DUY THỨC
TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền
Thất
Phật Lịch 2549,
2005
Đây
là bài nghiên cứu đầu tay, được bắt đầu soạn thảo từ năm 1995, nhưng vì
bận du phương tầm đạo nên bây giờ mới tạm hoàn chỉnh để giới thiệu đến
những ai hằng muốn bước vào ngưỡng cửa của Duy thức mà chưa có dịp tìm
hiểu.
Tập
Lược Giải về Duy Thức Tam Thập Tụng này được ra mắt quý vị là do công
sức đóng góp của rất nhiều bạn đồng đạo gồm cả tăng sĩ lẫn tục gia mà
danh tánh đều muốn để trong thầm lặng.
Đặc
biệt xin đa tạ giáo sư Nghiêm Xuân Hồng đã có hứng thú khi đọc các bản
sơ thảo khiến tác giả có được sự hăng say để viết tập sách đầu tay này.
Rất tiếc tập sách nhỏ này không kịp ra mắt khi giáo sư còn tại thế. Xin
lưu lại những ân tình sâu đậm ở đây với bài thơ Luân Vũ Xoay Tròn mà
giáo sư đã trao tặng vào giữa mùa xuân năm 1997:
Ta tìm ai
chiều nay qua mấy kiếp
Trong không hư nhìn lại mảnh hồn đau
Giấc liêu trai chiều nay ta vẫn thiếp
Cánh sông hồ bàng bạc chuyện xưa sau...
Xưa
hay sau? Ô hay kỳ lạ nhỉ!
Xưa
là xưa hay xưa lại là sau?
Thở
xưa ấy quanh co và kỳ ảo
Chìm vào không rồi lại nở ngàn sau...
Nên
kiếp sống là vòng tròn mộng huyễn
Sanh rồi không rồi lại nở ra hình
Cái
Không ấy là ông vua chú thuật
Hiện ra hình rồi lại biến vào Không.
Hình nộm ấy mang theo nhiều hệ lụy
Lụy
ăn uống, lụy nhớ tưởng, lụy tình duyên
Hồn
lắm lúc bồng bềnh như gió nhốt
Muốn hư vô mà chẳng hề có hư vô.
Tâm
với cảnh thiên thu dìu gót bước
Thấy như hai mà chẳng phải là hai
Nhịp luân vũ chập chùng và bất tuyệt
Ta
là ai mà chẳng phải là ai!
Vào
giữa mùa xuân năm 2000, cụ Hồng từ chối ở lại nhà thương để điều trị với
lý do muốn tịch tại nhà. Trên đường về nhà, cụ nhìn lên bầu trời và
than: "Ô hay! Bầu trời hôm nay đổi sắc". Thế rồi sau một buổi tối ngủ
vùi, cụ ra đi vào sáng sớm hôm sau.
Xin
đốt lên một nén hương lòng, và xin nguyện cùng nhau gặp gỡ lại, cùng đi
trên con đường giải thoát.
Nếu
tập sách này có giúp ích một chút gì cho những ai thì xin hồi hướng công
đức đến tất cả mọi loài. Còn nếu có những gì sơ sót thì riêng mình xin
nhận chịu.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Viết tại Thiền Thất Thanh Lương
Santa Ana,
California, USA
Mùa
Phật Đản, Phật Lịch 2547, 2003
Thầy Thích Trí Châu, pháp danh là Minh Trí, pháp hiệu là Trí Châu, là đệ
tử Việt nam duy nhất ở bên Mỹ được truyền thừa dòng thiền Vân Môn từ
Thiền Sư Phật Nguyên Diệu Tâm bên Trung Hoa.
Chuyên thực hành Thiền Tông Trung Hoa, trải nhiều thời gian tu tập tại
những thiền đường vắng vẻ, trong núi rừng như Tuyết Sơn Tự và tu viện
Long Beach thuộc hệ thống Vạn Phật Thành, tu viện Kim Sơn, thiền viện
của Thiền Sư Thánh Nghiêm ở Mỹ; trong rừng Thái Lan thuộc Tăng Đoàn
Thiền Lâm Quốc Tế (International Forest Sangha) của hệ thống Ajahn Cha,
Ajahn Chan và Ajahn Sumedho; trong thiền đường Mahasi Sayadaw ở Miến
Điện; trong các thiền viện Trung Hoa, Hồng Kông và Đài Loan.
Đã
từng tham vấn và tiếp cận rất nhiều thiền sư danh tiếng như Cố Đại Lão
Thiền Sư Dharmawara Mahathera (thọ 112 tuổi) người Cam Bốt và Thiền Sư
Thánh Nghiêm tại Mỹ Quốc; Cố Hòa Thượng Tâm Cẩn tại chùa Diên Hựu, Thiền
Sư Thanh Từ và Thiền Sư Thông Lạc tại Việt Nam; các Thiền Sư Trung Hoa
như Thiền Sư Đức Lâm tại Cao Mân Thiền Tự, Thiền Sư Như Thành tại Ngọa
Long Thiền Tự, Thiền Sư Nhất Thành tại Nam Hoa Thiền Tư, Thiền Sư Phật
Nguyên tại Vân Môn Thiền Tự; Thiền Sư Thánh Nhất tại Bảo Lâm Thiền Tự ở
Hồng Kông; Thiền Sư Truyền Bố và Cố Thiền Sư Trí Xuân ở Nam Đầu, Đài
Loan.
Tại
Đài Loan thầy Trí Châu đã từ chối tiếp nhận thiền viện của Lão Thiền Sư
Truyền Bố, một cao đồ của Cố Hòa Thượng Quảng Khâm, vì lý do còn muốn du
phương tầm đạo và chưa muốn dừng chân tại Đài Loan.
Đặc
biệt được truyền thừa tông phái Vân Môn từ Đại Hòa Thượng Diệu Tâm Phật
Nguyên tại Vân Môn Thiền Tự.
Thiền Sư Phật Nguyên khi xưa là thị giả của cố Thiền Sư Hư Vân, từng là
phương trượng của Nam Hoa Thiền Tự, hiện là phương trượng của Vân Môn
Thiền Tự ở Quảng Châu, Trung Hoa.
Cố
Thiền Sư Hư Vân (1840-1959) trụ thế 120 năm, là vị thiền sư Trung Hoa
danh tiếng cận đại, là người đã khôi phục lại 5 tông phái Thiền Tông
Trung Hoa gồm Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Pháp Nhãn và Vân Môn.
Cố
Thiền Sư Hư Vân được coi là vị Tổ Sư Thiền thứ 12 của tông phái Vân Môn,
sau Tổ Vân Môn Văn Yển 11 đời. Thiền Sư Phật Nguyên thuộc đời thứ 13.
Thầy Trí Châu thuộc đời thứ 14 của tông phái Vân Môn, hiện đang hướng
dẫn khóa Thiền và Thư Giãn tại 12441B Magnolia St., Garden Grove,
California, USA.
E-mail liên lạc:
yunmen@sbcglobal.net
Xin
kính lễ bậc Toàn Giác
Thế
Gian Giải, Thiên Nhơn Sư
Với
lòng tin bất thối chuyển
Nguyện cho bài lược giải này
Đạt
được nghĩa chân thật nhất
Đem
lợi lạc đến mọi người.
Giáo lý đạo Phật đặt căn bản trên hai hệ thống Nguyên Thủy
và Phát Triển mà khi xưa thường gọi là Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Hệ
thống nguyên thủy dựa trên tư tưởng A tỳ đạt ma, còn hệ thống phát triển
dựa trên tư tưởng Duy thức học. Cả hai đều nghiên cứu về tâm thức của
con người. A tỳ đạt ma chia tâm thức ra làm 6 thức. Sáu thức đó là:
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thức. Duy thức học thì ngoài 6 thức trên
còn nói đến hai thức nữa là mạt na thức và a lại da thức. A tỳ đạt ma
chia tất cả các pháp ra làm 75 pháp, còn Duy thức học chia các pháp ra
làm 100 pháp, gọi là Bách pháp minh môn luận.
Duy
Thức Tam Thập Tụng là một tác phẩm Đại Thừa Phật Giáo gồm 30 bài kệ do
Bồ tát Thế Thân trước tác. Theo đó thì tất cả các hiện tượng và ý niệm
đều không thật có, chúng đều duyên khởi, do Chân Tâm bị vọng niệm quấy
động mà chuyển biến và biểu hiện ra. Tánh chất chân thực của tất cả các
hiện tượng và các ý niệm không thể do tri kiến thường tình mà giải thích
được mà phải là sự trực nhận do kết quả của sự tu tập thiền định khi đạt
được sự đột biến nội tại nơi tâm thức.
Phải có lòng tin vững chắc và sự phát tâm bất thối chuyển, nhất tâm kiên
cố tu trì theo giáo lý Phật Đà cho đến khi phá tan được tất cả những vô
minh vi tế nhất của phiền não chướng và sở tri chướng đã tích tập từ
thuở vô thủy thì Chân Tâm mới hiển lộ và hành giả mới thâm nhập và trực
nhận được thật tánh của các pháp.
Trước khi trước tác Duy Thức Tam Thập Tụng này, ngài Thế Thân đã viết A
Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận. Câu Xá Luận này cũng trình bầy về tâm thức nhưng
theo quan niệm của Phật Giáo Tiểu Thừa, theo đó tất cả các hiện tượng và
các ý niệm chỉ bao gồm trong 75 pháp.
Sau
khi được người anh là Vô Trước điểm hóa, Thế Thân chuyển hướng theo Đại
Thừa và trước tác nhiều tác phẩm đại thừa, chẳng hạn như: Đại Thừa Bách
Pháp Minh Môn Luận, Duy Thức Nhị Thập Tụng cùng chú giải và Duy Thức Tam
Thập Tụng, theo đó thì tất cả các hiện tượng và ý niệm của tam giới lục
đạo gom lại thành 100 pháp.
Tác
phẩm Duy Thức Nhị Thập Tụng khác với Duy Thức Tam Thập Tụng ở chỗ tác
phẩm thứ nhất chỉ nhằm mục đích phá vỡ các lập luận của các phái ngoại
đạo, còn tác phẩm thứ nhì thì trình bầy tất cả khía cạnh của tâm thức,
hiển bầy ra cái lý nhất thiết pháp duy tâm tạo, rồi đưa ra phương pháp
tu tập thiền định, nương vào hiện tướng của các pháp mà nhập được vào
thể tánh Chân Như. Vì thế mà phương pháp tu tập của Duy Thức còn được
gọi là tùng tướng nhập tánh.
Khi
ngài Thế Thân trước tác ra Duy Thức Tam Thập Tụng, ngài chưa viết lời
chú giải. Sau này có tới 10 luận sư chú giải, trong số này có các luận
sư Nan Đà (Nanda), An Huệ (Sthiramati) và Hộ Pháp (Dharmapala). Nhưng
hầu hết các bản chú giải này đều bị ngoại đạo ở Ấn Độ tiêu hủy. Hiện nay
chỉ có bản chú giải của ngài An Huệ bằng tiếng Phạn còn lưu truyền ở Tây
Tạng.
Vào
khoảng tiền bán thế kỷ thứ bẩy pháp sư Huyền Trang (599-664) từ Trung
Hoa sang Ấn Độ cầu pháp. Ngài đã được luận sư Giới Hiền (Silabhadra)
truyền dậy về Duy Thức tại học viện Na Lan Đà (Nalanda) trong khoảng
thời gian từ năm 633 đến năm 637. Ngài Giới Hiền khi xưa là đệ tử của
ngài Hộ Pháp, lúc ấy đã trên 100 tuổi và là một luận sư nổi tiếng về Duy
Thức.
Sau
khi tham học bên Ấn Độ được 16 năm (629-645) trở về Trung Hoa, ngài
Huyền Trang đã phiên dịch, chú giải và trước tác rất nhiều kinh luận Đại
Thừa, trong đó có Thành Duy Thức Luận, chú giải 30 bài tụng về Duy Thức
của bồ tát Thế Thân.
Các
chú giải của pháp sư Huyền Trang về Thành Duy Thức Luận là tập hợp những
chú giải của các luận sư nổi tiếng khi xưa nhưng phần chính là dựa trên
chú giải của ngài Hộ Pháp.
Vì
muốn làm hiển lộ thật tướng của Chân Tâm, một việc mà không có một ngôn
từ nào có thể diễn tả được, nên Duy Thức Học đã phải tạm đặt ra các danh
từ mới để đặt tên cho các hiện tượng, khái niệm cùng tánh chất của tất
cả các pháp, rồi từ đó lý giải ra cái chân lý rốt ráo của đạo Phật. Các
danh từ dùng trong Duy Thức đều rất trừu tượng và mới lạ. Các danh từ
nầy lại bắt nguồn từ tiếng Phạn, rồi lại được chuyển dịch ra tiếng Trung
Hoa nên môn Duy Thức Học càng trở nên khó khăn và rắc rối.
Cuốn Duy Thức Tam Thập Tụng Lược Giải nầy được trình bầy theo lối huân
tập nhằm cho những người mới nghiên cứu về Duy Thức làm quen được với
những danh từ và những lý luận mới lạ của Duy Thức.
Khi
nghiên cứu về Duy Thức, xin cứ thong thả để ý kỹ từng danh từ và những
giải thích về ý nghĩa của các danh từ đó. Nếu thấy vẫn còn chưa nắm vững
xin cứ tiếp tục đọc, các vấn đề đó sẽ được lập lại và từ từ sẽ được
thông suốt.
Cuốn lược giải này được viết dựa theo các tác phẩm về Duy Thức của Hòa
Thượng Thích Thiện Hoa, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Thiền Sư Nhất Hạnh.
Có nhiều đoạn đã được lấy ở tác phẩm Lăng Nghiêm Ảnh Hiện và Lăng Kính
Đại Thừa của Giáo Sư Nghiêm Xuân Hồng. Cũng có nhiều phần dựa vào các
băng giảng về các kinh Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm và Lăng Già Tâm Ấn của
Thiền Sư Thanh Từ cùng các băng giảng về Duy Biểu Học của Thiền Sư Nhất
Hạnh. Tuy nhiên không phải vì vậy mà kiến giải ở đây hoàn toàn giống
những kiến giải trong các tác phẩm và băng giảng nêu trên. Sự khác biệt
này không phải để bàn luận đúng và sai mà chỉ muốn được ghi lại những
kiến giải về Duy Thức Học của một cá nhân trong thời điểm này. Tuy nhiên
mọi sự phê bình và chỉ dẫn đều được hoan hỷ đón nhận.
Đặc
biệt xin đa tạ giáo sư Nghiêm Xuân Hồng đã hoan hỷ cho phép tùy nghi
trích dẫn và sao chép lại các đoạn văn trong các tác phẩm của giáo sư.
Mục
đích của cuốn Lược Giải này là muốn làm một chiếc bè nhỏ để tạm đưa quý
vị lênh đênh trên dòng sông Duy Thức. Nếu đã tắm mình trên dòng sông đó
rồi thì xin đừng để ý gì đến chiếc bè nhỏ này. Cũng xin đừng mê mẩn mãi
trong dòng sông đó mà quên đi sự tu trì hầu quay về được với Chân Tâm.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Viết tại tu viện Long Beach
Long Beach, CA, USA.
Mùa
thu năm 1995.
Thích Trí Châu
Bồ
tát Thế Thân sanh tại Bá Lộ Sa (Purusapura) còn gọi là Phú Lâu Sa Bổ La,
bây giờ là thành phố Peshawar thuộc vương quốc Kiền Đà La (Gandhara) ở
Bắc Ấn vào khoảng năm 316 Tây Lịch tức 860 năm sau khi đức Phật diệt độ.
Ngài là người con thứ hai của một gia đình Bà La Môn, cha là Kiều Thi Ca
(Kausika), mẹ là Tỷ Lân Trì (Virinci).
Khi
ngài mới ra đời thì anh ngài là Vô Trước (Asanga) đã là tu sĩ theo Phật
Giáo Đại Thừa. Ngài có người em là Tỷ Lân Trì Tử (Virincivatsa), theo
Phật Giáo Tiểu Thừa. Riêng ngài thì thuở ban đầu theo Phật Giáo Tiểu
Thừa, về sau được ngài Vô Trước điểm hóa nên chuyển theo Đại Thừa.
Tên
tiếng Phạn của ngài là Vasubandhu, dịch âm là Bà Tu Bàn Đầu, có nghĩa là
vị thân thuộc của trời nên dịch theo nghĩa là Thế Thân hoặc Thiên Thân.
Còn tên của anh ngài có nghĩa là không chấp chước tức không bị dính mắc
vào đâu cả. Tên của em ngài thì lấy theo tên mẹ, Tỷ Lân Trì (Virinci) là
tên mẹ, Tử (vatsa) là con.
Vô
Trước tu theo Đại thừa, vì muốn giác ngộ lý rốt ráo của các kinh điển
nên ngài bỏ vào rừng tu thiền định trong suốt 12 năm. Theo truyền thuyết
thì ngài đã nhập định lên cõi trời Đâu Xuất và được bồ tát Di Lặc đọc
cho năm bộ luận để truyền lại cho hậu thế. Năm bộ luận đó là:
1.
Du Già Sư Địa Luận
2.
Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận
3.
Thập Địa Kinh Luận
4.
Trung Biên Phân Biệt Luận
5.
Kim Cang Bát Nhã Luận
Ban
đầu Thế Thân theo học với phái Nhất Thiết Hữu Bộ thuộc Tiểu Thừa, lấy
Đại Tỳ Bà Sa Luận (Vaibhasika) làm căn bản. Khi nghiên cứu luận Đại Tỳ
Bà Sa, có nhiều điểm ngài còn nghi ngờ nên ngài hóa trang để đi đến Ca
Thấp Di La tức Kashmir bây giờ để điều nghiên thêm về Đại Tỳ Bà Sa vì Ca
Thấp Di La là nơi giảng giải luận chính thống Đại Tỳ Bà Sa.
Tại
Ca Thấp Di La, ngài nhập chúng và theo học với ngài Ngộ Nhập được 4 năm,
trong khoảng năm 342 đến 346 Tây Lịch.
Bị
phiền não vì Thế Thân hay đưa ra những ý kiến riêng để lập luận và bác
bỏ những phân tích quá giáo điều và chi li của các vị thầy, ngài Ngộ
Nhập bèn nhập định và biết được Thế Thân không thuộc hệ phái của Ca Thấp
Di La. Ngài liền khuyên Thế Thân nên trở về Kiền Đà La trước khi bị nguy
hiểm vì chân tướng bị phát giác.
Thế
Thân trở về Kiền Đà La, chuẩn bị thực hiện một dự án vĩ đại mà ngài có
trong đầu từ lâu. Để không bị bó buộc và thực hiện được dự án của mình,
Thế Thân ở tịnh xá riêng trong trung tâm của Bá Lộ Sa, tự túc sinh sống
bằng cách thuyết giảng giáo lý Phật Đà cho công chúng. Cứ sau mỗi buổi
thuyết giảng, ngài đúc kết những lời giảng thành những bài kệ, tất cả
tổng cộng đến hơn 600 bài kệ, giải nghĩa toàn thể hệ thống Đại Tỳ Bà Sa,
tạo thành bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharma-kosa), nói lên tất cả
những chỗ thiếu sót và không hợp lý của Đại Tỳ Bà Sa và trình bầy kiến
giải của mình. Bộ luận nầy cũng được gởi đến Ca Thấp Di La theo lời yêu
cầu của những học giả ngưỡng mộ ngài ở địa phương đó.
Chúng Hiền (Sanghabhadra) là một luận sư về chính thống Đại Tỳ Bà Sa, đã
từng cùng với Thế Thân tham học với ngài Ngộ Nhập ở Ca Thấp Di La, nghe
ngài Thế Thân sau khi tham học về đã làm luận Câu Xá bài phá nhiều điểm
cổ truyền của bản tông, liền viết ra hai bộ luận gọi là phá tà hiển
chánh, A Tỳ Đạt Ma Bảo Luận và A Tỳ Đạt Ma Hiển Tông Luận, để phản bác
lại luận cứ của ngài Thế Thân.
Tuy
nhiên vì hai bộ nầy chấp theo cựu thuyết nên nội dung còn nhiều chỗ lủng
củng không được thông suốt nên các học giả trong Hữu Bộ khi nghiên cứu
giáo lý bản phái chỉ tham cứu bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của ngài Thế
Thân mà thôi, còn hai bộ luận của ngài Chúng Hiền biên soạn thì bị coi
là phản bội với giáo nghĩa của Hữu Bộ. Câu Xá Luận sau này được gọi là
Tân Tỳ Bà Sa Luận, và ngài Thế Thân được coi là tân giáo chủ của phái
Hữu Bộ. Sau khi đúc kết xong bộ Câu Xá Luận, Thế Thân thường du phương
hoằng hóa. Cho tới bấy giờ ngài không những không thèm để ý đến những bộ
luận Du Già của người anh mà còn phỉ báng tất cả các kinh luận Đại Thừa,
cho đó chỉ là lý thuyết suông.
Biết được thái độ của nguời em như vậy, Vô Trước quyết đưa em mình vào
con đường Đại Thừa. Ngài phái hai đệ tử mang kinh luận Đại Thừa đến tìm
cách đọc cho Thế Thân nghe. Sau khi nghe hết các bộ kinh và luận Đại
Thừa đó, Thế Thân nhận ra Phật Giáo Đại Thừa thật ra rất thâm sâu cả về
lý thuyết lẫn thực hành, chứ không phải chỉ lý thuyết suông như ngài
hằng nghĩ trước kia. Hối hận vì xưa kia đã phỉ báng Đại Thừa, ngài muốn
cắt lưỡi tự tử. Các đệ tử của Vô Trước vội khuyên can và khẩn thiết yêu
cầu ngài tới thăm Vô Trước.
Thế
Thân trở về Bá Lộ Sa gặp Vô Trước và trong cuộc đàm luận với người anh
về Phật Giáo Đại Thừa, ngài đã nắm được các yếu chỉ của giáo lý Đại
Thừa. Vô Trước khuyên Thế Thân không nên tự tử mà nên dùng tài uyên bác
của mình để quảng bá giáo lý Đại Thừa hầu chuộc lại lỗi lầm phỉ báng Đại
Thừa khi xưa.
Cũng có thuyết cho rằng vì muốn thuyết phục em mình quay về với Đại
Thừa, Vô Trước đã viết thư cho Thế Thân báo rằng mình đang đau nặng và
chỉ có thể yên tâm nhắm mắt nếu Thế Thân hứa làm cho một việc, đó là đọc
tất cả các kinh Đại Thừa cho mình nghe. Dĩ nhiên là Thế Thân bằng lòng
thỏa mãn lời yêu cầu của người anh. Sau khi đọc hết các bộ kinh Đại Thừa
mà Vô Trước đưa cho, Thế Thân hoát nhiên ngộ nhập được ý nghĩa thâm sâu
của Đại Thừa. Ngài hối hận tỏ ý muốn cắt lưỡi tự tử để tạ cái tội đã phỉ
báng Đại Thừa, nhưng Vô Trước đã can ngăn và khuyên ngài hãy dùng cái
lưỡi đã phỉ báng Đại Thừa khi xưa để hoằng dương chánh pháp Đại Thừa.
Từ
đó về sau, Thế Thân chỉ chuyên tu trì, nghiên cứu, hoằng dương và trước
tác các luận giải thuộc Đại Thừa mà thôi. Ngài trước tác trên 500 luận
giải Đại Thừa, trong đó có các luận giải sau:
1.
Chú giải về Trung Biên Phân Biệt Luận
2.
Duy Thức Nhị Thập Tụng và chú giải
3.
Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận
4.
Duy Thức Tam Thập Tụng
5.
Tam Tự Tánh
6.
Phật Tánh Luận
Ngài tịch tại A Du Đà (Ayodhya) thuộc Trung Ấn năm 396 Tây Lịch tức Phật
Lịch 940, thọ 80 tuổi. Cũng có thuyết cho rằng ngài tịch tại xứ Nepal
thuộc Bắc Ấn.
(âm
hán)
1
Do
giả thuyết ngã pháp
Hữu
chủng chủng tướng chuyển
Bỉ
y thức sở biến
Thử
năng biến duy tam
2
Vị:
Dị thục, Tư lương
Cập
Liễu biệt cảnh thức
Sơ
A lại da thức
Dị
thục, Nhất thiết chủng
3
Bất
khả tri Chấp Thọ
Xứ Liễu.Thường dữ Xúc
Tác
ý, Thọ, Tưởng, Tư
Tương ưng duy Xả tho
4
Thị
vô phú vô ký
Xúc
đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A
la hán vị xả
5
Thứ
đệ nhị năng biến
Thị
thức danh Mạt na
Y
bỉ chuyển duyên bỉ
Tư
lương vi tánh tướng
6
Tứ
phiền não thường câu
Vị:
ngã si, ngã kiến
Tinh ngã mạn, ngã ái
Cập
dữ xúc đẳng câu
7
Hữu
phú vô ký nhiếp
Tùy
sở sanh sở hệ
A
la hán, Diệt định
Xuất thế đạo vô hữu
8
Thứ
đệ tam năng biến
Sai
biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện, bất thiện câu phi
9
Thử
tâm sở biến hành
Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy
phiền não, bất định
Giai tam thọ tương ưng
10
Sơ
biến hành xúc đẳng
Thứ
biệt cảnh vị: dục
Thắng giải, niệm, định, huệ
Sở
duyên sự bất đồng
11
Thiện vị: tín, tàm, quý
Vô
tham đẳng tam căn
Cần, an, bất phóng dật
Hành xả cập bất hại
12
Phiền não vị: tham, sân
Si,
mạn, nghi, ác kiến
Tùy
phiền não vị: phẫn
Hận, phú, não, tật, xan
13
Cuống, siễm dữ hại, kiêu
Vô
tàm cập vô quý
Trạo cử dữ hôn trầm
Bất
tín tinh giải đãi
14
Phóng dật cập thất niệm
Tán
loạn, bất chánh tri
Bất
định vị: hối, miên
Tầm, tứ, nhị các nhị
15
Y
chỉ căn bản thức
Ngũ
thức tùy duyên hiện
Hoặc câu hoặc bất câu
Như
đào ba y thủy
16
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh vô tưởng thiên
Cập
vô tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt
17
Thị
chư thức chuyển biến
Phân biệt, sở phân biệt
Do
thử bỉ giai vô
Cố
nhất thiết duy thức
18
Do
nhất thiết chủng thức
Như
thị như thị biến
Dĩ
triển chuyển lực cố
Bỉ
bỉ phân biệt sanh
19
Do
chư nghiệp tập khí
Nhị
thủ tập khí câu
Tiền dị thục ký tận
Phục sanh dư dị thục
20
Do
bỉ bỉ biến kế
Biến kế chủng chủng vật
Thử
biến kế sở chấp
Tự
tánh vô sở hữu
21
Y
tha khởi tự tánh
Phân biệt duyên sở sanh
Viên thành thật ư bỉ
Thường viễn ly tiền tánh
22
Cố
thử dữ y tha
Phi
dị phi bất dị
Như
vô thường đẳng tánh
Phi
bất kiến thử bỉ
23
Tức
y thử tam tánh
Lập
bỉ tam vô tánh
Cố
Phật mật ý thuyết
Nhất thiết pháp vô tánh
24
Sơ
tức tướng vô tánh
Thứ
vô tự nhiên tánh
Hậu
do viễn ly tiền
Sở
chấp ngã pháp tánh
25
Thử
chư pháp thắng nghĩa
Diệc tức thị Chân Như
Thường như kỳ tánh cố
Tức
Duy Thức Thật Tánh
26
Nãi
chí vị khởi thức
Cầu
trụ duy thức tánh
Ư
nhị thủ tùy miên
Do
vị năng phục diệt
27
Hiện tiền lập thiểu vật
Vị
thị duy thức tánh
Dĩ
hữu sở đắc cố
Phi
thật trụ duy thức
28
Nhược thời ư sở duyên
Trí
đô vô sở đắc
Nhĩ
thời trụ duy thức
Ly
nhị thủ tương cố
29
Vô
đắc bất tư nghì
Thị
xuât thế gian trí
Xả
nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y
30
Thử
tức vô lậu giới
Bất
tư nghì thiện thường
An
lạc giải thoát thân
Đại
Mâu Ni danh pháp
(phiên dịch)
1
Ngã
và pháp không thật
Các
chủng tướng chuyển hiện
Đều
là do thức biến
Thức năng biến có ba
2
Là
Dị thục, Tư lương
Và
thức Liễu biệt cảnh
Thứ
nhất A lại da
Dị
thục, Nhất thiết chủng
3
Không thể biết thọ thân
Xứ
nào. Thường cùng Xúc,
Tác
ý, Thọ, Tưởng, Tư
Chỉ
tương ưng Xả thọ
4
Tánh vô phú vô ký
Các
biến hành cũng vậy
Hằng chuyển như nước dốc
A
la hán thì xả
5
Thức năng biến thứ hai
Gọi
là thức Mạt na
Nương kia chuyển, duyên kia
Tư
lương làm tánh tướng
6
Tương ưng bốn phiền não
Là
ngã si, ngã kiến
Cùng ngã mạn, ngã ái
Và
tâm sở xúc thẩy
7
Tánh hữu phú vô ký
Sanh theo A lại da
Chứng La hán, Diệt định
Xuất thế đạo không còn
8
Thức năng biến thứ ba
Có
sáu loại khác nhau
Tánh tướng là biết cảnh
Thiện, bất thiện, vô ký.
9
Các
tâm sở biến hành
Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy
phiền não, bất định
Đều
tương ưng ba thọ
10
Các
biến hành: xúc thẩy
Các
biệt cảnh gồm: dục
Thắng giải, niệm, định, huệ
Cảnh sở duyên không đồng.
11
Thiện gồm: tín, hổ, thẹn
Không tham thẩy ba thứ
Chăm, yên, không phóng dật
Xả
bỏ và không hại
12
Phiền não gồm: tham, sân
Si,
mạn, nghi, ác kiến.
Tùy
phiền não gồm: phẫn
Hận, phú, não, tật, xan
13
Dối, nịnh và hại, kiêu
Không hổ và không thẹn
Trạo cử với hôn trầm
Không tin cùng giải đãi
14
Phóng dật và mất niệm
Tán
loạn, không chánh tri
Bất
định gồm: hối, miên
Tầm, tứ, hai đều hai
15
Nương nơi thức căn bản
Năm
thức hiện theo duyên
Hoặc cùng hoặc chẳng cùng
Như
sóng nương nơi nước
16
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh trời vô tưởng
Và
hai định vô tâm
Ngủ
say và chết giấc
17
Tất
cả thức chuyển biến
Phân biệt, bị phân biệt
Do
đây kia đều không
Nên
tất cả duy thức
18
Do
thức nhất thiết chủng
Biến như vậy, như vậy
Vì
năng lực triển chuyển
Kia
kia phân biệt sanh
19
Do
tập khí các nghiệp
Cùng tập khí hai thủ
Nên
dị thục trước hết
Lại
sanh dị thục sau
20
Do
kia kia biến kế
Biến kế chủng chủng vật
Biến kế sở chấp này
Tự
tánh vô sở hữu
21
Tự
tánh y tha khởi
Do
duyên phân biệt sanh
Viên thành thật nơi đó
Xa
lìa biến kế trên
22
Nên
nó cùng y tha
Chẳng khác không chẳng khác
Như
các tánh vô thuờng
Thấy đây mới thấy kia
23
Nương nơi ba tánh kia
Lập
ba không tánh này
Nên
Phật mật ý nói
Tất
cả pháp không tánh
24
Trước là tướng không tánh
Kế
không tự nhiên tánh
Sau
đó lìa tánh trước
Là
tánh chấp nghã pháp
25
Đây
thắng nghĩa các pháp
Cũng tức là Chân như
Vì
tánh thường như vậy
Tức
Thật Tánh Duy Thức
26
Khi
chưa khởi được thức
Cầu
trụ Duy Thức Tánh
Thì
hai thủ tiềm ẩn
Vẫn
chưa thể diệt trừ
27
Nếu
còn một chút gì
Cho
là Duy Thức Tánh
Là
còn có Sở Đắc
Chẳng thật trụ Duy Thức
28
Nếu
khi đối sở duyên
Trí
đều không sở đắc
Mới
thật trụ Duy Thức
Vì
đã lìa hai thủ
29
Không đắc chẳng nghĩ bàn
Là
trí xuất thế gian
Xả
hết hai trọng chướng
Nên
chứng quả chuyển y
30
Đấy
là cõi vô lậu
Thiện Thường chẳng nghĩ bàn
Thân giải thoát an vui
Gọi
là Đại Mâu Ni
Duy
thức học là một môn học nghiên cứu và khảo sát tất cả các tính chất của
tâm thức con người và các hiện tướng của vũ trụ vạn vật. Từ đó Duy Thức
Học chứng tỏ được rằng tất cả các pháp đều từ nơi Chân Tâm mà chuyển
hiện ra, được gọi là Pháp Tướng. Chân Tâm là nguồn gốc của tất cả các
pháp, là thể tánh chân như của các pháp, được gọi là Pháp Tánh.
Nguồn gốc của Duy Thức có thể tìm thấy trong các bài kinh, bài tụng hay
các bài luận giải của Phật giáo nguyên thủy và đại thừa như kinh A Hàm,
kinh Hoa Nghiêm, kinh Giải Thâm Mật, kinh Lăng Già Tâm Ấn, kinh Lăng
Nghiêm, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, Du Già Sư Địa Luận, Bách Pháp Minh Môn
Luận, Duy Thức Nhị Thập Tụng, Duy Thức Tam Thập Tụng, Bát Thức Qui Củ
Tụng, v.v...
Bồ
tát Thế Thân đã trước tác ra bộ Bách Pháp Minh Môn Luận, theo đó thì tất
cả mọi hiện tượng, nhận thức, khái niệm và tư tưởng đều không ra ngoài
100 pháp. Tất cả Pháp Tướng đều nằm trong 100 pháp đó. Ngài cũng viết 30
bài tụng gọi là Duy Thức Tam Thập Tụng để giải thích mọi khía cạnh của
vũ trụ và vạn vật để sau đó chỉ ra được cái thật tánh của tất cả các
pháp. Thật tánh này chính là cái Pháp Tánh hay là cái Chân Tâm đã nói ở
trên. Do đó phương pháp của ngài được gọi là Tùng Tướng Nhập Tánh, nương
nơi hiện tướng mà nhập được thể tánh chân như.
Theo Duy Thức Học thì tất cả pháp đều không thật có, chúng chỉ là biểu
hiện của Tâm Thức, không có tự thể chân thật, luôn luôn sanh diệt và
biến chuyển không ngừng. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật bảo ông A Nan:
A Nan phải biết, diệu tánh vốn viên minh, rời các danh tướng, xưa nay
không có thế giới và chúng sanh. Nhơn vọng có sanh, nhơn sanh có diệt,
sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chơn.
Thật tánh của chúng sanh vốn trong sáng cùng khắp. Do cái tự tánh trong
sáng đó, chúng sanh lại vọng tưởng là có tánh sáng mà đem ra chiếu soi
nên chân tâm bị chuyển biến thành ra tâm thức. Tâm thức còn được gọi là
tâm hay là thức. Từ nơi chân như rốt ráo thanh tịnh lại khởi ra phân
biệt cái có và cái không. Cứ thế tâm vọng tưởng phân biệt cứ huân tập
tới lui không ngưng nghỉ trong tâm thức tạo ra các hình ảnh, các hiện
tướng mà Duy Thức gọi là chủng tử và hiện hành.
Các
chủng tử và hiện hành cứ chập chùng xoay vần, chiếu soi lẫn nhau. Các
chiếu soi này, lúc là năng, lúc là sở, lúc là chủ thể, lúc là đối tượng,
liên tục lập đi lập lại, huân tập, tăng thượng, sanh diệt chuyển biến
không ngưng nghỉ, tạo nên vô lượng các loại chủng tử và hiện hành mới.
Khi đầy đủ nhân duyên thì các chủng tử và hiện hành này chín mùi, chuyển
biến thành một chúng sanh chánh báo trong một thế giới y báo. Chánh
báo đó là cái thân xác ngũ uẩn của chúng ta, còn gọi là ngã; y
báo là thế giới và vạn vật nơi chúng ta nương tựa và sinh sống, còn
gọi là pháp. Chánh báo và y báo là cái nghiệp báo mà chúng ta nhận lãnh,
là quả báo của vô lượng các hành nghiệp mà chúng ta đã tạo ra trong vô
lượng kiếp quá khứ. Chánh báo hay ngã là nghiệp quả riêng của mỗi chúng
sanh, còn gọi là biệt nghiệp. Y báo hay pháp là nghiệp quả chung, là
cảnh giới nơi đó chúng sanh nương tựa, ăn ở và sinh sống, còn gọi là
cộng nghiệp.
Tùy
theo nghiệp báo, sanh làm loài nào thì hiện ra các cảnh tướng và chúng
sanh của loài đó. Loài người thì có thế giới của loài người, có sơn hà
hải địa, có anh và có tôi. Có loài tế bào hay hộ trùng ở trong thế giới
của thân thể con người, có loài ở trong thân thể của loài vật, của loài
cá, của loài chim và ở ngay cả trong cây cỏ và gỗ đá. Có những loài vô
hình ở trong không gian, nương nơi các gò hoang, miếu trống, nơi các cây
cổ thụ hoặc đôi khi gá vào căn thân của các loài chúng sanh khác.
Vũ
trụ và thế giới của loài này không phải vũ trụ và thế giới của loài kia.
Như cùng một dòng sông mà con người thấy là dòng nước, loài quỷ thấy là
dòng lửa còn bậc trời thì thấy là dòng lưu ly.
Chúng sanh không biết rằng các cảnh giới vũ trụ và thế gian đều do Tâm
biến hiện nên tùy theo mỗi loài mà chấp cái này là Ngã, cái kia là Pháp.
Mỗi loài đều có những Ngã và Pháp khác nhau mà nào đâu biết tất cả đều
là hư dối do vọng tưởng phân biệt sanh ra.
Vì
khởi vọng niệm mà thể tánh chân như vốn thanh tịnh bị dấy động và biến
hiện ra sơn hà và hải địa, có chúng sanh và thế giới. Thể tánh chân như
ví như biển cả, chúng sanh và thế giới ví như những đợt sóng và vọng
niệm được ví như những cơn gió thổi sóng nhấp nhô liên tiếp, ngọn sóng
sau đẩy ngọn sóng trước, ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng khác sanh liên
tiếp không ngưng nghỉ.
Mặt
biển vốn thanh tịnh không có sóng mòi nhưng vì gió nổi lên nên hiện ra
có sóng mòi. Chúng sinh và thế giới cũng vậy, vốn đồng một thể với Chân
tâm thanh tịnh nhưng vì vọng niệm dấy lên nên các chủng tướng hiện khởi,
chuyển biến mà hiện ra có hình tướng, chứ thật ra chỉ là giả như hoa đốm
giữa hư không. Chân tâm khi bị dấy niệm ví như mặt biển chuyển sóng cồn,
không còn là chân tâm thanh tịnh nữa mà trở thành Mặt Biển Tâm Thức. Từ
biển tâm thức này mà chúng sanh và thế giới được thành lập như lời kệ
của đức Thế tôn trong kinh Lăng Già Tâm Ấn:
Ví
như gió biển cả
Đây
do gió mạnh thổi
Sóng to vỗ biển rộng
Không có khi đoạn dứt
Biển tàng thức thường trụ
Gió
cảnh giới nổi dậy
Lớp
lớp các sóng thức
Ào
ạt mà chuyển sanh.
Vì
vọng niệm chiếu soi nên khởi ra Kiến Phần tức là chủ thể của cái
thấy gọi là phần Năng Kiến. Kiến phần chiếu soi trở vào cái chân
tâm thanh tịnh và thấy lờ mờ cái ánh của hình tướng và cho là có tướng
thật. Cái hình tướng ấy là đối tượng của Kiến phần gọi là Tướng Phần,
là phần bị thấy, là phần Sở Kiến.
Kiến phần lấy cái hình ảnh giả có này đưa trở lại vào tâm thức thành một
chủng tử mới. Chủng tử mới này lại được chiếu soi mà chuyển biến và biểu
hiện ra một tướng phần mới. Cứ thế các chủng tử và hiện hành cứ thay
phiên làm nhân duyên, trùng trùng duyên khởi, tương sanh, tương duyên
chuyển hiện thành vô số những chủng tử và hiện hành mới, ví như ngọn nến
được chiếu soi bởi nhiều lớp gương mà hiện lên muôn vàn hình ảnh chập
chùng bất tận.
Các
chủng tử và hiện hành này càng được chiếu soi thì càng chuyển biến, càng
hiện đậm nét lên và trở nên mỗi lúc một thô kệch và nặng nề hơn, cho đến
khi có đủ nhân duyên thì chuyển hiện thành thế giới và chúng sanh.
Sự
chuyển hiện ra chúng sanh và sơn hà hải địa từ vô lượng những chủng tử
và hiện hành nơi Tâm thức được ví như sự đâm chồi nẩy mộng từ những hạt
giống nơi mặt đất trở thành cây nhánh và hoa lá. Tánh chất của sự tăng
trưởng biến đổi mà thành hình này được Duy Thức gọi là tánh chất Dị
Thục. Dị là khác, Thục là chín có nghĩa là biến khác đi mà chín mùi.
Vì
vọng niệm mà Tâm thức bị chuyển biến và biểu hiện khác đi, không còn là
biển chân như thanh tịnh vô biên nữa mà là căn thân và thế giới thô kệch
hạn hẹp. Để nhấn mạnh đến tánh chất chuyển biến mà thành hình, Duy thức
học gọi tâm thức đã chuyển biến này là Dị Thục Thức.
Dị
thục có ba nghĩa. Thứ nhất là khác thời gian mà chín, dị thời nhi
thục, có nghĩa là từ dạng chủng tử mà chuyển biến thành căn thân và
thế giới đòi hỏi một thời gian. Thứ hai là khác loại mà chín, dị loại
nhi thục, như trái cam, trước khi chuyển thành trái cam thì là nụ,
là hoa, hoa tàn thì ra trái, khi còn nhỏ thì xanh và sần sùi, khi chín
thì lớn, trơn láng và có mầu vàng. Thứ ba là biến khác đi mà chín,
biến dị nhi thục, ví như trái cam khi còn xanh vị chua, khi chín thì
vị ngọt.
Nương nơi Dị Thục thức, mạt na thức được sanh khởi. Mạt na là âm
tiếng Phạn của chữ Manas, có nghĩa là tư lương nên mạt na thức còn được
gọi là tư lương thức. Đặc tính của thức này là mê muội, chấp
trước và so đo, chấp Kiến phần và Tướng phần là thật thể, chấp tất cả
các chủng tử và hiện hành là thật có. Mạt Na thức cứ bám sát và ôm chặt
lấy Dị Thục thức cho là của mình, cho là hằng còn tỷ như rễ cây bám chặt
lấy mặt đất.
Các
chấp chước đó càng ngày càng kiên cố khiến cho các chủng tử và hiện hành
của các pháp trở nên thô kệch, rắn chắc lại cho tới một lúc nào đó hội
đủ các điều kiện nhân duyên thì chuyển biến thành thế giới vật chất mà
Duy Thức gọi là Đới Chất Cảnh, là cảnh giới có giới hạn, bị bao
lại, bị cột lại. Các chủng tử và hiện hành được ví như những hạt giống,
nhân duyên được ví như những điều kiện tăng trưởng như sự hòa hợp của
đất, nắng, mưa, ánh sáng cùng bóng đêm khiến cho hạt giống đâm chồi nẩy
mộng.
Khi
thế giới và chúng sanh được thành hình thì chúng không còn được biết như
là kết quả dị thục của tâm thức nữa mà bị mê vọng chấp là những cảnh
giới hữu chất ở ngoài tâm thức. Cảnh giới này chỉ được nhận biết qua cửa
ngõ của các giác quan thô kệch nơi mỗi chúng sanh như mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân gọi là Ngũ Căn. Ngũ Thức nương nơi ngũ căn này
mà nhận biết được cảnh giới sắc trần.
Nhưng chỉ riêng ngũ thức thôi thì các sự nhận biết đó sẽ rất đơn sơ và
rời rạc. Nhãn thức chỉ biết sự có hình ảnh và không có hình ảnh chứ
không biết rõ hình ảnh đó là gì, mầu sắc ra sao, nhĩ thức chỉ biết có
tiếng động hay không có tiếng động, tỷ thức chỉ biết có mùi hay không có
mùi, thiệt thức chỉ biết có vị hay không có vị, thân thức chỉ biết có sự
xúc chạm hay không xúc chạm thôi. Phải có sự hòa hợp của ngũ thức với ý
thức thì mới biết rõ được tánh chất của cảnh giới sắc trần. Ý thức và
Ngũ thức hợp lại thành sáu thức gọi là Tiền Lục Thức hay là
Liễu Biệt Cảnh Thức.
Nguyên thủy thì Tâm chính là Bản Tánh Chân Như nhưng chỉ vì vọng niệm từ
vô thủy nên biến hiện ra có ba phần là Dị Thục thức, Mạt Na
thức và Liễu Biệt Cảnh thức. Các thức này hình như riêng biệt
nhưng thật ra vốn chẳng khác vì đều gốc ở thể tánh chân như.
Ý
thức được ví như thân cây, Tiền ngũ thức được ví như những cành cây vươn
ra từ thân cây. Mạt na thức là rễ cây, luôn bám chặt vào mặt đất Dị thục
thức. Tâm cũng được ví như nước của biển cả, bẩy chuyển thức gồm Mạt na
thức và Tiền lục thức ví như những lớp sóng mòi, do nước của biển cả dấy
động lên mà có chứ thực ra không có thật thể. Vì muốn trùng tuyên nghĩa
này, đức Thế tôn nói kệ nơi núi Lăng Già:
Ví
như nước biến đổi
Lớp
lớp sóng mòi chuyển
Bẩy
thức cũng như vậy
Tâm
cùng hòa hợp sanh
Là
chỗ tàng thức kia
Bao
nhiêu các thức chuyển.
Bồ
tát Thế Thân đã cô động các ý nghĩa trên trong hai bài tụng đầu của Duy
Thức Tam Thập Tụng.
BÀI
TỤNG THỨ NHẤT VÀ THỨ HAI
Do
giả thuyết Ngã Pháp
Hữu
chủng chủng tướng chuyển
Bỉ
y thức sở biến
Thử
năng biến duy tam
Vị:
Dị Thục, Tư Lương
Cập
Liễu Biệt Cảnh Thức
Sơ
A Lại Da Thức
Dị
Thục, Nhất Thiết Chủng.
Dịch là:
Ngã
và Pháp không thật
Các
chủng tướng chuyển hiện
Đều
là do Thức biến
Thức năng biến có ba
Là
Dị Thục, Tư Lương
Và
thức Liễu Biệt Cảnh
Thứ
nhất A Lại Da
Dị
Thục, Nhất Thiết Chủng.
Có
nghĩa là tất cả các pháp bao gồm cả chúng sanh lẫn thế giới đều là giả,
không thật có. Tất cả đều do Thức chuyển biến mà hiện khởi ra. Thức có
khả năng chuyển hiện ra các pháp đó được chia làm ba loại là Dị Thục, Tư
Lương và Liễu Biệt Cảnh Thức.
Như
trên đã trình bầy, Dị Thục Thức là thức năng biến thứ nhất, còn được gọi
là Tàng Thức Sơ Năng Biến, Căn Bản Thức, A Lại Da Thức, Tàng Thức, Nhất
Thiết Chủng Thức hay là Thức Thứ Tám.
Tư
Lương Thức là thức năng biến thứ hai, còn được gọi là Mạt Na Thức hay là
Thức Thứ Bẩy.
Liễu Biệt Cảnh Thức là các thức năng biến thứ ba, còn được gọi là Tiền
Lục Thức gồm Ý Thức và năm thức trước. Ý Thức còn gọi là Thức Thứ Sáu
hay là Phân Biệt Thức. Năm thức trước còn được gọi là Tiền Ngũ Thức gồm
Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức và Thân Thức tức là năm thức
của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân.
Kinh Hoa Nghiêm nói Tam giới duy Tâm, Vạn pháp duy Thức. Tất cả các pháp
trong ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới đều do tâm sanh. Các pháp
trùng trùng duyên khởi, thế giới hiện hữu cả trong tâm tôi lẫn tâm anh.
Trong anh có tôi và trong tôi có anh. Tâm trùm tất cả pháp giới, tất cả
pháp giới đều do tâm sanh. Vạn hữu và vũ trụ có thể nằm trọn trong một
hạt cải và hạt cải có thể thâu nhiếp cả vạn pháp. Một là tất cả, tất cả
là một. Tất cả đều do mê vọng, do mê vọng mà kết nên nghiệp duyên và do
nghiệp duyên mà muôn pháp hiện khởi. Nên nói tất cả đều là huyễn hóa như
trăng đáy nước, như hoa trong gương.
Kinh Lăng Già ví thế gian như Hoa Hư Không. Hư không đâu có hoa đốm
nhưng vì con mắt nhậm nên thấy hoa đốm giữa hư không. Vì chúng sanh quá
mê muội không biết rõ như thế nên đức Phật rất thương sót cho chúng
sanh. Thương sót không phải vì thấy chúng sanh khổ não trong sanh tử
luân hồi, mà thương sót vì chúng sanh không biết mình vốn có sẵn cái
chân như thanh tịnh, cứ vọng tưởng phân biệt, thấy có mình, có người, có
vạn vật, có thế giới và vũ trụ nên cứ phải trầm luân đau khổ trong sanh
tử luân hồi.
Hãy
nghe Đại Huệ dùng kệ tán thán Phật trong kinh Lăng Già Tâm Ấn:
Thế
gian lià sanh diệt
Ví
như hoa hư không
Trí
chẳng thấy có không
Mà
khởi tâm đại bi
Xa
lìa nơi tâm thức
Trí
chẳng thấy có không
Mà
khởi tâm đại bi
Xa
lìa chấp đoạn thường
Thế
gian hằng như mộng
Trí
chẳng thấy có không
Mà
khởi tâm đại bi
Muốn trở về với chân tâm, phải quán các pháp như huyễn. Biết được các
pháp không thật thì mới có thể phá vỡ được màn vô minh kiên cố của ngã
chấp và pháp chấp có từ vô thủy che lấp chân tâm. Một khi vọng tưởng
phiền não của ngã chấp và pháp chấp không còn nữa, màn vô minh đã được
phá vỡ thì chân tâm được hiển lộ. Chân Tâm còn được gọi là Bản Tánh Chân
Như hoặc Phật Tánh hay là Chân Tâm Diệu Minh. Chư Phật ba đời cũng đều ở
trong biển Chân Như này mà xuất hiện.
Như
trên đã giải thích, thế giới và chúng sanh chỉ là huyễn, đều do tâm thức
chuyển biến mà biểu hiện ra. Duy Thức chia tâm thức ra làm ba phần: Sơ
là Dị Thục Thức, Nhị là Tư Lương Thức và Tam là Liễu
Biệt Cảnh Thức.
Trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu thức năng biến thứ nhất còn được
gọi là Thức Sơ Năng Biến. Sơ năng biến tức là thức năng biến đầu tiên.
Trong nửa cuối của bài tụng thứ hai, ngài Thế Thân viết Sơ A lại da
thức, Dị thục, Nhất thiết chủng, có nghĩa là thức sơ năng biến này có ba
đặc tánh và tùy theo mỗi đặc tánh mà có các tên gọi khác nhau: A lại da
thức, Dị thục thức và Nhất thiết chủng thức.
A
lại da là âm của tiếng Phạn Alaya, có nghĩa là cái kho mà tiếng Hán Việt
gọi là tàng. Gọi thức sơ năng biến là A lại da thức là muốn nói đến cái
công năng chứa đựng và tích lũy của nó. Tất cả mọi chủng tử và hiện hành
đều được chứa trong A lại da thức. Các chủng tử và hiện hành này do mê
vọng chuyển hiện ra, sau đó lại tự làm nhân duyên cho nhau mà chuyển
biến ra muôn loại chủng tử và hiện hành khác. Các chủng tử và hiện hành
này cứ như thế, như thế trùng trùng duyên khởi mà phát triển thành vô
lượng, đủ loại mọi hạt giống, xấu có, tốt có và có cả loại không xấu lẫn
không tốt.
Nhất thiết chủng là muốn nói đến đủ mọi hạt giống chủng tử đều được chứa
đựng trong tàng thức. Các chủng tử này gồm đủ loại, sanh tử và niết bàn,
mê ngộ và khổ vui. Có những chủng tử sẵn có từ thời vô thủy, có những
chủng tử đang được huân tập, chuyển biến và có cả những chủng tử đã và
đang bị hủy diệt. A lại da thức ví như mảnh đất trong đó đủ mọi hạt
giống được vun trồng. Tất cả các pháp hiện hành trong thế gian và xuất
thế gian đều có chủng tử tiềm tàng trong A lại da thức nên thức này còn
được gọi là Nhất thiết chủng thức.
Dị
thục là muốn nói đến sự chuyển biến và hiện khởi ra chúng sanh và quốc
độ của thức sơ năng biến, đòi hỏi phải có một thời gian để các chủng tử
hội đủ được các điều kiện nhân duyên để chín mùi. Các chủng tử trong A
lai da thức khi thuận duyên thì hòa hợp với nhau rồi huân tập và tăng
trưởng lên. Huân nghĩa là xông ướp, là hun đúc, tập là nhóm hợp lại, tỷ
như trà mạn sen là trà đã được xông ướp bằng hương thơm của hoa sen, mùi
trà đã hợp lại với mùi thơm của hoa sen nên trà mạn sen lúc nào cũng có
hương vị của sen. Các chủng tử được huân tập là các chủng tử được xông
ướp trong một thời gian nào đó để cho các đặc tính của chúng hợp lại và
thẩm thấu vào nhau. Nếu ví chủng tử như hạt giống thì sự huân tập được
hiểu theo nghĩa là hạt giống được luôn luôn tưới bón cho đến khi thuần
thục thì nẩy mầm và tăng trưởng thành cây nhánh và hoa trái. Nếu ví như
bức tranh thì sự huân tập ví như các mầu sắc cứ được tô điểm lên hình vẽ
cho đến khi nó trở thành một bức tranh có mầu sắc và ý nghĩa.
Huân tập còn được hiểu theo nghĩa là một việc gì cứ lập đi lập lại thành
thói quen, lúc đầu thì lọng cọng nhưng khi đã quen rồi thì làm không cần
phải suy nghĩ. Thí dụ khi đứa bé mới tập đi thì lúc đầu cứ đứng lên đi
một vài bước là ngã nhào xuống, khi quen rồi thì chạy nhẩy rất nhanh.
Hay lấy thí dụ như khi mới bắt đầu tập viết chẳng hạn thì lúc đầu viết
mẫu tự A cũng rất khó, khi viết quen rồi thì nhắm mắt viết cũng thành
chữ, thành thơ. Lấy một ví dụ nữa như hằng ngày đi làm, ta cứ đi một con
đường để đi từ nhà tới sở. Đi riết thành quen nên có ngày ta không phải
đi làm nhưng nếu lơ đãng, đôi khi thay vì lái xe đến chợ ta lại lái xe
đến sở làm. Hoặc như việc hút thuốc hay uống rượu chẳng hạn; ban đầu hút
thuốc thì bị sặc sụa, ho và khó chịu vì khói thuốc; lúc mới bắt đầu uống
rượu thì thấy đắng, uống không muốn vô; thế mà khi đã thành nghiền rồi
thì thiếu điếu thuốc hay chén rượu là không thể chịu được.
Xem
thế thì huân tập một việc gì là làm việc đó nhiều lần cho đến khi thuần
thục thành thói quen. Sự huân tập đưa đến các thói quen khiến sự việc
được tiến hành mà không cần phải suy nghĩ. Các thói quen hay là tập quán
này còn gọi là tập khí, là nghiệp nhân, chúng tạo thành nghiệp lực và
đưa đến nghiệp quả. Nghiệp Quả ở các ví dụ trên là những cây cối được
mọc lên do sự thường xuyên tưới bón các hạt giống, là sự biết đi của đứa
bé, là sự hoàn thành một bức tranh mầu sắc đẹp đẽ hay là sự nghiền uống
rượu say sưa hút sách bê bối.
A
Lại Da thức có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt giống chủng tử
tăng trưởng, chuyển biến dị thục cho đến khi có đầy đủ nhân duyên thuần
thục chín mùi thì hiện khởi ra căn thân và thế giới.
Căn
thân là quả dị thục của các chủng tử biệt nghiệp nơi mỗi chúng sanh, còn
được gọi là Chánh Báo. Căn thân gồm hai phần là danh và sắc. Danh
là tâm thức bao gồm cả bốn uẩn thọ, tưởng, hành và thức. Sắc là thân xác
thô kệch, là sự kết hợp của tứ đại đất, nước, gió, lửa, với các lục phủ
ngũ tạng và phù trần căn.
Thế
giới hay là quốc độ là quả dị thục của các chủng tử cộng nghiệp nơi các
chúng sanh. Thế giới là Y Báo, là nơi mà chánh báo nương tựa để
sinh sống. Nếu chánh báo là người thì y báo là đất đai, nhà cửa, sông
núi, cây cối, là tất cả các cảnh giới và tất cả các loài chúng sanh khác
cần thiết cho sự hiện hữu và sinh tồn của con người trên trái đất này.
Tùy
theo nghiệp lực mà mỗi chúng sanh đắc được một thân căn nào đó trong tam
giới cửu địa.
Tam
giới gồm có ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Dục
giới là nơi có năm loài chúng sanh ở lẫn lộn gọi là ngũ thú tạp cư
địa. Năm loài này gồm Trời, Người, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục. Ở
đây chỉ nói đến năm loài thôi mà không nói đến loài A tu la vì loài này
có thể hiện thân là bất cứ loài nào trong năm loài trên. A tu la là một
loài rất sân và ác độc; nếu ở trên trời thì là một vị ác thần; nếu là
người thì là một ác nhân như những tên sát nhân, những tướng cướp hung
dữ, những cường hào ác bá, những lãnh chúa độc tài; nếu ở trong loài súc
sanh thì là loài ác thú như loài lang sói, hổ báo; nếu ở loài ma quỷ
hay địa ngục thì là loài quỷ dữ chuyên quấy phá và não hại loài khác.
Sắc
giới có bốn cõi thiền là: Ly sanh hỷ lạc địa tức là cõi Sơ Thiền,
Định sanh hỷ lạc địa tức là cõi Nhị Thiền, Ly hỷ diệu lạc địa
tức là cõi Tam Thiền, Xả niệm thanh tịnh địa tức là cõi Tứ
Thiền.
Vô
sắc giới có bốn cõi là: Không vô biên xứ địa, Thức vô biên xứ địa, Vô sở
hữu xứ địa và Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa.
Trong cả ba cõi có chín địa nên có danh từ Tam Giới Cửu Địa. Tam
Giới Cửu Địa còn được gọi là Tam Giới Lục Đạo, ý nói trong tam
giới có sáu loài chúng sanh gồm có trời, người, a tu la, súc sanh, ngạ
quỷ và địa ngục.
Trong quá khứ các hạt giống chủng tử sẵn có trong A lại da thức duyên
với thế giới trần cảnh bên ngoài cùng với các hành tướng của các uẩn
Thọ, Tưởng, Hành, Thức bổ xung cho nhau, tăng trưởng rồi chuyển biến và
hiện khởi ra Chánh Báo và Y Báo của kiếp hiện tại. Căn thân và Thế giới
của chúng ta bây giờ là quả dị thục của các nghiệp nhân đã tạo trong quá
khứ. Các chủng tử câu sanh (các chủng tử vốn sẵn có từ trước) và các
chủng tử hiện tại lại tiếp tục làm nhân duyên cho nhau để rồi chuyển
biến thành một Chánh Báo và Y Báo mới trong đời vị lai.
Ta
hãy nghiên cứu bài tụng thứ ba của Bồ tát Thế Thân nói về đặc tính của
Tàng thức sơ năng biến này.
BÀI
TỤNG THỨ BA
Bất
khả tri chấp thọ,
Xứ
liễu. Thường dữ Xúc,
Tác
Ý, Thọ, Tưởng, Tư.
Tương ưng duy xả thọ.
Dịch là:
Không thể biết thọ thân
Xứ
nào. Thường cùng Xúc,
Tác
Ý, Thọ, Tưởng, Tư.
Chỉ
tương ưng xả thọ.
Các
sự huân tập và chuyển biến trong A lại da thức thì thật tiềm ẩn và vi tế
nên người chưa đắc đạo không thể biết được sẽ thọ thân làm loài gì và ở
trong quốc độ nào. Dựa trên lý nhân duyên, nghiệp báo và nhân quả ta sẽ
biết một cách đại khái rằng nếu muốn thọ lại thân người thì phải giữ ngũ
giới, nếu muốn thọ thân trời thì phải giữ thập thiện. Thọ thân người và
trời ra sao, làm thân trưởng giả hay bần hàn, làm người giỏi giang hay
ngu xuẩn, làm vị trời cõi nào, cõi dục giới, sắc giới hay vô sắc giới
thì cũng rất khó mà biết chính xác, chỉ biết càng thọ trì nghiêm mật,
càng tạo nhiều phước báu thì cảnh giới càng cao hơn.
Tiện đây cũng nên nói sơ lược về ngũ giới và thập thiện vì cũng có một
số đông còn chưa thọ tam quy ngũ giới.
Tam
quy
là
tam quy y, quy y là nương tựa, tam là ba. Tam quy y cũng gọi là quy y
tam bảo là nương tựa vào ba nơi tôn quý Phật, Pháp, Tăng để tu trì.
Nương tựa vào Phật là vị đã giác ngộ và chỉ dậy cho chúng ta đường lối
tu hành để được giải thoát. Nương tựa vào Pháp là thực hành đường lối
Phật đã chỉ dậy. Nương tựa vào Tăng, là đoàn thể những người đã bỏ được
đời sống thế tục, quyết tâm tu hạnh giải thoát. Dưới đây là các câu tụng
Tam quy dựa theo thiền sư Nhất Hạnh:
Con
về nương tựa Phật, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
Con
về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
Con
về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh
thức.
Ngũ
giới
là
năm giới cho hàng Phật tử nương theo đó mà tránh vi phạm. Năm giới đó
là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không
nghiện ngập.
Khi
xưa thời Phật chỉ nói không uống rượu nên hàng tăng lữ nhiều khi nương
vào đó để tha hồ hút sách và cờ bạc.
Giới cấm là cái căn bản tiêu chuẩn đặt ra cho chúng ta nương theo mà
không vi phạm. Nếu vi phạm thì phải thọ nhận quả báo. Muốn thọ lại thân
người, muốn được có một đời sống an vui, bớt phiền não thì hãy ráng mà
tự giữ gìn. Quả báo nhãn tiền thì đừng có trách ai. Thiền sư Thanh Từ
nói bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Hàng phàm phu chúng ta chỉ thích
hưởng thụ, chừng nào tai họa đến thì la làng, cầu xin khắp nơi mà đâu
biết rằng gieo nhân nào thì thọ quả đó. Phật là bậc đại trí và đại bi
chỉ cho chúng ta những việc không được làm để có thể đắc được đạo quả,
chúng ta không giữ gìn thì còn than khóc và cầu xin làm gì. Chính ngay
đức Phật cũng phải trả quả báo, chính ngài cũng phải bị đau đầu ba ngày
ba đêm vì trong kiếp quá khứ đã đập vào đầu con cá ba lần, ngay dòng họ
của ngài cũng bị dòng Lưu Ly giết sạch dù rằng có Mục Kiền Liên dùng
thần thông bảo vệ cũng vô ích.
Còn
Thập Thiện là gì? Thập thiện là mười điều thiện, mười điều thiện
đó là không làm mười điều ác. Mười điều ác gọi là Thập Ác. Những
ai muốn thọ thân trời thì đừng phạm mười điều ác này: sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt (nói hai đầu, nói lời ly gián), ác
khẩu (nói lời thô lỗ, độc ác), uế ngữ (nói lời nhơ nhớp, dâm dục), tham
dục, sân tức (nóng giận, bực tức), Tà kiến (không tin nhân quả, không
tin chánh pháp).
Không thể biết rõ ràng các chủng tử được gieo vào Alại da thức như thế
nào, chúng kết hợp với các chủng tử có sẵn ở đó ra sao, chúng tăng
trưởng và chuyển biến như thế nào, khi nào sẽ chín mùi và sẽ thọ nhận
cái thân loài nào và ở quốc độ nào, nên nói Bất khả tri chấp thọ xứ
liễu. Chấp là bám víu vào, thoï là sự thọ nhận một thân căn
(chánh báo), xứ là nơi chốn mà thân căn nương vào để sinh sống
tức là y báo, liễu là sự phân biệt, nhận biết.
Như
trên đã nói, những hoạt động và chuyển biến nơi tâm thức thì rất vi tế
và phức tạp nên không thể biết tường tận hành tướng của chúng ra sao.
Khoa học cũng chỉ nghiên cứu được phần nào thôi. Sự nghiên cứu đó phần
lớn ở trong phạm trù sắc tướng và hiện tượng chứ khó mà đi sâu được vào
hai phương diện tâm linh và siêu hình.
Còn
cảnh giới y báo thì thật vô biên. Nội cái hư không này thôi, ta cũng
không đo lường đuợc ngằn mé của nó. Làm sao có thể tưởng tượng ra được
trái đất to tướng nặng nề này lại có thể quay lơ lửng trong hư không.
Không những thế mà ngoài trái đất này còn có bất khả thuyết số các hành
tinh khác to gấp vô số lần trái đất, cũng lơ lửng và quay cuồng trong
các quỹ đạo riêng với vận tốc nhanh hoặc chậm gấp vô số lần so với sự
quay của trái đất. Khoa học chỉ nghiên cứu các hiện tượng, đặt ra các
giả thuyết và định đề để tìm ra các cơ cấu, các định lý, các nguyên tắc,
các hằng số và các định luật chi phối các hiện tượng đó nhưng không thể
nào cắt nghĩa được cái cội nguồn rốt ráo của mọi hiện tượng.
Những khái niệm, những giải thích về nhân quả, về nghiệp báo, về nhân
duyên của A lại da thức đều là những cảnh giới bất khả tư nghì mà chư
Phật trong tam thế mười phương đã thể chứng được khi các ngài chứng đắc
được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cảnh giới bất khả tư nghì này
không thể dùng tri kiến và học thức thường tình mà nghĩ bàn được, nó chỉ
có thể trực nhận được khi đạt đến cảnh giới chân như bằng các phương
pháp tu trì như Lục Độ Vạn Hạnh tức Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục,
Tinh tiến, Thiền định và Trí huệ.
Chân Như tuyệt đối hay là Chân Không Diệu Hữu đó chỉ có thể đạt đến bằng
công năng tu trì và thiền quán nhằm loại bỏ tất cả các tập nhiễm có từ
vô thủy, từ thô đến tế để đưa tâm thức trở về cái bản thể thanh tịnh
uyên nguyên của nó. Chỉ khi ấy ta mới nhận chân ra cái cảnh giới như
thị, không thể nghĩ bàn mà chư Phật trong tam thế mười phương đã chứng
đắc.
Khi
đã có được khái niệm về chân tâm và khi đã thật sự tin rằng bản tánh của
mình vốn là Phật, vốn là Giác Ngộ, vốn là Chân Như thì hãy ngưng những
kiến chấp thường tình, những hý luận và tranh cãi. Hãy tinh tấn tu hành,
giữ giới, tu thiền, hành từ bi, tập hỷ xả đúng như chánh pháp của đức
Thích Ca và chư Tổ đề ra trong các kinh, luật và luận. Chỉ khi ấy Trí
Huệ Bát Nhã mới phát sinh và Từ Bi Chân Thực mới nẩy nở.
Kinh Pháp Hoa nói Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là muốn cho
chúng sanh hội nhập Tri Kiến Phật. Cái tri kiến mà không lời nói và văn
từ nào có thể diễn tả được. Có nói đến đâu, bàn cãi, tranh luận đến đâu
đi nữa thì cũng chỉ tốn thì giờ vô ích và chẳng giải quyết được gì. Tất
cả chỉ là một trò hý luận mà thôi. Chính vì thế mà đức Phật Thích Ca Mâu
Ni trong bốn mươi chín năm hành đạo đã tuyên bố là chưa hề nói một lời
nào. Cũng trong chiều hướng này mà tổ Bồ Đề Đạt Ma đã đến Trung Hoa để
nói lên cái yếu chỉ của Thiền Tông là Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập
văn tự, Trực chỉ chân tâm, Kiến tánh thành Phật, tức là phương pháp trao
truyền đặc biệt, siêu việt trên các giáo lý, không dựa vào lời nói, đi
thẳng vào tâm, thấy tánh thành Phật.
Thường dữ Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư
có
nghĩa là A lại da thức thường tương ưng với Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư
là 5 Tâm Sở Biến Hành. Năm tâm sở biến hành này là năm pháp trong
năm mươi mốt pháp của Tâm Sở Hữu Pháp.
Tất
cả các pháp tuy nhiều nhưng gom lại chỉ có 100 thứ và được phân chia
thành năm loại: 8 món Tâm Vương, 51 món Tâm Sở Hữu Pháp, 11 món Sắc
Pháp, 24 món Bất Tương Ưng Hành Pháp và 6 món Vô Vi Pháp. Bài kệ bốn câu
tóm lược 100 pháp như sau:
Sắc
pháp thập nhứt, Tâm pháp bát
Ngũ
thập nhứt cá Tâm sở pháp
Nhị
thập tứ chủng Bất tương ưng
Lục
cá Vô vi thành bá pháp.
Dịch là:
Sắc
pháp mười một, Tâm pháp tám
Năm
mươi mốt món Tâm sở pháp
Hai
mươi bốn món Bất tương ưng
Sáu
món Vô vi thành trăm pháp.
Bồ
tát Thế Thân trong Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận có viết như sau:
Nhứt thiết pháp giả, lược hữu ngũ chủng
Nhứt giả Tâm pháp
Nhị
giả Tâm sở hữu pháp
Tam
giả Sắc pháp
Tứ
giả Tâm bất tương ưng hành pháp
Ngũ
giả Vô vi pháp.
Dịch là:
Tất
cả các pháp có năm loại:
Thứ
nhất là Tâm pháp,
Nhì
là Tâm sở hữu pháp,
Ba
là Sắc pháp,
Tư
là Bất tương ưng hành pháp,
Năm
là Vô vi pháp.
Chữ
Pháp trong Bách Pháp Minh Môn Luận này không phải đồng như nghĩa chữ
Pháp trong Ngã và Pháp nói ở bài tụng thứ nhất nhưng cũng chẳng phải
khác vì nó bao gồm cả ngã lẫn pháp đó. Pháp ở đây là tất cả các sự vật
hữu hình hoặc vô hình và tất cả các trạng thái tâm linh nào mà ta có thể
khái niệm được. Nói như thế có nghĩa là cả phi pháp cũng là pháp. Chúng
sanh và phi chúng sanh, ngã và vô ngã, có và không, tất cả các hiện hữu
và không hiện hữu cũng là pháp vì khi ta có khái niệm về cái có là ta đã
có khái niệm về cái ngược lại là cái không. Lông rùa, sừng thỏ, hoa đốm,
trăng đáy nước, hoa trong gương, thành Càn Thát Bà, đứa con của Thạch
nữ, cùng tất cả những gì biểu trưng cho sự không có thật cũng là Pháp.
Pháp
là
những gì có khuôn khổ riêng mà ta có thể nhận biết hoặc khái niệm được.
Tiếng Hán giải nghĩa Pháp là Nhậm trì tự tánh quỹ sinh vật giải,
dịch là những gì có cái tánh chất và khuôn khổ riêng mà dựa vào đó ta có
thể nhận biết hay khái niệm ra được. Chữ tự tánh trong câu nhậm trì tự
tánh, quỹ sinh vật giải phải được hiểu theo nghĩa thông thường là đặc
tính của một vật, của một sự việc, của một vấn đề mà khi nói đến là ta
có khái niệm về sự vật hoặc vấn đề ấy chứ không phải là Tự Tánh Chân
Thật hay là Chân Như mà kinh Phật thường nói đến.
Tám
thức tâm vương gồm có Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân
thức, Ý thức, Mạt na thức và A lại da thức. Tám món tâm thức này rất thù
thắng, tự tại và tự chủ ví như những vị vua nên gọi là Tâm vương. Có vua
thì phải có cận thần là những vị quan dưới quyền để sai khiến, để thi
hành mệnh lệnh, là những thuộc quyền. Cũng vậy, có Tâm vương nên phải có
những sở hữu của Tâm vương gọi là Tâm sở hữu hay là Tâm sở. Tâm vương và
Tâm sở có những liên quan rất mật thiết cũng như những sự liên quan giữa
vua và các vị cận thần. Tâm sở luôn luôn thi hành lệnh của Tâm vương và
ngược lại Tâm vương cũng bị ảnh hưởng bởi Tâm sở. Đôi khi Tâm vương còn
bị Tâm sở chi phối, lôi cuốn hoặc tiếm quyền.
Giáo sư Nghiêm Xuân Hồng trong Lăng Nghiêm Ảnh Hiện cho rằng Tâm vương
là các thức năng biến và các món Tâm sở là trạng thái lục dục của chúng
sanh, là những trạng thái tâm lý sở biến của các Tâm vương. Cho nên Tâm
sở không phải là một với Tâm vương nhưng cũng không phải là khác vì cả
hai đều do thức biến cả. Nếu ví các thức Tâm vương như những dây đàn thì
các Tâm sở là những nhịp điệu rung động của dây đàn, khiến phát ra những
âm ba lúc khoan lúc nhặt, lúc trầm lúc bổng, lúc vui lúc buồn.
Tâm
vương và Tâm sở hợp với nhau và làm hiện ra sắc pháp. Các món Bất Tương
Ưng Hành Pháp là các món sai khác, không phải tâm pháp mà cũng không
phải sắc pháp. Các món Tâm vương, Tâm sở, Sắc pháp và Bất tương ưng hành
pháp đều là pháp hữu vi. Do các pháp Hữu vi được diệt mà pháp Vô vi được
hiển bày ra. Tuy phân biệt ra có pháp Hữu vi và Vô vi nhưng tất cả đều
gọi là pháp và đều do tâm biến hiện.
Tàng thức thường được ví như là mặt đất, Mạt Na thức là rễ cây luôn bám
víu vào mặt đất, Ý thức được ví như thân cây và Tiền ngũ thức ví như
những nhánh chính mọc ra từ thân cây.
Vì
5 pháp Tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư nằm trong 51 món Tâm
Sở Hữu Pháp nên trước hết xin liệt kê 51 món này để làm quen với danh từ
và sau đó sẽ đi sâu vào chi tiết của 5 món tâm sở biến hành này.
Năm
mươi mốt món Tâm Sở Hữu Pháp được chia làm sáu loại như sau:
5
món Tâm sở Biến Hành gồm có Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư.
5
món Tâm Sở Biệt Cảnh gồm có Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ.
11
món Thiện gồm có Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn, Khinh
an, Bất phóng dật, Hành xả, Bất hại.
6
món Căn Bản Phiền Não gồm có Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến.
5
món Tùy Phiền Não gồm có 10 món Tiểu Tùy, 2 món Trung Tùy và 8 món Đại
Tùy. Tiểu Tùy gồm có Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại,
Kiêu. Trung Tùy gồm có Vô tàm, Vô quý. Đại Tùy gồm có Trạo cử, Hôn
trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chánh tri.
4
món Tâm Sở Bất Định gồm có Hối, Miên, Tầm, Tứ.
Năm
món Tâm Sở Biến Hành Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng và Tư luôn luôn có
mặt trên mọi tiến trình diễn biến của tâm thức. Chúng xuyên qua thời
gian bao gồm cả quá khứ, hiện tại và vị lai. Chúng chu biến khắp không
gian, có mặt trong tất cả các giới và địa. Chúng tiếp xúc với tất cả các
tâm vương cùng tâm sở và thông cả ba tánh: thiện, ác và vô ký (tánh
lành, tánh dữ và tánh không lành không dữ). Chính vì thế mà tâm sở này
gọi là biến hành. Biến là chu biến, phổ biến, hành là hoạt động, là tác
động.
Tâm
sở biến hành thứ nhất là xúc. Xúc là tiếp xúc, là sự tiếp giáp
giữa căn, trần và thức. Tâm sở này là chỗ nương tựa của các tâm sở Thọ,
Tưởng và Tư là các hành tướng của thức, nghĩa là khi có sự tiếp xúc giữa
Căn và Trần thì có sự phân biệt, có sự thọ nhận, nghĩ đến và suy tư về
đối tượng được tiếp xúc, nói khác đi là có sự hoạt động của Thức. Ba thứ
Căn, Trần và Thức cùng nhau tùy thuận; Xúc nương ba thứ đó mà phát sanh
khiến ba thứ đó được hòa hợp. Ba thứ Căn, Trần và Thức có công năng
tương ưng nhau mà khởi sanh ra các sự thay đổi biến khác. Xúc tương ưng
với sự thay đổi biến khác đó mà khởi lên. Tánh của Xúc là khiến cho Tâm
vương và Tâm sở cùng tiếp xúc cảnh.
Tâm
sở biến hành thứ hai là tác ý. Tác ý là móng khởi cái ý. Nó làm
phát động các chủng tử của tâm vương và tâm sở tức là nó đánh thức các
chủng tử làm cho sanh khởi. Công dụng của nó là hướng tâm duyên đến
cảnh. Nếu nhận thức chưa phát khởi, nó làm cho phát khởi; nếu nhận thức
đã phát khởi, nó khiến cho nhận thức tập trung vào đối tượng.
Tâm
sở biến hành thứ ba là thọ. Thọ là sự lãnh nhận, lãnh nạp các
cảnh thuận, nghịch hoặc không thuận nghịch. Cảnh giới của Thọ là lấy sự
lãnh nạp làm tướng. Công dụng của nó là khởi lên sự ưa thích, sự không
ưa thích hay là sự không cả hai.
Tâm
sở biến hành thứ tư là tưởng. Tưởng là nhớ tưởng. Tánh của tâm sở
này là nhớ lại, hình dung lại, có khái niệm về ảnh tượng của cảnh vật.
Cảnh giới của nó là lấy sự thu nhận cảnh tượng làm tướng. Công dụng của
nó là thiết lập danh ngôn, đặt ra những danh từ để biểu hiện các cảnh
tượng.
Tâm
sở biến hành thứ năm là tư. Tư là suy nghĩ, so đo. Tánh của tâm
sở này làm cho tâm suy nghĩ tạo tác. Công dụng của nó là khiến tâm
quyết định hành động, hoặc làm lành, làm dữ hay không làm lành hoặc dữ.
Hãy
thử nghiên cứu tác dụng của các Tâm Sở Biến Hành xúc, tác ý, thọ, tưởng,
tư trong câu chuyện có thật về chàng Diễn Nhã Đạt Đa trong thành Thất La
Phiệt mà Phật nói trong kinh Lăng Nghiêm. Câu chuyện kể rằng một hôm anh
Diễn Nhã Đạt Đa lấy gương soi mặt bỗng nhiên ưa cái đầu trong gương cùng
lông mày con mắt có thể thấy được rồi giận trách cái đầu mình sao lại
không nhìn thấy mặt mày rồi cho mình là yêu quái mà phát cuồng bỏ chạy.
Do
đâu mà Diễn Nhã Đạt Đa bỗng ưa cái đầu trong gương cùng lông mày con
mắt? Là vì tác dụng của xúc khi con mắt của anh ta tiếp xúc với hình ảnh
trong gương khiến anh khởi cái tác ý ngắm nhìn.
Do
đâu mà Diễn Nhã Đạt Đa phát cuồng bỏ chạy? Là vì chàng ta thọ nhận cảm
giác ưa thích cái đầu cùng con mắt và lông mày trong gương, rồi khởi ra
cái tưởng, rồi suy tư cho rằng mình không có đầu, cho rằng mình là yêu
quái, mà có hành động phát cuồng bỏ chạy.
Hoặc lấy một câu chuyện ngắm hoa làm thí dụ. Thí dụ hằng ngày tôi đều đi
bách bộ ngang qua một vườn đào nhưng vì không có gì đặc biệt đập vào con
mắt nên tôi không biết rằng mình đi ngang một vườn đào. Khi mùa xuân
đến, hoa đào nở rực rỡ đập vào mắt tôi, do sự tiếp xúc đó mà tôi mới
biết có sự hiện hữu của vườn đào đẹp đẽ này. Vì hoa đào nở mình mới chú
ý đến và nhận ra sự hiện hữu của hoa đào và cảm thấy thích thú. Về nhà
tưởng nhớ lại thì thấy hoa đào quả là đẹp, rồi suy tư ước muốn có một
vài cây đào ở trước sân nhà để được ngắm nhìn hoa nở khi xuân về, vì thế
mà tôi quyết định phải mua vài ba cây đào về trồng ở trước sân.
Những diễn trình tâm lý xẩy ra trong trường hợp ngắm hoa này phát khởi
do sự hòa hợp giữa nhãn căn cùng hoa trần cảnh và nhãn thức mà sinh ra
các sự chú ý, thích thú, tưởng nhớ và ao ước là những tác động biến hành
của các Tâm sở Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng và Tư.
Ở
thí dụ ngắm hoa này, nhân nhãn căn, nhãn thức hợp với trần cảnh hoa đào
mà Xúc phát sanh, khơi động hình ảnh hoa đào đã có trong A lại
da, đưa hình ảnh này vào ý căn tức thức Mạt na. Tác động này gây nên sự
chú ý (Tác ý) nơi Ý thức. Ý thức dựa vào khái niệm về hoa đào đã
có trong A lại da thức mà biết được hình ảnh đang thấy là hoa đào và
khởi phân biệt, thấy có đẹp, có vui, có thích và có ý muốn trở lại ngắm
hoa nữa hoặc có ý định trồng một vài cây đào ở trước nhà.
Hình ảnh hoa đào cùng những cảm thọ mới này lại được huân tập trở lại
vào A lại da thức dưới dạng một chủng tử mới tiềm ẩn và tô đậm thêm một
lớp vọng nữa vào chủng tử hoa đào đã có ở trong A lại da thức.
Trường hợp chưa bao giờ thấy hoa đào thì hình ảnh hoa đào được đưa vào
trong A lại da thức trong sát na đầu tiên ngay khi căn tiếp xúc với trần
lúc mà ý thức chưa khởi phân biệt, được coi là một đối tượng chân thật
mà danh từ duy thức gọi là một Tánh Cảnh. Sau đó là sự chấp ngã
của mạt na, sự phân biệt của tiền lục thức cùng các tâm sở biến hành
xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư. Ở đây tâm sở biến hành tưởng tác động lên Ý
thức, khởi nên sự tìm tòi một danh từ để đặt tên cho hình ảnh mới được
thấy này.
Tác
động của Xúc, Tác ý, Thọ. Tưởng và Tư ở các thí dụ trên là tác động của
5 tâm sở biến hành tương ưng với Liễu Biệt Cảnh Thức khi sáu căn tiếp
xúc với sáu trần giúp ta có khái niệm về các hoạt động của các tâm sở
biến hành này.
Năm
tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư tương ưng với A lại da thức
thì khác với các tâm sở biến hành nơi tiền lục thức vì mỗi một tâm vương
có các tâm sở biến hành riêng rẽ ví như những vị vua của mỗi quốc gia có
các quần thần riêng. Tác động của chúng rất vi tế, chúng tác động lên
các chủng tử tiềm ẩn sẵn có nơi A lại da, làm các chủng tử này tăng
trưởng hoặc chuyển biến khác đi.
Năm
tâm sở biến hành nơi Alại da thức thì luôn đi kề với thức này, chúng
phát hiện ngay những tâm sở biến hành nào vừa móng khởi nơi Mạt na thức
và Liễu biệt cảnh thức và đưa các dữ kiện này vào A lại da thức. A lại
da thức là cái kho chứa, nhận tất cả các dữ kiện này như những chủng tử
mới mà không khởi phân biệt tốt hay xấu. Vì thế mà câu thứ tư trong bài
tụng thứ ba nói nó chỉ Tương ưng duy xả thọ. Thọ ở đây là sự cảm
thọ. Có ba loại: thọ vui hay là lạc thọ là cảm giác khi gặp cảnh thuận
hay khi được khen thưởng, thọ buồn tức khổ thọ khị gặp cảnh nghịch hay
là khi bị chê trách, không vui không buồn tức xả thọ như khi gặp cảnh
bình thường, không được khen cũng không bị chê.
Đặc
tánh của thức A Lại Da được Bồ tát Thế Thân tiếp tục diễn tả trong bài
tụng thứ tư.
BÀI
TỤNG THỨ TƯ
Thị
vô phú vô ký
Xúc
đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A
la hán vị xả.
Dịch là:
Tánh vô phú vô ký
Các
biến hành cũng vậy
Hằng chuyển như nước dốc
A
la hán thì xả.
Nghĩa là tánh của A lại da thức không bị ngăn che, không phải là thiện
và cũng không phải là ác. Các tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ,
Tưởng, Tư nương nơi A lại da thức cũng không bị ngăn che và cũng vô
ký, như như không thiện lẫn không ác. A lại da thức sanh diệt, chuyển
biến không ngừng như dòng thác lũ. Đến địa vị A la hán thì xả.
Như
trên đã nói chỉ vì mê vọng nên Chân Tâm bị chiếu soi và chuyển biến ra
có các chủng tử và hiện hành. Các chủng tử và hiện hành làm nhân duyên
cho nhau, được huân tập xông ướp mà biến đổi thành vô lượng các chủng tử
và hiện hành khác gồm đủ mọi chủng loại với đủ mọi tánh chất, hữu lậu,
vô lậu hoặc trung tánh. Vô lậu là thiện, hữu lậu là ác, trung tánh là vô
ký, là không thiện cũng không ác. Các chủng tử và hiện hành cứ liên miên
được chiếu soi, chuyển biến rồi lại đem chứa vào trong Tàng Thức. Tàng
Thức ví như một nhà kho chứa tất cả các chủng tử và hiện hành mà không
phân biệt là loại gì, thiện, ác hay là vô ký. Xấu hay tốt, nhiễm hay
tịnh là tánh chất riêng của các chủng tử và hiện hành chứ tánh chất của
Tàng thức thì không nhiễm cũng không tịnh, xấu hay đẹp là tự ở các đồ
vật trong kho chứ cái kho chứa chỉ có nhiệm vụ chứa đựng mà thôi.
Các
chủng tử được gieo vào mảnh đất A lại da ví như các hình ảnh xấu đẹp,
xanh vàng phản chiếu trên mặt gương sáng. Gương sáng nghĩa là gương
không dính bụi, không bị ngăn che, là tượng trưng cho tánh vô phú vô ký
của thức A lại da, nhận chứa tất cả các chủng tử mà không phân biệt tốt
xấu, thiện ác hay nhiễm tịnh.
Suy
lường, chấp trước và phân biệt giữa ta và người, tốt và xấu, yêu và
ghét, có và không, lớn và nhỏ, dài và ngắn, nhơ và sạch là những hành
tướng của Mạt na thức và Ý thức, là nguyên nhân gây ra phiền não, làm
chướng ngại tánh giác khiến chúng sanh cứ mê mờ mà trôi lăn trong biển
sanh tử.
Nếu
nhân trong A lại da thức chứa nhiều chủng tử thiện thì khi đầy đủ nhân
duyên chín mùi thì sẽ chuyển biến và hiện khởi ra quả báo là người hay
là trời, còn ngược lại nếu chứa nhiều chủng tử bất thiện thì sẽ hiện
khởi ra quả báo trong ba đường ác là súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Nhân
thiện thì có thể được quả làm người, nhân ác thì có thể bị quả làm súc
sanh. Bản thân người và bản thân súc sanh đó không có thiện và cũng
không có ác. Cho nên nói A lại da thức trong nhân có thiện có ác mà quả
Dị thục thì vô ký.
Tánh chất của Tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư thì giống như
tánh chất của Tâm vương mà chúng nương vào nên tánh chất Xúc, Tác ý,
Thọ, Tưởng, Tư tương ưng với thức A lại da cũng vô phú vô ký.
Tất
cả các chủng tử tốt hoặc xấu đều được gieo vào mảnh đất A lại da trong
trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này được huân tập, chuyển biến, tương
sanh, tương duyên, tương diệt liên tục. Sự chuyển biến này xẩy ra liên
tục và tức thời, chớp nhoáng và liên tiếp, cái này diệt thì cái kia
sanh, tương tức tương tục liên miên bất tận nên nói là
Sát Na Sanh Diệt.
Sát
Na Sanh Diệt đó ví như một ngọn lửa cháy. Ngọn lửa tưởng như liên tục
nhưng thực ra là do sự liên tiếp cháy sáng và chợp tắt của tim đèn khi
có sự tiếp xúc giữa mồi lửa, tim đèn và dầu. Mồi lửa này tắt làm phát
sinh ngọn lửa kế tiếp và ngọn lửa này lại làm mồi cho ngọn lửa sau này
khi nó tắt đi, ngọn lửa cứ tiếp tục cháy cho đến khi không còn tim đèn
hoặc không còn dầu hay là khi có ngọn gió mạnh thổi tới làm tắt lửa mồi.
Sự sanh diệt liên tiếp đó cũng được ví như những khối nước liên tục
chuyển động trong dòng thác lũ, khối nước này đổ qua thì có khối nước
khác đổ tới, tiếp nối liên tục không ngưng nghỉ, nên nói hằng chuyển
như bộc lưu. Nói không thể nào tắm được hai lần trên một dòng sông
là có ý nói nước sông luôn lưu chuyển, dòng nước này chẩy qua thì dòng
nưóc khác chẩy tới, dòng nước cũ không thể chẩy trở lại nơi mà nó đã
chẩy qua.
Sự
sanh diệt triền miên đó cũng ví như những đợt sóng dạt dào trên biển cả,
cứ đợt sóng này đẩy đợt sóng kia, đợt sóng mới đẩy đợt sóng cũ, sóng cũ
diệt thì sóng mới sanh. Gió vọng tưởng thổi sóng dạt dào trên biển cả,
các ngọn sóng liên tiếp nhồi lên rồi lặn xuống không ngưng nghỉ, ngọn
sóng này diệt thì ngọn sóng mới khởi sanh. Xin lập lại bài kệ của đức
Phật nói trong kinh Lăng Già Tâm Ấn:
Ví
như sóng biển cả
Đây
do gió mạnh thổi
Sóng to vỗ biển rộng
Không có khi đoạn dứt
Biển Tàng thức thường trụ
Gió
cảnh giới nổi dậy
Lớp
lớp các sóng thức
Ào
ạt mà chuyển sanh.
Các
chủng tử và hiện hành trong A lại da thức đều được huân tập và chuyển
biến một cách tiềm ẩn, âm thầm trở thành vô lượng các chủng loại với đủ
mọi tánh chất. Các tánh chất này gồm cả hữu lậu, vô lậu lẫn vô ký.
Lậu
nghĩa là rỉ chẩy, rơi rớt như thùng nước bị lủng, như nhà bị dột. Hữu
Lậu có nghĩa tâm bị phiền não và các pháp nhiễm ô làm cho phân tán
liên tục.
Ngược với pháp hữu lậu là các pháp Vô Lậu thanh tịnh. Khi tu tập
các pháp Ba La Mật thì các chủng tử vô lậu được huân tập, tăng trưởng,
phát sinh ra hiện hành. Các hiện hành được huân tập trở vào thức A lại
da thành các chủng tử vô lậu mới. Tùy theo tánh chất của các chủng tử vô
lậu mới này mà chủng tử hữu lậu tiềm ẩn sẵn có nơi tàng thức bị suy
thoái và tiêu diệt hoặc các chủng tử vô lậu sẵn có trong đó được tăng
trưởng và phát sanh thêm. Nếu tiếp tục huân tập các pháp vô lậu thanh
tịnh tới một lúc mà tất cả các chủng tử và hiện hành hữu lậu hoàn toàn
bị triệt tiêu thì lúc đó hành giả đã đạt được quả vị A la hán nếu là
hàng Thanh văn, tu theo Tiểu thừa; còn nếu tu theo Đại thừa thì đó là
bậc Bồ tát đệ bát địa.
Ở
quả vị này tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử vô lậu. Các hạt giống
hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân hồi sanh tử không còn nữa, A lại
da thức chuyển đổi thành Bạch tịnh thức. Bạch tịnh thức còn được
gọi là vô cấu thức. Khi này thức thứ tám không còn được gọi là
thức A lại da nữa vì không còn chứa các chủng tử hữu lậu nên bài tụng
nói A la hán vị xả. Xả tức là xả hết các hữu lậu chứ không phải
là không còn thức A lại da nữa. Thức A lại da lúc này được gọi là Bạch
tịnh thức hay là Vô cấu thức. Tùy theo tính chất nhiễm hay tịnh mà thức
này có các tên gọi khác nhau chứ không phải là thức này đoạn diệt và
thức khác sanh vì nếu đoạn diệt thì không thể nào duy trì sự tiếp nối
của căn thân, thế giới và các hành tướng của nghiệp được.
Tuy
nói là tới địa vị A la hán thì các chủng tử hữu lậu làm chướng ngại chân
tâm bị hủy diệt nhưng thật ra hãy còn những chủng tử hữu lậu vi tế câu
sanh nằm tiềm ẩn trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào các vị A la hán hồi
đầu theo đại thừa và các vị Bồ tát đệ bát địa tiếp tục tiến tu pháp tối
thắng vô phân biệt trí, được gọi là Thắng Pháp Không Quán, vượt
khỏi bậc Bồ tát Thập địa đến bậc Đẳng Giác, khởi Kim Cang Dụ Định đạt
được tới Phật Quả thì thức thứ tám này mới gột rửa được tất cả các vô
lậu thậm thâm vi tế và chuyển thành Đai Viên Cảnh Trí. Quả vị này
là Quả Vị Chuyển Y khi thức chuyển thành trí, là quả vị mà thức
đã chuyển trở lại được với cái thể thanh tịnh của Chân Tâm, ví như mặt
gương sáng chiếu soi vạn tượng một cách chân thật như thị bất khả tư
nghì.
Khi
còn giữ các chủng tử hữu lậu thì thức A lại da chỉ tương ưng với năm
món tâm sở biến hành mà thôi. Khi ấy A lại da thức không tương ưng với 5
món Tâm sở biệt cảnh Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ vì Dục
chỉ mong muốn những việc của nó muốn còn A lại da thức thì không
mong muốn; Thắng giải thì rành rẽ những việc đã quyết định còn A
lại da thức thì chỉ là nơi chứa đựng, dung nạp chứ không phải là nơi
quyết định; Niệm thì nhớ lại những việc đã qua còn thứ A lại da
thì chỉ chứa nhóm thôi chứ không ghi nhớ; Định thì khiến cho Tâm
chuyên chú vào một cảnh còn A lại da thức thì sát na sanh diệt tương tục
không chuyên vào cảnh nào cả; Huệ thì biết rốt ráo mọi việc còn
thức A lại da thì không phân biệt chọn lựa bất cứ việc gì.
Thức A lại da thì trong nhơn có thiện có ác mà quả thì dị thục vô ký nên
cũng không tương ưng với 11 món Thiện tâm sở cùng 6 món Căn bản phiền
não và 20 món Tùy phiền não. Còn 4 món Bất định tâm sở Hối, Miên, Tầm và
Tứ thì lại gián đoạn nên cũng không tương ưng với A lại da thức.
Khi
chuyển thức thành trí thì nó tương ưng với 21 món tâm sở gồm 5 món biến
hành, 5 món biệt cảnh và 11 món thiện. Để ôn tập, các món này được liệt
kê như sau:
5
món biến hành:
Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư.
5
món biệt cảnh:
Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Huệ.
11
món thiện:
Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng
dật, Hành xả, Bất hại.
Ngài Hộ Pháp Bồ tát viết trong Thành Duy Thức Luận như sau:
Ở
địa vị vô lậu, A lại da thức nhiếp thuộc thiện tánh, tương ưng với 21
tâm sở là 5 món biến hành, 5 món biệt cảnh và 11 món thiện vì:
thường tương ưng với nhất thiết tâm, tức là đi cùng với tất cả mọi tâm
thức (Biến hành)
thường ưa chứng tri cảnh sở quán, tức muốn biết tất cả các đối tượng
(Dục)
thường ẩn nhập kiên trì nơi cảnh sở quán, tức biết rõ các đối tượng
(Thắng giải)
thường nhớ rõ cảnh đã trải qua (Niệm)
không lúc nào không có định tâm (Định)
thường quyết trạch hết thẩy pháp, hiểu rõ các pháp (Huệ)
có
lòng tin cực tịnh nên tương ưng 11 thiện pháp.
Vì
không ô nhiễm nên không tương ưng các món căn bản và tùy phiền não. Vì
không quyết định và hành động nên không tương ưng với các món tâm sở bất
định hối, miên, tầm và tứ.
Chỉ
tương ưng với xả thọ vì hành tướng của nó thuần trực giác và tiềm ẩn. Ở
địa vị này A lại da thức chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí và lấy tất cả
pháp làm cảnh sở duyên.
Nếu
phân chia ra thì có vô lượng pháp môn để tu trì trên tiến trình đưa đến
cảnh giới Chân Như nhưng tất cả các pháp đó đều nằm trong ba pháp căn
bản là Giới, Định và Huệ. Thí dụ như Lục Độ Vạn Hạnh gồm Bố thí, Trì
giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ mà bố thí, trì giới,
nhẫn nhục và tinh tiến đều nằm trong Giới.
Khi
hành giả tu hành đến mức độ mình luôn luôn sống với giới luật thì đâu
còn giới gì mà trì. Mà nếu không có giới để trì thì làm gì có người trì
giới vì trì giới là việc luôn luôn và lúc nào cũng làm cả rồi thì danh
từ trì giới đâu có lý do hiện hữu, trì giới được nói đến vì có sự phạm
giới mà đã luôn luôn sống trong giới luật thì làm gì có sự phạm giới.
Cũng vậy khi hành giả sống hoàn toàn trong cảnh giới bố thí, thấy người
đau khổ thì bố thí, cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần thuốc cho
thuốc, cần lời an ủi cho lời an ủi, cần pháp cho pháp. Bố thí cho đến
không người bố thí và cũng không có kẻ được bố thí. Bố thí như vậy thì
làm sao các ác nghiệp khởi lên được. Làm sao các món căn bản phiền não
có thể khởi lên được. Chỉ bố thí thôi thì đâu có nghĩ đến lấy gì của ai
mà tham nổi lên được, không mong ai làm gì cho mình nên sân cũng không
nổi lên được, chỉ bố thí mà không nghĩ đến của bố thí, người nhận bố thí
và người bố thí thì làm sao kiêu, mạn và ác kiến nổi lên được. Và khi đã
bố thí như vậy thì hành giả đã là người có tín tâm vô lượng vô biên thì
làm sao nói hành giả đó còn si mê cho được. Chỉ bố thí, bố thí và bố thí
thì làm sao hổ thẹn với mình, làm gì có việc gì xấu phải che dấu người,
làm gì có các món Vô tàm và Vô quý là các món trung tùy thuộc Tùy phiền
não. Cho đến mười món tiểu tùy trong Tùy phiền não như là phẫn, hận,
phú, não, tật, xan, cuống, siễm, hại, kiêu cũng không thể tương ưng
được.
Tương tự như vậy khi hành giả luôn luôn có chánh niệm trong khi ăn,
uống, đi, đứng, nằm, ngồi tức là luôn luôn sống trong cảnh giới chân
thật (tức là có định và tuệ) thì tám món đại tùy trong Tùy phiền não như
trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn,
bất chánh tri và bốn món Tâm sở bất định như hối, miên, tầm, tứ làm sao
mà hiện hữu được. Và dĩ nhiên luôn luôn tương ưng với mười một món thiện
là tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng
dật, hành xả và bất hại.
Vì
vô minh nên khởi vọng niệm. Vì có vọng niệm nên phát sinh kiến phần và
tướng phần. Các kiến phần và tướng phần luân phiên huân tập thành chủng
tử và hiện hành. Các chủng tử và hiện hành trùng trùng duyên khởi, tương
sanh tương duyên tạo nên nghiệp nhân và đến khi chín mùi thì chuyển hiện
thành nghiệp quả, là căn thân mới trong một quốc độ mới. Cùng cộng
nghiệp thì chúng sanh có chung loài thọ mạng và sống chung trong
cùng một quốc độ.
Cùng cộng nghiệp, cùng loại thọ mạng và cùng sống chung trong một quốc
độ mà mỗi chúng sanh lại có một cuộc sống tâm linh và vật chất khác biệt
nhau vì mỗi chúng sanh đều có những nghiệp riêng gọi là biệt nghiệp.
Vì những biệt nghiệp này mà mỗi chúng sanh có những quả báo khác nhau.
Ví dụ cùng thọ mạng làm người chẳng hạn, con người có những nghiệp báo
khác nhau nên có những môi trường sinh sống, những suy nghĩ, những tin
tưởng, những mục đích, những lý tưởng, những lựa chọn và những hành động
khác nhau. Chính vì những khác biệt về tâm ly, sinh và vật lý đó mà đức
Thế Tôn đã phải tùy theo trình độ, căn cơ của mỗi hạng người mà phương
tiện chỉ bày ra những pháp môn phù hợp hầu nâng tâm thức của chúng ta
lên để có thể từ từ hội nhập được vào tri kiến của Phật.
Người thượng căn thì ngay đó giác ngộ được chân tâm, người trung căn và
hạ căn thì phải thứ lớp tiệm tu. Tu trì thì có mau có chậm nhưng khi
giác ngộ được chân tánh thì đồng một thể chân như. Hãy nghe tổ Hoàng Bá
nói trong Truyền Tâm Pháp Yếu:
Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không tạp
loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp thiên hạ; khi mặt trời
lên, chiếu sáng khắp nơi, hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn, u
tối khắp nơi, hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn
tính của hư không thì rỗng rang không thay đổi. Tâm của Phật và tâm của
chúng sanh cũng như vậy. Nếu quán Phật mà thấy cái tướng thanh tịnh,
quang minh, giải thoát và nếu quán chúng sanh mà thấy cái tướng ô nhiễm,
ám muội, sanh tử thì với kiến giải như thế, trải qua hằng hà sa số kiếp
vẫn không đạt được chứng quả Bồ đề. Đấy là vì chấp sắc tướng vậy.
Chỉ
có tâm này thôi, ngoài ra không có một chút mảy may pháp gì có thể đạt
được. Tức Tâm là Phật.
Tâm
đó là tâm vô tâm. Xa rời mọi tướng, chúng sanh và chư Phật đều không
khác. Chỉ cần được vô tâm thời đấy là cứu cánh. Người học Đạo nếu không
ngay đó mà được cái vô tâm thì tu hành kiếp kiếp, rốt cũng không thành
Đạo, bị công hạnh tu tập của tam thừa trói buộc không thể giải thoát
được.
Chứng được tâm này thì có mau có chậm. Có kẻ mới nghe pháp liền được vô
tâm. Có kẻ đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng mới được vô
tâm. Lại có kẻ đến hàng thập địa mới được vô tâm. Dù mau dù chậm, hễ cứ
được vô tâm là an trụ ở đó chứ chẳng còn gì để tu, để chứng nữa. Thật
chẳng có gì sở đắc. Sự thực như vậy, quả không hư dối.
Trong kinh Lăng Nghiêm có nói đến 57 thứ lớp mà hành giả phải
trải qua. từ Càn Huệ Địa tiến dần lên đến các quả vị Thập Tín, Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh, rồi đến mười hai quả vị sau cùng
là Thập Địa, Đẳng Giác và Diệu Giác. Có nơi chỉ liệt kê 52 quả vị vì
không nhắc địa vị đầu tiên là Càn Huệ Địa và bốn thứ gia hạnh..
Không bắt buộc phải theo các thứ lớp đó mới đến quả vị sau cùng là
Diệu Giác, một vị bồ tát ở bất cứ địa vị nào cũng có thể ngay đó
bừng nở Tâm thức và ngộ nhập được quả vị viên mãn sau cùng, thấy được
Thật Tánh Chân Như, thấy được cái Như Huyễn Tam Muội, thấy
được cái Chân Minh Diệu Không. Nơi đó không có người tu và pháp
tu, không có Phật và chúng sanh, không có người đắc và pháp để đắc. Tất
cả như hòa vào một, một là tất cả và tất cả là một. Pháp giới trùng
trùng điệp điệp hiện ra trên đầu một sợi tóc, một sợi tóc bao trùm cả
tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả đều từ cái Chân không Diệu Hữu,
tức Thể Tánh Chân Như, tức Biển Tỳ Lô Tánh Hải, tức
Biển Diệu Tâm bất khả tư nghì chuyển biến ra.
Còn
tu tập theo thứ lớp thông thường thì mười quả vị sau cùng của hàng
Thập Địa Bồ Tát trước khi đến quả vị Đẳng Giác và Diệu Giác là: Hoan
Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ Địa, Cực Nan Thắng Địa,
Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Huệ Địa và Pháp Vân
Địa.
Hàng bồ tát khi đến đệ bát địa thì không còn hai món phiền não chướng
và sở tri chướng nữa; các việc làm đã dứt, không còn hiện
khởi tâm thế gian nữa, ngay cả tâm Phật, tâm Bồ tát và tâm Niết bàn cũng
không hiện khởi vì là bậc Xuất Thế Gian Vô Sở Đắc Trí. Quả vị này
gọi là Bất Động Địa tương đương với quả vị A la hán của
hàng Thanh văn.
Khi
đến bậc này thức thứ tám xả cái tên A lại da thức vì không còn phiền não
vô minh che lấp, không có các chủng tử hữu lậu để huân tập nữa. Không
còn vật để chứa thì đâu cần kho để chấp chứa nên các tên gọi là kho
chứa, là tàng thức hay là a lại da thức không còn tồn tại nữa, khi ấy A
lại da thức chuyển thành Bạch Tịnh Thức hay là Vô Cấu Thức.
Trong Bách Pháp Quy Củ Tụng có kệ rằng:
Bất
động địa tiền tài xả tạng
Kim
cang đạo hậu Dị thục không
Đại
viên vô cấu đồng thời phát
Phổ
chiếu thập phương trần sát trung.
Dịch là:
Đến
Bất động địa bỏ tên Tàng
Chứng Kim cang đạo, không Dị thục
Gương trí không nhơ đồng thời phát
Khắp chiếu mười phương vô số cõi.
Có
nghĩa là khi đến đệ bát địa thì thức thứ tám không còn có tên là Tàng
thức hay A lại da thức nữa mà chỉ gọi là Dị thục thức.
Khi đến địa vị Đẳng Giác tức là chứng được Kim Cang Đạo thì tên
Dị thục cũng không còn nữa vì không còn câu sanh pháp chấp và không còn
cảm thọ về sanh tử nên không còn nhận nghiệp quả dị thục nữa. Khi ấy các
chủng tử vô lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này chuyển thành trí thanh tịnh
chiếu khắp mười phương các cõi nhiều như vi trần nên gọi là Đại Viên
Cảnh Trí. Lúc này vị Bồ tát có thể tùy duyên hóa hiện khắp pháp giới
hoằng pháp hóa độ chúng sanh.
Bồ
tát Thế thân diễn tả về Mạt na thức trong ba bài tụng thứ năm, thứ sáu
và thứ bẩy. Bài tụng thứ năm nói về đặc tánh của Mạt na thức, bài tụng
thứ sáu nói về các tâm sở tương ưng, bài tụng thứ bẩy nói về quả chuyển
y của Mạt na thức.
Hãy
nghiên cứu bài tụng thứ năm.
BÀI
TỤNG THỨ NĂM
Thứ
đệ nhị năng biến
Thị
thức danh Mạt na
Y
bỉ chuyển duyên bỉ
Tư
lương vi tánh tướng.
Dịch là:
Thức năng biến thứ hai
Gọi
là thức Mạt na
Nuơng kia chuyển, duyên kia
Tư
lương làm tánh tướng.
Thức năng biến thứ hai được gọi là Mạt na thức vì mạt na do tiếng
Phạn là manas có nghĩa là tư lương tức là suy nghĩ, cân nhắc và so đo.
Tiếng Hán Việt gọi là Tư lương thức. Thức này có đặc tính là liên
tục suy tư, cân nhắc và so đo, hằng thẩm và tư lương. Tánh chất
tư lương của nó vượt trên tất cả mọi thức khác. Theo thứ tự mà đặt tên
thì thức này gọi là thức thứ bẩy. Thức này còn gọi là YÙ
hoặc là Ý căn vì thức thứ sáu tức Ý thức nương nơi thức này mà
phát sanh. Thức này được gọi là Ý chứ không là Ý thức vì sợ lộn với thức
thứ sáu.
Thực ra thức thứ bẩy này phải dịch là mạt na vì do tiếng Phạn là
manas mà ra. Ý thức tức là thức thứ sáu phải dịch là mạt na thức
vì do tiếng Phạn là manovijnana, mano là mạt na, vijnana
là thức nhưng vì các bản tiếng Hán từ xưa đều dịch chữ manas là mạt na
thức nên chúng ta không thể dùng chữ mạt na thức để chỉ thức thứ sáu vì
sợ lẫn lộn với thức thứ bẩy. Vì vậy chúng ta phải quy ước dùng chữ
mạt na thức hoặc mạt na để chỉ cho thức thứ bẩy mà
thôi.
Nếu
so về năng lực tích tụ thì Mạt na thức không bằng A lại da thức và nếu
so về khả năng phân biệt thì thức này cũng thua thức thứ sáu tức là ý
thức.
Bài
tụng nói y bỉ chuyển là nói Mạt na thức nương nơi A lại da thức,
lấy thức này làm căn bản mà chuyển hiện. Có A lại da thức là có Mạt na
thức, A lại da thức sanh về cõi nào thì Mạt na thức chuyển hiện theo cõi
ấy. Mạt na thức không bao giờ rời A lại da thức ví như bóng theo hình
nên Mạt na thức cũng luôn luôn hiện khởi, không gián đoạn như A lại da
thức. Có điều là Mạt na luôn lấy cảnh sở duyên nơi A lại da mà suy xét
và so đo, khiến cho tâm bị dấy động, ô nhiễm.
Nếu
ví A lại da thức là mặt ao thì Mạt na thức là cụm rễ của nhóm lục bình
trôi trên mặt nước A lại da thức, ý thức và năm thức trước được ví như
thân và cánh lục bình. Tùy theo mặt nước A lại da thức lên xuống mà lục
bình trồi lên hay hụp xuống theo và cụm rễ Mạt na thì không bao giờ rời
mặt nước ao.
Nếu
ví A lại da thức là mảnh đất thì Mạt na thức là rễ cây, luôn bám chặt
vào mặt đất A lại da, còn Ý thức và tiền ngũ thức là thân cây và những
nhánh cây vươn lên từ mảnh đất A lại da.
Mạt
na thức sanh ra từ A lại da thức rồi lại lấy thức này làm đối tượng sở
duyên. Các chủng tử và hiện hành của A lại da thức cứ bị Mạt na thức lấy
làm cảnh sở duyên mà duyên, tức là các chủng tử và hiện
hành này cứ bị chiếu soi, suy xét và đo lường. Hành tướng duyên này gọi
là sở duyên duyên, tức là cứ lấy cảnh sở duyên mà duyên. Các cảnh
sở duyên bị Mạt na thức duyên thêm một lần nữa nên bị biến đổi, sự biến
đổi này lại được đưa vào A lại da làm tăng trưởng hay làm suy yếu thêm
các chủng tử sẵn có nơi A lại da thức. Nếu tác động thẩm xét và tư lương
nơi Mạt na làm tăng trưởng các chủng tử sẵn có trong A lại da thức thì
gọi là Thuân Tăng Thượng Duyên. Ngược lại nếu làm các chủng tử
nơi A lại da bị suy yếu hay hủy diệt thì gọi là
Nghịch Tăng Thượng Duyên.
Tác
động Tăng Thượng Duyên này ví như tác động của mưa và nắng đối với hạt
giống, cây cối và mùa màng. Nếu mưa thuận gió hòa thì mầm giống, cây cối
tăng trưởng, nẩy nở tốt tươi, mùa màng được thuận lợi. Nếu giông bão
hoặc hạn hán thì mầm giống bị ung thối hoặc khô cháy, cây cối bị tàn phá
hoặc cằn cỗi, các sinh vật sẽ bị điêu linh và đói khổ vì mất mùa.
Một
điểm cần nói nữa là Mạt na thức này chỉ duyên nơi A lại da thức mà thôi
nghĩa là chỉ luôn quay vào chiếu soi các chủng tử và hiện hành ở Tàng
thức mà thôi, nên bài tụng nói y bỉ chuyển duyên bỉ, nghĩa là tùy
theo thức A lại da chuyển đi đâu thì mạt na thức liền duyên theo đó.
Có
quan niệm cho rằng Mạt na thức duyên kiến phần và tướng phần nơi A lại
da thức và chấp kiến phần làm Ngã và tướng phần làm Ngã sở. Có nghĩa là
Mạt na thức chấp cái chủ thể thấy và đối tượng nơi cái thấy của thức Al
ại da cho là của mình, cái năng thấy là ta và cái sở thấy là cái của ta.
Có
quan niệm cho rằng Mạt na thức duyên chủng tử và hiện hành nơi A lại da
thức và chấp chủng tử làm Ngã và hiện hành làm Ngã sở.
Ở
đây chúng ta không đi sâu vào các chi tiết quá phức tạp và chi li này.
Trong A lại da thức, các hạt giống làm nhân duyên cho nhau, khi tiềm ẩn
là chủng tử, khi hiện khởi là hiện hành. Có khi chủng tử sanh hiện hành,
có khi hiện hành sanh chủng tử, có khi chủng tử sanh chủng tử và cũng có
khi hiện hành sanh hiện hành.
Hãy
lấy hình ảnh của ngọn đèn dầu làm ví dụ. Thoạt nhìn ta tưởng là ngọn lửa
sáng liên tục nhưng thực ra đó chỉ là muôn ngàn tia lửa loé lên và chợp
tắt, cái này nối tiếp cái kia. Ngọn lửa cũ tắt đi làm mồi đốt tim đèn và
nhờ có chất dầu làm xúc tác nên có ngọn lửa kế tiếp. Trong ví dụ này,
hãy gọi ngọn lửa là hiện hành, tim đèn là chủng tử và chất dầu là duyên.
Ta sẽ thấy ngọn lửa cũ tắt đi sẽ phát sanh ngọn lửa mới, đó là chỉ cho
hiện hành sinh hiện hành. Ta cũng thấy ngọn lửa cũ tắt đi làm lộ ra tim
đèn mới, đó là chỉ cho hiện hành sinh chủng tử. Ta lại thấy rằng nhờ tim
đèn mới lộ ra đó nên mới có ngọn lửa mới, đó là chỉ cho chủng tử sinh
hiện hành. Và ta cũng thấy cái tim đèn cũ cháy rồi mới lộ ra cái tim đèn
mới, đó là chỉ cho chủng tử sinh chủng tử.
Tất
cảø vô lượng những mầm mống của muôn pháp, khi là năng, khi là sở, trùng
trùng duyên khởi, tương tức, tương tục, tăng thượng, sanh diệt không
ngưng nghỉ, lung linh như những hình ảnh phản chiếu trong muôn ngàn hạt
châu. Những hình ảnh này góp phần vào cái Năng kiến và Sở kiến
của A lại da thức. Phần năng kiến là Kiến phần, phần sở kiến
là Tướng phần, mà Mạt na thức chấp làm Ngaõ và
Ngã Sở.
Tư
lương vi tánh tướng
có
nghĩa là bản chất của Mạt na là suy xét và đo lường. Mạt na thức không
bao giờ là không suy tính và so đo nên nói cả tánh lẫn tướng của nó đều
là tư lương. Nói một cách khác, thể của Mạt na thức là Tư lương
và dụng của nó cũng là Tư lương. Chính vì sự tư lương này mà tánh
chất nhận thức nơi Mạt na thức không được trung thực, luôn bị bóp méo,
bị biến kế sở chấp mà sai khác đi. Nói một cách dễ hiểu là cái thấy nơi
Mạt na bị thành kiến bóp méo mà biến đổi khác đi, không còn trung thực
nữa. Cái tánh chất không trung thực này gọi là phi lượng.
Khi
chưa chuyển y thì Mạt na thức luôn luôn chấp ngã và chỉ duyên nơi A lại
da thức. Khi đắc quả chuyển y, tức là chuyển được cái tướng chấp ngã
thành vô ngã, thì Mạt na thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí.
Khi này ngoài duyên thức thứ tám (đã chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí),
thức thứ bẩy còn duyên chân như cùng tất cả các pháp khác, thấy được mọi
căn cơ và sai biệt nơi mỗi loại chúng sanh.
Chúng ta hãy sang bài tụng kế tiếp để nghiên cứu những tâm sở tương ưng
nơi Mạt na thức.
BÀI
TỤNG THỨ SÁU
Tứ
phiền não thường câu
Vị:
Ngã si, ngã kiến
Tinh ngã mạn, ngã ái
Cập
dữ Xúc đẳng câu.
Dịch là:
Tương ưng bốn phiền não
Là
ngã si, ngã kiến
Cùng ngã mạn, ngã ái
Và
tâm sở Xúc thẩy.
Bản
chất của Mạt na thức là hằng thẩm và tư lương, có nghĩa là luôn luôn suy
xét, tính toán, cân nhắc và so đo. Do bản chất này mà các chủng tử nơi A
lại da thức cứ bị đem ra chiếu soi và suy xét. Chấp đó là mình, là của
mình mà sinh tham đắm, si mê. Thấy có ta có người, thấy cái ta và cái
của ta là đúng, là hơn, là đẹp. Những tánh chất này là những căn bản của
phiền não và bởi đều do chấp ngã mà ra nên có tên là Ngã Si, Ngã
Kiến, Ngã Mạn và Ngã Ái.
Ngã
si
là
vô minh, là mê muội vọng chấp các pháp không phải có ngã thành có ngã,
chấp ngã là thật trong khi các pháp đều là vô nga. Ngã si là nguyên nhân
của ảo tưởng và ảo giác khiến ta không thể tin được các pháp chỉ là giả
dối, có đó rồi mất đó, biến hiện không ngừng như mộng huyễn, như hình
ảnh của bong bóng nước, như sương sớm ban mai, như tia chớp trên trời mà
kinh Kim Cương đã diễn tả:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như
mộng huyễn, bào ảnh
Như
lộ diệc như điển
Ứng
tác như thị quán.
Ngã
kiến
là
luôn coi điều mình thấy, điều mình suy nghĩ, điều mình quan niệm, điều
mình tin tưởng là trúng, không chịu nghe lời chân thật, điều gì khác với
mình suy nghĩ và quan niệm thì cho là sai, luôn ngoan cố không phục
thiện.
Ngã
mạn
là
coi mình là nhất, không coi ai ra gì, lấn lướt và khinh thường người
khác.
Ngã
ái
là
luôn luôn chấp ngã và sanh tâm mê thích ta và cái của ta, chỉ biết nghĩ
đến mình, những người thân thuộc và những người thuộc phe nhóm của mình,
sanh ra tánh cục bộ và địa phương.
Bốn
thứ ngã này làm che đậy và làm vẩn đục nội thức tức làm nhơ bẩn A lại da
thức và làm phát sinh các ngoại thức tức là tiền lục thức khiến chúng
sanh lạc mãi trong luân hồi sanh tử.
Trong Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận ngài Thế Thân chia Căn bản
phiền não làm sáu món: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến.
Trong sáu món này thì Mạt na thức chỉ tương ưng với bốn món là Tham
tức tham đắm, yêu cái ta và cái của ta; Si là vô minh là ngu
tướng; Mạn là thấy mình là nhất, là hơn tất cả, không coi ai ra
gì; Ác kiến là thấy mình hay, minh đẹp, mình đúng, người khác là
dở, xấu và sai, luôn không có ý tốt về người khác.
Vì
có Ngã kiến, luôn thấy mình đúng nên không thể có phiền não căn bản Nghi
được. Vì có Ngã mạn, không coi ai ra gì, không thèm để ý đến ai nên
không có phiền não căn bản Sân được.
Chữ
tinh dùng trong câu Ngã Si, Ngã Kiến tinh Ngã Mạn, Ngã Ái
có ý muốn nói bốn món căn bản phiền não này luôn hiện khởi nơi Mạt na
thức. Có Ngã Si, Ngã Kiến là có Ngã Mạn, Ngã Ái và ngược lại có Ngã Mạn,
Ngã Ái là có Ngã Si, Ngã Kiến.
Ngoài ra Mạt na thức cũng tương ưng với năm món tâm sở biến hành Xúc,
Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Một điểm nên lưu ý là các tâm sở biến hành
Xúc đẳng này khác với các tâm sở biến hành Xúc đẳng nơi A lại da
thức. Năm tâm sở biến hành này chu biến khắp mọi nơi, luôn có mặt nơi
các tâm vương liên hệ với chúng ví như các cận thần luôn sát cánh bên
vua. Mỗi một Tâm vương có năm món Tâm sở biến hành riêng, cũng như mỗi
vì vua có những cận thần riêng của mình. Vì muốn nêu rõ điểm này nên
trong câu Cập dữ xúc đẳng câu có dùng chữ dữ, có nghĩa là riêng,
là muốn nói năm thứ biến hành xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư của riêng Mạt
na thức, ám chỉ rằng năm xúc đẳng này riêng rẽ với các xúc đẳng khác.
Hãy
tiếp tục nghiên cứu bài tụng thứ bẩy.
BÀI
TỤNG THỨ BẨY
Hữu
phú vô ký nhiếp
Tùy
sở sanh sở hệ
A
la hán, Diệt định
Xuất thế đạo vô hữu.
Dịch là:
Tánh hữu phú vô ký
Sanh theo A lại da,
Chứng La hán, Diệt định,
Xuất thế đạo, không còn.
Với
những phiền não chấp ngã và lo nghĩ (hằng thẩm và tư lương) đó, Mạt na
thức cứ ôm lấy A lại da thức mà chấp ngã, chấp là mình, là của mình, là
ngã và ngã sở. Hành tướng này tạo nên Nghiệp Nhân và những nghiệp
nhân này cứ trùng trùng duyên khởi tương tục tăng trưởng, sanh diệt cho
đến khi đầy đủ yếu tố nhân duyên chín mùi thì hiện khởi ra căn thân và
thế giới. Tùy theo nghiệp báo A lại da thức chuyển biến khởi sanh vào
cõi nào thì Mạt na thức sanh vào cõi đó nên nói Tùy sở sanh sở hệ
nghĩa là tùy theo A lại da thức sanh ở đâu thì Mạt na thức sanh ở đó.
Khi
các nhân duyên đã đầy đủ và chín mùi, A lại da thức có thể chuyển biến
và hiện hành thành một loài trong Ngũ thú tạp cư địa. Nói là Ngũ
thú tạp cư địa vì ở cõi Dục giới có năm loài sống lẫn lộn ở đó. Năm loài
này gồm loài Trời, loài Người, loài Súc Sanh, loài Ngạ quỷ và loài ở Địa
ngục. Riêng loài A tu la thì có thể hiện hành thành bất cứ loài nào
trong năm loài kể trên.
Hoặc A lại da thức có thể chuyển hiện thành một loài ở cõi Sắc giới,
trong các địa như Ly sanh hỷ lạc địa, Định sanh hỷ lạc địa, Ly hỷ
diệu lạc địa và Xả niệm thanh tịnh địa. A lại da thức cũng có thể
chuyển hiện trong các loài ở cõi Vô sắc giới, trong các địa như Không vô biên xứ địa, Thức vô biên xứ địa, Vô
sở hữu xứ địa và Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa.
Thế
giới mà chúng ta đang hiện hữu là sự kết cấu lại của vô lượng những
quang minh nơi tâm thức bị lưu ngại do những chuyển biến sanh diệt không
ngưng nghỉ trong A lại da thức và Mạt na thức.
Vì
có những nghiệp nhân chung mà chúng ta chịu Quả Báo chung
trong thế giới loài người. Trong thế giới này những quang minh vi tế bị
lưu ngại, kết cấu thô kệch lại thành căn thân và thế giới.
Căn thân là con người với các Phù Trần Căn,Tịnh Sắc Căn và những
thức liên hệ. Thế giới là nhà cửa, sông núi, biển cả núi rừng,
cây cối thú vật, tinh tú, hành tinh, là cảnh giới xung quanh nơi căn
thân nương vào đó để sanh trưởng.
Tất
cả căn thân và thế giới đó hình như tách biệt khỏi A lại da thức và Mạt
na thức. Nhưng thật ra A lại da thức luôn hiện hữu và bao trùm cả căn
thân và thế giới đó. Ở đâu có A lại da thức là có Mạt na thức đi kề và
ôm chặt lấy như là sở hữu của mình. Những sự chấp trước, suy nghĩ và so
đo của Mạt na thức làm bao phủ thêm một lớp vọng lên các pháp. Do đó
nhận thức nơi Mạt na thức thì không trung thực.
Tánh chất của A lại da thức thì trung thực và không bị ngăn che, không
có sự phân biệt tốt hay xấu. Cái tánh chất chính xác, không bị ngăn che
và phân biệt nơi A lại da thức được gọi là hiện lượng và vô
phú vô ký. Còn tánh chất của Mạt na thức bị ngăn che, không trung
thực và được gọi là phi lượng và hữu phú vô ký.
Pháp sư Huyền Trang viết trong Bát Thức Quy Củ Tụng như sau:
Đới
chất hữu phú thông Tình, Bổn
Tùy
Duyên chấp ngã, Lượng vi Phi
Bát
đại, Biến hành, Biệt cảnh Huệ
Tham, Si, Ngã, Kiến, Mạn tương tùy.
Căn
thân và thế giới là cảnh giới được cấu kết và tích tụ lại do các quang
minh đã bị lưu ngại bởi các vọng tưởng so đo chấp ngã nơi Mạt na thức.
Căn thân và thế giới là cảnh giới thô kệch, bị ngăn che và có giới hạn
nên được gọi laø Đới Chất Cảnh, ngược lại là cảnh giới của Chân
Tâm, thanh tịnh và vô ngằn mé.
Đới
chất
có
nghĩa là có giới hạn, hữu phú là ngăn che, ý nói Mạt na thức thì
có giới hạn và bị ngăn che. Thông tình bổn, có nghĩa là Mạt na
thức ở giữa làm giao liên cho tình thức tức là ý thức và bổn
thức tức là căn bản thức tức là A lại da thức.
Khi
có căn thân và thế giới thì có thức thứ sáu nương nơi Mạt na thức mà
phát sinh gọi là Ý thức. Ý thức nhận xét và phân biệt cảnh giới
bên ngoài, Mạt na thức làm trung gian giữa Ý thức và A lại da thức, lấy
dữ kiện nơi Ý thức đưa vào A lại da thức hoặc đưa dữ kiện ở A lại da
thức ra để giúp Ý thức so sánh để biết được đối tượng sở duyên là gì.
Cảnh giới mà Mạt na nhận thức là cảnh giới nơi A lại da bị biến đổi qua
lăng kính chấp trước và so đo, không còn chân thực nữa. Nhận thức nơi
Mạt na này vì thế có tánh chất là phi lượng chứ không phải là
hiện lượng. Nó cũng không phải là tỷ lượng vì nó không có
tánh chất so sánh như nơi Ý thức.
Mạt
na thức có công năng truyền các cảnh giới do Ý thức nhận biết vào Tàng
thức và tống các dữ kiện trong Tàng thức ra nơi Ý thức nên còn có tên
là Truyền Tống Thức.
Mạt
na thức có tính cách trung gian, ở giữa A lạ da thức và Ý thức. Khi nhận
được dữ kiện của Ý thức đưa vào thì năm Tâm sở biến hành Xúc, Tác ý,
Thọ, Tưởng, Tư tương ưng nơi Mạt na thức tác động. Mạt na thức lục loại
tìm kiếm hình ảnh và cảm giác tương ưng trong A lại da thức để Ý thức so
sánh và phân biệt đó là hình ảnh và cảm giác gì.
Tùy
duyên chấp ngã
có
nghĩa là sự Chấp Ngã cuả Mạt na thức cứ thay đổi tùy theo duyên nên nhận
thức của nó không được chân thực, lúc thế này lúc thế khác, được đánh
giá là phi lượng, lượng vi phi.
Hai
câu Bát đại, biến hành,biệt cảnh huệ và Tham, Si, Ngã kiến,
Mạn tưong tùy có nghĩa là Mạt na thức tương ưng với 18 món Tâm sở
gồm 8 món Đại tùy là Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng
dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chánh tri; 5 món biến hành là Xúc,
Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư; 1 món biệt cảnh là Huệ; 4 món căn bản
phiền não là Ngã tham, Ngã si, Ngã kiến và Ngã mạn. Chữ tương tùy
là chỉ cho 4 món căn bản phiền não này luôn luôn có mặt.
Trong 5 tâm sở biệt cảnh Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ thì
Mạt na thức chỉ tương ưng với tâm sở Huệ. Huệ ở đây không phải là
trí huệ bát nhã, cũng không phải là tri kiến do sự huân tập và học hỏi;
huệ ở đây là ngã kiến là kiến giải chủ quan chấp ngã tức là cái thấy và
biết chủ quan và chấp ngã.
Mạt
na thức là nhận thức có tính cách suy xét, so đo về các chủng tử đang
hiện khởi trong A lại da thức chứ không phải sự mong muốn một hiện tượng
gì xẩy ra nên không có Dục; không có quyết tâm làm một việc gì
nên cũng không có Thắng giải; không ghi nhớ lại một điều gì nên
cũng không có Niệm; không phải chăm chú vào một cảnh nào nên
không có Định.
Mạt
na thức có tánh cách hữu phú do các phiền não chấp ngã và những suy nghĩ
so đo tạo ra nên không tương ưng với 11 món tâm sở thiện là những pháp
thanh tịnh. Trong 20 món tùy phiền não thì Mạt na thức chỉ tương
ưng với 8 món đại tùy như đả nói ở trên. Còn 10 món Tiểu Tùy và 2 món
Trung Tùy thì thô động trái khác với đặc tính tiềm ẩn vi tế của Mạt na
thức.
Ở
đây cũng nhắc lại 10 món Tiểu Tùy gồm có: Phẫn, Hận, Phú, Não,
Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại và Kiêu; 2 món Trung Tùy là Vô Tàm và Vô Quý.
Mạt
na thức thì lúc nào cũng mê mờ, không tỉnh táo, lúc thế này lúc thế khác
nên tương ưng với trạo cử và hôn trầm; không tin tưởng vì
lúc nào cũng suy xét và lo nghĩ, tương ưng với bất tín; không
chăm chú nên giải đãi và phóng dật; không có ghi nhớ nên
thất niệm, tán loạn, bất chánh tri. Mạt na thức tương ưng
với tất cả 8 món Đại tùy của tâm sở Tùy Phiền Não là Trạo cử, Hôn
trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn và Bất chánh
tri.
Mạt
na thức trước sau chỉ duyên hiện cảnh nên không có Hối việc
trước. Thức Mạt na không duyên bên ngoài mà chỉ chấp ngã bên trong nên
cũng không có Thùy miên, tức không bị ngoại cảnh làm nặng nề mệt
mỏi mà sinh buồn ngủ. Thức này cũng không tìm cầu và truy cứu việc bên
ngoài nên cũng không có Tầm và Tứ. Tóm lại thức mạt na
không có duyên với bốn món Bất Định Tâm Sở là Hối, Miên, Tầm và
Tứ.
Chữ
A la hán dùng trong câu A la hán, diệt định, Xuất thế đạo vô hữu
là chỉ các vị A la hán trong Tam thừa. Các vị này gồm có bậc La Hán của
Thanh Văn, bậc Bích Chi Phật của Duyên Giác và bậc Bồ Tát Đệ Bát Địa của
Đại Thừa. Các vị này khi tu thiền đã diệt được các thọ và tưởng, tức là
nhập vào diệt tận định là cái định không còn thọ tưởng nữa, các
nhiễm ô hiện hành hữu lậu không còn sanh khởi nên nói là vô hữu.
Vô hữu là không còn, nghĩa là các pháp nhiễm ô hữu lậu, chấp ngã không
còn sanh khởi trong mạt na thức nữa chứ không phải là thức Mạt na bị
biến mất, không còn nữa.
Các
pháp nhiễm ô có hai loại. Thứ nhất là các pháp nhiễm ô duyên sanh là các
pháp mới sanh khởi trong hiện kiếp. Thứ nhì là các pháp nhiễm ô câu
sanh, sẵn cóù từ thuở vô thủy. Các vị A la hán thì đã sạch hết các nhiễm
ô thứ nhất, còn các pháp nhiễm ô thứ hai thì chỉ tạm thời diệt khi nhập
vào diệt tận định.
Ở
quả vị Tam thừa trên, các La Hán của Nhị Thừa đã hồi đầu theo Đại Thừa
và những Bồ Tát Bất Động Địa (tức đệ bát địa) có liễu giải chân thật về
Vô ngã tức là đã đắc được Trí Căn Bản Chân Vô Ngã, tiếp tục quán pháp
hai không, không năng thủ và không sở thủ, đắc được
vô lậu hậu đắc trí tức là trí của bậc đẳng giác. Tới bậc
đẳng giác mà khởi được Kim Cang Dụ Định thì chứng được quả
Diêu Giác, tức là quả vị Phật, là quả vị cứu cánh của xuất
thế đạo. Lúc này các nhiễm ô ý và chấp trước về ngã và ngã sở cùng các
phiền não chướng câu sanh vi tế mới được loại trừ vĩnh viễn.
Khi
ấy thức thứ bẩy không còn gọi là Mạt na thức nữa mà là Bình Đẳng Tánh
Trí. Ở giai đoạn này nó tương ưng với 21 món tâm sở giống như
thức thứ tám khi ở quả vị chuyển y, gồm 5 món biến hành: Xúc, Tác
Ý, Thọ, Tưởng, Tư; 5 món biệt cảnh: Dục, Thắng Giải, Niệm, Định,
Huệ; và 11 món thiện: Tín, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh
Tấn, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại.
Ở
giai đoạn chuyển y Mạt na thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí.
Khi này nó không những chỉ duyên thức thứ tám (khi này trở thành Đại
Viên Cảnh Trí) mà còn duyên thêm Chân Như và tất cả các pháp.
Vị Bồ tát lúc này có trí giải biết rõ căn cơ và sự sai biệt của mọi loài
chúng sanh, tùy duyên hóa thân ứng hiện thuyết pháp độ sanh (ứng thân
thọ dụng độ tha).
CHƯƠNG V:
LIỄU BIỆT CẢNH THỨC
^
BÀI
TỤNG THỨ TÁM
Thứ
đệ tam năng biến
Sai
biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện, bất thiện, câu phi.
Dịch là:
Thức năng biến thứ ba
Có
sáu loại khác nhau
Tánh tướng là biết cảnh
Thiện, bất thiện và vô ký.
Có
nghĩa là thức năng biến thứ ba có sáu loại khác nhau. Tánh chất và đặc
tính của sáu thức này là nhận biết các đối tượng trần cảnh. Sáu thức này
gồm đủ ba tánh thiện, ác và vô ký (không thiện không ác).
Sáu
thức này tùy theo sáu căn nhận ra các sắc trần sai khác mà đặt tên. Sáu
căn gồm có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý mà Duy thức đặt tên theo thứ
tự là Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn và Ý căn. Sáu thức từ Nhãn
thức cho đến Ý thức nương theo sáu căn mà phân biệt các pháp trần cảnh
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Năm
thức đầu gọi là Tiền Ngũ Thức gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức,
Thiệt thức và Thân thức. Mỗi thức này chỉ nhận biết các đối tượng liên
quan đến nó mà thôi. Nhãn thức chỉ nhận biết hình tướng tức Sắc trần,
Nhĩ thức chỉ biết âm thanh tức Thanh trần, Tỷ thức chỉ biết mùi hương
tức Hương trần, Thiệt thức chỉ biết mùi vị tức Vị trần, Thân thức thì
phân biệt sự xúc chạm tức Xúc trần.
Nhờ
vào Ý thức mà các nhận biết nơi Tiền ngũ thức mới được ghi nhận
đầy đủ và chính xác.
Chẳng hạn khi đối tượng là một bông hoa, nếu chỉ có Tiền ngũ thức hoạt
động mà không có sự tác động của Ý thức thì ta không biết đó là bông hoa
gì, mầu sắc và hương vị ra sao.
Bài
tụng nói Liễu cảnh vi tánh tướng là muốn nói cái dụng của sáu căn
và sáu thức đầu này là phân biệt được đối tượng trần cảnh, biết đưọc đặc
tính và hình tướng của đối tượng. Trần cảnh còn được gọi là
pháp trần, hay đơn giản hơn thì gọi là pháp hay là cảnh.
Cảnh hay là pháp ở đây là tất cả mọi thứ có cái tánh chất mà ta có thể
có khái niệm và nhận biết được (nhậm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải)
chứ không phải là phương pháp hay là giáo pháp.
Theo bài tụng thì sáu thức này gồm cả ba tánh thiện, bất thiện và vô ký.
Tất
cả các pháp đem lại lợi ích cho đời này hoặc đời vị lai đều gọi là
thiện pháp. Tất cả các pháp không có lợi ích gì cho kiếp hiện tại
hay vị lai đều gọi là bất thiện pháp. Còn tất cả những gì không
xác định được có lợi hay không có lợi, là thiện hay là ác thì gọi là vô
ký, nghĩa là không thiện lẫn không ác thí dụ hành động đi, đứng,
nằm, ngồi, ăn, uống chỉ là đi đứng nằm ngồi và ăn uống thôi không có gì
là tốt hay xấu trong đó. Tốt hay xấu là tùy theo chủ đích của hành động,
như đi ăn cướp thì là xấu, đi làm việc từ thiện thì là tốt, ăn uống
chừng mực thì là tốt còn tham ăn tham uống thì là không tốt rồi.
Khi
tương ưng với các tâm sở thiện thì sáu thức này được xếp loại là thiện,
khi tương ưng với các tâm sở phiền não thì được xếp loại là bất thiện và
khi chúng không tương ưng với cả hai loại tâm sở trên thì được xếp loại
là vô ký nghĩa là không thiện cũng không ác.
BÀI
TỤNG THỨ CHÍN
Thử
tâm sở biến hành
Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy
phiền não, bất định
Giai tam thọ tương ưng.
Dịch là:
Các
tâm sở biến hành,
Biệt cảnh, Thiện, Phiền não,
Tùy
phiền não, Bất định,
Đều
tương ưng ba thọ.
Có
tất cả 51 tâm sở, được phân ra làm 6 loại: 5 biệt cảnh, 11 Thiện, 6 Căn
bản phiền não, 20 Tùy phiền não và 4 Bất định.
Năm
món Tâm sở biến hành
Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư luôn luôn có mặt trong tất cả các loại Tâm
vương, chu biến trong tất cả các giới và địa của cả ba thời nên gọi là
tâm sở biến hành.
Năm
món biệt cảnh
Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ chỉ có mặt với các nhận thức riêng biệt
liên quan đến đối tượng nhận thức nên gọi là Biệt cảnh. Dục có khả năng
nhận biết tướng yêu thích và mong cầu, Thắng giải biết được tướng quyết
định, Niệm biết được tướng đã thuần thục và ghi nhớ, Định và Huệ có khả
năng biết được những chú tâm và các việc làm của Tâm vương.
Mười một món tâm sở thiện
chỉ
sanh khởi ở trong thiện tâm vương. Sẽ nói chi tiết khi giải bài tụng thứ
mười một.
Các
tâm sở căn bản phiền não và tùy phiền não
chỉ
sanh khởi trong các Tâm vương bị phiền não. Sẽ nói chi tiết về các tâm
sở này sau.
Tâm
sở bất định gồm
có
Hối, Miên, Tầm và Tứ thì có thể sanh khởi trong tâm thiện hay tâm phiền
não nên gọi là bất định, sẽ từ từ bàn đến sau.
Tánh chất cảm thọ của sáu loại tâm sở này có thể là khổ thọ, lạc thọ hay
là xả thọ tức là không khổ cũng không lạc nên nói chúng tương ưng với
cả ba thọ.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI
Sơ
Biến hành: Xúc đẳng
Thứ
Biệt cảnh vị: Dục
Thắng giải, Niệm, Định, Huệ
Sở
duyên sự bất đồng.
Dịch là:
Các
biến hành: Xúc thẩy
Các
biệt cảnh gồm: Dục,
Thắng giải, Niệm, Định, Huệ.
Cảnh sở duyên không đồng.
Năm món Tâm sở
biến hành là các loại tâm sở luôn có mặt cùng mỗi tâm vương trong tất cả
mọi hoàn cảnh, mọi không gian và mọi thời gian. Tâm sở biến hành có năm
thứ gồm Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư.
Tất cả tâm sở này được gọi tắt là xúc đẳng tức là xúc cùng bốn
biến hành còn lại gồm Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Xúc đẳng này đã được bàn
đến ở phần nói về A lại da thức nhưng để làm sáng tỏ thêm cũng xin nêu
ra thí dụ sau:
Thí
dụ một người đang lang thang trên những bờ ruộng nơi thôn dã. Bỗng ngửi
thấy một mùi hương thơm man mát, dìu dịu. Người ấy chợt nhìn lên và thấy
cảnh một hồ sen lớn với những đóa hoa sen đủ mầu sắc đẹp đẽ. Các hoa sen
với những cánh vàng, trắng, hồng đang lay động trước gió phơi bầy những
nhụy vàng lung linh múa nhẩy bên trong. Ngước nhìn lên người ấy thấy
tượng Bồ tát Quán âm to lớn trắng tinh đứng trên một tòa sen lớn, gương
mặt thật khả ái và từ bi, tay cầm bình nước như đang tưới những giọt cam
lồ làm xoa dịu mọi khổ đau của chúng sinh. Người ấy cảm thấy lòng thật
khoan khoái, nhẹ nhàng và mơ tưởng đến những cảnh giới trang nghiêm nơi
cõi Tịnh độ.
Trong thí dụ trên mùi hương phảng phất đó dụ như tác dụng của tâm sở Xúc
khiến cho chú tâm mà tập trung đến cảnh hồ sen đẹp đẽ, tươi mát với hình
ảnh từ bi nhân ái của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Sự chú tâm và tập trung đó
là Tác ý. Cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái cùng với sự tưởng tượng đến
cảnh giới hoa sen nơi cõi tịnh độ đó là tác dụng của Thọ và Tưởng. Những
thọ tưởng đó khiến người ấy suy nghĩ và tư duy rồi quyết định tìm hiểu
thêm về Phật Pháp.
Do
sự tìm hiểu đó mà nguời đó trở nên thích thú trong việc nghiên cứu kinh
điển, hiểu rõ và ghi nhớ được những lời Phật dậy. Nhờ đó mà tin tưởng
vào sự thực hành thiền định và lý giải được chân lý của đạo Phật. Đó là
tiến trình của các tâm sở biệt cảnh Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ.
Vì các tâm sở này chỉ xẩy ra một lúc nào đó và trong hoàn cảnh nào đó
chứ không phải luôn luôn tác động nên gọi là tâm sở biệt cảnh.
Năm
món Tâm sở biệt cảnh gồm có: Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ.
Dục
là một sự mong ước sở hữu cảnh giới
mà mình yêu thích. Dục là chỗ nương cho những nỗ lực kiên trì để đạt
được điều mong ước, là căn bản đưa đến sự siêng năng và chuyên cần. Nói
Dục là cội gốc của các pháp vì dục khởi ra mọi sự tạo tác, mọi hành
động, mọi nghiệp lực để đạt được lòng mong cầu. Có yêu thích, có mong
cầu mới có Dục, nên Dục là tâm sở biệt cảnh chứ không phải biến hành.
Thắng giải
là
do sự hiểu rõ về một việc gì dù là ác hoặc thiện khiến cho có quyết định
làm một việc gì mà không bị lay chuyển và thay đổi bởi các ý kiến khác.
Không thể có Thắng giải đối với những sự việc chưa được hiểu rõ hoặc còn
có lòng nghi ngờ. Không có thắng giải khi trong lòng chưa quyết tâm làm
một việc gì. Do đó Thắng giải là tâm sở biệt cảnh chứ không phải biến
hành.
Niệm
là
một sự lập lại, tập quen làm cho nhớ rõ không quên những gì ta đã kinh
nghiệm trải qua. Niệm luôn giữ cho những hiểu biết và kinh nghiệm được
hồi tưởng lại một cách dễ dàng, không thể khởi ra Niệm đối với những gì
chưa kinh nghiệm vì những gì chưa biết, chưa thấy thì dựa vào đâu mà
nhớ. Do đó mà Niệm là tâm sở biệt cảnh chứ không phải biến hành.
Định
làm
cho tâm chú tâm vào một việc gì mà không bị tán loạn. Định là căn bản,
là nơi nương tựa của Huệ. Vì các pháp luôn thay đổi nên muốn đạt được sự
hiểu biết các pháp đó thì phải chuyên tâm vào từng pháp một. Nếu không
chú tâm vào một đối tượng thì không có định nên Định tâm sở là biệt cảnh
chứ không là biến hành được.
Huệ
là sự hiểu biết một đối tượng được quán sát. Huệ làm tiêu
trừ sự nghi ngờ, bất chánh tri. Với Huệ thì mọi sự được giản trạch nghĩa
là được giải nghĩa rõ ràng khiến không còn lòng ngờ vực nữa. Như khi đã
hiểu rõ Phật pháp, ta sẽ dốc lòng, quyết tâm tu trì mà không còn nghi
ngờ gì về những lời dậy của đức Phật nữa. Huệ không thể là biến hành vì
ta không thể có sự hiểu biết về một sự việc nếu sự việc đó chưa được
quán sát và tư duy kỹ càng. Do đó Huệ là tâm sở biệt cảnh.
Mỗi
món tâm sở biệt cảnh này duyên mỗi cảnh khác nhau và hành tướng không
đồng nên năm món này có khi duyên cảnh chỉ khởi lên riêng rẽ một mình,
có khi khởi lên hai thứ một lúc, có khi khởi lên ba thứ một lúc, có khi
khởi lên bốn thứ một lúc, có khi khởi lên năm thứ một lúc nên bài tụng
nói Sở duyên sự bất đồng.
Duyên cảnh chỉ khởi lên một tâm sở như với cảnh thuận chỉ khởi lên tâm
sở dục tức mong cầu. Với việc đã quyết định chỉ khởi tâm sở thắng giải.
Đối với cảnh đã quen thuộc chỉ khởi tâm ghi nhớ tức tâm sở niệm. Đối với
cảnh đang chăm chú chỉ khởi tâm sở định. Với cảnh sở quán chỉ rong ruổi
tìm cầu nên chỉ khởi tâm sở huệ chứ không có định.
Tất cả gồm 5 thứ.
Duyên cảnh mà khởi lên hai loại tâm sở khác nhau như: tâm sở dục và
thắng giải, dục và niệm, dục và định, dục và huệ, thắng giải và niệm,
thắng giải và định, thắng giải và huệ, niệm và định, niệm và huệ, định
và huệ. Tất cả gồm 10 thứ.
Duyên cảnh mà khởi lên ba loại tâm sở khác nhau như: dục, thắng giải và
niệm; dục, thắng giải và định; dục, thắng giải và huệ; dục, niệm và
định; dục, niệm và huệ; dục, định và huệ; thắng giải, niệm và định;
thắng giải, niệm và huệ; thắng giải, định và huệ; niệm, định và huệ. Tất cả có 10 thứ.
Duyên cảnh mà khởi lên bốn loại tâm sở khác nhau như: dục, thắng giải,
niệm và định; dục, niệm, định và huệ; dục, định, huệ và thắng giải; dục,
huệ, thắng giải và niệm; thắng giải, niệm, định và huệ.
Tất cả có 5 thứ.
Duyên cảnh mà khởi đủ năm tâm sở biệt cảnh dục, thắng giải, niệm, định
và huệ thì chỉ có 1 thứ.
Tất
cả gồm 5 trường hợp và có 31 loại kết hợp.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI MỘT
Thiện vị: Tín, Tàm, Quý
Vô
tham đẳng tam căn
Cần, An, Bất phóng dật
Hành xả cập Bất hại.
Dịch là:
Thiện gồm: Tín, Tàm, Quý,
Vô
tham thẩy ba căn
Cần, An, Bất phóng dật,
Hành xả và Bất hại.
Mười một món Tâm sở Thiện chỉ tương ưng với các tâm thiện. Tất cả có 11
thứ: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất
phóng dật, Hành xả và Bất hại.
Tín
là tánh của sự hiểu biết và lòng tin sâu sắc vào phẩm
chất và nghiệp dụng của các pháp mà vui lòng nhẫn chịu theo. Lòng tin
vào các thật tế về lý và sự của các pháp hiện hữu, vào đặc tính và phẩm
chất thanh tịnh của Tam bảo, vào các năng lực của thiện pháp mà khởi tâm
ham muốn, dũng mãnh tu trì để vào được Thánh đạo. Do đó đối trị được tâm
bất tín và giữ được tâm thanh tịnh.
Tàm
là biết xấu hổ với chính mình. Do sự hiểu biết của chính
mình hoặc do giáo pháp đã học được mà đem lòng tôn kính các bậc hiền
thiện và ưa thích việc lành. Xấu hổ với việc làm ác, đối trị tâm không
biết xấu hổ.
Quý
là biết thẹn với người. Tánh của tâm sở này là khi làm
việc ác hay việc gì sai quấy thì hay hổ thẹn với người, do đó mà không
gần ngươi dữ và không làm việc ác, đối trị với tâm không biết thẹn và
ngăn việc làm ác.
Vô
tham, vô sân, vô si
được gọi chung Vô tham đẳng tam căn, là ba thiện căn, là yếu tố
cần thiết để phát sinh điều thiện và đối trị được ba độc tham, sân và
si, là những nguồn gốc của các phiền não.
Cần
là tinh tấn, chuyên cần, siêng năng đoạn các việc dữ và
làm các việc lành. Nghiệp dụng của nó là đối trị sự giải đãi.
An
là khinh an, là trạng thái trầm tĩnh, luôn giữ cho thân
tâm được an nhàn, cởi mơ,û xa lìa những gì rắc rối, thô trược, bực bôi,
khó chịu. Nghiệp dụng của nó là đối trị hôn trầm, giữ thân tâm được an
vui, xa lìa các chướng ngại cho sự thiền định.
Bất
phóng dật
là
sự phối hợp của tinh tấn với ba thiện căn vô tham, vô sân, vô si, xa rời
các pháp ô nhiễm, vun trồng, bồi dưỡng và tu trì các pháp thiện trong
thế gian và xuất thế gian. Nghiệp dụng của nó là đối trị sự giải đãi,
buông lung và phóng túng, luôn nghiêm mật tu trì hầu đạt đạo quả.
Hành xả
là
không chấp trước, giữ cho tâm luôn được yên tịnh khiến được an trú nơi
vô công dụng hạnh, làm mà như không làm, làm điều thiện mà không chấp
trước. Nghiệp dụng của nó là đối trị sự lăng xăng trạo cử, xa lìa mọi
tạp nhiễm khiến tâm được bình lặng trong trạng thái thiền định.
Bất
hại
là
không làm tổn hại đến các chúng sanh khác. Bản chất của nó là vô sân.
Không sân hận nên không làm cho các chúng sanh khác đau khổ hay bị tổn
hại. Vô sân và bất hại là hiển thị của Từ và Bi, sự cứu khổ và ban vui
đến mọi người, lòng vị tha và thương xót khiến đem lại an vui và không
làm tổn hại đến các loài chúng sanh khác.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI HAI
Phiền não vị: Tham, Sân
Si,
Mạn, Nghi, Ác kiến
Tùy
phiền não vị: Phẫn
Hận, Phú, Não, Tật, Xan
Dịch là:
Phiền não gồm: Tham, Sân,
Si,
Mạn, Nghi, Ác kiến.
Tùy
phiền não gồm: Phẫn,
Hận, Phú, Não, Tật, Xan.
Các
phiền não thuộc về Ác nghiệp được chia làm 2 loại là Căn bản phiền
não và Tùy phiền não.
Căn bản phiền
não gồm 6 món là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến. Tùy phiền
não gồm 20 món được chia làm 3 thứ là 10 thứ Tiểu tùy, 2 thứ Trung tùy
và 8 thứ Đại tùy.
Tham
là
tham lam, đắm nhiễm, muốn thủ đắc những gì ưa thích như tiền bạc, sắc
đẹp, danh tiếng, ăn uống và ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy thuộc
ngũ dục). Nghiệp dụng của nó là chướng ngại tánh Vô tham, là nguyên nhân
của khổ đau, khiến bị lôi cuốn trong sanh tử luân hồi.
Sân
là tánh khó chịu, bực mình, ghét giận những gì không vừa
ý, khởi sinh nóng giận và khổ đau khi gặp những chướng ngại. Nghiệp dụng
của nó là làm chướng ngại tánh Vô sân và khởi lên các ác nghiệp gây khổ
não cho chúng sanh khác khiến chìm đắm trong tam giới.
Si
là tánh vô minh mê muội đối với mọi sự lý, không phân
biệt được đúng sai, phải quấy. Nhiệp dụng của nó là làm chướng ngại tánh
Vô si, là nguyên nhân khởi sinh tánh nghi ngờ, tà kiến cùng các căn bản
phiền não khác, khiến cho mê mờ ngụp lặn trong tam giới lục đạo.
Mạn
là tánh cao ngạo, luôn thấy mình hơn người khác. Nghiệp
dụng của nó là làm chướng ngại tánh không ngã mạn, khiến không được
khiêm tốn với người khác, là nguyên nhân của khổ đau, sanh tử luân hồi.
Tánh này sẽ đoạn được khi tu tập đến địa vị Kiến Đạo.
Nghi
là
tánh do dự không quyết định và không phân biệt rõ ràng các nguyên tắc và
đạo lý. Nghiệp dụng của nó là nghi ngờ các thiện pháp khiến các pháp này
không thể sanh khởi được.
Ác
kiến
là
những nhận định và xét đoán nhiễm ô và sai lầm đối với các đạo lý và
nguyên tắc, là những sự hiểu biết không chơn chánh. Nghiệp dụng của nó
là làm chướng ngại các thiện pháp và chân đế, chiêu cảm sự khổ đau trong
sanh tử luân hồi. Ác kiến này lại được chia làm 5 loại:
-
Thân kiến là chấp các uẩn cho là ngã và ngã sở.
-
Biên kiến là chấp đoạn, chấp thuờng gây chướng ngại cho con đường trung
đạo.
-
Tà kiến là kiến chấp sai lầm, không nhận ra được luật nhân quả và sự
thật của mọi sự việc. Thí dụ như mê tín dị đoan.
-
Kiến thủ là chấp các tà kiến, biên kiến và thân kiến là đúng. Không chịu
sửa đổi và không chấp nhận sự thật.
-
Giới cấm thủ là chấp vào các giới cấm sai lầm do tà kiến khiến chịu đựng
khổ đau vô ích. Như mù quáng thực hành những giới cấm của tà đạo.
Do
các Căn bản phiền não trên mà phát sanh 20 thứ Tùy phiền não được nói
đến ở hai câu cuối của bài tụng thứ 12, ở bài tụng thứ 13 và ở hai câu
đầu của bài tụng thứ 14, sẽ được bàn đến ở đoạn sau.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI BA VÀ MƯỜI BỐN
Cuống, Siễm dữ Hại, Kiêu
Vô
tàm cập Vô quý
Trạo cử dữ Hôn trầm
Bất
tín tinh Giải đãi
Phóng dật cập Thất niệm
Tán
loạn, Bất chánh tri
Bất
định vị: Hối, Miên
Tầm, Tứ nhị các nhị.
Dịch là:
Dối, Nịnh và Hại, Kiêu
Vô
tàm và Vô quý
Trạo cử với Hôn trầm
Không tin cùng Giải đãi
Phóng dật và Không nhớ
Tán
loạn, Không chánh tri
Bất
định gồm: Hối, Miên
Tầm, Tứ hai đều hai.
Hai
câu kệ sau của bài tụng thứ mười hai
Tùy
phiền não vị: Phẫn
Hận, Phú, Não, Tật, Xan
đi
chung với bài tụng thứ mười ba và mười bốn ở trên liệt kê 20 món Tùy
phiền não.
Tùy
phiền não gồm có 20 món, chia ra làm 10 món tiểu tùy: Phẫn, Hận, Phú,
Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu; 2 món trung tùy: Vô Tàm, Vô Quý;
8 món đại tùy: Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất
Niệm, Tán Loạn và Bất Chánh Tri.
10
món tiểu tùy:
Phẫn
là
tánh hay tức giận khi gặp điều không vừa ý hoặc khi có ai làm trái ý
mình. Tất cả những lời nói, ý kiến hay hành động của người khác không
hạp với ý mình đều có thể làm mình phiền lòng và giận ghét. Tánh chất
của nó là làm chướng ngại tánh Vô sân. Tánh chất của Phẫn là do Sân mà
ra.
Hận
là sự tiếp nối của Phẫn, là sự kéo dài của sự giận dữ
khiến không quên được những việc không làm vừa ý mình. Nó làm chướng
ngại sự buông xả. Vì không buông xả được nên luôn cảm thấy khổ đau và
phiền não. Tánh chất của Hận cũng do Sân mà ra.
Phuù
là tánh hay che dấu những điều xấu hay ác đã làm của mình vì sợ mất
quyền lợi hay danh dự và thể diện. Nó làm chướng ngại tâm ngay thẳng,
không che dấu và khiến cho luôn luôn bị bức rức, không an tâm. Tánh này
do Tham mà ra.
Não
nghĩa là não loạn do Phẫn, Hận sanh ra, dễ nổi cơn nóng
giận, thịnh nộ khiến có những lời nói thô bạo và hành động tàn ác. Nó
làm chướng ngại tánh không não loạn. Tánh này cũng do Sân mà ra.
Tật
nghĩa là tật đố, đố kỵ, không muốn thấy ai hơn mình. Luôn
chạy theo danh lợi, ghen ghét khi thấy người khác thành công hay làm gì
hay hơn mình. Nó chướng ngại tâm không tật đố và khiến luôn ưu phiền vì
lúc nào cũng muốn hơn người khác. Tánh tật đố là do Tham và Sân sanh ra.
Xan
là tánh bỏn xẻn, xan tham, không san xẻ và giúp đỡ ai.
Tham lam, luôn giấu giếm, bòn góp tài vật. Nó chướng ngại tánh không xan
và lòng từ thiện. Tánh này do Tham mà sanh ra.
Cuống
nghĩa là dối trá, là tánh hay dối gạt, lừa dối để được lợi dưỡng cả về
danh lẫn tài. nó làm trở ngại tánh ngay thẳng. Tánh này do Tham và Si
sanh ra làm cho cuộc sống bị suy đồi, không còn lương thiện. Người luôn
dối trá thì luôn tìm kế để nói dối nên tâm không được an nhiên.
Siễm
là
tánh a dua, nịnh hót, nói quanh co để làm vừa lòng hoặc để tán dương
người khác hầu đem lợi dưỡng cho mình. Tánh này chướng ngại tánh thành
thật, không nịnh hót và làm cho không thể học hỏi và nghe lời chỉ dậy
của người khác. Tánh này do Tham và Si gây ra.
Hại
là tánh hay hại người khác. Không có lòng từ bi và bác
ái, luôn có lòng ác độc, đố kỵ và có ý muốn hãm hại người khác. Tánh này
làm chướng ngại tánh Vô hại. Tánh này do Sân mà ra.
Kiêu
là
coi mình hơn người khác. Tánh này làm trở ngại tánh khiêm nhường, nhường
nhịn. Tánh này do Tham ái mà ra.
2
món trung tùy:
Vô
tàm
là
tánh không biết hổ thẹn với chính mình về những việc xấu, ác, bất thiện
đã làm. Nghiệp dụng của Vô tàm là làm chướng ngại tánh biết hổ thẹn với
chính mình, làm tăng trưởng các điều ác.
Vô
quý
là
tánh không đếm xỉa đến người khác, không biết hổ thẹn với mọi người xung
quanh về những việc ác và bất thiện đã làm. Nghiệp dụng của tánh này là
chướng ngại tánh biết hổ thẹn đối với tha nhân về những việc làm bất
thiện của mình khiến coi thường những người tốt và tăng trưởng các bất
thiện pháp.
8
món đại tùy:
Trạo cử
là
tánh chao đảo, không trầm tĩnh và không giữ tâm được tĩnh lặng. Chướng
ngại cho việc hành xả, khinh an và tu chỉ tức là không thể định tâm
được.
Hôn
trầm
là
tánh hay mệt mỏi, không chú tâm được vào một vấn đề gì. Không hòa hợp
được thân tâm để quán sát và suy tư về một vấn đề gì. Thân tâm luôn
trọng trược, nặng nề, chướng ngại cho sự khinh an, việc tu quán và sự
phát triển trí huệ. Tánh này do Si sanh ra.
Bất
tín
là
tánh không tin vào các pháp lành, tâm bị ô nhiễm không tin ở khả năng
của mình và phẩm chất của các pháp chân thật. Vì không tin vào các pháp
chân thật nên thường hay lười biếng, giải đãi, không tu trì và không
mong cầu giải thoát. Nghiệp dụng của nó là chướng ngại tâm thanh tịnh và
sự tinh tấn.
Giải đãi
là
tánh lười biếng, không chịu tu trì các pháp thiện để xa rời nhiễm ô.
Nghiệp lực của nó là chướng ngại tánh tinh tấn, không lo đoạn ác tu
thiện khiến tăng trưởng tánh nhiễm ô.
Phóng dật
là
tánh phóng túng và buông lung. Không làm việc gì được cẩn thận và không
để ý đến công việc đang làm khiến không thể đoạn được việc ác và trở
ngại cho những việc lành. Nghiệp dụng là làm chướng ngại tánh Bất phóng
dật, làm tăng trưởng việc ác và tiêu trừ việc thiện. Tánh này do giải
đãi và tham, sân, si sanh ra vì khiến không ngăn ngừa được việc ô nhiễm
và không tu tập được pháp thanh tịnh.
Thất niệm
là
tánh hay quên, không nhớ các việc đã trải qua tức các cảnh đã duyên.
Nghiệp lực của nó là chướng ngại Chánh niệm và đưa đến Tán loạn.
Tán
loạn
làm
cho tâm bị rối loạn, không nhất tâm được vào một việc gì, cứ hết duyên
cảnh này rồi duyên cảnh khác. Nghiệp dụng của nó là làm chướng ngại
chánh định và khởi sanh các ác huệ nghĩa là không có trí huệ chân chính.
Bất
chánh tri
là
không hiểu rõ cảnh sở quán, nhiều khi hiểu sai đi khiến trở ngại cho
việc hiểu biết đúng. Nghiệp dụng của nó là chướng ngại chánh tri và là
nguyên do cho sự phạm các việc ác, các giới cấm.
Bây
giờ hãy bàn đến Bốn món Bất Định Tâm Sở laø Hối, Miên, Tầm và Tứ
ở hai câu cuối của bài tụng thứ 14:
Bất
định vị: Hối, Miên
Tầm, Tứ nhị các nhị.
Dịch là:
Bất
định gồm: hối, miên
Tầm, tứ hai đều hai
4 món bất định
tâm sở gồm có Hối, Miên, Tầm và Tứ. Cả hai loại Hối Miên và Tầm Tứ đều
không nhất thiết là thiện hay là ác, có khi là thiện, có khi là ác nên
luận chủ nhấn mạnh là nhị các nhị. Chúng cũng không nhất thiết phải
tương ưng với tất cả các thức tâm vương như năm tâm sở biến hành Xúc,
Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Chúng cũng không nhất định ở một cảnh nào mà
duyên như năm tâm sở biệt cảnh Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ. Vì
vậy chúng được gọi là Bất Định Tâm Sở.
Hối
là hối tiếc những việc ác hay việc thiện đã làm, là cảm
giác sanh ra do tánh không thích những việc làm ác hay là do tánh không
thích việc làm thiện. Nếu hối tiếc những việc ác đã làm thì hối này
thuộc về thiện pháp, nếu ngược lại chỉ hối những việc thiện đã làm thì
hối này thuộc về bất thiện pháp. Nghiệp dụng của nó là làm chướng ngại
việc giữ tâm được an nhiên tức là chướng ngại việc tu chỉ.
Miên
là
tánh làm cho thân bị mệt mỏi, tâm bị chướng ngại, không chú tâm được.
Khi đang làm việc gì, hoặc là khi làm xong việc gì rồi dù là thiện hay
ác mà cứ suy nghĩ, tính toán liên miên, không biết phải làm gì, không
nên làm gì, hoặc là hối tiếc những việc đã làm, cứ ấm ức suy nghĩ tới
lui mãi, tinh thần dễ bị mệt mỏi. Nghiệp dụng của nó là làm chướng ngại
việc tu quán khiến không làm chủ được thân tâm.
Tầøm
là
luôn luôn chạy theo cảnh, hết theo đuổi tìm hiểu việc này đến tìm kiếm
việc khác.
Tứ
là suy nghĩ sâu, theo dõi, truy cập chi tiết vào việc đã
theo đuổi và tìm kiếm lúc đầu. Tứ là sự theo đuổi, dò xét và tìm hiểu
các cảnh một cách sâu xa và tế nhị còn Tầøm thì theo đuổi và tìm kiếm có
tánh chất hời hợt và thô thiển hơn.
Thí
dụ, nếu thấy một cô gái đẹp thì khởi niệm muốn biết tên tuổi của cô ta.
Đó là bắt đầu của sự truy tầm. Sau đó bỏ công theo dõi để biết thêm về
gia thế của cô đó, cô ấy ở đâu, bao nhiêu tuổi, con cái của ai, học
trường nào, sở thích của cô ta, v.v.. thì đó là tiến trình của Tứ.
Nếu
theo đuổi, tìm kiếm và suy nghĩ tính toán về các việc thiện thì hai Tầm
và Tứ này thuộc về thiện pháp, nếu ngược lại chỉ thích tính toán và theo
đuổi những việc có hại cho người khác thì hai pháp này thuộc về bất
thiện pháp. Thí dụ, được người thân dắt đi chùa, từ đó khởi tâm tìm hiểu
về sinh hoạt của chùa, tìm hiểu giáo lý Phật đà, khởi tín tâm, tìm cách
thân cận và học hỏi nơi các vị tu sĩ và thiện tri thức trong Phật giáo
thì đó là sự Tầm Tứ hướng về Thiện pháp. Còn như theo dõi tìm hiểu rõ về
sinh hoạt của một người giầu có nào đó với mục đích làm một kế hoạch để
tống tiền thì sự Tầm và Tứ này thuộc về Bất Thiện pháp.
Tóm
lại hai cặp Hối Miên và Tầm Tứ này tùy theo cái dụng của chúng mà có
thiện và có ác chứ không nhất định phải là ác hay là thiện nên bài tụng
nói nhị các nhị nghĩa là hai đều hai, hai đều hai cả hai pháp này đều có
cả hai tánh thiện và ác, không nhất thiết là thiện cũng không nhất thiết
là ác, cặp tâm sở này khi thì là thiện khi thì là ác tùy theo mục đích,
nghiệp dụng của chúng. Do đó chúng được xếp loại là
Bất Định Tâm Sở.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI LĂM
Y
chỉ căn bản thức
Ngũ
thức tùy duyên hiện
Hoặc câu hoặc bất câu
Như
đào ba y thủy.
Dịch là:
Nương nơi thức căn bản
Năm
thức hiện theo duyên
Hoặc cùng hoặc chẳng cùng
Như
sóng nương nơi nước.
Căn
bản thức tức là thức A lại da được ví như mảnh đất chứa đựng tất cả mọi
loại hạt giống, trong đó gồm có cả hạt giống của các thức khác. Không có
pháp nào hiện khởi được nếu không có hạt giống chủng tử gieo trồng nơi
mảnh đất A lại da thức. Sở dĩ có ngũ thức là vì trong A lại da thức có
các hạt giống thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc giác. Các hạt giống này khi
đủ duyên thì chín mùi chuyển hiện ra ngũ căn và ngũ thức.
Thân người là chánh báo, cảnh giới bên ngoài là y báo. Y báo và chánh
báo là những pháp có thể hình dung ra và cảm thấy được nên được xếp vào
các loại pháp có sắc tướng gọi là Sắc Pháp. Sắc pháp bao gồm cả hình
tướng, mầu sắc, âm thanh, hương, vị và cảm giác. Sắc pháp có 11 món gồm
5 căn và 6 trần.
Năm
căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt và Thân căn. Sáu trần là: Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Nhãn căn
sanh ra là do hai thứ sáng tối đối đãi với nhau mà phát sinh ra cái
thấy. Cái thấy muốn thấy được là phải nương vào bộ phận hay cơ quan nào
đó có khả năng tiếp nhận cảnh giới bên ngoài. Do đó mà chủng tử con mắt
được cấu kết lại trong A lại da thức mà chuyển hiện ra con mắt. Con mắt
này do tứ đại thanh tịnh gồm đất, nước, gió và lửa làm thành. Tứ đại
thanh tịnh được cái thấy huân tập, kết cấu lại làm thành con mắt này có
hình như trái bồ đào.
Sở
dĩ nói tứ đại thanh tịnh vì tứ đại này không thô thiển như đất, nước,
gió và lửa mà ta thường nhận biết. Tứ đại này là tứ đại nhu nhuyễn, đã
cấu tạo nên căn thân chánh báo này.
Tương tự như vậy, nhĩ căn được kết cấu lại do sự động và tĩnh đối
đãi với nhau mà phát sinh cái nghe. Cái nghe này chuyển hiện thành sắc
tướng. Sắc tướng này do tứ đại thanh tịnh được huân tập, cuộn lại thành
cái tai có hình như lá sen non.
Tương tự như vậy, cái ngửi phát sinh do sự thông bít đối đãi nhau mà
chuyển hiện thành cái mũi tức tỷ căn, có hình như hai ngón tay rũ
xuống.
Cũng vậy, hai thứ nhạt và có vị đối đãi nhau mà phát sinh cái nếm, rồi
chuyển hiện thành cái lưỡi tức thiệt căn, hình thể như mặt trăng
mới khuyết.
Hai
thứ ly và hợp đối đãi nhau mà phát sinh cái xúc chạm rồi chuyển hiện
thành sắc tướng của thân căn, có hình như trống cơm.
Tất
cả ngũ căn đó nguồn gốc đều do tứ đại thanh tịnh cấu kết và hiện
ra bên ngoài nên gọi là Phù trần căn. Các căn phù trần này luôn
luôn rong ruổi chạy theo Sắc, Thanh, Hương, Vị và Xúc rồi
đưa các dữ kiện nhận được lên bộ óc qua trung gian các giây thần kinh.
Bộ óc và các giây thần kinh đó gọi là tịnh sắc căn vì chúng nằm
ẩn trong thân.
Nếu
chỉ đơn độc các căn làm việc riêng rẽ thì các cảnh giới ghi nhận chỉ đơn
thuần là những cảm nhận thôi chứ không thể biết chúng là gì, hình ảnh
mầu sắc ra sao; các tiếng động phát ra như thế nào, dễ chịu hay không dễ
chịu; hương vị ra sao, thơm hay thối, ngọt bùi hay cay đắng; hình dáng
ra sao, lớn hay nhỏ, vuông hay tròn, cứng hay mềm, trơn láng hay sần
sùi.
Mắt
chỉ thấy các hình ảnh, mầu sắc thay đổi mà không biết đó là mầu xanh của
mặt hồ phẳng lặng, là chuyển động của những làn sóng bạc đầu, là những
ngọn núi nhọn cao vút hay là những cánh đồng thấp hoang vắng, là những
mái chùa cong đỏ hay là những nóc nhà bằng phẳng xám xịt của khu phố
chợ, là thành Càn Thát Bà xa mờ ngoài biển khơi hay là ánh dương diệm
nơi sa mạc nóng cháy.
Tai
chỉ phân biệt có tiếng động hay không có tiếng động mà không biết đó là
tiếng kèn hay tiếng trống, tiếng gõ mõ tụng kinh hay tiếng lên đồng lên
bóng, tiếng thuyết pháp của bậc thiện tri thức hay là lời phỉnh gạt của
tà ma ngoại đạo, tiếng chuông chùa ban mai hay tiếng gà gáy buổi sáng,
tiếng sóng biển ì ầm hay tiếng vọng về từ rừng sâu núi thẳm, tiếng nổ
của bom đạn pháo kích trong thời chiến tranh hay là tiếng sấm chớp vang
rền trên trời.
Mũi
chỉ phân biệt có mùi hay không có mùi chứ không biết đó là mùi thơm dịu
của hoa sen hay mùi hôi sình của bùn lầy, là mùi thanh tịnh của trầm
hương hay mùi ô uế của rác rến, mùi thơm của phấn hoa hay mùi hôi của
hành tỏi, mùi khét của củi cháy hay mùi ô nhiễm của dầu xe.
Lưỡi chỉ phân biệt có vị hay không có vị chứ không biết đó là vị ngọt
của đường phèn hay vị đắng của thuốc, là vị ngon của đề hồ hay vị nhạt
nhẽo của cơm dư cháo thừa.
Thân chỉ biết có đụng chạm hay không có đụng chạm chứ không phân biệt
được đó là sự mềm mại của nhung lụa hay là sự ve vuốt của đôi bàn tay
dịu dàng, không biết đó là cái trơn của mặt gỗ bóng láng hay là cái nhám
của những tảng đá sần sùi, không biết cái nóng là do mặt trời hay do bếp
lửa, không biết được cảm giác đói khát là do lâu ngày không ăn uống hay
là sự thèm khát khi thấy những vật ngon của lạ.
Sở
dĩ biết được các đối tượng trần cảnh Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc là vì có
các dây thần kinh chuyển những dữ kiện nhận được từ phù trần căn
ở bên ngoài vào trung tâm thần kinh dọc theo đường xương sống dẫn vào
não bộ tịnh sắc căn bên trong, rồi tác động lên các thức tương
ưng như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân thức.
Ý
thức
lấy các dữ kiện của ngũ thức
phối hợp lại rồi so sánh với các dữ kiện trong A lại da thức do Mạt na
thức chuyển ra mà biết được toàn thể tánh chất của đối tượng nhận thức
là gì. Đối tượng nhận thức này gọi là pháp trần.
Khi
mà các đối tượng trần cảnh không còn đối diện Ngũ căn nữa mà Ý thức nhớ
lại được hình ảnh đã nhận thức thì hình ảnh này được gọi là lạc tạ
ảnh tử tức là cái bóng bị rớt lại mà Duy thức xếp loại là độc ảnh
cảnh, cảnh duy nhất chỉ còn ghi lại trong trí nhớ.
Các
hình ảnh hiện ra sai khác khi tâm thức bị tán loạn do sự hốt hoảng hay
quá sợ hãi hoặc quá mong cầu như hình ảnh sóng nắng mà tưởng là ao hồ,
sợi dây gai tưởng là con rắn được gọi là Độc Ảnh Cảnh vì là hình
ảnh tưởng tượng trong tâm thức mà lầm nhận là đối tượng trần cảnh ở
ngoài.
Các
hình ảnh thật nhỏ nhiệm như vi trần được gọi là cực lược sắc, xa
xôi mờ mờ ảo ảo được gọi là cực hánh sắc.
Ngoài ra còn có định quả sắc và vô biểu sắc.
Định quả sắc
là
hình ảnh hiện ra trong khi thiền định tỷ như ngài Nguyệt Quang đồng tử
quán nước trong kinh Lăng Nghiêm. Ngài quán tánh nước trong thân không
ngăn ngại lẫn nhau, từ nước bọt cho đến tất cả các thứ tân dịch như tinh
huyết, đại tiện, tiểu tiện, xoay vần trong thân đều là tánh nước. Quán
thấy các nước trong thân và trong các Hương Hải Thủy đều bình đẳng như
nhau không sai khác. Ngài quán đến nỗi một đệ tử ở ngoài cửa sổ nhìn vào
chỉ thấy đầy nước ở trong thất. Đệ tử này còn nhỏ dại không biết gì bèn
lấy một miếng ngói thẩy vào cho phát ra tiếng. Sau khi xuất định ngài
Nguyệt Quang thấy đau nhói trong tâm. Ta hãy nghe ngài kể sự việc tiếp
sau đó cho đức Thế Tôn: Con tự suy nghĩ nay mình đã được đạo A La Hán,
từ lâu không còn nhân duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày hôm nay lại
thấy đau trong tâm, không lẽ bị thối thất chăng. Khi ấy đệ tử của con đi
đến kể lại cho con những việc như trước, con bảo nó sau này nếu thấy
nước thì nên mở cửa vào phòng lấy miếng ngói trong nước ấy đi. Đệ tử
vâng lời con bảo. Sau khi con nhập định, nó lại thấy nước và miếng ngói
rõ ràng, nó liền mở cửa lấy miếng ngói bỏ ra ngoài. Sau khi xuất định
thân thể con được trở lại như cũ.
Vô
biểu sắc
là
một thứ sắc thể không biểu hiện ra ngoài của giới thể có công năng bảo
vệ cho các tu sĩ khi đã thọ giới, phòng ngừa sự sai trái của thân và
khẩu. Người thọ giới phát nguyện từ nay về sau quyết không phạm các điều
tội ác, từ đó niệm niệm lúc nào cũng đều ngăn chặn không cho phạm tội ác
ví như bờ đê ngăn chặn không cho nước tràn vào ruộng vườn.
Năm
thức này dù nương theo A lại da thức nhưng không phải lúc nào cũng hiện
khởi được. Muốn hiện khởi phải hội đủ các yếu tố nhân duyên, nên bài
tụng nói Ngũ thức tùy duyên hiện.
Nhãn thức muốn hiện khởi là phải hội đủ 9 duyên. Đầu tiên phải có mắt
tức nhãn căn, phải có cảnh để nhìn, cảnh muốn được mắt
nhìn thấy thì phải có khoảng cách tức hư không, phải có ánh
sáng và sự tác ý. Ngoài ra phải có ý thức để phân biệt
đó là cảnh gì, xấu hay đẹp, mầu sắc ra sao. Nhãn thức phải nương vào
Nhãn căn là sự chuyển hiện dị thục của chủng tử thấy đã được huân
tập chín mùi nơi a lại da thức và mạt na thức.
Tóm
lại nhãn thức muốn được hiện khởi là phải có đủ 9 Duyên là: Căn, Cảnh,
Hư không, Ánh sáng, Tác Ý, Phân biệt ý tức Ý thức, Nhiễm ô ý tức Mạt na
thức, Căn bản ý tức A lại da thức và Chủng tử.
Nhĩ
thức phải hội đủ 8 Duyên vì không cần Ánh sáng.
Ba
thức Tỷ, thiệt và thân thức chỉ cần 7 Duyên vì không cần 2 duyên Hư
không và Ánh sáng.
Ý
thức chỉ cần 5 Duyên: Căn tức Mạt na thức, Cảnh, Tác Ý, Căn bản ý tức là
A lại da thức và Chủng tử vì không cần 2 duyên là Hư không và Ánh sáng.
Sở dĩ bỏ 2 duyên mà còn 5 duyên vì Ý thức tự nó là Phân biệt ý rồi nên
không tính, Mạt na thức là căn của Ý thức nên cũng không tính. 9 duyên
mà không tính 4 duyên hư không, ánh sáng, mạt na thức và phân biệt thức
thì còn lại 5 duyên.
Mạt
na thức cần có 3 Duyên là A lại da thức, Tác ý và Chủng tử. Ở đây A lại
da thức vừa là Căn vừa là Cảnh của Mạt na thức vì Mạt na thức luôn nương
nơi A lại da thức và lấy A lại da thức làm cảnh đối tượng sở duyên, mạt
na thức không cần ý thức vẫn hiện khởi được vì nó là căn của ý thức.
A
lại da thức thì luôn hiện khởi.
Trong tám thức trên, A lại da thức và Mạt na thức thường hiện khởi và có
khả năng dẫn dắt quả báo đời sau nên gọi xếp loại là hằng hành. A
lại da thức ví như cái kho chứa đủ mọi hạt giống. Tất cả mọi hạt giống
chủng tử và hiện hành đều được chứa vào trong đó mà không phân biệt là
tốt hay là xấu. Tùy theo sự chiếu soi, so đo và chấp trước của Mạt na
thức mà các hạt giống đó sanh diệt, tăng trưởng và chuyển biến. Sự chiếu
soi và chấp trước của Mạt na thức làm cho A lại da thức càng ngày càng
nhiễm ô nên mạt na thức còn được gọi là thức nhiễm ô hằng hành.
Sáu
thức trước thì tùy theo duyên, khi thì hiện khởi, khi thì không hiện
khởi, khi thì chung, khi thì riêng nên được xếp loại là bất hằng hành.
Trong bài tụng bồ tát Thế Thân viết Hoặc câu hoặc bất câu là ý
muốn nói cái tánh chất bất hằng hành này, khi thì hiện khởi, khi thì
không hiện khởi, tùy theo có hội đủ các duyên cần thiết hay không. Thức
nào đòi hỏi nhiều điều kiện duyên cần thiết để hiện khởi thì càng khó
sanh khởi. Do đó mà Tiền Ngũ thức sanh khởi thì ít và không sanh khởi
thì nhiều. Khi đủ duyên sanh khởi thì hoặc các thức này có thể sanh khởi
riêng rẽ hoặc là cùng sanh khởi, cho nên nói hoặc cùng hoặc chẳng cùng.
Thí
dụ hằng ngày ta vẫn lái xe ngang qua một vườn hoa nhưng nếu không để ý
thì ta cũng không biết được con đường mình hằng đi qua đó có một vườn
hoa tuyệt đẹp. Chỉ cần thiếu một duyên là Tác Ý thì nhãn thức không nhận
biết được cái vườn hoa này, mặc dù nó nằm sờ sờ ra đó. Nếu để ý thì ta
thấy quả là một vườn hoa hồng tuyệt đẹp. Và hôm nào đẹp trời và có gió
thổi hiu hiu thì ta còn ngửi được mùi thơm của muôn hoa hòa với tiếng
chim hót gần đó. Trong thí dụ này thì có sự hiện khởi của nhãn thức với
cảnh đẹp của bầu trời và vườn hoa, có sự hiện khởi của thân thức với cảm
giác gió hiu hiu thổi, có sự hiện khởi của tỷ thức và nhĩ thức với mùi
thơm của muôn hoa và tiếng chim hót, hẳn đã nói rõ sự hiện khởi và không
hiện khởi, sự đồng thời và không đồng thời hiện khởi của năm chuyển thức
trước.
Tất
cả những hiện khởi của năm thức nương nơi A lại da thức cũng ví như sóng
nương nơi nước, do theo duyên có gió nhiều ít mà nổi lên ào ạt hay nhẹ
nhàng nên bài tụng nói Như đào ba y thủy.
Thức thứ sáu tức Ý thức vì đòi hỏi ít duyên nên luôn luôn hiện
khởi trừ khi sanh ở Vô Tưởng Thiên của cõi Sắc, khi nhập Vô
Tưởng Định hay Diệt Thọ Tưởng Định, khi ngủ say mà không mộng
mị hay khi bị chết ngất. Dưới đây là bài tụng thứ mười sáu trong Tam
Thập Tụng của bồ tát Thế Thân.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI SÁU
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh Vô Tưởng thiên
Cập
Vô Tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt.
Dịch là:
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh trời Vô Tưởng
Và
hai định Vô Tâm
Ngủ
say và chết ngất.
Năm
trường hợp mà Ý thức không hiện khởi là Sanh cõi trời Vô Tưởng, nhập hai
định Vô Tâm là Vô Tưởng Định và Diệt Tận Định (hay là Diệt thọ tưởng
định), Ngủ Say không mộng mị và Chết Ngất.
Cõi
trời Vô tưởng là cõi trời ở đó mọi tư tưởng đều đã được diệt. Người tu
định lấy sự hủy diệt tư tưởng làm chính thì sau khi chết sẽ được tái
sinh lên cõi trời Vô Tưởng thuộc Sắc Giới. Cõi trời này được đặt tên như
vậy vì ở đó các Thức Bất Hằng Hành (sáu thức trước) đều đã đoạn do sự
lấy việc diệt tưởng làm chính. Vì thế sáu chuyển thức đều không hiện
khởi ở cõi trời Vô tưởng.
Hai
định vô tâm
gồm có Vô Tưởng Định
và Diệt Tận Định.
Hai định này gọi là Định Vô Tâm vì không có sự hiện khởi của sáu thức
trước.
Vô
tưởng định
lấy
sự diệt tưởng làm chính.
Diệt tận định
là
cái định diệt được cả thọ lẫn tưởng còn gọi là Diệt thọ tưởng định.
Ở
trong các định này thì sáu thức tâm vương và tâm sở đều không hiện
khởi.
Thùy miên và muộn tuyệt
là
trạng thái ngủ say và ngất sỉu (chết ngất) quá trầm trọng khiến sáu thức
trước không còn hoạt động được nữa. Đó là trạng thái ngủ quá mê mệt
không có một chút mộng mị gì cả mà ta thường nói ngủ say như chết và
trạng thái đau đớn hoặc bị kích động quá trầm trọng khiến sáu thức trước
không thể hoạt động phối hợp với thân được nữa như trường hợp bị tai nạn
đau đớn quá sức, cười hoặc khóc quá độ, bị cảm sốt nặng, vân vân,...
Cả
ba thức năng biến A Lại Da thức, Mạt Na Thức và Tiền Lục Thức cùng các
Tâm Sở của các thức đó đều là chuyển biến của Chân Tâm. Vì vô minh chấp
trước nên Chân Tâm chuyển biến thành Tâm Thức và phân ra thành Kiến phần
và Tướng phần.
Kiến phần là Năng phân biệt vì nó nhận ra Tướng phần. Tướng phần là Sở
phân biệt vì nó là đối tượng của Kiến phần. Ngoài Kiến phần và Tướng
phần thì không có gì hiện hữu. Cả Kiến phần lẫn Tướng phần đều không có
thật vì chỉ là chuyển biến của Tâm thức mà thôi.
Bồ
tát Thế Thân đã diễn tả ý trên trong bài tụng thứ mười bẩy trong Duy
Thức Tam Thập Tụng:
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI BẨY
Thị
chư thức chuyển biến
Phân biệt, sở phân biệt
Do
thử, bỉ giai vô
Cố
nhất thiết Duy Thức.
Dịch là:
Tất
cả thức chuyển biến
Phân biệt, bị phân biệt
Do
kia, đây đều không
Nên
tất cả Duy Thức.
Chân Tâm bị chiếu soi chuyển biến thành Kiến phần và Tướng phần. Các
thức Tâm Vương và Tâm Sở đều là chuyển biến của Kiến phần và Tướng phần.
Các thức Tâm Vương và Tâm Sở tiếp tục chuyển biến, cứ hết phân biệt rồi
lại bị phân biệt, trùng trùng duyên khởi mà chuyển hiện thành Ngã và
Pháp.
Tất
cả những phân biệt và bị phân biệt đó đều là không vì đều là sự chuyển
hiện nơi tâm thức. Các pháp đều do tâm mà biến hiện ra, nhất thiết
pháp duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Không có gì hiện hữu ngoài
tâm thức nên nói tất cả đều duy thức. Trong kinh thường nói là tam
giới duy tâm, vạn pháp duy thức cũng là ý nghĩa của câu
Cố nhất thiết duy thức.
Hãy
nghe Bồ tát Hạnh Lâm thừa oai đức của Phật nói kệ tại hội Hoa Nghiêm:
Tâm
như nhà họa sư
Hay
vẽ những thế gian
Ngũ
uẩn từ tâm sanh
Không pháp gì chẳng tạo
....................
Nếu
người muốn rõ biết
Tất
cả Phật ba đời
Phải quán pháp giới tánh
Tất
cả Duy Tâm Tạo.
Tất
cả các pháp bao gồm thân tâm và thế giới đều từ tâm sanh. Không gì là
không do tâm tạo ra nên các pháp được ví như những hình ảnh do nhà họa
sư vẽ ra. Tất cả đều là huyễn, đều không thật. Nếu như muốn biết tánh
chân thật, không sanh, không diệt, vượt ngoài không gian và thời gian
thì phải luôn luôn quán tất cả các pháp đều do tâm sanh.
Loài người là biểu hiện của một loại chúng sanh có đầy đủ muôn loại hạt
giống tiềm ẩn sẵn sàng để phát triển, có một khả năng nhận biết và có
thể quyết định điều muốn làm và không muốn làm. Con người đã biểu hiện
được cái lý Duy Thức, cái lý Nhất Thiết Pháp Duy Tâm Tạo, một cách cụ
thể.
Bởi
sự mong muốn tìm hiểu và chế ngự thiên nhiên mà con người đã tiến bộ từ
một đời sống man khai, bộ lạc đến một đời sống khoa học tân tiến ngay
nay. Với sự quyết tâm và mong muốn, con người đã một phần chế ngự được
thiên nhiên, đã chế tạo những phương tiện chuyên chở cực kỳ mau chóng từ
nưóc này sang nước khác, từ đại lục này sang đại lục khác. Không những
thế mà con người còn chế tạo được những vệ tinh thám hiểm không gian, đã
đáp xuống Nguyệt cầu; chế tạo được những viễn vọng kính nhìn xa cả triệu
triệu năm ánh sánh để thấy được thế giới vũ trụ bao la với hằng tỷ tinh
tú và hành tinh, thấy được ngoài dẫy ngân hà này có dẫy ngân hà khác,
ngoài vũ trụ này có vũ trụ khác; chế tạo được những kính siêu hiển vi để
nghiên cứu những vật chất, những tế bào và những vi khuẩn nhỏ nhiệm vi
tế; phát minh ra được hệ thống điện toán cùng mạng lưới thông tin giao
lưu khiến lưu trữ được hằng tỷ tỷ dữ kiện, liên lạc và trao đổi tin tức
với tất cả các nơi trên thế giới, giữa các vệ tinh ngoài vũ trụ trong
không đầy một tích tắc; thấy được những điểm tương đồng cũng như những
dị biệt của các chủng loài trong các cõi nước và thế giới khác nhau;
thấy được những chuyển động muôn hình vạn trạng cực kỳ mau lẹ mà lại chu
biến lưu thông không ngăn ngại của các tinh cầu.
Quả
thật những gì Thế Tôn nói khi xưa thật khó hiểu, nay đều đã được kiểm
chứng. Chẳng hạn như Thế tôn đã nói trong bát nước có vô lượng chúng
sanh, ngày nay ta đã biết trong bát nước có vô số vi khuẩn; Thế tôn nói
tất cả tam thiên đại thiên thế giới đều chứa trong một hạt cải thì bây
giờ với khả năng vi tính chúng ta có thể chứa cả tỷ tỷ dữ kiện vào trong
một con chip nhỏ.
Những sự hiểu biết và phát minh vĩ đại đó chỉ do hướng ngoại tìm cầu.
Chỉ hướng ngoại tìm cầu mà đạt được những thành quả như vậy. Thì nếu một
người đủ tín tâm xoay ngược vào tự tánh, xuyên qua năm làn mây mờ của
ngũ ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đi sâu vào biển tâm thức, phá vỡ
được những phiền não vô minh có từ vô thủy thì chắc rằng sự đột biến
bùng nổ sẽ dẫn tới một cảnh giới mới vô cùng vĩ đại. Một cảnh giới mà
không một lời nói và văn tự nào có thể diễn tả được, một cảnh giới phi
thời gian và phi không gian, một cảnh giới của vô lượng quang và vô
lượng thọ bất khả tư nghì. Đó là cảnh giới vô biên giới, vô ngằn mé và
bất sanh bất diệt của Chân Không Diệu Minh, của Chơn Tâm
Thường Trú, của Bổn Nguyên Phật Tánh, của Pháp Thân Thanh
Tịnh, của Như Lai Tạng Trang Nghiêm,v.v...
Muốn trở về với Chân Tánh Bổn Nguyên Thanh Tịnh thì phải nương vào Thân
Xác Thô Kệch này, là hiện tướng của vô lượng những quang minh đã bị lưu
ngại cô động lại. Phải dựa vào Năm Giác Quan Thô Phù của nó gồm Mắt,
Tai, Mũi, Lưỡi, Thân để quan sát và cảm nhận các cảnh giới Trần Cảnh bên
ngoài mà ý thức được rằng các đối tượng trần cảnh này chỉ là cảnh không
thật có, không có tự tánh, chỉ nương nhau mà hiện hữu và không thường
còn. Phải trở về với kinh điển để học hỏi những điều thâm sâu bất khả tư
nghì của bậc Giác Ngộ Toàn Chân Toàn Giác. Thấy rõ các cảnh giới đều do
Y Tha Khởi, bởi cái này có nên cái kia có, bởi cái này sinh nên
cái kia sinh, bởi cái này không nên cái kia không, bởi cái này diệt nên
cái kia diệt. Biết được tất cả đều nương nhau mà giả lập, không thường
còn, đều biến chuyển theo luật nhân quả và lý nhân duyên. Nhờ hiểu biết
như vậy mà tinh tấn tu trì, giữ gìn giới hạnh, thực hành thiền quán, xa
rời những Biến Kế Sở Chấp của chấp ngã và chấp pháp, xa rời những
chướng ngại của phiền não và của tri kiến thường tình, trở về được cái
Viên Thành Thật tức là cái chân thật bất sinh bất diệt của Bản
Tánh Chân Như.
Chương này sẽ nói sâu về các loại duyên, cảnh và lượng thường dùng trong
Duy Thức Học. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn thế nào là nhân duyên, thế nào là
sở duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, đẳng vô gián duyên; thế nào
là đới chất cảnh, độc ảnh cảnh, tánh cảnh; thế nào là tự chứng phần,
chứng tự chứng phần; thế nào là hiện lượng, tỷ lượng và phi lượng.
Khi
khởi vọng niệâm chiếu soi là lúc gieo vào tâm thức một chủng tử mới,
chủng tử này chuyển biến và hiện khởi thành đối tượng đuợc gọi là hiện
hành. Các chủng tử và hiện hành cứ huân tập ra vô nơi tâm thức, khi thì
là nhân chủng tử, khi thì là quả hiện hành. Chủng tử diệt thì khởi sanh
hiện hành, hiện hành diệt thì khởi sanh chủng tử, những sự sanh diệt này
nói thì lâu nhưng xẩy ra thì chớp nhoáng được duy thức gọi là
sát na sanh diệt.
Để
đưa ra một hình ảnh cụ thể về việc chủng tử sinh hiện hành và hiện hành
sinh chủng tử, thiền sư Thanh Từ có nói một ví dụ trong khi thuyết giảng
về kinh Hoa Nghiêm. Tỷ như ta lấy một nắm hạt giống của cây mắc cở rải
trên một mảnh đất hoang. Hạt giống này sẽ sanh ra cây mắc cở. Cây mắc cở
giống như những cây cỏ gai, thường thấy mọc nơi những cánh đồng hoang ở
Việt Nam, lá như lá me nhưng nhỏ hơn nhiều, bình thường khi có ánh mặt
trời thì lá nở xòe ra nhưng khi ta đụng vào thì lá cụp lại nên gọi là
cây mắc cở. Chỉ một thời gian ngắn cây mắc cở trổ hoa rồi trở thành hạt
mắc cở. Những hạt mắc cở này rơi xuống đất và chẳng bao lâu cả mảnh đất
hoang nói trên biến thành một rừng cây mắc cở.
Những hạt mắc cở ví như những hạt giống chủng tử nơi A lại da thức. Hạt
giống được huân tập và chuyển biến thành hiện hành ví như hạt mắc cở khi
rải xuống đất thì ăn rễ, nẩy mầm rồi tăng trưởng thành ra cây mắc cở.
Cây mắc cở lại trổ ra hạt mắc cở là dụ cho hiện hành sanh chủng tử. Và
cứ như thế sanh diệt chuyển biến tương tục, cây mắc cở nở hoa, hoa diệt
sanh ra hạt, hạt chết rớt xuống thành mầm mắc cở, mầm tăng trưởng trở
thành cây mắc cở, các chuyển biến cứ như vậy như vậy chuyển biến thành
cả rừng mắc cở. Các mầm mống, thân lá, hoa và hạt mắc cở đó khi thì là
nhân, khi thì là quả, nói theo duy thức học thì các thứ này khi thì là
chủng tử khi thì là hiện hành. Tất cả mọi sự chuyển biến nơi A lại da
thức cũng tương tự như vậy.
Các
chủng tử và hiện hành cứ trùng trùng duyên khởi, sanh diệt và tăng
trưởng một cách tương ưng, tương duyên, tương tức và tương tục. Từ một
trở thành nhiều, các chủng tử và hiện hành càng ngày càng làm các quang
minh nơi tâm thức bị lưu ngại, trì trệ và thô kệch thêm. Từ đó bắt đầu
một dòng nghiệp lực với tất cả những giao thoa trộn lẫn những chấp trước
có không, yêu ghét, thiện ác kèm theo vô lượng những cảm ứng vi tế phức
tạp làm nhân duyên cho nhau, khiến cho chân tâm thanh tịnh khi xưa bị
vọng tưởng phân biệt làm vẩn đục và chuyển hiện ra căn thân và thế giới
mà chúng ta đang hiện hữu.
Các
chủng tử khi đủ duyên thì chuyển biến ra hiện hành. Chủng tử là nhân,
hiện hành là quả. Quả hiện hành này do nhân đã hội đủ các duyên nên
chuyển biến và hiện khởi nên được gọi là Sở duyên. Sở duyên này
lại trở thành nhân, và khi có đủ duyên mới thì chuyển biến thành một
hiện hành mới. Hiện hành mới này được gọi là Sở duyên duyên
của chủng tử đầu tiên. Ví dụ như cây lúa khi hội đủ các duyên như
đất đai, phân bón, mưa thuận, gió hòa, có người săn sóc nhổ các cây cỏ
hoang dại thì sau một thời gian sẽ tăng trưởng chuyển biến và trổ ra
những hạt lúa. Những hạt lúa này là sở duyên của cây lúa. Những hạt lúa
này khi hội đủ các duyên khác như có người gặt đem về đập ra thành thóc,
rồi dã ra thành gạo hay là xay ra thành bột thì những thóc đó, những gạo
đó hay những bột đó gọi là sở duyên duyên của cây lúa.
Các
nhân duyên khi thì thuận, khi thì nghịch. Khi thuận thì tăng trưởng,
khi nghịch thì héo tàn, khô chết. Khi thuận thì gọi là Thuận tăng
thượng duyên, khi nghịch thì gọi là Nghịch tăng thượng duyên.
Các
nhân duyên nơi tâm thức thì trùng trùng duyên khởi, khi thì là sở duyên,
khi thì là sở duyên duyên, cứ sát na loé lên rồi chợt tắt, quay cuồng
liên miên bất tận không bao giờ ngưng nghỉ. Sự liên tục miên viễn, loé
lên và chợt tắt không ngưng nghỉ đó gọi là Đẳng
vô gián duyên.
Các
tiến trình nhân duyên nơi tâm thức cứ tiếp tục triền miên cho đến khi
chín mùi thì chuyển hiện ra cái thế giới và chúng sanh chập chùng duyên
khởi này. Duy thức gọi thế giới và chúng sanh đầy mê vọng, điên đảo và
hạn hẹp này là cảnh giới đới chất hoặc là Đới chất cảnh. Đới có
nghĩa là ngăn ngại, là bị bao lại.
Vì
chân tâm bị vẩn đục nên các cảnh giới đều bị thấy một cách méo mó không
còn trung thực nữa, ví như các cảnh giới bị nhìn qua một cặp kính màu,
nếu đeo cặp kính mầu đỏ, cảnh giới sẽ hiện ra đỏ, nếu đeo cặp kính màu
xanh thì cảnh giới sẽ hiện ra mầu xanh. Tất cả những nhận thức và phân
biệt nơi tâm thức đều vì lý do này hay lý do khác bị biến đổi đi, không
còn chân thật nữa được duy thức gọi là Biến kế
sở chấp.
Trong cảnh giới chập chùng điên đảo này ta đã bị chìm đắm trong mê đồ ảo
phố, không biết ta là ai, ta từ đâu đến và ta sẽ đi về đâu? Đâu là chân
lý, và ta phải làm gì? Thế nào là đúng, thế nào là sai? Và cứ như thế,
trăm nghìn vạn ức câu hỏi không giải đáp khiến ta chuếnh choáng, tay cầm
bầu rượu lắc lư, say trong giấc mơ tiên, lảo đảo trong bản luân vũ triền
miên, không biết đâu là mơ đâu là thật. Khi thì lấy giấc mơ để luận cảnh
giới, khi thì lấy cảnh giới để luận giấc mơ. Trong Nam Hoa Kinh, Trang
tử viết không biết ta mơ thấy thành bướm hay là bướm mơ thấy thành ta.
Vì
một niệm mê vọng thôi, mà cái tâm thể uyên nguyên, bất sanh bất diệt đó
bị nhiễm ô. Rồi những nhiễm ô cứ tăng trưởng, huân tập không ngưng nghỉ,
tạo thành nghiệp nhân, cho đến khi đầy đủ nhân duyên thì chín mùi, cấu
kết thô kệch lại và chuyển biến thành một thế giới có ngằn mé, có sanh,
có diệt đới chất cảnh này. Chỉ vì một niệm bất giác mà khởi ra trùng
trùng những điên đảo biến kế sở chấp, khiến cho cái tâm thể uyên nguyên
này tách ra thành kiến phần và tướng phần. Kiến phần trở thành cái ta
tức là cái ngã này và tướng phần trở thành cái thế giới tức là cái pháp
này.
Khi
chưa giác ngộ thì ta không thể nào tin được đó là hai khía cạnh của tâm
thức, người bình thường chỉ thấy tâm ở trong ta và thuộc về ta, thế giới
và mọi loài là những vật thể bên ngoài, không phải là ta và cũng không
phải trong tâm. Ta có thể là sở hữu chủ của một cõi nước, một làng xã,
một số đền đàì, dinh thự, một vài nhánh sông, một vài bãi biển, v.v...,
nhưng những vật sở hữu này không phải là ta và rõ ràng chúng ở ngoài
tâm của ta.
Thật ra ta và thế giới không phải là một nhưng cũng không phải là hai.
Nếu là một thì sao không gọi ta là thế giới, và nếu là hai thì tại sao
ta và thế giới không thể hiện hữu tách rời khỏi nhau. Nếu tách ta ra
ngoài thế giới thì làm sao ta biết có thế giới. Và nếu thế giới không có
ta thì thế giới chỉ như lông rùa, sừng thỏ. Ta và thế giới ví như mặt
trái và mặt phải của đồng tiền. Mặt trái và mặt phải không thể hiện hữu
tách biệt khỏi đồng tiền và cả hai mặt trái phải này đều có đồng một
thể, thể vàng hay thể đồng của đồng tiền. Ta và thế giới này cũng vậy
thôi. Ta và thế giới tức là ngã và pháp chẳng phải khác, chẳng phải là
chẳng khác và đều chung một bản thể, đó là tâm thức, một trạng thái vẩn
đục của chân tâm.
Như
trên đã nói, chỉ vì mê vọng mà tâm thể uyên nguyên bị chia thành kiến
phần và tướng phần. Kiến phần là phần năng thấy và tướng phần là phần bị
thấy tức là sở thấy. Khi ta thấy được đối tượng là ta biết được ta đang
thấy. Cái biết được ta đang thấy đó duy thức gọi là Tự chứng phần.
Nếu
tu thiền quán, quán chiếu ngược vào tự tâm, phá tan những mê vọng của
phiền não chướng và sở tri chướng, thâm nhập được tự chứng phần, tiếp
tục tu trì phá trừ được các mây mù ngăn che của ngũ ấm, sống được trong
tánh giác, có được một sự hiểu biết chân thật, sẽ thấu suốt được cái tự
chứng phần, đó là sự Chứng tự chứng phần, biết được nơi nương dựa
của Tự Chứng Phần. Và cứ đi ngược mãi đến khi phá hết những mê vọng thì
ta trở về được cái chân tâm bản hữu thường còn bất biến. Khi ấy mọi sự
nhận biết đều là nhận biết chân thực, cái tánh chất chân thực đó đưọc
duy thức gọi là Hiện lượng; mọi đối tượng đều được thấy như thị,
chân thực không bị biến kế sở chấp. Cảnh giới chân thật này được duy
thức gọi là Tánh cảnh. Tánh là chân thực, và cảnh
là sở kiến, là đối tượng cuả nhận thức.
Đới
chất cảnh được dệt nên bởi trùng trùng những mê vọng do tâm thức bị vọng
niệm chuyển biến màø khởi hiện ra. Thế giới mà chúng ta đang hiện hữu là
một cảnh giới đới chất. Con người sống trong cảnh giới này luôn luôn
phân biệt và so sánh, rồi đưa ra những giả thuyết để đánh giá, biện minh
và đặt tên cho mọi sự thể. Vì nương vào sự so sánh và phân biệt nên sự
nhân xét và đặt tên này thuộc về Tỷ lượng. Tỷ là so sánh,
lượng là đánh giá.
Cảnh tượng có thể hiện ra trong ý thức vì liên tưởng, hồi tưởng hay
tưởng tượng, được gọi là Độc ảnh cảnh tức là cảnh giới nương vào
sự tưởng nhớ lại nơi tâm thức.
Cũng có khi vì quá sợ hãi hoặc quá ao ước mà hình ảnh được thấy bị méo
mó, khác hẳn với hình ảnh thật của nó. Thí dụ đang lo lắng và sợ hãi khi
đi lạc trong rừng ta có thể nhận lầm sợi dây gai thành con rắn. Hoặc khi
đang quá khát nước trong sa mạc, ta có thể nhận lầm ánh nắng phản chiếu
ở đàng trước là hồ nước. Sự quá sợ hãi hay quá mong muốn này khiến chủng
tử được lấy ra ở A lại da thức không được chính xác. Thay vì hình ảnh
được đưa lên ý căn để so sánh là sợi dây hay là ánh nắng thì lại là con
rắn và hồ nước. Tất cả những tánh chất của nhận thức này không thuộc về
hiện lượng và cũng không thuộc về tỷ lượng được duy thức đánh gía là Phi lượng.
Ở
đây mặc dù có sự hoạt động của nhãn căn, nhưng hình ảnh thấy lại không
phải hình ảnh thật sự thấy ở cảnh giới đới chất bên ngoài mà là hình ảnh
lấy từ A lại da thức chuyển đến Mạt na thức do sự quá hoảng hốt hay do
sự quá mong cầu khiến cho Ý thức lầm nhận. Các hình ảnh nhận biết sai
lầm này không phải là Đới chất cảnh nữa mà là Độc ảnh cảnh.
Các
Độc ảnh cảnh dựa trên những hình ảnh đã được thấy trong cảnh giới đới
chất, chẳng hạn như hình ảnh dây gai bị nhận lầm là con rắn, hình ảnh
sóng nắng thấy lầm là hồ nước v.v được gọi là Hữu chất độc ảnh cảnh
vì do những hình ảnh dây gai, con rắn, sóng nắng, hồ nuớc đã từng
thấy qua nên mới có sự nẩy sinh vọng tưởng sai lầm.
Các
Độc ảnh cảnh có thể khác hẳn những gì ta đã kinh nghiệm, chưa thấy trong
cảnh giới đới chất. Các hình ảnh này có thể thật lộng lẫy đẹp đẽ, thật
thanh tịnh trang nghiêm như những cung điện cùng tiên trời trong cảnh
giới thần tiên và cảnh giới ở cõi Tịnh Độ, hoặc thật kinh sợ như những
cảnh giới ở địa ngục. Tất cả các cảnh giới này là do sự tưởng tượng nơi
tâm thức, được gọi là Vô chất độc ảnh cảnh.
Chỉ
khi nào đạt được Chân Như, trở lại được với cái Chân Không Diệu Hữu bổn
lai, chuyển được Thức thành Trí, A lại da thức chuyển thành Đại Viên
Cảnh Trí thì sự vật mới hiện ra một cách như thị, hiện ra một cách mà
không lời nói và ngôn từ nào có thể diễn tả được. Nơi đây, mọi nhận biết
mới thật là chân hiện lượng. Và hình ảnh nào được nhận biết cũng
đều là chân thật, đều là tánh cảnh.
Duy
Thức học tạm coi cái sát na đầu tiên mà ngũ căn tiếp xúc với đối tượng
trần cảnh khi chưa có sự phân biệt của ý thức là một sự chiếu soi thuộc
về hiện luợng. Các hình ảnh tiếp nhận được bởi ngũ căn được ngũ
thức đưa thẳng vào A lại da thức mà không qua sự phân biệt của ý thức.
Hình ảnh đó được coi như chưa bị bóp méo, một hình ảnh trung thực, một
tánh cảnh. Tánh cảnh này xẩy ra chớp nhoáng trong vô thức nên ý
thức không thể nhận biết được, các hình ảnh được trực tiếp đưa thẳng vào
A lại da thức.
Khi
đã thấy có thế giới và chúng sanh thì tánh chất của bất cứ một cái thấy
nào cũng xuyên qua nhiều lớp mây mờ của vọng thức nên tánh chất của nhận
thức chỉ có thể là Tợ hiện lượng. Tợ hiện lượng có thể là Tỷ
lượng hay là Phi lượng.
Ví
dụ khi một bông hoa vừa tiếp xúc với nhãn căn, hình ảnh của nó được đưa
thẳng vào A lại da thức, trước khi tâm thức nhận biết nó là cái gì, mầu
sắc và mùi vị ra sao, thì hình ảnh đó thuộc về tánh cảnh, tánh chất của
nó thì như thị, chân thật mà Duy thức gọi là hiện lượng.
Tánh chất của hình ảnh này sẽ mất đi sự chân thực và không được gọi là
hiện lượng nữa khi ta biết nó là bông hoa hồng, khi ta biết nó đẹp hay
xấu. Khi biết là bông hoa hồng và bông hoa này mầu vàng và đẹp là đã có
sự so sánh trong tâm thức rồi nên tánh chất của cái thấy này là tỷ
lượng. Hình ảnh bông hoa đó được đưa vào A lại da thức, xuyên qua ý căn
(mạt na thức) và được ý thức so sánh với những chủng tử hoa tương tự
được lấy ra từ kho tàng A lại da thức. Do đó ý thức mới biết cái được
thấy là hoa hồng mầu vàng và rất đẹp.
Nhiều khi tánh chất nhận thức biến đổi vì một sự sợ hãi hoặc mong cầu
quá độ, lục căn và lục thức bị che phủ thêm một lớp mây dầy vọng thức
thì tánh chất của nhận thức sẽ không chính xác nữa, cảm nhận không đúng
và so sánh cũng không đúng. Tánh chất của nhận thức không là hiện lượng
và tỷ lượng nữa nên được xếp loại là phi lượng.
Hình ảnh dây gai bị nhận lầm là con rắn và hình ảnh sóng nắng bị nhận
lầm là hồ nước nói ở trên được coi là độc ảnh cảnh. Ở đây mặc dầu có sự
hoạt động của nhãn căn nhưng vì quá sợ hãi hoặc quá mong cầu nên dữ kiện
do nhãn căn đưa vào ý thức không phải là hình ảnh của sợi dây mà làø
hình ảnh con rắn do mạt na thức lấy từ a lại da thức chuyển đến ý thức.
Hình ảnh thành Càn Thát Baø là một thí dụ về độc ảnh cảnh.
Ban mai đánh thuyền ra biển về hướng rạng đông, nơi mặt trời đang mọc
lên, thấy ở nơi chân trời xa hiện lên một thành phố tráng lệ huy hoàng.
Thành phố này tan biến khi mặt trời xuất hiện và bấy giờ ta mới biết mê
thành ảo phố Càn Thát Bà đó chỉ là ảo tưởng nơi tâm thức, do ánh sáng,
hơi nước và các sự phản chiếu hòa hợp tạo ra. Hình ảnh thành phố này
không đích thực là hình ảnh được thấy nơi nhãn căn mà chỉ là hình ảnh
sai lầm do ý căn đưa lên.
Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói về Độc Ảnh Cảnh này lúc ngài diễn tả
cảnh ngủ mê nghe tiếng chầy giã gạo mà mộng là tiếng trống như sau: Như
có người ngủ say trên giường gối, trong lúc người kia đang ngủ, trong
nhà có người giã gạo, lầm cho là tiếng gì khác, hoặc cho là đánh trống,
hoặc là dóng chuông. Tức ngay khi trong mộng, người ấy tự lấy làm lạ sao
tiếng chuông lại vang lên giống như là tiếng cây tiếng đá. Khi ấy chợt
tỉnh dậy biết là tiếng chầy giã gạo thì người ấy bảo người trong nhà,
chính khi tôi chiêm bao lầm tiếng chầy này cho là tiếng chuông, tiếng
trống trong chùa.
Trong trường hợp trên vì mê ngủ nên cảm giác do nhĩ căn nhận được chỉ có
tánh chất mơ hồ và tiếng động được Ý thức phân biệt là tiếng động sai
lầm do A lại da thức đưa lên Ý căn.
Tất
cả tánh chất phức tạp của duyên, cảnh và lượng nêu trên chỉ nhằm đưa ra
một vài đặc tính căn bản của nhận thức nơi tâm thức. Nếu cứ tiếp tục
chia chẻ ra nữa thì ta cũng có thể tạo ra một rừng những danh từ, những
khái niệm, định nghĩa và tỷ dụ. Những sự phân chia và những thí dụ đưa
ra chỉ có tánh chất tương đối cốt để làm sáng tỏ phần nào các tánh chất
phức tạp của nhận thức để ta có một khái niệm về một số danh từ dùng
trong Duy Thức Học mà thôi. Vì thế chúng ta cũng đừng nên chấp vào đó để
tránh trở ngại cho việc nghiên cứu và tu tập.
Một
lần nữa cần nhấn mạnh rằng tất cả những ngôn từ và hình ảnh, tất cả
những gì ta có thể hình dung ra được, thấy được, tưởng tượng ra được,
hiện ra trong khi tỉnh và khi mê chỉ là biểu hiện của tâm thức và là như
huyễn. Tánh cách chân thực của nó chỉ được nhận ra khi Thức chuyển thành
Trí, khi A lại da thức chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí. Khi ấy các đối
tượng sẽ hiện ra như thị như hình ảnh hiện trên mặt gương sáng.
Hãy
đọc một vài câu kệ trong kinh Hoa Nghiêm:
Tất
cả đều như huyễn
Huyễn làm hình nam nữ
Và
voi, ngựa, trâu, dê
Nhà, cửa, núi, suối, ao
Vườn, rừng cùng bông trái
Vật
huyễn không tri giác
Cũng không có trụ xứ
Rốt
ráo tướng tịch diệt
Chỉ
theo phân biệt hiện
Bồ
tát được như vậy
Thấy khắp các thế gian
Tất
cả pháp hữu, vô
Thấu rõ đều như huyễn.
Con
người và tất cả mọi loài chúng sanh trong thế giới và vũ trụ này đều là
ảnh hiện của các chủng tử và hiện hành nơi A lại da thức đã được huân
tập, tăng trưởng, chín mùi, duyên khởi chuyển biến mà hình thành. Cá
nhân của mỗi chúng sanh trong thế giới này là biểu hiện của nghiệp báo
của tự thân, là quả báo do những nghiệp riêng của từng chúng sanh đó tạo
nên. Thế giới và mọi loài là quả báo chung của tất cả những gì hiện hữu
trong thế giới này. Vì quả báo chung mà có thế giới và chúng sanh hiện
hữu quanh ta. Vì quả báo riêng mà mỗi chúng sanh có những hình thể, đời
sống và tâm tư khác nhau.
Trong thế giới hiện tại mọi sự cứ lưu chuyển tiếp nối sanh diệt tương
tục. Mặt trời hiện lên chiếu sáng hư không u minh, trái đất cứ việc quay
và sáng tối cứ thay nhau tiếp diễn; gió mưa, nóng lạnh, bão tố, tuyết
rơi, bốn mùa xuân hạ thu đông cứ diễn biến liên tục; sinh vật và cỏ cây
cứ sinh sôi tăng trưởng, đâm trồi nẩy mộng và đâm hoa kết trái.
Thế
giới khi đã hiện thành là thế giới hữu chất, là thế giới vật chất hữu
hạn, là thế giới do tâm cấu nhiễm chuyển biến, là thế giới không tự có,
là thế giới không tự hiện hữu, là kết quả của những nhân duyên trùng
trùng duyên khởi, nương nhau mà hiện hữu, là thế giới mà Duy thức gọi là Đới Chất Cảnh.
Những cảnh giới đới chất đó hình như hiện hữu ngoài tâm và có thực thể
vì chúng ù lỳ và thô trược khiến cho người bình thường không thể tin
được chúng chỉ là chuyển biến của tâm thức. Anh và tôi, tất cả chúng
sanh và thế giới này rõ ràng hiện hữu. Rõ ràng trái núi này là trái núi,
rõ ràng dòng sông kia là dòng sông. Tôi thấy được anh và anh thấy được
tôi. Cả anh và tôi đều thấy trái núi này ngăn ngại và dòng sông kia thì
lưu chuyển.
Cảnh giới đới chất này là sự chuyển biến và hóa hiện của những quang
minh bị lưu ngại kết cấu lại thành cảnh giới thô kệch bên ngoài mà duy
thức học gọi là thế giới trần cảnh, là thế giới cát bụi, là thế
giới gồm sơn hà, hải địa, núi sông, cây cối và tất cả mọi loài chúng
sinh y trú trong đó. Chúng ta là con người nhận biết được thế giới trần
cảnh này qua cửa ngõ của năm giác quan gọi là Ngũ Căn. Ngũ căn
này gồm Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi và Thân là những bộ phận thô kệch bên ngoài
mà duy thức gọi là Phù Trần Căn. Năm căn này ăn thông với năm căn
ẩn tàng bên trong nằm trong bộ não do các dây thần kinh đi dọc theo
đường xương sống và tỏa ra khắp châu thân. Năm căn ẩn tàng này gọi là
Tịnh Sắc Căn hay còn được gọi là Thắng Nghĩa Căn.
Ngũ
căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, đưa dữ kiện tiếp xúc được vào tịnh
sắc căn bên trong, rồi tác động vào ngũ thức. Mỗi phần của ngũ thức chỉ
trực nhận được dữ kiện trong phạm vi hoạt động của mình. Nhãn thức chỉ
phân biệt được hình ảnh là sáng hay tối, có mầu sắc hay không có mầu sắc
nhưng không thể biết được hình ảnh đó là hình ảnh gì, mầu xanh hay mầu
đỏ, đẹp hay là xấu. Nhĩ thức chỉ biết được động hay tĩnh, chứ không phân
biệt được âm thanh đó là âm thanh gì, tiếng trống hay là tiếng chầy, êm
dịu hay không êm dịu. Tỷ thức chỉ phân biệt có mùi hay không có mùi chứ
không thể biết được mùi đó là mùi gì, thơm hay không thơm, mùi hương
chiên đàn hay là mùi hôi của chồn hoang. Thiệt thức chỉ biết có vị hay
không có vị chứ không phân biệt được vị được tiếp xúc là vị gì, là vị
ngọt của mật hay vị đắng của thuốc. Thân thức chỉ biết có xúc chạm hay
không xúc chạm chứ không thể biết đó là đó là trơn hay nhám, là sự xúc
chạm của da thịt hay của nhung lụa.
Ngay sát na đầu tiên, các dữ kiện này được đưa ngay vào A lại da thức.
Sau đó là tác dụng của Mạt na thức, còn được gọi là Ý căn. Ý căn quay
vào A lại da thức lục tìm các chủng tử tương ưng với các dữ kiện nhận
được. Khi này Ý thức được tác động, tập trung các dữ kiện của Ngũ thức
lại so sánh với các dữ kiện do Mạt na thức lấy ở A lại da thức ra mà
biết được đó là hình ảnh gì, âm thanh, mùi vị và xúc chạm ra sao; rồi
khởi ra phân biệt yêu hay ghét, thích hay không thích.
Các
cảm giác và nhận thức của Ý thức này lại được đưa vào Ý căn rồi lại huân
tập vào A lại da thức thành một chủng tử mới làm tăng thượng duyên cho
các chủng tử có sẵn trong A lại da thức. Cứ thế các chủng tử mới cũ cứ
tương sanh, tương duyên làm nhân quả cho nhau, trùng trùng duyên khởi
cho đến khi đầy đủ nhân duyên thì chuyển biến và hiện khởi thành một căn
thân khác trong một thế giới khác khi căn thân hiện tại này bị suy yếu
và hủy hoại.
Tùy
theo nghiệp lực của những cộng nghiệp và biệt nghiệp mà tâm thức chuyển
biến và hiện khởi thành căn thân trong một thế giới thuộc tam giới. Thế
giới này có thể là một thế giới trong cõi Dục, là một cõi trời trong cõi
Sắc hay trong cõi Vô Sắc.
Dù
là một căn thân trong thế giới nào đi nữa thì cảnh giới chánh báo và y
báo đó cũng đều là cảnh giới đới chất. Cảnh giới đới chất là cảnh
giới bị lưu ngại và có ngằn mé mà sự khác biệt giữa các cõi chỉ là ở mức
độ nhiễm ô trọng trược hay vi tế chứ không còn thanh nhẹ và uyên nguyên,
không ngằn mé như cảnh giới của bản tánh Chân tâm.
Trong cảnh giới đới chất đó, không có gì là có tự tánh riêng biệt. Mọi
sự đều do thất đại gồm đất, nước, gió, lửa, không đại, kiến đại và thức
đại nương nhau mà xoay vần chuyển hiện. Mọi sự, mọi vật hiện hữu là do
những cái không phải là nó tạo nên. Tất cả đều là
y tha khởi.
Y
tha khởi có nghĩa là do cái khác mà sanh khởi ra. Hãy nghe mẩu đối thoại
giữa vua Di Lan Đà, một vị vua gốc Hy Lạp cai trị vùng Tây Bắc Ấn và tỳ
kheo Na Tiên vào khoảng hơn 200 năm trước tây lịch. Vua hỏi:
-
Đại đức pháp danh là gì?
-
Người ta gọi bần tăng là Na Tiên, nhưng đó chỉ là tên suông đặt ra để
phân biệt người nọ và người kia chứ thật ra trong cái đó không có gì là
bần tăng hay cái gì của bần tăng.
-
Người đáp trẫm đây không phải Na Tiên sao?
-
Không phải.
-
Thế thì ai là Na Tiên? Tóc trên đầu ngài phải là Na Tiên không?
-
Không phải.
-
Mặt mày, da thịt của người đứng trước trẫm phải Na Tiên không?
-
Không phải.
-
Mắt tai mũi lưỡi thân ý của ngài cũng không phải Na Tiên sao?
-
Không phải.
-
Ngoài các thứ đó có phải là Na Tiên không?
-
Không phải.
-
Thế sao lúc nẫy Đại đức nói người ta gọi ngài là Na Tiên, vậy là Đại đức
đã nói dối?
Tỳ
kheo Na Tiên chậm rãi đáp:
-
Tâu Đại vương! Chẳng hay Đại vương đến đây bằng gì?
-
Trẫm đi bằng xe.
-
Tâu Đại vương! Ngài nói đến đây bằng xe, điều đó có thật không?
-
Trẫm nói thật.
-
Vậy xin chỉ rõ cho bần tăng cái xe của Đại vương. Cái gọng xe này phải
là xe không?
-
Không phải.
-
Trục, bánh xe, thùng xe, dây kéo có phải là xe không?
-
Không phải.
-
Các thứ ấy gom lại có phải là xe không?
-
Không phải.
-
Ngoài các thứ đó có thứ khác không dính dáng gì đến các thứ ấy gọi là xe
chăng?
-
Không phải.
Tỳ
kheo Na Tiên ngưng một lúc rồi nói tiếp:
Vậy
lúc nẫy Đại vương nói với bần tăng là ngài đến đây bằng xe. Điều này
cũng đáng ngờ vực lắm.
Qua
câu chuyện trên ta đã thấy rõ Na Tiên cũng như cái xe chỉ là những tên
gọi suông chứ không có người và xe thật. Tất cả vũ trụ này gồm núi sông,
biển cả, nhà đất, người và vật cũng đều không thật có, chúng chỉ là giả
tướng giữa những mối tương quan, tương duyên của những gì không phải là
chính nó.
Sở
dĩ có tôi là vì có anh, vì nếu không có anh thì sao có cái gọi là tôi.
Thế giới này gọi là thế giới vì có tôi và có anh trong đó, vì nếu không
có tôi và anh trong đó thì làm sao biết rằng có thế giới. Bóng tối có
được là vì có ánh sáng và ngược lại ánh sáng hiện hữu là do có bóng tối.
Vì nếu lúc nào cũng sáng thì cái tên gọi ánh sáng chẳng có ý nghĩa gì và
ngược lại lúc nào cũng không có ánh sáng thì chữ bóng tối cũng không gây
nên một ý niệm gì. Vì thế mà nói tất cả đều là huyễn mộng và không có tự
tánh. Tất cả đều là quy ước và đều chỉ là sự chuyển hiện từ chân tâm khi
bị vọng niệm làm vẩn đục ví như nước sông bị đục ngầu vì đất bùn dấy
động.
Tất
cả những giả dối, những huyễn ảo biến hiện của tâm thức cứ chuyển biến
tiếp diễn không ngừng, vật chiếu soi trở thành bị chiếu soi, năng thành
sở, sở thành năng; được tô đậm và hằn sâu vào nơi A lại da thức khiến
chúng không phải thật mà được nhận biết là thật có, không có bản ngã mà
thấy là có bản ngã, sát na sanh diệt và không có tự tánh mà tưởng là
thường còn và có thật thể.
Không những thế mà cảnh giới đới chất đó nhiều khi còn bị bao trùm thêm
bởi những mê lầm do sự tán loạn thần kinh khi quá mong cầu hay khi quá
sợ hãi, khi tưởng tượng và xét đoán sai lầm. Thí dụ như khi đi trong đêm
tối ở nơi hoang vắng, có thể vì sợ hãi mà nhìn lầm sợi dây thành con rắn
hoặc bóng cây thành ma quỷ; khi khát nước trong sa mạc, vì lòng khao
khát mong cầu mà tưởng ánh nắng phản chiếu nơi xa là hồ nước. Có khi vì
tu tập quá ráo riết và với một cái tâm quá mong cầu thì các hình ảnh của
Tiên Nữ, các vị Trời, hay các vị Bồ Tát và đôi khi ngay cả hình ảnh của
Phật và Thiên Ma cũng có thể hiện ra trong tâm khi đang thiền tập, khi
ngủ mê hay khi bị hôn trầm.
Tất
cả mọi hiện tuợng hình như cứ tự nhiên sanh trưởng tiếp nối một cách
liên tục, ví như hạt giống nẩy mầm, tăng trưởng thành cây; cây đâm
nhánh, trổ lá, nở hoa, ra trái rồi tàn tạ khiến chúng ta có cảm tưởng
như mọi vật cứ tự nhiên sanh ra. Thực ra tất cả các hiện tượng trong vũ
trụ đều từ tâm sanh ra và đều nương nhau mà có, cái này có thành ra cái
kia có, cái này diệt thì cái kia diệt hoặc cái này sanh thì cái kia diệt
và cái này diệt thì cái kia sanh, không cái gì có tự tánh riêng biệt.
Tất cả đều tùy duyên, sanh trưởng, tương sanh, tương diệt, tương tục,
tương tức. Không có gì là thường còn và tất cả đều bị chi phối bởi
muời hai nhân duyên, bởi thành trụ hoại không và bởi
sanh lão bệnh tử.
Khi
nhận rõ được các pháp là không thật, là như huyễn, chỉ là những biến
hiện nơi tâm thức rồi quyết tâm tu tập Thiền Quán hầu trở về với cái
Chân Thật Uyên Nguyên Bản Hữu xa xưa thì lúc đó là lúc biết được con
đường tu. Như đứa con bị lạc đã lâu, nay thấy được con đường trở về mái
nhà xưa. Biết được như vậy gọi là kiến đạo. Bậc kiến đạo là bậc
bồ tát đệ nhất địa, bậc sơ địa bồ tát, bậc đã biết được con đường
phải đi và nhất quyết nguyện tu hành bất thối chuyển để đạt được giải
thoát.
Từ
giai đoạn kiến đạo cho đến khi được giải thoát thì hành giả phải qua
12 quả vị. Từ Sơ địa Bồ tát đến Thất địa Bồ tát; sau đó tới
quả vị Bất động địa tức Bát địa Bồ tát, tương đương với quả vị A La Hán
của tiểu thừa. Từ quả vị này mà tiếp tục tu trì Vô Phân Biệt Trí diệt
trừ được Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng sẽ tiến đến Thập địa Bồ
tát, rồi tới bậc Đẳng Giác. Tới địa vị Đẳng Giác rồi tiếp tục
tu trì, khởi được Kim Cương Dụ Định thì đạt tới bậc Cứu Cánh
Diệu Giác tức là thành Phật.
Khi
này thì Tiền ngũ thức chuyển thành Thành Sở Tác Trí, Ý thức thành
Diệu Quan Sát Trí, Mạt na thức thành Bình Đẳng Tánh Trí, A
lại da thức thành Đại Viên Cảnh Trí. Lúc này cảnh giới chân thật
của tánh Viên Thành Thật mới hiển bày. Tất cả mọi cảnh giới đều
là Biển Trí Huệ Bát Nhã, là Chân Không Diệu Hữu, là Như Lai Tạng, là
Chân Như, là Thật Tánh, là Chân Tâm thường còn viên mãn vượt khỏi tất cả
ý niệm về không gian và thời gian, tất cả đều tròn đầy và vô ngại tức
tất cả đều Viên Dung Vô Ngại.
Trong phẩm Ly Thế Gian của kinh Hoa Nghiêm bồ tát Phổ Hiền đã giảng giải
về Viên Dung Vô Ngại như sau:
Chư
Phật tử! Đại Bồ Tát có mười Vô Ngại Dung: Chúng sanh vô ngại dung, Quốc
độ vô ngại dung, Pháp vô ngại dung, Thân vô ngại dung, Cảnh vô ngại
dung, Thần thông vô ngại dung v.v...
Chư
Phật tử! Thế nào là Quốc độ Vô ngại dung? Là đem tất cả vào một cõi, Vô
ngại dung. Là đem tất cả cõi vào một lỗ chân lông, Vô ngại dung. Là một
thân ngồi kiết già đầy khắp tất cả cõi, Vô ngại dung. Là trong một thân
biến hiện tất cả cõi, Vô ngại dung...
Chư
Phật tử! Thế nào là Thân Vô ngại dung? Là đem tất cả thân chúng sanh vào
thân mình, Vô ngại dung. Là đem thân mình vào thân tất cả chúng sanh, Vô
ngại dung. Là đem một thân đầy khắp tất cả pháp tam thế thị hiện cho
chúng sanh, Vô ngại dung. Là một thân thị hiện vô biên thân nhập tam
muội, Vô ngại dung. Là nơi một thân thị hiện thân đồng số chúng sanh
thành cảnh giác, Vô ngại dung...
Chư
Phật tử! Thế nào là Thần lực Vô ngại dung? Là đem bất khả thuyết thế
giới vào một vi trần, Vô ngại dung. Là trong một vi trần hiện khắp pháp
giới tất cả cõi Phật, Vô ngại dung. Là đem nước tất cả đại hải để vào
một lỗ chân lông qua lại cùng khắp mười phương thế giới mà không làm xúc
não chúng sanh, Vô ngại dung. Là đem bất khả thuyết thế giới nạp trong
thân mình thị hiện tất cả việc làm do sức thần thông, Vô ngại dung. Là
dùng một sợi lông buộc bất khả số núi Kim cang, núi Thiết vi cầm đi du
hành tất cả thế giới chẳng làm cho chúng sanh có lòng kinh sợ, Vô ngại
dung. Là đem bất khả thuyết kiếp làm một kiếp, một kiếp làm bất khả
thuyết kiếp, trong đó thị hiện các sự thành hoại sai biệt mà chẳng làm
cho chúng sanh có lòng kinh sợ, Vô ngại dung...
Ở
đọan kinh Hoa Nghiêm trên, cần để ý là các vị Đại Bồ Tát thị hiện thần
thông vô ngại dung thìø không bao giờ làm xúc não và kinh sợ chúng sanh,
các vị ấy không bao giờ để lộ cho chúng sanh biết mình là Bồ tát, là
mình có thần thông. Rải rác trong các kinh điển và trong các luận giải
của các vị Tổ sư cho thấy rằng khi bị lộ hình tướng thì các vị Bồ tát
thường chạy biến mất không để lại tung tích. Các vị chỉ thị thố thần
thông để gây tín tâm sâu đậm trong chúng sanh rồi sau đó thị hiện tịch
diệt, mục đích để thắp sáng ngọn đuốc Phật pháp hầu chánh pháp được duy
trì dài lâu. Có vị thị hiện bay lên hư không xong ngồi kiết già hoặc
trồng cây chuối để đầu xuống đất chân lên trời mà tịch diệt. Có vị để
lại Chân thân bất hoại mà di tích bây giờ vẫn còn để lại như các ngài
Huệ Năng, Hám Sơn và Đơn Điền tại chùa Nam Hoa bên dòng sông Tào Khê của
Trung Hoa hay các ngài Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường tại chùa Đậu thuộc
tỉnh Hà Tây của Việt Nam.
Để
kết thúc chương này xin chép ra vài lời kệ trong kinh Hoa Nghiêm:
Tất
cả quốc độ rộng vô biên
Như
ảnh, như huyễn, như dương diệm
Mười phương chẳng thấy từ đâu sanh
Cũng không có chỗ đi và đến
Diệt, Hoại, Sanh, Thành xoay vần mãi
Trong cõi hư không chẳng tạm dừng
Tất
cả do Nguyện lực thanh tịnh
Cũng do Nghiệp lực chỗ giữ gìn...
Trước khi bàn về Bất Tương Ưng Hành Pháp, những pháp không thuộc về Tâm
và cũng không thuộc về Sắc, chúng ta hãy thử ôn lại khái quát về các
chương trước.
Như
các chương trên có nói, chỉ vì một niệm vô minh mà Tâm Thể uyên nguyên
ban đầu bị khuấy động chuyển biến thành tâm thức với những vọng kiến
phân biệt và chiếu soi. Những phân biệt và chiếu soi đó khởi sanh ra các
chủng tử và hiện hành. Chủng tử và hiện hành đó cứ trùng trùng điệp
điệp, tương sanh, tương duyên làm duyên khởi cho vô lượng các chủng tử
và hiện hành khác với đủ mọi tánh chất, thiện có, ác có và có cả không
thiện lẫn không ác. Những hạt giống chủng tử và hiện hành này cứ quay
cuồng, làm nhân duyên cho nhau mà tăng trưởng, sanh diệt không ngưng
nghỉ, tạo nên vô số những chủng tử nghiệp. Những hạt giống nghiệp mạnh
thì ngoi lên trên, những hạt giống nghiệp nhẹ thì bị đè xuống dưới trong
mảnh đất tâm thức.
Tâm
Thể uyên nguyên ban đầu bị vẩn đục, chuyên biến thành Tâm Thức với các
Tâm Vương cùng các Tâm Sở liên hệ. Các thức Tâm vương và Tâm Sở lại tiếp
tục quấn quýt lấy nhau, tiếp tục chiếu soi vào các chủng tử và hiện
hành, làm cho chúng tăng trưởng và trở nên càng ngày càng hiện đậm nét
thêm, khiến tâm thức càng ngày càng vẩn đục và trở nên ngăn ngại, không
còn thanh nhẹ, cho đến khi hội đủ tất cả những yếu tố về nhân duyên và
thời gian thì chín mùi chuyển biến dị thục thành căn thân và thế giới.
Tâm
Vương và Tâm sở thuộc về các pháp liên quan đến vấn đề tâm linh tinh
thần gọi là tâm pháp, là các pháp thuộc về tâm.
Có
tám thức Tâm vương là: A lại da thức, Mạt na thức, Ý thức và Tiền ngũ
thức. Mỗi Tâm vương này lại có những Tâm sở tương ưng đi kèm như những
vị vua có quân thần đi theo. Các Tâm sở này có nhiều hay ít là tùy theo
chúng thuộc loại Tâm vương nào, nhưng tất cả không ngoài 51 thứ. Năm
mươi mốt thứ tâm sở này gồm có: 5 biến hành, 5 biệt cảnh, 11 thiện pháp,
6 căn bản phiền não, 20 tùy phiền não, và 4 tâm sở bất định.
Căn
thân và thế giới thuộc về sắc pháp, là các pháp liên quan đến các hiện
tượng vật chất. Sắc pháp có 11 pháp gồm có 5 căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân (không kể ý căn vì nếu coi nó là Mạt na thức thì nó thuộc về tâm
vương, nếu coi nó như bộ óc thì nó là tịnh sắc căn nằm bên trong, không
lộ ra nên không tính) và 6 trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Ở
cõi Dục chúng sanh có đầy đủ ngũ căn và ngũ thức nên dùng đoạn thực để
duy trì mạng sống. Chư thiên ở cõi trên không dùng đoạn thực để duy trì
mạng căn. Cõi Sơ Thiền chỉ còn ba thức nhãn, nhĩ và thân (không có tỷ và
thiệt). Từ cõi Nhị Thiền trở lên thì năm thức trước không hiện hành nữa
vì từ đây trở đi chư thiên đã xa rời các cảnh thô chướng, vào được định
cảnh vắng lặng và có thể dùng ý thức để duy trì mạng sống (ý sanh thân).
Ở
cõi Dục có đủ mọi loài chúng sanh. Có loài nhỏ ly ty như những hộ trùng
nằm trong thân thể của loài người hay trong thân thể của các loài chúng
sanh khác, chúng nương dựa vào những thân thể ấy mà sinh sống, lấy đó
làm nơi nương tựa, làm nơi y báo. Nếu là hộ trùng nương dựa trong các
thân căn của loài ruồi muỗi thì cái thế giới y báo ruồi muỗi này đối với
các hộ trùng nẩy nở và sinh sống trong đó cũng vĩ đại ví như trái đất và
vũ trụ của cõi Diêm phù đề này đối với loài người.
Có
những loài nương vào các cây cỏ hoặc gỗ đá, có những loài ma quỷ sống
vất vưởng, nương vào các hang miếu và các mồ mả. Có các loài bị giam
hãm, kìm kẹp trong mười sáu tầng địa ngục nóng lạnh ở phía dưới châu
Diêm Phù Đề, phía dưới các dẫy núi Thiết Vi. Có các chư thiên trong các
cõi trời tứ thiên do bốn vị Tứ Thiên Vương cai quản ở các cõi trời bao
quanh lưng chừng núi Tu di, hay các vị ở trong các tầng trời cao hơn, tỷ
như cõi trời tam thập tam thiên, cai quản bởi trời Đế thích ngự trị nơi
trung tâm trong cung trời Đao lợi trên đỉnh núi Tu di. Cao hơn nữa là
các chư thiên ở cung trời Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại. Tất
cả gọi chung là cõi Dục vì còn có dục ái dâm.
Bây
giờ chúng ta bàn đến bất tương ưng hành pháp, là những pháp không thuộc
về Tâm pháp và cũng không thuộc về Sắc pháp.
Duy
thức học chia bất tương ưng hành pháp ra làm 24 món. Ta hãy ráng học tên
của 24 món này rồi sẽ từ từ bàn đến chúng sau. 24 món bất tương ưng
là: đắc, mạng căn, chúng đồng phận, dị sanh
tánh, vô tưởng định, diệt tận định, vô tưởng báo, danh thân, cú thân,
văn thân, sanh, trụ, lão, vô thường, lưu chuyển, định vị, tương ưng, thế
tốc, thứ đệ, thời, phương, số, hòa hợp tánh và bất hòa hợp tánh.
Những nghiệp nhân đã tạo ra trong kiếp trước và những nghiệp nhân lưu
lại từ vô thủy làm nhân duyên cho nhau, tăng trưởng và chín mùi tương
ưng với cộng nghiệp của loài nào thì thần thức khi rời chánh báo cũ sẽ
bị cuốn hút đến thế giới cộng nghiệp của loài mới này. Thần thức khi sắp
rời thân trung ấm sẽ cảm thấy rất hãi hùng và kinh sợ vì bóng tối và
những vang động làm chấn động tâm tư nên khi vừa thấy ánh sáng ở phía
trước thì gia tốc xâm nhập vào như thiêu thân đâm đầu vào lửa. Đó là
diễn trình của một chuyển biến đến thế giới cộng nghiệp mới, khởi đầu
cho một quả báo mới tức là bắt đầu một dòng nghiệp mới với một căn thân
mới. Sự bắt đầu có một căn thân mới đó gọi là đắc và căn thân có
được trong kiếp sống mới này gọi là mạng căn.
Thần thức là tâm thể bị lưu ngại mà chuyển biến liên tục trong ba cõi và
sáu đường. Ba cõi và sáu đường tiếng Hán Việt gọi là là tam giới và lục
đạo. Tam giới gồm dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Lục đạo là sáu cõi
gồm trời, người, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục.
Nếu
nghiệp báo được làm người thì thần thức bị thu hút và chiêu cảm đến cái
thế giới cộng nghiệp của loài người, là thế giới mà chúng ta đang hiện
hữu. Khi này những tia sáng rực rỡ lóe lên để thần thức nương theo đó mà
gá vào như đã nói ở các chương trước là những tia sáng phát sinh do sự
giao cấu cọ sát của đôi nam nữ.
Sự
cấu kết và hòa hợp giữa tinh trùng trong tinh dịch của người nam và
huyết dịch nơi noãn sào của người nữ cùng với thần thức gá vào đó đã tạo
nên căn thân của kiếp này. Nghiệp báo là nhân, thần thức, tinh trùng và
huyết dịch là duyên. Khi đủ điều kiện tăng trưởng thì chuyển hiện thành
căn thân loài người tức là đắc được mạng căn của loài người. Thần thức
của loài người được chia làm bốn thứ Sanh hữu,
Bản hữu, Tử hữu và Trung hữu.
Khi
tạo ra nghiệp thì có thiện có ác. Nghiệp thiện thì sanh vào ba đường
lành gồm trời, người, a tu la. Nghiệp dữ thì sanh vào ba đường ác gồm
ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Nhưng những mạng căn đã đắc được này thì
không phải là thiện cũng không phải là ác, thiện hay ác là những suy
nghĩ và hành động của mỗi một loài sau khi có được mạng căn đó.
Khi
đã đắc được mạng căn rồi thì tâm thức không còn ở trong thể uyên nguyên
thanh tịnh nữa. Cho dù đắc được mạng căn ở cõi trời Vô Sắc Giới, không
còn có cái sắc thân ù lỳ thô kệch như Dục giới, thì tâm thức vẫn còn
những ô nhiễm vi tế nên các quang minh nơi tâm thể vẫn còn bị lưu ngại.
Vì vẫn còn lưu ngại nên vẫn còn cái nhân vi tế của tham, sân và si nên
vẫn còn tạo nghiệp và do đó vẫn còn sanh diệt luân hồi.
Trong kinh có kể câu chuyện một vị tu thiền phi tưởng phi phi tưởng, khi
gần chứng quả bị phiền não vì các tiếng động gây ra bởi các loài cá
phóng lên và phóng xuống ở ven suối và các loài chim bay nhẩy, kêu hót ở
chung quanh, đã nổi lên một niệm sân hận là muốn sát hại tất cả các loài
chim và cá đó, nên sau này khi đã hết thọ mạng ở cõi trời phi tưởng phi
phi tưởng thuộc Vô sắc giới thì bị luân hồi trở lại làm kiếp phi ly, một
loại chồn biết bay bắt được cả cá dưới nước lẫn chim trên trời.
Trở
lại việc đắc được mạng căn ta sẽ thấy trong cùng một cõi tỷ dụ như trên
trái địa cầu, nơi chúng ta đang sinh sống có rất nhiều loài chúng sinh.
Nào là loài người, loài trâu bò, sư tử, hươu nai, loài chim, loài cá,
loài rắn rít, côn trùng, loài cỏ cây và gỗ đá cùng những ma quỷ, thần
hoàng ở các hang miếu, v. v... Nếu cùng có một cộng nghiệp chung thì
sanh cùng một loài thí dụ như cùng loài người, cùng loài trâu, cùng loài
hươu. Cùng chung một loài với nhau thì gọi là chúng đồng phận.
Loài người do thai sanh và sống nhờ ăn uống và hít thở không khí trên
mặt đất, loài cá do noãn sanh sống ở dưới nước, ăn các rong rêu và sinh
vật ở dưới nước. Người không thể sinh sống trong nước và cá không thể
sinh sống trên mặt đất.
Tuy
cùng sanh ra là người nhưng không phải ai cũng có đời sống vật chất và
tâm linh giống nhau. Không một người nào giống in hệt người nào, không
một người nào có cách sinh sống và tư duy giống người nào dù rằng là anh
em sinh đôi. Mỗi người có một phần số riêng do nghiệp lực đã tạo ra từ
thuở vô thủy, từ những kiếp trước và những nghiệp đang tiếp tục tạo ra.
Chính vì thế có những người thông minh, có những người đần độn. Có những
tài năng thiên phú về tâm linh, thi ca, âm nhạc, học thuật, y thuật,
công xảo thuật; có những người đần độn, sanh ở nơi thật nghèo nàn đói
khổ, có nhũng người tàn tật, có những người hung dữ tàn nhẫn và có những
người thật từ bi nhân ái.
Sở
dĩ có những khác biệt như thế vì ngoài những nghiệp chung mỗi người còn
có những nghiệp riêng rẽ khác biệt với các người khác gọi là biệt
nghiệp. Trong cuộc sống vì mê đắm, mỗi cá nhân lại tạo cho mình một
cá tánh hay một nhân dáng cá biệt, khác với các cá nhân khác. Có người
nhuộm tóc mầu xanh, có người nhuộm tóc mầu đỏ, quần áo thay đổi nay thời
trang này mốt thời trang nọ. Có người phải độn cái mũi cho cao lên, cắt
cái má cho lúm đồng tiền, cắt cái mí mắt cho thành hai mí, cắt cái cằm
ra cho có cằm chẻ, có những người phải cố gắng trương cái bằng cấp và
địa vị cho người khác thấy, có những vị mặc những y phục đặc biệt của
bác sĩ hay kỹ sư để dự những buổi họp mặt mà không liên can gì đến nghề
nghiệp, v.v...
Ngoài ra người ta còn bầy đặt ra các lễ lạc, các cuộc vui chơi, ca hát,
nhẩy múa, hội hè, cờ bạc, ăn uống, rượu chè để suốt đời mê say, đắm đuối
với những giả dối mà không biết tất cả chỉ là huyễn hóa không thường
hằng.
Mọi
người đều tham đắm chạy đua theo những huyễn hóa ngoài đời mà quên cái
chân thật nên càng ngày càng xa rời chân tâm và chịu quả khổ đau lặn hụp
trong sanh tử luân hồi. Tánh chất của những chạy theo đua đòi, khoe
khoang, nắm giữ, tìm kiếm đã làm con người càng ngày càng đi sâu vào tăm
tối mờ mịt khiến lạc mất đường về và xa rời chân tánh đó gọi là dị
sanh tánh.
Dị
sanh
là tiếng Trung Hoa có nghĩa
là phàm phu.
Dị sanh tánh là tính chất của phàm phu bị vô minh phiền não che bít,
khiến đắm say trong những giả dối và chìm đắm trong Sanh Tử Luân Hồi.
Tánh chất này ngược với tánh chất hướng thiện, luôn muốn đạt đến cái
tinh hoa, cái chân thiện mỹ của các hàng Thánh Hiền.
Phàm phu ngoại đạo tu tập vô tưởng định, diệt tất cả tâm tưởng,
khi mạng chung được hưởng quả vô tưởng báo, sanh lên cõi Trời Vô
Tưởng thuộc Sắc Giới thì được thọ mạng dài lâu nhưng vì hãy còn những
phiền não vi tế nên vẫn còn bị ràng buộc trong sanh tử luân hồi. Xin
nhắc lại là 9 từng trời trong cõi Tứ Thiền thuộc Sắc giới gồm có: trời Vô Vân, trời Phước Sanh, trời Quảng Quả,
trời Vô Tưởng, trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện
Hiện và trời Cứu Cánh.
Các
bậc Thanh văn và Duyên giác khi chưa đạt đến bậc Hữu Đảnh tức bậc cao
nhất trong Tứ Thiền Thiên tức là chưa đến được cõi trời tột cùng Sắc Cứu
Cánh thuộc Sắc Giới thì dù nhập được diệt tận định tức là nhập được cái
định trong đó không còn có thọ và tưởng nữa nhưng khi xuất định thì các
chủng tử ô nhiễm vi tế vẫn tác động trở lại. Do đó vẫn còn bị quả báo
sanh tử luân hồi.
Chỉ
có các vị Bồ tát đệ bát địa và các vị A La Hán mới diệt được hai chướng
về ngã và pháp. Ở quả vị này các chủng tử ô nhiễm và các phiền não mới
bị loại trừ và do đó các vị đó mới ra khỏi Tam giới, thoát được sanh tử
luân hồi. Sự thật thì các vị này vẫn còn một chút kiết sử thật vi tế.
Trừ phi các vị này nhất quyết phát bồ đề tâm, nguyện trên cầu Phật đạo,
dưới cứu giúp chúng sanh, khởi Vô Phân Biệt Trí tiếp tục tu trì vượt
được bậc Bồ tát thập địa đến bậc Đẳng Giác, vào được Kim Cang Dụ Định,
đạt quả vị Diệu Giác tức thành Phật thì các chướng ngại vi tế của phiền
não và sở tri chướng mới hoàn toàn bị hủy diệt.
Khi
thọ thân làm người thì ta đã xa rời cái tâm thể thanh tịnh uyên nguyên
xa xưa, thấy có sự chia cắt giữa ta và thế giới bên ngoài. Chúng ta bắt
đầu mò mẫm tìm hiểu các sinh vật cùng các hiện tượng trong quốc độ,
không gian và thế giới mà ta đang sinh sống. Loài người phân biệt và đặt
tên cho mỗi sự vật, dùng ngôn từ và ký hiệu để diễn tả các sự vật cùng
những tánh chất và tình cảm liên quan. Từ đó từng nhóm người phát minh
ra ngôn ngữ và chữ viết để liên lạc với nhau. Đó là nguyên nhân sự thành
lập danh thân, cú thân và văn thân.
Danh thân
là
tên hay là danh từ, gồm danh từ đơn và danh từ kép.
Cú
thân
là câu nói do nhiều danh thân họp lại. Câu nói thì có câu
ngắn và câu dài.
Nhiều câu họp lại thành văn thân, tức là thành một câu chuyện,
một vấn đề.
Khi
đã đắc mạng căn là ta đã xa rời cái thể rỗng rang, thanh nhẹ và không
lưu ngại của Tâm thể uyên nguyên xa xưa, ta bị chi phối bởi hoàn cảnh
chung quanh, chi phối bởi luật tuần hoàn của vũ trụ, không còn được tự
tại nữa. Khi đắc cái căn thân thô kệch, ù lỳ này thì ta đã bị dòng
nghiệp lực của vọng tưởng đưa đẩy xa rời chân tâm. Ta đã bị lôi kéo vào
cái vòng luẩn quẩn của nhân duyên, của Sanh Trụ Dị Diệt mà Duy Thức gọi
là sanh, trụ, lão và vô thường.
Sanh
tức
là khởi sanh một dòng nghiệp lực, là lúc đắc được cái mạng căn mới.
Trụ
là thời gian tăng trưởng từ khi đắc được mạng căn cho đến
khi trưởng thành qua các giai đoạn của thời ấu thơ, đồng tử, thiếu niên
và đến tuổi thành niên ví như mũi tên từ lúc bắn lên trời cho đến khi
hết đà hoặc một bông hoa từ khi là nụ hoa cho đến khi nở xoè hết ra.
Lão
là thời gian suy thoái của một kiếp người, là thời lão
niên, khi thể xác không còn tráng kiện nữa, khi mà bệnh tật kéo đến, khi
mà thân thể không còn tương ưng với tinh thần nữa ví như đóa hoa đã nở
hết và đang héo tàn dần hoặc như mũi tên hết đà đang rơi xuống.
Vô
thường
ở
đây là lúc chấm dứt mạng căn, là khi thân xác rã rời, là khi ngũ ấm
không còn hòa hợp nữa, là lúc thức ấm phải lìa sắc ấm, là lúc chấm dứt
dòng sinh mệnh hiện tại để bắt đầu một dòng sinh mệnh mới, một quả báo
mới, một dòng nghiệp lực mới.
Thật ra mọi sự chuyển biến, sanh diệt liên tục không bao giờ ngưng nghỉ,
những sanh diệt này thật là nhanh chóng, không thể ngay đó nhận biết
được. Thật vậy, trong kiếp sống, mỗi giây phút ta đã trải qua vô lượng
những thay đổi sanh diệt của cả thân lẫn tâm. Những sự thay đổi này thật
âm thầm, ta không thể nhận biết được cho đến khi có một sự biến chuyển
đột ngột như khi bị bạo bệnh hoặc khi thấy người thân đột ngột từ giã
cuộc đời thì ta mới nhận ra có sự chuyển biến. Ngày nay khoa học chứng
nghiệm được rằng cứ mỗi mười hai năm thì tất cả các tế bào trong con
người sẽ thay đổi hoàn toàn. Để nói đến sự chuyển biến âm thầm và nhanh
chóng này, duy thức có danh từ sát na sanh diệt. Theo nghĩa rốt
ráo thì danh từ vô thường diễn tả một sự không cố định, không thường
còn, một sự chuyển biến thay đổi liên tục.
Từ
thở vô thủy, khi khởi mê vọng cho tới khi đắc được mạng căn làm người
như bây giờ là ta đã trải qua vô lượng kiếp chúng sanh. Từ những chúng
sanh vô hình ở trên cõi trời Vô sắc, những chúng sanh có thân báo trang
nghiêm của loài trời (phạm thiên) ở cõi trời Sắc giới, các thần tiên,
thiên thần, a tu la, ngạ quỷ, chim cá, hổ báo, trâu bò, sâu bọ
v.v...trong cõi Dục giới. Nói chung là ta đã ngụp lặn lưu chuyển trong
tam giới lục đạo không biết bao nhiêu lần.
Cứ
sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, trùng trùng duyên khởi, lưu chuyển
không ngưng nghỉ. Có phước lớn thì được sanh làm thần tiên trong các cõi
trời như cõi trời Tứ Thiên Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu
Xuất, trời Hoá Lạc hay trời Tha Hóa Tự Tại. Tu trì nghiêm mật thì được
sanh lên ở các cõi trời Sắc giới và Vô sắc giới.
Hưởng phước mà sao lãng việc tu trì, không làm việc thiện thì khi hưởng
hết quả báo thì lại bị đầy xuống làm trâu làm chó hoặc làm những loài
quỷ đói nơi Địa ngục. Tất cả những quả báo, những nơi thác sanh đều rõ
ràng, có một vị trí rõ ràng, một định vị phù hợp với luật nhân
quả, nhân nào thì quả ấy rất là tương ưng.
Nói
đến quả báo thì xin kể lại một câu chuyện trong điển tích của Phật nói
đến một vị tỳ kheo hưởng sự cúng dường của cặp vợ chồng nọ mà không chịu
tinh chuyên tu hành, cùng không chỉ giáo một điều gì cho cặp vợ chồng
thí chủ kia. Sau này khi viên tịch thì thần thức của vị tỳ kheo ấy phải
thọ sanh thành một loại nấm gá vào một cái cây mọc lâu đời ở sau vườn
của cặp vợ chồng này. Chỉ có cắp vợ chồng thí chủ này mới lấy ăn được
loại nấm đặc biệt này thôi, còn những người khác thì không thể lấy ăn
được. Cứ mỗi lần nấm được ngắt đi thì thần thức của vị tỳ kheo này chịu
đau đớn khôn cùng. Nhờ có loại nấm này mà cắp vợ chồng thí chủ ấy đã
sống qua được nạn đói xẩy đến cho địa phương họ.
Làm
phước nhiều thì được hưởng phước báo nhiều, làm phước ít thì được hưởng
phước báo ít. Làm ác nhiều thì bị đọa xuống địa ngục, ít thì bị làm thân
trâu, thân ngựa. Thiện ác không hơn không kém thì được làm người, thiện
nhiều thì làm trưởng giả, thiện ít thì làm người nghèo khó. Phước báu
nhiều thì được sanh lên cõi trời cao hơn và thọ mạng dài lâu hơn. Phước
báu ít thì được sanh ở cõi trời thấp hơn và thọ mạng ngắn hơn. Tất cả
đều có nhân quả tương ưng và định vị rõ
ràng.
Cái
thể uyên nguyên của thuở nguyên thủy xa xưa là cái thể tánh không ngăn
ngại của Âm Thanh và Ánh Sáng, của các Quang Minh không lưu ngại, không
hình không tướng, của Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ, của phi không gian
và phi thời gian.
Cái
thế giới vật chất ngày nay là cái thế giới đã bị lưu ngại và chuyển biến
thô kệch lại. Trái đất mà chúng ta đang sống tưởng chừng như đứng yên
một chỗ nhưng thật ra đang quay tít xung quanh mặt trời và đồng thời lại
quay quanh chính nó. Chính vì thế mà có ngày và đêm, có bốn mùa Xuân,
Hạ, Thu và Đông. Khi trái đất quay gần mặt trời thì khí hậu nóng bỏng,
khi xa thì rét cóng. Đối diện mặt trời thì là ban sáng, bị che khuất là
ban đêm.
Mặt
trời thì lại xoay trong quỹ đạo của nó. Cứ vậy trùng trùng, lớp lớp các
hành tinh và thế giới cứ cái này xoay quanh cái kia, cái nhỏ xoay quanh
cái lớn, cái lớn xoay quanh cái lớn hơn. Ngay đến cái nhỏ bé li ti như
nguyên tử cũng chứa những điện tử chạy không ngưng nghỉ chung quanh nhân
của nó. Hãy tưởng tượng hình ảnh chuyển động của một vòng lửa khi một
người cầm hai sợi dây lửa vừa quay tròn vừa cắm đầu chạy trong đêm tối.
Sự chuyểng động của trái đất và các hành tinh ví như sự chuyển động cực
kỳ thần tốc của muôn vàn sợi dây lửa như vậy. Hình ảnh của các sự chuyển
động này cũng giống như hình ảnh của các cơn bão lốc, cứ cuộn tròn xoay
chuyển trong không gian.
Những sự xoay vần đó nhanh chậm khác nhau tùy theo hấp lực lôi kéo mà
duy thức gọi là thế tốc. Những xoay vần này đều theo một quy
luật, một thứ tự khiến cho mọi sự tuy quay cuồng nhưng lại nhịp nhàng
thứ lớp, không chướng ngại lẫn nhau. Cái quy luật và thứ tự này duy thức
gọi là thứ đệ.
Do
sự xoay chuyển đó mà có thời gian và không gian tức là có thời và
phương, có lâu, có mau, có nhiều, có ít tức là có số lượng,
có sự hòa hợp và bất hòa hợp. Khi hòa hợp thì sanh khởi,
khi bất hòa hợp thì tan rã và tàn lụi.
Hãy
tưởng tượng trái đất vừa quay quanh mặt trời, vừa xoay quanh chính nó.
Khi đối diện với mặt trời thì sáng, khi không đối diện mặt trời thì tối.
Vì có sáng và có tối nên có ý niệm về sự thay đổi giữa ngày và đêm tức
là có ý niệm về thời gian, duy thức gọi là thời. Vì muốn so sánh
lâu mau mà có sự chia chẻ thời gian ra làm nhiều phần.
Bây
giờ thì hầu hết đều chấp nhận cách chia thời gian một ngày và một đêm
thành làm 24 giờ, bắt đầu từ 0 giờ sáng đến 12 giờ giữa trưa và tới 24
giờ nửa đêm.
Xưa
ở bên Trung Hoa chia ngày đêm ra làm 12 canh và đặt tên theo tên 12 con
giáp. Bắt đầu là Canh Một tức giờ Tý là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng,
rồi Canh Hai tức giờ Sửu từ 1 giờ tới 3 giờ, đến Canh Ba tức giờ Dần từ
3 giờ đến 5 giờ, Canh Bốn tức giờ Mẹo từ 5 giờ đến 7 giờ, Canh Năm tức
Thìn từ 7 giờ đến 9 giờ, Tỵ từ 9 giờ đến 11 giờ, Ngọ từ 11 giờ trưa đến
1 giờ trưa và tiếp tục có giờ Mùi, Thân, Dậu, Tuất rồi đến giờ Hợi là từ
9 giờ tới 11 giờ đêm tức là hết một ngày và một đêm.
Bên
Ấn độ chia thời gian ra làm 6 thời. Buổi sáng từ 5 giờ đến 9 giờ, buổi
trưa từ 9 giờ đến 1 giờ chiều, buổi chiều từ 1 giờ đến 5 giờ, buổi tối
từ 5 giờ đến 9 giờ tối, ban đêm từ 9 giờ tối đến 1 giờ khuya, buổi khuya
từ 1 giờ khuya đến 5 giờ sáng.
Và
cứ thế trái đất quay quanh mặt trời đủ một vòng là hết 365 ngày đêm mà
ta gọi là một năm.
Để
chỉ một thời gian dài, trải qua thật nhiều kiếp, trong kinh thường nói
đến danh từ A tăng kỳ kiếp, có nghĩa là vô lượng, vô số kiếp.
Để
chỉ thời gian thật ngắn thì có danh từ Sát na. Sát na được hiểu là
khoảng thời gian thật ngắn ngủi, một thoáng thời gian thật mau lẹ. Có
nơi nói sát na là một khoảng khắc của một ý nghĩ, là khoảng thời gian
của một niệm. Có nơi nói trong một niệm có 90 sát na, trong một sát na
có 90 lần sanh diệt. Thành thật luận nói sát na là một khoảng thời gian
rất ngắn ở đó có muôn pháp sanh diệt, từ sát na này đến sát na kia các
pháp cứ tiếp tục sanh diệt mãi nên còn gọi là sát na sanh diệt.
Mặt
trời hiện ra và lặn biến ở một phương hướng nhất định được gọi là hướng
Đông và hướng Tây theo thứ tự.
Các
sự xoay chuyển của các tinh tú trên bầu trời có vận tốc nhanh hơn vận
tốc của trái đất nên các tinh tú cứ di chuyển gần lại với trái đất, sau
đó lại di chuyển ra xa rồi biến đi vì đã di chuyển vòng qua sau mặt
trời. Vì thế mà mỗi đêm khi nhìn lên bầu trời, ta thấy các chùm tinh tú
cứ càng ngày càng di chuyển xa ra và hướng về một hướng nhất định mà ta
gọi là hướng Tây. Các chùm tinh tú đó lại di chuyển xa dần cho đến khi
bị che khuất. Sau khi di chuyển vòng qua sau mặt trời, các chùm tinh tú
đó lại hiện ra từ phương Đông, tiến gần lại trái đất, rồi lại di chuyển
ra xa về hướng Tây.
Có
những tinh tú luôn luôn hiện ra ở một hướng nhất định như sao hôm và sao
mai còn gọi là sao Nam Tào và sao Bắc Đẩu, luôn luôn hiện ra ở hướng Nam
và hướng Bắc theo thứ tự. Do các phương hướng và vị trí của các ngôi sao
mà các thủy thủ biết được vị trí của mình trên biển cả. Đó là nói đến sự
thành lập của phương hướng mà duy thức gọi là phương.
Nói
do sự xoay chuyển mà có thời gian và phương hướng phải được hiểu theo
nghĩa là do sự xoay chuyển mà có khái niệm về thời gian và không gian
chứ không phải là sự xoay chuyển sanh ra thời gian và không gian.
Thật ra phương và thời cũng như mọi việc mọi sự trong cái thế giới sai
biệt đới chất cảnh này đều Như Huyễn vì đều là sự biến hiện của Chân
Tâm. Quá khứ, hiện tại và vị lai chỉ là khái niệm về thời gian mà thôi
chứ xét cho cùng thì ngay cả đến hiện tại cũng không thành lập được thì
làm sao mà thành lập quá khứ và vị lai. Mọi việc vừa xẩy ra đã không còn
là hiện tại nữa thì lấy cái gì làm mốc để nói lúc nào là quá khứ, lúc
nào là vị lai.
Thời gian cũng như những bước chân nối tiếp nhau, cứ chân phải đạp xuống
thì chân trái bước lên, chân trái đạp xuống thì chân phải bước lên. Vừa
đạp chân xuống thì hiện tại đã qua đi và vừa bước chân lên thì cũng
không còn hiện tại nữa. Không bước chân và đạp chân nào là hiện tại thì
lấy gì làm mốc để phân biệt quá khứ và vị lai. Và cũng tương tự như vậy
không có gì làm mốc để phân biệt phương hướng. Tất cả chỉ là khái niệm,
quy ước và tương đối.
Về
đêm các tinh tú trên bầu trời khi thì hiện rõ, khi thì ẩn tàng, tùy theo
bầu trời trong sáng không cố mây che hay là tăm tối vì có mây che. Các
tinh tú có khi họp thành từng chùm, có khi nhiều, có khi ít và kết thành
những hình thể khác nhau tùy theo mùa Xuân, Hạ hay Thu, Đông. Xa xa tít
thật xa còn có hằng triệu triệu các vì tinh tú thuộc các giải ngân hà
khác, ngoài giải ngân hà của chúng ta. Do đó mà có khái niệm về số
lượng, về nhiều và về ít.
Trong kinh Kim Cang, đức Phật thường dùng số cát của sông Hằng để chỉ
cho một số lượng thật nhiều. Hãy đọc một đoạn kinh sau của Phật nói với
Tu bồ đề trong kinh Kim Cang:
Này
Tu Bồ Đề, như trong sông Hằng có bao nhiêu số cát. Số sông Hằng bằng số
cát như thế. Ý ông nghĩ sao? Số cát của những sông Hằng ấy gom lại có
thật nhiều chăng? Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Chỉ số cát của
một sông Hằng đã là vô số rồi, huống chi là số cát của tất cả các sông
Hằng đó.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật có nói mười con số lớn là: A tăng kỳ tức là
vô số, Vô lượng có nghĩa là nhiều không thể lường được, Vô biên là không
có bờ bến, Vô đẳng là không có gì bằng, Bất khả số là không thể đếm hết
được, Bất khả xưng là không thể nói ra được, Bất khả tư là không thể
nghĩ ra được, Bất khả lượng là không thể đo lường được, Bất khả thuyết
là không thể diễn tả ra được và Bất khả thuyết bất khả thuyết tức là
không thể nào nói không thể nào nói được.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Thế Tôn nói mọi vật trùng trùng duyên khởi, tương
tức, tương sanh, tương diệt. Khi đủ duyên thì sanh khởi, cái này duyên
cho cái kia, không có gì là không tương quan với nhau, có cái này tức là
có cái kia. Các sự vật dường như riêng rẽ nhưng lại không trở ngại lẫn
nhau, mọi sự có nhanh có chậm nhưng lại chuyển động theo một trật tự cực
kỳ vi tế khiến cho chúng sanh đều tưởng là do sự tạo tác và sắp xếp của
một vị thần linh toàn năng cai quản cái vũ trụ này hoặc là một sự cấu
tạo tự nhiên sẵn có từ nguyên thủy mà nào ngờ đâu tất cả đều là những
biến hiện từ nơi Chân Tâm.
Chỉ
vì một niệm vô minh mà Chân Tâm bị vẩn đục chuyển thành Tâm Thức, nơi mà
mọi sự vật trùng trùng duyên khởi, chuyển biến thành vô lượng kiếp chúng
sanh trong vô lượng quốc độ. Khi mà chúng sanh và thế giới chuyển hiện
ra thì bị vận hành theo luật tương sanh tương duyên, tương tức tương
diệt của luật Nhân Quả, của Sanh, Trụ, Dị, Diệt hoặc của Thành,Trụ,
Hoại, Không hay là Sanh, Lão, Bệnh, Tử.
Ở
nơi chúng sanh thì nói Sanh, Lão, Bệnh, Tư; ở trong tâm thức thì nói
Sanh, Trụ, Dị, Diệt; ở trong vũ trụ thì nói Thành, Trụ, Hoại, Không.
Ví
như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa Xuân cây cối đâm chồi nẩy mộng, mùa
Hạ kết thành hoa trái, mùa Thu tàn úa và đến mùa Đông thì khô chết. Khi
hòa hợp thì mưa thuận gió hòa, mọi sự sinh sôi nẩy nở tốt tươi. Khi hết
hòa hợp thì thiên tai, động đất, bão lụt, hạn hán tàn phá. Mọi sự trở
nên tiêu đièu, ảm đạm, tàn tạ và bị hủy diệt. Đó là khái niệm về
hòa hợp và bất hòa hợp.
Tóm
lại Bất Tương Ưng Hành Pháp gồm 24 món: Đắc,
Mạng Căn, Chúng Đồng Phận, Dị Sanh Tánh, Vô Tưởng Định, Diệt Tận Định,
Vô Tưởng Báo, Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân, Sanh, Trụ, Lão, Vô Thường,
Lưu Chuyển, Định Vị, Tương Ưng, Thế Tốc, Thứ Đệ, Thời, Phương, Số, Hòa
Hợp Tánh và Bất Hòa Hợp Tánh.
Các
pháp số này không thuộc về tâm pháp và cũng không thuộc về sắc pháp,
chúng là những quan niệm trừu tượng nói về những quan hệ, những trạng
thái và tánh chất của cả sắc pháp lẫn tâm pháp nên được gọi là
BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH PHÁP.
Các
sự chuyển biến bên trong tâm thức đều do các chủng tử và hiện hành làm
nhân duyên cho nhau mà hiện khởi. Tất cả dều trải qua các chu kỳ của
nhân duyên, sở duyên duyên, đẳng vô gián duyên và tăng thượng duyên. Tất
cả các hành tướng này đều thật âm thầm và vi tế mà tri giác không thể
nhận biết được. Như đã nói trong các chương trước, các chủng tử và hiện
hành cứ bị chiếu soi, phân biệt, khi thì là nhân, khi thì là quả. Chủng
tử bị chiếu soi thành quả hiện hành, hiện hành này lại được đưa vào tâm
thức để thành một chủng tử mới. Các chủng tử và hiện hành trong A lại da
thức cứ liên tục huân tập và chuyển biến, cứ hết làm nhân thì lại làm
quả, tương duyên tương sanh, cứ thế mà chuyển biến mà huân tập, làm sanh
khởi ra đủ loại mầm mống của các pháp khác nhau. Vì A lại da thức có cái
khả năng lưu giữ tất các mầm mống của đủ mọi pháp trong tam giới lục đạo
nên duy thức còn gọi nó là Nhất Thiết Chủng Thức. Hãy bàn về bài
tụng thứ mười tám của Bồ tát Thế Thân.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI TÁM
Do
Nhất Thiết Chủng Thức
Như
thị như thị biến
Dĩ
Triền Chuyển lực cố
Bỉ
bỉ Phân Biệt sanh.
Dịch là:
Do
thức Nhất Thiết Chủng
Biến như vậy như vậy
Vì
năng lực Triền Chuyển
Kia
kia Phân Biệt sanh.
Chỉ
vì mê vọng mà Tâm thể vốn uyên nguyên trong sáng và không ngằn mé khởi
ra có cái năng chiếu soi và cái sở chiếu soi, khiến bị nhiễm ô và lưu
ngại rồi kết cấu lại thành cái tàng thức chứa đủ mọi hạt giống của sanh
tử luân hồì.
Bồ
tát Thế Thân nói biến như vậy như vậy là muốn diễn tả sự chuyển biến
liên tục không ngưng nghỉ. Sự chuyển biến trùng trùng duyên khởi của các
chủng tử nơi Tàng Thức là nguyên nhân của tất cả các nghiệp chướng sau
này.
Cái
năng lực tự tăng trưởng, xông ướp, huân tập, chuyển biến sanh khởi liên
tục triền miên không ngưng nghỉ của các chủng tử và hiện hành nơi A lại
da thức, được gọi là cái Năng Lực Triền Chuyển. Vì cái năng lực
Triền Chuyển chiếu soi này mà các chủng tử và hiện hành trong A lại da
thức bị phân biệt liên tục mà khởi sanh ra vô lượng hạt giống sanh tử.
Các hạt giống này có đủ loại, xấu có, tốt có và có cả không tốt lẫn
không xấu.
Ngài Thế Thân dùng chữ bỉ bỉ (kia kia) là có ý nói rất nhiều, vô lượng
hạt giống của các pháp đều do cái năng lực Triền Chuyển này mà khởi
sanh.
Sự
chiếu soi và huân tập liên tục trong A lại da thức tạo nên một dòng
nghiệp lực. Vì sức mạnh của các nghiệp lực này mà chúng sanh bị luân hồi
trong sanh tử.
Hãy
nghe Bồ tát Thế Thân nói về các nghiệp lực này trong bài tụng thứ mười
chín.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI CHÍN
Do
chư nghiệp tập khí
Nhị
thủ Tập Khí câu
Tiền Dị Thục ký tận
Phục sanh dư Dị Thục.
Dịch là:
Do
tập khí các nghiệp
Cùng tập khí hai Thủ
Nên
Dị Thục trước hết
Lại
sanh Dị Thục sau.
Như
trên đã nói các chủng tử có cái khả năng tự chuyển biến, tự huân tập, tự
tăng trưởng thuần thục và chín mùi rồi chuyển hiện ra quả Dị Thục. Những
huân tập, tăng trưởng và chuyển biến đó tạo ra những tập khí, tức
là những thói quen. Những thói quen này lâu dần sẽ tạo ra cái nghiệp
lực. Khi nghiệp lực chín mùi thì sanh ra nghiệp báo. Khi cái nghiệp báo
này hết rồi thì lại có nghiệp báo khác sanh ra.
Tóm
lại nguyên nhân của sanh tử luân hồi là vì các thói quen phân biệt do mê
vọng mà khởi sanh. Do mê vọng mà Chân tâm bị chia ra làm hai phần, kiến
phần và tướng phần tức là phần chủ thể và phần đối tượng. Mạt na thức
chấp chặt vào hai phần này và khởi ra hai caí thủ (nhị thủ) mà
duy thức gọi là năng thủ và sở thủ.
Năng thủ
tức
là cái năng chiếu soi và phân biệt, là cái chủ thể chiếu soi và phân
biệt. Sở thủ là các pháp bị chiếu soi và phân biệt nghĩa là cái
đối tượng bị chiếu soi và phân biệt. Nói một cách đơn giản thì các năng
chiếu soi và phân biệt đó gọi là các niệm khởi nơi tâm thức. Các niệm
này cứ liên tục sanh khởi như dòng thác lũ, cứ hết dòng nước này qua thì
có dòng khác chẩy tới, không lúc nào ngưng nghỉ. Cứ mỗi lần niệm khởi là
có một dòng nghiệp lực, theo thời gian khi đủ duyên thì sanh khởi một
quả báo tương ưng. Các niệm thì cứ liên tục sanh khởi, niệm niệm sanh
khởi, nên các quả báo cũng vậy. Vì thế cho nên bài tụng nói
dị thục trước hết lại sanh dị thục sau.
Các
phân biệt và chiếu soi đó làm cho các pháp bị biến đổi khác với cái chân
thật của chúng. Sự thấy khác đó được duy thức học gọi là Biến Kế Sở
Chấp. Hãy nghe Bồ tát Thế Thân diễn tả tánh Biến Kế Sở Chấp trong
bài tụng thứ hai mươi.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI
Do
bỉ bỉ biến kế
Biến kế chủng chủng vật
Thử
Biến Kế Sở Chấp
Tự
tánh vô sở hữu
Dịch là:
Do
kia kia biến kế
Biến kế mọi mọi vật
Biến Kế Sở Chấp này
Tự
tánh không thật có
Bỉ
bỉ biến kế
là muốn nói đến cái tác dụng biến kế tức là cái năng biến
kế. Do cái năng biến kế này mà mọi vật, mọi sự, mọi ngã và pháp trong
tam giới lục đạo bị phân biệt và chấp trước.
Biến kế chủng chủng vật
là nói đến đối
tượng bị biến kế tức là cái sở biến kế. Chủng chủng là mọi sự, mọi vật,
mỗi cái, mỗi cái đều bị so đo và phân biệt. Tất cả các ngã và pháp đều
do phân biệt chấp trước mà chuyển biến sai khác.
Bồ
tát Thế Thân nói biến kế sở chấp này tự tánh không thật có. Tánh biến kế
sở chấp không thật có mà chỉ vì mê lầm mà hiện khởi. Tánh biến kế sở
chấp ví như sự tưởng tượng một vật không thật có thành ra có, hoặc thấy
một sự việc một cách sai lầm thành ra sự việc khác. Tỷ như trong hư
không không có hoa đốm mà vì bị bệnh nơi con mắt mà thấy có hoa đốm; như
trong sa mạc, nhìn ánh nắng chiếu nơi xa tưởng là mặt nước hoặc trong
bóng tối nhận lầm sợi dây là con rắn.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật nói với ông Phú Lâu Na rằng các pháp nguyên
là Chơn, là Tánh Giác Diệu Minh nhưng nếu mình vọng chấp phát minh ra có
hư không, đất, nước, gió, lửa thì mỗi thứ mỗi hiện ra. Các sự hiển hiện
ra đó là do hư vọng. Hãy đọc lời kinh này:
"Tánh Giác Diệu Minh chơn thật cũng lại như thế. Nếu ông phát minh cái
hư không thì có hư không hiện ra; địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại
mỗi thứ mỗi phát minh thì mỗi thứ hiện ra; nếu cùng phát minh thì cùng
hiện ra. Thế nào là cùng hiện ra? Phú Lâu Na, như trong một ao nước hiện
ra một bóng mặt trời. Hai người đồng xem bóng mặt trời trong ao nước,
một người đi qua hướng đông, một người đi qua hướng tây, thì hai bên đều
có mặt trời đi theo mình, một về phương đông, một về phương tây, không
có chuẩn đích trước. Không nên gạn hỏi mặt trời đó chỉ có một, làm sao
mỗi cái lại đi theo mỗi người? Mặt trời đã thành hai, làm sao hiện chỉ
có một? Hư vọng xoay vần như thế, không thể lấy gì làm bằng cứ".
Trong một đoạn kinh trước đó, Phú Lâu Na hỏi Phật rằng chân tâm vốn là
giác rồi thì tại sao lại khởi vọng chiếu soi để đến nỗi nó chuyển biến
ra sơn hà hải địa, thế giới và vũ trụ như chúng ta hiện thấy. Phật hỏi
ông Phú Lâu Na rằng theo ông thấy thì cái sáng suốt gọi là tánh giác (vi
phục tánh minh xưng danh vi giác) hay là cái không sáng suốt gọi là
tánh giác (vi giác bất minh xưng vi minh giác). Phú Lâu Na trả
lời nếu nói không sáng suốt là tánh giác thì không có gì là sáng cả (nhược
thử bất minh danh vi giác giả, tắc vô sở minh). Phật dậy: Theo ông
thì không sáng suốt không phải là tánh giác vì nó không thấy đúng, nhưng
nếu nói sáng suốt là tánh giác thì cũng không trúng vì khi thấy là có
phân biệt thì không còn là chơn nữa, không còn là tánh giác trạm minh
(vắng lặng mà sáng suốt) nữa. Tánh giác vốn vắng lặng nhưng vì vọng động
mà có năng đối với sở.
Thật ra không thể dùng lời nói để chỉ ra cái rốt ráo của Chân Tâm. Không
thể dùng lời lẽ giới hạn để chỉ bày một cái vô giới hạn. Phật nói ra
thì chỉ cho hạng A la hán đã có công năng tu trì thâm hậu mới nương vào
đó trực ngộ thôi chứ hạng sơ cơ như chúng ta cứ lấy cái tâm phân biệt để
tìm hiểu thì biết đến bao giờ mà khai ngộ.
Lời
nói của Phật là lời nói của vị đã tu hành đến quả vô lậu thì không thể
nào nghĩ bàn được. Chúng ta phải tin và dựa vào đó để tu hành thiền
quán, diệt tham sân si cho đến khi đắc quả bồ đề. Lời Phật nói chưa từng
sai. Khoa học càng tiến bộ thì con người càng thấy rõ sự chân thực của
các lời kinh. Phật từng nói hãy quán trong bát nước có tám vạn bốn ngàn
chúng sanh, sau này khoa học quả nhiên khám phá trong nước có rất nhiều
vi trùng. Kinh thường nói đến chữ tam thiên đại thiên thế giới, có
nghĩa là ngoài vũ trụ này còn có hằng tỷ tỷ vũ trụ khác và quả nhiên bây
giờ với những siêu viễn vọng kính con người đã có thể thấy hằng triệu
triệu các giải ngân hà khác ngoài giải ngân hà mà chúng ta đang hiện
hữu. Phật nói chỉ có một cái khẩy móng tay thôi mà âm ba của nó cũng đi
tận tới tam thiên đại thiên thế giới và quả nhiên bây giờ với hệ thống
vệ tinh ta có thể bắt được các làn sóng âm thanh thật nhỏ nhiệm và vi tế
từ nơi thật xa xôi và do đó đã phát minh ra mạng lưới liên lạc viễn
thông bằng những điện thoại không dây. Phật nói tam thiên đại thiên thế
giới có thể thâu tóm trong một hạt cải và một hạt cải có thể chứa được
tam thiên đại thiên thế giới thì nay với đà phát minh của điện toán
người ta có thể phát minh ra một thứ kim loại nhỏ xíu mà khả năng của nó
có thể lưu giữ hàng tỷ tỷ dữ kiện. Trong kinh Phật thường nói đến những
quang minh tức những ánh sáng thì bây giờ với sự nghiên cứu về vật lý
quang năng, các nhà khoa học có thể dùng các kính cực vi điện tử, phóng
đại cái nhỏ nhiệm nhất mà ta thường gọi là nguyên tử, nhìn sâu vào trung
tâm cái nhân của nó và quả nhiên thấy các vật chất không còn hoàn toàn
là vật chất nữa mà là những làn sóng chuyển biến kỳ diệu, chợt hiện rồi
chợt biến, khi thì là vật chất khi thì là những làn sóng với những tần
số và chu kỳ thay đổi chuyển biến thật nhịp nhàng và linh động.
Đó
là chỉ nói sơ sơ thôi chứ viết ra hết thì không cùng. Ta đã thấy những
cái bất khả tư nghì như thế trong các lời kinh, thế mà sau Phật cả hơn
hai ngàn năm, vào khoảng thế kỷ thứ 16 giáo hội Ky Tô giáo đã hành hạ,
tra tấn và bỏ tù Galilleo Galilei vì ngài dám nói trái đất tròn trong
khi kinh thánh hồi đó nói trái đất hình vuông. Galileo là một nhà toán
học và đã dùng toán học mà chứng minh rằng trái đất tròn. Bị hành hạ và
tra tấn quá nên trước toà án ngài cũng phải thều thào nói vâng nếu quý
ngài muốn tôi nói nó là vuông thì tôi nói nó là vuông, nhưng dù nói nó
là vuông thì sự thật nó vẫn tròn. Vì vậy mà Galileo bị bỏ tù chung
thân.
Albert Einstein, một nhà vật lý học của thế kỷ 20, nổi tiếng với thuyết
tương đối vì đã tìm ra định luật tương quan giữa vật chất và năng lượng
với công thức E=mc2, có nghĩa là năng lượng bằng tích số của khối lượng
và bình phương của vận tốc, trong đó E là năng lượng, m là trọng khối và
c là là vận tốc. Nhưng với một tốc độ nhanh hơn tốc độ của ánh sáng tức
là nhanh hơn 300,000 km/sec thì định luật này không đứng vững được.
Einstein với trực giác siêu việt đã phải tuyên bố trước khi chết là nếu
phải lựa chọn một tôn giáo để theo thì tôi chọn Phật giáo vì Phật giáo
thật sự nhân bản và hợp với khoa học. Đó là nói sơ lược về những bất khả
tư nghì, những điều không thể nghĩ bàn, vượt trên sự suy luận của tri
thức thường tình đối với những lời kinh xưa.
Các
pháp vốn như huyễn nhưng vì Biến Kế Sở Chấp mà chuyển hiện ra có chủng
tử và hiện hành, kiến phần và tướng phần, tâm thức và hiện tượng. Các
năng và sở này làm nhân duyên cho nhau, trùng trùng duyên nhau mà hiện
khởi chứ thật ra không có tự tánh cố định chân thật. Vì cái này có nên
cái kia có, nên nói các pháp đều duyên khởi.
Cái
nhà không phải là cái nhà, chỉ là tên gọi thôi. Cái nhà sở dĩ có được là
do có người muốn xây dựng, có người vẽ họa đồ, có người thợ hồ, thợ mộc,
có các vật dụng như thang, dây, cuốc, xẻng, gỗ, đá, vôi, hồ, v.v... Cho
nên nói cái nhà không có tự tánh cái nhà, không có cái tánh nhất định
của nó. Vì bởi do những cái không phải là nó duyên hợp lại nên cái nhà
không có tự tánh là cái nhà mà chỉ là quy ước đặt tên cho nó là cái nha
mà thôi.
Nói
rộng ra mọi sự, mọi vật, tất cả các ngã và pháp trong tam giới lục đạo
đều không có tự tánh chân thật, không có tự tánh cố định. Chúng chỉ
nương nhau mà hiện hữu, vì cái này có nên cái kia có nên nói chúng đều
là y tha khởi.
Bồ
tát Thế Thân nói về Y Tha Khởi trong bài tụng thứ hai mươi mốt như sau.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI MỐT
Y
Tha Khởi tự tánh
Phân biệt duyên sở sanh
Viên Thành Thật ư bỉ
Thường viễn ly tiền tánh.
Dịch là:
Tự
tánh Y Tha Khởi
Do
duyên phân biệt sanh
Viên Thành Thật nơi đó
Xa
lìa Biến Kế trên.
Tất
cả các cảnh giới, tất cả các Ngã và Pháp trong Tam Giới Lục Đạo, đều do
Tâm thức chuyển hiện ra bởi những chiếu soi, phân biệt và chấp trước có
từ vô thủy. Sự chiếu soi, phân biệt và chấp trước cũng được gọi là tánh
Biến Kế Sở Chấp, là tánh so đo chấp trước cùng khắp mọi thứ.
Vì
biến kế phân biệt mà các pháp làm nhân duyên cho nhau, tương duyên tương
sanh, trùng trùng duyên khởi làm hiện ra thân mạng chánh báo và thế giới
y báo của chúng ta. Y báo và Chánh báo này là Đới Chất Cảnh, là cảnh
giới không có tự tánh chân thật, không có cái thể tánh cố định, là cảnh
giới dời đổi và sanh diệt liên tục.
Trong cảnh giới này, tất cả đều nương nhau mà hiện hữu. Cái cây kia
không thể nào hiện hữu được nếu không có mảnh đất để bám víu vào. Nó
không thể tăng trưởng nếu không có đầy đủ ánh sáng và nước. Nó sẽ khô
héo và tàn lụi khi bị hạn hán tức là khi bị nóng cháy và không có mưa.
Khi đủ duyên, tức là khi mưa nắng thuận hòa thì tăng trưởng xanh tươi,
khi hết duyên tức là khi nắng cháy hoặc ngập lụt thì héo hon hay mục nát
mà tàn tạ. Cái cây đó không có tự tánh là cái cây vì nó do rất nhiều
thành phần tạo thành. Nào là rễ cây, vỏ cây, nhánh, lá, hoa, quả, v.v...
Cái cây không phải là rễ, vì nếu nó là rễ thì gọi nó là rễ chứ không gọi
là cây. Nó cũng không phải là thân, vì nếu là thân thì gọi nó là thân
chứ không gọi là cây. Tóm lại cái cây có được là do những thành phần
không phải là cây duyên nhau mà hiện hữu.
Tất
cả mọi cảnh giới đều do những đối tượng của cái tâm phân biệt duyên nhau
mà sanh khởi. Tất cả mọi cảnh giới đều không có tự tánh cố định, chúng
đều do các thành phần khác với chúng duyên nhau mà thành lập. Nên nói
tất cả các pháp đều là Y Tha Khởi. Hai câu đầu của bài tụng này Y tha
khởi tự tánh phân biệt duyên sở sanh có ý muốn nói tất cả các ngã và
pháp đều do phân biệt duyên khởi mà sanh ra, chúng đều là giả hợp, không
cố định, không thường còn, không có tự tánh, chúng đều nương nhau mà
hiện hữu.
Vì
sự chấp trước và phân biệt của Biến Kế Sở Chấp mà các Ngã và Pháp vốn là
huyễn mà lại được chấp là thật có, rồi khởi sinh phân biệt là có hiện
hữu, không hiện hữu, giống nhau, khác biệt, là có cả hiện hữu lẫn không
hiện hữu, có cả khác biệt lẫn không khác biệt, là không có cả hiện hữu
lẫn không hiện hữu, không có cả khác biệt lẫn không khác biệt. Tất cả
những đối đãi có không đó đều do biến kế sở chấp mà có.
Các
thí dụ sợi dây bị nhận lầm là con rắn, sóng nắng mà tưởng là mặt hồ và
các cây lau gác lên nhau mà tưởng là người được thấy rải rác trong các
kinh luận, đặc biệt là khi nói về tâm pháp.
Ban
đêm đi trên đường hoang vắng vì lo sợ nên khi thấy sợi dây lại tưởng lầm
là con rắn nhưng khi định tâm nhìn kỹ lại thì nhận ra đó là sợi dây chứ
không phải con rắn. Khi đi trong sa mạc nắng cháy, vì quá khát nước nên
ánh nắng chiếu sáng trên mặt cát trước mặt thường bị nhận lầm là mặt hồ
cho đến khi tới gần thì mới biết đó là ánh dương diệm. Trong các cánh
đồng những cành lau chặt được thường được dựng gác lên nhau, nhìn xa
tưởng là người nhưng khi lại gần thì đó chỉ là những cành lau gác lên
nhau mà thôi.
Vì
Biến Kế mà các cảnh giới được nhận biết không còn chân thật nữa tỷ như
sợi dây bị nhận lầm là con rắn, như ánh dương diệm mà tưởng là hồ nước.
Ngay nơi con rắn đó mà định tâm lại không còn bị biến kế nữa thì ta sẽ
thấy đó là sợi dây gai. Nơi ánh dương diệm đó mà định tâm không còn bị
biến kế nữa thì ta thấy ngay đó là sóng nắng chứ không phải mặt hồ nữa.
Cũng vậy nương nơi cảnh giới Y Tha Khởi mà không còn bị Biến
Kế Sở Chấp nữa thì ta sẽ thấy được cái chân thật của các pháp tức là
thấy được cái Viên Thành Thật.
Viên Thành Thật
là
sự viên mãn và toàn hảo, là thể tánh chân thật của tất cả các pháp. Tánh
chất nầy phổ biến và không có ngằn mé, như như bất sanh bất diệt.
Do
nơi Y Tha Khởi mà lìa được vọng chấp, xa rời Năng thủ và Sở thủ tức là
xa rời được tánh Biến Kế thì ngay nơi đó thấy được tánh Chân Như tức là
ngay đó là thấy được tánh viên thành thật. Bồ tát Thế Thân nói Viên
thành thật ư bỉ, Thường viễn ly tiền tánh là vậy. Ư bỉ ở đây nghĩa
là nơi Y Tha Khởi Tánh. Viễn ly tiền tánh tức là xa rời cái tánh nói ở
trên, ở đây nghĩa là xa rời Biến Kế Sở Chấp Tánh. Cả câu này nghĩa là
ngay nơi Y Tha Khởi mà xa rời được Biến Kế Sở Chấp thì đó là Viên Thành
Thật.
Hãy
nghiên cứu bài tụng thứ hai mươi hai của Bồ tát Thế Thân nói về tánh
Viên Thành Thật này.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI HAI
Cố
thử dữ Y tha
Phi
dị phi bất dị
Như
Vô thường đẳng tánh
Phi
bất kiến thử bỉ
Dịch là:
Nên
nó cùng Y tha
Chẳng khác không chẳng khác
Như
các tánh Vô thường
Thấy đây mới thấy kia
Viên Thành Thật và Y Tha Khởi không phải khác và cũng không phải chẳng
khác. Nếu là khác thì làm sao nói được rằng nếu lìa được Biến Kế Sở Chấp
thì Y Tha Khởi tức là Viên Thành Thật. Nếu là giống thì gọi Y Tha Khởi
là Viên Thành Thật chứ không gọi là Y Tha Khởi và cũng không nói Viên
Thành Thật là bản thể Chân Như của Y Tha Khởi.
Y
Tha Khởi và Viên Thành Thật cũng tỷ như sóng và nước. Biến Kế Sở Chấp tỷ
như gió. Sóng chẳng khác nước vì sóng do nước bị gió thổi mà khởi sanh,
nhưng không thể nói sóng là nước được, vì nếu sóng là nước thì ta gọi nó
là nước chứ không gọi là sóng. Đó là ý nghĩa của cái chẳng khác và không
chẳng khác.
Tánh Y Tha
và
Viên Thành Thật cũng giống như các tánh Vô Thường, Vô
Ngã và Không mà ta thường thấy trong các kinh điển. Vô
thường, Vô ngã và Không thường được gọi là Tam pháp ấn. Vì hiểu được các
pháp là vô thường và vô ngã nên ta khởi được cái tâm tu hành không tạo
tác và do đó đạt được cảnh giới Không tịch tức cảnh giới không sanh
không diệt của Niết Bàn tịch tĩnh.
Nếu
thấy được các pháp là vô thường, vô ngã mà phát tâm tu trì phá bỏ vọng
chấp về ngã và pháp thì sẽ thấy được Như Lai. Nói cách khác nếu trở về
đựơc với tánh Như Lai thường tịch thường chiếu rồi thì ta sẽ thấy rõ
tánh vô thường, vô ngã của các pháp.
Viên Thành Thật đối với Y Tha Khởi cũng giống như Vô thường, Vô ngã và
Không đã nói ở trên. Biết được các pháp là Y Tha Khởi mà khởi tâm tu
hành xa rời được Biến Kế Sở Chấp thì ta sẽ thấy Viên Thành Thật. Nếu
không biết các pháp là Y Tha Khởi thì sẽ không xa rời được Biến Kế Sở
Chấp nên sẽ chẳng bao giờ thấy được Viên Thành Thật. Khi đã thấy được
Viên Thành Thật thì phải rõ là các pháp đều là Y Tha Khởi.
Đó
là ý nghĩa câu: Như vô thường đẳng tánh, Phi bất kiến thử bỉ. Phi
bất kiến thử bỉ dịch là không thấy đây thì cũng không thấy kia, ở bài
tụng này dịch là thấy đây mới thấy kia cũng là một nghĩa thôi.
Các
ngã và pháp do nhân duyên hòa hợp mà sanh khởi, không có thật tánh ví
như hoa đốm giữa hư không. Do Biến Kế Sở Chấp phân biệt vọng chấp đối
đãi cho các pháp là có, là không, là đồng, là dị nên chúng sanh cứ mãi
điên đảo trôi lăn trong lục đạo sanh tử luân hồi, không bao giờ trở về
được với chân tánh. Muốn chúng sanh xa rời được các điên đảo vọng chấp
của Biến Kế Sở Chấp nên đức Thế Tôn nói đến Y Tha Khởi tức là các pháp
đều do duyên khởi, không có tánh nhất định thường còn. Nương nơi y tha
này mà tu hành cho hết biến kế sở chấp thì sẽ chứng thực được chân tướng
của các pháp, thấy tất cả các tướng đều không có thật tánh, đều là như
huyễn, như bong bóng nước, như sương sớm đầu mai, như tia chớp, đã được
nói trong kinh Kim Cương:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như
mộng huyễn, bào ảnh
Như
lộ diệc như điển
Ứng
tác như thị quán
Tất
cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh và đều không có tự tánh
riêng biệt, cố định, tỷ như sợi dây thừng không có tự tánh của sợi dây
thừng mà là do nhiều sớ gai khô bện lại mà thành. Các sớ gai khô đó cũng
không có tự thể của sớ gai khô vì chúng là do những cây gai phơi khô đem
tước ra. Ngay đến cả cây gai đó cũng không thể hiện hữu nếu không có
mảnh đất để bám víu vào. Xem thế thì tất cả đều là Y Tha Khởi, không có
cái tướng nhất định của nó nên nói đến Tướng Vô Tánh.
Tất
cả mọi sự vật mỗi mỗi đều do những cái không phải là nó hòa hợp, duyên
nhau mà sanh chứ không có cội nguồn nhất định và cũng không phải tự
nhiên sanh. Không có gì tự nhiên sanh mà tất cả đều là biến hiện nơi tâm
thức. Cũng vì nghĩa này mà đức Thế Tôn nói đến cái Sanh Vô Tánh
tức là các pháp không có nguồn gốc sanh khởi rốt ráo hoặc do một đấng
quyền năng nào tạo ra. Sanh Vô Tánh cũng phải được hiểu thêm rằng dù các
pháp không có nguồn gốc sanh khởi rốt ráo nhưng không phải là chúng tự
nhiên được sanh ra, vì thế nên cũng được gọi là Vô Tự Nhiên Tánh.
Nương nơi Y Tha Khởi mà xa rời được Biến Kế Sở Chấp sẽ thâm nhập được
Viên Thành Thật tức Thắng Nghĩa của các pháp, tức Chân Như, tức
Tự Tánh, tức Phật Tánh.
Hãy
nghiên cứu bài tụng thứ hai mươi ba của Bồ tát Thế Thân.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI BA
Tức
y thử tam tánh
Lập
bỉ tam vô tánh
Cố
Phật mật ý thuyết
Nhất thiết pháp vô tánh
Dịch là:
Nương nơi ba tánh kia
Lập
ba không tánh này
Nên
Phật mật ý nói
Tất
cả pháp không tánh
Vì
muốn nói đến cái không tánh của mọi pháp mà trước hết Phật phải nói về
tam tánh, để rồi nói đến tam vô tánh.
Bài
tụng nói Phật mật ý nói nhất thiết pháp vô tánh là muốn nói đến
ba cái không tánh: tướng vô tánh, sanh vô tánh và thắng
nghĩa vô tánh. Vì muốn nói đến cái không tánh của mọi pháp nên Phật
phải khởi đầu bằng Tam Tánh, từ tam tánh Phật nói đến Tam Vô Tánh để
chúng sanh rốt ráo thâm nhập cái không tánh của các pháp. Ngược lại khi
nói đến cái không tánh của các pháp thì ta phải thấu rõ về tam tánh và
tam vô tánh để thật sự xa rời được mọi chấp chước sai lầm.
Trong 49 năm thuyết pháp, Phật phải bỏ ra 12 năm nói về pháp hữu vi,
dùng thí dụ thật tế trong các kinh A Hàm; sau đó Phật bỏ ra 8 năm thuyết
kinh phương đẳng hay quyền thừa nói đến sự hóa độ chúng sanh; tiếp sau
đó Phật thuyết về pháp vô vi, lý bát nhã, thuyết minh về cái thật tướng,
không tướng của các pháp trong các thời kinh Bát Nhã; sau cùng ngài mới
nói đến sự ngộ nhập tri kiến Phật tức Phật tánh, tức Thắng nghiã của các
pháp trong suốt 8 năm còn lại, điển hình là các kinh Pháp Hoa và Niết
Bàn. Sau cùng trước khi thị tịch Phật nói rằng trong 49 năm hoằng pháp
Phật chưa từng nói một lời, mục đích cũng vì muốn chúng sanh bỏ tất cả
những chấp trước dù vào lời nói của Phật để có thể hội nhập được tri
kiến của Phật.
Tam
Vô Tánh này sẽ được bàn rộng trong các bài tụng kế tiếp.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI BỐN
Sơ
tức Tướng Vô Tánh
Thứ
Vô Tự Nhiên Tánh
Hậu
do viễn ly tiền
Sở
chấp ngã pháp tánh
Dịch là:
Trước là Tướng Không Tánh
Kế
Không Tự Nhiên Tánh
Sau
do lìa tánh trước
Là
tánh chấp ngã pháp
Do
Biến Kế Sở Chấp Tánh mà thấy có tướng của các pháp chứ thật ra các pháp
đều như huyễn, không thật có nên Tướng Không Tánh được thành lập. Tất cả
mọi pháp đều như huyễn và hiện ra như "hoa đốm trong hư không". Trong
kinh Kim Cương Phật nói tất cả những gì có tướng đều là giả cả, nếu thấy
các tướng không tướng tức là thấy Như Lai:
Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng
Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai
Khi
nói đến Y Tha Khởi, sợ rằng chúng sanh bị vọng chấp và khởi niệm cho
rằng có một đấng quyền năng nào đó đã sáng tạo ra cái thế giới, vạn vật
vũ trụ này nên Phật nói đến cái Vô Sanh Tánh. Các pháp không phải là do
một đấng quyền năng nào tạo lập ra nhưng cũng không phải tự nhiên mà có.
Nếu cho rằng các pháp cứ đột nhiên mà khởi sanh thì chẳng khác gì các
trò huyễn thuật. Đó là ý nghĩa của cái gọi là Vô Sanh Tánh, cũng gọi là
Vô Tự Nhiên Tánh. Mọi pháp thật sự không có nơi sanh khởi nhất định,
không có cái nguyên nhân sanh khởi đầu tiên và cũng không phải tự nhiên
mà có, chúng chỉ là những giả hợp, duyên khởi từ những chủng tử và hiện
hành nơi Tâm thức.
Do
Viên Thành Thật mà nói Thắng Nghĩa Không Tánh vì trên cái nghĩa tuyệt
đối rốt ráo thì mọi vật đều như huyễn. Chỉ khi nào xa lìa được tánh Biến
Kế Sở Chấp tức là bỏ được tánh chấp trước vào ngã và pháp thì sẽ thấy
Thắng Nghĩa của các pháp tức là thấy được cái chân thật của các pháp nên
bài tụng nói: Sau do lìa tánh trước, Là tánh
chấp ngã pháp.
Biến Kế Sở Chấp tức là tánh chấp vào ngã và pháp, chấp mọi hiện hữu là
thật có và có pháp để mà đắc. Nếu bỏ được tánh này thì chứng được cái
gọi là Pháp Thắng Nghĩa. Gọi là Thắng Nghĩa hoặc Viên Thành Thật
nhưng thật ra không có gì để nắm bắt cả. Để nhấn mạnh đến cái tánh chất
không thể nắm bắt này nên nói là Thắng Nghĩa Không Tánh. Nói
không tánh là giả nói chứ không phải thắng nghĩa thật sự là không, ví
như hư không mặc dù bao trùm và thâm nhập tất cả các sắc nhưng lại được
hiển bầy bằng sự không hiện hữu của các sắc. Vì Thắng Nghĩa được hiển lộ
ra bởi sự không hiện hữu của ngã và pháp cũng như hư không được hiển bày
ở sự không hiện hữu của các sắc nên nói là Thắng Nghĩa Không Tánh.
Trong Lăng Kính Đại Thừa giáo sư Nghiêm Xuân Hồng viết:
"Mọi vật đều đến từ nơi Chân Không, từ những chủng tử, từ những cơn lốc
hư minh khởi lên từ nơi Chân Không, những cơn lốc đó tạo nên quang minh,
rồi kết tập thành vật:
Mọi
vật đến từ đó
Đột
hiện rồi đột tan
Tương tự như bào ảnh
Chẳng khác một giác mơ...
Suy
nghĩ thì sẽ thấy rằng mọi vật hình như Nở ra rồi Tàn Lụi đi trên cái
Biển Pháp Thân Thường Tịch Quang".
Trước khi sang bài tụng thứ hai mươi lăm ta hãy suy ngẫm mấy câu tụng
của Bồ tát Long Thọ trong Trung Quán Luận:
Các
pháp không phải từ duyên sanh
Cũng không phi duyên sanh
Bởi
vì các pháp vốn không thực có
Nên
duyên và phi duyên cũng không
Các
pháp không phải tự nó sanh ra
Cũng không phải do cái khác sanh ra
Không do cộng sanh, cũng không vô nhân sanh
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI LĂM
Thử
chư pháp thắng nghiã
Diệc tức thị Chân Như
Thường như kỳ tánh cố
Tức
Duy Thức Thật Tánh.
Dịch là :
Đây
thắng nghĩa các pháp
Cũng tức là Chân Như
Vì
tánh thường như vậy
Tức
Thật Tánh Duy Thức.
Tánh Viên Thành Thật chính là nghĩa thù thắng của các pháp, là Thắng
Nghĩa của tất cả các pháp. Thắng Nghĩa này cũng tức là Chân Như. Chân là
Chân Thật là muốn nói Viên Thành Thật không phải là giả. Như là Như Thị,
là lúc nào cũng như vậy, ý muốn nói Viên Thành Thật luôn như vậy, không
thay đổi. Chân Như là biểu thị pháp chân thật, không biến dịch, nơi tất
cả ngôi vị có tánh thường như vậy, cố định không thay đổi, vắng lặng
tịch tĩnh, không hư vọng.
Bài
tụng dùng chữ "Diệc" nghĩa là "Cũng" là để chỉ Thắng Nghĩa còn có nhiều
tên tỷ như Pháp Giới, Thật Tánh, Chân Tâm, Chân Như, v.v...
Thắng nghĩa
này
chính là Thật Tánh Duy Thức. Nói thật tánh là vì Duy Thức có thể
hiểu theo hai cách. Thứ nhất là tánh hư vọng tức Biến Kế Sở Chấp. Thứ
hai là tánh chân thật tức là tánh Viên Thành Thật cũng là Chân Như, là
Thắng Nghĩa. Nói Thật Tánh là muốn nói tới cái tánh chân thật để phân
biệt với tánh hư vọng.
Mặt
khác Duy Thức cũng có hai tánh. Tánh Tương Đối hay Thế Tục tức là
Y Tha Khởi. Tánh Tuyệt Đối hay là Thắng Nghĩa là tánh Viên Thành
Thật. Vì muốn nhấn mạnh tánh thắng nghĩa đó mà nói
Thật Tánh Duy Thức.
Hãy
tư duy bài kệ trong kinh Lăng Già Tâm Ấn:
Ví
như nai khát tưởng, Động chuyển tâm mê loạn
Nai
tưởng là nước, Mà thật không có nước.
Như
thế chủng tử thức, Động chuyển thấy cảnh giới
Người ngu vọng tưởng sanh, Như mắt nhậm bị che
Nơi
sanh từ vô thủy, Chấp trước tánh nhiếp thọ.
Như
ngược chốt tháo chốt, Xa lìa tham nhiếp thọ
Như
huyễn chú máy động, Mây nổi mộng điển chớp.
Quán thế được giải thoát, Hằng đoạn ba tương tục
Nơi
kia không người tạo, Ví như nắng trong không
Như
thế biết các pháp, Tức là không chỗ biết.
Các
kinh luận Phật giáo thường lấy ví dụ như Nai khát tưởng nước, Hoa đốm
trong hư không, Người huyễn được chú thuật, Con của thạch nữ, Trăng đáy
nước, Hoa trong gương để chỉ những điều không thật có.
Trên đường nắng, nai bị khát, nhìn ánh nắng ở xa tưởng là nước nhưng khi
lại gần thì không thấy có nước. Cũng như người đi trong sa mạc quá khát
thấy ánh dương diệm tức ánh chiếu của tia nắng mà tưởng là nước.
Có
những nhà huyễn thuật dùng chú làm những hình nộm mó máy, cử động được,
in tuồng như người thật nhưng thật ra chỉ là giả dối. Con của người đàn
bà bằng đá thì không thể có được vì người làm bằng đá thì sao có con
được.
Người bị nhặm mắt thấy hư không có hoa đốm hoặc có những vòng tóc chứ sự
thật hư không làm gì có sắc tướng. Cũng thế trăng ở dưới đáy nước hay
hoa ở trong gương đều là những ảnh phản chiếu của mặt trăng và hoa ở
ngoài nên chúng đều như huyễn, không có thật.
Trong bài kệ trên, đức Thế Tôn nói tất cả ba cõi đều như mộng huyễn và
không thật tánh. Do vọng mà các chủng tử thức động chuyển thành cảnh
giới như mắt nhậm thấy hoa đốm, như nai khát tưởng ánh nắng là nước. Các
cảnh giới chỉ là chấp trước nhiếp thọ mà sanh, tức là do biến kế sở chấp
mà sanh.
Nếu
xa rời được tánh chấp trước nhiếp thọ biến kế sở chấp này thì biết tất
cả đều là mộng huyễn, là không tánh. Quán như vậy cũng như biết cách
tháo được các mấu chốt của các gút mắc, biết được các pháp như mộng, như
người máy của nhà huyễn thuật, như mây nổi, như điển chớp. Do đó chứng
được giải thoát, đoạn được ba cái tương tục. Ba tương tục đó là
tương tục của sanh tử luân hồi, của nghiệp báo và
của thế giới cùng chúng sanh.
Trong các chương trước chúng ta đã biết Duy Thức Học cho rằng thế giới
hiện tượng mà chúng ta đang hiện hữu chỉ là một sự chuyển biến nơi tâm
thức. Căn bản của tâm thức là thức A lại gia, là nơi chứa đựng tất cả
mọi hạt giống chủng tử, những nghiệp nhân mà chúng ta đã tạo tác ra từ
thuở vô thủy cho đến bây giờ. Các chủng tử này chuyển biến, tăng trưởng
tiềm ẩn cho đến khi hội được đầy đủ nhân duyên thì hiện khởi ra một loài
nào đó trong tam giới. Hiện tại đây chúng ta mang hình hài của con người
sinh sống trên trái đất này mà Phật giáo gọi là cõi ta bà.
Đã
có thân xác là chúng ta bị vận hành bởi luật nhân quả, bởi thập nhị nhân
duyên, bởi sanh lão bệnh tử mà luân hồi trong sáu cõi. Mặc dù vậy với
kiếp làm người ta có cái khả năng tu tập để thoát ra khỏi các sự vận
hành đó. Sự tu tập này có những điều kiện căn bản cốt yếu và có những
thứ lớp địa vị trước khi đạt đến một sự giải thoát hoàn toàn mà ta
thường gọi là Giác Ngộ, là Chân Tâm, là Phật Tánh, là Chân Không Diệu
Hữu, là Chánh Đẳng Chánh Giác, là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề và rất
nhiều danh từ trừu tượng khác được nói tới trong tam tạng kinh điển.
Quả
vị tối thượng bồ đề mà chúng ta đang nói đến đây chỉ là tạm dùng danh từ
để hiển bầy chứ thật ra không thể gọi được là quả vị nào cả vì cảnh giới
này chỉ thật sự được trực nhận khi ta đã kinh nghiệm được một sự đột
biến nơi tâm thức. Cái cảnh giới này vượt khỏi tầm suy nghĩ và tưởng
tượng của con người nên không thể dùng lời nói để hiển bày ra được.
Không thể nào có thể dùng ngôn từ, một phương tiện có giới hạn để diễn
tả một cảnh giới vô giới hạn được. Tuy nhiên xin hãy tạm chấp nhận là có
cái cảnh giới vô thượng hầu có thể bàn luận và học hỏi.
Điều kiện tiên quyết là phải phát bồ đề tâm, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa
độ chúng sanh, nhất quyết phát nguyện đời đời kiếp kiếp tu trì theo
đường lối của bậc giác ngộ đã chỉ dậy, giữ tâm không lùi xụt, kiên trì
dũng mãnh tu tập cho tới khi đạt được thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác,
có được sự tự tại vô ngại, một năng lực bất khả tư nghì, tùy duyên ứng
hiện hóa độ chúng sanh.
Kinh Lăng Nghiêm có nói đến 57 quả vị dẫn đến Phật quả. Những quả vị đó
là: càn huệ địa, thập tín, thập trụ, thập hạnh,
thập hồi hướng, tứ gia hạnh, thập địa, đẳng giác và diệu giác.
Khi
mới phát tâm tu hành, căn cơ còn non nớt, sự hiểu biết còn nông cạn nên
địa vị này gọi là càn huệ địa. Càn tức là nông cạn, khô cằn ví
như mảnh đất mới được vun sới chưa được tưới tẩm nhiều.
Sở
dĩ hành giả phát tâm tìm hiểu và tu hành pháp đại thừa là vì trong A lại
da thức vốn sẵn có hạt giống đại thừa gọi là chủng tánh đại thừa.
Khi hạt giống này được vun sới đầy đủ sẽ tăng trưởng và vươn lên từ nơi
căn bản thức khiến ta cảm thấy thao thức muốn tầm cầu học đạo, khiến ta
có cơ duyên gặp được thiện tri thức, hướng dẫn, khai mở tâm thức, làm ta
tin tưởng ở pháp đại thừa, hiểu được sự như huyễn của vạn pháp, xa rời
được sự chấp trước, xa rời được vọng tưởng, tin tưởng vào đạo vô thượng
mà phát bồ đề tâm, tu tập thăng tiến qua các địa vị từ thập tín lên đến
thập địa, rồi đẳng giác và diệu giác.
Trong kinh Lăng Nghiêm, A Nan sau khi được Phật cho Văn Thù Sư Lợi dùng
thần chú cứu thoát khỏi chú thuật của Ma Đăng Già, đến trước Phật khóc
lóc, giận mình từ vô thủy đến nay, một bề học rộng nhớ nhiều mà chưa có
được định lực rốt ráo, cầu xin Phật chỉ cho các pháp Xa Ma Tha
(Samatha), Tam Ma Đề (Samadhi) và Tam Ma Bạt Đề
(Samapatti) là những phương tiện căn bản để thành đạo quả của chư Như
Lai.
Xa
Ma Tha, Tam Ma Đề và Tam Ma Bạt Đề ở kinh Lăng Nghiêm phải được hiểu
theo thứ tự là Chỉ, Quán và Thiền na. Chỉ là pháp tu định của tiểu thừa,
giữ cho tâm được yên, chẳng hạn như pháp chú tâm vào sự đếm hơi thở, chú
tâm vào hơi thở dài hoặc ngắn, chú tâm vào bụng phình lên hay xẹp xuống,
chú tâm vào đầu một que nhang đang cháy, v.v... Quán là pháp quán tưởng
của tiểu thừa, chẳng hạn như quán về mầu sắc xanh, trắng hoặc vàng,
quán nước, quán ảnh tượng của Phật hay các vị bồ tát, quán hình ảnh hoa
sen, quán các chữ phạn như án hay lam, ngũ đình tâm quán (sổ túc, bất
tịnh, từ bi, nhân duyên, 18 giới), quán tứ niệm xứ, quán nhân duyên,
v.v...Thiền na còn gọi là thiền hay thiền định là phương pháp của đại
thừa bao gồm cả chỉ lẫn quán.
Bàn
luận sâu về các pháp Chỉ và Quán không phải là phạm vi của bài này. Ở
đây chỉ muốn nhấn mạnh rằng muốn đạt đến cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác
không thể loại bỏ Thiền Định. Tùy theo phương pháp chỉ dậy của các vị tổ
mà có nhiều pháp môn và tông phái. Hiện nay những tông phái đại thừa
chính thường được nói tới là Tào Động, Tịnh Độ, Mật Tông và Lâm Tế. Mỗi
tông phái có chủ trương, đường lối, tông chỉ và cơ phong riêng. Tùy theo
cơ duyên và trình độ, theo tông phái nào thì phải giữ tông chỉ và cơ
phong của tông phái đó.
Tào Động cũng
gọi là thiền mặc chiếu tức là phương pháp tọa thiền giữ tâm tĩnh lặng,
biết các vọng niệm khởi lên mà không để vọng niệm lôi cuốn.
Tịnh Độ dùng
câu Nam Mô A Di Đà Phật còn gọi là lục tự Di Đà để giữ tâm được an định.
Mật Tông dùng
lục tự chân ngôn Om Ma Ni Bát Mê Hồng để an trụ tâm.
Lâm Tế thì
khán thoại đầu, hiện nay câu thoại đầu thông dụng được thực tập trong
các thiền đường bên Trung Hoa là câu Niệm Phật Là Ai?
Tâm
càng định thì tánh giác càng phát triển. Khi tâm tư đã lắng đọng thì
những sự ồn ào hay huyên náo bên ngoài không còn ảnh hưởng nhiều đến sự
định tâm của chúng ta, các vọng tưởng cũng ít khởi lên, và ta từ từ sẽ
cảm giác được những chuyển biến bên trong. Thoạt đầu là những vi vu có
thể là do những chuyển động của các luồng khí huyết lưu chuyển trong
châu thân, đi lên não bộ, cảm ứng đến các giây thần kinh. Rồi tánh giác
phát triển tinh tế hơn khiến ta cảm nhận được những cảnh giới ở xa, ở
trong màn đêm; đó là lúc tánh giác phá được những ngăn ngại của sắc ấm.
Sau
đó tánh giác phát triển thêm khiến hành giả thoát khỏi các ngăn ngại của
thọ, tưởng, hành và thức ấm, cảm nhận được tất cả những gì ta chưa từng
cảm nhận được, thấy được sự vận hành của tâm thức, vượt ra ngoài tầm
giới hạn của cả không gian lẫn thời gian.
Chính sự phát triển của tánh giác này sẽ đưa ta đến đạo quả vô thượng.
Sự phát triển tánh giác này là sự phát triển âm thầm trong vô thức hay
tiềm thức, là cái nhân không tạo tác, là cái nhân vô vi sẽ hướng chúng
ta đến quả giác ngộ vô vi, một sự giác ngộ viên mãn, một cảnh giới không
cảnh giới, một chân không vô vi.
Hãy
nghiên cứu bài tụng thứ hai mươi sáu nói về địa vị gia hạnh.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI SÁU
Nãi
chí vị khởi thức
Cầu
trụ Duy Thức Tánh
Ư
nhị thủ tùy miên
Do
vị năng phục diệt
Dịch là:
Khi
chưa khởi được thức
Cầu
trụ Duy Thức Tánh
Thì
hai thủ tiềm ẩn
Vẫn
chưa thể diệt trừ
Chúng sanh từ vô thủy bị vô minh chấp chước che lấp chân tâm nên mãi lưu
chuyển trong luân hồi sanh tử. Những chấp chước đó là phiền não
chướng và sở tri chướng. Hai chướng này còn gọi là hai thủ,
một là năng thủ, hai là sở thủ, là sự chấp chước vào khả
năng nhận thức và hiểu biết cùng đối tượng của sự nhận thức và hiểu biết
đó, luôn luôn thấy có ngaõ và có pháp.
Hai
thủ này rất khó khắc phục, khi chưa tu được đến bậc kiến đạo thì chưa
thể có cái khả năng diệt trừ được chúng vì chúng rất vi tế, nằm núp sâu
trong tâm thức, là căn nguyên của mọi chướng ngại ngăn trở tiến trình tu
hành.
Vậy
bậc kiến đạo là gì? Bậc kiến đạo là bậc sơ địa bồ tát, đã
trải qua 45 quả vị, từ quả vị càn huệ địa, qua thập tín, thập trụ, thập
hạnh, thập hồi hướng rồi tứ gia hạnh.
Đến
quả vị sơ địa thì mới thật sự nhận biết và thật tin nơi chánh pháp, mới
thật sự phát bồ đề tâm dũng mãnh, bỏ được hết các vị kỷ, quên được những
lợi ích riêng tư và làm điều gì cũng hồi hướng đến lợi ích và hạnh phúc
cho muôn loài. Vị bồ tát sơ địa đã trải qua địa vị tứ gia hạnh là địa vị
mà hành giả biết rõ con đường tu tập đưa đến giải thoát mà danh từ chữ
hán khi xưa gọi là thuận hướng đến phần quyết trạch, tức là thuận
hướng đến phần giải thoát chân thật. Vì biết rõ con đường tu hành nên có
cái khả năng diệt trừ hai cái thủ là năng thủ và sở thủ, còn gọi là hai
cái chấp, chấp ngã và chấp pháp.
Ở
đây tưởng cũng nên nói sơ về bốn cái gia hạnh này. Bốn gia hạnh gồm có
noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất.
Con
người khi hiện hữu họp nhóm lại thành từng nhóm, từng địa phương, phát
minh ra cách thức để liên lạc với nhau, đặt ra các quy ước về dấu hiệu
và âm thanh để diễn tả các đối tượng vật chất bên ngoài và tình cảm bên
trong, nhận xét và đặt tên, định nghĩa, phân biệt đặc tánh của từng hiện
tượng. Thành Duy Thức gọi đó là bốn pháp tầm tư.
Tầm tư danh, tầm tư nghĩa, tầm tư đặc tánh và tầm tư sai
biệt.
Ở
bậc noãn,
vị bồ tát phát sanh tầm tư bậc hạ, quán bốn pháp tầm tư đều do tự tâm
biến hiện, giả nói là có chứ kỳ thực không có gì để nắm bắt, tức là
không có tướng sở thủ. Các pháp đều như huyễn, và do cái huyễn đó mà đặt
ra có tên gọi, do tên gọi đó mà biết ý nghĩa và đặc tánh của các pháp,
từ đó mới phân biệt được sự khác biệt của các pháp. Các vị bồ tát tiếp
tục quán như vậy tới lúc đạt được hơi lửa đầu tiên của mặt trời trí huệ,
là đạt được bậc noãn, là hơi ấm, là tướng nóng.
Ở
bậc đảnh,
vị bồ tát phát sanh tầm tư bậc thượng, vẫn quán thấy bốn pháp tầm tư nói
trên đều do tự tâm biến hiện, các pháp đó chỉ giả thiết nói ra mà thôi
chứ thật sự không có gì để nắm bắt. Ở giai đoạn này tướng sáng của lửa
trí tuệ tăng thêm. Địa vị này là tột đỉnh của địa vị tầm tư nên gọi là
đảnh, vị bồ tát đã đứng trên đỉnh núi vượt trên mọi sự mê lầm, thấy được
khoảng không gian trong sáng bao la.
Noãn và Đảnh
đều
nương bốn tầm tư mà thành lập.
Ở
bậc nhẫn
thì
phát khởi Trí Như Thật bậc hạ, lìa khỏi Sở Thủ và Năng Thủ, nhẫn chịu
cảnh và thức đều không nên gọi là nhẫn. Khi ấy trí giác ngộ sáng tỏ,
thân tâm giữ được sự yên lặng trong sáng, không bị các pháp vẩn đục ở
chung quanh chi phối.
Ở
bậc thế đệ nhất
thì
phát khởi Trí Như Thật bậc thượng, lìa Năng Thủ và Sở Thủ liên tục không
gián đoạn nên chắc chắn sẽ nhập vào Kiến Đạo. Vì đây là pháp tối thắng
hơn cả của phàm phu nên gọi là thế đệ nhất, phá hết được các kiến hoặc
sai lầm của Phi tưởng phi phi tưởng, sẵn sàng nhập vào dòng thánh.
Nhẫn và Thế Đệ Nhất
đều
nương bốn như thật trí mà thành lập. Bốn Như Thật Trí là
Như Thật Trí Danh, Như Thật Trí Nghĩa, Như Thật Trí Đặc
Tánh và Như Thật Trí Sai Biệt.
Như
Thật Trí là trí biết hai thủ năng và sở đều không có thật tánh tức là rõ
biết rằng lìa thức thì không có bốn tướng Danh, Nghĩa, Đặc Tánh, Sai
Biệt và lìa bốn tướng đó thì cũng không có thức chấp thủ. Tất cả chỉ là
sự chuyển hiện nơi tâm thức, không có gì là hiện lượng (chân thật) để
nắm bắt.
Hãy
tiếp tục nghiên cứu bài tụng thứ hai mươi bẩy nói về điều kiện để trụ
được Duy Thức tức địa vị tư lương.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI BẨY
Hiện tiền lập thiểu vật
Vị
thị Duy Thức Tánh
Dĩ
hữu Sở Đắc cố
Phi
thật trụ Duy Thức.
Dịch là:
Nếu
còn một chút gì
Cho
là Duy Thức Tánh
Là
còn có Sở Đắc
Chẳng thật trụ Duy Thức.
Khi
tinh tấn tu hành thì thế nào cũng nếm được hương vị an lạc của sự tu
hành, hiểu những ý nghĩa thâm sâu trong các lời kinh, thấy được những
cảnh giới khó có thể lý giải, có thể biết trước được một vài sự việc, có
thể thấy được trong đêm tối hay là có những giấc mơ thật là kỳ lạ, kinh
nghiệm được những giây phút thoải mái trong khi thiền định. Lấy những
kinh nghiệm này làm pháp hỷ mà vững tin, dũng mãnh tu hành tinh tấn thì
tốt, nhưng lấy đó để mà khoe khoang chứng đắc thì là rất sai lầm.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật liệt ra 50 loại ma chướng trong khi tu tập,
Phật nói nếu thiền quán mà được những năng lực gì mà không khởi tâm thấy
mình có chứng đắc thì tốt, còn khởi tâm ưa thích hay là thấy mình chứng
bậc thánh thì rơi vào tà kiến. Hãy xem một đoạn kinh nói về tà kiến, về
sự chứng được ban đêm thấy phương xa:
"Lại dùng tâm ấy nghiên cứu sâu xa, bỗng ở giữa đêm thấy rõ chợ búa,
làng mạc, bà con quyến thuộc phương xa, hoặc nghe lời họ nói. Đây gọi là
dằn ép tâm cùng tột mà phóng hiện ra, nên thấy được cách xa như thế,
không phải là chứng bậc thánh; nếu không khởi tâm chứng thánh thì gọi là
cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh tức là mắc các tà kiến".
Hãy
xem thêm một đoạn kinh nói về ma chướng của sự Chấp Sanh Vô Sanh, trong
pháp Vô Sanh mà lại chấp có tứ đại sanh ra các pháp, chấp có cái Sanh
trong pháp Vô Sanh:
"Lại thiện nam tử, xét cùng tánh không của hành ấm, đã hết sanh diệt
nhưng chưa viên mãn về sự tinh diệu của tánh tịch diệt. Khi đã được tùy
thuận các căn viên dung, dùng thay lẫn nhau được, nơi tánh viên dung
biến hóa tất cả, phát sanh cầu cái ánh sáng của hỏa đại, ưa cái thanh
tịnh của thủy đại, yêu cái châu lưu của phong đại, xét cái thành tựu của
địa đại, rồi sùng phụng mỗi mỗi cái, nhận những tứ đại kia làm bản nhân
và lập nó làm cái nhận hiểu thường trụ, thì người đó sa vào cái chấp
'Sanh Vô Sanh', thành bè bạn với ông Ca Diếp Ba và bọn Bà La Môn, đem
hết thân tâm thờ lửa, thờ nước, để cầu ra khỏi sanh tử, mê muội tánh Bồ
Đề của Phật, bỏ mất chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ năm chấp trước,
phụng thờ, mê tâm theo vật, lập cái nhân mong cầu hư vọng, để cầu cái
quả mong mỏi giả dối, tránh xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết Bàn,
sanh ra giống điên hóa".
Dù
đạt đến cảnh giới phi tưởng phi phi tưởng của cõi trời vô sắc thì cảnh
giới này cũng chưa phải rốt ráo thanh tịnh vô vi, trong tâm thức vẫn còn
tiềm ẩn những hoặc lậu thật vi tế của tham, sân và si. Trong kinh có nói
đến vị hành giả kia tu tập trong khu rừng bên bờ suối, khi sắp đắc quả
phi tưởng phi phi tưởng, bị nhiễu loạn bởi những tiếng động gây ra bởi
những đàn chim bay ríu rít xung quanh và bởi những bầy cá nhào lộn trong
dòng suối, đã khởi lên một niệm sân nên sau này khi hết hưởng phước ở
cõi trời vô sắc thì bị đọa xuống làm con hồ phi ly, là một loại chồn có
cánh, vừa biết bay, bắt được chim trên trời, vừa biết lội, ăn được cá
dưới nước.
Trong Trung Bộ Kinh, phẩm Pháp Môn Căn Bản, Phật nói nếu kẻ nào đạt được
Niết Bàn mà nghĩ rằng mình có chứng đắc thì đó không phải là chứng đắc
mà chỉ là một sự tham ái thôi:
"
Người ấy nhận biết Niết Bàn là Niết Bàn, người ấy nghĩ mình là Niết Bàn,
mình ở trong Niết Bàn, mình ở ngoài Niết Bàn, Niết Bàn là của mình,
người ấy tham đắm Niết Bàn. Vì sao thế? Vì người ấy không hiểu rốt ráo
Niết Bàn. Ta nói thế!"
Cũng trong phẩm này, ở một đoạn khác, Phật nói:
"Này các tỳ kheo, Như Lai là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác thật biết Niết
Bàn là Niết Bàn, ngài không nghĩ mình là Niết Bàn, mình ở trong Niết
Bàn, mình ở ngoài Niết Bàn, ngài không nghĩ Niết Bàn là của mình, ngài
không tham đắm Niết Bàn. Vì sao thế? Vì ngài hiểu rõ tham đắm là cội rễ
của khổ đau, từ đó có sự hiện hữu, có sanh, lão, bệnh và tử. Do vậy này
các vị tỳ kheo, với sự diệt trừ hoàn toàn, xa lìa, đoạn trừ, xả bỏ, từ
bỏ tất cả tham đắm, Như Lai đã giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác."
Trong kinh Kim Cang, Phật nói với ông Tu Bồ Đề:
"Thật vô hữu pháp Như Lai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhược hữu
pháp Như Lai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, Nhiên Đăng Phật tức
bất dữ ngã thọ ký: Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu
Ni. Dĩ thiệt vô hữu pháp đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị cố
Nhiên Đăng Phật dữ ngã thọ ký thị ngôn: Nhữ ư lai thế, đương đắc tác
Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni ."
Có
nghĩa là:
"Thật không có pháp Như Lai đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu có
pháp Như Lai đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì Phật Nhiên Đăng đã
không thọ ký cho ta: Ở đời sau, ông sẽ đắc thành Phật hiệu là Thích Ca
Mâu Ni. Vì thật không có pháp đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên
Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta như thế này: Ở đời sau, ông sẽ đắc
thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni."
Các
vị bồ tát chưa đạt đến bậc Bất Động Địa tức bồ tát đệ bát địa thì tuy
thấy rõ được con đường tu Giải Thoát nhưng vì vẫn còn thấy có Pháp để
tu, còn có cảnh giới Niết Bàn Tịch Tĩnh, còn có tướng Không để chứng,
vẫn còn chấp vào một chút tướng mà cho đó là Thắng Nghĩa của Duy Thức,
là còn có sở đắc nên chưa thật trụ ở nơi Chân Thật của Duy Thức.
Hãy
nghiên cứu bài tụng thứ hai mươi tám nói về địa vị thông đạt.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI TÁM
Nhược thời ư sở duyên
Trí
đô vô sở đắc
Nhĩ
thời trụ Duy Thức
Ly
nhị thủ tướng cố.
Dịch là:
Nếu
khi đối sở duyên
Trí
đều không sở đắc
Mới
thật trụ Duy Thức
Vì
đã lìa hai thủ.
Các
vị bồ tát ở bậc thất địa tiếp tục tinh tấn tu tập không lùi sụt sẽ phát
sanh được trí vô sở đắc hay là trí vô phân biệt, không còn
chấp vào hai thủ là năng thủ và sở thủ, không còn có cái tướng đối đãi
chấp có lẫn chấp không nên có cái khả năng trực nhận được thể tánh chân
như. Địa vị này gọi là thông đạt vị.
Những vị A la hán và Bích chi phật đã hồi đầu theo đại thừa cùng những
vị bồ tát đệ bát địa tiếp tục tu tập vô phân biệt trí (còn gọi là vô sở
hữu trí) có được đầy đủ các phẩm chất ưu việt để đạt tới đạo quả bồ đề,
có được trí xuất thế gian, đoạn dứt được hai tướng thô trọng của phiền
não chướng và sở tri chướng, phát khởi được tâm từ bi chân thật, thật
lòng thương sót cho những chúng sanh hãy còn mê muội, đắm say trong sanh
tử luân hồi.
Hãy
nghiên cứu bài tụng thứ hai mươi chín nói về địa vị tu tập.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Vô
đắc bất tư nghì
Thị
xuất thế gian trí
Xả
nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y.
Dịch là:
Không đắc chẳng nghĩ bàn
Là
trí xuất thế gian
Xả
hết hai trọng chướng
Nên
chứng quả chuyển y.
Trí
thế gian bị phiền não chướng và sở tri chướng làm trở ngại. Hai cái
chướng này làm cho sự chứng quả Giải Thoát Bồ Đề trở nên khó khăn và
nặng nề mệt nhọc nên còn được gọi là hai trọng chướng.
Người thế gian thường bị ngăn trở bởi hai trọng chướng của năng và sở,
chấp vào khả năng nhận biết của mình và chấp vào sự đánh giá các đối
tượng của sư nhận biết đó. Chính chúng là nguyên nhân tạo ra các thành
kiến, phê phán, dẫn đến những thị phi, hiểu lầm, tranh cãi, đấu tranh và
hận thù. Chúng làm trở ngại cho tình giao hảo, sự cởi mở và sự tiếp
thông giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái trong gia đình, giữa bạn bè và
những người thân thuộc, giữa mọi người xung quanh. Chúng làm sứt mẻ
tình thân hữu, bế tắc sự thông cảm khiến cho lòng từ bi và thương yêu
không thể phát triển được.
Các
vị bồ tát đệ bát địa và các thanh văn duyên giác hồi đầu là những vị tu
tập được trí vô sở đắc là cái trí có khả năng loại trừ tận cội gốc hai
trọng chướng này để hành giả kinh nghiệm được sự chuyển biến nội tại,
một sự đột biến nơi tâm thức mà đắc được quả chuyển y.
Chuyển y là gì?
Chuyển
là
thay đổi, biến đổi như chuyển từ xấu sang đẹp, từ nhơ sang sạch, từ cấu
sang tịnh, từ hạn hẹp sang rộng lớn, từ có giới hạn sang vô giới hạn.
Y
là nơi nương tựa, nơi được lấy làm căn bản, làm cơ sở tỷ
như cái nhà là cơ sở cho người ở, thế giới là nơi cho chúng sanh nương
tựa và sinh sống, A lại da thức là căn cứ cho các chủng tử và hiện hành.
Khi
chưa chuyển y thì chân tâm bị che lấp bởi hai chướng. Hai chướng này
cũng gọi là vô minh, vì làm cho chân tâm bị che khuất, mê muội tăm tối,
không được sáng suốt, làm cho sự nhận biết bị biến kế.
Chân tâm bị nhiễm ô sẽ trở nên hạn hẹp, giới hạn nên không được gọi là
chân tâm mà là A lại da thức, là cái tạng thức chứa mọi hạt giống
phân biệt, cả tốt lẫn xấu và có cả không xấu lẫn không tốt.
Nương nơi A lại da thức mà khởi được vô phân biệt trí còn gọi là vô sở
đắc trí thì sẽ dần dần loại bỏ được các cấu nhiễm, xả được hết hai
trọng chướng của năng thủ và sở thủ. Khi ấy thức A lại da trở nên
thanh tịnh, trong sáng, không còn gọi là thức A lại da nữa mà laø
Bạch tịnh thức, Đại viên cảnh trí hay là Viên thành thật. Lúc
này là lúc không còn có phiền não chướng và sở tri chướng nữa. Đó là lúc
đắc được quả chuyển y, còn gọi là Đại Giải Thoát hay là
Đại Bồ Đề.
Chính vì những lý do này mà bồ tát Thế Thân nói cái trí vô sở đắc là cái
trí xuất thế gian không thể nghĩ bàn, có khả năng đưa hành giả tới bờ
giác.
Vị
bồ tát nương nơi Duy Thức Tướng tu tập Vô Sở Đắc Trí hay là Vô Phân Biệt
Trí, xả được hai tướng thô trọng của phiền não chướng và sở tri chướng
mà đắc quả chuyển y là vị bồ tát đã vượt khỏi bậc Thập Địa, lên bậc Đẳng
Giác, khởi được Kim Cương Dụ Định chứng được quả vị Diệu Giác của Phật,
nhập vào được Duy Thức Tánh tức là cái tánh chân thật của Duy Thức.
Vì
thế mà phương pháp tu đạo của Duy Thức được gọi là phương pháp Tùng
Tướng Nhập Tánh, nương nơi hiện tướng mà nhập được thể tánh chân
như.
Thể
tánh chân như là Thật Tánh Duy Thức, là Vô Lậu
Giới, là Đại Niết Bàn, là Đại Giải Thoát, là Đại Bồ Đề hay là Vô Thượng
Giác.
Các
điều vừa trình bầy trên chẳng có gì khác với những gì nói trong Bát Nhã
Tâm Kinh mà chúng ta trì tụng hằng ngày. Hãy thử ôn lại vài đoạn:
"Dĩ
vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố tâm vô quái ngại,
vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh
Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố đắc A Nậu Đa La Tam
Miệu tam Bồ Đề"
Lời
Việt như sau:
"Vì
không có sở đắc, khi một vị bồ tát nương Diệu Pháp Trí Độ thì tâm không
chướng ngại. Vì tâm không chướng ngại nên không có sợ hãi, xa lìa mộng
tưởng, xa lìa điên đảo, đạt Niết Bàn Tuyệt Đối, Chư Phật trong ba đời y
Diệu Pháp Trí Độ nên đắc Vô Thượng Giác".
Trong Thiền Tông có nói đến Đầu Sào Trăm Trượng, khi tới đầu sào rồi
phải làm thêm được một bước nhẩy vọt, buông bỏ tất cả, vào được cái
Không của Hố Sâu Vực Thẳm, là ý nghĩa của cái Vô Sở Đắc này.
Hãy
nghiên cứu địa vị cứu cánh nói trong bài tụng cuối của Duy Thức Tam Thập
Tụng.
BÀI
TỤNG THỨ BA MƯƠI
Thử
tức Vô Lậu Giới
Bất
tư nghì thiện thường
An
lạc giải thoát thân
Đại
Mâu Ni danh pháp.
Dịch là:
Đấy
là cõi Vô Lậu
Thiện Thường chẳng nghĩ bàn
Thân giải thoát an vui
Gọi
là Đại Mâu Ni
Quả
chuyển y là kết quả đạt được sau khi diệt trừ được hai trọng chướng,
vượt qua bậc đẳng giác, khởi kim cang dụ định thành Phật, là mục đích
của sự tu hành, là cứu cánh vị.
Chữ
Thử ở đầu bài tụng này là chỉ cho quả chuyển y Đại Niết Bàn hay là Đại
Bồ Đề. Đại Niết Bàn là muốn nói đến Đại Giải Thoát, giải thoát khỏi tất
cả nhiễm ô của phiền não chướng. Đại Bồ Đề là muốn nói đến Vô Thượng
Giác, là trí huệ thanh tịnh, xa rời mọi kiến chấp của sở tri chướng.
Thử
tức vô lậu giới có nghĩa là quả chuyển y đó cũng gọi là Vô Lậu Giới, cõi
vô lậu thanh tịnh của bậc Đại Giác Ngộ. Cõi này khác hẳn các cõi của địa
vị tứ gia hạnh, và cũng khác hẳn các cõi của hàng Thanh Văn và Duyên
Giác (Nhị Thừa) vì:
1.
Diệt trừ được tất cả các phiền não nhiễm ô.
2.
Không phải là cảnh giới cuả các tật xấu và sự mong cầu vì không còn dính
mắc vào danh và lợi.
3.
Tự tánh thanh tịnh, viên mãn và phổ chiếu.
Vô
Lậu Giới có năm đặc tánh:
Bất
khả tư nghì
vì
là một chuyển thức nội tại, một sự đột biến bên trong tâm thức nơi vị bồ
tát. Sự đột biến này rất siêu việt và thâm sâu, vượt khỏi trí tưởng
tượng của phàm phu.
Thiện
vì
toàn là pháp trong sạch (bạch tịnh), không có mảy may dấu vết của nhiễm
ô, đồng với pháp giới thanh tịnh, xa lìa khỏi sanh diệt, khi mà bốn thức
đã chuyển thành bốn trí. Tiền ngũ thức thành Thành sở tác trí, Ý thức
thành Diệu quan sát trí, Mạt na thức thành Bình đẳng tánh trí, A lại da
thức thành Đại viên cảnh trí (Bạch tịnh thức).
Thường
vì
không cùng tận, không biến đổi, không sanh không diệt, đồng với pháp
giới thanh tịnh.
An
lạc
vì
xa lìa các chấp thủ, không còn bị bức não nên thường làm an lạc mọi loài
chúng sanh.
Giải thoát
vì
đã xa lìa hẳn khỏi phiền não chướng và sở tri chướng, vượt thoát khỏi
các nghiệp tạo tác sanh tử luân hồi.
Quả
chuyển y
cũng gọi là cứu cánh vị và rất nhiều tên gọi khác bao hàm tất cả
các đặc tính tịch tĩnh thanh tịnh, thiện thường, giải thoát và an vui
vượt lên trên tất cả sự suy nghĩ và tầm hiểu biết của phàm phu, cũng gọi
là Đai Mâu Ni, Đại Tịch Tĩnh, hay là Đại Tịch
Mặc.
Trong Bách Pháp Minh Môn Luận ngài Thế Thân có nói đến sáu món vô vi:
Hư Không Vô Vi, Trạch Diệt Vô Vi, Phi Trạch Diệt Vô Vi, Bất Động Diệt Vô
Vi, Thọ Tưởng Diệt Vô Vi và Chân Như Vô Vi. Tùy theo những đặc tính
nào muốn nhấn mạnh mà tên gọi của cảnh giới vô vi có khác:
Hư
Không Vô Vi
vì
muốn diễn tả cái không sanh không diệt, cái như như không tăng không
giảm, không nhơ không sạch, xa rời các pháp cấu nhiễm, rỗng rang như hư
không.
Trạch Diệt Vô Vi
vì
muốn nói đến sự nhất quyết diệt trừ tất cả các cấu nhiễm mà chứng đắc
Chân Như.
Phi
Trạch Diệt Vô Vi
vì
muốn nói đến sự tu trì nghiêm mật vô phân biệt trí mà chứng đắc Chân
Như.
Bất
Động Diệt Vô Vi
hay
là Diệt Tận Định Vô Vi vì muốn nói đến cái tâm không bị lay
chuyển, kiên cố tu trì, diệt được mọi phiền não mà chứng đắc Chân Như.
Thọ
Tưởng Diệt Vô Vi
vì
muốn nói đến sự xa lìa thọ tưởng mà chứng đắc Chân Như.
Chân Như Vô Vi
vì
muốn nói đến cái thể Chân Như thanh tịnh, tịch tĩnh, như như của các
pháp.
Để
kết thúc chương này, xin hãy đọc một đoạn trong kinh Lăng Già Tâm Ấn:
"Này Đại Huệ, do các công hạnh của đại từ bi, phương tiện thiện xảo và
vô công dụng, vị bồ tát quán sát tất cả các chúng sanh, biết rằng tất cả
đều như huyễn, như những bóng hình không phải sanh ra vì một nguyên nhân
nào; và xa hơn nữa, vì biết rõ thế giới không hiện hữu ngoài tâm thì vị
bồ tát đó hướng đến một đời sống vô tướng. Từ từ đưa tâm thức lên các
địa vị cao hơn, vị ấy chứng được cái Tam Ma Địa trong đó vị ấy hiểu được
rằng ba cõi chính là tâm. Cái Tam Ma Địa mà vị ấy đạt tới gọi là Như
Huyễn Tam Ma Địa. Sau đó vị ấy xa rời mọi biến kế, kiện toàn trí tuệ,
biết được tánh vô sanh của mọi sự vật và nhập được vào cái Tam Ma Địa
gọi là Kim Cương Dụ Định và đắc được Phật thân. Luôn trú trong sự như
như của vạn pháp, đắc được mười năng lực, sáu thần thông và mười sự tự
điều ngự mà tùy duyên hóa hiện. Này Đại Huệ, có được các phương tiện
thiện xảo, vị ấy sẽ đến được tất cả các quốc độ của Phật; xa rời mọi
triết thuyết, xa rời các Tâm thức, Mạt na thức và Ý thức, vị ấy sẽ chứng
nghiệm sự Đột Biến bên trong chính mình và thứ lớp đạt đến Như Lai
thân."
Do
tập khí có từ vô thủy, con người có những kiến chấp thật kiên cố, xâu
dầy rất khó mà phá trừ và buông xả. Muốn buông xả phải nhận chân ra được
các pháp là giả có và như huyễn. Chính vì thế mà trong bài tụng đầu và
trong hai câu đầu của bài tụng thứ hai bồ tát Thế Thân đã nhấn mạnh đến
cái giả có của các pháp và chúng đều do thức biến hiện; các thức gồm có
ba thứ là dị thục, tư lương và liễu biệt cảnh :
Do
giả thuyết ngã pháp
Hữu
chủng chủng tướng chuyển
Bỉ
y thức sở biến
Thử
năng biến duy tam
Vị:
dị thục, tư lương
Cập
liễu biệt cảnh thức.
Tiếp theo đó ngài diễn tả chi thiết về tánh chất của thức thứ nhất. Tánh
chất tổng quát của thức thứ nhất được biểu hiện ở ba cái tên gọi là:
A lại da, Dị thục và Nhất thiết chủng. Khi muốn diễn
ta tánh chất chứa nhóm của thức này thì gọi nó là tàng thức tức là kho
chứa mà tiếng phạn gọi là A lại da. Khi muốn diễn tả sự chuyển biến mà
hiện khởi của thức này thì gọi nó là Dị thục nghĩa là chín mùi mà thành
quả. Khi muốn nói đến tất cả mọi hạt giống của tất cả các pháp đều được
chứa trong thức này thì gọi nó là Nhất thiết chủng.
Tất
cả mọi suy nghĩ, hành động, thấy biết hoặc xấu, hoặc tốt, hoặc không xấu
lẫn không tốt của ta đều được lưu giữ trong tàng thức sơ năng biến này
và các dữ kiện được lưu giữ đó cứ liên tục chuyển biến không lúc nào
ngưng nghỉ tựa như dòng thác đổ, hết khối nước này đổ xuống thì có khối
nước tiếp theo, liên miên bất tận. Những chuyển biến này khi đã đầy đủ
nhân duyên, tăng trưởng chín mùi thì chuyển hiện ra căn thân và thế giới
tức là chánh báo và y báo. Với tri kiến phàm phu không thể nào có thể
hiểu biết tường tận được những chuyển biến trong thức này, cũng không
thể biết được sự thọ nhận và nơi chốn được thọ nhận, không thể biết chắc
chắn được sẽ nhận lãnh thân mạng nào trong sáu loài chúng sanh và cũng
không thể biết rõ ràng các cõi sẽ được thọ mạng tức là không thể biết rõ
sự nhận thọ của chánh báo và y báo. Những sự chứa nhóm và chuyển biến
nơi A lại da thức sẽ chấm dứt khi đạt được quả vị A la hán. Khi ấy A lại
da thức hoàn toàn vô lậu và được gọi là Bạch tịnh thức. Tất cả
đặc tính nói trên của tàng thức sơ năng biến được bồ tát Thế Thân thâu
gọn trong hai câu sau của bài tụng thứ hai, bài tụng thứ ba và bài tụng
thứ tư:
Sơ
A lại da thức
Dị
thục, Nhất thiết chủng
Bất
khả tri chấp thọ
Xứ,
liễu. Thường dữ xúc
Tác
ý, thọ, tưởng, tư
Tương ưng duy xả thọ
Thị
vô phú vô ký
Xúc
đẳng diệt như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A
la hán vị xả.
Tiếp đến bồ tát Thế Thân nói đến thức đệ nhị năng biến tức là thức
mạt na. Tánh chất của thức này là luôn chấp A lại da thức và các
chủng tử cùng hiện hành nơi A lại da thức là thiệt có rồi khởi sinh
những chấp trước và nắm giữ. Những chấp trước và nắm giữ này là nguồn
gốc của những ngã ái, ngã kiến cùng ngã mạn và ngã si, là bốn món
trong căn bản phiền não. Thức này luôn hiện khởi và không rời A lại da
thức. Khi đạt được quả vị A la hán hay khi đắc được Diệt tận định của
bậc xuất thế đạo tức là bồ tát đệ bát địa thì mới loại trừ được các tánh
chất tư lương và chấp trước nơi mạt na thức.
Tánh chất của thức này được bồ tát Thế Thân diễn tả trong ba bài tụng
thứ năm, thứ sáu và thứ bẩy:
Thứ
đệ nhị năng biến
Thị
thức danh mạt na
Y
bỉ chuyển duyên bỉ
Tư
lương vị tánh tướng
Tứ
phiền não thường câu
Vị:
ngã si, ngã kiến
Tinh ngã mạn, ngã ái
Cập
dữ xúc đẳng câu
Hữu
phú vô ký nhiếp
Tùy
sở sanh sở hệ
A
la hán, Diệt định
Xuất thế đạo vô hữu.
Tiếp đến ngài nói đến thức đệ tam năng biến gồm thức thứ sáu và năm thức
trước gọi là thức liễu biệt cảnh. Khi đã có thọ mạng rồi nghĩa là
khi các nghiệp quá khứ đủ duyên chín mùi chuyển hiện ra thân căn của một
chúng sinh rồi thì sáu thức này nương nơi thân căn mà phân biệt thế giới
bên ngoài. Tất cả các loại tâm sở đều tương ưng với thức liễu biệt cảnh
này. Tất cả các pháp thiện hay phiền não hoặc bất định đều do thức này
phân biệt mà khởi sanh. Các tâm sở có 51 món tất cả và được phân chia
thành sáu loại như sau: 5 biến hành, 5 biệt cảnh, 11 thiện, 6 căn bản
phiền não, 20 tùy phiền não và 4 bất định tâm sở.
Thiết nghĩ chúng ta cũng nhân đây ôn lại 100 pháp trong Bách Pháp
Minh Môn Luận bao gồm cả 51 tâm sở pháp vừa nói. 100 pháp đó được
chia làm 5 loại:
I.
TÂM PHÁP có 8 món là: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt Thức, Thân
thức, Ý thức, Mạt na thức và A lại da thức.
II.
TÂM SỞ HỮU PHÁP gồm 51 món là:
- 5
Biến Hành: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư.
- 5
Biệt Cảnh: Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ.
-
11 món Thiện: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn, Khinh an,
Bất phóng dật, Hành xả, Bất hại.
- 6
Căn Bản Phiền Não: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến.
-
20 Tùy Phiền Não gồm 10 Tiểu tùy, 2 Trung tùy và 8 Đại tùy. 10 Tiểu tùy
là: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu. 2 Trung tùy
là: Vô tàm, Vô quý. 8 Đại tùy là: Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi,
Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chánh tri.
- 4
Bất Định: Hối, Miên, Tầm, Tư.
III. SẮC PHÁP gồm 11 món là: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân
căn, Sắc trần, Thanh trần, Hương trần, Vị trần, Xúc trần và Pháp trần.
Những món này gồm 5 căn và 6 trần. Theo thiển ý của tác giả thì sắc pháp
phải có 12 món mới trúng. Món thứ 12 là bộ não là nơi tập trung tất cả
các dữ kiện do ngũ căn đưa tới, nhưng vì nó ẩn tàng bên trong nên không
tính.
IV.
BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH PHÁP gồm 24 món: Đắc, Mạng căn, Chúng đồng phận, Dị
sanh tánh, Vô tưởng định, Diệt tận định, Vô tưởng báo, Danh thân, Cú
thân, Văn thân, Sanh, Trụ, Lão, Vô thường, Lưu chuyển, Định vị, Tương
ưng, Thế tốc, Thứ đệ, Thời, Phương, Số, Hòa hiệp, Bất hòa hiệp.
V.
VÔ VI PHÁP có 6 món là: Hư không vô vi, Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt
vô vi, Bất động diệt vô vi, Tưởng thọ diệt vô vi, Chơn như vô vi.
Bồ
tát Thế Thân diễn tả thức liễu biệt cảnh và tất cả các tánh chất của nó
trong trong bẩy bài tụng kế tiếp tức từ bài tụng thứ tám đến bài tụng
thứ mười bốn như sau:
Thứ
đệ tam năng biến
Sai
biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện bất thiện câu phi
Thử
tâm sở biến hành
Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy
phiền não, bất định
Giai tam thọ tương ưng
Sơ
biến hành: xúc đẳng
Thứ
biệt cảnh vị: dục
Thắng giải, niệm, định, huệ
Sở
duyên sự bất đồng
Thiện vị: Tín, tàm, quý
Vô
tham đẳng tam căn
Cần, an, bất phóng dật
Hành xả cập bất hại
Phiền não vị: tham, sân
Si,
mạn, nghi, ác kiến
Tùy
phiền não vị: phẫn
Hận, phú, não, tật, xan
Cuống, siễm dữ hại, kiêu
Vô
tàm cập vô quý
Trạo cử dữ hôn trầm
Bất
tín tinh giải đãi
Phóng dật cập thất niệm
Tán
loạn, bất chánh tri
Bất
định vị: hối, miên
Tầm
tứ nhị các nhị
Sau
đó bồ tát Thế Thân nói đến duyên khởi của tiền lục thức, gồm nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân thức và ý thức. Ngài nói các thức đó đều có hạt giống
nơi thức thứ tám, lấy thức này làm căn bản và nương nơi thức này mà phân
biệt và chuyển biến ví như sóng nương nơi nước (như đào ba y thủy).
Ngũ thức thì tùy duyên mà hiện khởi tức là khi có đủ duyên mới có tác
động còn ý thức thì thường hiện khởi nghĩa là luôn luôn tác động, chỉ
trừ khi ngủ mê thiếp đi không có mộng mị, khi chết ngất hoặc khi nhập
diệt tận định hay vô tưởng định là hai định thật tĩnh lặng, không còn
thọ và tưởng nữa. Ngoài ra khi sanh lên cõi trời vô tưởng thì thức thứ
sáu này cũng ngưng hoạt động.
Do
các thức chuyển biến mà phát sinh năng phân biệt và sở phân biệt. Năng
phân biệt và sở phân biệt này cứ liên tục chuyển biến nên khởi sanh tất
cả các pháp. Năng và Sở phân biệt này đều do nơi tâm thức động niệm mà
khởi sanh nên không có thực và do đó ngài Thế Thân nói tất cả đều là duy
thức. Bài tụng thứ mười lăm cho đến mười bẩy diễn tả ý này:
Y
chỉ căn bản thức
Ngũ
thức tùy duyên hiện
Hoặc câu hoặc bất câu
Như
đào ba y thủy
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh vô tưởng thiên
Cập
vô tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt
Thị
chư thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Do
thử bỉ giai vô
Cố
nhất thiết Duy thức
Sau
dó ngài cắt nghĩa về nghiệp quả. Theo ngài sở dĩ chúng sanh phải thọ báo
thân liên tục mãi trong sanh tử luân hồi là vì ở trong tàng thức có cái
năng lực triền chuyển, là cái năng lực làm cho nghiệp nhân cứ phát triển
tiếp nối không bao giờ ngưng nghỉ, tất cả những phân biệt hay nói rõ hơn
là tất cả những gì ta cảm thọ, suy nghĩ hay hành động đều được đưa vào
lưu trữ trong tàng thức như một chủng tử, chủng tử này cứ tiềm ẩn huân
tập, chuyển biến thành nghiệp nhân và các nghiệp nhân này cứ tương
duyên, tương sanh mà chín mùi thành nghiệp quả dị thục. Nghiệp này hết
thì nẩy sanh nghiệp khác nối tiếp nhau liên tục như một dòng nước chẩy.
Bài tụng thứ mười tám và mười chín diễn tả ý này:
Do
nhất thiết chủng
Như
thị như thị biến
Dĩ
triền chuyển lực cố
Bỉ
bỉ phân biệt sanh
Do
chư nghiệp tập khí
Nhị
thủ tập khí câu
Tiền dị thục ký tận
Phục sanh dư dị thục.
Ngay từ vô thủy, vì một niệm bất giác mà Chân tâm thanh tịnh bị chiếu
soi và dấy động mà phát sanh ra hai phần năng kiến và sở kiến. Năng kiến
là phần phân biệt chiếu soi và sở kiến là đối tượng của sự chiếu soi
phân biệt đó. Vì sự phân biệt đó mà Chân tâm bị biến đổi, thật thanh
tịnh mà biến thành có hình tướng. Khi Chân tâm chuyển hiện thành căn
thân và thế giới thì sự phân biệt đó làm cho mọi vật vốn như huyễn mà
dường như có thật, ví như hoa đốm giữa hư không. Sự phân biệt này được
gọi là biến kế sở chấp, ý muốn nói vì sự phân biệt này mà mọi
vật, mọi sự bị biến đổi khác với cái tánh chân thật của chúng. Mọi vật
nương nhau mà hiện hữu chứ thật ra đều không có tánh chất riêng biệt.
Thí dụ cái núi kia không phải có tánh chất riêng biệt của cái núi mà là
do các khối đá và đất họp lại mà thành, những khối đá và những khối đất
đó cũng không có tánh chất riêng biệt của khối đá và khối đất mà là do
vô lượng vô số các vi trần họp thành, các vi trần đó cũng không thể hiển
lộ được nếu không có hư không, cả vi trần và hư kông cũng không thể có
nếu không có con mắt phân biệt, con mắt hiện hữu là phải nương vào thân
căn.
Thân căn này cũng không thể hiện hữu nếu không có thế giới chung quanh,
và cứ tiếp tục thì ta sẽ thấy mọi vật trùng trùng duyên khởi, không có
cái gì có thể hiện hữu đơn độc được, tất cả như những gút mắt của một
màng lưới mà trong kinh thường ví như những hạt châu trong cái khăn
quàng của trời Đế Thích, các hạt châu này lấp lánh phản chiếu hạt châu
kia và mọi hình ảnh trong đó trùng trùng phản chiếu qua lại, hạt châu
này có hình ảnh của hạt châu kia, tất cả các hình ảnh chiếu sáng đó cứ
nương nhau mà ảnh hiện. Tóm lại mọi vật đều không có tự tánh chân thật
và đều là y tha khởi, tức là nương vào cái khác mà có. Nếu nương
nơi y tha khởi mà xa rời được biến kế sở chấp thì ngay nơi các pháp
duyên sanh mà trở về được với cái chân thật tức là biết được viên
thành thật. Bồ tát Thế Thân cô động ý này trong hai bài tụng thứ hai
mươi và hai mươi mốt:
Do
bỉ bỉ biến kế
Biến kế chủng chủng vật
Thử
biến kế sở chấp
Tự
tánh vô sở hữu
Y
tha khởi tự tánh
Phân biệt duyên sở sanh
Viên thành thật ư bỉ
Thường viễn ly tiền tánh.
Ngài Thế Thân nói tánh y tha và tánh viên thành thật không
phải khác nhau và cũng không phải là không khác nhau ví như sóng với
nước, sóng không phải là nước mà sóng cũng chẳng khác nước vì sóng từ
nước mà ra. Nếu không có gió thì không có sóng vì sóng đã hòa vào nước.
Cũng vậy vì có biến kế sở chấp nên mới có y tha khởi. Vì
có biến kế sở chấp mà chân như tức viên thành thật bị khuấy động mà hiện
ra tuồng như có pháp nhưng nếu dẹp được biến kế sở chấp thì các pháp y
tha khởi trở lại bản thể tĩnh lặng thanh tịnh là viên thành thật.
Viên thành thật
và
y tha khởi giống như các pháp vô thường, vô ngã vaø
không mà đức Phật hằng thuyết, mục đích chính là để chúng sanh không
chấp vào các pháp, để chúng sanh biết rõ các pháp là giả, là không thật
có, là sanh diệt không thường còn mà phá bỏ được tất cả những chấp có,
chấp không, để có thể vững tâm tu trì trở về được với Bản Tánh Chân Như.
Bồ tát Thế thân cũng nói rằng vì sợ chúng sanh chấp vào các pháp ngoại
đạo, cho rằng các pháp có thật, hoặc các pháp tự nhiên sanh, hoặc là các
pháp có nguyên nhân xuất xứ đầu tiên, có một nguyên nhân tối hậu ngoài
tâm nên Phật thường thuyết tất cả các pháp đều vô tánh. Thứ nhất
là các pháp không có tướng chân thật nên nói Tướng Vô Tánh. Thứ
hai là các pháp không có nguồn gốc chân thật đầu tiên, không phải tự
nhiên mà có nên nói Sanh Vô Tánh hay là Vô Tự Nhiên Tánh.
Thứ ba là nếu bỏ được tánh biến kế sở chấp tức là tánh chấp thật có ngã
và pháp thì sẽ biết được cái nghĩa rốt ráo của tất cả các pháp tức là
biết được cái bản thể Chân Như bất sanh bất diệt của các pháp nên nói
Thắng Nghĩa Vô Tánh. Tánh này cũng được gọi là
Duy Thức Thật Tánh.
Tất
cả ý nghĩa vừa diễn tả được bồ tát Thế Thân cô động trong bốn bài tụng
từ bài tụng thứ hai mươi hai đến bài tụng thứ hai mươi lăm:
Cố
thử dữ y tha
Phi
dị phi bất dị
Như
vô thường đẳng tánh
Phi
bất kiến thử bỉ
Tức
y thử tam tánh
Lập
bỉ tam vô tánh
Cố
Phật mật ý thuyết
Nhất thiết pháp vô tánh
Sơ
tức tướng vô tánh
Thử
vô tự nhiên tánh
Hậu
do viễn ly tiền
Sở
chấp ngã pháp tánh
Thử
chư pháp thắng nghĩa
Diệc tức thị chân như
Thường như kỳ tánh cố
Tức
Duy Thức Thật Tánh.
Lý
thì nói nương nơi Y Tha Khởi Tánh mà viễn ly được Biến Kế Sở
Chấp Tánh là thấy được Viên Thành Thật Tánh chứ thật sự thì
phải tu trì qua nhiều giai đoạn.
Giai đoạn đầu tiên là trang bị hành trang, học hỏi kinh điển và đi tham
học với các bậc thiện tri thức để khơi dậy chủng tánh đại thừa câu sanh
mà phát lòng tin dũng mãnh cầu trụ Duy Thức Tánh, quyết chí tu trì cho
đến khi đạt đạo quả Bồ Đề thì bấy giờ mới có cái năng lực để diệt trừ
hai cái chướng ngại tùy miên của năng thủ và sở thủ. Địa vị này là địa
vị Kiến Đạo, là bậc Sơ Thiền của Sơ Địa Bồ Tát
tương đương với quả vị Tu Đà Hoàn của Thanh Văn. ở địa vị này các
vị tu đà hoàn và bồ tát vẫn còn thấy mình có sở đắc nên chưa phải là
thật trụ vào Duy Thức Tánh. Giai đoạn này là giai đoạn Tư
Lương và Gia Hạnh như các luận sư về Duy thức thường nói. Bài
tụng thứ hai mươi sáu và hai mươi bẩy nói đến quả vị này:
Nãi
chí vị khởi thức
Cầu
trụ duy thức tánh
Ư
nhị thủ tùy miên
Do
vị năng phục diệt
Hiện tiền lập thiểu vật
Vị
thị duy thức tánh
Dĩ
hữu sở đắc cố
Phi
thật trụ duy thức.
Kế
đến giai đoạn Thông Đạt tức biết được không tánh của hai thủ
nghĩa là biết được các pháp là không tự tánh cho nên xa rời được các
phiền não của chấp thủ. Địa vị này tương đương với bậc Tư Đà Hàm
và A Na Hàm của Thanh văn cùng bậc Nhị Thiền và Tam
Thiền của Bồ Tát từ Nhị Địa đến Thất Địa. Các vị thanh văn và bồ tát
ở địa vị này đã khởi được Trí Vô Sở Đắc, tu Pháp Không Chân Như xa rời
được hai tướng Năng Thủ và Sở Thủ, trừ được ngã chấp và
pháp chấp phần thô nên mới trụ được vào tánh Duy Thức. Bài tụng thứ hai
mươi tám nói rõ quả vị này:
Nhược thời ư sở duyên
Trí
đô vô sở đắc
Nhĩ
thời trụ Duy Thức
Ly
nhị thủ tướng cố.
Các
vị A la hán hồi đầu theo đại thừa cùng các vị Bồ Tát ở bậc Tứ
Thiền từ Bát Địa trở lên đã trụ trong Duy Thức Tánh tiếp tục khởi Vô
Phân Biệt Trí dõng mãnh tu tập, đối với cảnh sở duyên không còn khởi
phân biệt nữa, không còn chấp có lẫn chấp không, không còn chấp là thật
có ngã và thật có pháp, tiếp tục tu trì miên mật không gián đoạn tiến
lên đến bậc Bồ Tát Thập Địa.
Vị
Thập Địa Bồ Tát với Vô Sở Đắc Trí bất khả tư nghì, tu Thắng Pháp Không
Quán, trừ được hai chướng sở thủ câu sanh phần tế đắc được bậc Đẳng
Giác. Tuy vậy vẫn còn một chút chướng ngại thậm thâm vi tế, cho đến khi
khởi được Kim Cương Dụ Định đắc Vô Thượng Giác tức là quả
vị Diệu Giác của Phật thì các phiền não thậm thâm vi tế đó mới
hoàn toàn được loại trừ. Hai phiền não chướng này làm trở ngại khó khăn
vô cùng cho việc chứng quả Giải Thoát nên bài tụng gọi là hai phiền não
nặng nề (nhị thô trọng).
Khi
đắc Vô Thượng Giác rồi thì cảnh giới hữu lậu khi xưa chuyển thành vô lậu
thanh tịnh. Trong cảnh giới vô lậu này thì tất cả đều tuyệt thanh tịnh,
các pháp đều là chân thiện và thường còn. Cảnh giới này là cảnh giới an
vui và giải thoát. Bậc đã giác ngộ này được gọi là Đại Mâu Ni.
Mâu ni có ba nghĩa. Thứ nhất là nhân từ, hán dịch là năng nhân.
Thứ hai là hoàn thiện. Thứ ba là tịch tĩnh vắng lặng, hoàn
toàn dứt trừ được tất cả mọi phiền não, thân tâm hoàn toàn an lạc. Đại
Mâu Ni cũng được gọi là Pháp Thân. Hai bài tụng cuối thứ hai mươi chín
và ba mươi diễn tả ý trên:
Vô
đắc bất tư nghì
Thị
Xuất Thế Gian Trí
Xả
nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y
Thử
tức Vô Lậu Giới
Bát
tư nghì thiện thường
An
lạc giải thoát thân
Đại
Mâu Ni danh Pháp.
Để
chấm dứt phần tóm tắt này xin cùng tư duy về một đoạn trong Chứng Đạo Ca
của Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác ở Trung Hoa:
Ta
sớm bao năm chuyên học vấn
Từng viết sớ sao tìm kinh luận
Phân biệt danh tướng mãi không thôi
Vào
biển đếm cát tự chuốc hận
Quả
đáng bị Như Lai quở trách
Châu báu của người có gì ích?
Lâu
nay đắn đót rõ công suông
Uổng bấy làm thân phong trần khách!
Pháp môn của
Phật có muôn vàn, có vô lượng cửa để đi vào, tùy theo căn cơ của từng
người mà các thiện tri thức, chư Bồ Tát và chư Đức Phật thị hiện giúp
chúng ta biết định hướng để trở về với với căn nhà xưa, căn nhà trong
sáng tròn đầy xa xưa mà sau vô lượng những kiếp sống lang thang, tưởng
rằng đã quên hết mà nay được nhắc nhớ lại.
Ở phạm vi của
sách này tác giả muốn nhấn mạnh đến đường lối được nói trong Duy Thức,
Tùng Tướng Nhập Tánh, hay là Nương Nơi Tam Tánh Để Trở Về Với
Tam Vô Tánh. Phải nương nơi cảnh giới này mà dùng đường lối Giới
Định Huệ để bỏ đi được những quan niệm chấp trước sai lầm hầu đạt được
Chân Như (Nương nơi Y Tha Tánh mà bỏ đi được Biến Kế Sở Chấp Tánh thì sẽ
thấy được Viên Thành Thật Tánh). Ngoài ra chúng ta cũng nên rút kinh
nghiệm từ cuộc đời tu hành của Đức Phật để tìm giải đáp cho những thắc
mắc trên con đường tu tập, hướng đến Giải Thoát.
Vì vô minh mà
tâm thức của con người bị vẩn đục, tâm thức trong sáng tròn đầy khi xưa
bị vọng chấp nên chứa đầy những uế trược của tham, sân, sị; của tham
đắm, đấu tranh, chiếm hữu, chém giết và hận thù. Các hành động vô minh,
không sáng suốt này được duy thức học gọi là Biến Kế Sở Chấp, là những
chấp chước sai lầm do phân biệt nơi tâm thức mà phát sanh. Vì Biến kế sở
chấp mà con người luôn tham đắm vào cái ta và những cái gì thuộc về ta.
Ngã và pháp là giả hợp, không có tự tánh và không thường còn lại chấp là
thật có, thường còn và bất biến. Những chấp chước đó đã ăn sâu gốc rễ
vào A lại da thức từ thuở vô thủy nên rất khó có thể một sớm một chiều
mà con người có thể xả bỏ được. Biến kế sở chấp là động lực làm con
người si mê và tham đắm cái ta và những cái thuộc về ta, cho rằng ta có
quyền huởng mọi lạc thú và những người chung quanh phải có nhiệm vụ giúp
chúng ta thỏa mãn mọi quyền lợi, thú vui tham đắm và dục vọng ích kỷ của
ta.
Cũng vì tham
đắm cho các quyền lợi và phụng dưỡng cái ta đó mà con người không đếm
xỉa gì đến những an nguy và đau khổ của kẻ khác miễn là hạnh phúc và
quyền lợi của mình được bảo vệ. Vì bất lực trước thiên nhiên, họ bám víu
vào những thủ tục mê tín rất là phi lý và đôi khi dã man tàn nhẫn ví dụ
như tập tục của một số bộ lạc chài lưới ở ven biển khi xưa, hàng năm
phải làm lễ hiến dâng những cô gái đồng trinh cho long vương thủy thần
để những vị này không làm sóng gió gây tai ương và trở ngại cho việc
chài lưới đánh cá.
Do lòng tham
đắm vào cái ta đó mà con người không thể tin vào các điều chân thật,
không thể tin vào cái gì gọi là vô ngã, vô tự tánh và không thường còn.
Họ luôn mong có một vị thần linh để bám víu, để được ban cho những may
mắn và thuận lợi trong cuộc sống và được cứu rỗi sau khi chết.
Bởi thế thay
vì tin vào những vị thầy đã giác ngộ dậy mình pháp môn thanh tịnh thì họ
chỉ mong có vị nào đưa hai bàn tay ra cứu rỗi và bảo vệ họ. Họ thích quỳ
lạy và cầu xin được ban phước lành thay vì phải xa rời tất cả những tham
đắm, buông bỏ những chấp chước để tu tập giải thoát.
Thái tử Tất
Đạt Đa đã bỏ ngôi vị kế thừa vua cha, cung điện cùng vợ đẹp con thơ, vào
nơi rừng sâu núi vắng tầm đạo, tu trì để tìm giải pháp giúp chúng sanh
thoát khỏi sự khổ đau của Sanh Lão Bệnh Tử. Ngài đã thực hành mọi pháp
môn thiền định của ngoại đạo và sau đó phải buông bỏ chúng vì thấy không
rốt ráo. Cuối cùng ngài một mình ngồi tọa thiền, quán chiếu dưới cội bồ
đề, tự giác ngộ được chân lý rốt ráo, thoát ly được Sanh Tử. Thế mà
nhiều người trong chúng ta vẫn nhất định không tin vào việc tu thiền
quán mà ngược lại cứ chấp chước vào thành kiến vô căn cứ, cho rằng tu
thiền có thể bị điên.
Thế giới này
có rất nhiều kỳ bí, nhiều điều kỳ lạ xẩy ra ngoài sức tưởng tượng của
con người. Có nhiều lời chú nguyện hay mật chú có khả năng tiêu trừ tật
ách hay ách nạn, có nhiều linh phù hay linh ấn hoặc thủ ấn có thể làm
tâm của chúng ta trầm lại và làm cảnh giới nhiễu loạn trong tâm được
tiêu trừ. Tuy vậy chúng ta cũng đừng nên quá mù quáng mà chấp chặt vào
đó để quên đi đường lối đã được đức Phật chỉ dậy, đó là phải giữ giới,
tu thiền và phát triển sự hiểu biết chân thật mà ta thường gọi tắt là
Giới Định và Huệ.
Cảnh giới
chúng ta là cảnh giới có đủ các loài khác nhau sống chung lẫn lộn. Các
loài này gồm cả những vị phạm thiên và các tiên nữ ở các từng trời khác
nhau, những vị bồ tát ứng thân thị hiện, các thánh thần lành có dữ có,
các loài ma quỷ vô hình, thỉnh thoảng có thể nhập vào chúng ta và làm
chúng ta mê say những loài phù phép, khiến ta càng ngày càng xa lánh
chân lý.
Chính vì thế
trong trong các kinh đại thừa đều lập đi lập lại nhiều lần là chỉ tin
vào những kinh có thể giải nghĩa được, chớ nên tin vào những gì không
bày tỏ được chân lý, y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa, vì sợ
với tâm thức yếu kém chúng ta dễ bị lôi cuốn vào đường mê.
Thà rằng không
tu chứ tu mà bị cuốn hút vào đường tà của những ma vương có khả năng
thôi miên, biết được những thầm kín trong tận đáy lòng chúng ta, dùng tà
thuật để mê hoặc thì khó có cơ tu tập theo chánh pháp. Bởi thế mà Bát
Nhã Tâm Kinh nhấn mạnh đến cái Không Tánh của mọi hiện tượng để chúng ta
không bị si mê và đắm nhiễm trong bất kỳ cảnh giới nào, ngay cả cảnh
giới không thì cũng không được chấp chặt vào.
Trong Thiền
Tông có câu chuyện của Huệ Trung Quốc Sư (đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng)
trong công án Đại Nhĩ Tâm Thông như sau: Có một nhà sư Ấn Độ tên là Đại
Nhĩ Tam Tạng có phép tha tâm thông, được vua Đường Túc Tông triệu vào
cung để thi triển phép đọc được ý nghĩ người khác. Huệ Trung Quốc Sư
được thỉnh vào để thị nghiệm. Huệ Trung hỏi, phải ông biết tha tâm thông
không? Đáp, không dám. Xin cho biết bây giờ tôi đang ở đâu? Đáp, Hòa
thượng là đệ nhất Quốc Sư mà lại tới Tây Xuyên coi đua thuyền. Hỏi chứ
bây giờ tôi đang làm gì? Đáp, đang trên cầu Thiên Tâân coi khỉ làm trò.
Xin hỏi bây giờ thì sao? Nhà sư Ấn Độ lúng túng không trả lời được. Quốc
Sư quát, đồ dã hồ tinh chỉ có trò bịp.
Đức Phật đã
thị hiện không tin vào các cầu đảo và tán tụng của Bà La Môn. Ngài
thường tìm nơi vắng vẻ tọa thiền và quán chiếu. Thế mà bây giờ đa số
người tu Phật chỉ thích quỳ lạy cầu xin thay vì nghiên cứu giáo lý, cầu
tu đạo Vô Thượng. Họ biết đến Quán Thế Âm Bồ Tát nhiều hơn Phật không
phải vì Quán Thế Âm Bồ Tát dậy họ từ bi hỷ xả mà vì Quán Thế Âm Bồ Tát
có nghìn tay và nghìn mắt nghe ai cầu xin là dang tay ra cứu độ. Thậm
chí có nhiều người còn lầm lẫn gọi Quán Thế Âm bồ tát là Phật Bà.
Nói như thế
không phải là phủ nhận tất cả những thị hiện của chư Phật và chư Bồ tát.
Dù rằng biết thế giới này là giả, là như mộng huyễn bào ảnh, chư vị ấy
vẫn từ bi thương sót và tùy theo mức độ hiểu biết, tin tưởng và căn cơ
của chúng sanh mà ứng thân thị hiện, dùng nhiều phương tiện thiện xảo
giáo hóa, để chúng ta tin tưởng rằng không phải chỉ có thái tử Tất Đạt
Đa mà chính chúng ta cũng có thể tu hành thành Phật. Những sự thị hiện
đó là để tạo điều kiện để chúng ta có thêm tín tâm, tìm thầy, học đạo,
dũng mãnh tinh tấn tu hành cho đến khi giác ngộ chứ không phải là để
chúng ta cứ mãi ỷ lại vào sự gia trì của chư Phật và chư bồ tát, vào
những linh phù mật ấn, vào những thần bí và kỳ ảo, cứ mãi mang tâm cầu
khẩn để được thoả mãn những tham đắm và dục vọng của mình. Nếu chư vị ấy
cứ ứng hiện mỗi khi chúng ta cầu xin thì thế giới này làm gì còn có khổ
đau.
Nếu chư Phật
và chư Bồ Tát cứ ứng hiện cứu giúp chúng ta mỗi khi được cầu khẩn thì
còn đâu là lý nhân duyên, còn đâu là thuyết nhân quả, còn đâu là nghiệp
báo, còn đâu là cảnh giới trùng trùng duyên khởi là những triết thuyết
tuyệt vời của đạo Phật.
Trong kinh hẳn
chúng ta không quên chính đức Phật cũng không thể cản ngăn vua dòng Lưu
Ly đem quân đến tiêu diệt người của dòng Thích Ca. Đức Phật đã thị hiện
cản ngăn vua Lưu Ly mỗi khi vị vua này muốn kéo quân đến đánh đất nước
của mình. Thị hiện hai lần thì đức Phật cũng phải ngưng không ngăn cản
nữa để cho ân oán đâu đó được tự trang trải. Đức Mục Kiền Liên thị hiện
đem năm trăm những người ưu tú của dòng họ Thích bỏ vào bình bát rồi ôm
bình bát nhẩy lên hư không, thế mà khi tới nơi an toàn mở bình bát ra
thì năm trăm người đó cũng đều bị đâm chết, máu chẩy ra đầy bình bát.
Ngay chính Mục Kiền Liên khi đã làm xong Phật sự, giúp đức Phật hoằng
truyền Phật Pháp, cũng phải để cho bọn tà giáo xô đá đè chết trong ghềnh
núi, trả cái nghiệp kiếp xưa đã làm nghề đánh cá.
Ngay chính
ngài A Nan vừa là em bà con của Phật, vừa có trí thông minh tuyệt vời,
lại vừa là thị giả của Phật mà không tinh tấn tu trì nghiêm mật thì cũng
không đắc được quả vị A la hán. Phải đợi đến kỳ kết tập kinh điển lần
thứ nhất sau khi Phật nhập diệt 100 ngày, nhờ tự gia công quyết chí tu
thiền định mới đắc được quả vị đó.
Đức Phật cho
rằng cầu đảo và tán tụng không giúp gì cho việc giải quyết vấn đề Sanh
Lão Bệnh Tử và việc làm bác ái không phải là giải pháp cứu cánh đem lại
niềm an lạc vĩnh cữu cho chúng sanh. Không phải nói như thế là bài bác
các việc làm bác ái, từ thiện cùng những việc xây dựng chùa chiền, nhưng
vì muốn nói đến sự giải thoát rốt ráo nên những việc này được xếp vào
hàng thứ yếu. Cũng trong tinh thần này mà tổ Bồ Đề Đạt Ma khi đến Trung
Hoa đã nói việc xây dựng chùa chiền và giúp đỡ tăng sĩ của vua Lương Vũ
Đế là không có một công đức nào cả.
Đức Phật cũng
chứng tỏ rằng tu khổ hạnh không đưa đến giải thoát mà còn làm não loạn
thân tâm nhưng chúng sanh cứ thích đi tìm những thầy khổ hạnh mà lễ bái.
Ai càng nói khổ hạnh, càng nói nhịn đói để tu hành thì họ càng tin tưởng
và bái phục vì tin rằng tu hành như vậy mới là chân tu. Họ chỉ thích tin
theo những gì phù hợp với tri kiến của họ, bất chấp điều tin tưởng đó có
hợp lý hay không. Họ không còn nhớ là đức Phật đã tu khổ hạnh và bị kiệt
lực bên dòng sông và sau đó đã bỏ khổ hạnh để theo con đường trung đạo
mới điều hoà được thân tâm và đạt được đạo quả Bồ Đề.
Sở dĩ ngài đạt
được giác ngộ vì ngài đã khởi được trí Vô Phân Biệt, xả bỏ những kiến
chấp sai lầm, không còn mù quáng dựa vào hệ thống kinh điển vệ đà và tư
tưởng khổ hạnh của Bà la môn, đã nhiễm sâu vào tâm khảm của hầu hết mọi
người thời đó.
Muốn được giải
thoát thì phải biết buông bỏ các ngã chấp và pháp chấp mà duy thức gọi
là hai thủ tùy miên tức là hai cái năng thủ và sở thủ đã nằm kiên cố nơi
tàng thức, rất khó mà loại trừ. Vị bồ tát muốn xả bỏ được chúng cũng
phải mất ba A tăng kỳ kiếp mới phá nổi.
A tăng kỳ kiếp
đầu là từ lúc phát tâm dũng mãnh quyết tu trì theo đạo Vô Thượng cho đến
khi đắc được Sơ Địa tức là bậc Kiến Đạo Bồ Tát. Địa vị này tương đương
với ba địa vị Tư Lương, Gia Hạnh và Thông Đạt trong Duy Thức. Địa vị này
cũng tương đương với quả vị Tu Đà Hoàn của Thanh Văn. Ở địa vị này vị bồ
tát có cái khả năng tiêu trừ được hai tướng năng thủ và sở thủ, tự mình
tu tập Lục Độ Ba La Mật tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định và trí huệ cho tới khi đạt được bậc Xuất Thế Gian Trí.
A tăng kỳ kiếp
thứ hai là từ bậc Bồ Tát Nhị Địa trở lên đến Thất Địa tức là từ Ly Cấu
Địa đến Viễn Hành Địa. Địa vị này tương đương với địa vị tu tập trong
Duy Thức. Địa vị này cũng tương đương với quả Tư Đà Hàm và A Na Hàm của
Thanh Văn.
A tăng kỳ kiếp
thứ ba, những vị Bồ Tát Đệ Bát Địa tức Bất Động Địa hay là những vị A La
Hán của Thanh Văn đã hồi đầu theo Đại Thừa tiếp tục tu trì, đạt được cái
diệu dụng bất khả tư nghì của Vô Phân Biệt Trí tức là đạt đến bậc Đẳng
Giác và Diệu Giác, tương đương với địa vị cứu cánh trong Duy Thức. Tới
địa vị Đẳng Giác, vị bồ tát vẫn còn một chút câu sanh phiền não chướng
và sở tri chướng ẩn tàng và chỉ mới thật sự xả bỏ cả hai chướng này khi
khởi Kim Cang Dụ Định đắc được quả vị Diệu Giác tức là thành Phật,
chuyển Phiền Não Chướng thành Đại Niết Bàn và Sở Tri Chướng thành Đại Bồ
Đề.
Xin nhắc lại
từ Bồ Tát Sơ Địa lên đến quả vị Diệu Giác tức quả vị Phật có mười hai
bậc thứ lớp như sau: Sơ Địa tức Hoan Hỷ Địa, Nhị Địa tức Ly Cấu Địa, Tam
Địa tức Phát Quang Địa, Tứ Địa tức là Diệm Huệ Địa, Ngũ Địa tức là Nan
Thắng Địa, Lục Địa tức là Hiện Tiền Địa, Thất Địa tức là Viễn Hành Địa,
Bát Địa tức là Bất Động Địa, Cửu Địa tức là Thiện Huệ Địa, Thập Địa tức
là Pháp Vân Địa, rồi tới Bồ Tát bậc Đẳng Giác và Quả vị Phật tức Diệu
Giác.
Nói thì phải
mất ba A tăng kỳ và phải trải qua nhiều thứ lớp để chứng đắc chứ thật sự
thời gian lẫn quả vị đều như huyễn. Vị bồ tát từ bậc Kiến Đạo trở lên đã
xa rời chấp có và chấp không, phát tâm kiên cố quyết hướng đến đạo quả
Vô thượng nên coi việc tu thiền định và quán tưởng là việc thường tình
như ăn cơm và uống nước. Vị đó không còn để tâm đến vấn đề thời gian
cùng vấn đề chứng đắc hay không chứng đắc.
Tiếp theo đây
hãy thử ôn lại cuộc đời tu trì của đức Phật (dựa theo tác phẩm Đường Xưa
Mây Trắng của Thiền Sư Nhất Hạnh) để thấu rõ phương pháp tu hành của
ngài hầu lấy đó làm ngọn đuốc soi đường.
Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni đã chứng Vô Thượng Giác từ vô lượng kiếp. Vì có thệ nguyện sẽ
làm vị Giác Ngộ ở cõi ta bà này để giáo hóa chúng sinh mà ngài đã ứng
thân đản sanh làm thái tử của dòng Cồ Đàm ở Ấn Độ vào năm 624 trước tây
lịch.
Từ khi còn nhỏ
thái tử Cồ Đàm đã rất thông minh. Môn nào học cũng giỏi, từ đọc, viết,
vẽ, âm nhạc, võ nghệ và thể thao, thứ nào cũng siêu xuất, làm kinh ngạc
các thầy dậy.
Khi còn nhỏ,
được đi dự lễ cầy ruộng cùng vua cha, thái tử chỉ thích ngồi tĩnh toạ
dưới gốc cây. Ngồi dưới gốc cây, thái tử thấy các con giun bị lưỡi cầy
xấn ngang nằm quằn quại trên các luống cầy, rồi có các con chim nhỏ đáp
xuống mổ những con giun này mà ăn, rồi lại thấy có con chim lớn bay xà
xuống quắp con chim nhỏ bay đi. Thái tử ngồi chiêm nghiệm những điều đã
chứng kiến và nhận ra rằng cầu đảo và tán tụng cũng không giúp gì cho
những con giun và con chim bị nạn kia.
Khi lớn lên,
thái tử chỉ thích gần gũi và học hỏi nơi những vị Sa môn tu khổ hạnh, là
những tu sĩ đã cắt đứt tất cả những ràng buộc phiền não của cuộc sống
thường tình, không thích những việc cúng tế và cầu đảo, và chỉ thích ở
nơi thanh vắng tu cầu giải thoát.
Thái tử kết
hôn với một công chúa của nước láng giềng. Công chúa rất xinh đẹp và dịu
hiền, rất tâm đầu ý hiệp với Thái tử. Ngoài cuộc sống thảnh thơi, thăm
viếng những nơi phong cảnh hữu tình và săn sóc cơm nước cho chồng, công
chúa còn rất thích làm việc xã hội, giúp đỡ các người già cả, nghèo khó
cùng các trẻ em tật nguyền. Tuy sống cuộc sống hạnh phúc nhưng Thái tử
vẫn ray rức với những u uẩn trong nội tâm, những mong muốn tìm một giải
pháp tâm linh mà việc làm xã hội như công chúa đang làm thì không phải
ai cũng đủ phương tiện làm và đó chỉ là giải pháp tạm thời chứ không
phải là giải pháp rốt ráo để xóa bỏ những bất công của xã hội, không
phải là cứu cánh cho việc giải thoát khỏi Sanh, Lão, Bệnh, Tử và đem lại
niềm an lạc vĩnh cữu cho tâm hồn. Ngài thường chia sẻ sự bế tắc này với
công chúa. Công chúa cũng cảm thấy như vậy và ngầm hiểu một ngày nào đó
thái tử sẽ ra đi để tầm đạo.
Khi công chúa
sanh được La Hầu La thì thái tử lên đường tầm đạo và tu trì với những vị
sa môn khổ hạnh nổi tiếng đương thời. Trong gần 6 năm tu trì với các vị
Bà la môn, thái tử đã đạt tới các quả vị Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên
Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Không Vô Biên
Xứ Định là cái định mà tâm của hành giả đồng nhất với không gian vô biên
và sau khi hành giả bỏ sắc thân này thì sẽ được sanh lên cõi trời Không
Vô Biên Xứ của Vô Sắc Giới.
Thức Vô Biên
Xứ Định là cái định trong đó hành giả thấy được tâm thức mình trong mọi
hiện tượng của vũ trụ và sau khi hành giả bỏ sắc thân này thì sẽ được
sanh lên cõi trời Thức Vô Biên Xứ của Vô Sắc Giới.
Vô Sở Hữu Xứ
Định là cái định trong đó hành giả thấy không có cảnh giới nào thật sự
hiện hữu như chúng ta thường tưởng và sau khi hành giả bỏ sắc thân này
thì sẽ được sanh lên cõi trời Vô Sở Hữu Xứ của Vô Sắc Giới.
Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Xứ Định là cái định cao nhất, trong bốn thứ định ngoại đạo.
Trong định này tâm thức của hành giả rất là tịch tĩnh, các ý niệm về hữu
và vô đều được loại trừ, là cái trạng thái chẳng phải tưởng và cũng
chẳng phải không tưởng. Khi bỏ sắc thân thì hành giả sẽ được sanh lên
cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là cõi trời cao nhất mà thường được
gọi là cõi trời Hữu Đảnh của Vô Sắc Giới.
Thái tử thấy
dù đạt được tới các định này thì cũng không giải quyết được những khổ
đau đã dằn vặt tâm hồn ngài và cũng không giải quyết được vấn đề Sinh,
Lão, Bệnh,Tử. Vì thế ngài quyết định phải tự hạ thủ công phu để tự tìm
ra giải pháp cho những dằn vặt đó.
Ngài tìm đến
những nơi rừng sâu, những hang động hoang vắng, những bãi tha ma bỏ
hoang, quyết dùng khổ hạnh để chế ngự thân tâm. Mỗi ngày chỉ ăn một chút
trái cây hay một vài hạt tùng kiếm được trong rừng, có nhiều khi nhịn
đói mà vẫn thực hành không ngưng nghỉ tất cả các môn thiền định. Tuy đã
chế ngự xác thân đến cùng cực, thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương mà
sự thiền định cũng không đem lại một sự an lạc nào cả và sự khổ não càng
tăng trưởng. Ngài cứ tiếp tục tu ép xác như thế cho đến khi kiệt sức nằm
bất tỉnh bên bờ sông.
Sau đó nhờ
cháo và sữa của cô gái chăn dê đổ vào miệng mà ngài được tỉnh táo trở
lại. Từ đó ngài quyết định không tu khổ hạnh nữa và dời về một khu rừng
gần bờ sông, ngày ngày thiền hành trong rừng, tọa thiền dưới cội bồ đề
và tắm ở dòng sông gần đó. Còn ăn uống thì có khi cô bé chăn dê hay chú
bé chăn trâu hoặc các em trong thôn xóm gần đó đem đồ ăn cùng sữa đến
cúng dường, có khi ngài đi khất thực nơi thôn làng quanh đó.
Ngài từ từ ôn
lại những kinh nghiệm đã trải qua, quán sát tất cả mọi sự việc với một
tâm hồn trong sáng, buông bỏ tất cả các tri kiến đã huân tập từ thuở ấu
thơ, xả bỏ những chấp chước vào hệ thống kinh điển Vệ Đà của Bà La Môn,
một hệ thống tôn thờ bản ngã, đầy mê tín và chủ trương khổ hạnh. Nhờ đó
mà ngài thật sự thâm nhập vào mọi cảnh giới, không thấy sự phân chia
giữa ta và người, giữa ta và ngoại cảnh, ngài thấy mình như hòa tan vào
mọi cảnh giới, ngài nhìn trong một hạt bụi là cả một vũ trụ và cả vũ trụ
bao la này gom lại cũng không khác hạt bụi, ngài là vũ trụ và vũ trụ là
ngài.
Một buổi chiều
ngài ngồi tọa thiền dưới cội bồ đề, ngắm nhìn những lá bồ đề hình trái
tim lung lay trước gió, những cụm mây trắng bay qua, ngài thấy trong
lòng lâng lâng, ngài thấy ngài là chiếc lá, ngài là cụm mây và chiếc lá
cùng cụm mây và cả vũ trụ này cũng là ngài. Tất cả đều không thường còn
và chuyển biến.
Mới ngày nào
ngài còn là thái tử bé nhỏ ngồi dưới tàng cây, nghe tụng kinh vệ đà,
thấy những con giun bị xắn ngang bởi những lưỡi cầy của các bác nông
phu, những xâu xé của những loài chim dành giựt thân xác của các con
giun xấu số này. Mà bây giờ lại là sa môn không có quyền thế, không có
sở hữu, ngồi thiền tọa dưới cội bồ đề.
Cụm mây vừa
thấy kia đã bay qua, những lá bồ đề hình trái tim với chóp lá kéo dài ra
như thể cái đuôi dài dễ thương kia rồi cũng tàn tạ và bay theo chiều
gió. Không có gì là thường còn, không có gì có tự tánh riêng biệt, mọi
sự đều nương nhau mà hiện hữu, mọi sự đều là sự hòa hợp của tứ đại, của
đất nước gió lửa, của hư không và tất cả đều là chuyển hiện nơi tâm
thức. Một lát nữa đây mặt trời sẽ lặn xuống và bóng tối sẽ bao trùm. Mặt
trời lặn không phải là mặt trời không hiện hữu mà là mặt trời bị che
khuất thôi. Mặt trời vẫn hiện hữu và chiếu sáng ở nơi khác. Bóng tối sẽ
hiện ra đó không phải là sẽ hiện ra mà thật sự bóng tối luôn luôn hiện
hữu. Bóng tối vẫn đầy khắp cả hư không mà vì bị mặt trời chiếu soi nên
không biểu hiện ra được. Ánh sáng và bóng tối nương nhau mà hiển lộ.
Không có ánh sáng thì làm sao biết được bóng tối và nếu không có bóng
tối làm sao biết được ánh sáng. Và cả ánh sáng lẫn bóng tối đó đều chỉ
là những chuyển hiện nơi tâm thức. Chỉ vì vô minh mà Chân Tâm bị che lấp
và chuyển biến hiện khởi ra chứ mọi sự đều như huyễn, đều không thật có
ví như hư không vốn thanh tịnh, trong sáng mà vì nhậm mắt mà thấy có hoa
đốm.
Bóng tối xuống
dần, niềm cô đơn và sự sợ hãi từ từ dâng lên trong tâm thức. Những hình
ảnh ma quái kinh sợ tợ như hiện ra trước mắt, những khao khát, những ao
ước cùng những thèm muốn dâng trào, quay cuồng trong tâm thức. Ngài quán
chiếu thật thâm sâu và thấy đó chỉ là huyễn ảo, không có thật thể. Thực
chứng được như vậy thì mọi sợ hãi, khát khao và ham muốn liền ngay đó
tan biến. Mọi sự đều hiện ra rồi lại biến đi mà thật sự thì cũng không
có gì sanh và cũng không có gì diệt, mọi sự đều không từ đâu đến và cũng
chả đi về đâu. Tất cả đều sát na sanh diệt, làm nhân duyên cho nhau mà
hiện khởi.
Ngài Cồ Đàm
ngước nhìn bầu trời đen kịt, vài tia chớp hiện lên bầu trời, ngài mỉm
miệng cười, biết rõ giây phút mong chờ sắp đến. Bấy giờ là đầu canh một,
sấm chớp thình lình nổi lên và mưa trút xuống xối xả. Trong cảnh mưa gió
bão bùng đó ngài thấy rõ sự sinh diệt của mọi loài chúng sanh, cả hữu
tình lẫn vô tình, ngài thấy rõ cả vô lượng kiếp của quá khứ và vị lai
của chính mình và trực nhận sự sanh thành và hủy diệt của muôn loài. Sự
thấu rõ đó là Túc Mạng Minh và Thiên Nhãn Minh.
Mưa vẫn tiếp
tục rơi xối xả và ngài Cồ Đàm tiếp tục quán chiếu miên mật, ngài thấy
các pháp trùng trùng duyên khởi, pháp này làm duyên cho pháp kia, sanh
diệt tương tục mà Chân Tâm thì luôn thanh tịnh, lặng lẽ chiếu soi, như
không có gì làm lay động được. Các pháp trùng trùng duyên khởi đó ví như
những đợt sóng ào ạt trên mặt biển và thể thanh tịnh của Chân Tâm ví như
nước biển ở dưới sâu, không chuyển động. Ngài thấy rõ chỉ vì vô minh và
chấp chước mà vô lượng các phiền não sanh khởi. Nếu biết rõ tất cả đều
là như huyễn và không tự tánh thì các phiền não tự nhiên sẽ bị tiêu trừ.
Đó là sự chứng đắc Lậu Tận Minh. Rồi cũng ngay đó ngài chứng được Thiên
Nhĩ Minh, Tha Tâm Minh và Thần Túc Minh.
Mưa bắt đầu
nhẹ dần, gió bớt thổi, mây đen từ từ tan biến. Sao mai hiện ra lấp lánh,
chói sáng trên bầu trời, hình như muốn mừng vui cùng Bậc Đại Giác Ngộ.
Bấy giờ là cuối canh ba tức gần 5 giờ sáng. Ngài Cồ Đàm mở cặp mắt tươi
sáng nhìn ngôi sao mai lung linh trên bầu trời, sung sướng và reo vang
trong tâm: Lạ thay mọi chúng sanh đều có hạt giống của Giác Ngộ. Vì
vô minh mê lầm mà phải trầm luân khổ đau lặn hụp trong sanh tử luân hồi.
Ta là bậc đã Giác Ngộ và chúng sanh rồi cũng sẽ Giác Ngộ như ta. Khi
ấy Ngài được 31 tuổi.
Trong thời
gian đầu mới thành đạo này, khi Ứng thân tọa thiền dưới cội bồ đề, Pháp
thân Tỳ Lô Giá Na Phật đã nói về cái thế giới trùng trùng duyên khởi của
vô lượng vô số các cõi nước mà Phật đã chứng được cho các long thiên và
các vị Đại Bồ Tát. Đó là Cảnh giới bất khả tư nghì dung thông vô ngại mà
chỉ có bậc Đại Bồ Tát mới lãnh hội được. Cảnh giới đó là cảnh giới Hoa
Tạng Tỳ Lô Tánh Hải nói trong kinh Hoa Nghiêm. Cảnh giới này là cảnh
giới dung thông vô ngại, thời gian dung thông thời gian, không gian dung
thông không gian, thời gian dung thông không gian và không gian dung
thông thời gian. Một dung thông tất cả và tất cả dung thông một.
Tất cả nguyên
lý và cảnh giới đó đã được Bồ Tát Long Thọ cho lưu truyền lại trong bộ
Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Kinh, gọi tắt là Hoa Nghiêm Kinh.
Theo kinh Hoa
Nghiêm thì tất cả các pháp trong vũ trụ chỉ là huyễn hóa do mê hoặc,
vọng tưởng và nghiệp duyên hình thành. Tất cả vạn pháp và pháp giới đều
từ tâm sanh. Tâm bao trùm tất cả pháp giới, tất cả pháp giới nằm trọn
trong Tâm. Tất cả vũ trụ và vạn pháp đều nằm gọn trong một hạt cải và
một hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ và vạn pháp.
Ta hãy đọc một
đoạn trong kinh Hoa Nghiêm diễn tả cảnh giới bất khả tư nghì, cảnh giới
mà bất cứ một vị giác ngộ nào cũng thể chứng như thế, cảnh giới như
huyễn, giải thoát và oai lực:
Khắp hết mười
phương các cõi nước
Mỗi đầu lông
đủ rõ ba đời
Phật cùng
quốc độ vô số lượng
Tôi khắp tu
hành trải trần kiếp
Trong một
niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các
đấng Nhân Sư Tử
Cũng thường
vào cảnh giới Phật
Như Huyễn,
Giải thoát và Oai lực.
Vì trình độ
tâm thức của chúng sanh lúc bấy giờ chưa thể thâm nhập vào cái pháp tối
vi diệu mà Phật đã thể nghiệm nên đức Thế Tôn phải dùng phương tiện
thiện xảo, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà giảng dậy để từ từ thứ lớp
nâng tâm thức của chúng sanh lên hầu có thể hội nhập vào Tri Kiến Phật
như kinh Pháp Hoa đã nói: Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên là đưa
tâm thức chúng sanh hội nhập tri kiến Phật.
Thời gian rao
giảng giáo lý của Phật đựợc chia ra làm 5 thời kỳ:
1. Thời kỳ
Hoa Nghiêm Kinh còn gọi là Đại Thừa Trung Quán 21 ngày.
2. Thời kỳ
kinh A Hàm hay là Tứ Diệu Đế còn gọi là Tiểu Thừa
Hữu Quán
12 năm.
3. Thời kỳ
kinh Phương Đẳng còn gọi là Quyền Thừa 8 năm.
4. Thời kỳ
kinh Bát Nhã còn gọi là Đại Thừa Không Quán 21 năm.
5. Thời kỳ
kinh Pháp Hoa và Niết Bàn còn gọi là Đại Thừa Trung Quán 8 năm.
Trong năm thời
kỳ giảng pháp ta thấy lúc đầu Phật thuyết Đại Thừa Trung Quán. Sau đó
ngài giảng thấp xuống, chỉ giảng về các pháp hữu vi, nói Tứ Diệu Đế tức
nói về sự khổ đau, nguyên nhân của những khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và
phương pháp diệt trừ khổ đau. Rồi ngài từ từ giảng cao lên, nói về Thập
Nhị Nhân Duyên, nói về Quyền Thừa vừa quán Hữu vừa quán Không, rồi nói
về Đại Thừa Không Quán, để rồi sau rốt trở về pháp tối thượng ban dầu
tức là Đại Thừa Trung Quán tức là nói về pháp giới như huyễn chẳng phải
có chẳng phải không.
Như vậy ta
thấy đức Phật đã bỏ ra cả cuộc đời mới nói được điều không thể nói.
Trước hết Phật phải trang bị cho chúng sanh cái biết về pháp hữu vi, nói
rõ các hiện tướng của pháp giới rồi từ từ ngài nói cái đó cũng không
thật, để rồi mới nói được cái Không Tánh của vạn pháp ở thời kỳ Bát Nhã.
Rồi sau rốt Phật mới thuyết giảng về Trung Quán là pháp tối thượng để
đạt quả Vô Thượng, theo đó các pháp chỉ là huyễn, chẳng phải có cũng
chẳng phải không có.
Điều Phật muốn
chúng sanh làm là tu tập Giới, Định và Huệ để thâm nhập vào cái chân
thật của vạn pháp, thực chứng được Tự Tánh Chân Như vô khứ vô lai, bất
sanh bất diệt mà không ngôn từ nào có thể diễn tả đầy đủ được. Những lời
nói của đức Phật cốt là để chúng ta khởi được lòng tin dũng mãnh mà
quyết chí phát nguyện tu hành cho đến khi thành Chánh Quả, đạt được Giải
Thoát chứ không phải để chúng ta đem ra bàn cãi và hý luận xuông. Chính
vì lẽ đó mà đức Phật đã nói rằng trong 49 năm hành đạo, Phật chưa từng
nói một lời nào.
Lời nói của
Phật hay là kinh điển của Phật ví như ngón tay để chỉ mặt trăng, thấy
được mặt trăng rồi thì phải bỏ ngón tay vì nếu cứ ngắm ngón tay thì
không thấy được mặt trăng.
Mặt trăng ví
như Chân Tâm, luôn trong sáng nhưng vì bị mây che nên nhiều khi ta không
thấy được. Cũng vậy Chân Tâm luôn thanh tịnh và hiện hữu nhưng vì mê
vọng mà Chân Tâm bị che lấp. Chỉ có theo con đường Phật đã chỉ dậy mới
dẹp tan được những mê vọng đó. Đó là con đường của Giới, Định và Huệ.
Phải lấy giới hạnh làm tư lương để giữ tâm thanh tịnh, tu thiền không
ngưng nghỉ cho đến khi đạt được Trí Huệ Bát Nhã, đồng với trí huệ của
Phật.
Lời của Phật
là lời của ngưòi đi trước hướng dẫn người đi sau để đi tới Giác Ngộ.
Chúng ta phải thực hành theo lời chỉ dậy đó, chứ không phải cứ tối ngày
mê mờ lẩm bẩm những lời nói đó mà không chịu tu trì, khiến mãi đắm chìm
trong sanh tử luân hồi ví như người sống bên dòng sông mà lại chết vì
khát nước.
Để kết thúc
xin viết ra đây bài Thiền Ca của Bạch Ẩn Thiền Sư, một thiền sư nổi
tiếng của xứ Phù Tang Nhật Bản.
Tự
tánh chúng sanh vốn là Phật, như băng với nước
Ngoài nước không có băng, ngoài chúng sanh tìm đâu có Phật?
Đạo kề bên mà chẳng biết, tìm kiếm xa vời đáng thương
Như sống bên sông nước, khô cổ gào xin vì khát nước
Như con một vị trưởng giả, lang thang giữa phường nghèo khó
Mà
luân hồi trong sáu nẻo, lạc trong hắc đạo vô minh
Đến bao giờ mới thoát ly khỏi sanh tử?
Pháp môn Tọa Thiền của Đại Thừa, thật không đủ lời để tán thán
Những pháp hạnh cao quý đều bắt nguồn ở Tọa Thiền
Cho dù chỉ một lần Tọa Thiền cũng đủ tiêu trừ mọi ác nghiệp
Nào thấy đâu hắc đạo nữa vì Quốc Độ Thanh Tịnh ở ngay đây
Cho dù chỉ một lần hoan hỷ lắng nghe sự thật này
Với hết lòng tôn kính và tán thán
Là
đã được muôn vàn phước báu.
Với những người tự mình thức tỉnh
Chứng đắc được Chân Như Tự Tánh
Tự
Tánh tức Không Tự Tánh
Là
đã thoát khỏi điên đảo vô minh
Thấy được sự đồng nhất giữa Nhân và Quả
Đường Đạo không phải là hai mà cũng không phải là ba
Sắc cũng như Vô Sắc
Tới lui như chưa bao giờ động
Niệm cũng như Vô Niệm
Đang múa ca như đang nghe Pháp
Trời Tam Muội lồng lộng vô biên
Trăng Trí Huệ sáng ngời viên mãn
Đây là lúc ta thiếu gì đâu
Niết
Bàn Thanh Tịnh ngay đây
Thế
giới này là thế giới Liên Hoa
Và
thân này là Pháp Thân của Phật.
Hết
SÁCH
BIẾU KHÔNG BÁN
Mọi chi tiết xin liên lạc về:
Trí Châu (aka Phuong Vu)
c/o Chùa Hương Tích
4821 W. 5th Street
Santa Ana, CA92703 USA
e-mail address:
yunmen@sbcglobal.net
Chân thành cảm ơn Thầy Trí Châu đã gởi tặng
phiên bản điện tử của tập sách này.
(T. Nguyên Tạng, 6/2005)
---o0o---
Trình bày:
Nhị Tường
Cập nhật: 01-06-2005