KINH
HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT THẦN CHÚ
- Hán dịch: Tam
Tạng Pháp Sư Ðàm Ma Mật Ða Nước Kế Tân
- Ðời Tống.
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Tôi nghe như vầy, một
thuở đức Phật trụ ở núi Khư La, nương theo chỗ ở của Chánh Giác Tiên, cùng
với vô số chúng đại Tỳ kheo Thanh văn, cũng cùng với vô lượng a tăng kỳ
hằng hà sa số đại Bồ tát. Ðức Phật diễn nói Kinh Như Lai Công Ðức xong rồi
thì bấy giờ, ở phương Tây có báu Như ý xuất hiện với vô lượng trăm ngàn
báu Thích ca tỳ lăng già trang nghiêm giáp vòng. Ánh sáng của ngọc báu đó
che mất ánh sáng của tất cả sắc tượng khác, chỉ thấy đức Như Lai và báu
Như ý, còn vô lượng vô biên chẳng thể nói sắc tượng khác nhìn thấy như hư
không. Uy quang của đức Như Lai lại cùng rất minh hiển thì các chúng hội
này chẳng nhìn thấy thân mình, đều chẳng thấy nhau. Những sắc tượng của
đại chúng đều diệt không còn, chẳng cùng là đối tượng của mắt, chẳng thể
thấy được sắc thân và sự chạm xúc. Theo sự quan sát nhìn xem của họ thì
chỉ thấy toàn là hư không, cũng chẳng thấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú,
địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới... chẳng cùng là đối tượng của
mắt. Tai chẳng nghe tiếng, mũi chẳng ngữi hương, không tâm và tâm số,
không ngã và ngã sở và sáu nhập khởi tưởng. Họ ngắm nhìn phương khác chẳng
thấy được các đại, ở tại khắp các địa phương chỉ thấy thân Phật với sắc
tướng quang minh, cũng lại thấy từ xa ngọc báu Như ý với vô lượng trăm
ngàn báu Thích ca tỳ lăng già trang nghiêm giáp vòng, còn ngoài ra không
thấy gì cả. Ở trong chúng này có Ðại Bồ tát trụ ở thập địa đắc thực Lăng
nghiêm tam muội, có thân tối hậu Nhất sanh bổ xứ, thấy tướng như vậy chẳng
kinh sợ. Bồ tát này hiểu rõ tánh các pháp rỗng không như thật tế nên chẳng
kinh, chẳng bố, chẳng úy, còn các Ðại Bồ tát khác, Thanh văn, trời, rồng,
Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Tỳ xá già, Phú đơn na, ca tra
phú đơn na, người và chẳng phải người ở tại trong hội thì rất kinh hãi sợ
sệt, phát sinh ra lo buồn. Ðây đó che tối, lòng họ loạn động đều chẳng
thấy nhau, đều không chỗ hỏi. Việc ấy là sao ? Vì nhân duyên gì vậy? Là
chính sức của ai ? Lúc bấy giờ, trong chúng có vị Ðại Bồ tát tên là Phạm
Ðức chắp tay hướng về đức Phật mà nói kệ rằng :
Tất cả pháp tính Như
Người không có biết thì
Nương trụ ở sắc ấm Che tối sáu
tình căn
Chẳng thấy ở một ấm Tư duy cầu
năm ấm
Với Phật pháp nghi nan Trong này có
người đó
Như đây, đó cũng thế Tổng biết
tính hư không
Tam muội đó dũng kiện Thân ấy nói
chẳng cùng
Ngọc báu lớn Như Ý Trên đỉnh (Bồ
tát) ấy hiện lên
Thích Ca Lăng Già bảo Từ xa thấy
rõ đó
Là đại tuệ chúng sinh Ðộ Thủ
Lăng tam muội
Tất cả bậc Ðại tuệ Muốn
đến thấy Thế Tôn
Nay nói thậm thâm pháp Quyết định
không nghi nan
Ở chúng này an ủi Ðều
đến qui Thế Tôn
Người dũng kiện hành xử Giáo hóa
(thành) thục chúng sinh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ
rằng :
Như vậy ông biết Như Người tam muội
hành xử
Nếu nghe chính trú xứ Là trụ
tuệ chúng sinh
Ðây là việc hành xử Bồ tát Hư
Không Tàng.
Không nương, không hí luận Tam muội đó
hiện lên
Chúng sinh chấp hại kiến Hay bị cướp
đoạt luôn
Chấp thường, đoạn hai kiến Che tối đây,
đó thường
Như vậy là hai kiến Muốn được
giải thoát xong
Tính ấy chẳng thể nói Các địa
mau chứng thành.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Với
Ðại Bồ tát mới phát tâm đó thì nên nói tướng cảnh giới ban đầu, gọi là sáu
Ba la mật... cho đến việc biết tính Như Thật của những đại sinh diệt. Rồi
nhiên hậu biết tất cả pháp chẳng thể nói, không tính, không sinh, không
diệt, không cảnh giới, chẳng động, chẳng lay. Rồi như vậy tu hành tất cả
các hạnh, như vậy mà đoạn lìa hết hai kiến đoạn và thường, chẳng sinh ra
kinh sợ, đối với tất cả pháp chẳng dấy khởi lòng cảnh giới, mau chóng được
đầy đủ sáu Ba la mật, lại chẳng trụ ở trong đoạn kiến, thường kiến nữa.
Ðức Phật nói thế rồi thì tất cả
đại chúng thấy, nghe, hay, biết sắc tướng như cũ.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn duỗi
cánh tay phải của mình, nói lên rằng :
- Ðó là Ðại Bồ tát Hư Không
Tạng đến !
Nói lời đó xong, ngài bảo với
các đại chúng rằng :
- Bồ tát Hư Không Tạng đó được
các tam muội giống như biển cả, giữ giới Bồ tát như núi Tu di, sự thông
đạt của trí giống như hư không, siêng hành tinh tấn giống như gió nhanh,
tu hành nhẫn nhục giống như Kim cương, tuệ Bồ tát ấy như không. Ông ấy ở
trong các Bồ tát giống như thắng tràng, là người dẫn đường hướng về Niết
bàn, là kho của tất cả căn lành, là bình báu của người nghèo, là mặt trời
của kẻ vào tối, là ánh trăng của kẻ lạc đường, là núi đại Tu di của người
sợ hãi, là nước cam lộ của người bị phiền não cháy nóng, là đất gieo trồng
của tất cả người gieo căn lành, là cầu của người đi đến đại Niết bàn, là
thuyền của người rơi vào ác đạo, là thềm bậc của người sinh lên trời, là
nơi cứu hộ của kẻ ác khẩu chê bai, là táng che của người nhiệt não, đối
với ngoại đạo như vua sư tử, nhiếp lấy các kiến giống như gương nước, là
áo giáp đồng trong ma oán, là thuốc của người hủy giới, là đất tu lành các
gốc thiện, là hoa của người làm vòng hoa cài tóc, là kho tàng của người đủ
hạnh, là quần áo thượng diệu của người không tàm quí, là thầy thuốc giỏi
của người bệnh, là đồ ăn của người đói, là nguyệt châu của người khát, là
giường của kẻ cực nhọc, là mặt trời của người tu tam muội chánh hạnh, là
xe lớn của người hướng về Bồ đề, là thắng địa của người du hí thiền định,
là bánh xe báu của kẻ trợ Bồ đề. Này thiện nam tử ! Ðây chính là quả báo
của người hướng về Ba la mật. Vị thiện nam tử này lại chính là ngọc báu
Như ý của người tiến tu hành mười địa. Thiện nam tử này chính là cây
Ba-lợi-chất-đa-la của người Thủ lăng nghiêm tam muội, là lưỡi dao của
người đoạn dứt tà kiến kết sử, phá các tập khí giống như Kim cương, có thể
hàng phục các ma, là phương tiện tốt, là ý khai phát, là chỗ nương của tất
cả Phật pháp, là hoa mạn của Viên giác, là y phục của Thanh văn, là nhãn
mục của chư thiên, là chánh đạo của loài người, là chỗ về của súc sinh, là
nơi ủng hộ của ngã quỉ, là đấng cứu hộ của địa ngục, là ruộng phước của
tất cả chúng sinh, là xe lớn của các vị Ðại Bồ tát. Vị thiện nam tử này
chính là vị tối đại phụ thần của Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri... ba
đời, hộ trì của thành pháp. Vị thiện nam tử này thậm chí đầy đủ mười tám
pháp bất cộng để tự trang nghiêm, được thành tựu đầy đủ Phật trí. Vị thiện
nam tử này là vị ứng cúng của tất cả chúng sinh chỉ trừ đức Như Lai, là
bậc tối thắng trong tất cả những bậc ứng cúng khác. Ðại chúng các ông đều
nên phụng ngưỡng, đều tùy theo năm lực của mình mà bày biện đồ cúng để
cúng dường cung kính tôn trọng vị Bồ tát đó. Các ông nên dùng đủ thứ trân
bảo, tràng phan, bảo cái, hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi ngọc... đủ
thứ tạp vật, sửa trị đường cái sạch sẽ và trang nghiêm đủ thứ, đem đủ thứ
lời khen ngợi mà ngợi khen Bồ tát đó. Các ông chẳng bao lâu sẽ được công
đức khí đó !
Bấy giờ, tất cả đại hội đều
chung hòa hợp, đứng dậy hướng về phương thị hiện của Ðại Bồ tát Hư Không
Tạng, kẻ vòng tay, người chắp tay, lòng họ hoan hỷ, diện mạo vui tươi,
bằng mắt thanh tịnh quan sát, ngắm nhìn kỹ càng Bồ tát đó. Ðến đây, trong
chúng từ các vị Ðại Bồ tát và Ðại Thanh văn đến chúa trời, chúa rồng,
chúa Dạ xoa, chúa A tu la, chúa Già lưu la, chúa Khẩn na la, chúa Ma hầu
la già và tiên ngũ thông đều tác khởi ý niệm này : “Sẽ thiết bày đồ cúng
tối thắng tối thượng gì để cúng dường vị thiện nam tử đó ?”. Bấy giờ, Ðại
Bồ tát Hư Không Tạng biến cõ Ta Bà thành đất bằng như bàn tay trang nghiêm
bảy báu, trừ khử các núi, đồng trống, gò đống, tướng vách, gạch ngói, tro,
phẩn hôi thối, bụi bặm, sương móc, mây mù sấm sét, tiếng càn thát bà. Tất
cả cây cối biến thành bảy báu, hoa lá quả hương đều đầy đủ. Nương theo đất
cỏ cây, cành, đốt, thân, lá cũng biến hóa thành bảy báu. Cả thế giới Ta bà
tiêu trừ hết tất cả bệnh, tất cả địa ngục, súc sanh, ngã quỉ, không có các
khổ não, được những đồ dùng như quần áo, đồ ăn, thức uống, chuỗi
ngọc.v.v... tất cả chúng sinh trong cõi Ta Bà được biến thành diệu sắc Như
Ý, đoan nghiêm uy đức đệ nhất, chi tiết thân thể đầy đủ, tiêu trừ các kết
sử, lòng được tịch tịnh. Ðối với các căn lành, lòng họ mừng vui, đem lòng
thanh tịnh an trụ ở Tam Bảo. Hai tay của chúng đã tập họp nơi đây tự nhiên
có “hóa Như Ý bảo”. Mỗi mỗi Như ý bảo đều phát ra ánh sáng, chiếu soi khắp
thế giới Ta Bà. Những ngọc báu này lại phát ra âm nhạc vi diệu. Trời mưa
xuống đủ thứ báu, đủ thứ áo đẹp, đủ thứ chuỗi ngọc... mưa xuống đủ thứ
chuỗi ngọc móc khóa vàng, chuỗi ngọc chân châu... Lại mưa xuống đủ thứ hoa
đẹp, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng và hoa trên
nước, hoa trên đất... Lại mưa xuống hương thơm Ða ma bát, hương thơm bột
Ngưu đầu chiên đàn... để trang nghiêm đường đi. Hai bên đường đi ấy hóa ra
những tòa nhà thất bảo như Ðế Thích đường. Ở bên trong tòa nhà ấy hóa ra
các thể nữ giống như hoàng hậu của ma, tấu lên âm nhạc năm cung, vui sướng
thọ lạc. Trong hư không ở bên trên đức Phật, hóa ra bảo cái nhà trời đầy
một trăm do tuần, trang nghiêm bằng lưới báu tươi sạch thanh diệu. Trong
lưới ấy trang nghiêm bằng những xâu chân châu treo lủng lẳng. Chúng tấu
lên mọi thứ kỹ nhạc hơn cả nhạc trời. Trong ruộng đất, cỏ cây, rừng rậm,
hoa lá, các trái cây đều phát ra diệu âm thù thắng hơn cả âm nhạc nhà
trời. Có người nghe được âm thanh này thì đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác được chẳng thoái chuyển. Bấy giờ, tất cả những chúng của đại
hội thấy Ðại Bồ tát Hư Không Tạng tạo tác sự trang nghiêm này thì được
điều chưa từng có dấy lên ý nghĩ rằng : “Chúng ta làm gì cho vị thiện
trượng phu đó ? Ở trước đức Thế Tôn chúng ta phải thiết lập tòa ngồi thế
nào ?” Bấy giờ, trước đức Phật xuất hiện hoa sen báu với bạch ngân làm
thân, hoàng kim làm cánh, mã não làm đài, báu phạm ma ni làm tua. Hoa ấy
dọc ngang mười dặm. Lại có vô lượng trăm ngàn hoa sen báu như vậy vây
quanh hoa ấy giáp vòng. Ðại chúng thấy Ðại Bồ tát Hư Không Tạng bỗng nhiên
ngồi kiết già ở trên hoa, thấy ngọc báu Như Ý ở trên đỉnh đầu Bồ tát ấy,
thấy quyến thuộc đem theo của Bồ tát Hư Không Tạng cũng đều ngồi trên
những đài hoa sen còn lại.
Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Di Lặc
dùng kệ hỏi Bồ tát Dược Vương rằng :
Như những bậc đến trước Bồ tát
đại danh xưng
Trước cung kính lễ Phật Nhiên
hậu mới ngồi lên
Thiện trượng phu này đến Thị hiện
đại trang nghiêm
Chẳng kính lễ đức Phật Chợt
thấy đã ngồi liền.
Bấy giờ, Bồ tát Dược Vương dùng
kệ đáp Bồ tát Di Lặc rằng :
Thấy Ðại trượng phu đó Khéo trụ
pháp Thế Tôn
Là chẳng thấy sinh chúng Tất cả
tưởng chẳng nương !
Bấy giờ, Bồ tát Di Lặc lại dùng
kệ nói rằng :
Nếu chẳng thấy chúng sinh Là an
trụ thật tế
Vì nghĩa gì trang nghiêm ?
Xin vì tôi hiển nói !
Bấy giờ, Bồ tát Dược Vương lại
dùng kệ đáp rằng :
Phương tiện đó dũng kiện Giáo hóa
các chúng sinh
Chẳng biết đệ nhất nghĩa Phàm phu
vọng tưởng hành.
Người thông tuệ thế đế Thọ khổ vì mê
chân
Vì giải thoát bọn đó Hiện như vậy
trang nghiêm.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen
Bồ tát Dược Vương rằng:
- Hay thay ! Hay thay ! Vị
thiện trượng phu đó, đúng như lời nói của ông ! Giả sử tất cả các phàm phu
chẳng thể biết được hành xứ giải thoát của một Tu đà hoàn. Tất cả chúng
sinh được Tu đà hoàn chẳng thể biết được hành xử giải thoát của một Tư đà
hàm. Tất cả Tư đà hàm, A na hàm, A la hán cũng lại chẳng thể biết được
hành xử giải thoát của một Bích Chi Phật. Tất cả chúng sinh làm Bích Chi
Phật độc nhất kỳ lân (?) cũng chẳng biết được sự khéo léo phương tiện giáo
hóa chúng sinh của một Ðại Bồ tát Vô sanh nhẫn. Tất cả chúng sinh được Vô
sanh nhẫn chẳng biết được hạnh giải thoát đệ nhất nghĩa đế của một Ðại Bồ
tát được Thủ Lăng Nghiêm tam muội vô ngại biện tài. Này thiện nam tử ! Vị
Hư Không Tạng đó đã được Vô sanh nhẫn, được Vô ngại biện, được Thủ Lăng
Nghiêm tam muội nên biết được thiện căn trong lòng của đại chúng này hơn
vô lượng kiếp nên phải thị hiện Ðại trang nghiêm, trụ ở Ly dục địa. Vị
thiện nam tử này từ phương Tây biến mất mà hiện đến đây, thị hiện đồng
đẳng với những Thanh văn, Duyên giác, vào đến vô lượng không xứ tam muội,
hiện lên thần thông, tất cả chúng sinh phát sinh lòng lạ lùng. Ông lại đối
với thế đế thị hiện trang nghiêm, giáo hóa vô lượng những chúng sinh.
Thiện nam tử đó nếu hiện đệ nhất nghĩa đế trang nghiêm thì chẳng những
người trời đều phải kinh sợ mất tâm mà đến cả Bồ tát bát địa cũng lại mất
tâm, không thể thấy tướng mạo của hạnh ấy để vào pháp công đức thậm thâm
như vậy.v.v... Thiện nam tử đó giỏi biết phương tiện, độ qua pháp hải của
tất cả các đức Phật, đoạn dứt nghi hoặc, tự nhiên giỏi biết các phương
tiện độ. Ở trong các vị Ðại Bồ tát ông ấy giống như Vương Tràng. Này thiện
nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng đó bày cho các chúng sinh con đường trời
và con đường Niết bàn, có thể giải thoát tâm bệnh kết sử của chúng sinh,
cũng trị liệu thân bốn đại, tổn hoại các hoạn nạn. Nếu có chúng sinh bị tà
kiến bức bách, mê man ở trong sinh tử khoáng dã, chẳng biết phương tiện
sao gọi là thiên đạo, Niết bàn đạo ? Các chúng sinh đó, nếu xưng danh hiệu
Bồ tát Hư Không Tạng, lễ bái cúng dường, đốt mọi thứ danh hương thì thiện
nam tử đó quan sát thiện căn của tâm chúng sinh ấy thấy kết sử che lấp tâm
họ và biết tâm quá khứ đã gieo trồng căn lành, cũng biết họ hiện tại cúng
dường Phật, Pháp, Tăng bảo, tu thí, giới đức... những việc như vậy. Thiện
nam tử đó, hoặc ở trong mơ phương tiện thị hiện con đường chánh trực. Nhờ
lực phương tiện nên đối với tất cả ác kiến, ác sự, ác nguyện, ác cầu, ác
qui, ác thú... lòng được giải thoát, hành động thân miệng ý đều chánh
trực, sở nguyện chánh trực, được gần chân thiện tri thức chánh trực, mau
được giải thoát các xú kết ác, ác kiến, các bệnh, mau chóng được hết ác
đạo, ác nghiệp. Sở nguyện thiện, hành thiện nghiệp mau chóng được tạo tác,
lòng được tự tại, trụ ở nhẫn thậm thâm. Nếu có chúng sinh bị đủ thứ những
bệnh bức thiết thân họ, tâm họ tán loạn, điếc, mù, câm, ngọng, các căn
chẳng đủ, chi tiết đều khác, sắp có tướng chết... những việc như vậy mà
nhất tâm xưng danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng thì các bệnh tiêu trừ. Nếu
muốn không bệnh thì đốt hương trầm thủy, hương kiên hắc trầm thủy, hoặc
hương đa kiệt lưu, lễ bái Bồ tát Hư Không Tạng thì vị thiện đại trượng phu
này, ở trong giấc mơ đêm, hóa làm hình dáng Bà la môn ở trước người ấy.
Hoặc hiện hình dáng Ðế Thích, hình dáng trời Ðại Công Ðức, hình dáng trời
Diệu AÂm, hình dáng Sát Lợi, hình dáng đại thần, hình dáng binh sứ, hình
dáng lương y, hoặc hình dáng cha mẹ, hoặc hình dáng nam nữ... ở trong đêm
mơ, tại trước người bệnh như thật mà vì họ nói đủ thứ thuốc thang tùy theo
bệnh. Người bệnh uống một thang thì bệnh hoạn đều tiêu trừ. Lại có kẻ cầu
xin nhiều việc như vầy : Muốn đa văn nghĩa, hoặc muốn tịch tịnh, muốn tu
thiền được tuệ, muốn được danh xưng, muốn cầu thợ khéo, muốn được tự tại,
muốn được sắc đẹp, muốn được phong ấp, muốn được thế lực, muốn được tài
năng, muốn được diệu thanh (tiếng hay), muốn được con cái, muốn được quyến
thuộc, muốn được công đức, muốn được bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định, trí tuệ, muốn được lời nói đẹp, muốn người cung kính,
muốn thoát khỏi các ác, dừng yên ở bố thí... cho đến trụ ở trí tuệ, muốn
được trường thọ, muốn được đủ thứ đồ cần dùng, được rồi có thể sử dụng,
muốn khuyên người san tham khiến cho làm bố thí, muốn khiến cho kẻ phá
giới an trụ ở trì giới, muốn khiến cho kẻ giải đãi an trụ ở tinh tấn, muốn
khuyên người ngu si khiến cho trụ ở tuệ, người chưa được thừa thì khuyên
trụ ở Thanh văn, người tự nhiếp lấy thừa thì khuyên trụ ở Duyên giác. Vị
thiện nam tử đó tạo ra phương tiện này bày cho các chúng sinh. Hoặc có
chúng sinh lìa bỏ đại bi, tự hộ thân mình, lòng bỏ chúng sinh. Nếu có tâm
này thì ta dùng phương tiện gì để có thể khuyên người đó trụ ở Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác, an trụ ở chỗ phương tiện bốn Phạm hạnh... cho đến
khiến cho người ấy trụ ở Ðại bi ? Người này nên kính lễ Ðại Bồ tát Hư
Không Tạng. Hoặc ở chỗ A lan nhã, hoặc tại trong rừng, hay chỗ đất lộ
thiên, người này đốt hương trầm thủy, hương kiên hắc trầm thủy hay hương
Ða kiệt lưu, chí tâm chắp tay, năm vóc gieo xuống đất, lễ khắp mười
phương. Bấy giờ, nói câu Ðà la ni này :
A nhỉ lệ a nhỉ lệ xa ca lưu ni
ca (1) Già la già la (2) Tỳ già đà lệ (3) Ma tao khư phục xà ma na ca lưu
ni ca (4) Chân đà ma ni phú la di ca lưu ni ca (5) Tát bà a xa nhỉ tha la
ba ly di (6) A thanh đà lê (7) Phá cừu phá cừu (8) Lưu chỉ tỳ tỳ già cừu
(9) Chất trí tỳ tỳ già cừu ca lưu ni ca (10) Phú lê di đỏa ma a xa (11)
Tát đỏa ba tha la già a thâu ca kiệt chỉ tá ha (12).
Thiện nam tử này vì người đó mà
hiện sắc tượng người, sắc tượng nai, sắc tượng ngựa, hoặc sắc tượng
trời... tùy theo công đức của người đó mà hiện ra các sắc tượng như vậy
nói năng bày một phương tiện. Nhờ phương tiện đó mà Bồ tát ấy có thể giáo
hóa vô lượng trăm ngàn na do tha chúng sinh. Người chẳng định thừa, người
ở thừa Thanh văn, người ở thừa Duyên giác... những chúng sinh này ở trong
khoản thời gian gẩy móng tay với chút ít phương tiện tuệ có thể khiến cho
họ an trụ ở Vô ngại Ðại thừa, được Bất thoái chuyển, thậm chí còn được đủ
thứ tam muội, được Ðà la ni, cũng được cả nhẫn và an trụ ở Thập địa. Ðại
Bồ tát Hư Không Tạng này đã thành tựu như vậy lực đại bi, trí tuệ phương
tiện chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Giả sử có người có thể biết
được bờ cõi của hư không nhưng không có người có thể biết được bờ cõi của
lực tam muội Ðại từ đại bi phương tiện trí tuệ của vị thiện nam tử này đã
giáo hóa chúng sinh. Ðại Bồ tát Hư Không Tạng này đã thành tựu công đức vô
biên không thể nghĩ bàn như vậy. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh
không dua nịnh, huyễn hoặc uy nghi chính hạnh mà thành tựu chánh kiến,
chất trực không lừa dối, chẳng tự khen ngợi, lìa khỏi ganh ghét, không có
gian trá, thiện tâm thành tựu. Những người như vậy thì thiện nam tử này
thương xót họ mà bày trí phương tiện, chánh hạnh tinh tấn. Nhờ sức của trí
tuệ phương tiện chánh hạnh tinh tấn nên họ thoát khỏi các khổ não, phát
tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đem tất cả căn lành hồi hướng hết về
đạo Vô thượng, được Bất thoái chuyển, nhờ lực tinh tấn nên đầy đủ sáu Ba
la mật, hành đại cần tinh tấn, mau chóng giác ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Ðại Bồ tát Hư Không Tạng thành tựu công đức giáo hóa chúng
sinh vô lượng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Di Lặc
bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Vì
duyên gì mà chỉ riêng thấy có báu
Như Ý trên đỉnh đầu của vị thiện nam tử này rất là diệu sắc, đoan nghiêm
hiển hách sáng ngời, các Bồ tát khác không có ?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát
Hư Không Tạng này thành tựu Ðại bi vì lợi cho chúng sinh, thoát khỏi việc
khổ lớn. Nếu có chúng sinh phạm trọng tội căn bản, phải đọa vào đường ác,
bứng đứt tất cả các hạnh căn lành... với những chúng sinh như vậy thì vị
thiện nam tử này tạo tác diệu dược (thuốc hay vi diệu). Nếu có chúng sinh
rơi vào đại vô minh, tối tăm, ác kiến, lao ngục trói buộc giam giữ thì Bồ
tát ấy là ánh sáng lớn giống như mặt trời, khiến cho họ hối hận tội lỗi,
đoạn dứt căn bản ác, có thể trừ mũi tên độc trong lòng nghi ngờ của chúng
sinh Hoặc có chúng sinh mà tâm khí (đồ) phá hoại phạm trọng tội căn bản,
mất các thiện pháp sẽ rơi vào đường ác, không qui, không thú, đã xả bỏ tất
cả minh tuệ. Vị thiện nam tử này có thể bày cho chúng sinh tội ám đó an
trụ ở thiện đạo giống như cây gậy báu. Vị ấy lại có thể tẩy sạch tất cả
kết sử xú ác, có thể chuyển ác đạo thành nơi ở yên cho người, trời, chứng
được Niết bàn giống như chiếc xe lớn. Như có chúng sinh đa dục đã chuyển
thành rất nhiều sân nhuế, phẩn nộ, loạn tâm, hoặc nhiều ngu si bị vô minh
che phủ, nói là không có nhân quả, chẳng thấy, chẳng sợ, chẳng kinh đời
sau mà tham của không chán, thậm chí còn thường làm mười thứ nghiệp ác.
Với chúng sinh như vậy thì thiện nam tử này vì họ đóng chặt đường ác, an
trí họ ở cõi người trời, đạt được niềm vui Niết bàn giống như chiếc xe
lớn. Do cái duyên này nên tất cả trời người đều cúng dường thiện nam tử
đó, chỉ trừ đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Lúc bấy giờ, đức Bồ tát Di Lặc
bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là
phạm tội căn bản ? Chúng sinh phạm tội căn bản đó rồi thì bứng đứt tất cả
các hạnh thiện căn, sẽ bị đọa vào đường ác ? Phạm đọa tội căn bản nên lìa
khỏi tất cả niềm vui của người, trời thì nhân vào đâu mà thiện nam tử đó
khiến cho chúng sinh kia đủ đầy niềm vui của người, trời và niềm vui Niết
bàn ?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Vua Quán
Ðảnh Sát Lợi phạm trọng tội căn bản có năm việc. Vua Quán Ðảnh Sát Lợi
phạm năm tội căn bản rồi thì những sự gieo trồng tất cả căn lành từ trước
đều bại hoại hết, lìa khỏi tất cả niềm vui của người, trời, phải đọa vào
đường ác. Những gì là năm ? Này thiện nam tử ! Nếu vua Quán Ðảnh Sát Lợi
cướp đoạt vật của chùa tháp, hoặc vật của tăng hay vật của chiêu đề tăng,
hoặc tự lấy hay sai người lấy. Ðó gọi
là phạm trọng tội căn bản đầu tiên.
Hoặc vua ấy bài báng pháp, nghe đức Phật vì Thanh văn nói, vì Duyên giác
nói, vì Ðại thừa nói mà bài báng ngăn chận chẳng cho lưu bố. Ðó gọi là
phạm trọng tội căn bản thứ hai.
Nếu có người vì ta xuất gia,
cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, hoặc có thể trì giới hay chẳng trì giới,
hoặc phá giới hay chẳng phá giới mà cởi áo cà sa của họ, ra lệnh hoàn tục,
hoặc đánh đập thân họ mà trách phạt, bắt nhốt vào nhà tù, hoặc đoạn dứt
mạng sống của họ. Ðó gọi là phạm trọng tội căn bản thứ ba.
Nếu vua Sát Lợi dùng sức tự
tại, tạo tác năm tội vô gián, khuyên bảo người khác tạo tác năm tội vô
gián. Với năm tội vô gián chỉ theo làm một tội thôi thì đó gọi là phạm
trọng tội căn bản thứ tư.
Nếu vua Sát Lợi nói rằng không
có nhân quả khi qua đời khác mà làm cả mười nghiệp ác, khuyên nhiều chúng
sinh làm mười nghiệp ác. Ðó là phạm trọng tội căn bản thứ năm.
Này thiện nam tử ! Nếu vua Quán
Ðảnh ở trong năm trọng tội căn bản này phạm mỗi một tội thôi
thì đã phá tan tất cả căn lành đời
quá khứ, phạm đọa trọng tội, lìa khỏi niềm vui của tất cả người, trời,
phải rơi vào đường ác. Vì cái duyên đó nên Ðại Bồ tát Hư Không Tạng hiện
sanh nơi biên địa, hoặc hiện hình phục uy nghi của Sa môn, hoặc hiện hình
phục uy nghi của Bà la môn... Tùy theo chỗ của những vua đó mà hiện thân
khắp nơi nơi để vì các Sát lợi mà nói pháp chưa từng nghe, như Nhất thiết
trí, nói Kinh điển thậm thâm, nói Ðà la ni và nhẫn nhục địa... phu diễn mở
bày. Do duyên này nên vua Quán Ðảnh thấy được việc tạo tác nghiệp ác chẳng
lành trước đây mà xấu hổ, hối lỗi, lại chẳng làm nữa, an trụ ở bố thí,
tịch tịnh điều phục, hành đại cần tinh tấn, hướng đến đại đạo.
Lại nữa, đại thần cũng có năm
việc phạm trọng tội căn bản. Những gì là năm ? Nếu đại thần đó cướp đoạt
đồ vật của chùa tháp và đoạt đồ vật của tăng, đồ vật của Chiêu đề tăng thì
đó gọi là phạm trọng tội căn bản thứ nhất.
Nếu đại thần phá hoại quốc thành,
thôn ấp, tụ lạc thì đó gọi là phạm trọng tội căn bản thứ hai. Nếu đại thần
bài báng chánh pháp, nghe đức Phật vì Thanh văn nói, vì Duyên giác nói, vì
người tu hành Nhất thiết trí nói mà bài báng ngăn chận, che dấu, ẩn một
thì đó gọi là phạm trọng tội căn bản thứ ba. Nếu đại thần thấy người vì
đức Phật xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, hoặc trì hay chẳng trì
giới, hoặc phá giới hoặc chẳng phá giới mà cởi bỏ pháp
phục người ấy, ra lệnh bắt hoàn tục, hoặc đánh đập thân người ấy và
trách phạt giam cầm, hoặc đoạn dứt mạng người ấy. Ðó gọi là phạm trọng tội
căn bản thứ tư. Nếu đại thần phạm mỗi một nghiệp ác của năm tội vô gián
thì đó gọi là phạm trọng tội căn bản thứ năm. Này thiện nam tử ! Nếu đại
thần phạm mỗi một tội trong năm trọng tội căn bản thì tất cả thiện căn
của quá khứ đều bị hủy hoại, lìa khỏi tất cả niềm vui của người, trời,
phải bị đọa vào địa ngục. Do duyên đó nên Bồ tát Hư Không Tạng này vì bọn
họ mà hiện sinh ở biên địa, hoặc hóa làm hình sắc Sa môn hoặc hình sắc Bà
la môn, cho đến hình dáng con trai, con gái.v.v... để vì họ nói pháp. Tại
khắp nơi nơi ngài Hư Không Tạng vì đại thần đó nói pháp thậm thâm như Nhất
thiết trí, nói các kinh điển thậm thâm Ðà la ni, hạnh nhẫn nhục. Ngài khai
thị diễn nói, đại thần nghe rồi thì xấu hổ nghiệp ác đã tạo mà hối lỗi,
chẳng dám làm nữa, an trụ ở bố thí, tịch tịnh điều phục, siêng làm tinh
tấn, hướng đến đại đạo.
Này thiện nam tử ! Ðệ tử Thanh
văn phạm trọng tội căn bản cũng có năm việc. Những gì là năm ? - Sát sinh,
dâm dục, trộm cắp, nói dối và làm thân Phật chảy máu. Ðó gọi là Thanh văn
phạm năm trọng tội căn bản. Nếu có Thanh văn phạm mỗi một trọng tội căn
bản thì mũi tên nghi ở trong lòng tiêu diệt căn lành, nhất định hướng đến
đường ác. Bồ tát Hư Không Tạng vì bọn họ nên
hiện sinh tại khắp nơi, hoặc hiện
làm uy nghi hình sắc Sa môn, cho đến hình dáng con trai, con gái.v.v... mà
vì họ nói pháp, khiến cho người cầu Thanh văn xấu hổ, hối lỗi, chẳng dám
làm nữa, an trụ nơi tịch tịnh điều phục, hướng đến đại đạo.
Này thiện nam tử ! Những thiện
nam tử mới hướng về Ðại thừa phạm trọng tội căn bản thì có tám việc. Những
gì là tám ? Nếu có chúng sinh do nhân duyên nghiệp ác nên sinh vào đời ngũ
trược, nhờ chút ít căn lành nên gần thiện tri thức. Họ nghe diệu pháp Ðại
thừa thậm thâm này, ít hiểu, ít biết và ít căn lành mà phát tâm Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Họ nghe được Kinh Ðệ Nhất Vô tướng... rồi trở lại
vì kẻ phàm ngu phân biệt giải nói. Kẻ phàm ngu đó nghe rồi kinh sợ, thoái
mất tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà nguyện cầu Thanh văn thừa. Ðó
gọi là Bồ tát mới phát tâm phạm trọng tội căn bản đầu tiên. Do tội đó nên
tất cả căn lành đã tu đều bị phá hoại, phạm đọa tội nặng, lìa khỏi niềm
vui của người, trời và Niết bàn, thoái tâm Bồ đề, phải đọa vào đường ác.
Vậy nên Bồ tát cần phải biết tâm và căn lành của người khác rồi đúng như
ứng mà nói pháp như qua biển lớn phải từ cạn dần dần đến sâu rộng. Vậy nên
Bồ tát Hư Không Tạng hiện sinh vào cõi của họ, đồng với sắc tượng của họ
mà vì họ nói pháp. Ðó gọi là đầu tiên phạm trọng tội căn bản.
Hành giả muốn thấy Bồ tát Hư
Không Tạng để sám hối trọng tội đã phạm thì vào phần sau của đêm, đốt
hương trầm thủy, hương kiên hắc trầm thủy và hương đa kiệt lưu, chắp tay
xưng danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng. Thiện nam tử này tùy theo phận công
đức của mình mà thấy sự hiện hình sắc của Bồ tát Hư Không Tạng, hoặc thấy
chính thân của Bồ tát Hư Không Tạng, hoặc thấy hình sắc Sa môn, hoặc Bà la
môn, hoặc con trai, con gái... đủ thứ hình sắc mà vì mình nói pháp. Bồ tát
mới phát tâm đã phạm trọng tội căn bản đó liềnđược sám hối, đủ sức nhận
chịu
đại phương tiện vô thượng, hành tam muội
nhẫn nhục và Ðà la ni... cho đến an trụ ở Ðịa, có thể đoạn dứt đường ác,
đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác được chẳng thoái chuyển, đối với
sáu Ba la mật được sức đại tinh tấn giống như Kim cương, sẽ mau chóng giác
ngộ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu Bồ tát ấy trước chẳng hiện
thân thì Bồ tát sơ hành đó, vào lúc sao mai mọc, đứng dậy, hướng về sao
mai mà nói lên rằng : “Nam mô A lâu na ! Nam mô A lâu na ! Ngài đã thành
tựu đại bi ! Hôm nay lúc ngài mới mọc ở cõi Diêm phù đề, nguyện ngài dùng
đại bi che chở hộ trì cho tôi ! Ðem lời nói của tôi mà bạch với Ðại Bồ tát
Ðại bi Hư Không Tạng, ở trong giấc mơ đêm, bày cho tội phương tiện. Do
duyên này nên tôi được sám hối trọng tội căn bản đã phạm, thành tựu được
trí nhãn phương tiện Ðại thừa”. Tức thời ở trong giấc ngủ, khi sao mai
mọc, Bồ tát Hư Không Tạng liền ở trong mơ tự hiện sắc thân để cho Bồ tát
sơ hành ấy hối lỗi. Diệt trừ các ác rồi liền được tam muội tên là Chẳng
quên tâm Bồ đề, giỏi trụ ở Ðại thừa, đủ sáu Ba la mật.
Nếu Bồ tát sơ hành nói với
người khác rằng : “Các ông chẳng thể hành sáu Ba la mật, cũng chẳng thể
giác ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ! Các ông hãy mau chóng phát tâm
Thanh văn, Bích Chi Phật thì có thể được qua khỏi sinh tử... ngoài ra như
trên... Ðó gọi là phạm trọng tội căn bản thứ hai của Bồ tát sơ hành.
Lại nữa, Bồ tát sơ hành, hoặc
nói rằng : “Ông cần gì khéo trì giới điều phục ? Chỉ cần mau chóng phát
tâm Bồ đề ! Ông phải đọc tụng
Kinh điển Ðại thừa thì nghiệp ác của thân
miệng ý sẽ được thanh tịnh, không có ác báo”... ngoài ra như trên nữa...
Ðó gọi là phạm trọng tội căn bản thứ ba của Bồ tát sơ hành.
Lại nữa, người mới làm Bồ tát
nếu nói rằng : “Ông có đức lớn nên lìa khỏi pháp Thanh văn, chớ nghe, chớ
đọc, chớ vì người khác nói ! Này thiện nam tử ! Ông phải che giấu Kinh
pháp Thanh văn ! Trong pháp Thanh văn chẳng được Ðại thừa, chẳng thể khiến
cho ông đến được bờ cõi ! Ông chỉ phải thính thọ kinh điển Ðại thừa, vì
người khác giảng nói thì các nghiệp ác của ông sẽ được thanh tịnh, mau
chóng thành Phật đạo”. Nếu nhận lời nói này, nhiếp lấy tà kiến này thì cả
hai đều phạm tội. Ðó gọi là Bồ tát sơ hành phạm trọng tội căn bản thứ tư.
Lại nữa, người mới làm Bồ tát
nói dối, nói hai lưỡi, nghĩ khác, nói khác về Kinh điển Ðại thừa, vì tiếng
khen, vì lợi dưỡng mà thọ trì đọc tụng. Như đem những điều đã nghe ấy mà
vì người khác giảng nói rộng rãi và nói lên rằng:
“Ta biết Ðại thừa chẳng phải như
người khác !”, thấy người khác được lợi sinh lòng ghen ghét, nói xấu người
khác, bài báng hủy hoại, tự nói được đạo pháp hơn người. Người này phá
hoại, phạm đọa tội nặng, lìa khỏi pháp Ðại thừa, phải đọa vào đường ác.
Như người vào biển tìm của báu, thuyền hư hoại bị chết chìm, người mới làm
Bồ tát này cũng lại như vậy. Ðó gọi là Bồ tát sơ hành phạm trọng tội căn
bản thứ năm.
Lại nữa, đời vị lai sẽ có, Bồ
tát sơ hành, hoặc tại gia hay xuất gia, đọc tụng Kinh điển Phương Quảng,
vì lợi dưỡng
nên nói rằng : “Ta lý giải được diệu pháp
này ! Ta thương các ông nên vì các ông giảng nói !” Lòng Bồ tát sơ hành
này quả thật không đem nhiều lợi ích cho chúng sinh. Ví như người bị đói,
thiếu thốn vào trong rừng trái cây lớn, bỏ những trái cây ngon, chọn ăn
trái độc mà chết, Bồ tát sơ hành này cũng lại như vậy. Họ được vào rừng
báu Ðại thừa Chánh Giác nhưng lại vì lợi dưỡng, vì tiếng khen mà nói Kinh
Ðại thừa, phạm trọng tội căn bản, bị sự quở trách của những bậc trí giả,
người, trời, bốn chúng chẳng nên gần gũi. Ðó gọi là Bồ tát sơ hành phạm
trọng tội căn bản thứ sáu.
Lại nữa, vua Sát Lợi có quốc tướng chiên đà
la, bề tôi chiên đà la, binh sứ chiên đà la, thầy thuốc chiên đà la...
những người si như vậy tự mang của báu thi hành bố thí, ban cho, nhưng
phóng túng, kiêu mạn phá hoại chúng tăng. Rồi nhân cậy vào thế lực vua đại
thần mà cướp đoạt đồ vật của Tăng.
Ðó gọi là phạm trọng tội căn bản thứ bảy của Bồ tát sơ hành.
Lại nữa, nếu sát lợi chiên đà
la, đại thần chiên đà la, Tỳ kheo chiên đà la.v.v... sân giận, hiềm khích
Sa môn, pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, xả bỏ các Kinh luật,
nghị luận chẳng phải lúc, căn cứ vào phi pháp lập ra chế định, đoạn dứt
việc học Bát nhã, não loạn Tỳ kheo, khiến cho các Sa môn mất lòng tịnh
tín, phá hoại uy nghi, thật chẳng phải là Sa môn mà tự nói là Sa môn, thật
chẳng phải là phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh để cho các tứ chúng càng
đến cúng dường. Vương thần và Tỳ kheo này, cả hai đều đắc tội. Ðó gọi là
Bồ tát sơ hành phạm trọng tội căn bản thứ tám.
Bồ tát sơ hành đó phạm tội căn
bản này thì chẳng gọi là tu hành, bị đoạn trừ hết các căn lành, lìa khỏi
niềm vui của người trời, phải đọa vào đường ác. Này thiện nam tử ! Bồ tát
Hư Không Tạng vì những người đó nên
theo hình dáng của từng loài mà hiển
hiện vào đồng sắc tượng, rồi vì họ nói Thủ Lăng Nghiêm.v.v.. đủ thứ Kinh
luật, khiến cho người phạm tội sám hối các nghiệp ác, thành tựu căn lành,
rôt ráo Niết bàn. Nếu thiện nam tử lễ bái khen ngợi Bồ tát Hư Không Tạng
thì người này hiện tại được công đức lớn. Lại nữa, nếu có chúng sinh nghe
danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng, tạo lập hình tượng, cúng dường, cung kính,
tôn trọng, khen ngợi, đem đủ thứ đồ cúng dường mà cúng dường thì thân hiện
tại của người này nước chẳng thể cuốn trôi, lửa chẳng thể đốt cháy, dao
chẳng thể gây thương tổn, độc chẳng thể gây hại, người cùng chẳng phải
người không có thể hại, cũng không đau bệnh, hoạn nạn đói khát. Khi sắp
mạng chung thì Bồ tát Hư Không Tạng hiện đến theo sự thờ kính của người
ấy, đủ thứ hình tượng, hoặc hình tượng trời, hoặc hình tượng nhật,
nguyệt.v.v... khiến cho các chúng sinh ấy đều thấy chỗ về, thỏa mãn ý
nguyện, và nói kệ như vầy :
Bốn Thánh đế này Người
tuệ nếu biết
Biết tội sinh tử hay Qua các
dòng hữu.
Nếu có chúng sinh thân tâm tin
Phật, Bồ tát ấy liền hiện thân Phật mà nói kệ này :
Phật trí thật chân Nếu qua các hữu
Trí Phật chứng thành Thoát tất cả
khổ.
Những chúng sinh này khi sắp
mạng chung được thấy thân Phật, thâm tâm ưa thích, vui mừng hớn hở, đã
mạng chung rồi thì lìa khỏi đời ngũ trược, sinh về cõi Phật thanh tịnh,
thấy Phật nghe pháp. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng thành tựu
như vậy công đức chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có người muốn tăng trưởng việc tu
các thiền định, trí tuệ tự tại thì phải tắm gội thanh khiết, vào phần sau
của đêm, làm lễ Bồ tát Hư Không Tạng rồi thiết lễ cúng dường, nói lên rằng
: “Ngài là đấng đại từ bi đối với các chúng sinh, nguyện xin ngài thí cho
con phương tiện niệm định !” Rồi liền nói câu Ðà la ni này :
Ðan (lưu) mâu lan na hàm (1)
Bạt bát ni lê (2) Mậu ni a bà đa lệ (3) Na na di (4) Na di ma ha ca lưu ni
ca (5) A nhu bà diêm bà mật để (6) A ca xà bà mật để (7) Bạt xà diêm bà
mật để (8) Lộ xa mật lật để (9) A na na mật để (10) Phục đa câu trí mật để
tá ha (11).
Thì Bồ tát Hư Không Tạng liền
cho người đó phương tiện niệm định. Nếu muốn đọc tụng đủ loại
Kinh luận thì cũng vào lúc sao mai
mọc, người đó cúng dường, lễ bái Bồ tát Hư Không Tạng rồi, nói lên rằng :
“Bồ tát Ðại Bi Hư Không Tạng cứu vớt các chúng sinh ! Nguyện xin ngài
thương xót đến con mà cho con lực niệm tuệ”. Rồi liền đọc câu Ðà la ni này
:
A di la xà tỳ (1) Hàm bồ sa xà
tỳ (2) Tha bà na xà tỳ (3) Lai sai tam di (4) Phát duệ la xà sư (5) Tất lệ
na lại tỳ (6) Thế la ca ni (7) Hô ma hô ma (8) Ma ha ca lưu ni ca tá ha
(9).
Nếu có người muốn đi qua biển,
muốn tìm kho tàng, muốn cầu tiên đạo, hoặc bị trói buộc giam cầm, hoặc có
biệt ly, hoặc oán ghét mà hội ngộ, hoặc nước, hoặc lửa, hoặc dao, hoặc
độc, hoặc bệnh đạo dùng độc, hoặc sư tử, cọp sói, rắn độc, giặc cướp.v.v..
đủ thứ điều sợ hãi và những vật cần dùng thì người đó cần phải xưng danh
hiệu Bồ tát Hư Không Tạng, lễ bái, cúng dường, nên đối với Bồ tát đó dấy
khởi tư tưởng coi ngài là Ðại Từ Phụ mà nói kệ như vầy :
Thương con ! Xót
con ! Ðại bi xưng !
Ích lợi thế gian Hư
Không Tạng !
Nguyện dùng đại bi
quan sát con
Cứu con những sợ
hãi như vậy
Lợi công đức, đại
đức cho con
Con nay khổ ép rất
nghèo cực
Ðấng Ðại Tịch Tịnh
con về nương
Ðời này, đời sau
nguyện an lạc.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Hư Không
Tạng, hoặc hiện thân mình, hoặc hiện thân khác, đủ thứ hình loại sắc tướng
mà an ủi họ khiến cho được giải thoát và những vật cần dùng cũng đều đầy
đủ. Nếu có vương tử muốn nối ngôi vua, vào chỗ Bà la môn, chỗ trưởng giả,
chỗ thợ khéo, chỗ uy đức lớn, chỗ đại tư duy, chỗ đại giải thoát... thì
người đó cũng vào phần sau đêm, xưng danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng, lễ
bái, cúng dường, thành tâm qui y. Bồ tát Hư Không Tạng dùng thiên nhĩ
thanh tịnh từ xa nghe được âm thanh, đi đến trước người ấy mà vì họ nói
pháp khiến cho được thỏa mãn sở nguyện. Này thiện nam tử ! Bồ tát Hư Không
Tạng thành tựu như vậy chẳng thể nghĩ bàn công đức trí tuệ phương tiện.
Giả sử chúng sinh tính biết được nước biển, nhưng chẳng thể biết được
lượng công đức của Bồ tát Hư Không Tạng. Lại có chúng sinh có thể biết bờ
cõi của mười phương hư không, nhưng cũng chẳng có thể biết lực thần thông
biến hóa quyền trí của Bồ tát Hư Không Tạng. Vậy nên ngọc báu trên đỉnh
đầu của Bồ tát Hư Không Tạng quang sắc như vậy.
Lúc bấy giờ, hội chúng nghe lời
nói của đức Phật đều hoan hỷ, mừng rỡ, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch
rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Làm sao có
thể ở đời ác năm trược mà giáo hóa chúng sinh ?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Giống như
hư không, không buộc, không mở, không sân, không ái, tính ấy thanh tịnh.
Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, đối với Ðệ nhất nghĩa không lòng được
tự tại, tính ấy thanh tịnh, tuy ở đời bẩn đục mà chẳng bị sự nhiễm ô của
trần cấu. Vì giáo hóa chúng sinh nên Như Lai xuất hiện ở đời, này thiện
nam tử ! Mà hư không này nương vào sáu thức để được trụ sao?
- Chẳng phải vậy, thưa đức Thế
Tôn ! - Chúng hội đáp.
Bồ tát Hư Không Tạng bạch đức
Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Ðều chẳng
nương nhau ! Ðều không hành xử ! Tất cả pháp rỗng không, không có tích tụ,
bản tế như thật giống như hư không, không hoại, không thành, không nhớ
tưởng phân biệt, không động, không ái (yêu), không hạt, không quả, không
báo, không có văn tự. Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát biết tính các pháp như
vậy thì được Vô sinh nhẫn. Ðúng vậy ! Thưa đức Thế Tôn !
Bồ tát Hư Không Tạng liền nói
chú rằng :
Tỳ bà a xà (1) Ma nâu ẩm di (2)
Thận na xà di (3) Thiền na ni ma (4) Mâu ni ha la (5) A na tha (6) Phá la
cừu ha (7) Yết bà ni ma (8) A tỳ tha (9) Tu bà xa xa xà bà (10) Xá na xá
na (11) Xá na sỉ tha (12) Kiếm ma xá ma (13) Nỉ ma phù ma (14) Tỳ sa xá ma
(15) Già na tha na (16) Sí lệ am bồ tam thâu tứ tá ha (17).
Ðức Phật khen rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này
thiện nam tử ! Ông nay có thể nói Ðà la ni Hàng Phục Nhãn Sư Tử Hống Bộ
Thủy này khiến cho các chúng sinh lúc sắp mạng chung phá được phiền não
chướng, nghiệp chướng, báo chướng, được sinh vào cõi thanh tịnh. Ông có
thể nghĩ thương chúng sinh mà du hành các cõi Phật, thị hiện sắc thân làm
lợi ích chúng sinh, nói Kinh Ðại thừa, có thể đoạn trừ các ác, khiến cho
vua chiên đà la... cho đến Sa môn chiên đà la tu các pháp lành.
Khi đức Phật nói
Kinh này thì vô lượng a tăng kỳ
người, trời được đủ thứ tam muội Ðà la ni, trụ ở các nhẫn, được trí tuệ
bậc Thập địa. Mười ngàn người được Vô Sinh pháp nhẫn. Ðức Phật nói kệ rằng
:
Nếu chúng sinh tranh tụng
Nhiếp
lấy căn bản nhân
Hay nhiếp các căn bản Mau được thấy
đó liền !
Ðức Phật nói Kinh này rồi, tất
cả đại chúng hoan hỷ phụng hành.
KINH HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT CHÚ - hết.
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003