Bàn về
bốn bộ A-hàm
Lương Khải Siêu
Gs.
Định Huệ dịch
---o0o---
I.
A-hàm và ngũ bách kiết tập
A-hàm còn
gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là
nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM),
còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối
thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là
"giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp
được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM
NGHĨA 24). A-hàm vốn là tên chung của kinh Phật (Pháp
Hoa Luận Sớ của ngài Cát Tạng nói A-hàm là tên gọi
chung cả kinh điển Đại thừa, Tiểu thừa. Bốn bộ A-hàm
là Tiểu thừa, Kinh Niết-bàn là "Phương Đẳng A-hàm",
đó là Đại thừa). Nay chỉ bàn về A-hàm Tiểu
thừa.
Nghiên
cứu về lịch sử thành lập kinh điển Phật giáo, tôi
xin đưa ra bốn quan niệm để làm tiền đề :
- Kinh Phật đều không
phải có từ hồi Phật còn tại thế, bất luận kinh
điển thuộc thừa nào, bộ nào, cũng đều do đệ
tử Phật thuật lại sau khi Phật diệt độ. Kinh
Phật xuất hiện sớm nhất là sau Phật diệt độ vài
tháng, và muộn nhất là từ Phật diệt độ 500 năm
về sau.
- Về việc thuật
lại kinh Phật có hai hướng : Một là do đoàn thể công
khai kiết tập, hai là do cá nhân trước thuật. Hướng
thứ nhất thì có lịch sử để khảo chứng, còn hướng
thứ hai thì không làm sao khảo chứng được.
- Kinh Phật sử dụng
cả hai hình thức đơn hành bản và tùng thư, mười
mấy bộ kinh lớn hiện còn lưu hành đều là tùng thư.
Nhưng theo tính chất thì loại tùng thư này lại chia
làm hai : Có loại biên soạn cùng một lúc hoàn thành,
có loại phải trải qua nhiều năm bổ sung mãi mới
hoàn thành.
- Đầu tiên kinh Phật
không có bản chữ viết mà chỉ dựa vào đọc
thuộc lòng, bản chữ viết sau Phật diệt độ mấy
trăm năm mới có, Phật giáo truyền đến đâu thì tùy
theo tiếng nước đó mà biên chép. Do đó có thể nói
kinh Phật đều là văn học phiên dịch.
Bốn bộ
A-hàm là bốn loại tùng thư do đoàn thể công khai kiết
tập cùng một lúc hoàn thành vào tháng thứ tư sau Phật
diệt độ. Bốn bộ A-hàm này trải qua nhiều năm sau
mới dùng mấy loại văn tự biên chép. Lần kiết tập
đầu tiên này nổi tiếng nhất trong lịch sử, được
gọi là "Ngũ bách kiết tập". Tình tiết của
sự kiện này được thấy đầy đủ trong TỨ PHẦN
LUẬT 54, DI-SA-TẮC NGŨ PHẦN LUẬT 30, MA-HA TĂNG-KỲ
LUẬT 32, THIỆN KIẾN LUẬT 1, v.v...
Sáng sớm
ngày Rằm tháng 2, Phật nhập diệt tại Câu-thi-na, lúc
ấy đại đệ tử Đại Ca-diếp còn ở tại nước
Diệp-ba, nghe tin liền trở về. Sau khi trà-tỳ Phật xong,
tự thầm nghĩ rằng cần phải kiết tập pháp tạng để
cho chánh pháp trụ ở đời làm lợi ích chúng sanh, Ngài
mời vua A-xà-thế làm đàn việt, bắt đầu kiết tập vào
ngày 27 tháng 6 tại hang Tất-ba-la (cũng gọi là Thất
Diệp) ngoại ô thành Vương Xá, với sự tham dự
của 500 người. Ngài Ca-diếp làm Thượng thủ, trước
tiên mời ngài Ưu-ba-ly kiết tập Tỳ-ni (cũng gọi là
Tỳ-nại-da), Hán dịch : Luật tạng, sau này biên
tập thành Luật Bát Thập Tụng. Kế đó, mời ngài A-nan
kiết tập Tu-đa-la (cũng gọi là Tố-đát-lãm), Hán
dịch : Kinh tạng, cũng gọi là Pháp tạng, sau này biên
tập thành các bộ A-hàm.
A-nan, đệ
tử Phật, làm thị giả Phật 25 năm, Phật khen Ngài là
người đa văn đệ nhất, do vì trí nhớ của Ngài rất
tốt, cho nên đại chúng suy cử Ngài phải đảm nhiệm
chức vụ lớn lao là kiết tập Kinh tạng. A-nan thăng tòa,
ngài Ca-diếp hỏi : "Kinh Phạm Võng trong pháp tạng
được nói ở đâu ?" (Kinh Phạm Võng này không
phải là Kinh Phạm Võng giới Bồ-tát của Đại thừa, mà
là Kinh Phạm Động trong Trường A-hàm). A-nan đáp :
"Phật nói ở tại nhà Vương-am-la-hy giữa thành Vương
Xá và Na-lan-đà". Hỏi : "Do ai phát khởi ?"
Đáp : "Do Tu-bi-dạ-ba-lợi-bà-xà-ca và Bà-la-môn Đà-đa
phát khởi". Sau khi hỏi đáp nhân duyên bản khởi như
thế xong, A-nan mới tụng lời Phật nói, bắt đầu
bằng câu "Tôi nghe như vầy", tụng xong, 500 vị
La-hán ấn khả, rồi tuần tự tụng đến kinh khác,
tụng hết các kinh, về sau chép thành định bản, tức là
Kinh A-hàm.
Vì sao
lại chia A-hàm thành bốn bộ ? Phẩm TỰ của KINH TĂNG
NHẤT ghi : "Lúc ấy, A-nan nói kinh nhiều vô lượng,
ai có đủ khả năng làm thành một nhóm, hoặc có một
số pháp nghĩa sâu xa, khó trì khó tụng không thể nhớ.
Ta nay phải tập hợp pháp nghĩa này để cho các pháp không
bị thất lạc". Theo đây thì dường như ngài A-nan e
rằng các kinh đã được tụng ra tản mạn khó nhớ, nên
muốn tập hợp thành "một nhóm" bằng cách dùng
hình thức tùng thư để tổng trì nó. Phẩm TỰ còn ghi
: "Khế kinh nay sẽ chia làm bốn đoạn, trước tiên
là Tăng Nhất, hai là Trung, ba là Trường Đa Anh Lạc,
bốn là Tạp Kinh". Đó là nói về thứ tự của
bốn bộ. LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC giải thích :
"Do vì văn nghĩa lộn xộn nên phải lấy sự lý theo
nhau, theo thứ tự lớn nhỏ, lấy một làm đầu tiên,
theo thứ tự đến mười; một, hai, ba theo sự tăng lên,
cho nên gọi là Tăng Nhất. Trung là không lớn không nhỏ,
không dài không ngắn, thích hợp với bậc trung. Trường
là nói về sự việc từ xa xưa trải qua nhiều kiếp.
Tạp là các kinh đoạn kiết khó tụng khó nhớ, việc
nhiều tạp toái, dễ làm cho người ta quên". DI-SA-TẮC
NGŨ PHẦN LUẬT ghi : "Ngài Ca-diếp hỏi tất cả Tu-đa-la
xong, trong chúng nói rằng : Đây là kinh dài, nay tập thành
một bộ, gọi là Trường A-hàm. Đây là kinh không dài
không ngắn, nay tập thành một bộ, gọi là Trung A-hàm.
Đây là kinh nói cho các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên tử,
Thiên nữ nghe, nay tập thành một bộ, gọi là Tạp A-hàm.
Đây là từ một pháp đến mười một pháp, nay tập thành
một bộ gọi là Tăng Nhất A-hàm". Căn cứ theo đây,
bốn bộ A-hàm được phân loại theo văn kinh dài ngắn.
PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA 10 ghi : "Tăng Nhất nói về nhân
quả trời người, Trung A-hàm nói về nghĩa sâu xa của
chân tịch, Tạp A-hàm nói về các Thiền định, Trường
A-hàm phá ngoại đạo". Thuyết này không tránh khỏi
bịa đặt. Bốn bộ A-hàm tuy được nói là đem các kinh
sắp xếp tổ chức lại, nhưng cách phân loại của lý
luận loại này dường như chẳng phải của thời ấy,
ngày nay xem kỹ lại các kinh được dịch thì cũng không
thể nói bộ kinh nào chuyên nói về một nghĩa nào.
Tại sao
lại lấy số bốn ? Hoặc có người cho rằng đó là
phỏng theo Tứ Phệ-đà, điều này cũng có thể đúng.
Nhưng theo Thiện Kiến Luật thì còn có Khuất-đà-ca A-hàm,
chứ không phải chỉ có bốn ! A-hàm chữ Pàli của Tích
Lan truyền bá có năm bộ, bộ thứ năm là Khuất-đà-ca.
Nhưng nếu đem văn bốn bộ A-hàm trích yếu phân loại
biên tập, e rằng chẳng phải là nguyên bản. Tôi ngờ
rằng Khuất-đà-ca này có quan hệ với kinh điển Đại
thừa, tôi sẽ bàn ở thiên sau.
II.
Sự truyền bá A-hàm tại Ấn Độ
PHÓ PHÁP
TẠNG NHÂN DUYÊN TRUYỆN 2 có ghi một việc đáng buồn cười
như sau :
A-nan du
hành đến một rừng tre, nghe một Tỳ-kheo tụng kệ Pháp
cú : "Nếu người sống trăm năm, không thấy con
vịt trời, chẳng bằng sống một ngày, mà được trông
thấy nó". A-nan nói với thầy Tỳ-kheo ấy rằng đó
không phải lời Phâ䴠dạy,
nay ông hãy nghe ta đọc : "Nếu người sống trăm năm,
không hiểu pháp sanh diê䴬 chẳng
bằng sống một ngày, mà thấu rõ pháp ấy". Lúc
ấy, thầy Tỳ-kheo này thuật lại lời ngài A-nan cho
thầy ông ta nghe. Vị thầy ấy bảo : "A-nan già
cả lẩm cẩm, lời nói nhiều lầm lẫn, không nên tin,
ông cứ đọc tụng y như trước".
Kinh Phật
thời ấy chỉ dựa vào học thuộc lòng chứ chưa được
ghi chép, do đó ý nghĩa bị thay đổi, đến nỗi ngài A-nan
còn tại thế mà đã có sự sai lầm đến thế rồi, dù
được bậc học rộng đức cao như ngài A-nan chỉ dạy
mà còn không thể sửa lại cho đúng được; vì thế
Mạnh Tử mới than : "Tin hoàn toàn vào sách vở, chi
bằng không đọc sách !" Chẳng những chuyển biến mà
còn dễ sót mất, LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC quyển thượng,
ghi :
"Tăng
Nhất A-hàm vốn có 100 sự, A-nan đem truyêcho Ưu-đa-la,
12 năm sau, A-nan nhập Niêᴭbàn. Các thầy Tỳ-kheo sau này
thích tập tọa thiền, bỏ phế phúng tụng, do đó kinh
này mất 90 sự, các pháp sư ngoại quốc truyền trao
cho nhau bă讧 miệng,
không nghe nói đến văn tự biên chép, lúc ấy chỉ
truyền hết 11 sự mà thôi. Từ đó thừa kế nhau chính
là văn bản này. Đệ tử của Ưu-đa-la là Thiện Giác,
học thuộc từ thầy chỉ được 11 sự, Ưu-đa-la bèn
nhập Niết-bàn. Ba tạng kinh hiện tại đều do ngài
Thiện Giác truyền".
Một Kinh
Tăng Nhất như thế, các kinh khác cũng vậy. Bộ A-hàm
hiện nay không thể nói là nguyên bản thời ngài A-nan.
Nhưng các bộ phái Phật giáo Ấn Độ đã nhiều nên
bản kinh này cũng không thể nào y hệt nhau. LUẬN THUẬN
CHÁNH LÝ (Chúng Hiền soạn, Huyền Trang dịch) ghi :
"Tuy có các kinh, các bộ phái đồng tụng, nhưng danh
cú của chúng có sai khác nhau" (quyển 1). Điều này
cũng như kinh điển lúc mới truyền vào Trung Quốc phần
nhiều do đọc thuộc lòng nên các nhà biên tập văn cú
có khi trái ngược nhau, như lấy Tăng Nhất làm thí dụ.
LUẬN CÔNG ĐỨC nói : "Các nhà Tát-bà-đa (tức
Nhất Thiết Hữu Bộ) không có bài tựa và mười
việc sau". Vậy kinh do Tát-bà-đa Bộ truyền chắc
chắn là khác với bản Thiện Giác, mà bản dịch Trung
Quốc hiện nay có 52 phẩm thì đã chẳng phải bản 100
thiên của nguyên bản thời A-nan, cũng chẳng phải là
bản 11 thiên của Thiện Giác, lại chẳng phải là bản
90 thiên của Tát-bà-đa Bộ (hoặc là bản này chưa
dịch hết, cũng chưa nói chắc được), thế nên
biết Tăng Nhất ở Ấn Độ có ít nhất là bốn dị
bản. Tôi sở dĩ bàn tới bàn lui về điều này, không
phải vì thích khảo chứng vụn vặt. Bởi vì sự giải
thích giáo lý của các bộ phái thời ấy có các thứ
sai biệt, tuy đồng thuộc về một kinh, mà bản của
bộ phái nào truyền thì mang tính chất đặc sắc riêng
của bộ phái ấy, chẳng chỉ như "thủy lạo hạc"
v.v...có sự dị đồng của văn tự mà thôi. Thử đem so
sánh bốn bộ A-hàm Hán dịch và bản Pàli của Tích Lan
thì sẽ phát hiện rất nhiều giáo nghĩa khác nhau. Sau này,
nếu có thể đem các bản kinh A-hàm dị bản hiện có trên
khắp thế giới so sánh đối chiếu, làm một sự nghiên
cứu tổng hợp, tìm ra bộ phái nào truyền để khảo
cứu về đặc điểm tư tưởng của mỗi bộ phái, đây
là một việc làm trọng đại của giới Phật học.
Bốn bộ
A-hàm Trung Quốc không được phiên dịch đồng thời,
nguyên bản cũng không phải cùng một xuất xứ, nên
nguồn gốc truyền vào cũng phải bất đồng. Ngài Từ
Ân cho rằng bốn bộ A-hàm đều do Đại Chúng Bộ
truyền. Ngài Pháp Tràng cho rằng Tăng Nhất do Đại Chúng
Bộ; Trung A-hàm, Tạp A-hàm do Nhất Thiết Hữu Bộ; Trường
A-hàm do Hóa Địa Bộ truyền.
III.
Nguồn gốc truyền dịch A-hàm
Về dịch
kinh, ở Trung Quốc, đầu tiên dịch loại Pháp Cú, tức
là loại sách trích yếu lời dạy trong các kinh. Kế đến
là dịch các tiểu phẩm A-hàm, bởi A-hàm là thể tài tùng
thư, các phẩm vốn là các thiên độc lập, nên sự chia
cắt các thiên không gây sự tổn thất nào cả. (Người
dịch xin lược bỏ bảng dị dịch các kinh thuộc A-hàm).
A-hàm mang
tính chất tùng thư, là do hợp một số lớn các kinh
nhỏ đơn hành bản mà thành, ở Ấn Đô⯍ cũng tụng
tập riêng biệt với nhau. Khoảng hơn 100 năm của thời
kỳ đầu, các nhà phiên dịch như An Thế Cao, Chi Khiêm,
Pháp Hộ, Pháp Cự đều phiên dịch từ các bản đơn hành
này, các ngài có biết nó đồng xuất xứ từ một tùng
thư hay không, tôi chưa dám nói. Tổng số kinh trong bốn
bộ A-hàm là bao nhiêu cũng không thể khảo chứng đích
xác được. Theo bản Hán dịch ngày nay, Trường A-hàm
gồm 30 kinh, Trung A-hàm 222 kinh, Tăng Nhất A-hàm 72 kinh,
Tạp A-hàm ngắn và nhiều không thể nêu số lượng chính
xác, chỉ ước chừng 1200 - 1300 trở lên (quyê宠1
gồm 28 kinh, trọn bộ 50 quyển),
tính chung hơn 2000 loại, nhưng vẫn chưa hoàn toàn đầy
đủ (Tăng Nhất, thể lệ mỗi phẩm đều lũy tiến
từ 1 đến 10, một phẩm có 10 kinh. Bản hiện nay 51
phẩm mà chỉ có 472 kinh, chắc là có thiếu sót. Nhưng
theo LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC thì bộ này phải có
đến 100 phẩm hợp thành 1000 kinh, bản được truyền đến
Trung Quốc chưa được phân nửa). Nay kiểm lại trong
các kinh lục, cộng chung các kinh Tiểu thừa hiện còn
chừng 1000 loại, trong số đó trừ ra chừng mười mấy
loại, thì hầu hết đều là di văn của A-hàm.
Các bản
dịch đơn lẻ trước đó không làm thỏa mãn yêu cầu
của người đọc, cho nên đến đầu đời Đông Tấn
bắt đầu có những bản dịch đầy đủ trọn bộ. Đầu
tiên là Tăng Nhất A-hàm, Trung A-hàm, kế đến Trường
A-hàm và cuối cùng là Tạp A-hàm được dịch suốt
thời gian 60 năm mới hoàn thành.
- Tăng Nhất A-hàm được
Đàm-ma-nan-đề dịch vào năm 384 với sự trợ dịch
của Trúc Phật Niệm và Đàm Tung.
- Trung A-hàm được Tăng-già-đề-bà
và Tăng-già-la-xoa dịch vào năm 398 với sự trợ
dịch của Đạo Từ.
- Trường A-hàm được
Phật-đà-da-xá dịch vào năm 413 với sự trợ dịch
của Trúc Phật Niệm và Đạo Hàm.
- Tạp A-hàm được
Cầu-na-bạt-đà-la dịch vào năm 443 với sự trợ
dịch của Pháp Dũng.
Người
mở đầu cho việc phiên dịch A-hàm ở giai đoạn này là
ngài Đạo An, Ngài dịch Tăng Nhất A-hàm và Trung A-hàm,
chính là năm Phù Kiên mất nước, trong bài Tựa kinh Tăng
Nhất, ngài Đạo An viết : "Năm ấy kinh thành lâm
nạn đao binh, chiêng trống vang dậy áp cận kinh thành".
Bởi trong lúc vây thành, vội vã dịch cho xong, năm sau ngài
Đạo An tịch, nên ngài Đạo Từ viết trong bài Tựa
kinh Trung A-hàm : "Người dịch vụng về đánh mất
ý nghĩa, bậc thầy xuất chúng đã qua đời (chỉ ngài
Đạo An), nên không thể nào sửa lại cho đúng",
cho nên biết hai bộ Kinh A-hàm dịch vào đời Tần này
chưa hoàn hảo. Bộ Tăng Nhất chưa được cải chính này,
hiện đang nằm trong Tạng, chính là bản năm 384 (Đây
là căn cứ theo kinh lục cũ mà nói như thế, kỳ thật tôi
còn có điểm nghi ngờ. Bài tựa của ngài Đạo An nói
41 quyển, mà bản hiện nay có đến 50 quyển. Bài tựa
của ngài Đạo An có câu "Thiếu phần lục kệ",
dường như là chỉ cho phẩm TỰ, mà bản hiện nay lại
có phẩm TỰ, có lẽ được thêm vào sau này. Bài tựa
của ngài Đạo An lại nói : "Cộng chung 472 kinh",
nếu bản kinh ngày nay số không phải bao nhiêu đó, thì
có thể chứng tỏ có sự thêm vào, rất tiếc là tôi không
có thì giờ để kiểm đếm). Trường A-hàm bắt đầu
từ nỗ lực của Pháp Hòa và Đề-bà, lại được La-xoa
từ Kế Tân mới đến trợ dịch thành ra bản dịch
thứ hai, nhưng bản dịch đầu tiên ngày nay không còn
được thấy. Tạp A-hàm trước đó đã có bản dịch đời
Tần, không biết là thời ngài Đạo An hay thời ngài La-thập
? Còn về Trường A-hàm thì lai lịch phiên dịch đơn
giản như đã trình bày ở trên.
Khi nghiên
cứu về nguồn gốc truyền dịch bốn bộ A-hàm, bỗng tôi
có hứng thú muốn tìm đến các nhà phiên dịch để khám
phá ra bộ A-hàm nào do bộ phái nào truyền. Phật giáo
Tiểu thừa ở Ấn Độ có đến 20 bộ phái đều theo giáo
nghĩa A-hàm, nhưng các bản tụng tập của các bộ phái
đều có dị đồng như trước đã nói. LUẬN PHÂN BIỆT
CÔNG ĐỨC nói bốn bộ A-hàm Hán dịch đều được
truyền từ Đại Chúng Bộ, hoặc nói Tăng Nhất A-hàm
từ Đại Chúng Bộ, Trung A-hàm, Tạp A-hàm từ Nhất
Thiết Hữu Bộ, Trường A-hàm từ Hóa Địa Bộ, không
biết thuyết này xuất xứ từ đâu. Nay từ các nhà phiên
dịch bốn bộ A-hàm và các tài liệu khác, tôi đem so sánh
đối chiếu, và có vài ý kiến như sau :
1.
Tăng Nhất A-hàm
Tôi nghi là
dựa vào bản của Nhất Thiết Hữu Bộ rồi được bổ
sung bởi bản của Đại Chúng Bộ. Dịch giả Đàm-ma-nan-đề
là người Đâu-khư-lặc. Vùng Đâu-khư-lặc nằm trong địa
bàn truyền giáo của Nhất Thiết Hữu Bộ. Những năm
gần đây, người châu Âu khai quật ở Khố-xa (Kucha)
được bản Ba-la-đề-mộc-xoa (giới luật) bằng
chữ Nguyệt Chi, chính là Thập Tụng Tỳ-kheo-ni Giới
Bản của Tát-bà-đa Bộ (tức Nhất Thiết Hữu Bộ)
do ngài La-thập dịch.
Vua Ca-nị-sắc-ca
tổ chức đại hội kiết tập Tỳ-bà-sa là người dòng
dõi Nguyệt Thị, có nhân duyên rất sâu với Hữu Bộ,
Đâu-khư-lặc thuộc Nguyệt Thị, dùng văn tự Nguyệt
Thị thì cố nhiên phải học Hữu Bộ. Theo LUẬN PHÂN
BIỆT CÔNG ĐỨC, Tăng Nhất A-hàm của các bộ phái khác
chỉ còn 11 phẩm, chỉ có bản Hữu Bộ là còn 90 phẩm.
Bản lưu hành hiện nay 51 phẩm, rõ ràng là được
truyền từ Hữu Bộ, sở dĩ không đủ 90 phẩm hoặc là
do phiên dịch chưa hoàn tất, bởi lúc dịch kinh này thì
giặc đang vây thành, chẳng bao lâu thì Phù Tần diệt
vong. LUẬN CÔNG ĐỨC còn ghi : "Bản của Tát-bà-đa
Bộ không có bài tựa". Trong bài tựa của ngài Đạo
An cũng nói : "Thiếu phần lục kệ". "Bài
tựa", "lục kệ" dường như chỉ cho phẩm
TỰ. Vậy thì một quyển phẩm TỰ của bản hiện nay có
lẽ chẳng phải là của nguyên dịch mà do người sau
lấy từ bản của bộ phái khác thêm vào. Bản được dùng
để thêm vào này có thể là bản của Đại Chúng Bộ,
cho nên ngài Từ Ân nói : Tăng Nhất A-hàm được truyền
từ Đại Chúng Bộ. Phẩm TỰ có nhiều ngôn ngữ của
nhà Đại thừa, hẳn là có liên quan với Đại thừa.
2.
Trung A-hàm
Tôi nghi là
xuất phát từ Nhất Thiết Hũu Bộ. Bản dịch Trung A-hàm
và Tăng Nhất đầu tiên đều của Đàm-ma-nan-đề đã
chứng tỏ là được truyền từ Hữu Bộ. Bản đang lưu
hành hiện nay là bản dịch năm 398, do Tăng-già-la-xoa
giảng bản Phạn, Tăng-già-đề-bà chuyển dịch Phạn Hán,
cả hai đều là người Kế Tân (tức Ca-thấp-di-la),
Kế Tân là căn cứ địa của Hữu Bộ, mọi người đều
biết. Đề-bà dịch Luận A-tỳ-đàm Bát Kiền-độ (Luận
Phát Trí của Ca-chiên-diên) là sách trọng yếu nhất
của Hữu Bộ, La-xoa dịch tiếp Luật Thập Tụng của ngài
La-thập cũng là luật Hữu Bộ. Vậy ba người dịch
Trung A-hàm đều là các đại sư Hữu Bộ, ngài Pháp Tràng
cho rằng Trung A-hàm được truyền từ Hữu Bộ là có
chứng cứ lịch sử.
3.
Trường A-hàm
Tôi nghi là
xuất phát từ Đàm Vô Đức Bộ. Dịch giả của Trường
A-hàm là Phật-đà-da-xá cũng là người Kế Tân, nhưng
Luật Tứ Phần của Đàm Vô Đức Bộ cũng do Ngài tụng
ra, đủ biết Ngài là người thuộc Đàm Vô Đức Bộ,
cho nên Trường A-hàm của Ngài tụng ra ắt cũng dùng
bản Đàm Vô Đức Bộ.
4.
Tạp A-hàm
Tôi nghi là
xuất phát từ Di-sa-tắc Bộ. Cầu-na-bạt-đà-la, dịch
Tạp A-hàm, là người Trung Thiên Trúc, vốn là nhà Đại
thừa nổi tiếng, không có quan hệ lắm đối với các
bộ phái Tiểu thừa, nguyên bản Tạp A-hàm truyền vào
Trung Quốc, thật ra do ngài Pháp Hiển. Pháp Hiển được
bộ kinh này ở nước Sư Tử (tức Tích Lan), đồng
thời cũng được bộ Luật Di-sa-tắc. Vậy thì, Tạp A-hàm
đương nhiên có quan hệ với Di-sa-tắc Bộ, bộ phái này
vốn hưng thạnh ở vùng Nam Thiên Trúc. Nước Sư Tử
chắc hẳn có chịu ảnh hưởng của bộ phái này, trước
khi Cầu-na sang Trung Quốc, Ngài cũng có cư trú tại nước
này một thời gian.
Những
khảo chứng nói trên dường như không có liên quan gì đến
nghĩa lý của kinh, nhưng học thuyết của các bộ phái
Ấn Độ cổ đại truyền đến nay rất ít (trừ Hữu
Bộ). Nếu tìm được một chút ít trong bốn bộ A-hàm
cũng giúp phần nào cho việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng
Ấn Độ.
IV.
Sự cần thiết và phương pháp nghiên cứu A-hàm
Ở Trung
Quốc, từ Tùy, Đường (thế kỷ VI) về sau, người
học Phật cho rằng bàn về Tiểu thừa là điều xấu
hổ, do đó Kinh A-hàm đã bị xếp xó hơn một nghìn năm.
Còn tôi quan niệm rằng thật sự muốn nghiên cứu Phật
học thì phải nghiên cứu A-hàm, vì những lý do sau đây
:
A-hàm
là kinh điển được thành lập trước nhất, dùng hình
thức kiết tập công khai, rất đáng tin cậy, vì thế,
tuy không dám cho rằng Phật nói hết trong A-hàm, nhưng A-hàm
chiếm một phần quan trọng của lời Phật nói, điều này
không còn gì nghi nữa.
1. Phần
lớn kinh Phật đều là tác phẩm văn học, A-hàm tuy không
tránh khỏi, nhưng so với các kinh khác thì A-hàm mang ít
tính văn học hơn, mà mang tính thật thà chất phác. Vì
thế, dù không dám cho rằng mỗi câu mỗi chữ của A-hàm
đều là lời Phật nói, nhưng nó hàm chứa nhiều và
thuần túy lời Phật mà kinh khác không bì kịp.
2. A-hàm
mang thể tài của một loại ngôn hành lục, tính chất
đại khái đồng với Luận Ngữ, muốn thể nghiệm nhân
cách hiện thực của Đức Thích Tôn mà không nghiên
cứu kinh này thì không được.
3. Các
nguyên lý căn bản của Phật giáo như Tứ đế, Thập
nhị nhân duyên, Ngũ uẩn giai không, Nghiệp cảm luân
hồi, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo... đều được nói
rõ trong A-hàm. Nếu đối với các giáo lý căn bản này
mà không hiểu chính xác thì không thể nào hiểu được
kinh điển Đại thừa.
4. A-hàm
chẳng những không xung đột với kinh điển Đại thừa,
mà giáo nghĩa Đại thừa được cưu mang trong đó không
ít, không cho phép ta chê bai là thiên, tiểu, rồi bỏ
qua.
5. A-hàm
trình bày rất nhiều về tình hình xã hội đương thời,
đọc A-hàm có thể biết được hoàn cảnh sinh hoạt
của Đức Thích Tôn và Ngài đã khổ tâm ứng cơ giáo hóa
như thế nào. Chúng ta là người khác nước khác thời
với Phật, làm thế nào để thọ dụng được Phật
học, có thể nhờ đây mà tự xét biết.
Điều
cần thiết của sự nghiên cứu A-hàm đã hữu ích như
thế. Nhưng nguyên nhân khiến cho sự nghiên cứu A-hàm không
được phổ cập là do :
1. Pho
quyển quá nhiều
2. Thiên
chương trùng phức : Các
kinh trong bốn bộ A-hàm trùng phức với nhau, có trường
hợp cùng trong một bộ mà có các kinh trước sau trùng
phức, cùng một đoạn kinh mà bình quân trong bốn bộ A-hàm
thấy xuất hiện ba bốn lần, câu văn chỉ khác nhau chút
ít.
3. Từ
ngữ lặp lại liên miên : Chúng
ta đọc A-hàm có thể thấy được sự rườm rà của ngôn
ngữ người Ấn Độ đương thời. Mỗi khi nói một nghĩa
thường từ chánh diện phản diện dùng cùng một câu
lặp đi lặp lại giải thích. Lúc vấn đáp, thường
lặp lại lời nói trước, cho nên thường thường cả
một đoạn văn dài ba bốn nghìn chữ chỉ trình bày được
một vài điểm mà đáng lẽ chỉ dùng từ ngữ trong mười
mấy câu là đủ, người đọc hơi vội vàng thì không
thể nào biết được đâu là chánh văn, đâu là lời
phụ thích, cho nên rất dễ sanh chán.
4. Văn
dịch vụng về :
Tăng Nhất A-hàm và Trung A-hàm được dịch xong trong hoàn
cảnh chiến tranh, Trung A-hàm tuy có sửa lại, còn Tăng
Nhất thì giữ y nguyên, về văn nghĩa, chính người
dịch cũng tự cảm thấy chưa vừa ý. Trường A-hàm,
Tạp A-hàm dịch sau, khá hơn hai bộ dịch trước, nhưng
cũng đều là giai đoạn đầu của nền phiên dịch, nên
kinh nghiệm và tài năng của người dịch không bằng các
dịch giả sau này. Còn về thuật ngữ, phần nhiều được
các dịch giả đời sau chỉnh sửa dần dần và các
thuật ngữ trong A-hàm bị đào thải, cho nên ngày nay đọc
A-hàm cảm thấy khó hiểu.
Nay muốn
phục hưng "A-hàm học", cần phải bắt tay vào các
phương pháp sau đây :
Trước
tiên, cần phải đem các giáo lý trọng yếu xếp thành
đề mục như : Khổ, Vô thường, Vô ngã, Nhân duyên sanh
pháp, Ngũ thủ uẩn, Tứ thiền... khoảng chừng ba bốn mươi
mục. Sau đó, phân loại các kinh theo đề mục, lấy
một kinh hoặc hai, ba kinh làm chính, còn các kinh khác có
văn nghĩa hoặc dài ngắn gần giống thì đặt vào phần
phụ lục. Đối với kinh hoàn toàn đồng, chỉ để tên
trong cùng một mục, nếu biên soạn lại như thế thì
chỉ còn chừng một phần mười của nguyên bản, nhưng
muốn nghiên cứu xem trong A-hàm có bao nhiêu điều giáo lý
trọng yếu, nội dung của các giáo lý ấy thế nào, chúng
quan hệ với nhau ra sao, đều có thể thấu hiểu, và
quan điểm căn bản nguyên thủy của Phật giáo do đây có
thể xác lập.
-- Đem
những tư liệu có liên quan đến xã hội, phong tục Ấn
Độ trong A-hàm phân loại, biên tập và xem xét mối quan
hệ của nó với Phật giáo, như những đoạn ghi chép
về chế độ bốn giai cấp cho ta thấy được tinh thần
bình đẳng của Phật giáo, xem những ghi chép về các
nghi thức tế lễ, nhân đó thấy được tinh thần phá
trừ mê tín của Phật giáo.
-- Cần
phải chú trọng đến địa phương và nhân sự, đem
những nơi Đức Thích Tôn đã cư trú và du hóa trong A-hàm
lập thành một bảng kê, xem Ngài thuyết pháp ở đâu
nhiều nhất, kế đến là nơi nào, ở nơi nào thuyết
loại pháp nào. Về những người được tiếp xúc với
Phật như đệ tử, quốc vương, trưởng giả, thường dân,
ngoại đạo..., mỗi loại người nên làm một biểu để
biết được cách ứng cơ thuyết pháp của Phật. Như
vậy có thể cung cấp tư liệu chính xác về truyện
Phật Thích-ca, truyện đệ tử Phật, lịch sử Ấn Độ...
Bốn
bộ A-hàm là một kho tàng văn hóa quý báu, bất luận
nghiên cứu về phương diện nào cũng đều có giá trị.