, chỉ khác nhau về thắng tiến. Hỏi: Văn này vì sao không ở sau Hội trước, mà ở trước Hội sau? Đáp: Nếu ở sau Hội trước thì chỉ hiển bày rõ ràng về nghóa lợi ích của nói pháp, không hiển bày đối với nghóa về Thể của dụng giáo hóa sau này, cho nên phân rõ ở trước Hội sau mà thôi. Hội còn lại cũng giống như vậy, vì sao không phân tích ở sau Hội thứ nhất? Bởi vì Hội trước gồm đủ ý nghóa khác giải thích ở Hội ấy, Hội thứ sáu-bảy-tám sau này cũng hiển bày có riêng ý nghóa khác mà thôi. Trong Thể có thân- khẩu-ý là ba. Hai từ “Nhó thời Thế Tôn…” là làm sáng tỏ về công dụng ứng vật, tức là Dụng thanh tịnh, tướng còn lại có thể biết. Văn tương ưng thứ hai có năm Tựa: Tựa về trú xứ, bởi vì động tịnh vô ngại không nơi nào không đến, là đức của thuyết pháp này. Tựa về thỉnh Phật. Tựa về quy tụ chúng. Tựa về phát ra ánh sáng. Tựa về ca ngợi. Nếu gồm chung phẩm Thập Trú sau thì có tám Tựa, đó là nhập định-gia hộ-khuyến khích và xuất định. Vả lại, dựa theo phẩm phân văn cũng được. Tựa về trú xứ và Tựa về thỉnh Phật có sáu: Thấy Phật đến, là dụng từ thật phát khởi, tức là duyên phát tâm. Từ “Tức ư Diệu Thắng điện…” trở xuống trình bày Thiên chủ chuẩn bị trang nghiêm cúng dường cho nên thỉnh Phật, hiển bày đầy đủ từ hiểu biết thành tựu hạnh cúng dường pháp, tức là thành tựu căn. Thế Tôn liền nhận lời đi đến cảm cơ giáo hóa. Âm thanh giải thích vắng lặng biểu thị ngừng loạn hợp chân. Từ “Thuyết kệ…” trở xuống biểu thị từ Định phát Tuệ; 6-Từ “Phật thăng tòa…” trở xuống chính thức trình bày về tướng thành tựu của sự giáo hóa. Văn chuẩn bị trang nghiêm cúng dường phân hai: Một, chuẩn bị trang nghiêm tức là thành tựu căn; hai, thỉnh Phật tức là thành tựu ý muốn. Trong phần chuẩn bị trang nghiêm có ba: Một là tổng quát, hai là chỗ ngồi nghiêm trang, ba là kết luận. Hai, từ “Nhó thời Đế Thích…” trở xuống trình bày về Thiên chủ thỉnh Phật, tức là biểu thị mong muốn. Năm là văn kệ có ba: Một, nhớ lại Bổn hạnh; hai, kệ ca ngợi; ba, kết luận gồm chung mười phương. Sáu là trong phần thành tựu giáo hóa có ba: Một là chỗ ngồi, hai là phân rõ về tướng của Dụng, ba là nối thông với phương khác. ------------------------------ <詞>Phẩm 10: BỒ TÁT VÂN TẬP Bốn môn giống như trước. Giải thích tên gọi, Bồ-tát là người, Vân vốn là lợi ích tưới nhuần, Tập là tụ tập. Diệu Thắng… là nơi khác. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì phân rõ về nơi chốn rồi, tiếp đến trình bày về quy tụ chúng. Quy tụ chúng ca ngợi đức thuận theo pháp làm Tông. Phân rõ văn. Văn này có ba Tựa: Một, quy tụ chúng; hai, phóng ánh sáng, ba, ca ngợi Phật. Hỏi: Nay từ Hội này về sau ba Hội quy tụ chúng vì sao không ở đầu phẩm, lại vì sao mỗi một phương đều có mười, lại sau khi phóng ánh sáng vì sao không từ từ quy tụ chúng? Đáp: Bởi vì tướng phần vị của Hội trước chưa thành, chỉ hiển bày về hành viên mãn cho nên nói ở đầu phẩm, nay Hội này hành vị đều thành tựu, cùng làm sáng tỏ lợi ích tưới nhuần của hành vị cho nên cùng ở phẩm này. Sở dó mỗi một phương có đủ mười, là muốn hiển bày về tướng hiểu biết rõ ràng viên dung như nhau, một phương tức là tất cả các phương. Sở dó Hội này sau khi phóng ánh sáng không từ từ quy tụ chúng, là bởi vì muốn hiển bày về hành vị thành tựu đầy đủ không có tướng thêm bớt. Trong đó có nghóa thêm bớt riêng, Dụng theo trên thành tựu tức là đạt được, trên dưới thích ứng có thể dựa theo để suy nghó. Hội thứ nhất trước đây giải thích về phóng ánh sáng quy tụ chúng cũng dựa theo nghóa này, đầu làm quy phạm cho sau mà thôi. Một, trong Tựa về quy tụ chúng có hai: Chỉ ra phương hướng phân rõ về số. Trong này mỗi một phương, hoặc là gồm chung Hội trước, hoặc là không gồm chung Hội trước, Tín hành lại không thành tướng của phần vị, vì vậy không gồm chung, phần vị hiển bày ở ba Hội sau, vốn là nghóa gồm chung. Từ “Kỳ thế…” trở xuống nêu ra tên gọi mà thôi. Tên gọi có ba: Một là trình bày về Bồ-tát ở cõi Phật mười phương, ba loại thế gian tức là hai; hai từ “Thử chư Phật thần lực…” trở xuống trình bày quy tụ các Bồ-tát có ba là tịnh hạnh-vân tập-y theo phương mà ngồi có thể biết; ba từ “Như thử thế giới…” trở xuống là kết luận tương tự mười phương thành Hội pháp giới. Chư Phật cùng tên gọi là Nguyệt, bởi vì dựa vào mặt trăng tỏa ra ánh sáng, bởi vì trong lành cho nên hiểu về pháp chính xác. Bồ-tát cùng tên gọi là Tuệ, bởi vì bắt đầu của hiểu biết. Ngón chân phóng ánh sáng là bởi vì biểu thị đứng vững ở phần vị Giải không lui sụt, có hai có thể biết. Ba, Tựa về ca ngợi, văn có mười Bồ-tát, cùng sinh khởi theo thứ tự ca ngợi, tướng giải thích rõ ràng có thể biết. Kệ của Pháp Tuệ có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, chính thức kệ tụng về sau đều dựa theo đó. Văn này có hai: Một, bảy kệ đầu nhắc lại chúng sáng tỏ là do Phật lực mà thành tựu, tức là kết luận về nghóa của sáu đoạn trong phẩm trước; hai, tiếp theo ba kệ trình bày về người có thắng hạnh thì được gặp Phật, còn lại người không biết gì, tức là ca ngợi chung về khó suy nghó trước đây. Kệ của các vị sau đều dựa theo lý thành tựu. Kệ của Nhất Thiết Tuệ có sáu: Một, ba kệ đầu trình bày nói là thấy đồ chúng không thấy Chân Phật; hai, tiếp theo ba kệ hiển bày hiểu về Pháp thân Vô sinh thường thị hiện; ba, tiếp theo một kệ trình bày về chấp trước là sai lầm; bốn, tiếp theo một kệ trình bày về tuệ giải là lợi ích; năm, tiếp theo một kệ trình bày về hiểu rõ nhân duyên thành tựu của Phật tức là lìa hết ngu si mê hoặc; sáu, tiếp theo một kệ suy ra công thuộc về Bổn. Kệ của Thắng Tuệ có sáu: Một, ba kệ đầu trình bày về vọng chấp là sai lầm; hai, tiếp theo một kệ trình bày về có hiểu biết là đức; ba, tiếp theo một kệ dựa theo pháp phân rõ về lợi ích quán sát; bốn, tiếp theo ba kệ suy ra công đức thuộc về Phật; năm, tiếp theo một kệ về tuệ có thể thanh tịnh thì thấy Pháp thân; sáu, tiếp theo một kệ suy ra công thuộc về Bổn. Kệ của Công Đức Tuệ có năm: Một, bốn kệ đầu trình bày về mê muội là sai lầm; hai, tiếp theo một kệ nêu rõ phương tiện thù thắng; ba, tiếp theo ba kệ trình bày về đạt được lợi ích của pháp tánh; bốn, tiếp theo một kệ ca ngợi phương tiện lợi ích chúng sinh của Phật; năm, tiếp theo một kệ suy ra công thuộc về Bổn. Kệ của Tinh Tiến Tuệ có ba: Một, một kệ đầu làm sáng tỏ về lỗi lầm; hai, tiếp theo một kệ phân rõ về đức; ba, tiếp theo tám kệ mở rộng phân rõ về tướng đạt được lợi ích từ phương pháp quán sát. Trong văn tám kệ, bốn kệ trước là Vô tướng sinh khởi, bốn kệ sau là tánh chân thật. Kệ của Thiện Tuệ có bốn: Một, hai kệ đầu trình bày có hiểu biết thì có thể độ mình và độ người; hai, tiếp theo năm kệ trình bày về Vô sinh cho nên hợp với Chân tánh; ba, tiếp theo một kệ rưỡi ca ngợi công năng thù thắng của vị hiểu biết; bốn, tiếp theo một kệ rưỡi suy ra công thuộc về Bổn. Kệ của Trí Tuệ có ba: Một, một kệ đầu trình bày nhờ vào giáo thành tựu hiểu biết chính xác; hai, tiếp theo sáu kệ trình bày về mê mờ giáo lý là sai lầm; ba, tiếp theo ba kệ trở lại thành tựu đức của hiểu biết. Kệ của Chân Thật Tuệ có năm: Một, hai kệ đầu so sánh về hơn-kém được-mất; hai, tiếp theo hai kệ phân rõ về cảnh đã quán sát; ba, tiếp theo một kệ nêu ra lợi ích về học hỏi pháp quán; bốn, tiếp theo một kệ giải thích về biết là tên gọi; năm, tiếp theo bốn kệ nêu rõ nghi thức của pháp quán ấy. Kệ của Vô Thượng Tuệ có bốn: Một, một kệ đầu giải thích về tên gọi của người; hai, tiếp theo sáu kệ ca ngợi về Tự lợi; ba, tiếp theo hai kệ ca ngợi về đức Lợi tha; bốn, tiếp theo một kệ suy ra công thuộc về Bổn. Kệ của Kiên Cố Tuệ có bốn: Một, bốn kệ đầu ca ngợi Phật là thật sự quay về; hai, tiếp theo hai kệ nêu ra đức khuyến khích nương tựa; ba, tiếp theo hai kệ dẫn dắt tự quán sát vật để tiến vào; bốn, tiếp theo hai kệ nêu ra người thù thắng hiển bày đức vô tận để khuyến khích nương tựa. -------------------------------- <詞>Phẩm 11: THẬP TRÚ Phân biệt có năm: Giải thích tên gọi Thập Trú, tức là phân rõ ý đưa ra. Thập là số đếm, Trú là phần vị không lui sụt. Vì sao đưa ra? Bởi vì chính thức nói đến. Trình bày về đối trị, là trăm chướng trước đây thuận theo phần vị mà đoạn, nếu là ba Thừa thì do thuần thục giáo pháp mà đoạn chấp ngã của ngoại đạo. Đã đạt được ánh sáng tăng thêm Định và căn thiện thuộc về Đảnh. Đã thành tựu chính là thành tựu mười hiểu biết(Giải), tức là nói thuần thục giáo pháp của ba Thừa, chính là Tông của phẩm này. Giải thích văn. Từ sau phẩm thứ ba phân làm Chánh Tông. Hai phẩm trong này tức là hai: Một, phẩm đầu gồm chung đạo-tục; hai, phẩm Phạm Hạnh là pháp hành riêng biệt của xuất gia. Phẩm đầu như nghóa phân văn. Phẩm đầu này có ba Tựa, Pháp sư Quang nói có tám Tựa làm thành ba, phẩm đầu có hai Tựa hợp lại gọi là Tựa về Trú xứ, phẩm tiếp theo có ba Tựa hợp lại gọi là Tựa về Tập chúng, phẩm này có ba Tựa hợp lại gọi là Tựa về Khởi thuyết. Lại dựa vào phẩm Thập Địa sau ba Hội này đều có sáu phần: Gọi là phần Tam-muội. Phần gia hộ. Phần khởi định. Phần căn bản. Phần tuyên thuyết. Phần lợi ích. Phạm vi đến văn nên biết. Nhưng văn này có hai: Một, trình bày Tựa về Tam-muội; hai, từ “Cáo chúng Bồ-tát ngôn…” trở xuống là Chánh Tông. Tựa về Tam-muội đặc biệt chú ý đã phân rõ trước đây. Định gọi là Vô lượng phương tiện Định, phương tiện là Trí, bởi vì Định thành tựu Trí thù thắng nhận biết về pháp. Nguyên cớ Bồ-tát Pháp Tuệ nhập định và thuyết giảng thì như phần luận sau nên biết. Hai, Tựa về gia hộ có ba: Một, phân rõ về cùng gia hộ, phần này có ba, một là trình bày về hiện thân và hiển bày cùng tên gọi tức là hai, hai là cùng ca ngợi cũng có hai có thể biết, ba là giải thích về nguyên cớ đạt được có bốn có thể biết. Hai, từ “Dục linh nhữ quảng thuyết…” trở xuống trình bày gia hộ bằng việc làm có mười một câu, một câu là tổng quát, chín câu là riêng biệt, cuối cùng một câu là kết luận thành tựu phần vị. Thứ hai trong chín câu, năm câu đầu là phần mình, bốn câu tiếp theo là thắng tiến mà thôi. Ba, từ “Thiện nam tử…” trở xuống phân rõ về tướng gia hộ, đó là ba nghiệp. Văn về tướng gia hộ có ba: Một từ “Thiện nam tử…” trở xuống phân rõ về khẩu gia hộ; hai từ “Như Lai tức dữ…” trở xuống trình bày về ý gia hộ; ba từ “Các thân…” trở xuống là thân nghiệp gia hộ. Thế nào là ý gia hộ? Bởi vì trao cho pháp cùng duyên giúp đỡ. Văn về ý gia hộ có hai: Một là nêu ra mười Trí; hai là từ “Hà dó cố…”trở xuống giải thích về nguyên cớ. Hỏi: Vì sao trao cho Trí? Đáp: Bởi vì Trí hiểu pháp. Khởi định có bốn ý: Sự nhập định kết thúc. Đạt được lực thù thắng. Thời gian thuyết đã đến. Bởi vì Định không có ngôn thuyết. Thứ hai là văn chính thức tuyên thuyết có bốn: Một, ca ngợi chủng tánh sâu xa thù thắng, đồng thời nêu ra mười tên gọi, tức là phần căn bản; hai, từ “Hà giả…” trở xuống mở rộng giải thích về tướng của Trú; ba, từ “Nhó thời Phật thần lực cố…” trở xuống trình bày về mặt đất chấn động, hiển bày thành tựu Thật chứng; bốn, dùng kệ để tụng lại. Văn thứ nhất có hai: Một, tổng quát về nghóa ca ngợi chủng tánh, tức là Thể về tánh của hai loại Tánh-Tập; hai, từ “Bồ-tát Thập Trú…” trở xuống nêu ra tướng của mười Giải, trình bày về Phật cùng thuyết, tức là tướng về tánh của hai loại Tánh-Tập. Đây là dựa theo Khắc tánh mà nói. Nếu dựa vào phần vị thì tức là có sáu loại tánh: Tập chủng tánh là phần vị Thập Giải. Tánh chủng tánh là Thập Hạnh. Đạo chủng tánh là Thập Hồi Hướng. Thánh chủng tánh là Thập Địa. Đẳng giác tánh là tâm cuối cùng của Thập Địa. Diệu giác tánh là Phật Địa. Lại gọi là sáu Kiên, đó là Kiên Tín, Kiên Pháp, Kiên Tu, Kiên Đức, Kiên Đảnh, Kiên Giác; cũng gọi là sáu Nhẫn, đó là Tín Nhẫn, Pháp Nhẫn, Tu Nhẫn, Chánh Nhẫn, Vô cấu Nhẫn, Nhất thiết trí Nhẫn. Lại gọi là sáu Tuệ, đó là Văn Tuệ, Tư Tuệ, Tu Tuệ, Vô tướng Tuệ, Chiếu Tuệ, Tịch chiếu Tuệ; cũng gọi là sáu Quán: Trú Quán, Hạnh Quán, Hướng Quán, Địa Quán, Vô tướng Quán, Nhất thiết chủng trí Quán. Đây là căn cứ theo ba Thừa dựa vào phần vị mà nói. Trong này, trong Thập Giải-Thập Hạnh, trong sáu quyết định chỉ không có Đại thiện quyết định; Thập Hồi Hướng chỉ có Quán tướng thiện-Đại thiện và không khiếp nhược, ba loại còn lại đều không có. Sở dó có Đại thiện và không có ba loại còn lại, bởi vì Hồi Hướng là hiển bày thành tựu trong sự phương tiện cho nên Đại thiện hiển bày; ba loại còn lại không có là bởi vì nghóa ẩn kín cho nên không nói, Quán tướng… có thể biết. Thập Giải-Thập Hạnh… vì sao không có Đại thiện? Vì Giải-Hạnh là hiển bày về nghóa của Tự hành cho nên không có, còn lại suy nghó có thể biết. Văn phần một về Thể có hai: Một là nói tổng quát cho biết, hai là trình bày riêng biệt về sáu quyết định. Văn phần hai về Tướng của Giải có ba: Một là nêu ra số để dẫn chứng về lập Tông, hai là riêng biệt nêu ra có hai có thể biết, ba là dẫn chứng kết luận. Tên gọi về Thập Giải: Kỳ hạn trước phát tâm. Sửa trị phần vị (địa), diệt trừ phiền não, phát sinh tự lợi-lợi tha. Tu tập thực hành Định, thành tựu hai loại trước mà thôi. Sinh khởi hạnh thù thắng thành tựu, sinh vào nhà Phật. Phương tiện đầy đủ, trọn vẹn hạnh tự-tha. Trú trong Chánh tâm, đạt được Chánh giải về duyên khởi. Không thối chuyển, Lý-Lượng Chỉ-Quán cùng thực hành. Đồng chân Vô sinh, dùng diệu giải để lập thân, như trẻ thơ không nhiễm ô. Vốn là con của đấng Pháp Vương cho nên khéo léo thực hành giáo pháp của Phật. Phần vị Quán Đảnh đầy đủ cho nên tiếp nhận chức vụ tương ưng. Đây chính là hành tướng của các phần vị sau. Văn thứ hai là mở rộng phân rõ, mỗi một Trú đều có bốn đoạn: Một, hỏi về nêu ra tên gọi; hai, phân rõ về tướng của Giải có ba, đầu là tổng quát, hai là giải thích, ba là kết luận; ba, trình bày trợ hạnh thắng tiến dựa vào tu cũng có ba là thiết lập-giải thích-kết luận, về sau đều giống như vậy, cũng có thể ngay phần vị mà tu tập; bốn, từ “Hà dó cố…” trở xuống giải thích về ý của Học. Chỉ riêng Trú thứ nhất và Trú thứ mười có sáu câu: Nhắc lại dựa vào câu hỏi. Phân rõ về duyên phát tâm có sáu câu. Phân rõ về Thể của hạnh, phần này có ba câu: Một là Thể của phát tâm có bốn Duyên, bốn Nhân, bốn Lực. Bốn Duyên: Một là thấy nghe Đại sự về thần thông của Bồ-tát và Phật, hai là nghe pháp, ba là hộ pháp ở thời gian cuối cùng, bốn là thấy chúng sanh khổ cho nên phát tâm. Bốn Nhân: Một là chủng tánh nhân duyên, hai là Phật Bồ-tát đều làm thiện hữu, ba là khởi tâm Đại Bi, bốn là không sợ mọi khó khăn. Bốn Lực là Tự lực, Tha lực, Nhân lực, Phương tiện lực, như luận Địa Trì nói. Hai là đã phát khởi. Ba là không thối chuyển, phần này có hai nghóa: Một, nếu dựa theo Nhất thừa Thông giáo, tiến vào phần vị Thập Trú thì bốn thối chuyển…đều không có; hai, nếu dựa vào ba Thừa, thì từ Thập Địa trở về sau có Niệm thối chuyển, Địa tiền có Hạnh thối chuyển-Vị thối chuyển, không tiến lên-lùi lại cũng thối chuyển, Thập Tín trở về trước có thật sự thối chuyển, về sau mười tín có thị hiện thối chuyển. Đây là dựa theo phần vị mà nói. Trình bày về sự chứng đắc. Trình bày về Học. Phân rõ về ý của Học trước đây. Vả lại, các văn sau này đều có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là phân rõ về công năng thành tựu hạnh thù thắng. Văn này có ba: Một, vặn hỏi; hai, phân rõ ý; ba, trình bày về đức đã thành tựu. Các phần vị đều giống như vậy, cũng có thể gồm chung giải thích mà thôi. Tức là tự giải thích gồm chung nhân quả, nghóa ấy có ba: Một là không nhờ vào những giáo Tiểu thừa khác mà hiểu, hai là không nhờ vào cảnh của giáo khác mà thành tựu, ba là không nhờ vào tánh khác mà Tập riêng biệt. Văn sau giải thích đều có giống và khác, suy nghó thì có thể biết mà thôi. Trong phần hai: Sửa trị phần vị (địa), mười câu đầu giống như mười loại Tập của Địa thứ hai, mười câu sau giống như Tập trong quả làm cho các chúng sinh rời bỏ điên đảo trú vào Chánh kiến… Trong phần ba: Tu tập thực hành, mười câu trước giống như thực hành bảo vệ phiền não của Địa thứ ba, mười câu sau giống như bảo vệ Tiểu thừa. Trong phần bốn: Sinh khởi hạnh thù thắng, mười câu đầu giống như mười loại Pháp trí của Địa thứ tư, mười câu sau giống như phẩm Tu đạo…. Trong phần năm: Phương tiện đầy đủ, mười câu đầu giống như quán Đại Từ… của Địa thứ năm, mười câu sau giống như quán Đại Bi vì khổ sâu nặng. Trong phần sáu: Trú trong Chánh tâm, mười câu đầu giống như câu thứ mười trong mười bình đẳng của Địa thứ sáu, mười câu sau giống như chín bình đẳng trước. Trong phần bảy: Không thối chuyển, mười câu đầu giống như mười loại đối trị về Lạc-Vô tác của Địa thứ bảy, mười câu sau giống như đối trị về chướng ấy, cũng giống như phần thực hành song song. Thối chuyển có bốn loại: Một là Vị, hai là Hạnh, ba là Niệm, bốn là thuận theo đạt được không đạt được, trong này không có bốn thối chuyển… Trong phần tám: Đồng chân Vô sinh, mười câu đầu giống như từ thế nào là thân cho đến cúng dường Phật… trong phần thắng hạnh của Địa thứ tám, mười câu sau giống như tự tại trong ba thế gian của Địa ấy. Trong phần chín: Vốn là con của đấng Pháp Vương, mười câu đầu giống như trí thành tựu tiến vào hạnh… của Địa thứ chín, mười câu sau giống như văn về Pháp sư thành tựu khẩu nghiệp… của Địa ấy. Trong phần mười: Phần vị Quán Đảnh có năm: Một, nêu ra tên gọi; hai, mở rộng giải thích; ba, hiển bày thù thắng; bốn, tiến lên học hỏi; năm, loại trừ nghi ngờ. Mười câu thứ nhất giống như phần Tam- muội của Địa thứ mười, mười câu thứ hai giống như phần tiếp nhận phần vị của Địa ấy, mười câu thứ ba giống như phần không còn Đại của Địa ấy, tức là tiến vào an trú và rời ra. Trên đây là dựa vào Nhất thừa phát sinh niềm tin mà nói; nếu căn cứ theo ba Thừa thì dựa vào phần vị quán sát riêng biệt, như trải qua lâu dài trong Trú thứ nhất, tập hợp tất cả căn thiện trở thành bốn thệ nguyện rộng lớn, chúng sinh chưa thoát khỏi Khổ thì giúp cho thoát khỏi, chưa hiểu rõ Tập thì giúp cho hiểu rõ, chưa an ổn trong Đạo thì giúp cho an ổn, chưa đạt được Diệt thì giúp cho đạt được Diệt. Trong Trú thứ hai, tu tập vô lượng hành thiện, đó là bốn Niệm quán Thân-Thọ-Tâm-Pháp, bốn pháp này đều là Không. Trong Trú thứ ba, khéo léo tập hợp về đạo pháp của Phật, đó là quán về mười Nhất thiết nhập, bốn Đại, bốn Sắc, Không xứ, Thức xứ đều như thật tướng. Trong Trú thứ tư, trước tất cả chư Phật thọ pháp mà thực hành quán sát về tám Thắng xứ, hai Thắng xứ về tướng mở rộng-tướng tóm lược trong năm Ấm chân thật bên trong, hai Thắng xứ về tướng mở rộng-tướng tóm lược trong chúng sinh pháp giả tạm bên ngoài, bốn Thắng xứ về mở rộng-tóm lược pháp của bốn Đại, như vậy quán sát tất cả các pháp là Không-Vô tướng. Trong Trú thứ năm, tu tập các pháp thanh tịnh, đó là tám điều giác ngộ của bậc Đại Nhân, ít muốn, biết đủ, vắng lặng, tinh tiến, chánh niệm, chánh định, chánh tuệ, không tranh luận, thuận theo tất cả các pháp. Trong Trú thứ sáu, được chư Phật gia hộ, quán sát tám Giải thoát đạt được Văn tuệ, hai tướng giả tạm bên trong-giả tạm bên ngoài không thể đạt được; một Giải thoát về Tư tuệ, năm pháp bên trong-tất cả các pháp bên ngoài không thể đạt được; hai Giải thoát về Tu tuệ, sáu quán đầy đủ, năm Ấm của cõi Sắc là Không; ba Giải thoát về bốn Không- năm Ấm và Diệt định quán đều không thể đạt được; năm Giải thoát như tướng. Trong Trú thứ bảy mở rộng về pháp chính, đó là sáu hòa kính, ba nghiệp, đồng giới, đồng kiến, đồng hạnh, tiến vào pháp hòa này hoàn toàn là Không, trú trong phần vị không thối chuyển. Trong Trú thứ tám, tin tưởng vui với Đại pháp, đó là ba xứ, tất cả các nhân vốn là Vô tác, tất cả các quả vốn là Vô tướng, nhân Không và quả Không, Không cũng Không cho nên là Không Không, như vậy các pháp như hư không. Trong Trú thứ chín, trú vào bốn pháp bình đẳng, đó là hóa độ chúng sinh theo giáo pháp bốn Đế, ba cõi không vui là Khổ, Vô minh là nhân của Tập thọ sinh vô cùng, ba Không là phẩm loại của Đạo, tự nhiên vắng lặng là Diệt, bốn Đế không hai, vốn là một tướng hòa hợp, tức là chúng sanh duyên-pháp duyên và vô duyên. Trong Trú thứ mười, mong cầu công đức của Phật, đó là sáu niệm về Phật-Pháp-Tăng- Giới-Xả-Thiên, có thể từng niệm từng niệm tiến vào tất cả công đức của Phật, không dựa theo Tam-muội, bởi vì thường xuyên tu tập. Đây là căn cứ theo ba Thừa dựa vào phần vị mà quán sát. Văn thứ ba là hiển bày thành tựu Thật chứng có hai: Một, mặt đất chấn động hiển bày về Thật; hai, từ “Phật thần lực…” trở xuống là Bồ- tát thành tựu Thật chứng. Văn trước có ba: Mặt đất chấn động. Mưa hoa. Chẳng khác gì các thế giới ở mười phương. Văn phần hai Bồ-tát Thật chứng có hai: Một là Bồ-tát thành tựu Thật chứng, hai là kết luận về pháp giới bình đẳng rộng khắp. Văn phần trước có bốn câu có thể biết, trong phần hai là kết luận có hai có thể biết. Văn thứ tư là trùng tụng có hai trăm lẻ ba kệ, có hai: Một, một trăm tám mươi lăm kệ đầu tụng về tướng của Thập Giải; hai, từ “Như thị Thập Trú chư Bồ-tát…” trở xuống có mười tám kệ, tổng quát tụng về Thập Trú, kết luận ca ngợi khuyến khích tu tập. Phần một là văn chính tụng có mười: Chín mươi kệ đầu tụng về Trú thứ nhất. Tiếp theo sửa trị phần vị(địa) thứ hai trở xuống tụng về Trú thứ hai, còn lại đều có thể biết. Văn phần một có ba: Một, đối với ba mươi lăm sự việc mở rộng thành tựu Thể của phát tâm; hai, từ “Bồ-tát như thị pháp tâm dó…” trở xuống phân rõ về Dụng của Trú thứ nhất; ba, từ “Thị thuyết Bồ-tát…” trở xuống là kết luận. Trong sửa trị phần vị, bốn kệ đầu tụng về Giải, tám kệ sau tụng về công hạnh đã học. Tu tập thực hành, bốn tụng trước là Giải, sáu tụng sau là công hạnh đã học. Sinh khởi hạnh thù thắng, sáu tụng trước là Giải, sáu tụng sau là công hạnh. Phương tiện đầy đủ, sáu tụng trước là Giải, ba tụng sau là công hạnh. Trú trong Chánh tâm, tám tụng trước là Giải, hai tụng sau là công hạnh. Không thối chuyển, bốn tụng trước là Giải, bốn tụng sau là công hạnh. Đồng chân Vô sinh, sáu tụng trước là Giải, bốn tụng sau là công hạnh. Vốn là con của đấng Pháp Vương, bốn tụng trước là Giải, hai tụng sau là công hạnh. Phần vị Quán Đảnh, mười tụng trước là Thể của đức, hai tụng sau là tướng của phần vị Trú, bốn tụng sau cùng là thực hành phương tiện. Văn phần hai là kết luận ca ngợi có hai: Mười bốn kệ đầu là tổng quát tụng về Thập Trú khó biết, bốn kệ tiếp theo là kết luận không thể nào nói hết. ----------------------------- <詞>Phẩm 12: PHẠM HẠNH Bốn môn giống như trước: Giải thích tên gọi. Rất thanh tịnh trong hạnh cho nên gọi là Phạm hạnh. Chủ yếu luận về Phạm có hai, đó là Báo và phương tiện. Bắt đầu tu tập là Tịnh, thành tựu là Phạm. Nếu dựa vào Báo, thì cõi Dục là Tịnh, cõi Sắc là Phạm. Nếu dựa theo Tự lợi-lợi tha, thì Tự lợi là Tịnh, Lợi tha là Phạm. Vì vậy kinh Niết-bàn nói: Ba Học là Thánh hạnh thù thắng, bốn Vô lượng là Phạm. Trình bày về ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Tiến đạo có nhiều phương pháp, thuận theo tướng phân hai, đó là Tăng và Tục. Tục bởi vì thuận theo Lợi tha không có phương pháp lợi ích cho chúng sinh, cho nên không trú trong phạm vi của hạnh. Tăng bởi vì thuận theo Tự lợi, không thể tùy tiện hủy hoại hình dáng oai nghi xuất thế, cho nên chỉ thành tựu về nội quán. Vì thế trong phẩm loại phần vị phân rõ người xuất gia chỉ thành tựu Tam-muội. Hỏi: Các Hội trước đây vì sao không nói đến phẩm này? Đáp: Có hai ý, một là hạnh trong này yếu kém, hai là bởi vì trước nối thông sau. Hỏi: Trong Thập Tín vì sao không trình bày về phẩm này? Đáp: Phần Chánh Tông này là làm sáng tỏ lấy pháp thành tựu người, không lấy người thành tựu pháp. Sao gọi là người thành tựu pháp? Bởi vì pháp không có cao thấp, tùy theo căn tánh của con người, hiển bày về pháp có tinh-thô. Thập Tín hiểu về pháp chưa rõ ràng, cho nên không thể dùng pháp thành tựu người. Thập Tín hiểu biết kém cỏi, cho nên chỉ tùy theo Tín căn mà xác định về pháp. Nếu nói về hình thức hạn chế, thì các kiến chấp lại tăng lên mà không thành tựu Chánh Tín. Hỏi: Phạm hạnh phát tâm sáng tỏ về pháp, vì sao không nối thông với ba Hội sau? Đáp: Về lý thì có, bởi vì phẩm này tương tự với phẩm kia mà thôi. Phân rõ về Tông. Quán sát về lý Vô niệm là hành Niết-bàn hoàn toàn vắng lặng, là quả của Tự Thể, tức là Tông của phẩm này. Lại hỏi: Trong này bắt đầu trình bày về nhân Sơ phát tâm của Thập Trú, vì sao lại nói là hành của quả? Đáp: Bởi vì đây là trình bày về tự Thể chân thật của phát tâm, Thể hợp với thời gian sau bao gồm không ngoài, lại là quả trong tự Thể của phát tâm, không có hành hý luận mà thôi. Vì thế cuối phẩm kết luận rằng: Lúc mới phát tâm đã thành Chánh giác, đầy đủ thân Tuệ không do người khác mà giác ngộ. Giải thích văn. Văn này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Nguyên cớ Thiên tử Chánh Niệm hỏi là biểu thị từ Định mà hiển bày lý. Vả lại, Chánh Niệm không hư vọng, Báo thanh tịnh có thể tiếp nhận. Văn hỏi có bốn: Một, hỏi tổng quát; hai, nhắc lại sự việc; ba, phần mình thành tựu hạnh xuất gia; bốn, từ “Tốc thành…” trở xuống là thắng tiến trình bày về phần khác, và cảnh giới Phật. Lại hỏi: Phẩm Tịnh Hạnh trước đây vì sao cùng trình bày về tại gia và xuất gia, phẩm này thì không như vậy? Đáp: Trước đây vì Tín căn yếu kém, mới cùng trình bày dựa theo duyên tu tướng thay đổi nơi chốn, trong phẩm này trở đi hiểu pháp trình bày về tướng xuất gia, muốn trình bày về tự Thể lìa tánh duyên khởi chứ không phải là đoạn cho nên lìa, điều này như kinh Duy-ma nói. Văn trả lời có ba: Một, trả lời về phần mình trước đây; hai, từ “Hựu phục tu tập tăng thượng thập pháp…” trở xuống là trả lời câu hỏi về phần khác trước đây; ba, từ “Bồ-tát như thị quán giả…” trở xuống là kết luận về Phạm hạnh thành tựu lợi ích mà thôi. Văn phần một có ba: Một phân rõ về Tầm Tư, hai từ “Chánh Niệm…” trở xuống là phân rõ về Chánh quán, ba từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận. Văn về Tầm Tư có hai: Một, phân rõ về Tầm Tư; hai, từ “Hựu tri quá khứ…” trở xuống trình bày về như thật. Một về Tầm Tư lại phân ba: Nêu ra mười pháp trình bày về sở quán, phần này có hai, một là tổng quát, hai là riêng biệt. Từ “Ưng như thị…” trở xuống chính thức trình bày về quán. Từ “Đương như thị…” trở xuống là kết luận. Thế nào là Thể của Phạm hạnh? Chính là Chánh trí phát ra từ trong tự Thể của lý chân thật. Vì sao Bồ-tát Pháp Tuệ nói ra? Bởi vì tánh đức viên thông nếu không phải là tuệ thuận theo pháp thì không sáng tỏ. Trong Thập Trú thì sáu Trú trước là hành và duyên của hành, bốn Trú là cảnh của Tín cho nên chỉ nói đến loại ấy, tướng còn lại có thể biết. Văn về như thật có hai: Phân rõ về Quán hành. Từ “Thử Phạm hạnh pháp…” trở xuống là trở lại nghiệm xét. Thứ hai là Bồ-tát Chánh niệm không chướng ngại là phân rõ về Chánh quán, văn có ba: Một, phân rõ về Vô tướng; hai, từ “Như thị quán giả…” trở xuống là phân rõ về Y tha Vô sinh; ba, từ “Nhất thiết Phật…” trở xuống là phân rõ về pháp chân thật vô tánh, ví dụ có thể biết. Thứ hai về Thắng tiến, văn có ba: 1-Tự lợi có bốn câu, đó là thiết lập-hỏi-đáp-kết luận có thể biết; 2-Từ “Như thị quán sát…” trở xuống là trình bày về Lợi tha; 3-Từ “Như huyễn…” trở xuống là nói về dụ. Hai loại trước không có Thể như huyễn, hiện rõ thật sự như mộng, khởi dụng như điện chớp, duyên tụ hội như tiếng vang, thành tựu sự việc như biến hóa. Thứ ba là văn kết luận về Tự lợi-lợi tha, cũng có thể là trả lời về câu hỏi nhanh chóng thành tựu trước đây, cũng có hai: Nhắc lại. Kết luận về lợi ích. Văn về lợi ích có hai: Một, kết luận về ít hành-nhiều công năng trước đây, có hai có thể biết; hai, từ “Sơ phát tâm thời…” trở xuống là thành tựu nhanh chóng, nguyên cớ có hai có thể biết. Nói đến tức là Bồ-đề thì có hai: Dựa theo phần vị tức là Bồ-đề của Thập Giải; Dựa theo Giải sáng tỏ về Chánh lý. Còn lại Tín-Hạnh-Chứng… theo đây mà biết. Vả lại, ngay Phổ Hiền chứng được tự Thể viên minh, cứu cánh nhân quả, đây là Giải dựa theo Nhất thừa mà thôi. ----------------------- <詞>Phẩm13: PHÁT TÂM CÔNG ĐỨC Dưới đây là phân rõ về đức thắng tiến của phần vị này. Bốn môn giống như trước. Giải thích tên gọi, Phát tâm là nhắc lại Thể của hành, Công đức là do thực hành mà thành tựu Công đức, dựa vào hai nghóa có được tên gọi. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì công hạnh trước đây đã thành tựu, cho nên nay phân rõ ca ngợi về tướng của đức. Phần lượng công đức là Tông của phẩm này. Phân rõ văn. Văn này có bốn: Hỏi. Đáp. Chứng thành. Kệ tụng. Nguyên cớ Đế hỏi: là bởi vì ở cõi trời, cũng chính là Công đức tự tại, nhưng hiểu biết thanh tịnh tự tại mới có thể có được công đức mà thôi. Sở dó Bồ-tát Pháp Tuệ nói, là bởi vì tuệ phù hợp với pháp mới cùng tận được công đức. Văn đáp có hai: Một, tóm lược, trong phần này có ba, một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là thừa nhận phạm vi. Phần lượng của giáo khó biết, nghóa sâu xa khó tin, tư duy khó hiểu được, thuận theo giáo khó nói ra, muốn chứng được khó thông, bởi vì tính ra thì cao nhất cho nên khó phân biệt. Hai, từ “Giả sử…” trở xuống là mở rộng trả lời, văn mở rộng có hai: Một, phân rõ về mười hai dụ; hai, từ “Phát thị tâm dó…” trở xuống là hợp dụ. Văn phân rõ mười hai dụ có bốn: 1) Dụ; 2) Nêu ra; 3) Đáp; 4) So sánh. Văn còn lại thì không nhất định. Trong mười hai dụ có năm: Một là năm giới, hai là mười thiện…, hai loại này chọn lấy lợi ích để làm ví dụ; ba là thân thông tức là nơi sinh có được lợi ích; bốn là biết thành hoại, biết thời gian của pháp; năm là hy vọng của căn bậc Hạ, dụ thứ bảy trình bày về căn khí dày mỏng được lợi ích, một dụ sau trình bày mở rộng về đức của các hành tiến vào phần vị thù thắng. Thứ hai là Hợp dụ, văn trường hàng phân làm bảy: Một, tổng quát phân rõ về công năng của đức; hai, từ “Hà dó cố…” trở xuống là vặn hỏi về nghóa ban đầu không phải yếu kém thành tựu thù thắng như nhau; ba, trả lời về nguyên do; bốn, từ “Hà cố…” trở xuống lại vặn hỏi về trước giống như sau; năm, từ “Thử sơ phát tâm…” trở xuống lấy sau thâu nhiếp trước; sáu, từ “Tất dữ tam thế chư Như Lai đẳng…” trở xuống là mở rộng phân rõ; bảy, từ “Bỉ sơ phát tâm…” trở xuống là kết luận nhờ vào nhân duyên thù thắng mà thôi. Vả lại, Đắc chứng là chứng được do thực hành, Thân chứng là chứng được do phần vị; Đắc chứng là tương ưng với Trí, Thân chứng là tương ưng với Thân. Trong này đều là đức chân thật của Phổ Hiền. Lại hỏi: Vì sao các thế giới đều dễ dàng thuận theo tâm của Bồ- tát mà chuyển là thế nào? Đáp: Bởi vì Bồ-tát đạt được tâm tự tại hòa hợp với các nhân duyên, là nhân duyên của các pháp cho nên chuyển theo, điều này nên suy nghó chính xác. Vả lại, mười Dục… ở văn trước, hễ có một Dục thiện thì có đủ mười đức trên, còn lại nên theo đúng như vậy. Nhưng sở dó Thân chứng nối thông ba đời, là bởi vì văn sau nói Bồ- tát thường không rời xa trước chư Phật ba đời. Văn về mặt đất chấn động thành tựu chứng đắc… có năm: Một, mặt đất chấn động, mưa hoa…; hai, chư Phật cùng chứng có hai có thể biết; ba, lợi ích cho chúng sinh, đạt được lợi ích có ba mà thôi; bốn, Phật khác cùng nói chứng minh thành tựu nghóa trước, có hai có thể biết; năm, phân rõ về nguyên do thành tựu có mười mà thôi. Hỏi: Vì sao Phật chứng? Đáp: Vì thắng tiến cho nên nêu ra quả thâu nhiếp thành tựu, nhưng sợ rằng không tin, vì vậy lại biểu thị nhân và quả cùng chung một tánh, việc khác có thể biết. Trùng tụng có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, kệ tụng. Văn phần một có tám có thể biết. Văn kệ có hai trăm bốn mươi mốt kệ rưỡi, phân làm bốn: Một, mở rộng ca ngợi phát tâm hiện tại thành tựu công đức; hai, từ “Thập phương thế giới trung…” trở xuống lại nêu ra mười hai dụ trước để thuật rõ công đức khó suy nghó được; ba, từ “Tam thế nhân trung tôn…” trở xuống là phân rõ về công năng thành tựu quả này; bốn, từ “Bồ-tát sơ phát tâm…” trở xuống là kết luận. Trong này không thể nào xét định cặn kẽ, nếu cặn kẽ thì lạc mất tôn chỉ. Vả lại, từ phần vị Trú trở đi, tất cả pháp môn như Giải-Hạnh-Lý-Sự-Giáo-Nghóa… đều thường xuyên thực hành không gián đoạn, nên biết. Lại từ phần vị Tín thành tựu trở đi là hạnh Phổ Hiền, chính là tám tướng cùng với Phật xưa nay hoàn toàn không có sai biệt, điều này nên suy nghó, còn lại ng- hóa-hành… của ba Thừa đều khác biệt không nghi ngờ gì. ------------------------ <詞>Phẩm 14: MINH PHÁP Bốn môn giống như trên. Giải thích tên gọi. Nói đến Minh Pháp thì có hai: Một là dựa theo giáo, pháp A-hàm soi chiếu lý hiện rõ cho nên gọi là Minh, Pháp tức là nghóa; hai, dựa theo hành, là bởi vì hành thêm thù thắng hiện bày tướng của phần vị sau. Tức là dùng nghóa của pháp ở phần vị trước để hiểu rõ công hạnh… làm Minh, dùng nghóa của giáo ở phần vị sau… làm Pháp. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì dùng đức của hành trước trải qua tu, làm phương tiện cho phần vị sau. Chính là nghóa về thực hành giáo pháp… là Tông của phẩm này. Phân rõ văn. Sở dó Tinh Tiến hỏi là nếu không có hạnh tinh tiến thì không có thể tiếp nhận pháp thắng tiến này. Vì lẽ đó Bồ-tát Pháp Tuệ đáp là Tuệ phù hợp với pháp cho nên có thể nói rõ về giáo này. Văn có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là cuối cùng một phần trường hàng tóm lược kết luận về lưu thông. Văn hỏi có hai: Đầu là hỏi, tiếp là trùng tụng. Văn phần đầu có ba: Một, trước là nhắc lại hành đức trong phần vị Trú trước đây làm thứ tự sinh khởi phần vị sau; hai, từ “Bỉ Bồ-tát vân hà tu tập…” trở xuống là chính thức hỏi về hành đức của thời gian trước trong phần vị thắng tiến. Văn phần một nhắc lại có sáu câu có thể biết. Tiếp theo văn hỏi về thắng tiến trong thời gian trước có mười một câu phân làm bốn: Sáu câu đầu là Tự lợi, tiếp theo từ “Tùy kỳ…” trở xuống là ba câu về hạnh Lợi tha, tiếp theo từ “Hưng long…” trở xuống là một câu về trú trì kiến lập, tiếp theo một câu là thành tựu sự việc không hư dối. Ba, pháp thuộc phần Lợi tha ở thời gian sau trong phần vị thắng tiến, có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Văn về riêng biệt có ba: Một, trình bày về đức thành thục, văn này có hai: Một là hành đức thành thục về Tự lợi, hai từ “Cụ túc Phật sát…” trở xuống là hành pháp chúng sanh thành thục về Lợi tha. Phần một là Tự lợi có bốn câu: Lìa chướng. Thành tựu Thể. Thành tựu Đức. Thành tựu Dụng. Phần hai trong Lợi tha có ba, đó là Thể-Đức-Dụng. Thể có mười hai sự việc, theo đây có thể hiểu mà thôi. Hai, từ “Thiên Vương…” trở xuống trình bày về hành pháp quyến thuộc, có bốn có thể biết; ba, từ “Đắc thiện căn lực…” trở xuống phân rõ về nghóa đầy đủ đức Tự-tha thành tựu không hư dối, có bốn câu. Thứ hai là văn trùng tụng có hai: Một là sinh khởi, hai là kệ tụng. Kệ có hai mươi hai kệ: Bốn tụng đầu nhắc lại văn về đức thắng tiến trong phần vị Trú, trước Bồ-tát sơ phát tâm trước đây; tiếp theo từ “Vân hà…” trở xuống có bảy tụng, phần thứ hai “Bỉ Bồ-tát…” trở xuống là chính thức hỏi về Chánh hạnh ở thời gian trước trong phần vị thắng tiến; tiếp theo từ “Nhân hùng…” trở xuống có mười một tụng, từ “Thiện tai…” trở xuống là văn về quả đức Lợi tha ở thời gian sau. Ngay phần thứ hai từ “Vân hà…” trở xuống trong phần mình ở thời gian trước, đầu có ba kệ tụng về sáu câu Tự lợi trước đây, tiếp theo hai tụng về ba câu trong hạnh Lợi tha, tiếp theo một tụng về văn kiến lập, tiếp theo một tụng về quả hành thành tựu không hư dối. Thứ hai trong phần đáp có hai: Trước là trường hàng, sau là kệ tụng. Văn trước có ba: Một, ca ngợi đã hỏi lợi ích nhiều cho lúc này, có ba có thể biết; hai, khuyên nhủ lắng nghe đồng ý tuyên thuyết; ba, từ “Phật tử thử Bồ-tát…” trở xuống là chính thức trả lời. Văn trả lời có hai: 1-Trả lời về Chánh hạnh phần mình ở thời gian trước trong phần vị thắng tiến; 2-Từ “Bồ-tát Ma-ha-tát nhược đắc thành tựu…”trở xuống trả lời về quả hành ở thời gian sau trong phần vị thắng tiến trước đây. Văn phần 1 có một trăm bảy mươi câu, cũng có thể là một trăm tám mươi câu, có bốn: Một trăm mười câu đầu trả lời sáu câu đầu về hạnh Tự lợi trong mười một câu trước đây; tiếp theo bốn mươi câu trả lời ba câu về hạnh Lợi tha; tiếp theo mười câu trả lời về trú trì kiến lập, tiếp theo mười câu trả lời về thành tựu sự việc không hư dối. Trong văn trả lời về Tự lợi, một trăm câu đầu trả lời về năm hạnh trước, mười câu sau trả lời về hạnh thứ sáu. Trong văn trả lời về năm hạnh trước, mỗi một hạnh đều trả lời có hai mươi câu. Trong hai mươi câu, mười câu trước là pháp tương ưng với tự hành, mười câu sau là pháp tu hành thắng tiến. Nói đầy đủ trí tuệ thanh tịnh…, là nhắc lại hạnh Tự lợi trước đây để sinh khởi về hạnh Lợi tha sau này, khiến cho thế lục nối liền nhau. Các văn mười câu đều có bốn: Sinh khởi. Hỏi. Đáp. Kết luận. Cũng có lúc không nhất định, có thể dựa theo suy nghó. Lợi tha trước đây hỏi có ba câu, trong phần trả lời này có bốn mươi, cũng có thể là năm mươi câu. Phần này hai mươi câu đầu trả lời câu thứ nhất trong ba câu hỏi, tiếp theo mười câu không xả các Ba-la-mật trả lời về câu thứ hai trước đây, tiếp theo từ “Phật tử…” trở xuống là mười câu trả lời về câu thứ ba trước đây. Hai mươi câu trước cũng có thể là ba mươi câu: Năm câu đầu là biết căn khí thích hợp, tiếp theo mười câu là thuận theo các bệnh trao cho thuốc, tiếp theo mười lăm câu là thuận theo căn cơ trao cho pháp. Nói về người thực hành có thể như vậy thì làm hưng thịnh Tam Bảo, có mười câu trả lời về trú trì kiến lập trong câu thứ mười. Trong này có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong văn riêng biệt này phân bốn: Ba phần trước là riêng biệt, phần thứ tư là tổng quát. Văn ba phần trước, đầu là dựa vào giáo đạo, tiếp theo dựa vào chứng đạo, sau là dựa vào đạo không trú. Sáu hòa kính là thân-khẩu-ý nghiệp và kiến-giới-thí giống nhau. Từ “Bồ-tát như thị bất đoạn Tam Bảo…” trở xuống có mười câu, trả lời về hạnh thành tựu sự việc không hư dối trong câu thứ mười một về hạnh của phần mình trước đây, có ba: Một, mười câu phân rõ về hạnh thành tựu sự việc không hư dối, theo thứ tự trả lời năm câu trước; hai, có mười câu dùng đức để tự trang nghiêm, tức là trả lời câu không hư dối trước đây; ba, có mười câu bởi vì tự trang nghiêm cho nên co thể nhiếp hóa không hư dối, cũng cùng trả lời về một câu, ở trong pháp dụ gồm có ba văn. Tiếp theo từ “Nhược đắc thành tựu…” trở xuống trong phần thứ 2 trả lời về hành của quả đức ở thời gian sau, có ba: Một, từ “Bồ-tát Ma- ha-tát…” trở xuống trả lời về pháp thực hành diệt trừ si ám thành thục quả đức trước đây, văn này có hai: Một là phân rõ về hạnh Tự thành thục, hai từ “Thứ đệ phương tiện…” trở xuống trình bày về hạnh Lợi sinh mà thôi; hai, từ “Ư đại chúng trung…” trở xuống là phân rõ về hạnh quyến thuộc; ba, từ “Thành tựu như thị thắng diệu pháp…” trở xuống là phân rõ về hạnh thành tựu không hư dối. Chỉ trừ ra Như Lai là lấy dưới vượt lên trên. Văn thứ ba là hạnh không hư dối, có ba: Một là thiết lập, hai là vặn hỏi, ba là trả lời. Trong phần trả lời có mười một câu, sáu câu trước là nhân, năm câu sau là quả hành. Thứ hai là trùng tụng, có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, chính thức kệ tụng. Trong phần thắng tiến có hai mươi kệ, có hai: Mười ba tụng đầu là Duyên khởi của thời gian trước; bảy tụng sau là pháp hành của phần mình, quả đức thù thắng trong trả lời trước đây. Trong mười ba tụng trước, sáu tụng rưỡi đầu là hạnh Tự lợi, ba tụng rưỡi tiếp theo là hạnh Lợi tha, một tụng tiếp theo là trú trì kiến lập, hai tụng cuối là thành tựu sự việc không hư dối. Trong bảy tụng sau, một tụng rưỡi đầu là quả Tự lợi và quả Lợi tha, ba tụng rưỡi tiếp theo là hạnh quyến thuộc, hai tụng cuối là hạnh thành tựu không hư dối. ----------------------------- <詞>Phẩm 15: PHẬT THĂNG DẠ MA THIÊN TỰ TẠI (Hội thứ tư) Bốn môn giống như trước. Giải thích tên gọi. Phật là Hóa chủ; Thăng là tiến lên phía trên; Dạ-ma là Thời Thiên, cũng nói là Hý Lạc; Thiên là Minh; Tự tại là đi lại giữa bầu trời không ngăn ngại. Dựa theo hành chuẩn mực có thể biết, tức là trả lời câu hỏi về Thập Hạnh trước đây. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì dựa vào hiểu biết phát khởi thực hành, có hai ý, một là ý đưa ra thuộc về Hội, hai là ý đưa ra thuộc về Phẩm, đều nói như Hội thứ ba. Tông thì có hai, dựa theo người-dựa theo pháp giống như trên, dựa theo suy nghó có thể biết. Tông của phẩm này là trình bày về nơi chốn và phát khởi cúng dường. Phân rõ văn. Văn này gồm có bốn phẩm phân làm ba: Đầu là hai phẩm phân rõ về Tựa, tiếp theo một phẩm trình bày về Thể của hành, tiếp theo một phẩm trình bày về phương tiện thắng tiến. Văn phần đầu về Tựa này cùng giống như Hội trước, chỉ tăng thêm thù thắng chuyển lên cao nhờ vào pháp không giống nhau mà thôi. Từ câu “Lúc bấy giờ vốn có sức mạnh oai thần của Như Lai, cho nên thế giới của tất cả chư Phật ở mười phương, các thế giới hệ (tứ thiên hạ) giống như một cõi Diêm-phù-đề, cho đến không có nơi nào không hiện bày rõ ràng…” Nếu lúc dựa theo giáo của ba Thừa để phân rõ, thì bởi vì cõi Diêm-phù là nơi khổ đau-trống rỗng-dơ bẩn xấu xa, tình thức nhanh nhạy chán ngán khổ đau, ý chí mạnh mẽ vui mừng hướng lên, cho nên thân Phật thành đạo ở cõi Diêm-phù chứ không phải là xuất thế. Nếu lúc dựa theo cọng giáo của Nhất thừa-Tam thừa, thì muốn hiển bày cõi Diêm-phù là Thật tức Không, là Tựa thành Giả, là sự việc mãi không thoát được làm cho bậc Thánh luôn luôn thương xót, Phật dùng sức mạnh của Bổn nguyện thương xót chúng sinh, thuận theo thân Phật thành đạo ở thế gian này, thị hiện thân Phật cho nên thân Phật tức là xuất thế. Nếu lúc dựa theo Nhất thừa, thì cõi Diêm-phù này tức là cảnh giới của Nhất tâm pháp giới, hoặc là Phật-hoặc là nơi chốn đều hiển bày Phật ở nơi nhiễm ô nhất mà không uế tạp, cho nên hiển bày thành đạo ở cõi này. Nhưng nghóa về các sự việc ứng hóa đều dựa theo đây mà khác biệt. Thứ hai trong phần thành tựu căn cơ cúng dường có bốn, văn phần đầu có hai: Một, trình bày về phát khởi cúng dường tức là căn; hai, từ “Hiệp chưởng…” trở xuống trình bày về thỉnh Phật tức là mong muốn. Trong phần một là hạnh cúng dường có hai: Một là trang nghiêm, hai là kết luận. Phần trang nghiêm có hai mươi ba sự việc: Đầu là phân rõ về Sự trang nghiêm, hai từ “Thiện căn…” trở xuống là Hạnh trang nghiêm, ba từ “Như Lai…” trở xuống là công đức của Phật gia hộ cúng dường trang nghiêm, hiển bày về nhân giống như quả, còn lại có thể biết. Hỏi: Vì sao phần kệ ca ngợi của Thập Giải riêng biệt nêu ra danh hiệu Phật, ở đây thì không như vậy? Đáp: Bởi vì Giải biết về tướng riêng biệt, Hạnh thì gồm chung thành tựu. --------------------------- <詞>Phẩm 16: BỒ TÁT THUYẾT KỆ Bốn môn giống như trước. 1) Giải thích tên gọi. Nhân kỳ diệu của tự Thể, thực hành tập hợp theo văn, giáo thì biểu hiện rõ ràng, cho nên nói là Bồ-tát thuyết kệ. Nghóa còn lại có thể biết. 2,3) là Ý đưa ra và Tông đều dựa theo như trên. Lại hỏi: Nếu nghóa theo thứ tự sinh khởi lẫn nhau, ý giống nhau nhưng do hiển bày riêng biệt, thì vì sao tên gọi không giống với trước? Đáp: Bởi vì ý ở đây chỉ muốn hiển bày về nghóa đan xen qua lại cho nên như vậy, nhưng tăng thêm thù thắng và dựa vào pháp là khác biệt thì có thể biết. 4) Giải thích văn. Trong này, thứ nhất là trong Tựa về quy tụ chúng, thế giới cùng tên gọi là Tuệ, bởi vì Tuệ của Giải trước đây tức là quy phạm của Hạnh. Phật cùng danh hiệu là Nhãn, bởi vì tâm hành thấy pháp rõ ràng. Bồ-tát cùng tên gọi là Lâm, bởi vì chỉ dùng hạnh này làm lợi ích cho chúng sinh, rừng rực cùng phát khởi, hiển bày về tướng tập hợp đầy đủ. Hỏi: Trong đoạn thứ hai ngón chân phóng ánh sáng cùng với Hội trước có gì khác nhau? Đáp: Ví như ngón chân có hai năng lực là đi và đứng, trước đây làm sáng tỏ về đứng (trú), ở đây hiển bày về đi (hành), cho nên ví dụ khác nhau. Thứ ba là trong Tựa về nói kệ thì mười vị đều dùng Chân như duyên khởi mà mình đã đạt được, dựa vào pháp để ca ngợi Phật, trức là quy về hành tướng. Kệ của Bồ-tát Công Đức Lâm có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, từ “Thuyết kệ…” trở xuống đều dựa theo. Văn này ca ngợi về công đức tự tại của Pháp thân, có mười một kệ, sáu kệ đầu nhắc lại tướng tự tại vân tập lên cõi trời trước đây, tiếp theo năm kệ về Pháp thân tự tại vô cùng sâu xa. Kệ của Bồ-tát Tuệ Lâm có hai: Một, hai kệ đầu phân rõ về Phật có đủ công đức khó gặp, hai, tiếp theo tám kệ giải thích về có đủ công đức khó gặp trước đây. Trong tám kệ phân ba: Một là hai kệ đầu trình bày về phần có đủ công đức trên đây; hai là tiếp theo từ “Như Lai vô dữ đẳng…” trở xuống bốn kệ giải thích về khó gặp trên đây; ba là tiếp theo từ “Bất khả tư nghị kiếp…” trở xuống hai kệ so sánh khuyến khích tu tập. Kệ của Bồ-tát Thắng Lâm có bốn: Một, hai kệ đầu nói ví dụ về sâu xa vi tế; hai, tiếp theo một kệ hợp cùng với pháp; ba, tiếp theo hai kệ phân rõ về nguyên cớ sâu xa; bốn, tiếp theo năm kệ ca ngợi về công dụng thù thắng. Kệ của Bồ-tát Vô Úy Lâm có ba: Một, hai kệ đầu nêu ra Thể thù thắng; hai, tiếp theo năm kệ nêu ra Dụng thù thắng; ba, tiếp theo ba kệ khuyến khích học hỏi. Hai văn về Thể-Dụng đều có hai: Một là nêu ra pháp sâu xa, hai là ca ngợi đức thù thắng. Kệ của Bồ-tát Tàm Quý Lâm có năm: Một, một kệ đầu tổng quát ca ngợi về lợi ích thù thắng của pháp Phật; hai, tiếp theo một kệ ca ngợi về tướng Dụng thù thắng; ba, tiếp theo sáu kệ trở lại nguyên cớ thành tựu Dụng thù thắng, trong này một kệ đầu là tổng quát, tiếp theo năm kệ là riêng biệt; bốn, tiếp theo một kệ thuận theo thành tựu đức Dụng của người; năm, kết luận về người khó gặp. Trong văn trở lại thành tựu: Một, một kệ là dụ về tánh ngu trí khác biệt; hai, một kệ là dụ về cùng trở thành hư vọng; ba, một kệ dụ về hai tánh trái ngược nhau; bốn, một kệ dụ về duyên của ngu-trí cách biệt; năm, một kệ dụ về Dụng không có cảm đến lẫn nhau. Kệ của Bồ-tát Tinh Tiến Lâm có ba: Một, một kệ đầu tổng quát ca ngợi về người thù thắng; hai, tiếp theo tám kệ mở rộng nêu ra pháp thành tựu người; ba, tiếp theo một kệ trình bày về người và pháp sâu xa cho nên khó gặp. Trong tám kệ: Một là dụ về Thể của pháp không có gì khác, hai là dụ về Thể của pháp rỗng rang không có, ba là dụ về Thể của pháp không có thật, bốn là dụ về Thể của pháp lìa xa tướng, năm là dụ về Thể của pháp thành tựu chân thật, sáu là dụ về một thành tựu nhiều dụng, bảy là dụ về khởi dụng dựa vào duyên, tám là dụ về Thể kiên cố khó hủy hoại. Kệ của Bồ-tát Lực Thành Tựu Lâm có ba: Một, bốn kệ đầu quán về duyên khởi dựa vào nơi khác; hai, tiếp theo năm kệ phân biệt về Vô tướng; ba, tiếp theo một kệ dựa theo tâm ca ngợi về Dụng. Văn phần một phân hai: Hai kệ đầu là Pháp, hai kệ sau là Quán. Kệ của Bồ-tát Kiên Cố Lâm có hai: Một, bảy kệ đầu phân rõ về hai thân tánh-tướng của Phật khó bàn luận; hai, tiếp theo ba kệ phân rõ về thù thắng. Trong bảy kệ trước có hai: Một, hai kệ đầu là dụ phân rõ về Tánh thân; hai, tiếp theo có năm kệ là ví dụ-kết hợp đồng thời ca ngợi về Ứng Hóa. Kệ của Như Lai Lâm được có hai: Một, chín kệ đầu dụ-pháp cùng hiển bày; hai, tiếp theo một kệ khuyến khích học hỏi. Văn phần một có hai: Một là năm kệ đầu ví dụ lần lượt chuyển tiếp trả lời về năm nghi ngờ sâu xa: Nghi ngờ về pháp là thật, trả lời bắt đầu thực hành; Kiến chấp sinh ra hiểu biết khác nhau, nghi ngờ về pháp lìa xa nhân; Nghi ngờ về pháp chân thật phân biệt lìa tâm mà có; Nghi ngờ đã là tâm tạo tác thì vì sao không phải là có; Cho rằng tâm tạo tác là pháp có nhận biết. Điều này nên suy nghó chính xác. Hai là tiếp theo bốn kệ về pháp hợp. Tạo ra Như Lai ấy nghóa là Vô tác Phật. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì dựa theo ý đưa ra trước đây không có thể là Hữu tác Phật. 10) Kệ của Bồ-tát Trí Lâm có hai: Một, tám kệ đầu ca ngợi Pháp thân vô cùng sâu xa; hai, tiếp theo hai kệ kết thúc ca ngợi khuyến khích học hỏi. Văn phần một có hai: Ba kệ đầu ca ngợi về Thể, tiếp theo năm kệ ca ngợi về Dụng. -------------------------- <詞>Phẩm 17: CÔNG ĐỨC HOA TỤ BỒ TÁT THẬP HẠNH Phân biệt có năm môn: Giải thích tên gọi Thập Hạnh và ý đưa ra. Pháp đối trị. Dựa theo Nhất thừa thì như phần vị Giải trước đây, dựa theo Chung giáo ba Thừa thì Thanh văn sợ hãi chướng ngại do khổ. Pháp đạt được gồm chung hành về Định và căn thiện về Nhẫn. Đã thành tựu tức là phần vị Thập Hạnh, chính là Tông của phẩm này. Giải thích văn. Giải thích tên gọi: Công đức là Thể của hạnh. Hoa Tụ là tên gọi theo ví dụ, ca ngợi về hạnh thù thắng vi diệu có thể mang lại quả làm nơi nương tựa cho các hạnh quy tụ, các đức tụ tập có thể trang nghiêm cho quả Vô thượng Bồ-đề, là nhân cho nên lấy làm tên gọi của Bồ-tát. Thập Hạnh là tướng căn bản của các hạnh, văn nói ví như các pháp từ mười tăng lên, một đến vô lượng đều lấy mười làm số căn bản, bởi vì trí tuệ cho nên sai biệt, thuận theo năm nghóa mà có được tên gọi. Bởi vì chúng trước đây đã quy tụ, tiếp đến cần phải nói rõ ràng cho nên tiếp tục đưa ra. Phẩm này lấy Thể của sự tu hành và phần vị làm Tông. Phân rõ về văn. Văn này có bảy phần: Một là phần Tam-muội, hai là phần gia hộ, ba là phần sinh khởi, bốn là phần căn bản, năm là phần tuyên thuyết, sáu là phần lợi ích, bảy là phần kệ tụng. Một là phần Tam-muội, khéo léo điều phục Định là lực của hạnh. Hai là phần gia hộ, Tựa về gia hộ khuyến khích, là trình bày về pháp hành này có ý nghóa vô cùng sâu xa, phạm vi không phải thuộc về mình, tự nhiên không phải là đạo lực gia trì của chư Phật tuyên thuyết thì không có cách nào biết được, cho nên tiếp theo phải trình bày. Trong phần này có hai: Một, tổng quát phân rõ về gia hộ bằng việc làm; hai, từ “Phật tử đương thừa Phật…” trở xuống trình bày về tướng gia hộ sai biệt. Văn tổng quát về gia hộ có ba: Đầu là trình bày về Phật gia hộ khen ngợi, hai từ “Thập phương…” trở xuống trình bày về nguyên cớ gia hộ, ba từ “Dục linh nhữ quảng…” trở xuống phân rõ về gia hộ bằng việc làm. Văn phần đầu có ba, giống như Hội trước. Trong nguyên cớ có bốn câu có thể biết. Trong gia hộ bằng việc làm có mười câu: Một câu đầu “Dục linh…” là tổng quát, tiếp theo tám câu là mở rộng, tiếp theo một câu là kết luận về sai biệt. Hai là tướng gia hộ sai biệt qua ba nghiệp có thể biết. Hỏi: Vì sao ý gia hộ trao cho pháp? Đáp: Pháp là căn bản của Chánh hạnh, vì vậy trao cho pháp. Lại hỏi: Hội trước vì sao không trao cho pháp mà lại trao cho trí? Đáp: Bởi vì pháp từ trí phát sinh cho nên đích thân có thể trở thành hạnh, trí cảnh tức là thông suốt cho nên Hội trước chỉ trao cho trí. Đây là dựa theo Địa tiền, không phải là phần vị Chứng cho nên đưa ra cách giải thích này mà thôi. Trong phần gia hộ bằng ý có ba có thể biết. Bốn là phần căn bản, từ “Cáo chư Bồ-tát ngôn…” trở xuống, văn có hai: Một, ca ngợi Tông bổn rộng lớn của Thập Hạnh tức là Thể; hai, nêu ra mười tên gọi tức là Tướng. Sáu quyết định giải thích giống như trước, nhưng hành khác nhau mà thôi. Hỏi: Vì sao trước đây quán về tướng dựa theo tánh, nay ở đây lại dựa theo hành nghiệp? Đáp: Vì tướng của phần vị Giải trước đây không phải là thù thắng cho nên dựa theo tánh, hành tướng này thì thù thắng cho nên dựa theo tướng, điều này nên suy nghó chính xác. Sở dó cùng với nhân quả vô thường là vì hiển bày ở phần vị của nhân có lưu chuyển mà thôi. Thứ hai là trong tướng của phần căn bản có năm: Hỏi. Đáp tóm lược. Trở lại hỏi. Đáp. Kết luận. Thứ tư trong phần đáp: Một, giải thích về Hoan hỷ là Bố thí trở thành niềm vui cho mình và người; hai, nhiêu ích là Trì giới thâu nhiếp lợi ích; ba, không sân hận là Nhẫn nhục chấm dứt nỗi oán hận của mình và người; bốn, vô tận là Tinh tiến đạt được công đức vô cùng tận; năm, lìa si loạn là đạt được Định; sáu, khéo léo hiện rõ là Trí hiện rõ về pháp duyên khởi; bảy, không vướng mắc tức là phương tiện hóa độ; tám, tôn trọng tức là thành tựu ý nguyện; chín, pháp thiện là năng lực trí tuệ khéo léo nói pháp; mười, chân thật là đạt được Trí thuận theo lý khéo léo nói pháp. Năm là trong phần tuyên thuyết có mười có thể biết. Trong đoạn Phật tử như thế nào…, đây là văn phần đầu có ba: Một, nhắc lại câu hỏi; hai, giải thích; ba, kết luận. Văn giải thích có ba: Một là phân rõ về hành tướng bố thí có hai: Đầu là giải thích, sau là kết lu- ận. Hành tướng có mười bảy câu có thể biết. Hai từ “Bồ-tát tu hoan hỷ hạnh thời…” trở xuống trình bày về hạnh thuần thục mở rộng thâu nhiếp khiến cho người khác hoan hỷ, văn này có bốn: Tu oai nghi Bố thí. Lìa xa lỗi lầm. Thiết lập phương tiện. Trình bày về việc làm. Văn phần này có ba câu, đó là nhân quả của mình và vì chúng sinh, câu thứ ba có hai có thể biết. Ba từ “Ly chư ngã tướng…” trở xuống trình bày về lìa ba Luân thành tựu Thí độ (đàn độ), phần này có hai câu, đó là Tự lợi và Lợi tha. Văn về tướng Nhiêu ích có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn phần hai là đáp có ba: Một, trình bày về Tánh thành tựu, hai Thể của giới có tám câu. Hai, từ “Bồ-tát như thị trì giới thời…” trở xuống đối với duyên phân rõ về tướng Trì, phần này có bốn: Một là nghi thức trì giới; hai là phân rõ phương tiện; ba là lìa xa lỗi lầm, phần này có năm câu, câu đầu phân hai có thể biết; bốn là trình bày về sự thành tựu, phần này có hai câu có thể biết. Ba, từ “Hà dó cố thị ngã nghiệp…” trở xuống là nêu ra hành lìa tướng thành tựu Giới độ. Trong này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Văn đáp có ba: Một là trình bày về Quán có năm câu, hai từ “Vị độ giả…” trở xuống trình bày về ý, ba từ “Ngã đương…” trở xuống trình bày về sinh khởi. Văn về không sân hận có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có hai: Một, phân rõ về Thể của Nhẫn hạnh có tám câu; hai, từ “Bồ-tát thành tựu như thị tịnh tuệ nhẫn…” trở xuống là đối với duyên phân rõ về tướng Nhẫn. Văn về tướng có ba: Một, nhẫn nhịn người khác không lợi ích, phần này năng-sở phân hai, trong năng thì khẩu-thân phân hai. Hai, từ “Bồ-tát tác thị tư duy…” trở xuống là yên tâm nhẫn nhịn có ba, đó là thiết lập-vặn hỏi-trả lời có thể biết. Ba, từ “Phục cánh tư duy…” trở xuống phân rõ về pháp của nhẫn nhịn, trong này đầu là pháp, tiếp từ “Thị cố…” trở xuống là việc làm có ba câu, ba từ “Phật sở hành pháp…” trở xuống phân rõ về nghi ngờ. Văn về tướng vô cùng tận có ba, đó là hỏi-đáp và kết luận. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về Thể của tinh tiến, tức là Cần-Dũng-Tiến có mười một câu; hai, từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là gia hạnh về Tiến có hai, một là trình bày về sự lìa xa, hai là phân rõ về nơi hướng đến; ba, từ “Bồ-tát thành tựu như thị…” trở xuống phân rõ về khó hoại không đầy đủ như nhau, phần này có hai: Một là có hai hỏi-đáp phân rõ về khó hoại, hai là giải thích về phạm vi có thể biết. Văn về tướng lìa si loạn có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về tiến vào lý an lạc trú trong Định; hai, Bồ-tát này thành tựu tịch tịnh dẫn dắt thông suốt trong Định; ba, từ “Bồ-tát văn thử năng hoại…” trở xuống là tùy theo Định để Lợi tha. Trong này phần một có ba: Một, phân rõ Thể của Định không mất. Hai, từ “Bồ-tát thành tựu như thị đẳng…” trở xuống là phân rõ về nghiệp dụng của Định, trong phần này có bốn: Tổng quát phân rõ. Từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ. Từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là riêng biệt phân rõ có hai, đầu là phân rõ, tiếp là đối với nhân để trình bày. Từ “Như thị đẳng…” trở xuống là lấy mở rộng để hiển bày tóm lược. Ba, từ “Bồ-tát ư Tam-muội trung…” trở xuống phân rõ quán hạnh thành tựu tự tại trước đây mà thôi, trong này tướng tánh thành tựu đối trị phân ba, văn còn lại có thể biết. Văn về khéo léo hiện rõ có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về Bát-nhã gia hạnh; hai, từ “Vô sở y-vô sở trú…” trở xuống là chính thức chứng được trí; ba, từ “Phân biệt nhất thiết thế gian pháp…” trở xuống là Hậu trí Bát-nhã. Văn phần một có hai: Một là trình bày về Thể của trí, hai từ “Vô sở hữu…” trở xuống là giải thích về nghóa thành tựu trước đây. Văn về chính thức chứng được trí có mười tám câu, có bốn: Bảy câu phân rõ về Lý tương ưng với Trí. Từ “Ly nghiệp báo…” trở xuống có sáu câu phân rõ chính thức chứng được lìa các tướng. Từ “Vô sở y trú…” trở xuống có hai câu phân rõ về phần lượng đã an trú. Từ “Nhập ly hư vọng…” trở xuống có ba câu trình bày quán thành tựu phần hỏi về tiến vào Vô tánh. Văn về Hậu trí có ba: Một, phân rõ về Như lý trong trí Như lượng tức là hiển bày về pháp đã nhận biết; hai, từ “An trú tam thế bình đẳng…” trở xuống phân rõ về Như lượng trong trí Như lượng tức là đối với chúng sinh đã hóa độ; ba, từ “Thị Bồ-tát trú thử hạnh thời…” trở xuống là đức dụng tự tại. Văn còn lại suy nghó có thể biết. Văn về không vướng mắc có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về phương tiện Tự lợi; hai, từ “Sơ đắc thọ ký…” trở xuống phân rõ về phương tiện Lợi tha; ba, từ “Bồ-tát như thị quán sát…” trở xuống là khéo léo đầy đủ Tự lợi và Lợi tha có hai: Một là phân rõ hai hạnh, hai từ “Sở dó giả hà…” trở xuống phân rõ nguyên cớ có thể biết. Văn về Tự lợi có hai: Một là Tu trong phần vị của mình, hai từ “Bất xả Bồ-tát tâm…” trở xuống phân rõ về Tu trong phần vị thù thắng, có hai có thể biết. Phần vị của mình có ba: Một, ở trong pháp thanh tịnh tu về hạnh không vướng mắc, có hai có thể biết; hai, từ “Kiến bất tịnh sát…” trở xuống là ở trong hành nhiễm thấy tu về bất tịnh; ba, từ “Hà dó cố…” trở xuống phân rõ nguyên cớ không vướng mắc trước đây, có ba: Một là hỏi đáp tổng quát phân rõ, hai là mở rộng phân rõ, ba là đối với sinh khởi trình bày về lìa xa lỗi lầm. Văn về Lợi tha có ba: Một là phân rõ về quán phương tiện Đại Bi; hai từ “Bất trước thân đẳng…” trở xuống chính thức trình bày về hạnh không vướng mắc, trong phần này có mười câu; ba từ “Hà dó cố…” trở xuống trình bày về nguyên cớ không vướng mắc. Phần một là quán Đại Bi có ba: Một, phân rõ về Đại Bi sâu nặng; hai, từ “Nhó thời Bồ-tát kiến bỉ sinh…” trở xuống trình bày về tăng thượng; ba, từ “Nhó thời Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống trình bày Đại Bi là đầu tiên mà thôi. Văn về Tôn trọng có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có sáu: Một, phân rõ về pháp được tôn trọng. Hai, từ “Thử Bồ-tát hành thời…” trở xuống phân rõ về nơi hướng đến, phần này có hai, một là hướng đến, hai là lợi ích; phần lợi ích có ba lợi ích: Thành tựu ý nguyện. Thành tựu chúng sinh. Hiển bày về lý. Trong phần Lý có hai: Đầu là pháp-dụ-hợp tức là lập Tông, hai là có hai vặn hỏi có thể biết. Ba, từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống phân rõ về Dụng đã thành tựu, có ba văn về pháp-dụ-hợp, trong văn đầu về pháp: 1- Từng hạnh một lìa xa lỗi lầm. 2- Đạt được pháp là con người. 3- Thành công hòa nhập pháp giới. Bốn, từ “Nhi Bồ-tát Ma-ha- tát…” trở xuống trình bày về hạnh tự tại. Năm, từ “Như thị Bồ-tát thành tựu…” trở xuống phân rõ về Dụng không có hai, văn phần này có bốn nghóa, nghóa thứ tư trong phần đáp có ba văn về pháp-dụ-hợp có thể biết. Sáu, từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống trình bày về hạnh thành tựu có hai: Một là Tự lợi, hai là Lợi tha. Văn về Lợi tha có hai: Một là Giáo, hai là nói rõ ý mình để trừ bỏ nghi ngờ có hai: Đầu là nói rõ ý, sau có hai vặn hỏi có thể biết. Văn về Pháp thiện có bốn: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là lợi ích. Văn đáp có ba: Một, nêu ra pháp thiện để làm chủng tử Phật; hai, từ “Thanh tịnh Đà-la-ni…” trở xuống là giải thích về thành tựu Thể của hạnh; ba, từ “Bồ-tát Ma-ha-tát an trú thiện pháp hành…” trở xuống dựa theo tu phân rõ về thành tựu. Văn thứ hai giải thích về thành tựu Thể của hạnh có hai: Một, phân rõ về Thể của hạnh có hai có thể biết; hai, từ “Nhó thời Bồ-tát…” trở xuống trình bày về tác dụng của hạnh, tác dụng có hai có thể biết. Văn thứ ba dựa theo tu phân rõ về thành tựu có hai: Một là tổng quát, hai là riêng biệt. Văn riêng biệt có ba: 1- Tổng quát, 2- Từ “Phật tử…” trở xuống là riêng biệt có hai có thể biết, 3- Từ “Thành tựu như thị thập loại thân…” trở xuống là kết luận thành tựu tác dụng của hạnh. Văn về Chân thật có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Văn đáp có bảy: Một, lời nói và việc làm tương ưng cho nên chân thật. Hai, từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là hạnh tương ưng, đây chính là giải thích tên gọi. Ba, từ “Bồ-tát thành tựu chúng sinh…” trở xuống phân rõ về Thể của hạnh, phần này có hai: Đầu là thiết lập, tiếp từ “Thị cố…” trở xuống là kết luận về thù thắng. Văn về thiết lập có hai, đều có thiết lập-vặn hỏi và đáp. Bốn, từ “Bất xả…” trở xuống phân rõ về tác dụng của hạnh, đó là thân-khẩu-ý tức là ba. Năm, từ “Bồ-tát Ma-ha-tát trú Đại Bi…” trở xuống phân rõ ngay phần vị lấy nhân để thành tựu quả. Sáu, từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận. Bảy, từ “Thử Bồ-tát an trú…” trở xuống là thành tựu lợi ích. Trên đây là dựa theo tướng Tín-Hạnh của Nhất thừa. Nếu lúc dựa theo ba Thừa nhờ vào phần vị quán sát riêng biệt thì như kinh. Trong Hạnh thứ nhất bởi vì tự đạt được Nhất thiết chủng trí cho nên khởi lên bốn Tinh tiến, thường xuyên tu hai pháp thiện, thường xuyên đoạn hai pháp ác, vốn là để cầu quả Phật. Trong Hạnh thứ hai bởi vì đạt được tự thân có Đại lực vốn là bốn Như ý túc: Niệm giữ gìn cảnh, Tinh tiến tìm cầu, Định-Xả thâu nhiếp, Tuệ soi chiếu cảnh, cho nên tự tại đạt được pháp Vô sinh. Trong Hạnh thứ ba bởi vì nguyện đầy đủ Vô úy, đó là năm căn Tín-Tiến-Niệm-Định-Tuệ đều vốn là Vô tướng. Trong Hạnh thứ tư bởi vì cầu đầy đủ Tam Bảo, đó là năm phần pháp: Thân giới trừ bỏ sai lầm của thân, Định không có tâm tán loạn, Tuệ tỏ ngộ tướng hư giả, Giải thoát không có ràng buộc, Giải thoát tri kiến cho nên thấy biết tất cả chúng sinh không có ràng buộc, bởi vì các pháp như hư không cho nên không có hai. Trong Hạnh thứ năm bởi vì hóa độ tất cả chúng sinh, đó là tám Chánh đạo: Từ thầy phát sinh Tuệ gọi là Chánh tri kiến, đạt được pháp phát sinh suy nghó gọi là Chánh tư duy, xuất gia học đạo đạt được ba phần đạo gọi là Chánh ngữ-Chánh nghiệp-Chánh mạng, tiến vào tánh Không của pháp gọi là Chánh định-Chánh giác, đối với Vô sinh không hai cho nên quán sát về một hợp tướng. Trong Hạnh thứ sáu bởi vì Đại Bi cho nên khởi lên bảy quán, Trạch pháp-Niệm pháp-Tinh tiến pháp-Quán pháp-Hỷ pháp-Định pháp-Tuệ pháp, vốn là hòa vào một tướng. Trong Hạnh thứ bảy bởi vì đạt được bốn Vô ngại, đó là năm căn thiện, Chánh quán-Noãn quán-Đảnh quán-Nhẫn quán, ba cõi Không, Đệ nhất quán có thể sinh khởi Đại minh tuệ Vô tướng của Thập Địa, cho nên Đệ nhất Không bình đẳng chưa thay đổi thai của Thánh nhân. Trong Hạnh thứ tám bởi vì từng hạnh từng hạnh trong tất cả các cõi Phật, đó là bốn Hóa pháp, Pháp biện-Nghóa biện-Ngữ biện-Nhạo thuyết biện, bốn loại này gọi là Tuệ, tánh soi chiếu tất cả các pháp Vô sinh, vốn là hạnh trong Đệ nhất nghóa đế. Trong Hạnh thứ chín bởi vì ở trong một niệm soi chiếu tất cả các pháp, đó là ba đời-mười hai nhân duyên đều là giả hợp hội tụ thành tánh, cho nên thật sự không thể đạt được. Trong Hạnh thứ mười bởi vì tự tại chuyển Đại pháp luân, đó là Tam Bảo của Bồ-tát, Trí hiểu rõ Trung đạo tất cả các pháp không sinh là Phật bảo, phép tắc sử dụng là Pháp bảo, thường xuyên đi vào sáu nẽo cùng với chúng sinh tương ưng gọi là Tăng bảo, cho nên chuyển tất cả dòng chảy của chúng sinh hòa vào biển Phật. Đây là dựa theo ba Thừa nhờ vào phần vị mà nói. Sáu là phần lợi ích, từ “Nhó thời Phật thần lực cố…” trở xuống là chứng minh thành tựu về pháp đã nói, văn này có bốn: Một, mặt đất chấn động-mưa hoa…. Hai, từ “Như thị Tứ Thiên…” trở xuống là kết luận quy về bình đẳng. Ba, từ “Nhó thời các quá…” trở xuống trình bày về Bồ- tát mười phương chứng minh thành tựu. Dùng văn Bồ-tát mười phương chứng minh thành tựu này thì biết, các Hội sau chỉ là Phật Bồ-tát cùng tên gọi ở cõi này đều bởi vì chứng minh nghóa lý cho nên đến tụ hội. Hội đầu tiên mười phương cùng tên gọi là Tập, chỉ là ảnh hưởng nêu lên phạm vi của phần vị chưa phải là chứng pháp, còn lại có thể dựa theo đó. Bốn, kết luận thông suốt mười phương. Bảy là văn trùng tụng có hai: Một, trường hàng phân rõ về ý thuyết kệ. Hỏi: Trong này chủng tánh Phật và chủng tánh Bồ-tát khác nhau thế nào? Đáp: Nhân vị của Bồ-tát do Phật mà thành tựu tức là tánh Phật, do Bồ-tát tự thành tựu tức là tánh Bồ-tát, như vậy có thể suy nghó chính xác mà thôi. Hai, phần thuyết kệ có một trăm hai mươi kệ, trong phần này có ba: Đầu là kệ bảy chữ ca ngợi tổng quát; Ca ngợi riêng biệt; Sau có bốn hàng tổng quát kết luận về tâm tình rộng lớn, điều đó có thể suy nghó. Vả lại, những phẩm đức này trong mỗi một phần vị Thập Hạnh trên đây đều có đủ. <篇> ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 2 (Phần 2) <詞>Phẩm 18: BỒ TÁT THẬP VÔ TẬN TẠNG Bốn môn giống như trước. Giải thích tên gọi. Bồ-tát là người, Thập là số căn bản, Vô Tận là phạm vi, Tạng là tích chứa. Bởi vì Thể không phải là phạm vi của số đếm, Hạnh không có cùng tận, mà sinh diệt vốn không thay đổi, cho nên nói là Vô Tận; một thâu nhiếp tất cả, hàm chứa tất cả không có gì ngoài, cho nên nói là Tạng. Còn lại có thể dựa theo biết rõ. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì phần vị chính thức của phần mình đã thành tựu, tiếp đến trình bày về thắng tiến đi vào phần vị sau cho nên đưa ra. Sở dó trước đây hỏi ở sau Hồi Hướng, nay trả lời ở trước là bởi vì muốn hiển bày về hạnh nối thông, cũng có thể Hồi Hướng là phương tiện trợ giúp, Tạng vốn từ nguồn gốc của hạnh cho nên thuộc về đầu tiên. Phẩm này lấy các nghóa về tích chứa công đức, năng sở vô cùng sâu xa làm Tông. Phân rõ văn. Văn này có ba: Một, nêu ra số để dẫn chứng, sơ lược ca ngợi nêu ra tên gọi; hai, từ “Hà đẳng vi Bồ-tát…” trở xuống là phân rõ về tướng; ba, từ “Thử Tạng hữu thập…” trở xuống là kết luận. Văn phần một có hai có thể biết. Mười tên gọi: Tín tức là đầu tiên của Thập Địa, và giữ gìn thư từ(thư trì) trong Nhiếp Luận. Giới tức là Từ Bi trong Địa, và thứ sáu là dạy người khác đạt được trong Luận. 3, 4. Tàm và Quý tức là Hạnh trong Địa, và thứ chín là một mình ở nơi trống trải vắng lặng trong Luận. Văn tức là biết các kinh luận trong Địa, và thứ tư là cung kính nghe nhận trong Luận. Thí tức là tên gọi về Xả trong Địa, và tên gọi về Bố thí trong Luận. Tuệ tức là thứ mười Tu tập như pháp trong Địa, tức là thứ mười Tu tướng nhập ý trong Luận. Chánh niệm tức là không mệt mỏi trong Địa, và tự đọc tụng trong Luận. Trì tức là lực kiên cố trong Địa, tức thứ bảy là như pháp đã nói nhất tâm luyên tập trong Luận. Biện tức thứ sáu là khéo léo hiểu rõ pháp thế gian-tức là bốn biện tài trong Địa, tức là thứ tám như lý giải thích rộng ra cho người khác trong Luận. Địa Luận và Nhiếp Luận đều có phần cúng dường, trong này vì sao không có? Bởi vì trong này phân Tàm-Quý làm hai, cũng có thể là Tạng trong này cùng với Luận ấy luôn luôn khác biệt về nghóa. Phần hai là văn mở rộng phân rõ có hai: Một, giải thích về tướng; hai, từ “Thị vi…” trở xuống là kết luận ca ngợi về dụng của hành có thể thành tựu Đại quả. Văn phần đầu về Tín Tạng có bốn: Nêu ra tên gọi, Phân rõ về tướng, Kết luận, Trở lại ca ngợi về dụng của hạnh. - Phân rõ về tướng có ba: Một là Tự tánh trú trong Phật tánh; hai từ “Phật như thị tri…” trở xuống là dựa theo tánh đến đạt được quả; ba từ “Thử Bồ-tát thành tựu như thị…” trở xuống là dựa theo tánh dẫn ra. Văn phần một về Tự tánh có ba: Một, tiến vào lý; hai, phân rõ về Tín kiên cố; ba, từ “Hà dó cố…” trở xuống là quyết định về nghi ngờ. Văn phần hai là dựa theo tánh đến đạt được quả có hai: Một, phân rõ về cảnh của Tín; hai, từ “Bồ-tát thành tựu…” trở xuống trình bày về tin hiểu thành tướng. Văn phần ba là dựa theo tánh dẫn ra có ba: Một, nhắc lại trước đây; hai, từ “Bất thối…” trở xuống tức là trình bày về phạm vi cảnh giới của Tín; ba, từ “Hộ trì…” trở xuống phân rõ về Tín hạnh thành tựu. Giới Tạng có ba: Nêu ra tên gọi. Giải thích riêng biệt. Từ “Thị vi…” trở xuống là kết luận. Về sau các văn có ba đoạn, dựa theo đây có thể biết. Văn giải thích riêng biệt có ba: Một, nhắc lại mười tên gọi; hai, từ “Hà đẳng…” trở xuống là phân rõ về tướng; ba, từ “Thử Bồ-tát trì như thị đẳng…” trở xuống là công dụng của Đại Bi lợi ích cho chúng sinh. Trong đó Giới không tranh cải không thể không phải là chế định trước, không trải qua tạo lập là tùy thuận thật tế, Thể không phải là Tập khởi. Tâm thường tùy thuận hướng đến Niết-bàn, là tất cả các sự việc tức là tướng Niết-bàn không còn trải qua diệt. Văn về Tàm có ba giống như trước. Thứ hai trong phân rõ về tướng có bốn: Một, biết lỗi của mình; hai, từ “Nhất thiết…” trở xuống là biết chúng sinh có lỗi lầm; ba, từ “Tự duy…” trở xuống là sự thấy biết của Thánh Hiền; bốn, Từ “Thị cố…” trở xuống là lìa xa lỗi lầm biểu hiện về tâm Tàm. Văn về Quý có ba giống như trước. Thứ hai trong phân rõ về tướng có bốn: Một, biết lỗi của mình; hai, từ “Phục tác…” trở xuống là biết chúng sinh có lỗi lầm; ba, sự thấy biết của Thánh Hiền; bốn, từ “Ngã đương…” trở xuống là lìa xa lỗi lầm biểu hiện về tâm Quý. Đa văn. Thứ hai trong phân rõ về tướng có ba: Một, nêu ra mười loại sự việc đã nghe; hai, phân rõ về mười tướng; ba, từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống là Lợi tha. Mười hai nhân duyên là Vô vi, thì một Luận sư thuộc Bà-sa luận nói: “Hữu vi không tự lập mà nhờ vào Vô vi.” Văn trong này có sáu Vô vi, nhưng giải thích: Không là dựa theo tướng của Sự mà phân rõ; Niết-bàn là dựa theo phần vị mà luận; Số diệt là dựa theo Tánh phân tán; Phi số diệt là dựa vào Sự phân tán; Duyên sinh là dựa theo Lý thuận theo Sự; Lý pháp giới không đối với Sự. Đối với tình tức là nguyên cớ của hữu vi, và ý còn lại suy nghó có thể hiểu. Những nghóa này đều là tự Thể của duyên khởi, đan xen mà không lẫn tạp, không thể nào dùng tướng của Sự mà luận bàn. Đây là giáo tướng của Đại thừa. Nếu luận về phương tiện hiểu biết tiến vào, thì tất cả giáo tướng cần phải so sánh chọn lấy trong giải thích. Nếu luận về hiểu biết chính xác, thì phải là giải thích về giáo bí mật, mới có thể hiển bày tướng nghóa của Đại thừa. Rất cần phải đạt được ý, đừng mê hoặc vì âm thanh ấy, Vô ký có sáu mươi. Thí. Thứ hai phân rõ về tướng: Nói đến Thí là lấy sự lợi ích của bố thí cứu giúp làm nghóa, vì vậy văn nói cho đến tự thọ nhận đồ vật sử dụng không có gì không phải là Thí. Nếu ngay trong sự tướng để trình bày, thì như văn đã nêu ra. Nếu dựa vào giải thích rõ ràng để trình bày, thì chỉ khiến cho hiểu xa đến cùng tận Tông chỉ, đừng hỏi về ý tưởng sâu xa mà cho là Chánh trí. Một khi mở thông tâm tình rồi cho đến ba nghiệp khởi động tiến vào tùy duyên mà thực hiện, không có gì không tùy thuận như thật tương ưng với Vô Tận Tạng, do đó có thể kiến lập chủng tử căn bản của Vô thượng Bồ-đề. Văn có hai: Một, nêu ra tên gọi; hai, mở rộng phân rõ. Trong pháp Thí trước đây có ba loại pháp Thí, dựa theo có thể biết. Văn còn lại hiển bày lẫn nhau có thể biết. Tuệ. Thứ hai trong phân rõ về tướng có năm: Một, bảy câu đầu là cảnh đã biết, bốn câu trước mỗi câu đều có hai nghóa: Thứ nhất-Sắc Khổ là Sắc của Báo, hai-Sắc Tập là Sắc của Nghiệp, ba-Sắc Diệt là Sắc của tánh phân biệt, bốn-Sắc Đạo là Sắc của đạo và thiện; thứ hai-Sắc Khổ là Sắc vô thường, hai-Sắc Tập là đời sau, ba-Sắc Diệt tức là Chân như, bốn-Sắc Đạo là đồ dùng để thành đạo, còn lại dựa theo đó. Thanh văn và Bồ-tát… thì một là biết về con người; hai là biết về quy phạm của pháp; ba là biết về nhân của Đạo, bởi vì nhiều phiền não huân tập cho nên được tên gọi là Tập; bốn là biết về quả của Diệt. Thể tướng nói như sau. Hai, từ “Vân hà tri…” trở xuống phân rõ về các pháp quán gia hạnh, tức là Tự lợi có hai văn hỏi-đáp, trong đáp có sáu câu có thể biết. Ba, từ “Quảng vi thuyết…” trở xuống là Lợi tha có năm câu: Tổng quát. Hỏi đáp trình bày về phạm vi của nghóa. Hỏi đáp hiển bày về nghi thức tuyên thuyết. Vặn hỏi. Đáp về nguyên nhân có bốn câu mà thôi. Bốn, từ “Bồ-tát thành tựu…” trở xuống phân rõ về hạnh Tự lợi-lợi tha thành tựu tướng, có hai có thể biết. Năm, từ “Thử trí tuệ Tạng hữu thập chủng…” trở xuống phân rõ về Tuệ thâu nhiếp Vô tận, có bốn có thể biết. Niệm Tạng. Thứ hai văn phân rõ về tướng có ba: Một, phân rõ về pháp thanh tịnh đã nghó nhớ, nói Niệm Phật là tùy thuận giác ngộ chân thật; nói Thọ ký là quy phạm kỳ diệu của sự giác ngộ chân thật hiển bày lòng dạ này; nói Niệm trì Tu-đa-la là tướng giác ngộ trọn vẹn đầy đủ như nhau rõ ràng ở bên ngoài, bởi vì lúc đầy đủ quy phạm kỳ diệu thì lấy làm phép tắc cho thế gian. Hai, từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống phân rõ về Thể của Thập Niệm. Ba, từ “Thử Bồ-tát trú thị…” trở xuống trình bày về Niệm mạnh mẽ bền vững. Nói đến Diệu là kỳ diệu hơn người khác. Tịnh niệm là ghi nhớ rõ ràng. Bất trược là không lẫn tạp tối tăm chướng ngại. Biến tịnh niệm là đối với pháp đều sáng tỏ. Ly trần niệm là đối với sự việc đã nghó nhớ không sinh tham nhiễm. Ly chủng chủng trần niệm là không sinh kết buộc gì khác. Ly cấu niệm là không chấp vào năng lực của mình. Quang diệu niệm là chiếu soi rộng rãi khắp nơi. Nói về Lạc niệm là vui với tu tập không thôi. Vô chướng ngại là gọi ý liền biết, không cần phải suy nghó…. Văn về Trì có bốn: Một, hỏi; hai, phân rõ về tướng; ba, kết luận; bốn, ca ngợi đức. Văn phân rõ về tướng có ba: Phân rõ về người Trì, Phật là trình bày về điều đã nghe thuận theo nơi chốn, Từ “Văn trì nhất phẩm…” trở xuống phân rõ về pháp đã nghe. Biện. Thứ hai phân rõ về tướng có bốn: Một, nhắc lại; hai, phân rõ; ba, kết luận; bốn, ca ngợi về đức. Thứ hai là văn mở rộng phân rõ có năm: Trình bày về Hậu trí phân rõ về Thể. Từ “Quảng vi…” trở xuống trình bày về công năng của Biện. Từ “Hà cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu. Từ “Thành tựu thử Tạng cố…” trở xuống mở rộng trình bày về sự việc thành tự do đức của Biện. Từ “Thử Bồ-tát thành tựu bách vạn…” trở xuống là sự thành tựu do tác dụng của Biện vô tận. Văn này có hai: Một là giải thích, hai là hỏi đáp trừ hết nghi ngờ. Từ “Phật tử thị vi…” trở xuống là phần thứ hai kết luận về tác dụng của đức có thể thành tựu Đại quả Vô tận; tiếp theo từ “Thử Tạng hữu thập loại…” trở xuống là phần thứ ba kết luận ca ngợi Biện Tạng sâu sắc phát sinh công đức vô tận, có bốn có thể biết. ---------------------------- <詞>Phẩm 19: PHẬT THĂNG ĐÂU SUẤT THIÊN CUNG NHẤT THIẾT BẢO ĐIỆN (Hội thứ năm) Phẩm này tức là trả lời về phần Hồi Hướng trên. Bốn môn giống như trên. Giải thích tên gọi. Tri Túc Thiên là dựa theo hạnh làm chuẩn. Vả lại, Hội thứ ba trước đây chỉ nói về cung điện ở đó, Hội thứ tư chỉ nói về sự trang nghiêm, Hội thứ năm nói đến Nhất thiết bảo trang nghiêm, Hội thứ sáu nói đến Ma-ni bảo… là bởi vì muốn hiển bày về đức tướng Từ Bi tùy theo chúng sinh mà tăng lên. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì nếu không Hồi Hướng thì không biết từ đâu tiến lên. Có hai ý, một là ý đưa ra thuộc về Hội, hai là ý đưa ra thuộc về Phẩm, giống như trước theo đó có thể biết. Tông của Hội thứ ba phân biệt có hai, dựa theo người và pháp, cùng có Thể-Tướng-Dụng, theo trước có thể biết. Nhưng bởi vì Thể của Tông trong Hội này lại đưa ra khác với các Hội trước sau, cho nên Tông có hai nghóa: Nêu ra tánh Phổ Hiền phát khởi thật đức tùy theo duyên sai biệt mà nói để phát khởi Tín tâm, tức là Hội thứ nhất trình bày về thế giới hải, Hội thứ hai trình bày về Thập Tín, Hội thứ ba trình bày về Thập Giải, Hội thứ tư trình bày về Thập Hạnh, Hội thứ năm trình bày về phương tiện Hồi Hướng, Hội thứ sáu trình bày về tu thành tựu pháp của hai hành nhân quả vô lậu vốn có…, Hội thứ bảy dựa vào pháp thành tựu đức của hành nhân quả, Hội thứ tám dựa vào con người thành tựu đức sai biệt của phần vị. Đây đều là pháp cùng học của Nhất thừa và Tam thừa. Thâu nhiếp duyên sai biệt mà thuận theo thật pháp vốn có, tức là Hội thứ nhất quán sát về năm Hải-mười Trí viên minh để bắt đầu tuyên thuyết, Hội thứ hai là phần vị Tín thành tựu phần lượng công đức về nhân quả chân thật vốn có của phần vị, Hội thứ ba là phần vị Giải hiển bày chứng được nhân quả Phổ Hiền thuộc về tánh đức, Hội thứ tư là phần vị Hạnh hiển bày chứng được nhân quả Phổ Hiền thuộc về bổn tánh, Hội thứ năm là phần vị phương tiện Hồi Hướng hiển bày chứng được nhân quả Phổ Hiền như tướng của pháp giới, Hội thứ sáu là phần vị Chứng hiển bày nhân quả Phổ Hiền thuộc về chứng tánh, Hội thứ bảy là dựa vào pháp để hiển bày phạm vi hành đức của nhân quả Phổ Hiền thuộc về Thông giáo, Hội thứ tám dựa vào con người để hiển bày chứng được công đức thuộc về lý sự duyên khởi của nhân quả Phổ Hiền. Đây là nghóa sai biệt về phần lượng của phần vị. Giải thích văn. Văn này có ba phẩm phân ra hai: Hai phẩm đầu là Tựa về Phương tiện, một phẩm sau là Chánh Tông. Phẩm đầu này có hai: Một là dụng của Thể, hai là Thể dung hòa. Trong phần Thể dung hòa có ba, đó là thân-khẩu-ý, nhưng nhân quả tương ưng làm phương tiện sau, trên đây đều giống như vậy mà thôi. Thứ hai từ “Thời bỉ Thiên Vương…” trở xuống là tùy duyên nhiếp hóa, văn này có sáu: Một, từ “Thời bỉ Thiên Vương…” trở xuống từ Thể khởi Dụng là duyên nhiếp hóa; hai, từ “Tức ư…” trở xuống phân rõ vua chuẩn bị đồ vật cúng dường tức là thành tựu căn; ba, từ “Nhó thời Thế Tôn, dó Phật trang nghiêm…” trở xuống trình bày về Phật nhận lời thưa thỉnh, thăng tòa là trình bày về tướng cơ cảm; bốn, từ “Nhó thời Phật thần lực vi Thiên Vương cố…” trở xuống trình bày về oai lực thù thắng gia hộ chấm dứt loạn động trú trong vắng lặng; năm, từ “Nhó thời Thiên Vương…” trở xuống trình bày từ Định vắng lặng phát Trí nói kệ ca ngợi; sáu, từ “Nhó thời Thế Tôn thăng Nhất thiết bảo điện…” trở xuống phân rõ Pháp thân Phật bình đẳng thâu nhiếp lợi ích thành tựu sự việc không hư giả. Văn thứ hai có hai: Một là thành tựu căn; hai từ “Nhó thời Thiên Vương vi Như Lai phu tọa cánh…” trở xuống là Thiên Vương ra ngoài đón tiếp Đức Thế Tôn, phân rõ về nghi thức cung kính, tức là căn chín muồi thành tựu mong muốn. Phần đầu trang nghiêm đồ vật cúng dường, văn có ba: Một, tổng quát trang nghiêm để thiết lập Tông; hai, từ “Sở vị…” trở xuống riêng biệt mở rộng phân rõ về phương pháp nghi thức tu tập tiến vào; ba, từ “Như thị Tứ Thiên…” trở xuống là kết luận ca ngợi như nhau hiển bày về cơ ứng với pháp. Văn phần một có hai: Một là tổng quát trình bày về chỗ ngồi trang nghiêm, hai từ “Quá khứ tu tập…” trở xuống phân rõ về nhân duyên. Nhân duyên có mười ba câu, một câu đầu là tổng quát, còn lại là riêng biệt, theo thứ tự loại trừ nghi ngờ có thể biết. Ngay phần thứ hai từ “Sở vị…” trở xuống mở rộng nói về ở trong cung điện tu hạnh cúng dường trở thành phương pháp nghi thức, toàn văn có ba: Phân rõ về hạnh trang nghiêm tự tại về Khí thế gian. Từ “Bách vạn ức chư Thiên thần vương…” trở xuống trình bày về hạnh trang nghiêm tự tại về Chúng sinh thế gian, đây là người chủ động cúng dường. Từ “Bách vạn ức chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là hạnh trang nghiêm tự tại về Trí chánh giác, bởi vì phần này là chứng lý. Có cách giải thích khác: Trong này có năm mươi tám chúng có thể biết. Phần một là Khí thế gian, văn có hai: Đồ vật trang nghiêm ngoại trần; Từ “Bách vạn ức thần lực tự tại…” trở xuống trình bày về trang nghiêm nội pháp. Trong phần Trí chánh giác, mười ba câu đầu phân rõ về con người, tiếp theo hai mươi câu là đức của hạnh. Các Đại Bồ-tát là người đi vào đạo tràng tụ hội, Hoa Thủ… là phần vị Tín giải. Văn thứ hai là đón tiếp Phật có ba: Một, ra ngoài đón tiếp là phân rõ về nghi thức cung kính có hai, một là kết luận phần trước, hai là sinh khởi phần sau. Hai, thiết lễ cúng dường. Ba, chính thức thưa thỉnh. Phần hai là thiết lễ cúng dường, văn có ba: Một, trình bày về phần mình thực hành cúng dường có hai, một là bên ngoài, hai là bên trong có thể biết. Hai, từ “Phật thần lực cố…” trở xuống trình bày về phần thắng tiến thực hành cúng dường. Ba, từ “Nhó thời nhất thiết chư Thiên chúng…” trở xuống phân rõ hai hành tiến vào cảnh giới Phật. Hai là trong đức của phần thắng tiến có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt trang nghiêm hư không, ba là tung hoa cúng dường Như Lai. Ba, từ “Nhó thời nhất thiết chư Thiên chúng…” trở xuống trong phần trình bày tiến vào cảnh giới Phật có ba: Một là phân rõ về Lợi tha; hai từ “Thời chư Thiên kiến Như Lại thân nhất nhất mao khổng…” trở xuống là đức về Tự lợi; ba từ “Nhó thời Như Lai…” trở xuống phân rõ tự tha bình đẳng vô cùng tự tại. Ngay trong đoạn trước, một là biết về đức Lợi tha, hai từ “Như thị chánh niệm…” trở xuống có mười câu là kết luận về lợi ích của quán sát hiểu biết. Trong phần một là biết đức có hai: Người mạnh mẽ… là đức của Báo thân, Từ “Thuận chúng sinh căn vi hiện Phật thân…” trở xuống là đức của Hóa thân. Trong phần Báo thân, một là đức của thân nghiệp, hai từ “Trú Nhất thiết trí…” trở xuống phân rõ về đức của khẩu nghiệp, ba từ “Phật trí tuệ nguyệt…” trở xuống trình bày về ý nghiệp. Trong phần Hóa Phật, một là thân nghiệp, hai từ “Thường dó pháp thí…” trở xuống trình bày về khẩu nghiệp, ba từ “Giai do tùng tâm khởi…” trở xuống phân rõ về ý nghiệp. Những cảnh giới Phật cách xa trên đây, tức là sự tác dụng của con người đối với nhân hồi hướng. Hai là trong đức Tự lợi có sáu câu: Một, câu đầu phân rõ về phóng ánh sáng; hai, từ “Tự nhiên…” trở xuống phân rõ trong ánh sáng nói kệ; ba, từ “Hiển hiện A-tăng-kỳ…” trở xuống trình bày về tướng trang nghiêm; bốn, từ “Hiển hiện bất khả tư…” trở xuống là hiện ra Hóa thân thuyết pháp; năm, từ “Hựu Phật thân trung…” trở xuống hiện ra ánh sáng quý báu hiển bày về nhân hạnh; sáu, từ “Hựu đổ tự tại thần lực…” trở xuống trình bày về thuyết pháp giáo hóa. Ba là phần Tự tha bình đẳng vô cùng tự tại, văn có bốn: Một, nhắc lại đức Từ Bi trước đây; hai, từ “Dục linh vô lượng…” trở xuống là tùy cơ nhiếp hóa lợi ích; ba, từ “Thành tựu Như Lai…” trở xuống là thành tựu đức tiến vào cõi Phật; bốn, từ “Như Lai hiển hiện…” trở xuống là kết luận ca ngợi về vô tận. Thứ ba là văn về tùy duyên nhiếp hóa có ba: Một, chính thức đi đến; hai, giống như phương khác; ba, phân rõ về lợi ích có thể biết. Thứ năm là văn về trí có ba: Một, trường hàng về nhớ lại, tức là Thể của trí. Hai, thuyết kệ trình bày về Tướng của trí. Vì sao ca ngợi đức của một vị Phật? Bởi vì làm sáng tỏ nhiều phương tiện hồi hướng quy về một tâm Từ Bi khéo léo. Ba, giống như tất cả các phương. Thứ sáu là văn về nhiếp hóa thành tựu sự việc có bốn: Một, phân rõ về ứng cơ. Hai, chính thức nhiếp hóa. Ba, thành tựu lợi ích, văn có hai: Đầu là hai câu thuận theo Lý, tiếp đến là thuận theo Sự. Sở dó chỉ phân rõ về đầy đủ đức mà không mở rộng về cung điện là trú xứ của Như Lai, là bởi vì hiển bày phương tiện trang nghiêm riêng biệt. Bốn, giống như tất cả mười phương. ------------------------- <詞>Phẩm 20: ĐÂU SUẤT THIÊN CUNG BỒ TÁT VÂN TẬP TÁN PHẬT Bốn môn giống như trước. Giải thích tên gọi, có bốn nghóa: Một là Xứ, hai là người, ba là oai nghi của thân, bốn là khẩu nghiệp. Hoặc là sáu câu có thể biết. Ý đưa ra giống như trước, chỉ có việc làm khác biệt mà thôi. Tông cũng giống như trước, nhưng trở lại đưa vào phẩm này ca ngợi thực hành phương tiện của Phật là khác nhau mà thôi. Giải thích văn. Phẩm này có ba Tựa: Một, văn trong Tựa về quy tụ chúng, trước là nêu ra thần lực của Phật để hiển bày về phạm vi; hai, phân rõ về chúng đã quy tụ; ba, từ “ Như thử…” trở xuống là kết luận về chúng đã quy tụ. Trong phần thứ hai là ba thế gian có thể biết. Trong chúng sinh thế gian có năm câu: Một là nêu ra tên gọi, hai là dựa vào căn bản tu hành, ba là cùng đến, bốn là y theo phương mà ngồi, năm là ca ngợi đức. Ca ngợi đức có ba: Một, trình bày về hạnh Tự lợi; hai, từ “Nhất thiết chúng sinh quán vô yếm túc…” trở xuống là hạnh Lợi tha; ba, từ “Thử chư Bồ-tát…” trở xuống phân rõ về đức dụng tự tại của Tự-Tha. Trong Tựa thứ hai về phóng ánh sáng có ba: Một, phân rõ về nơi ánh sáng xuất hiện; hai, trình bày về nơi đã soi chiếu; ba, từ “Bỉ chư Bồ-tát…” trở xuống là ánh sáng đã thâu nhiếp lợi ích, tức là ca ngợi về đức. Hai đầu gối phóng ánh sáng thù thắng, là tướng thù thắng vi diệu tăng trưởng tiến vào cảnh giới Phật trong hạnh của Pháp thân. Đầu gối là biểu thị cho tướng phương tiện tiến lên. Trong phần ca ngợi đức có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận. Trong phần riêng biệt có ba: Một là Tự lợi, hai từ “Giáo hóa thành tựu…” trở xuống có một câu là Lợi tha; ba là thắng tiến có thể biết mà thôi. Trong Tựa ca ngợi Phật, Kim Cang là nhân hạnh kiên cố, Tràng là hạnh thành tựu cao vượt ra ngoài, cũng có nghóa về nhiếp phục. Vả lại trong mười Bồ-tát, vị thứ nhất tên gọi Kim Cang Tràng là trình bày về tự Thể chân thật có năng lực tiêu diệt phiền não, Đạo vượt lên trên thế gian nêu rõ hơn kém khác nhau, cho nên gọi là Kim Cang Tràng, tướng còn lại có thể biết. Trong này, các kệ đều dựa theo phương tiện hồi hướng để hiển bày về đức của Phật, tức là lấy giáo này làm tướng khéo léo giải thích, còn lại dựa theo đó suy nghó. Văn về các kệ có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là chính thức nói kệ. Kệ thứ nhất có ba: Năm kệ đầu là đức Tự lợi, tiếp theo ba kệ là Lợi tha, tiếp theo hai kệ là khuyến tu. Kệ về Kiên Cố có ba: Ba kệ đầu ca ngợi về Tự lợi kiên cố của Phật, tiếp theo bốn kệ ca ngợi về Lợi tha kiên cố, tiếp theo ba kệ là khuyến tu. Kệ về Dũng Mãnh có ba: Hai kệ đầu phân rõ Pháp giới hải sâu xa, tiếp theo năm kệ phân rõ về tác dụng lợi ích rộng lớn, tiếp theo ba kệ là kết luận về Thể-Dụng viên mãn. Kệ về Dạ Quang có hai: Bốn kệ đầu ca ngợi về Pháp thân tự tại, tiếp theo sáu kệ ca ngợi về Hóa dụng tự tại. Kệ về Trí có hai: Một kệ đầu ca ngợi đức của phần vị, tiếp theo chín kệ phân rõ về pháp đã thấy. Văn về pháp đã thấy có hai: Một kệ đầu là tổng quát, tiếp theo tám kệ là riêng biệt. Văn về riêng biệt có ba: Hai kệ đầu ca ngợi đức của Phật, tiếp theo bốn kệ trình bày về lìa tướng kể ra của Phật, tiếp theo hai kệ phân rõ về lìa tướng thế gian mà thôi. Kệ về Bảo có ba: Một kệ đầu về Hóa thân, tiếp theo hai kệ về Pháp thân, tiếp theo bảy kệ về Báo thân. Lại hỏi: Vì sao xét định về văn của kinh này, phần lớn dựa vào ba Thừa là thế nào? Đáp: Bởi vì người ba Thừa là phần nhiều cho nên như vậy, nghóa về Nhất thừa dựa theo văn có thể biết. Kệ về Tinh Tiến có hai: Sáu kệ đầu gồm chung ba thân tự tại, tiếp theo bốn kệ dựa theo bốn dụ phân rõ về thành tựu. Kệ về Ly Cấu có ba: Bảy kệ đầu ca ngợi về Trí thân, tiếp theo hai kệ ca ngợi về Pháp thân, tiếp theo một kệ tổng quát giải thích. Kệ về Chân Thật có năm: Hai kệ đầu ca ngợi về Hóa thân tự tại, tiếp theo hai kệ về Pháp tánh thân tự tại, tiếp theo bốn kệ trở lại thành tựu về hóa độ trước đây, tiếp theo một kệ phân rõ về phương pháp nghi thức hướng tới, tiếp theo một kệ kết luận về thành tựu thân lìa tướng. Kệ về Pháp có bốn: Hai kệ đầu phân rõ trình bày về ý khích lệ tu tập, tiếp theo ba kệ tổng quát nêu ra lợi hại để giải thích về thành tựu, tiếp theo bốn kệ mở rộng phân rõ về tướng của lợi hại để ca ngợi đức, tiếp theo một kệ hiển bày về tướng của đức. Vả lại, cũng có thể không cần xét định riêng biệt ca ngợi về đức của mười Bồ-tát này, nghóa của mỗi một câu tức là pháp của một phương tiện. Đây là dựa theo văn chọn lấy ý của Nhất thừa. ---------------------------- <詞>Phẩm 21: KIM CANG TRÀNG BỒ TÁT HỒI HƯỚNG Phân biệt có năm môn: Giải thích tên gọi Thập Hồi Hướng và ý đưa ra. Phân rõ về pháp đối trị. Nhất thừa dựa theo như trước, ba Thừa trừ chướng rời bỏ Đại Bi của Độc giác. Đã đạt được Định vô gián và căn thiện bậc nhất của thế gian. Đã thành tựu hạnh vị của Thập Hồi Hướng tức là Thể của Tông. Giải thích văn. 1.Giải thích tên gọi: Hồi Hướng là xoay chuyển hạnh trước hướng đến Bồ-đề, cũng có thể gồm chung chúng sinh và pháp tánh, Kim Cang… là người, Hồi Hướng… là pháp, dựa vào hai nghóa mà được tên gọi. Ý đưa ra giống như trước, nhưng Thể của pháp khác với trước mà thôi. 2, 3. Nay trong luận này, pháp đối trị-đạt được và thành tựu đều dựa theo ba Thừa mà nói. Nếu dựa theo Biệt giáo Nhất thừa để phân rõ, thì hoặc là đối trị, hoặc là không đối trị… có thể dựa theo tư duy thâu nhiếp. Tông là tướng tổng quát có thể biết, mở rộng ở văn sau. Giải thích văn. Văn này có bảy phần: Một là phần Nhập định Tam-muội, hai là phần gia hộ, ba là phần xuất định, bốn là phần căn bản, năm là phần tuyên thuyết, sáu là phần lợi ích, bảy là phần kệ tụng. Đầu tiên nói Nhập định, là hiển bày Thể của pháp không phải cảnh giới của tư duy. Minh trí định, là hiển bày về hạnh không gì mê hoặc cho nên soi chiếu rõ ràng, cũng có thể là Tịnh trí phương tiện nương tựa có thể thành tựu Tịnh trí. Tựa về Gia hộ có ba: Một là tổng quát trình bày về tướng nhân duyên ca ngợi gia hộ. Văn này có ba: Một, tổng quát về chư Phật hiện thân và cùng tên gọi Chứng Pháp, có hai có thể biết; hai, từ “Thời bỉ…” trở xuống là chính thức ca ngợi kể ra; ba, từ “Thiện nam tử…” trở xuống là được tiến vào Định hiện tại. Nguyên cớ về gia hộ nhập định có năm nhân duyên: Một, lực của chư Phật gia hộ; hai, lực Bổn nguyện của Đức Lô-xá-na; ba, thần lực hiện tại của Đức Lô-xá-na; bốn, lực từ Tịnh trí của Kim Cang Tràng; năm, lực từ căn thiện của những Bồ-tát khác. Hai từ “Dục linh…” trở xuống phân rõ trong gia hộ bằng việc làm có hai mươi hai câu, mười hai câu đầu là đức thuộc phần mình, tiếp theo mười câu là thắng tiến. Nay trong hai mươi hai câu này vốn có các văn, và trong ý gia hộ trên dưới vốn có văn tướng, không thể nào giải thích đầy đủ từng văn một, mà chỉ dựa theo sự phân định của Luận chủ trong phần gia hộ đầu phẩm Thập Địa sau này, dựa theo phần ý của văn này thì có thể biết. Nhưng văn tướng trong này có lúc gồm chung quả và nhân, có lúc trước tổng quát-sau riêng biệt, có lúc Tự lợi khác với Lợi tha, có lúc giống-khác và thành-hoại. Như vậy tất cả và các văn của Hội trước, đều dựa theo chọn lấy sáu tướng đầu trong Địa Luận thì không có gì không rõ ràng, tướng còn lại có thể biết. Ba từ “Thiện nam tử nhữ đương…” trở xuống phân rõ về tướng gia hộ qua ba nghiệp sai biệt. Trong đó, đầu tiên trong khẩu nghiệp có mười câu có thể biết. Gia hộ qua ý nghiệp cũng có mười câu, một câu đầu là tổng quát, tiếp theo là riêng biệt. Hỏi: Vì sao ý gia hộ này cùng với pháp lẫn tạp? Đáp: Bởi vì sự phương tiện không nhất định, tâm-cảnh và lý-sự không phải là một pháp, dựa theo đó có thể biết. Phần căn bản chính thức tuyên thuyết, văn có hai: Một, tổng quát phân rõ về Thể; hai, nêu ra tên gọi phân rõ về Tướng. Văn phần một về Thể có hai: Một là tổng quát ca ngợi; hai là phân rõ về Thể của phương tiện, tức là sáu quyết định, trong đó chỉ có quán tướng Đại thiện và không khiếp nhược, nguyên cớ trước đây đã phân rõ. Văn phần hai về Tướng có năm: Một là hỏi, hai là nêu ra số và dẫn chứng, ba là trở lại hỏi, bốn là nêu ra tên gọi, năm là kết luận và chứng thành. Đại Nguyện bất tư nghị là nhân nguyện của Địa thượng, cũng tức là nguyện của Thập Hồi Hướng. Bốn là nêu ra mười tên gọi: Cứu hộ nhất thiết chúng sinh, là lìa tướng chúng sinh, hồi hướng sự việc hóa độ, lìa xa hai ngã. Hồi hướng có ba: Một là hồi hướng chúng sinh và vật cùng thành tựu, hai là hồi hướng Bồ-đề rời bỏ các quả báo của thế gian, ba là hồi hướng thật tế Dụng quy về Thể cao nhất. Ba tướng này thành tựu, cho nên biết là có ba tướng này, về sau Di-lặc khiến Thiện Tài gặp Bồ-tát tu ba loại hồi hướng. Trong kinh Bát-nhã cũng nói về điều này. Về sau đều gồm chung ý này. Bất hoại, là tự hành kiên cố. Đẳng nhất thiết Phật, là Tự tha cùng tiến vào cảnh giới Phật, cũng có thể là phần lượng ngang nhau. Chí nhất thiết xứ, là bởi vì đạt được một phần Phật lực. Vô tận công đức tạng, là bởi vì tu tập tác dụng phát sinh không cùng tận. Tùy thuận bình đẳng thiện căn, cũng gọi là đức dụng kiên cố vô tận, đạt được ba loại kiên cố tùy thuận Niết-bàn. Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh, là bởi vì đạt được Đại Niết-bàn mà không rời bỏ thế gian. Như tướng, là bởi vì hành hoàn toàn giống như tu. Vô trước giải thoát, là Lý bình đẳng lìa tướng ràng buộc-cởi bỏ cho nên không có tướng giải thoát. Pháp giới vô lượng, là Dụng hợp với tánh. Mười tướng này thành tựu cùng có hai: Một, dùng mười môn thâu nhiếp các hạnh Hồi Hướng, dựa theo môn này tức là Hạnh; hai, dùng Hạnh dựa vào mười môn trình bày về Hồi Hướng. Hồi Hướng có ba, đó là Thật tế, Bồ-đề và chúng sinh hồi hướng. Thật tế có hai loại: Một, hiện tại tu tập các hạnh tức là chân như; hai, vì hiển bày chân như cho nên tu tập các hạnh. Chúng sinh cũng có hai loại: Một, vì độ sinh cho nên tu hạnh Bồ-tát, tức là có đủ chúng sinh và đạo; hai, Bồ-tát đã thành tựu tức là chúng sinh đã trao cho. Bồ-đề cũng có hai: Một, đã tu các hạnh là vì thành tựu Đại quả; hai, các hạnh Bồ-tát chúng sinh tức là mầm của quả Bồ-đề. Mỗi một Hồi Hướng đều có môn này, nói ra đầy đủ ý tổng quát, dựa theo để suy nghó. Cứu hộ nhất thiết chúng sinh có bốn: Một, hỏi về nêu ra tên gọi; hai, phân rõ về tướng; ba, từ “Thị vi…” trở xuống là kết luận; bốn, dùng kệ trùng tụng. Trong phần hai phân rõ về Tướng có bốn: Một là trình bày về Thể của hạnh; hai từ “Ma-ha-tát phục tác thị niệm phát Bồ-đề tâm bảo…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba từ “Bồ-tát phục tác thị niệm như Nhật Thiên tử…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn từ “Dó như thị đẳng thiện căn hồi hướng…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng tự tại thù thắng vi diệu. Trong phần một phân rõ về Thể có ba: Một, dùng sáu Độ-bốn Nhiếp… làm pháp cứu giúp chúng sinh; hai, từ “Tu thiện căn…” trở xuống trình bày về cứu hộ chúng sinh; ba, từ “Thử Bồ-tát vi oán thân cố…” trở xuống trình bày về nương nhờ khởi hạnh. Trong này có hai ý: Một là vì lìa tướng chúng sinh cho nên có thể thành tựu ba Hồi Hướng, hai là bởi vì lìa chúng sinh vốn là ba Hồi Hướng, điều này nên suy nghó. Hai là văn chính thức cứu hộ chúng sinh có hai: Một, khiến cho chúng sinh không rơi vào địa ngục…; hai, từ “Phục tác thị niệm…” trở xuống là đạt được niềm vui của Pháp thân, trong đó nhân quả phân làm hai. Ba là văn nương nhờ khởi hạnh có hai: Một, dùng điều thiện hồi hướng chúng sinh không lựa chọn oán thân có ba: 1-Thiết lập; 2-Hỏi đáp giải thích nghi ngờ; 3-Từ “Thường dó ái nhãn…” trở xuống là đối với duyên thành hạnh. Lần lượt chuyển tiếp có bốn đoạn phân rõ về nghi, văn về nghi thứ tư có ba: 1-Thiết lập, 2-Vặn hỏi, 3-Đáp có thể biết. Hai từ “Bồ-tát bất vi nhất chúng sinh…” trở xuống hiển bày về ý rộng lớn, có hai có thể biết. Phần thứ hai là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề có năm: Một, thực hành như chư Phật và khởi tâm cứu cánh tức là hai, trong hai đoạn này lại đều phân làm hai có thể biết. Hai, từ “Bồ-tát dó chư thiện căn hồi hướng thời…” trở xuống là khiến cho chúng sinh đạt được nơi thanh tịnh. Ba, từ “Phục tác thị niệm dó thử thiện căn…” trở xuống là làm cho chúng sinh có thể thấy Phật đạt được lợi ích, đầy đủ bảy tài sản thanh thịnh, đó là Tín-Giới-Văn-Thí- Trí tuệ-Tàm-Quý. Bốn, từ “Thử Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là nhận chịu thay tất cả các khổ, văn này có bốn: Đối với vật sinh tâm; Từ “Thị cố…” trở xuống là loại trừ nghi ngờ; Từ “Dó Đại…” trở xuống trình bày về thiện xảo có hai có thể biết; Từ “Phục tác thị niệm ngã tất đương vi…” trở xuống là chính thức trình bày thọ khổ vì chúng sinh, trong phần này có ba: Một là thay thế nhận chịu khổ, hai là loại trừ nghi ngờ văn này có ba, trong văn thứ hai có bốn, văn thứ ba có ba có thể biết, ba từ “Thị cố bất dó…” trở xuống là kết luận có thể biết; ba từ “Phục tác thị niệm ngã đương dó…” trở xuống phân rõ về sự thành tựu, có hai có thể biết. Năm, từ “Bồ-tát dó thị vô lượng…” trở xuống là khiến cho chúng sinh được đầy đủ nhân duyên trợ đạo có ba: 1) Khởi ý; 2)Ví dụ; 3) Hợp có thể biết. Phần thứ ba là hồi hướng Thật tế, văn có hai: Một, lựa chọn hai hồi hướng trước đây; hai, từ “Linh nhất thiết bất trước…” trở xuống là chính thức hồi hướng Thật tế. Văn này có ba: Phân rõ về Vô tướng phân biệt. Từ “Bất khởi hư vọng nhân duyên…” trở xuống là Y tha không sinh. Từ “Quán sát nhất thiết chúng sinh bình đẳng…” trở xuống Vô tánh chân thật. Không sinh các pháp-không diệt các pháp ấy, dùng những thiện căn như vậy để hồi hướng, tức là phần thứ tư tổng quát kết luận, văn có ba: Một, tổng quát; hai, từ “Tu hành…” trở xuống là riêng biệt; ba, từ “Bồ-tát…” trở xuống là kết luận ca ngợi. Trong phần riêng biệt: Tu hành các pháp đối trị là kết luận về Thể của hạnh thứ nhất; Quán sát tất cả là kết luận về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; Từ “Ư bỉ thiện căn bất tác nhị tướng…” trở xuống là kết luận về Thật tế, tướng còn lại có thể biết. Phần bốn là trùng tụng có hai: Một, trường hàng phân rõ về ý; hai, kệ tụng. Có năm mươi sáu kệ, có ba: Mười hai kệ đầu là tổng quát kết luận. Tiếp theo là riêng biệt. Phần riêng biệt này có ba: Mười một kệ đầu là kết luận về Thể của hạnh, tiếp theo mười ba kệ là văn kết luận về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề, tiếp theo mười lăm kệ là kết luận về Thật tế. Sáu kệ cuối là tổng quát kết luận, có thể dựa theo chọn lấy cách giải thích. Bất hoại có năm, trong này một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi đức, năm là kệ tụng. Trong văn đáp có năm: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Dục linh nhất thiết chúng…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh; ba, từ “Chư Phật thành tựu vô lượng đức…” trở xuống là hồi hướng Bồ-đề; bốn, từ “Bồ-tát như thị xả ly si…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; năm, từ “Như thị Bồ-tát thành thiện căn…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng. Văn về Thể có năm: Đối với duyên thành Tín có hai, một là thiết lập Tông, hai từ “Hà cố…” trở xuống là loại trừ nghi ngờ. Từ “Như thị an trú…” trở xuống là dựa vào Tín thành nhân của hạnh. Từ “Bồ-tát như thị đẳng thiện…” trở xuống là phân rõ về hạnh đã thành tựu quả. Từ “Bồ-tát như thị tinh cần…” trở xuống là kết luận về lợi ích phát khởi thực hành. Từ “Bồ-tát thiện căn hồi hướng…” trở xuống là phân rõ dựa vào hạnh thành tựu sự việc như nguyện, phần này có hai ý: Một là bởi vì Bất hoại cho nên được thành tựu ba hồi hướng; hai là bởi vì Bất hoại vốn là ba hồi hướng, điều này có thể suy nghó chính xác. Hai là văn về hồi hướng chúng sinh có thể biết. Bốn là văn về Thật tế có ba: Lựa chọn hai hồi hướng trước đây. Từ “Quán sát bình đẳng…” trở xuống là chính thức hồi hướng Thật tế. Từ “Thường vi chư Phật…” trở xuống là công phu cảm được Thánh niệm. Bốn là trong phần kết luận ca ngợi có năm: Một, kết luận về Thể của hạnh; hai, từ “Ma-ha-tát như thị…” trở xuống là kết luận về chúng sinh; ba, từ “Cứu cánh thanh tịnh…” trở xuống là kết luận về hồi hướng Bồ-đề; bốn, từ “Thị bình đẳng…” trở xuống là văn kết luận về Thật tế; năm, từ “Bồ-tát hành như thị…” trở xuống là kết luận gồm chung về sự vi diệu thù thắng. Năm là văn kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có năm mươi kệ, có năm: Hai mươi mốt tụng đầu về Thể của hạnh, tiếp đến hai tụng về chúng sinh, tiếp đến hai tụng về Bồ-đề, tiếp đến mười tụng là văn về Thật tế, tiếp đến mười bốn tụng là các văn về kết luận ca ngợi… Đẳng nhất thiết Phật, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi đức, năm là kệ tụng. Văn đáp có năm: Một, phân rõ về Thể của hạnh có hai có thể biết. Hồi hướng này có hai ý: Một là bởi vì bình đẳng cho nên thành tựu ba loại hồi hướng; hai là bởi vì hợp với ba hồi hướng trước cho nên được bình đẳng, có thể dựa theo đó. Hai, từ “Thử Bồ-tát đắc như thị lạc thời…” trở xuống là hồi hướng Phật Bồ-tát và chúng sinh, văn này có bốn: Hồi hướng Phật. Hồi hướng Bồ-tát. Hồi hướng chúng sinh. Từ “Bồ-tát nhiếp thủ hạnh đẳng hành…” trở xuống trình bày về nghi thức. Văn về Bồ-tát có hai có thể biết. Trong văn thứ ba là hồi hướng chúng sinh có ba: Một là nghi thức hồi hướng, phần này có hai có thể biết; hai là diệt ác; ba là sinh thiện. Ba, từ “Bồ-tát nhược tại gia thời…” trở xuống là phân rõ về phạm vi khởi tâm, văn này có hai: Một là giải thích; hai từ “Như thị Bồ-tát kim tập…” trở xuống là kết luận. Văn phần một là giải thích có hai: Tại gia thâu nhiếp chúng sinh hồi hướng. Từ “Bồ-tát tác thị niệm nãi chí tiểu đại…” trở xuống là Đại Bi sâu nặng. Văn phần một có bốn: Một, khởi tâm; hai, đối với duyên phân rõ về nhiếp hóa có hai có thể biết; ba, trình bày về thành tựu hạnh không gián đoạn tức là hiển bày về trí kiên cố; bốn, kết luận. Văn thứ hai là Đại Bi sâu nặng có hai: Một là lìa khổ đau, hai là được niềm vui có thể biết. Bốn, từ “Phục tác thị niệm như bỉ…” trở xuống là hồi hướng Thật tế, văn có ba: Một, nhắc lại hai hồi hướng trước đây; hai, từ “Nhi vô sở trước…” trở xuống là chính thức hồi hướng Thật tế; ba, từ “Ma-ha- tát…” trở xuống là kết luận như hồi hướng Phật. Chính thức hồi hướng Thật tế có hai: Hồi hướng dựa theo trí tiến vào quán. Từ “Thường lạc tập hành Phổ Môn…” trở xuống là dùng trí ra khỏi quán để hồi hướng. Năm, trong tổng quát kết luận, một là nhắc lại Thể của hạnh trước đây, hai là từ Hồi hướng thứ nhất trở xuống là gồm chung kết luận. Phần kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có bốn mươi tám kệ: Hai tụng đầu về Thể, tiếp theo ba mươi bốn tụng về các văn hồi hướng Phật-chúng sinh…, tiếp theo bốn tụng về Thật tế, tiếp theo tám tụng là kết luận ca ngợi. Chí nhất thiết xứ, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi đức, năm là kệ tụng. Văn đáp có bốn: Một, phân rõ về Thể; hai, từ “Như thị trang ng- hiêm…” trở xuống là hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh; ba, từ “Bồ-tát như thị thiện căn hồi hướng liễu vô sở…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát như thị thiện căn hồi hướng…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng. Một trong Thể phân hai: Một là trình bày về Thể của hạnh có bốn: Pháp. Dụ. Hợp. Phân rõ về thành tựu. Phần này có ba câu: Pháp-dụ và hợp, dụ như chư Thiên là Đệ nhất nghóa Thiên, tướng còn lại có thể biết. Hồi hướng này có hai ý: Một là bởi vì thuận với tất cả cho nên được ba hồi hướng, hai là bởi vì thuận với ba hồi hướng cho nên có thể đến tất cả mọi nơi. Hai là từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là mở rộng trình bày về Tướng của hạnh, văn này có hai: Một, trình bày về nơi chốn nương tựa và Phật; hai, từ “Bồ-tát ư chư Như Lai…” trở xuống là mở rộng trình bày về Tướng của hạnh. Trong phần này có hai: 1-Đối với cảnh khởi tâm tức là hai, trước là đối với cảnh trình bày về tâm, tiếp theo phân rõ về đức của tâm; 2- Từ “Phục tác thị niệm…” trở xuống là đối với cảnh thành tựu hạnh, thì lại là hai mà thôi. Hai, từ “Như thị trang nghiêm…” trở xuống là văn hồi hướng chúng sinh có hai: Một là tách ra hai môn Lý-Sự để lập Tông; hai từ “Linh nhất thiết…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về nguyên cớ có thể thành tựu Chí nhất thiết xứ, có pháp-dụ và hợp, ba văn có thể biết. Ba, văn về Thật tế có ba: Một, nhắc lại Thể của hạnh trước đây và hai hồi hướng; hai, từ “Liễu vô sở hữu…” trở xuống là chính thức hồi hướng; ba, từ “Như thị Bồ-tát lạc quán…” trở xuống là kết luận về hồi hướng đạt được lợi ích. Chính thức hồi hướng có hai: Dựa theo trí tiến vào quán. Từ “Như thị Bồ-tát viên mãn…” trở xuống là biện tài của trí ra khỏi quán. Tất cả các pháp là nơi chốn của mọi nhân duyên, bởi vì dựa vào hiểu rõ về nhân duyên cho nên chứng được tất cả các pháp. Bốn, trong phần tổng quát kết luận ca ngợi: Đầu là kết luận về Thể của hạnh, từ “Đắc Phật tự tại…” trở xuống là kết luận về Bồ-đề, tiếp theo từ “Giáo hóa chúng sinh…” trở xuống kết luận về chúng sinh, tiếp theo từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống kết luận về Thật tế. Văn kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Văn có hai mươi hai kệ: Tám tụng đầu về Thể của hạnh, tiếp theo sáu tụng về Bồ-đề và chúng sinh, tiếp theo sáu tụng về Thật tế, tiếp theo hai tụng là văn kết luận ca ngợi. Vô tận công đức tạng, ở đây có ba nghóa: Phát sinh vô tận, Thành tựu, Tự Thể, dùng ba nghóa này để dựa theo. Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là phân rõ về đức, năm là kệ tụng. Văn đáp có bốn: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát chư thiện căn giai tất…” trở xuống là hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh; ba, từ “Bồ-tát dó như thị đẳng…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát như thị thiện căn…” trở xuống là kết luận ca ngợi về Dụng thù thắng. Văn phần một về Thể của hạnh, văn có hai: Một là phân rõ về Thể của hạnh, có bốn: Sám hối, Khuyến thỉnh, Tùy hỷ, Hồi hướng. Tùy hỷ có bốn: Thành Phật, Thuyết pháp, Niết-bàn, Văn về Lưu thông… có hai: Một là hối lỗi, hai là khuyến thỉnh- tùy hỷ và hồi hướng. Ba nghóa này bởi vì là phần nghóa về đức hữu vi đan xen lẫn nhau, cho nên kết hợp cùng nói ở một nơi. Văn này có hai: Một là tổng quát nêu ra, hai là riêng biệt phân rõ. Trong phần riêng biệt dựa vào bốn nghóa Tùy hỷ tức là có bốn đoạn mà thôi. Phần này có hai ý: Một là bởi vì hạnh thuận với ba hồi hướng cho nên có thể thành tựu Vô tận tạng, hai là bởi vì thành tựu Vô tận tạng cho nên thuộc về ba hồi hướng, điều này có thể dựa theo. Hai, từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống là phân rõ về Tướng của hạnh có hai: Trang nghiêm quốc độ, Trang nghiêm người thành tựu. Trang nghiêm quốc độ có bốn: Một, thành tựu thế giới độ; hai, từ “Bồ-tát tu thắng thiện căn…” trở xuống là trang nghiêm Phật quốc độ; ba, từ “Bỉ chư thế giới trung…” trở xuống là trang nghiêm ba đời; bốn, từ “Như nhất thế giới…” trở xuống là kết luận thành tựu cứu cánh. Hai từ “Bồ-tát phục như thị…” trở xuống là trang nghiêm về người có hai: Đầu là phân rõ, sau là kết luận. Trong phân rõ có bốn: Người. Từ “Thử chư Bồ-tát…” trở xuống là tóm lược đầy đủ hiển bày về đức. Từ “Thành tựu…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về đức, có hai có thể biết. Từ “Thành tựu đẳng…” trở xuống là kết luận có ba có thể biết. Hai từ “Như nhất Phật sát…” trở xuống là dùng kết luận tóm lược để hiển bày mở rộng có thể biết. Hai, hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh, văn có hai: Một là dùng phương tiện pháp giới để hồi hướng hai nơi; hai từ “Như thị Bồ-tát thiện…” trở xuống là phân rõ về phạm vi của phương tiện. Ba, văn về Thật tế có hai: Một, nhắc lại tổng quát về nơi hồi hướng để hướng đến phạm vi của Tát-bà-nhã; hai, từ “Bồ-tát hành như thị…” trở xuống là riêng biệt hồi hướng Thật tế. Văn này có hai: Một là dùng trí tiến vào quán để hồi hướng, phần này có hai có thể biết; hai từ “Bồ-tát như thị khởi…” trở xuống là dùng trí ra khỏi quán để hồi hướng. Sinh tử không phải là tạp loạn, Niết-bàn không phải là tịch tónh, điều này có hai cách giải thích: Dựa vào phá tướng, Thể của sinh tử là Không cho nên không phải là tạp loạn, Thể của Niết-bàn là Như cho nên không phải là tịch tónh. Hiểu rõ Dụng vắng lặng, Thể của sinh tử vắng lặng cho nên không phải là tạp loạn. Thế nào là Thể? Nói gần chính là Không, sâu thì chính là Như Lai Tạng Bất Không. Đại Niết-bàn có thể kiến lập về nghóa của Đại, Diệu Dụng phát khởi đầy đủ không có gì không làm, cho nên không phải là tịch tónh. Nay dựa vào cách giải thích sau, hai loại này là cảnh giới Phật và đạo sở hành của Phật gọi là đạo của cảnh giới, bởi vì không khác biệt sinh tử cho nên không phải là nơi khác làm ra, Thể của sinh tử và Niết-bàn không có tướng nhất định, cho nên nói là không có pháp. Các bậc Thánh cùng dựa vào gọi là cùng nương tựa, nghóa về Như giống với cách giải thích trước. Bốn, văn về kết luận ca ngợi có hai: Một, nhắc lại văn kết luận trước đây; hai, từ “Bồ-tát sơ phát…” trở xuống là tổng quát kết luận. Văn phần một có bốn: Nhắc lại Thể của hạnh trước đây kết luận thành tựu hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh. Từ “Dó như thị đẳng…” trở xuống là nhắc lại hồi hướng chúng sinh trước đây kết luận thành tựu hồi hướng Thật tế. Từ “Bồ-tát như thị hồi hướng nhãn chung…” trở xuống là kết luận đã đạt được lợi ích. Từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là hành đức thù thắng vi diệu. Thứ tư là ca ngợi về đức dụng, văn có ba: Một là nêu ra số, hai là giải thích, ba là kết luận có thể biết. Trong phần kệ có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, kệ tụng. Có năm mươi kệ, mười tám tụng đầu về Thể của hạnh, tiếp theo sáu tụng về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề, tiếp theo mười bốn tụng về Thật tế, tiếp theo mười hai tụng là văn kết luận ca ngợi. Tùy thuận nhất thiết kiên cố thiện căn hồi hướng, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi về đức dụng, năm là kệ tụng. Phần hai là đáp có bốn: Một, trong Thí môn phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát thiện căn hồi hướng linh nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba, từ “Bồ-tát Ma-ha-tát dó thử thiện căn hồi hướng thời…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát dó nhất thiết thiện căn như thị hồi hướng…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng. Văn phần một về Thể hạnh có hai: Một là nêu ra rời bỏ ngôi vị Luân Vương, ca ngợi thành tựu Thể của hành đức, có hai có thể biết; hai từ “Nhược thí ẩm thực…” trở xuống phân rõ về Tướng của hạnh. Văn này có bốn: Tóm lược nêu ra tên gọi các vật đã thí. Từ “Tác như thị niệm…” trở xuống phân rõ về ý tu hạnh. Từ “Nhược thí ẩm thời…” trở xuống là mở rộng phân rõ về nghi thức bố thí. Trong đó hoặc là bốn-năm-sáu không nhất định, bốn thì một là người, hai là sự việc vốn có, ba là hồi hướng, bốn là kết luận về phần trước; năm thì thứ ba thêm ruộng phước; sáu thì thứ ba thêm ca ngợi về đức của sự việc, lại có thành tựu tâm thí. Từ “Thử Bồ-tát dó như thị đẳng vô lượng…” trở xuống là kết luận về lợi ích. Thứ một là nêu ra tên vật đã thí, văn có ba: Một, nêu ra tài sản đã thí trong sáu mươi chương môn; hai, từ “Tâm bất tham trước…” trở xuống là phân rõ về tâm thí không nhiễm trước; ba, từ “Nhược chư chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về ruộng phước đã thí. Thứ hai về ý tu hạnh, văn có hai: Một, phân rõ về ý hồi hướng của thí; hai, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng dó…” trở xuống là trình bày về hồi hướng đã thành tựu. Thứ ba là mở rộng, văn tuy có một trăm hai mươi việc nhưng tất cả đều thâu nhiếp ở trong sáu mươi môn. Phần này có hai ý: Một là bởi vì thuận với ba hồi hướng cho nên nhất định thuận với kiên cố, hai là bởi vì thuận với kiên cố cho nên đạt được ba hồi hướng, điều này có thể dựa theo. Vả lại, nay vật đã xả thí này đều gồm chung ba nghóa, một là Phần đoạn y chánh, hai là Biến hóa y chánh, ba là Biến dịch y chánh, có thể dựa theo suy nghó chọn lấy. Địa tiền có đủ năm Sinh thân, cho nên nương theo bốn Luân vận dụng vượt qua tám nạn. Một là ở Chánh quốc, từ đây vượt qua ba đường ác, châu Bắc Câu-lô và cõi trời Trường Thọ; hai là Chánh só vượt qua thời gian trước và sau Phật xuất thế, ba là Bổn công đức vượt qua các căn không đầy đủ, bốn là Bình đẳng nguyện vượt qua Thế trí biện thông. Vả lại, Chánh quốc luân là cõi Pháp tánh Chân như, dựa vào Chánh só luân là Chánh quán Bát-nhã, Bổn công đức luân là năm Ba-la-mật như Thí…, Bình đẳng nguyện luân là mười loại Đại nguyện vô tận của Bồ-tát, hạnh thanh tịnh của Bồ-tát đầy đủ nhờ vào đây. Thứ tư trong phần kết luận ca ngợi có hai: Một là ca ngợi về lợi ích; hai từ “Bồ-tát nhó thời…” trở xuống là vui mừng được thành tựu lợi ích. Hai văn này đều có hai: 1-Giải thích, 2-Kết luận thành tựu cứu cánh. Hai là văn về Thật tế, có hai: Một là nhắc lại Thể của hạnh trước đây; hai từ “Ư thân khẩu ý nghiệp vô phược trước…” trở xuống là chính thức hồi hướng Thật tế. Ở trong phần chính thức hồi hướng này có năm: Dựa theo trí tiến vào quán để phân rõ về thành tựu hạnh. Từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời bất trước nội…” trở xuống là trình bày về sự lìa xa. Từ “Bồ-tát nhược ư thử pháp trung…” trở xuống là phân rõ về lợi ích. Từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu. Từ “Bồ-tát như thị kiến pháp…” trở xuống là kết luận nói về đúng sai. Văn này có chín câu sinh khởi lẫn nhau có thể biết. Văn trước nói Thiền đầu, là chúng sinh có hình-có Thể gọi là Thiền đầu, nay không có tưởng ấy. Trong phần bốn là kết luận ca ngợi có bốn: Một, Bồ-tát… là tổng quát giải thích về Thể dụng; hai, từ “Hồi hướng giả hà nghóa…” trở xuống là kết luận về tên gọi và ý nghóa của hồi hướng; ba, từ “Bồ-tát nhược năng dó thử…” trở xuống là ca ngợi về đức của hạnh hồi hướng; bốn, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng dó…” trở xuống là kết luận về lợi ích. Phần kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có tám mươi hai kệ, bốn mươi tám tụng đầu về Thể của hạnh và hai loại hồi hướng, tiếp theo từ “Bồ-tát quán…” trở xuống có ba mươi hai tụng là văn về Thật tế, sau cuối hai tụng là văn kết luận ca ngợi. Hiểu rõ ràng Bồ-đề từ duyên khởi đối với tánh chân thật của pháp không có gì hư hoại, là Dụng không trái ngược với Thể. Đẳng tâm tùy thuận nhất thiết chúng sanh, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi về đức dụng, năm là kệ tụng. Phần hai là đáp có bốn: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát ly cấu thanh tịnh…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ- đề; ba, từ “Bồ-tát tu hành như thị thiện căn…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát hành như thị…” trở xuống là kết luận ca ngợi về dụng thù thắng. Văn phần một về Thể có ba: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát hành như thị…” trở xuống là phân rõ về Dụng của hạnh có hai, một là lìa ác, hai là sinh đức; ba, từ “Bất cầu sinh Thiên…” trở xuống là phân rõ về ý tu. Phần này có hai ý: Một là tùy theo căn thiện của chúng sinh khác đã làm, bởi vì không trái ngược với thiện mà khiến cho tiến lên; hai là từ căn thiện của Bồ-tát tùy theo ba phẩm căn tánh của chúng sinh mà trao cho, điều này có thể dựa theo để suy nghó. Văn phần hai về chúng sinh và Bồ-đề có hai: Một là phân rõ về tu hạnh; hai từ “Bồ-tát dó thử thiện căn…” trở xuống là chính thức trình bày về hồi hướng. Văn phần một là tu hạnh có hai: Một, phần mình; hai, từ “Tu tập bình đẳng…” trở xuống là tăng thượng về tu. Văn phần một là phần mình có năm: Phân rõ về duyên của sở y, đó là căn thiện; Từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống trình bày về dựa vào duyên mà khởi tâm, trong đó phân làm ba có thể biết; Từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là hiển bày về tâm có đủ đức; Phân rõ về thời gian; Từ “Phục thứ Bồ-tát…” trở xuống là mở rộng phân rõ về vật đã thí. Trong phần hai là tăng thượng về Thí có hai: Phân rõ về tâm Thí; Từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là trình bày về tâm có đủ đức. Trong phần hai chính thức hồi hướng có hai: Một, chính thức hồi hướng; hai, từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là kết luận về đức tự tại. Phần này có hai: Phần mình. Từ “Dó như thị đẳng…” trở xuống là thắng tiến có thể biết. Văn về Thật tế có hai: Một, nhắc lại lợi ích trước đây; hai, từ “Bồ- tát như thị đẳng…” trở xuống là chính thức trình bày về Thật tế. Văn phần một có năm: Lìa cấu nhiễm. Trình bày về pháp đạt được. Trình bày về không gì sánh bằng. Hướng về quả so sánh, phần này có hai, một là tổng quát, hai là riêng biệt. Kết luận thành tựu đầy đủ đức. Phần hai là chính thức hồi hướng pháp giới, văn tướng rõ ràng có thể biết. Văn phần bốn là kết luận ca ngợi có thể biết. Phần kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có bốn mươi hai kệ, hai tụng đầu về Thể, tiếp theo mười bảy tụng về chúng sinh và Bồ- đề, tiếp theo bảy tụng về Thật tế, tiếp theo mười sáu tụng là văn kết luận ca ngợi. Như tướng, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là phân rõ về lợi ích, năm là kệ tụng. Phần hai là đáp có bốn: Một, Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát dó thử…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba, từ “Bồ-tát thiện căn như thị…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là kết luận ca ngợi về Dụng thù thắng. Văn phần một về Thể có ba: Một là quy tụ Thể của căn thiện; hai từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là thâu nhiếp giúp đỡ thành tựu Chánh hạnh, cũng có thể thâu nhiếp nhân giúp cho quả, trong này có hai, một là thâu nhiếp, hai là phân rõ tướng của quán; ba, từ “Bồ-tát dó như thị đẳng…” trở xuống là thành tựu Đại dụng tự tại của ba nghiệp. Trong phần Đại dụng này có hai: Một là trình bày về nơi hướng đến của tâm tức là tóm lược, ba nghiệp tức là ba, một câu đầu là thân, tiếp theo một câu là khẩu, tiếp theo về sau đều là ý mà thôi; hai từ “Nhất Phật thế giới…” trở xuống là kết luận tóm lược hiển bày mở rộng. Phần này có hai ý: Một, căn thiện này là như tướng của ngôi nhà cho nên hồi hướng ba nơi; hai, bởi vì Thể như nhau không ngăn ngại cho nên hồi hướng ba nơi. Văn phần hai là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề có năm: Một, tổng quát trình bày về hồi hướng; hai, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng tu…” trở xuống phân rõ về hạnh rộng lớn cứu cánh; ba, từ “Phục thứ Bồ-tát…” trở xuống đối với sự phân rõ về nghi thức thành tựu hạnh, phần này có hai có thể biết; bốn, từ “Bồ-tát thiện căn như thị…” trở xuống phân rõ về ý tu; năm, từ “Như thị Bồ-tát trưởng dưỡng…” trở xuống là hồi hướng công sức đã thành tựu. Văn phần ba là Thật tế. Hồi Hướng trong phần này cùng với trên dưới có gì khác nhau? Các Hồi Hướng thâu nhiếp Tướng thuận theo Thể, trong này thì thâu nhiếp Tướng thuận theo Tướng, điều này có thể suy nghó chính xác. Có ba: Một, trình bày về Thể dụng hồi hướng; hai, từ “Thiện giải hồi hướng…” trở xuống là nguyên cớ thành tựu thù thắng; ba, từ “Như như…” trở xuống là dựa theo pháp mở rộng phân rõ. Phần một về Thể dụng có ba: Phân rõ về Thể. Từ “Thuận Như Lai đạo…” trở xuống là trình bày về Dụng. Từ “Quán sát tịch diệt…” trở xuống là kết luận về hai phần trước. Trong phần thứ hai là nguyên cớ về Dụng thù thắng: Đầu là nêu ra ý, tiếp từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là giải thích, ba từ “Như pháp môn…” trở xuống là dựa theo pháp phân rõ về thành tựu. Trong phần thứ ba là mở rộng phân rõ có một trăm câu, một câu đầu làm quy phạm, những câu sau là dựa vào hồi hướng mà thôi. Vả lại, trong văn mở rộng phân rõ có ba loại Ngôn thuyết: Thứ nhất chọn lấy không chấp trước, thứ hai chọn lấy pháp thi thiết, thứ ba chính thức chọn lấy sự việc giảng giải về giáo pháp. Trong văn có ba loại Thời, một là chỉ có pháp, hai là chọn thời để luận về pháp, ba là thời và pháp cùng luận. Như vậy dựa vào văn lần lượt mà lược bỏ, thì biết về nguyên cớ. Quá khứ không phải là giống nhau, bởi vì không phải là cùng một pháp diệt. Vị lai không phải là vốn có, bởi vì không phải là sau hiện tại. Hiện tại không phải là khác nhau, bởi vì không phải là hai đời trước- sau và pháp cùng loại của mình khác nhau. Điều này cũng trái với cách nhìn của người ngoài, suy nghó có thể biết. Trong phần bốn là kết luận ca ngợi: Ba câu đầu kết luận ca ngợi về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề, tiếp từ “Đẳng quán chư Phật vô hữu nhị…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng Thật tế. Thứ tư là văn về thành tựu lợi ích phân hai: Một là phân rõ về đức, hai là kết luận có thể biết. Thứ năm là trùng tụng có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có hai mươi chín kệ, hai tụng đầu về Thể hạnh, tiếp theo bốn tụng về chúng sinh và Bồ-đề, tiếp theo chín tụng về Thật tế, tiếp theo mười bốn tụng kết luận ca ngợi về đức dụng. Vô phược vô trước giải thoát tâm, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là phân rõ về đức, năm là kệ tụng. Phần hai là đáp có bốn: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Ma-ha-tát dó vô phược trước…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba, từ “Ma-ha-tát dó như thử vô phược…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Ma-ha-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là kết luận ca ngợi về dụng thù thắng. Văn phần một về Thể có hai: Một là tổng quát phân rõ không kh- inh thường những pháp thiện, hai từ “Bồ-tát thường lạc nhiếp thọ…” trở xuống là bởi vì không khinh thường rời bỏ, cho nên đối với hành thâu nhiếp đạt được tự tại. Phần này có hai ý: Một là bởi vì căn thiện không ràng buộc vướng mắc cho nên hồi hướng ba nơi, hai là bởi vì căn thiện thuận với ba nơi cho nên không có gì vướng mắc. Hai, trong phần hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề có hai: Một, phân rõ về ba nghiệp Phổ Hiền; hai, từ “Tùng thử sinh tận vị lai tế sinh…” trở xuống là mở rộng dựa theo sự việc riêng biệt để hiển bày về đạt được tự tại. Văn phần một có bốn: Tổng quát. Thân. Khẩu. Ý có thể biết. Trong phần hai mở rộng hiển bày có ba mươi hai: Đạt được phần vị nhân quả. Đạt được phương tiện. Đạt được thân nghiệp. Đạt được khẩu nghiệp. Đạt được ý nghiệp. Thành tựu căn. Đạt được thần lực. Tự tại đối với cõi Phật. Có được nhà. Đạt được trí Nhân-đà-la. Đạt được thời gian tự tại. Thân dung nạp. Tự tại tiến vào quả vị. Tự tại tiến vào thế giới. Biết về tưởng. Biết về tâm. Trong những loại này đều có hai văn, một là nhận biết, hai là ca ngợi về đức nhận biết. Biết xứ. Biết nghiệp. Biết pháp. Biết thanh. Thuyết giảng tự tại. Biết căn tánh tự tại. Trí phương tiện nhận biết vi tế. Văn này đều có hai, như trước có thể biết. Hành phương tiện nhận biết vi tế. Biết sự vi tế của Bồ-tát tiến vào phần vị Giải. Biết sự vi tế của Sơ Địa. Biết sự vi tế của tánh chúng sinh. Biết sự vi tế của thế giới. Biết sự vi tế của trí pháp giới. Biết sự vi tế của trí về kiếp. Biết sự vi tế của trí về pháp. Biết sự vi tế của pháp xen tạp sinh ra. Trong sự nhận biết vi tế trên, vì sao nhận biết về trí mà không nhận biết về pháp, là bởi vì trí có thể hiển bày về pháp thành tựu. Ba, văn về Thật tế có hai: Một là tiến vào quán, hai là dựa theo ra khỏi quán có thể biết mà thôi. Bốn, văn về kết luận ca ngợi công dụng thù thắng. Đầy đủ… là đầy đủ hành của nhân quả. Dựa theo phần vị là như vậy, nếu dựa theo hành thì gồm chung tất cả mà thôi. Văn kệ có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là chính thức tụng kệ. Có một trăm lẻ hai kệ, sáu tụng đầu về Thể hạnh, tiếp theo bảy mươi tụng về chúng sinh và Bồ-đề, tiếp theo từ “Như thị nhất thiết chư Pháp Vương…” trở xuống là mười tám tụng về Thật tế, tiếp theo tám tụng là văn kết luận ca ngợi. Pháp giới vô lượng, văn này có sáu: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi về dụng thù thắng, năm là chứng thành, sáu là kệ tụng. Cũng có thể hai đoạn này bắt đầu xét định thuận theo Hội. Phần hai là đáp có bốn: Một, đã thành tựu Thể hạnh; hai, từ “Phục thứ Bồ-tát dó pháp thí…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba, từ “Phục thứ Bồ-tát an trú pháp giới…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là kết luận ca ngợi về lợi ích thù thắng. Hỏi: Hồi hướng thứ 10 này cùng với hồi hướng thứ 8-9 trước đây có gì khác nhau? Đáp: Hồi hướng thứ tám là hướng về Lý, hồi hướng thứ chín là dựa theo tu mà thành tựu, hồi hướng thứ mười gồm chung cả hai loại và sự việc đã làm. Phần một về Thể có ba: Một, tổng quát về loại trừ chướng hiển bày đức, văn này có hai: Thọ ký phân rõ về phần vị. Trình bày về lợi ích của Dụng; hai, từ “Bồ-tát hành pháp thí…” trở xuống là tu hành đã hướng đến; ba, từ “Bồ-tát ư bỉ thiện căn…” trở xuống phân rõ về hạnh rộng lớn, phước trí trang nghiêm đã thành tựu tự tại. Phần này có hai ý: Một là dùng Thể của hạnh hồi hướng dựa vào pháp giới đến với ba nơi, hai là Thể của hạnh vốn có chính là pháp giới cho nên có thể hồi hướng đến ba nơi. Văn về hạnh rộng lớn này có bốn: Một là tổng quát trình bày hạnh trang nghiêm trí; hai từ “Chư Phật Bồ- tát sở tán…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về hạnh trang nghiêm; ba từ “Hà dó cố…” trở xuống phân rõ về nguyên cớ thành tựu hạnh của mình; bốn từ “Phục hà dó cố…” trở xuống giải thích về nguyên cớ tự mình thành tựu có thể làm lợi ích cho chúng sinh. Phần hai về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề, trong văn có hai: Một, trình bày về không ngừng cung kính, bởi vì ba nghiệp luôn luôn thực hành; hai, từ “Bồ-tát dó thử pháp thí…” trở xuống là ba nghiệp khởi dụng không uổng công. Văn phần một có ba: Một là ý nghiệp thuận theo trí tuệ thực hành; hai từ “Linh nhất thiết chúng sinh giai tất cụ túc…” trở xuống là khẩu nghiệp không trống rỗng; ba từ “Linh nhất thiết chúng sinh đắc tịnh Pháp thân…” trở xuống là thân nghiệp không trống rỗng. Trong phần một là ý nghiệp có mười môn, như biết pháp… có thể biết. Một, khiến cho mình và người đạt được pháp môn vô tận của Phật, văn này có năm: Một, lập Tông; hai, từ “Dó thử…” trở xuống là tổng quát phân rõ về đức dụng ấy; ba, từ “Tất đắc…” trở xuống là đạt được pháp Phật; bốn, từ “Ư nhất nhất…” trở xuống là thuật về công năng của mình. Trong đó có hai: Một là tổng quát đưa ra mười môn, ở trong văn này thì mười Hải ấy là: Tên gọi sinh pháp là tướng lập nghóa, Tướng dẫn chứng, Phép tắc của ngôn ngữ phương hướng, Thi thiết tên gọi đối với nghóa, Văn giáo thành quy phạm, Phép tắc tuyên thuyết, Sở y môn, Trí năng nhập, Cảnh và trí giúp đỡ thành tướng, Nghóa tồn tại không thay đổi. Năm, từ “Bồ-tát thiện căn như thị…” trở xuống là trình bày về thành tựu. Hai là văn mở rộng phân rõ có thể biết mà thôi. Hai, từ “Phục thứ Bồ-tát…” trở xuống trình bày về thành tựu đức do tự mình hồi hướng. Ba, từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là khiến cho cùng đạt được giống như mình. Bốn, từ “Phục thứ Bồ-tát dó thử đẳng…” trở xuống là duyên thành tựu tánh đức. Năm, từ “Phục thứ Bồ-tát dó thử thiện căn…” trở xuống là hạnh thành tựu được Phật tùy hỷ. Sáu, từ “Bồ-tát dó thử thiện căn như thị…” trở xuống là phân rõ về nơi nương tựa của hồi hướng, văn này có hai, đó là Phật và pháp giới có thể biết. Bảy, từ “Phục thứ Bồ-tát…” trở xuống là phân rõ về ý hướng đến. Tám, từ “Bồ-tát Ma-ha-tát…” trở xuống là đạt được Dụng tự tại. Chín, từ “Bồ-tát dó thử thiện căn như thị hồi hướng…” trở xuống là dùng hạnh thành tựu phần vị có hai, một là trình bày về pháp lìa xa, hai là phân rõ về pháp đạt được có thể biết. Mười, từ “Bồ-tát như thị bình đẳng tâm…” trở xuống là phần vị nương tựa thành tựu Dụng của hạnh thù thắng, văn này có bốn: Phân rõ về Thể của hạnh hồi hướng. Từ “Linh nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là trình bày về ý hồi hướng, phần này có hai, một là phần mình, hai là thắng tiến có thể biết. Từ “Bồ-tát thiện căn như thị…” trở xuống là trình bày về pháp lìa xa, văn này có ba, một là thiết lập, hai là vặn hỏi, ba là đáp có thể biết. Từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là trình bày về lợi ích khởi hạnh. Phần thứ hai là khẩu nghiệp có thể biết. Phần thứ ba là văn về thân nghiệp phân ba: Một là phân rõ về Thể của thân; hai là trình bày về Đức của thân; ba là phân rõ về Dụng của thân, phần này có ba: Tổng quát. Riêng biệt. Kết luận. Phần hai là ba nghiệp khởi dụng không uổng công, văn có hai: Một, từ “Phục thứ Bồ-tát tu thiện…” trở xuống là phân rõ đầy đủ về ba nghiệp; hai, từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là thành tựu hạnh không uổng công. Một là trình bày đầy đủ về ba nghiệp, văn có hai: Một, phân rõ về vật báu trang nghiêm; hai, từ “Quảng thuyết hương hoa đẳng…” trở xuống tương tự phân rõ về mười môn trang nghiêm. Văn phần một có bốn: Một là phân rõ về cảnh đã cúng dường, đó là Phật…; hai từ “Bỉ nhất nhất sát…” trở xuống là đồ vật cúng dường; ba từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là lấy tóm lược để nêu rõ mở rộng; bốn từ “Thị vi Bồ-tát đẳng…” trở xuống là kết luận. Một là trong cảnh cúng dường, đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong phần riêng biệt, y chánh phân hai. Hai là đồ vật cúng dường có bốn: Một, trình bày về cúng dường vật báu riêng biệt có một trăm câu; hai, từ “Bảo thân trang nghiêm…” trở xuống có tám câu trình bày về hạnh của ba nghiệp; ba, từ “Bảo nhãn…” trở xuống là diệu dụng của sáu căn; bốn, từ “Bảo thân nghiệp…” trở xuống cuối cùng dùng ba câu thành tựu về trí dụng của ba nghiệp. Trong phần hai là thành tựu hạnh không uổng công của ba nghiệp có hai: Một, khiến cho chúng sinh thành tựu hạnh của phần mình; hai, từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là khiến cho thành tựu hạnh thuộc phần thù thắng. Hai phần trên đây đều có hai đoạn nên biết. Ba từ “Phục thứ Bồ-tát an trú pháp giới…” trở xuống là hồi hướng Thật tế có thể biết. Bốn là văn về lợi ích của Dụng có hai: Một, nhắc lại các hạnh trước; hai, từ “An trú pháp giới đẳng vô lượng tịnh thân…” trở xuống là dựa vào hạnh thành tựu ba nghiệp thù thắng. Đoạn lớn thứ ba từ “Thị vi…” trở xuống là văn kết luận có thể biết. Bốn là ca ngợi về đức có hai: Một, trình bày đã thành tựu các đức rộng lớn của Phổ Hiền; hai, từ “Ư niệm niệm trung…” trở xuống là trình bày về tất cả việc làm, riêng biệt ca ngợi phần mình thành tựu tác dụng thù thắng của tự-tha. Trên đây dựa vào kinh, là pháp Nhất thừa thông suốt mà không phải là giới hạn. Tiếp theo trình bày về pháp của ba Thừa dựa vào phần vị như kinh: Một Đế-hai Đế thẳng thắn trong tâm của Hướng thứ nhất, đó gọi là học tập Đệ nhất nghóa đế, bởi vì quán sát tướng Như của tất cả các pháp không thể đạt được, dùng Từ-Bi-Hỷ-Xả giảng dạy cho người và sáu cõi trời, cạo tóc khoác ca-sa Tam Bảo, Bồ-tát xuất gia cùng với tất cả Tăng, Phật pháp không hai, vốn là thanh tịnh bậc nhất. Đệ nhất nghóa trí trong Hướng thứ hai, năm thần thông là dụng sai biệt của tánh Tuệ, tức là dùng sáu Thông làm cảnh của Quán. Trong Hướng thứ ba, ở trong Tuệ vô sinh là bốn thanh tịnh bất hoại, ở trong giới của Phật-Pháp-Tăng là Tín không thể hủy hoại. Phần lượng giống như Phật lực trong Hướng thứ tư, đó gọi là ba tướng, là các pháp vốn không, cho nên mượn gọi là Sinh; đã có rồi trở lại không, mượn gọi là Diệt; không phải trống rỗng mà có pháp, mượn gọi là Trú. Vì vậy tất cả thông suốt Không mà không hai, gọi là tướng Thế đế, Không Không là tướng một Đế. Khéo léo lường tính năng lực của chúng sinh trong Hướng thứ năm, đó gọi là năm Ấm, Sắc là khác Không, Sắc tụ tập trở thành phần Sắc của Đại, cho nên tướng của Sắc là Không; từng sát-na nối tiếp nhau trở thành Tâm, cho nên tướng của Tâm là Không; Thọ-Tưởng-Hành không có tụ tập-không có phân tán, vốn là một tướng Vô tướng. Lực giáo hóa của Phật trong Hướng thứ sáu, đó gọi là mười hai Nhập, sáu cảnh bên ngoài-sáu căn bên trong làm nơi tiến vào của Thức, cho nên gọi là Nhập. Tuệ ấy quán sát, không ở bên ngoài, không ở bên trong, không ở khoảng giữa, bởi vì tất cả các pháp không có tự tha. Trí hướng đến vô ngại trong Hướng thứ bảy, là mười tám pháp bất cọng, sáu cảnh-sáu căn-sáu thức là một hợp tướng, tất cả các pháp cũng như vậy. Trí tùy thuận tự nhiên trong Hướng thứ tám, đó gọi là nhân quả, thiện-ác gọi là nhân, khổ-vui gọi là quả. Đã dựa vào là nhân, đã phát khởi là quả, nhân Không-quả Không, không có sinh-không có diệt, đều là một hợp tướng. Thọ Phật-Pháp-Tăng trong Hướng thứ chín, gọi là hai đế Không; nhân duyên tụ tập, gọi đó là có, không phải nói có là có; nhân duyên phân tán, gọi đó là không có, không phải nói không có là không có, do đó có và không cả hai tướng đều không có. Trong Hướng thứ mười dùng Tuệ tự tại giáo hóa tất cả chúng sinh, đó gọi là Trung đạo Đệ nhất nghóa đế, Bát-nhã ở giữa(xử trung) mà thông hiểu tất cả các pháp nhưng không có hai tướng, chuyển sang tăng lên tiến vào Thánh địa, gọi là quán Tương tự Đệ nhất nghóa đế, không phải là quán Chân thật, Sơ Địa trở lên là quán Chân thật. Đây là ba Thừa dựa vào phần vị mà nói. Sở dó biết như vậy là vì trong kinh trình bày từ ba mươi tâm trở về trước đều là pháp của phàm phu chứ không phải là Thánh vị. Sơ Địa trở lên trong kinh vốn không gồm chung ba Thừa, bởi vì thiết lập về giáo nghóa ấy văn tướng phần nhiều giống nhau, cho nên không cần phải phân tích. Từ “Nhó thời Phật thần lực cố động địa…” trở xuống là phần thứ năm trình bày về chứng minh thật sự hiển bày thành tựu, văn này có hai: Một, mặt đất chấn động, mưa hoa… là chứng minh thành tựu; hai, nói là Bồ-tát mười phương đều tụ hội, là phần thứ hai trình bày về các Thánh chứng minh thành tựu khuyến khích tin tưởng lưu thông. Ở trong hai văn đều có hai, đó là phân rõ về tướng và kết luận nối thông với phương khác. Trong phần kệ thì đầu là ý, sau là tụng. Văn tụng có chín mươi bốn tụng, mười bốn tụng đầu về Thể của hạnh, nói rằng Diệu trí Vô tướng quán sát về tướng chân thật của pháp là Dụng cuối cùng dựa vào Thể, tận cùng hành của thế gian cho nên kỳ diệu nhất; tiếp theo từ “Bồ- tát pháp thí…” trở xuống là sáu mươi tám tụng về chúng sinh và Bồ-đề; tiếp theo từ “Thí như như…” trở xuống là hai tụng về Thật tế; tiếp theo từ “Như thị thù diệu…” trở xuống là mười tụng kết luận ca ngợi. Ngay trong phần chúng sinh và Bồ-đề, tám tụng đầu về thực hành ba nghiệp thuận theo trí, tiếp theo từ “Thập phương nhất thiết…” trở xuống là hai mươi tụng về thân nghiệp không trống rỗng, tiếp theo từ “Cung kính…” trở xuống là hai mươi hai tụng về khẩu nghiệp, tiếp theo từ “Chúng sinh số đẳng…” trở xuống là mười tám tụng về ý nghiệp… Hội này trả lời câu hỏi về Hồi Hướng trước đây mà thôi. <篇> ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 3 (Phần 1) <詞>Phẩm 22: THẬP ĐỊA (Hội thứ sáu ở cõi trời Tha Hóa) Bắt đầu Hội này có bốn môn phân biệt giống như trước: Một, phân rõ tên gọi: Tha Hóa Tự Tại Thiên Hội là từ nơi chốn mà được tên gọi. Thập Địa Phẩm là dùng nghóa về số để làm sáng tỏ tên gọi. Hai, ý đưa ra có hai: Một, ý đưa ra Hội, bởi vì trước là A-hàm, sau là Nhập chứng cho nên đưa ra; hai, ý đưa ra Phẩm, bởi vì thực hành phương tiện hồi hướng trước đây hướng đến Bồ-đề, nay hành tướng thêm sáng tỏ chuyển sang tiến vào Thập Địa, vốn là nghóa theo thứ tự cho nên đưa ra. Ba, Tông có hai: Một là Hội, hai là Phẩm. Hội thì có bốn: Trình bày về pháp thụ động đối trị (sở trị), đó chính là chủng tử của tâm trong ba chướng thuộc sử phiền não-nghiệp báo và tánh. Pháp chủ động đối trị (năng trị), đó chính là trí vô phân biệt và trí tánh khởi của Phổ Hiền. Đức đã thành tựu thì có hai, đó là người và pháp; người có hai loại, gọi là Chánh hóa và Trợ hóa, đều có Thể-Tướng-Dụng, cùng gồm chung tánh khởi…; pháp thì gọi là Lý-Giáo-Hạnh-Quả, cùng gồm chung tánh khởi và tu sinh…, dựa theo để suy nghó thâu nhiếp có thể biết. Trình bày về phần vị đã thành tựu, đó là phần vị Thập Địa và pháp môn vô lậu thuộc tánh khởi của Phổ Hiền… Nếu luận về bốn nghóa thuộc Tông của Phẩm, thì dựa theo trên chỉ chọn lấy tu sinh là khác biệt mà thôi. Vả lại, Phẩm này lấy không nói để làm nghóa của nói tức là chứng phần vị đức của Phổ Hiền, bởi vì nói là Tông của ba Thừa. Bốn, giải thích văn. Hỏi: Hội này và các Hội hai-ba-bốn-năm trước đây khác nhau thế nào? Đáp: Tạm thời có bốn khác nhau, một là khác về lậu-vô lậu, hai là khác về bổn-mạt, ba là khác về cọng-bất cọng, Thập Địa thì người-trời-Thanh văn… cùng chọn lấy, vì thế trong Địa Luận nói : “Cũng có thể phát sinh công hạnh thành tựu ở trời- người, còn lại thì không như vậy.” Có thể dựa theo đó, bốn là khác về phần vị, tất cả là như vậy. Hỏi: Vì sao chỉ riêng Hội này không hiển bày về xứ khác và Thể- Dụng hòa hợp, phóng ánh sáng, chúng qua lại quy tụ, vật dụng trang nghiêm ở đó? Đáp: Bởi vì muốn hiển bày Hội này là chứng được pháp không hai, Thể-Dụng xa gần đều không có gì khác biệt, cho nên không cần biểu hiện về xứ khác…. Vả lại, Hội này đều là chứng pháp, không thể nào dùng sự việc để nêu bày ý nghóa sâu xa nào khác, chỉ có thể hiển bày về tướng tổng quát mà thôi, dựa theo trên để suy nghó. Hội này có mười một phẩm, toàn bộ có hai: Phần một có chín phẩm phân rõ về duyên thành tựu Đức-Dụng, phần hai có hai phẩm trình bày về Thể-Dụng của tánh khởi, để làm pháp tu học của các Hội. Trong chín phẩm đầu, toàn bộ có hai: Phần đầu có sáu phẩm phân rõ nhân hạnh đầy đủ, phần tiếp từ phẩm Bất Tư Nghị về sau có ba phẩm phân rõ nhân thành tựu mà được quả. Hỏi: Vì sao quả không nói ở xứ khác? Đáp: Kinh này từ trên xuống dưới hiển bày về pháp đến lý cuối cùng, suy ra Phật địa cao nhất không thể nào nói là chính. Trong này nói là làm sáng tỏ về chứng được như nhau, tóm lược để nêu ra quả hiển bày về nhân cho nên nói. Ngay trong sáu phẩm đầu có hai: Một phẩm đầu phân rõ về Thể của hành vị, năm phẩm tiếp theo phân rõ về Đức dụng. Ngay phần Thể có ba, hoặc là phân làm sáu, hoặc là phân làm chín, hoặc phân định làm mười, hoặc lại tách ra làm bốn mươi tám. Vả lại, trong này đã phân rõ bao gồm văn giải thích chất vấn trong Luận. Vì sao như vậy? Bởi vì phần giải thích này cùng với Luận hợp lại thành một bộ sớ giải. Thể có ba, đó là Tựa-Chánh tông và Lưu thông. Ngay trong ba phần này, pháp yếu đã phân rõ chỉ là chứng giáo, chứng giáo đã khác thì ba phần cũng khác. Ngay phần Giáo có ba: Từ đầu đến phần phát khởi là Tựa về nguyên do, bởi vì từ đây phát khởi phần Chánh thuyết. Từ văn chính trở đi là phần Chánh tông, trong đó tuy lại có mở rộng-có tóm lược, nhưng cùng nói về pháp của Địa cho nên phân định làm phần Chánh tông. Từ lợi ích của Địa trở xuống là khuyến khích tin tưởng lưu truyền giữ gìn, làm lợi ích đến đời sau phân định làm phần Lưu thông. Cũng có thể phân bốn, sau có thêm phần kệ trùng tụng. Ngay phần Chứng có ba: Một phần Tựa đầu phân định làm Tựa về nguyên do, tiến vào Tam-muội là Chánh tông về Chứng, bởi vì tiến vào Tam-muội chính thức hiển bày về Thật chứng. Địa Luận nói Tam-muội này là Thể của pháp. Nghóa của phần Lưu thông giải thích có hai loại: Dùng đức của mình lưu truyền khắp nơi nói về Tín Địa là Lưu thông, nếu theo nghóa này thì từ phần gia hộ trở đi đều là Lưu thông, bởi vì nói về sự đạt được của mình khiến cho Bồ-tát ở phần vị Tín chứng thực tiến vào Địa. Lưu truyền đến đời sau gọi là Lưu thông, nếu theo nghóa này thì phần lợi ích của Địa gọi là phần Lưu thông. Nói đến phân làm sáu, là thuận theo công hạnh để phân: Từ đầu đến phần phát khởi là nguyên do phát khởi hóa độ, làm phát sinh niềm tin của chúng sinh. Thứ hai là phần căn bản nói tóm lược về pháp của Địa, ca ngợi sự thù thắng làm phát khởi niềm vui mong muốn của chúng sinh. Thứ ba là phần thưa thỉnh làm sáng tỏ từ Địa phát ra lời nói khiến cho chúng sinh hiểu biết đúng đắn. Thứ tư là phần tuyên thuyết mở rộng trình bày về tướng của tu khiến cho chúng sinh phát khởi thực hành. Thứ năm là phần ảnh tượng dựa vào ví dụ để hiển bày về đức. Thứ sáu là phần lợi ích của Địa trình bày về đức đã thành tựu bởi vì hợp với pháp chứng được của Địa. Địa Luận nói do lực của pháp đạt được cho nên mặt đất rung chuyển… Nói đến phân làm chín, là bắt đầu từ phần Tựa cho đến phần thưa thỉnh thì cho là sáu, phần tuyên thuyết trở đi phân định là thứ bảy, phần ảnh tượng của Địa nói là thứ tám, phần lợi ích của Địa là thứ chín. Cũng có thể phân làm mười, bởi vì thêm phần trùng tụng. Ngay trong mười phần này đã phân rõ có ba: Dựa vào tướng hóa độ gồm chung làm phần phát khởi thuyết giảng. Dựa vào ý hóa độ gồm chung làm phần hiển bày về chứng. Tùy theo Tông yếu cùng phân rõ về chứng giáo. Nói đến phát khởi thuyết giảng, lúc Như Lai sắp tuyên thuyết, trước hết là dựa vào thời gian-nơi chốn, hiện tướng quy tụ chúng, phát khởi về pháp tuyên thuyết, lấy đó làm Tựa. Bởi vì Tựa đã phát khởi, cho nên sẽ vì chúng tuyên thuyết. Lúc ấy Kim Cang Tạng im lặng tiến vào Tam-muội, hiển bày về pháp tự mình chứng được, bởi vì có thể vì chúng tuyên thuyết, cho nên lại được gia hộ. Tiếp theo là thứ hai trình bày về phần Tam-muội, bởi vì tiến vào Tam-muội, cho nên chư Phật mười phương khen ngợi trao cho năng lực. Tiếp theo là thứ ba trình bày về phần gia hộ, bởi vì đã có được năng lực của Thánh, mong muốn vì chúng tuyên thuyết, nhưng trong Định không có lời nói cho nên từ trong vắng lặng đứng lên. Tiếp theo là thứ tư trình bày về phần phát khởi, từ trong Định đứng lên rồi, bởi vì tóm lược nói về tướng của Địa, cho nên sau khi đứng lên rồi giải thích rộng ra. Tiếp theo là thứ năm trình bày về phần căn bản, nhưng trong phần căn bản ấy nói tóm lược về tên gọi của Địa chứ không phân biệt rộng ra, bởi vì đại chúng khao khát chờ đợi được nghe tên gọi muốn biết ý nghóa, cho nên cùng nhau cúi đầu thưa thỉnh. Tiếp theo là thứ sáu trình bày về phần thưa thỉnh, bởi vì chúng đã thưa thỉnh rồi, cho nên đích thực vì chúng trình bày rộng ra. Tiếp theo là thứ bảy trình bày về phần tuyên thuyết, bởi vì cho đến mười Địa, tất cả cũng là nói về pháp khó hiểu, cho nên dùng ví dụ để hiển bày. Tiếp theo là thứ tám trình bày về phần ảnh tượng của Địa, bởi vì giải thích đã xong, cho nên hiển bày về lợi ích thù thắng để khuyến khích tín tưởng lưu truyền rộng ra. Tiếp theo là thứ chín trình bày về phần lợi ích của Địa, bởi vì hiển bày về pháp của Địa rồi, cho nên dùng kệ để thuật lại. Tiếp theo là thứ mười nói kệ ca ngợi kết luận về phần trước. Nói đến hiển bày về Chứng là ý của giáo hóa, Tông là hiển bày về chứng. Trong đó phần đầu hiển bày Chứng là Tựa về nguyên do, chín phần sau là chính thức hiển bày. Trong chín phần: Ba phần trước là dựa vào tướng để hiển bày về Chứng; tiếp theo có bốn phần là dựa vào giải thích để hiển bày về Chứng; tiếp theo có một phần là dựa vào sự nhiếp hóa để hiển bày về lợi ích của Chứng; tiếp theo có một phần thuật lại đức của Chứng. Trong ba phần trước: Thứ nhất là phần Tam-muội dựa vào Nhập để hiển bày về Chứng. Thứ hai là phần gia hộ dựa vào gia hộ để hiển bày về tướng của đạt được Chứng, cho nên Địa Luận nói: “Vì sao gia hộ? Bởi vì đạt được pháp quang minh của Đại thừa. ” Thứ ba là phần phát khởi dựa vào xuất Định để hiển bày về vắng lặng, bởi vì thuyết giảng thì nhất định phải đứng lên, tức là hiển bày đã tiến vào tịch diệt cho nên lìa xa ngôn ngữ, Địa Luận nói: “Định không có ngôn thuyết, vì vậy cho nên đứng lên.” Trong bốn phần tiếp theo: Thứ nhất là phần căn bản nói tóm lược để hiển bày về Chứng. Thứ hai là phần thưa thỉnh lướt qua tướng để hiển bày về vắng lặng. Phần tuyên thuyết và phần ảnh tượng dựa vào tướng để biểu thị về đức, trong phần tuyên thuyết dựa vào tu để biểu thị về đức, phần ảnh tượng của Địa mượn ví dụ để hiển bày về đức. Phần lợi ích của Địa dựa vào sự nhiếp hóa để hiển bày về lợi ích của Địa, cho nên văn sau nói do lực của pháp đạt được cho nên mặt đất rung chuyển, trời mưa hoa. Phần kệ tụng giống như trước. Những sai biệt này đều là hiển bày về Chứng. Nói tùy theo Tông yếu cùng phân rõ về chứng giáo, Tông yếu của phẩm này không đưa ra chứng giáo. Trong chín phần: Một phần đầu là Tựa về nguyên do, tám phần sau là chính thức hiển bày về tướng của Chứng giáo. Trong tám phần: Một phần đầu là phần tiến vào Tam-muội biểu hiện rõ ràng chính thức về Chứng, bảy phần sau theo thứ tự trình bày về phát khởi niềm tin đối với Giáo. Nói về nghóa theo thứ tự như phần thứ nhất. Nói đến phân làm mười, là tùy theo Địa không giống nhau mà phân làm mười. Từ đây trở lên ba Hội đều giống như vậy, dựa theo có thể dùng suy nghó để thâu nhiếp. Nói đến bốn mươi tám phần: Địa thứ nhất có tám phần, Địa thứ hai có hai phần cho đến Địa thứ mười có tám phần sai biệt, một phẩm gồm có bốn mươi tám phần. Văn kinh này có nhiều thêm bớt so với bản kinh về Địa Luận, ngay trong văn không giống nhau dùng bốn pháp để lựa chọn, về sau đến văn là biết: Trong các văn ít sót thì sẽ tăng, vạch thẳng đặt ở mặt ngoài bên trái, chấm giữa chân mấy câu thiếu để ghi nhớ. Các văn trái mà ý thuận, thì chấm giữa chữ thứ nhất trong câu. Trong các loại mười câu cùng với Luận trước sau, thì chấm ngang ở mặt ngoài bên trái câu đó để ghi nhớ. Các câu tăng nhiều, thì mặt ngoài bên trái từ trên xuống dưới hạn chế lẫn nhau. Đây đều là dựa theo Luận dẫn đến xác định mà thôi. Nếu Luận không phân rõ thì các phần cũng không bàn đến. Vả lại, trong Luận tăng thì dựa vào đây mà biết. Nhưng văn trong bốn mươi tám đoạn này, chỉ một Địa thì trở thành bốn mươi tám, Địa khác cũng tương tự như vậy. Như vậy suy ra, cho nên biết là Luận chủ ấy tự mình phân chia các Địa trước sau che kín lấy bỏ không giống nhau, lấy nghóa mà suy ra thì theo lý lẽ cùng có. Ngay phần Tựa thứ nhất phân bốn: Một, trình bày về thời gian tuyên thuyết; hai, phân rõ về Hóa chủ; ba, trình bày về nơi chốn nương tựa để thuyết pháp; bốn, phân rõ về chúng cùng nghe. Ngay phần trú xứ có hai: Một là trình bày về nơi thông thường, hai từ “Ma-ni bảo điện…” trở xuống là trình bày về nơi riêng biệt. Trong phần bốn trình bày về chúng cùng nghe có sáu: Một là lựa chọn xác định về con người, hai từ “Thử chư Bồ-tát…” trở xuống là ca ngợi đức của người ấy, ba từ “Kỳ danh viết…” trở xuống là nêu ra tên gọi của đức ấy, bốn từ “Vô lượng…” trở xuống là phân rõ về số của tên gọi ấy, năm là trình bày về nơi đến, sáu là nêu ra Thượng thủ. Kinh sót câu thứ năm. Trong phần một có bốn: Chọn lấy Đại khác với Tiểu. Từ “Ư A-nậu…” trở xuống là chọn lấy Sau khác với Trước. Chọn lấy Trú khác với Thối. Từ “Tùng tha phương…” trở xuống là chọn lấy Mới khác với Cũ. Trong phần một trước tiên là xác định con người đã nêu ra, tiếp theo là trình bày ý của các kinh phân rõ về con người. Con người giải thích rộng ra có hai: Một, bậc Thánh hóa độ đã che phủ chúng đương cơ, như Luận đã nói về người Tín Địa…; Hai, bậc Thánh hóa độ đã hướng về người ảnh hưởng, như các Bồ-tát… ở đây đã nêu ra. Ý phân rõ về con người, các kinh nêu ra con người gồm có bốn ý: Làm sáng tỏ về lợi ích do hóa độ, như kinh Niết-bàn phân rõ nêu ra các hạng người học về Vô thường. Bởi vì đối với con người cho nên hiển bày nói về quyết định, kinh nói tuy ở nơi trống rỗng mà có nhiều điều đã nói, không có thể gọi là Sư tử gầm thật sự, nay ở trong con người Đại trí như vậy có điều đã tuyên thuyết, mới có thể gọi là Sư tử gầm thật sự. Bởi vì dựa vào con người làm sáng tỏ về pháp riêng biệt ấy, như nói Thập Tín mở rộng hướng về các vị Thượng thủ…. Nêu ra chúng cùng nghe để chứng minh về thành tựu đáng tin. Nay ở đây nêu ra nghóa chúng gồm đủ ba loại sau. Chọn lấy Trú khác với Thối, luận rộng về lui sụt(Thối) có ba: Một là đạt được rồi lui sụt, nghóa là trước đã đạt được sau trở lại thối thất; Hai là chưa đạt được mà lui sụt, nghóa là đối với thắng tiến lui sụt dừng lại chứ không tiến vào; Ba là luyện tập thực hành mà lui sụt, trước luyện tập thực hành nhiều cùng thành tựu do mình. Một loại sau luôn luôn hiện rõ, còn lại thì không hiện rõ, do nơi không hiện rõ mà gọi là lui sụt. Nay dùng ba loại này dựa theo phần vị của Địa, không phải là không có nghóa ấy. Giải và Hạnh trở về trước phần vị chưa kiên cố, tùy theo pháp đã đạt được có thể lui sụt mất đi, có đầy đủ ba loại lui sụt. Địa thứ nhất trở lên cho đến Địa thứ sáu theo thứ tự tu đạo không có thể nhanh chóng phát khởi, cho nên có luyện tập thực hành và chưa đạt được mà lui sụt. Địa thứ bảy trở lên phần vị chưa đến cùng, có chưa đạt được mà lui sụt. Tướng lui sụt như vậy, tùy theo nơi đã lìa xa tức là không lui sụt. Nhưng ba loại lui sụt ấy mở rộng phân làm năm, ngay loại thứ nhất là đạt được rồi lui sụt thuận theo nghóa phân làm ba: Một là diệt mà lui sụt, nghóa là phàm phu vốn có căn thiện mà bị tà kiến kia làm cho đoạn diệt; Hai là sai lầm mà lui sụt, nghóa là người ở nẽo thiện bởi vì niềm tin chưa thành thì có thể lui sụt, sai lầm khởi lên tâm Nhị thừa, như Xá-lợi-phất…, tuy không lui sụt diệt đi làm Nhất xiển đề, mà tâm Bồ-đề không còn có thể hiển hiện; Ba là phế bỏ mà lui sụt, nghóa là từ chủng tánh trở lên có lúc tạm thời khởi lên dấu tích của nghiệp-phiền não, bỏ dở sự luyện tập ấy không làm cho hiện rõ trước mắt, gọi là phế bỏ mà lui sụt. Bởi vì ba loại này gồm chung hai loại lui sụt khác, hợp lại nói là năm. Năm loại này thì ngoại phàm có đủ, phần vị Tín ở nẽo thiện chỉ không có diệt mà lui sụt nhưng nhất định có bốn loại còn lại. Bởi vì không đoạn mất thiện làm Xiển đề, từ chủng tánh trở lên không có diệt- không có sai lầm, nhưng nhất định có ba loại còn lại. Địa thứ nhất trở lên không có ba loại trước, nhưng nhất định có hai loại còn lại. Địa thứ bảy trở lên chỉ có chưa đạt được mà lui sụt, bốn loại còn lại đều không có. Trong Địa thứ mười, hạn định dựa vào nhân vị thì năm loại lui sụt đều không có, nếu hướng về quả Phật thì có trải qua chưa đạt được mà lui sụt. Tướng lui sụt như vậy, không lui sụt có thể biết. Vả lại, nếu dựa vào kinh này, thì phần vị Tín-Hạnh và Giải trở đi chỉ có chưa đạt được mà lui sụt, còn lại đều không có. Đây là dựa theo một tướng, nếu dựa theo tự Thể của Phổ Hiền thì hoàn toàn không có các lui sụt, dựa theo trên suy nghó mà thâu nhiếp. Pháp của Địa sâu xa vi tế, không phải là trí thô thiển nhận biết. Vì sao như vậy? Bởi vì giáo pháp của Địa nhờ vào các Thừa kia và việc thiện của thế gian, để hiển bày phạm vi về nghóa của pháp A-hàm, tuy nhờ cậy để hiển bày về lý Nhất thừa, nhưng Tông chỉ của Tiểu thừa- Tam thừa ấy tự tồn tại chứ không mất đi Tông chỉ của mình; như muối nấu thành canh, tánh muối tự tồn tại mà nghóa của canh được thành tựu. Nghóa của văn sau nên dựa theo đây mà biết. Bồ-đề có ba loại: Tiến vào tánh Địa gọi là đạt được Bồ-đề. Địa thứ nhất. Phật địa. Vì vậy trong kinh Niết-bàn nói: “Tu-đà-hoàn đến tám vạn kiếp, cho đến Bích-chi Phật đến mười ngàn kiếp, nghóa là đến tánh Địa.” Hỏi: A-nậu Bồ-đề thuộc về quả vì sao bao gồm nhân? Đáp: Bởi vì điều này cũng không nhất định, trong kinh Đại Phẩm nói: “Năm Bồ-đề, đó là phát tâm-điều phục tâm làm cho phát sinh rõ ràng đến Vô thượng Bồ-đề.” Nhất thừa có mười Bồ-đề, như nói ở phẩm Ly Thế Gian sau này. Sinh có năm loại: Pháp tánh sinh, là sáu Nhập thù thắng từ vô thỉ đến nay pháp vốn như vậy. Thật báo sinh, đó là từ trước đến nay do tu thiện mà có được. Sinh diệt biến dị Pháp thân, đó là duyên y theo vô lậu mà có được. Phần đoạn thân, đó là tất cả thân ấy luôn luôn do nghiệp của ba cõi mà có được. Ứng hóa thân, là tùy theo chúng sinh thị hiện mà có được. Những loại này đều dựa theo ba Thừa mà giải thích chứ không phải là Nhất thừa. Vì sao Hội này ban đầu phần nhiều dựa theo ba Thừa để trình bày? Bởi vì phẩm Thập Địa gồm chung Tín-Hướng của ba Thừa. Ngay trong văn ca ngợi đức có hai: Một là riêng biệt, hai là tổng quát. Bởi vì công đức của Bồ-tát không có thể nhanh chóng làm sáng tỏ, cho nên trước phải ca ngợi riêng biệt, không phải là riêng biệt có thể nói hết cho nên cần phải tổng quát để kết luận. Trong riêng biệt lại có hai: Một là ca ngợi tóm lược, hai từ “Thiện năng hóa…” trở xuống là tùy theo đức mà ca ngợi rộng ra. Bởi vì đức rộng lớn của Bồ-tát không thể nào lập tức làm sáng tỏ, cho nên trước phải ca ngợi tóm lược, không phải là tóm lược có thể đầy đủ vì vậy cần phải ca ngợi rộng ra. Trong tóm lược có hai: Một là ca ngợi về phần mình, hai từ “Chư Phật Như Lai…” trở xuống là ca ngợi về sự thắng tiến ấy. Trong văn ca ngợi rộng ra có hai mươi câu, mười hai câu trước mở rộng trên phần mình, tiếp theo có tám câu mở rộng về sự thắng tiến trước đây. Trong văn mở rộng về phần mình thâu nhiếp để làm hai: Sáu câu đầu trình bày về hạnh tu tập đầy đủ, tiếp theo có sáu câu trình bày về đức dụng đầy đủ trọn vẹn. Trong hạnh tu tập đầy đủ, ba câu đầu là Lợi tha, ba câu sau là Tự lợi. Văn trước về Lợi tha, câu đầu là tổng quát, hai câu sau là riêng biệt. Y theo kinh thì trong văn riêng biệt sót một câu. Trong văn sau về Tự lợi có ba: Một là Nguyện, hai là Tu, ba là trình bày về Hạnh thành tựu. Trong văn thứ hai về đức dụng đầy đủ trọn vẹn có sáu câu, ba câu trước là Lợi tha, ba câu sau là Tự lợi. Trong văn Lợi tha: Đầu là trình bày về thân nghiệp, tiếp là trình bày về ý nghiệp, sau là làm sáng tỏ về khẩu nghiệp. Trong văn thứ hai là Tự lợi có ba: Một là hạnh tu tập thù thắng, hai là các đức đầy đủ trọn vẹn, ba từ “Chư sở…” trở xuống là diệu dụng tự tại. Thứ hai là văn mở rộng về sự thắng tiến trước đây riêng biệt có tám câu, bốn câu trước trình bày về ba nghiệp thù thắng ấy thâu nhiếp tu tập các hạnh, bốn câu sau trình bày về ba nghiệp rộng lớn ấy đầy đủ mọi công đức. Trong phần trước, ba câu đầu trình bày về ba nghiệp thù thắng, một câu sau trình bày về thâu nhiếp tu tập các hạnh ấy. Bốn câu sau cũng như vậy, ba câu đầu trình bày về ba nghiệp rộng lớn ấy, một câu sau làm sáng tỏ về đầy đủ mọi công đức. Trong ba nghiệp thù thắng đầu: Trước là trình bày về thân nghiệp, tiếp là khẩu nghiệp, sau là ý nghiệp. Ngay văn bốn câu sau, đầu có ba câu trình bày về ba nghiệp rộng lớn, thân hiện bày khắp nơi là thân nghiệp rộng lớn, âm thanh nghe khắp nơi là khẩu nghiệp rộng lớn, tâm thông đạt là ý nghiệp rộng lớn; một câu thứ tư là đầy đủ mọi công đức. Cảm quả nơi này, cảm là căn, quả là mong muốn, nhưng quả của người ở Địa dưới quyết định có thể thành tựu mà thôi, còn lại như Luận phân rõ. Lại trình bày về Bất cọng, một là ngoại đạo bất cọng, hai là Nhị thừa bất cọng. Lại hai Pháp-Dụ trong Kim Cang, về Pháp thì trước là chủ động phá, sau là kiên cố; về Dụ thì cây trước là chọn lấy tâm kiên cố, mang thai con thì chọn lấy con là chủ động phá. Trong phần Tam-muội nương theo uy lực tiến vào Định có ba: Một là suy ra giáo hóa thuộc về Như Lai cho nên hiện rõ nương theo uy lực; hai là tuy tự mình đạt được nhưng đối với Phật thì người thù thắng không thể nào tự tại, mà cần phải nương theo uy lực; ba là đối với Định này tuy chứng được từng phần, mà đầy đủ đến cùng là do Phật. Nay ở đây bởi vì mong muốn được sự giáo hóa thù thắng của Phật, vì thế cần phải nương theo uy lực. Văn phân định có thể biết. Ngay trong phần gia hộ có ba: Một là tiến vào Tam-muội cho nên chư Phật cùng gia hộ, hai từ “Dục tuyên nhất thiết…” trở xuống là trình bày về gia hộ bằng việc làm, ba từ “Kim Cang Tạng nhữ đương thuyết…” trở xuống là thị hiện tướng gia hộ. Văn phần một có ba: Một, chư Phật vì muốn gia hộ khen ngợi cho nên cùng nhau đều hiện thân; hai, từ “Đồng thanh tán…” trở xuống là chư Phật cùng khen ngợi, thuận theo tiến vào Định hiển bày về Chứng có thể tuyên thuyết trước đây; ba, từ “Như thị thập phương…” trở xuống là Phật làm sáng tỏ đã gia hộ, thuận theo tiến vào Định vì có được uy lực của Phật trước đây. Vả lại, giải thích về nguyên do được gia hộ, cùng biểu hiện rõ ràng nhiều Đức Phật, vốn là nhiều Đức Phật cùng chứng về pháp này, văn còn lại như Luận nên biết. Văn phần hai là gia hộ bằng việc làm: Một là đối với pháp của Địa trình bày về gia hộ bằng việc làm, hai từ “Sở vị nhập trí tuệ…” trở xuống là đối với người đã hóa độ trình bày về gia hộ bằng việc làm. Lại nữa, thấy Trí đạt được Chứng, thì trước là hai Quán giải, sau là hai Hành giải, thấy trước Trí sau, đạt được trước Chứng sau. Lại nữa, Tín-Lạc đạt được Chứng thì cũng giống như trước, nhưng bởi vì chưa đạt được hướng về đạt được cho nên đặt tên gọi là Tín-Lạc. Trong phần đối với người trình bày về gia hộ bằng việc làm có hai mươi câu, mười Nhập trước là hành Tự lợi, mười Thỉ Chung sau là hành Lợi tha. Hỏi: Vì sao Tự lợi gọi là Nhập, hành Lợi tha nói là Thỉ Chung? Đáp: Nghóa về Nhập và Thỉ Chung là một chứ không khác nhau, nói là Nhập thì nhất định từ đầu đến cuối, luận về Thỉ Chung thì cần phải có chỗ Nhập, là phân ra hai hành nhưng đều thuận theo một nghóa. Ngay trong hai mươi câu về Nhập và Thỉ Chung, đều có một câu đầu là tổng quát, những câu còn lại là riêng biệt, trong câu thứ bảy lại có căn thiện có thể làm nhân của xuất thế gian, là những căn thiện gia hạnh trong Địa. Nhưng trong Thỉ Chung thì kinh sót câu thứ hai. Vả lại, Luận nói A-hàm là có chín loại: Hành và Giáo đối lập với nhau, âm thanh ngôn giáo gọi là A- hàm, tất cả công đức nói ra để làm Chứng, giống như là hai Tạng về nghóa của chữ trong phần tuyên thuyết ở sau. Phần vị và Địa đối lập với nhau, giải hạnh trở về trước dựa vào giáo tu hành gọi là A-hàm, Địa thứ nhất trở lên nói ra để làm Chứng, giống như là chúng ca ngợi trong phần thứ hai thưa thỉnh về giải thoát ở sau; Địa tiền đã phát khởi Văn-Tư-Tu… gọi là A-hàm tịnh, Địa thứ nhất trở lên thì tất cả hành đức gọi chung là Chứng tịnh. Tu và Thành đối lập với nhau, Văn-Tư-Tu-Tuệ-Báo-Sinh- Thức-Trí trong tất cả các Địa, những loại này duyên theo bốn tâm soi chiếu mà hiểu rõ gọi là A-hàm, trí chân thật phát ra lời nói để làm Chứng, vì vậy phần sau Luận nói: Văn-Tư-Tu… là bởi vì có thể nói, bởi vì có thể nói cho nên gọi là A-hàm, trí của Địa lìa xa văn tự cho nên gọi là Chứng. Chân và Ngụy đối lập với nhau, thật giả kết hợp tu tập trong tất cả các Địa gọi là A-hàm, rời bỏ giả hợp với thật gọi đó là Chứng, giống như Nghóa Đại và Thuyết Đại đã trình bày ở sau, Thuyết Đại là phương tiện tu A-hàm, Nghóa Đại là hành thành tựu về Chứng. Tướng và Thật đối lập với nhau, trong pháp tu thế gian đạt được tướng Chứng kia gọi là A-hàm, hợp với Thật tướng vốn có gọi đó là Chứng, giống như pháp môn quang minh-diệu pháp tăng thượng đã nói ở sau, tăng thượng là Chứng, quang minh là Giáo. Thể và Đức đối lập với nhau, ngay trong hành đã thành tựu về tướng xa lìa kia, pháp tánh từ vô thỉ vốn ẩn kín mà nay hiện rõ gọi đó là Chứng, dựa vào vốn có mà thành tựu hành đức phương tiện, dựa vào giáo tu tập sinh khởi gọi là A-hàm, giống như ví dụ về luyện vàng trong văn sau, Thể của vàng dụ cho Chứng, đồ vật trang sức là vòng xuyến dụ cho A-hàm. Thể và Dụng đối lập với nhau, Thể và Đức trước đây theo nhau là Chứng, dựa vào đây mà phát khởi, tùy thuận công dụng của giáo trí thế gian gọi là A-hàm, giống như là pháp đã ví dụ như ngọc châu-ánh sáng… trong văn sau, vòng ngọc… trong sáng dụ cho Thể của Chứng, ánh sáng ngọn lửa… dụ cho A-hàm. Tự phần và Thắng tiến đối lập với nhau, tự phần đã thành tựu Thể-Đức và Dụng đều gọi là Chứng, có thể tiếp nhận giáo pháp của Phật gọi là A-hàm, giống như là ca ngợi hai Lực của Kim Cang Tạng trong văn sau, Diệu trí và Biện gọi là Lực của Chứng, niệm kiên cố-tuệ thanh tịnh đối với giáo pháp của Phật gọi là Lực của A-hàm. Dựa theo giải thích và dựa vào thật tế đối lập với nhau, Thể của Chân trí nói ra để làm Chứng, ngay Thể của Chứng này dựa theo ngôn từ phân làm mười gọi là A-hàm, giống như là pháp đã ví dụ như dấu tích-hư không trong văn sau, hư không bình đẳng dụ cho Trí về Chứng của Địa. Vì vậy phần sau Luận nói: Trú xứ của bản thân văn tự (tự thân) do Trí về Chứng thâu nhiếp. Dấu tích giữa hư không dụ cho A-hàm của Địa, vì vậy phần sau Luận nói: Đều là Danh-Cú-Tự thân thuộc về Trí của Địa, Danh-Cú-Tự thân là pháp A-hàm. A-hàm và Chứng này nối thông từ trên xuống dưới, có thể dựa theo suy nghó để thâu nhiếp, tướng còn lại có thể biết. Trong văn thứ ba về Tướng gia hộ, đó là khẩu-ý và thân. Khẩu thì khuyến khích nói ra để tăng thêm năng lực, ý thì ngầm che chở để thêm uy lực, thân thì xoa đầu để khiến cho cảm nhận được. Vì sao trước là khẩu-tiếp là ý-sau là thân? Nương theo chư Phật trước đây hiển bày về gia hộ bằng việc làm, bởi vì khuyến khích nói ra, cho nên trước phải trình bày về khẩu, thân tiếp xúc thì đứng dậy lẽ ra nên ở sau, ý không có nghóa này cho nên dựa vào phần giữa mà nói. Trong phần khẩu nghiệp gia hộ có hai, đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Lại trong phần thân thanh tịnh, kinh sót một câu về Phật tận. Văn thứ hai về ý gia hộ có hai mươi câu, mười câu đầu là chính thức trình bày về ý gia hộ, mười câu sau là giải thích riêng về nguyên cớ gia hộ. Vì sao dựa vào ý để giải thích riêng về gia hộ, phần khác thì không như vậy? Bởi vì ý là căn bản của gia hộ cho nên dựa vào để giải thích. Vả lại, khẩu nghiệp gia hộ trước đây có biện tài của hai lực tự- tha, ý gia hộ cũng như vậy. Mười câu trước chính thức trình bày về Tha lực gia hộ, mười câu sau giải thích hiển bày về Tự lực gia hộ, cho nên giải thích như vậy. Ngay trong văn trước, đầu là thân Vô úy vừa tổng quát vừa riêng biệt, thâu nhiếp tất cả mười câu làm thân Vô úy, cho nên tất cả đều là tổng quát và riêng biệt. Ở trong phần riêng biệt, một câu đầu hiển bày về Sắc thân thù thắng, vì vậy gọi là riêng biệt, chín câu còn lại luôn luôn là riêng biệt. Vả lại, trong này luận về pháp thành tựu, là dựa vào giải thoát nối tiếp nhau. Trong kinh có bốn loại thành tựu: Đã có thành tựu, các pháp nhân duyên-danh tướng-ngôn thuyết được thành tựu. Việc đã làm thành tựu, tất cả mọi việc đã làm đều có phân biệt về thành tựu. Pháp thành tựu, thành lập tánh tướng của tất cả các pháp. Giúp đỡ thành tựu, dùng trí giảng nói để giúp đỡ thành tựu các pháp. Nay nói về duyên, là duyên ấy đã có thành tựu, bởi vì có nhân duyên mà các pháp được thành tựu, cho nên gọi là duyên. Pháp tức là pháp trong duyên ấy. Thành tựu việc làm là do duyên ấy mà việc làm thành tựu. Thành tựu tức là trong duyên ấy giúp đỡ thành tựu. Vả lại, ba loại trí cùng tướng là giải thích không như nhau về chủng loại, dựa vào luận Kim Cang Tiên nhận biết tất cả các pháp đều là Vô thường-Khổ và Vô ngã, dựa vào luận Biệt Phiên nhận biết tự tướng- cùng tướng-không hai tướng của tất cả các pháp, gọi là Thế đế-Chân đế và một Thật đế, lại nhận biết về Không-Vô tướng và Nguyện. Vả lại, sáu Chánh kiến là trí chủ động nhận biết (năng tri), dựa vào luận Kim Cang Tiên: Chánh kiến về một nghóa chân thật, có thể nhận biết về pháp thuộc Lý. Chánh kiến về hành, có thể nhận biết về pháp thuộc Hành. Hai loại này thuộc về Giáo chỉ. Chánh kiến về giáo, có thể nhận biêt về pháp thuộc Giáo. Chánh kiến về lìa hai bên, nhận biết về pháp thuộc Lý trước đây không giống như sự chấp thủ của tình thức. Chánh kiến không nghó bàn, nhận biết về pháp thuộc Hành trước đây thành tựu đức vượt ngoài tình thức. Chánh kiến về tánh ham muốn của căn, nhận biết về pháp thuộc Giáo trước đây giảng giải tùy theo tâm của chúng sinh. Thứ hai trong phần giải thích về gia hộ bằng việc làm, đầu là vặn hỏi tại vì sao, tiếp theo là trả lời. Văn trả lời có hai, một câu đầu là tổng quát, chín câu sau là riêng biệt. Vả lại, lúc Phật pháp sắp hoại diệt thì mượn pháp tôn trọng khác để tụng trì, lúc hoại diệt theo thì tôn trọng giáo nào? Văn thứ ba là thân gia hộ có bốn câu: Không lìa căn bản. Dùng thần lực. Duỗi tay phải. Xoa đỉnh đầu. Kinh thiếu hai câu đầu. Ngay trong văn giải thích về phần căn bản có hai, đầu là nói cho biết, tiếp là thuật lại. Văn thứ hai có ba: Một, trình bày về Nguyện lấy thiện làm Thể của Địa; hai, nêu ra mười tên gọi để hiển bày về Tướng của Địa; ba, nêu rõ chư Phật cùng khen ngợi để hiển bày về sự thù thắng của Địa. Trong ba phần này mỗi phần đều có hai. Trong phần một về Thể của Địa, đầu là một câu tổng quát, hai từ “Vô hữu quá…” trở xuống là riêng biệt, còn lại như Luận phân rõ. Trong phần thứ hai về Tướng, văn riêng biệt có hai, đầu là hỏi, tiếp là trả lời. Văn trả lời có ba: Một là thiết lập có hai, hai là nêu ra có hai, ba là kết luận. Đoạn thứ ba, văn riêng biệt có hai: Một, Ta không thấy là nêu rõ chư Phật cùng khen ngợi để hiển bày về sự thù thắng của Địa; hai, từ “Hà dó cố…” trở xuống là làm sáng tỏ về sự thù thắng của Địa giải thích hiển bày lý do chư Phật cùng khen ngợi. Văn này có hai, đầu là hỏi, tiếp là đáp. Văn đáp có bốn câu: Câu thứ nhất nêu rõ Chứng hành này để giải thích về chư Phật cùng khen ngợi; câu thứ hai không phải chỉ là đã chứng pháp xuất thế ấy, mà cũng là đã thực hành phương tiện của pháp thế gian; câu thứ ba đó là một câu hiển bày về pháp môn quang minh thứ hai trước đây; câu thứ tư từ “Chư Phật tử…” trở xuống là hiển bày về diệu pháp tăng thượng thứ nhất trước đây. Đây là dựa theo sự phân định của bản kinh trong Luận, văn còn lại có thể biết. Vả lại, Luận nói về quyết định, dựa vào luận Địa Trì có ba loại: Chủng tánh quyết định bởi vì chắc chắn là Phật chủng. Giải hạnh quyết định là bởi vì nhất định phát tâm. Chứng quyết định là bởi vì chắc chắn đạt được pháp. Đây tức là thứ ba. Vả lại, thiện quyết định: Một là phân rõ về thiện, quyết định theo đến; hai là quyết định phân rõ về nghóa của quyết định, chữ thiện theo đến, dựa vào thiện để giải thích về nghóa của quyết định; ba là trong thắng thiện quyết định, dựa vào Luận hợp lại có bốn nghóa để giải thích, một nghóa đầu là tổng quát, ba nghóa sau là riêng biệt. Trong ba nghóa riêng biệt, đó là Chứng-Trợ và Bất trú. Lại giải thích một là Lý, hai là Trí, ba là phần vị và giáo pháp, bốn là dựa theo Tướng tức là Vô lậu cũng tức là Trợ đạo, dựa theo suy nghó thâu nhiếp. Dựa vào Luận về kinh Đại Phẩm có tên gọi của mười Địa thuộc ba Thừa: 1-Càn Tuệ địa; 2-Tánh địa; 3-Bát Nhân địa; 4-Kiến địa; 5- Bạc địa; 6-Ly Dục địa; 7-Dó Tác địa; 8-Bích chi Phật địa; 9-Bồ tát địa; 10-Phật địa. Mười Địa này là công dụng của Nhất thừa, là nơi tiến vào của ba Thừa. Trong này, phần căn bản dựa vào nghóa riêng về A-hàm mà nói. Ngay trong văn của phần thưa thỉnh, toàn bộ phân định có hai: Một, Kim Cang Tạng nói rồi đứng im lặng, Bồ-tát và Phật thảy đều cùng nhau thưa thỉnh; hai, từ “Quán sát…” trở xuống là nêu rõ phạm vi tuyên thuyết khiến cho chúng nhận biết chính xác. Trong phần một tùy theo người phân thưa thỉnh làm ba: Một là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh, hai là đại chúng thưa thỉnh, ba là Phật gia hộ thưa thỉnh. Ngay trong ba phần này, trong phần một là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh, văn tách biệt ba cặp, đều ban đầu là người nói im lặng làm trái không nói, sau là trình bày bắt đầu thưa thỉnh. Trong cặp thứ nhất, đầu là Kim Cang Tạng nói rồi đứng im lặng, sau là Giải Thoát Nguyệt biết tâm nghi ngờ của chúng, vì thưa thỉnh mà hỏi: Nhân giả có thể nói, Đại chúng có thể nghe, vì sao không nói? Trong cặp thứ hai, đầu là Kim Cang Tạng nương theo câu hỏi thưa thỉnh trước đây hiển bày về ý im lặng của mình để mà trả lời: Bởi vì pháp khó nói, Chứng-Tín khó đạt được, cho nên tôi không nói. Sau là Giải Thoát Nguyệt nương theo đây ca ngợi để chúng trở lại thưa thỉnh: Tôi nói là Nhân giả còn có ý gì, mới nói Chứng-Tín khó đạt được cho nên không nói, nay Bồ-tát này khéo léo thanh tịnh, chúng quy tụ có Chứng-có Tín, Nhân giả nên nói! Đây là cặp thứ hai. Hai cặp trên đây là ca ngợi người để thưa thỉnh. Trong cặp thứ ba, đầu là Kim Cang Tạng nương theo lời thưa thỉnh trước đây, nêu ra điều tổn hại để làm trái: Tuy chúng này thanh tịnh nhưng còn người thích pháp Tiểu thừa, nghe rồi sinh khởi nghi hoặc, nhận chịu khổ não lâu dài, bởi vì có hai điều tổn hại này cho nên tôi không nói. Sau là Giải Thoát Nguyệt nương theo đây ca ngợi về pháp trở lại thưa thỉnh: Nhân giả chỉ nói, đừng lo buồn vì chúng nghi ngờ, chư Phật hộ niệm khiến cho người dễ hiểu, nói có nhiều lợi ích, đừng sợ khổ não! Nhưng nghóa thưa thỉnh của Giải Thoát Nguyệt có khác, Kim Cang Tạng lúc ấy làm trái lời thưa thỉnh, lý cuối cùng ở tại lời từ chối này, chỉ vì pháp quan trọng cho nên im lặng chờ đợi thưa thỉnh lần khác. Cặp thứ nhất trong kinh, đầu là Kim Cang Tạng nói rồi đứng im lặng, lúc ấy tất cả chúng… trở xuống là trình bày về tâm nghi ngờ của chúng, Giải Thoát Nguyệt vì chúng mà thưa thỉnh. Hai câu trong phần trước: Một, Kim Cang Tạng nói về tên gọi của Địa rồi, là nhắc lại phần trước phát khởi phần sau; hai, im lặng không nói chính là chờ đợi thưa thỉnh lần sau, cả chúng đối với điều này sinh khởi mong muốn, sinh khởi nghi ngờ. Ngay trong lần thưa thỉnh sau, đầu là trình bày về đại chúng nghe tên gọi mong muốn biết nghóa nhưng thấy im lặng mà sinh tâm nghi ngờ, từ “Lúc ấy Đại Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về Giải Thoát Nguyệt biết chúng nghi ngờ, vì chúng mà thưa thỉnh. Lại ngay trong phần một, đầu là đối với tên gọi nói ra nghe rồi mong muốn biết nghóa, từ “Đều dấy lên nghó rằng…” trở xuống là đối với không phân biệt thấy im lặng sinh ra nghi ngờ. Vì sao người nghe đối với người nói ấy mà sinh ra ý niệm nghi ngờ? Vì sao người nói đối với chúng lắng nghe mà sinh ra ý niệm nghi ngờ? Trong phần thứ hai là Giải Thoát Nguyệt biết chúng nghi ngờ mà thưa thỉnh, câu riêng biệt có ba: Nêu ra Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt là người thưa thỉnh. Biết chúng nghi ngờ vì chúng mà bắt đầu thưa thỉnh. Nêu ra lời thưa thỉnh. Trong lời thưa thỉnh và kệ, phần văn có năm: Hai môn phân biệt, đưa ra và thưa thỉnh phân biệt, đưa ra là đưa ra rồi im lặng lướt qua làm cho chúng nghi ngờ, thưa thỉnh là thưa thỉnh nói rõ để thỏa lòng mong muốn của chúng. Trong kệ: Hai kệ đầu nêu ra hỏi về ý im lặng, kệ thứ ba thưa thỉnh tuyên thuyết, hai kệ sau tóm lược không có đưa ra và thưa thỉnh. Lý ra thì phải có đủ. Hai là phân biệt về người nói-người nghe dựa vào sự ca ngợi: Kệ đầu ca ngợi về người nói ấy có thể nói, để loại bỏ tâm vì sao nghi ngờ của đại chúng; bốn kệ sau ca ngợi về chúng có thể nghe, để loại bỏ vì sao nghi ngờ tâm của đại chúng. Ngay trong bốn kệ về người nghe: Hai kệ đầu ca ngợi về chúng đồng pháp, tiếp theo có một kệ ca ngợi về chúng dị pháp, một kệ sau cùng tổng quát ca ngợi về hai chúng. Nhưng chúng này cũng gọi là đồng sinh-dị sinh. Vả lại, Luận nói: Có lúc không phải là quyết định hiện tiền-không có hiện tiền…, là hai quyết định về Chứng và Giáo không phải là quyết định mong muốn hiện tại. Lại nữa, chữ Tuệ ở hàng thứ nhất là Giác ngộ trong Luận; chữ Hà (tỳ vết) trong hàng thứ tư tức là không mong muốn trong Luận; chữ Uế tức là oai nghi hỗn loạn trong Luận; chữ Thật tức là trừ bỏ tưởng khác trong Luận; còn lại dựa theo có thể biết mà thôi. Ngay trong phần thứ hai là thưa thỉnh có hai: Đầu là Kim Cang Tạng nương theo sự thưa thỉnh trước đây để hiển bày về ý im lặng của mình, sau là Giải Thoát Nguyệt nương theo lời trở lại thưa thỉnh. Văn trước có hai: Một là trường hàng sinh khởi về ý nói ra ở phần sau; hai là kệ giải thích. Kệ có sáu kệ: Hai kệ đầu trình bày về pháp khó nói, tiếp theo có hai kệ làm sáng tỏ về pháp khó nghe, tiếp theo có một kệ dụ về khó nói-khó nghe, sau cùng là một kệ nêu ra khó để kết luận về im lặng. Vả lại, ý văn trong dụ, thì hư không dụ về chứng được Thể của Địa, gió vẽ ra dụ cho câu chữ lời lẽ giải thích, trú xứ do gió vẽ ra dụ cho mười Địa sai biệt đã nói. Hỏi: Dụ ở phần này và phần sau có gì khác nhau? Đáp: Phần sau lấy dấu tích của chim làm dụ, để so sánh về Chứng; trong này tuyên thuyết có tác dụng như nét bút lay động nhẹ nhàng theo gió, để làm dụ so sánh về Thuyết, cho nên có điều này điều kia mà thôi. Vả lại, nét vẽ ở phần này và dấu chân chim cùng với dụ trong chương Tất Đàm ở sau, cho đến phẩm Phổ Hiền sau này, tổng hợp làm một loại, là nói rõ ràng về Chứng của mười Địa, sau dấu tích của chim… đã không nói rõ ràng về Chứng của mười Địa là bởi vì mình đồng ý nói ra tên gọi của mười Địa. Điều này cũng nên hiểu chính xác. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tên gọi chung của mười Địa, cũng có thể là tên gọi thuộc về Thục giáo của ba Thừa. Trong hai kệ trước về pháp có bốn lớp: Tổng quát nêu ra pháp khó. Bậc nhất hiển bày về tướng khó. Bồ tát hạnh vượt ngoài Thể khó của pháp. Vi tế khó thấy… trở xuống là làm sáng tỏ nguyên cớ về khó. Đây là dựa vào kinh của Luận, có thể dựa theo chọn lấy suy nghó thâu nhiếp. Trong văn thứ hai là Giải Thoát Nguyệt nương theo thưa thỉnh có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có ba: Giải Thoát Nguyệt nghe từ chối trở lại thưa thỉnh. Từ “Thị Đại Bồ-tát chúng trực tâm thanh tịnh…” trở xuống là mở rộng ca ngợi về chúng thanh tịnh. Từ “Thị cố…” trở xuống là kết thúc thưa thỉnh để nói. Trong văn mở rộng ca ngợi về chúng thanh tịnh, đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt. Trong A-hàm tịnh riêng biệt, câu thứ hai trong văn kinh ở Luận là câu thứ tư, câu thứ năm trong kinh ở Luận là câu thứ hai, cũng có thể dựa vào văn xác định nhưng cần phải tư duy. Trong văn phần hai là trùng tụng có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là kệ tụng. Trong kệ, một tụng đầu về kết thúc thưa thỉnh trước đây, tiếp theo có một kệ tụng về văn thưa thỉnh trước đây. Trong lần thưa thỉnh thứ ba, đầu là Kim Cang Tạng nêu ra điều tổn hại để làm trái, sau là Giải Thoát Nguyệt ca ngợi về lợi ích trở lại thưa thỉnh. Văn phần đầu phân hai, trước là trường hàng, sau là kệ tụng. Văn trước có hai: Một là tiếp nhận sự ca ngợi trước đây mà nêu ra được và mất, hai từ “Kỳ dư lạc tiểu…” trở xuống là chọn lấy không ca ngợi mà nêu ra điều tổn hại để làm trái. Văn này có ba: Tổn hại vì làm hỏng căn thiện; Từ “Thị nhân…” trở xuống là tổn hại vì mất đi niềm vui nhận chịu khổ não lâu dài; Từ “Ngã mẫn…” trở xuống là kết luận về nguyên cớ im lặng. Hai là văn trùng tụng: Một là trình bày về ý nói ra; hai là chính thức nói tụng. Văn này có hai: Một kệ rưỡi đầu là kết thúc nhắc lại văn trước, tiếp theo một kệ rưỡi là kết thúc phần trước làm sáng tỏ về mất mát. Thứ hai trong phần Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh: Đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng có ba: Tự nói rõ tâm mình làm sáng tỏ mong muốn trở lại thưa thỉnh; Từ “Nguyện thừa Phật lực…” trở xuống là chính thức thưa thỉnh để nói ra; Từ “Thị cố…” trở xuống là kết thúc thưa thỉnh để nói ra. Dựa vào trong đoạn một có thể biết. Văn đoạn hai là chính thức thưa thỉnh có hai: Một, thiết lập tông chỉ thưa thỉnh nói về pháp không thể nghó bàn; hai, từ “Phật sở hộ niệm…” trở xuống là phân rõ về pháp của chư Phật thuận theo hộ niệm. Văn này có bốn: Một là hộ niệm nhưng có ba có thể biết; hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là phân rõ về thù thắng quan trọng; ba từ “Thí như…” là ví dụ; bốn từ “Như thị Phật tử…” trở xuống là pháp hợp lại. Hai là văn trùng tụng có năm: Một kệ rưỡi đầu là trình bày tụng về văn thưa thỉnh nói ra, tiếp theo một kệ tụng về hộ niệm thứ nhất trước đây, tiếp theo một kệ tụng về thù thắng quan trọng thứ hai, tiếp theo nửa kệ tụng về dụ, tiếp theo nửa kệ tụng về hợp dụ thứ tư. Thứ hai là văn về Đại chúng thưa thỉnh. Trên đây Giải Thoát Nguyệt vì chúng mà thưa thỉnh trước, thưa thỉnh tuy nói là chúng có thể nhưng chưa biết hư thực thế nào? Đại chúng cần phải tự làm sáng tỏ năng lực của mình mà thành lời lẽ thưa thỉnh trước đây, lại bởi vì bắt đầu nói để hiển bày về pháp tôn trọng, cho nên sau đó cùng nhau thưa thỉnh. Văn thưa thỉnh có hai: Một là đồng thanh sinh khởi, hai là chính thức nói kệ thưa thỉnh. Văn kệ có năm kệ rưỡi, bốn kệ rưỡi đầu ca ngợi về người để thưa thỉnh, một kệ sau là ca ngợi về pháp. Ngay trong đoạn đầu, hai kệ trước ca ngợi về người nói, hai kệ rưỡi sau ca ngợi về chúng có thể nghe. Đầu có năm câu ca ngợi Kim Cang Tạng tự thành tựu về lực của Chứng và lực của A-hàm, ba câu sau ca ngợi Kim Cang Tạng có thể khiến cho người nghe tiến vào Chứng và A-hàm. Văn đầu có hai: Một là có bốn câu ca ngợi về thành tựu lực của Chứng; hai là có một câu ca ngợi thành tựu về A-hàm. Ngay trong phần ca ngợi về người nghe: Một kệ rưỡi đầu là Đại chúng tự ca ngợi có đủ Trí đức-Đoạn đức và trước đã có căn, tiếp theo có một kệ ca ngợi có thể suy nghó giữ gìn. Thứ ba trong phần Đức Phật gia hộ thưa thỉnh. Trên đây tuy là chúng Bồ-tát thưa thỉnh, thẳng thắn cảm được mà bởi vì sâu xa, biểu hiện về pháp chưa đến mức cao nhất, cho nên tiếp theo Đức Phật thưa thỉnh. Vả lại, Bồ-tát thưa thỉnh biểu hiện về pháp chưa thù thắng cho nên chờ đợi Đức Phật gia hộ thưa thỉnh. Văn này có hai: Đầu là trình bày về thân gia hộ, sau là trình bày về miệng gia hộ. Thân gia hộ, trong kinh có năm: Đức Thích-ca phóng ánh sáng soi chiếu khắp mười phương; Chư Phật mười phương phóng ánh sáng soi chiếu cõi này; Đại chúng ở cõi này theo ánh sáng thấy được các cõi kia; Đại chúng ở các cõi kia theo ánh sáng thấy được cõi này; Trên đài ánh sáng nói kệ. Trên đài ánh sáng nói kệ lẽ ra thuộc về miệng gia hộ, vì sao ở phần thân gia hộ này? Nhưng âm thanh đã phát ra là do miệng gia hộ thâu nhiếp, nay ở phần này chủ yếu chọn lấy nghiệp chủ động phát ra âm thanh mà phân định là thuộc về thân. Nếu dựa vào bản kinh thì không có, ở cõi này thấy được cõi kia và ở cõi kia thấy được cõi này, cả hai đều không có. Vả lại, kinh sót nghiệp hàng phục thứ năm. Nhưng ánh sáng này là hiển bày về phạm vi của Phật lực và gia hộ cho người nói, không phải là quy tụ chúng…, văn còn lại như Luận. Đến phần thứ hai là miệng gia hộ, văn có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là kệ tụng. Trong kệ có bảy kệ rưỡi, trong đó có hai: Phân biệt về giáo và thưa thỉnh, sáu kệ trước là thưa thỉnh nói ra, một kệ rưỡi sau là giáo nói ra. Thưa thỉnh là làm sáng tỏ về pháp thù thắng khiến cho người tôn trọng cung kính, giáo là hiển bày về nói ra chân thật khiến cho chúng tin tưởng sâu sắc. Phân biệt về gia hộ và thưa thỉnh, ngay phần kệ này trong sáu kệ trước có ba: Một có một kệ rưỡi là chính thức gia hộ, hai có một kệ là gia hộ bằng việc làm, ba có ba kệ rưỡi là làm sáng tỏ về đạt được lợi ích. Văn này có ba: Một kệ đầu là lợi ích về nghe, tiếp theo nửa kệ là lợi ích về lúc tu tập, tiếp theo hai kệ là lợi ích về chuyển sinh. Vả lại, trong văn về chuyển sinh này, kệ hạn hẹp khó hiểu. Ý nghóa của văn, là lực thù thắng của kinh pháp ấy gia hộ cho người nghe, thậm chí nếu lúc kiếp lửa hủy hoại tất cả, thì nhờ được nghe kinh mà trong hai tai họa khác đều được nghe. Hỏi: Người ấy làm sao nghe? Đáp: Vị trời ấy trước đây được nghe từ Đức Phật, nay nói ra cho nghe. Đây là ở nơi cao nhất mà nói, không phải là giới hạn ở lúc này, trong loài rồng trước đây có kinh, cho nên đưa ra mà thôi. Vả lại, ba loại theo thứ tự tức là ba trí Gia hạnh-Chánh thể và Hậu đắc. Điều này nên suy nghó chính xác để thâu nhiếp, cũng có thể là không trú vào Giáo Chứng mà thôi. Thứ hai từ “Nhó thời Kim Cang Tạng Bồ-tát…” trở xuống là nêu ra phạm vi tuyên thuyết khiến cho chúng nhận biết chính xác. Dựa vào trong kinh này, ban đầu kết tập kinh là trình bày về tướng của Kim Cang Tạng sắp nói và hiển bày về ý nói ra, sau là chính thức trình bày về lời lẽ của kệ đã nói ra. Dựa vào trong văn trước, ban đầu nêu rõ về tướng nói ra, quán sát bên ngoài để nói ra, trong tâm xem xét so sánh gọi là quán, cũng có thể mắt nhìn mà nói là quán, hiển bày đã không còn thiên lệch, cho nên nhìn mười phương; sau trình bày về ý nói ra có thể biết. Kim Cang Tạng có hai ý cho nên nói kệ: 1-Tự hiển bày có trí có thể nói ra, lướt qua tâm vì sao nghi ngờ của đại chúng; 2-Làm sáng tỏ đã không sợ Đại chúng không có thể lắng nghe, lướt qua tâm vì sao nghi ngờ của đại chúng. Hỏi: Chúng có lợi ích gì? Đáp: Có hai nghóa cho nên lợi ích: Lợi ích về Nghóa Đại, làm sáng tỏ thật sự phát ra lời nói chỉ có sâu xa là vui thích, cho nên được lợi ích. Thuyết giáo Đại được nghe bây giờ, vì vậy vui mừng sinh khởi niềm tin đích thực sâu sắc. Ngay trong văn kệ có mười ba kệ rưỡi: Trước là bảy kệ rưỡi trình bày về Nghóa Đại, sau có sáu kệ trình bày về Thuyết Đại. Ngay trong văn về Nghóa Đại, văn phân làm hai: Đầu là ba kệ rưỡi hiển bày về pháp của Đức Phật, tiếp theo là bốn kệ nêu ra pháp của Đức Phật ấy giảng giải rõ ràng về Địa. Nay là trình bày về Địa, đâu cần phải hiển bày về pháp vi diệu của Đức Phật ấy? Bởi vì phân rõ nghóa sâu xa ẩn kín của Địa ở tại nhân, làm sáng tỏ nghóa sâu xa hiển bày về pháp của Đức Phật ở tại quả, cho nên trình bày về giáo pháp của Đức Phật để làm rõ về sự sâu xa vi tế của Địa. Nhân và quả cao thấp khác nhau, làm thế nào hiển bày lẫn nhau? Nhưng ở đây tuy là tùy theo người cao thấp, mà Thể của pháp không khác biệt, điều ấy giống như hư không dựa theo giới hạn khác nhau, khác nhau tức là Không, pháp của Địa cũng giống như vậy. Ngay trong văn đầu: Một kệ rưỡi trước là đích thực làm sáng tỏ về pháp vi tế, hai kệ sau là đưa ra Thể tướng vi tế, đó là hai Niết-bàn. Văn trước có hai: Một là tổng quát phân rõ về vi tế, hai từ “Duy trí…” trở xuống là giải thích về tướng. Văn phần một có bốn: Vi tế. biệt. có. Đạo khó biết. Không phải là suy nghó luận bàn, tên gọi không phải là phân Tên gọi Vô cấu trược. Kinh không có câu này, ba câu sau thì Vả lại, từ Vô cấu trược trở xuống có bốn nghóa, cũng có thể là khó đạt được thuộc về phía trên, Vô cấu thuộc về phía dưới, nhưng đều thuộc về hai hướng, nên suy nghó chuẩn xác: Quán giải thanh tịnh. Từ “Trí giả…” trở xuống là hành chứng phù hợp với chân thật. Từ “Tự tánh đẳng…” trở xuống là Thể tánh thanh tịnh. Từ “Bất diệt đẳng…” trở xuống là Đức dụng tự tại. Đây là dựa vào Luận phân rõ, kinh cũng giống như vậy. Lại có trí tuệ thế gian tùy theo nghe mà nhận biết rõ ràng, văn sau nêu ra tùy trí thế gian để hiển bày trí chân thật không tùy theo nghe. Vả lại, Luận kết luận rằng: Quán giải rất vi tế là kết luận về thanh tịnh (bất trược). Y chỉ là kết luận về trí…, lý làm nơi nương tựa cho trí mà thôi. Thanh tịnh rất vi tế là kết luận về tự tánh diệt…, công đức… là kết luận về không sinh-không diệt… Vả lại, thứ nhất là pháp xuất thế cho nên không giống với Định thế gian, thứ hai là thật sự thành tựu cho nên không giống với ngoại đạo, thứ ba là vốn thanh tịnh cho nên không giống với Tôn giả mới thanh tịnh, thứ tư là vắng lặng luôn luôn sử dụng cho nên không giống với Thanh văn…, nghóa còn lại có thể biết. Ngay hai kệ sau là đưa ra Thể tướng vi tế, văn có hai: Đầu có hai câu là tướng giống nhau, sau có một kệ rưỡi là tướng không giống nhau. Tướng không giống nhau có hai: Một, thoát nơi nào, đó là lìa xa các nẽo; hai, có năm câu là làm sao thoát. Năm câu thì phân làm năm: Quán giải tiến vào Như, đó là cùng giống như tướng Niết-bàn. Đối trị lìa xa chướng. Trình bày về Thể-Đức đầy đủ trọn vẹn. Pháp thân ấy là Thường cho nên vượt ra. Có một câu là giải thoát tự Thể vô ngại. Vả lại, Luận nói: Không phải là chỉ đầu-giữa-sau mà chọn lấy trước-giữa-sau, đây là dựa theo nghóa của trí chứ không phải là dựa theo sự của trí. Nghóa nói trí khởi lên thì phiền não (Hoặc) lần lượt diệt, hay là trí sinh thì phiền não diệt, hay là cùng lúc? Đây gọi là giữa (Trung) mà thôi. Lại phiền não diệt rồi sau đó trí thành tựu chăng? Điều này hoàn toàn không thích hợp, bởi vì cùng có lỗi như luôn luôn sinh-luôn luôn không sinh, luôn luôn diệt-luôn luôn không diệt…, cho nên đầu-giữa-sau chọn lấy như tánh duyên khởi. Lại nữa, như vậy quán trí… là theo thứ tự kết luận về tướng không giống nhau-phương tiện-hủy hoại và Niết-bàn trước đây, năm nghóa có thể biết. Trong phần hai nêu ra pháp của Đức Phật trước đây hiển bày về Địa lìa xa nói năng. Trong đó có bốn kệ: Một kệ rưỡi đầu nêu ra hai loại Niết-bàn trước đây bởi vì giống như pháp của Địa, tiếp theo một kệ rưỡi chính thức trình bày về Thể của Địa khó nói-khó nghe, tiếp theo có một kệ dụ về khó nói-khó nghe. Ba câu trong phần trước nhắc lại pháp của Đức Phật trước đây vắng lặng nói năng, sau có ba câu hiển bày về Địa khó nói lại còn khó nghe. Vả lại, Luận nói: Địa là cảnh giới, Quán thì hoặc gọi là phạm vi, hoặc là sở duyên mà thôi. Trong văn thứ hai về Thuyết Đại có sáu kệ, nghóa phân ra có năm: Một kệ ba câu đầu tiên làm sáng tỏ phạm vi của Thuyết, ba câu tiếp theo làm sáng tỏ đã không còn lỗi lầm để khuyến khích chúng trừ bỏ sai lầm, tiếp theo một kệ rưỡi hiển bày về tướng Thuyết ấy tóm lược mà không phải là mở rộng, tiếp theo có một kệ khuyến khích chúng cung kính lắng nghe là làm sáng tỏ đã khéo nói khiến chúng sinh tâm cung kính mến mộ, tiếp theo có một kệ hiển bày đã có được năng lực kết luận về phạm vi của Thuyết. Vả lại, Luận nói: Chỉ nói một phần ấy gọi là phần Nhân. Địa có hai phần, một là nhân, hai là quả. Nhân gọi là phương tiện thực hành tu tập về pháp thế gian, tức là phạm vi của trí gia hạnh. Quả gọi là chân thật Chứng lìa tướng sinh ra, tức là phạm vi đích thực của Chứng. Chân thật Chứng nói năng, tướng của Nhân có thể luận bàn. Nay chỉ nói về Nhân cho nên nói là một phần. Lại cũng có thể dựa theo phần vị, Nhân từ từ thành tựu gọi là Văn-Tư… chứ không phải là lập tức từ từ thành tựu. Lại dựa theo nghóa giúp đỡ thành tựu, phần này có hai nghóa: Giúp đỡ thành tựu về Nhân ấy. Giúp đỡ thành tựu Chứng ấy. Trong giáo thuyết tu có hai: Chân tâm cứu cánh thành tựu đức đầy đủ. Quán tu là Chân tâm lìa xa hư vọng bên trong hiểu rõ pháp giới. Hai loại này tương ưng với Hậu đắc Chánh thuyết cho nên gọi là Giáo Thuyết, nghóa không tương ưng thuộc về Nghóa Đại mà thôi, văn còn lại có thể biết. Ngay trong phần văn về Thuyết có sáu môn phân biệt: Giải thích tên gọi. Trình bày về chướng đã loại trừ. Trình bày về lý đã hiển bày. Trình bày về hạnh đã thành tựu. Quả đã đạt được. Giải thích văn các Địa cùng ở tại nơi này. Giải thích tên gọi, thứ nhất gọi là Hoan Hỷ, thành tựu hạnh tự lợi-lợi tha Vô thượng, lần đầu chứng được trú xứ bậc Thánh sinh tâm rất hoan hỷ, cho nên gọi là Hoan Hỷ địa. Trình bày về chướng đã loại trừ: Theo Địa Luận gọi là chướng về tướng Ngã của phàm phu, theo Nhiếp Luận gọi là Vô minh của tánh phàm phu. Lại phân ra hai chướng: Một là phân biệt ngã-pháp, hai là nghiệp của đường ác. Lại đối trị hai loại nghiệp và một loại báo, gọi là phương tiện sinh tử. Đối trị thế nào? Như hư không…, rộng ra như Luận giải thích. Trình bày về lý đã hiển bày: Đó là hiển bày về nghóa khắp nơi pháp giới. Trình bày về hạnh đã thành tựu: Thành tựu Bố thí độ và mười Nguyện… Trình bày về quả đã đạt được: Nếu giới hạn chọn lấy quả thì chỉ thông hiểu về nghóa Không của chướng, đạt được quả về diệt tất cả các chướng và phần vị của Địa…; nếu gồm chung phân định về quả thì đạt được Lý về ba Vô tánh chỉ có Thức, và đạt được Xa-ma-tha cùng Tỳ-bát-xá-na… Giải thích văn thì có hai, đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là kết thúc phần trước sinh khởi phần sau; hai từ “Nhược chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về Thể tướng của Địa. Văn này có hai: Một, phân rõ về phần Thuyết; hai, từ “Bồ-tát như thị an trú…” trở xuống là phần so sánh thù thắng. Văn phần Thuyết có một trăm câu: Bốn mươi câu đầu gọi là phần Trú, ba mươi câu tiếp theo gọi là phần Giải thích tên gọi, ba mươi câu sau cùng nói là An trú. Bốn mươi câu trước như Luận nên biết, nhưng trong mười câu đầu thì kinh sót “Tịnh tâm tập”. Ngay trong ba mươi câu về Giải thích tên gọi, đầu là mười Đa hỷ, trong phần này kinh sót văn “Khánh hỷ”. Theo trong Luận nói: Tâm hỷ, Thể của tâm không phải là hỷ mà thâu nhiếp hỷ theo tâm, Thể của hỷ cũng như vậy; Căn hỷ là lấy Thể sau khi thành tựu làm Căn, không phải là Hỷ căn. Tiếp theo là mười Niệm sẽ đạt được, sau cùng là mười Niệm đang đạt được. Ngay trong Niệm đang đạt được có hai: Một là chính thức trình bày về những Niệm đang đạt được, hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là mở rộng giải thích về lìa xa năm loại sợ hãi, cũng có thể ngay trong Niệm thứ mười mà phân ra. Ngay trong văn giải thích về sợ hãi có hai, một là vặn hỏi, hai là trả lời. Trong phần trả lời có ba: Một, trình bày về quả đã lìa xa; hai, từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu tướng lìa xa; ba, từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là tổng quát để kết thúc. Vả lại, Luận nói: Trước là nói về sợ hãi của thân, sau là sợ hãi của thân khác, trước là trình bày tổng quát, sau là phân rõ riêng biệt, cho nên nói là thân khác, không phải là ngoài thân mà thôi. Ngay văn về phần An trú có ba: Một là trình bày tổng quát về An trú, hai từ “Sở vị tín tâm…” trở xuống có ba mươi câu trình bày riêng biệt về An trú, ba từ “Bồ-tát thành tựu như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận về An trú. Ngay trong ba mươi câu mở rộng phân rõ, đầu là mười Tín, tiếp theo là mười Hạnh, tiếp theo là mười Hồi hướng, văn còn lại như Luận. Thứ hai là văn so sánh về Nguyện có ba: So sánh thù thắng về Nguyện. So sánh thù thắng về Hạnh. So sánh thù thắng về Quả. Nói về mười Nguyện: Nguyện cúng dường chư Phật; Nguyện hộ trì Chánh pháp; Nguyện thâu nhiếp về pháp Thượng thủ; Biết tâm của chúng sinh; Tên gọi cảm hóa chúng sinh; Nhận biết thế giới; Đều là Tịnh độ; Tâm hành như nhau; Ba nghiệp không uổng phí; Thành tựu Bồ-đề. Theo Nhiếp Luận có mười Nguyện: Nguyện cúng dường là nguyện cúng dường bậc Pháp Chủ đầy đủ phước điền thắng duyên. Nguyện thọ trì là nguyện thọ trì Chánh pháp vi diệu thù thắng. Nguyện chuyển pháp luân là nguyện ở giữa Đại chúng quy tụ chuyển pháp luân chưa từng có. Nguyện tu hành là nguyện như thuyết tu hành tất cả Chánh hạnh của Bồ-tát. Nguyện thành tựu là nguyện thành tựu căn thiện ba Thừa của khí thế giới chúng sinh này. Nguyện thừa sự là nguyện đến các cõi Phật thường thấy chư Phật luôn luôn được cung kính hầu hạ lắng nghe tiếp nhận Chánh pháp. Nguyện Tịnh độ là nguyện chúng sinh ở cõi mình thanh tịnh an trú trong Chánh pháp và luôn luôn tu hành. Nguyện không xa lìa là nguyện đối với tất cả mọi nơi sinh ra luôn luôn không lìa xa tất cả chư Phật Bồ-tát được cùng chung ý hành. Nguyện lợi ích là nguyện ở tất cả mọi lúc luôn luôn làm việc lợi ích cho chúng sinh không hề có trôi qua trống rỗng. Nguyện Chánh giác là nguyện cho tất cả chúng sinh cùng đạt được Vô thượng Bồ-đề luôn luôn làm Phật sự. Lại mười Nguyện này cùng với nghóa của mười Nguyện trước giống nhau không khác. Ngay trong văn kinh có bốn: Một là kết thúc phần trước sinh khởi phần sau; hai là chính thức trình bày về Thể của Nguyện, nhưng Nguyện thứ nhất sót hai câu, trong Nguyện thứ chín sót “Như ý bảo thân”; ba từ “Chư Phật tử…Đại Nguyện…” trình bày về tu phương tiện của Nguyện; bốn từ “Dó thập bất khả…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Nếu dựa vào bản Luận thì trình bày riêng biệt về mười Vô tận thành tựu Đại Nguyện trước đây; nếu dựa vào bản kinh thì chính là Vô tận thứ tư kết thúc về Nguyện vô tận. Ngay trong văn này có bốn: Một, nêu ra pháp và Nguyện để lập Tông; hai, từ “Hà đẳng vi thập…” trở xuống là nêu ra mười pháp Tận, có hai có thể biết; ba, từ “Nhược chúng sinh tận…” trở xuống là lấy pháp đối với Nguyện hiển bày ngược lại thành Tận; bốn, từ “Nhi chúng sinh…” trở xuống là kết luận thuận theo Vô tận. Lại trong Nguyện thứ sáu, Luận nói: Phân rõ trong thô tế, đều nói tùy theo sự thô tế của ý-thức-thân-sắc-tâm nào do đó cõi cũng thô tế, tướng còn lại như Luận. Lại ba loại-ba chuyển, thì ngay trong câu riêng biệt về mười Tận, bốn loại về Chúng sinh giới, Thế giới, Không giới và Tâm duyên giới là Thế gian chuyển; Pháp giới, Niết-bàn giới, Phật trí nhập giới, ba loại này gọi là Pháp chuyển; Phật xuất thế giới, Như Lai trí giới, hai loại này là Trí chuyển. Văn thứ hai là so sánh thù thắng về Hạnh, có ba: Một là nhắc lại phần trước phát khởi phần sau, hai là chính thức giải thích về Thể của Hạnh, ba từ “Chư Phật tử tất tri dó…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Trong văn phần hai là giải thích về Thể của Hạnh có ba: Một, Đại Nguyện xông ướp tâm thành tựu lợi ích về an lành…; hai, từ “Như thị tắc thành…” trở xuống là người thành tựu về Tín; ba, từ “Lạc dó tín phân biệt…” trở xuống là mở rộng trình bày về tướng của Tín. Văn này thì mười Hạnh tức là mười đoạn. Thứ nhất là Tín, văn có ba: Một là tổng quát về lập Tông, hai là giải thích riêng biệt, ba từ “Cử yếu ngôn chi…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Thứ hai là giải thích về Từ Bi, văn có hai: Một là nêu ra ba môn làm sở quán, hai là hướng về phát khởi Từ Bi. Văn phần một có ba, như Luận nên biết. Vả lại, Luận nói: Phân rõ về ba Không lìa xa ba chướng trong rời xa Đệ nhất nghóa Lạc, đó là phân biệt về tướng lấy-bỏ… tức là chướng thuộc về ba tánh. Hạnh còn lại như Luận có thể hiểu. Văn thứ ba là so sánh thù thắng về Quả, có bốn quả, như Luận nên biết. Thứ nhất trong quả Điều nhu: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có bốn: Một là thấy nhiều Đức Phật là duyên của khởi hạnh, hai từ “Tâm đại hoan hỷ…” trở xuống là trình bày về năng lực luyện tập thực hành, ba từ “Đa dó nhị nhiếp…” trở xuống là nương theo sự luyện tập thực hành trước đây trình bày riêng biệt về đức của Địa, bốn từ “Thị Bồ-tát…” trở xuống là trình bày sự luyện tập thanh tịnh. Thứ hai trong quả Phát thú, văn phân làm hai: Một là giải thích, hai là kết luận. Văn phần một có bốn: Pháp. Dụ. Hợp. Kết luận. Trong Pháp-Dụ-Hợp đều có bốn câu: Một là hỏi về pháp của Địa, hai từ “Thị Bồ-tát thiện tri…” trở xuống là trình bày về pháp hiểu biết, ba từ “Chư Phật tử…” là trình bày về năng lực thực hành công hạnh, bốn từ “Đắc chư Địa trí…” trở xuống là trình bày về năng lực đến được. Bốn câu trong Dụ và Hợp đều giống như vậy. Thứ ba trong quả Nhiếp báo, văn có hai: Một là quả tại gia, hai là quả xuất gia. Tại gia có hai: Một là quả thù thắng phía trên, hai từ “Năng dó Đại thí…” trở xuống gọi là dựa vào quả báo của vua mà phát khởi công hạnh thù thắng. Thứ tư là quả Nguyện trí, như Luận nên biết. Thứ hai trong phần kệ tụng có bốn mươi lăm kệ rưỡi: Hai mươi hai kệ đầu tụng về phần Thuyết trên đây, tiếp từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là hai mươi mốt kệ rưỡi tụng về phần so sánh thù thắng, tiếp theo hai kệ là tổng quát kết luận ca ngợi. Trong văn phần đầu: Mười một kệ đầu tụng về phương tiện của Địa và văn về Trú Địa, tiếp từ “Thị Bồ- tát…” trở xuống năm kệ rưỡi tụng về giải thích tên gọi của Địa và năm sự sợ hãi, tiếp từ “Thường hành…” trở xuống năm kệ rưỡi tụng về văn An trú. Tiếp đến trong văn hai mươi mốt kệ rưỡi: Năm kệ rưỡi đầu tụng về kết luận mười Nguyện và văn Vô tận, tiếp theo sáu kệ tụng về văn mười Hạnh như Tín…, tiếp từ “Trí giả ư nhật dạ…” trở xuống là mười kệ tụng về so sánh quả. Trong đó một kệ đầu tụng về quả Điều nhu, tiếp theo ba kệ tụng về quả Phát thú, tiếp theo năm kệ rưỡi tụng về quả Nhiếp báo, tiếp từ “Nhược dó nguyện lực…” về sau nửa kệ tụng về quả Nguyện trí. Trong Địa thứ hai có sáu môn giống như trước. Nói đến giải thích tên gọi, thì lìa xa những phiền não cấu trược có thể khởi lên tâm sai lầm phạm giới, giới thanh tịnh đầy đủ cho nên gọi là Ly Cấu địa. Trình bày về đã lìa xa, theo Địa Luận thì tà hạnh chướng ngại đối với thân của chúng sinh…, theo Nhiếp Luận thì dựa vào thân nghiệp… đối với các chúng sinh khởi lên tà hạnh vô minh. Lại đối trị hai chướng: Một là phạm sai lầm vi tế, hai là các loại nghiệp hạnh về tướng. Lại đối trị hai nghiệp chướng và một báo về phương tiện sinh tử. Đã hiển bày, là hiển bày về nghóa thù thắng nhất. Đã thành tựu, là thành tựu về Giới độ. Đã đạt được quả, nếu thông đạt về công đức thù thắng nhất của pháp giới, thì đạt được quả Vô đẳng Bồ-đề thù thắng nhất đối với tất cả chúng sinh; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất. Giải thích văn thì có ba: Một là kệ sinh khởi, hai là trường hàng chính thức giải thích, ba là kệ tụng kết luận về phần trước. Thứ nhất là kệ có hai: Văn ba kệ đầu là Đại chúng được lợi ích, ba nghiệp cúng dường tức là ba; tiếp theo có hai kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh sinh khởi văn của Địa sau. Thứ hai là chính thức giải thích, trong văn có hai đoạn kinh: Một là phát khởi thanh tịnh, hai là tự Thể thanh tịnh. Phát khởi là hướng về Địa, phương tiện sinh khởi ba tụ tịnh giới trong Địa sau gọi là phát khởi thanh tịnh. Ba tụ tịnh giới là Chánh hạnh trong Địa, cho nên gọi là tự Thể thanh tịnh. Ngay trong văn phần một có ba: Một là Bồ-tát Kim Cang Tạng kết thúc phần trước sinh khởi phần sau, hai từ “Hà đẳng vi thập…” trở xuống là chính thức giải thích về phát khởi, ba từ “Bồ-tát dó thị…” trở xuống là kết luận thành tựu lợi ích. Hai là văn về tự Thể, toàn phần có hai: Một, trình bày về Thể của hạnh; hai, phân rõ về quả của Địa. Một là Thể của hạnh, văn có ba: Trước là giải thích về luật nghi, tiếp là giải thích về thâu nhiếp thiện, sau là phân rõ về thâu nhiếp chúng sinh. Trong mười Địa này phân văn không nhất định, Địa thứ nhất và thứ mười cùng phân là tám, Địa này là hai, Địa thứ ba-bốn-chín là bốn, Địa thứ năm-sáu cùng phân là ba, Địa thứ bảy là năm, Địa thứ tám là bảy, đều tùy theo một pháp mà thôi. Đây là bởi vì pháp của Địa rất sâu xa cho nên phương tiện phỏng theo để hiển bày, không phải là chỉ một Địa có một môn này. Ngay trong luật nghi, toàn phần có hai: Thứ nhất là trình bày về tánh giới thành tựu lập tức lìa xa mọi lỗi lầm, thứ hai từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là hộ trì suốt đời. Ngay trong văn thứ nhất lại phân có hai: Một là trình bày về tự tánh thành tựu, hai từ “Viễn ly nhất thiết…” trở xuống là lập tức lìa xa mọi lỗi lầm. Lại trong Luận nói: Hai loại này là bạn, nhớ lại lời nói của hai người, tìm đến hai người ấy giả làm bạn thân. Còn trong kinh nói nghe ở đây không đến nói ở nơi khác, bởi vì điều này không tốt…, là phân rõ về ý giữ gìn, sợ rằng hai bên làm hại lẫn nhau cho nên không nói. Lại bảy loại tà kiến khác tướng trong tà kiến thứ mười: Một loại là tà kiến Thừa khác dựa vào hạnh xuất thế riêng biệt; tiếp là hai loại dựa vào pháp tương tự mà khởi lên, nhưng Ký và Vô ký phân hai; tiếp là một loại dựa vào vọng chấp không đúng; tiếp là hai loại dựa vào pháp ẩn kín mà sinh khởi, nhưng một dụng bên trong-một dụng bên ngoài phân hai; tiếp là một loại dựa vào pháp thế gian mà sinh khởi. Trong kinh sót các văn về câu thứ nhất-thứ ba… Lại quyết định tin sâu sắc là Thừa khác, nhân duyên tội phước là kiến che lấp, như văn nên biết, cần phải suy nghó chính xác, văn còn lại như Luận. Thứ hai là văn về nhiếp thiện pháp giới, văn riêng biệt có năm, nghóa riêng biệt có bốn, chủ yếu thâu nhiếp làm hai. Nói về văn có năm thì như trong văn sau, năm chỗ nêu ra kinh-luận giải thích riêng biệt. Nghóa riêng biệt có bốn: 1-Trí; 2-Nguyện; 3-Quán; 4-Hạnh. Đầu tiên suy nghó về chúng sinh, tùy theo tất cả điều ác đều bởi vì mười bất thiện đạo, đó là Trí; mình nên tự an trú…, đó là Nguyện. Văn này có ba có thể biết. Lại từ “Thâm tư duy…” trở xuống cho đến “…Như Lai”, đó là Quán, từ “Thị cố ngã ưng…” trở xuống, đó là Hạnh. Chủ yếu là hai, hai loại đầu là một cặp, Trí làm phương tiện về sau phát khởi Chánh nguyện; hai loại sau là một cặp, Quán làm phương tiện về sau phát khởi Chánh hạnh. Văn còn lại như Luận. Thứ ba là văn về nhiếp chúng sinh giới, toàn phần có hai: Một là mở rộng trình bày về thâu nhiếp chúng sinh, hai từ “Chư Phật tử thị Bồ- tát như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận về thâu nhiếp chúng sinh. Nghóa còn lại như Luận. Hỏi: Sát sinh… sao cảm được hai loại quả trong loài người? Đáp: Tập này không phải là Tập khí, Tập này gọi là Tập còn thừa lại, thuận theo nghiệp của loài người ở trong loài người nhận lấy Báo khác, Chánh báo tùy theo Đoạn… vẫn là Báo không nhất định trong loài người, nên có thể dựa theo. Nếu dùng danh ngôn mà mong cầu hai Báo thì cũng có hơn kém, bởi vì có và không có đều không nhất định, điều này nên suy nghó. Trải qua ba đường thì nghóa cũng không nhất định, nói rộng ra như Đại Luận. Lại hai điên đảo ác ý chuyên niệm hành, quán sát về duyên gọi là ý. Bởi vì hai điên đảo về Thường-Lạc hiện khởi trong duyên cho nên gọi là ý, trái với lý gọi là ác, là tác ý khởi lên phiền não mà phát sinh gọi là chuyên niệm hành. Hai điên đảo ác tâm không phải là chuyên niệm, Tập khởi căn bản là nghóa của tâm, hai điên đảo về Ngã-Tịnh hướng đến Thường-Lạc trước đây. Bởi vì Tập khởi căn bản cho nên nói là tâm, Ngã là gốc của Thường, Tịnh là nguồn của Lạc. Hai tánh này thành tựu, bởi vì không phải là tác ý sinh khởi, cho nên gọi là không phải chuyên niệm. Lại trong truy tìm Hậu báo, kinh sót câu thứ tám trong Chướng và câu thứ nhất trong Cọng. Lại trong phần về cõi sai biệt, trong câu riêng biệt thứ hai, thì câu thứ nhất trong kinh là câu thứ ba trong luận. Trong văn thứ hai về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu có ba: Một là tướng Điều nhu, hai từ “Bồ-tát nhó thời…” trở xuống là phân biệt về hành tướng của Địa, ba từ “Phật tử thị danh…” trở xuống là kết luận nói về tướng của quả. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Một, thấy chư Phật là duyên của khởi hạnh; hai, năng lực luyện tập thực hành; ba, sự luyện tập thực hành thanh tịnh. Trong năng lực có ba: Đầu là trình bày về cúng dường, tiếp là trình bày về hồi hướng, sau là thọ mười pháp thiện để thực hành. Dựa vào kinh tóm lược không có hồi hướng. Quả Nhiếp báo giống như Địa thứ nhất. Theo trong Nhiếp Luận từ Địa thứ hai trở đi có tám loại thanh tịnh, trong này thấy chư Phật tức là thấy Phật thanh tịnh ở Luận kia, trong này khoác y cho đến tâm cung kính tức là niềm tin thanh tịnh ở Luận kia, trong này giới thanh tịnh tức là Ba-la-mật ở Luận kia, trong này làm vua tức là thứ sáu thành thục chúng sinh ở Luận kia, trong này niệm Phật tức là tâm thanh tịnh ở Luận kia, trong này làm đầu… tức là Từ Bi ở Luận kia, trong này trú ngàn kiếp… tức là Sinh thân thanh tịnh ở Luận kia, trong này mặt đất chấn động… tức là uy đức ở Luận kia, Địa còn lại dựa theo như vậy. Ba là trùng tụng, văn có hai: Một là trình bày về ý tuyên thuyết, hai là chính thức tụng. Tụng có hai mươi sáu kệ, văn phân có bốn: Hai kệ đầu tụng về phát khởi, tiếp theo mười sáu kệ tụng về tự Thể thanh tịnh, tiếp có bảy kệ tụng về lợi ích của quả, tiếp là một kệ tụng kết luận ca ngợi. Trong văn về tự Thể: Đầu có bốn kệ tụng về lìa xa giới thanh tịnh, tiếp có bốn kệ tụng về thâu nhiếp pháp thiện, tiếp có tám kệ tụng về thâu nhiếp lợi ích chúng sinh. Trong văn về chúng sinh: Đầu có ba kệ tụng về quy tụ nguyện hạnh…, tiếp có năm kệ tụng về văn quy tụ quả. Trong phần ba là lợi ích của quả: Đầu là hai kệ tụng về quả Điều nhu, tiếp có bốn kệ tụng về quả Nhiếp báo, tiếp là một kệ tụng về quả Nguyện trí. Trong Địa thứ ba có sáu môn giống như trước. Giải thích tên gọi, tùy theo Văn-Tư-Tu… soi chiếu pháp hiển bày rõ ràng, cho nên gọi là Minh địa. Đã lìa xa, theo Địa Luận thì tướng tối tăm làm chướng ngại quên mất đối với các pháp Văn-Tư-Tu…, theo Nhiếp Luận thì Vô minh làm cho tâm chậm chạp khổ sở, Vô minh làm quên mất Văn-Tư-Tu. Lại có hai loại Vô minh: 1-Dục ái vô minh; 2-Đầy đủ Văn trì Đà-la-ni vô minh. Có hai nghiệp chướng và một báo về phương tiện sinh tử. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghóa của chủng loại thù thắng. Trình bày về đã thành tựu, tức là thành tựu về hạnh Nhẫn và bốn Định. Trình bày về đã đạt được quả, thông đạt về công đức văn cú thuộc chủng loại thù thắng của pháp giới, đạt được pháp âm vô biên, cho đến có thể đầy đủ ý muốn của tất cả chúng sinh về quả và phần vị của Địa thứ ba; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất. Giải thích văn có ba: Một là kệ tụng phát khởi, hai là chính thức trình bày về Thể an trú của Địa, ba là kệ trùng tụng. Một là trong văn kệ có hai: Một, có sáu kệ về ba nghiệp của Đại chúng cung kính ca ngợi phần tuyên thuyết trước đây; trong phần này có ba, một kệ đầu là vui mừng, một kệ tiếp là mưa hoa, bốn kệ tiếp ca ngợi về đức. Hai, có bốn kệ sinh khởi phần thưa thỉnh sau; trong phần này ba kệ đầu là Đại chúng thưa thỉnh, tiếp một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh. Hai là văn về Thể của Địa, sai biệt có bốn: Một, phần hạnh sinh khởi chán ngán; hai, phần hạnh chán ngán; ba, trình bày về phần chán ngán; bốn, phần quả chán ngán. Văn phần một có ba: Một là kết thúc phần trước sinh khởi phần sau khuyến khích tu tập bắt đầu tiến vào, hai từ “Hà đẳng vi thập…” trở xuống là chính thức phân rõ về sinh khởi chán ngán, ba từ “Bồ-tát dó thị…” trở xuống là kết luận về hạnh có thể tiến vào. Trong phần hai là hạnh chán ngán có ba: Một là tu về hạnh bảo vệ phiền não, hai là tu về hạnh bảo vệ Tiểu thừa, ba là tu về hạnh phương tiện thâu nhiếp thực hành. Văn phần một có hai: Mười câu đầu phân rõ về Vô thường, mười câu tiếp theo là không có người cứu giúp. Trong phần hai là bảo vệ Tiểu thừa có ba mươi câu: Đầu có mười câu là trình bày về mong cầu trí Phật bảo vệ tâm Tiểu thừa kia, sau có hai mươi câu nghó về lợi ích chúng sinh bảo vệ tâm hẹp hòi kia. Văn phần đầu có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong phần sau là bảo vệ tâm hẹp hòi, mười câu đầu là khởi tâm Bi, mười câu sau là cứu độ, Độ là lợi ích của tâm Bi; cũng có thể mười câu đầu là tâm Bi, mười câu sau là tâm Từ. Ở trong mười câu trước, đầu là tổng quát, sau là riêng biệt; ở trong mười tâm cứu độ sau, đầu là nhắc lại phát khởi trước đây, sau là trình bày tổng quát về tâm cứu độ. Thứ hai là riêng biệt trình bày về tâm cứu độ. Trong riêng biệt có chín câu: Ba câu đầu là nơi cứu độ, tiếp hai câu là hành cứu độ, tiếp ba câu là phân rõ về phần trước, sau cùng một câu là quả của cứu độ. Trong phần ba là phương tiện thâu nhiếp. Trong phần này có năm: Khởi lên quán sát phương tiện, nhắc lại ba tâm trên phát khởi quán sát mong cầu về sau; Từ “Tức thời dục cụ…” trở xuống là nêu ra hướng về phương tiện, nêu ra Phật tuệ làm sáng tỏ nơi hướng về; Từ “Tác thị tư duy…” trở xuống là quán sát mong cầu phương tiện, quán sát suy xét tìm tòi phương pháp cứu độ chúng sinh; Từ “Tức thời tri trú…” trở xuống là chính thức biết rõ phương tiện; Từ “Bồ-tát như thị tri dó…” trở xuống là chuyển sang tu pháp phương tiện, tu hạnh nghe pháp thâu nhiếp giữ lấy Chánh pháp. Phần thứ tư là chính thức biết rõ phương tiện, trước nghó đến chúng sinh rơi vào trong nghiệp khổ phiền não, dùng phương tiện gì mà cứu giúp họ, khiến cho đạt được niềm vui trọn vẹn của Niết-bàn, liền biết rõ không lìa xa Trí không có chướng ngại là Trí của Như Lai. Trí từ đâu sinh ra? Liền biết rõ không lìa xa Giác ngộ như thật từ Địa thứ tám trở lên mà phát khởi. Giác ngộ từ đâu sinh ra? Liền biết rõ không lìa xa Tuệ hành Vô sinh từ Địa thứ tư trở lên. Tuệ từ đâu có được? Liền biết rõ không lìa xa Thiền định của Địa thứ ba. Định từ đâu sinh ra? Liền biết rõ không lìa xa nghe pháp. Vì vậy Bồ-tát trước hết mong cầu Chánh pháp, đã nghe pháp rồi ở nơi vắng lặng tư duy, tư duy rồi tu tập tiến vào Thiền định Vô sắc, dựa vào Thiền định này quán về pháp Vô sinh phát khởi Tuệ xuất thế, dựa vào Tuệ vô sinh mà Giác ngộ như thật, dựa vào Giác ngộ như thật mà đạt được Trí vô ngại, đã đạt được Trí rồi liền đến cứu độ chúng sinh, biết rõ về tướng như vậy. Phần thứ năm là phương tiện thâu nhiếp chúng sinh, trong văn có hai: Một là trình bày về cầu pháp sinh ra ý tưởng khó gặp mà có thể xả bỏ tài vật bên ngoài. Văn này có hai: Một, sinh ra ý tưởng khó gặp. Hai, từ “Đản ư thuyết pháp giả…” trở xuống là coi trọng người xem nhẹ vật báu, trong này có năm câu, đây chính là câu thứ nhất; bởi vì cầu pháp cho nên…, là câu thứ hai; vì pháp mà bố thí, lại vì cầu pháp mà làm người phục vụ cho pháp, là câu thứ ba; phá trừ kiêu mạn không có gian khổ nào không chịu đựng, là câu thứ tư; đối với trên không cung kính là Kiêu mạn, đối với dưới chấp ngã gọi là Ngã mạn, đối với ngang hàng tự cho mình lớn hơn gọi là Đại mạn; nếu có được một câu rồi về sau đạt được tâm là tài sản thù thắng, tức là câu thứ năm. Trong này, đưa vào so sánh tổng quát thành ra có ba câu, so sánh thứ nhất này làm thành một câu, từ “Đắc văn nhất kệ…” trở xuống là so sánh thứ hai, từ “Thị Bồ-tát nhược hữu nhân lai…” trở xuống là so sánh thứ ba, văn còn lại có thể biết. Hai từ “Hựu như sở văn…” trở xuống là tùy theo văn có thể thực hành. Giải thích trong phần chán ngán, văn phân có ba: Một, nhắc lại nghe pháp rồi ở nơi vắng lặng suy nghó trong phần trước để phát khởi giảng giải phần sau; hai, trình bày về Thể của chán ngán; ba, trình bày về ý tiến vào, là thuận với pháp hành mà không đắm trước. Trong văn thứ hai, trong Sơ thiền thì lìa pháp dục ác-bất thiện tức là lìa chướng. Loại trừ có bốn loại: Tổng quát về tướng loại trừ ác-bất thiện của cõi Dục cho nên gọi là lìa pháp dục ác-bất thiện. Theo Long Thọ thì lìa xa năm dục gọi là lìa dục, đoạn trừ năm Cái gọi là lìa bất thiện, cho nên Long Thọ nói hướng đến Sơ thiền lìa xa năm pháp đoạn trừ năm pháp. Theo Tỳ-đàm luận thì năm dục lìa bỏ cho nên gọi là lìa dục, đoạn trừ mười ác cho nên gọi là lìa ác, trừ bỏ năm Cái cho nên gọi là lìa bất thiện. Dựa vào Thành Thật luận thì đoạn trừ tâm tham dục gọi là lìa dục, cũng rời bỏ sát sinh… gọi là lìa pháp ác-bất thiện. Có giác có quán là đối trị, tư duy thô gọi là Giác, tư duy tế gọi là Quán. Vì vậy Long Thọ nói: “Ví như lắc chuông, âm thanh thô dụ cho Giác, âm thanh tế dụ cho Quán. Ly sinh hỷ lạc là lợi ích, vui mừng rời bỏ dục ác, vì vậy sinh khởi niềm vui lìa xa, lỗi lầm nhờ đó chấm dứt, cho nên gọi là Lạc.” Tiến vào hành Sơ thiền là chi Nhất tâm thuộc về Thể của Định. Vì sao chỉ riêng chi này gọi là thiền hạnh? Bởi vì Nhất tâm là Thể của thiền cho nên gọi là thiền hạnh. Ngay trong Nhị thiền, diệt mất giác quán là diệt trừ chướng ngại ấy. Trong diệt trừ chướng ngại, giác quán có ba: Chính là tâm Định. Lúc xuất Định. Giác thô động trong Thức thân. Hai loại này đều là tâm loạn động, Nhị thiền vắng lặng thù thắng đều cùng diệt trừ. Nói là thanh tịnh bên trong (nội tịnh), đó là chi Đối trị. Nếu có giác quán thì loạn động không vắng lặng, Nhị thiền vắng lặng thù thắng lìa xa loạn động bên ngoài, cho nên nói là thanh tịnh bên trong. Nói là một nơi(nhất xứ), đó là làm sáng tỏ về tướng đối trị, tâm thanh tịnh bên trong trú vào một cảnh, lại không duyên với pháp khác, cho nên nói là một nơi. Vì vậy trong luận Xá-lợi A-tỳ-đàm nói: “Trong Địa của cõi Dục, tâm hoạt động ở sáu nơi, bởi vì sáu Thức thân chọn lấy sáu trần; trong Địa của Sơ thiền, tâm hoạt động ở bốn cảnh, bởi vì bốn Thức thân hoạt động ở bốn cảnh. Bởi vì từ Sơ thiền trở lên không có Tỷ-Thiệt thức, cho nên chỉ nói là bốn mà thôi; từ Nhị thiền trở lên, tâm hoạt động ở một nơi, bởi vì chỉ có Ý thức thân duyên với pháp trần, lại còn nối tiếp nhau không gián đoạn, không dứt mất cũng gọi là một nơi.” Phần sau trong Luận giải thích có đủ hai nghóa này. Không có giác quán là hiển bày về chủ động đối trị, chủ động đối trị giác quán, trước đây diệt mất giác quán là thẳng thắn làm sáng tỏ lìa xa lỗi lầm, như nói Diệt đế bởi vì là vô lậu; nay dựa vào chủ động đối trị làm sáng tỏ không có giác quán, như nói Đạo đế bởi vì là vô lậu. Định sinh hỷ lạc là lợi ích, trước đây trong Sơ thiền bắt đầu rời bỏ dục ác, vui mừng lìa xa cho nên Hỷ; nay trong Nhị thiền thì pháp sinh khởi từ bên trong, vui mừng đạt được cho nên Hỷ; Lạc giải thích giống như trước. Tiến vào hành Nhị thiền là chi Nhất tâm thuộc về Thể của Thiền. Ngay trong Tam thiền, nói đến Ly Hỷ là diệt trừ chướng ngại. Nhị thiền thì tâm Hỷ phân biệt, tưởng sinh ra loạn động nhiều lỗi lầm; Tam thiền thì tâm Định chuyển sang vắng lặng cho nên diệt mất, Hành Xả-Niệm Tuệ là đối trị của nó. Nói đến Hành Xả thì đó là chi Xả, tâm hành điều hòa dừng lại, rời bỏ lỗi lầm về Hỷ kia, cho nên gọi là Xả. Đây là Xả về Số chọn lấy khác với Xả về Thọ, bởi vì làm sáng tỏ về hành. Nói đến Ức Niệm thì đó là chi Niệm, nghó đến lỗi lầm về Hỷ trước đây, giữ tâm ở một cảnh, cho nên gọi là Niệm. Nghó đến và nhớ lại cùng chung là bạn mà nói, cho nên gọi là ức niệm. Nhớ lại có thể gợi mở hiểu biết giúp cho Niệm lực mạnh lên, vì lẽ đó cùng nêu ra; cũng có thể dựa vào nói về Niệm mà gọi là Ức, như Thể tánh của bốn Niệm xứ là Tuệ mà gọi là Niệm, ở đây cũng giống như vậy. Nói đến An Tuệ thì đó là chi An Tuệ, phân biệt về lỗi lầm của Hỷ gọi là Tuệ, Tuệ vắng lặng gọi là An. Thân cảm thọ vui sướng(thọ lạc) đó là lợi ích, làm cho vui sướng gọi là Lạc. Nói đến Thân thọ, Thọ có hai loại, đó là thân và tâm phân biệt có hai: Dựa vào căn phân biệt, Thọ trong năm Thức dựa vào Sắc căn mà sinh khởi, cho nên gọi là Thân thọ; Thọ trong ý thức từ Ý căn mà sinh khởi, cho nên gọi là Tâm thọ. Dựa vào lợi ích của thân tâm mà phân biệt, Thọ thuộc phẩm Hạ vui sướng ở tâm gọi là Tâm thọ, Thọ thuộc phẩm Thượng vui sướng tràn đầy thân tâm, dựa vào những nơi tràn đầy từ ngọn mà gọi tên, cho nên nói là thân tâm. Nay theo nghóa sau, vui sướng nơi tâm pháp, từ nơi này tăng lên tràn đầy thân tâm, cho nên nói là Thân thọ. Hiển bày về vui sướng tăng lên, vui sướng là tâm pháp, nghóa về Thọ trong tâm không cần phải bàn luận. Nói đến các bậc Hiền Thánh có thể nói Xả, niềm vui này sâu xa thù thắng chỉ có Hiền Thánh có thể nói là lỗi lầm, có thể tự mình rời bỏ được, chứ không phải là năng lực của hàng phàm phu, mà có thể làm sáng tỏ về niềm vui sâu xa này. Nói đến Niệm thọ lạc tiến vào Tam thiền, đó là chi Nhất tâm thuộc về Thể của Thiền, nghóa là nghó đến lỗi lầm cảm thọ niềm vui của Địa mình mà tiến vào Nhất tâm. Ngay trong Tứ thiền, đoạn Khổ-đoạn Lạc diệt hết Ưu-Hỷ là diệt trừ chướng ngại, cách tuyệt bốn Thọ trình bày về thiền bất động. Nói về đoạn Khổ thì Khổ thật sự diệt hết ở trong Nhị thiền, bởi vì muốn thiền làm sáng tỏ Tứ thiền là bất động tuyệt dứt bốn Thọ, cho nên ở đây nói đến Đoạn; cũng có thể chỉ cho Lạc của Tam thiền kia, bởi vì là Khổ cho nên đoạn Lạc của Tam thiền thì gọi là đoạn Khổ. Vì sao như vậy? Bởi vì Lạc của Tam thiền kia hướng về tâm thô của người mà nói là Lạc, hướng về tâm vắng lặng sau này thì chính là Khổ rất lớn; giống như ở thế gian đưa tay đánh cây, đối với người thức thì nói đó là vui, đối với người ngủ thì cho là rất khổ sở, ở đây cũng như vậy, cho nên nói là đoạn Lạc. Đoạn Lạc là đoạn Lạc của Tam thiền, bởi vì Lạc ấy thô động, cho nên ở Tứ thiền đoạn hết. Trước diệt Ưu là diệt ở Sơ thiền, trước diệt Hỷ là diệt ở Tam thiền, đều diệt ở trước đây, cho nên nói là trước. Đã không phải là diệt ở Tứ thiền, vì sao luận đến? Cũng bởi vì hiển bày về Tứ thiền là bất động. Nếu như đoạn Ưu-Hỷ ở Địa trước vốn là làm sáng tỏ về diệt trước, thì Khổ cũng diệt trước, sao không nói là trước? Giải thích rằng làm sáng tỏ về trước, lý cũng không có gì tổn hại, nhưng ở đây bởi vì trình bày về Khổ tuy là đoạn trước, mà đối với Lạc của Khổ bởi vì đoạn ở trong này, cho nên đối với Khổ của Lạc không có thể nói là trước. Nếu như nói rằng đoạn Khổ trước, thì người cho rằng Lạc kia cũng là đoạn trước, vì vậy không làm sáng tỏ trước. Ưu và Hỷ chủ động đối trị-thụ động đối trị, đều là đoạn trước, cho nên nói là diệt trước. Không Khổ-không Lạc thì đó là lợi ích, trong các thiền đều trước là trình bày về đối trị, nay Tứ thiền vì sao trước tiên nói đến lợi ích? Bởi vì nương theo trước đây đã trình bày về đoạn Khổ-đoạn Lạc, đối trị pháp ấy thì trình bày về không Khổ-không Lạc, dễ dàng làm sáng tỏ về nghóa lợi ích, cho nên nói đến trước, mà hành thật sự ở sau. Đây chính là Xả thọ không giống như Khổ-Lạc, vì vậy gọi là không Khổ-không Lạc. Vì sao không gọi là không Ưu-không Hỷ? Giải thích có ba nghóa: Bởi vì Tứ thiền chính thức đoạn Lạc thọ mà lại không có Khổ vượt qua, bởi vì đối trị hai loại ấy, cho nên gọi là không Khổ-không Lạc; Bởi vì trong văn trước đây đoạn Khổ-Lạc trước, cho nên ở đây chỉ đối trị mà trình bày về không Khổ-không Lạc; Trong năm Thọ thì tên gọi Ưu-Hỷ khác nhau, ba Thọ phân biệt, hai tên gọi Ưu-Hỷ thâu nhiếp vào Khổ-Lạc, bởi vì Khổ-Lạc rộng rãi, Xả thọ đối trị hai loại ấy cho nên gọi là không Khổ-không Lạc. Xả niệm thanh tịnh thì đó là đối trị, Xả là chi Xả, Niệm là chi Niệm. Trong Tam thiền trước đây có Lạc cho nên Xả niệm bất tịnh, nay Tứ thiền không có cho nên Xả niệm thanh tịnh. Tiến vào hành Tứ thiền, đó là chi Nhất tâm thuộc về Thể của Thiền. Nghóa về bốn Không Định, rộng ra như chương khác, ở đây cần phải nói đến, văn về bốn Không Định như luận phân biệt. Tùy pháp hành, là dựa vào thiền định, thuận theo khởi lên Vô lượng-Thần thông…, cho nên đưa vào các thiền định, không phải là ái trước, văn còn lại như luận. Trong phần giải thích về quả chán ngán, văn có ba: Trình bày về Vô lượng; Trình bày về Thần thông; Tổng quát kết luận về tự tại. Nghóa còn lại như luận nên biết. Lại trong bốn Vô lượng, kinh sót hai câu trong phần Bất nhị và thanh tịnh cùng Vô niệm; lại trong Thân thông thì kinh sót câu Chú thủy thứ sáu, trong Tha tâm thì kinh sót câu Vọng hành Chánh hạnh thứ bảy. Ngay văn giải thích về quả của Địa có ba, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu, toàn bộ phân định có bốn: Hạnh Điều nhu. Hạnh Nhẫn nhục. Trình bày về hạnh riêng biệt của Địa. Kết luận nói về tướng. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có bốn: Một, thấy chư Phật là duyên của khởi hạnh; hai, từ “Cúng dường…” trở xuống là trình bày về năng lực luyện tập thực hành; ba, từ “Ư bách thiên kiếp…” trở xuống là trình bày về chướng ngại cấu trược giảm đi; bốn, từ “Bất phục tích tập…” trở xuống là trình bày về sự luyện tập thanh tịnh. Văn còn lại như Luận. Thứ ba là phần trùng tụng, văn có hai: Một là sinh khởi, hai là chính thức tụng. Tụng có ba mươi lăm kệ: Hai kệ đầu tụng về mười tâm sâu xa, hai mươi bốn kệ tiếp theo tụng về văn của hành chán ngán, hai kệ tiếp theo tụng về phần chán ngán và phần quả, sáu kệ tiếp theo tụng về văn kinh thuộc ba quả như Điều nhu…, một kệ tiếp theo là tổng quát kết luận. Trong hai mươi bốn kệ về chán ngán: Bốn kệ đầu tụng về bảo vệ phiền não, sáu kệ tiếp theo tụng về bảo về Tiểu thừa, mười bốn kệ tiếp theo tụng về phương tiện thâu nhiếp. Trong Địa thứ tư có sáu môn giống như trước. Giải thích tên gọi, bởi vì không quên củi phiền não thì lửa trí luôn luôn đốt cháy, cho nên gọi là Diệm địa. Trình bày về đã lìa xa, theo Địa Luận thì lìa chướng kiêu mạn của sự hiểu biết về pháp; theo Nhiếp Luận thì phiền não hoạt động vi tế, cùng sinh ra Vô minh như Thân kiến… Vô minh lại có hai loại: Ái về Tam-ma-bạt-đề. Ái về pháp hành. Lại diệt hai nghiệp chướng và một loại phương tiện sinh tử. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghóa của không thâu nhiếp. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về hạnh Tinh tiến và Đạo phẩm… Trình bày về đã đạt được quả, nếu thông đạt về công đức không thâu nhiếp của pháp giới, thì đạt được quả về sự lợi ích của tất cả chúng sinh và phần vị của Địa thứ tư như mong muốn; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất. Giải thích văn, trong văn có ba: Một là kệ tụng sinh khởi phần sau, hai là chính thức phân rõ về Thể của Địa, ba là dùng kệ kết thúc phần trước. Một là kệ tụng, có tám kệ: Đầu có hai kệ về Bồ-tát cúng dường, tiếp là một kệ về Thiên nữ cúng dường, tiếp là ba kệ về Thiên vương vui mừng được gặp mà phát khởi cúng dường, tiếp là một kệ về Đại chúng thưa thỉnh, tiếp là một kệ về Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh. Sở dó ở đây có Thiên vương và Thiên nữ thưa thỉnh, là bởi vì làm sáng tỏ về Trí là Thể chính thức của Địa này và vật dụng bên ngoài đều thành tựu. Ngay trong văn về Thể, tất cả phân định có bốn: Phần thanh tịnh đối trị tu hành tăng trưởng về nhân. Phần thanh tịnh. Phần đối trị tu hành tăng trưởng. Phần quả của Địa. Văn phần một có ba: Một là nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau khuyến khích tu tập để tiến vào, hai là trình bày về Thể của hành, ba từ “Bồ-tát dó thử…” trở xuống là kết luận về lợi ích của hành. Nhưng trong Luận nói: Nơi thuận theo hành, là Địa tiền phương tiện suy nghó về Địa chính thức mà chưa chứng được, đang ở trong Địa gọi là đã chứng, hành ở hai nơi này cùng dựa vào pháp đã nói cho nên gọi là thuận theo hành. Văn còn lại như Luận. Phần thanh tịnh có ba: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt, sau là kết luận. Trong tổng quát có ba: Một là trình bày về nhà của Phật chuyển sang có thế lực, hai là đạt được pháp bên trong, ba là thành tựu mười Trí giáo hóa. Lại trong Luận nói: Tự thân Như Lai vốn có các pháp, dùng các pháp này để biểu hiện rõ ràng Như Lai, là người và pháp cùng hiển bày về pháp của Phật chứng được, vẫn dùng pháp thù thắng để biểu hiện rõ ràng về Như Lai. Văn về tu hành tăng trưởng có hai: Một, bảo vệ phiền não là hạnh Tự lợi; hai, bảo vệ Tiểu thừa là hạnh Lợi tha. Hai phần này đều có trước là tổng quát-sau là riêng biệt. Lại trong phần bảo vệ phiền não, ngay trong Thân niệm: Trước là quán sát về thân bên trong, tiếp là quán sát về thân bên ngoài, sau là hợp lại quán sát cả hai. Vì sao thân bên trong mà lại nói là bên ngoài? Nếu như ngay trong mười hai Nhập kia phân ra bên trong-bên ngoài, hoặc là chính mình-hoặc là người khác thì sáu căn là bên trong, sáu trần là bên ngoài; nay trong bốn Niệm, tự thân gọi là bên trong, thân khác là bên ngoài. Vì sao trước là riêng biệt mà sau lại tổng quát? Giải thích có hai nghóa: Phá trừ bệnh không giống nhau, có người chấp nhiều vào tình bên trong, chấp ít vào tình bên ngoài, như người vì thân mà bỏ việc làm, vợ con và các tài vật, chấp nhiều vào bên trong do đó cần phải dạy quán sát bên trong; có người chấp nhiều vào tình bên ngoài, chấp ít vào tình bên trong, như người vì ham muốn tài sản mà mất thân, vì ham muốn mà mất mạng, chấp nhiều vào bên ngoài do đó cần phải dạy quán sát bên ngoài; có người bên trong-bên ngoài đều chấp, do đó cần phải kết hợp để quán sát. Tùy theo thực hành quán sát trước sau, trước đây ở trong tự thân chấp có tướng thanh tịnh, cho nên trước phải quán sát bên trong; bên trong cầu không được nói là bên ngoài có, cho nên cần phải quán sát bên ngoài; trước đây quán sát bên trong không bằng bên ngoài, lúc quán sát bên ngoài lại không bằng bên trong, vì vậy thứ ba là kết hợp để quán sát bên trong và bên ngoài. Quán sát về thân bên trong là nêu ra nơi quán sát riêng biệt, thu- ận theo thân quán sát là trình bày về tướng quán sát ấy. Quán sát biết rõ về tướng của thân ấy gọi là thuận theo thân quán sát. Nhất tâm chịu khó tập trung là trình bày về nghi thức quán sát. Hành giả nay muốn phá hoại tướng của thân, không phải là chịu khó thì không phân rõ, do đó cần phải chịu khó tập trung. Vì thế Long Thọ nói: “Xa cách người bình thường thì dễ, xa cách người hiểu biết thì khó; xa cách người hiểu biết thì dễ, xa cách người thân thích thì khó; xa cách người thân thích thì dễ, xa cách tự thân thì khó.” Hành giả nay muốn xa cách chính mình thì nhất định phải chịu khó tập trung, chịu khó nhờ vào ý chuyên nhất, cho nên nói là Nhất tâm. Loại trừ tham-ưu của thế gian là làm sáng tỏ do quán sát mà lìa xa. Vì sao trong này chỉ lìa xa tham-ưu? Như Long Thọ nói: “Hành giả trong này phần nhiều sinh khởi tham-ưu.” Vì thế chỉ loại trừ nó. Vì sao phần nhiều sinh khởi? Bởi vì bỏ năm dục nghó đến sự yêu thích ban đầu, cho nên sinh ra tâm tham; chưa đạt được pháp của đạo, cho nên sinh ra lo buồn. Vì vậy chỉ nói là loại trừ tham-ưu của thế gian. Vả lại, tham thì phàm phu sinh khởi nhiều, đắm theo cảnh khó rời bỏ, là gốc của thọ sinh, là đầu tiên của ba độc, cho nên trong phiền não chỉ nói đến loại trừ tham. Tâm ưu luôn luôn khởi lên tham dục, chướng ngại cho Định rất nặng, trong thiền lìa xa trước tiên, cho nên trong năm Thọ chỉ nói đến loại trừ ưu. Nếu nói loại trừ kiết tham thì những pháp khác đều loại trừ theo, nếu nói loại trừ ưu thì các Thọ khác loại bỏ theo; ví như chẻ tre, đốt đầu tiên là khó, nếu chẻ toạc đốt đầu tiên thì những đốt còn lại đều toạc theo, tham-ưu cũng như vậy. Về sau quán sát thân bên ngoài và quán sát bên trong-bên ngoài, tương tự cũng giống như vậy. Ngay trong Thọ niệm, cũng đầu là quán sát bên trong, tiếp là bên ngoài, sau là kết hợp. Trong mười hai Nhập, Thọ chỉ do Nhập thuộc pháp bên ngoài thâu nhiếp, cho nên nay trong bốn Niệm tự Thọ là bên trong, Thọ khác là bên ngoài. Lại nữa, ý tương ưng với Thọ thì nói là bên trong, năm Thức tương ưng thì gọi là bên ngoài; cũng có thể Thọ ổn định thì nói là bên trong, Thọ phân tán thì gọi là bên ngoài. Ở trong này, đầu là riêng biệt, sau là tổng quát. Ngay trong Tâm niệm, cũng đầu là quán sát bên trong, tiếp là bên ngoài, sau là tổng quát. Trong mười hai Nhập, Tâm chỉ là bên trong, bởi vì ý căn thâu nhiếp. Nay trong bốn Niệm, tự Tâm gọi là bên trong, Tâm khác gọi là bên ngoài. Lại nữa, ý thức gọi là bên trong, năm Thức gọi là bên ngoài; cũng có thể Tâm ổn định thì nói là bên trong, Tâm phân tán thì gọi là bên ngoài. Ngay trong Pháp niệm, cũng đầu là quán sát bên trong, tiếp là bên ngoài, sau là tổng quát. Bên trong gọi là tâm Pháp, bên ngoài gọi là không phải Sắc-không phải Tâm, bất tương ưng hành và ba Vô vi. Thứ hai là nghóa về Chánh cần, hai loại đầu là đoạn trừ pháp ác, hai loại sau là thâu nhiếp pháp thiện. Trước là trong lìa ác, trước đoạn ác chưa sinh, sau đoạn ác đã sinh, đây chính là nói đến thời gian chứ không phải là Thể của hành; cũng có thể ác đã sinh là trước đó trở thành Vô minh trú địa, vi tế cho nên đoạn sau, ác chưa sinh là bốn trú hiện khởi, thô thiển cho nên đoạn trước. Ác chưa sinh là nêu ra pháp đã đoạn, khiến cho không sinh là việc làm của Cần, muốn sinh ra tiến lên là tâm phương tiện của Cần, phát tâm đoạn trừ là chính thức trình bày về Thể của Cần. Trong pháp ác đã sinh, tương tự như vậy có thể biết. Đã sinh rồi tàn lụi đi, làm thế nào có thể trừ bỏ? Đây chính là đoạn trừ đối với chủng loại đã sinh ở vị lai khiến cho không nối tiếp nhau, không phải là nói đoạn trừ đối với chủng loại khởi lên rồi diệt mất. Sau là trong sinh thiện, trước khởi lên thiện chưa sinh, sau mở rộng thiện đã sinh. Thiện không phải là vốn có, huân tập mới sinh khởi, vì vậy cần phải trước khởi lên thiện chưa sinh, sau mở rộng thiện đã sinh. Thiện chưa sinh là nêu ra pháp đã tu, khiến cho sinh ra là việc làm của Cần, muốn sinh ra thường xuyên là tâm phương tiện của Cần, phát tâm thực hành là chính thức trình bày về Thể của Cần. Pháp thiện đã sinh giống như trước. Đã sinh rồi tàn lụi đi, làm thế nào có thể thúc đẩy? Pháp này nhất định thúc đẩy chủng loại đã sinh của nó ở vị lai khiến cho nó nối tiếp phát khởi, không phải là nói thúc đẩy chủng loại của nó khởi lên rồi diệt mất. Thứ ba là nghóa về Như ý, ngay trong văn này, đầu là tổng quát nêu ra, sau là giải thích riêng biệt. Nói đến Dục định là thẳng thắn nêu ra Thể của hành, Dục có thể sinh ra Định, nhân thuận theo quả phù hợp, cho nên gọi là Dục định; cũng có thể Tâm định do Dục mà sinh, nêu ra nhân gọi đến quả, cho nên gọi là Dục định. Đoạn hành thành tựu là phân rõ về công năng, bởi vì thực hành Định này có thể đoạn trừ các kiết, cho nên gọi là Đoạn hành thành tựu; cũng có thể tên gọi của Niết- bàn kia gọi là Đoạn, Đoạn quen rồi hành thành tựu gọi là Đoạn hành thành tựu. Tu pháp Như ý là dựa vào Dục định trước đây để trình bày về tu pháp ấy. Nương tựa chán ngán trở xuống là trình bày về Đoạn hành thành tựu thứ hai trước đây. Đối với các phiền não, bắt đầu là đạo phương tiện quán sát về lỗi lầm mà chán ngán rời bỏ, thì gọi là Yếm; đích thực đoạn không ngăn ngại, thì gọi là Ly; giải thoát chứng được trừ bỏ, thì gọi là Diệt; hướng về Niết-bàn, gọi là hướng về Xả. Nếu tùy theo phạm vi của phần vị, Kiến đạo về trước thì gọi là Yếm, trừ mê hoặc về Kiến đế thì gọi là Ly, đoạn kiết của Tu đạo thì gọi là Diệt, đạt được quả Niết-bàn thì gọi là Xả. Đây chính là các hành đối trị kiết theo thứ tự, không cần phải đối trị riêng biệt các hành như Niệm xứ…, hành còn lại tương tự như vậy. Vì sao Niệm Cần không trình bày về điều này? Bởi vì thành tựu được Định mới có công năng này, cho nên trước đây không nói, Tinh tiến có thể hiểu. Tâm định thì trong kinh-luận khác gọi là Niệm định, giữ ý trú vào duyên cho nên gọi là Niệm, chuyên tâm giữ lấy cảnh cho nên gọi là Tâm. Tư duy định thì trong kinh-luận khác gọi là Tuệ định, Tuệ tâm suy tính cho nên gọi là Tư duy; còn lại rộng ra như Luận mà thôi. Hai là năm hàng trong phần bảo vệ Tiểu thừa, trong kinh sót câu thứ ba. Trong quả thù thắng của Địa, đầu là trình bày về quả của hành, tiếp là riêng biệt về quả của Địa. Phần đầu là quả của hành có sáu, bắt đầu từ lìa phiền não cho đến thứ sáu là tâm giới vốn có đầy đủ, trong kinh tóm lược không có nghiệp nhiễm ô thứ hai, nghóa còn lại có thể biết. Lại trong phần lìa phiền não, văn tuy khác nhau mà ý cũng có thể đầy đủ. Lại nghiệp nhiễm ô trong Luận thì có hai nghóa về không làm: Bởi vì kính Phật, cho nên Phật đã quở trách thì không làm. Bởi vì sợ tiếng xấu làm mất lợi ích của người, sinh khởi phiền não làm mất lợi ích của mình, cho nên không làm. Trong phần Dục tăng thượng, thứ ba là lìa xa lỗi lầm, trong câu riêng biệt sót câu thứ nhất. Trong phần Phát cần tinh tiến, kinh-luận tựa như không có thứ tự, nhưng dựa vào thứ tự trong văn của Luận, ý cũng không có gì sai. Trong phần tâm giới vốn có cũng như vậy. Trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu, văn phân ra có bốn: Một, hạnh Điều nhu; hai, từ “Ma ni châu…” trở xuống là trình bày về Trí giáo thanh tịnh, bởi vì Địa này thành tựu thanh tịnh về Chứng từ Thể khởi Dụng, cho nên có Trí giáo không giống như Địa trước; ba, từ “Tứ nhiếp…” trở xuống là trình bày về hành của Địa riêng biệt, bản kinh tóm lược không có câu này; bốn, từ “Thị danh…” trở xuống là tổng quát kết luận về tướng tuyên thuyết. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Một, thấy chư Phật là duyên của khởi hạnh; hai, từ “Cung kính…” trở xuống là phân rõ về năng lực luyện tập thực hành; ba, từ “Thị Bồ-tát lạc tâm…” trở xuống là trình bày về sự luyện tập thanh tịnh. Nghóa còn lại như Luận nên biết. Thứ ba trong phần trùng tụng: Một là phân rõ về ý tuyên thuyết, hai là chính thức kệ tụng. Tụng có hai mươi chín kệ: Hai kệ đầu tụng về nhân tăng trưởng, ba kệ tiếp theo tụng về phần thanh tịnh, bảy kệ tiếp theo tụng về phần tăng trưởng tu hạnh đối trị, chín kệ tiếp theo tụng về quả tăng trưởng, bảy kệ tiếp theo tụng về ba quả như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ tiếp theo là tổng quát kết luận ca ngợi. ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 3 (Phần 2) Trong Địa thứ năm có sáu môn giống như trước. Giải thích tên gọi, đạt được phương tiện khéo léo của trí xuất thế gian, có thể hóa độ những chúng sinh khó hóa độ, cho nên gọi là Nan Thắng địa. Trình bày về đã lìa xa, nếu theo Địa Luận thì lìa chướng ngã mạn về thân thanh tịnh; nếu theo Nhiếp Luận thì Vô minh về Bát Niết- bàn của Thừa bậc Hạ. Lại có hai chướng: Một là Sinh tử và Niết-bàn luôn luôn tư duy dẫn đến trái ngược, hai là do phương tiện thâu nhiếp tu tập về Đạo phẩm. Lại đối trị hai nghiệp chướng và một Báo về nhân duyên sinh tử. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghóa nối tiếp nhau không khác. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Thiền Ba-la-mật và Học về bốn Đế. Trình bày về đã đạt được quả, thông đạt về công đức của pháp giới nối tiếp nhau không khác, đạt được quả Pháp thân không sai biệt với chư Phật ba đời, và thành tựu phần vị của Địa thứ năm; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất. Giải thích văn, trong văn toàn bộ phân định có ba: Một là kệ tụng sinh khởi phần sau, hai là giải thích về Thể của Địa, ba là dùng kệ kết thúc phần trước. Phần một là kệ tụng, có mười lăm kệ: Đầu có hai kệ về ba nghiệp vui mừng tùy thuận tu pháp cúng dường của Bồ-tát, tiếp theo hai kệ của Thiên vương ca ngợi về công đức không nhiễm ô của Phật Bồ-tát, tiếp theo mười kệ của Thiên nữ ca ngợi về công dụng trọn vẹn của hai phần vị nhân và quả Đại Từ Bi, tiếp theo một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh hiển bày tiến vào phần sau của Chứng. Ngay trong phần Thiên nữ: Bảy kệ đầu ca ngợi về nhân, tiếp theo hai kệ ca ngợi về quả, tiếp theo một kệ hiển bày về hạnh thành tựu nhân của Chứng. Phần hai là Thể của Địa, có ba: Một là đối trị về mạn hơn hẳn; hai là hạnh thù thắng không trú vào đạo; ba là quả thù thắng của Địa. Văn trước có hai, dựa theo hai loại mạn: Một là mạn thuộc Địa mình, hai là mạn thuộc Địa khác. Địa khác là trong bốn Địa trước đây đạt được trí xuất thế, chấp lấy tướng thù thắng ấy thì gọi là mạn, về sau dùng mười loại tâm thanh tịnh để đối trị. Hai là mạn thuộc Địa mình, ở trong mười loại tâm này mong cầu về tướng thù thắng, lại cho là mạn, về sau dùng tùy thuận như đạo để đối trị. Trong hai phần này cùng gọi là mạn hơn hẳn(thắng mạn), bởi vì mạn đối trị giống nhau. Văn phần một có ba: Một là nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau khuyến khích tu tập tiến vào, hai là phân rõ về mười tâm, ba từ “Bồ- tát dó thị…” trở xuống là kết luận về thành tựu lợi ích. Lại cùng niệm tâm không thối chuyển, là tâm phương tiện thanh tịnh và tâm chứng không thối chuyển cùng duyên với Chánh lý không khác. Lại bảy loại thanh tịnh trong văn: 1) Giới; 2) Định; 3) Kiến; 4) Độ nghi; 5) Đạo và phi đạo. Năm loại này thì Đại thừa và Tiểu thừa cùng chung tên gọi, tên gọi hai loại sau khác với Tiểu thừa. Hai loại sau là: 1) Hành tịnh; 2) Hành đoạn. Bởi vì tông chỉ của Tiểu thừa vốn là Diệt. Tên gọi ở Đại thừa, một gọi là Hành đoạn, hai gọi là Tư lượng Bồ-đề phần pháp thượng thượng tịnh, bởi vì tông chỉ của Đại thừa là dựa vào Hành đoạn mà khởi lên mong cầu thù thắng. Hành tuy có bảy loại mà văn có sáu câu, trong câu thứ ba có hai loại thanh tịnh, đó là Kiến hành thanh tịnh và Độ nghi thanh tịnh, tướng còn lại có thể biết. Về phần vị, nếu dựa vào Tiểu thừa thì Giới và Định là trước Kiến đạo, tiếp theo ba loại là Kiến đạo, tiếp theo một loại là Tu đạo, tiếp theo một loại là đạo Vô học. Theo Đại thừa thì nói đến ba phần vị, Hành đoạn và Hành ở trong Tu đạo, còn lại đều giống như trước, nguyên cớ như trong Đại sớ. Hai là hành tùy thuận như đạo, có ba: Một, nêu ra phần trước phát khởi phần sau tổng quát hiển bày về như hành; hai, từ “Đắc Đại nguyện…” trở xuống là riêng biệt trình bày hành tướng tùy thuận như đạo; ba, từ “Sinh định bất thối…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Ngay trong phần một là tổng quát, Thể của pháp có ba, câu riêng biệt có bốn. Thể của pháp có ba: Đạo phẩm đã tu của bốn Địa. Mười loại tâm thanh tịnh trước Địa này. Hành tùy thuận như đạo trong Địa này, văn có bốn có thể biết. Trong phần không trú vào đạo, văn kinh có hai: Một, nêu ra bốn Đế phân biệt về thật pháp, bảo vệ phiền não là hành Tự lợi; hai, phân biệt về hóa độ chúng sinh, bảo vệ Tiểu thừa là hành Lợi tha. Kinh trước có hai: Đầu là nêu ra bốn Đế phân biệt về thật pháp, sau là dựa vào bốn Đế này trình bày về mười môn Quán, tức là phân biệt về hóa độ chúng sinh. Văn này có hai: Một là nêu ra mười tên gọi, hai là theo thứ tự giải thích về văn. Trong môn bốn Đế thì nghóa bao gồm pháp giới, Bồ-tát ở trong đó hiểu rõ cùng tận không có gì sót, tùy theo trí bàn luận khác nhau mở rộng tách biệt khó hết, nay ở đây tạm thời dựa vào một số tròn tóm lược làm mười môn. Nhưng mười môn này Bồ-tát tự biết, tướng biết khó trình bày, cho nên dựa vào hóa độ chúng sinh để hiển bày khác nhau. Đây chính là dựa theo sự hóa độ để hiển bày về tự biết mà thôi, cho nên lấy điều này làm tên gọi chung là trí thanh tịnh trong pháp đã nhận biết. Nói về khai-hợp thì toàn bộ mười môn này chỉ là một phần phân biệt về hóa độ chúng sinh. Nếu tùy theo Đại-Tiểu đã hóa độ thì phân làm hai: Chín môn trước hóa độ Tiểu thừa, một môn sau hóa độ Đại thừa. Tùy theo hóa độ mà phát khởi thì phân làm ba: Năm môn trước hóa độ chúng sinh khiến cho họ sinh ra hiểu biết, bốn môn tiếp theo hóa độ chúng sinh khiến cho họ phát khởi thực hành, một môn sau cuối hóa độ chúng sinh khiến cho họ tiến vào Chứng đắc. Dựa theo người không giống nhau thì tách ra làm bảy: Môn thứ nhất là bốn Đế hóa độ đối với người căn chưa thuần thục, môn thứ hai hóa độ đối với người căn đã thuần thục, môn thứ ba hóa độ đối với người nghi ngờ về pháp sâu xa, môn thứ tư hóa độ đối với người hiểu sai lầm về pháp, môn thứ năm hóa độ đối với người lìa xa Chánh niệm, môn thứ sáu-thứ bảy-thứ tám-thứ chín hóa độ đối với người Chánh kiến, môn thứ mười hóa độ đối với Đại thừa. Có thể hóa độ tùy theo pháp không giống nhau thì phân ra làm mười. Nếu mở rộng phân biệt thì số tách biệt vô lượng. Nói đối với thật pháp phân rõ về chung-riêng, mười môn này hướng về bốn Đế trước thì tất cả đều là chung: Đầu tiên Thế đế là quán chung về tướng pháp sai biệt của bốn Đế. Đệ nhất nghóa là quán chung về Thể tánh rỗng lặng của bốn Đế. Nói đến Tướng đế là quán chung về bốn Đế không phải có-không phải. Nói đến Sai biệt là quán chung về bốn Đế có-không đều khác nhau. Nói đến Thành đế là quán chung về bốn Đế duyên khởi tập hợp mà thành tướng trạng của sự việc. Nói đến Sự đế là quán chung về mê lầm bốn Đế tạo thành sự việc như Khổ… Nói đến Sinh đế là mê lầm chung về bốn Đế khởi lên tạo tác tụ tập. Tận vô sinh là hiểu biết chung về bốn Đế có thể Chứng Diệt. Nói đến Nhập đạo là hiểu biết chung về bốn Đế có thể Thành Đạo. Bồ-tát ở Như Lai địa, Thành đế là thông suốt tận cùng về cõi thanh tịnh, thật tánh duyên khởi về bốn Đế, thành tựu nhân quả của đạo Đại thừa. Vả lại, Đế ở đây thì bốn Đế trước thẳng thắn trình bày về Thể tánh của pháp giới là không, chứ không phải là bốn Đế; bốn Đế như Sự… trở xuống là có, chứ không phải là bốn Đế. Năm Đế ở giữa là tướng tu phương tiện hiểu rõ về quán theo thứ tự; một Đế sau cùng trình bày đích thực hợp với tự Thể cùng khắp pháp giới, nhân tròn vẹn bao gồm diệu đạo, đức đầy đủ không có gì chướng ngại. Nếu dựa theo giáo duyên với tướng sai biệt của pháp: Bốn Đế đầu tiên thẳng thắn trình bày về Thể của pháp. Tiếp là Thế đế-Đệ nhất nghóa đế trình bày về Tướng. Tiếp là Tướng đế thì trình bày về tướng của một Thật đế. Tiếp là Sai biệt thì trình bày về tướng pháp của pháp giới. Thành đế là trình bày về tướng của pháp giới như vậy, bởi vì phàm phu mê lầm điên đảo, cho nên Bồ-đề trở thành phiền não, ba cõi phát triển mạnh mẽ, quy tụ tạo thành các tướng ở thế gian. Tiếp là trình bày về bốn Đế thuộc Sự để làm rõ đích thực tu hạnh phương tiện đối trị. Như vậy là có chứ không phải là bốn Đế, chính là Bồ-tát đích thực tu pháp phương tiện, nhưng mà bởi vì pháp chung không có giới hạn, cho nên Nhị thừa cũng có thể tu tập tiến lên từ trong đó, xuống đến nghiệp thiện của hàng trời-người cũng thực hành từ trong đó. Nay chỉ có Bồ-tát này đích thực tu đạo phương tiện đối trị đầy đủ, có thể hiển bày phát khởi hợp với tự Thể cùng khắp pháp giới, đạo vô cùng trọn vẹn không có gì chướng ngại, bởi vì muốn trình bày về Bồ-tát địa cho nên theo thứ tự tiến vào Đế thuộc trí của Như Lai. Quán này ý như Luận. Trí của Tín giải không phải là trí nhận biết về Vô tận, là giải thích về văn thuộc Như Lai đế trước đây, nghóa là trí nhận biết về nhân không phải là trí nhận biết về quả Vô tận. Lại có thể nói văn tự A-hàm, trí nhận biết của Tín không phải là trí nhận biết về nghóa Vô tận không có thể nói, văn này dựa theo Giải mà chọn lấy thôi. Trong phẩm Ly Thế Gian sau này lại tiếp tục chọn lấy văn, là dựa theo Hành mà chọn lấy. Giải thích rằng trí của cảnh tượng, ba Thừa trước Kiến đạo dựa vào Định mà thành tựu, như cảnh tượng trong gương thành tựu tự tại. Phần vị ấy không nhất định, hoặc là bốn tâm thiện như Noãn… trước Kiến, hoặc là bốn Định như Quang đắc…, hoặc là bốn mươi tâm của Địa tiền, hoặc là Thập Hạnh-Thập Hồi hướng…, hoặc là Tu tuệ thế gian, cho đến đạt được Định trở đi chính là phần vị ấy. Hai là văn về phần phương tiện chịu khó bảo vệ Tiểu thừa, có hai: Một, quán sát hữu vi hư vọng giả dối não loạn chúng sinh mà khởi niệm Từ Bi; hai, từ “Đắc như thị trí tuệ…” trở xuống là riêng biệt trình bày về Từ Bi. Văn này có hai: Một là trình bày về nguyện Hóa tha, hai từ “Như thật quán nhất thiết hữu vi…” trở xuống là trình bày về tâm Hóa tha. Văn này có hai: Trước là Bi, sau từ “Như thị khổ não đẳng…” trở xuống là phân rõ về Từ. Văn về Bi có hai: Một là phát khởi phương tiện về Bi, hai từ “Tri chúng sinh…” trở xuống là chính thức trình bày về Bi quán. Trong đó có hai: Một, quán sát khổ như thật nhận biết về Thể tánh của khổ; hai, từ “Hựu tác thị niệm…” trở xuống là quán sát về khổ sâu nặng. Dựa vào con người làm rõ về lỗi lầm để trình bày điều ấy thật đáng thương xót. Ngay trong khổ sâu nặng, văn kinh có hai: Quán sát chúng sinh rất lạ lùng bởi vì nhận chịu khổ đau mà không biết chán ngán lìa xa. Từ “Vô minh si cố…” trở xuống là trình bày về nguyên cớ thật đáng quái lạ của các chúng sinh. Trong đó có hai: Một là trình bày về rất khổ, hai từ “Như thị sinh tử…” trở xuống là trình bày về khổ đau nặng nề ấy. Hai là trong văn giải thích về Từ, toàn bộ phân định có hai: Một, tu tập pháp thiện vì chúng sinh; hai, từ “Như thị tư duy…” trở xuống là tùy theo sự tu tập phát nguyện làm lợi ích. Văn phần một có hai: Một là đối với niệm ác của chúng sinh từ vô thỉ, phần này văn kinh sót câu thứ ba-câu thứ năm-câu thứ sáu; hai là chỉ một mình ta quy tụ pháp thiện. Trong phần hai là phát nguyện làm lợi ích: Một câu đầu là tổng quát, chín câu sau là riêng biệt. Trong này văn kinh cũng không có thứ tự, dựa vào thứ tự làm mất văn thì nghóa cũng không có gì sai. Văn giải thích về phần quả, toàn bộ phân định có bốn: Một là thâu nhiếp công đức thù thắng, hai là tu hạnh thù thắng, ba là giáo hóa chúng sinh thù thắng, bốn là khởi trí tùy thuận thế gian thù thắng. Hai phần trước là Tự hành, là quả thanh tịnh của trí nhận biết trước đây, thâu nhiếp công đức là phần mình đã thành tựu, tu hạnh thù thắng là thắng tiến đã thành tựu. Hai phần sau là Lợi tha, là quả phương tiện chịu khó làm lợi ích chúng sinh trước đây, giáo hóa chúng sinh thù thắng là hạnh của Hóa tha, trí tùy thuận thế gian là trí của Hóa tha. Văn còn lại có thể biết. Trong phần bốn là trí tùy thuận thế gian: Một, tổng quát phân rõ về ý; hai, từ “Tri thế sở hữu…” trở xuống là giải thích riêng biệt về trí hóa độ. Trong phần riêng biệt có mười: 1) Biết sách vở; 2) Biết tánh của đá…; 3) Phương pháp trị bệnh; 4) Viết luận…; 5) Ngày tháng…; 6) Trì giới…; 7) Không làm điều não hại; 8) Làm điều an lạc; 9) Thương xót cho nên đưa ra; 10) Từ từ khiến cho tin vào Phật pháp Vô thượng. Kinh thiếu hai câu trong nghóa thứ ba, trong nghóa thứ tư không có một câu, văn còn lại như Luận. Lại trong Luận khó hiểu, cát-hung-nhập… thường xuyên thay đổi tướng trạng, tướng toàn thân là tướng nhất định của quả báo. Thường xuyên thay đổi tướng trạng có tám: 1) Mặt trời; 2) Mặt trăng; 3) Sao (tinh), sao là năm sao, sao Tuế ở phương Đông, sao Oánh ở phương Nam, hoặc là sao Thái bạch ở phương Tây, sao Thần ở phương Bắc, ở giữa có sao Trấn, lấy làm năm Sao; 4) Sao (tú), là hai mươi tám vì sao, đó là sao Giác-Cang…, bởi vì ở trong năm Sao lớn(tinh) cho nên gọi là Sao nhỏ (tú); 5) Mặt đất rung chuyển; 6) Mộng; 7) Tưởng; 8) Lành dữ, chồn cáo kêu… đều thuộc về điềm lành dữ. Lại bảy Diệu chính là mặt trời-mặt trăng và năm sao lớn. Nhập là thuận theo. Nghiệp là tám tướng của đời quá khứ, lại thuận theo tám tướng của vị lai mà biểu thị cho quả. Lại các tướng toàn thân là tướng nhất định của quả báo yêu quý-không yêu quý (ái-phi ái). Lại năm hành đối với năm nhiễm, là trì giới đối trị phá giới, bốn thiền đối trị tham dục, thần thông đối trị hướng về tà vạy, bốn Vô lượng đối trị việc làm xằng bậy như sát sinh cúng tế cầu phước…, bốn Không đối trị tu tập xằng bậy như giải thoát ngoại đạo tà tu… Ngay trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu phân bốn: Một là tướng Điều nhu, hai từ “Hựu như nhật nguyệt…” trở xuống trình bày về Trí giáo thanh tịnh, ba là hành của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng tuyên thuyết. Trong kinh thiếu câu thứ ba. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Đầu là trình bày về thấy chư Phật làm duyên của khởi ha- ïnh; tiếp là năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Trong phần năng lực luyện tập thực hành: Trước là cúng dường, tiếp là tu hồi hướng, sau là thọ pháp thực hành. Trong kinh phần nhiều không đủ. Lại trong Địa thứ tư-thứ năm, quả xuất gia ở trong Điều nhu, nguyên cớ là vì từ Địa thứ tư trở đi đạt được hành vô lậu xuất thế, cho nên hiển bày về nghóa của xuất gia, nghóa còn lại như Luận nên biết. Thứ ba là văn trùng tụng: Một là phân rõ về ý tuyên thuyết, hai là trình bày về lời lẽ trong kệ. Có ba mươi chín kệ: Mười một kệ đầu tụng về văn Mạn hơn hẳn, mười ba kệ tiếp theo tụng về không trú vào đạo thù thắng, bảy kệ tiếp theo tụng về không trú vào quả, bảy kệ tiếp theo tụng về ba văn như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ sau cùng là kết luận. Trong phần đầu về Mạn hơn hẳn: Hai kệ đầu tụng về bình đẳng, chín kệ tiếp theo tụng về hành tùy thuận như đạo. Trong phần tiếp là không trú vào đạo: Bốn kệ đầu tụng về Trí thanh tịnh, chín kệ tiếp theo tụng về văn chịu khó phương tiện làm lợi ích cho chúng sinh. Trong Địa thứ sáu có sáu môn giống như trước. Giải thích tên gọi, thực hành Bát-nhã Ba-la-mật có gián đoạn mà Đại trí hiện ở trước mắt, cho nên gọi là Hiện Tiền địa. Trình bày về đã lìa xa, theo Địa Luận thì vốn có chướng ngại do tập khí phiền não vi tế; nếu theo Nhiếp Luận thì tướng hành của Vô minh vi tế. Văn này thuộc về Địa thứ bảy. Lại có hai chướng: Một là chứng các pháp sinh khởi nối tiếp nhau, tức là mê lầm về Tục; hai là tướng của Tưởng thường xuyên khởi lên, tức là mê lầm về Chân. Lại đối trị hai nghiệp chướng và một Báo về nhân duyên sinh tử. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghóa không có nhiễm tịnh. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Bát-nhã Ba-la-mật và hiểu rõ được duyên khởi. Trình bày về đã đạt được quả, thông hiểu về công đức không có nhiễm tịnh-chân như-mười hai duyên sinh, đạt được quả thanh tịnh nối tiếp nhau và có thể làm thanh tịnh tất cả nhiễm trược của chúng sinh, đến được phần vị của Địa thứ sáu; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất. Giải thích văn, trong văn này có ba: Một là kệ tụng sinh khởi phần sau, hai là phân rõ về Thể của Địa, ba là kệ tụng kết thúc phần trước. Phần một là kệ tụng, có mười tám kệ: Đầu có hai kệ là Bồ-tát ca ngợi, tiếp theo hai kệ là ba nghiệp cúng dường của chư Thiên, tiếp theo hai kệ là Thiên vương cùng với quyến thuộc ca ngợi về nghóa của Địa, tiếp theo có mười một kệ là Thiên nữ ca ngợi về Thể của Địa và các hành khác, tiếp theo một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh tiến vào phần sau của Chứng. Văn về Thiên nữ ca ngợi, phân ba: Một kệ đầu là trỗi nhạc cúng dường, tiếp theo chín kệ là chính thức ca ngợi về quả đức và nhân, sau cùng một kệ là im lặng ngắm nhìn Đức Phật. Ngay trong văn của chín kệ trước: Bốn kệ đầu là ca ngợi về quả, năm kệ sau là ca ngợi về nhân. Văn về nhân có ba: Một kệ đầu là hành Đại Bi, tiếp theo ba kệ là hành sáu Độ, sau cùng một kệ là kết luận về thành tựu đức dụng. Trong văn về Thể của Địa, toàn bộ phân định có ba: Một là đối trị về mạn hơn hẳn; hai là hạnh thù thắng không trú vào đạo; ba là trình bày về quả thù thắng của Địa. Văn phần một có ba: Một là nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau khuyến khích tu tập tiến vào, hai là phân rõ về tướng, ba là kết luận về hành thành tựu. Đầu là trình bày về đối trị Mạn hơn hẳn, là trình bày về mười pháp bình đẳng, có hai ý: 1-Cảnh của Giải; 2-Cảnh của Hành. Nói đến cảnh của Giải thì chính là mười môn này làm pháp chuẩn mực, không trú vào đạo trở xuống trình bày dựa vào hành là phương tiện của Quán môn. Nói đến cảnh của Hành thì chính mười bình đẳng là Quán giải, bắt đầu không trú vào đạo trở xuống trình bày về tướng thành tựu của Quán, nhưng dựa vào Luận khác phân định thì văn ấy cũng thích hợp. Dựa vào mười bình đẳng giải thích về tướng có hai: Một loại đầu là tổng quát, chín loại sau là riêng biệt. Trong chín có ba: Bảy loại đầu là lấy không để phá có, tiếp một loại là lấy có để phá không, tiếp một loại là có-không đều phá. Văn về bảy loại có ba: Một loại đầu là Không giải thoát môn thì quán về Vô tướng, tiếp theo năm loại là Vô tướng giải thoát môn thì quán về Vô sinh, tiếp theo một loại là Vô nguyện giải thoát môn thì quán về Vô tánh. Thực hành theo thứ tự thì ở đây nêu ra Giải thành tựu ngoài Hạnh. Nghi ngờ rằng nếu các pháp là không có thì làm sao quyết định trú trì lâu dài? Bởi vì giải đáp nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói vốn là Vô tánh. Nói là Vô tánh thì không có tánh thật. Lại nói nếu các pháp là không có thì làm sao hiện tại thấy thật có? Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói tất cả các pháp bình đẳng Vô tướng. Lại nghi ngờ rằng nếu pháp là Vô tướng thì có nơi pháp sinh-có nơi pháp diệt, dẫn đến tâm thường xuyên thấy chứ không do ý mình, sao nói là Vô tướng? Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói tất cả các pháp bình đẳng Vô sinh. Từ đây trở xuống là tự Thể thuộc Không, bởi vì không bằng Vô tướng… cho nên khác với trước. Nói là Vô sinh thì tất cả các pháp đều từ niệm sinh khởi chứ không có tự lập, làm sao nói là có? Bởi vì như Luận nói niệm lần lượt chuyển đổi. Lại hỏi: Nếu pháp từ niệm sinh khởi thì nhân duyên không phải là một, các duyên như niệm… tôi đều không thấy, chỉ thấy pháp an lập đã thành tựu, không thấy niệm… thì tự nhiên thật là không có, pháp đã thành tựu nên nói là có? Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói không có thành tựu. Nói là không có thành tựu, đã là pháp từ nơi khác sinh khởi, nhưng ông không thấy pháp ấy từ duyên mà phát sinh; đã chấp nhận là pháp từ nơi khác sinh khởi, nhưng ông không thấy tướng của pháp này, thì nên biết rằng pháp đã thấy tức là tự mình nói chứ không đạt được cảnh thật. Do vọng thấy mà thành tựu, cho nên Luận nói bình đẳng không có thành tựu. Hai loại này mê lầm về Khổ đế. Lại hỏi: Nếu các pháp từ nơi khác sinh khởi chứ không có tánh tự mình sinh khởi, tôi chấp nhận không phải là có, nhân có thể thành tựu đã được thành tựu, nơi khác có năng lực này, thì nên nói là có? Bởi vì giải đáp nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói lìa xa tất cả vốn là tất cả các pháp bình đẳng. Dựa vào kinh ở câu thứ tám, nói lìa xa là chỉ do tình đã chấp vào cảnh mà nói là thật. Luận về cảnh đã thấy thì không có nơi bắt đầu, một là không phải trước đây đã có, hai là không có lý thật, cho nên biết nếu từ duyên sinh khởi thì tương tự chứ không phải là thật. Vì vậy biết rằng cảnh đã thấy tức là tướng chứ không phải là có, cho nên Luận nói là tướng nhiễm ô. Đây chính là chấp về Tập đế. Hỏi: Nếu là Tập đế thì thuộc về tụ của tâm, Giải đã thuộc về cảnh, làm sao thuận theo Tập? Đáp: Luận về Thể chủ động chọn lấy chính là thuận theo duyên tương tự, bởi vì nghiệp phiền não chấp là trong cảnh, cảnh tức là không có, nghóa thuộc về tướng chọn lấy, cho nên nói là Tập. Lại hỏi: Các pháp nhân duyên tìm đầu đuôi của nó đều không thể nào đạt được, suy xét về ý này, pháp nhiễm dựa vào Thật mê lầm Chân mà sinh khởi, nhiễm có thể nói là không có, đã mê lầm Chân-Tục thì Diệt đế và Đạo đế theo lý phải là có? Đáp: Ông cho rằng Chân-Tục theo lý là thật, nghóa này không đúng, Diệt-Đạo Chân-Tục chính là cảnh giới của Chánh trí Phạm hạnh, làm sao lại nói rằng Như gọi là Thật? Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói vốn có thanh tịnh bình đẳng. Nếu như Như gọi là thật, thì tâm tạp nhiễm sinh khởi không có thể nói là vốn có thanh tịnh, cho nên Luận nói là tướng thanh tịnh. Đây là mê lầm về Diệt đế và Đạo đế. Lại hỏi: Nếu pháp không giống như đã thấy là thật có, thì không nên khởi lên ngôn thuyết thế gian, hiện tại có đủ loại tên gọi không giống nhau thì nghiệm về nghóa của từng loại không phải là không có? Đáp: Như nói về tên gọi đã chấp thì không phải là một, đều là thế gian thi thiết chứ không phải là thật có từ trước. Vì sao biết được? Bởi vì chỉ thấy thế gian được nghóa mà không được tên gọi, được tên gọi mà không được nghóa, cho nên biết các tên gọi không nhất định theo nghóa. Ông cho rằng nghóa thật sự khởi lên tên gọi…, đây chính là hý luận chứ không phải là thật có. Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói không có hý luận. Tên gọi không thật có nhưng nhờ vào nghóa mà sinh khởi, nghóa không tự mình làm sáng tỏ nhưng dựa vào tên gọi mà hiển bày, dựa vào điều này để nghiệm xét thì đều là nhân duyên hý luận. Lại quán xét về nhân của nghóa thì không thấy quả của tên gọi, nhưng quán xét về quả của tên gọi thì không thấy nhân của nghóa, bởi vì điều này tựa như hý luận cũng không có, cho nên Luận nói là tướng phân biệt. Sở dó chỉ nói đến phân biệt, là bởi vì hiển bày ngay nơi tướng Không. Đây là mê lầm về tên gọi bốn Đế. Trên đây đã nói về quán Vô sinh. Lại hỏi: Tôi đã biết tướng là không có, rõ ràng sinh khởi không phải là có, thì nghiệm đúng như thật quyết định có thể hướng về chăng? Đáp: Ông cho rằng tự thấy là hư vọng không phải là có, thấy riêng lìa niệm là có thể hướng về, thì cũng là phân biệt, cho nên trong kinh nói không có lấy-bỏ. Không có lấy-bỏ vốn là tình thức, nghóa là chọn lấy pháp đã thấy thì tất cả đều không chân thật, nay còn thấy lìa niệm là nơi hướng về, thì giống như hư vọng trước đây, cho nên Luận nói vốn là tướng ẩn hiện. Sở dó chỉ nói ẩn hiện bởi vì ẩn hiện tức là Không. Trên đây là lấy không để loại bỏ có. Lại hỏi: Tôi tìm tướng sinh khởi là không có, lại biết lìa niệm không phải là có, nên biết các pháp như chân-tục nhiễm-tịnh… đều không có Thể của nó, không thể nào tiến tới để hướng về chăng? Đáp: Ông thấy nhiễm-tịnh không thể nào tiến tới để hướng về, nói là không có pháp thì nghóa này không đúng. Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói như huyễn mộng… Nếu pháp đều không có thì tại sao có nơi mộng, có nơi không mộng? Nghiệm xét điều này thì biết, tất cả các pháp không nhất định là không có, cho nên Luận nói Ngã không phải là tướng có. Sở dó vì phá bỏ Ngã không có, cho nên chỉ nói Vô ngã, đây là bởi vì lìa Ngã cho nên không trú vào Vô ngã. Duyên thành tựu sự việc huyễn ảo ở đây không giống như kiến chấp ở trên, đây chính là lấy có để phá không. Lại hỏi: Vì sao trước đây khởi lên tám loại kiến chấp, bởi vì không hết lý cho nên lấy không để phá có; lại khởi lên một kiến chấp, cũng không hết lý cho nên lấy có để phá không; nay tôi hiểu là suy tìm không thể nào chọn lấy riêng có-không, nay thành tựu đầy đủ hai nghóa, điều này có thể hợp lý chăng? Đáp: Như pháp đã thấy bên ngoài bởi vì không vượt qua tình thức, cho nên biết như cảnh đã thấy không có nghóa không phải là có nghóa, có nghóa không phải là không có nghóa, căn cứ vào lý này, thì không là có, có-không là một. Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói có-không không hai. Nói không hai là pháp không tự mình tồn tại, thuận theo duyên thành tựu mà khởi lên. Lại không phải là duyên cho nên thành tựu pháp của quả, tìm các pháp ấy không vượt qua tự-tha, tự-tha không tồn tại, ngay nơi sự việc mà phân rõ về Không. Nếu như thấy có-không thì đây là bởi vì không vượt qua hai ranh giới tự-tha, cho nên Luận nói vốn là thành hoại. Sở dó chỉ nói đến thành hoại, bởi vì nói thành hoại tức là Không, cho nên không tìm cầu riêng biệt. Nên biết rằng pháp bình đẳng không hai, không phải là trừ diệt có-không mà nói là không hai. Đây tức là như thật mà nghiệm xét, nghóa là tên gọi có- không là hý luận, cũng không phải là trong hai pháp có-không thiết lập riêng một pháp cho là không hai. Không cùng chọn lấy giống như trên, bởi vì pháp nhân duyên có-không chung một Thể, đều không phải là tự tánh. Nói đến pháp không kia bởi vì có, có thì không phải là có; lại nói đến pháp có kia bởi vì không, không thì không phải là không. Bởi vì có không phải là có, cho nên ngoài không lại không, riêng có là hai. Bởi vì không không phải là không, cho nên ngoài có lại không, pháp không là hai. Do đó nói là có-không không hai. Lại nữa, nói đến pháp có-không kia vốn là không hai, cũng không có tự tánh không hai có thể chọn lấy. Đây là phá về có-không đều chấp. Thứ ba là văn kết luận có hai có thể biết, nghóa về tướng như Luận mà thôi. Trên đây dựa theo mười hai Nhập để trình bày về pháp chuẩn mực, dưới đây dựa theo mười hai Duyên sinh để phân rõ về nơi nương tựa của Quán môn. Hỏi: Trên đây trình bày về pháp chỉ dựa theo mười hai Nhập, các Quán môn dưới đây vì sao chỉ dựa vào Duyên sinh? Đáp: Bởi vì thâu nhiếp về pháp cho nên chọn lấy rộng rãi, dựa theo mười hai Nhập để gồm chung y-chánh, nay dựa theo Quán môn thâu nhiếp bên ngoài, bởi vì từ bên trong cho nên giới hạn ở Duyên sinh. Văn này có hai: Dựa vào bắt đầu trú để trình bày về không trú, tức là tổng quát về Lập tông. Từ “Tác thị niệm…” trở xuống là dựa theo chính thức trú để mở ra Quán môn, tức là riêng biệt giải thích. Địa trước yếu kém cho nên chính thức trú trong Địa mới gọi là không trú, Địa này mạnh mẽ cho nên bắt đầu trú trong Địa thì gọi là không trú. Văn phần một có hai: Một, quán về tướng của pháp… là nhắc lại phần trước để phát khởi phần sau, nói đến tướng của pháp là nhắc lại mười pháp bình đẳng trong văn trước đây, tùy thuận nhắc lại phần trước có thể tiến vào Địa thứ sáu, đây là theo Luận, kinh có thể biết. Hai, từ “Phục dó thắng Đại Bi…” trở xuống là chính thức hiển bày về không trú, trong đó nối thông xuống dưới sáu câu phân biệt. Một là giải thích về tên gọi: Bởi vì đối với Quán trước đây cho nên nói Quán này là lại (phục), Đại Bi đầu tiên là tâm nghó đến chúng sinh, trừ diệt đau khổ là Bi, Bi tăng lên gọi là Đại. Đại Bi tăng lên là tâm mong cầu thương xót vô cùng gọi là tăng thượng, cũng có thể mong cầu đối với quả tăng thượng cho nên gọi là tăng thượng. Bởi vì cầu Phật trí làm lợi ích chúng sinh, cho nên gọi là Đại Bi. Nói là đầy đủ, bởi vì tâm lìa hữu vi, chán ngán hữu vi cho nên quán sát về duyên khởi, quán sát đến cùng tận gọi là đầy đủ. Điều này thì trong kinh-luận không giống nhau. Nếu theo văn Luận thì có bốn câu, tức là dùng một câu sinh diệt thứ tư dựa vào ba môn trước để thành tựu hành tướng. Nếu theo bản kinh thì câu thứ ba là sinh diệt, tức là dùng sinh diệt để quán sát đầy đủ. Căn cứ vào kinh-luận, thì có hai ý giải thích về môn sinh diệt: Dựa vào luận, đó gọi là nhân duyên Bồ-đề và chúng sinh đều là hữu vi, nay dùng trí nhận biết cho nên nói là quán sinh diệt. Dựa vào kinh, pháp nhân duyên thì thuận với sinh mà trái với diệt, chính là vì cứu giúp chúng sinh cho nên nói là Đại Bi. Vả lại, nếu dựa vào kinh làm thành bốn câu, thì cũng có thể biết được. Hai là trình bày về nghóa của ba tâm theo thứ tự: Nương theo pháp Không quán sát trước đây, liền nghó đến chúng sinh do hư vọng ràng buộc, cho nên trước tiên khởi lên tâm Bi; bởi vì ý niệm về Bi cho nên cầu mong trí tuệ của Phật, muốn làm lợi ích cho nên khởi lên tâm thứ hai; trí tuệ của Phật nhất định phải do lìa xa lỗi lầm mà thành tựu, cho nên khởi lên tâm thứ ba. Ba là phân biệt về Tự lợi-Lợi tha: Một tâm trước là Lợi tha, hai tâm sau là Tự lợi. Bốn là phân biệt về bảo vệ phiền não-bảo vệ Tiểu thừa: Hai tâm trước là bảo vệ Tiểu thừa, một tâm sau là bỏa vệ phiền não. Năm là phân biệt về nhân quả: Hai tâm đầu và sau thâu nhiếp về nhân, tâm thứ hai là mong cầu về quả. Sáu là phân biệt về không trú: Một tâm đầu là Lợi tha không trú vào Niết-bàn, hai tâm sau là Tự lợi không trú vào thế gian. Văn phần hai là dựa vào chính thức trú để phân rõ riêng biệt về Quán môn, thứ nhất là gồm chung kinh-luận phân định lựa chọn Quán môn, thứ hai là giải thích về nghóa. Phần thứ nhất có ba: Một là dựa vào kinh phân định, hai là dựa vào luận phân định, ba là lấy kinh-luận đối lập với nhau để phân văn. Một là dựa vào trong kinh phân định: Một, trình bày riêng biệt về mười quán; hai, trở lại kết luận về mười quán. Mười quán là những gì? Phần nhân duyên theo thứ tự. Từ “Tam giới hư vọng…” trở xuống là trình bày về Nhất tâm thâu nhiếp. Từ “Vô minh hữu nhị chủng…” trở xuống là trình bày về tự nghiệp giúp đỡ thành tựu. Từ “Vô minh linh hành bất đoạn…” trở xuống là không rời bỏ nhau. Từ “Vô minh ái thủ…” trở xuống là hành của ba đường. Từ “Vô minh hành thị quá khứ…” trở xuống là trình bày về quán sát thời gian trước sau. Từ “Vô minh hành nãi chí lục nhập…” trở xuống là trình bày về Tập của ba Khổ. Từ “Vô minh nhân duyên hành sinh…” trở xuống là phân rõ về nhân duyên phát khởi. Từ “Vô minh nhân duyên thị sinh phược…” trở xuống là phân rõ về nhân duyên sinh diệt ràng buộc. Từ “Vô minh nhân duyên thị tùy thuận hữu…” trở xuống là tùy thuận quán sát tất cả không gì vốn có. Trong đó tất cả đều có quán thuận-nghịch, tức là hai loại, văn kinh như vậy. Hai là dựa vào luận phân định, Luận gia ngay trong mười loại quán này phân biệt làm ba môn: Ngay trong tâm chán ngán lìa xa hữu vi, quán sát về mười hai nhân duyên, đây tức là môn sinh diệt đầy đủ ở trước. Ngay trong tâm suy nghó sâu sắc đến chúng sinh, quán sát về mười hai duyên, sau này nói là quán về Bi tùy thuận, nói đến tùy thuận thì đây chính là khởi tâm Bi tùy thuận duyên sinh, tức là Bi trước đây làm đầu tiên. Tâm mong cầu Phật, quán sát về mười hai duyên, văn Luận gọi là quán Nhất thiết tướng trí phân biệt, đây chính là quán về Bi tăng thượng ở trước. Hỏi: Trước đây bắt đầu trú thì trước là trình bày về Bi làm đầu tiên, tiếp là nói về tăng thượng, sau là làm sáng tỏ về Bi đầy đủ; nay ở đây vì sao trước là đầy đủ, tiếp là Bi, sau là nói về tăng thượng? Đáp: Trước đây trong bắt đầu trú, bởi vì tâm sinh khởi theo thứ tự, cho nên trước là Bi làm đầu tiên, sau là nói về Bi đầy đủ; nay ở đây thì bởi vì Chánh hạnh theo thứ tự, cho nên trước là Bi đầy đủ, sau là nói về tăng thượng. Nghóa này thế nào? Trước đây trong bắt đầu trú nương theo mười pháp trên đây quán sát về pháp rỗng lặng, liền nghó đến chúng sinh bị ràng buộc vì pháp hữu vi hư vọng, vì vậy trước là phát khởi Từ Bi; muốn diệt trừ đau khổ thì cần phải đạt được trí tuệ của Phật, tiếp theo phát khởi tăng thượng; trí tuệ của Phật nhất định phải do lìa xa hữu vi mà thành tựu, cho nên trình bày về quán Sinh diệt đầy đủ… Nay trong Chánh hạnh thì lìa xa lỗi lầm làm bắt đầu, trước là chán ngán hữu vi, nhờ đó tự mình lìa xa lỗi lầm, liền nghó đến nơi chúng sinh không vượt ra. Tiếp theo phân rõ về tùy thuận, hai loại trước thâu nhiếp về nhân, lý nhất định phải ở trước, Nhất thiết tướng trí là hành mong cầu về quả, lý cần phải ở sau. Trong ba môn này đều có mười loại về quán Nhân duyên-Tập thì trở thành ba mươi môn, trong mỗi một môn đều có nghịch-thuận thì trở thành sáu mươi loại. Trên đây phân biệt chỉ dựa vào trú Địa để trình bày về sáu mươi loại, đối với phần quả sau này có một trăm tám mươi môn về quán Nhân duyên. Sở dó biết như vậy, là bởi vì tìm theo văn của phần quả dùng ba môn về Không để phân biệt về duyên Tập, cho nên căn cứ vào môn này về sau đều thâu nhiếp không giống nhau. Kinh nói dựa vào Không giải thoát đạt được mười Tam-muội Không, Vô sinh-Vô nguyện cũng lại như vậy. Căn cứ vào ba Không này thì có ba nghóa: Nếu dùng Tam-muội Không để quán sát về mười hai duyên thì mười hai duyên đều Không, sở dó biết như vậy là bởi vì Luận chủ đem Vô tướng phân biệt kết hợp với Tam-muội Không; nếu dùng Vô tướng môn để quán sát về mười hai duyên thì mười hai duyên tức là tương tự; nếu dùng Vô nguyện môn để quán sát về mười hai duyên thì mười hai duyên tức là thật. Trong Luận lại nói: Môn quán Vô tướng là tánh chân thật, do chân thật lìa tướng cho nên dùng để kết hợp, dùng Vô nguyện kết hợp với Vô sinh, bởi vì Vô sinh dựa vào nơi khác không có nguyện cầu gì, cho nên dùng để kết hợp. Pháp môn giống-khác về nhân duyên như vậy, dựa theo mười Tam-muội Không sau này suy nghó thì có thể hiểu. Ba là lấy kinh-luận đối lập với nhau để phân văn, phạm vi của văn lại có ý khác, trước đây dựa vào mười loại trong bản kinh thì trở thành quán về nhân duyên chán ngán xa lìa hữu vi…, do đó căn cứ vào mười loại trước sau của bản kinh thành ra một trăm tám mươi môn. Lại hỏi: Nếu dựa vào kinh-luận không có sáu mươi môn về quán tướng, thì làm sao có thể trở thành một trăm tám mươi môn? Đáp: Dựa vào kinh ban đầu mở ra ba quán môn, sau Luận chủ vẫn chấp nhận hai mươi loại của bản kinh, mà lại riêng biệt phân rõ về ba môn-bốn môn-chín môn…; nay lấy ba quán môn mở ra trước đây để nghiệm xét, sau Thể của quán trong kinh, thì biết chắc chắn có sáu mươi môn. Nay dùng Luận so sánh với kinh thâu nhiếp mười môn làm ba loại, ý thuận theo một quán chán ngán xa lìa hữu vi. Ý này về sau lại phân biệt, như vậy thì Luận thâu nhiếp phạm vi của kinh. Ngay trong quán về chán ngán xa lìa hữu vi, thâu nhiếp mười loại quán môn trong kinh ấy để làm môn thứ nhất trong ba mươi loại, tức là lấy làm một, gọi là Thành đáp tướng; tiếp có nửa môn lại lấy làm một, gọi là Đệ nhất nghóa; sau có tám môn rưỡi hợp lại làm một, gọi là Thế đế sai biệt. Thứ hai là trong quán Đại Bi tùy thuận thâu nhiếp mười làm bốn, môn thứ nhất làm một, gọi là quán chúng sinh ngu si điên đảo; tiếp theo một môn làm một, gọi là cầu giải thoát ở nơi khác; tiếp theo ba môn làm một, gọi là cầu giải thoát ở đạo khác; sau cùng bốn môn làm một, gọi là cầu giải thoát khác nhau. Trong quán Nhất thiết tướng trí phân biệt thâu nhiếp mười làm chín, đầu có nửa môn nói đó làm một, gọi là quán nhiễm tịnh; tiếp theo một môn rưỡi lại lấy làm một, gọi là quán nhiễm y chỉ; tiếp theo có năm môn phân biệt làm một; tiếp theo có hai môn lại hợp làm một, gọi là quán vô thỉ; tiếp theo một môn làm một, gọi là quán các loại, gồm chung các môn trước làm chín. Văn trong ba môn này, trước mà lại sau nên phân ra để giải thích. Thứ hai là giải thích về nghóa: Dựa vào bản kinh Đại, thì pháp giới duyên khởi mới có chúng sinh. Nay dùng phần chủ yếu để tóm lược thâu nhiếp làm hai: Một là dựa theo pháp nhiễm của phàm phu để phân rõ về duyên khởi, hai là dựa theo phần thanh tịnh của Bồ-đề để trình bày về duyên khởi. Dựa theo phần thanh tịnh thì chủ yếu thâu nhiếp làm bốn: Vốn có. Vốn có tu sinh. Tu sinh. Tu sinh vốn có. Nói đến vốn có (bổn hữu), duyên khởi vốn có thật, Thể lìa xa gọi là tình, pháp giới rõ ràng dễ thấy, ba đời không lay động. Trong phẩm Tánh Khởi nói: “Trong tâm chúng sinh có vô lượng quyển kinh, có cây lớn Bồ-đề, các Thánh cùng chứng, người chứng trước sau không giống nhau, cây đó không phân biệt sai khác, cho nên biết là vốn có.” Nhưng văn về duyên sinh này, mười hai nhân duyên tức là Đệ nhất nghóa. Nói đến vốn có tu sinh, nhưng các phẩm loại thanh tịnh vốn không có tánh khác biệt, nay dựa theo các duyên phát sinh pháp thiện mới, dựa vào các duyên ấy chính là pháp vọng, đã phát trí chân thật chính là hợp với Phổ Hiền. Thể của tánh vốn không phân biệt, Trí của tu cũng không phân biệt, bởi vì trí thuận với lý mà không thuận với các duyên, cho nên biết tu sinh tức là từ vốn có, cùng tánh mà phát ra. Vì vậy phẩm Tánh Khởi nói: “Gọi tâm Bồ-đề bởi vì là tánh phát khởi.” Hỏi: Vốn có tu sinh đã là nghóa mới phát, không phải là đã từng có, tại sao lại nói là thuận theo tánh vốn có ấy? Đáp: Phẩm này bởi vì là nghóa mới sinh cho nên nói là tu sinh, thân thiết với nghóa vốn có cho nên thuận theo tánh phát khởi; như ngũ cốc hiện tại không phân biệt về kiếp bắt đầu, thuận theo thân thiết với ngũ cốc vốn có, không thân đối với duyên hiện tại, cho nên không nói là mới đạt được, điều này suy nghó có thể hiểu. Nói đến tu sinh, căn thiện như Tín… trước đây chưa hiện rõ trước mắt, nay hướng về giáo thanh tịnh, nhờ vào duyên mới phát khởi, cho nên nói là mới sinh, vì vậy Luận nói bởi vì căn thiện ấy không có trí vô phân biệt. Nói đến tu sinh vốn có, tánh Như Lai Tạng ấy ẩn kín ở các ràng buộc (triền), phàm phu thì mê lầm nơi chốn mà không giác ngộ, nếu đối với lúc mê lầm thì không gọi là có. Trong luận Vô Tướng nói: “Nếu có thì phải thấy.” Lại theo Nhiếp Luận nói: “Bởi vì có được-không được, thấy-không thấy…, nay đạt được trí vô phân biệt mới hiển bày Pháp thân ở trong ràng buộc thành tựu thanh tịnh, trước không có lực giống như pháp ấy không có, nay đạt được trở thành Dụng, khác với lúc đầu trước đây không có, cho nên không có thể nói là vốn có, mà nói là tu thanh tịnh. Hỏi: Nếu nói bắt đầu hiển bày là tu khởi lên gọi là tu sinh, thì tại sao nói là hiển bày? Đáp: Chỉ là hiển bày về nghóa thành tựu vốn có trong môn tu sinh, trước đây ở tâm mê lầm không nói về Thể dụng, lúc này mới nói là có Pháp thân ấy, cho nên biết là thân thiết với pháp mới sinh khởi kia. Trước đây có nghóa không thân, như Luận nói: Lìa-không lìa Vô thường, đã nói là Vô thường thì không có thể thuận theo vốn có. Bốn nghóa trên đây đối với lý duyên sinh này thật sự nối thông với có. Nếu đối với phần văn của kinh, thì mười loại duyên sinh này chỉ có hai môn, một là tu sinh, hai là tu sinh vốn có, hai loại còn lại thuộc về phẩm Tánh Khởi. Thứ hai là pháp nhiễm phân biệt về duyên sinh, có hai nghóa: Môn duyên khởi nhất tâm. Môn y trì nhất tâm. Môn duyên khởi nhất tâm, toàn phần có ba: Một là môn Chân- vọng duyên Tập, hai là môn Thâu nhiếp gốc theo ngọn, ba là môn Thâu nhiếp ngọn theo gốc. Nói đến duyên Tập là luận về tướng tổng quát, mười hai nhân duyên cùng một Thức căn bản dấy lên không có chân-vọng khác biệt, như Luận nói: Dựa vào một tâm pháp có hai môn, bởi vì hai môn này không lìa xa nhau. Lại trong kinh này nói chỉ riêng tâm chuyển. Lại như Luận nói: Chân-vọng hòa hợp gọi là A-lê-da, chỉ riêng chân không sinh khởi, chỉ riêng vọng không thành tựu, chân-vọng hòa hợp mới có việc làm; như sự việc trong mộng, biết và ngủ hòa hợp mới có thể Tập khởi. Đây là môn Chân-vọng duyên Tập. Hai là Thâu nhiếp gốc theo ngọn, bởi vì chỉ riêng vọng tâm dấy lên. Luận nói: Gọi là chủng tử của Thức và quả báo của Thức, lúc đạo đối trị thì Thức vốn có đều không còn, Pháp thân lưu chuyển trong năm đường gọi là chúng sinh, tùy theo nơi lưu chuyển ấy mà trở thành ý vị riêng biệt ấy. Pháp gieo trồng các khổ như vậy không phải là một, cho nên biết là Thâu nhiếp gốc theo ngọn của pháp ấy. Hỏi: Lúc đang tùy theo nhiễm thì chính là nhiễm, hay là tịnh? Đáp: Thể là tịnh ban đầu lại là tịnh, thì không thể nào gọi là tùy theo, cho nên biết lúc nhiễm thì không thể là tịnh. Nếu như vậy thì không nên nói dựa vào Như Lai Tạng có tâm sinh diệt, thích hợp chỉ là riêng sinh diệt. Nay nói là dựa vào nhau, như cách nói này thì người có trí cùng chứng nhiễm-tịnh, cho nên đưa ra cách nói này, không phải là giới hạn trong môn nhiễm. Ba là Thâu nhiếp ngọn theo gốc, mười hai nhân duyên chỉ là chân tâm dấy lên, như sóng từ nước dấy lên, cũng như sự việc trong mộng chỉ là báo của tâm dấy lên, bởi vì vốn là chân tánh. Kinh nói các pháp như năm Ấm-mười hai nhân duyên-Vô minh… đều là Phật tánh. Lại kinh này nói ba cõi hư vọng chỉ do một tâm dấy lên. Luận giải thích rằng vốn là Đệ nhất nghóa đế. Hỏi: Thâu nhiếp ngọn theo gốc phải là phẩm tịnh, vì sao lại phân biệt ở môn nhiễm? Đáp: Thâu nhiếp ngọn theo gốc này, lý thuộc về duyên sinh ở phẩm tịnh, nay bởi vì đối với nhiễm hiển bày về nhiễm như huyễn cho nên thuộc về môn nhiễm. Hỏi: Nghóa nếu như vậy thì tất cả pháp tịnh đều đối với nhiễm hiển bày về vọng, tại sao chỉ phân rõ Thâu nhiếp ngọn theo gốc thuộc về duyên sinh của nhiễm? Đáp: Luận về duyên khởi của phẩm tịnh thì có hai loại của nó, một là vì đối với nhiễm để hiển bày về pháp vọng, cho nên kinh nói không biết đúng như thật về Đệ nhất nghóa của các Đế; hai là chỉ hiển bày về duyên khởi của phẩm tịnh, tức là môn hiển bày về lý, chính là như các phẩm Phổ Hiền-Tánh Khởi… Nghóa còn lại dựa theo đây có thể hiểu. Thâu nhiếp ngọn theo gốc này tức là Như Lai Tạng Bất Không, trong này cũng có nghóa Không, bởi vì tự Thể thuộc Không, sau này sẽ phân biệt. Môn y trì nhất tâm, các Thức thứ sáu-thứ bảy dựa vào A-lê-da mà thành tựu, cho nên Luận nói mười hai duyên sinh dựa vào Thức A- lê-da, bởi vì Thức A-lê-da là nhân gồm chung. Hỏi: Vì sao chọn lấy khác biệt với duyên khởi nhất tâm trên đây? Đáp: Duyên khởi nhất tâm trên đây, bởi vì nhiễm-tịnh chính là Thể, không phân biệt khác nhau; môn y trì nhất tâm này, bởi vì năng-sở không giống nhau cho nên phân làm hai. Hỏi: Các nghóa như trên đều là mỗi một môn riêng biệt, làm sao có thể thành tựu cảnh giới Chứng như nhau? Đáp: Trên đây đã phân rõ đều dựa theo duyên hiển bày riêng biệt, tức là cảnh của Chứng duyên với đạo phương tiện, ham thích (dục lạc) đã khác nhau thì quán môn đã dựa vào không phải là một. Nếu tìm theo cảnh của Chứng thì như trên nói về mười bình đẳng. Trên đây là phần thứ hai giải thích về nghóa môn, xong. Tiếp theo đối với văn giải thích về tướng riêng biệt của Quán môn. Dựa vào mười quán trong bản kinh, đầu là trình bày về quán thuận, sau là phân rõ về quán nghịch, còn lại đều giống như vậy, tướng của quán nghịch ấy về sau sẽ giải thích. 1) Quán theo thứ tự của phần nhân duyên, có ba loại phân biệt: Một là trình bày về chướng đã đối trị, hai là phân rõ về Thể của quán, ba là giải thích văn. Nói về đối trị chướng là đối trị kiến chấp về Ngã, đó là nói mười hai phần đều do Ngã dấy lên, tức là tà kiến về Thân kiến ở tất cả mọi nơi. Nếu phân văn riêng biệt thì chỉ đối trị về kiến chấp của con người, đối trị về Hoặc này đều do ba Không kia. Tướng đối trị thế nào? Thật sự không có tướng của con người, thấy tướng thật của con người thì do Không môn mà đối trị; duyên khởi tựa như Ngã sinh, không như Sinh đã giữ lấy,chấp làm tướng tương tự, thì do Vô sinh mà đối trị. Sở dó có thể biết có Ngã tương tự kia, là bởi vì Luận nói Thức của tự-tha sai biệt từ Ngã kiến huân tập mà sinh khởi, cho nên có thể biết. Thành tựu Sinh tương tự và tướng thật của pháp, tức là Vô nguyện môn, cùng đối trị hai chấp trước đây; cũng có thể đối trị về tướng thấy Vô ngã-Không kia và thành tựu tám tự tại. Sở dó có thể biết, là bởi vì Luận nói tự Thể của Không là có. Đây là thành tựu tánh của Vô tánh, tức là môn đối trị về Hoặc. Hai là Thể của quán, tức là hiển bày về nghóa sinh khởi theo thứ tự của lý nhân duyên, dùng ba tánh là Không và tương tự-chân thật… làm Thể của quán thuận; nghịch thì trở thành quán về tánh Vô tánh- Không của một duyên khởi, tức là dùng lý duyên khởi theo thứ tự làm Thể của quán này, đây là dựa vào kinh phân rõ. Nếu dựa vào luận phân rõ thì chỉ dựa theo mà suy nghó thâu nhiếp. Ba là giải thích văn, dựa vào phần nhân duyên tức là phần Nhân; theo thứ tự là từ từ từng bước; quán là nghóa về hiểu biết rõ ràng. Dựa vào đây lấy làm đề mục của chương. Văn này có bốn, thuận theo nhau làm ba, quy phạm chủ yếu làm hai, thâu nhiếp toàn bộ làm một, môn riêng biệt là bốn: Một, nêu ra Hoặc kia đã loại bỏ hiển bày thành tựu về Vô ngã môn; hai, theo luận từ “Ngu si…” trở xuống, theo kinh từ “Nhất thiết phàm phu…” trở xuống, là vặn hỏi về tình để hiển bày về Lý môn; ba, theo luận từ “Vô trí…” trở xuống, theo kinh từ “Thường tùy tà niệm…” trở xuống , là phân rõ về tướng để hiển bày về Thật môn; bốn, từ “Bất tri chư Đế, Đệ nhất nghóa đế…” trở xuống là dựa vào Thật để phân rõ về Tướng môn. Thuận theo nhau làm ba, trong bốn môn thì một môn đầu gọi là Thành, trong giải thích về thành tựu Vô ngã thì hai môn gọi là Đáp, đáp hiển bày về Vô ngã thì một môn sau gọi là Tướng, đó là dựa vào hai Đế thiết lập về tướng của nhân duyên. Quy phạm chủ yếu làm hai, Tông của ba môn trước hiển bày về Vô ngã, tức là tánh của nhân duyên, một môn sau tổng quát hiển bày về tướng của nhân duyên. Thâu nhiếp toàn bộ làm một, toàn bộ làm thứ tự của phần nhân duyên thứ nhất. Ngay trong phần thứ ba là phân rõ về tướng để hiển bày về Thật, chỉ bởi vì Si-Ái mà khởi lên các nghiệp hành, cho đến Lão-Tử không phải là bởi vì Ngã. Trong đó đầu là thuận, tiếp là nghịch, sau là kết luận. Trong thuận, đầu tiên nói không có trí về có-không (hữu-vô), kinh nói “Thường tùy theo tà niệm”, là chi Vô minh, không có trí là Si, mong cầu là Ái, mong cầu Thường gọi là có, mong cầu Đoạn gọi là không. Quá khứ chỉ là Si, Thật tức là quá khứ có đủ các phiền não, lực của Si- Ái mạnh mẽ, cho nên chỉ nêu ra hai loại này. “Luôn luôn tùy theo…” trở xuống là Hành, Hành có sáu câu, ba câu trước là lỗi lầm của Hành, ba câu sau là Thể của Hành; theo kinh thì ba câu về lỗi lầm của Hành cũng là chi Vô minh, bởi vì trong luận thiếu chi Vô minh. “Bởi vì Hành này…” trở xuống là chi Thức: Một là bởi vì Hành này khởi lên chủng tử của tâm, dựa theo loại trước phát khởi loại sau, do Hành xông ướp tâm khiến cho tâm về sau phát khởi, cho nên nói là Chủng tử, tâm là A-lê-da. Hai từ “Hữu lậu…” trở xuống là đối với sinh tử sau này hiển bày về nghóa của Chủng tử trước đây, Hữu lậu là Ái, giữ lấy Tưởng là Kiến; theo kinh thì giữ lấy tâm, tâm tức là nối thông với Tưởng. “Đó gọi là nghiệp làm đất…” trở xuống là tiếp tục sinh ra thân đời sau (hậu hữu), là chi Danh Sắc. Sinh khởi Danh Sắc… có bảy câu: 1) Nghiệp làm đất; 2) Thức làm chủng tử; 3) Vô minh phủ lấp; 4) Nước Ái thấm ướt; Tâm Ngã tưới nước; 6) Các loại Kiến chuyển vận; 7) Mầm Danh Sắc nảy sinh. Hỏi: Như nghóa huân tập, lẽ ra nghiệp làm chủng tử, Thức làm đất nương nhờ, vì sao nay Thức làm chủng tử? Đáp: Thông thường luận về nghiệp chủng phân biệt có hai, một là lúc huân tập trở thành chủng tử, hai là lúc chuyển sinh cảm đến quả. Nếu lúc huân tập trở thành chủng tử, thì nghiệp làm chủng tử mà Thức làm đất, vì Thức chưa được huân tập thì chưa phân rõ là có chủng tử, nay vì huân tập mới nói là chủng tử nảy sinh, tức là thân thiết với nghóa chủ động huân tập trên tâm, không thân với nghóa của Thức, cho nên Thức làm đất, chủng tử là chủ động nương nhờ, tức là thuộc về nghiệp. Hai là chuyển sinh cảm đến quả, lấy Thức làm chủng tử, dùng nghiệp làm đất. Nay nói đến nghiệp là trước khi sinh, lúc ấy Trung ấm cầu sinh, nghiệp tâm làm nghiệp chủng chính thức, hãy còn thuộc về Thức vốn có chưa phát ra. Nay trên tâm này cầu sinh, Trung ấm là tướng dụng của chủng tử, tướng dụng này đã không phải là Thể của nghiệp, chỉ có thể dẫn dắt nghiệp cảm được chi Thức, như đất khiến cho hạt giống có thể thành tựu quả. Nói nghiệp làm đất, chủng tử ở trong Thức, cùng với Thức vốn có kia đều là tánh Vô ký, trước đây tạo ra nghiệp thức trên tâm rồi tàn lụi, nay chủng tử hiện khởi cùng với Thức vốn có đều thành tựu, thân thiết với nghóa của Thức, không thân với chủ động huân tập, cho nên phân định thuận theo Thức hợp lại làm chủng tử. Điều này có hai nghóa, một là ngay nơi Thể, hai là Thể khác. Nghóa này nói như trong phần phân tích trên đây. Hỏi: Nghiệp lực Vô minh và các Kiến…, hiện nay cầu sinh dùng Thức làm chỗ dựa, lẽ ra từ nơi Thức làm chủng tử, vì sao phân biệt là đất làm chỗ dựa? Đáp: Lý cùng dựa vào Thức, nhưng có nghóa khác không giống như chủng tử, bởi vì chủng tử hiện hành cùng với Thức là tánh Vô ký, một Thể mà hai tướng, cả hai là một cho nên không phân biệt; Vô minh cầu sinh tuy cùng hiện hành với Thức nhưng thay đổi trở thành Sắc- Tâm… khác nhau, không như hai nghóa về Thể và Tướng của Thức vốn có, cho nên không thể nào từ Thức làm chủng tử, văn còn lại có thể biết. Quán về Y chỉ nhất tâm, tức là chủ động nương tựa (năng y) như mười hai duyên…, tâm tức là tâm A-lê-da. Dựa vào đây lấy làm đề mục của chương. Dùng duyên khởi của A-lê-da làm Thể của quán này, ba môn giống như trước. Một là pháp thụ động đối trị (sở trị), đối trị về chấp tự tánh ở cảnh bên ngoài, nghóa là tất cả các cảnh, đối trị riêng chỉ vì ba loại Hoặc về tự tánh-sai biệt và tích tụ…, đối trị chung thì có thể biết. Hai là pháp chủ động đối trị (năng trị) về chỗ dựa là Thể của quán, vẫn dùng ba Không về tánh tướng của Không-tương tự-chân thật và Vô sinh làm quán thuận này. Vì vậy Luận nói Thức A-lê-da vốn là Đại Không cho nên Vô sinh, tương tự-chân thật và Vô nguyện như Luận suy nghó nên biết. Nghịch thành một quán giống như môn thứ nhất. Chỉ do Thức (duy thức) có hai loại: Một là Thức A-lê-da duy trì sinh khởi các pháp, lìa Thức thì không có; hai là trình bày về Ý thức chỉ do Thức, các pháp như sinh tử Niết-bàn nhiễm tịnh… hiện tại ở Ý địa, lìa Thức thì không có. A-lê-da chỉ do Thức (lê-da duy thức), bắt đầu là hiểu rõ về cảnh chứ không phải là chỗ dựa (sở y) của Hành; Ý thức chỉ do Thức (ý thức duy thức), Thức này đến cuối cùng tức là đích thực hiểu rõ về chỗ dựa; tâm cuối ý trước, trái lại với trước có thể biết. Tướng của quán thế nào? Như tâm hiện hành thấy pháp làm cảnh, nếu không có tâm quán sát hiểu rõ cảnh, thì các pháp nhiễm tịnh… mặc ý hiện rõ trước mắt. Nay biết Thủ là ý do lời nói mà dấy lên, đó gọi là tâm không khởi, lúc biết Thức dấy lên thì bởi vì tên gọi dựa vào nơi khác (y tha) mà loại trừ cảnh phân biệt. Hỏi: Dựa vào nơi khác cùng với Thức vì sao Thủ khác nhau? Đáp: Dựa vào nơi khác là căn cứ theo tướng, vì sao biết được? Bởi vì Thể phân biệt là tướng Không có thể khởi lên Thức, Thức ấy tùy duyên không giữ lấy tự tánh, tướng này thuận theo trở thành Không mới hiện rõ tướng tương tự, cho nên biết là căn cứ theo tướng. Hai là chỉ có Thức dựa theo Thể, ba cõi chỉ do tâm, điên đảo phân biệt tức là Không, cho nên có thể biết. Thức hướng về Vô tánh tức là tương tự chứ không phải là chân thật, Thể và Tướng tác thành lẫn nhau, cho nên nói chung như vậy. Hỏi: Như cảnh dựa vào tâm tức là pháp của quả, tương tự mà không phải là không có, tại sao đối với Thức để phân rõ cảnh tức là Không? Đáp: Chỉ từ tâm sinh khởi chứ không phải là cảnh phân biệt, thuộc về tâm chủ động duyên vào do tánh Y tha thâu nhiếp. Vì sao biết? Bởi vì đang lúc thấy cảnh thì chỉ thấy là thật. Vì thế Luận chủ dùng văn như hai Đế… đưa ra một quán về Y chỉ. Hỏi: Sau khi biết chỉ do Thức, vẫn là pháp đã nhận biết, cùng với trước nói là cảnh đâu có nghóa khác nhau, nhưng phân định cảnh sau là thuộc về tánh Y tha? Đáp: Lúc trước thấy cảnh, không biết là duyên với Tập mà nói chỉ là Thức dấy lên, nghóa của dấy lên không phải là tánh, lúc thấy Thức dấy lên xen tạp nói là nhiễm, duyên với Tập dấy lên lý trái với tánh phân biệt, cho nên biết khác nhau. Lúc Diệt loại trừ cảnh chân thật tức là đạt được một phần Không về tánh của Vô tướng, cho nên Vô tướng hiện rõ. Chỉ do Thức-Tưởng và cảnh hoàn toàn không sinh khởi, gọi là đạt được tánh của Vô tánh. Đây là pháp quán về Hành môn duy thức. Nếu dựa theo sinh khởi hiểu biết, thì sau ba tánh phân rõ về tánh của Vô tánh. Hỏi: Chỉ do Thức-Tưởng diệt là vì biết cảnh Vô tướng loại trừ chỉ do Thức-Tưởng, hay là Thức-Tưởng tự diệt? Đáp: Lại không có nhận biết khác nhau, tâm quán về Vô tướng, nhưng chỉ do Thức-Tưởng mà biết gồm đủ về Vô tánh, Thủ và Tưởng thì tự nó không hiện rõ ở trước mắt, nhưng cũng dựa vào thế mạnh trước đây mà đạt được tamm sau không sinh khởi. Nay trong văn này gồm chung hai loại chỉ do Thức, ba cõi do tâm dấy lên tức là Thức vốn có chỉ do Thức(bổn thức duy thức), như kệ sau trong kinh nói chỉ từ tâm tham mà có, tức là ý thức chỉ do Thức. Đây là quán thuận. Đây là dựa vào kinh phân rõ. Ba là giải thích văn, bản kinh có bốn: Một câu đầu là Lập tông, hai từ “Thập nhị duyên phần…” trở xuống là dẫn ra Thánh giáo để chứng minh, ba từ “Sở dó giả hà…” trở xuống là vặn hỏi, bốn từ “Tùy sự sinh dục tâm…” trở xuống là đáp. Tùy là nghóa về rất nhiều, Sự là dấy nghiệp trên tâm, Sinh dục tâm thì tâm là tâm A-lê-da. Hỏi: Đã nói là tâm dục, tức là ý thức, tại sao nói là tâm vốn có (bổn tâm)? Đáp: Tâm dục có hai nghóa, một là Thức hiện khởi tác dụng phân biệt, hai là chính Thức này phát khởi tác dụng của nhân duyên. Bên nghóa tức là thuộc về sự việc của nhân duyên, bên chủ động chọn lấy nhìn thấy tức là thuộc về ý thức. Nhân duyên phát khởi tức là thuộc về A-lê-da, bởi vì lúc phát khởi cùng chung nơi chốn không thể nào phân biệt, như hành của tâm lừa dối gọi là Vô minh, tâm dục chọn lấy cảnh tức là không rõ ràng, lẽ nào có thể sau tâm dục riêng biệt phân rõ về không rõ ràng? Vì vậy biết chính dục gọi là không rõ ràng, nhưng trở thành văn cho nên lời nói có trước sau. Sự là Hành, thì sự phân biệt trên tâm, tức là nghiệp hành. Hành của tâm lừa dối gọi là Vô minh, là hành ấy hiện khởi tạo thành tướng phân biệt thật sự. Nay Thức A-lê-da thay đổi trở thành không rõ ràng gọi là ý thức, giữ lấy sự phân biệt thật sự ấy cho nên gọi là Vô minh, văn còn lại có thể biết. Đây là dựa vào luận phân rõ. Hỏi: Luận này cùng với bản kinh khác nhau thế nào? Đáp: Kinh thì nối thông, Luận thì giới hạn. Quán về Tự nhân, Tự là chọn lấy tên gọi khác với Tha, chỉ chọn lấy nhân tà chứ không chọn lấy nhân chánh. Nay trong quán này thâu nhiếp bốn loại nhân: Nhân duyên, Tăng thượng duyên, Duyên duyên, Thứ đệ duyên. Dùng lý của bốn duyên làm Thể của quán này. Từ đây trở xuống đến quán về Nhân duyên, đều dùng tướng của ba tánh làm Thể của quán thuận, dùng ba Không môn làm Thể của quán nghịch, nhưng nghóa ở phần khác có các quán này, ở trong tánh phân biệt chọn lấy vọng chấp khác nhau. Ba môn giống như trước. Nói đến pháp thụ động đối trị, là đối trị chấp trước về nhân duyên khác nhau, như tham-sân-si trong Tu đạo thật sự không phải là phát sinh ra nghiệp, nhưng chấp có đủ nhân duyên có thể phát sinh ra nghiệp, tức là Giới cấm thủ; như tự tánh không phải là nhân, là phần của nhân và tâm phiền não, cùng chung đối trị này. Hai là chỗ dựa (sở y) của quán môn, trình bày về tự nhân này có đủ bốn duyên…, có thể sinh ra các pháp, tự nhân này có đủ hai lý thân- sơ của nhân duyên, gọi là quán Tục đế, vọng chấp không sinh khởi thành tựu một phần Chân. Đây là văn kinh phân rõ. Ba là giải thích văn, nay nói Vô minh có hai loại tạo tác…, một là nhân duyên gần, hai là duyên xa. Một là trong duyên thì Si là nhân gần, hai là làm nhân cho Hành, tức là duyên xa. Trong này thâu nhiếp ba duyên, văn còn lại tương tự có thể biết. Nhưng chỉ chọn lấy nhân xa, đây là dựa theo luận phân rõ. Quán về không lìa xa nhau, ba môn giống như trước. Không lìa xa nhau là không có lúc nào tách biệt mà sinh khởi lìa xa nhau. Phần ba tánh giống như quán về Tự nhân trên đây. Một là trình bày về pháp thụ động đối trị, là chấp về nhân quả khác thời, nói là nhân diệt rồi sau đó quả mới sinh ra, đây chính là lỗi về nhân không sinh ra quả. Lại có lỗi khác, suy nghó có thể hiểu, đều là Giới thủ kiến. Hai là chỗ dựa của quán môn, là lấy lý cùng lúc sinh ra quả làm Thể của quán này, đây là hai nhân gần-xa đều cùng lúc. Đây là dựa theo văn kinh phân rõ. Tướng của quán thế nào? Vô minh có hai loại, một là thời gian của chủng tử, hai là thời gian của quả. Hai loại thời gian ấy không phải là trước sau, dựa vào chủng tử chọn lấy thời gian gọi là thời gian của chủng tử, dựa vào quả chọn lấy thời gian gọi là thời gian của quả. Nghóa ấy thế nào? Chủng tử thì khiến cho Hành không đoạn mất, quả là quả của Hành đã thành tựu trong thời gian của chủng tử này, dựa vào đây chọn lấy thời gian gọi là thời gian của quả. Hỏi: Quả và nhân cùng lúc tức là lỗi về Thể khác nhau, nếu trước sau thì lỗi về sinh ra nhân mà không sinh ra quả? Đáp: Tôi thiết lập nhân quả khác với hai lỗi ấy, bởi vì là cùng lúc cho nên khác với lỗi thứ hai, bởi vì là nhân quả cho nên khác với lỗi thứ nhất. Đây không phải là quán nghịch, nhưng rời bỏ tình mà nói, chỉ hiển bày lý Tục đế chứ không phải là Đệ nhất nghóa. Sở dó biết cùng lúc, là bởi vì Luận nói có hai loại nghóa cho nên duyên vào sự biểu hiện rõ ràng. Thế nào là hai nghóa? Một là nghóa về nhân, hai là nghóa về quả. Duyên vào sự biểu hiện rõ ràng, là dựa vào hai loại nghóa về duyên biểu hiện rõ ràng về hai loại thời gian. Như vậy phần nhân duyên còn lại, hai loại nghóa về nhân tự sinh khởi, duyên vào sự nên biết. Vả lại, Luận dẫn kệ trong Luận nói: “Do các duyên mà sinh ra pháp, tức là quả không phải là nhân, lại cũng không khác biệt với nhân, chẳng phải Đoạn cũng chẳng phải Thường.” Đó là trình bày về hai nghóa của nhân quả đều chẳng phải là Đoạn-Thường, Hành là quả của Vô minh chứ không phải là nhân của Vô minh, bởi vì quả này cho nên không khác với nhân của Vô minh, nghóa về nhân trái lại với trước có thể biết. Chẳng phải Đoạn cũng chẳng phải Thường, Hành bởi vì quả này cho nên không phải là Đoạn, quả này không có nơi chốn cho nên không phải là Thường, ngay trong thời gian này Vô minh là nhân cho nên không phải là Đoạn, là nhân của quả cho nên không phải là Thường. Nghóa này Luận chủ gạt bỏ ngoài tình làm quán nghịch mà nói, không phải là thuận theo duyên sinh của Tục đế môn. Sở dó có thể biết, là bởi vì Luận chủ về sau tự thuật về kinh này rằng: Nghóa về quán nhân duyên tự sinh nói như trước. Đây là dựa theo Luận phân rõ. Quán về ba đường, ba là số đếm, đường là nghóa về nối thông chúng sinh, dùng nghóa về nghiệp báo phiền não và nối thông chúng sinh làm Thể của quán này. Ba môn giống như trên. Một là pháp thụ động đối trị, đối trị về chấp lý bỏ sự đối với pháp nhân duyên, đó là chấp các pháp nối thông với lý nhân duyên, tức là lỗi bỏ sự chấp lý. Bởi vì Luận nói nếu nhân duyên sinh thì tất cả các pháp cùng sinh (câu sinh), cho nên có thể biết. Hỏi: Như văn Luận thì lời này thuộc về sau ba đời, vì sao từ trước đã lấy làm pháp thụ động đối trị? Đáp: Luận chủ có riêng ý khác, phân định tám môn rưỡi quán ở sau, lấy làm Tục đế trình bày về chấp là lỗi lầm, cho nên thuận theo sau mà nói. Luận chủ dùng ba đường để quán sát thâu nhiếp lỗi lầm, tức Thể là lỗi lầm không thể nào có riêng pháp thụ động đối trị. Nay dựa vào bản kinh, ba đường là đức cho nên có pháp thụ động đối trị, đem đặt vào trước Luận, vì vậy biết Luận chủ có riêng ý khác. Như quán về Y chỉ nhất tâm trước đây phân làm hai môn, lẽ nào là mười loại ý hay sao? Cũng có người giải thích, người ngoài dấy lên làm thành lỗi cho Luận chủ. Nếu đưa ra cách giải thích này, thì nghóa càng khó hiểu. Vì sao biết được? Bởi vì nghi ngờ rằng nếu nhân duyên sinh thì tất cả các pháp cùng sinh chăng? Luận đáp rằng: Nghiệp quá khứ có hai loại, một là nghiệp chưa làm, hai là nghiệp đã làm. Chỉ có thể chưa làm thì không phải là tất cả sinh, đã làm thì thuận theo tất cả sinh, vì nguyên cớ như vậy, cho nên nay thành Luận chủ làm cho người ngoài trở thành lỗi, là thuộc về đối trị trước. Lại một nhân sinh ra các pháp, như chấp việc làm vốn có và tự tánh…, phần này cùng chung đối trị này, là Giới thủ mà thôi. Hai là chỗ dựa của quán môn, đối với phần ba tánh, giống như trên. Quán về tự nhân thì đạo nhân duyên nối thông với các quả báo (chư hữu) của chúng sinh. Dựa vào đạo phiền não sinh ra các quả báo, cho nên cùng thuộc về quả báo của ba cõi(hữu lưu). Dựa vào nghiệp sinh ra các quả báo trong sáu đường không giống nhau, cho nên thiện ác có khác nhau. Dựa vào báo sinh ra các pháp nối tiếp nhau không dứt đoạn, bởi vì nghiệp của việc làm ấy nhất định thành tựu ba cõi, cho nên các tướng không giống nhau. Đây là lý-sự tương ưng với lý cho nên pháp cùng sinh. Bởi vì sự cách xa cho nên không sinh khởi lẫn nhau. Nếu chỉ là lý nhân duyên không nhờ vào sự sinh khởi thì ba cõi không thành tựu. Đây là dựa vào bản kinh phân rõ. Ba là giải thích văn có thể biết, dựa vào Luận phân rõ có thể biết. Quán về ba đời, ba là số đếm, đời(tế) là hiển bày về phạm vi từ vô thỉ, tức là dùng lý sự nhân quả của ba thời gian làm Thể của quán này. Ba môn giống như trên. Một là pháp thụ động đối trị, đối trị về chấp không có nhân, tức là Thường kiến, nghóa là chấp các pháp không từ nhân mà sinh; lại nói vị lai không có sinh-lão-tử, tức là Đoạn kiến. Hai là pháp chủ động đối trị làm chỗ dựa của quán môn, Vô minh- Hành… là đời quá khứ, đối trị chấp Thường kiến về thân của đời hiện tại; Ái-Thủ-Hữu… là đời vị lai, đối trị sai lầm về chấp Đoạn kiến của ngoại đạo. Đây là dựa vào kinh phân rõ. Ba là giải thích văn, thế là có ba đời xoay chuyển, nghóa là lần lượt chuyển tiếp sinh ra các quả báo đời sau (hậu hữu). Đây là trình bày về sai lầm tai họa mà thôi, văn còn lại có thể biết. Đây là dựa vào Luận phân rõ. Quán về ba khổ, ba là số đếm, khổ là nghóa. Ba môn giống như trên. Một là pháp thụ động đối trị, đó là chấp về Lạc-Tịnh, thân nhân duyên này có đủ ba khổ, người mê lầm không hiểu rõ nói là có Lạc- Tịnh, tức là Kiến thủ thâu nhiếp vào phần Hữu thân kiến. Hai là trình bày về chỗ dựa của quán môn, ba tánh giống như trên. Lý thật nối thông với các nhân duyên, từng phần nối thông với ba khổ. Nay dựa theo phần Tướng, Vô minh-Hành… lấy làm Hành khổ, hai chi Xúc-Thọ gọi là Khổ khổ, Ái-Thủ-Hữu… lấy làm Hoại khổ. Hành khổ dần tăng lên đối trị về thân thường tồn tại chấp có Lạc-Tịnh, Khổ khổ đối trị về thân tự tại chấp có Lạc-Tịnh, Hoại khổ đối trị về thân cuối cùng chấp có Lạc-Tịnh. Đây gọi là quán thuận với Tục, chỉ dùng ba khổ và trí nhận biết về khổ làm Thể của quán này. Hỏi: Khổ này sao có thể nối thông với ba tánh? Đáp: Như trong kinh nói không sinh không diệt là nghóa về Vô thường…, lại nói là Đế-là Khổ-là Thật, lại rộng ra như luận Trung Biên, dựa theo suy nghó có thể hiểu. Đây là dựa vào văn kinh phân rõ. Ba là giải thích văn. Nguyên cớ năm Chi gọi là Hành, là các phần dần tăng lên chưa đầy đủ đối với Khổ, nhưng tướng của Hành tăng lên; nguyên cớ Xúc-Thọ là Khổ khổ, là bởi vì hai chi này tăng lên đầy đủ đối với Khổ bên ngoài; nguyên cớ Ái… gọi là Hoại khổ, là bởi vì nhân duyên Sinh của đời vị lai cho nên trái với thân hiện tại, hiển bày về đời hiện tại ấy không phải là tồn tại lâu dài; Thể của Ái-Thủ-Hữu không phải là tướng Hoại, hiển bày về nơi khác tăng lên Hoại cho nên gọi là Hoại khổ, văn còn lại có thể biết. Đây là dựa vào Luận phân rõ. Quán về nhân duyên, ba môn giống như trên. Một là pháp thụ động đối trị, đó là chấp một mình nhân có sức mạnh sinh ra quả, như chấp nhân của tự tánh có thể sinh ra hai mươi lăm Đế, thân này đều là nhân duyên sinh ra, người mê lầm không hiểu rõ nói là tự tánh làm ra, tức là Giới thủ kiến. Hai là chỗ dựa của quán môn, ba tánh giống như trên. Lý nhân duyên sinh, nhân có tác dụng quyết định, duyên có công năng phát sinh quả, mới có thể sinh ra pháp. Nếu chỉ do sức mạnh của nhân, không có công năng phát sinh quả của duyên, thì sáu nghóa của nhân ấy không hiện rõ ở trước mắt. Thế nào là sáu nghóa? Đó là: Niệm niệm diệt đi, diệt này là Không, có sức mạnh không cần đến duyên bên ngoài, bởi vì có sức mạnh không cần đến duyên bên ngoài, cho nên Thể của nhân chưa hướng về sự của duyên mà tự nhiên chuyển biến. Cùng có là Không, có sức mạnh cần đến duyên, cho nên vì đạt được duyên bên ngoài chỉ hiển bày về Thể Không, mà cùng thành tựu lực dụng. Tùy theo cho đến phạm vi đối trị là có, không có sức mạnh phải cần đến duyên, cho nên biết là tùy theo nơi khác không thể nào không có, không có thể trái với duyên, bởi vì không có sức mạnh. Quyết định là có, có sức mạnh không cần đến duyên, cho nên biết duyên bên ngoài chưa đến, tánh không thay đổi mà tự thành tựu. Quán về nhân duyên là Không, không có sức mạnh phải cần đến duyên, cho nên biết là bởi vì cần đến duyên bên ngoài, chỉ hiển bày về nhân gần chứ không phải là có hay không có sức mạnh có thể sinh ra quả. Như gợi mở hiển bày về quả của mình là có, có sức mạnh cần đến duyên, cho nên biết lúc gặp được duyên bên ngoài chỉ hiển bày về nhân của mình, mà đạt được quả của mình. Hỏi: Sáu nghóa về nhân duyên này có phạm vi thế nào? Đáp: Nay nói nhờ vào duyên, là chỉ chọn lấy ba duyên như Tăng thượng… ở ngoài sự của nhân, không chọn lấy sáu nghóa của tự nhân phát khởi lẫn nhau. Sở dó như vậy, sáu nghóa ấy cùng là pháp về lý đối với sự của nhân để hiển bày, loại bỏ sáu nghóa về sự của nhân phát sinh không có thể tự phát khởi thành tựu lẫn nhau, chỉ ba duyên bên ngoài đều có lý-sự, cho nên có thể so sánh để hiển bày về nghóa của nhân quả. Hỏi: Nếu như vậy thì sáu nghóa không thuận theo chung-riêng để tác thành lẫn nhau? Đáp: Sáu tướng của sáu nghóa cùng thành tựu. Sáu tướng có hai nghóa, một là thuận với lý, hai là thuận với sự. Trong hai nghóa này, nghóa thuận với lý thì rõ ràng, nghóa thuận với sự thì sâu xa. Hai nghóa về sự của bốn duyên ấy giống như trên, nhưng nghóa thuận với sự thì tăng lên, nghóa thuận với lý thì giảm xuống. Vì sao biết? Bởi vì pháp nhân duyên sinh ra quả khởi lên thì mê lầm mà nghóa thì rõ ràng, vì vậy Luận chủ dùng riêng sáu tướng soi chiếu khiến cho hợp với lý, do đó biết bốn duyên thuận với sự thì tăng lên. Sở dó biết chung-riêng thuận với lý thì nghóa tăng lên, là bởi vì phân rõ sáu tướng khiến cho thấy tâm hợp với lý. Hỏi: Vì sao có thể biết chỉ sáu nghóa chung-riêng được thuận với lý thì tăng lên mà không chọn lấy sự? Đáp: Luận chủ chọn lấy sự không đầy đủ sáu tướng, chỉ dựa theo nghóa để phân rõ, cho nên biết như vậy. Hai nghóa sâu xa trên đây suy nghó có thể hiểu. Nay trong nhân duyên đều có sáu nghóa, cho nên nói có riêng tác dụng thù thắng có thể cảm đến quả. Hỏi: Như Luận nói không phải là nơi khác làm cho tự nhân sinh ra, bởi vì duyên sinh không phải là tự làm, đã nói không phải là nơi khác, tại sao chỉ chọn lấy lực thừ thắng sinh ra quả? Đáp: Đây là nêu ra không sinh để so sánh chọn lấy lực thù thắng, nếu không so sánh làm mất đi thì lực thù thắng không thành tựu, để cho trong sự làm mất đi này chỉ chọn lấy một bên, lực thù thắng là quán về tự nhân của Luận chủ trên đây. Nay ở đây cùng chọn lấy hai lực, nghóa không có thể sinh phân biệt ở trong đó, dựa theo sáu nghóa trên suy nghó có thể hiểu. Hỏi: Có một Không riêng biệt, đưa vào sau quán môn rất cần phải phân biệt, đây chính là đối trị về chấp một mình nhân cảm đến quả trước đây, nghiệp nhờ vào duyên tạo ra, sau lúc cảm đến quả không dựa vào duyên phát khởi, chấp này đâu sai? Đáp: Nếu loại bỏ đối với duyên thì lực thù thắng của tự nhân đều không thành tựu, đây chính là quán về Tục đế, tức là dùng lý-sự của duyên sinh và trí làm Thể của quán. Đây là dựa vào kinh phân rõ. Ba là giải thích văn, nhân tức là nối thông với bốn loại duyên gần- xa, bởi vì nói là nhân duyên có thể sinh ra Hành, cho nên biết vậy. Giải thích tên gọi thì có thể hiểu. Đây là dựa vào Luận phân rõ. Lại dựa vào sáu nhân-bốn duyên của Tiểu thừa, nếu dựa vào ba Thừa thì tức là mười nhân-hai mươi nhân…, nếu dựa vào Nhất thừa thì tùy theo pháp phân rõ về nhân, bởi vì lý-sự của mỗi một nhân duyên khác nhau cùng với pháp giới… Nay nghóa về sáu nhân chỉ có Nhất thừa mới có thể cùng tận. Đây là dựa theo Biệt giáo mà nói. Quán về nhân duyên sinh diệt ràng buộc, nhân duyên là nhắc lại thành tựu chỗ dựa của Tục đế, sinh là pháp đã sinh ra quả, diệt tức là lìa sức mạnh sinh khởi của nhân duyên, ràng buộc(phược) tức là thuận theo ràng buộc. Bắt đầu từ Tục đế, dựa vào bản kinh thiếu nên không có, hai chữ nhân duyên thì ba môn giống như trên. Một là pháp thụ động đối trị, hai quán dưới đây chỉ đối trị về tâm Hoặc, nghóa nối thông có thể hiểu, đó là chấp về nhân duyên cùng chung sức mạnh có thể cảm đến quả, lại nói pháp nhân duyên đều có một phần sức mạnh, cùng chung thành tựu một quả, lý duyên khởi ấy nối thông có các nghóa. Nếu thấy nhân duyên có sức mạnh cùng sinh, thì gọi là chấp phân biệt vì mê lầm lý-sự, tức là kiến chấp về Ngã-Pháp. Hai là chỗ dựa của quán môn, ở đây dùng ba Không môn làm Thể của quán thuận, nghịch thì thành một quán về sinh ràng buộc vô phân biệt. Ý còn lại về sau tiếp tục phân biệt. Các pháp duyên sinh thành tựu về tướng Tục đế, không thuộc về một duyên, chỉ vì các pháp đã sinh tùy theo rời bỏ, quả thuộc một duyên thì không có thể tồn tại, cho nên không chọn lấy gần-xa. Luận nói: Bởi vì không biết gì, cho nên lúc làm ra không tồn tại. Nếu nhân duyên có thể sinh, thì không thể nào không tồn tại. Hỏi: Nếu nhân duyên không sinh mà có pháp, thì nhân trước kia chưa tập hợp cũng phải sinh ra quả; lại pháp của quả ràng buộc này và nhân duyên sinh ra quả, hai tướng nào khác nhau? Đáp: Trong nhân duyên sinh có hai loại nghóa, một là nghóa về không có tự tánh cho nên Không, hai là nhân duyên có sức mạnh cho nên sinh khởi đạt được pháp của quả. Trong duyên ràng buộc này cũng có hai nghóa, một là duyên khởi của Tục đế, hai là lìa sức mạnh của duyên sinh cho nên Không. Pháp của nhân duyên sinh, nếu không có sức mạnh sinh khởi, thì quả sẽ không thành tựu. Quán về duyên ràng buộc này, nếu không có nghóa về Không, thì quả sẽ không thành tựu. Hỏi: Thế nào là tướng Không? Đáp: Trong nhân mong cầu xa không thể nào đạt được, lại cầu sức mạnh sinh khởi không thể nào đạt được, nghóa về nhân duyên sinh-quả sinh trước đây, là nghóa tăng lên của Không, là sâu xa bởi vì pháp nhân duyên thuận theo sinh khởi mê lầm mà tăng lên. Nay nghóa Không của pháp về duyên ràng buộc, là nghóa về sức mạnh sinh khởi tăng lên, sâu xa bởi vì pháp duyên khởi thuận theo sinh khởi trí vô phân biệt. Vì vậy về sau kinh nói: Pháp duyên khởi lìa xa có-không, pháp này tuy không có sức mạnh sinh khởi mà bởi vì sức mạnh của Không, cho nên thành tựu. Lìa tự tánh sinh khởi, kinh nói: Bởi vì không trú là vốn có. Hỏi: Nếu duyên sinh thuận theo mê lầm tăng lên, thì nghóa này có thể như vậy, duyên ràng buộc thuận theo Không tăng lên, lẽ ra phải thuộc về Chân đế? Đáp: Không có hai loại, một là vì Không cho nên nhất định có Tục thành tựu, hai là vì Không thành tựu vô phân biệt. Nay chọn lấy Không thành tựu Tục, cho nên không thuộc về Chân đế. Hỏi: Nếu quán về sinh khởi ràng buộc thì lúc đang thấy pháp, là có sức mạnh của nhân chủ động ràng buộc hay không? Đáp: Không có chủ động ràng buộc, nếu có chủ động ràng buộc thì tức là nghóa khác, nghóa ràng buộc không thành tựu, nghóa này suy nghó có thể hiểu. Nay dùng lý-sự vô phân biệt thuộc Tục đế làm Thể của quán này. Quán về sinh khởi ràng buộc này không phân ra nhân quả, đây là dựa vào văn kinh phân rõ. Ba là giải thích văn. Vô minh nhân duyên các Hành sinh khởi lấy sinh khởi ràng buộc mà thuyết, Vô minh nhân duyên là nhắc lại chỗ dựa thuộc Tục đế; lấy sinh khởi ràng buộc mà thuyết, là chính thức mở rộng về Thể của quán. Sinh khởi ràng buộc giải thích giống như trước. Sở dó nói là thuyết, là bởi vì muốn dựa vào ngôn từ mà đạt được Tục đế bình đẳng. Vì sao dùng chữ ràng buộc (phược) này nối thông từng phần của sinh và không sinh làm ràng buộc? Bởi vì không phải là tự mình sinh ra làm ràng buộc. Không phải là không có Tục đế thì không thể nào dùng hai tướng, bởi vì chọn lấy hai nghóa này, cho nên dùng một chữ ràng buộc mà thuyết để ấn định về nghóa ấy. Nếu bỏ chữ Thuyết ấy thì sợ rằng chọn lấy hai nghóa khác, quán dựa vào thuyết để chọn lấy nghóa, lý ở trong thuyết, văn còn lại có thể hiểu. Vả lại, kinh cùng chọn lấy lực của Không nhiều, lực của Hữu ít; Luận thì không nói về nhân. Đây là dựa vào Luận phân rõ. Quán về tất cả không có gì vốn có, dựa vào Luận gọi là quán về tùy thuận có tất cả, ba môn giống như trên. Một là pháp thụ động đối trị, quán này chỉ giới hạn về tâm Hoặc, cũng có thể nối thông với các Sử. Tục đế cùng thâu nhiếp, vì chấp về nhân duyên, chỉ Có là thuận theo tướng Tục đế, tự Thể là nghóa Không, không hiện rõ ở trước mắt vốn là chướng ngại. Vì sao chỉ có nhân duyên sinh pháp, tức tự Thể là Không, lý không tự tồn tại, thuận theo thành tựu Tục đế, lúc thành tựu quả thuộc Tục đế, vẫn dùng nhân duyên không giống nhau? Bởi vì nghóa này cầu mong về có không tăng lên riêng biệt, nếu mê lầm thì nói là chỉ có Tục, vốn là sai lầm. Đây tức là kiến chấp về Pháp-Ngã và Ngã sở. Hai là chỗ dựa của quán môn, ba nghóa giống như trên. Ý nghóa về sinh khởi ràng buộc có khác, tự phân biệt ở phần sau. Các pháp duyên sinh, không khởi lên tức là đã khởi lên thì cùng hiện rõ; như con nai kia khát nước thấy hơi nóng của mặt trời(dương diệm) thì nước khô-ướt đều rõ ràng; lại như cảnh sắc nhiễm tịnh ở trong gương cùng hiện rõ, đây là Chánh lý. Hỏi: Không ấy đã hiện rõ, là Chân đế hay là Tục đế; lại pháp của quán này cùng với duyên sinh và sinh khởi ràng buộc trước đây, làm sao chọn lấy khác nhau? Đáp: Nhân duyên và ràng buộc chỉ thành tựu thuận theo Hữu, quán thứ mười này Không-Hữu cùng thuận theo, lại Không-Hữu này đều là Tục đế. Trình bày rộng về Chân-Tục thì ở đây có nhiều nghóa, một là Thể-Tướng đối lập với nhau, hai là Không-Hữu đối lập với nhau. Như ở đây phân ra Chân-Tục, thì nghóa ấy không phải là một. Nếu Không-Hữu phân ra Chân-Tục, thì Hữu là Tục, Không tức là Chân, tức là do chứng trí mà nhận biết. Nếu Thể-Tướng đối lập với nhau, thì Không-Hữu có thể dùng tướng để luận. Nếu dựa theo nghóa này, thì Tục đế gồm chung Không-Hữu, Không này là tự Thể thuộc Không, chứ không phải là sự Không. Vì vậy Luận nói: Tâm này là tướng Chân như, có thể chỉ rõ Thể của Ma-ha-diễn. Do đó biết tuy là được tên gọi Chân như, mà tướng Tục không phải là Thể, đây tức là Không-Hữu cùng làm một tướng, bởi vì duyên thuận với tánh, lý-sự làm Thể của quán này, cho nên văn trên nói: Mười hai duyên sinh là Vô vi. Đây là dựa vào kinh phân rõ. Ba là giải thích văn, tùy thuận tức là Không, tùy thuận đối với có tất cả là Không tùy thuận, tức là có tất cả diệt. Đây là thuận theo Luận chủ giải thích sau, không thuận theo văn kinh. Nếu dựa vào kinh thì quán về tất cả không có gì vốn có, không có gì vốn có là thụ động thuận theo (sở thuận), tất cả là chủ động thuận theo (năng thuận). Tướng của Tục tức là Không thuận với lý về Diệt, dùng tướng của Tục cầu pháp tức là tất cả tánh ấy, đây là tất cả của tất cả khắp nơi. Cũng có thể giải thích, dùng chữ tất cả (tận) làm quán nghịch. Điều này không hợp với vă kinh, bởi vì trong văn có riêng tướng về nghịch. Vả lại, nếu tất cả này tức là nghịch, thì các quán đều phải thêm vào chữ tất cả ấy. Văn nói: Vô minh nhân duyên các Hành sinh khởi là quán tùy thuận tất cả không có gì vốn có, nhân duyên không có tánh tức là tướng phân rõ về Không, Không cho nên tùy thuận với lý không có gì vốn có, tất cả là tánh của nó. Mười quán cũng có thứ tự sinh khởi lẫn nhau, bởi vì biết các lỗi lầm hư vọng, cho nên có quán thứ nhất; đã biết vọng rồi nhưng chưa biết pháp vọng dựa vào đâu có thể sinh ra, cho nên có quán thứ hai; hiểu biết về chỗ dựa nhưng chưa biết có lý gì, cho nên có quán thứ ba; đã biết về lý sinh khởi nhưng chưa biết dựa vào thời gian nào, cho nên có quán thứ tư; hiểu biết về thời gian rồi nhưng chưa biết dựa theo nghóa nào, cho nên trình bày về quán thứ năm; biết nghóa ấy rồi có gốc ngọn thế nào, cho nên có quán thứ sáu; biết về gốc ngọn rồi nhưng chưa biết có lỗi lầm gì, cho nên có quán thứ bảy; biết về lỗi lầm ấy rồi làm thế nào thành tựu đối với sự, cho nên có quán thứ tám; biết về thành tựu rồi nhưng chưa biết có tướng gì, cho nên có quán thứ chín; biết về tướng rồi nhưng nghi ngờ cho rằng trái với lý, cho nên có quán thứ mười. Mười loại dựa vào kinh, xong. Hai là dựa vào luận phân biệt thì có ba: Chán ngán lìa xa hữu vi. Đại Bi tùy thuận. Nhất thiết tướng trí. Quán về chán ngán lìa xa hữu vi, Giải tức là thuận, Hành thì là nghịch. Trong Giải dùng ba tướng Không làm thuận, toàn bộ phân làm ba: Một là thành tựu về tướng đáp, hai là Đệ nhất nghóa đế, ba là Thế đế sai biệt. Bởi vì biết thế gian không có người nào thành tựu, thế gian hữu vi là lỗi lầm, cho nên có quán thứ nhất; đã biết lỗi lầm rồi nhưng chưa biết hướng về lý nào, cho nên có quán thứ hai; tuy biết về pháp đã tiến vào nhưng chưa biết dựa vào đâu mà đạt được, cho nên có quán thứ ba. Nêu ra Tục đế phân rõ về chỗ dựa của quán môn, bởi vì Luận nói: Quán tùy thuận về Thế đế tức là tiến vào Đệ nhất nghóa. Một là giải thích văn, như trước. Hỏi: Tướng này tức là Tục đế, đâu cần đến quán thứ ba, tiếp tục trình bày về Tục đế? Đáp: Đây là phân rõ về Tục đế để chọn lấy sai lầm. Hai là Đệ nhất nghóa đế giải thích về nguyên cớ được thoát khỏi, dựa vào nhân duyên ấy quán về Đệ nhất nghóa được thoát khỏi nhân duyên. Đây là chọn lấy nửa môn trên trong quán về Y chỉ. Ba là quán Thế đế, Thế tức là thời gian, Đế là Pháp bảo trong thời gian. Ở đây hợp lại tám môn rưỡi sau trong kinh làm sáu môn quán: Nửa môn đầu làm một, hai môn tiếp theo làm một, ba môn tiếp theo riêng biệt đều có một, ba môn sau làm một. Nửa môn đầu là nhiễm, quán về nhiễm y chỉ, nhiễm là chủ động dựa vào, y chỉ là thụ động dựa vào. Trong sáu môn này, một môn đầu trình bày về nhiễm y chỉ, hai môn tiếp theo là kiến lập về tướng nhiễm, một môn tiếp theo là dựa vào nhiễm làm sáng tỏ về lỗi lầm, hai môn tiếp theo là chính thức quán để ngăn ngừa lỗi lầm, một môn sau cùng là phân rõ về phạm vi của quán. Vả lại, thế nào là nhiễm, cho nên trình bày về tướng của nhiễm; nhiễm dựa vào chỗ nào, dựa vào Đệ nhất nghóa; vì sao nói dựa vào pháp vọng- dựa vào chân, là bởi vì cần phải dựa vào đó để cầu pháp chân. Hai là nói quán về nhân, là quán về nhân của nhiễm. Hỏi: Luận chủ hợp lại hai quán vốn có làm một quán về nhân; trong bản kinh thì môn đầu là Tự nhân, Luận chủ nói là Tha nhân; trong bản kinh thì không rời xa nhau, Luận chủ nói là Tự nhân; nghóa này thế nào? Đáp: Bản kinh nói Tự, là chọn lấy khác với ngoại đạo; Luận chủ nói Tha, là dựa vào trong bốn duyên, chọn lấy Tăng thượng duyên. Thành tựu về nghóa mười hai nhân duyên theo đúng ý của Luận chủ, làm mất dần văn kinh ấy, tức là nêu ra gần khác với xa. Chọn lấy duyên xa mà không chọn lấy duyên gần, là bởi vì không thuận với mười hai nhân duyên. Thế nào là không thuận? Trong mười hai chi, chỉ riêng hai chi Hành-Hữu hiển bày nghóa về nhân của quả báo, những chi còn lại lược bớt mà không đầy đủ. Lại riêng biệt chọn lấy Tăng thượng duyên, bởi vì chọn lấy nguyên cớ gọi là duyên xa. Dấy lên Tha nhân là Tăng thượng duyên, đối với nhân gần là xa, hướng đến Tự quả tăng thượng là gần. Nay đối với nhân gần nói đến Tăng thượng duyên ấy, cho nên nói là Tha nhân cũng thích hợp, nói ngược lại thì chọn lấy duyên khác. Kinh nói là không rời xa nhau, như quán trước giải thích, cũng gồm chung gần-xa. Luận nói Tự nhân, là trong Tăng thượng duyên chọn lấy nhân duyên gần, tức là làm nhân lẫn nhau, bởi vì làm nhân lẫn nhau cho nên nối thông với các chi. Ba là quán về thâu nhiếp lỗi lầm, thâu nhiếp mười hai duyên dùng để quán sát về ba đường, chỉ là lỗi lầm của Khổ-Tập. Bốn là bảo vệ lỗi lầm, bảo vệ lỗi lầm tà kiến của phàm phu kia. Năm là chán ngán điều không chán ngán, ngăn ngừa lìa xa lỗi lầm về tâm mạn của Nhị thừa. Khổ là vi tế, Nhị thừa không chán ngán, Bồ- tát luôn luôn chán ngán, gọi là chán ngán điều không chán ngán. Sáu là quán về sâu xa, quán hành vô cùng sâu xa, lý nhân duyên vi diệu vượt qua tình thức, cho nên gọi là sâu xa. Tướng của quán thế nào? Luận chủ phân chia ba quán vốn có, dùng làm bốn pháp hướng đến lý sâu xa: Một, không phải là Tha làm Tự nhân sinh khởi, tức là thành tựu Tự nhân, có đủ sức mạnh thù thắng, lìa chấp về không có nhân. Hai, không phải là Tự làm duyên sinh khởi, tức là hiển bày về duyên xa, có đủ sức mạnh thù thắng, tức là lìa xa lỗi về một mình nhân sinh ra quả không nhờ vào duyên. Nghóa của hai loại này là lìa xa chấp về tự tánh, bởi vì thuận theo Tục đế thấy tâm không dứt. Hỏi: Vì sao không nói đều có ít sức mạnh cùng tạo thành nhiều sức mạnh? Đáp: Nếu ít nhiều thì không thành tựu. Ba, không phải là Tự-Tha dấy lên chỉ tùy thuận sinh khởi, đây là loại bỏ kiến chấp ở trước. Nhân duyên tùy thuận sinh khởi lẫn nhau, có và không có không thể nào dẫn đến làm tùy thuận với có, không thể nào không có mà tùy thuận với có, không phải là tự có lại tùy thuận với có, không phải là nhất định từ duyên sinh khởi, cho nên lìa có và không có thì không thể nào dẫn đến. Bốn, không phải là không có nhân dấy lên tùy thuận với có, tức là lìa ý địa, gọi là vô phân biệt, pháp ấy thâu nhiếp mười bình đẳng như trên. Đây tức là ý nghóa thù thắng của quán sâu xa. Hỏi: Quán này là quán nghịch hay là quán thuận? Đáp: Quán này gồm chung nghịch và thuận, tùy thuận quán về Thế đế tức là thuận, lập tức tiến vào Đệ nhất nghóa đế vốn là nghịch. Quán này đối trị tất cả các Hoặc, không trình bày riêng biệt về pháp thụ động đối trị. Dùng một duyên khởi Vô sinh chỉ do Thức làm Thể của quán này. Hỏi: Các nghóa như trên đều là quán thuận, quán nghịch là thế nào? Đáp: Chân đế và Tục đế không phải là phân biệt nhận biết, chỉ đối với tình kiến mà phân thành hai tướng. Cần phải biết rằng thuận nghịch, là chỉ vượt qua tình kiến, tức là thuận nghịch tương ưng. Làm sao dấy lên phương tiện? Như các môn quán, so sánh lẫn nhau làm mất đi, tức là Thể của lý ấy nhất định diệt các kiến chấp, nghóa còn lại có thể biết. Quán về Đại Bi tùy thuận, là Đại Bi tùy thuận nhân duyên, cũng có thể là nhân duyên tùy thuận Đại Bi. Luận chủ hợp mười làm bốn: Một, dùng môn thứ nhất bởi vì ngu si điên đảo; hai, dùng một môn để cầu giải thoát nơi khác; ba, dùng bốn môn để cầu giải thoát nẽo khác; bốn, dùng bốn môn để cầu giải thoát riêng biệt. Thứ nhất là phân rõ sai lầm vì đã lìa xa, thứ hai là lý đã mong cầu, thứ ba là nẽo đã dựa vào, thứ tư là quả đã mong cầu. Trong bốn môn này, mỗi một môn có hai loại, Tà là pháp thụ động đối trị, Chánh là pháp chủ động đối trị. Đầu là ngu si điên đảo, là tùy theo nơi ngu si và điên đảo đã chấp vào, quán sát sự việc này, bởi vì chấp Ngã cho nên thọ sinh ở tất cả mọi nơi, bởi vì xa lìa Ngã cho nên lập tức không có sinh, thì dùng điên đảo đối trị về tướng dụng của Pháp và Ngã, biết tâm sai lầm đối trị về tâm chấp Ngã. Cầu giải thoát nơi khác, là phàm phu ngu si điên đảo, thường thuận theo cầu giải thoát từ trong Thức A-lê-da và trong Thức Đà-na, chính là cầu giải thoát từ trong Ngã và Ngã sở ở nơi khác. Nghóa này thế nào? Bởi vì thuận theo cầu giải thoát từ trong pháp duyên khởi của Thức A-lê-da, và cầu giải thoát từ trong cảnh của Ngã hư vọng, thì dùng cảnh của Thức để đối trị về cảnh của Ngã, dùng trí chỉ do Thức đối trị về trí của Ngã. Thế nào là cầu giải thoát nẽo khác? Đó là cầu giải thoát từ trong nhân điên đảo. Nghóa này thế nào? Bởi vì thuận theo trong lý nhân duyên mà cầu giải thoát nẽo đã dựa vào, và cầu giải thoát từ trong nhân hư vọng của tự tánh…, nẽo thì dùng lý về Tự nhân để đối trị, tự tánh là nhân sinh khởi, lý về hai mươi lăm Đế thì pháp là nhân của tự tánh, bởi vì không bình đẳng cho nên phải đối trị. Những gì là hai mươi lăm Đế? Đó là năm căn nhận biết tức là năm căn như Nhãn…, năm căn tạo tác tức là tay-chân-miệng và căn đại tiện- tiểu tiện, cùng với căn tâm bình đẳng là mười một; năm Đại tức là Địa- Thủy-Hỏa-Phong-Không, năm Duy lượng tức là Sắc-Thanh-Hương-Vị- Xúc, cọng với mười một loại trước là hai mươi mốt; Ưu-Hỷ-Ám cũng gọi là nhiễm, thô thiển xấu xa tức là tham-sân-si hợp lại gọi là nhiễm, Tâm đế là hai mươi hai; Mạn đế cũng gọi là Ngã, tâm là hai mươi ba; Giác cũng gọi là trí, là hai mươi bốn; tự tánh là hai mươi lăm. Lúc con người sắp chết, bởi vì không thể nào gây ra nghiệp, cho nên trước tiên năm căn tạo tác biến hoại làm năm căn nhận biết, mắt thịt biến hoại làm Hỏa đại, tai biến hoại làm Không, mũi biến hoại làm Địa, lưỡi biến hoại làm Thủy, thân căn biến hoại làm Phong; năm Đại biến hoại làm năm Duy lượng, Địa biến hoại làm Hương, Thủy biến hoại làm Vị, Hỏa biến hoại làm Sắc, Không biến hoại làm Thanh, Phong biến hoại làm Xúc; Duy lượng biến hoại làm Ưu-Hỷ-Ám, Ưu-Hỷ biến hoại làm Mạn, Mạn biến hoại làm Trí, Trí biến hoại thành tự tánh. Nay hoại thì không phải là hoại diệt, chỉ là không có tác dụng hiện rõ, bởi vì trở về với ban đầu cho nên gọi là hoại, thành thì trái lại với trước có thể biết. Không rời xa nhau, bởi vì đối trị về Phạm hạnh là Phạm Thiên cùng với chúng sinh lìa xa nhau; ba nẽo đối trị về nhân của khổ hạnh, bởi vì khổ hạnh không phải là nhân của vui sướng; ba đời đối trị về không có nhân, bởi vì đời trước-giữa-sau vốn là nhân sinh khởi. Dùng bốn trí thuộc về tâm để đối trị tà trí, phần này có hai nghóa: Một là dùng duyên khởi làm Thể của Chánh đạo, dùng Trí do tu thành làm Thể của Trợ đạo, Tự nhân… là Thể của Chánh đạo. Hai là dùng trí vô phân biệt làm Chánh đạo, các Đạo phẩm làm Trợ đạo, tức là nêu ra pháp chọn lấy trí chủ động quán sát làm Thể của đạo. Cầu giải thoát riêng biệt, giải thích rộng về giải thoát có ba loại: 1) Hiển bày về duyên khởi; 2) Sinh khởi trí; 3) Diệt trừ Hoặc. Nay cầu giải thoát từ trong Ngã và Ngã sở, vọng chấp về Thường-Lạc-Ngã- Tịnh, thì ba nghóa đều không thành tựu, Luận dùng bốn nghóa để hiển bày: 1) Dùng ba Khổ để đối trị về Lạc điên đảo kia, hiển bày về đức của Lạc chân thật là lý duyên khởi, bởi vì không có sự chuyển đổi của Hành khổ…; 2) Dùng nhân duyên để đối trị về Ngã điên đảo kia, tức là hiển bày về đức của Ngã, bởi vì pháp hữu vi vốn không tự tại; 3) Dùng quán về sinh khởi ràng buộc để đối trị về Tịnh điên đảo kia, tức là hiển bày về đức của Tịnh, bởi vì ràng buộc vốn không phải là Tịnh tự tại; 4) Dùng tùy thuận cõi (Hữu) để đối trị về Thường điên đảo kia, tức là hiển bày về đức của Thường, bởi vì tùy thuận ba cõi vốn là chưa thoát khỏi Vô thường. Lại dùng Thường-Lạc… theo thứ tự để phối hợp, nghóa còn lại như Luận. 3) Quán về Nhất thiết tướng trí, nhất thiết tức là cảnh thụ động quán, trí là tâm chủ động quán. Một là chọn lấy nửa môn trong quán về phần Hữu làm quán về nhiễm tịnh phân biệt, nhiễm là nhiễm ô bởi phiền não Ngã mạn, tịnh là thanh tịnh vì không có Ngã mạn, phân biệt là sai biệt mà nhận biết. Vẫn dựa vào quán chọn lấy một môn rưỡi quán trong mười loại làm quán về Y chỉ, theo thứ tự trước nửa môn về hai pháp Chân-Tục làm chỗ dựa cho tâm mê, quán về Nhất tâm sau cuối làm chỗ dựa cho Tục đế. Hai là nghóa y chỉ như nhau cho nên cùng chung một y chỉ, một tâm y chỉ cùng chung sinh khởi y chỉ và cảnh giới y chỉ, trong nửa môn trước chỉ là cảnh giới y chỉ. Ba là dùng một môn làm quán về phương tiện, phương tiện hai lực nhân duyên phát khởi phương tiện. Bốn là dùng một môn làm quán về tướng của duyên, tướng của duyên là nghóa về tướng trạng của Nhân duyên sinh ra quả, cũng có thể là nghóa về tướng trạng của Tăng thượng duyên. Hỏi: Một môn này cùng với phương tiện trên đây khác nhau thế nào? Đáp: Trước là chọn lấy lực của Nhân duyên, sau là chọn lấy tướng trạng của sự thành tựu. Vả lại, phần vị trước về sau muốn trình bày về Hữu chi Vô tác, chỉ có nghóa về tướng của duyên. Năm là dùng một môn làm quán về Nhập đế, Nhập là tâm quán, Đế là Khổ đế-Tập đế đa nhận biết. Sáu là dùng một môn làm quán về lực-vô lực tín nhập, như quả của Vô minh-Hành sinh ra Thức… thì gọi là có lực, Thức… không cảm đến quả sau thì gọi là vô lực, dùng phạm vi của nhân quả này làm cho người tin tưởng tiến vào, cho nên gọi là quán về Tín nhập. Bảy là dùng một môn làm tăng thượng về Mạn…, người hàng Thanh văn chưa đoạn Hành khổ mà nói là cứu cánh, cho nên gọi là tăng thượng; đã đoạn Hoặc thô gọi là không phải tăng thượng, nêu ra khổ sâu xa này khiến cho người tin tưởng tiến vào. Tám là dùng hai môn làm quán về Vô thỉ, nói đến Vô thỉ là không có điểm bắt đầu của nó, bởi vì thành tựu nhân sinh khởi vốn không phải là duyên dấy lên, bởi vì thành tựu duyên sinh khởi vốn không phải là nhân làm ra. Đây là cầu hai nơi không có tạo tác, mới trở lại cầu hai tạo tác, không phải là tự nhiên thành tựu bởi vì không có tự tánh, mới gọi là quán về Vô thỉ. Hỏi: Vì sao dùng hai quán làm Vô thỉ? Đáp: Nhân duyên so sánh với nhau không thể nào nói là bắt đầu, dùng quán về sinh khởi ràng buộc để biểu thị cho pháp có kết thúc, nếu pháp không có kết thúc thì không thể nào chỉ nói là quán về Vô thỉ. Hỏi: Ràng buộc sao nói là kết thúc? Đáp: Nếu ràng buộc là quả thì không thể nào nói có kết thúc làm ràng buộc, bởi vì quả không nhất định là tướng như nhau cho nên nói là kết thúc. Chín là quán về các loại, chỉ là Tục đế tùy thuận với nhân duyên không phải là một, cho nên nói là các loại. Chín quán môn này là cảnh của Chủng trí, đối trị chướng ngại về Vô trí, Thể là pháp chủ động quán sát, tức là pháp chủ động đối trị, không phải là cảnh của Trí quán về lý, cũng có thuận nghịch, nghịch là diệt trừ phiền não, thuận là đạt được Thể của pháp. Ba là quả thù thắng của Địa, văn phân có năm: Một là đối trị diệt chướng thù thắng, là quả của người đối trị về Mạn hơn hẳn trước đây; trước đây tu mười pháp để mà đối trị, trong Địa này đầy đủ, lại dùng ba giải thoát rất sâu xa làm đối trị, gọi là đối trị thù thắng; trước đây đối trị chướng về Mạn nhiễm-tịnh của năm Địa, nay ở Địa này lại đối trị tâm Ngã vi tế và có-không…, gọi là diệt chướng thù thắng. Trong văn này cũng có rời bỏ và hướng về, làm mất dần không có gì trái ngược. Hai là tu hạnh thù thắng, là quả của người thực hành không trú vào đạo trước đây; dựa vào hạnh không trú từ trước tiếp tục khởi lên tu pháp thù thắng, gọi là tu hạnh thù thắng. Ba là Tam-muội thù thắng, là hướng về đối trị thù thắng trước đây mà nói đến quả; trước đây tu ba giải thoát để mà đối trị, đối trị ấy chuyển biến tăng thêm gọi là Tam-muội thù thắng, trong văn này dùng Luận để so sánh thì có thể hiểu mà thôi. Bốn là tâm bất hoại, hướng về diệt chướng trước đây để nói đến quả; bởi vì diệt chướng, cho nên tâm Tam-muội không thể nào phá hoại. Năm là lực tự tại, là hướng về công hạnh tu tập trước đây để nói đến quả; dựa vào công hạnh tu tập trước đây, tiến lên không ngăn ngại gọi là lực tự tại, văn còn lại như Luận. Trong phần hai là tu hạnh thù thắng: Một là trình bày về tâm tu hạnh, hai từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống là trình bày về tu hạnh thù thắng. Văn này có hai: Một, trình bày về tu hạnh; hai, từ “Tức đắc vô chướng ngại…” trở xuống là trình bày về tu hạnh thù thắng. Văn còn lại có thể biết. Ngay trong phần Tam-muội có hai: Một là phân rõ về môn Không, hai từ “Vô tướng…” trở xuống là hai Không còn lại. Nghóa còn lại như Luận. Trong hai quả sau, đều có một câu đầu là tổng quát, câu sau là riêng biệt. Ngay trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu phân bốn: Một là hành tướng Điều nhu, hai từ “Nguyệt quang dụ…” trở xuống trình bày về Trí giáo thanh tịnh, ba là hành của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng tuyên thuyết. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Ngay trong pháp thuyết có ba: Đầu là thấy chư Phật làm duyên của khởi hạnh; tiếp là năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Văn còn lại như Luận. Thứ ba là phần trùng tụng có hai: Một là trình bày về ý tụng, hai là chính thức kệ tụng. Kệ có ba mươi chín: Ba kệ một câu đầu tụng về mười bình đẳng, mười chín kệ ba câu tiếp theo tụng về hạnh không trú vào đạo, sáu kệ tiếp theo tụng về quả không trú, chín kệ tiếp theo tụng về ba quả như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ sau cùng là ca ngợi hiển bày về phạm vi tuyên thuyết. Hạnh không trú có hai: Mười bảy kệ một câu đầu tụng về mười loại quán, hai kệ rưỡi tiếp theo tụng về văn kết luận. Trong về quả không trú: Ba kệ đầu tụng về ba giải thoát, một kệ rưỡi tiếp theo tụng về công hạnh tu tập, nửa kệ tiếp theo tụng về Tam-muội, nửa kệ tiếp theo tụng về tâm bất hoại, nửa kệ tiếp theo tụng về lực tự tại. HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 4 (Phần 1) Trong Địa thứ bảy có sáu môn giống như trước. Giải thích tên gọi, khéo léo tu hạnh Vô tướng, công dụng đạt đến cuối cùng, có thể vượt qua đạo xuất thế gian của Nhị thừa thế gian, cho nên gọi là Viễn Hành địa. Trình bày về đã đối trị, theo văn Địa Luận thì chướng ngại do tập khí có tướng vi tế; nếu theo Nhiếp Luận thì tướng hành của Vô minh thô thiển. Văn này thuộc về Địa thứ sáu. Lại có hai Vô minh: Một là tướng vi tế hiện hành khởi lên Vô minh, tức là mê lầm về Tục; hai là luôn luôn không có tướng phương tiện tư duy, tức là mê lầm về Chân; lại có hai nghiệp chướng và một báo chướng về nhân duyên sinh tử. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghóa của các loại pháp không có khác biệt. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Phương tiện Ba-la- mật. Trình bày về đã đạt được quả, thông hiểu về công đức không có khác biệt của các loại pháp, đạt được tất cả tướng diệt, luôn luôn trú trong quả Vô tướng. Giải thích văn, văn kinh có ba: Một là kệ ca ngợi sinh khởi phần sau, hai là trình bày về Thể của Địa, ba là kệ tụng kết thúc phần trước. Phần một là kệ tụng, có mười bốn kệ: Mười ba kệ đầu là ba nghiệp cúng dường của Đại chúng, tiếp theo một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh. Văn phần một có hai: Mười hai kệ đầu là chính thức ca ngợi thưa thỉnh, tiếp theo một kệ là kết thúc cúng dường thâu nhiếp hành tiến vào phần vị phía trên. Văn phần đầu phân hai: Ba kệ đầu là chư Thiên tống quát tu ba nghiệp cúng dường, thân-khẩu-ý ba lần thưa thỉnh; tiếp theo chín kệ là riêng biệt. Trong riêng biệt có ba: Một kệ đầu là Thiên vương nơi ấy cúng dường, tiếp theo có một kệ rưỡi trình bày về Thiên vương nơi khác muốn nghe về lợi ích của pháp, tiếp theo sáu kệ rưỡi trình bày về các Thiên nữ nương theo uy lực ca ngợi công dụng thù thắng trong ba nghiệp của Đức Phật, trong đó hai kệ rưỡi đầu là thân, tiếp một kệ là khẩu, tiếp ba kệ là ý. Trong phần hai là phân rõ về Thể của Địa, toàn bộ phân định làm năm: Đối trị sai biệt về vui với hạnh Vô tác, đối trị về vui với tâm Không của Địa trước. Đối trị sai biệt về chướng kia, đối trị về tâm có tướng của Địa này. Hai hành sai biệt thực hành thành tựu tướng. So sánh sai biệt về Địa trên hơn hẳn Địa trước. Thuần thục sai biệt về quả của Địa. Trong phần vui với hạnh Vô tác, kinh có ba: Một, tổng quát về sinh khởi; hai, chính thức giải thích; ba, kết luận về lợi ích. Văn thứ hai có hai mươi câu, thâu nhiếp làm mười cặp. Trong mỗi một cặp, đều là câu đầu trình bày về vô lượng cảnh giới ấy, câu sau trình bày về đức nghiệp vô lượng của Phật; cũng có thể câu đầu là trí phương tiện trong Không, câu sau là hạnh thù thắng trong có. Lại văn Luận nói: Có bốn chướng như nói ở Địa thứ năm, chọn lấy việc làm không não hại và việc làm an vui kia, bởi vì thương xót mà đưa ra từ từ khiến cho tiến vào pháp, đối với bốn hành giáo hóa nói về bốn chướng ngại. Lại bốn chướng ngại về sách luận… thì như Luận mà thôi, văn còn lại như Luận. Ngay văn về tu hạnh thù thắng đối trị chướng kia, trong kinh có hai: Trình bày về phương tiện quán giải của Bồ-tát. Trong phần phương tiện này Luận có sáu câu hỏi: Một là hỏi về sự lợi ích chúng sinh; hai là hỏi về thế giới đã nương tựa; ba là hỏi về Tuệ nào, hai câu trong pháp của pháp giới ấy bởi vì khó có thể hỏi riêng biệt, cho nên dựa vào trí tuệ chủ động nhận biết mà hỏi; bốn là hỏi về dùng tâm nào, là hỏi về căn tâm; năm là hỏi về dùng hạnh nào, là hỏi về tâm khởi hạnh, đến trong phần Giải sau hợp lại nêu ra, phân rõ về có gồm chung hai nghóa vốn có mà thôi; sáu là hỏi về Thừa. Từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là chính thức trình bày về tu hành, có năm câu: Một là nêu ra, hai là phân rõ ý, ba là trình bày về phạm vi, bốn là đưa ra Thể, năm là thành tựu về nghóa đối trị. Trong văn hai hành có bốn: 1) Hai hành song song không gián đoạn. 2) Tín thù thắng. 3) Có thể làm nghóa của Đại, văn này có bốn: Một là thiết lập, hai là vặn hỏi, ba là tóm lược trả lời, bốn là mở rộng phân rõ. 4) Sai biệt về Bồ-đề phần. Trong phần này văn kinh sót một câu về bốn người (tứ gia), văn còn lại như Luận. Văn về Địa trên hơn hẳn Địa trước có hai: 1) Hơn hẳn sáu Địa trước; 2) Từ “Hà dó cố…” trở xuống là trình bày về hơn hẳn ba Địa hơn hẳn. Trong sáu Địa trước: Một là trước tiên tóm lược phân rõ Giải Thoát Nguyệt hỏi về tác thành lẫn nhau, hai là Kim Cang Tạng trả lời. Trong trả lời: Một là trước tiên gồm chung đối với các Địa làm sáng tỏ Địa này là hơn hẳn, hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là riêng biệt đối với các Địa hiển bày Địa này là hơn hẳn. Phần riêng biệt trả lời này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong phần đáp phân hai: Một là tổng quát, hai là riêng biệt. Trong phần hai là giải thích về hơn hẳn, có hai: Một là trình bày Địa này hơn hẳn về sau, hai từ “Giải Thoát Nguyệt…” trở xuống là dựa vào Thừa đã luận trước đây trình bày về tướng nhiễm-tịnh của các Địa. Trong phần một phân hai: Đầu là vặn hỏi, sau là trả lời. Trong trả lời phân ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Văn còn lại có thể biết. Trong phần hai dựa vào Thừa trình bày về nhiễm-tịnh, có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong phần đáp có hai: Một là gồm chung phân rõ, hai là dựa theo bảy Địa trình bày riêng biệt về phạm vi. Trong phần một là gồm chung có ba, đó là pháp-dụ-hợp, ba văn có thể biết. Văn thứ hai là phân rõ riêng biệt có ba, đó là thiết lập-vặn hỏi-trả lời. Ngay trong văn về quả thù thắng của Địa: Văn về một nghiệp thù thắng có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận. Kinh này trong văn kết luận sót một câu, văn riêng biệt có bốn như Luận. Trong phần Tam-muội thù thắng: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là tổng quát kết luận. Kinh sót câu tổng quát, còn lại như Luận. Trong phần vượt qua Địa thù thắng, phân văn có ba: Một là thực hành tu tập khéo léo cho nên vượt qua, hai là việc làm rộng lớn cho nên vượt qua, ba là thực hành tu tập thù thắng tiến vào cho nên vượt qua. Trong phần một phân hai: Một, nhắc lại phần trước phát khởi phần sau; hai, giải thích về nghóa riêng biệt. Trong phần vượt qua thứ hai: Một, chính thức phân rõ về nghóa vượt qua; hai, từ “Giải Thoát Nguyệt…” trở xuống là hiển bày về phạm vi vượt qua. Phần này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Đáp có ba, đó là pháp-dụ-hợp. Văn còn lại có thể biết. Văn về đạt được hạnh thù thắng có hai: Một là trình bày về Tam- muội thù thắng, hai là phát khởi thù thắng. Văn phần một có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Văn đáp có ba, đó là pháp-dụ-hợp. Trong phát khởi thù thắng: Đầu là kết thúc phần trước sinh khởi phần sau, hai là chính thức trình bày về phát khởi công hạnh thù thắng. Nhưng trong văn Luận này tổng hợp làm tám câu: Đầu là một câu về hạnh Tự lợi, hiện thân ở thế gian là hạnh thù thắng, thâm tâm Niết-bàn là trí phương tiện; trong hạnh Lợi tha về sau, ba câu đầu là thuận theo thế gian, một câu tiếp là chuyển đổi Tiểu thừa, hai câu tiếp là tùy theo ma, một câu cuối là chuyển đổi thế gian. Quyến thuộc vây quanh là hạnh thù thắng, tâm thường rời xa là trí phương tiện, các câu ví dụ như vậy. Nguyện đạt được quả báo, là đầu tiên giáo hóa thì nhất định phải nhờ vào nguyện. Gia đình không đoạn dứt, là nêu rõ có sự ái nhiễm. Lìa xa sử, là lìa xa tánh của sử. Tiến vào hạnh, là có thể chuyển đổi Nhị thừa hướng lên tiến vào Phật trí. Giúp đỡ sinh ra hạnh, là nêu rõ có ăn uống ngủ nghỉ… Lui sụt hạnh, là nêu rõ về già-bệnh… Nói đến hạnh chuyển, là chuyển tâm hết sức phiền não của các phàm phu. Chuyển thấy tham, là chuyển kiến chấp mê hoặc. Chuyển chướng ngại, Vô minh không hiểu rõ gọi là chướng ngại, nay chuyển đổi diệt trừ, là trí thuộc năm Minh đối trị mà thôi. Chuyển tham, là chuyển đổi kiết tham. Bồ-tát hiện tại thọ sinh ở nơi năm dục thù thắng mà không đắm trước, khiến cho chư Thiên đều rời bỏ những ham muốn vốn có của mình. Trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu, văn lại có bốn: Một là hành tướng Điều nhu, hai là Trí giáo thanh tịnh, ba là đức của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng của Địa. Trong hạnh Điều nhu có ba: Đầu là pháp thuyết, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp thuyết có ba: Đầu là thấy chư Phật; tiếp là năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Văn còn lại có thể biết. Thứ ba là phần trùng tụng có hai: Một là trình bày về ý tuyên thuyết, hai là chính thức kệ tụng. Kệ có bốn mươi hai, phân văn có bảy: Chín kệ đầu tụng về hạnh Vô tác, ba kệ tiếp theo tụng về đối trị chướng kia, sáu kệ tiếp theo tụng về hai hành, mười một kệ tiếp theo tụng về Địa trên hơn hẳn Địa trước, tám kệ tiếp theo tụng về quả của hai hành, bốn kệ tiếp theo tụng về ba quả như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ sau cùng là kết luận ca ngợi. Địa thứ tám, từ Địa này về sau tên gọi đưa ra pháp thiện xuất thế, vì vậy phân tích các Địa trên-dưới, Nhất thừa-Tam thừa, người-trời, khởi Tín sinh Giải dần dần giống-khác về pháp môn. Trong Địa thứ nhất, Thập Nguyện là pháp thực hành chung của Nhất thừa và Tam thừa, mười pháp như Tín… là pháp thực hành riêng biệt của Tam thừa và nơi nương tựa của trời người. Địa thứ hai, Giới hạnh là nơi nương tựa của trời-người, Tiểu thừa và Tam thừa. Địa thứ ba, Thiền định là pháp luyện tập của trời-người, Tiểu thừa và Tam thừa. Địa thứ tư, Đạo phẩm… là pháp đạt được của Tiểu thừa và Tam thừa. Địa thứ năm, Tứ đế là pháp thực hành chung của Tiểu thừa-Tam thừa và Nhất thừa. Địa thứ sáu, Duyên sinh là pháp thực hành chung của Tiểu thừa-Tam thừa và Nhất thừa. Địa thứ bảy, Phương tiện song hành… là pháp thực hành của Đại thừa. Địa thứ tám-thứ chín-thứ mười, là pháp luyện tập của Đại thừa-Nhất thừa. Như vậy, nếu nói chung về thấy-nghe-tu chứng, thì như nhau không khác; nếu dựa theo tướng riêng mà nói, thì có phần khác nhau. Lại trong các Địa, quả Điều nhu là Hạnh môn, quả Phát thú là Giải môn, quả Nhiếp báo là Báo môn, quả Nguyện trí là Đức dụng môn, cũng là pháp thực hành chung của Nhất thừa và Tam thừa. Lấy điều này làm chuẩn mực, Thập Địa thiện xảo viên thông thâu nhiếp rộng rãi cho nên có được tên gọi là Tạng. Vì vậy Thôi Quang nói: “Kinh Thập Địa, chính là khu vườn huyền diệu của thần giác, ngôi nhà tuyệt vời của linh tuệ, nền tảng vững chắc của mọi điều thiện, giềng mối chủ yếu của mọi công hạnh, lý bao gồm bí mật của các Tạng, nghóa đứng đầu sâu xa của các kinh; tích lũy dần dần tâm thực hành, đến cùng nguồn gốc của Nhẫn Học; sùng kính mở rộng trú vào đức, cuối cùng vào phủ của Đạo Tuệ.” Nay trong Địa thứ tám có sáu môn giống như trước. Giải thích tên gọi, báo hành thuần thục, Vô tướng không gián đoạn, cho nên gọi là Bất Động địa. Trình bày về đã đối trị, theo văn Địa Luận thì có chướng ngại về Hành đối với Vô tướng; theo văn Nhiếp Luận thì dấy lên công dụng của tâm đối với Vô tướng. Vô minh lại có hai Vô minh: Một là dấy lên công dụng đối với Vô tướng, hai là tự tại đối với tướng của Hành; có hai nghiệp chướng và một báo chướng có quả báo của sinh tử. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày do nghóa không tăng giảm. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Nguyện Ba-la-mật. Trình bày về đã đạt được quả, nếu thông hiểu về công đức không tăng giảm, thì đạt được nghiệp quả trí tuệ uy đức bình đẳng cùng với chư Phật, và đạt được quả của Pháp thân. Giải thích văn, toàn bộ phân định có ba: Một là kệ tụng sinh khởi, hai là trình bày về Thể của Địa, ba là dùng kệ để kết thúc. Phần một là kệ tụng, có mười lăm kệ: Mười bốn kệ đầu là chư Thiên và Bồ-tát ca ngợi thưa thỉnh cúng dường, tiếp theo một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh. Trong mười bốn kệ đầu: Hai kệ đầu là Thiên vương-chư Thiên và Bồ-tát vui mừng vì pháp mà mưa hoa cúng dường Phật và Đại chúng, mười hai kệ tiếp theo là Thiên nữ ca ngợi đức của Phật. Văn này có ba: Một kệ đầu là trỗi nhạc cúng dường, mười kệ tiếp theo là tụng ca ngợi đức của Phật, một kệ tiếp theo là cúng dường xong tiến vào lý quán sát. Thứ hai là trong mười kệ có hai: Một kệ đầu là Thiên nữ ca ngợi Phật, chín kệ tiếp là uy lực của Phật khiến cho Bồ-tát… cúng dường đều phát ra âm thanh ca ngợi công đức của Phật và ba thế gian tự tại. Trong chín kệ: Ba kệ đầu là khí thế gian, một kệ tiếp là chúng sinh thế gian, bốn kệ tiếp là trí Chánh giác, một kệ tiếp là kết luận ca ngợi về Vô tận. Trong văn về trí Chánh giác: Một kệ đầu là ca ngợi khẩu nghiệp của Phật, hai kệ tiếp là thân nghiệp, một kệ tiếp là ý nghiệp. Phần hai là Thể của Địa, có bảy: Một, tổng quát trình bày về phần phương tiện làm quy tụ Địa, làm phương tiện xa có hai, đầu là tổng quát nói cho biết, sau là giải thích có thể biết. Hai, phần đạt được hạnh Nhẫn thanh tịnh, làm phương tiện gần, hai loại này cùng làm phương tiện hướng về Địa trước. Ba, phần đạt được hạnh thù thắng, bắt đầu tiến vào hạnh của Địa. Bốn, phần làm thanh tịnh quốc độ Phật. Năm, phần đạt được tự tại, hai phần này an trú trong phạm vi của Địa. Sáu, rộng lớn thù thắng. Bảy, phần giải thích tên gọi. Hai phần này là đầy đủ trong Địa, văn còn lại có thể biết. Thứ hai là phần Nhẫn thanh tịnh có mười lăm câu, có ba phần: Đầu có mười câu trình bày về Vô sinh Nhẫn, tiếp theo bốn câu trình bày về Nhẫn thanh tịnh ấy, sau cùng một câu là tổng quát kết luận. Dựa vào kinh không đầy đủ, sót câu về Tự tánh Vô sinh và câu về Tướng phủ khắp tất cả các pháp, văn còn lại như Luận. Trong phần hạnh thù thắng có hai: Đầu là hạnh thù thắng, sau là phát khởi hạnh. Phần đầu có hai: Trước là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong riêng biệt thì trước là pháp, sau là dụ. Bảy câu trong pháp thuận theo nhau phân làm ba: Ba câu đầu trình bày về phần cảnh rất tuyệt vời trong Địa này; hai câu tiếp theo là Chánh hạnh rộng lớn, trong kinh sót một câu về tu hạnh sâu xa; hai câu tiếp theo là lìa chướng vắng lặng. Trong dụ thuận theo sau hướng về trước lần lượt mà ví dụ. Trong phần phát khởi hạnh thù thắng, trong đó có hai: Một, trình bày về nhờ bổn nguyện này cho nên được chư Phật khuyến khích phát khởi; hai, từ “Nhược bất dữ…” trở xuống là trình bày về khuyến khích làm lợi ích. Phần này có hai: Một là trình bày về trú trong lực của bổn nguyện, hai từ “Hựu chư Phật…” trở xuống là do trú mà phát nguyện. Văn này có hai: Một, tổng quát trình bày trong làn nước giáo pháp của chư Phật cùng khởi lên Trí môn; hai, từ “Thiện tai…” trở xuống riêng biệt trình bày qua lại dựa vào nhau khuyến khích có thể thành tựu. Hai là trong riêng biệt: Trước là ca ngợi về môn Vô sinh Nhẫn đã đạt được, sau là làm sáng tỏ về pháp chưa đạt được để khuyến khích tu tập. Văn này có bảy, thâu nhiếp vào làm hai: Trước có sáu câu khuyến khích nêu ra nhiều pháp chưa làm để chuyển đổi tâm trú ấy, sau cuối một câu là trình bày về ít làm có thể thành tựu để tăng thêm tâm rời bỏ ấy. Lại trong sáu câu trước phân làm ba cặp về Tự lợi và Lợi tha. Trước là trong cặp thứ nhất: Trước một câu là trình bày về đức Tự lợi chưa thành tựu, sau một câu là hiển bày về sự hóa độ chưa phát sinh. Trong phần này kinh sót một câu. Trong cặp thứ hai: Trước một câu là trình bày về nguyện hóa độ chưa đầy đủ, sau một câu là làm sáng tỏ về đức Tự lợi chưa thù thắng. Trong cặp thứ ba: Đầu một câu là trình bày về sự nghiệp hóa độ chưa rông rãi, sau một câu là làm sáng tỏ về chính mình đã đạt được pháp môn chưa tận cùng. Trong phần này kinh sót một câu, văn còn lại như Luận. Hai là văn trình bày về khuyến khích làm lợi ích, có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Một, trình bày chư Phật cùng khởi lên Trí môn; hai, từ “Ư nhất niệm…” trở xuống trình bày nhờ vào khuyến khích cho nên nhanh chóng phát khởi hạnh; ba, từ “Sở dó giả…” trở xuống là hỏi đáp giải thích. Văn còn lại như Luận. Trong phần quốc độ có ba: Một là hành tự tại thuộc khí thế gian, hai là chúng sinh thế gian, ba là trí Chánh giác. Văn phần một có hai: Một, tổng quát nêu ra; hai, từ “Tri thế giới sinh…” trở xuống là hiển bày riêng biệt. Văn này có hai: 1) Biết phạm vi của pháp, có hai: Đầu là biết, sau là kết luận. Văn đầu có năm: Một, biết thế giới sinh khởi là trình bày về tùy tâm mong muốn; hai, từ “Tri dó hà nghiệp…” trở xuống là trình bày về tùy mong muốn gì; ba, kinh sót về đúng lúc mong muốn; bốn, từ “Thị Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về tùy theo mong muốn rộng hẹp; năm, từ “Thị Bồ-tát nhập như thị…” trở xuống là tùy tâm mong muốn bao nhiêu. 2) Từ “Thiện phân biệt…” trở xuống là trình bày về nghi thức tự tại, văn này có bốn, đó là pháp-dụ-hợp-kết luận. Văn còn lại như Luận. Trong phần giải thích về chúng sinh thế gian có bốn: Một, tổng quát trình bày về tự tại; hai, từ “Nhược ư Sa-môn…” trở xuống là riêng biệt trình bày về tự tại; ba, phân rõ về ý hiện tại; bốn, từ “Sở hữu bất khả thuyết…” trở xuống là tổng quát kết luận về tự tại. Cũng có thể trong phần hai là riêng biệt phân rõ và trong phần ba là ý hiện tại: Một là thân hóa hiện giống như chúng sinh, hai từ “Dó Thanh văn…” trở xuống là tâm hóa hiện giống như chúng sinh. Văn về trí Chánh giác: Một là trình bày về trí Đệ nhất nghóa, sở dó trình bày về trí này, là bởi vì thành tựu do tướng của pháp Thế trí; hai từ “Thị Bồ-tát thiện tri…” trở xuống là trí Thế đế. Trong này thâu nhiếp tùy theo sự hóa độ có mười thân, cùng với chính mình thì có mười một thân, có ba: Một là nêu ra số, hai là phân rõ về tướng làm ra, ba là đưa ra Thể giải thích về nghóa có thể biết. Hỏi: Vì sao trình bày về khí thế gian mới phân rõ về ba thế gian? Đáp: Bởi vì tướng của ba pháp xen nhau khó nhận biết, muốn tách biệt cho nên phải trình bày. Trong này các câu phần nhiều bị sót, dựa vào Luận để chọn lấy. Trong phần rộng lớn thù thắng có ba: Một là trình bày về Trí rộng lớn, hai là Nghiệp rộng lớn, ba là trú vào công đức rộng lớn của hai loại ấy. Văn còn lại như Luận. Trong phần giải thích tên gọi, có hai: Một là giải thích tên gọi của Địa, hai là giải thích tên gọi của Trí. Văn còn lại có thể biết. Phần một là Trí rộng lớn, có hai: Một, chính thức trình bày về Bất Động; hai, từ “Bất chuyển tướng cố…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Trong phần một gồm có hai mươi lăm câu: Một là mười lăm câu đầu luôn luôn Bất Động, hai từ “Thị Bồ-tát nhập…” trở xuống là mười câu cùng một Thể Bất Động. Trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu, có bốn: Một là hạnh Điều nhu, hai là Trí giáo thanh tịnh, ba là hành của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng của Địa. Trong hạnh Điều nhu có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Đầu là trình bày thấy chư Phật làm duyên của khởi hạnh; tiếp là phát khởi năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Trong phần Trí giáo thanh tịnh cũng có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Văn còn lại như Luận. Thứ ba trong phần trùng tụng, văn phân có hai: Một là nói đến ý kệ, hai là chính thức kệ tụng. Văn này có bốn mươi bốn kệ: Ba kệ đầu tụng về phương tiện làm quy tụ, ba kệ tiếp theo tụng về Nhẫn thanh tịnh, mười lăm kệ tiếp theo tụng về đạt được hạnh thù thắng, mười hai kệ tiếp theo tụng về Tịnh độ, một kệ tiếp theo tụng về tự tại, hai kệ tiếp theo tụng về rộng lớn thù thắng, hai kệ tiếp theo tụng về giải thích tên gọi, năm kệ tiếp theo tụng về ba quả như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ sau cùng nêu ra tóm lược hiển bày mở rộng để kết luận về nghóa trước đây. Trong phần hạnh thù thắng: Năm kệ đầu tụng về Thể của hạnh thù thắng, sáu kệ tiếp theo tụng về bảy câu khuyến khích mà không tụng câu khuyến khích thứ năm-thứ sáu, bốn kệ tiếp theo tụng về nên ra khuyến khích làm sáng tỏ về hạnh thù thắng. Trong phần lợi ích của Tịnh độ: Bốn kệ đầu tụng về khí thế gian, năm kệ tiếp theo tụng về chúng sinh thế gian, ba kệ tiếp theo tụng về trí Chánh giác. Trong Địa thứ chín có sáu môn giống như trước. Giải thích tên gọi, bởi vì năng lực vô ngại, thuyết pháp thành tựu hạnh Lợi tha, cho nên gọi là Thiện Tuệ địa. Trình bày về đã đối trị, nếu theo Địa Luận, thì chướng ngại không có thể khéo léo làm lợi ích cho chúng sinh; theo Nhiếp Luận thì đối với việc làm lợi ích cho chúng sinh không do công dụng. Lại có hai Vô minh: Một là vô lượng pháp chánh thuyết, vô lượng ý nghóa của danh cú khó trả lời, lời nói khéo léo tự tại của Đà-la-ni, làm chướng ngại cho Tự lợi; hai là dựa vào bốn Vô ngại giải, quyết đoán nghi ngờ sinh khởi hiểu biết, làm chướng ngại cho Lợi tha; có hai nghiệp chướng và một báo chướng có quả báo của sinh tử. Trình bày về đã hiển bày, là do dựa vào Định tự tại, do dựa vào cõi tự tại, do dựa vào trí tự tại, nghóa thuận theo nhận biết về pháp giới. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Lực Ba-la-mật. Trình bày về đã đạt được quả, nếu thông hiểu về dựa vào cõi tự tại và dựa vào trí tự tại, thì đạt được quả của Ứng thân, quả gồm chung giống như Địa trước. Giải thích văn, toàn bộ phân định có ba: Một là kệ tụng sinh khởi phần sau, hai là trình bày về Thể của Địa, ba là dùng kệ để kết thúc phần trước. Phần một là kệ tụng, có mười chín kệ: Hai kệ đầu trình bày về nói đến lợi ích của Địa trước, tiếp theo có mười bảy kệ phân rõ về bốn chúng ca ngợi thưa thỉnh. Trong phần mười bảy kệ này: Đầu là một kệ về Bồ-tát cúng dường, tiếp theo một kệ về Phạm Vương thiết lễ cúng dường ca ngợi, tiếp theo có mười bốn kệ về Thiên nữ ca ngợi thưa thỉnh, sau cùng một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh. Trong phần Thiên nữ gồm mười bốn kệ có ba: Đầu là một kệ rưỡi tổng quát ca ngợi về đức của Phật; tiếp theo là mười một kệ rưỡi ca ngợi các Bồ-tát trình bày đầy đủ về đức của người khác, ngay văn thứ hai này có hai, đầu là ba kệ rưỡi tổng quát ca ngợi về Tự nhân thù thắng, tiếp theo có tám kệ riêng biệt ca ngợi về quả dụng của Lợi tha; sau cuối là một kệ về thâu nhiếp tán loạn thuận theo vắng lặng. Ngay trong tám kệ về riêng biệt: Đầu là một kệ về thân nghiệp, tiếp theo sáu kệ về khẩu nghiệp, tiếp theo một kệ về ý nghiệp. Ngay trong khẩu nghiệp có hai: Một là tổng quát ca ngợi về tuyên thuyết tự tại, hai là dựa theo căn phân rõ về tướng. Tiếp theo một kệ dựa vào thân để ví dụ hiển bày, văn này có bốn, Thanh văn-Duyên giác-Tiệm-Đốn đều phân làm bốn, cũng có thể là Nhất thừa-Tam thừa phân làm bốn. Trong phần thứ hai là Thể của Địa có bốn sai biệt: Một là Pháp sư thành tựu phương tiện, hai là thành tựu trí, ba là thành tựu tiến vào hạnh, bốn là thành tựu tuyên thuyết. Văn phần một có ba: Nhắc lại phần trước phát khởi phần sau. Chính thức phân rõ để giải thích. Kết luận về tướng tiến vào Địa. Văn còn lại như Luận. Trong phần hai là thành tựu trí: 1-Nhắc lại phần trước phát khởi phần sau để tổng quát phân rõ; 2-Từ “Hữu lậu…” trở xuống là chỉ mở rộng về pháp thiện. Trong văn phần ba là tiến vào hạnh có ba: Tổng quát về mười một môn. Riêng biệt phân rõ. Tổng quát để kết luận. Văn còn lại như Luận. Trong phần 1 là tổng quát về mười một môn, Luận chủ nói: Cùng nhau dựa vào, bởi vì tâm dày đặc là nơi các pháp cùng nhau nương tựa. Nói cùng nhau dựa vào là dựa vào đây mà biết vậy thôi. Lại nữa, cùng nhau là căn-dục-tánh-thâm tâm…, bốn loại giống nhau cho nên nói là cùng nhau. Văn kinh trong phần vấn nạn về Sử, văn về nơi nào sót câu thứ tư; trong phần vấn nạn về Sinh, kinh sót câu thứ hai; trong phần vấn nạn về Tập khí, kinh sót câu thứ chín. Tướng còn lại có thể biết. Ngay trong phần thành tựu tuyên thuyết, kinh có hai đoạn: Một là tổng quát trình bày về thành tựu tuyên thuyết, hai từ “Thị Bồ-tát hóa chúng sinh…” trở xuống là riêng biệt. Trong phần riêng biệt phân rõ thì nghóa có ba, văn kinh có bốn. Nghóa có ba: Một là thành tựu trí, hai là thành tựu khẩu nghiệp, ba là Pháp sư thành tựu. Văn kinh có bốn, là theo Luận phân văn. Lại một đoạn thứ hai về nghóa thâm diệu của Pháp sư, văn kinh cũng đưa vào trí, cũng đưa vào khẩu nghiệp, suy nghó có thể biết. Văn về khẩu nghiệp có bốn: Một là lập tông, hai từ “Thị Bồ-tát…” trở xuống trình bày về ngôn từ kiên cố, ba là nêu ra tên gọi, bốn là giải thích riêng biệt qua từng pháp. Văn còn lại như Luận, thuận theo biết mà thôi. Pháp sư thành tựu có bốn sự việc thị hiện: Một là thành tựu về Trì có bốn: 1) Lập tông; 2) Giải thích; 3) Kết luận; 4) Dùng mở rộng để hiển bày tóm lược. Hai từ “Thị Bồ-tát ư nhất Phật sở…” trở xuống là thành tựu về Thuyết, phần này có mười câu có thể biết. Ba từ “Thị Bồ- tát tam thiên…” trở xuống là thành tựu về hỏi đáp, phần này có bốn câu có thể biết. Bốn từ “Ư thị trung sinh…” trở xuống là thành tựu về thọ trì, phần này có một câu nên biết. Hỏi: Thọ trì này cùng với Trì trước đây có gì khác nhau? Đáp: Trì trước đây là lúc sắp nói ra, Trì sau này là lúc bắt đầu thọ nhận mà thôi. Trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu phân bốn giống như trước: Một là hạnh Điều nhu, hai là Trí giáo thanh tịnh, ba là đức của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng tuyên thuyết. Trong hạnh Điều nhu có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Đầu là thấy chư Phật làm duyên của khởi hạnh; tiếp là năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Văn còn lại như Luận. Thứ ba trong phần trùng tụng: Một là trình bày về ý tuyên thuyết, hai là chính thức kệ tụng. Trong tụng có bốn mươi hai kệ rưỡi: Bốn kệ đầu tụng về Pháp sư phương tiện, bốn kệ tiếp theo tụng về thành tựu trí, mười hai kệ tiếp theo là văn về tiến vào hạnh, mười bốn kệ rưỡi tiếp theo tụng về thành tựu tuyên thuyết, bảy kệ tiếp theo tụng về ba quả, một kệ tiếp theo là kết luận ca ngợi. Trong phần thành tựu tuyên thuyết: Một kệ đầu tụng về thành tựu trí, bốn kệ tiếp theo tụng về thành tựu khẩu nghiệp, chín kệ rưỡi tiếp theo tụng về Pháp sư thành tựu. Trong phần này, hai kệ đầu tụng về thành tựu Trì, một kệ tiếp theo tụng về thành tựu Thuyết, một kệ tiếp theo tụng về hỏi đáp, năm kệ rưỡi tiếp theo tụng về thành tựu thọ trì. Trong Địa thứ mười có sáu môn giống như trước: Giải thích tên gọi, đạt được Đại Pháp thân, đầy đủ tự tại, vì vậy gọi là Pháp Vân địa. Trình bày về đã đối trị, theo Địa Luận, là chướng ngại không được tự tại ở trong các pháp; theo Nhiếp Luận thì giống như Địa Luận. Lại có hai chướng: Một là tuệ của sáu thần thông, hai là tiến vào pháp vi tế bí mật của Phật. Có hai nghiệp chướng và một báo chướng có quả báo của sinh tử, đây là ở trong tâm bắt đầu và tâm trú vào. Lại có hai chướng: Một là đắm trước vi tế đối với tất cả các cảnh thuận theo nhận biết, hai là chướng ngại vi tế đối với tất cả các cảnh thuận theo nhận biết. Có hai nghiệp chướng và một báo chướng không có quả báo của sinh tử, đây là ở tâm cuối cùng của Địa. Trình bày về đã hiển bày, là do nghiệp tự tại dựa vào Đà-la-ni môn và Tam-ma-đề môn, tự tại dựa vào thuận theo nhận biết về pháp giới. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Trí Ba-la-mật. Trình bày về đã đạt được quả, thông hiểu về nghiệp dựa vào, đạt được quả của Hóa thân, quả gồm chung giống như trước. Giải thích văn, toàn bộ phân định có ba: Một là kệ tụng sinh khởi, hai là trình bày về Thể của Địa, ba là dùng kệ để kết thúc. Trong phần một là kệ tụng có hai mươi lăm kệ, có năm: Hai kệ đầu là trời Thủ Đà Hội phát khởi cúng dường ca ngợi, bởi vì Địa này đầy đủ công hạnh cho nên trời Sắc Cứu Cánh ca ngợi; tiếp theo một kệ là Bồ-tát ca ngợi và cúng dường; tiếp theo hai kệ là chư Thiên cùng Thiên vương ca ngợi và cúng dường; tiếp theo mười tám kệ là Thiên nữ ca ngợi và cúng dường; sau cùng hai kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh. Trong phần Thiên nữ có năm: Đầu là hai kệ tổng quát nêu ra âm nhạc cúng dường, tiếp theo năm kệ ca ngợi Báo Phật, tiếp theo sáu kệ ca ngợi Hóa Phật, tiếp theo ba kệ ca ngợi Thể của Pháp thân, sau cùng hai kệ là khuyến khích thực hành. Phần này có hai, một kệ đầu khuyến khích tiến vào quán về Thể, một kệ sau kết luận lợi ích quy về gốc. Trong phần hai là văn về Thể, toàn phần có tám: 1) Phần phương tiện làm đầy đủ Địa; 2) Phần đạt được Tam-muội; 3) Phần được tiếp nhận địa vị; 4) Phần tiến vào Đại tận; 5) Phần giải thích tên gọi của Địa; Phần thần thông lực vô thượng-hữu thượng; 7) Phần ảnh tượng của Địa; 8) Phần lợi ích của Địa. Văn phần một có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận. Phần hai là Tam-muội có ba: Một là nhắc lại phần trước phát khởi phần sau, hai là nghóa chính, ba là kết luận về sự thành tựu. Trong phần ba là tiếp nhận địa vị có sáu: Đầu là chỗ ngồi có ba, đó là chủ-quyến thuộc và kết luận, thân có hai, quyến thuộc có ba, tướng có sáu. Trong văn đầu về chỗ ngồi, trong phần mười đức thì kinh sót một câu về công đức thứ tám, và sót văn kết luận thứ ba. Văn về ánh sáng trên đỉnh đầu (đỉnh quang) trong phần nơi chốn phát ra (xuất xứ) có tám đoạn có thể biết. Sáu là văn về tiếp nhận địa vị có ba: Một là giải thích về Giác, hai là phân rõ về Tướng, ba là kết luận. Văn kết luận có ba có thể biết. Văn phần hai có ba, đó là pháp-dụ và hợp. Trong pháp có ba: Một, Bồ-tát chín Địa cúng dường có hai có thể biết; hai, cùng chung địa vị thêm uy lực có hai có thể biết; ba, Phật chính thức trao cho địa vị. Văn này có ba: Một là giải thích về ánh sáng, hai là chẳng khác gì Phật, ba là kết luận. Văn phần một có ba: 1) Phát ra ánh sáng; 2) Nơi quay về có hai câu; 3) Phân rõ về lợi ích. Phát ra ánh sáng có tám nghiệp có thể biết. Ánh sáng tụ vào đỉnh đầu có ba: Một, dựa theo sự đưa vào sự; hai, dựa theo hành đưa vào hành; ba, dựa theo quả đang tiếp nhận ngay lúc ấy tiến vào tâm hành. Có thể theo đúng như Luận nên biết. Trong phần bốn là Đại tận như Luận nên biết: Lại từ Đại tận này về sau, Nhất thừa-Đốn giáo-Tam thừa-Tiểu thừa đều trở thành phạm vi của quả Phật, có thể theo nghóa làm mất dần văn, ở trong các kinh thì câu cũng có tăng giảm, dùng Luận để làm chuẩn mực. Trong phần năm là giải thích tên gọi, toàn phần có ba: Một, chính mình được Phật nói pháp như mây mưa, cho nên gọi là Pháp Vân địa. Hai, từ “Phật tử nãi chí tự tùng nguyện lực khởi Từ Bi…” trở xuống, là chính mình rưới mưa pháp dập tắt ngọn lửa phiền não trần lao của các chúng sinh, cho nên gọi là Pháp Vân địa, văn này đầu là giải thích-tiếp là kết luận có thể biết. Ba, từ “Phục thứ Phật tử nãi chí Bồ-tát trú Pháp Vân địa tùng Đâu-suất…” trở xuống, là chính mình cùng chung quả đức, rưới nhiều mưa pháp sinh khởi căn thiện của chúng sinh, cùng với mây tương tự, cho nên gọi là Pháp Vân địa. Văn phần một có hai: Một là tổng quát trình bày về Niệm lực có thể duy trì Phật pháp, hai từ “Năng ư nhất niệm chí thập phương vô lượng Phật sở…” trở xuống là riêng biệt trình bày về tiếp nhận giáo pháp. Trong riêng biệt có ba: Một, lắng nghe tiếp nhận nhiều giáo pháp ở cõi Phật; Hai, từ “Thí như đại hải…” trở xuống là lắng nghe tiếp nhận Chánh pháp ở nhiều cõi Phật, phần này có ba văn về dụ-hợp và kết luận; Ba, từ “Giải Thoát Nguyệt ngôn nãi chí ư nhất niệm trung năng kham thọ kỉ sở…” trở xuống là hỏi đáp trình bày về phạm vi của hai loại trước. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong phần ba là hỏi đáp về phạm vi của hai loại, văn có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong đáp có bốn: Một là lập nghóa, hai là hỏi đáp giả thuyết nêu ra tóm lược để hiển bày về mở rộng, ba là hiển bày về nghóa chân thật, bốn là kết luận có thể biết. Trong phần sáu là thần thông lực vô thượng-hữu thượng, có sáu: Một là dựa vào bên trong, hai là dựa vào bên ngoài, ba là tự tướng, bốn là dấy lên trú trì, năm là khiến cho hoan hỷ, sáu gọi là rất thù thắng. Ngay trong sáu phần này, nghóa của một phần đầu nối thông bốn phần trước, văn ở đây không có; tiếp theo có một đoạn nối thông với bốn phần sau. Sở dó như vậy là bởi vì Luận chủ khéo léo nhận biết văn hàm chứa nhiều nghóa, muốn đan xen để hiển bày về pháp, cho nên phân định theo cách này. Bốn phần còn lại thì văn nghóa đều có đủ, văn còn lại như Luận. Trong phần bốn là trú trì, trong-ngoài phân làm hai, trong hai phần này đều có hai có thể biết mà thôi. Trong phần năm là khiến cho hoan hỷ, có sáu: Một là hỏi, phần này có hai, đó là nghó đến và thưa thỉnh phân làm hai; hai là nêu ra sự việc của Định để trả lời; ba là trình bày về công dụng của Định, có hai có thể biết; bốn là thâu nhiếp nghiệp dựa vào căn bản; năm là kết luận ca ngợi, có hai có thể biết; sáu là hỏi đáp để hiển bày về phạm vi của Định, phần này có hai, đầu là nhân-sau là quả, đều có hỏi đáp. Trong phần đầu là nhân: Trước là hỏi, sau là kết luận có hai có thể biết. Một là có tên gọi của Dụng, hai là hỏi đáp về quả. Trong phần đáp có bốn có thể biết. Phần Đại tận như Địa trước. Ba quả như Điều nhu… giải thích có thể biết, rộng ra như Luận phân rõ. Trong phần bảy là ảnh tượng của Địa, như Luận nên biết. Trên đây là căn cứ vào Phật pháp viên thông của Nhất thừa, dựa theo ghi lại phạm vi của giáo. Nay lại dựa theo Tam thừa để hiển bày về hai phần vị như kinh: Một gọi là phần vị Đẳng Giác, hai gọi là phần vị Diệu Giác. Phần vị Đẳng Giác là từ trong đạo Kim Cang vô ngại của Địa thứ mười tiến vào tâm pháp giới, gọi là Tam-muội Dũng phục định pháp quang, dựa vào trong Định này tu tập thực hành mười pháp: Học về thần thông biến hóa không nghó bàn của Phật. Quy tụ Bồ-tát quyến thuộc. Trở lại tu pháp môn đã thực hành trước kia. Thuận theo tất cả các cõi Phật thăm hỏi hết thảy chư Phật. Cách biệt với cha mẹ Vô minh. Tiến vào cửa huyền diệu sâu xa. Hiện rõ giống như Phật hiện bày tất cả các hình tướng. Đầy đủ hai loại Pháp thân. Không còn hai tập khí. Bước lên đỉnh núi Trung đạo Đệ nhất nghóa đế. Phần vị này nói ở Thiền thứ ba. Nếu dựa theo tướng bên ngoài thì chính là Bồ-tát Bổ xứ, cũng thị hiện tám tướng thành tựu vi tế, trải qua trăm kiếp-vạn kiếp biến hóa như Phật, Bồ-tát gặp Phật, Phật biết rõ Bồ-tát này, do đạt được Tam-muội Kim Cang cho nên biến hiện tự tại, chỉ vì sinh tử là khác. Rộng ra như trong kinh Anh Lạc. Phần vị Diệu Giác thì kinh chỉ nói ở Thiền thứ tư, bởi vì nghóa phần nhiều giống nhau cho nên không phân tích. Hỏi: Kinh này vì sao không nói đến hai phần vị Đẳng Giác và Diệu Giác? Đáp: Nếu dựa theo phần nghóa thực hành riêng biệt của Tam thừa, thì bởi vì dựa theo phần vị chọn lấy tướng làm chính, cho nên Đẳng Giác và Diệu Giác so sánh với nhau phân thành hai tướng. Nếu căn cứ vào kinh này, thì bởi vì viên thông tự tại không dùng pháp nhất định để so sánh với nhau làm chính, cho nên thâu nhiếp vào trong hai nghóa nhân-quả. Trong phần 8 là lợi ích của Địa, văn phân chia có năm: Chính thức hiển bày về lợi ích của Địa. Từ “Như thử thế giới Tứ thiên dó…” trở xuống là làm sáng tỏ về lợi ích rộng lớn của Địa. Từ “Dó Phật lực thập phương Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về các Bồ-tát vân tập làm chứng hiển bày thành tựu đáng tin. Từ “Kim Cang Tạng thuyết Như Lai hỷ…” trở xuống là trình bày về pháp đã nói, trên thuận với Thánh tâm Như Lai tùy hỷ, dưới thỏa mãn tâm nguyện của Đại chúng. Bốn tụng về công đức thứ tư. Văn còn lại có thể biết. --------------------------- <詞>Phẩm 23: THẬP MINH Bốn môn giống như trước. Phân rõ về tên gọi, Thập là số đếm, Minh là tác dụng, từ hai nghóa mà được tên gọi là Thập Minh. Từ đây trở xuống năm phẩm, bởi vì trình bày về phạm vi tác dụng thù thắng thuộc đức của Địa, cho nên lần lượt đưa ra. Đây chính là phần hai trình bày về Ý đưa ra. Trình bày về Tông, phẩm này cùng giải thích năm phẩm theo thứ tự và Thể của Tông. Sở dó trình bày trước, là trước đây đã đạt được Thể, tiếp đến trình bày dựa vào Thể khởi Dụng tự tại, cho nên tiếp theo là Minh. Dụng của Minh không tự khởi lên, dùng pháp gì để trở thành Chứng? Vốn là lý về Pháp, cho nên tiếp theo phân rõ về Thập Nhẫn, tức là lý về Dụng. Nhân hạnh của Đại quả không phải là số mười mà đo lường được, cho nên trình bày về A-tăng-kỳ để kể ra pháp hành. Đã mở rộng về đức đã thành tựu, không phải là một thời gian ngắn mà có thể di chuyển, cho nên tiếp theo trình bày về phẩm Thọ Lượng. Đức đã không có nơi chốn tùy duyên dựa vào mà hiện bày, cho nên tiếp theo trình bày về trú xứ của Bồ-tát mà thôi. Đầu là Thập Minh, là tướng của đức dụng, tức là trả lời một câu hỏi về mười Tự Tại trước đây, cũng có thể trả lời trong Địa. Đây là trả lời chung về câu hỏi trước đây mà thôi. Tiếp là Thập Nhẫn, tức là trả lời một câu hỏi về mười Định trước đây, mười Nguyện trả lời ở Địa thứ nhất. Tiếp là Thập Đảnh và mười câu như tâm tùy hỷ…, A-tăng-kỳ về sau ba phẩm là trả lời tổng quát, cũng có thể trả lời chung về hai phẩm trước. Hỏi: Từ đây về sau năm phẩm thuộc về mười Địa trước, vì sao không nói đến Kim Cang Tạng? Đáp: Nếu như Thể của đức khó trình bày, thì cần phải dựa vào con người nương nhờ sự để nói rõ; năm phẩm sau dựa vào nhau để hiển bày về nghóa riêng biệt, cho nên Minh và Nhẫn là do Phổ Hiền nói, là biểu thị cho Đại Dụng cao rộng của đức thù thắng. Giải thích văn, thứ nhất là văn về Thập Minh có bốn: Một là tổng quát đưa ra số theo thứ tự, hai là dựa vào câu hỏi, ba là phân rõ về đức dụng, bốn từ “An trú dó…” trở xuống là tổng quát trình bày để kết luận ca ngợi. Văn thứ ba lấy sáu Thông để làm Thập Minh. Hỏi: Minh và Thông khác nhau thế nào? Đáp: Thể một mà nghóa khác không có gì che lấp, mặt trời nối thông Thức-Căn, nhờ mặt trời mà sáng tỏ. Trong mười Minh thì thứ nhất là Tha tâm thông; thứ hai-thứ tư là Thiên nhãn thông, tức là phần hiện tại và vị lai như nhau; thứ ba là Túc mạng thông; thứ năm-thứ bảy là Thiên nhó thông, cũng có thể thứ bảy là ý-pháp-trần thâu nhiếp; thứ sáu-thứ tám là Thần túc thông, tức là Thân thông; thứ chín-thứ mười đều là Lậu tận trí. Vì sao biết? Bởi vì hai loại này đều là tánh thông suốt, cho nên biết. Thứ bảy là Thanh và thứ tám là Sắc, có thể phân ra thấy-không thấy, còn thứ mười là Diệt tận định. Vả lại, phân rõ sáu Thông-ba Minh là giáo của Tam thừa, mười Minh-mười Thông là giáo của Nhất thừa, không thể nào thâu nhiếp lẫn nhau, bởi vì phạm vi sâu cạn không giống nhau. Thứ nhất trong Tha tâm thông, có ba: Một là hỏi, hai là phân rõ về tướng, ba từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận về tên gọi. Chín loại còn lại đều như vậy mà thôi. Văn thứ hai có hai: Một là trình bày nhận biết về cõi này, hai từ “Như thị đẳng…” trở xuống là thâu nhiếp tất cả các phương khác. Trong Minh thứ nhất, phần từ “Quần cơ Đại chúng đồng hân ngũ Phật tại…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Đây là dựa vào Luận phân rõ. Dựa vào kinh có ba: Một là tổng quát ca ngợi, hai từ “Thuyết thị phẩm thời…” trở xuống là dựa theo sự việc để hiển bày về Địa thù thắng, ba từ “Dó Phật thần lực…” trở xuống là Bồ-tát làm chứng. Văn phần một có ba: Tổng quát ca ngợi. Có hai lần hỏi đáp hiển bày về nghóa thù thắng. Kết luận về nghóa thù thắng. Trong văn phần hai về sự việc, có năm: Mặt đất chấn động. Hiển bày nguyên cớ. Mưa hoa…. Cất tiếng lớn ca ngợi về đức của Địa. Đều nối thông với phương khác. Trong văn phần ba là Bồ-tát chứng minh thành tựu, có sáu: Bồ-tát đến nơi này. Ca ngợi về đức của Địa. Hiển bày cùng nhau làm chứng. Nêu ra nhiều thuyết để làm chứng. Suy ra nguyên cớ của Chứng. Cùng giống nhau. Dựa vào Luận, văn phần một có hai: Lợi ích của pháp. Lợi ích của sự. Văn về pháp có ba: Một là hiển bày ngược lại, hai là thuận theo phân rõ, ba là kết luận. Văn thuận theo có bốn, đó là hỏi-đáp-vặn hỏi- giải thích có thể biết. Văn kinh tóm lược mà không có đủ. Thứ ba trong trùng tụng: Một là trình bày về ý tụng và ngay tướng của tụng ấy sinh khởi phần sau, hai là chính thức làm sáng tỏ về kệ tụng. Phần một có hai: Quán sát về pháp. Hiển bày về ý. Phần hai có hai: Một, vì lợi ích chúng sinh; hai, từ “Thị bất tư nghị…” trở xuống là vì muốn hiển bày về lý. Văn phần một có ba: Một là ca ngợi về đức của người, hai từ “Thị Bồ-tát…” trở xuống là thêm cho phần Tự lợi, ba từ “Tùy chúng sinh…” trở xuống là Dụng của Trí đoạn thêm cho phần Lợi tha. Phần hai hiển bày về lý, văn có ba: Một là tổng quát biểu hiện rõ ràng, hai là nêu rõ về tướng, ba là phân rõ về ý thuyết giảng. Trong phần hai là chính thức tụng, có chín mươi kệ: Đầu là sáu mươi chín kệ chính thức tụng về các Địa như Pháp Vân…, tiếp từ “Vi đắc Phật trí…” trở xuống là hai mươi mốt kệ tụng về phần ảnh tượng, còn lại thì tóm lược không tụng. Trong văn đầu có bảy: Hai mươi chín kệ đầu tụng về phương tiện quy tụ của Địa, cũng có thể hai mươi sáu kệ trước tụng chung về chín Địa trước, ba kệ tiếp tụng về phần đầy đủ của Địa. Tiếp theo hai kệ tụng về phần Tam-muội. Tiếp theo mười kệ tụng về phần tiếp nhận địa vị. Tiếp theo bảy kệ tụng về phần Đại tận. Tiếp theo sáu kệ tụng về phần giải thích tên gọi. Tiếp theo mười ba kệ tổng quát tụng về các văn Vô thượng-Hữu thượng… Tiếp theo hai kệ là Kim Cang Tạng tổng quát kết luận, cũng có thể các văn này tụng chung về mười Địa, dựa theo suy nghó phân định giải thích có thể biết. Trong phương tiện quy tụ của Địa, hai kệ đầu tụng về các văn quy tụ khởi lên công đức-trí tuệ-hành tướng-tu hành Phật đạo…, tiếp theo hai mươi bảy kệ tụng về văn Đồng tướng và Biệt tướng, văn này trước là Biệt sau là Đồng. Trong phần Biệt, đầu là sáu kệ ba câu tụng về tướng Địa thứ nhất, tiếp theo một kệ một câu tụng về Địa thứ hai, tiếp theo một kệ tụng về Địa thứ ba, tiếp theo hai kệ tụng về Địa thứ tư, tiếp theo hai kệ tụng về Địa thứ năm, tiếp theo hai kệ tụng về Địa thứ sáu, tiếp theo hai kệ tụng về Địa thứ bảy, tiếp theo ba kệ tụng về Địa thứ tám, tiếp theo ba kệ tụng về Địa thứ chín, tiếp theo từ “Đệ nhất diệu…” trở xuống là ba kệ tụng về Đồng tướng, ba đạo cũng được. Trong phần ảnh tượng, mười chín kệ đầu tụng về phần ảnh tượng, hai kệ sau là kết luận về đức của Địa vô tận. Trong phần đầu mười một kệ tụng về công đức thù thắng thứ hai, tiếp theo bốn kệ tụng về công đức thứ ba, phân hai: Một là thẳng thắn biết tâm-biết pháp sai biệt có hai có thể biết, hai từ “Thanh văn tâm…” trở xuống là dựa theo chủng loại quả báo của phàm Thánh để phân rõ về công năng khác nhau của trí dụng. Văn này có hai: Một là tùy theo thực hành phương tiện, hai từ “Thiên tâm…” trở xuống là phân rõ trí phương tiện tùy theo chủng loại. Thứ hai là Thiên nhãn Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một là tùy theo quả báo riêng biệt không biết giống nhau, hai từ “Bồ-tát dó vô chướng ngại minh…” trở xuống là biết tạo nghiệp thành tựu nghi thức của cảnh giới. Thứ ba là Túc mạng Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một từ “Tri tự tha…” trở xuống là cảnh giới của phần vị có hai, đầu là tổng quát-sau là riêng biệt; hai từ “Biệt hựu ức quá khứ…” trở xuống là biết cảnh giới ở phần vị bậc Thượng của Phật. Thứ tư là Vị lai trí Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một từ “Tri thiện ác…” trở xuống là phần vị của người và pháp có hai, đầu là tổng quát-sau là riêng biệt; hai từ “Tri vị lai vô lượng…” trở xuống là biết pháp hành ở phần vị bậc Thượng của Phật. Thứ năm là Thiên nhó Minh, có ba: Một là thiết lập, hai là giải thích, ba là kết luận. Trong văn phần hai có hai: Một, phân rõ về đức nghe và duy trì(văn trì)của Thiên nhó, phần này có bốn câu; hai, từ “Thập phương viễn cận…” trở xuống là trình bày về sự tác dụng của Thiên nhó. Trong phần này có ba: Một là tổng quát, hai từ “Ư Đông phương…” trở xuống là riêng biệt; ba từ “Như Đông phương…” trở xuống là tương tự chín phương. Trong phần hai là phân rõ riêng biệt về Đông phương, phân làm ba: 1) Phật; 2) Phân rõ Thể của pháp; 3) Từ “Thiện giải vô lượng…” trở xuống là đối với người thuyết pháp. Trong phần hai là Thể của pháp đưa ra hai giáo về Lý-Hạnh: Một, những pháp đã nói là phân rõ về Lý giáo; hai, từ “Sở chế…” trở xuống là Hạnh giáo. Pháp tóm lược có mười câu: 1) Tướng về Thể của giáo; Tướng phát khởi của Tín; 3) Tướng nêu rõ nghóa của Tông; 4) Tướng của giải thích; 5) Tướng của Chế học; 6) Tướng của Thọ học; 7) Tướng của nêu ra sự khuyến khích tiến lên; 8) Quy phạm về nghe; 9) Quy phàm về suy nghó; 10) Quy phạm về tu. Tiếp đến trong phần thứ 3 là đối với người, có ba: Một, cơ thuộc Lý pháp; hai, từ “Sở đắc công đức…” trở xuống là cơ thuộc Hạnh pháp; ba, từ “Quảng thuyết…” trở xuống là cơ thuộc Giáo. Ý văn này ít thấy, suy nghó có thể hiểu. Đây đều là ca ngợi về đức của Thiên nhó Minh. Thứ sáu là Thân thông Minh, có ba: Một là thiết lập danh nghóa, hai là giải thích, ba là kết luận. Văn thứ hai có ba: 1) Thể của thân ng- hiệp; 2) Từ “Nhược văn thập phương…” trở xuống là phân rõ về Thể dụng của nghiệp có hai có thể biết; 3) Từ “Tất tự liễu tri…” trở xuống là kết luận về phạm vi của nghiệp. Vả lại, Thông này dựa theo uy lực, thứ tám là dựa theo Sắc hiện có. Thứ bảy là Phân biệt ngôn âm tri Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một là nhận biết âm thanh, hai từ “Bồ-tát tùy kỳ đẳng…” trở xuống là phân rõ về lý do nhận biết. Văn phần một có hai: Một, phân rõ nhận biết về âm thanh thuộc quả báo của chúng sinh, phần này có ba, một là tổng quát-hai là riêng biệt-ba là kết luận về nhận biết; hai, từ “Thiện phân biệt tri…” trở xuống là nhận biết về giáo pháp hai Đế và căn khí. Thứ tám là Xuất sắc thân trang nghiêm trí Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có ba: Một là đạt được tánh của Sắc, hai từ “Bồ-tát nhập thâm pháp giới trú trì…” trở xuống là phân rõ về duyên Tập thành Sắc tức là trình bày về Dụng, ba từ “Phật tử Bồ- tát nhập Vô sắc pháp giới…” trở xuống là phân rõ về nguyên cớ của Thông thành tựu tướng của Dụng mà thôi. Văn thứ hai về hiện Sắc có ba: Trình bày về Sắc của Thể thù thắng thuộc Tự hành. Từ “Đại Từ sắc…” trở xuống là trình bày về Lợi tha cho nên hiện bày Sắc thanh tịnh. Từ “Xuất sinh Như Lai…” trở xuống là phân rõ về Sắc tướng nhân quả thành tựu Đại dụng. Sắc của Phổ Hiền tổng quát và riêng biệt có một trăm mười câu, Sắc này có Thể-Dụng; hai mươi lăm Sắc của phàm ngu vốn chính là Không. Thứ chín là Chân thật trí Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một là dựa theo lý đã nhận biết hiển bày về Thể của Minh thuộc trí, hai từ “Bồ-tát tri như thị…” trở xuống là phân rõ về Dụng khéo léo của Trí, tức là trình bày về tướng ấy. Văn phần một có hai: 1) Dựa theo cảnh Vô tướng; 2) Từ “Tri nhất thiết pháp biệt dị…” trở xuống là dựa theo cảnh Vô sinh. Văn thứ hai về Dụng, trong đó có hai: 1) Nhắc lại pháp đã nhận biết trước đây; 2) Từ “Bất trước…” trở xuống là phân rõ về Dụng khéo léo của Trí. Trong Dụng có ba: Một, trình bày về Dụng tự tại không đắm trước; hai, từ “Bất xả nhất thiết…” trở xuống là giải thích về tướng Dụng thành tựu thuận với vắng lặng; ba, từ “Quán sát chư pháp…” trở xuống là trình bày về Dụng tự tại. Thứ mười là Nhất thiết pháp Tam-muội Chánh thọ trí Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Trong văn phần đầu có ba: Một là phân rõ về Danh-Thể trú trong vắng lặng có hai có thể biết, hai từ “Diệc bất xả…” trở xuống tức là Dụng thường vắng lặng, ba từ “Bồ-tát ư nhất thiết pháp diệt tận Chánh thọ văn…” trở xuống là phân rõ về phạm vi. Trong văn phần tiếp là kết luận có ba: 1) Kết luận; 2) Ca ngợi đức dụng của hành Định sâu rộng; 3) Ngưỡng mộ tôn sùng người nhận biết. Đoạn lớn thứ tư là văn kết luận có hai: Một là kết luận, hai là trình bày về đức lượng có thể biết. ------------------------------ <詞>Phẩm 24: THẬP NHẪN Bốn môn giống như trước. Thập là số đếm, Nhẫn là cảnh và thần tụ hội, tình thức tường tận thích hợp. Hai ý còn lại đã phân rõ trước đây. Giải thích văn. Văn này có ba: Một là tổng quát nêu ra tên gọi, hai là giải thích, ba là kệ trùng tụng. - Văn phần một có sáu: Tổng quát nói cho biết. Ca ngợi thành tựu tướng thù thắng về nhân quả của Nhẫn, nhân quả tức là hai. Hỏi. Nêu ra tên gọi. Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận. Dẫn chứng chư Phật cùng nói để chứng minh thành tựu. Văn phần hai là giải thích có hai: 1) Phân rõ; 2) Kết luận. Mười Nhẫn này do hai gia hạnh trước đây thâu nhiếp, tiếp là Vô sinh Nhẫn do Chánh Thể thâu nhiếp, bảy Nhẫn sau do nhận biết về sau thâu nhiếp. Dựa theo phần vị thì thuận âm thanh là Địa thứ ba trở về sau, thuận Nhẫn tức là Địa thứ tư-năm-sáu, Vô sinh Nhẫn tức là Địa thứ bảy trở lên, bảy Nhẫn sau từ Địa thứ chín trở lên. Nếu nối thông với thời gian thì như nhau. Nhẫn này đối với cảnh của ba tâm mà được tên gọi, bảy Nhẫn sau từ ví dụ mà được tên gọi. - Giải thích riêng biệt: Nhẫn có ba, một là nêu ra, hai là giải thích, ba là kết luận. Thuận Nhẫn có ba phần giống như trước. Vô sinh Nhẫn có ba phần cũng giống như trước. Ngay trong phần hai là giải thích có ba: Một là thiết lập, hai là hỏi, ba là đáp. Bảy Nhẫn sau theo thứ tự phát sinh lẫn nhau như Luận. Nghóa này thế nào? Nghi ngờ rằng: Nếu như pháp không có thì tại sao hiện có kinh? Đáp: Như huyễn. Nghi ngờ rằng: Pháp huyễn không sinh chọn lấy Thức, pháp thế gian thì không như vậy, tại sao giống nhau? Đáp: Bởi vì kinh như ngọn lửa cũng sinh tâm khao khát. Nghi ngờ rằng: Ngọn lửa ấy không thọ dụng được, pháp thế gian thì không như vậy, tại sao giống nhau? Đáp: Như mộng. Nghi ngờ rằng: Mộng thì người tỉnh không nghe âm thanh ấy, pháp thế gian thì phàm Thánh cùng đạt được, điều này tại sao giống nhau? Đáp: Như tiếng vang tuy cùng nhau mà không phải là thật. Nghi ngờ rằng: Tiếng vang thì trước đây đạt được là vô ích, pháp thế gian thì không như vậy, điều này thế nào? Đáp: Như ánh sáng chớp điện không có gì tạo tác mà có tác dụng tiếp xúc soi sáng. Nghi ngờ rằng: Chớp điện nếu có tác dụng thì chính là pháp thật? hiện? Đáp: Như hóa hiện làm lợi ích chúng sinh lẽ nào là thật hay sao? Nghi ngờ rằng: Nếu tất cả là không có thì ai chủ động dấy lên hóa Đáp: Như bầu trời trở thành các sắc, lẽ nào là có hay sao? Bốn là Huyễn, văn có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có hai: Phân rõ về pháp đã quán, văn này có ba: Một là tổng quát nêu ra; hai từ “Bồ-tát đẳng…” trở xuống là phân rõ về tướng của quán; ba từ “Thí như huyễn hóa…” trở xuống là mở rộng phân rõ về tướng của huyễn, phần này có hai văn về dụ-hợp. Từ “Bồ-tát quán sát…” trở xuống là phân rõ về hành Nhẫn, văn này có hai: Một là gia hạnh Nhẫn, hai từ “Xuất sinh…” trở xuống là hậu đắc Nhẫn. Năm là Như diệm Nhẫn, có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có pháp-dụ-hợp và phân rõ về tướng của quán, bốn văn có thể biết. Sáu là Mộng Nhẫn, văn giống như Diệm Nhẫn có thể biết. Bảy là Hưởng Nhẫn, có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có hai dụ, đều có ba văn pháp-dụ-hợp, dụ trước là Tự lợi, dụ sau là Lợi tha. Tám là Điện Nhẫn, có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có bốn: 1) Pháp; 2) Từ “Bất hành Bồ-tát…” trở xuống là dụ; Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận; 4) Từ “Nhược Bồ-tát…” trở xuống là phân rõ về lợi ích của Dụng thù thắng. Phần hai là dụ có hai dụ: Một là hướng về Thể của lý, hai là hướng về Dụng của sự. Đều có ba văn pháp-dụ-hợp có thể biết. Chín là Hóa Nhẫn, có hai: Một là hỏi, hai là đáp. Văn đáp có năm: Nói về một pháp; 2) Dụ; 3) Từ “Như thị Bồ-tát xử ư…” trở xuống là hợp; 4) Từ “Thị vi…” trở xuống là kết luận; 5) Từ “Phật tử Bồ-tát thành tựu thử Nhẫn…” trở xuống là trình bày về lợi ích của Dụng. Văn phần một là pháp có hai: Một là trình bày nhận biết về Thể của hành, hai từ “Phật tử thị vi…” trở xuống là kết luận về nhận biết khởi dụng tự tại. Trong phần ba là hợp có ba: Một là tổng quát hợp lại; hai từ “Bất trước thế gian…” trở xuống là phân rõ về tướng, cũng có thể dựa theo pháp thí dụ để hiển bày về hành nghi mà thôi; ba từ “Thí như hóa…” trở xuống là Pháp-dụ cùng kết luận về lợi ích của dụng thù thắng. Mười là Hư không Nhẫn, có hai: Một là hỏi, hai là đáp. Văn đáp có năm: 1) Mười câu trình bày về Thể của Nhẫn, mỗi một câu đều có pháp-dụ; 2) Từ “Phật tử như thị Bồ-tát…” trở xuống là bảy câu kết luận thành tựu hành của Nhẫn; 3) Từ “Thí như hư không…” trở xuống lại dùng ví dụ để so sánh về Thể của hành, dùng hợp-dụ để thành tựu đức của Nhẫn trước đây; 4) Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận; 5) Từ “Nhược Bồ-tát thành tựu vô lai thân…” trở xuống là phân rõ lợi ích về dụng thuộc hành của Nhẫn. Trong mười câu phần một: Một câu là tổng quát, chín câu là riêng biệt có thể biết. Trong phần ba là mở rộng ví dụ để so sánh về hành của Nhẫn, văn có hai: Một, mười một câu đầu là trình bày về hành thành tựu; hai, từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu hành của Nhẫn. Văn đáp này có hai, ý này khó hiểu nên suy nghó. Tại sao nghi ngờ rằng: Nếu pháp như hư không? Ở đây có hai nghi ngờ: 1) Thể của Không là không có, chúng sinh và pháp cũng có thể như vậy? 2) Như sự việc thế gian phân tích thành Không, chúng sinh dựa vào pháp hiện có cũng như vậy, phân tích có thuộc Không khác? Tướng đáp có thể biết. Trong phần thứ ba là trùng tụng, văn có một trăm hai mươi chín kệ: Đầu là mười kệ tụng về Âm thanh Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Thuận Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Vô sinh Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Huyễn Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Diệm Nhẫn, tiếp theo mười lăm kệ tụng về Mộng Nhẫn, tiếp theo mười bảy kệ tụng về Hưởng Nhẫn, tiếp theo hai mươi kệ bảy chữ tụng về Điện Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Hóa Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Hư không Nhẫn, tiếp theo bảy kệ tổng quát tụng về văn kết luận ca ngợi, làm sáng tở về lợi ích của Nhẫn. ------------------------ <詞>Phẩm 25: A TĂNG KỲ Bốn môn giống như trước. Tăng-kỳ là tên gọi bắt đầu của mười số. Phẩm này từ ba nghóa mà được tên gọi. Ý đưa ra và Tông đã phân rõ ở trên. Giải thích văn. Nguyên cớ Tâm Vương hỏi Đức Phật tự nói, là bởi vì bắt đầu dựa vào nhân của Đại quả này, không phải là người trong quả thì không có năng lực phân rõ về phạm vi ấy, cho nên Đức Phật tự nói; pháp dựa vào tâm mà thành, cho nên Tâm Vương dấy lên hỏi. Lại bởi vì nhân quả hiển bày lẫn nhau mà thôi, cũng có thể kể ra pháp là biết sự nối thông với quả, cho nên Đức Phật tự nói mà thôi. Vì vậy văn nói: Như Lai Đẳng Chánh Giác là nghóa của Phật trí. Phẩm này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Ý hỏi về hành đức của Bồ-tát đến tận cùng số cao nhất, chưa biết pháp của Bồ-tát kể ra thế nào? Cũng có thể rằng cảnh của Thánh đã rộng rãi, Bồ-tát hiểu rõ đến tận cùng, chưa biết dùng pháp nào kể ra được cùng tận phạm vi ấy, để chỉ rõ cho người đời sau? Trong đáp tổng quát nêu ra một trăm hai mươi số để trả lời, số Đại có mười: Một gọi là A-tăng-kỳ; hai ở sau gọi là Vô lượng, ở đây gọi là Bất khả lượng; ba gọi là Vô phần tề; bốn gọi là Vô châu biến; năm ở sau gọi là Vô số, ở đây gọi là Bất khả số; sáu gọi là Bất khả xưng; bảy gọi là Bất khả lượng, ở đây sót chữ Bất Khả; tám gọi là Bất khả tư nghị, như sau thuộc về thứ bảy; chín gọi là Bất khả thuyết; mười gọi là Bất khả thuyết Bất khả thuyết. Câu hỏi này, văn có ba có thể biết. Ngay trong phần Đức Phật trả lời có bốn: Một là khen ngợi câu hỏi của Tâm Vương, hai là khuyến khích lắng nghe, ba là nghe lời đồng ý, bốn từ “Phật cáo…” trở xuống là chính thức trả lời câu hỏi. Ngay phần này có hai: Đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng tức là pháp của số có thể kể ra, kệ tụng tức là số đã kể ra. Đây chính là đan xen hiển bày về đức dụng của nghóa về số mà thôi. Trong trường hàng có một trăm hai mươi loại kể ra pháp môn: Một là một trăm làm thành Tăng-kỳ, hai từ “Tăng-kỳ…” trở xuống là theo thứ tự làm thành mười số để trả lời câu hỏi trước. Vả lại, phạm vi của một trăm hai mươi số, là từ câu “Câu-lê” thứ nhất làm nhân, tiếp từ “Bất biến” trở về sau có riêng biệt một trăm câu làm số đầy đủ; tiếp theo có hai mươi câu, là từ mười câu như Thọ… làm nhân, từ mười câu như Tăng-kỳ… làm đầy đủ số câu. Trong kệ tụng, chỉ chọn lấy pháp của số thứ chín ở trên để so sánh đức hạnh chứ không tụng ở trên văn, trong phần này có hai trăm bốn mươi lăm kệ. Trong này, các kệ tổng quát tăng lên dựa theo có hai loại ý: Một là tổng quát, hai là riêng biệt. Phần tổng quát thì hoặc là sự-hoặc là lý, hoặc là hành-hoặc là cảnh, hoặc là nhân-hoặc là quả, hoặc là văn-hoặc là nghóa…, cho đến văn tướng hiển bày-phát khởi-giải thích… tự làm sáng tỏ, điều này có thể suy nghó. Phần riêng biệt có hai: Dựa theo cảnh có ba, một là trí Chánh giác, hai là chúng sinh thế gian, ba là quốc độ thế gian. Dựa theo tâm thì gọi là Chánh và Trợ. Văn này có ba: Một là mười bốn kệ trình bày về số có thể kể ra, trong đó có mười lớp tích lũy về pháp của số, tức là mười văn. Hai là đối với sự phân rõ số đã kể ra, trong phần này có hai, một là dùng pháp của số thứ chín, hai là chọn lấy không thể nào trình bày để chuyển đổi về sau chuyển sang chọn lấy nhân của số thứ mười dùng để lường tính về pháp. Sở dó như vậy, là chỉ muốn trình bày về pháp của số tăng lên không phải chỉ có như vậy. Ba là một kệ sau cùng tổng quát về kết luận. Hỏi: Vì sao không dùng số thứ mười? Đáp: Bởi vì số thứ mười vốn thuộc về Phật, trong văn tuy trình bày về pháp của quả Phật, nhưng cần phải chọn lấy căn thiện có thể hồi hướng thuộc pháp ở phần vị của nhân. Sở dó như vậy, là bởi vì tướng của quả bao gồm nhân hiển bày ở hai nơi, điều này có thể suy nghó, đây tức là số đối với vô số mà thôi. -------------------------- <詞>Phẩm 26: THỌ MẠNG Bốn môn giống như trước. Phân rõ về tên gọi, Thọ là Mạng căn, cũng có thể Mạng và Thọ không hai. Theo Đại thừa thì tức là Ấm nối tiếp nhau, theo Tiểu thừa thì có riêng tánh Bất tương ưng. Ý đưa ra và Tông đã phân rõ ở trên. Phân rõ về văn. Từ đây về sau hai phẩm, Tâm Vương tự nói, là bởi vì Mạng xứ không nhất định tùy tâm mà thành tựu, cũng có thể chỉ riêng phần vị của nhân có các loại nghóa về tự tại, tức là Thọ đối với Vô thọ. Trong phẩm này vì sao nêu ra cõi của quả? Bởi vì phẩm này là nêu ra nơi chốn, cho nên chọn lấy người có năng lực tu hành. Vì vậy ở dưới nói: Phổ Hiền đầy đủ trong đó. Văn này có ba: Một là tổng quát nói cho biết, hai là nêu ra cõi làm chỗ dựa, ba từ “Phổ Hiền…” trở xuống là phân rõ năng lực tu tập tiến vào nhân hạnh. Trong văn thứ hai, đầu là tóm lược về mười cõi, hai là mở rộng về so sánh mà thôi. -------------------------- <詞>Phẩm 27: BỒ TÁT TRÚ XỨ Bốn môn giống như trước. Giải thích về tên gọi, nghóa về con người và ba nghóa về chỗ dựa mà được tên gọi, có thể biết. Ý đưa ra và Tông đã phân rõ ở trên. Giải thích văn. Dựa theo phần vị dưới giống nhau cho nên phân rõ về nơi chốn. Đây tức là Trú đối với Vô trú mà thôi. Vả lại, tuy con người giống nhau, mà Vô sinh làm Sinh, Vô trú làm Trú. Văn này có hai: Một là bởi vì không trú vào có, cho nên trình bày về tám trú xứ thanh tịnh ở mười phương; hai là bởi vì phân rõ về hữu vi không cùng tận, cho nên dựa vào bốn biển-mười lăm xứ nhiễm. ---------------------------- <詞>Phẩm 28: PHẬT BẤT TƯ NGHỊ PHÁP Từ đây trở xuống trả lời ba mươi hai câu hỏi trong Hội thứ hai, sau là mười ba câu hỏi về quả đức mà thôi. Nhưng hỏi đáp phân rõ về nghóa, là trình bày về Bí giáo thuộc Viên tông, hiển bày vào lúc lắng nghe tu tướng phương tiện làm sáng tỏ ở lòng nghó mắt nhìn, khiến cho người thuyết pháp được lợi ích không che kín tông thú, người phát tâm cao xa không ngăn ngại luyện tập mong cầu. Vì vậy kinh nói: Ở trong Chánh thuyết an trí tùy theo nghóa của lời nói, ở trong Chánh nghóa an trí tùy theo lời nói về nghóa. Tùy theo nghóa của lời nói thì nghóa không phải là nghóa của Thể riêng biệt; tùy theo lời nói về nghóa thì lời nói không phải là lời nói của sự giải thích riêng biệt, đây là lời nói chính xác thì không thể nào chấp trước, giải thích tên gọi để xác định về Thể của pháp. Vì vậy trong Chánh tông của kinh này, nhân quả thuận theo nhau, hỏi đáp nối liền theo nhau, không ẩn mất một ý nào, đây chính là sự khéo léo của Đại Thánh, trong phương tiện tu tập thành tựu nhân quả. Trên đây là trả lời về nhân hạnh xong. Tiếp theo xuống ba phẩm sau là trả lời về quả. Đầu là phẩm Bất tư nghị tức là đức của Pháp thân, hai là phẩm Tướng hải tức là đức của Ứng thân, ba là phẩm Tiểu tướng tức là đức của Hóa thân. Đây là dựa vào Tam thừa. Nếu dựa vào Nhất thừa, thì phẩm đầu là Thể, phẩm hai là Tướng, phẩm ba là Dụng. Bốn môn giống như trước. Phân rõ về tên gọi: Phật bất tư nghị pháp, đây là căn cứ vào quả cho nên nêu rõ Phật làm đầu tiên của quả, không phải là Địa dưới mà suy lường được; pháp là nhờ vào con người mà làm quy phạm, cũng có thể là tự Thể; dựa vào ba nghóa mà được tên gọi. Vì sao đưa ra Phẩm? Bởi vì nhân hạnh đầy đủ rồi, tiếp theo hạnh thành tựu đạt được quả mà thôi. Trình bày về Tông. Phẩm này, trong ba thân thì dùng Pháp thân làm Tông; nếu dùng Thể-Tướng-Dụng để phân thì tự Thể của quả đức làm Tông, cũng có thể đầu là Thể-tiếp là Tướng-sau là Dụng, dựa theo ba thân nối thông ba loại này mà thôi. Giải thích văn. Sở dó Thanh Liên Hoa tuyên thuyết, là bởi vì quả không tự mình làm sáng tỏ. Đây là nhờ vào nhân mà hiển bày về hoa, bởi vì Thanh Liên Hoa là thù thắng. Sở dó nói cho Liên Hoa Tạng biết, bởi vì không phải là nhờ vào Tạng thanh tịnh thì không biết từ đâu thâu nhiếp tiếp nhận quả thù thắng? Văn này có hai: Một là Tựa, hai từ “Nhó thời Thanh Liên Hoa thừa Phật…” trở xuống là trình bày về chính thức tuyên thuyết. Văn về Tựa có ba: Một, ý niệm nghi ngờ của chúng hội, văn này có hai, một là tổng quát sinh khởi ý niệm, hai là đưa ra pháp đã nghi ngờ. Hai, từ “Nhó thời Thế Tôn…” trở xuống là uy và lực gia hộ. Ba, từ “Nhó thời Thanh Liên Hoa tức nhập…” trở xuống là trình bày nhập Định quán xét về pháp, cũng có thể là không nhập Định. Nguyên cớ thế nào? Do pháp của quả này đã tự sâu xa, lại nhập Định để hiển bày. Tín Giải lui sụt bởi vì pháp sâu xa, cho nên chỉ quán xét về pháp giới. Hai phẩm sau thuận theo như vậy mà thôi. Do đó phân tích trong văn trên dưới, thì pháp giới là cảnh của quán nào? Đáp: Dựa vào văn kinh này và Địa Luận thì có hai nghóa: Một, nếu dựa vào Địa Luận phân định, thì chính là cảnh của quán lý Đệ nhất nghóa đế, đây là dựa theo Tam thừa phân định; hai, nếu dựa vào văn trên dưới của kinh, thì gồm chung cảnh của hai quán lý-sự, pháp ấy rộng lớn thông suốt chứ không phải là hạn hẹp, nhưng phần vị thuộc về Vô vi mà thôi. Trong phần một là hỏi tóm lược nghó đến mười pháp, là pháp của quả này chứ không phải là cảnh của suy nghó, cho nên đều không suy nghó. Nghóa của mười câu này có năm: Một câu đầu phân rõ về quả của Y báo(y quả), tiếp theo hai câu là hỏi về nhân hạnh, tiếp theo một câu là hỏi về quả đức của Chánh báo, tiếp theo ba câu là hỏi về đức tướng ba nghiệp-trí tuệ-âm thanh của Pháp thân Phật, ba câu sau cuối là hỏi về thần lực tự tại. Trong mười câu trong phần ba là quán xét về pháp, năm câu đầu là Tự lợi, năm câu sau là Lợi tha. Hai là từ “Nhó thời Thanh Liên Hoa…” trở xuống là chính thức tuyên thuyết: Phẩm này trả lời xa về mười câu trên, tức là đức của Pháp thân; tiếp là phẩm Tướng hải trả lời về một câu thuộc Bất động, tức là đức của Báo thân; tiếp là phẩm Tiểu tướng trả lời về hai câu thuộc Phật trí-sáu căn của Phật trước đây, tức là quả của Hóa thân. Ở đây nói cho Thanh Liên Hoa Tạng biết, là pháp khí thù thắng sâu sắc. Trong văn đáp phân hai: Một, mười câu đầu là tổng quát mà cũng là riêng biệt; hai, từ “Thử cú…” trở xuống là riêng biệt. Trong riêng biệt tóm lược nêu ra ba trăm hai mươi loại công đức pháp môn để chỉ rõ, có năm: Năm mươi câu đầu trả lời một câu hỏi về quốc độ trước đây. Từ “Thập chủng xuất sinh trú trì…” trở xuống là năm mươi câu trả lời hai câu hỏi về nguyện thanh tịnh và chủng tánh trước đây. Từ “Hữu thập chủng Phật sự…” trở xuống là sáu mươi câu trả lời một câu hỏi về Phật xuất thế trước đây. Từ “Nhất thiết chư Phật hữu vô ngại trú…” trở xuống là chín mươi câu trả lời ba câu hỏi về tướng ba nghiệp của Phật. Từ “Thập chủng tối thắng lực…” trở xuống là bảy mươi câu trả lời ba câu hỏi về tác dụng của thần lực trước đây. Trong năm mươi câu phần một: Một, mười câu phân rõ về diệu trú là chỗ dựa của hành đức; hai, mười câu về thật tánh tùy duyên để thành tựu mười loại hành đức; ba, mười câu về pháp tương xứng khởi hạnh để thành tựu mười trí phương tiện; bốn, mười câu về khéo sử dụng tùy duyên đầy đủ đức Tự-tha không sai thời gian; năm, mười câu về cảnh không suy nghó là trình bày về cảnh giới khéo sử dụng hợp cơ không sai lầm cho nên quả vượt lên trên chỉ có tuyệt vời. Trong mười câu phần một có ba: Đầu là hai câu phân rõ về hành đức tương ưng với Tự phần, tiếp theo bảy câu là hạnh nhiếp hóa Lợi tha, tiếp theo một câu là Tự-tha thật sự hợp nhau bình đẳng không hai. Trong mười câu phần hai có ba: Đầu là bảy câu trình bày về tác dụng sáu căn thuộc công đức của Pháp thân, tiếp theo hai câu trình bày về thần thông tự tại của hai pháp Y-Chánh, tiếp theo một câu trình bày về nhân viên mãn… của Phật mà chư Phật đã chứng. Trong mười câu phần ba có thể biết. Trong mười câu phần bốn có hai: Đầu là hai câu về Tự lợi, sau là tám câu về Lợi tha. Trong mười câu phần năm có thể biết. Trong năm mươi câu phần hai: Một, ba mươi câu trả lời về nguyện thanh tịnh trước đây; hai, từ “Ly ác…” trở xuống là hai mươi câu trả lời về chủng tánh. Mười câu thứ nhất từ Chánh trí phát ra, sau đạt được công dụng của Nguyện trí trú trì. Phần này có hai: Đầu là ba câu về Tự lợi, sau là bảy câu về Lợi tha. Mười câu thứ hai lấy công dụng bên ngoài dựa vào thành tựu bên trong, tức là pháp của đức bên trong. Trong đó: Đầu là ba câu về ba nghiệp đầy đủ đức, tiếp theo bảy câu là công đức nhiếp hóa của ba nghiệp. Mười câu thứ ba là do thành tựu đức bên trong trước đây thật sự làm sáng tỏ công dụng bên ngoài, cho nên chỉ có thù thắng chứ không thêm gì nữa. Trong đó: Đầu là hai câu về hạnh Tự lợi, tiếp theo hai câu là phương tiện Lợi tha, tiếp theo một câu là đầy đủ đức Tự lợi, tiếp theo năm câu là đầy đủ đức Lợi tha. Mười câu thứ tư là đức nổi bật cho nên thanh tịnh, đầu là sáu câu về không đắm nhiễm bởi Tự hành, tiếp theo bốn câu là không đắm trước đối với Lợi tha. Mười câu thứ năm là thanh tịnh quyết định cho nên cứu cánh, đầu là sáu câu về nhân hạnh thanh tịnh đầy đủ, tiếp theo bốn câu là quả của ba thân thanh tịnh đầy đủ. Trong bốn câu thì một câu đầu là Hóa thân, một câu tiếp là Pháp thân, hai câu còn lại là Báo thân. Trong sáu mươi câu phần 3: Một, mười câu trình bày về đức của Hóa thân; hai, năm mươi câu là đức của Báo thân, đều là đức của Pháp thân này. Phật sự là có thể phát khởi công dụng to lớn, Hóa thân thâu nhiếp tướng của lợi ích. Mười câu phần một có hai: Đầu là năm câu về phương tiện Lợi tha, tiếp theo năm câu là lợi ích đích thực của Lợi tha. Trong năm mươi câu phần hai: Mười câu thứ nhất là một trí Vô tận có công dụng như biển, một câu đầu trình bày về chỗ dựa của Pháp thân. Mười câu thứ hai là đức dụng chủ động dựa vào, đầu là bốn câu về hạnh Tự lợi, tiếp theo sáu câu là Thể của hạnh Lợi tha. Mười câu thứ ba là Thường pháp, đầu là bốn câu về hạnh Tự giác đầy đủ, tiếp theo sáu câu là hạnh Giác tha đầy đủ. Mười câu thứ tư là pháp của Đức Phật thuyết vô lượng có thể biết. Mười câu thứ năm là thường làm Phật sự, đầu là bốn câu trình bày về ba nghiệp thực hành giáo hóa thâu nhiếp lợi ích đối với Tịnh độ, tiếp theo ba câu là hiện rõ trú trì bằng Sắc, tiếp theo hai câu là hiện rõ trang nghiêm bằng vật báu, tiếp theo một câu là nhập Định làm lợi ích cho các Bồ-tát, cũng có thể là chỉ im lặng chứ không phải là Định. Mười câu thứ sáu là kiên cố, đầu là năm câu trọn vẹn đức của Tự phần, tiếp theo hai câu là hạnh hồi hướng thắng tiến, tiếp theo ba câu là tu thành tựu lợi ích giáo hóa. Trong chín mươi câu phần 4, có ba: Một, ba mươi câu trả lời một câu hỏi về Pháp thân trước đây; hai, ba mươi câu trả lời về khẩu nghiệp như âm thanh… trước đây; ba, ba mươi câu trả lời về ý nghiệp của Phật trí. Mười câu thứ nhất là Vô ngại trú, đầu là ba câu về Tự hành vô ngại, tiếp theo là bảy câu Lợi tha vô ngại. Mười câu thứ hai là trang nghiêm thù thắng nhất, đầu là ba câu về trang nghiêm Thể của ba nghiệp, tiếp theo là sáu câu về Dụng của ba nghiệp, tiếp theo một câu là đầy đủ đức hành Lợi tha. Mười câu thứ ba là Chánh pháp tự tại có thể biết. Nói không phải là không giác ngộ trước Chánh pháp của chư Phật cũng không trú vào Giác địa mà thành tựu Chánh giác, ở đây có hai ý: Một là chọn lấy nghóa trong văn, trong này Phật thì không phải là giống như Phật của Tiểu thừa, bởi vì chính là Phật của Đại thừa thuộc về nhân của Cọng giáo; hai là dùng nghóa của Phổ Hiền chọn lấy môn Tín riêng biệt của dị sinh, giả sử Phật ấy trước sau hiện rõ thành tựu thì đều giống như giác ngộ trước, đều giống như thuộc về cứu cánh lìa xa địa vị của Học và không giác ngộ, là pháp của Phổ Hiền thâu nhiếp cho nên tự tại cả ba đời. Ý này nên suy nghó! Mười câu thứ tư là một Bất tư nghị thành tựu Chánh giác, đầu là bốn câu về nhân trọn vẹn, tiếp theo là ba câu về thành tựu hạnh Lợi tha, tiếp theo là ba câu về ba thân đầy đủ đức trọn vẹn thành Phật. Mười câu thứ năm là phương tiện khéo léo diệu kỳ, đầu là bốn câu về Tự hành, tiếp theo là sáu câu về Lợi tha. Mười câu thứ sáu là Phật sự có thể biết. Mười câu thứ bảy là Pháp Vương, đầu là bảy câu về đức Tự lợi, tiếp theo là hai câu về hạnh Lợi tha, tiếp theo là một câu về Tự-tha, bởi vì hai quả thâu nhiếp lẫn nhau không sai khác. Mười câu thứ tám là trú vào pháp, đầu là bốn câu về đức Lợi tha, tiếp theo là sáu câu về khởi dụng về Bi… vô tận. Mười câu thứ chín là biết rõ không có gì sót, đầu là ba câu nhận biết không hề sót về pháp giới…, tiếp theo là hai câu nhận biết về khí thế gian nhiễm trược, tiếp theo là năm câu nhận biết về các pháp thuộc nhân xuất thế. Trong bảy mươi câu phần năm: Một, mười câu trả lời một câu hỏi về thần lực trước đây; hai, năm mươi câu trả lời về Vô ngại trú trước đây, ba, mười câu trả lời về giải thoát trước đây. Mười câu thứ nhất là lực thù thắng, đầu là nêu ra-sau là giải thích, đầu là bốn câu thành tựu Tự hành, tiếp theo sáu câu là đầy đủ hạnh Lợi tha. Nghóa về bốn Trú trong câu thứ mười: Nơi Đức Phật an trú, tức là Ngã thù thắng nhất, là Phật trú; tiếp theo là Vô ngại, tức là Định thuộc Chân Không, là Thánh trú; tiếp theo là tâm Vô ngại, tức là Thiên trú; tiếp theo là Đại Bi, tức là Phạm trú. Mười câu thứ hai là Định, có thể biết. Mười câu thứ ba là Pháp, đầu là năm câu đạt được đầy đủ thiện của thế gian, tiếp theo năm câu là thành tựu hạnh xuất thế. Mười câu thứ tư là pháp thanh tịnh, đầu là sáu câu tiến vào nhân hạnh, tiếp theo bốn câu là tiến vào cảnh giới của ba thân Phật. Mười câu thứ năm là Nhất thiết trí an trú lìa tướng chướng ngại thuận theo Bất động, đầu là hai câu nhận biết về tánh của căn khí, tiếp theo một câu là tổng quát, từ “Tam luân hóa…” trở xuống là bảy câu riêng biệt. Trong riêng biệt, đầu là ba câu về Thần thông luân, tiếp theo một câu là Chánh giáo luân, tiếp theo ba câu là Ký tâm luân hóa. Mười câu thứ sáu là Tam-muội không thể nghó bàn, đầu là hai câu về phương tiện Lợi tha, tiếp theo ba câu là phương tiện Tự lợi, tiếp theo một câu là Lợi tha thuần thục, tiếp theo một câu là Tự lợi thuần thục, tiếp theo ba câu là tác dụng vắng lặng giải thoát tự tại cứu cánh. Mười câu thứ bảy là Vô ngại giải thoát, đầu là năm câu về hiện bày chư Phật chuyển pháp luân giáo hóa ở trong một mảy trần, tiếp theo năm câu là ở hiện tại thâu nhiếp chư Phật ba đời hiện bày ở trong một môn. Lại trong kinh Đại Thừa Đồng Tánh nói: “Phật có mười loại Địa, thiện trượng phu Phật địa có mười, tất cả Bồ-tát và Thanh văn Bích-chi- Phật… vốn không có thể thực hành được. Thế nào là mười? Đó là: Tên là Thậm thâm nan tri quảng minh trí đức địa. địa. địa. địa; Tên là Thanh tịnh thân phần uy nghiêm bất tư nghị minh đức Tên là Thiện minh nguyệt tràng bảo tướng hải tạng địa. Tên là Tinh diệu kim quang công đức thần thông phước đức Tên là Luân uy tạng minh đức địa; Tên là Hư không nội thanh tịnh vô cấu diệm quang khai tướng Tên là Quảng thắng pháp giới tạng minh giới địa; Tên là Tối tịnh thiện giác trí tạng năng tịnh vô cấu vô biên vô ngại trí thông địa; Tên là Vô biên ức trang nghiêm hồi hướng năng chiếu minh địa; Tên là Tỳ-lô-giá-na trí hải tạng địa. Thiện trượng phu này là danh hiệu mười Địa của Như Lai, trí tuệ của chư Phật không thể nào nói đầy đủ về Thiện trượng phu Phật.” Địa thứ nhất, là trừ bỏ tất cả tập khí vi tế, lại được tự tại đối với tất cả các pháp. Địa thứ hai, là chuyển pháp luân, nói về pháp sâu xa. Địa thứ ba, là nói về các pháp thức của Thanh văn, lại còn hiển bày nói về Tam thừa. Địa thứ tư, là nói về tám vạn bốn ngàn pháp môn, lại còn làm hàng phục bốn loại ma. Địa thứ năm, là như pháp làm hàng phục các ngoại đạo, lại còn làm hàng phục ngạo mạn và số đông. Địa thứ sáu, là giáo hóa thị hiện vô lượng chúng sinh trong sáu Thần thông, lại còn hiển hiện sáu loại Đại thần thông, đó là hiện bày cõi Phật công đức trang nghiêm thanh tịnh vô biên, hiện bày Đại chúng vây quang vô biên Bồ-tát, hiện bày cõi Phật rộng lớn vô biên, hiện bày tự Thể của cõi Phật vô biên, hiện bày trong vô biên các cõi Phật từ trời Đâu-suất xuống thác thai cho đến lúc pháp diệt, thị hiện các loại thần thông vô biên. Địa thứ bảy, là vì các Bồ-tát nói về bảy Bồ-đề phần đúng như thật, không có gì vốn có, lại không có gì đắm trước. Địa thứ tám, là thọ ký cho tất cả Bồ-tát về bốn loại A-nậu Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Địa thứ chín, là làm phương tiện khéo léo cho các Bồ-tát. Địa thứ mười, là nói cho các Bồ-tát về tất cả các pháp không có gì vốn có, lại nói cho biết về tất cả các pháp xưa nay vắng lặng vốn là Đại Niết-bàn. Đây là thuận theo Tam thừa mà thôi. ------------------------- <詞>Phẩm 29: NHƯ LAI TƯỚNG HẢI Bốn môn giống như trước. Giải thích về tên gọi: Tướng của Phật vô cùng tận cho nên như biển. Nay dựa vào giống như con người mà nói là ba mươi hai tướng tốt, hơn hẳn chư Thiên cho nên nói là tám mươi vẻ đẹp, cũng có thể là thuận theo thần sắc mà thôi. Đây là dựa theo cách giải thích của Tam thừa. Nay văn này là tướng của Nhất thừa, cho nên như biển. Vì lẽ đó mà Phổ Hiền nói là dựa vào đức vô biên. Hỏi: Phẩm Bất tư nghị pháp trên đây nói riêng cho một người, nay vì sao không như vậy? Đáp: Pháp trên đây là Thể hiển bày thù thắng cho nên nói riêng mà thôi. Ý đưa ra, bởi vì trước là Thể-sau là Tướng, cho nên đưa ra. Trình bày về Tông, dựa vào Tam thừa dùng ba mươi hai tướng Đại trượng phu làm Tông, cũng có thể mở rộng thêm không giống như ba mươi hai tướng, tức là như văn phân rõ về tướng đức làm Thể mà thôi. Giải thích văn. Văn này có hai: Một, khuyên nhủ lắng nghe đồng ý thuyết giảng; hai, phân rõ rộng ra. Phần này có hai: Một là tóm lược phân rõ về chín mươi ba loại tướng của bậc Đại Nhân, hai là về sau tổng quát trình bày mười tướng của bậc Đại Nhân ở thế giới Liên Hoa Tạng. Văn phần một: Đầu là bảy tướng trên đảnh; tiếp từ “Danh viên mãn…” trở xuống là hai mươi hai tương trang nghiêm trên đảnh; tiếp là ba tướng giữa chặng mày; mắt mũi đều có một tướng; lưỡi có bốn tướng; nứu răng là một tướng; răng cửa có bốn tướng; răng hàm có một tướng; vai có năm tướng; ngực có một tướng; sườn có một tướng; bụng có bảy tướng; phần dưới có hai tướng; tay có mười hai tướng; mã tàng có ba tướng; bắp vế có hai tướng; mu chân có hai tướng; đầu lông có một tướng; chân có mười ba tướng. Văn về mỗi một tướng có bốn: Một là nêu ra tên gọi; hai là đưa ra Thể; ba là ánh sáng; bốn là ánh sáng chiếu đến cảm được lợi ích, đối với phạm vi của duyên.  ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 4 (Phần 2) <詞>Phẩm 30: PHẬT TIỂU TƯỚNG QUANG MINH CÔNG ĐỨC Bốn môn giống như trước, theo thứ tự như trên đã nói. Tiểu tướng là so sánh với nhau về đức riêng biệt. Sở dó Đức Phật tự nói, là bởi vì dụng của Hóa thân thì chỉ riêng Đức Phật mới hiểu đến tận cùng; cũng có thể Hóa thân tùy vật yếu kém khiến cho sinh khởi niềm tin, bởi vì có đức chân thật, cho nên Đức Phật tự nói. Văn này có hai: Một, tổng quát nêu ra hình tướng tốt đẹp có được lợi ích; hai, từ “Như Lai túc hạ hữu thiên bức…” trở xuống là mở rộng phân rõ về tùy theo công đức thâu nhiếp lợi ích. Văn phần một có bốn: Một là nêu ra tên gọi; hai là trình bày về tướng của Dụng; ba là phân rõ về quyến thuộc; bốn là nêu ra nhân trước kia để phân rõ về lợi ích của Dụng, phỏng theo thành tựu đức dụng về tiểu tướng của Như Lai khó cùng tận. Phần này có bốn nên suy nghó! Trong phần hai là mở rộng có sáu: Một là phân rõ hình tướng tốt đẹp thâu nhiếp lợi ích; hai từ “Nhữ đẳng ưng đương…” trở xuống là khuyên dạy hướng về báo ân và nhận biết về nhân quả; ba từ “Chư Thiên tử văn thị âm thanh…” trở xuống là phát khởi thực hành cúng dường; bốn từ “Thị cố chư Thiên tử…” trở xuống là khuyên dạy phát tâm sám hối lỗi lầm; năm từ “Thuyết thị pháp thời…” trở xuống là phân rõ về đạt được lợi ích quay trở lại để hồi hướng; sáu từ “Nhó thời chư Thiên tử…” trở xuống là đạt được lợi ích cho nên lưu truyền khắp nơi không dứt đoạn. Văn phần một, có hai: Phân rõ về tướng ánh sáng xoay tròn soi chiếu thâu nhiếp lợi ích, phần này có hai có thể biết. Từ “Sinh Thiên thượng dó…” trở xuống là khuyến khích thành tựu công hạnh thù thắng. Trong phần này có hai: Một, từ “Chánh cử…” trở xuống là so sánh để khuyến khích; hai, từ “Chư Thiên tử Lô-xá- na…” trở xuống là nêu ra lợi ích thù thắng để chỉ rõ. Văn phần một là so sánh có ba: Một là chính thức khuyến khích, hai là Thiên tử ca ngợi, ba là trở lại chỉ rõ. Trong phần trở lại chỉ rõ có hai: Một, tổng quát nêu ra đức để khuyến khích; hai, từ “Như ngã…” trở xuống là dẫn ra ví dụ để chỉ rõ. Phần này có sáu Dụ, trong đó đều có hai văn có thể biết: Dụ về pháp tánh Vô ngã. Dụ về không có người đến. Dụ về không có phương hướng trú xứ. Dụ về lìa tạo tác thành pháp thiện. Dụ về pháp không có phương hướng. Dụ về các pháp không có lỗi lầm. Trong phần hai là khuyên dạy hướng về, có bốn: Nêu ra lợi ích để khuyên dạy khuyến khích; Từ “Chư Thiên kỳ hữu…” trở xuống là nêu ra tổn hại để khuyến khích. Từ “Nhữ tích…” trở xuống là nêu ra ân đức để chỉ rõ. Từ “Chư Thiên tử…” trở xuống là chỉ ra pháp để khuyến khích. Văn phần ba là phát khởi thực hành cúng dường, có sáu: Thiết bày vật dụng cúng dường. Hướng đến. Không thấy. Thiên trở lại chỉ rõ. Trở lại sinh niệm cung kính. Từ “Nhó thời Thiên diệu âm…” trở xuống là tôn trọng cung kính. Đối với trong-ngoài đều có năm trăm phiền não, là tự tướng của mười sử-mười ác nương nhau tức là thành một trăm, mê lầm đối với năm trần bên trong sinh ra năm trăm, mê lầm đối với năm trần bên ngoài sinh ra năm trăm. Hai vạn một ngàn… thì có thể hiểu. Trong phần bốn là khuyên dạy phát tâm, có ba: Khuyên dạy phát tâm và sám hối lỗi lầm, Thiên tử đạt được lợi ích tóm lược có ba câu. Từ “Thời chư Thiên tử…” trở xuống là trở lại hỏi có hai câu. Từ “Nhó thời Thiên thanh…” trở xuống là trả lời. Văn trả lời có bốn: Một là chỉ rõ nghi thức sám hối có năm câu, hai từ “Thí như minh tịnh…” trở xuống là ví dụ so sánh có ba câu, ba từ “Thí như huyễn sư…” trở xuống là giải thích để điều phục nghi ngờ, bốn từ “Nhược như thị…” trở xuống là kết thúc về nghóa dạy dỗ. Trong phần năm là đạt được lợi ích, văn có hai: Trình bày về đạt được lợi ích có hai câu. Từ “Do vị năng kiến…” trở xuống là kết thúc về phạm vi trả lời. Trong phần sáu từ “Nhó thời Thiên tử…” trở xuống là lần lượt chuyển tiếp tu hành theo quỹ phạm của giáo không dứt đoạn, có bốn: Dùng hương hoa… để tu hạnh cúng dường. Từ “Nhó thời bỉ hương vân…” trở xuống là tự hành đã thuần thục, tiếp tục chỉ dạy thâu nhiếp người khác, có bốn câu. Từ “Ma-ha-tát an trú như thị…” trở xuống là thành tựu lợi ích thực hành cho nên chuyển sang làm lợi ích. Từ “Tả thủ trì…” trở xuống là nêu ra ví dụ để so sánh thành tựu về quán pháp giới. Trong văn có bốn: Một là nêu ra ví dụ rộng lớn làm sáng tỏ về pháp khó tin, có ba câu; hai từ “Phật cáo Bảo Thủ Bồ-tát như thị…” trở xuống là pháp hợp thành tựu đức dụng sâu rộng; ba từ “Phật cáo Bảo Thủ Bồ-tát thí như thiên ức…” trở xuống là mở rộng thêm để ví dụ so sánh; bốn từ “Phật cáo Bảo Thủ Bồ-tát thí như định quang…” trở xuống là nêu ra phạm vi của ví dụ để kết luận về pháp sâu rộng, văn này khó hiểu cần phải suy nghó. Vả lại, Đức Phật Thích-ca lúc làm Bồ-tát, có một tướng lợi ích ở một đời làm lợi ích cho một chúng sinh, một chúng sinh ấy lần lượt chuyển tiếp làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, đều một đời đến được Tam-muội Ly Cấu. Như vậy tất cả chúng sinh lại làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, như vậy tận cùng thời gian vị lai, xuống đến tất cả bàng sinh, hóa làm ngọc châu Như ý cũng làm lợi ích tận cùng thời gian vị lai. Một tướng của Bồ-tát đã có tác dụng như vậy, nên biết đức dụng của tướng Phật thì không thể nói. Một tướng nhỏ của Phật mà đức đã như vậy, tướng hải to lớn của Phật dựa theo đó có thể hiểu. Ý văn như vậy, tướng còn lại có thể biết. ------------------------------ <詞>Phẩm 31: PHỔ HIỀN BỒ TÁT HẠNH Bốn môn giống như trước. Giải thích về tên gọi: Hành rộng khắp pháp giới gọi là Phổ, Thể thuận theo điều hòa với thiện gọi là Hiền; Bồ-tát là con người; Hạnh là trình bày về nhân. Thể của Hạnh từ hai nghóa mà được tên gọi. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Có hai: Thứ nhất là nghi ngờ rằng nhân quả trước đây lấy gì làm Thể, dựa vào đâu mà thành tựu? Vì giải quyết mối nghi này. Đây tức là nhân quả của tự Thể thứ hai, phẩm này là nhân, phẩm Tánh Khởi là quả. Nhân quả của phẩm này cùng với tu thành của phẩm trước đây chọn lấy khác biệt thế nào? Nếu chọn lấy dựa theo phạm vi của duyên, tức là thuộc về phẩm trước đây; lìa tánh mất dần trước sau, tức là thuộc về phẩm này. Hỏi: Trong Địa trước đây mở rộng trình bày về lìa tánh, phẩm này nói gì? Đáp: Bởi vì trước đây cần phải thâu nhiếp công hạnh riêng biệt làm phương tiện hướng về Thể, trong phẩm này đã trình bày chính là tánh của hành thuận với lý, mà không có hai Thể, nghóa không phải là tướng, dùng duyên thì tất cả là duyên, dùng tánh thì tất cả là tánh. Hỏi: Tánh khởi tuyệt ngôn lìa tướng, sao nói là có nhân quả? Đáp: Có hai ý, một là bởi vì trong kinh, trong nhân phân rõ về Tánh khởi, trong quả trình bày về Tánh khởi, cho nên là hai; hai là tánh bởi vì không trú vào cho nên khởi lên, lúc khởi lên thì lìa tướng thuận theo pháp, cho nên có nhân quả. Hỏi: Lúc khởi lên thì lìa cùng với duyên tu có gì khác biệt? Đáp: Duyên tu lìa tu thì không thành tựu, tánh khởi lên không có duyên vẫn không tổn hại, cho nên khác biệt. Hỏi: Hạnh Phổ Hiền ấy cũng như phần Tánh khởi thuận với Tu sinh, vì sao văn sau nói do nhiều pháp mà thành tựu xuất hiện ở thế gian? Đáp: Đây là hướng về hiểu biết, không phải là dựa theo Thể của tánh, cho nên văn sau nhiều lần nói: Nếu như vậy nhận biết. Hỏi: Nếu không nhận biết thì làm sao phân rõ về dấy khởi? Đáp: Bởi vì quán khác-thấy khác, duyên tu thì không như vậy. Thứ hai lại giải thích: Thâu nhiếp công hạnh riêng biệt trước đây để thành tựu về đức rộng khắp ấy, bởi vì biểu đạt về tánh khởi cho nên đưa ra. Nếu đưa ra cách giải thích này thì bởi vì thuộc về Tu sinh, tánh khởi về sau thì văn đi vào Bổn hữu. Hỏi: Hạnh Phổ Hiền thành tựu ở phần vị nào? Đáp: Thật sự thì không dựa vào phần vị, ngay phần vị Giải kia trở đi đã thành tựu, là bởi vì ở văn kinh trước đây nói từ phần vị Giải trở lên, còn lại dựa theo suy nghó thâu nhiếp. Trình bày về Tông, có hai môn phân biệt: a) Dựa theo con người; b) Dựa theo pháp. Con người là Thể-Đức-Dụng Tu sinh lìa, bắt đầu rộng lớn khác với trước đây mà thôi. Pháp là pháp thuộc hạnh Phổ Hiền, cũng có Thể-Tướng-Dụng, có đủ lý-giáo-hạnh-quả…, nhưng ng- hóa khác nhau mà thôi. Hỏi: Hai phẩm này không có Định và gia hộ-quy tụ chúng, sao nói là có Thể-Tướng? Đáp: Thể của hai phẩm này biểu thị về sâu xa khó hiểu, bởi vì làm sáng tỏ về Thể của pháp vô cùng sâu rộng, gia hộ-quy tụ chúng… như đầu phẩm Thập Địa đã giải thích. Pháp nhờ vào con người hiển bày, cho nên phẩm này nói về con người. Giải thích văn. Văn này có bốn: Một, phần Tựa; hai, chính thức tuyên thuyết; ba, kết luận chứng minh thành tựu; bốn, kệ tụng. Văn phần Tựa có ba: Một là nêu ra tóm lược hiển bày mở rộng phân rõ về phạm vi tuyên thuyết, hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là vặn hỏi, ba là trả lời. Văn trả lời về ý của phẩm trước đây đối với duyên cho nên thu hẹp, Thể của phẩm này bao gồm duyên và không phải duyên cho nên rộng rãi; cũng có thể là duyên tu trước đây nêu ra Thể thuận theo tướng cho nên thu hẹp, phẩm này dấy khởi theo tướng tiến vào Thể cho nên rộng rãi. Hữu ở phẩm này thâu nhiếp Bổn hữu Tu sinh-Tu sinh Bổn hữu. Lại trước đây đối với cơ của một phẩm-hai phẩm, phẩm này thì rộng khắp. Phẩm này tổng quát dựa theo năm nghóa: 1- Phần vị; 2- Căn; 3- Sự; 4- Bệnh; 5- Các hành. Văn có bốn: Một là tổng quát phân rõ về ý thuyết giảng ít trước đây, hai từ “Ngu si chúng sinh…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về ý tùy thuận thuyết giảng; ba từ “Vi như thị…” trở xuống là kết luận, bốn từ “Phật tử nhược Bồ-tát…” trở xuống là sơ lược chỉ ra sai lầm của mê hoặc. Hỏi: Ý văn mở rộng này thì giáo trước đã lớn, sao nói là hạn hẹp không có một cơ nào? Đáp: Bởi vì công lực của phiền não rất lớn, thành tựu ít mà tổn hại nhiều. Trên đây tuy không phải là ít mà bởi vì đối trị không dễ dàng. Nếu hướng về pháp giới Phổ Hiền thì không gọi là rộng, đây là dựa theo công năng làm mê hoặc của Sân mà phân rõ về sai lầm. Nếu dựa theo Thể của tất cả các Hoặc, thì chỉ là ba Hoặc trong tâm. Trong này có sáu: Tổng quát phân rõ về sai lầm. Vặn hỏi. Tóm lược trả lời. Mở rộng giải thích. Kết luận. Trở lại mở rộng. Phần hiển bày mở rộng có ba có thể biết: - Trăm chướng dựa theo phần vị có sáu: Thập Tín. Từ “Bất lạc Phật pháp…” trở xuống là chướng về Thập Trú. Từ “Ly Bồ-tát hạnh…” trở xuống là chướng về Thập Hạnh. Từ “Phỉ báng Phật pháp…” trở xuống là chướng về Thập Hồi Hướng. Từ “Bất lạc Bồ-tát trú…” trở xuống là chướng về Địa thứ nhất trở lên. Không thuận với chư Phật ba đời tức là chướng về Phật, đây là thuộc về nơi cuối cùng của Thập Địa, lý đều bao gồm mà thôi. Trong phần hai là chính thức tuyên thuyết có ba có thể biết. Văn phần hai có sáu mươi câu, năm mươi câu đầu là nhân hạnh, mười câu tiếp theo là quả trong nhân. Trong năm mươi câu đầu: Mười câu thứ nhất là Thập Tín, mười câu thứ hai là Thập Giải trở lên, mười câu thứ ba là Địa thứ nhất trở lên, hai mươi câu còn lại là Địa thứ chín và Địa thứ mười. Lý vẫn là nối thông mà thôi. Trong mười câu thứ nhất, bảy câu trước là Tín tu trong pháp Tự lợi, ba câu sau là Tín tu trong pháp Lợi tha. Trong mười câu thứ hai, sáu câu đầu là Tự hành, ba câu tiếp là hành Lợi tha thanh tịnh, một câu cuối là phần vị nhân thanh tịnh. Trong mười câu thứ ba là trí lần lượt phối hợp với Thập Địa. Trong mười câu thứ tư là khéo léo tùy thuận có thể biết. Trong mười câu thứ năm là tâm thẳng thắn, bảy câu trước là tướng của Địa thứ chín, trong đó hai câu đầu là nhận biết về căn, tiếp hai câu là nhận biết về thuốc, tiếp hai câu là nhận biết thuận theo phương tiện đích thực chứng được, tiếp một câu là loại trừ chướng; ba câu sau là tướng cảu Địa thứ mười có thể biết. Mười câu thứ sáu là phương tiện khéo léo, bốn câu đầu là quả của Pháp thân, bốn câu tiếp là quả của Báo thân, hai câu tiếp là quả của Hóa thân. Tiếp theo từ “Thị cố…” trở xuống là kết luận khuyến khích tu hành, có ba có thể biết. Phần ba là chứng minh thành tựu có thể biết, có bốn: Một, mặt đất chấn động mưa hoa…, phần này có hai có thể biết; hai, cùng nối thông với phương khác; ba, mười phương cùng chứng minh; bốn, lại tổng quát để kết thúc. Trong phần bốn là kệ tụng có hai: Một là trường hàng nêu ra ý tuyên thuyết để sinh khởi, hai là chính thức kệ tụng. Văn kệ có một trăm hai mươi hai hàng: Hai hàng đầu tổng quát tụng về phạm vi của nhân hạnh đã nói, tiếp theo mở rộng ca ngợi về đức của hạnh Phổ Hiền, không phải là tụng về văn trước đây. Lại cũng một hàng một câu tức là một đức, không cần phải trải qua phân tích, điều này có thể suy nghó. Văn nói cùng với các Như Lai giống nhau, là nhân-quả đều không có tướng, bởi vì nhân duyên tạo tác và không tạo tác, hai lực phát sinh của quả vốn như nhau. Quá khứ tức là vị lai, cả hai đời như nhau, nghóa về nhân của quả Tập này, vốn chỉ là một tướng của ba đời, cho nên Thập Tín tức là các phần vị. Như vậy tất cả chỉ đưa vào tướng của thời gian, tức là pháp của mỗi một thời gian đưa vào thời gian hiện tại, không chứng phần vị trở thành so sánh. Đây là dựa theo thành tựu về hạnh sai biệt của Tam thừa. Lại cũng chín đời tự tại thâu nhiếp tiếp nhận đều chứng. Đây là dựa theo Phổ Hiền tự tại cho nên như vậy. Các pháp nhân quả đều như vậy, đó là chuẩn mực. Nếu đưa vào tướng biến hóa tạm thời…, thì không thuộc về giới hạn này, thích hợp có thể suy nghó! ------------------------------ <詞>Phẩm 32: BẢO VƯƠNG NHƯ LAI TÁNH KHỞI Bốn môn giống như trước. Phân rõ về tên gọi. Bảo Vương: Thâu nhiếp đức tự tại là Vương, đáng quý gọi là Bảo. Như Lai là đạo như thật sẽ thành tựu Chánh giác. Tánh là Thể, Khởi là tâm địa hiện tại mà thôi. Đây chính là quy tụ tướng khởi lên ấy đưa vào thật. Ý đưa ra, trước là Phổ Hiền trình bày về duyên chủ động khởi lên, tiếp là phân rõ về thụ động khởi lên. Phân rõ về Thể của Tông, phân biệt có hai: a) Dựa theo con người; b) Dựa theo pháp. Con người chỉ là Bổn hữu khác với trước, pháp thì như văn mà thôi. Hỏi: Phạm vi của Tánh Khởi thế nào? Đáp: Điều này có hai nghóa, một là trước-sau đối lập với nhau, hai là rộng-hẹp đối lập với nhau trình bày về phạm vi. Bắt đầu mới phát tâm đến Phật Tánh Khởi, cuối cùng đến Đại Bồ-đề Đại Niết-bàn lưu thông xá-lợi. Đốn ngộ rộng-hẹp và Tam thừa trước-sau, xuất thế đến Thanh văn-Duyên giác, thế gian xuống đến các phần vị như địa ngục…, vẫn khởi lên Đại giải-Đại hạnh-Đại thấy nghe ở trong tâm, văn nghóa đều phân rõ ở sau, đến nơi sẽ đưa ra giải thích. Hỏi: Nếu Thanh văn… có tánh khởi lên, thì tại sao văn nói căn không sinh ở hai nơi? Đáp: Nói không sinh là không sinh ra mầm tánh khởi của tâm Bồ-đề, chứ không nói là không có lá quả. Nếu không có thì trong mảy bụi không nên có quyển kinh, dựa theo ví dụ có thể biết. Nếu phân biệt tường tận thì địa ngục không có lá quả mà có Thể, Thanh văn có Thể và lá quả. Giải thích văn. Sở dó Tánh Khởi hỏi-Phổ Hiền nói, là hiển bày về căn khí thiện-pháp thù thắng rộng lớn khắp nơi. Văn này có ba: Một, phần Tựa; hai, từ “Nhó thời Phổ Hiền Bồ-tát đáp…” trở xuống là chính thức tuyên thuyết; ba, từ “Nhó thời thập phương…” trở xuống là kết thúc tuyên thuyết chứng minh thành tựu. Văn phần Tựa có năm: Một là giữa chặng mày phóng ánh sáng phát khởi có hai, có thể biết; hai từ “Nhó thời nhất thiết Đại chúng…” trở xuống là sinh khởi ý niệm nghi ngờ; ba từ “Nhó thời Như Lai Tánh Khởi…” trở xuống là trình bày hướng về Phật muốn thưa thỉnh; bốn từ “Thời Như Lai khẩu trung…” trở xuống là trong miệng phát ra ánh sáng, để nêu rõ người tuyên thuyết cũng cùng chung gia hộ mà thôi; năm từ “Nhó thời Như Lai Tánh Khởi vấn…” trở xuống là phát khởi chính thức thưa hỏi. Trong phần một là phóng ánh sáng, có tám nghiệp: Nghiệp thưa thỉnh. Nghiệp của nhân. Nghiệp cung kính. Nghiện giác ngộ. Nghiệp dừng lại. Nghiệp hàng phục. Nghiệp thị hiện. Nghiệp tán tụ. Có một thân ánh sáng. - Trong phần ba là muốn thưa thỉnh, có ba: Trường hàng thị hiện nghi thức thưa thỉnh. Kệ bày tỏ ý của mình. Kết thúc. Phần kệ có năm: Một, sáu kệ ca ngợi về đức của Phật; hai, từ “Thiện học…” trở xuống là bày tỏ điều mình đã nói; ba, từ “Đại chúng giai tịnh…” trở xuống là ca ngợi về căn thù thắng vi diệu; bốn, ca ngợi về pháp đã nói; năm, từ “Chánh giác…” trở xuống là thành tựu ý đã mong muốn. Trong phần bốn là phát ra ánh sáng, văn có ba: Phân rõ về ánh sáng giống như trước. Trình bày về nơi quay lại. Từ “Nhó thời phổ…” trở xuống là trình bày về tướng lợi ích. Phần thứ hai là chính thức tuyên thuyết, văn có ba: Một là nêu rõ tên gọi để trả lời tổng quát, tức là phần căn bản; hai từ “Nhó thời Như Lai Tánh Khởi vấn…” trở xuống là trở lại thưa thỉnh; ba từ “Nhó thời Phổ Hiền Bồ-tát cáo…” trở xuống tức là phần tuyên thuyết. Trong phần một là căn bản, có ba: Nêu ra sự việc trước đây. Kết thúc tuyên thuyết. Phân rõ về lợi ích. Trong phần hai là thưa thỉnh, có hai: 1) Trường hàng; 2) Kệ tụng. Trong trường hàng có bốn: Một là tổng quát thưa thỉnh, hai là ca ngợi căn khí thuần thục của chúng, ba từ “Nhân giả…” trở xuống là ca ngợi người tuyên thuyết thật có năng lực, bốn từ “Thiện tai…” trở xuống là kết thúc thưa thỉnh. Trong phần hai ca ngợi về căn khí thuần thục, có ba: Nêu ra chúng quy tụ. Ca ngợi về đức. Kết luận. Trong phần ca ngợi về đức: Một là đức về Tự lợi, hai từ “Đại Bi…” trở xuống là đức về Lợi tha. Trong phần ba ca ngợi người tuyên thuyết thật có năng lực, có hai: Tự lợi; 2) Từ “Ư chư Phật pháp…” trở xuống là đức Lợi tha. Phần hai là văn kệ, có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là chính thức kệ tụng. Văn kệ có ba: Một, hai kệ đầu tổng quát ca ngợi về đức của người nói-người nghe để thưa thỉnh; hai, có mười ba kệ rưỡi chính thức thưa thỉnh riêng biệt; ba, từ “Thập phương…” trở xuống là bốn kệ ca ngợi về chúng hội ít có để thưa thỉnh. Trong phần hai là thưa thỉnh riêng biệt, có hai: Đầu là mười kệ rưỡi hỏi về quả, tiếp theo ba kệ hỏi về nhân. Trong quả, đầu là bảy kệ rưỡi nói rõ về sự việc, tiếp theo ba kệ ca ngợi về đức. Trong phần ba là tuyên thuyết, có ba: 1) Tổng quát ca ngợi; 2) Từ “Sở dó…” trở xuống là vặn hỏi; 3) Từ “Phi thiểu nhân duyên…” trở xuống là mở rộng trả lời. Trong trả lời có hai: Một là do nhiều nhân mà thành tựu, tổng quát ca ngợi về không nghó bàn được; hai từ “Dó thập chủng Vô lượng…” trở xuống là phân rõ về tướng. Phần này có hai: Một là trả lời câu hỏi về nhân, hai từ “Phật tử vân hà tri kiến Như Lai thân…” trở xuống là trả lời câu hỏi về quả trên đây. Đây là phần đầu, tức là trả lời câu hỏi về nhân trên đây. Văn này có hai: Một, tổng quát trình bày về mười môn; hai, riêng biệt giải thích. Phần một có bốn có thể biết: Phần hai là riêng biệt giải thích, văn có hai ý: Một là giải thích về mười môn trước đây; hai là trong mười môn trước đây, mỗi một môn đều có hai, đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là phân rõ về Thể của nhân; hai từ “Phật tử Bồ-tát hựu phục ưng tri…” trở xuống là phân rõ về đức dụng của tánh khởi, ở đây hoặc là nhận biết về con người, hoặc là nhận biết về pháp. Trong Môn thứ nhất là phân rõ về Thể có mười loại. Phần một có hai: Đầu là giải thích, sau là kết luận. Giải thích có hai: Đầu là dụ, sau là hợp. Còn lại đều giống như vậy. Một là trình bày dụ về các duyên cùng dấy khởi; hai là dụ về Đại cơ có thể tiếp nhận; ba là dụ về duyên thành tựu lìa tạo tác; bốn là dụ về trí thù thắng khéo thông hiểu; năm là dụ về Đại dụng hiện rõ trước mắt; sáu là dụ về cơ cảm tùy theo hiện rõ; bảy có hai dụ, một gọi là dụ về duyên thù thắng có ích trước, hai là dụ về tùy theo mong muốn mà thành tựu, đây là trừ bỏ nghi ngờ mà thôi; tám là dụ về thành tựu việc lớn của mình; chín là dụ về Thể-Dụng dựa vào nhau; mười là dụ về thành tựu lợi ích không phải là giả dối. Trong mười loại này, hai loại đầu và loại thứ tư là dựa vào duyên phân rõ về duyên, bảy loại còn lại thì dựa theo tự Thể phân rõ về duyên. Thứ hai trong trùng tụng, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi phần sau, tiếp là kệ tụng. Trong kệ phân làm chín: Hai kệ đầu tổng quát ca ngợi về tánh khởi vô thượng. Tám kệ tiếp riêng biệt ca ngợi so sánh về đức của tánh khởi. Mười kệ tiếp nêu ra pháp để so sánh. Hai kệ tiếp kết luận về thành tựu Thể-Dụng tự tại. Hai kệ tiếp chỉ rõ khuyên dạy người nhận biết. Hai kệ tiếp khuyến khích lắng nghe phân rõ về phạm vi tuyên thuyết. Hai kệ tiếp nêu ra sự việc nhận lời tuyên thuyết. Ba mươi lăm kệ tiếp là chính thức tuyên thuyết. Hai kệ tiếp là khuyên dạy khuyến khích. - Trong phần tám là chính thức tuyên thuyết: Năm kệ đầu kết luận tụng về dụ thứ nhất. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ hai. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ ba. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ tư. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ năm. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ sáu. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ hai trong loại thứ bảy. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất trong loại thứ bảy. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ tám. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ chín. Ba kệ tiếp tụng về dụ thư mười mà thôi. Trong Môn thứ hai là phân rõ về Thân. Đây là theo thứ tự trả lời câu hỏi về quả trên đây, có hai: Một là dựa vào phát khởi, hai từ “Thử Bồ-tát tri kiến vô lượng…” trở xuống là trả lời. Trong trả lời, đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có bốn: Một là tổng quát trả lời, hai là vặn hỏi, ba là tóm lược trả lời, bốn từ “Thí như…” trở xuống là mở rộng giải thích. Trong phần ba là tóm lược có hai, có thể biết. Trong phần bốn là mở rộng, có hai: Một, phân rõ về Thể của pháp; hai, từ “Bồ-tát cụ túc thành tựu…” trở xuống là phân rõ về đức dụng. Dụng này hoặc là thuộc về nhận biết con người, hoặc là thâu nhiếp ở pháp. Tướng của mười văn còn lại giống như trước. Một là dụ về thân bí mật thâu nhiếp khắp nơi; hai là dụ về ở duyên lìa xa không trú; ba là dụ về phân rõ sự việc lợi ích chúng sinh; trong bốn có hai dụ, một là dụ về duyên thù thắng có ích trước, hai là dụ về cơ cảm tùy theo hiện rõ; năm là dụ về Dụng ẩn kín giúp đỡ thành tựu, trong hợp có ba, một là chính thức hợp cùng dụ trước, hai là dẫn ra ánh sáng chứng minh thành tựu, ba là phân rõ về lợi ích của ánh sáng; sáu là dụ về tùy theo căn cơ hiện bày sai khác; bảy là dụ về một thân mà cảm được nhiều; tám là dụ về thành tựu sự việc không suy nghó; chín là dụ về vật báu lớn thâu nhiếp đức; mười là dụ về thâu nhiếp đối trị theo nguyện. Thứ hai trong trùng tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là chính thức kệ tụng. Kệ có bốn mươi hai, phân làm mười: Bốn kệ đầu tụng về dụ thứ nhất. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ hai. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ ba. Năm kệ tiếp tụng về dụ thứ tư. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ năm. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ sáu. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ bảy. Năm kệ tiếp tụng về dụ thứ tám. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ chín. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ mười. Hỏi: trên đây đã phân rõ, nhiều nghóa giống với phần thứ nhất là thế nào? Đáp: Dựa vào đức của pháp chủ động để hiển bày tức là thuộc về nhân ban đầu, nay ở đây nêu ra pháp chủ động dẫn đến nơi nương tựa. Trong Môn thứ ba là Âm thanh, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Một là tổng quát, hai là riêng biệt. Trong riêng biệt có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là phân rõ về Thể của pháp, hai từ “Bồ- tát tri kiến âm thanh thập chủng vô lượng…” trở xuống là trình bày về đức dụng, cũng gồm chung cả hai gọi là chủ động và thụ động (năng- sở). Thể của pháp có mười, văn phần đầu có năm: 1) Pháp; 2) Từ “Như hô hưởng…” trở xuống là dụ; 3) Từ “Tri kiến…” trở xuống là hợp; 4) Từ “Thí như thế giới…” trở xuống là trở lại dụ để chỉ rõ; 5) Từ “Như Lai diệu âm diệc nhó…” trở xuống là hợp. Dụ trước bởi vì Vô tánh cho nên thuận với lý, dụ sau bởi vì Vô tánh cho nên có đủ đức. Thứ ba trong Hợp, đầu là ca ngợi về thấy biết thù thắng, sau là đối với pháp thành tựu hiểu biết để hợp với dụ trên mà thôi, đây gọi là dụ về âm thanh không có tánh ban đầu; hai là dụ về âm thanh không có thể chất của mình; ba là dụ về có tác dụng lợi ích chúng sinh; bốn là dụ về tùy theo căn mở mang hiểu biết; năm là dụ về tùy theo cơ cảm được thấy; sáu là dụ về dựa vào duyên mà hiện bày sai khác; bảy là dụ về Dụng không có gì nương tựa, cũng có thể là dụ về Đại dụng giúp đỡ khắp nơi; tám là dụ về xét kỹ căn cơ mà trao cho thuốc; chín là dụ về Đại có đủ đức; mười là dụ về tùy theo lợi ích không phải là hư dối. Thứ hai trong trùng tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là trùng tụng. Tụng có bốn mươi kệ phân làm mười, mỗi bốn kệ tụng về một dụ có thể biết. Trong Môn thứ tư là Tâm Bồ-đề tánh khởi, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Một là pháp, hai là dụ. Hỏi: Tâm-ý-thức không phải là tức Phật thì thế nào? Đáp: Ở đây gồm chung cả hai, bởi vì văn nói trí vô lượng cho nên tâm cũng vô lượng, bình thường thì có thể biết. Trong phần dụ phân hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trong trường hàng phân hai: Một là phân rõ về mười tâm pháp, hai từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là kết luận về lợi ích nhận biết. Dụ thứ nhất này gọi là dụ về trí không có gì nương tựa. Hỏi: Vì sao ở đây phân rõ dựa theo trí? Đáp: Có hai ý, một là bởi vì Thể của một tâm gồm chung nhiễm- tịnh cho nên không dựa theo tâm; hai là bởi vì nay luận về tánh khởi, trí tức là tâm cho nên dựa theo tịnh mà phân rõ. Vì vậy văn nói trí không có nơi nương tựa. Một là dụ về trí không có gì nương tựa; hai là dụ về tánh không có tăng giảm; ba là dụ về phát khởi tác dụng lợi ích chúng sinh; bốn là dụ về trí quý báu thâu nhiếp công đức; năm là dụ về trí có tác dụng loại hết sai trái; sáu là dụ về trí có thể tiếp nhận tất cả (hàm thọ). Hỏi: Xét kỹ văn tướng ấy tựa như nói chỉ riêng Phật là tánh khởi thì thế nào? Đáp: Cần phải nhận biết về ý chính, nhưng Bồ-tát thuận theo người khác mà có được giáo pháp, tức là quả Phật ấy và Bồ-tát có năng lực trao truyền giáo pháp cho người, vốn có hạnh đức tức là thuộc về mầm của quả ấy, điều này nên suy nghó chuẩn xác! Bảy là dụ về kiên cố thuận theo lợi ích. Hỏi: Lúc cây nảy mầm thì các cây nảy mầm, nghóa đã so sánh là thế nào? Đáp: Điều này không khác nhau. Vì sao? Bởi vì chỉ ở trong một tâm vốn có mới sinh là khác mà thôi. Hỏi: Nếu như vậy thì cùng với chúng sinh trước đây không rõ ràng mà có tánh khởi, nghóa khác biệt trái ngược nhau? Đáp: Đây là môn khác nhau. Vì sao biết? Bởi vì trong nghóa trước thì Thanh văn phàm phu không nhận biết bổn tánh cũng là tánh khởi, nay ở đây không nhận biết thì không phải là tánh khởi, có thể biết hẳn là môn khác nhau. Đây là dựa theo tánh khởi mà nói về mầm, cho nên khác với trước mà thôi. Lại hỏi: Hai nơi trái ngược nhau, vì sao không trở thành mâu thuẫn? Đáp: Tất cả căn thiện có tà-có chánh, chỉ thuận với Bồ-đề thì không cần phải hỏi, căn thiện trời-người… đều là tánh khởi; không thuận với Bồ-đề thì không phải là tánh khởi. Đây là dựa theo phần thô-tế nơi quả, vì vậy không trái ngược mà thôi. Tám là dụ về tác dụng của trí giúp đỡ khắp nơi; chín là dụ về khéo léo không hết quả báo, cũng có thể là dụ về phương tiện khéo léo để lại phiền não; mười là dụ về tánh nối gồm chung bình đẳng. Văn này có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Văn còn lại có thể biết. Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Tụng có ba mươi bảy kệ, có hai: Một kệ đầu là tổng quát chỉ ra nhận biết về Phật tâm; còn lại kết luận về mười dụ: Ba kệ đầu kết luận về dụ thứ nhất. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ hai. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ ba. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ tư. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ năm. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ sáu. Năm kệ tiếp tụng về dụ thứ bảy. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ tám. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ chín. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ mười. Trong Môn thứ năm là Cảnh giới, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là phân rõ về Thể của cảnh, hai từ “Nhiêu ích chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về tác dụng lợi ích. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong phần đầu là pháp thuyết, có bốn: Một, tổng quát nêu ra Phật cảnh; hai, từ “Phi cảnh giới…” trở xuống là phân rõ về phạm vi của Phật cảnh; ba, từ “Phật tử nhất thiết chúng sinh vô lượng…” trở xuống là phân rõ về cảnh sâu rộng; bốn, từ “Phật tử Bồ-tát tri tâm…” trở xuống là dựa theo pháp xác định về Thể để trình bày nghóa sâu xa. Trong phần tiếp là dụ, có ba: Một là dụ về phạm vi của Phật cảnh; hai là dụ về nhân duyên dấy khởi của cảnh; ba là dụ về cảnh giới sâu rộng. Cảnh giới có hai: Cảnh sở duyên. Phạm vi của cảnh. Phần này gồm chung cả hai. Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là chính thức kệ tụng. Kệ có mười, phân làm bốn: Hai kệ đầu tụng về pháp thuyết trước đây. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất. Một kệ tiếp tụng về dụ thứ hai. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ ba. Trong Môn thứ sáu là Phật hạnh, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có ba: Một là pháp thuyết, hai từ “Thí như pháp giới…” trở xuống là ví dụ so sánh; ba từ “Phật tử Bồ-tát như thị đẳng…” trở xuống là kết luận về Dụng của đức nghiệp. Trong phần hai là dụ có năm, đều có dụ-hợp: Một là dụ về hoàn toàn đoạn tuyệt ba đời; hai là dụ về tánh của nghiệp vô ngại; ba là dụ về dụng tận cùng pháp giới; bốn là dụ về khởi lên nghiệp cứu giúp chúng sinh; năm là dụ về không có công mà thành tựu sự việc. Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có mười, phân làm năm, mỗi hai kệ tụng về một dụ có thể biết. Trong Môn thứ bảy là Bồ-đề, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có ba: Đầu là pháp; tiếp là dụ; sau từ “Phật tử Bồ-tát dó như thị…” trở xuống là kết luận về nghiệp dụng ấy. Đầu là pháp thuyết, có hai: Một là phân rõ về Thể, hai từ “Tri xứ đẳng…” trở xuống là phân rõ về Dụng; cũng có thể đầu là Tự lợi, tiếp là Lợi tha. Trong phần tiếp là dụ có hai, đều có dụ-hợp: Một gọi là dụ về hiện rõ cơ để xác định căn khí; hai là dụ về hết sức vắng lặng lìa xa tánh. - Văn hợp dụ thứ nhất, có bốn: Chính thức hợp cùng dụ trên. Từ “Phật tử nhất thiết Phật…” trở xuống là phân rõ về Bồ-đề lìa xa ngôn ngữ. Từ “Phật tử thành Bồ-đề thời…” trở xuống là phân rõ về tướng lìa xa ngôn ngữ. Từ “Phật tử Như Lai thân trung…” trở xuống là giải thích về tác dụng của việc lìa xa ngôn ngữ. Phần ba là phân rõ về tướng, văn có ba: Một là giải thích về tướng, hai từ “Phật tử tùy Như Lai…” trở xuống là tương tự để thành tựu pháp, ba từ “Như Lai cụ túc…” trở xuống là kết luận thành tựu. Phần 4 là tác dụng của sự việc, có ba: Một là phân rõ về tác dụng của sự việc; hai từ “Giai tất nhất tánh…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ mà thôi; ba từ “Như thị…” trở xuống là kết luận. Văn hợp dụ thứ hai, có hai: 1) Phân rõ về pháp; 2) Từ “Phục thứ Phật tử ư nhất mao đạo…” trở xuống là phân rõ về dựa vào pháp trở thành hiểu biết. Văn phần một có hai: Một là phân rõ về Thể của pháp, hai từ “Phật tử Như Lai thành Chánh giác dó…” trở xuống là thành tựu tác dụng của thân nghiệp. Văn này có hai, đầu là phân rõ-tiếp là kết luận. Văn phần một về Thể của pháp có hai, đầu là phân rõ-tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một, chính thức hợp cùng dụ trên. Hai, từ “Phật tử thiết hữu…” trở xuống có hai: Một là hỏi đáp giả thiết tương tự thành tựu; hai là thành tựu về hiểu biết, văn có hai: Đầu là kiến lập Thể nối thông với vạn tượng, tiếp từ “Phục thứ Phật tử…” trở xuống là hiểu biết về Tự-tha không có sai lầm. 3) Kết luận có thể biết. Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có mười hai, phân làm sáu: 1) Hai kệ đầu tụng kết luận về pháp thuyết; 2) Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất; 3) Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ hai; 4) Hai kệ tiếp tụng về văn giả thiết tương tự; 5) Hai kệ tiếp tụng về thành tựu công dụng của thân; 6) Hai kệ tiếp tổng quát ca ngợi về đức dụng. Trong Môn thứ tám là Chuyển pháp luân, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là giải thích, hai là kết luận. Trong giải thích có ba: Đầu là tổng quát phân rõ về Thể, hai từ “Thí như…” trở xuống là ví dụ so sánh mở rộng phân rõ, ba từ “Phật tử nhược như thị…” trở xuống là kết luận xác định về lợi-hại. Trong phần đầu là tổng quát phân rõ, có sáu: Một, phân rõ về Thể; hai, phân rõ về phạm vi; ba, trình bày về pháp đã lìa xa; bốn, ví dụ so sánh; năm, giải thích về thành tựu; sáu, tương tự để giải thích. Trong phần hai là mở rộng phân rõ, có hai: Một là dựa theo Thể để phân rõ; hai từ “Phục thứ Phật tử…” trở xuống là dựa theo Dụng để phân rõ thành tựu. Phần một là dựa theo Thể có hai ví dụ, đều có dụ- hợp: 1-Dụ về âm thanh to lớn vô tận; 2-Dụ về tiếng vang to lớn khắp mọi nơi. Văn thứ hai là hợp, có ba: 1-Thiết lập; 2-Vặn hỏi; 3-Trả lời, có thể biết. Phần hai là dựa theo Dụng để phân rõ thành tựu, có năm có thể biết. Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có mười, phân làm năm: Một kệ đầu tụng về văn tổng quát phân rõ; Một kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất; Hai kệ rưỡi tiếp tụng về dụ thứ hai; Ba kệ rưỡi tiếp tụng về văn dựa theo Dụng để phân rõ thành tựu; Hai kệ tiếp là tổng quát ca ngợi. Trong Môn thứ chín là Niết-bàn, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là phân rõ về Thể của pháp, hai từ “Phục thứ Bồ-tát như thị tri Niết-bàn…” trở xuống là kết luận nhận biết về nghiệp dụng. Văn phần một có hai: Đầu là pháp tổng quát phân rõ, hai là dụ mở rộng giải thích. Văn về pháp có bốn: Tổng quát dựa theo pháp khuyến khích nhận biết. Đưa ra Thể của Niết-bàn có ba có thể biết. Từ “Phật tử Như Lai…” trở xuống là trình bày không nói về Thể của Niết-bàn vốn có mà chỉ phân rõ về tánh khởi, văn có năm có thể biết. Từ “Phật tử đản Như Lai…” trở xuống là trình bày nói về Niết- bàn trên sự tướng, văn có ba có thể biết. Trong phần hai là mở rộng phân rõ, có hai: Một là dựa theo Dụ để phân rõ; hai từ “Như Lai thị hiện Niết-bàn thời…” trở xuống là hiển bày về tác dụng sự việc duyên theo phạm vi của tướng, văn có hai là giải thích và kết luận có thể biết. Phần trước là dựa theo Dụ có ba, đều có ba văn dụ-hợp và kết luận: Dụ về hiện bày hạn chế mà Thể thông suốt. Dụ về chuyển hóa đến cùng tận của diệt. Dụ về khởi lên tác dụng tùy theo cơ cảm. Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có mười hai, phân làm năm: Hai kệ đầu tụng về dụ thứ nhất. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ hai. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ ba. Bốn kệ tiếp tụng về văn tùy duyên của Dụng. Hai kệ tiếp là tổng quát ca ngợi mà thôi. Trong Môn thứ mười là thấy-nghe được lợi ích, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là phân rõ về lợi ích lưu thông điều thấy- nghe ở hiện tại và vị lai, hai từ “Nhó thời chư Bồ-tát…” trở xuống là hỏi về tên gọi của kinh, phân rõ về nghi thức lợi ích duy trì văn nghóa của kinh. Văn phần một có hai: Đầu là giải thích, hai từ “Phật tử thị vi…” trở xuống là kết luận. Văn về giải thích có ba: Một, tổng quát về pháp thuyết; hai, ví dụ so sánh mở rộng giải thích; ba, từ “Ư Như Lai…” trở xuống là phân rõ về công hạnh thấy-nghe rộng lớn khó nói. Phần này có ba: 1) Thiết lập; Vặn hỏi; 3) Trả lời. Trong phần một là pháp thuyết, có bốn: Một là tổng quát phân rõ về thành tựu lợi ích không hư dối, có hai câu có thể biết; hai là phân rõ về hạnh thù thắng trong Hữu; ba là thành tựu trí phương tiện trong Không; bốn là trình bày tận cùng quả vị ấy đầy đủ đức thù thắng. Trong phần hai là ví dụ so sánh mở rộng, văn có hai: Một là phân rõ về lợi ích của Thể hiện tại; hai từ “Nhược hữu đắc kinh…” trở xuống là Dụng trú trì ở vị lai, phần này có hai có thể biết. Phần một là lợi ích của hiện tại, văn có ba dụ, hai dụ đầu là ví như hành đức kiên cố do phước đức đã đạt được, một dụ sau là tác dụng thù thắng của tánh đức. Trong hai dụ đầu: Dụ thứ nhất là dụ về hành vô cùng kiên cố vững chắc khó hư hoại, dụ thứ hai gọi là dụ về trí bé nhỏ có thể đốt cháy phiền não to lớn; như vậy đều có dụ-hợp. Dụ thứ ba là dụ về tánh khởi khéo léo giúp đỡ thành tựu. Văn phần hai là hỏi về danh nghóa của kinh và nghi thức…, có hai: Một là hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có năm: Một, nêu ra tên gọi của kinh và tác dụng về nghóa của kinh; hai, từ “Như thị kinh điển…” trở xuống là trình bày về phạm vi của việc làm; ba, từ “Thị cố Bồ-tát…” trở xuống là đưa ra lợi ích khuyến khích giữ gìn; bốn, từ “Phật tử Bồ tát tuy vô lượng ức…” trở xuống là hiển bày về sự thù thắng quan trọng của kinh, văn này có hai, một là phân rõ về tổn hại, hai là trình bày về lợi ích có thể biết; năm, từ “Phật tử Bồ tát văn thử kinh dó…” trở xuống là trình bày về chỉ dạy phương pháp nghi thức tu tập làm lợi ích. Trong phần hai là phạm vi của việc làm: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có tám, phân làm bốn: Hai kệ đầu tụng về tổng quát. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ hai. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ ba. Phần thứ ba từ “Nhó thời thập phương…” trở xuống là kết thúc tuyên thuyết chứng minh thành tựu, có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Cũng có thể phần kệ này là phần trùng tụng thứ hai trong phần mở rộng giải thích mà thôi. Văn trường hàng có năm: Một, mặt đất chấn động và mưa hoa có hai, đầu là phân rõ, tiếp là kết luận lưu thông; hai, Phật hiện thân, cũng có hai có thể biết; ba, thành tựu lợi ích thực hành, cũng có hai có thể biết; bốn, trình bày về nguyên cớ có được hiệu quả; năm, Bồ-tát vân tập làm chứng, cũng có hai có thể biết. Tiếp là kệ tụng, có hai: Một là trường hàng trình bày về ý tuyên thuyết, hai là chính thức kệ tụng. Văn tụng có bảy kệ, phân làm ba: Hai kệ đầu là tổng quát phân rõ về pháp sâu xa khó dùng ví dụ để hiển bày. Ba kệ tiếp là ca ngợi về lợi ích nghe pháp. Hai kệ tiếp là nêu ra lợi ích khuyến khích giữ gìn, có ba có thể biết. ------------------------- <詞>Phẩm 33: LY THẾ GIAN Giải-hạnh pháp tướng động tónh vô ngại thành tựu ở Hội này. Bốn môn giống như trước. Giải thích về tên gọi: Ly là nghóa thanh tịnh về Thể của hành, Thế gian là pháp thụ động lìa xa. Thế là thời gian, Gian là ở giữa, chỉ ở trong thời gian thì gọi là Thế gian. Ý đưa ra, có hai: Một là phân rõ lý do của Hội về phát triển giáo pháp, từ đây về sau là phần thứ ba dựa vào duyên tu hành thành tựu đức. Vì sao đưa ra? Bởi vì trước đã đạt được pháp, tiếp theo cần phải y theo pháp, dựa vào duyên để tu tập thành tựu công đức của hành. Vốn là trong văn của hai phẩm sau đều có lời lẽ khuyến khích, cho nên biết được. Hai là đưa ra Phẩm, Thánh tánh trước đây hiện rõ trước mắt, bởi vì muốn đạt được phạm vi không cùng chung với phàm phu, cho nên theo thứ tự đưa ra. Trình bày về Tông, phân biệt có hai: Một là dựa theo con người, người thì có chính thức và hỗ trợ, hai người đều có Thể-Tướng-Dụng. Hỏi: Người ở đây và người tri thức ở sau có gì khác nhau? Đáp: Người ở đây là người chủ động tuyên thuyết về giáo, người tri thức ở sau là người truyền dạy về giáo đã được giải thích, dựa theo để chọn lấy. Hai là dựa theo pháp, pháp gọi là pháp hành, tức là Đạo phẩm của Nhất thừa; tên gọi và số lượng của Tam thừa-Tiểu thừa tuy cùng là ba mươi bảy, nhưng mà ý khác nhau. Nói rộng ra như các kinh. Hành của Nhất thừa thì Học cũng có bắt đầu, như dựa vào Định học để trình bày về phạm vi bắt đầu. Nếu dựa theo người hồi tâm, thì dùng Định Vị chí và Định Sơ thiền… là bắt đầu Học. Nếu dựa vào người thẳng tiến, thì dùng Định chỉ đạt được ý lời nói là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo giáo Bất cọng của Nhất thừa, thì dựa vào Tam-muội tịch tịnh thù thắng là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Hành giải thì Định Hoa Nghiêm là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Hành vị thì Định ở phần vị Thập Hạnh là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo người tri thức quỹ tắc thì dùng Định Sư tử phấn tấn là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Tín giải… thì dùng Định Tịnh tạng… là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Chánh giải thì dùng pháp môn Tánh khởi là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Giải vị thì Định ở phần vị Thập Giải là bắt đầu Sơ học. Như vậy đều dựa theo hướng về nguồn gốc chân thật để nói. Người đốn ngộ thì ý nghó và lời nói vô phân biệt, Định là đầu tiên. Còn lại có thể dựa theo biết mà thôi. Giải thích văn. Từ đây về sau có hai phần: Một, phẩm này trình bày về phần dựa vào pháp tiến tu; hai, phẩm Nhập Pháp Giới ở sau trình bày về phần dựa vào con người Nhập chứng. Hỏi: Vì sao đối với pháp thì không trình bày về Nhập chứng, sau dựa theo con người mới bắt đầu Nhập chứng? Đáp: Pháp là chỗ dựa, khéo léo nhờ vào trí; nếu không dựa vào con người thù thắng khéo léo thông hiểu căn cơ, thì tuy tự có pháp nhưng không có thể chứng được. Vì vậy trong kinh nói tri thức đầy đủ Phạm hạnh. Hỏi: Pháp trên đây và hạnh thành tựu ở đây hoàn toàn không có Thanh văn, vì sao tri thức trong phẩm Pháp Giới sau này thì gồm chung phân rõ về Thanh văn? Đáp: Pháp trên đây là Đốn, hạnh ở đây cũng là Đốn, vì vậy không có Thanh văn. Trong phẩm Pháp Giới sau này có hai ý: Một là người có phương tiện thù thắng, dẫn dắt Tiểu trở thành Đại, bởi vì trình bày về đức của người cho nên nói đến Tiểu; hai là hiển bày phát tâm đối với pháp giới cho nên bắt đầu nối thông với hai Hồi hướng. Hỏi: Hai phẩm này vì sao phân ra nói ở hai nơi? Đáp: Bởi vì ở Trùng Các tinh xá Kỳ Hoàn là bắt đầu nhiếp hóa, ở Phổ Quang đường là mở đầu khởi hạnh, cho nên trên đây trình bày về Bồ-tát khởi hạnh bắt đầu từ Phổ Quang đường, sau này trình bày về Văn Thù giáo hóa phát khởi tại Trùng Các. Vì sao biết được? Bởi vì trở lại Hội này, bản riêng biệt(biệt bản) nói rằng mới có thể trở lại bắt đầu thưa hỏi về nghóa này, cho nên biết vậy. Văn này có bảy: 1) Phần Tựa; 2) Nhập Định; 3) Khởi Định; 4) Thưa thỉnh; 5) Từ “Nhó thời Phổ Hiền cáo…” trở xuống là chính thức tuyên thuyết; 6) Cuối phẩm là chứng minh thành tựu; 7) Kệ tụng. Văn phần một là Tựa có bốn: Một là thời gian; hai là Phật; ba là nơi chốn; bốn là chúng cùng nghe. Trong phần ba là nơi chốn, có hai: Một, phân rõ về nơi chốn; hai, dựa vào nơi chốn thành tựu về Phật đức. Vì sao ở đây ca ngợi về đức? Bởi vì nhân quả thuần thục thì công đức quy về Hóa chủ, lại bởi vì hành tướng có thể vặn hỏi. Văn về đức, có ba: Một là tổng quát phân rõ, hai là hạnh Tự lợi, ba từ “Năng dữ nhất thiết…” trở xuống là hạnh Lợi tha. Phần bốn là chúng cùng nghe, có hai: Một, tổng quát nêu ra số ca ngợi về đức. Văn phần một này, có bốn: Một, nêu ra đầy đủ. Hai, sơ lược ca ngợi về đức, có hai: Một là luyện tập trước khác với sau, hai là luyện tập mới khác với cũ. Ba, từ “Cụ túc thành tựu…” là riêng biệt ca ngợi về đức. Bốn, từ “Cụ tức như thị…” trở xuống là kết luận. Trong phần ba là riêng biệt ca ngợi về đức, có hai: Một là đức của Tự phần, hai từ “Ư nhất niệm trung…” trở xuống là đức của Tha phần. Trong Tự phần: Một là Tự lợi, hai từ “Thiện nhiếp chúng sinh…” trở xuống là Lợi tha. Trong phần hai là nêu ra tên gọi ca ngợi về đức, có hai: Một là nêu ra tên gọi, ở đây lược bớt nêu ra tên gọi, sở dó văn này Bồ-tát cùng chung tên gọi là Phổ, bởi vì Thể của hành thuận với lý thành tựu cho nên không có tướng khác nhau. Hai là trong ca ngợi về đức, có bốn: Một, tổng quát; hai, từ “Tùy chư thế…” trở xuống là nhiếp pháp làm hạnh đứng đầu; ba, từ “Tất năng thọ trì…” trở xuống là hạnh hộ trì Chánh pháp; bốn, từ “Tùy chư…” trở xuống là hạnh thị hiện thành tựu Đại sự. Trong phần hai là Nhập Định, có ba: Một là nhập Định; hai là nêu ra tên gọi; ba là trình bày về Định lực. Sở dó Định này gọi là Định Hoa Nghiêm, bởi vì biểu thị về quả trang nghiêm của hạnh. Phần ba trình bày về Khởi Định giống như trước có thể biết. Trong phần tư là Thưa thỉnh, sở dó một mình Phổ Tuệ vì pháp thưa hỏi trước, là làm sáng tỏ nay chỉ dùng Tuệ để dẫn dắt hạnh. Lại bởi vì hiển bày về cơ rộng lớn, chỉ có Tuệ phát ra Thể, cho nên Phổ Tuệ tóm lược thưa hỏi hai trăm câu; bởi vì khéo léo thực hành tùy duyên, cho nên Phổ Hiền mở rộng trả lời hai ngàn câu. Trong phần này về sau có mười ý, vốn là hạnh phát triển giáo pháp: Bởi vì cùng hạnh với người thù thắng; Được Phật hộ niệm. Thành tựu các căn thiện không thể nghó bàn. Đầy đủ căn của Bồ-tát. Sinh trong nhà Phật. Đạt được lực của Thiện tri thức. Thần lực của hết thảy chư Phật gia trì. Lực bổn nguyện của Phật Lô-xá-na. Căn thiện thuần thục. Có thể tiếp nhận công hạnh của Bồ-tát Phổ Hiền. Văn này chính là do nghóa Thiện tri thức nối thông với phẩm này mà thôi, điều này có thể suy nghó! Trong phần hỏi có ba: Một, tổng quát nói cho biết; hai, chính thức hỏi; ba, từ “Thiện tai…” trở xuống là tổng quát kết thúc thưa thỉnh. Sở dó Phổ Hiền trả lời là bởi vì biểu thị về hành rộng lớn. - Văn này có sáu, tức là sáu phần vị: Hai mươi câu đầu là phần vị Thập Tín. Từ “Hà đẳng phát Phổ Hiền tâm…” trở xuống là hai mươi câu về phần vị Thập Trú. Từ “Hà đẳng vi trì…” trở xuống là ba mươi câu về phần vị Thập Hạnh. Từ “Hà đẳng Bảo trú…” trở xuống là hai mươi chín câu về phần vị Thập Hồi Hướng. Từ “Hà đẳng thân nghiệp…” trở xuống là năm mươi câu về phần vị Thập Địa. Từ “Hà đẳng quán sát…” trở xuống là năm mươi mốt câu hỏi về quả vị sai biệt. Do đó bản riêng biệt nói rằng: Nguyện xin giải thích về hạnh Bồ- tát từ đầu đến cuối khiến cho không có nghi ngờ! Từ “Nhó thời Phổ Hiền cáo…” trở xuống là phần thứ 5 chính thức tuyên thuyết, mở rộng trả lời về sáu phần vị trên. Thứ nhất trong phần vị Thập Tín, có ba: Một, chín mươi câu đầu là hạnh của Tự phần đầy đủ; hai, từ “Thập chủng nhập…” trở xuống là tám mươi câu về hạnh của phần thù thắng; ba, từ “Thập bất khả hoại trí…” trở xuống là ba mươi câu về hạnh Lợi tha. Trong chín mươi câu: Một là năm mươi câu đầu về hạnh Tự lợi, hai từ “Chánh hy vọng…” trở xuống là hai mươi câu về hạnh Lợi tha, ba từ “Thập giới…” trở xuống hai mươi câu là ngay nơi phần vị của nhân mà thành tựu quả đầy đủ. Thứ nhất dựa vào quả, rộng ra có bốn loại: Quốc độ… dựa vào quả. Tập khí dựa vào quả trước đây sinh ra. Tập nhân tập quả. Thể tướng của nhân dựa vào nhân quả. Trong này không nói đến hai loại trước, cũng có thể nói giống như loại thứ nhất, điều này có thể suy nghó chuẩn xác! Văn này có hai: Tám câu đầu là Tự phần, hai câu sau là thắng tiến có thể biết. Mười câu trong những văn này, mỗi mười câu đều có bốn: Một là đưa ra số, hai là nêu ra tên gọi để giải thích, ba là kết luận, bốn là đưa ra lợi ích khuyến khích tu học, chỉ trừ ra Phật địa và cùng chung pháp hành, bởi vì học thêm nữa không có gì khác với các pháp về quả… Nhân quả đã thiết lập mà năng lực hiểu biết không phải là thù thắng, bởi vì trí không thành tựu cho nên trình bày mười câu về Tưởng lạ lùng. Trong này, tám câu đầu là Tự phần, hai câu sau là Tha phần. Đã có hiểu biết rộng lớn (Đại giải) thì cần phải khởi lên công hạnh to lớn (Đại hạnh), cho nên tiếp theo trình bày mười câu về Hạnh. Tu hành thành tựu nhất định phải dựa vào Thiện hữu, cho nên trình bày mười câu về Tri thức: Một câu đầu là tâm Bồ-đề yên ổn bền vững, ba câu tiếp là dựa vào tâm Đạo thành tựu hạnh Tự lợi, bốn câu tiếp là dựa vào tâm thành tựu hạnh Lợi tha, một câu tiếp là dựa vào tâm thành tựu hạnh Phổ Hiền, một câu tiếp là dựa vào Đại hạnh tiến vào pháp giới. Nếu không chịu khó thúc đẩy thì không biết từ đâu mà tiến đạo, cho nên tiếp theo trình bày mười câu về Tinh tiến, muốn trình bày về Tinh tiến hợp với lý thì phải trình bày mười câu về Hy vọng: Tám câu trước là Tự phần, hai câu sau là thắng tiến. Lìa xa nghiêng lệch thì gọi là Chánh mà thôi. Dựa vào lực của pháp đích thực hiếm có, cho nên phân rõ mười câu về thành tựu chúng sinh: Một câu đầu là Bố thí nhiếp, hai câu tiếp là Ái ngữ, hai câu tiếp là Đồng sự, năm câu tiếp là Lợi hành. Bởi vì lợi ích chúng sinh, cho nên không có ác nào không lìa xa, không có thiện nào không tích lũy, do đó trình bày mười câu về Giới, đã thành tựu đức trước đây, cho nên trình bày mười câu về Thọ ký, cả hai đều có tám mươi, hạnh thuộc phần thù thắng có ba: Hai mươi câu đầu là Tự hành, bốn mươi câu tiếp là đưa vào hạnh Lợi tha, hai mươi câu tiếp đưa vào trong nhân quả Lợi tha. Tự hành đã thành tựu, tiếp theo tiến vào cảnh thù thắng, hạnh thù thắng cho nên tiến vào mười cảnh của Như Lai: Một câu đầu là thị hiện thành tựu Bồ-đề, tám câu tiếp là ba nghiệp lợi ích chúng sinh, một câu tiếp là nhập Niết-bàn. Trong tám hạnh: Bốn câu đầu là khẩu, hai câu tiếp là thân, hai câu tiếp là ý. Dụng đã hòa vào Dụng thù thắng thì cần phải nhận biết về tánh của căn khí, cho nên trình bày mười câu về Nhập chúng sinh tâm hành. Đã nhận biết căn khí, tiếp theo trình bày về nơi yên ổn, cho nên trình bày mười câu về Nhập thế giới. Đã có được nơi nương tựa, thì cần phải biết thời gian dài ngắn, cho nên phân rõ mười câu về Nhập kiếp. Tuy thời gian tự tại, nhưng nói ra không rõ ràng thì lý cũng khó thích hợp, cho nên phân rõ mười câu về Thuyết ba đời. Đã nhận biết thời gian, tiếp theo trình bày về pháp trong thời gian, cho nên tiếp đến phân rõ về ba thế gian. Văn nói về Nhập thế gian: Một là biết về ba pháp trong thời gian hiện tại; hai là phù hợp với lực nói pháp thông suốt nghóa, lại có thi thiết thông suốt tình thức gọi là Đạo; ba là phù hợp với Thể tánh ngữ nghóa; bốn là phù hợp với ngữ nghóa tùy theo nơi chốn mà thi thiết; năm là phù hợp với tưởng hiểu biết về ngữ nghóa; sáu là phù hợp với nhân của ngữ ngôn; bảy là nhận biết phạm vị của ngữ ngôn; tám là phù hợp với nghóa của lời nói chuyển đổi lẫn nhau không hết; chín là nhận biết trong thời gian lìa nhiễm, nghóa của lời nói cũng như vậy; mười là nhận biết trong thời gian tánh tịnh, nghóa của lời nói cũng như vậy. Đã thông hiểu về pháp trong thời gian, cho nên đạt được lợi ích hiểu biết về pháp, thứ tám là mười câu rời xa buồn lo khổ sở, tâm không có gì chán ngán hối hận: Bốn câu đầu là Tự lợi, năm câu tiếp là hạnh Lợi tha, một câu tiếp là Tự-tha cùng thực hành. Trong phần thứ ba là Lợi tha, đầu là thành tựu tâm kiên cố làm việc không có gì hối hận, tiếp theo trình bày mười câu về trí Lợi tha không thể nào hủy hoại: Hai câu đầu là Lợi tha, tám câu tiếp là Tự lợi. Đã có trí cho nên có năng lực giữ gìn pháp, tiếp theo là mười câu về Đà-la-ni: Chín câu trước là giữ gìn pháp thuộc về nhân, một câu tiếp là giữ gìn pháp thuộc về quả. Bởi vì giữ gìn thành tựu cho nên giải thích về pháp thuộc quả, tiếp theo thứ ba là phân rõ mười câu về Phật giáo hóa phủ khắp mọi nơi: Ba câu đầu là Báo Phật, ba câu tiếp là Hóa Phật, bốn câu tiếp là Pháp Phật. Đây chỉ là một tướng giải thích mà thôi. Nếu dựa vào kinh này thì đều thâu nhiếp tất cả. Thứ hai từ “Phổ Hiền tâm…” trở xuống là trả lời phần hỏi về phần vị Thập Giải, có ba: Một, năm mươi câu trình bày về phương tiện của Giải; hai, từ “Thập thanh tịnh…” trở xuống là bảy mươi câu về phần vị Giải chính thức tu hạnh đối trị; ba, từ “Thập thuyết pháp…” trở xuống là tám mươi câu về hạnh Lợi tha. Trong phần một Đại tâm làm căn bản cho nên phát tâm Phổ Hiền: Ba câu đầu là tâm bảo vệ chúng sinh, ba câu tiếp là tâm hướng về quả trí, bốn câu tiếp là tâm chán ngán lìa xa hữu vi. Đã thành tựu Đại tâm, tiếp đến thành tựu Đại hạnh, thứ hai là mười câu về hạnh Phổ Hiền: Chín câu đầu là pháp hành của Tự phần, một câu tiếp là pháp hành thắng tiến. Đại hạnh đã đầy đủ, tiếp đến phân rõ về tâm Bi cứu giúp chúng sinh, thứ ba là mười câu về Đại Bi. Tâm Bi đã đầy đủ, tiếp theo dựa vào Bi trình bày về phát tâm đầy đủ, thứ tư là mười câu về nhân duyên phát tâm Bồ-đề. Đại tâm đã thành tựu rồi, tiếp theo cần phải dựa vào Thiện hữu làm cho tăng lên, thứ năm là gần gũi Thiện tri thức: Tám câu trước là hạnh phát khởi về nhân, hai câu tiếp là hạnh phát khởi về quả. Phần vị Giải thứ hai có bảy mươi câu, phân làm ba: Một, hai mươi câu đầu trình bày về tu phương tiện; hai, từ “Tùy thuận giác…” trở xuống là ba mươi câu trình bày về thành tựu Giải; ba, hai mươi câu còn lại trình bày về pháp môn sai biệt đã nhận biết. Bởi vì gần gũi Thiện hữu cho nên có thể lìa xa các mê hoặc, thứ nhất là mười câu về Thanh tịnh. Đã lìa xa chướng ngại, cho nên lên cao trên bờ bên kia, thứ hai là mười câu về Ba-la-mật. Thể của hành đã thành tựu, ở trong sự nhận biết tùy thuận giác ngộ thông suốt, thứ ba là mười câu về Tùy thuận giác tri. Đã tùy thuận nhận biết rồi, thành tựu nhận biết thiết lập tường tận, thứ tư là mười câu về Quyết định tri. Đã quyết định có nhiều năng lực chịu đựng, thứ năm là mười câu về Lực. Trí lực đã có thể chịu đựng, thứ sáu là phân rõ mười câu về Bình đẳng. Đã đạt được Lý quán thì cần phải khởi lên Trí dụng, thứ bảy là phân rõ mười câu về Pháp cú phương tiện của Phật. Ngay phần thứ ba là Lợi tha có tám mươi câu, lại phân làm ba: Một, bốn mươi câu đầu là chính thức đối với duyên thuyết pháp, hiển bày đầy đủ về đức biện tài; hai, từ “Thập vô trước…” trở xuống là ba mươi câu phân rõ thành tựu về trí không có gì đắm trước; ba, mười câu còn lại phân rõ đầy đủ về đức giáo hóa. Bắt đầu đã hiểu biết rồi, cần phải sinh khởi giảng nói, thứ nhất là phân rõ mười câu về Thuyết pháp. Đã thuyết pháp rồi, tiếp theo cần phải thọ trì, thứ hai là mười câu về Phương pháp thọ trì: Bảy câu trước là giữ gìn nhân hạnh, ba câu sau là giữ gìn quả pháp. Đã thọ trì rồi thì cần phải đọc tụng, thứ ba là mười câu về Tài năng. Do tài năng không có gì ngưng trệ, đức tướng đặc biệt xuất hiện, thứ tư là phân rõ mười câu về Pháp thù thắng: Tám câu trước là tu phương tiện thù thắng, hai câu tiếp là công dụng tự tại thù thắng. Đích thực dùng đức để phát khởi công năng thù thắng, không chấp vào cảnh duyên, thứ năm là phân rõ mười câu về Vô trước. Bởi vì không đắm trước cho nên thành tựu về Chứng bình đẳng, thứ sáu là phân rõ mười câu về Tâm bình đẳng: Tám câu trước là bình đẳng trong hạnh của Tự phần, hai câu tiếp là bình đẳng trong hạnh thắng tiến. Tâm đã đạt được bình đẳng, dựa vào Chứng mà phát khởi Hậu đắc trí, thứ bảy là phân rõ mười câu về Trí sinh ra. Từ Hậu trí khởi Dụng, thứ tám là phân rõ mười câu về Biến hóa. Thứ ba từ “Thập trì…” trở xuống là ba trăm câu trả lời phần hỏi về Thập Hạnh trên đây, có ba: Một, sáu mươi câu là hạnh thù thắng thanh tịnh hết chướng ngại tiến vào cảnh Phật; hai, từ “Thập bất tư nghị…” trở xuống là chín mươi câu phân rõ về thành tựu đạo đối trị hành đức thanh tịnh; ba, từ “Thập viên lâm…” trở xuống là một trăm năm mươi câu ở ngay phần vị tu tập thành tựu đầy đủ. Trong phần một có ba: Mười câu đầu phân rõ về Thể của hạnh, hai mươi câu tiếp là tiến vào cảnh giới Phật, ba mươi câu sau là hạnh thành tựu loại trừ chướng. Thứ nhất là Trì có bốn: Một là nhân duy trì quả, như duy trì chủng tánh; hai là quả duy trì nhân, như Địa trì-Gia trì…; ba là thêm lực trú trì; bốn là tâm-cảnh duy trì lẫn nhau, như luận. Trong này gồm chung. Đã duy trì chủng tánh thành tựu, đối với pháp hy vọng không chán ngán, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Chánh hy vọng. Chính vì pháp mong mỏi mà thành tựu trí, tâm thấu suốt không ngăn ngại, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Thâm nhập Phật pháp: Bốn câu đầu là dựa theo khí thế gian trình bày về Phật pháp, hai câu tiếp là chúng sinh thế gian, ba câu tiếp là trí Chánh giác, một câu còn lại là tổng quát pháp giới làm Phật pháp. Đã tiến vào Phật pháp, duyên không có gì không chân thật, đều là chỗ dựa để khởi hạnh, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Y chỉ. Đã có nơi nương tựa, đối với duyên không có gì lo sợ, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về tâm Vô úy. Chính vì đối với duyên không có gì lo sợ, tự biết mình quyết định đạt được, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về tâm Vô ngại: Ba câu đầu là Tự hành, bốn câu tiếp là Lợi tha, ba câu tiếp là Tự-tha cùng thành tựu. Trong phần hai là chín mươi câu phân rõ về thành tựu đạo đối trị hành đức thanh tịnh, có ba: Ba mươi câu đầu là hành phương tiện đối trị, tiếp từ “Thập chánh thọ Tam-muội…” trở xuống là ba mươi câu về hành và Thể đều vô ngại, tiếp từ “Thần thông…” trở xuống là ba mươi câu về hành thành tựu tác dụng. Chính vì vô ngại ở trong pháp sâu xa mà trí có thể thông hiểu, cho nên phân rõ mười câu về Bất tư nghị; cũng có thể vô ngại tiến vào pháp sâu xa, cho nên không nghó bàn được. Đã đạt được trí sâu xa giải thích khéo léo thuận theo chúng sinh, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Phương tiện khéo léo có thể nói lời bí mật sâu xa. Đã có được lời nói bí mật, lại khéo léo nhận biết nơi tiến vào, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Trí phân biệt phương tiện khéo léo: Hai câu đầu dựa theo khí thế gian trình bày về trí, sáu câu tiếp là chúng sinh thế gian, hai câu tiếp là trí Chánh giác. Đã thường xuyên vắng lặng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Chánh thọ Tam-muội. Bởi vì từ Định khởi lên thông Tuệ, không có gì không thông hiểu, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Nhất thiết xứ. Chính vì không có nơi nào không có mặt, Thể bao trùm vô ngại, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Pháp môn. Khởi Dụng tự tại, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Thần thông. Chính vì thần thông tự tại, không có duyên nào không thông hiểu, cho nên thứ tám phân rõ mười câu về Minh. Bởi vì trí sáng suốt khởi lên thì Vô minh ràng buộc không còn, cho nên thứ chín phân rõ mười câu về Giải thoát. Từ “Viên lâm…” trở xuống là phần ba về hành đức đầy đủ, có một trăm năm mươi câu, có ba: Một, bốn mươi câu trình bày về Báo tướng đầy đủ; hai, từ “Thập bất động tâm…” trở xuống là bốn mươi câu phân rõ về hiểu biết chân thật làm căn bản của Hạnh; ba, từ “Thập vô cấu…” trở xuống là bảy mươi câu về Đại Dụng thành tựu đầy đủ. Thứ nhất là dựa vào tác dụng của hành, trí dạo khắp cảnh giới, cho nên phân rõ mười câu về vườn rừng: Bảy câu trước là phương tiện của hành, ba câu tiếp là đức của quả. Đã dạo khắp bên ngoài rồi, lại cần phải yên ổn bên trong, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Cung điện. Bởi vì thù thắng vi diệu có thể sinh ra lợi ích cho đạo, vì chúng sinh vui mừng, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về niềm vui. Tâm vui mừng thành tựu rồi, đức phát ra Pháp thân, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Trang nghiêm: Tám câu trước là trang nghiêm hành phương tiện, hai câu tiếp là trang nghiêm hành thuần thục. Trong bốn mươi câu ở phần thứ hai, đức trang nghiêm thân rồi, bởi vì hành đức kiên cố, cho nên thứ nhất trình bày về tâm Bất động. Bởi vì Thể của hành kiên cố, tâm ở trong lý thù thắng có thể thông hiểu tận cùng, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Thâm tâm không rời bỏ. Đã sâu xa rất khó hủy hoại, khéo léo có thể đạt được lý, cho nên thứ ba trình bày về Trí tuệ quán sát. Đã thông hiểu không có gì sót, đối với pháp có thể khéo léo chọn lựa sai khác, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Pháp phân biệt. Trong bảy mươi câu ở phần thứ ba, có hai: Một có ba mươi câu trình bày về thanh tịnh lìa chướng, hai có bốn mươi câu về thành tựu đức của hành. Thứ nhất phân rõ mười câu về trí Vô cấu. Trí hành sạch sẽ ổn định, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Trí ấn. Hỏi: Văn nói biết pháp Như Lai là Trí ấn văn tự, thì dựa theo nghóa nào mà nói? Đáp: Bồ-tát và Phật đều biết pháp vô biên, nếu dùng hai Thánh so sánh với nhau thì Bồ-tát không sánh bằng Phật, Phật thì vượt quá Bồ-tát. Vì sao? Bởi vì trên Thể của pháp tánh đầy đủ hai môn, cho nên pháp vốn như vậy. Đây là giải thích dựa theo Nhất thừa. Hành đã không hư hoại, biết rõ Dụng vô ngại, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Trí quang minh. Ánh sáng của trí vô ngại, không có ý chỉ nào không phù hợp, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Trú bất khả xưng lượng. Thể của hành thù thắng khó có, dũng mãnh không gián đoạn, cho nên thứ năm trình bày mười câu về Tâm phát khởi không có lười nhác. Bởi vì thúc đẩy thành tựu Đại tâm quyết định đích thực hướng về, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Tâm ngay thẳng là mười tâm núi chúa Tu-di. Bởi vì ở trong tâm ngay thẳng, quyết định không lay động ở trong thế gian, thành tựu quả Lợi tha, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Trí tuệ tiến sâu vào biển lớn thành tựu Tam Bồ-đề: Tám câu đầu là Tự hành, hai câu sau là Lợi tha. Thứ tư từ “Bảo trú…” trở xuống là hai trăm chín mươi câu trả lời phần hỏi về Thập Hồi Hướng trên đây, có ba: Một, một trăm mười câu trình bày về mười Hồi Hướng lìa chướng thành tựu Thể của hạnh; hai, từ “Thập tự tại…” trở xuống là một trăm hai mươi câu phân rõ về Tướng của hành tự tại vô ngại; ba, từ “Thập du thần thông…” trở xuống là bảy mươi câu phân rõ về Dụng của hành đến cuối cùng. Phần một có hai: Một là bốn mươi câu về hành thành tựu lầu cao ở bờ bên kia; hai từ “Thập Tín…” trở xuống là bảy mươi câu về thành tựu đạo đối trị, lìa chướng thanh tịnh. Thứ nhất là hành thành tựu xứng với lý, Vô trú gọi là Bảo trú. Hành đã hợp với lý, đức vị kiên cố, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về tâm Kim Cang phát khởi. Đại thừa hiển bày rõ ràng, quả vị đầy đủ trọn vẹn, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Đại sự phát khởi: Ba câu đầu là Tự lợi, ba câu tiếp là Lợi tha, bốn câu tiếp là quả Bồ-đề đầy đủ. Chính vì Phật sự đầy đủ, các hành đầy đủ trọn vẹn, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Đại sự đến cuối cùng, nhưng trước là trình bày về phát hạnh, sau là phân rõ về cuối cùng, có khác nhau ở điểm này: Tám câu trước là thành tựu về hành của Tự phần, hai câu tiếp là thuần thục về hành của Tha phần mà thôi. Trong bảy mươi câu của phần hai: Ba mươi câu đầu trình bày về Thể của hành Hồi Hướng, bốn mươi câu tiếp là năng lực sinh ra hành xuất thế gian. Thứ nhất là mười câu về Tín bất hoại: Ba câu đầu là niềm tin bất hoại đối với Tam Bảo, hai câu tiếp là đối với người đồng hành, một câu tiếp là đối với chúng sinh, bốn câu tiếp là đối với pháp thành tựu bất hoại. Bởi vì thành tựu về Tín sinh vào nhà Phật, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Thọ ký. Đạo chủng đã thành tựu thì tất nhiên là hướng đến quả, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Thiện căn: Bốn câu đầu là hồi hướng Bồ-đề, bốn câu tiếp là cùng các Bồ-tát hồi hướng chúng sinh, hai câu tiếp là hồi hướng Bồ-đề. Phần vị Hồi Hướng thành tựu trí dụng tự tại, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Trí tuệ: Bốn câu đầu là tự tại về hành của Tự phần, sáu câu tiếp là tự tại về hành của Tha phần mà thôi. Bởi vì trí dụng soi chiếu rõ ràng rộng khắp pháp giới, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Tâm rộng mở vô lượng: Bảy câu trước là nhân hạnh của Tự phần, ba câu tiếp là nhân hạnh thù thắng. Trí dụng rộng khắp mọi nơi, Thể bao gồm không có gì ngoài, Đức cùng tận biển sâu, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Tạng: Bảy câu trước là hành của Tự phần, ba câu sau là hành của phần thù thắng. Đức đã tích lũy đầy đủ trọn vẹn, tất cả chỉ có ở đây, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Điều thuận: Bốn câu trước là điều hòa trong cảnh của phần thù thắng, sáu câu tiếp là thuận theo trong hành của Tự phần. Phần hai từ “Thập tự tại…” trở xuống là một trăm hai mươi câu phân rõ về Tướng của hành tự tại, trong đó: Một, mười câu đầu tổng quát phân rõ về tự tại; hai, có một trăm mười câu riêng biệt phân rõ về tự tại. Trong phần tổng quát phân rõ: Năm câu đầu là hạnh của Tự phần, năm câu sau là hạnh thắng tiến. Tự tại này ở sáu phần vị cùng có, nhưng dựa theo Tín sinh khởi hơn-kém là khác nhau mà thôi. Trong một trăm mười câu riêng biệt phân rõ: Một là thiết lập riêng biệt mười chương môn, hai là dựa vào chương để giải thích về môn. Trong phần một có năm: Một, hai chương đầu dựa vào Y-Chánh để phân rõ về tự tại; hai, hai chương tiếp dựa theo người-pháp; ba, hai chương tiếp dựa theo cảnh-trí; bốn, hai chương tiếp dựa theo trí-dụng; năm, hai chương tiếp đối chiếu lực-dụng để hiển bày. Trong phần hai là riêng biệt phân rõ giải thích: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Phần đầu: 1) Chúng sinh; 2) Lợi ích; 3) Pháp; 4) Thân; Nguyện; 6) Cảnh giới; 7) Trí; 8) Thông; 9) Thần lực; đây chỉ dựa theo Sắc mà thôi; 10) Lực tự tại. Phần ba từ “Thập du thần thông…” trở xuống là bảy mươi câu: Một, hai mươi câu đầu là hành thù thắng rộng khắp; hai, Vô úy-Bất cọng… là năm mươi câu trình bày về hành đức đến kết quả cuối cùng. Thứ nhất là mười câu về Du hý thần thông trình bày khéo léo chuyển biến vô ngại. Dùng trí dụng đi khắp nơi giáo hóa tức là Thể thù thắng vi diệu, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Hạnh thù thắng. Đức ấy đã thù thắng, trí lực có thừa, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Lực: Bảy câu trước là nhân hạnh, ba câu sau là quả đầy đủ. Công năng của trí lực mạnh mẽ, bên ngoài không có gì sợ hãi, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Vô úy. Trí-Đoạn đầy đủ, không giống như Nhị thừa, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Pháp bất cọng. Bất cọng khác với Tiểu thừa, có thể làm nhân cho Tịnh độ, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Nghiệp. Nhờ vào đức hạnh kiên cố, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Thân. Thứ năm từ “Thập thân nghiệp…” trở xuống là năm trăm câu trả lời phần hỏi về tướng của nhân vị Thập Địa trên đây, có bốn: Một, một trăm hai mươi câu phân rõ chính thức tu tập về Thể của hành, nương vào Địa thứ nhất; hai, từ “Thập phương tiện…” trở xuống là chín mươi câu là phân rõ về thành tựu tu tập lìa xa chướng, Địa thứ hai trở lên; ba, từ “Thập ly sinh…” trở xuống là chín mươi câu phân rõ về tu đức thuần thục, Địa thứ tư trở lên; bốn, từ “Thập túc…” trở xuống là hai trăm câu phân rõ về Báo tướng đầy đủ, Địa thứ tám trở lên. Văn phần một có ba: Một là hai mươi câu đầu phân rõ về thân ng- hiệp, hai là bốn mươi câu tiếp phân rõ về khẩu nghiệp, ba là sáu mươi câu tiếp phân rõ về ý nghiệp. Thứ nhất trong hai mươi câu về thân nghiệp: Mười câu đầu là Thể, mười câu tiếp là Dụng-Tướng riêng biệt. Thứ hai trong bốn mươi câu về khẩu nghiệp: Mười câu thứ nhất phân rõ về Thể; mười câu thứ hai phân rõ về nhân hạnh của khẩu ng- hiệp, bốn câu đầu là Tự lợi, sáu câu sau là Lợi tha, khẩu nghiệp thiện cho nên được các thần gia hộ; mười câu thứ ba là giữ gìn, nhờ giữ gìn cho nên thành tựu đức bên trong, có thể giáo hóa bên ngoài; mười câu thứ tư phân rõ về mười Đại sự. Thứ ba trong sáu mươi câu về ý nghiệp: Mười câu thứ nhất là Thể của ý nghiệp, năm mươi câu sau phân rõ về tác dụng của ý nghiệp. Thứ nhất trong Thể: Ba câu đầu là Lợi tha, bảy câu sau là hành Tự lợi. Đã đạt được Thể rồi, cần phải thuận với lý để thành tựu về tu, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Phát tâm. Phát tâm thực hành thành tựu cuối cùng là pháp giới, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Mãn tâm. Nhờ vào Chánh trí có thể phát sinh các căn Hậu đắc như Tín…, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Căn. Thể của hành đã thiết lập, tâm hiểu biết hợp với lý, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Trực tâm. Lý quán đã mở mang rõ ràng phù hợp tận cùng thật tế, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Thâm tâm: Chín câu trước là Tự lợi, một câu sau là Lợi tha. Văn phần hai trong chín mươi câu: Một là ba mươi câu đầu trình bày về Tự hành, hai từ “Thập nhập chúng sinh…” trở xuống là ba mươi câu về Lợi tha, ba từ “Thập thú…” trở xuống là ba mươi câu phân rõ về thành tựu hạnh Tự-tha. Thứ nhất là nhân hạnh khéo léo tu tập, cho nên trình bày mười câu về Phương tiện. Dùng phương tiện khéo léo mà có thể vui mừng mong cầu các hạnh, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về niềm vui tu tập. Do vui với tu tập cho nên chướng ngại dây dưa này mất đi, đạo vị dần dần hiện rõ, vì vậy thứ ba phân rõ mười câu về Giải thoát. Do giải thoát cho nên biết rất rõ về tánh của chúng sinh, vì vậy thứ tư phân rõ mười câu về Nhập tánh. Do tiến sâu vào tánh, đạo vị dần dần vi tế, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Tập khí. Đạo vị dần dần tăng lên, thành tựu Đại Dụng ấy, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Xí nhiên, tức là hăng hái dũng mãnh tu tập. Bất động thắng tiến không có mức độ nào không đạt đến, đều hợp với sự hướng về của bậc Thánh, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Thú. Đã dựa vào sự hướng về chính xác, đức hạnh nổi bật ở bên ngoài, cho nên thứ tám phân rõ mười câu về Sự đầy đủ Phật pháp. Đã có được Phật pháp thì cần phải hiểu rõ lỗi lầm lui sụt, cho nên thứ chín phân rõ mười câu về Thối thất Phật pháp: Bốn câu đầu là hạnh Lợi tha không thành tựu, sáu câu sau là hạnh Tự lợi không thành tựu. Văn phần ba trong chín mươi câu, có ba: Một là ba mươi câu đầu trình bày về Thể của nhân hành, hai từ “Thập danh hiệu…” trở xuống là hai mươi câu phân rõ về Dụng sai biệt của hành, ba từ “Thập vô lượng đạo…” trở xuống là bốn mươi câu về nhân thành tựu đức. Thứ nhất là mười câu về Ly sinh, bởi vì không còn chướng ngại của phương tiện sinh tử. Bởi vì hành thành tựu kiên cố thuận với Vô sinh, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Pháp quyết định: Năm câu đầu là Tự phần, năm câu sau là hành thuộc phần thù thắng. Bởi vì tự Thể kiên cố, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về sinh ra Phật pháp. Bởi vì hành thành tựu cho nên đức nổi bật ở thời gian, vì vậy thứ tư phân rõ mười câu về Danh Hiệu. Bởi vì hiển bày rõ ràng về đức trọn vẹn, sự bít lấp ấy không còn, tự Thể rỗng rang thông suốt, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Đạo. Đây chính là dựa theo số tăng để trình bày về Thể của Đạo. Tự Thể của Đạo trước đây phân rõ vô lượng cảnh của Đạo, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Đạo vô lượng, tức là trình bày về phạm vi. Chính là vì vô lượng cảnh giới của Đạo đã quán, cho nên pháp của Đạo chủ động quán cũng vô lượng lại không có pháp riêng biệt, cũng có thể là số của Đạo. Đạo và pháp đã thành tựu, tiếp đến trình bày về nhân chủ động thành tựu, tức là thứ bảy. Thứ tám là mười câu về Tu đạo, vốn là một Viên giáo, tức là phân rõ về phương tiện thúc đẩy tu tập. Thứ chín là mười câu về Đạo trang nghiêm, do riêng biệt thúc đẩy tu tập mà hiển bày về đức vốn có. Lại nói đầy đủ đạo vô lượng, là khởi lên nhân duyên của Đạo. Lại thuộc về mình có thể giúp đỡ cho Đạo, cho nên gọi là đầy đủ. Vô lượng Tu đạo là thuộc về pháp, do mình có năng lực có thể tiến lên đạt được, cho nên gọi là Tu đạo. Vô lượng Đạo trang nghiêm, là bởi vì các hành trang nghiêm lẫn nhau. Như vậy đầu đuôi do Chân Như mà lưu thông, duyên khởi cùng nhau thành tựu, cho nên đưa ra một nơi, trình bày theo thứ tự. Như vậy nếu từ thụ động nhìn thấy thì Đạo là Đạo pháp, nếu thuộc về mình thì vốn là Đạo của Đạo hạnh. Từ “Thập túc…” trở xuống là hai trăm câu trong văn phần bốn, có bốn: Một là hai mươi câu đầu phân rõ về căn hành thuần thục ngoài dụng phương tiện từ Địa thứ tám trở lên, hai từ “Thập phúc…” trở xuống là sáu mươi câu phân rõ về Thể sai biệt của báo, ba từ “Thập nhãn…” trở xuống là sáu mươi câu phân rõ về Tướng sai biệt của báo, bốn từ “Thập hành dó…” trở xuống là sáu mươi câu phân rõ về Dụng sai biệt của báo. Địa thứ tám trở lên vốn có thân nghiệp… giống như Phật. Thứ nhất là mười câu về Chân, là căn bản vận dụng của báo, bắt đầu phát động tiến lên. Thành tựu công dụng của phương tiện, trao truyền và tiếp nhận Tự-tha, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Tay. Thứ hai là trong sáu mươi câu về Thể sai biệt của báo: Thứ nhất mười câu về Bụng là toàn bộ có thể dung nạp thâu nhiếp. Lại có thể cất chứa tích lũy, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Tạng. Duyên khởi về công dụng của hành từ căn bản chân thật này mà lập, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Tâm. Bởi vì đức nghiệp thành tựu trang nghiêm lẫn nhau mà phát khởi Pháp thân, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Trang nghiêm. Hành đức tự đề phòng nghiêm ngặt diệt hết các lỗi lầm, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Khí trượng, làm cho các ma phải hàng phục. Các hành quy tụ dấy khởi đức thành tựu thù thắng nhất, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Đầu. Thứ ba từ “Thập nhãn…” trở xuống là sáu mươi câu phân rõ về Tướng sai biệt của báo: Thứ nhất là hành đức thanh tịnh thù thắng soi chiếu rõ ràng duyên khởi, cho nên gọi là mười Mắt, năm câu đầu tức là năm mắt, năm câu sau nhờ tác dụng mà được tên gọi. Đại Luận nói: “Nhục nhãn Vô thường sợ Phong đại cho nên không nhìn thấy phương khác, Nhục nhãn này là Thường cho nên tự tại nhìn thấy Sắc của phương khác. Hai là Thiên nhãn nhìn thấy pháp của hai đời. Ba là Tuệ nhãn nhìn thấy các căn như Tín… Bốn là Pháp nhãn nhìn thấy tướng chân thật của tất cả các pháp. Năm là Phật nhãn nhìn thấy mười phương.” Như vậy các kinh cũng không nhất định, thứ tự năm loại có thể biết. Đã có công dụng soi chiếu, lại có thể thâu nhiếp các Thanh giáo, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Tai. Mười đức vốn đầy đủ, hành tiếp nhận Hương giới, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Mũi. Các đức tụ hội thành tựu, có thể nói rõ quy phạm, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Lưỡi. Hành vững chắc tự tại, không có hình dáng nào không hiện bày, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Thân. Sắc tướng bên ngoài đã làm sáng tỏ, Tâm sáng suốt phát khởi bên trong, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Ý: Chín câu trước là nhân hạnh, một câu sau là quả hành. Thứ tư là trong sáu mươi câu về Dụng sai biệt của báo: Dựa theo Pháp thân thành lập công năng thù thắng của đức dụng đầy đủ oai nghi, cho nên trình bày về thực hành bốn oai nghi. Thành tựu phương tiện tu tập cần phải tiến phát chứ không dừng lại, cho nên thứ nhất phân rõ mười câu về Hành pháp. Phương tiện tiến tu thì có thành lập Tự phần, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Trú hành. Đã thành lập vững chắc bất động, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Tòa: Bốn câu đầu là đức của Tự hành, sáu câu sau là đức của Lợi tha. Tiến lên thực hành bình đẳng, các tướng vónh viễn vắng lặng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Ngọa. Các hành đã đầy đủ nhất định phải có cảnh tương ưng, cho nên Thứ năm phân rõ mười câu về Trú. Trước đây là pháp chủ động Trú, ở đây trình bày về pháp thụ động Trú, có pháp làm chỗ dựa thì tất cả đều là hành, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Hành pháp. Hành trước là bắt đầu tu, cho nên dựa theo nghe…, ở đây dựa theo cuối cùng thành tựu, cho nên Niệm… là hành, còn gọi là hành. Thứ sáu từ “Quán sát…” trở xuống là năm trăm mười câu trả lời về nghóa hành đức trọn vẹn đầy đủ, nhân tròn quả đầy của phần hỏi thứ sáu trước đây, có hai: Một, ba trăm hai mươi câu đầu là phân rõ về nhân hạnh đến cuối cùng thanh tịnh không còn chướng; hai, từ “Phật trú Đâu-suất Thiên…” trở xuống có một trăm chín mươi câu phân rõ về quả đức đến cuối cùng. Trong này, Đẳng giác và Diệu giác hợp lại để trình bày. Văn phần một có ba: Một là một trăm bốn mươi câu đầu trình bày về nhân hạnh thành tựu; hai từ “Thập nghóa…” trở xuống là tám mươi câu phân rõ về phương tiện tu tập thuận với nghóa thắng tiến; ba từ “Thập ma…” trở xuống là một trăm câu phân rõ về nhân hạnh thành tựu thanh tịnh không còn chướng. Một trăm bốn mươi câu đầu, có ba: Bốn mươi câu phân rõ về hành phương tiện. Sáu mươi câu là Thể của hành Tự lợi về Lục độ. Từ “Thập Từ…” trở xuống là bốn mươi câu phân rõ về Thể của hành Lợi tha thuộc Tứ đẳng. Thứ nhất là mười câu về Quán sát, tất cả phân rõ về hành tướng cần phải khéo léo hiểu rõ thông suốt và tắc nghẽn: Bốn câu đầu là hạnh thuộc Tự phần, sáu câu sau là pháp hành thuộc Tha phần. Luôn luôn không hết, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Quán sát rộng khắp. Quán sát đã chu tất thì không có hành nào không kiến lập, uy lực vốn có mạnh mẽ, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Phấn tấn. Mạnh mẽ không sợ hãi, có thể quyết định thuyết giảng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Sư tử hống. Đã có thể tuyên thuyết, nếu tự mình không có đức thì không biết từ đâu làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên tiếp đến phân rõ mười câu về Thí… trở xuống là Thể của của hành Tự lợi về Lục độ, theo thứ tự như Nhiếp Luận: 1) Thí; 2) Giới; 3) Nhẫn; 4) Tinh tiến có ba, bốn câu đầu là thường xuyên mạnh mẽ, câu thứ năm là gia hạnh, năm câu sau là không thua khó hoại không đủ để tinh tiến; 5) Định; 6) Tuệ. Tiếp từ “Thập Từ…” trở xuống là bốn mươi câu về Thể của hành Lợi tha. Thứ nhất là mười câu về Từ, ý trước tiên vốn là mang lại niềm vui: Hai câu đầu là bình đẳng thâu nhiếp tất cả, ba câu tiếp là khiến cho lìa chướng, năm câu sau là làm cho hạnh thành tựu. Tiếp đến thứ hai là mười câu về Bi, thứ ba là mười câu về Hỷ, thứ tư là mười câu về Xả. Phần hai từ “Thập nghóa…” trở xuống là tám mươi câu phân rõ về phương tiện thắng tiến, có hai: Bốn mươi câu đầu là thành tựu hành của Tự phần, bốn mươi câu sau là thành tựu tu tập thắng tiến. Thứ nhất là mười câu dùng Nghóa để thành tựu hạnh, bảy câu trước là Tự phần, ba câu sau là thắng tiến. Nghóa về Như Lai là thuận với Như mà đến. Thứ hai là mười câu về Pháp dùng pháp để thành tựu hạnh. Thứ ba là mười câu về Công đức đầy đủ, phân rõ về nhân duyên của hành, sau trình bày về nhân duyên thành tựu trí tuệ. Thứ tư là mười câu phân rõ về trí tuệ đầy đủ. Bốn mươi câu sau, thứ nhất là mười câu về tâm sáng suốt đầy đủ hiểu biết trải qua các pháp môn. Đã có phương tiện tiến lên, nhất định không có gì chán ngán đối với pháp của Tam thừa…, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Hạnh cầu pháp. Đạt được pháp do mình khéo léo hiểu biết rõ ràng thông suốt, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Minh liễu. Pháp thiện thực hành thành tựu hướng về Vô thượng Đạo, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Pháp hồi hướng. Phần ba là phân rõ về nhân hạnh không còn chướng, văn có hai: Một là năm mươi câu phân rõ về thành tựu hạnh thấy Phật tiến vào cảnh Phật; hai từ “Thập mạn…” trở xuống là năm mươi câu tiến vào cảnh giới Phật được Phật gia hộ. Trong năm mươi câu phần một, có ba: Hai mươi câu đầu là trình bày về chướng Đạo hiện rõ trước mắt, mười câu tiếp là đối trị loại trừ chướng, hai mươi câu sau là chướng hết được thấy Phật. Thứ nhất là mười câu về Ma, bởi vì đối với Đạo có chướng ngại. Thứ hai là mười câu về Nghiệp ma. Trước là Thể, nay ở đây là lực dụng có mười một câu: Bảy câu trước là Tự hành không thành tựu, ba câu tiếp là Lợi tha không tồn tại, một câu sau là quả đức không đầy đủ. Nhưng chướng Đạo xen nhau nổi lên, không trừ bỏ mà tự diệt, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Xả ly ma nghiệp: Bảy câu trước là thành tựu hành của Tự phần, ba câu sau là thiết lập hành thuộc thắng tiến. Thể ngăn ngại đã không còn, hành tiến vào cảnh Phật, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về được thấy Phật. Bắt đầu Tín trước đây chỉ là hiểu biết, nay hành thành tựu cho nên nhìn thấy. Đã đạt được Thể tương ưng mà Đại Dụng không biết phương pháp, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về nghiệp của Phật. Trong năm mươi câu sau là được Phật gia hộ, có ba: Hai mươi câu đầu là thành tựu hành phương tiện đối trị thù thắng về chướng, mười câu tiếp là chướng sau lại khởi lên thâu nhiếp hành vào chướng, hai mươi câu sau là quả đức tăng thêm tiến vào cảnh giới Phật. Thứ nhất là nghiệp Mạn, không nhận ra phần thù thắng về tướng bình thường của Đạo, vốn là ở lúc đầu. Nhận biết chướng không dấy khởi, kính lý trọng pháp, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về nghiệp Trí. Nếu không nhận biết về tướng của Đạo thì thuận theo hữu vi, không tránh khỏi ràng buộc, cho nên thứ ba phân rõ về thâu nhiếp giữ gìn do ma. Bởi vì đích thực thông hiểu về tướng của Đạo tức là Chánh giác mở rộng rõ ràng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Phật thâu nhiếp giữ gìn. Bởi vì phù hợp đúng như thật tức là pháp che phủ đối với mình, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về pháp thâu nhiếp giữ gìn. Tiếp đến trong phần hai từ “Phật trú Đâu-suất Thiên…” trở xuống một trăm chín mươi câu phân rõ về quả đức đầy đủ, có bốn: Một là bốn mươi câu phân rõ về nhân hạnh thắng tiến tương ưng với pháp môn Bát- nhã, hai từ “Thập sinh…” trở xuống là năm mươi câu trình bày về kiến lập tự tại về hạnh thù thắng để tự trang nghiêm, ba từ “Thập xuất gia…” trở xuống là sáu mươi câu thành tựu hạnh đối trị thù thắng thanh tịnh không còn chướng, bốn từ “Thập giác Như Lai lực…” trở xuống là bốn mươi câu trình bày về quả đức đầy đủ Phật sự đến cuối cùng. Thứ nhất là mười câu về sự nghiệp trú ở Đâu-suất, Tự-tha cùng lợi ích, về sau thực hành đầy đủ mà thôi. Tự-tha thực hành đầy đủ rồi, mong muốn tùy duyên nhiếp hóa, nếu không rời bỏ không có sinh tử, thì Đại quả không biết từ đâu mà đạt được, cho nên thứ hai phân rõ lúc sắp mạng chung thị hiện mười sự. Thị hiện rồi tiếp theo mười sự về sau giáng thần vào thai mẹ, trong đó năm câu đầu là Lợi tha, năm câu sau là thâu nhiếp nhân quả tương ưng. Sự việc đã thị hiện khó lường, chỉ thú vô cùng sâu xa, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về chỗ vi tế. Vô sinh làm sinh, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Sinh. Từ đây trở xuống là năm mươi câu phần hai, từ mẹ sinh ra xuất hiện giữa thế gian, trong đó thứ nhất là mười câu về Chủng Sinh, sáu câu trước là Tự phần, bốn câu sau là thắng tiến. Đức tướng làm sáng tỏ bên ngoài, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Trang nghiêm. Các đức tụ hội đầy đủ, Đạo biểu hiện vượt lên trên thế gian, hành ấy rộng khắp không có công đức nào không kiến lập, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về đi vòng quanh bảy bước. Đạo ấy bắt đầu thiết lập thanh tịnh không nhiễm, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về thị hiện Đồng tử. Nếu thân không còn nhiễm thì làm sao có thể hiển bày về sự thanh tịnh cao vời ấy, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về thị hiện trong cung. Ở giữa thế gian không đắm trước, duyên vốn không phải là chướng ngại, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Xuất gia. Từ đây trở xuống là sáu mươi câu phần ba, trình bày về hành tướng đối trị. Dùng tánh lìa tướng trái với duyên không ngăn ngại, luyện tập thân tâm hăng hái không lười bỏ, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Khổ hạnh. Rời bỏ hai bên tùy thuận Trung đạo, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về đi đến Đạo tràng. Tùy thuận Trung đạo thâu nhiếp quả tương ưng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về an tọa Đạo tràng. Thâu nhiếp quả thuộc về mình vượt lên trên cao chỉ có tuyệt vời, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về lạ lùng. Thiện giác Tam-muội… là trong Như Lai lực ở phần sau, dẫn đem vào đây là muốn vượt lên trên các Hoặc để hiển bày về lực trọn vẹn sáng ngời của trí dụng, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Hàng phục ma quân. Hữu vi sinh diệt không đoạn mà tự ngừng, tác dụng chân thật của Đại trí không làm trái mà tự rõ ràng, cho nên đoạn thứ tư phân rõ từ “Thập Như Lai lực…” trở xuống là bốn mươi câu trình bày về điều đó. Đây tức là lập tức đạt được mười Lực trong đạo Giải thoát. Thiện giác Tam-muội này tức là câu chín trong mười câu về lạ lùng. Tướng chân thật bên trong hiển bày sau lúc làm sáng tỏ quy phạm đúng đắn, cho nên thứ hai trình bày mười câu về Chuyển pháp luân. Dùng giáo pháp phủ khắp căn cơ, không có duyên nào không lợi ích, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về pháp thiện đi vào tâm chúng sinh. Cùng nhau giáo hóa đã xong, tránh bóng trở về chân thật, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Niết-bàn, tức là thứ nhất của mười văn mà thôi. Cũng có thể Niết-bàn là Thường, dựa vào duyên ẩn hiện, cho nên trình bày sau, tức là mười câu sau mà thôi. Từ “Phật tử thị vi Đại diệu pháp môn…” trở xuống là phần thứ sáu kết thúc chứng minh nói về thành tựu, có hai: Một là tổng quát, hai là riêng biệt. Trong riêng biệt, có ba: Một, kết thúc khuyến khích tu hành. Hai, từ “Phật tử thử kinh xuất sinh…” trở xuống là phân rõ tên gọi của kinh, ca ngợi đức dụng của kinh, có ba có thể biết. Tên gọi của kinh có bốn nghóa: 1) Hành; 2) Giải; 3) Lìa xa; 4) Lợi tha. Như văn nên biết mà thôi. Ba, từ “Thuyết thử xuất sinh…” trở xuống là trình bày về mưa hoa… chứng minh thành tựu. Văn phần một, có ba: Một là kết luận về pháp ca ngợi về đức; hai từ “Phật tử nhược chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về lợi ích tu hành, có ba có thể biết; ba từ “Phật tử thị cố…” trở xuống là trình bày về khuyến khích tu tập. Phần ba từ “Thuyết thử xuất nhất thiết…” trở xuống là chứng minh thành tựu, có ba: Một là nhắc lại tên kinh; hai là mặt đất chấn động; ba là chư Phật mười phương cùng khen ngợi, có ba có thể biết. Phật cùng chung tên gọi hướng về chỉ ra Phổ Hiền là trình bày về Đại hạnh không hư dối. Trong phần thứ bảy là trùng tụng, có hai: Một là trường hàng sinh khởi phần sau, hai là kệ tụng. Văn tụng có hai trăm ba mươi mốt kệ, có hai: Một, hai kệ đầu là tổng quát đưa ra khuyên nhủ lắng nghe. Hai, phần còn lại là mở rộng phân rõ. Văn mở rộng, có ba: 1) Một trăm bốn mươi chín kệ rưỡi tổng quát tụng về ý hai ngàn câu trả lời của Phổ Hiền; 2) Từ “Thường y Như Lai trí…” trở xuống là bốn mươi ba kệ chính thức tụng về hai ngàn câu trả lời; 3) Từ “Bồ-tát tu chư hạnh…” trở xuống là ba mươi tám kệ rưỡi tụng về văn kết luận ca ngợi. Văn phần một có ba: Một, có mười bốn kệ ca ngợi về đức sâu rộng không phải là lời nói có thể hết được; hai, từ “Trì chúng sinh…” trở xuống là sáu mươi bảy kệ về đức sâu xa của Bồ-tát, mở rộng đưa ra sự việc để so sánh; ba, từ “Nhất thân vô biên tế…” trở xuống là sáu mươi sáu kệ rưỡi chính thức ca ngợi về hành tướng nhân quả và đức dụng tự tại. Trong phần hai là sự việc so sánh, có ba: Một là năm mươi sáu kệ rưỡi đưa ra hơn ba mươi sự việc để ví dụ về nhân hành sai biệt; hai từ “Bồ-tát đẳng Như Lai…” trở xuống là sáu kệ so sánh kết thúc, tổng quát trình bày về hành tướng; ba từ “Bồ-tát tất thành tựu…” trở xuống là bốn kệ rưỡi kết luận về đức khuyến khích lắng nghe. Từ “Nhất thân vô biên tế…” trở xuống là phần ba, sáu mươi kệ rưỡi phân làm hai: Một là ba mươi sáu kệ rưỡi ca ngợi về nhân hạnh thâu nhiếp lợi ích; hai từ “Bồ-tát nhất niệm trung…” trở xuống là ba mươi kệ ca ngợi về quả đức thâu nhiếp lợi ích tự tại. Phần một ca ngợi về nhân hạnh, có hai: Một, mười một kệ rưỡi ca ngợi nhân hạnh của Tự phần tiến vào cảnh giới Phật; hai, từ “Thị hiện chủng chủng…” trở xuống là hai mươi lăm kệ phân rõ về tác dụng lợi ích của nhân hạnh. Ngay trong hai mươi lăm kệ, mười tám kệ đầu trình bày về Tha hạnh tự tại, từ “Như thị chúng sinh…”trở xuống là bảy kệ trình bày về thuận theo cơ trao cho pháp. Từ “Bồ-tát nhất niệm…” trở xuống là ba mươi kệ về quả đức thâu nhiếp lợi ích, văn có ba: Một, mười bốn kệ về quả đức của Tự-tha nhiếp hóa; hai, từ “Quán sắc như tụ mạt…” trở xuống là mười một kệ phân rõ về đạo Bồ-tát khéo léo thông hiểu chân tánh; ba, từ “Quảng nhập…” trở xuống là năm kệ kết luận thành tựu lợi ích của công hạnh. Ý chỉ ấy sâu xa làm sao có thể nói ra hết được, đành cố nói đến một mảy trần để so sánh về nơi sâu xa mà thôi. Tiếp theo nửa kệ từ “Thường y Như Lai…” trở xuống là phần hai có bốn mươi ba kệ, tụng về hai ngàn câu trả lời trên đây, có sáu: Một, bốn kệ tụng về phần vị Thập Tín trên đây; hai, bốn kệ tiếp tụng về phần vị Thập Trú trên đây; ba, sáu kệ tiếp tụng về phần vị Thập Hạnh trên đây; bốn, sáu kệ tiếp tụng về phần vị Thập Hồi Hướng trên đây; năm, từ “Thanh tịnh thân nghiệp…” trở xuống là mười kệ tụng về nhân vị Thập Địa trên đây; sáu, từ “Quán sát…” trở xuống là mười ba kệ tụng về nhân tròn quả đầy Phật sự đến cuối cùng trên đây. Tiếp từ ““Bồ-tát tu chư hạnh…” trở xuống là phần ba có ba mươi tám kệ rưỡi, tụng về văn kết luận trên đây, có hai: Một, ba mươi hai kệ rưỡi kết luận về đức tự tại của nhân quả; hai, sáu kệ còn lại là đưa ra để khuyến khích tu tập. Trong văn phần một: Một là sáu kệ rưỡi tóm lược kết luận ca ngợi về hành dụng tự tại, hai là hai mươi sáu kệ còn lại mở rộng phân rõ về hành dụng tự tại. Trong hai mươi sáu kệ: Một là mười sáu kệ ca ngợi về nhân hạnh tự tại, hai từ “Tịnh thân đẳng hư không…” trở xuống là mười kệ ca ngợi về quả hành tự tại. Trong nhân hạnh: Một là hai kệ ca ngợi về ý nghiệp, hai là bốn kệ rưỡi ca ngợi về khẩu nghiệp, ba là mười kệ ca ngợi về thân nghiệp. Trong quả hành: Một là hai kệ chính thức ca ngợi thành tựu ba nghiệp của quả đức, hai là tám kệ dụ về quả tự tại. Trong phần hai là khuyến khích tu tập: Một là hai kệ tổng quát đưa ra hành đức của nhân quả, hai là hai kệ về ví dụ so sánh khó hết, ba là hai kệ khuyến khích Đại chúng cùng Hội tu tập. <篇> ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 5 (Phần 1) <詞>Phẩm 34: NHẬP PHÁP GIỚI Đây là hội thứ tám, thuyết tại Trùng Các ở tinh xá Kỳ Hoàn. Sở dó ở tinh xá Kỳ Hoàn bởi vì là nơi bắt đầu nhiếp hóa. Sở dó ở Trùng Các là bởi vì biểu thị tâm Bi trở lại sinh trưởng ở trên Chánh trí. Đây chính là phần thứ hai dựa vào người Nhập Chứng. Bốn môn giống như trên. Phân rõ về tên gọi. Hỏi: Bởi vì nghóa gì mà gọi là Nhập Pháp Giới? Đáp: Pháp ấy có ba loại, đó là do ý mà biết pháp, tự tánh và quỹ tắc. Trong này gồm cả ba loại. Giới là tánh chung của tất cả các pháp, cũng là nhân, cũng là phạm vi. Nhập là đạt được pháp môn này. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì trên đây tuy đạt được pháp về Hành-Giải, nhưng nếu không dựa vào tri thức gia trì thì không biết từ đâu mà tiến vào hiểu biết, cho nên đưa ra. Thể của Tông, phân biệt có hai: 1) Dựa theo con người; 2) Dựa theo pháp. Con người thì Chánh hóa và Trợ hóa đều có Thể-Tướng- Dụng, dựa theo suy nghó để thâu nhiếp. Pháp là pháp của con người, cũng có hai: 1) Dựa theo con người; 2) Dựa theo pháp. Dựa theo con người, đó là người ở nhân vị và người ở quả vị, đều trở thành bậc thầy và bạn bè về tri thức, đều có Đồng sinh và Dị sinh, cũng có thân của năm loại Sinh, điều này có thể suy nghó. Dựa theo pháp thì có mười: 1) Nhân; 2) Quả; 3) Hạnh; 4) Lý; 5) Giáo; 6) Nghóa; 7) Sự; 8) Người; 9) Pháp; 10) Giải. Người trước là người hoằng giáo, người sau là người làm chỗ dựa cho pháp, điều này có thể suy nghó. Hỏi: Phạm vi của Nhập Pháp Giới thế nào? Đáp: Có hai nghóa: Một là bắt đầu từ Sơ phát tâm, cuối cùng thì không nhất định. Nếu dựa vào văn kinh thì chỉ đến tâm Kim Cang về sau, nếu nghóa mong cầu thì gồm chung quả đức mà thôi. Dựa vào văn để xác định, bởi vì quả vị không thể nào nói rõ. Lại hướng về cơ thì không gồm chung quả, dựa theo tri thức tự hành thì gồm chung nhân quả, vì dụng gồm chung nhân của quả. Vả lại, quả vị không có tướng mong cầu. Đây là dựa theo Tam thừa mà nói, nếu dựa theo Nhất thừa thì cũng gồm chung quả, nói như phẩm Ly Thế Gian, cho nên dựa theo có thể biết. Hai là rộng hẹp chỉ thuộc về tâm Đại thừa; Tiểu thừa, Bồ- tát, Thanh văn, phàm phu thì không nói đến Nhập Pháp Giới. Hỏi: Phẩm Tánh Khởi thì nối thông, phẩm này thì hạn chế là thế nào? Đáp: Tông chỉ của phẩm Tánh Khởi là muốn trình bày dựa theo pháp để phân rõ về phạm vi cho nên nối thông, phẩm này trình bày dựa theo tâm con người để phân rõ về phạm vi cho nên hạn chế mà thôi. Phẩm Tánh Khởi dựa theo pháp, giả sử không chứng thì không gọi là không dấy khởi, nghóa còn lại đối chiếu với văn để giải thích. Giải thích văn. Văn này có hai: Một là Tựa phát khởi, hai từ “Nhó thời Thế Tôn dục linh chư Bồ-tát…” trở xuống là phân rõ về Chánh tông. Tông của phẩm này trình bày về ý nghóa gì? Trình bày về lực của tri thức. Các Hội trước đây đều trước tiên phóng ánh sáng khiến cho phương khác nhận biết, là hiển bày về thuyết pháp cạn sâu, chúng quy tụ thêm vi tế, lại dùng âm thanh làm Chánh thuyết; Hội này thì không như vậy, nhưng Như Lai phóng ánh sáng hiển bày rõ ràng về ba thế gian, khiến cho Đại chúng tiến vào tức là Chánh thuyết. Lại không có riêng lời nói về các tri thức nối thông về sau mà thôi. Nay dựa theo ý thứ nhất để trình bày. Tri thức có bốn Lực, đó là gần thiện tri thức, lắng nghe Chánh pháp, lắng niệm tư duy, như pháp tu hành. Văn sau có đủ ý này mà thôi. Lại có bốn năng lực, nói như Nhiếp Luận. Một là văn Tựa, có chín: 1) Thời gian thuyết; 2) Hóa chủ; 3) Trú xứ; 4) Chúng cùng nghe; 5) Đại chúng khởi niệm nghi ngờ; 6) Phật nhập Tam-muội; 7) Chúng mới từ mười phương quy tụ; 8) Thuyết kệ ca ngợi; 9) Phổ Hiền trở lại khai phát đức dụng của Tam-muội. Hỏi: Các Hội trước đều quy tụ chúng mới rồi, sau đó mới nhập Định, Hội này sao lại ở trước? Đáp: Các Hội trước thì nhập đến nơi Hóa chủ, thuyết giảng có người khác, lúc người muốn thuyết giảng mới bắt đầu nhập Định; nay Hội này thì không như vậy, Phật tự trao cơ, nếu Phật không nhập Định thì những người đến sẽ không biết từ đâu, cho nên trước tiên nhập Định để hiển bày tướng, sau mới quy tụ chúng mới, tức là người ở nhân vị và người ở quả vị thiết lập quy phạm không giống nhau. Lại bởi vì văn sau hiển bày về pháp theo hai lớp, đến lớp thứ hai mới bắt đầu xuống đến người tiền vào thấy biết. Hỏi: Hội này Phật nào tự nhập? Đáp: Nay là pháp của người thành tựu hạnh, nếu không phải người ở quả vị tự nhập để hiển bày về pháp là chân thật, thì không biết từ đâu dẫn dắt người ở nhân vị kia khiến cho thành tựu Đại quả. Vì sao nhập Định Sư tử phấn tấn? Bởi vì muốn khiến cho Bồ-tát đạt được, lại biểu hiện rõ ràng dũng mãnh trao truyền giáo pháp khiến cho người tu tập điều phục hư vọng hiển bày chân thật. Chúng cùng nghe có ba: Một là Bồ-tát, hai là Thanh văn, ba là các Thiên vương. Hỏi: Vì sao Bồ-tát ở trước tiên? Đáp: Các kinh thuận theo nhau chọn lấy giáo gần (thân giáo), bởi vì gồm chung Tiệm giáo; kinh này dựa theo lý để phân rõ, bởi vì là Đốn giáo. Sở dó chúng này chỉ có Thanh văn, điều này có hai ý: Một là bởi vì hiển bày pháp giới thâu nhiếp tương ưng, hai là bởi vì xoay chuyển Tiểu hạnh tiến vào Đại hạnh. Một, Chúng Bồ-tát có ba: Một là đưa ra số; hai là nêu ra một trăm bốn mươi tên gọi, có mười lăm phần vị đều hiển bày về pháp riêng biệt, có thể suy nghó; ba là ca ngợi về đức. Văn về đức có hai: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt. Riêng biệt có hai: Bảy câu đầu là hành Tự lợi, ba câu sau là hành Lợi tha. Hai, Trong chúng Thanh văn có ba: Một là đưa ra số; hai là nêu ra tên gọi; ba là ca ngợi về đức. Trong khởi niệm nghi ngờ thưa thỉnh: Đầu là thưa thỉnh, tiếp là kết luận. Phần đầu có sáu mươi câu, có ba: Một, ba mươi câu phân rõ về pháp đã thưa thỉnh; hai, có mười câu ca ngợi về chúng có thể nghe; ba, hai mươi câu ca ngợi về Phật có thể nói. Trong pháp có ba: Một là mười câu chính thức phân rõ về pháp của quả đã thưa thỉnh, hai là mười câu phân rõ về người ở nhân vị chưa tận cùng, ba có mười câu suy ra công đức thuộc về Phật. Trong phần một là pháp đã nghi ngờ có ba: Một, phân rõ về người nghi; hai, phân rõ về niệm; ba, trình bày về pháp đã nghó đến. Trong phần ba là ca ngợi về Phật có thể nói: Một là mười câu trình bày về nhân tròn vẹn, hai có mười câu ca ngợi về quả đầy đủ. Trong phần nhập Định có hai: Một là nhập Định, hai từ “Nhập Tam-muội dó…” trở xuống là trình bày rõ ràng về tướng của Tịnh độ, tức là Định lực. Văn phần một có ba: Một, phân rõ về phương tiện; hai, chính thức nhập; ba, từ “Dục linh…” trở xuống là trình bày về việc làm của ý nhập. Ở đây vì sao chỉ dựa vào Đại Bi? Bởi vì trước đây nói gồm chung giải- hạnh, ở đây chỉ giữ lại hạnh khiến cho trừ bỏ nguy hiểm có được niềm vui. Trong phần hai là nhập Định lực hiển bày về Tịnh độ, có năm: Một, trang nghiêm Trùng Các; hai, trang nghiêm vườn rừng; ba, trang nghiêm hư không; bốn, từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu; năm, từ “Như thử Kỳ thọ…” trở xuống là kết luận nối thông mười phương. Văn phần một có hai: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt. Trong riêng biệt có mười loại trang nghiêm có thể biết. Về sau các vườn rừng- hư không đều có mười câu có thể biết. Trong phần năm là kết luận có bốn: Một là kết luận, hai là chư Phật quy tụ, ba là Bồ-tát quy tụ, bốn là trở lại trang nghiêm hư không. Cũng có thể toàn văn phân làm ba: Một, trang nghiêm Trùng Các… tức là khí thế gian; hai, Như Lai quy tụ tức là trí Chánh giác; ba, Bồ-tát quy tụ tức là chúng sinh thế gian mà thôi. Sở dó nhân quả cùng quy tụ, là bởi vì hiển bày nhân quả thật sự thành tựu. Chúng quy tụ, văn có ba: Một, phân rõ về chúng mười phương quy tụ; hai, từ “Thị chư Bồ-tát…” trở xuống là ca ngợi về đức; ba, từ “Nhó thời chư Đại Thanh văn…” trở xuống là phân rõ về tướng Bất cọng. Văn phần một, mười phương đều có tám: Một là xa hơn trần số giới hải, tức là theo lượng; hai là nêu ra tên gọi thế giới; ba là phân rõ về danh hiệu Phật; bốn là nêu ra tên gọi của Bồ-tát thượng thủ; năm là phân rõ về quyến thuộc; sáu là vật dụng cúng dường; bảy là đi đến chỗ Phật; tám là đều hóa hiện lầu gác mà ngồi, còn lại giống như vậy mà thôi. Sở dó Bồ-tát tên gọi Vương Chứng là bởi vì hành dụng pháp giới tự tại. Văn phần hai là ca ngợi về đức, có hai: Một là ca ngợi, hai từ “Giai thị Như Lai…” trở xuống là suy ra công lao. Phần một có ba: Một, tổng quát ca ngợi; hai, từ “Thành tựu…” trở xuống là riêng biệt ca ngợi về đức; ba, từ “Thử chư Bồ-tát…” trở xuống là kết luận ca ngợi quy tụ. Trong riêng biệt có hai: Một là đức của Tự phần, hai từ “Ư đại chúng trung tức Sư tử hống…” trở xuống là đức của Tha phần. Trong phần một có ba: Một, phân rõ về hành Tự lợi; hai, từ “Năng ư nhất thiết Như Lai…” trở xuống là hạnh Lợi tha; ba, từ “Cụ túc thập phương…” trở xuống là phân rõ về cùng thành tựu, đức của Tự phần và Tha phần đều đầy đủ. Văn phần ba phân rõ về Thanh văn Bất cọng tức là hiển bày về pháp giới là sâu xa, trong văn có hai: Một, đích thực không nhìn thấy; hai, từ “Thí như ngạ quỷ…” trở xuống là ví dụ so sánh. Văn phần một có ba: Một là trình bày không nhìn thấy hành đức chân thường của Phật, hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích nguyên cớ trở thành không thấy, ba từ “Thị cố tuy dữ…” trở xuống là kết luận. Văn phần một có ba: Một, nêu ra tên gọi; hai, từ “Như thị đẳng chư Đại…” trở xuống là không thấy quả đức của pháp giới, phần này thì cùng với mười câu đã hỏi về pháp trên đây giống nhau về đại thể, văn có ba có thể biết; ba, từ “Diệc phục bất kiến…” trở xuống là không thấy nhân hạnh viên thông của Đại chúng. Trong phần ba là không thấy cảnh giới của nhân hạnh, có ba: Một là tổng quát đưa ra, hai là chính thức phân rõ, ba từ “Như thị đẳng…” trở xuống là kết luận. Trong phần hai là giải thích nguyên cớ trở thành, có hai: Đầu là vặn hỏi, sau là trả lời. Trong trả lời có hai: Một là tổng quát, hai từ “Bổn bất tu tập năng kiến Như Lai…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về ý không thấy. Trong phần này có hai: Một là trình bày bởi vì không tu Đại hạnh cho nên không thấy, hai từ “Diệc vô Tam-muội thanh tịnh trí nhãn…” trở xuống là chính thức phân rõ về tướng không thấy. Văn phần một có ba: Một, bởi vì không tu cho nên không thấy; hai, từ “Thị chư công đức…” trở xuống là bởi vì Bất cọng cho nên không thấy, có ba có thể biết; ba, từ “Thị cố chư Đại đệ tử…” trở xuống là kết luận. Phần một bởi vì không tu, văn có hai: Một là không tu về quả đức, hai từ “Bất cầu Bồ-tát…” trở xuống là không cầu mong nhân hạnh. Văn phần hai là chính thức phân rõ về không thấy, có hai: Một, trình bày về không thấy; hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là phân rõ về nguyên cớ. Văn phần một có hai: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt. Trong riêng biệt có hai: Một là mất đi không có Đại quả của mình, hai từ “Diệc bất lạc thuyết…” trở xuống là mất đi không có ân đức của người. Còn lại thì có thể biết mà thôi. Trong phần hai là ví dụ so sánh, có mười dụ: 1) Gọi là dụ về Hoặc chướng ngại cho cảnh thù thắng; 2) Dụ về không tận cùng nguồn gốc; 3) Dụ về cầu dưới mất trên; 4) Dụ về không có gì thâu nhiếp được; 5) Dụ về trước ánh sáng mờ mắt; 6) Dụ về tu đạt được quả khác; 7) Dụ về ở chung mà thấy khác; 8) Dụ về không làm cùng một việc làm; 9) Dụ về sâu cạn so sánh với nhau; 10) Dụ về trú vào phần vị chấm dứt mong cầu. Trong phần ca ngợi về đức có mười vị nói kệ: Vị thứ nhất có ba: Một có năm kệ ca ngợi về Thể của quốc độ, hai có bốn kệ ca ngợi về chúng quy tụ, ba có một kệ kết luận ca ngợi. Thứ hai, Tinh Tiến Thế Vương có mười kệ, phân làm năm: Một có hai kệ tổng quát ca ngợi về Y-Chánh, hai có hai kệ ca ngợi về chúng hội thù thắng, ba có hai kệ trình bày về thần lực của người đến, bốn có hai kệ ca ngợi về đức của Phật, năm có hai kệ phân rõ về phạm vi của Giác ngộ. Thứ ba, Phổ Diệu Đức Vương có mười kệ, phân hai: Một có ba kệ về pháp trình bày đức của Phật, hai là bảy kệ về dụ. Thứ tư, Vô Ngại Diệu Đức Tạng Vương có mười kệ, theo thứ tự ca ngợi về Phật có thể biết. Thứ năm, Thiện Hóa Nguyệt Vương có mười kệ, phân ba: Một có bốn kệ nêu rõ về Báo thân khiến cho Bồ-tát cùng tiến vào pháp giới, hai có bốn kệ hiển bày về Tịnh độ khiến cho người tu tập tiến vào thành tựu quán trí, ba có hai kệ phân rõ về lợi ích Chuyển pháp luân của Phật. Thứ sáu, Pháp Nghóa Tuệ Diệm Vương có mười kệ, phân làm bốn: Một có ba kệ tổng quát ca ngợi về người bậc Hạ không đạt tới được, hai có hai kệ ca ngợi về đức rộng lớn, ba có hai kệ hiển bày về đức tướng ấy khó biết, bốn có ba kệ hiển bày về đức là cảnh giới của người thù thắng. Thứ bảy, Nhứt Thiết Chúng Ma Trí Tràng có mười kệ, trong đó có ba: Một có năm kệ ca ngợi về Pháp thân, hai có hai kệ ca ngợi về Ứng thân, ba có ba kệ ca ngợi về Hóa thân. Thứ tám, Tịnh Nguyện Trí Tràng Vương có mười kệ, phân làm hai: Một có chín kệ ca ngợi về tu nhân hạnh, hai có một kệ trình bày về quả thành tựu đầy đủ, tướng còn lại có thể biết. Thứ chín, Trí Tuệ Thế Vương có mười kệ, phân làm bốn: Một có hai kệ tổng quát ca ngợi về lợi ích của hai nghiệp, hai có hai kệ riêng biệt ca ngợi về lợi ích của thân nghiệp, ba có bốn kệ ca ngợi về lợi ích của khẩu nghiệp, bốn có hai kệ ca ngợi về lợi ích của ý nghiệp. Thứ mười, Trí Thông Vương có mười một kệ, phân làm ba: Một có một kệ tổng quát ca ngợi về lợi ích được thấy Phật, hai có bảy kệ ca ngợi về đức Từ Bi của Phật, ba có ba kệ phân rõ về thấy nghe được lợi ích. Trong đức Từ Bi có ba: Một kệ đầu trình bày về ý xuất thế, năm kệ tiếp ca ngợi về tướng Từ Bi, một kệ tiếp phân rõ về nguyên cớ. Trở lại phân rõ về đức dụng của Định, có hai: Đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Văn trường hàng có sáu: Một, trình bày về ý trở lại; hai, phân rõ về đức dụng của Định là phạm vi của pháp phương tiện; ba, sơ lược nêu ra mười một môn phương tiện để so sánh với sự việc, một môn đầu là tổng quát, mười môn còn lại là riêng biệt về sự việc; bốn, từ “Vị chư Bồ-tát…” trở xuống trình bày vì căn khí mà so sánh đưa ra tướng của pháp; năm, từ “Hà đẳng thập…” trở xuống là phân rõ về công dụng của sự việc thành tựu do Tam-muội, là đích thực chiếu rọi rõ ràng; sáu, từ “Phật tử thử Sư tử…” trở xuống là kết thúc về tóm lược hiển bày về mở rộng. Trong đoạn thứ năm này, dựa vào một phương tiện để nói về mười loại pháp, mười một phương tiện thì có một trăm mười pháp. Mười pháp sai biệt thế nào? Đó là: 1) Trình bày về Phật phát triển theo thứ tự; 2) Trình bày về phạm vi của nghóa thường xuyên giảng nói; 3) Phân rõ về thành Phật. Ba loại trên đây thâu nhiếp vào trí Chánh giác. 4) Trình bày về quyến thuộc, tức là chúng sinh thế gian; 5) Trình bày về Hóa thân vô ngại; 6) Phân rõ về trú trì tự tại; 7) Phân rõ về chỗ dựa của công đức; Trình bày về tác dụng thanh tịnh của thần lực; 9) Phân rõ về nguyện Âm thanh; 10) Trình bày đầy đủ về nghóa Chuyển pháp luân trong ba thế gian. Sáu loại sau nói về đức dụng. Lại ở trong ba loại đầu thuận theo chỗ dựa: Ý có một, thân có một, khẩu có một. Lại một là thân, hai là Dụng, ba là địa vị. Ý còn lại dựa vào văn, theo đó có thể biết. Văn thứ hai là kệ tụng, có hai: Một có mười câu phân rõ về ý tụng; hai là chính thức tụng. Trong đó có mười kệ rưỡi, tổng quát tụng về mười pháp môn trên đây. Trong đó có ba: Một có sáu kệ chính thức kết luận về nghóa trước, hai có ba kệ rưỡi trình bày về phạm vi tiến vào của Tín, ba có một kệ kết luận về nguyên cớ thành tựu lợi ích. Trong phần một có sáu kệ: Một kệ đầu là quyến thuộc thanh tịnh, một kệ tiếp là thuyết pháp thanh tịnh, một kệ tiếp là hiển bày hạnh thanh tịnh, một kệ tiếp là chúng vân tập thanh tịnh, một kệ tiếp là hiển bày lý thanh tịnh, một kệ tiếp là soi chiếu rõ ràng thanh tịnh. Trong phần hai có ba: Một kệ đầu là tổng quát, một kệ rưỡi tiếp là giải thích, một kệ tiếp là phân rõ nguyên cớ, có thể biết. Hỏi: Vì sao Phổ Hiền trở lại đối chiếu rõ ràng? Đáp: Người ở quả vị nhập Định hiển bày về pháp là chân thật; nếu người ở nhân vị không chứng được, thì người cùng tu không tiến lên; Phổ Hiền là người ở nhân vị, đối chiếu rõ ràng để dẫn dắt người mới học hướng vào mà thôi. Đây là dựa theo Thể tiến vào. Nếu lúc dựa theo Dụng, thì trở lại đưa ra Dụng để hiển bày về Thể. Trong phần Chánh thuyết thứ hai, có hai: Một là trình bày Như Lai Đại Bi nhiếp hóa làm cho người tu hành tiến vào pháp giới, tức là Thể của Chánh thuyết; hai từ “Nhó thời Văn Thù Sư-lợi đồng tử…” trở xuống là mở rộng dựa theo Thiện hữu, trình bày về phép tắc nghi thức tiến vào. Hỏi: Vì sao gia hộ tiến vào pháp giới, không dựa vào phần vị đạt được? Đáp: Lý thật sự cần phải có hai lực Tự-tha, nay tạm thời dựa vào một tướng, Tự lực dựa vào phần vị, Tha lực là sự gia hộ của Phật. Cũng có thể một là phân rõ dựa vào Tam-muội đạt được đức của Tự lợi, hai từ “Bỉ chư Bồ-tát…” trở xuống là thành tựu đức của Lợi tha, ba từ “Nhó thời Văn Thù đồng tử…” trở xuống là phân rõ về hành tướng Lợi tha. Văn phần một có hai: Một, trình bày về Phật nhập Định, thâu nhiếp người tiến vào pháp giới, có bốn có thể biết. Hai, từ “Nhó thời Kỳ lâm đại chúng…” trở xuống trình bày về các Bồ-tát nhờ ánh sáng tiến vào pháp, văn này có sáu: Nhắc lại người tiến vào. Từ “Tất kiến nhất thiết…” trở xuống là được ánh sáng thâu nhiếp lợi ích. Từ “Như thử gian Như Lai…” trở xuống là kết hội bình đẳng, có hai có thể biết. Từ “Nhi bất hoại tam thế…” trở xuống là phân rõ về công dụng lợi ích của thấy, có sáu câu có thể biết. Từ “Kỳ hữu chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về nguyên cớ đạt được lợi ích, có năm câu. Từ “Đãi đắc Như Lai…” trở xuống là mở rộng trình bày về tướng của lợi ích. Trong phần hai là thâu nhiếp lợi ích, có ba: Một, phân rõ hiển bày về khí thế gian thâu nhiếp lợi ích; hai, từ “Chư Đại Bồ-tát hiện tọa…” trở xuống là trí Chánh giác tự tại thâu nhiếp lợi ích; ba, từ “Hoặc kiến tại Thiên…” trở xuống là chúng sinh thế gian thâu nhiếp lợi ích. Văn này có hai: Một là phân rõ về nơi chốn, hai từ “Hiện chủng chủng…” trở xuống là trình bày rõ ràng về thân tướng, cũng có thể chỉ là mười thân của trí Chánh giác. Nếu dựa vào văn kết luận sau, thì chỉ là quốc độ thế gian và chúng sinh thế gian. Văn phần sáu là mở rộng về tướng của lợi ích, có hai: Một, đạt được hành Tự lợi; hai, từ “Thời bỉ chư Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về đức Lợi tha. Văn phần một có hai: Một là nêu ra đức, hai từ “Nhó thời Văn Thù…” trở xuống là nói kệ ca ngợi. Văn phần một có ba: 1) Nêu ra Thể của thân và tòa ngồi; 2) Từ “Hiển Đại tự tại…” trở xuống là trình bày về đức dụng của chỗ ngồi và thân; 3) Từ “Nhó thời bỉ chư Bồ-tát thâm nhập…” trở xuống là đã có bên trong giúp đỡ bên ngoài hiển bày tướng của lợi ích, tùy theo phần Lợi tha. Văn phần một có hai: a) Nêu ra đức thành tựu thân; b) Từ “Bỉ Sư tử tòa…” trở xuống là trình bày ca ngợi về đức hiện rõ chỗ ngồi. Văn phần a có bốn: a 1) Tổng quát đưa ra Thể đức của Tam-muội; a 2) Thứ tự nêu ra mười môn lấy làm đức dụng, tức là mười môn trên đây, văn này có hai có thể biết; a 3) Từ “Sở vị chủng chủng…” trở xuống là phân rõ về chỗ dựa của đức; a 4) Từ “Đắc thâm nhập Bồ-tát Tam- muội môn…” trở xuống là mở rộng phân rõ về Tam-muội môn trên đây. Cũng chính là pháp đã thành tựu, cũng có thể toàn bộ mười một môn trên đây đều là Công đức môn, phần này có ba: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt, sau là dùng mở rộng để hiển bày tóm lược. Trong phần tiếp là riêng biệt tóm lược trình bày một trăm câu về Tam-muội môn. Trong phần sau là mở rộng, có hai: Trước là kết luận thành tựu mở rộng giải thích, tiếp từ “Nhập Như Lai hải…” trở xuống là kết luận về phạm vi của quán, chứng hành trọn vẹn đầy đủ, văn này có hai có thể biết. Trong này, pháp môn Định Tam-muội đều gồm chung một Bộ làm chỗ dựa phát khởi của pháp, phạm vi của tất cả Giải-Hạnh đều dựa theo đây suy nghó mà thâu nhiếp. Trong phần b là hiện rõ chỗ ngồi, có hai có thể biết. Phần hai trình bày về lợi ích đức dụng của chỗ ngồi và thân, có hai: a) Phân rõ về tướng; b) Từ “Như thị đẳng…” trở xuống là kết luận thành tựu đức tướng ca ngợi không thể nào hết được. Văn phần a có ba: a 1) Mười ba câu là đức của hành Tự lợi; a 2) Từ “An trú trang nghiêm…” trở xuống là năm mươi bảy câu về hành Lợi tha; a 3) Từ “Quyết liễu Như Lai…” trở xuống là hai mươi câu về hành Tự-tha đầy đủ có thể biết. Phần ba là tướng của lợi ích bên ngoài, có ba: a) Thiết lập, b) Giải thích, c) Kết luận. Văn phần hai là Văn Thù nói kệ ca ngợi Kỳ lâm hiển bày về chứng chân thật, cho nên Văn Thù nói là làm sáng tỏ về chứng Tuệ thanh tịnh. Sở dó không thuộc về Lợi tha, bởi vì sau khi nói làm sáng tỏ Lợi tha, phương tiện vốn khởi lên sau khi nói. Trong mười ba kệ rưỡi: Một là mười hai kệ riêng biệt ca ngợi về Phật và Kỳ lâm, tức là quả; hai từ “Phổ Hiền đẳng Phật tử…” trở xuống là tổng quát kết luận về khắp nơi quy tụ trang nghiêm, tức là nhân. Trong phần hai là đức Lợi tha, có ba: Một, phân rõ về quả đức được lợi ích; hai, từ “Bỉ chư Bồ-tát…” trở xuống là Thể của hành Lợi tha; ba, từ “Tùy kỳ sở ứng…” trở xuống là phân rõ đối với duyên nhiếp hóa. Trong phần ba là đối với duyên nhiếp hóa này, có bốn: Một là phân rõ về căn cơ-khí chất, cũng có thể là cơ duyên phỏng theo nhau; hai là trình bày về lợi ích Đồng sinh; ba từ “Hiện bất khả thuyết…” trở xuống là phân rõ về hiện bày pháp môn được lợi ích; bốn từ “Hoặc hiện Thiên cung…” trở xuống là trình bày về hiện tại nhiếp hóa ba thế gian. Trong phần ba là hiện bày pháp môn, có ba: 1) Hiện bày các môn vui mừng-chán ngán như Vô thường…; 2) Từ “Vị nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về hạnh môn mười Độ; 3) Từ “Dó như thị…” trở xuống là kết luận. Trong phần hai là mười Độ: Sáu Độ đầu có thể biết; trong bốn Độ sau vì mỗi một thân là Phương tiện độ, từ “Tất năng cúng dường…” trở xuống là Nguyện độ, từ “Tất năng hiển hiện…” trở xuống là Lực độ, từ “Tri nhất thiết…” trở xuống là Trí độ; sau là kết luận về pháp giới không phải là một. Phần bốn là ba thế gian, có bốn: 1) Hiện rõ khí thế gian; 2) Từ “Hoặc danh hiệu…” trở xuống là hiện rõ trí Chánh giác; 3) Từ “Hoặc hiện Thanh văn…” trở xuống là hiện rõ chúng sinh thế gian; 4) Từ “Hoặc hiện chủng chủng Sắc thân…” trở xuống là đối với ba thế gian khởi lên tác dụng phương tiện. Văn còn lại có thể biết. Từ “Nhó thời Văn Thù Sư-lợi đồng tử…” trở xuống là phần hai dựa vào Thiện hữu ấy phân rõ về phép tắc nghi thức tu tập tiến vào. Đây là hướng đến cơ phân rõ về quy phạm; nếu hướng đến Tự hành của tri thức thì trước đây dựa vào người ở quả vị đạt được pháp, nay đối với căn cơ khí chất khởi lên tác dụng. Nay sơ lược chọn lấy trên dưới của kinh này có năm tướng không giống nhau, giữ năm tướng này để phân tích về văn này. Thế nào là năm tướng? Đó là: 1) Tướng hiển bày phần vị tu hành; 2) Tướng hội tụ duyên tiến vào thật; 3) Tướng thâu nhiếp đức thành tựu nhân; 4) Tướng trí soi chiếu không hai; 5) Tướng hiển bày nhân rộng lớn. Nay ý trong này lấy đức để làm sáng tỏ về người, bởi vì người dẫn dắt người tu hành tiến vào pháp giới. Mở rộng nghiệm xét về các giáo có hai tri thức: Một là người, hai là pháp. Phạm vi có ba: Một, đầu tiên là con người, giáo là giải thích về ngôn từ, xứ là môn phương tiện, con người là mục đích, hỏi đáp… làm sáng tỏ về đức. Hai, nếu như pháp, thì ngôn từ là giải thích về giáo, chung-riêng giống-khác… là quán môn, Trí nhãn đã đạt được là mục đích, thông suốt rõ ràng… là đức. Ba, con người và pháp hợp lại trình bày thì quán và giáo là giải thích, chỗ thấy và con người là phương tiện, đạt được pháp là mục đích của thấy, nói về nhân xưa kia và tôn sùng kính trọng… là đức. Rộng ra như chương riêng biệt. Dựa theo thời gian và phần vị đều khác biệt, con người có năm trong bốn loại ấy, Văn Thù lặp lại điều ấy. Nay nhờ vào pháp tướng hiển bày, cho nên có bấy nhiêu. Nếu dựa theo Chánh-Trợ thì có một trăm mười, nếu dựa theo Thật hạnh thì có ba ngàn Đại thiên vi trần… Sở dó Thật hạnh dựa theo ba ngàn Đại thiên vi trần…, là bởi vì muốn trình bày kèm thêm, cho nên dẫn ra căn cơ khác biệt của Tam thừa. Nếu dựa vào Nhất thừa thì không chỉ có bấy nhiêu mà thôi… Văn này phân ra có năm: Một, bốn mươi mốt người hiển bày về tướng của phần vị tu hành; hai, Ma-da một người là tướng hội tụ duyên tiến vào thật; ba, Di-lặc một người là tướng thâu nhiếp đức thành tựu nhân, bởi vì hành hợp với lý thành tựu Chánh nhân; bốn, trùng hội Văn Thù một người là dựa vào trí soi chiếu không có hai tướng; năm, Phổ Hiền một người là dựa vào tướng hiển bày nhân rộng lớn. Hai người sau nói về nhân thù thắng. Nay dựa theo ý này, nếu tách biệt thì mỗi một phần vị đều khác nhau, nếu gồm chung thì mỗi một công hạnh đều có. Phần vị tức là Tướng, gồm chung tức là Thể. Phần một trong bốn mươi mốt người: Đầu tiên một người dựa vào mười Tín, tiếp theo mười người dựa vào mười Trú, tiếp theo mười người dựa vào mười Hạnh, tiếp theo mười người dựa vào mười Hồi Hướng, tiếp theo mười người dựa vào mười Địa. Sở dó Văn Thù là thứ nhất, bởi vì ánh sáng trí tuệ dẫn dắt. Nay dùng năm môn để phân tích: Một, trình bày về Tăng-tục đều khác nhau: Nếu dựa theo hành tướng thì đều khác biệt chứ không giống nhau. Nếu tổng quát dựa theo tướng thì có mười sáu loại: 1) Bồ-tát; 2) Tỳ-kheo; 3) Tỳ-kheo Ni; 4) Trưởng giả; 5) Ưu-bà-di; 6) Đồng nam; 7) Đồng nữ; 8) Trời; 9) Ngoại đạo; 10) Thầy thuốc; 11) Thuyền trưởng; 12) Bà-la-môn; 13) Vua; 1 4) Tiên nhân; 15) Mẹ; 16) Phụ nữ. Hai, trình bày về đồ chúng tu tập tiến vào: Chỉ riêng lúc đầu Văn Thù vốn có các chúng, tiếp theo về sau chỉ có một người. Ba, phân rõ đến và không đến khác nhau: Đầu tiên Văn Thù đến nơi Thiện Tài, muốn trình bày về sơ cơ không thỉnh mà tự đến, bốn mươi hai vị còn lại trình bày về Thiện Tài đi đến nơi họ, vì căn tánh thù thắng; tiếp đến có Ma-da và Phổ Hiền là hai người, không đi không đến, vì Ma-da là tướng hội tụ, Phổ Hiền là tướng rộng lớn. Bốn, ca ngợi phát tâm chứ không ca ngợi khác biệt: Đầu là Văn Thù, sau là Phổ Hiền. Văn Thù ở đây không ca ngợi phát tâm, ý có thể biết, cũng có thể ở đây cũng không nhất định trong các tri thức có người không ca ngợi. Năm, kết thúc quy về có-không: Bốn mươi bốn vị còn lại không có kết thúc quy về, bởi vì hiển bày giáo hóa chưa đến cùng; Phổ Hiền có kết thúc quy về, bởi vì trình bày phần vị giáo hóa đầy đủ. Sở dó không hiện rõ phần vị Phật giáo hóa, là bởi vì biểu hiện đến quả vị lìa tướng. Đây là dựa theo Tự hành đã thành tựu. Nếu hướng về cảnh duyên vào thì như trước có thể biết mà thôi. Vị tri thức thứ nhất này là Bồ-tát tên gọi Văn Thù tiến vào pháp môn Bồ-đề tâm. Thứ nhất là Văn Thù, văn có ba: Một, trình bày về Văn Thù và quyến thuộc từ giã rút lui đi về phương Nam để mà hóa duyên, sở dó từ giã thuận theo Phật ra đi là bởi vì trình bày về quả Bi che phủ phía dưới. Hai, từ “Nhó thời Tôn giả Xá-lợi-phất…” trở xuống là đối với duyên nhiếp hóa. Ba, từ “Nhó thời Văn Thù tri Thiện Tài…” trở xuống là trình bày về phần vị của mình đầy đủ tiến vào cảnh giới thù thắng. Văn phần một có bốn có thể biết. Văn phần hai là nhiếp hóa, có ba: Một là giáo hóa dẫn dắt Thanh văn, tức là rời bỏ Tiểu tiến vào Đại; hai từ “Nhó thời Văn Thù Bồ-tát kiến lập…” trở xuống là thâu nhiếp các chúng loài rồng; ba từ “Thời Giác thành nhân văn…” trở xuống là thâu nhiếp giáo hóa mọi người. Văn phần một có bốn: 1) Xá-lợi-phất là biểu thị cho trí thuận theo giáo hóa; 2) Từ “Thử lục thiên Tỳ-kheo…” trở xuống là biểu thị cho căn cơ đã thâu nhiếp; 3) Từ “Nhó thời Tôn giả Xá-lợi-phất…” trở xuống là trình bày về nhìn thấy tướng hồi tâm; 4) Từ “Thời chư Tỳ-kheo bạch Tôn giả…” trở xuống là mong cầu đi vào thắng tiến. Văn phần 1 có hai có thể biết. Văn phần hai là căn cơ có năm có thể biết. Văn phần ba là nhìn thấy tướng phát tâm, có ba: a) Nhận biết Đại chúng; b) Chỉ rõ tướng của sự việc ấy; c-Từ “Nhó thời Tôn giả tán thuyết…” trở xuống là trình bày về thuận theo giáo hóa được lợi ích. Văn phần b là chỉ rõ tướng, có hai: b 1) Chỉ rõ lực công đức của mình; b 2) Từ “Hải trí nãi chí nhất thiết Như Lai…” trở xuống là phân rõ về sự gia trì của bậc Thượng nhân. Văn phần bốn là mong cầu đi vào thắng tiến, có năm: a) Thấy thù thắng mong cầu tiến vào, có hai có thể biết; b) Từ “Văn Thù hiện Tượng vương hồi…” trở xuống là duyên khí tương ưng trong thắng tiến, có ba có thể biết; c) Từ “Nhó thời Văn Thù cáo chư Tỳ-kheo…” trở xuống là trình bày về đối với cơ trao cho pháp hành của mười Tín; d) Từ “Bỉ chư Tỳ-kheo…” trở xuống là nghe pháp được lợi ích; e) Từ “Nhó thời Văn Thù khuyến chư Tỳ kheo…” trở xuống là chỉ ra giáo thuộc Giải-Hạnh to lớn, có hai: e 1) Tổng quát khiến cho đạt được hạnh và phần vị của Phổ Hiền; e 2) Từ “Bỉ chư…” trở xuống là riêng biệt phân rõ có thể biết. Văn phần c là trao cho pháp, có ba: c 1) Đưa ra lợi ích khai mở mười số thiết lập tông chỉ; c 2) Từ “Hà đẳng…” trở xuống là riêng biệt giải thích; c 3) Từ “Nhược thiện nam tử…” trở xuống là đưa ra lợi ích khuyến khích tu tập mà thôi. Văn phần d là nghe pháp được lợi ích, có ba: d 1) Tổng quát đạt được môn Tam-muội; d 2) Từ “Tất kiến…” trở xuống là dựa vào Định mà hiện bày sự việc; d 3) Từ “Đắc thử Tam-muội…” trở xuống là mở rộng phân rõ về lợi ích. Trong phần d2 do Định mà hiện bày sự việc, có ba: d2a) Thấy Y- Chánh của Phật; d2b) Thấy Phật Chuyển pháp luân; d2c) Từ “Hựu năng tri bỉ…” trở xuống là thấy biết về sự việc sai biệt của quả đức ba đời. Đây đều là do văn hạn hẹp, không có thể theo thứ tự, có thể biết. Văn phần hai là thâu nhiếp các chúng loài rồng, trong đó có bốn: Kết thúc phần trước sinh khởi phần sau; 2) Trình bày về nơi chốn thù thắng; 3) Thuyết pháp; 4) Đến với cơ nhiếp hóa có thể biết. Văn phần ba là thâu nhiếp Thiện Tài, có ba: 1) Người ở thành Giác nghe đi đến hóa độ; 2) Nêu ra số người, bốn chúng tức là bốn; 3) Từ “Nhó thời Văn Thù tri chúng tập…” trở xuống là trình bày đối với cơ trao cho thuốc. Văn này có hai: a) Tổng quát khiến cho sinh Tín; b) Từ “Quán sát Thiện Tài…” trở xuống là riêng biệt thuộc về cơ thù thắng. Văn này có hai: b 1) Ca ngợi về đức; b 2) Từ “Văn Thù Bồ-tát…” trở xuống là thuyết giảng về Phật pháp thắng tiến, văn có hai có thể biết. Văn phần b1 có hai: Đầu là hỏi; sau là đáp. Văn đáp có hai: Một là ca ngợi hiển bày về đức, hai từ “Thử Thiện Tài giả…” trở xuống là ca ngợi hành đức của quá khứ. Văn phần ba là tiến lên mong cầu cảnh giới thù thắng, có ba: 1) Văn Thù đi về phương Nam dẫn dắt sinh ra mong muốn thù thắng; 2) Từ “Thiện Tài tùy tùng Văn Thù…” trở xuống là trình bày về nguyện mong cầu tiến; 3) Từ “Nhó thời Văn Thù như Tượng vương hồi…” trở xuống là hướng đến mong muốn khen ngợi chỉ dạy khiến cho tiến vào phần vị thù thắng, lúc này hãy còn ở trong mười Tín. Văn phần hai là nguyện mong cầu tiến, có hai: a) Một ít trường hàng nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau; b) Chính thức kệ tụng. Văn tụng có ba mươi bốn kệ, có hai: Một là bốn kệ trình bày về mê lạc từ vô thỉ đến nay, hai có ba mươi kệ thỉnh cầu rủ lòng cứu giúp. Văn phần một có hai: Hai kệ đầu phân rõ về Thể của Hoặc, hai kệ sau trình bày về sai lầm. Trong ba mươi kệ sau tức là ba mươi sự việc, trong đó đều có hai: Ba câu đầu ca ngợi về đức, một câu sau thỉnh cầu dẫn dắt. Trong phần ba là hướng đến mong muốn khen ngợi chỉ dạy, có hai: a) Trường hàng; b) Kệ tụng. Văn trường hàng có hai: Đầu là khen ngợi, tiếp từ “Thị cố…” trở xuống là chỉ dạy. Văn đầu có ba, văn thứ hai có hai có thể biết. Trong phần b là kệ tụng, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi, sau là kệ tụng. Tụng có mười kệ phân làm năm: Hai kệ đầu chính thức khen ngợi Thiện Tài có thể có Đại tâm, tiếp một kệ nêu ra Bồ-tát khác để hiển bày thành tựu, tiếp một kệ trở lại tổng quát khen ngợi Thiện Tài, tiếp năm kệ đưa ra năm nghóa khen ngợi về đức của Thiện Tài, tiếp một kệ đưa ra lợi ích để khen ngợi. Từ đây trở xuống là tiến vào phần vị mười Trú, toàn bộ đưa ra ba môn để phân tích, một phương vốn có mở rộng và hạn chế thuận theo nhân quả. Một, Văn Thù có Đông-có Nam, tiếp đến hai mươi bảy vị như Công Đức Vân… và thứ hai mươi chín là Đại Thiên cho đến Di-lặc là hai mươi chín người đều nói Nam phương; Hồi Hướng thứ tám nói là Đông phương, Hồi Hướng thứ mười và mười Địa không nói Nam phương, tất cả đều có nơi chốn khác nhau. Sau Ma-da, Văn Thù có chỉ rõ-không có phương hướng, Phổ Hiền không có chỉ rõ-không có phương hướng. Sở dó như vậy là bởi vì Nam dùng để biểu thị cho Chánh, Đông là biểu thị cho phát sinh Giác ngộ. Văn Thù về trước là Sơ Tín giác ngộ về lý cho nên có Đông, thắng tiến thuận với Chánh cho nên có Nam; tiếp đến hai mươi tám vị như Công Đức Vân… biểu thị chưa chứng lý, bởi vì từ xa có tương ưng cho nên nói là Nam; tiếp theo mười một vị đạt được lý và hợp với hành tướng cho nên biểu thị tùy duyên hiện bày; tiếp theo một vị là tướng hội tụ tiến vào thật, cho nên không nói đến phương hướng; tất cả đều đối với tướng phương tiện cho nên chỉ ra. Tiếp theo một vị biểu thị kết thúc phần vị của nhân thuận với quả, cho nên chỉ rõ là Nam. Tiếp theo một vị biểu thị về cảnh của trí thù thắng cho nên chỉ ra, lìa chấp thủ cho nên không có phương hướng. Tiếp theo một vị là Đại cho nên không thể nào chỉ ra, cùng khắp cho nên không thể nào hạn chế trong phương hướng. Hai, phân rõ về tướng chỉ dạy hỏi han, trừ bỏ giã từ, đạt được rời bỏ, tu tập hiểu rõ, tiến lên trên cao. Không loại trừ là nghóa về lợi ích nhỏ bé, lại làm sáng tỏ chỉ có mình là thiện, có lỗi lầm như vậy. Thiện Tài không giã từ tức là mất đi vẻ đẹp tiến lên trên cao nghe điều khác lạ. Ban đầu Văn Thù tự đến, bởi vì không có người chỉ dạy hỏi han, cũng không có người giã từ hướng về; trong Phổ Hiền cũng không có người giã từ hướng về, ý có thể biết. Ba, phân rõ về phần lượng sâu cạn, mở rộng và không mở rộng khác nhau. Bốn mươi mốt vị trước đều có kết thúc-có mở rộng, Di-lặc về sau đều không có kết thúc-không có mở rộng, ý có thể biết. Ngay trong mỗi một tri thức, hiển bày về pháp có nhiều môn không nhất định, đối chiếu với văn là biết. Nay ở đây là mười Tri thức đang ở phần vị Thập Trú. Tri thức thứ nhất là Tỳ-kheo Công Đức Vân đang ở phần vị Phát Tâm Trú (Trú thứ nhất), tiến vào Tam-muội Phổ Hiền Quang Minh Quán Sát Chánh Niệm Chư Phật, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy thắng tiến, tức là Văn tuệ; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào, tức là Tư tuệ; ba từ “Thời bỉ Tỳ-kheo…” trở xuống là đạt được pháp ấy cho nên gọi là chứng pháp giới, tức là Tu tuệ. Trong này, nơi chốn và tên người… đều thuận theo nghóa tướng của phần vị lúc ấy mà được tên gọi, đến văn thích hợp tùy theo nghóa làm mất dần đi. Văn phần một có bốn: Một, nơi chốn như Nam phương…; hai, từ “Hữu nhất Tỳ-kheo…” trở xuống là tên người; ba, từ “Nhữ nghệ bỉ vấn…” trở xuống là chỉ dạy đạt được; bốn, từ “Bỉ Tỳ-kheo…” trở xuống là ca ngợi về đức. Đây là bắt đầu giải thoát (xuất ly) cho nên hiện bày hình tướng Tỳ-kheo. Văn phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có sáu: Một, giã từ đi đến; hai, chính thức hướng đến cảnh thù thắng; ba, từ “Ư bỉ sơn trung…” trở xuống là theo lời dạy chọn lựa; bốn, từ “Kiến bỉ…” trở xuống là theo lời dạy thấy lý đạt được cảnh tương tự; năm, từ “Trì nghệ…” trở xuống là dựa vào mong cầu tiến vào phân rõ nghi thức cung kính; sáu, thưa hỏi. Văn phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, văn này trên dưới có bốn loại Chứng: Một, A-hàm dựa theo phần vị mà Chứng; hai, Giải thoát mà Chứng; ba, Chính thức mà Chứng; bốn, quả trên gia hộ cho dưới mà Chứng. Lại có mười loại Chứng Nhập, nói như phẩm Ly Thế Gian, suy nghó có thể hiểu. Trong văn có ba: 1) Tổng quát khen ngợi về người chủ động hỏi; Từ “Ngã ư giải thoát lực…” trở xuống là nói về pháp môn đã đạt được thuộc Tự phần; 3) Từ “Khởi năng liễu…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Văn phần một có hai: a) Tổng quát; b) Từ “Như thị sự…” trở xuống là riêng biệt khen ngợi về người chủ động hỏi. Trong phần riêng biệt có chín câu, câu thứ nhất ở đây tức là câu thứ ba của phần chỉ dạy hỏi han ở trên, câu thứ hai ở đây tức là câu thứ hai ở trên, câu thứ ba ở đây tức là câu thứ năm ở trên, câu thứ tư ở đây tức là câu thứ sáu ở trên, câu thứ năm ở đây tức là câu thứ mười ở trên, câu thứ sáu ở đây tức là câu thứ tư ở trên, câu thứ bảy ở đây tức là câu thứ tám ở trên, câu thứ tám ở đây tức là câu thứ chín ở trên, câu thứ chín ở đây tức là câu thứ bảy ở trên. Chín câu này khen ngợi chung về phần tổng quát trên đây mà thôi. Trong văn phần hai là nói về Tự phần, có ba: a) Phân rõ về Thể của pháp môn; b) Từ “Hoặc kiến Đông phương…” trở xuống là phân rõ về tướng Dụng của pháp môn, có bốn có thể biết; c-Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về phạm vi của Tự phần. Văn phần a có bốn: a 1) Tổng quát phân rõ về Thể; a 2) Từ “Đãi đắc…” trở xuống là trình bày có sự thành tựu; a 3) Từ “Phổ chiếu…” trở xuống là phân rõ về tướng của lợi ích; a 4) Từ “Nhất thiết Phật hóa…” trở xuống là thành tựu phần trước phát khởi phần sau. Văn phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba: a) Tổng quát về giã từ; b) Từ “Chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về tướng thù thắng; c) Từ “Đắc hư không giới…” trở xuống là kết luận. Trong phần riêng biệt là hai mươi câu về Niệm Phật Tam-muội. Hỏi: Tôn sùng ngưỡng mộ có nghóa gì? Đáp: Có hai nghóa, một là trình bày về đức cao xa của phần vị khác, hai là dựa theo nơi khác hiển bày về phạm vi sâu rộng thuộc đức của mình mà thôi. Tri thức thứ hai tức là Bồ-tát Trị Địa Trú (Trú thứ hai), Tỳ-kheo tên gọi Hải Vân, tiến vào pháp môn Phổ Hiền: Một là chỉ dạy khuyến khích tiến vào thù thắng, hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Nhó thời Hải Vân…” trở xuống là chứng pháp giới. Văn phần một có bốn: Một, nêu rõ nơi chốn; hai, tên gọi con người; ba, chỉ dạy hỏi han; bốn, ca ngợi về đức. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, giã từ rút lui; hai, từ “Nam hành…” trở xuống là nghe theo tiến vào; ba, do niệm giữ gìn mà đạt được; bốn, nơi nương tựa là nước Hải Môn; năm, từ “Nghệ…” trở xuống là thấy tướng; sáu, từ “Đầu diện lễ…” trở xuống là tướng cung kính; bảy, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là giảng giải xong mà đạt được; tám, từ “Nhi vị tri…” trở xuống là thưa hỏi. Trong phần hỏi: Bảy câu đầu là hành thuộc Tự phần, năm câu tiếp là hành thuộc Lợi tha. Ba từ “Cáo…” trở xuống là trong phần chính thức chứng pháp giới, có ba: Một, khen ngợi người chủ động thưa hỏi; hai, từ “Ngã trú thử…” trở xuống là nói về hành tướng của Tự phần; ba, từ “Khởi năng…” trở xuống là tôn kính ngưỡng mộ về đức thù thắng. Văn phần một có hai: a) Tổng quát khen ngợi có ba có thể biết; Từ “Đắc Phổ Môn…” trở xuống là riêng biệt khen ngợi về đức của Thiện Tài, có hai: b 1) Tự lợi; b 2) Từ “Đại Bi cứu hộ nhất thiết…” trở xuống là Lợi tha, tướng còn lại có thể biết. Trong phần hai là pháp môn của Tự phần, có bốn: a-Trình bày về nhân duyên đạt được pháp; b-Từ “Thời bỉ Như Lai…” trở xuống là quả đức thâu nhiếp lợi ích; c-Từ “Kỳ hữu thập phương…” trở xuống là trình bày về đức Lợi tha; d-Kết luận về tên gọi của pháp. Văn phần a có năm: a 1) Đích thực suy ngẫm có ba có thể biết, trong câu thứ hai một câu là tổng quát, mười câu là riêng biệt, riêng biệt ở đây tức là quay lại biển sự làm tướng của Thập Địa; a 2) Từ “Tác thị niệm dó tức kiến…” trở xuống là thấy pháp môn duyên khởi; a 3) Từ “Bách vạn A-tu-la…” trở xuống là hạnh bảo vệ bên ngoài (ngoại hộ); a 4) Từ “Bảo Hoa Phật…” trở xuống là nhân hạnh tập khởi; a 5) Từ “Kiến bỉ hoa thượng…” trở xuống là thấy tướng thù thắng ấy. Trong phần bảo vệ bên ngoài có hai mươi câu, con người và vật báu là hai mà thôi. Trong phần thấy tướng thù thắng có hai mươi câu. Trong phần b là quả đức thâu nhiếp: b 1) Chính thức gia hộ thâu nhiếp. b 2) Đạt được lợi ích, có ba: Một là ca ngợi về đức của kinh, hai là thọ trì, ba từ “Giả sử…” trở xuống là so sánh công đức mà thôi. Văn phần ba là tôn kính ngưỡng mộ: a) Tổng quát; b) Vặn hỏi; c) Riêng biệt mở rộng phân rõ có thể biết. Tri thức thứ ba là Bồ-tát Tu Hành Trú (Trú thứ ba), Tỳ-kheo tên gọi Thiện Trú, tiến vào pháp môn Bồ-tát Vô Ngại, khuyến khích chỉ dạy… có ba phần giống như trước. Văn phần một có ba: Một, nêu rõ nơi chốn; hai, nêu rõ tên gọi con người; ba, chỉ dạy hỏi han. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ; hai, nghó đến pháp đã đạt được; ba, tiến vào phương tiện; bốn, theo lời dạy lựa chọn; năm, thấy biết về tướng của nghóa; sáu, từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là nghi thức cung kính; bảy, hỏi và ca ngợi có hai có thể biết. Ba là trong phần chứng nhập, có ba: Một, khen ngợi phát tâm; hai, từ “Ngã dó thành…” trở xuống là nói đã đạt được pháp của Tự phần; ba, từ “Vân hà năng thuyết…” trở xuống là mở rộng thù thắng. Trong phần hai là nói về Tự phần, có bốn: a) Phân rõ về Thể của pháp; b) Từ “Ngã đắc thử thần thông biến…” trở xuống là phân rõ về tác dụng của pháp ấy, có ba có thể biết; c) Từ “Nhược hữu chúng sinh…” trở xuống là trình bày về hạnh nhiếp hóa; d) Từ “Ngã duy tri thử…” trở xuống là kết luận về phạm vi. Phần a là pháp môn, có ba: a 1) Phân rõ về Thể; a 2) Từ “Ngã dó tu tập nãi chí đắc tuệ quang…” trở xuống là phân rõ về đức; a 3) Từ “Hà dó cố…” trở xuống là phân rõ về thành tựu. Trong phần ba là mở rộng thù thắng: Một là hai mươi câu phân rõ về đức; hai từ “Bồ-tát hữu như thị đẳng…” trở xuống là dùng tóm lược để làm rõ về mở rộng. Tri thức thứ tư là Bồ-tát Sinh Quý Trú (Trú thứ tư), Lương y tên gọi Di-già, tiến vào pháp môn Sở Ngôn Bất Hư: Một là chỉ dạy khuyến khích; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Lương y…” trở xuống là chính thức tiến vào Chứng. Văn phần một có ba: Không có sự ca ngợi về đức. Hai là trong phần theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ tiến lên; hai, từ “Nhó thời nhất tâm…” trở xuống là nghó đến pháp môn trước đây khiến cho thành tựu đầy đủ; ba, từ “Tiệm chí…” trở xuống là tiến lên hướng về phần thù thắng; bốn, từ “Nhập Chúc Dược thành…” trở xuống là theo lời dạy lựa chọn; năm, thấy tướng; sáu, nghi thức cung kính; bảy, thưa hỏi, có hai có thể biết. Ba là trong phần chính thức tiến vào, có ba: Một, khen ngợi phát tâm; hai, từ “Nhó thời Lương y xưng dương…” trở xuống là nói về pháp của Tự phần; ba, từ “Vân hà năng thuyết…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ về phần thù thắng. Văn phần một có năm: a) Xét kỹ về phát tâm; b) Trình bày về trả lời; c) Lễ bái cúng dường; d) Từ “Kính trọng…” trở xuống là ca ngợi công đức phát tâm; e) Từ “Đương tri Bồ-tát…” trở xuống là gồm chung ca ngợi về đức giáo hóa của Bồ-tát. Trong phần d là mở rộng ca ngợi về phát tâm, có bốn: d 1) Tổng quát ca ngợi; d 2) Từ “Thiện nam tử nhược hữu…” trở xuống là gồm chung ca ngợi về công năng phát tâm; d 3) Phật và Bồ-tát gia hộ, chư Thiên đều cúng dường; d 4) Từ “Bỉ vi an úy…” trở xuống là phân rõ về ý hộ niệm. Trong phần hai là nói về pháp của Tự phần, có bốn: a) Trình bày về miệng phát ra ánh sáng quy tụ chúng; b) Từ “Thời bỉ Lương y…” trở xuống là mở rộng phân rõ về pháp môn trí tuệ; c) Từ “Sở ưng tác dó…” trở xuống là thâu nhiếp nghi thức quy về nguồn gốc, có ba: c 1) Quy về, c 2) Nói về tên gọi của pháp môn; c 3) Trình bày về đức dụng; d) Trong phần kết luận tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: d 1) Tổng quát; d 2) Từ “Bỉ chư…” trở xuống là riêng biệt. Tri thức thứ năm là Bồ-tát Phương Tiện Cụ Túc Trú (Trú thứ năm), Trưởng giả tên gọi Giải Thoát, tiến vào pháp môn Như Lai Nhất Thiết Vô Ngại Trang Nghiêm, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Thời Giải Thoát Trưởng giả…” trở xuống là phân rõ chính thức Chứng pháp giới. Văn phần một có ba: Một là nêu rõ nơi chốn; hai là nêu rõ tên gọi; ba là khuyến khích chỉ dạy hỏi han. Hai là trong phần tiến vào, có tám: Một, tin đức mà giã từ đi đến; hai, nghó đến pháp môn trước đây; ba, từ “Như thị niệm…” trở xuống là tiến lên hướng về phương tiện; bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là theo lời dạy lựa chọn; năm, thấy tướng; sáu, cung kính; bảy, nghó đến; tám, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là thưa hỏi. Trong phần hỏi, có ba: a-Trình bày về mong muốn của mình; b-Từ “Bạch ngôn ngã văn Đại Thánh…” trở xuống là ca ngợi về đức; c-Từ “Duy nguyện dó…” trở xuống là chính thức thưa thỉnh. Văn phần a có ba: a 1) Mười lăm câu đầu là cầu pháp của quả; a 2) Từ “Dục dữ nhất thiết…” trở xuống là mười bốn câu cầu pháp của nhân; a 3) Từ “Dục mãn…” trở xuống là pháp đã tu hành của Tự phần. Ba là trong phần chính thức Chứng, có hai: Một, nói về pháp đã đạt được của mình; hai, từ “Hà năng…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ. Văn phần một có ba: a) Trình bày về pháp đạt được; b) Từ “Đắc thử pháp môn…” trở xuống là phân rõ về pháp môn đã hiện rõ sự việc; Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận hiểu về phạm vi. Văn phần a có ba: a 1) Phân rõ về nhập Định và nhân duyên; a 2) Từ “Nhập dó dó…” trở xuống là trình bày về công đức của Định; a 3) Từ “Tùng khởi…” trở xuống là phân rõ về tên gọi của pháp môn. Trong phần b là pháp môn đã hiện rõ sự việc, có hai: b 1) Dựa theo Tự-tha đối lập với nhau; b 2) Từ “Tri nhất thiết Phật cập dữ…” trở xuống là tâm-cảnh đối lập với nhau. Văn phần b1 có hai: Đầu là tóm lược, sau là mở rộng, đều có ba có thể biết. Trong phần b2 là tâm-cảnh, có hai: Đầu là dựa theo Chân, tiếp từ “Thiện nam tử đương tri…” trở xuống là dựa theo Tục, cũng đều có hai, trước là thiết lập, sau là khuyến khích có thể biết. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt có thể biết. Tri thức thứ sáu là Bồ-tát Chánh Tâm Trú Vị (Trú thứ sáu), Tỳ- kheo tên gọi Hải Tràng, tiến vào pháp môn Phổ Nhãn Xả Đắc, cũng gọi là Thanh Tịnh Quang Minh Bát-nhã Ba-la-mật Cảnh Giới, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là Tam-muội Chánh thọ. Văn phần một có ba: Một là nêu rõ nơi chốn; hai là nêu rõ tên gọi của người; ba là chỉ dạy hỏi han. Hai là trong phần tiến vào, có năm: Một, nghi thức cung kính nghó đến đức; hai, nghó đến pháp môn trước đây, có hai có thể biết; ba, từ “Tiệm thú…” trở xuống là tiến lên hướng về phần thù thắng; bốn, thấy được phương tiện; năm, từ “Châu biến…” trở xuống là theo lời dạy lựa chọn. Ba là trong phần chính thức Chứng, có hai: Một, trình bày về pháp của Tự phần; hai, từ “Vân hà năng thuyết…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ về phần thù thắng. Văn phần một có năm: a) Nêu ra Thể của pháp môn; b) Từ “Thiện Tài thán vị tằng hữu…” trở xuống là ca ngợi về công đức; c) Từ “Thử Định danh hà đẳng…” trở xuống là hỏi về tên gọi của pháp môn, có hai văn hỏi-đáp, trong đáp có hai văn về danh nghóa nhân quả; d) Từ “Duy hữu thử…” trở xuống là phân rõ về tác dụng của công đức, có hai có thể biết; e) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận. Văn phần a có bốn: a 1) Phân rõ về Thể của pháp môn; a 2) Từ “Tùng kỳ túc dó…” trở xuống là trình bày về hiện thân thâu nhiếp, ánh sáng của thân có mười lăm chỗ thay đổi, các Như Lai ấy Phật trên đảnh mà thôi; a 3) Từ “Thiện Tài nhất tâm…” trở xuống là phân rõ về nhiếp pháp tương ưng; a 4) Xả thuận theo Định phát khởi. Trong phần b là ca ngợi công đức của Tam-muội, có hai: b 1) Mười một câu đầu ca ngợi về đức của Định; b 2) Từ “Đại Thánh nãi chí nhập thử Tam-muội…” trở xuống là ca ngợi tác dụng của Định ấy. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt, sau là kết luận. Hỏi: Bồ-tát đã có đầy đủ công đức đâu cần phải tôn sùng ngưỡng mộ? Đáp: Điều này có hai ý, một là dựa vào phần vị không giống nhau, vì vậy cần phải tôn sùng; hai là dựa vào môn Tam-muội khác biệt, cho nên phát sinh mong muốn thù thắng. Tri thức thứ bảy là Bồ-tát Bất Thối Trú (Trú thứ bảy), Ưu-bà-di tên gọi Hưu Xả, tiến vào pháp môn Ly Ưu An Ẩn Tràng, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào. Văn phần một có ba: Một là nêu rõ trú xứ; hai là nêu rõ tên gọi của người; ba là chỉ dạy hỏi han. Hai là trong phần tiến vào Tín lượng, có tám: Một, đạt được lợi ích giã từ rút lui; hai, nghó đến pháp môn trước đây; ba, từ “Tiệm tiệm…” trở xuống là tiến lên hướng về phần vị thù thắng; bốn, đạt được tướng phương tiện; năm, từ “Kiến Phổ Trang Nghiêm viên…” trở xuống là thấy tướng, phần này có ba, một là thấy tướng thô của Y báo, hai từ “Nhó thời Hưu Xả…” trở xuống là thấy tướng vi tế của Chánh báo, ba từ “Kỳ hữu…” trở xuống là ca ngợi về đức; sáu, từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là xét kỹ về pháp có hai câu; bảy, từ “Vãng nghệ…” trở xuống là phân rõ về tướng cung kính; tám, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là thưa hỏi. Trong vườn có mười hai sự việc, như cây thẳng hàng… Trong phần ba là chính thức Chứng nhập, có hai: Một, trình bày về pháp môn của Tự phần; hai, từ “Chư Đại Bồ-tát kỳ tâm như hải…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ về phần thù thắng. Văn phần một có bốn: a) Phân rõ về tác dụng của pháp môn; b) Từ “Phát tâm vi cửu như…” trở xuống là hỏi về nhân duyên xa gần; c) Từ “Thử pháp danh hà đẳng…” trở xuống là hỏi về tên gọi có được, có hai câu; d) Kết luận. Văn phần a có bốn: a 1) Từ “Ngã duy thành…” là một câu trình bày về phạm vi của Chứng; a 2) Từ “Nhược kiến văn…” trở xuống là trình bày về tác dụng lợi ích của công năng, có ba câu; a 3) Từ “Đông phương…” trở xuống là phân rõ về quả đức của Phật lợi ích khắp mọi chúng sinh, có hai có thể biết; a 4) Từ “Ngã thử Đại chúng…” trở xuống là phân rõ về thành tựu hạnh quyến thuộc, có hai có thể biết. Trong phần b là nhân duyên xa gần, có hai: b 1) Hỏi đáp về nhân duyên đạt được pháp; b 2) Từ “Cửu như đương thành…” trở xuống là hỏi đáp về thành Phật xa gần. Trong phần đáp về xa gần, có ba: Đầu là trình bày về tu tập không dựa vào thời tiết, tiếp từ “Dục hóa nhất thiết…” trở xuống là tu tập hợp với pháp giới, sau là kết luận. Trong phần đầu có mười bốn câu đều là phần hạn chế. Trong phần tiếp là tu tập hợp với pháp giới có mười ba câu. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, đầu là tổng quát đưa ra, tiếp là riêng biệt, sau là kết luận có thể biết. Tri thức thứ tám là Bồ-tát Đồng Chân Trú (Trú thứ tám), Tiên nhân tên gọi Tỳ Mục Đa La, tiến vào pháp môn Bồ-tát Vô Hoại Tràng Trí Tuệ, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Thời bỉ Tiên nhân…” trở xuống là phân rõ về Hiện lượng Chứng. Văn phần một có bốn: Một là nêu rõ nơi chốn; hai là nêu rõ tên gọi của người; ba từ “Thiện năng…” trở xuống là ca ngợi về đức; bốn từ “Nhữ nghệ…” trở xuống là chỉ dạy hỏi han. Hai là trong phần theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, phân rõ về cung kính giã từ rút lui; hai, nghó đến pháp môn trước đây, có nghóa về giáo, phân làm hai có thể biết; ba, từ “Tiệm tiệm…” trở xuống là phân rõ phương tiện tiến lên hướng về; bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là theo lời dạy lựa chọn; năm, thấy tướng thô của Y báo là vườn rừng; sáu, từ “Nhó thời kiến bỉ Tiên nhân…” trở xuống là thấy tướng vi tế của Chánh báo; bảy, từ “Vãng nghệ…” trở xuống là nghi thức cung kính, có ba có thể biết; tám, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là trình bày về thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức Chứng nhập, có ba: Một, ca ngợi về phát tâm; hai, trình bày về pháp môn của Tự phần; ba, tôn sùng ngưỡng mộ về phần thù thắng. Phần một “Thời bỉ Tiên nhân…” là ca ngợi về công năng phát tâm. Trong văn này có ba: a) Mười câu đầu ca ngợi về đức Lợi tha của Thiện Tài; b) Từ “Đại chúng các trì…” trở xuống là Đại chúng rải hoa cúng dường ca ngợi Thiện Tài; c) Từ “Cáo Đại chúng…” trở xuống là kết luận ca ngợi công năng của phát tâm. Văn phần hai là Tự phần, có bốn: a) Phân rõ về Thể của pháp môn; b) Từ “Thiện Tài bạch ngôn…” trở xuống là trình bày về phạm vi tác dụng tự tại của pháp môn, có hai văn hỏi đáp; c) Từ “Phóng Thiện Tài thủ…” trở xuống là trở về trú trong Tự phần có hai, đầu là buông ra, tiếp là hỏi đáp xét kỹ về pháp; d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về tên gọi của pháp môn. Phần b là phạm vi tự tại của pháp môn, trong phần đáp có ba: b 1) Tay của tri thức gia hộ nhìn thấy cõi Phật ở mười phương, nghe pháp tu hành, có hai có thể biết; b 2) Từ “Hoặc tự kiến…” trở xuống là thời tiết tu hành không giống nhau; b 3) Từ “Thiện Tài vi vô hoại…” trở xuống là trình bày nhờ mười pháp soi chiếu đạt được mười Tam-muội. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba: Đầu là tổng quát đưa ra, tiếp là riêng biệt, sau từ “Ngã khởi năng…” trở xuống là kết luận. Tri thức thứ chín là phần vị Bồ-tát Pháp Vương Tử Trú (Trú thứ chín), Bà-la-môn tên gọi Phương Tiện Mạng, tiến vào pháp môn Bồ- tát Vô Tận, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào Chứng. Văn phần một có ba: Một là nói về nơi chốn-tên gọi của người-chỉ dạy hỏi han… Hai là trong phần tiến vào, có sáu: Một, giã từ tiến lên; hai, trình bày về nghó đến pháp môn đạt được trước đây; ba, trình bày về nơi đã đến; bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là theo lời dạy lựa chọn; năm, cung kính lễ lạy, có hai có thể biết; sáu, trình bày về thưa hỏi. Ba là trong phần tiến vào Chứng, có hai: Một, trình bày về pháp môn của Tự phần; hai, từ “Minh tịnh Pháp Vương…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ. Văn phần một có sáu: a) Nêu ra Tự phần hiện có pháp môn để khuyến khích tu hành; b) Từ “Thiện Tài tác thị niệm…” trở xuống là trình bày về đối với pháp sinh tâm nghi ngờ; c) Từ “Tác thị niệm thời…” trở xuống là chư Phật Bồ-tát đều gia hộ khuyến khích trừ bỏ nghi ngờ; Từ “Đồng tử văn kỳ đặc…” trở xuống là nghe pháp hoan hỷ hối lỗi trừ bỏ nghi ngờ; e) Từ “Đăng đao sơn…” trở xuống là như thuyết tu hành, có hai câu có thể biết; f) Từ “Ngã duy thành thử đẳng…” trở xuống là kết luận về tên gọi của pháp môn. Trong phần b là sinh tâm nghi ngờ, có hai: b 1) Mười hai câu đầu là sinh tâm nghi ngờ ở trong pháp của Tự phần; b 2) Từ “Tương phi ma…” trở xuống là sinh tâm nghi ngờ trong pháp thuộc phần thù thắng. Trong phần c là chư Phật Bồ-tát đều gia hộ khuyến khích, có ba: c 1) Hiện rõ trời cõi Sắc để khuyến khích; c 2) Hiện rõ sáu trời ở cõi Dục cùng khuyến khích; c 3) Hiện rõ tám bộ trời rồng để khuyến khích. Khuyến khích trong phần c1 có ba: Một là tổng quát ngăn lại đừng nghi ngờ; hai từ “Thử thị Đại Thánh…” trở xuống là ca ngợi về đức; ba từ “Thời chư Thiên…” trở xuống là đưa ra lợi ích người khác để khuyến khích. Thiên là trời Sơ Thiền, Tự Tại là trời Sắc Cứu Cánh. Phần d là hối lỗi, văn có ba: d 1) Đối với Bà-la-môn khởi tâm Thiện tri thức; d 2) Từ “Đầu diện…” trở xuống là trình bày về hối lỗi; d 3) Bà- la-môn nói kệ, vì tiếp nhận sự sám hối ấy mà giảng giải khuyên bảo. Trong kệ, một kệ đầu là khuyến khích thuận theo giáo trừ bỏ chướng ngại, một kệ tiếp là khuyến khích khiến cho thành tựu hạnh. Lại trong các Tri thức này, ba người là đạo hạnh trái ngược, một người là Phương Tiện Mạng hiện rõ tướng ngu si, Bà-tu-mật hiện rõ tướng tham lam, Mãn Túc Vương hiện rõ tướng sân hận. Hỏi: Vì sao ở đây tăng thêm pháp khuyến khích? Đáp: Hành tướng hạn chế bởi vì Vô ký, hai loại còn lại thì gồm chung cả hai, lại bởi vì thuộc về ban đầu. Hỏi: Lại vì sao bước lên núi dao-nhảy vào đống lửa, là dựa theo thuận với tướng nào? Đáp: Dựa theo Thật là pháp, đều biết rõ mở rộng thông suốt. Nếu hạn chế thì không phải là không có khác biệt. Vì sao? Bởi vì Thể của dao nối tiếp nhau tăng lên thành tác dụng của pháp Đoạn ấy, vốn có công năng của phá hủy; Thể của lửa không nối tiếp tăng lên thành tác dụng hiển bày về pháp Thường ấy, vốn có công năng soi chiếu. Điều này dựa vào lý nào? Như hai tên gọi có và không, nói về có thì có thể khiến cho lìa Đoạn, trở thành tác dụng hiểu biết về Diệu Thường; nói về không thì có thể khiến cho lìa có-không trở thành công năng chứng được Diệu vô tuyệt tướng. Lửa tức là tác dụng không có lý, tác dụng của hội tụ vọng soi chiếu huyền; dao tức là tác dụng có lý, hiểu rõ phá không thành tựu niềm tin vào thật đức. Do đó, có thì nghóa phá tăng lên mà nghóa thành thì giảm bớt, bởi vì thành tựu hiểu biết rõ ràng; không có thì nghóa thành tăng lên, bởi vì hiển bày về chứng lý. Đây là nói như Khởi Tín Luận. Vả lại, nay xác định về Tông chỉ chọn lấy tướng giải thích, bởi vì dựa theo sự. Lại dựa theo tên gọi của Tam-muội đã đạt được thì nghóa ấy cũng có thể hiểu mà thôi. Lại hỏi: Vì sao núi dao cần phải rời bỏ sau khi đạt được pháp, lửa thì đạt được lúc có được lợi ích là thế nào? Đáp: Bởi vì có Giáo Xả rồi mới thuận theo không có Giáo Tướng, tức là không trái ngược. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt phân rõ, sau là tổng quát kết luận. Tri thức thứ mười là phần vị Bồ-tát Quán Đảnh Trú (Trú thứ mười), người nữ tên gọi Di-đa-la, tiến vào pháp môn Bát-nhã Ba-la- mật Phổ Trang Nghiêm, có ba: Một là chỉ dạy hướng về; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức Chứng. Văn phần một có ba: Một là nêu rõ nơi chốn-tên gọi của người-chỉ dạy hỏi han… Trong phần hai là tiến vào phần thù thắng, có tám: Một, giã từ rút lui; hai, nghó đến dụng của pháp môn trước đây; ba, đến nơi ấy; bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là tìm cầu, có ba có thể biết; năm, từ “Thiện Tài tức nhập…” trở xuống là tướng thô của Y báo; sáu, từ “Kiến bỉ nữ…” trở xuống là thấy tướng vi tế của Chánh báo; bảy, từ “Kiến dó dó…” trở xuống là phân rõ về nghi thức cung kính; tám, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là thưa hỏi. Trong phần ba là Chứng nhập, có hai: Một, pháp môn của Tự phần; hai, từ “Chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ về phần thù thắng. Trong phần một là Tự phần, có bốn: a) Phân rõ về Thể của pháp môn đạt được; b) Từ “Đồng Tử chánh niệm…” trở xuống là hỏi về tên gọi của pháp môn, có ba có thể biết; c) Từ “Cảnh giới vân hà…” trở xuống là hỏi về phạm vi tác dụng; d) Từ “Ngã duy tri thử…” trở xuống là kết luận. Văn phần a có ba: a 1) Khuyến khích quán sát; a 2) Từ “Kiến nhất nhất…” trở xuống là do Định mà hiện rõ sự việc; a 3) Từ “Giai thị…” trở xuống là mở rộng dấy khởi nhân duyên. Trong phần c là phạm vi tác dụng, trước là hỏi, tiếp là đáp. Trong đáp gồm có một trăm mười sáu môn, những pháp môn này đều cùng chung một Bộ làm quy phạm, bởi vì đây là hiểu rõ đến cùng tận. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt, sau là kết luận. Tiếp theo dưới đây là mười Tri thức đang ở phần vị Thập Hạnh. Tri thức thứ mười một là Bồ-tát Hoan Hỷ Hạnh (Hạnh thứ nhất), Tỳ-kheo tên gọi Thiện Hiện, tiến vào pháp môn Tùy Thuận Bồ-tát Chứng Minh, có ba: Một là trình bày khuyến khích chỉ dạy đi đến; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một có ba: Nêu rõ nơi chốn-tên gọi của người-chỉ dạy hỏi han… có thể biết. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ tiến lên; hai, nghó đến pháp trước đây, trong nghó đến pháp có mười ba câu; ba, tiến vào; bốn, từ “Ư thành quách…” trở xuống là theo lời dạy tìm kiếm chọn lựa; năm, thấy tướng thù thắng; sáu, đi đến gần gũi lễ kính; bảy, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là thưa hỏi phát tâm. Trong phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, có hai: Một là trình bày về pháp môn của Tự phần, hai từ “Kim Cang Bồ-tát…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Văn phần một có ba: a) Phân rõ về Thể của pháp môn; b) Từ “Bất ly thử…” trở xuống là trình bày tác dụng của pháp môn; c) Từ “Ngã duy tri thử…” trở xuống là kết luận tên gọi. Văn phần a có hai: a 1) Nhân duyên đạt được pháp; a 2) Từ “Bỉ chư Phật sở…” trở xuống là phân rõ về Thể đã thành tựu. Phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: a-Riêng biệt phân rõ; b) Tổng quát kết luận. Tri thức thứ mười hai là Bồ-tát Nhiêu Ích Hạnh (Hạnh thứ hai), Đồng tử tên gọi Thích Thiên Chủ, tiến vào pháp môn Xảo Thuật Trí Tuệ, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một có ba: Nêu rõ nơi chốn-tên gọi của người-chỉ dạy hỏi han…, tức là Giáo lượng. Trong phần hai, Tín lượng có tám: Một, thành tựu pháp môn trước đây; hai, nghó đến người giã từ rút lui; ba, từ “Dữ Thiên Long…” trở xuống là trình bày về nơi đã đến; bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là theo lời dạy chọn lựa; năm, từ “Thời không trung Thiên Long…” trở xuống là Tri thức phương tiện nêu ra dẫn dắt, tức là Trợ đạo mà thôi; sáu, từ “Kiến Thích Thiên Chủ…” trở xuống là thấy tướng của vị ấy; bảy, từ “Tức nghệ…” trở xuống là gần gũi lễ kính; tám, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là tự trình bày thưa hỏi về phát tâm. Trong phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, có hai: Một là trình bày về pháp môn của Tự phần, hai từ “Chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Văn phần một có ba: a) Phân rõ về nhân duyên của pháp môn đã trú vào; b) Từ “Ngã nhân…” trở xuống là phân rõ về đức dụng của pháp môn; c) Từ “Duy tri thử…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của Tự phần. Văn phần b là đức dụng có hai: b 1) Tổng quát trình bày về đức dụng-công năng-toán ấn-tướng nốt ruồi, có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. b 2) Từ “Ngã diệc liễu tri…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về đức dụng của toán số, có ba: Đầu là tính thẳng, tiếp là nhân chia, sau là công năng có thể biết. Phần hai là mở rộng về thù thắng, có hai: a) Phân rõ về tướng; b) Kết luận. Tri thức thứ mười ba là Bồ-tát Vô Huệ Hận Hạnh (Hạnh thứ ba), Ưu-bà-di tên gọi Tự Tại, tiến vào pháp môn Vô Tận Công Đức Tạng Trang Nghiêm, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Phần một trong Giáo lượng có ba như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, nghó đến pháp được lợi ích giã từ rút lui; hai, từ “Nhó thời Thiện Tài ư Thiện tri thức…” trở xuống là ca ngợi về đức thâu nhiếp lợi ích, có hai có thể biết; ba, từ “Tiệm tiệm…” trở xuống là trình bày về nơi đã đến; bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là theo lời dạy chọn lựa, có hai có thể biết; năm, tìm kiếm tiến vào phần vị; sáu, từ “Tiến nhập…” trở xuống là thấy tướng Chánh báo thù thắng; bảy, phân rõ về nghi thức cung kính; tám, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là tự trình bày về phát tâm. Trong mục sáu là thấy tướng Chánh báo, có ba: a) Chánh báo; b) Y báo; c) Quyến thuộc. Trong phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, có hai: Một là Tự phần, hai là tôn sùng ngưỡng mộ thắng tiến. Văn phần một có ba: a) Một câu đầu là trình bày về pháp môn của Tự phần; b) Từ “Nhất khí…” trở xuống là phân rõ về Đại dụng của pháp môn; c) Kết luận về tên gọi. Trong phần b là Đại dụng của pháp môn, có hai: b 1) Nói về Đại dụng của pháp môn, có hai: Đầu là thực hành, sau là phân rõ về lợi ích có thể biết. b 2-Từ “Nhữ kiến ngã thử…” trở xuống là thâu nhiếp khiến cho cùng được lợi ích, văn này có hai: Đầu là khiến cho nhìn thấy quyến thuộc bên trong, tiếp từ “Thử chư…” trở xuống là tác nghiệp ở bên ngoài. Văn phần đầu có ba, mục thứ hai của phần này có năm có thể biết. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: a) Giải thích; b) Kết luận. Tri thức thứ mười bốn là phần vị Bồ-tát Vô Tận Hạnh (Hạnh thứ tư), Trưởng giả tên gọi Cam Lồ Đảnh, tiến vào pháp môn Như Ý Công Đức Bảo Tạng, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, Tín lượng có bảy: Một, giã từ; hai, nghó đến; ba, nơi đến; bốn, tìm kiếm; năm, từ “Kiến Cam Lồ…” trở xuống là thấy tướng; sáu, nghi thức cung kính; bảy, trình bày về ý thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, có ba: Một là ca ngợi hỏi về công năng phát tâm, hai từ “Nhữ kiến ngã…” trở xuống là nói về pháp môn của Tự phần, ba từ “Chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ thắng tiến. Trong văn Tự phần có bốn: a) Dựa theo quyến thuộc để hiển bày về pháp môn, có ba có thể biết; b) Từ “Ngã thành tựu…” trở xuống là trình bày về Thể của pháp môn; c) Từ “Tùy kỳ sở tu…” trở xuống là trình bày về Đại dụng của pháp môn; d) Từ “Ngã duy tri thử…” trở xuống là kết luận về tên gọi của pháp. Trong phần c là Đại dụng, có bốn: c 1) Các vật báu… là trình bày hai loại quý báu thuộc về Tài-Pháp; c 2) Từ “Thả đãi…” trở xuống là trình bày về chúng sinh đã hóa độ; c 3) Từ “Ngưỡng thị…” trở xuống là hiển bày vật dụng giữa hư không sinh ra tài sản quý báu vô tận; c 4) Vừa ý quy về nguồn gốc. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba: Tổng quát-riêng biệt và kết luận. Tri thức thứ mười lăm là phần vị Bồ-tát Ly Si Loạn Hạnh (Hạnh thứ năm), Trưởng giả tên gọi Pháp Bảo Châu La, tiến vào pháp môn Mãn Túc Đại Nguyện, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Chấp Thiện Tài thủ…” trở xuống là chính thức tiến vào. Văn phần một có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, nghó đến đức cung kính giã từ; hai, nghó đến pháp khiến cho tăng lên; ba, nơi đến; bốn, tìm kiếm; năm, đối với đạo gặp được; sáu, lễ lạy cung kính; bảy, tự nói phát tâm thưa hỏi về pháp môn. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là nói về pháp môn của Tự phần, hai từ “Chư Đại bảo…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ. Trong văn Tự phần có ba: a) Dùng pháp môn của Tự phần để thâu nhiếp lợi ích; b) Từ “Nhó thời Thiện Tài…” cho đến “Bạch ngôn…” trở xuống là hỏi về nhân duyên đạt được pháp, có ba: Đầu là ca ngợi, tiếp là hỏi, sau là đáp có thể biết; c) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận thành tựu về Tự phần. Trong phần a có hai: a 1) Khen ngợi đưa tay dẫn vào nhà, phương tiện quán sát mà thôi; a 2) Chính thức quán sát. Trong quán sát, đầu là Y báo thâu nhiếp lợi ích có hai có thể biết, sau là Chánh báo thâu nhiếp lợi ích. Trong Chánh báo có mười lớp, trong lớp thứ tám: Đầu là các thần thông, ba thế gian, trình bày về đức của tám Địa; tiếp là đến nơi chư Phật thọ trì các pháp…, trình bày về đức của Địa thứ chín. Lớp thứ mười là trong Như Lai đầy đủ…, đây chính là trong nhân vốn có pháp môn của quả. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ: Đầu là riêng biệt, tiếp là kết luận có thể biết. Tri thức thứ mười sáu là Bồ-tát Thiện Hiện Hạnh (Hạnh thứ sáu), Trưởng giả tên gọi Phổ Nhãn Diệu Hương, tiến vào pháp môn Linh Nhất Thiết Chúng Sinh Hoan Hỷ Phổ Môn, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức đạt được pháp giới. Văn phần một có ba: Nêu rõ nơi chốn-tên gọi của người-chỉ dạy thưa thỉnh… Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, lễ lạy giã từ; hai, nghó đến pháp môn trước đây; ba, từng bước đến nơi; bốn, phát khởi công hạnh thắng tiến; năm, từ “Kiến Phổ Môn…” trở xuống là thấy tướng, Y báo-Chánh báo có hai có thể biết; sáu, phân rõ về nghi thức cung kính; bảy, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là thưa hỏi về pháp môn. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là ca ngợi về phát tâm, hai từ “Ngã tri nhất thiết…” trở xuống là nói về pháp môn của Tự phần, ba từ “Chư Đại Dược Vương…” trở xuống tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong văn Tự phần có hai: a) Phân rõ về thâu nhiếp lợi ích; b) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về tên gọi. Trong phần a có bốn: a 1) Trong sự việc đối trị báo chướng có hai có thể biết; a 2) Từ “Nhiên hậu…” trở xuống là trừ bỏ chướng nhất định ấy; a 3) Từ “Xưng dương…” trở xuống là chỉ dạy phát tâm trừ bỏ chướng vi tế ấy khiến cho thành tựu các hạnh, phần này có hai có thể biết; a 4) Từ “Thiện nam tử ngã hựu…” trở xuống là trình bày về có phương tiện khéo léo khác lạ, có hai có thể biết. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ: Đầu là riêng biệt phân rõ, tiếp là kết luận. Tri thức thứ mười bảy là phần vị Bồ-tát Vô Trước Hạnh (Hạnh thứ bảy), Vương tên gọi Mãn Túc, tiến vào pháp môn Huyễn Hóa, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Thời Mãn Túc Vương…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, giã từ; hai, nghó đến, trong nghó đến có hai, đầu là tổng quát, tiếp là mười sáu câu riêng biệt; ba, nơi đến; bốn, phát khởi phương tiện dẫn dắt, có hai văn hỏi đáp; năm, từ “Kiến…” trở xuống là thấy tướng có ba, một là thấy Y báo-Chánh báo, hai là thấy pháp trị quốc, ba là nhìn thấy sinh tâm nghi ngờ có thể biết; sáu, từ “Tác thị niệm…” trở xuống là các Bồ-tát cùng nhau dẫn dắt khuyên nhủ trừ bỏ nghi ngờ, có bốn có thể biết; bảy, từ “Văn Thiên dó…” trở xuống là nghi thức cung kính; tám, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là tự nói về thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là phân rõ về Tự phần, hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ. Trong văn Tự phần có bốn: a) Phương tiện thâu nhiếp tiếp nhận; b) Từ “Kiến ngã thử báo…” trở xuống là nêu rõ xem xét về hành tướng ấy; c) Từ “Ngã thành tựu…” trở xuống là trình bày về Thể-Dụng của pháp môn có ba, một là Thể, hai là Dụng, ba là trở lại để hiển bày về thành tựu mà thôi; d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về phạm vi. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: Đầu là mở rộng, tiếp là kết luận. Tri thức thứ mười tám là Bồ-tát Tôn Trọng Hạnh (Hạnh thứ tám), Vương tên gọi Đại Quang, tiến vào pháp môn Bồ-tát Đại Từ Tràng Hạnh, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, giã từ; hai, nghó đến pháp môn trước đây; ba, nơi đến; bốn, phát khởi ý niệm tự biết chắc chắn thấy được pháp thù thắng, một là hỏi, hai là đáp, ba là dấy niệm sinh tâm mong muốn; năm, từ “Nhập Thiện Quang…” trở xuống là thấy tướng thô của Y báo; sáu, từ “Nhó thời Thiện Tài ư thử…” trở xuống là thấy tướng của Chánh báo; bảy, từ “Ngũ thể…” trở xuống là cung kính lễ lạy; tám, thưa hỏi. Trong phần năm là Y báo có mười, đó là tường thành, ngõ xóm, mọi người, lầu gác, màn báu, lọng che, cờ phướn, vua chúa, nhà cửa, nơi ở. Trong phần sáu là Chánh báo, Thiện Tài quán sát sinh tâm không đắm trước…, có ba: Một là thành tựu phần trước phát khởi phần sau; hai là thấy thân tướng của vua; ba từ “Bỉ điện tiền…” trở xuống là nói rõ về tướng lợi ích chúng sinh. Hai mươi tám tướng là hiển bày về nhân hạnh chưa tròn vẹn. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là nói về pháp môn của Tự phần, hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong văn Tự phần có bốn: a) Nêu ra tên gọi của pháp môn và nhân duyên đạt được tức là hai; b) Từ “Ngã trú thử…” trở xuống là trình bày về công dụng của lợi ích; c) Từ “Thử thành chúng sinh…” trở xuống là đưa ra công năng của Tam-muội để chứng minh sự việc hiện có; d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của Tự phần. Văn phần b là công dụng của lợi ích, có năm: b 1) Tổng quát phân rõ về thâu nhiếp lợi ích; b 2) Từ “Linh chư…” trở xuống là trình bày về thâu nhiếp thành tựu; b 3) Từ “Thiện nam tử…” trở xuống là chính thức phân rõ về công dụng thâu nhiếp; b 4) Từ “Các kiến…” trở xuống là trình bày về sự cảm ứng đều khác nhau; b 5) Từ “Dó chánh…” trở xuống là trình bày hội tụ thuộc về nhân trước kia. Trong phần c là công năng của Tam-muội chứng minh sự việc hiện có, có ba: c 1) Nói đến nhập Định thì loại trừ những chướng khác; c 2) Từ “Thả đãi…” trở xuống là chính thức hiển bày về công năng nhập Định để chứng minh thành tựu sự việc trước đây, có hai có thể biết; c 3) Từ trong Định đứng dậy. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba: Đầu là tổng quát, tiếp là dụ hiển bày, ba là kết luận. Tri thức thứ mười chín là phần vị Bồ-tát Thiện Pháp Hạnh (Hạnh thứ chín), Ưu-bà-di tên gọi Bất Động, tiến vào pháp môn Bồ-tát Vô Hoại, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ. Hai, nghó đến, trong nghóa đến pháp môn trước đây có bốn đoạn trình bày về nghóa: Một là suy ngẫm về pháp môn khiến cho được tăng trưởng tốt đẹp; hai từ “Phục tác thị niệm…” trở xuống là phân rõ về công năng của tri thức; ba từ “Bi tâm niệm thời…” trở xuống là nhập Định, Như Lai sứ giả phương tiện chỉ dạy rõ ràng khiến cho càng tiến lên; bốn từ “Nhó thời Thiện Tài định ngật…” trở xuống là xuất Định. Ba, dần đến. Bốn, từ “Suy vấn…” trở xuống là phân rõ về tìm kiếm. Năm, từ “Thiện Tài hoan hỷ…” trở xuống là thấy tác dụng thanh tịnh của Y báo. Sáu, từ “Tiền nghệ kỳ sở…” trở xuống là cung kính ngắm nhìn tác dụng của Chánh báo. Bảy, tự nói về thưa hỏi phát tâm. Trong phần cung kính ngắm nhìn, có năm: a) Hình sắc thù thắng đạt được ích lợi, có ba có thể biết; b) Thể thù thắng của cung điện…; c) Quyến thuộc thù thắng; d) Từ “Kỳ hữu kiến giả…” trở xuống là pháp thù thắng loại trừ chướng; e-Từ “Kiến bỉ nữ nhân…” trở xuống là nhắc lại đức thù thắng trước đây và nói kệ ca ngợi, tức là hai vậy. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là ca ngợi về phát tâm, hai từ “Ngã thành tựu…” trở xuống là nói về Tự phần đã đạt được, ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong văn Tự phần có bốn: a) Phân rõ về Thể của pháp môn; b) Từ “Bạch ngôn…” trở xuống là nhân duyên đạt được pháp; c) Từ “Ngã nhập thử…” trở xuống là dẫn ra tướng thù thắng của hành thành tựu tác dụng do Định hiện có; d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của Tự phần. Văn phần b là nhân duyên đạt được pháp: Đầu là hỏi về tu hành công hạnh thù thắng và hỏi về đức dụng; sau là trong phần đáp kết hợp giải thích về nhân duyên và đức dụng. Trong đáp có ba: Một là sơ lược về đáp, hai là trở lại hỏi, ba là mở rộng phân rõ. Trong mở rộng phân rõ có sáu: 1) Thấy thân tướng của Phật phát tâm nghó đến mong cầu; 2) Từ “Thời bỉ Như Lai…” trở xuống là trở lại chỉ dạy phát khởi mười tâm; Từ “Ngã ư nhó thời…” trở xuống là hỏi về pháp mong cầu quả trí; 4) Từ “Ngã phát thị tâm dó…” trở xuống là thực hành thành tựu lìa chướng; 5) Từ “Ư nhó sở kiếp nhược hữu chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về đức dụng Lợi tha; 6) Từ “Ngã sơ phát tâm lai…” trở xuống là tổng quát kết luận. Trong phần c là dẫn ra tác dụng của Định hiện có, có năm: c 1) Ca ngợi về đức; c 2) Xét kỹ về Định; c 3) Trả lời; c 4) Sự việc thành tựu; c 5) Xuất Định. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: Đầu là đưa ra sáu dụ để trình bày về hành sâu rộng, hai là kết luận. Tri thức thứ hai mươi là phần vị Bồ-tát Chân Thật Hạnh (Hạnh thứ mười), đạt được pháp môn Chí Nhất Thiết Xứ Hành, Tri thức ngoại đạo tên gọi Tùy Thuận Nhất Thiết Chúng Sinh, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, giã từ rút lui; hai, nghó đến pháp môn trước đây; ba, dần đến nơi; bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là tìm kiếm; năm, từ “Ư trung dạ…” trở xuống là thấy tướng của Y báo; sáu, từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là thấy tướng của Chánh báo; bảy, từ “Vãng nghệ…” trở xuống là nghi thức cung kính; tám, thưa hỏi về pháp môn. Trong phần ba là chính thức tiến vào, từ “Đáp ngôn…” trở xuống có ba: Một là ca ngợi về phát tâm, hai từ “Tri dó an trú…” trở xuống là nói về Tự phần đã đạt được, ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong văn Tự phần có bốn: a) Phân rõ về pháp môn; b) Từ “Dó bình đẳng Bát-nhã…” trở xuống là trình bày về Thể-Dụng nhiếp hóa của pháp môn; c) Từ “Phục thứ thiện nam tử…” trở xuống là dùng tác dụng lợi ích gần gũi để chứng minh cho công hạnh trước đây, có ba có thể biết; d) Từ “Ngã duy tri thử…” trở xuống là kết luận. Trong phần b là Thể-Dụng nhiếp hóa, có ba: b 1) Đưa ra ánh sáng trí tuệ; b 2) Từ “Quán sát…” trở xuống là quán sát căn cơ ấy, có ba có thể biết; b 3) Từ “Dó diệu trí…” trở xuống là nói pháp làm lợi ích khắp nơi. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ: Đầu là riêng biệt trình bày, sau là kết luận. Tiếp theo dưới đây là mười Tri thức đang ở phần vị Thập Hồi Hướng. Tri thức thứ hai mươi mốt là phần vị Bồ-tát Cứu Hộ Chúng Sinh Ly Chúng Sinh Tướng Hồi Hướng(Hồi Hướng thứ nhất), Trưởng giả tên gọi Thanh Liên Hoa Hương, tiến vào pháp môn Hương, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có sáu: Một, giã từ; hai, từ “Nhó thời…” cho đến “Bất tích…” trở xuống là nghó đến pháp tu trước đây được lợi ích, có hai có thể biết; ba, từ “Tiệm tiệm…” trở xuống là đến nơi ấy; bốn, từ “Nghệ Thanh Liên Hoa…” trở xuống là tùy theo tiến lên đạt được chân thật; năm, từ “Đầu diện…” trở xuống là lễ lạy cung kính; sáu, tự nói về phát tâm thưa hỏi điều chưa nghe. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là ca ngợi về phát tâm, hai từ “Ngã năng…” trở xuống là trình bày về pháp môn của Tự phần, ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Văn về Tự phần có hai: a-Phân rõ về pháp đã nhận biết; b-Kết luận. Văn phần a có ba: a 1) Nhận biết về pháp Hương. a 2) Từ “Bỉ hương…” trở xuống là nhận biết về Hương khởi nhân, có mười loại nhân: 1) Tồn tại một mình; 2) Do việc làm; 3) Pháp có sẵn; 4) Đầy đủ các phần; 5) Không có sai lầm; 6) Đức thành tựu bất động; 7) Khéo léo phát sinh lẫn nhau; 8) Phạm vi; 9) Thành tựu sự việc trước đây; 10) Nơi đến. a 3) Từ “Nhân trung hữu hương…” trở xuống là phân rõ về lực thù thắng. Phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: a) Phân rõ; b) Kết luận. Tri thức thứ hai mươi hai là phần vị Bồ-tát Bất Hoại Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ hai), Hải Sư tên gọi Tự Tại, tiến vào pháp môn Đại Bi Tràng Tịnh Hạnh, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào. Ba nghóa giống như trước có thể biết. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ. Hai, nghó đến có hai, trong mục thứ hai có ba: Thiết lập-vặn hỏi và đáp. Ba, dần đến nơi. Bốn, tìm kiếm. Năm, thấy tướng thù thắng. Sáu, đi đến nơi ấy lễ lạy cung kính. Bảy, tự nói thưa hỏi về phát tâm. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là ca ngợi người chủ động hỏi về phát tâm, hai từ “Ngã thành tựu…” trở xuống là pháp môn của Tự phần, ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Tự phần có ba: a) Một câu phân rõ về pháp môn. b) Từ “Tại thử hải biên…” trở xuống là phân rõ về lợi ích của tác dụng hóa độ, có bốn: Một là pháp giải thoát có hai có thể biết, hai là biết về pháp của sự thế gian, ba là rời bỏ thế gian trở thành xuất thế, bốn là kết luận thành tựu Đại Dụng có thể biết. c) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ: a) Phân biệt; b) Kết luận. Tri thức thứ hai mươi ba là Bồ-tát Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ ba), Trưởng giả tên gọi Vô Thượng Thắng, tiến vào pháp môn Chí Nhất Thiết Thú Bồ-tát Tịnh Hạnh Trang Nghiêm, có ba: Một là trình bày về khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Trưởng giả cáo…” trở xuống là chính thức tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, giã từ rút lui. Hai, nghó đến tu tập thêm rộng. Ba, dần đến nơi. Bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là tìm kiếm. Năm, từ “Thành Đông…” trở xuống thấy tướng thù thắng vi diệu. Sáu, từ “Thời bỉ Trưởng giả…” trở xuống là tướng quyến thuộc của vị ấy. Bảy, từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là cung kính lễ lạy. Tám, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là mở rộng điều thưa hỏi của mình mà thôi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là ca ngợi về phát tâm, hai từ “Ngã thành tựu chí nhất thiết…” trở xuống là nói về pháp của Tự phần, ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Tự phần có ba: a) Tổng quát đưa ra Thể tướng của pháp; b) Từ “Hà đẳng…” trở xuống là mở rộng phân rõ về Dụng tướng của nghóa; c) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của Tự phần. Trong phần b là mở rộng phân rõ, có hai: Đầu là hỏi, tiếp là đáp. Văn này có hai: Một là dựa theo phương này; hai là cùng tương tự cõi khác, phần này có hai có thể biết. Trong văn phần một có hai: Một là thân nghiệp đến nơi; hai từ “Ư trung thuyết pháp…” trở xuống là khẩu nghiệp thuyết pháp. Ở trong hai văn này, nhận biết về pháp hợp với thuốc và chư Phật tự hiểu rõ về nơi chốn của Thánh, tức là ý nghiệp. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ: a) Thân nghiệp thù thắng; b) Từ “Đãi đắc…” trở xuống là khẩu nghiệp thù thắng; c) Từ “Phân biệt…” trở xuống là ý nghiệp thù thắng; d) Từ “Ngã đương…” trở xuống là tổng quát kết luận. Tri thức thứ hai mươi bốn là Bồ-tát Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ tư), Ni tên gọi Sư Tử Phấn Tấn, tiến vào pháp môn Bồ- tát Nhất Thiết Trí Để, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Thiện nam tử…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ rút lui. Hai, dần đến nơi, lược bớt không có nghó đến pháp môn trước đây. Ba, từ “Châu biến…” trở xuống là tìm kiếm, có hai có thể biết. Bốn, từ “Nghệ bỉ…” trở xuống là thấy tướng của Y báo, có ba: Một là phân rõ về Thể của quả, hai là trình bày về nhân, ba là phân rõ về tự tại, phần này có ba có thể biết. Năm, từ “Kiến Tỳ-kheo Ni…” trở xuống là thấy tướng của Chánh báo. Sáu, từ “Ngũ thể đầu địa…” trở xuống là phân rõ về nghi thức cung kính. Bảy, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là thưa hỏi. Trong phần Chánh báo có ba: Một là thấy thân ở khắp những tòa ngồi, hai từ “Kiến xứ nhất tòa…” trở xuống là thuyết pháp cho chúng, ba từ “Thiện Tài kiến…” trở xuống là kết luận về điều là lùng đã thấy. Trong phần thuyết pháp cho chúng có sáu: 1) Thuyết pháp cho tám Bộ cùng với những Thiên vương; 2) Từ “Thanh văn…” trở xuống là thuyết pháp cho chúng; 3) Từ “Sơ phát tâm…” trở xuống là vì người ở Thập Địa; 4) Thuyết pháp cho những Lực só Kim Cang; 5) Từ “Kiến xứ như thị…” trở xuống là mở rộng tương tự kết luận về lợi ích; 6) Từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ. Thứ nhất là Tịnh Cư Thiên… toàn bộ có hai mươi chín môn thấy Chánh báo. Trong văn phần ba là kết luận, vườn rừng… là kết luận về cây cối… trước đây, kinh hành an tọa… là kết luận về ngồi khắp nơi… trước đây, Đại chúng quyến thuộc là kết luận về Đại chúng… trước đây, từ các công đức vi diệu trở xuống là kết luận về thuyết pháp… trước đây, các sự việc lạ lùng là tổng quát kết luận về thù thắng, lại nghe trở xuống là kết luận ca ngợi về thuyết pháp huân tập giúp đỡ khiến cho thân tâm hòa dịu… trước đây. Trong phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, có hai: Một là pháp môn của Tự phần, hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Tự phần có bốn: a) Nói về tên gọi của pháp môn; b) Từ “Đại Thánh như thử…” trở xuống là trình bày về Thể của pháp thuộc Tự phần, đầu là hỏi, sau là đáp; c) Từ “Đại Thánh thử trí quang…” trở xuống là trình bày về phạm vi Đại Dụng của pháp môn, đầu là hỏi, sau là đáp, văn đáp có bốn có thể biết; d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của Tự phần. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ: a) Riêng biệt trình bày; b) Kết luận có thể biết. Tri thức thứ hai mươi lăm là phần vị Bồ-tát Vô Tận Tạng Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ năm), người nữ tên gọi Bà-tu-mật-đa, tiến vào pháp môn Ly Dục Thật Tế, có ba: Một là trình bày về khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức Chứng. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, giã từ rút lui. Hai, nghó đến pháp môn trước đây. Ba, dần đến nơi, như trước. Bốn, trình bày về tìm kiếm, có bốn có thể biết. Năm, từ “Thiện Tài văn thử…” trở xuống là thấy tướng của Y báo. Sáu, từ “Thiện Tài kiến bỉ…” trở xuống là thấy tướng của Chánh báo, có bốn: Một là thân, hai là khẩu, ba là ý, bốn là trang nghiêm có thể biết. Bảy, lễ lạy cung kính. Tám, tự nói thưa hỏi về phát tâm. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là tự nói về pháp môn, hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Tự phần có bốn: a) Một câu phân rõ về Thể tên gọi của pháp môn. b) Từ “Nhược Thiên kiến ngã…” trở xuống là trình bày về Đại Dụng của pháp, có bốn: Một là tổng quát về Đồng sinh, hai là hiện bày thù thắng, ba là đối với đời sống được lợi ích, bốn là kết luận. A-lê-nghi thì Trung Hoa gọi là mong muốn vốn có (bổn dục), A Chúng Bính thì Trung Hoa gọi là mong muốn chính đáng(chánh dục). c) Từ “Tích hà sở…” trở xuống là nhân duyên đạt được pháp, đầu là hỏi, tiếp là đáp, trong đáp có hai: Một là duyên thù thắng, hai là phát tâm. d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: a) Phân biệt; b) Kết luận. Tri thức thứ hai mươi sáu là phần vị Bồ-tát Tùy Thuận Kiên Cố Thiện Căn Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ sáu), Trưởng giả tên gọi An Trú, tiến vào pháp môn Bất Diệt Độ Tế Bồ-tát, có ba nghóa giống như trước. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, chỉ có bốn: Một, giã từ. Hai, hướng về. Ba, đến nơi. Bốn, tự nói về phát tâm và thưa hỏi mà thôi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là tự nói về pháp đã đạt được, hai là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Tự phần có ba: a) Phân rõ về Thể của pháp môn. b) Từ “Tự ngôn…” trở xuống là trình bày về Đức Dụng của pháp môn có ba, đó là hỏi-giải thích-kết luận nối thông…, có thể biết. c) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Văn phần a có hai: a 1) Nêu ra tên gọi; a 2) Từ “Trú thử…” trở xuống là trình bày về hành tướng thấy Phật, có hai: Một là Phật, hai là pháp, đều có hai câu. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: a-Giải thích; b-Kết luận. Tri thức thứ hai mươi bảy là phần vị Bồ-tát Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng Sinh Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ bảy), Bồ-tát tên gọi Quán Thế Âm, tiến vào pháp môn Đại Bi, có ba: Một là trình bày về khuyến khích chỉ dạy tiến vào, có ba giống như trước; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có chín: Một, giã từ tiến lên. Hai, nghó đến pháp môn trước đây. Ba, dần đến nơi. Bốn, tìm kiếm. Năm, thấy tướng Y-Chánh của Quán Thế Âm. Sáu, Thiện Tài phát sinh ý niệm quán sát kỹ càng để dấy khởi ý niệm. Bảy, từ “Thời Quán Thế Âm…” trở xuống là khen ngợi Thiện Tài. Tám, đến nơi lễ bái. Chín, tự nói về phát tâm và thưa hỏi về pháp môn. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là khen ngợi về sự phát tâm ấy, hai từ “Ngã dó thành tựu…” trở xuống là pháp môn của Tự phần, ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Tự phần có ba: a) Trình bày về Thể tướng của pháp môn. b) Từ “Ngã hành Đại Bi…” trở xuống là trình bày về Dụng làm lợi ích. c) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết. Văn phần a có hai: a 1) Phân rõ về Thể của tên gọi; a 2) Phân rõ về công năng. Trong phần b là Dụng làm lợi ích, có hai: b 1) Phân rõ khiến cho lìa xa mười tám chướng nạn; b 2) Từ “Phục thứ…” trở xuống là khuyên dạy khiến cho phát tâm. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba: a) Tổng quát; b) Riêng biệt; c) Kết luận. Tri thức thứ hai mươi tám là phần vị Bồ-tát Như Tướng Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ tám), Bồ-tát tên gọi Chánh Thú, tiến vào pháp môn Phổ Môn Tốc Hành, có ba: Một là phân rõ về khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Ngã dó…” trở xuống là trình bày về chính thức tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có bốn: Một, nêu rõ nơi đến; hai, ca ngợi về đức; ba, xem thấy có thể không có hai phần hỏi đáp; bốn, từ “Nhữ nghệ…” trở xuống là chỉ dạy thưa hỏi. Hỏi: Vì sao một vị Tri thức này nói là Đông chứ không nói là Nam? Đáp: Bởi vì Hồi Hướng thứ tám này là Như Tướng lìa xa phạm vi, cho nên lựa chọn trước đây mà thôi. Nhưng có bắt đầu chứng được thấy biết rõ ràng, cho nên nói là Đông. Hỏi: Nguyên cớ đứng trên núi Kim Cang và đến nơi Quán Thế Âm là thế nào? Đáp: Bởi vì phần vị Địa Tiền thì chưa chứng được Chân như, lưu chuyển đến theo cảnh cho nên khó hư hoại, lại bởi vì về sau đi đến phạm vi của Bi cho nên làm lợi ích chúng sinh. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có năm: Một, lễ lạy cung kính quán sát kỹ càng. Hai, nghó đến pháp môn trước đây. Ba, đi đến gần gũi. Bốn, lễ bái. Năm, tự nói về phát tâm và thưa hỏi pháp môn. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là nói về sự nhận biết của Tự phần, hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Tự phần có ba: a-Phân rõ tên gọi của pháp môn. b-Hỏi đáp phân rõ nhân duyên đạt được pháp…, phần này có ba câu hỏi. c-Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về nhận biết. Trong phần đáp về nhân duyên, có ba: Một là nêu ra khó biết; hai từ “Duy nguyện…” trở xuống là trở lại thưa thỉnh; ba là chính thức đấp về nhân hạnh. Trong phần chính thức đáp, có bảy: 1) Quốc độ; 2) Danh hiệu Phật; 3) Thuận theo pháp môn đạt được; 4) Phát khởi cầu mong xa gần; 5) Phân rõ về nhanh chóng; 6) Hạnh cúng dường; 7) Từ “Tất năng liễu tri…” trở xuống là thuận theo căn cơ trao cho pháp, bao gồm trả lời ba câu hỏi trên, cũng có thể tách biệt. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba: a) Tổng quát; b) Riêng biệt; c) Kết luận. Tri thức thứ hai mươi chín là phần vị Bồ-tát Vô Phược Vô Trước Giải Thoát Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ chín), vị trời tên gọi Đại Thiên, tiến vào pháp môn Vân Võng, có ba: Một là phân rõ về khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Nhó thời Đại Thiên…” trở xuống là chính thức tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, cung kính giã từ. Hai, nghó đến pháp môn trước đây. Ba, dần đến nơi. Bốn, tìm kiếm có hai có thể biết. Năm, đi đến. Sáu, lễ lạy cung kính. Bảy, tự nói về phát tâm. Tám, thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là lấy nước rửa mặt, rải hoa bằng vàng, và ca ngợi Tri thức ấy khó gặp được; hai từ “Ngã dó…” trở xuống là tự nói về pháp môn của Tự phần đã đạt được; ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong Tự phần có ba: a) Phân rõ về Thể của pháp môn. b) Từ “Bạch ngôn…” trở xuống là hiển bày cảnh giới đức dụng của pháp. c) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Trong phần b là đức dụng có hai: Đầu là hỏi, tiếp là đáp. Trong đáp có hai: Một là chỉ dạy về Tài thí, hai từ “Phục thứ…” trở xuống là chỉ dạy về Pháp thí. Một là Tài thí có năm: 1) Tích lũy vật báu; 2) Tích lũy hương thơm; 3) Hiện thân người nữ; 4) Chỉ dạy Thiện Tài; 5) Cho đến người khác. Hai là trong Pháp thí có bốn, có thể biết. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: a-Đưa ra năm dụ tức là hợp; b-Kết luận. Tri thức thứ ba mươi là Bồ-tát Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng (Hồi Hướng thứ mười), vị Thần tên gọi An Trú, tiến vào pháp môn Bồ-tát Bất Khả Hoại Tạng, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “An Trú Địa thần cáo…” trở xuống là chính thức tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Vì sao dưới đây không phân rõ về Nam? Bởi vì thế gian thuần thục lìa xa các tướng. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ. Hai, hướng đến Ma-kiệt. Ba, theo sự chỉ dạy tiến vào, lược bớt không có nghó đến pháp môn trước đây. Bốn, từ “Nhất vạn Địa thần…” trở xuống là ca ngợi đức của Thiện Tài, văn này có bốn, một là ca ngợi về đức, hai là cảnh giới thanh tịnh, ba là thích hợp với pháp, bốn là hỏi han kỹ càng có thể biết. Năm, từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là lễ lạy cung kính. Sáu, nói rõ ý nghó. Bảy, đất trời hiện bày quả báo Tịnh độ khiến cho cùng thấy được lợi ích có hai, một là quả, hai là nhân và khuyến khích chọn lấy có thể biết. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là phân rõ về nguyên nhân-danh thể của pháp môn thuộc Tự phần; hai từ “Chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ. Trong Tự phần có bốn: a) Đưa ra danh thể của pháp môn. b) Từ “Ngã ư Nhiên Đăng…” trở xuống là trình bày về cảnh giới Đại dụng sai biệt của sự tu hành. c) Từ “Nãi vãng dó…” trở xuống là trình bày về nhân duyên đạt được pháp. d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ: a) Giải thích; b) Kết luận. <篇> HOA NGHIÊM KINH SƯU HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ <卷>QUYỂN 5 (Phần 2) Từ đây về sau có mười Tri thức. Đây là vị thứ nhất, Bồ-tát ở Hoan Hỷ địa, vị trời tên gọi Bà-sa-bà-đà, tiến vào pháp môn Quang Minh Phổ Chiếu Chư Pháp Hoại Tán Chúng Sinh Ngu Si, có ba: Một là phân rõ về khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Nhó thời Dạ Thiên cáo…” trở xuống là trình bày tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Thành Ca-tỳ-la thuộc nước Xá-di, là nơi Đức Phật giáng sinh, biểu thị cho Sơ Địa sinh vào nhà Như Lai. Sở dó từ đây về sau đều là Dạ Thiên, bởi vì muốn làm sáng tỏ từ đây về sau đạt được lý tự tại, ánh sáng rực rỡ soi chiếu đêm dài làm mất đi bóng tối sâu dày. Nghóa còn lại trước đây đã trình bày. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ hướng đến. Hai, nghó đến pháp môn trước đây. Ba, đến nơi. Bốn, từ “Tùng Đông môn…” trở xuống là từ từ hướng về tìm kiếm, có hai có thể biết. Năm, từ “Kiến bỉ…” trở xuống là thấy tướng có hai, một là nhìn thấy, hai là quán xét về đức. Sáu, từ “Kiến văn thử dó…” trở xuống là trình bày về vui mừng lễ lạy. Bảy, tự nói về phát tâm và thưa hỏi, phần này có ba câu có thể biết. Cửa phía Đông (Đông môn) là bắt đầu của sự sáng suốt. Trong phần ba từ “Cáo ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào, toàn văn có ba: Một là ca ngợi phát tâm thuận theo Tri thức chỉ dạy; hai từ “Ngã dó thành…” trở xuống là nói về pháp môn của Tự phần; ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong Tự phần có bốn: a) Phân rõ về Thể của tên gọi pháp môn. b) Từ “Ngã ư thiện ác…” trở xuống là phân rõ về Dụng. c) Từ “Bạch ngôn…” trở xuống là trình bày về nhân duyên đạt được pháp. d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Trong phần b là Dụng, có ba: b 1) Đỗi với chúng sinh dấy khởi phương tiện Từ Bi; b 2) Từ “Ngã thường như thị…” trở xuống là dựa vào phương tiện trước đây hướng về duyên hóa độ; b 3) Nói kệ khuyến khích tu tập. Trong phần b2 là hướng về duyên hóa độ, có mười bảy văn: 1) Tổng quát về cứu giúp; 2) Cứu nạn trên biển; 3) Cứu nạn trên đất liền; 4) Làm nơi nương tựa; 5) Cứu nạn trên núi; 6) Cứu nạn giữa đồng vắng hoang vu; 7) Cứu nạn khốn khổ; 8) Cứu theo quốc độ; 9) Cứu theo năm Ấm; 10) Cứu theo thôn xóm; 11) Cứu theo sáu Nhập; 12) Cứu giúp mê hoặc; 13) Cứu giúp nghiệp ác; 14) Cứu giúp ách nạn; 15) Cứu giúp các khổ như ba Chướng; 16) Cứu giúp ba nghiệp tà; 17) Hạnh Phổ Hiền thâu nhiếp. Trong phần b3 là nói kệ, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi phần sau, tiếp là kệ tụng. Kệ có hai mươi mốt kệ: Một kệ đầu tụng về pháp môn trước đây, bốn kệ tiếp tụng về ban đầu tiến vào Địa thực hành bốn Vô lượng khuyến khích khiến cho đến cuối cùng, mười ba kệ tiếp tụng về Dụng thù thắng của sáu Nhập khuyến khích tu tập đến cuối cùng, ba kệ tiếp tụng tổng quát ca ngợi về Dụng thù thắng của pháp môn đã đạt được. Trong mười ba kệ trước: Pháp thân… là kệ về Túc mạng thông, ngã tâm… là hai kệ về Tha tâm thông, ngã dó thần… là hai kệ về Thân thông, thanh tịnh quảng trí là một kệ về Lậu tận thông. Trong phần c là nhân duyên đạt được pháp, đầu là hỏi, tiếp là đáp. Trong phần hỏi, một là hỏi về thời kiếp phát tâm, hai là hỏi về thời gian đạt được pháp môn. Đáp về hai câu hỏi trên đều có kết luận quy về, hai văn có thể biết. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ: a) Mở rộng; b) Kết luận. Tri thức thứ hai là Dạ Thiên tên gọi Thậm Thâm Diệu Đức Ly Cấu Quang Minh, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ hai, tiến vào pháp môn Bồ-tát Tịch Diệt Định Lạc Tinh Tiến, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là trình bày tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, mười kệ ca ngợi về đức của Tri thức trước đây, trong mười kệ: Sáu kệ đầu ca ngợi về đức của Báo thân, một kệ tiếp ca ngợi về nhân hạnh vốn có hiện ở trong thân, ba kệ tiếp ca ngợi về tác dụng lợi ích khó hết. Hai, giã từ hướng về. Ba, nghó đến, trong nghó đến có hai có thể biết. Bốn, dần đến nơi. Năm, đến nơi. Sáu, lễ lạy cung kính. Bảy, tự nói về phát tâm và thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, toàn văn có ba: Một là ca ngợi phát tâm; hai từ “Bồ-tát thành tựu thập pháp…” trở xuống là trình bày về pháp môn của Tự phần; ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ. Trong Tự phần có ba: a) Phân rõ về Thể tướng của pháp môn, có hai: Một là phân rõ về Thể tướng, văn này có bốn có thể biết, ngay phần này trong mục thứ ba là mười môn, bốn môn đầu là Tự lợi, sáu môn tiếp là Lợi tha; hai từ “Ngã dó…” trở xuống là kết luận về tên gọi. b) Từ “Tất kiến…” trở xuống là trình bày về Đại Dụng, văn này có bốn: Một là tổng quát phân rõ về tướng của Dụng; hai “Diệc bất trước…” trở xuống là đối với Dụng thành tựu về Thể của hạnh có bốn, đó là thiết lập-vặn hỏi-trả lời-kết luận, trả lời có thể biết; ba từ “Phân biệt liễu tri…” trở xuống là trình bày về hai Dụng song hành; bốn từ “Ngã như thị thường…” trở xuống là mở rộng phân rõ về tướng của Dụng, tướng còn lại có thể biết. c) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ: a) Riêng biệt giải thích; b) Tổng quát kết luận. Tri thức thứ ba là Dạ Thiên tên gọi Hỷ Mục, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ ba, tiến vào pháp môn Ly Cấu Hỷ Tràng, có ba: Một là trình bày về khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Kiến bỉ Dạ Thiên…” trở xuống là chính thức tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có bốn: Một là nêu rõ nơi chốn, hai là nêu rõ về người ấy, ba là chỉ dạy đến nơi thưa hỏi, bốn từ “Nhó thời thậm thâm…” trở xuống là dùng kệ tụng khuyến khích đi đến. Trong kệ: Mười hai kệ đầu là tổng quát tụng về mười pháp trước đây, một kệ tiếp là chỉ dạy khuyến khích Thiện Tài đi đến Tri thức sau. Trong mười hai kệ trước: Hai kệ đầu tụng về bốn pháp trước, mười kệ tiếp tụng về sáu pháp sau. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bốn: Một, giã từ hướng về. Hai, nghó đến tác dụng trong pháp môn của người trước đây mà thôi. Ba, lúc ấy Dạ Thiên Hỷ Mục gia hộ Thiện Tài khiến cho hướng về để ca ngợi Tri thức, có hai: Một là ca ngợi, hai là đạt được pháp môn, văn phần một có hai có thể biết. Bốn, từ “Thiện Tài vãng…” trở xuống là chính thức hướng về. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là nói về pháp môn của Tự phần; hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ. Trong Tự phần có bốn: a- Trình bày về Thể của pháp môn. b- Từ “Nhất thiết mao khổng…” trở xuống là phân rõ về Đại Dụng của pháp môn. c- Từ “Bạch ngôn…” trở xuống là nhân duyên đạt được pháp. d- Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về tên gọi của Tự phần. Trong phần b là Đại Dụng có hai: b 1) Hiện bày về đức; b 2) Từ “Nhó thời Thiện Tài giai đắc kiến văn…” trở xuống là được lợi ích. Văn phần b1 có ba: Một, phân rõ hiện bày về hành đức của mười Độ có hai, đầu là tóm lược giải thích, tiếp là kết luận tương tự mở rộng có thể biết; hai, từ “Hỷ Mục…” trở xuống là trình bày về hành đức của đời quá khứ có ba, đó là tổng quát-giải thích-kết luận; ba, từ “Thân vân…” trở xuống là hiện thân thâu nhiếp lợi ích. Văn này có bốn: 1) Hiện thân có ba, đó là tổng quát-giải thích-kết luận; 2) Từ “Vị nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về đức đã hiện bày; 3) Từ “Như thị đẳng…” trở xuống là phân rõ về âm thanh-ngôn giáo chủ động giải thích (năng thuyên); 4) Từ “Bỉ nhất nhất thân vân thuyết thị pháp thời…” trở xuống là phân rõ về nói pháp được lợi ích mà thôi, cũng tức là thứ nhất thân nghiệp, thứ hai ý nghiệp, thứ ba khẩu nghiệp. Trong phần một là Thân vân thuộc mười Độ, mỗi một loại đều có bốn nghóa: 1) Nơi nương tựa; 2) Thân; 3) Việc đã làm; 4) Lợi ích, có thể biết. Trong phần hai là hành của đời quá khứ, Phương tiện Ba-la-mật có năm câu: 1) Thể của hành; 2) Khéo léo tùy theo nơi chốn hiện bày Y-Chánh; 3) Nhận biết về tác dụng; 4) Tự tại vô ngại; 5) Phương tiện dựa vào sự việc. Nguyện có năm câu, dựa theo Phương tiện có thể biết. Lực có bốn câu: 1) Thể của hành; 2) Thành tựu về đức của các pháp nhân duyên; 3) Thành tựu nhiều pháp khéo léo; 4) Dựa vào sự việc. Trong Trí có ba mươi câu: 1) Thể; 2) Hiển hiện về tướng, tức là thiết lập giáo nghóa; 3) Dựa vào Trí; 4) Tướng của Trí biện tài; 5) Phạm vi; 6) Chủng loại thâu nhiếp lẫn nhau; 7) Công năng thù thắng của Trí; 8) Dựa vào sự việc; 9) Sai biệt; 10) Đến tận cùng nguồn gốc; 1 1) Chấp thủ tùy theo tác dụng; 12) Không trái với quy phạm thích hợp; 13) Trí làm nhân; 14) Dựa vào quốc độ; 15) Biết thời gian của Y báo; 16) Biết thời gian của Chánh báo; 17) Hiển bày rõ ràng người ở quả vị; 18) Biết về Trí của người ở quả vị; 19) Biết về người ở nhân vị; 20) Biết về Trí của người ở nhân vị; 2 1) Trí biết về phần vị của người ở nhân vị; 2 2) Công đức của người ở nhân vị; 2 3) Chuyển đổi người ở nhân vị; 24) Có năng lực giúp cho hạnh nguyện; 2 5) Trao truyền phạm vi của hành; 2 6) Biết về phạm vi của nói năng; 27) Pháp Nhân-đà-la; 2 8) Đồng pháp; 2 9) Biết pháp hợp với đạo; 3 0) Biết nơi hướng đến. Trong phần b2 là Thiện Tài được lợi ích, văn có hai: Một, được lợi ích; hai, kệ ca ngợi. Văn phần một có bốn, có thể biết. Ngay trong mười kệ: Bảy kệ đầu ca ngợi về công dụng hóa độ thuộc thân nghiệp của Tri thức, một kệ tiếp ca ngợi về công dụng hóa độ thuộc ý nghiệp, một kệ tiếp ca ngợi về công dụng hóa độ thuộc khẩu nghiệp, một kệ cuối tổng quát ca ngợi về công dụng hóa độ rộng lớn. Trong phần c là nhân duyên đạt được pháp, có ba: c 1) Kết thúc phần trước phát khởi hỏi về phần sau; c 2) Dạ Thiên dùng tám mươi chín kệ rưỡi để đáp; c 3) Kết luận quy về xưa nay. Trong phần đáp: Hai mươi lăm kệ đầu là đáp về phát tâm lâu mau, tiếp từ “Tùng thị hậu…” trở xuống là sáu mươi bốn kệ rưỡi đáp về nhân duyên đạt được pháp. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ: a) Riêng biệt giải thích; b) Kết luận. Tri thức thứ tư là Dạ Thiên tên gọi Diệu Đức Cứu Hộ Chúng Sinh, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ tư, tiến vào pháp môn Giáo Hóa Chúng Sinh Bồ-tát, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Nhó thời Dạ Thiên…” trở xuống là chính thức tiến vào. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có ba: Một, giã từ hướng về. Hai, nghó đến pháp môn trước đây. Ba, hướng về trông thấy. Lược bớt không có lễ lạy thưa hỏi mà thôi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là nói về pháp môn của Tự phần; hai từ “Chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ. Một là trong Tự phần có bốn: a) Dạ Thiên vì hiện bày pháp môn khiến cho Thiện Tài đạt được Thể của pháp thuộc Tự phần. b) Từ “Tức đắc thử Tam-muội…” trở xuống là trình bày về Lực Dụng của Tam- muội. c) Từ “Bạch ngôn…” trở xuống là trình bày về nhân duyên đạt được pháp. d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của Tự phần. Trong phần a có bốn: a 1) Phân rõ về pháp môn của Bồ-tát dựa vào; a 2) Hiện bày ánh sáng nơi thân; a 3) Phân rõ về nơi hướng đến; a 4) Đạt được lợi ích. Trong phần b là Lực Dụng của Tam-muội có ba: b 1) Trình bày về tự tại ở giữa chúng sinh đã giáo hóa, trong phần này có bốn: 1- Nương tựa, 2- Nơi chốn; 3- Nhận biết; 4- Lợi ích. Trong văn này có bốn: Một là sáu đường, hai là bốn sinh loại, ba là dựa theo tướng, bốn từ “Mãn túc Đại nguyện…” trở xuống là giải thích về ý giáo hóa thành tựu. b 2) Từ “Thiện Tài kiến bỉ…” trở xuống là Thiện Tài được lợi ích khởi tâm cung kính. b 3) Từ “Tức xả tướng hảo…” trở xuống là giáo hóa đến hơi thở cuối cùng, vì vậy làm xúc động đến tâm tư khiến cho Thiện Tài nói kệ ca ngợi. Trường hàng và kệ là hai. Văn kệ này có hai mươi kệ rưỡi, có ba: Một, mười kệ rưỡi đầu tóm lược ca ngợi về tác dụng giáo hóa tự tại của Dạ Thiên; hai, từ “Hỷ Mục…” trở xuống là ba kệ ca ngợi về nguyên nhân được thấy; ba, bảy kệ còn lại mở rộng ca ngợi Dạ Thiên giáo hóa các chúng sinh thành tựu hạnh thù thắng ấy. Trong phần c là nhân duyên đạt được pháp, có hai: c 1) Thiện Tài tóm lược ca ngợi về pháp môn, tức là đưa ra ba câu hỏi; c 2) Từ “Thiện nam tử…” trở xuống là Thiên thần mở rộng trả lời. Trong trả lời: Một là ca ngợi về pháp sâu xa, hai từ “Đế thính…” trở xuống là chính thức trả lời về nhân duyên đạt được pháp và thời kiếp xa gần. Trả lời về tên gọi ở trong phần bốn là kết luận. Văn phần một có ba: Một, tổng quát ca ngợi; hai, từ “Nhất thiết nhân thiên…” trở xuống là không phải cảnh giới của tâm nhỏ bé; ba, từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu có hai, có thể biết. Phần hai là chính thức trả lời, có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là khuyên nhủ Đại chúng lắng nghe, hai là phân rõ. Trong phân rõ có hai: Một, gặp một Đức Phật được nghe Chánh pháp; hai, từ “Kỳ hậu kiếp dó…” trở xuống có năm trăm Đức Phật xuất thế, làm ra đủ loại hình thể mà đến cúng dường. Văn này có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận về lợi ích. Văn phần một gặp một Đức Phật, có tám: 1) Trong thời kiếp Đức Phật xuất thế; 2) Từ “Thời bỉ thành…” trở xuống là trình bày về vị vua sở thuộc; 3) Từ “Bỉ hữu nữ…” trở xuống là trình bày về thân vốn có tu hành; 4) Từ “Thời bỉ thành Bắc…” trở xuống là trình bày về Đức Phật thi thiết giáo hóa; 5) Từ “Thời nữ tức giải…” trở xuống là trình bày về duyên ban đầu tiếp nhận giáo hóa được lợi ích; 6) Từ “Nhó thời Diệu Đức…” cho đến “Ư đại chúng trung…” trở xuống là chính thức trình bày về đạt được lợi ích, phần này có bốn: Một là Đức Phật thuyết kinh, hai là người nữ đạt được Định, ba là đạt được tâm thù thắng, bốn là đạt được pháp môn thù thắng; 7) Từ “Phục ư thị tiền…” trở xuống là chuyển sang giải thích về duyên khởi xưa kia; 8) Từ “Nhó thời Minh Tịnh Diệu Vương đẳng…” trở xuống là kết luận quy về xưa nay, có bốn câu có thể biết. Trong văn phần bốn là thi thiết giáo hóa, có hai: Một là trình bày về Đức Phật thuyết pháp giáo hóa khắp nơi; hai từ “Nhó thời Phổ Hiền Bồ-tát…” trở xuống là riêng vì đương cơ. Trong văn phần một có bốn mục: Một, phân rõ về cây Bồ-đề trang nghiêm; hai, lúc đầu Đức Phật thành đạo phát ra mười hai loại ánh sáng nuôi dưỡng căn khí của chúng sinh, tức là mười hai Trú; ba, từ “Mãn thất nhật…” trở xuống là nhận biết đến lúc tiếp nhận đạo pháp mặt đất chấn động phát ra âm thanh, và tùy theo căn khí thích hợp để chuyển pháp luân, tức là làm thành ba; bốn, từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu. Trong chuyển pháp luân có hai mươi câu: 1) Hai lợi ích cho ngoại phàm phu…; 2) Một lợi ích cho Tiểu thừa; 3) Mười lợi ích cho mười Tín; 4) Từ “Lập vô lượng…” trở xuống là lợi ích cho mười Giải; 5) Từ “Lập vô lượng trú Bồ-tát…” trở xuống là lợi ích cho mười Hạnh; 6) Từ “Vô lượng thanh tịnh…” trở xuống là lợi ích cho mười Hồi Hướng khiến Hồi Hướng tiến vào Địa thứ nhất; 7) Cho đến Địa thứ chín tiến vào Địa thứ mười; 8) Từ “Lập vô lượng chúng sinh dó…” trở xuống là khiến cho người ở Địa thứ mười tiến vào phần an trú đến nơi cuối cùng; 9) Thành tựu phần vị của hạnh Phổ Hiền. Văn phần hai là đương cơ, có ba: Một, Phổ Hiền quán sát căn cơ; hai, vua và mọi người nhận biết nói kệ chính thức bày tỏ; ba, chuẩn bị đồ vật cúng dường. Trong mười kệ của Thánh Vương ca ngợi Đức Phật, có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ. Trong kệ: Một kệ đầu ca ngợi Đức Phật khuyến khích mọi người hướng đến, sáu kệ tiếp ca ngợi về khó gặp được, hai kệ tiếp chỉ ra ánh sáng khiến cho vui mừng, một kệ tiếp khuyến khích mọi người nhanh chóng đi đến. Hai là trong trùng tụng của Dạ Thiên, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi, tiếp là kệ. Văn kệ có ba mươi tám kệ rưỡi, có bốn: Hai kệ đầu là khuyên nhủ lắng nghe nhận lời giảng nói; ba mươi ba kệ rưỡi tiếp là sơ lược trình bày về một trăm mười Đức Phật, tổng quát tụng về chư Phật như vi trần trước đây; hai kệ tiếp là dựa vào Đức Phật đạt được pháp môn; một kệ sau cuối là khuyến khích làm cho Thiện Tài thuận theo nhanh chóng tu tập đầy đủ. Trong phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ: a- Giải thích; b- Kết luận. Tri thức thứ năm là Dạ Thiên tên gọi Tịch Tónh Âm, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ năm, tiến vào pháp môn Vô Lượng Hoan Hỷ Trang Nghiêm, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Dạ Thiên cáo…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, chỉ có bốn: Một, giã từ rút lui. Hai, hướng về. Ba, lễ lạy. Bốn, đưa ra hành của Địa mà thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là ca ngợi về phát tâm, hai từ “Ngã thành tựu dó…” trở xuống là nói về pháp môn của Tự phần; ba từ “Chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong Tự phần có bốn: a) Phân rõ Thể của pháp môn. b) Từ “Bạch ngôn…” trở xuống là trình bày về đức dụng của pháp môn. c) Từ “Bạch ngôn Thiên thần…” trở xuống là nhân duyên đạt được pháp. d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của Tự phần. Trong đức dụng: Đầu là hỏi, tiếp là đáp. Hỏi có bốn câu: Một là hỏi về đức dụng của nhiếp hóa, hai là hỏi về phạm vi sai biệt thuộc Thể tướng-cảnh giới của pháp môn, ba là hỏi về hành phương tiện tu tập, bốn là Chánh hạnh. Trong đáp cũng có bốn, có thể biết. Văn đáp thứ nhất, có ba: Một là trình bày về quán sát tu tập, hai từ “Ngã vi…” trở xuống là chính thức trình bày về nhiếp hóa, ba từ “Thiện nam tử…” trở xuống là tổng quát kết luận. Văn phần một có chín tâm có thể biết. Trong phần hai là chính thức nhiếp hóa, có năm: Một, tổng quát vì chúng sinh đau khổ khiến cho lìa xa đau khổ; hai, từ “Nhược kiến tại gia…” trở xuống là dùng môn mười Độ… để giáo hóa; ba, từ “Vô sắc giới…” trở xuống là giáo hóa người vướng vào Chánh báo; bốn, từ “Vị viên quán…” trở xuống là giáo hóa người vướng vào Y báo; năm, từ “Vị tham dục…” trở xuống là dùng môn năm Độ để thâu nhiếp tu hạnh thù thắng. Trong phần ba là kết luận: Câu đầu kết luận về câu thứ nhất tổng quát bày tỏ trước đây, câu tiếp kết luận về vướng vào Y báo-Chánh báo trước đây, một câu tiếp kết luận về các môn như mười Độ… Nhưng cũng có thể chỉ có ba ý mà kết luận chung về văn trên đây. Văn có hai, đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt. Văn đáp thứ hai về cảnh giới trên đây, có bốn: Một là phân rõ về nhân hạnh của cảnh đã quán, hai từ “Hựu thiện nam tử…” trở xuống là trình bày về quả đức của cảnh đã quán, ba từ “Khởi phi…” trở xuống là phai mờ tướng tiến vào thật có ba có thể biết, bốn từ “Phật tưt thử Bồ- tát…” trở xuống là kết luận. Văn đáp thứ ba về phương tiện tu tập trên đây, có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận có thể biết. Trong riêng biệt có ba mươi mốt câu có thể biết. Văn đáp thứ tư về Chánh hạnh, có hai: Một là hỏi, hai là đáp. Trong đáp có năm, có thể biết. Trong phần ba trình bày về phát tâm xa gần: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong đáp: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trong trường hàng có sáu: 1) Đức Phật đạt được pháp; 2) Từ “Bỉ đạo tràng thượng…” trở xuống là nhờ vào pháp lực cho nên thường được thấy chư Phật; 3) Từ “Kinh Phật sát…” trở xuống là lại nhờ vào pháp lực cho nên thấy được bốn vị Phật của kiếp Hiền; 4) Từ “Dó thử pháp giới…” trở xuống là trở lại đạt được vô lượng pháp môn; 5) Từ “Nhữ sở vấn ngã…” trở xuống là kết luận quy về rộng lớn chân thật không có tướng tăng giảm; 6) Từ “Thị cố…” trở xuống là khuyến khích tu hành. Trong phần kệ tụng, có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là chánh thức kệ tụng. Tụng có mười kệ phân làm ba: Một kệ đầu là nhắc nhủ lắng nghe khuyến khích tu tập, bốn kệ tiếp là tụng về nhân duyên đã đạt được pháp môn trước đây, năm kệ còn lại tụng về nghóa thực hành thành tựu lợi ích chúng sinh trước đây. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ: a- Riêng biệt; b- Kết luận. Tri thức thứ sáu là Dạ Thiên tên gọi Diệu Đức Thủ Hộ Chư Thành, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ sáu, tiến vào pháp môn Thậm Thâm Diệu Đức Tự Tại Âm Thanh, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy tiến vào; hai từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Dạ Thiên cáo…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, Thiện Tài sắp giã từ, trước tiên dùng kệ ca ngợi về báo ân, trong mười kệ có hai: Đầu là sinh khởi, sau là kệ tụng. Trong tụng: Ba kệ đầu ca ngợi nhờ vào giáo cho nên lìa các chấp thủ được thấy Pháp thân, hai kệ tiếp ca ngợi Bồ-tát lìa ba chướng cho nên được giải thoát tự tại, ba kệ tiếp ca ngợi Bồ-tát thâu nhiếp lợi ích, hai kệ sau cùng khiến cho chúng lúc ấy lìa xa chấp thủ. Hai, chính thức lễ lạy giã từ. Ba, nghó đến pháp môn trước đây. Bốn, hướng đến. Năm, thấy tướng thù thắng. Sáu, cung kính lễ lạy. Bảy, thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có ba: Một là khen ngợi người phát tâm có thể hỏi, hai từ “Ngã dó…” trở xuống là nói về pháp đã đạt được của Tự phần; ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong Tự phần có bốn: a) Phân rõ Thể của pháp môn. b) Từ “Thị cố Phật tử ngã vị…” trở xuống là trình bày về Dụng của pháp môn. c) Từ “Bạch ngôn Dạ Thiên…” trở xuống là nhân duyên đạt được pháp xa gần. d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của Tự phần. Trong phần b là Dụng của pháp môn, có bốn: b 1) Hai mươi ba câu trình bày về phương tiện nhiếp hóa quán sát tu tập, có ba: Một là một câu thiết lập, hai từ “Ư nhất thiết pháp…” trở xuống là giải thích, ba từ “Phật tử ngã đẳng…” trở xuống là kết luận. Văn phần hai có bốn: 1- Dựa vào pháp; 2- Dựa vào thế giới; 3- Từ “Đẳng tâm…” trở xuống là dựa vào chúng sinh; 4- Từ “Phật tử ngã thường…” trở xuống là thành tựu đức dụng của tâm. b 2) Từ “Phục thứ Phật tử…” trở xuống là dùng mười loại hành quán sát về pháp giới, hành thành tựu hợp với pháp, có bốn có thể biết. b 3) Từ “Ngã như thị niệm…” trở xuống là hai mươi ba câu chính thức trình bày về nhiếp hóa đối với duyên Lợi tha. b 4) Từ “Ngã dó thành tựu…” trở xuống là kết luận. Ngay văn phần b3 là đối với duyên Lợi tha, có hai: Một là phân rõ về phương tiện Lợi tha, hai từ “Ngã thâm nhập…” trở xuống là kết luận về Dụng rộng lớn. Văn phần một có hai: 1- Phân rõ về đức của người chủ động duy trì, có ba văn là đưa ra số-giải thích và kết luận; 2- Trình bày về pháp đã thâu nhiếp duy trì, văn này có hai, đầu là giải thích, sau là kết luận mà thôi. Trong phần c là nhân duyên đạt được pháp xa gần, đầu là hỏi, sau là đáp. Trong đáp có bốn: Một là nói về nhân duyên đạt được pháp của đời trước; hai từ “Phật tử…” trở xuống là quy về xưa nay; ba từ “Phật tử thứ hữu…” trở xuống là lại được gặp vô lượng Đức Phật đạt được các pháp môn; bốn từ “Phục thứ Phật tử…” trở xuống là lại tiếp tục được gặp vô lượng Đức Phật đạt được lợi ích thù thắng. Trong phần ba là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai: a) Sơ lược mở rộng; Nói rõ về mình không yên phận, có thể biết. Tri thức thứ bảy là Dạ Thiên tên gọi Khai Phu Thọ Hoa, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ bảy, tiến vào pháp môn Vô Lượng Hoan Hỷ Trí Túc Quang Minh. Trong văn có ba nghóa giống như trước: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có bốn: Một, nêu rõ nơi chốn; hai, tên gọi của người; ba,chỉ dạy thưa hỏi; bốn, kệ trùng tụng. Trong phần trùng tụng của Dạ Thiên, có ba: Một là trường hàng sinh khởi phần sau, hai là kệ tụng, ba là kết luận. Văn thứ hai là kệ tụng có mười bốn kệ: Hai kệ đầu ca ngợi về pháp môn sâu xa vi diệu, mười kệ rưỡi tiếp tụng về trong kiếp được gặp Đức Phật đạt được pháp môn, một kệ rưỡi sau cùng tụng về sau này được gặp Đức Phật xuất thế đạt được lợi ích càng thù thắng. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, Thiện Tài đạt được pháp tiến sâu vào Đại Dụng. Hai, kệ ca ngợi về hạnh của báo ân, trong mười bốn kệ của Thiện Tài: Ba kệ đầu ca ngợi về chứng đức của Tự lợi, ba kệ tiếp ca ngợi về Lợi tha, tám kệ sau trình bày chung về hai công dụng của Tự-tha. Ba, lễ lạy giã từ. Bốn, trở lại tu pháp môn trước đây. Năm, hướng đến. Sáu, thấy tướng. Bảy, lễ lạy. Tám, thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là trình bày về pháp môn của Tự phần; hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong Tự phần có năm: a) Tổng quát trình bày về đức dụng của pháp môn, có ba: Một là khiến cho đạt được niềm vui thế gian, hai là khiến cho đạt được hành lìa khổ xuất thế gian, ba là khiến cho thành tựu về hành của pháp thiện. b) Từ “Ngã dó thành…” trở xuống là chính thức trình bày về Thể tên gọi của pháp môn. c) Từ “Thiện Tài bạch ngôn…” trở xuống là trình bày về Đại Dụng của pháp môn. d) Từ “Bạch ngôn Thiên thần…” trở xuống là trình bày về nhân duyên phát tâm đạt được pháp xa gần. e) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận. Trong phần c là Đại Dụng, có ba: c 1) Hỏi; c 2) Đáp; c 3) Kết luận. Trong đáp có năm: 1- Phân rõ về tương; 2- Suy ra công đức thuộc về Phật; 3- Tìm nhân trước kia; 4- Y theo khởi hạnh thù thắng; 5- Nêu ra Đức Phật làm chứng, có thể biết. Trong phần d là phát tâm xa gần, có hai: d 1) Hỏi; d 2) Đáp. Trong đáp có hai: 1- Trình bày về sâu xa khó biết; 2- Từ “Phật tử nãi vãng…” trở xuống là chính thức đáp. Hai phần này đều có kệ và trường hàng. Trường hàng phần một có năm văn, có thể biết. Kệ phần một có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, chính thức tụng. Tụng có hai mươi mốt kệ rưỡi, có năm: Một kệ đầu ca ngợi pháp môn sâu xa thù thắng; bốn kệ tiếp tụng về không phải là sự nhận biết của hàng phàm phu Tiểu thừa trên đây; mười bốn kệ rưỡi tiếp tụng về chỉ có Đại tâm của Bồ-tát mới có thể nhận biết, tức là tụng chung về nghiệp hạnh trên đây; một kệ tiếp khuyến khích Thiện Tài chịu khó tu tập; một kệ sau là suy ra công đức do Phật, đồng ý giảng giải sinh khởi phần sau. Trường hàng phần hai chính thức trình bày về nhân hạnh xưa kia, có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Phần trường hàng có sáu: Một là trình bày về nhân duyên trong đời Phật quá khứ; hai từ “Phật tử bỉ thế…” trở xuống là trình bày về nhân duyên phát khởi giáo hóa ở đời trước, có bốn có thể biết; ba từ “Thời bỉ hội trung…” trở xuống là ca ngợi về đức giáo hóa của vua, có hai có thể biết; bốn từ “Thời bỉ nữ nhân…” trở xuống là nói kệ hiển bày về Đại Hạnh của vua thành tựu; năm từ “Vương tán nữ ngôn…” trở xuống là ca ngợi người nữ và quyến thuộc thành tựu đức về phước trí; sáu từ “Thiện nam tử…” trở xuống là kết luận quy về xưa nay. Trong phần bốn là người nữ nói kệ ca ngợi về đức của vua, có năm mươi hai kệ, có ba: Một, sinh khởi; hai, kệ ca ngợi; ba, hiển bày nghi thức cung kính. Phần hai là kệ có hai: Một là hai mươi lăm kệ đầu ca ngợi về đức giáo hóa của vua, hai từ “Vương phụ danh Tịnh Quang…” trở xuống là hai mươi bảy kệ ca ngợi về quyến thuộc thù thắng của vua. Văn phần một có ba: Sáu kệ đầu trình về lúc vua chưa sinh có đủ các điều ác, mười hai kệ tiếp ca ngợi lúc vua xuất thế khắp nơi yên vui đoạn ác tu thiện, bảy kệ sau ca ngợi vua thuyết pháp làm lợi ích chúng sinh. Trong phần hai là ca ngợi quyến thuộc có bốn: Ba kệ đầu nêu ra cha mẹ của vua dùng Chánh pháp sửa trị thế gian, chín kệ tiếp ca ngợi lúc vua xuất thế khắp nơi yên vui, ba kệ tiếp ca ngợi vua dạo khắp ao hồ vườn cây nhà cửa, mười hai kệ tiếp là giữa hồ sen xuất hiện Đồng tử quy y cho thế gian. Trong trùng tụng phần hai là mười kệ, có ba: Năm kệ đầu dùng năm Thông tự tại nhận biết sự việc xuất thế của chư Phật, bốn kệ tiếp dùng Lậu tận trí thông nhận biết về pháp xuất thế, một kệ sau cùng là khuyến khích tu tập Phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, văn có hai có thể biết. Tri thức thứ tám là Dạ Thiên tên gọi Nguyện Dũng Quang Minh, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ tám, tiến vào pháp môn Tùy Ứng Hóa Giác Ngộ Chúng Sinh Trưởng Dưỡng Thiện Căn. Trong văn có ba nghóa giống như trước: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba câu có thể biết. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bốn: Một, giã từ rút lui. Hai, đi đến. Ba, thấy tướng, do đó văn sau nói hướng về nơi hiển hiện, tức là chỉ ra tướng này. Bốn, cung kính lễ lạy. Trong phần ba là chính thức tiến vào, có hai: Một là nói về pháp môn của Tự phần; hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ mà thôi. Trong Tự phần có bốn: Từ “Đắc thập chủng tâm…” trở xuống là đối với Tri thức thì mười loại tâm… tức là Thể của pháp, cũng có thể mười loại tâm thuộc về văn thứ năm của phần thứ hai là theo sự chỉ dạy tiến vào trước đây, tức là đương cơ thưa hỏi, chỉ vì hiển bày về Địa thứ tám vốn là Vô tướng cho nên không nói đến thưa thỉnh, cùng pháp về sau mới là Thể của pháp môn, thích hợp có thể suy nghó thâu nhiếp mà thôi. Từ “Thiên đản hữu kiên…” trở xuống là nói kệ ca ngợi. Từ “Bạch ngôn…” trở xuống là thưa hỏi về tên gọi của pháp môn và nhân duyên thành đạo xa gần. Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận. Văn phần a có hai: a 1) Đạt được mười tâm; a 2) Đạt được pháp thích ứng với Bồ-tát. Mười pháp có ba: Nêu ra-giải thích và kết luận. Số tuy có mười nhưng nêu ra chỉ có tám câu, câu riêng biệt thì trước là nêu ra-tiếp là giải thích có thể biết. Trong phần hai là pháp giống nhau, tổng quát có bốn: Một là tổng quát, hai từ “Sở vị…” trở xuống riêng biệt có một trăm câu, ba từ “Đắc như thị…” trở xuống là kết luận, bốn là phân rõ về lợi ích. Giống nhau (cọng) có ba nghóa: Một là thầy và đệ tử giống nhau, hai là trong phần vị nhiếp pháp giống nhau, ba là duyên với pháp giống nhau nơi khác cho nên có thể thực hành giống nhau. Trên đây là Thiện Tài đi khắp nơi đến Địa này bởi vì không có công dụng, cho nên mở rộng phân rõ về đạt được lợi ích. Văn phần b là kệ có hai: b 1) Trường hàng trình bày về ý nói kệ; b 2) Chính thức ca ngợi. Trong kệ có mười kệ: Một kệ đầu là đối với Tri thức khởi lên thâu nhiếp tâm mình, sáu kệ tiếp trình bày về nhờ Tri thức đạt được pháp thưa thỉnh nói rộng ra cho nghe, ba kệ sau cùng là nghó đến đức khó báo đền. Trong phần c là phân rõ đáp về xa gần, văn có hai: c 1) Hỏi, có ba câu hỏi có thể biết; c 2) Đáp, văn đáp có ba: Một là đáp về tên gọi của pháp môn, hai từ “Ngã nhập thử…” trở xuống là trình bày về Đại Dụng của pháp, ba từ “Như nhữ sở vấn…” trở xuống là trình bày đáp về phát tâm xa gần. Lại cũng có thể phát tâm xa gần là đáp câu hỏi thứ hai; Đại Dụng là đáp câu hỏi thứ ba về thành Phật, tức là bởi vì nhân rộng lớn tùy theo căn cơ cao thấp, cho nên chưa nhất định làm Phật. Trong đáp thứ hai về Đại Dụng, có năm: Một, tổng quát nói về tiến vào pháp môn này đạt được bình đẳng lìa xa nhiễm trước, tức là Lý trí; hai, loại bỏ tất cả các Sắc, Hậu trí hiểu rõ tánh của Sắc; ba, từ “Ư niệm niệm trung hiện như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận về thần lực tự tại; bốn, từ “Hoặc kiến đẳng…” trở xuống là mở rộng hiển bày về hành tướng-phẩm loại…; năm, từ “Ngã trú thử…” trở xuống là kết luận ca ngợi về lợi ích rộng lớn của Phật sự. Trong phần ba là đáp về phát tâm xa gần đạt được pháp trước đây: Đầu là nhắc lại câu hỏi, sau là đáp. Trong đáp có hai: Một câu đầu là tổng quát, tiếp theo là riêng biệt. trong riêng biệt có sáu: Phân rõ về pháp sâu xa. Văn này có hai: Đầu là pháp có năm câu; sau dùng năm dụ theo thứ tự hợp lại, tức là tùy theo kết luận. Một là dụ về Trí môn viên mãn cứu cánh, hai là dụ về Trí thể vốn thanh tịnh không mê hoặc, ba là dụ về Trí môn lìa chướng lợi ích chúng sinh, bốn là dụ về Trí dụng tùy cơ khó hoại, năm là dụ về tự tại khắp nơi không tổn hại. Từ “Bồ-tát trí…” trở xuống là dùng ngôn ngữ thế gian nói về thời gian xa gần, đầu là đồng ý, tiếp là giảng giải, hai văn có thể biết. Kết luận quy về xưa nay. Từ “Phật tử ngã ư nhó thời…” trở xuống là chuyển báo gặp được nhiều Đức Phật. Từ “Thứ hữu kiếp danh Nhật Quang…” trở xuống là chuyển kiếp được thấy sáu mươi ức Đức Phật khuyến khích phát tâm tu hành, văn này có hai có thể biết. Kệ tụng, văn này có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là chính thức kệ tụng. Văn kệ có ba mươi sáu kệ, văn có sáu đoạn: Một kệ đầu tụng về nương theo Phật lực nói đến pháp sâu xa trước đây; mười ba kệ tiếp tụng về văn Thái tử chịu thay ngục tù cứu giúp chúng sinh trong quá khứ…; năm kệ tiếp tụng về lúc đầu Đức Phật nghe pháp phát tâm xuất gia…; sáu kệ tiếp tụng về từ đó trở về sau được gặp chư Phật tu tập pháp môn…; tám kệ tiếp trình bày về Đại Dụng của pháp môn; ba kệ sau cùng ca ngợi pháp môn đầy đủ công đức thắng diệu khó nghó bàn. Văn còn lại có thể hiểu. Tri thức thứ chín là vị Trời tên gọi Diệu Đức Viên Mãn, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ chín, tiến vào pháp môn Vô Lượng Cảnh Giới Thọ Sinh Tự Tại. Lưu-di-ni là nơi Thái tử giáng sinh. Trong văn có ba nghóa giống như trước: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ. Hai, nghó đến pháp môn trước đây tăng lên. Ba, từ từ đến nơi. Bốn, từ “Châu biến…” trở xuống là tìm kiếm. Năm, thấy tướng. Sáu, cung kính lễ lạy. Bảy, thưa hỏi. Trong phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, có hai: Một là nói về pháp môn của Tự phần; hai từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Trong Tự phần có bốn: a) Phân rõ về Thể của tên gọi pháp môn. b) Từ “Thiện Tài bạch ngôn Thiên thần…” trở xuống là trình bày về Đại Dụng của pháp môn. c) Từ “Thiện Tài bạch…” trở xuống là đạt được pháp xa gần. d) Từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Văn phần a là Thể của tên gọi pháp môn, có hai: a 1) Phân rõ về phương tiện; a 2) Đưa ra Thể của tên gọi pháp hành. Văn phần a1 có ba: Một là trường hàng, hai là kệ tụng, ba là kết luận về lợi ích. Trong trường hàng có ba: Một, nêu ra mười tên gọi ca ngợi đức; hai, từ “Hà đẳng…” trở xuống là ca ngợi riêng biệt giải thích; ba, từ “Trú thị…” trở xuống là kết luận, phần này có mười câu. Văn phần một có ba: Một là nêu ra mười số, hai là ca ngợi đức, ba từ “Hà đẳng vi thập…” trở xuống là nêu ra mười tên gọi, có hai có thể biết. Trong phần hai là riêng biệt giải thích, mười môn đều có ba: Một là nêu ra tên gọi, hai là giải thích, ba là kết luận. Trùng tụng có mười kệ, theo thứ tự tụng về mười pháp thọ sinh trước đây, có thể biết. Trong phần b là Đại Dụng của pháp môn, có ba: b 1) Hỏi; b 2) Đáp; b 3) Từ “Ngã nhất niệm trung tất tri…” trở xuống là kết luận về nhận biết tự tại, phần này có hai có thể biết. Trong phần b2 là đáp, có năm: Một, vị Trời đạt được pháp môn Cụ Túc Thọ Sinh sinh ở rừng này, có bốn câu. Hai, từ “Thời thử lâm…” trở xuống là hiện bày mười tướng lành: Một là lập Tông, hai là hỏi, ba là giải thích, bốn là kết luận, năm là trình bày về lợi ích ban đầu. Ba, từ “Phật tử Ma-da…” cho đến “Sinh Thái tử thời…” trở xuống là nhân hạnh của ánh sáng trí tuệ dùng tướng để hiển bày Thể, có ba câu có thể biết. Bốn, từ “Tất-lợi-xoa thọ…” trở xuống là Đại Dụng tự tại thâu nhiếp đức vô ngại, có ba câu. Năm, từ “Sinh Bồ-tát thời như không…” trở xuống là hiển bày về thanh tịnh vô nhiễm, văn có ba: Một là hiện thân làm lợi ích, hai là thuận theo pháp thành tựu tương tự, ba là thành tựu mà không tạo tác. Phần một có bốn dụ: Vô cùng trong sáng như mặt trời giữa hư không, lập tức hiện bày giữa chúng sinh ví như chớp điện, yêu thương trải khắp dần dần lợi ích như núi nổi mây, hình tượng hiện bày trừ hết mê lầm giống như ngọn đèn sáng trong ngôi nhà tăm tối. Trong phần c là nhân duyên đạt được pháp: Đầu là hỏi, tiếp là đáp. Trong đáp: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trong trường hàng có bốn: Một, thời kiếp Đức Phật thị hiện; hai, từ “Bỉ thế giới nãi chí Vương đô…” trở xuống là trình bày về nhân duyên thọ thân; ba, từ “Ư ý vân hà…” trở xuống là kết luận quy về xưa nay; bốn, từ “Ngã tùng thị lai…” trở xuống là phân rõ về tu hạnh rộng lớn. Trong phần tụng có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là kệ tụng. Văn kệ có ba mươi ba kệ rưỡi, có bốn: Một kệ đầu là nhắc nhủ lắng nghe đồng ý giảng giải, tám kệ tiếp tụng về pháp môn đã đạt được ban đầu trước đây, hai mươi ba kệ rưỡi tiếp tụng về trải qua chư Phật tu tập khiến cho thêm rộng trên đây, một kệ sau cuối là kết luận về khó nghó bàn. Phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có hai có thể biết. Tri thức thứ mười là Cù-di, Trung Hoa gọi là Minh Nữ, tức là phần vị Bồ-tát Địa thứ mười. Thái tử có ba vị Phu nhân, vị này là Phu nhân thứ ba. Da-du Đà-la là vị Phu nhân thứ nhất, vị Phu nhân thứ hai tên gọi Ma-nô Đà-la, Trung Hoa gọi là Ý Trì, vị này ở trong cung Phật chỉ nghe tên gọi chứ không thấy hình dáng. Minh Nữ này biểu thị cho hạnh Từ Bi đến cuối cùng, tiến vào pháp môn Phân Biệt Quán Sát Nhất Thiết Bồ-tát Tam-muội Hải. Trong văn có ba nghóa giống như trước: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có ba nghóa giống như trước, có thể biết. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, giã từ rút lui. Hai, nghó đến pháp môn trước đây tăng lên. Ba, hướng về. Bốn, từ “Chí Bồ-tát hội đường…” trở xuống là trình bày về nơi đến, tức là phần tổng tập về Địa. Năm, từ “Nhó thời bỉ Thiên…” trở xuống là hiển bày hành phương tiện thù thắng hạn định phần vị tự nhiên, tức là hành quyến thuộc thù thắng. Sáu, từ “Nhó thời ly ưu hoại…” trở xuống là làm sáng tỏ về hành ấy đầy đủ tiến vào cảnh giới thù thắng, tức là phần Tam-muội. Bảy, cung kính lễ lạy lắng nghe. Tám, tự nói về phát tâm thưa hỏi. Trong phần năm là đầy đủ hành phương tiện thù thắng, văn có sáu: Một, quy tụ hành quyến thuộc. Hai, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là ca ngợi Thiện Tài đầy đủ hành Tự-tha trong Tự phần. Ba, từ “Ngã quán Nhân giả…” trở xuống là ca ngợi Thiện Tài đầy đủ hành Tự lợi-Lợi tha trong hành thuộc phần thù thắng. Bốn, từ “Phục ngã quán nhân giả…” trở xuống gồm chung pháp ba đời trong thắng tiến, văn này có ba có thể biết. Năm, từ “Thiện Tài đáp…” trở xuống là thuật về Phật sự và Lợi tha như nhau, có hai: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt hiển bày. Văn này có ba: 1) Duyên với hai cảnh trái-thuận để điều tâm, văn này có bốn: Một là pháp, hai là dụ, ba là hợp, bốn là mở rộng về thành tựu; văn này có ba. 2) Từ “Nhược Bồ-tát như thị hành giả…” trở xuống là thuật về thành tựu nghiệp dụng. 3) Từ “Thiên thần…” trở xuống là kết luận. Sáu, từ “Thiện Tài tương thăng pháp đường…” trở xuống là trình bày về một hành tất cả hành cùng hiện bày rõ ràng về tướng thù thắng vi diệu, văn này có ba: 1) Sắp bước lên tức là hướng về phần vị chính thức; 2) Từ “Bỉ ly ưu đẳng…” trở xuống là hiển bày về nghóa huân tập giúp đỡ; 3) Kệ tụng hiển bày Thiện Tài chịu khó tìm cầu là nêu ra nghóa thành Phật. Nguyên cớ đi đến nơi vị Trời, là bởi vì từ đây về sau phần vị Tri thức thù thắng hơn, biểu thị thành tựu nhờ vào nhiều phương tiện. Kệ có hai: Một là sinh khởi, hai là kệ tụng. Văn tụng có mười kệ phân ba: Ba kệ đầu là hành Tự lợi, sáu kệ tiếp là hành Lợi tha, một kệ sau cuối ca ngợi người chủ động gần gũi Thiện hữu được gặp chư Phật. Trong phần sáu là tiến vào cảnh giới thù thắng, có bốn: Một, tổng quát phân rõ về cảnh giới thù thắng, có hai có thể biết. Hai, tìm kiếm. Ba, thấy tướng thù thắng. Bốn, từ “Tất ư…” trở xuống là trình bày về đức hạnh thanh tịnh. Trong phần ba từ “Nhó thời Cù-di tác thị ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới, có ba: Một là ca ngợi người chủ động thưa hỏi và đồng ý giảng nói; hai từ “Nhược Bồ-tát…” trở xuống là pháp môn của Tự phần; ba từ “Chư Đại…” trở xuống là tôn sùng ngưỡng mộ phần thù thắng. Văn phần một có ba có thể biết. Trong Tự phần có năm: a) Đưa ra nghiệp tự tại tu quán phương tiện. b) Từ “Thiện nam tử…” trở xuống là trình bày về Thể thuộc tên gọi của pháp môn. c) Từ “Thử pháp môn…” trở xuống là phân rõ Đại Dụng của pháp môn. d) Từ “Đại Thánh phát tâm…” trở xuống là trình bày về nhân duyên phát tâm xa gần. e) Từ “Duy ngã đẳng…” trở xuống là kết luận về sự nhận biết của mình. Văn phần a là nghiệp tự tại tu quán phương tiện, có ba: a 1) Trình bày về hành của mười pháp giới, có năm câu. a 2) Từ “Phật tử thập trực tri thức trung nhược chư Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về mười lần gặp Tri thức thực hành phương tiện, có sáu câu. a 3) Dùng kệ tụng có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là kệ tụng. Trong kệ tụng có mười ba kệ: Hai kệ đầu tụng về một câu trước, bảy kệ tiếp tụng về bảy câu ở giữa, bốn kệ sau tụng về hai câu sau. Lại cũng có thể hợp chung ca ngợi về pháp phương tiện của người trước đây. Văn phần c là Đại Dụng, có hai: c 1) Hỏi; c 2) Đáp. Đáp có bốn: Một là trình bày về Dụng của cõi này; hai từ “Như thử Ta-bà…” trở xuống là phủ khắp mười thế giới ở mười phương; ba từ “Lô-xá-na bổn nguyện…” trở xuống là trình bày ý của Giáo trước vốn có nhân khác nhau; bốn từ “Ngã tất thâm nhập…” cho đến “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ nhận biết rộng rãi, phần này có bốn câu có thể biết. Văn phần một có hai Dụng: Một, biết về nhân quả hữu lậu; hai, từ “Bỉ chư kiếp…” trở xuống là biết về nhân quả vô lậu, có ba: Một là biết về Phật, hai là biết về Tiểu thừa, ba là biết về Đại thừa. Trong phần d là nhân duyên phát tâm đạt được pháp: d 1) Hỏi; d 2) Đáp. Trong đáp có sáu: Một là phân rõ về thân vốn có và pháp môn mới đạt được; hai là sau khi Đức Phật ấy diệt độ chuyển sang đạt được pháp môn thù thắng, có ba có thể biết; ba từ “Phật tử ngã đắc thử…” trở xuống là phân rõ về phạm vi tu tập; bốn từ “Phật tử ngã nhược…” trở xuống là trình bày về chủ ý tu hành, trong này có hai, đầu là phân rõ, tiếp là giải thích về nguyên cớ có thể biết; năm từ “Ngã ư…” là tu thêm các hành; sáu từ “Do vị năng tri…” trở xuống là phân rõ về hành thêm sâu xa của các thân vốn có kia và mới đạt được. Văn có mười một đoạn: Phật. Trình bày về thân vốn có cảm đến sựu hóa độ dẫn dắt của Từ “Thời bỉ nữ nhân văn thị…” trở xuống là hóa độ giống như chúng sinh cho nên hướng về Thái tử cùng làm quyến thuộc. Từ “Nhó thời Thái tử…” trở xuống là bởi vì phạm vào tà hạnh, cho nên hỏi người nữ ấy dựa vào Chánh pháp, có hai văn. Từ “Thời bỉ nữ mẫu bạch ngôn…” trở xuống là ca ngợi đức khuyến khích tiếp nhận. Từ “Thái tử đáp ngôn…” trở xuống là cùng với người ấy lập ra yêu cầu có ba, một là lập ra yêu cầu, hai là kệ tụng trình bày vốn có kỳ hạn, ba là người nữ thuận theo tiếp nhận. Từ “Nhó thời Thái tử văn bỉ…” trở xuống là lấy áo để giúp cho, báo ân hiển bày đức. Từ “Thời bỉ nữ mẫu tức vi…” trở xuống là khen ngợi người nữ tự mừng khởi lên tâm hành tùy hỷ. Từ “Bỉ Thái tử dữ nữ câu…” trở xuống là thấy Đức Phật đạt được đạo. Từ “Nghệ Phụ vương sở…” trở xuống là khuyến khích Phụ vương đến gặp Đức Phật, khiến cho Đại vương ấy thấy biết đối với Đức Phật đạt được Thánh đạo mà thôi. Văn này có năm: Một là đến nói cho nhà vua biết, hai là nhà vua hỏi rõ ràng, ba là nhà vua vui vẻ rời bỏ ngôi vị, bốn là Đức Phật nói pháp cho nghe, năm là nhà vua xuất gia đạt được đạo có tể biết. Từ “Nhó thời Thái tử nguyệt thập ngũ nhật…” trở xuống là Thái tử làm vua mở rộng thành tựu nhiếp hóa. Từ “Nhó thời Thái tử…” trở xuống là kết luận quy về xưa nay. Trong phần sáu là hành thêm sâu xa, văn này có ba: Một là tổng quát phân rõ, hai là vặn hỏi, ba là đáp. Trong đáp có bốn: Một là thiếp lập, hai là giải thích, ba là mở rộng phân rõ, bốn là kết luận về phạm vi. Văn phần ba là mở rộng, có ba: Một là thiếp lập, hai là giải thích, ba là đáp. Văn đáp về hai phần là trí Chánh giác và chúng sinh thế gian. Lại hỏi: Nếu chọn lấy các văn trên dưới, pháp hành Phổ Hiền tựa như từ phần vị Thập Tín giải trở đi thì đạt đến cuối cùng; nay dựa theo văn này thì thế mạnh của hạnh Phổ Hiền tựa như khó thành tựu, phần vị đến Thập Địa mới bắt đầu có thể đạt được là thế nào? Đáp: Thể của hạnh Phổ Hiền ấy thật sự không thể nào dựa vào phần vị mà đạt được. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì vốn là pháp dựa theo tánh khởi. Nay dựa theo phần vị khởi Tín của Tam thừa mà luận, từ phần vị Tín giải thứ nhất cho đến Thập Địa đều không phải là cuối cùng. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì chọn theo tướng của phần vị. Nhưng ở trong này niệm niệm sát-na đều phủ khắp các pháp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đạt được tánh khởi, Phật thì có thể biết. Ma-da phu nhân, Trung Hoa gọi là Thanh Tịnh Diệu. Từ đây về sau là tướng hội tụ duyên tiến vào thật. Sở dó chọn Phu nhân, biểu thị đây là tánh thật có năng lực thành tựu Giác đến cuối cùng, bởi vì Tướng tức là Như thật, cho nên Trí-Bi không trú trong Đại hư huyễn, tiến vào pháp môn Đại Nguyện Trí Huyễn, có ba: Một là khuyến khích chỉ dạy; hai là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba là chính thức tiến vào pháp giới. Trong phần một là khuyến khích chỉ dạy, có bốn: Một là nêu rõ nơi chốn, hai là nêu rõ tên người chỉ dạy, ba là chỉ dạy hỏi han, bốn là Cù-di trùng tụng. Trong tụng có ba mươi ba kệ, mười tám kệ đầu trong trường hàng sót không có, Đại Luận dẫn ra ở đây có đủ, cũng có thể vượt qua tụng về sự việc trước chứ chưa hẳn là sót. Văn này có ba: Một là một kệ tổng quát trình bày về thâu nhiếp người tu hành, hai là mười bảy kệ tiếp mở rộng thuật về nhân duyên tu hành qua nhiều kiếp, ba là mười lăm kệ còn lại tổng quát tụng về văn trên. Trong này ba kệ đầu tụng về phát tâm ở nơi Đức Phật Nhật Quang trên đây, bảy kệ tiếp tụng về gặp Đức Phật sau mà phát tâm trên đây, bốn kệ tiếp tổng quát tụng về đạt được pháp Tự-tha thù thắng của Bồ- tát trên đây, một kệ còn lại tổng quát tụng về tu hành thêm sâu xa trên đây. Trong phần hai là theo sự chỉ dạy tiến vào, có bảy: Một, giã từ, lược bớt không có nghó đến pháp môn trước và nơi đã đến, không phải là cố ý có thể biết. Hai, từ “Tác thị niệm ngã đương vân hà…” trở xuống là trình bày về Thiện Tài nghó đến phương tiện sau này. Ba, từ “Thiện Tài tùy thuận kỳ giáo…” trở xuống là trình bày về thấy tướng của Y báo. Bốn, từ “Kiến Phu nhân…” trở xuống là thấy tướng của Chánh báo. Năm, từ “Kiến Ma-da hữu như thị…” trở xuống là Thiện Tài giống như vị ấy, tức là biểu thị cho hạnh tu tập tiến vào thật. Sáu, nghi thức cung kính. Bảy, thuật về nguyên nhân ban đầu và thưa hỏi về pháp môn. Văn phần hai là phương tiện, có ba: Một là Thiện Tài nghó đến mong cầu. Hai từ “Thời hữu thành…” trở xuống có ba vị Tri thức giảng giải khuyên bảo. Ba từ “Đáp La-sát ngôn…” trở xuống là trình bày về biểu hiện mong cầu pháp của Tri thức, phần này có hai: Đầu là nhận ân thưa hỏi, tiếp là đáp. Trong đáp có bốn câu: 1) Tin tưởng; 2) Suy nghó; Tinh tiến; 4) Hiểu lý. Văn phần một có ba: Một là tổng quát; hai là ca ngợi thân đức của Ma-da; ba là kết luận, văn này có ba: Một, phân rõ về phạm vi; hai, tôn sùng ngưỡng mộ; ba, mong cầu phương tiện. Phần hai có ba vị Tri thức, ý đó thế nào? Một là biểu thị về pháp đã nhận biết, hai là biểu thị về trí chủ động nhận biết, ba là biểu thị về tướng của phương tiện. Lại nữa, một là dựa theo tánh khởi phân rõ về nghóa, hai là dựa theo trí phân rõ về giải thích, ba là dựa theo phương tiện phân rõ về giúp đỡ thành tựu, ý còn lại có thể biết. Trong Tri thức thứ nhất, có bốn: Một là cúng dường Thiện Tài, tức là tướng phương tiện giúp đỡ thành tựu; hai từ “Tác như thị…” trở xuống là chỉ dạy phương pháp thực hành; ba từ “Bồ-tát nhược như thị tri…” trở xuống là kết luận về quán thành tựu lợi ích, có ba có thể biết; bốn từ “Phật tử…” trở xuống là trình bày về người đạt được pháp thì thấy tất cả Tri thức chân thật, hiển bày về pháp có thành tựu thích hợp gọi là khéo léo. Trong phần hai là chỉ dạy phương pháp thực hành có hai mươi bốn câu. Ma-da, Trung Hoa gọi là Huyễn Hóa, trí phương tiện dạy dỗ quán sát chỉ do tâm, tức là Tri thức chính đáng, là đích thực chỉ do tâm huyễn hóa không nghi ngờ gì, đây chính là dùng thật để hiển bày về tướng. Trong Tri thức thứ hai, có bốn: Một là Thiên thần ca ngợi Phu nhân; hai là ánh sáng soi chiếu Y báo-Chánh báo của chư Phật; ba là ánh sáng trí tuệ đi vào đỉnh đầu Thiện Tài; bốn là Thiện Tài được lợi ích. Trong Tri thức thứ ba, có ba: Một là La-sát rải hoa trên Thiện Tài; hai từ “Ngữ Thiện Tài…” trở xuống là chỉ dạy phương pháp thực hành, văn này có hai, đầu là thân cận, tiếp là nhìn thấy, hai văn này đều có bốn, văn có thể biết; ba từ “Nhược hữu Bồ-tát…” trở xuống là kết luận. Chủ động gần gũi Tri thức, tám câu trước trong mười pháp có thể biết, “Thiện đối trị…” trở xuống là câu thứ chín, “Thuận Thiện tri thức…” trở xuống là câu thứ mười. Văn phần ba là thấy tướng của Y báo, có bốn: Một là trông thấy đài hoa, hai là trông thấy lầu quán, ba là trông thấy tòa báu, bốn là trình bày về hành tướng quyến thuộc. Văn phần bốn là thấy tướng của Chánh báo, có ba: Một là thấy Thể của thân, hai từ “Nhó thời Thiện Tài…” cho đến “Tùy ứng chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về tác dụng của giáo hóa, ba từ “Thiện Tài kiến như thị…” trở xuống là mở rộng phân rõ về tướng lợi ích của thấy. Văn phần một có bốn: Một là hiện bày sắc tướng làm lợi ích, hai là thu- ận theo pháp thành tựu tương tự, ba là tướng thật sự nói về Không, bốn là hơn hẳn Nhị thừa cho nên hiện bày sắc tướng. Văn phần một gồm có năm mươi câu có thể biết. Văn phần năm là Thiện Tài thực hành tu tập tiến vào thật, có năm: Một là thấy Phu nhân nhắc lại thân tướng đã trông thấy trước đây; hai từ “Tức biến…” trở xuống là đích thực giống nhau, đây chính là tướng hội tụ tiến vào thật; ba từ “Kính lễ…” trở xuống là tương ưng với phần thù thắng; bốn là được lợi ích đạt được Định tức là Thể của hành; năm là từ Tam-muội đứng lên. Ba từ “Đáp ngôn…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới, trong văn có hai: Một là nói về pháp môn của Tự phần, hai từ “Chư Đại…” trở xuống tôn sùng ngưỡng mộ. Trong Tự phần có bốn: Một, phân rõ về tên gọi của pháp môn; hai, từ “Đắc thử pháp môn…” trở xuống là phân rõ về Dụng của pháp môn; ba, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là trình bày về nhân duyên xa gần của pháp môn; bốn, từ “Ngã duy…” trở xuống là kết luận. Trong phần hai là Dụng của pháp môn, có ba: Một, văn hạn chế phân ra có bốn: Đạt được pháp môn Đại Huyễn, lúc sinh Thái tử có thể hiện bày thần lực không nghó bàn, có hai câu. Từ “Thiện nam tử…” trở xuống là lúc Bồ-tát sinh ra có ánh sáng tiếp xúc, đạt được pháp môn Thọ Sinh tự tại, có bốn: Một là ánh sáng tiếp xúc, hai là được thọ sinh trang nghiêm, ba là thấy sự việc trong hiện tại và vị lai, bốn là thấy sự việc trong quá khứ. Từ “Hựu thiện nam tử…” trở xuống là trình bày về dung nạp tự tại, có bảy: Một là ánh sáng tiếp xúc, hai là thân thư thái có hai có thể biết, ba là dung nạp Y báo, bốn là tiếp nhận các hành của Bồ-tát, năm là tiếp nhận đời sống khác, sáu là tiếp nhận phần vị Bồ-tát, bảy là tiếp nhận tác dụng. Từ “Niệm niệm trung…” trở xuống là trình bày về tác dụng giáo hóa dung nạp tự tại. Hai, từ “Ư thử…” trở xuống là nối thông mười phương, có năm: 1) Trình bày về phần lượng; 2) Trừ bỏ nghi ngờ; 3) Trừ bỏ tất cả nghi ngờ; Vặn hỏi; 5) Đáp có thể biết. Ba, từ “Thiện nam tử ngã vi Lô-xá-na…” trở xuống là làm mẹ cho một ngàn vị Phật… Văn này có hai: Đầu là phân rõ, tiếp là kết luận. Trong phần ba là đạt được pháp xa gần, có ba: 1) Hỏi; 2) Đáp. Văn này có ba: Một là thân vốn có đạt được lợi ích, có hai là giải thích và kết luận; hai từ “Bỉ đạo tràng thần…” trở xuống là kết luận quy về xưa nay; ba từ “Thiện nam tử ngã tùng…” trở xuống là mở rộng trình bày về tu tập đức dụng của pháp môn. 3) Từ “Phục thứ thiện nam tử…” trở xuống là đưa ra mở rộng để hiển bày về tóm lược. Phần hai là tôn sùng ngưỡng mộ, có ba có thể biết. Từ “Thử thế giới Đao-lợi Thiên thượng…” trở xuống là trình bày về tướng thứ ba thâu nhiếp đức thành tựu nhân, bởi vì Di-lặc vốn là nhân. Người tên gọi Di-lặc, tiến vào pháp môn Tam Thế Trí Chánh Niệm Tư Duy Trang Nghiêm, có ba: Một là chỉ dạy khuyến khích tiến vào thù thắng; hai từ “Nhó thời Thiện Tài văn như thị đẳng tán…” trở xuống là theo sự chỉ dạy tiến vào; ba từ “Nhó thời Di-lặc quán sát Đại chúng…” trở xuống là chứng pháp giới. Văn phần một là chỉ dạy khuyến khích, có năm: Một là nêu rõ Tri thức phương tiện, hai từ “Hựu tác thị ngôn…” là nêu rõ trú xứ đích thực của Tri thức, ba từ “Bỉ viên trung hữu Bồ-tát…” trở xuống là phân rõ danh đức của Tri thức, bốn từ “Nhữ nghệ…” trở xuống là chỉ dạy thưa hỏi, năm từ “Hà dó cố…” trở xuống là ca ngợi đức để khuyến khích mong cầu. Văn phần một có hai: Một, nêu rõ Trời để biểu thị về thanh tịnh, Nữ để biểu thị về trí bên trong, Từ Bi hiển bày về thân của pháp vi diệu, văn này có ba có thể biết; hai, trình bày về hai Đồng tử đều biểu thị về thấy công dụng của giáo hóa, tu tập thành tựu phương tiện, giúp đỡ trở thành nơi nương tựa, tức là dựa vào phước tuệ. Cũng có thể Ma-da trước đây là nêu rõ dùng thật thuận theo thật, Đồng tử ở đây đều dùng tướng thuận theo tướng. Có nơi nói trong này không theo thứ tự, ý này chưa rõ. Tạm thời đưa ra cách giải thích này: “Hựu tác thị ngôn” là Ma-da nói, dựa vào điều này tức là dùng Lý thành tựu Sự không hư dối. Hỏi: Nếu như vậy thì Chánh niệm mà vị Trời và người nữ trước đây nương vào sao nói là thân Trí của pháp vi diệu? Đáp: Chánh niệm tức là Thể tướng thành tựu, ở đây nương theo Thể thành tựu tướng mà thôi. Văn phần hai là nêu rõ trú xứ Y báo, có bốn: Một, nêu rõ phương hướng; hai, nêu rõ cõi nước; ba, nêu rõ vườn rừng; bốn, nêu rõ lầu quán đều là nhân. Sở dó nói Nam là sự, bởi vì nhân vị thuận theo Chánh quả. Trong phần ba là nêu rõ tên gọi của Tri thức, có hai: Một, tên gọi; hai, phân rõ về đức. Trong phần bốn là chỉ dạy thưa hỏi có mười câu: Năm câu đầu hỏi về tướng tu phương tiện, năm câu sau hỏi về tướng đích thực tu hành. Phần năm là ca ngợi đức chủ động giảng giải của Di-lặc, có hai: Một, ca ngợi về đức chủ động giảng giải; hai, từ “Nhữ bất ưng ư…” trở xuống là mở rộng ca ngợi khuyến khích mong cầu. Văn phần một có hai mươi câu phân hai, đó là hai phần hỏi-đáp có thể biết. Trong đáp: 1) Đức tự thành tựu của Tri thức; 2) Bồ-tát ấy có năng lực thành tựu về hạnh thù thắng của Thiện Tài. Trong phần hai là mở rộng khuyến khích mong cầu, có năm: Một trăm lẻ bảy câu khuyến khích tu các hạnh về tướng. Văn phần một này có ba: Một là mười câu đầu tổng quát khuyến khích chỉ dạy, hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu tướng cầu pháp, ba từ “Thiện nam tử lược thuyết…” trở xuống là chín câu kết thúc tóm lược hiển bày mở rộng. Đầu tiên giải thích trong phần khuyến khích tu các tướng, có hai: Đầu là giải thích, sau là kết luận. Đầu là văn giải thích có ba: Một, bốn mươi hai câu về hành Tự lợi có ba: Một là khuyến khích, hai là vặn hỏi, ba là mở rộng phân rõ. Hai, từ “Chiếu vô lượng pháp…” trở xuống là hành Lợi tha. Ba, từ “Nghệ chư Phật sát…” trở xuống là bốn mươi mốt câu về hành thuộc phần thù thắng. Từ “Thị cố thiện nam tử…” trở xuống là chính thức khuyến khích mong cầu Tri thức. Từ “Phục thứ…” cho đến “Tắc vi Từ mẫu…” trở xuống là dẫn ra mười dụ để ca ngợi Tri thức, có hai phần giải thích và kết luận. Từ “Phát đại địa tâm…” trở xuống là phân rõ về lợi ích cầu Tri thức, văn này có hai: Một, trình bày về nghi thức chuyển giao và tiếp nhận thuốc pháp; hai, phân rõ về tướng của thuốc và bệnh dựa theo pháp, văn này có ba có thể biết. Từ “Thiện nam tử nghệ Thiện tri thức…” là kết luận về hành thành tựu lợi ích, văn này có ba: Một, phân rõ về Tự phần. Hai, trình bày về thắng tiến có hai, đầu là vặn hỏi, tiếp là đáp có thể biết. Ba, từ “Thiện nam tử…” trở xuống là suy ra công đức thuộc về bạn mà thôi, văn này có ba: Một, tổng quát hiển bày về đức; hai, dùng tóm lược để hiển bày mở rộng; ba, thâu nhiếp đức thuộc về người. Trong phần hai là chính thức khuyến khích mong cầu có bảy mươi bốn câu, có ba: Một là chính thức khuyến khích tiến lên, hai từ “Hà dó cố…” trở xuống là bốn mươi câu phân rõ về thành tựu cần phải mong cầu, ba từ “Phục hà dó cố…” trở xuống là phân rõ về ý Tri thức có năng lực. Từ “Nhó thời Thiện Tài vấn như thị đẳng…” trở xuống là trong phần thứ hai theo sự chỉ dạy tiến vào, có tám: Một, nghe ca ngợi Tri thức tâm sinh tin tưởng. Hai, từ “Chánh niệm tư duy…” trở xuống là nghó đến pháp môn trước đây. Ba, từ từ tiến lên. Bốn, từ “Dó quá khứ tế…” trở xuống là bởi vì thấy cảnh thù thắng cho nên dấy khởi nhiều phương tiện. Năm, từ “Thiện Tài như thị…” trở xuống là đạt được Đại Tuệ nhãn nhìn cảnh giới của Đại pháp, không có văn giã từ rút lui. Sáu, từ “Ngũ thể lễ kính…” trở xuống là thấy tướng của Y báo. Bảy, từ “Nhó thời Thiện Tài tán thán lầu quán…” trở xuống là thấy tướng của Chánh báo, đây tức là tướng của Chứng; dùng người thành tựu đức, đây tức là Chứng; dùng đức thành tựu người, đây là từ sau mà nói. Tám, từ “Đầu diện kính lễ bạch ngôn…” trở xuống là trình bày về lễ lạy cung kính thưa hỏi. Văn thứ sáu có năm: Một là thấy lầu quán cung kính lễ lạy, hai từ “Tác như thị niệm…” trở xuống là đi sâu vào quán sát trú xứ của Hiền Thánh, ba từ “Vị khởi gian…” trở xuống là kính trọng pháp càng sâu sắc, bốn từ “Hiệp chưởng đế quán…” trở xuống là mở rộng ca ngợi về Y báo-Chánh báo; năm là dùng kệ tụng. Văn phần hai có ba: Một, thấy tướng của cõi nước, tức là duyên cung kính đối với ân; hai, từ “Hựu phục…” trở xuống là phai mờ tướng tiến vào thật, tức là duyên với thật quán; ba, từ “Thâm tâm tín giải…” trở xuống là dùng thật để thành tựu tướng. Trong phần năm là trùng tụng có năm mươi lăm kệ, có ba: Một, bảy kệ đầu tụng về lầu quán trú xứ trên đây; hai, có bốn mươi bốn kệ tụng về trú xứ của Hiền Thánh có đủ công đức ở phần thứ tư trên đây; ba, bốn kệ còn lại kết luận về đức ca ngợi đến cùng. Cũng có thể phân làm năm: Một, một kệ đầu ca ngợi Di-lặc; hai, có ba mươi bốn kệ nêu ra đức của người để ca ngợi lầu quán, phần này có ba mươi ba sự việc; ba, có mười tám kệ ca ngợi về lợi ích ở trong lầu quán; bốn, có một kệ cung kính đối với người ở trong lầu quán; năm, có một kệ thỉnh cầu thâu nhiếp truyền trao. Văn phần ba có hai: Một kệ đầu ca ngợi người ở trong lầu quán, mười bảy kệ tiếp chính thức phân rõ về lợi ích có mười một sự việc; trước đây trong trường hàng nêu ra lầu quán thành tựu người, kệ này ca ngợi người thành tựu lầu quán. Trong văn thứ bảy là thấy tướng của Chánh báo, có năm: Một là dấy khởi phương tiện cầu mong được thấy Pháp thân, hai từ “Dao kiến…” trở xuống là gần bên cạnh mà chưa tiếp xúc, ba từ “Dữ vô lượng Thiên Long…” trở xuống là phân rõ về quyến thuộc ở đó, bốn là từ bên ngoài mà đến hiển bày duyên quy tụ các hành, năm từ “Uy đức đặc tôn…” trở xuống là ca ngợi về đức. Phần ba từ “Nhó thời Di-lặc quán sát Đại chúng…” trở xuống là phân rõ tiến vào pháp giới, văn có bốn: Một, mở rộng ca ngợi về công đức phát tâm. Hai, từ “Nhữ tiên sở vấn…” trở xuống là chính thức tiến vào tự Thể của pháp môn. Ba, từ “Đại Thánh thử hành…” trở xuống là phân rõ về tên gọi của pháp môn. Bốn, từ “Bạch ngôn…” trở xuống là tận cùng duyên hiển bày thật. Văn phần một có năm: 1) Ca ngợi người có đủ công đức; 2) Từ “Cáo Thiện Tài nhữ khả vãng nghệ…” trở xuống là hội tụ phần vị thuận theo thật; 3) Từ “Thiện Tài ngũ thể kính lễ…” trở xuống là thâu nhiếp công đức thù thắng ấy; 4) Trở lại chỉ ra cho Đại chúng biết, do Thiện Tài có đủ công đức cho nên nói kệ khen ngợi Thiện Tài; 5) Từ “Cáo Thiện Tài thiện tai…” trở xuống là dẫn dắt thưa hỏi ca ngợi về đức mà thôi. Văn phần một có bảy: Một, nêu rõ Đại chúng tổng quát ca ngợi đức của Thiện Tài, có hai văn thưa hỏi và ca ngợi. Hai, từ “Thử Đồng tử…” trở xuống là ca ngợi về thành tựu pháp hiếm có, có bốn câu. Ba, từ “Hà dó cố…” trở xuống là phân rõ về thành tựu. Bốn, từ “Chư thiện nam tử…” trở xuống là mở rộng ca ngợi khuyến khích học theo, có bốn: Một là phát tâm, hai là có năng lực tiến lên, ba là tu hành, bốn là khuyến khích học theo. Năm, từ “Thử Đồng tử…” trở xuống là trở lại nói về thành tựu đức dụng. Sáu, từ “Thiện Tài nhữ kim…” trở xuống là mở rộng ca ngợi về lợi ích gặp được thiện hữu, có sáu: Một là tổng quát tất cả kiến chấp về pháp (pháp kiến), hai là mở rộng ca ngợi về lực của Văn Thù, ba là hành thành tựu về Chứng, bốn là ca ngợi về lực tăng thượng của hành, năm là khuyến khích học theo, sáu là chỉ bảo cho biết về sự hư hoại có hai câu. Bảy, từ “Thiện Tài đương tri…” trở xuống là khuyến khích nhận biết về phạm vi của hành, có ba câu. Tướng còn lại có thể biết mà thôi. Khu thành Tần-đà-già-la là thành Giác. Trải qua một trăm mười vị Tri thức là gồm chung Chánh-Trợ, bốn mươi hai vị trên đây đều dựa vào phần vị mà đưa ra. Ca ngợi Thiện Tài rằng: Vô lượng Bồ-tát tu tập qua nhiều kiếp, Thiện Tài một đời đạt được, là đạt được trong giáo pháp. Vì vậy phẩm Ly Thế Gian nói vốn là đối với văn tự giáo pháp… Đây là giải thích dựa theo giáo của Tam thừa. Nếu dựa theo Nhất thừa, thì cũng có thể Chứng hành của Phổ Hiền, Chứng hành rộng khắp và hành riêng biệt kia. Ở đây thì không phải là đạt được giáo, cũng có thể là đạt được quả trước-gia hộ sau. Hỏi: Vì sao ở đây mở rộng ca ngợi về công đức và phát tâm…? Đáp: Bởi vì đây là nơi cuối cùng của phần vị đầy đủ công hạnh, còn lại dựa theo có thể biết mà thôi. Văn phần hai là hội tụ phần vị thuận theo thật, có sáu: Một, chỉ dạy thưa hỏi. Hai, khóc lóc buồn bã hiển bày về phần vị khó thành tựu, do đó phân rõ trong các vị Tri thức có nhiều người khóc lóc buồn bã, chỉ là trong các phần vị càng thắng tiến càng sâu xa, ngày nay được đội ân, khó xa rời lưu luyến ngưỡng mộ mà đau buồn vậy thôi. Ba, Văn Thù trao cho chuỗi Anh-lạc, tức là biểu thị cho đức của phần vị được trang nghiêm bằng phước trí. Bốn, Thiện Tài có được rồi rải ra cúng dường Di-lặc, đích thực phân rõ phước trí trang nghiêm hội tụ thành tựu phần vị ấy. Năm, Di-lặc xoa đầu khen ngợi là căn hành tương ưng. Sáu, Thiện Tài nói kệ ca ngợi, đây đều là biểu thị về ý có thể biết. Phần này có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trong kệ: Một là một kệ đầu vui mừng được gặp Di-lặc; hai là một kệ tiếp nguyện được thấy Bổn sư Văn Thù; ba là trở lại thưa thỉnh Di-lặc, tức là nêu ra đức thành tựu phần vị, cũng tức là thâu nhiếp về đức thù thắng. Trong phần này có bốn: Một, cung kính lễ lạy; hai, tự nói về phát tâm thưa hỏi; ba, từ “Đại Thánh…” trở xuống là ca ngợi về đức; bốn, từ “Duy nguyện…” trở xuống là kết thúc thưa thỉnh. Phần bốn là nói kệ khen ngợi Thiện Tài, văn có ba: Một, trường hàng tổng quát nêu rõ về người có năng lực phát tâm trong Đại chúng. Hai, kệ khen ngợi về đức của Thiện Tài. Ba, trường hàng kết thúc. Kệ có sáu mươi tám kệ, có bốn: Một là mười một kệ ca ngợi về người cố gắng đến; hai là mười tám kệ tiếp ca ngợi về đạt được hành Tự lợi; ba là hai mươi hai kệ tiếp ca ngợi về thành tựu đức Lợi tha; bốn là mười bảy kệ sau cùng ca ngợi về đức Tự-tha đầy đủ. Phần năm là dẫn dắt thưa hỏi mở rộng ca ngợi về phát tâm, văn có bốn: Một, tổng quát ca ngợi. Hai, từ “Thiện nam tử nhữ đắc thiện lợi…” trở xuống là ca ngợi về đức có thể gặp được Tri thức. Ba, từ “Hà dó cố…” trở xuống có hai trăm mười tám câu, mở rộng ca ngợi về tâm Bồ- đề khiến cho tu tập tiến vào. Bốn, từ “Thị cố…” trở xuống là kết luận. Văn phần ba có hai: Một là một trăm mười lăm câu đầu ca ngợi tâm Bồ-đề có thể sinh ra vạn đức như đức của chư Phật; hai từ “Thí như tự tại dược…” trở xuống là một trăm lẻ ba câu ca ngợi về khả năng thành tựu Đại Dụng, đạt được Đại quả kia và không rời bỏ thế gian. Văn một có hai, đầu là phân rõ, tiếp là kết luận, kết luận có ba có thể biết. Văn hai có hai, đầu là giải thích, tiếp là kết luận, kết luận có ba có thể biết. Văn phần hai là tự Thể của pháp môn, có ba: 1) Nhắc lại phương tiện trước đây thâu nhiếp tiến vào cảnh Hiện lượng về lầu quán, văn này có ba: Một, nhắc lại khuyến khích tiến vào; hai, sinh khởi mong muốn thù thắng; ba, hiển bày phương tiện có thể biết. 2) Từ “Thiện Tài tức nhập…” trở xuống là chính thức tiến vào Tam-muội. 3) Từ “Di-lặc nhiếp thần lực…” trở xuống là trình bày về xuất Định. Văn phần hai là chính thức tiến vào Tam-muội, có ba: Một, tiến vào; hai, thấy Tịnh độ; ba, từ “Nhữ bất kiến…” trở xuống là nhận xét về sự thấy nghe hiểu biết. Văn thứ hai là thấy Tịnh độ, có năm: Một là thấy tướng nghiêm trang, tức là cảnh xác thực. Hai từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là được lợi ích lễ lạy cung kính. Ba từ “Lễ dó…” trở xuống là hiện rõ ra thân mình, tức là pháp thích hợp với căn cơ, có hai có thể biết. Bốn từ “Hựu kiến…” trở xuống là hiện rõ ra tướng của pháp nhân quả, tức là pháp làm chỗ dựa của người tu hành, văn này có hai: Đầu là nhân, tiếp từ “Hoặc ư lầu quán…” trở xuống là hiện rõ ra pháp của quả mà thôi. Năm từ “Nhó thời Thiện Tài chư…” trở xuống là trình bày về sự hiện bày đặc biệt sai khác, tức là hiển bày một quả cùng làm sáng tỏ về nghi thức lập giáo, văn này có hai: Một, hiện rõ tám tướng của quả, có hai có thể biết; hai, trong những quả chuông hiện rõ ra những sự việc sai khác trong nhân. Trước đây thì đầu nhân-sau quả, tức là theo thứ tự tu hành; văn này đầu quả-sau nhân, phát sinh niềm tin thành tựu hiểu biết theo thứ tự mà thôi. Từ “Linh…” trở xuống có sáu: Một là chuông hiện rõ về pháp môn âm thanh, có hai có thể biết. Hai là gương hiện rõ về pháp môn hình tướng. Ba là cột trụ hiện rõ về pháp môn trú trì. Bốn là châu ngọc hiện rõ về pháp môn trang nghiêm. Năm là cây cối hiện rõ về pháp môn kiến lập. Sáu là nửa vầng trăng hiện rõ về pháp môn trú vào phần vị khởi hạnh. Văn thứ ba là nhận xét về thấy nghe, có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là ví dụ so sánh ca ngợi về thấy vô ngại. Văn ca ngợi có bảy: Một là dụ vượt ra ngoài cảnh hư vọng, hai là dụ trở lại quán pháp thù thắng, ba là dụ khéo nhận biết các tướng, bốn là dụ thời gian kéo dài gọi là ngắn ngủi, năm là dụ đức chân thật khéo hiện rõ, sáu là dụ cảnh hiện rõ tùy tâm, bảy là dụ quán pháp vô ngại. Phần này có ba dụ: Một là thấy sắc vô ngại, hai là hiện sắc vô ngại, ba là tùy theo dấy khởi vô ngại. Văn phần ba là xuất Định, có bốn: Một, Đại Thánh thâu nhiếp dụng trở về gốc; hai, lại dùng thân-khẩu gia hộ khiến cho xuất Định; ba, chính thức xuất Định; bốn, xuất Định rồi Di-lặc trở lại hỏi sự việc trong quán, xét kỹ về quán hư thật, có hai văn hỏi-đáp. Thứ ba là đáp về Danh Thể của pháp môn, có ba: Một, chính thức phân rõ về Thể của Định, có hai văn hỏi-đáp; hai, từ “Nhất sinh Bồ- tát…” trở xuống là trình bày về thâu nhiếp tất cả pháp môn; ba, từ “Đại Thánh thử chư kỳ đặc…” trở xuống là hỏi-đáp hiển bày về nơi chốn, để làm sáng tỏ về thật mà thôi. Trong đáp có hai: Một là tách ra hai pháp môn, hai là dùng hai dụ hiện rõ và hợp lại. Thứ nhất là dụ về Bồ-tát khởi sự thành tựu, thứ hai là dụ về bắt đầu học Bồ-tát nguyện thành. Thứ tư phân rõ về Đại Dụng của pháp môn, tức gọi là tận cùng duyên hiển bày thật, có hai hỏi-đáp, tức là hai: Một là hỏi về nơi chốn xưa nay đã hướng đến, hai từ “Bạch ngôn…” trở xuống là hỏi về nơi sinh. Một là trong đáp thứ nhất, có ba: Một, nêu ra thật không có đến; hai, từ “Đản vị giáo hóa…” trở xuống là dựa theo duyên quy tụ có nơi; ba, từ “Nhữ sở vấn ngã…” trở xuống là bởi vì dẫn dắt chúng sinh cho nên hiện rõ phương hướng đã xuất hiện. Hai là trong hỏi về nơi sinh, có hai: Một, phân rõ về Thể của nhân hạnh ở nơi sinh; hai, từ “Ngã ư thử Diêm-phù-đề…” trở xuống là trình bày về Hóa thân hiện đến nơi sinh. Văn phần một có năm: Một là phân rõ về nơi sinh, hai từ “Dó Bát-nhã vi mẫu…” trở xuống là mười chín câu riêng biệt trình bày về hành quyến thuộc, ba từ “Siêu phàm phu địa…” trở xuống là so sánh về hơn kém, bốn từ “Sinh như thị gia…” trở xuống là mười câu phân rõ về phần vị thù thắng, năm từ “Ngã tịnh Pháp thân…” trở xuống là mười câu phân rõ về Báo và Thể tương ưng, tức là Thể thù thắng. Trong phần hai là nơi sinh của Hóa thân, ba nơi tức là phân làm ba: Một là trong loài người, hai là trên cõi trời, ba là sinh xuống trong loài người, đều là Sinh thân cuối cùng. Thứ tư là trí soi chiếu không có hai tướng, người tên gọi Văn Thù Sư Lợi, tiến vào pháp môn Phổ Kiến Thuận Tri Thức Giáo, cũng gọi là pháp môn Bồ-tát Tịch Tónh. Văn có ba: Một từ “Thiện nam tử nhữ vãng Văn Thù…” trở xuống là phân rõ về khuyến khích thắng tiến, hai từ “Thời Thiện Tài…” trở xuống là theo lời dạy chọn lựa tức là tiến vào, ba từ “Nhó thời Thiện Tài…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một có ba: Một, nêu rõ tên người; hai, nêu rõ chỉ dạy thưa hỏi; ba, từ “Hà dó cố…” trở xuống là ca ngợi về đức. Trong này lược bớt không có nơi chốn, văn sau nói là đến nước Phổ Môn. Ca ngợi về đức có sáu: 1) Vặn hỏi; 2) Đáp tức là ca ngợi về đức; 3) Từ “Thiện nam tử…” trở xuống trở lại nêu rõ để khuyến khích; 4) Từ “Thị cố…” trở xuống là kết thúc khuyến khích; 5) Trở lại vặn hỏi; 6-Đáp. Trong phần hai là theo lời dạy tiến vào: Một, cung kính lễ lạy; hai, giã từ rút lui; ba, trải qua một trăm mười khu thành từ từ đến nơi; bốn, chọn lựa. Nước Phổ Môn là một nơi tạm thời giáo hóa của Văn Thù, cũng có thể là tất cả các pháp làm chỗ dựa cho Trí mà thôi. Trong phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, có hai: Một, trông thấy; hai, đạt được lợi ích. Sở dó không nói đến Thuyết pháp, là bởi vì Chứng không có ngôn thuyết. Sở dó trong này trông thấy khắp nơi (phổ kiến), là bởi vì biểu thị trông thấy Đại Trí soi chiếu khắp nơi không hai. Sở dó không nói trông thấy Văn Thù, là bởi vì hiển bày soi chiếu khắp nơi lìa xa tướng thấy. Không trái với lời dạy, là bởi vì nhẫn nại thuận theo tất cả các Tri thức. Hai là tăng trưởng…, là chứng được lợi ích do mình, trong này có bốn: Một là thành tựu Lợi tha, hai từ “An trú…” trở xuống là thành tựu hành Tự lợi, ba từ “Nhập Phật thậm thâm…” trở xuống là tùy thuận phần thù thắng, bốn từ “Hiện nhập chư thú…” trở xuống là trình bày thành tựu đức Tự-tha tiến vào hạnh Phổ Hiền. Dưới đây là thứ năm dựa vào tướng hiển bày nhân rộng lớn, người tên gọi Phổ Hiền, tiến vào pháp môn Thập Bất Hoại Trí Tuệ. Văn có ba: Một là Thiện Tài nghe tên gọi Phổ Hiền chỉ dạy khuyến khích thắng tiến, hai từ “Nhất tâm dục kiến Phổ Hiền…” trở xuống là theo lời dạy tiến vào, ba từ “Thiện Tài tức kiến Phổ Hiền…” trở xuống là chính thức tiến vào pháp giới. Văn phần một có hai: Một, nghe tên gọi Phổ Hiền tức là nêu rõ tên gọi; hai, từ “Hạnh nguyện…” trở xuống tức là ca ngợi về đức. Trong này không có nêu rõ nơi chốn-giã từ…, ý có thể biết mà thôi. Nói về nghe tên gọi Phổ Hiền là nghe đến bốn Phổ trước đây: 1) Phần Văn Thù trong Giáo lượng vốn có hạnh Phổ Hiền; 2) Trong tiến vào đến nước Phổ Môn; 3) Trong hiện rõ về Chứng thấy được các Tri thức khắp nơi; 4) Chứng được Hậu trí tu hạnh Phổ Hiền. Do đó nói là nghe. Ca ngợi về đức có mười một câu: Một câu đầu về hạnh nguyện của các Địa là tổng quát; tiếp từ “Cụ…” trở xuống là mười câu riêng biệt. Trong tổng quát: Đầu là hiển bày về nguyện vui với hành của Địa tiền, tiếp là ca ngợi phần vị nương tựa của Địa thượng. Trong riêng biệt: Địa có đủ là thành tựu nhân hạnh của Địa. Pháp của Địa là mười pháp giới, vốn là Thể của Địa. Địa đạt được là thâu nhiếp chứng đắc do mình. Theo thứ tự là từng Địa một từ trước đến sau. Địa tu tập là bốn tu-năm tu… Trú là ngay Địa ấy tu đầy đủ. Cảnh giới của Địa là ba Tánh-ba Vô tánh, cũng có thể là phạm vi hạn chế, là cảnh sở duyên của Địa. Trì là cảnh duy trì tâm quán, cũng có thể là nhân duy trì quả. Cọng là Tín-Từ- Bi-Xả…, mười Hạnh đều gồm chung thành tựu các Địa. Chánh đạo là Trí căn bản. Trong phần hai là theo lời dạy tiến vào, có hai: Một, một câu đầu là khởi lên hy vọng chính đáng; hai, từ “Hư không giới đẳng…” trở xuống là phân rõ tiến vào phương tiện. Văn này có hai: Một là Thiện Tài tổng quát nghó đến Pháp thân Tịnh độ; hai từ “Khởi thị tâm thời…” trở xuống tướng lành ứng hiện. Văn này có ba: 1) Phân rõ về nhân duyên của thấy; 2) Từ “Tức kiến…” trở xuống là thấy tướng của Chánh báo; 3) Kết thúc phần trước sinh khởi phần sau. Văn về hiện tướng có hai: Một là mười tướng của Tịnh độ, hai là mười tướng của Pháp thân. Lại cũng có thể một là mười tướng hiển bày về quốc độ thanh tịnh và chúng sinh thế gian thanh tịnh, hai là mười tướng hiển bày về phạm vi của cảnh giới Nhân-đà-la võng thanh tịnh thành tựu trí Chánh giác, muốn trình bày về phạm vi của hạnh Phổ Hiền mà thôi. Trong phần ba là chính thức tiến vào pháp giới, có năm: Một, trình bày về đức dụng nhiếp hóa của Phổ Hiền; hai, từ “Ngã ư quá khứ…” trở xuống là trở lại thuật về nhân vốn có của Phổ Hiền để khuyến khích tu tập thắng hạnh; ba, từ “Thiện Tài kinh do thân cận…” trở xuống là so sánh để hiển bày thù thắng; bốn, từ “Thiện Tài năng tự cứu cánh…” trở xuống là khen ngợi hạnh thù thắng của Thiện Tài; năm, nói kệ ca ngợi Phật kết thúc cuối cùng ở sau. Văn phần một có bốn: 1) Tổng quát trông thấy các Như Lai thù thắng vi diệu…; 2) Từ “Thiện Tài kiến Phổ Hiền…” trở xuống là thấy dụng của hành về pháp giới; 3) Từ “Phổ Hiền tức thân thủ…” trở xuống là gia hộ khiến cho đạt được Tam-muội; 4) Từ “Phổ Hiền cáo…” trở xuống là hỏi kỹ càng về sự việc của Định, có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là ca ngợi về đức. Văn phần một là các Như Lai thù thắng vi diệu có chín nghóa…, cũng là mười. Trong phần hai là thấy dụng của hành, có bốn: Một, trình bày về dụng giáo hóa bên ngoài. Hai, từ “Trùng quán Phổ Hiền…” trở xuống là dụng nhiếp hóa bên trong. Ba, từ “Thập phương…” trở xuống là kết luận quy về bình đẳng có năm câu. Bốn, từ “Thiện Tài kiến Phổ Hiền…” trở xuống là trình bày về Thiện Tài đạt được lợi ích về mười Trí môn bất hoại. Văn phần một có hai: Một là giải thích về mười chín dụng của xuất sinh, hai là kết luận. Phần hai là nhiếp hóa bên trong, có hai: Một là giải thích, hai là kết luận. Phần bốn là Thiện Tài đạt được lợi ích, văn có hai: Một là tổng quát nhắc lại mười môn; hai là riêng biệt phân rõ. Trong phần ba là xoa đảnh gia hộ đạt được Tam-muội, có ba: Một, xoa đảnh; hai, đạt được lợi ích; ba, từ “Như thử…” trở xuống là kết luận quy về. Trong hai phần xoa đảnh-lợi ích có sáu có thể biết. Trong phần hai là khuyến khích tu tập thắng hạnh vốn có, có bảy: Do từ lâu tu tâm Bồ-đề cho nên đạt được đức dụng tự tại trên đây; Từ “Ngã sở tu…” trở xuống là trình bày về đức khó tận cùng; 3) Từ “Ngã đắc như thị…” trở xuống là dẫn ra pháp mình đã đạt được để khuyến khích tu tập; 4) Từ “Nhữ thả quán…” trở xuống là khuyến khích quán sát sự việc hiện rõ, văn có ba câu có thể biết; 5) Từ “Nhược hữu chúng sinh văn ngã danh…” trở xuống là hiển bày về đức sâu rộng, có năm câu; 6) Từ “Văn tu tập…” trở xuống là trình bày về hành ứng với Đại tâm-Đại hạnh cùng được sinh, có hai câu; 7) Từ “Nhữ phục quán ngã…” trở xuống là khuyến khích quán về Đại Dụng của ba thân. Trong phần 6 trước đây, sinh về thế giới thanh tịnh là sinh ở Báo độ, sinh trong thân thanh tịnh của Ngã là sinh trong Pháp thân mà thôi. Văn nói thân tướng của Phổ Hiền giống như hư không, là dựa vào Như Như chứ không dựa vào Phật quốc. Trong phần thứ 7 có hai: Một là khuyến khích, hai là quán sát, thấy đầy đủ nhân quả. Trong phần ba là so sánh về đức của hành, có ba: 1) Chính thức trình bày về so sánh; 2) Từ “Hà dó cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu, có ba có thể biết; 3) Từ “Bất thử thế giới một…” trở xuống là khen ngợi Thiện Tài tự tại khó nghó bàn để hiển bày về nghóa thù thắng. Phần bốn là khen ngợi hạnh thù thắng của Thiện Tài, văn có hai: Nhân tròn vẹn; 2) Từ “Bất cửu…” trở xuống là quả đầy đủ. Trong quả, đầu là tổng, sau là biệt có thể biết. Phần năm là kệ tụng ca ngợi Đức Phật. Sở dó ca ngợi Đức Phật, là trình bày về Bồ-tát Phổ Hiền ở trước chỗ ngồi được gia hộ nhiếp hóa, hạnh ấy đến cuối cùng thành tựu thì công đức thuộc về Đức Phật cho nên ca ngợi. Cũng có thể dựa theo quả để ca ngợi về lực của nhân vị, tức là thuật về trước đây. Trong kệ có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có chín mươi chín kệ rưỡi, có ba: Một là tám kệ đầu sơ lược nêu ra công đức của Như Lai và Bồ-tát khuyên nhủ lắng nghe nhận lời giảng nói, hai là tiếp tám mươi chín kệ rưỡi riêng biệt ca ngợi về tác dụng giáo hóa của ba thân Như Lai, ba là hai kệ sau cùng kết luận khuyến khích tu hành. Văn phần một có ba: Một, nửa kệ đầu khuyên nhủ lắng nghe; hai, bốn kệ rưỡi tiếp là ca ngợi về đức của ba thân Như Lai; ba, có ba kệ ca ngợi về công đức của Phổ Hiền, đã giảng nói không hư dối khuyến khích chúng sinh phát khởi niềm tin. Trong bốn kệ rưỡi về ba thân trước: Một kệ rưỡi đầu là ca ngợi về Diệt đức của Pháp thân, tiếp một kệ là Trí đức của Báo thân, tiếp hai kệ là Ân đức của Hóa thân. Trong phần hai mở rộng ca ngợi, có ba: Một, hai mươi kệ rưỡi đầu ca ngợi về đức của Báo thân; hai, từ “Hoặc kiến Thích-ca…” trở xuống là sáu mươi ba kệ ca ngợi về đức của Hóa thân; ba, từ “Như Lai tịnh Pháp thân…” trở xuống là sáu kệ ca ngợi về đức của Pháp thân. Hỏi: Vì sao trở lại kết luận mới ca ngợi về đức của Đức Phật? Đáp: Đây là biểu hiện mở rộng về giải thích, cho nên đưa ra quả để hiển bày phạm vi của nhân, còn lại có thể biết. Trong Báo thân có năm: Một, ba kệ đầu ca ngợi về hai trí Lý- Lượng khéo léo; hai, từ “Hoặc kiến Như Lai tọa…” trở xuống là bốn kệ trình bày về đức phủ khắp chỉ riêng cảnh giới của Đại tâm chứ không phải là sở duyên của Tiểu trí; ba, từ “Hoặc kiến Lô-xá-na…” trở xuống là bảy kệ trình bày về đức của chư Phật đều có đủ Tịnh độ của Pháp thân và quyến thuộc thù thắng; bốn, từ “Hoặc kiến nhất mao khổng…” trở xuống là năm kệ rưỡi phân rõ về Đại Dụng không có phương hướng; năm, từ “Như thị…” trở xuống là một kệ kết luận nói khó hết. Trong Hóa thân có ba: Một, hai mươi kệ rưỡi đầu ca ngợi về Đại Dụng thuộc thân nghiệp của Đức Phật; hai, từ “An trú Vô thượng đạo…” trở xuống là hai mươi hai kệ ca ngợi về giáo hóa thuộc khẩu nghiệp của Đức Phật; ba, từ “Chư Phật tôn đạo sư…” trở xuống là hai mươi kệ rưỡi ca ngợi về khéo léo thâu nhiếp lợi ích thuộc ý nghiệp của Đức Phật. Trong phần một là thân nghiệp, có bốn: Một kệ đầu là thân của Thích-ca giáo hóa, bảy kệ tiếp là nêu rõ các loại nhân hạnh-tám tướng thành đạo giáo hóa, năm kệ tiếp là hiện rõ Đức Phật lên cõi trời… giáo hóa, bảy kệ rưỡi tiếp là có năng lực hiện rõ các loại tùy duyên lợi ích như thọ ký… Trong phần hai là khẩu nghiệp, có ba: Năm kệ đầu là trình bày về pháp đã nói có uy lực to lớn, mười hai kệ tiếp là trình bày về cùng một âm thanh tùy theo căn cơ mà cảm đến, năm kệ tiếp là phân rõ về nguyên cớ thành tựu đức dụng. Trong mười hai kệ trước: Bốn kệ đầu trình bày về cùng một âm thanh mà tùy theo nghe đều khác nhau, tám kệ tiếp là kết luận về giáo sai biệt. Trong phần ba là ý nghiệp, có hai: Mười hai kệ đầu ca ngợi về Dụng khéo léo, tiếp từ “Thí như…” trở xuống là tám kệ rưỡi dùng ví dụ để hiển bày. Ví dụ riêng biệt có năm: 1) Dụ về tùy lợi ích nên thành tựu; Dụ về do vật mà tâm hiện rõ; 3) Dụ về tùy thuận cảnh tượng hiện rõ; Dụ về vì chúng sinh mà hộ trì; 5) Dụ về vì vật mà sinh đức. Năm dụ này là mạng lưới to lớn của sự nhiếp hóa, văn còn lại có thể biết. Trong sáu kệ về Pháp thân, có ba: Một kệ rưỡi đầu ca ngợi Pháp thân có đủ năm tướng, tiếp từ “Thí như mộng sở kiến…” trở xuống là hai kệ rưỡi cùng dựa theo dụ để hiển bày, hai kệ sau cùng là pháp-hợp. Văn dụ có hai: Đầu là một kệ rưỡi dựa theo lý để phân rõ về thành tựu, tiếp là một kệ dựa theo sự để làm sáng tỏ về pháp mà thôi. Văn phần một về năm tướng: Một câu đầu là tướng sáng ngời, hai câu tiếp là tướng không thể nghó bàn, ba tánh lìa hữu vi-vô vi là tướng, câu thứ tư là tướng vô nhiễm, câu thứ sáu không đi mà đến khắp, tức thứ năm là tướng thường trú. Trong phần ba là hai kệ sau cùng kết luận khuyến khích: Một là một kệ đưa ra bốn dụ để so sánh về đức khó cùng tận, bốn dụ: 1) Dụ về tâm Giác không có giới hạn; 2) Dụ về sự của pháp khó cùng tận; 3) Dụ về số lượng sâu rộng to lớn; 4) Dụ về hư không chẳng hề có ranh giới. Thông suốt thì có thể biết, trở lại thành tựu Phật đức sâu xa mà thôi. Hai, một kệ là nêu ra lợi ích để khuyến khích tu tập. Đây tức là phần Lưu Thông. Kinh này vốn có mười vạn kệ, ở đây giải thích chỉ có ba vạn sáu ngàn kệ, nói về ý còn lại có thể biết mà thôi.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 123