LỜI ĐẦU SÁCH
Giáo lý
của đạo Phật, xưa nay được kết hợp và lưu giữ trong Tam tạng.
Tam tạng là tạng kinh, tạng luật và tạng luận. Tạng kinh và tạng
luật do chính kim khẩu đức Phật nói ra. Tạng luận là do đệ tử
Phật, những vị đa văn, túc trí có thực tu, thực chứng, sáng tác,
nhằm triển khai cái thâm nghĩa, huyền nghĩa, mật nghĩa vi diệu
trong lời Phật dạy.
Toàn bô
giáo lý Phật có ba tạng như vậy, khiến cho có một nhóm người
hiểu lầm rằng: Học luật là Giới học,
học Kinh là Định học, học Luận
là Tuệ hoc, tức là họ đem "Tam tạng" gắn cứng, cột
ghì vào "Tam vô lậu học" cặp nào theo cặp nấy. Họ tưởng rằng đó
là một "phát minh", "một trí tuệ mới". Sự thật, không phải như
vậy. Người có thực nghiệm, thực chứng, qua sự thực tu hành người
ta không dám nói như vậy đâu !
Quyển
sách này có nhan đề: Duy Thức Học. Tác giả là Ngài
Vasubandhu (Trung Hoa) dịch là Thế Thân
hoặc cũng có chỗ dịch là Thiên Thân.
Thế Thân truyện ký chép: Thế Thân ra đời
sau Phật Niết bàn khoảng 900 năm (khoảng thế kỷ thứ ba) ở Bắc
Thiên trúc. Thủơ mới xuất gia, Ngài tu học theo giáo phái Hữu bộ
Tiểu thừa. Thời gian này, Ngài sáng tác bộ Luận A Tỳ Đạt Ma Câu
Xá nổi tiếng, làm sáng danh cho phái Hữu bộ.
Thế Thân có người anh tên Vô Trước, anh em
cùng xuất gia tu học. Nhưng người anh thì chuyên tu học Đại
thừa, thấm nhuần sâu sắc giáo nghĩa Đại thừa. Trong những tháng
ngày đàm đạo, dần dần Ngài Vô Trước chuyển hóa
được nhận thức của vị sư em. Thế Thân nhận thấy
được chỗ thậm thâm vi diệu, cao siêu cứu cánh của giáo lý liễu
nghĩa Đại thừa. Tương tuyền rằng: Khi tiếp nhận nguồn
giáo lý liễu nghĩa thượng thừa, vi diệu, Thế Thân,
ăn năn về những năm tháng mình đã xiển dương giáo lý Tiểu thừa,
Ngài có định cắt lưỡi tạ tội. Vô Trước Bồ tát nói:
Lưỡi tự nó không có tội gì. Trước em dùng lưỡi và ngòi bút xiển
dương giáo nghĩa Tiểu thừa, giờ đây em cũng dùng lưỡi và ngòi
bút để xiển dương chánh giáo Đại thừa là đủ rồi. Cắt lưỡi có
đem lại lợi lạc cho ai. Từ đó, Ngài Thế Thân
chuyên sáng tác và truyền bá tư tưởng Đại thừa qua các tác phẩm
Duy Thức Học.
Các tác
phẩm của Thế Thân Bồ tát thường được giảng dạy
trong chương trình Phật học của các trường Phật học là:
-
Tiểu thừa: A Tỳ
Đạt Ma Câu Xá Luận
-
Đại thừa: Duy
Thức Nhị Thập Tụng
-
Duy Thức Tam
Thập Tụng Luận
-
Đại thừa Bách
Pháp Luận
Và cũng
tương truyền rằng: Hồi còn tu theo Hữu bộ Tiểu thừa, Ngài sáng
tác có đến cả 500 bộ luận. Sau khi hướng về Đại thừa, Ngài cũng
sáng tác đến cả 500 bộ luận nữa. Vì vậy, người đời tôn Ngài với
danh hiệu "Thiên Bộ Luận Sư".
Yếu
luận. Duy Thức Học Yếu Luận. Do bỉ nhân tôi biên
dịch. Soạn theo lối giáo án để triển khai, cho nên trong đây: Có
phần phiên dịch, phần giải thích thuật ngữ, phần yếu luận để cho
người đọc dễ hiểu, người học dễ nhớ rõ. Đã gọi là "yếu luận" cho
nên không luận rộng, không viết dài mà viết súc tích, thậm chí
"đề cương"!
Mong
những tấm lòng thông cảm, khi các vị có trong tay quyển "Duy
Thức Học Yếu Luận" này.
Viết tại Thao Hối
Am
Mùa Đông, năm Kỹ Mão, tháng 10 năm 1999
H. T. THÍCH TỪ THÔNG
****
DẪN NHẬP
Duy
Thức Học, môn nghiên cứu tìm hiểu nguyên ủy của hiện tượng vạn
pháp để xác lập một luận cứ, cho người tìm hiểu học và đọc có
thể biết được. Duy Thức Học là phương tiện chỉ nam hướng dẫn
phương pháp nhận thức về mặt cụ thể của vạn pháp và khái niệm tư
duy bên mặt trừu tượng. Do vậy, Duy Thức Học, còn gọi là
Pháp Tướng Duy Thức Học, ý nghĩa đầy đủ rõ ràng hơn.
Trước
đây hơn hai mươi năm, tôi có soạn một số giáo trình để giảng dạy
Duy Thức Học, cho tới năm nay, tôi có ân hận về việc viết lách,
diễn đạt Duy Thức Học theo nhận thức, kiến giải mà hơn hai mươi
năm trước mình đã làm. Tôi có thể sám hối như Luận chủ tổ sư Duy
Thức Học, Thiên Thân Bồ tát đã từng sám hối cách đây gần hai
ngàn năm !
Thiên Thân Bồ tát tạo luận Duy Thức Học nhằm hổ trợ cho
nền giáo lý Vô ngã của đạo đức Phật được đậm nét
hơn, sáng tỏ hơn, rõ ràng hơn và đến tột đỉnh cao: "Vô ngã
là chân lý của vũ trụ, nhân sinh quan trong đạo Phật". Đó là mục
tiêu tìm hiểu, lý giải cho những ai muốn học, muốn tu theo tôn
chỉ của Pháp Tướng Duy Thức Học.
Đại Thừa Bách Pháp Luận, có thể nói đây là chìa khóa
vàng để mở cửa vào tòa nhà Duy Thức Học mà tác giả bộ luận này
là Thiên Thân Bồ tát.
"Như Thế
Tôn Ngôn: Nhất Thiết Pháp Vô Ngã"
Đó là
câu nhập đề trực khởi của Luận chủ có nghĩa là Luận chủ tạo ra
luận Đại Thừa Bách Pháp hoàn toàn căn cứ lời dạy
của đức Phật mà triển khai. Triển khai luận Đại Thừa Bách
Pháp, triển khai hệ giáo lý Đại thừa, triển khai tư
tưởng Duy Thức Học, nhằm làm sáng tỏ chân lý Vô ngã
trong nền giáo lý của đức Phật. Hiểu biết chân lý Vô
ngã một cách đích thực bằng tư duy, bằng quán chiếu của
mình thì với chân lý Vô thường, khổ, không và bất tịnh,
học giả hay hành giả ấy sẽ lần lần chứng ngộ theo quá trình tiệm
tiến trên bước đường học đạo và hành đạo của chính mình.
Ta hãy
đọc tiếp:
Hỏi: "Tất
cả pháp gồm có những gì ?
"Vô ngã là sao ? Có mấy thứ ?"
Đáp: "Tất
cả pháp tóm lược có 5 loại:
-
TÂM PHÁP
-
TÂM SỞ HỮU
PHÁP
-
SẮC PHÁP
-
TÂM BẤT TƯƠNG
ỨNG HÀNH PHÁP
-
VÔ VI PHÁP
-
TÂM VƯƠNG ƯU
VIỆT HƠN CẢ
-
TÂM SỞ HỮU
TƯƠNG ỨNG TÂM VƯƠNG
-
SẮC PHÁP LÀ
SỰ ÁNH HIỆN CỦA VƯƠNG SỞ TRÊN
-
BẤT TƯƠNG ỨNG
DO BA PHÁP TRÊN MÀ GIẢ LẬP
-
VÔ VI PHÁP
TƯƠNG ĐÃI BỐN PHÁP HỮU VI MÀ CÓ RA
Đọc
nghiên cứu, phân tách tổng quát năm loại pháp trên đủ thấy tính
chất "Duyên sinh" và "Vô ngã" rồi,
vì không có pháp nào có tính độc lập, tự sinh, tự tồn, bất biến,
bất động.
"Tất cả pháp vô ngã" nhưng bao quát mà tóm thu có hai
thứ:
-
NHƠN VÔ NGÃ
-
PHÁP VÔ NGÃ
Đó là
khái quát nội dung bộ luận Đại Thừa Bách Pháp nhằm
xác lập chân lý Vô ngã qua cái nhìn của Đại thừa
Duy Thức Học với vấn đề vũ trụ nhân sinh quan.
Giáo án
này tôi viết cho trình độ Cao đẳng Phật học, ngắn gọn, súc tích.
Nó đòi hỏi nhiều ở người triển khai hướng dẫn. Triển khai tốt,
người nghe sẽ thu thập được nhiều kiến giải Phật học để làm cơ
sở ban đầu cho những ai có ý muốn tham quan tường tận tòa lâu
đài Pháp Tướng Duy Thức Học đồ sộ xa xa phía
trước.
Nào !
Chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng, cầm chìa khóa lên tay đi ....!
Viết tại Thao Hối
Am
Mùa Đông, năm Kỹ Mão, tháng 10 năm 1999
Phật lịch 2543
H. T. THÍCH TỪ THÔNG
Top
BÀI THỨ NHẤT
Hỏi: Nếu Duy Thức Học có cơ sở vững
chắc thì vấn đề "ngã" của Phật giáo và thế gian phải được hiểu
như thế nào ?
BÀI
TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch nghĩa |
Phiên âm |
Do ức
thuyết về ngã
Ý niệm ngã nảy sanh
Tướng ngã duy thức biến
Thức năng biến có ba
Rằng dị thục, tư lương
Và liễu biệt cảnh thức
|
Do giả thuyết
ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam
Vị dị thục tư lương
Cập liễu biệt cảnh thức
|
GIẢI
THÍCH THUẬT NGỮ:
Ức
thuyết: Tự mình tưởng tượng ra, hiểu theo cái hiểu của mình,
không bằng cứ vào một học thuyết thực tiễn hay chân lý siêu
tuyệt nào khác.
Ngã:
Độc lập tự sinh, độc lập tự tồn, bất biến và bất động.
Pháp: Hiện tượng vật chất trước mắt ngàn sai muôn khác, mỗi
mỗi có hình dáng lớn nhỏ, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp,
màu sắc đa dạng, khiến cho người ta trông thấy nó là nó mà không
lầm lẫn giữa vật này là vật nọ. Mỗi một dạng vật chất được gọi
là một pháp.
"Nhậm trì tự
tánh, quỉ sanh vật giải" (tự nó giữ gìn cái đặc tính riêng
của nó)
Ngoài
vật chất ra chữ "pháp" của nhà Phật còn bao hàm hết lãnh vực
nhận thức khái niệm của ý như: vui buồn, thương ghét, thiện ác,
trí tuệ, vô minh v.v....
Biến: Sự chuyển hóa liên tục trong quá trình tiến triển
của vật chất cộng với thức tâm để hình thành một sự vật hiện
tượng nào đó.
Năng biến: Phần chủ thể nhận thức, biểu hiện qua tám
thức tâm vương, thông qua sự ức thuyết và tưởng tượng.
Dị thục: Tên gọi khác của A lại
da, của Nhất thiết chủng, của Đệ bát thức.
Tư lương: Tên gọi của mạt na hay đệ thất thức.
Liễu biệt cảnh: Tên gọi chung của sáu thức trước: nhãn,
nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý thức.
YẾU LUẬN
Diệt
ngã, xả ngã là vấn đề cốt lõi trong kho tàng Phật giáo. Hiểu rõ,
thực chứng rốt ráo chân lý vô ngã là thành tựu Bồ đề Niết bàn vô
thượng (Bất kiến nhất pháp tức Như Lai..)
Quán
sát vũ trụ nhân sinh, đức Thế Tôn dạy:
"Tất cả
pháp vô ngã"
Nghĩa
là toàn bộ "hữu tình chúng sinh" và "vô tình chúng sinh" đều vô
ngã qua cái thấy của Phật nhãn. Nói cách khác, qua nhận thức của
Phật, loài động vật cũng như thực vật, khoáng vật đều không có
tính tự ngã, tự sinh, tự tồn, tự độc lập, bất biến và bất động.
Tuy nhiên, ở các kinh điển thỉnh thoảng đó đây đức Phật có lúc
vẫn đề cập về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả tướng....Đó là
Như Lai vận dụng "thế giới tất đàn" trong tứ tất đàn, vận dụng
"tục đế" trong "nhị đế" mở bày phương tiện trong cứu cánh đấy
thôi ! Cuối cùng Như Lai chỉ bày những giáo lý phương tiện chỉ
là phương tiện, người Đại thừa chủng tánh phải tu học giáo lý đệ
nhất nghĩa, cứu cánh Đại thừa.
Như Lai
nói: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả tức không phải ngã, nhân,
chúng sanh, thọ giả mà gọi là ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả vậy
thôi !
(Kinh Kim Cang Bát
Nhã)
Ngã của
thế gian do ức thuyết, do tưởng tượng, do mê tín dị đoan. Không
ai chứng minh được cái gì là ngã.
Tóm
lại, Phật giáo nói ngã, khi sử dụng phương tiện tùy thế tục vận
dụng thế đế, để rồi cuối cùng phủ định ngã, khi con người có khả
năng nhận thức chân lý vô ngã. Thế gian nói ngã chỉ vì ức
thuyết, do tưởng tượng hoang đường, do si mê cuồng tín...."Vạn
Pháp Duy Thức" chữ thức trong từ Duy thức phải hiểu là
"Nhất thiết chủng" cũng gọi là "Tàng thức", cũng gọi là "Dị thục
thức". Thức này chứa đựng hết thảy chủng tử hạt nhân của vạn vật
hiện tượng, chứa đựng hết thảy khái niệm, nhận thức và tư duy
của các loại hữu tình.
Hạt
nhân của vạn vật hiện tượng tuy nhiều tựu trung gồm trong ba
loại: khoáng vật, thực vật và động vật. Qua cái nhìn của nhà
Phật học thì "Nhất thiết chủng thức" chứa đựng bảy thứ có tánh
chất phổ biến là: Địa đại, Thủy đại, Hỏa đại, Phong đại, Không
đại, Kiến đại và Thức đại.
Từ
những chất liệu hạt nhân đó, chuyển biến sinh hóa, tác động
tương quan qua lại với nhau mà hình thành sự vật hiện tượng vạn
pháp. Những hạt nhân trong Nhất thiết chủng thức biến chuyển
sinh hóa từng sát na không ngừng theo tiến trình phát triển,
tiến hóa để rồi thành sự vật hiện tượng vạn pháp từ giản đơn dần
dần đến phức tạp.
Sự tác
dụng qua lại, sự kết hợp để hình thành một sự vật hiện tượng đó
chính là quá trình Duy Thức Biến . Như thị như thị Biến
của Duy Thức Học.
Hạt
nhân của vạn pháp vẫn chưa phải là nguyên tố duy nhất khởi đầu
để sinh ra vạn vật hiện tượng mà hạt nhân của vạn pháp phải tác
động qua lại với nhau mới phát triển, mới tiến hóa hình thành
vạn vật hiện tượng. Điều đó cắt nghĩa cho ta thấy rõ ràng sự
biến hóa của Duy Thức và giáo lý Duyên Sinh của
đạo Phật là chân lý hiển nhiên.
Hiện
tượng vạn vật vô tri gọi là sở biến, khái niệm nhận thức tư duy
được gọi là năng biến. Năng biến, sở biến đều là sản phẩm cơ
bản, sản phẩm hạt nhân hiện hữu một cách tự nhiên của Nhất thiết
chủng thức. Sự hiện hữu này, Duy Thức Học gọi là "Bất khả tri" !
Năng
biến có ba hình thái: Dị thục, Tư lương và Liễu biệt cảnh.
Dị thục thức: để cắt nghĩa rằng hiện tượng vạn pháp
sinh ra không có pháp nào vượt ngoài chân lý nhân quả.
Tư lương thức: nhằm chỉ rõ rằng mỗi một hiện tượng duyên
sinh khi sinh ra đều có quán tính tự nhiên duy trì và phát triển
sự tồn sinh hầu kéo dài sự hiện hữu của chúng. Vì vậy, nó còn có
tên: Ngã ái chấp tàng.
Liễu biệt cảnh thức: chứng minh rõ nét tánh chất khác
nhau giữa năng biến và sở biến, chủ thể và đối tượng, phân biệt
và sở phân biệt.
Nói rút
lại:
Năng
biến thuộc bát thức tâm vương, một phần hạt nhân, duyên sinh ra
loài động vật hữu tình.
Sở biến
thuộc vật chất những hạt nhân, duyên sinh ra khoáng vật, thực
vật vô tình.
"Thị chi thức
chuyển biến
"Phân biệt sở phân biệt
"Do thử bỉ giai vô
"Cố nhất thiết Duy thức..."
****
Top
BÀI THỨ HAI
Hỏi: Đã được nghe qua về ba món năng biến,
vậy xin được biết món năng biến thứ nhất thế nào ?
BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
Thứ nhất,
A lại da
Dị thục, nhất thiết chủng
Không thể biết chấp thọ
Cảnh, căn, thường cùng xúc
Tác ý, thọ, tưởng, tư
Chỉ tương ứng xả thọ
Tánh vô phú vô ký
Xúc, tác ý....cũng vậy
Hằng chuyển như nước thác
Quả A la hớn không còn
|
Sở A lại da
thức
Dị thục, nhất thiết chủng
Bất khả tri chấp thọ
Xứ liễu thường dữ xúc
Tác ý thọ tưởng tư
Tương ưng duy xả thọ
Thị vô phú vô ký
Xúc đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A la hớn vị xả
|
GIẢI
THÍCH THUẬT NGỮ:
*A
lại da: Phạn âm dịch là Tàng. Tàng có nghĩa là nhà kho. A
lại da ví cái kho vĩ đại, về không gian không biên giới, về thời
gian tột ba đời; do đó nó có cái tên Tàng thức. Tàng có ba
nghĩa, nếu nhìn qua ba phương diện, đó là: Năng tàng, Sở tàng và
Ngã ái chấp tàng. Nhìn bên mặt công dụng chứa đựng của nhà kho,
đó là nghĩa Năng tàng. Nhìn bên mặt các loại chủng tử bị
chứa, đó là nghĩa Sở tàng. Nhìn bên mặt duy trì sức sống,
sự sanh trưởng và phát triển của sự vật để hình thành, đó là
nghĩa Ngã ái chấp tàng.
*Dị
thục: Có ba nghĩa:
-
Dị thời nhi
thục.
-
Dị biến nhi
thục
-
Dị loại nhi
thục
Chủng
tử của vạn pháp duyên sinh và phát triển hình thành luôn luôn
theo luật nhân quả nhất định, nghĩa là sự vật từ khi sinh đến
lúc hình thành viên mãn một chỉnh thể phải trải qua thời gian,
đó là nghĩa Dị thời. Từ khi sinh đến lúc hình thành viên
mãn kết cuộc của chu kỳ nhân quả phải trải qua thay đổi liên
tục, sự phủ định không ngừng, đó là nghĩa Dị biến. Từ khi
sinh trong nhân đến khi hình thành ra quả, khác hẳn nhau, đó là
nghĩa Dị loại.
Nhất
thiết chủng: Tên khác của A lại da. Nhìn bên mặt chủng tử Sở
tàng. A lại da có tên Nhất thiết chủng.
Thọ:
Sự tiếp nhận, lãnh thọ. Thọ có ba thứ:
-
Lạc thọ: Tiếp
nhận vui
-
Khổ thọ: Tiếp
nhận khổ
-
Xả thọ: Không
thọ vui cũng không thọ khổ.
Vô
ký: Tánh không thiện, không ác. Vô ký tánh có hai thứ:
-
Vô phú vô ký:
Tánh vô ký này vốn trong sáng từ bản chất.
-
Hữu phú vô
ký: Hiện tượng nhiễm ô không biểu lộ rõ rệt nhưng bản chất
không hoàn toàn thanh tịnh.
YẾU LUẬN
Món
năng biến thứ nhất có ba tên. Nhìn bên công năng chứa đựng bao
hàm thì có tên A lại da. Nhìn bên chủng tử vạn pháp bị chứa, nó
có tên Nhất thiết chủng. Nhìn bên mặt sinh khởi và phát triển
của chủng tử vạn pháp nhất nhất đều phải theo một chu trình nhân
quả, nên nó có tên là Dị thục.
Sự tích
tập, giữ gìn và phát triển của Tàng thức không biết được. Con
người chỉ có thể nghiên cứu, tìm hiểu...mà thôi. Các nhà đạo
học, khoa học...cũng chỉ giải thích, cắt nghĩa theo kiến giải
nhất định của chính mình, ngoại trừ đức Phật Thích Ca !
Năng
biến thứ nhất, tánh vô phú vô ký, cho nên tất cả pháp "Sở tàng"
trong A lại da vốn không có nhiễm ô.
Năm món
Tâm sở: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư, tương ứng với thức A lại da,
cũng cùng tánh vô phú vô ký như vậy.
Ba thọ:
Lạc thọ, Khổ thọ và Xả thọ. Thức A lại da thuộc Xả thọ.
A lại
da thức vừa hằng vừa chuyển giống như dòng nước tuôn chảy liên
tục của thác, xem như cố định nhưng chỉ là sự nối tiếp liên tục
vi mật của những giọt nước tuôn nhanh. Vũ trụ vĩnh hằng, vật
chất vĩnh hằng nhưng hằng trong chuyển; tuy chuyển mà chuyển
trong hằng.
Chứng
quả A la Hớn, cái tên A lại da thức được chuyển đổi. Quả vị A la
Hớn là người xuất ly tam giới, là người hóa giải, diệt hết Kiến
tư hoặc trong tam giới. Do vậy, qua cái thấy biết của người A La
Hớn, vạn pháp không còn là nguyên nhân gây ra ô nhiễm làm đau
khổ cho ai. Nói cách khác, người A la Hớn đã thanh tịnh hóa được
lục căn và lục cảnh ở cõi đời rồi !
****
Top
BÀI THỨ BA
Hỏi: Đã nói về thức năng biến thứ nhất
rồi. Vậy thức năng biến thứ hai sự hiện hữu của nó ra sao ?
BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
* Thức năng biến thứ hai
Tên gọi là mạt na
Từ A lại da...ái A lại da
Tính tướng háo suy lường
* Bốn phiền não thường
chung
Là ngã si ngã kiến
Cùng ngã mạn ngã ái
Xúc, tác ý,....tương ưng
* Hữu phú vô ký
tánh
Khắn khít A lại da
A la hớn, diệt định
Đấng xuất thế không còn |
Thức đệ nhị
năng biến
Thị thức danh Mạt na
Y bỉ chuyển duyên bỉ
Tư lương vi tánh tướng
Tứ phiền não thường câu
Vị ngã si ngã kiến
Tinh ngã mạn ngã ái
Cập dư xúc đẳng câu
Hữu phú vô ký nhiếp
Túy sở sanh sở hệ
A la hớn diệt định
Xuất thế đạo vô hữu
|
GIẢI THÍCH THUẬT
NGỮ:
Mạt
na: Trung Hoa dịch là ý căn, dựa trên tính "tư lương", tính
"chấp ngã" để rồi sinh ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Mạt na
là cơ sở làm chỗ nương tựa để ý thức phát sinh phân biệt. Vì
vậy, có tên "ý căn". Mạt na theo thứ tự có tên "đệ thất thức",
tức là món năng biến thứ hai vậy.
Suy
lường: Dịch chữ tư lương. Tính "suy lường" của "tư lương"
khác với tính toán nghĩ ngợi của "tư duy" phân biệt. Suy lường
của "tư lương" như sóng ngầm. Tính toán phân biệt của "tư duy"
như sóng lượn ồ ạt lao xao trên mặt biển.
Si
kiến mạn ái: Thức Mạt na do ngã, vì ngã và cho ngã mà hiện
hữu. Ngoài ngã ra, Mạt na không có tích sự nào khác. Vì vậy, Mạt
na bản chất vốn nhiễm ô rồi.
Hữu
phú vô ký: "Hữu phú" nói lên tính nhiễm ô bản chất của thức
Mạt na.
A la
hớn: Dịch vô sinh, sát tặc, ứng cúng. Đấy là quả vị của
người đoạn trừ Kiến Tư hoặc trong nhân, là người xuất ly tam
giới.
Diệt
định: Nói đủ: Diệt Tận Định, người tu thiền định, diệt được
sự phân biệt của tiền thất thức và ý niệm chấp ngã không còn.
Xuất
thế đạo: Từ A la Hớn trở lên, cứu cánh là quả Vô Thượng Bồ
Đề.
YẾU LUẬN
Mạt na
thức là năng biến thứ hai trong ba món năng biến và là thức thứ
bảy trong tám thức tâm vương. Mạt na, Phạn âm, Trung Hoa dịch là
ý căn. Nó là chỗ nương tựa, cơ sở của ý thức thứ sáu, phát triển
tư duy phân biệt. Vì vậy, tính, tướng, bản chất của Mạt na là
"Tư lương". Mạt na không có tính độc lập, tự sinh, tự khởi. Sự
sinh khởi Mạt na hoàn toàn hệ thuộc A lại da. Mạt na là "ngã ái
chấp tàng" trong ba nghĩa tàng. Mạt na chấp lấy Kiến phần
A lại da, bảo thủ tính chấp của mình khư khư theo "ức thuyết",
không chuẩn đích, không căn cứ và hoàn toàn không chân lý. Kiến
phần cũng như Tướng phần của A lại da đều là pháp hiện tượng
duyên sinh: vũ trụ sơn hà, sum la vạn tượng...tất cả đều "vô
ngã". Thế cho nên, ngã của Mạt na chấp chỉ là "ngã si", "ngã
kiến", "ngã mạn", "ngã ái", không chân lý, không chút thực tiễn
nào. Mạt na chấp ngã là sự vin chấp nội tại của A lại da: Ngã ái
chấp tàng của A lại da vin chấp Kiến phần của A
lại da để rồi "ức thuyết" thành "bản ngã" bởi chính mình. Vì
vậy, bài tụng Duy thức:
"Từ A lại
da....ái A lại da"
Nên
biết, tám thức tâm vương đều giống nhau. Thức nào cũng có bốn
phần. Đó là: Kiến phần, Tướng phần, Tự chứng phần và Chứng tự
chứng phần. Bốn phần này, ta mượn một tỷ dụ để có khái niệm: 1.
Xem hoa; 2. Cành hoa; 3. Nhận định hoa; 4. Đánh giá, giá trị
hoa. Mỗi một thức khi phát khởi đều phải diễn biến theo một quá
trình: Chủ thể nhận thức, đối tượng nhận thức, nhận thức đối
tượng và đánh giá đối tượng ấy. Ta cũng có thể mượn tỷ dụ thứ
hai: 1. Người viết đơn kiện; 2. Người bị kiện; 3. Quan tòa xử lý
kiện; 4. Viện kiểm soát tối cao (cơ sở luật pháp). Bốn phần liên
hợp lại, tác dụng hổ tương nhau để hoàn thành kết quả của một
"Thức", khi thức đó sinh khởi.
Mạt na
thức bản chất vốn nhiễm ô, tánh hữu phú vô ký nói lên sự nhiễm ô
chấp ngã, là nguyên nhân sinh ra mọi thứ phiền não, mọi nỗi
thống khổ cho con người trên cõi đời. Mạt na thức, tánh hữu phú
vô ký, điều này nói lên rằng mạt na thức nhiễm ô từ bản chất.
Bốn phiền não thường chung cùng sinh khởi thì hiện tượng cũng
chẳng trong sạch được.
Mạt na
thức cũng như bát thức tâm vương đương nhiên đều có tương ứng
với nhóm tâm sở biến hành: xúc, tác ý, v.v....Ngoài ra còn một
số....
Mạt na
thức "tùy sở sinh sở hệ" có nghĩa là Mạt na khắn khít gắn bó
chặt với A lại da. Không có A lại da, không tìm đâu cho có Mạt
na được. Cũng như không có thủ tướng, không sao có "vệ sĩ" thủ
tướng trên cõi đời.
Có ba
hạng người do công phu tu chứng mà loại bỏ Mạt na thức. Một là
người tu chứng đến quả A la hớn. Hai là người tu chứng Định Diệt
Tận. Ba là Phật Thế Tôn.
"Ngã"
cộng với "ngã sở hữu" là tiêu chuẩn, là thước, để đo, để đánh
giá: tiến trình học đạo, hành đạo và chứng đạo của người đệ tử
Phật, chân chính và không chân chính vậy.
****
Top
BÀI THỨ TƯ
Hỏi: Thức năng biến thứ ba gồm có những gì
?
BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
* Thức năng
biến thứ ba
Có sáu thứ sai biệt
Tiếp nhận tốt tiền cảnh
Thiện, bất thiện câu phi
* Những tâm sở
biến hành
Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy phiền não, bất định
Cả ba thọ tương ưng
|
Thứ đệ tam
năng biến
Sai biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện bất thiện câu phi
Thử tâm sở biến hành
Biệt cảnh thiện phiền não
Tùy phiền não bất định
Giai tam thọ tương ưng
|
GIẢI THÍCH THUẬT
NGỮ:
*
Sáu thức sai biệt:
-
Nhãn thức:
Sự tiếp nhận phân biệt sắc cảnh của mắt.
-
Nhĩ thức:
Sự tiếp nhận phân biệt thanh cảnh của tai.
-
Tỷ thức:
Sự tiếp nhận phân biệt hương cảnh của mũi.
-
Thiệt
thức: Sự tiếp nhận phân biệt vị cảnh
của lưỡi.
-
Thân
thức: Sự tiếp nhận phân biệt xúc cảnh
của thân.
-
Ý thức:
Sự tiếp nhận phân biệt pháp cảnh của ý.
*
Câu phi: Phi cả hai: Phi thiện, Phi ác. Vô ký. Câu phi
là tánh vô ký.
*
Tâm sở: Tâm sở hữu pháp: Pháp sở hữu của Tâm vương.
*
Ba thọ: Lạc thọ, Khổ thọ, Xả thọ (Xem bài thứ hai)
YẾU LUẬN
Năng
biến thứ ba gồm sáu thức, gọi bằng một tên chung: Tiền lục
thức.
Thức nương căn mà phát khởi, gá cảnh
sinh phân biệt; vì vậy, căn, cảnh, thức không có
lúc rời nhau.
-
Nhãn
căn sinh nhãn thức phân biệt
sắc cảnh.
-
Nhĩ căn
sinh nhĩ thức phân biệt thanh
cảnh.
-
Tỷ căn
sinh tỷ thức phân biệt hương
cảnh.
-
Thiệt
căn sinh thiệt thức phân biệt
vị cảnh.
-
Thân
căn sinh thân thức phân biệt
xúc cảnh.
-
Ý căn
sinh ý thức phân biệt pháp
cảnh.
Thức
đứng trung gian giữa Căn và Cảnh, Sự liên hoàn giữa căn,
cảnh, thức chi phối bao quát hết mọi vấn đề trong vũ trụ
nhân sinh.
Các nhà
Phật học thông thường, người ta gọi sự liên hoàn của tam đầu chế
này là: căn, trần, thức. Ở đây, bỉ nhân tôi không
nói theo ngôn từ mà nhiều người trước đã dùng, nhằm lưu ý cho
người học Phật: Rằng hiện tượng sum la trước mắt không hề có
chất nhiễm ô, càng không hề làm đau khổ hay là nguyên nhân đau
khổ cho ai. Qua cái thấy của người nhiễm nặng "vi rút" Đại thừa;
sự liên hoàn đó phải được nói :căn, cảnh,
thức.
Đi sâu
vào Duy thức học, để minh chứng tính duyên sinh, vô ngã,
căn và thức còn nhiều lắm vấn đề
phải....biết.
Y, phát, thuộc, trợ, như.
Đó cũng
là những yếu tố cấu tạo, duyên sinh ra thức:
"Nhãn
thức cửu duyên sinh
"Nhĩ
thức duy tùng bát
"Tỷ,
thiệt, thân tam thất
"Hậu
tam, ngũ tam tứ"
Nhãn
thức sinh cần chín điều kiện, thiếu một, nhãn thức không sinh
khởi được. Đó là:
Không, minh, căn, cảnh, tác ý, phân biệt, nhiễm tịnh, căn bản,
chủng tử.
-
Nhĩ thức cần
tám. Bỏ món minh.
-
Tỷ, thiệt,
thân, ba thức này cần bảy. Bỏ không
và minh.
-
Ý thức cần
năm. Bỏ không, minh, phân
biệt, nhiễm tịnh.
-
Mạt na cần
ba . Bỏ không, minh, căn,
cảnh, phân biệt, nhiễm tịnh.
-
A lại da cần
bốn. Bỏ không, minh, căn,
nhiễm tịnh, căn bản.
Tiền
lục thức (năng biến thứ ba) đủ cả ba tánh: thiện, ác và vô ký,
tương ứng hết năm mươi mốt tâm sở.
Tâm sở
có sáu loại, gồm năm mươi mốt món:
- Biến hành:
- Biệt cảnh:
- Thiện:
- Phiền não căn bản:
- Tùy phiền não:
- Bất định: |
5
5
11
6
20
4 |
Tóm
lại, ngã tướng là pháp đối tượng sở biến. Bát thức
tâm vương (ba món năng biến) là chủ thể năng biến.
Bát
thức tâm vương tự "biến" ra ngã tướng, tự đặt niềm tin, tự tôn
thờ, thậm chí lạy lục, khấn khứa van xin, nguyện cầu với "ông"
ngã tướng do trí tưởng tượng tạo ra không dựa vào
chân lý.
Nghiên
cứu ba món năng biến, thấy rõ sự tương quan tác động của tâm
vương, tâm sở hữu pháp, sắc pháp, tâm bất tương ưng hành và vô
vi pháp. Người ta đủ kết luận:
"Nhất
thiết pháp vô ngã"
"Hiện
tượng vạn pháp duyên sinh tồn tại khách quan"
****
Top
BÀI THỨ NĂM
Hỏi: Đã nêu tổng quát sáu loại Tâm sở
tương ứng với năng biến thứ ba. Nay cần biết tánh sai biệt của
chúng như thế nào ?
BÀI
TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
* Trước hết
tâm sở biến hành: Xúc, tác ý,
thọ, tưởng, tư
* Kế biệt cảnh: có dục
Thắng giải, niệm, định, tuệ
độc lập trước cảnh duyên
* Thiện: có
tín, tàm, quý
Vô tham, vô sân, vô si
Cần an, bất phóng dật
Hành xả và bất hại
* Phiền não:
có tham sân
Si, mạn, nghi, ác kiến
* Tùy phiền não: là phẩn
Hận, phú, não, tật xan
Cuống siểm với hại, kiêu
Vô tàm và vô quí
Điệu cử với hôn trầm
Bất tín cùng giải đải
Phóng dật với thất niệm
Tán loạn,bất chánh tri
* Bất định: có hối, miên
Tầm từ: đều hai mặt.
|
Sở biến hành xúc đẳng
Thứ biệt cảnh vị dục
Thắng giải niệm định tuệ
Sở duyên sự bất đồng
Thiện vị tín tàm quý
Vô tham đẳng tam căn
Cần an bất phóng dật
Hành xả cập bất hại
Phiền não vị tham sân
Si mạn nghi ác kiến
Tùy phiền não vị phẩn
Hận phú não tật xan
Cuống siểm dữ hại kiêu
Vô tàm cập vô quí
Trạo cử dữ hôn trầm
Bất tín tinh giải đải
Phóng dật cập thất niệm
Tán loạn bất chánh tri
Bất định vị hối miên
Tầm từ nhị các nhị
|
GIẢI
THÍCH THUẬT NGỮ:
*
Tâm sở: Nói đủ Tâm sở hữu pháp. Pháp sở
hữu của tâm vương, có ba nghĩa:
-
Hằng y tâm
khởi
-
Dữ tâm
tương ứng
-
Hệ thuộc ư
tâm
*
Biến hành: Phổ biến khắp bốn lãnh vực, gọi là Biến
tứ nhất thiết:
-
Nhất thiết
thức
-
Nhất thiết
thời
-
Nhất thiết
địa
-
Nhất thiết
tánh
*
Biệt cảnh: Hoàn cảnh riêng biệt, môi trường độc lập: Khi
một tâm sở sinh khởi, trong hoàn cảnh riêng biệt, các tâm sở còn
lại không có tương quan.
*
Thiện: "Tăng ích". Đem lại nhiều điều thuận lợi cho việc
tu tâm dưỡng tánh. Tăng ích tron việc lợi mình, lợi người, lợi
cho tất cả.....
*
Phiền não: Phiền: Sự nóng nảy, bực tức, khiến tâm thô
tháo, ấm ức, không an. Não: Sự buồn bực, sầu lo
ray rứt, âm ỉ khôn nguôi. Phiền não có hai loại:
-
Căn bản phiền
não: Phiền não gốc rễ, có sáu món.
-
Chi mạt phiền
não: Phiền não nhánh lá chồi tược, có hai mươi món
*
Bất định: Loại tâm sở bất định khi sinh khởi, phải xem
xét kết quả rồi sau mới xác định tính chất thiện hay ác.
*
Năm tâm sở biến hành:
-
Xúc:
Sự giao tiếp giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức,
giữa năng tri và sở tri.
-
Tác ý:
Đánh thức khởi tâm, dẫn tâm đến cảnh, ghi nhận vào tâm.
-
Thọ:
Lãnh nạp. Lãnh nạp vui, khổ hoặc vô ký.
-
Tưởng:
Hồi tưởng nhớ cảnh đã qua, tưởng tượng cảnh chưa xảy đến;
sau đó giả đặt danh ngôn.
-
Tư:
Suy tư tính toán, khiến tâm hoạt động không ngừng....
*
Năm tâm sở biệt cảnh:
-
Dục:
Mong muốn, hy vọng. Nếu hy vọng Lạc cảnh thì dục là chỗ dựa
cho cần.
-
Thắng
giải: Nhận định chắc chắn không gì lay chuyển.
-
Niệm:
Nhớ nghĩ cảnh từng quen, đã gặp, ghi nhớ không sai, làm
chỗ dựa cho định.
-
Định:
Đối cảnh sở quán, tâm chuyên chú không loạn, làm chỗ dựa
cho tuệ.
-
Tuệ:
Chọn lựa cảnh sở quán đúng. Dứt khoát trong sự đoạn nghi.
*
Mười một món thiện:
-
Tín:
Đức tin: Đối với thật, đức, năng khởi tâm ham
mộ, với chân, thiện, mỹ hoan hỉ tiếp thu. Sâu
sắc hơn: tín tự, tín tha, tín nhân, tín quả, tín sự, tín lý,
để tâm cầu tiến. Đối trị tâm bất tín.
-
Tàm:
Tự biết xấu hổ khi làm việc sai quấy. Đối trị tánh vô liêm
sĩ.
-
Quí:
Tự tôn nhân phẩm, khinh rẻ bạo ác bất lương, không làm
tội lỗi.
-
Vô tham:
Đối với tài, sắc, danh, thực....là nhân khổ trong tam giới,
không lưu luyến, không dính mắc... Đối trị tâm tham.
-
Vô sân:
Không giận dữ, bực tức. Dứt khổ nhân, khổ quả. Đối
trị sân nhuế.
-
Vô si:
Đối với chân như, vô minh: hiểu rõ, không mù mờ lẫn lộn. Bản
thể, hiện tượng: nhận thức thấu triệt căn nguyên. Đối trị
tâm tánh ngu si ám độn.
-
Cần:
Siêng năng tận tụy. Bên mặt thuần thiện, cần tức là tinh
tấn.
-
Khinh an:
Nhẹ nhàng tâm tưởng, thư thái thần trí. Đối trị hôn trầm.
-
Bất phóng
dật: Thúc liễm thân, khẩu, ý trong sáng. Giảm ác,
tăng thiện. Đối trị phóng dật.
-
Hành xả:
Thân, khẩu, ý tích cực trong việc hành thiện, lợi
ích chúng sinh. Làm mà không chấp, không hy vọng nghĩa trả
ơn đền. Khác với xả của "xả thọ".
-
Bất hại:
Không làm đau khổ hữu tình. Đối trị tâm độc ác, hại người.
*
Sáu món phiền não căn bản:
-
Tham:
Đam mê luyến ái ngũ dục. Ôm lấy nhân khổ để rồi thọ lấy
quả khổ trong tam giới. Đối lập tánh vô tham.
-
Sân:
Bất bình, bất mãn trong sự tham cầu ngũ dục, thường khởi
ác nghiệp qua thân, khẩu, ý. Chướng ngại vô sân.
-
Si:
Mê muội sự lý, mê muội chân vọng, mê muội chánh tà, hay
tạo ác nhân để thọ quả khổ đời sau. Si là tên khác của vô
minh. Chướng ngại vô si.
-
Mạn:
Tự thị, tự tôn đối với người khác, thường kênh kiệu,
ngạo nghễ, tâm thường bất an. Chướng ngại ôn nhu, nhân hậu.
-
Nghi:
Do dự không quyết đoán đối với sự lý, chánh tà, chân
ngụy. Cản trở cơ hội tốt trên đường thăng tiến. Chướng ngại
tánh quyết đoán.
-
Ác kiến:
Đối với sự thật, với chân lý; nhận thức lệch lạc,
sai lầm, thường gây tạo khổ nhân, gánh chịu khổ quả. Chướng
ngại Thiện kiến. Ác kiến có năm hình thức: Thân kiến, Biên
kiến, Tà kiến, Kiến thủ kiến và Giới cấm thủ kiến.
*
Hai mươi món phiền não chi mạt:
-
Phẫn:
Đối cảnh không vừa lòng, nổi cơn tức giận hay khởi ác tâm,
biểu lộ qua hành động: đánh đập gậy gộc. Chướng ngại tánh
bất phẫn. Họ hàng dòng dõi của sân.
-
Hận:
Phẫn nộ khí còn vương sót lại, ôm ác tâm không buông bỏ,
thường kết oán cừu. Chướng tánh bất hận.
-
Phú:
Vì lợi dưỡng che dấu tội ác, lòng thường bị ray rức không
an. Chướng ngại tánh cương trực bất phú. Họ hàng của tham.
-
Não:
Phẫn hận còn sót lại trong tâm, thường ray rứt nội tâm, đay
nghiến ra thái độ. Chướng ngại tính vô não. Họ hàng dòng dõi
của sân.
-
Tật:
Danh lợi muốn ôm hết về phần mình, không cho người khác có;
ghét ai được có như mình, buồn lo ray rứt. Chướng ngại tính
bất tật. Dòng họ nhà sân.
-
Xan:
Keo kiệt pháp tài, không có tâm giúp đỡ, tích trữ, có tính
đê hèn. Chướng ngại tính vô xan. Họ hàng dòng dõi của tham.
-
Cuống:
Vì danh dự lợi dưỡng, dối hiện đức độ, ngụy trang hiền thiện
để phỉnh gạt người. Tâm ôm chước quỉ, mưu mô, sống đời tà
mạn. Họ hàng thân tộc tham và si.
-
Siểm:
Nói tâng bốc, khen, nịnh hót để được lòng người , vụ lợi
về mình, sống với tâm hồn ti tiện. Chướng ngại tính bất
siểm. Dòng họ gia phả với tham và si.
-
Hại:
Không có lòng thương xót chúng sinh hữu tình, ngược lại dụng
tâm gây đau khổ, hay ôm lòng bức não. Chướng tính bất hại.
Dòng dõi họ hàng của sân.
-
Kiêu:
Tự đắc, tự mãn với thành công của mình, thường ôm tính kênh
kiệu xen lẫn đau khổ cô đơn. Chướng tính vô kiêu. Họ hàng
dòng dõi của tham.
-
Vô tàm:
Bất cố liêm sĩ. Khinh cự hiền thiện. Làm điều ác không hổ
lương tâm. Chướng ngại đức tàm.
-
Vô quý:
Bất cố liêm sĩ. Khinh cự hiền thiện. Làm điều phi pháp bất
thiện giữa bạch nhật thanh thiên, không đếm xỉa dư luận
miệng thế, tăng trưởng hành vi tội lỗi. Chướng đức quí.
-
Điệu cử:
Tâm đối cảnh dao động. Chướng xa ma Tha.
-
Hôn trầm:
Tâm đối cảnh lờ mờ, nửa như mơ, nửa như thật. Chướng khinh
an. Chướng cảnh sở quán (tỳ bát xá na)
-
Bất tín:
Đối với thực, đức, năng, với tam bảo không vui
nhận. Tâm uế nhiễm, nguyên nhân của đọa lạc. Chướng tâm
thanh tịnh.
-
Giải đải:
Lười biếng việc đoạn ác, tu thiện. Nuôi dưỡng mầm
nhiễm ô đọa lạc. Chướng đức tin tấn.
-
Phóng
dật: Với pháp nhiễm, không lánh, không ngừa; với
pháp tịnh, không để tâm tu tập. Buông xuôi thả lỏng tam
nghiệp. Nguyên nhân của tăng ác, tổn thiện. Chướng bất phóng
dật.
-
Thất
niệm: Cảnh sở duyên không ghi nhận, không nhớ rõ.
Làm trở ngại chánh niệm, làm cơ sở cho tán loạn phát sinh.
-
Tán loạn:
Tâm tán duyên nhiều cảnh trong một lúc. Hậu quả của thất
niệm. Chướng chánh niệm. Chướng tam ma bát đề và thiền na.
-
Bất chánh
tri: Đối với cảnh sở quán hiểu không đúng. Di truyền
của si còn trong huyết thống. Chướng chánh tri.
*
Bốn món bất định:
-
Hối:
Nhớ việc làm đã qua, không bằng lòng với việc làm đó sinh áy
náy trong tâm; luận Đaị thừa Bách pháp gọi là Ố tác. Chướng
Xa ma tha.
-
Miên:
Thân không tự tại, tâm không tỉnh táo. Chướng ngại chỉ,
quán.
-
Tầm:
Tìm kiếm khiến tâm lông bông, không điểm tựa, nghĩ đó, nghĩ
đây....Chướng chỉ, quán.
-
Từ:
Tìm kiếm trong sự hồi tưởng, cũng khiến tâm không điểm tựa
nhưng trầm tĩnh hơn "Tầm". Chướng chỉ, quán.
YẾU LUẬN
Đọc năm
mươi mốt Tâm sở, hiểu kỹ tám thức Tâm vương, ta có thể nói:
Duy thức học là môn Tâm lý học Phật giáo,
tưởng không có gì cần phải lý giải. Song Tâm lý học
Phật giáo khác với Tâm lý học của trường phái, Tâm lý
học xã hội, ở mục đích đến cũng như trên lộ trình đi. Mục đích
đến của Tâm lý học Phật giáo là Bồ đề, Niết bàn,
xa ma tha, tỳ bát xát na là lộ trình phương tiện để đi. Tâm lý
học xã hội, chú trọng nghiên cứu hiện tượng sinh khởi của tâm để
hy vọng đúc kết ra một "công thức" nào đó, hướng sự vui mừng,
buồn giận, thương ghét...vào một khuôn khổ, một nề nếp, một qui
ước của xã hội nào đó mà xã hội đó chấp nhận được. Thành quả tột
đỉnh cao của nó không vượt khỏi phạm vi lý tưởng: ăn, mặc, ở,
ngủ....thở, cho cuộc sống bình thường thậm chí tầm thường.
Tâm
vương và Tâm sở, sự cấu tạo và tương quan của chúng, tưởng tượng
giống sự cấu tạo của một "triều đình". Tâm vương là "vua". Các
loại Tâm sở là "quần thần". Quần thần có nhóm trung, nhóm nịnh,
nhóm "ba phải", nhóm kề cận sát cánh hầu hạ đỡ đần. Tâm sở biến
hành là loại kề cận đỡ đần sát cánh ấy. Tâm sở bất định thì ai
biết được nó thuộc phe nào ! Loại Tâm sở thiện thì rõ là ích
quốc lợi dân. Nhóm phiền não dù đầu đảng hay lâu la ai cũng
biết, đó là bọn khuynh gia đảo quốc.
Nhóm
Tâm sở biệt cảnh chỉ là hạng cầm cờ chạy hiệu, có, thì "vải rách
đỡ nóng tay"; không, cũng chẳng ảnh hưởng đến sự phế hưng tồn
vong của một chế độ.
Nghiên
cứu Duy thức luận ta thấy, "Tâm sở hữu pháp" quyết
định hành vi tạo tác của con người.
Nghiên
cứu Duy thức luận ta sẽ thấy "Thân sở hữu pháp"
nhiều hơn con số 51 của Tâm sở hữu pháp ấy nhiều, chỉ có điều
chưa ai có khả năng khoanh vùng "dục vọng" để tổng kê con số vật
chất Thân Sở hữu mà con người yêu cầu "không biên giới" ấy. Là
đệ tử Phật, nên lưu ý điểm này ! Hằng y tâm khởi, dữ tâm tương
ưng, hệ thuộc ư tâm là nghiệp vụ của Tâm sở.
Do vậy,
con người vui hay khổ, tùy thuộc có tỉnh thức, có chánh niệm, có
quán chiếu nội tâm nhiều hay ít của chính mình.
****
Top
BÀI THỨ SÁU
Hỏi: Những Tâm sở tương ứng với tiền lục
thức
(Năng biến thứ ba) như thế đã hiểu rõ rồi, nhưng còn sự hiện
hành sinh khởi của chúng đối với sáu thức ra sao ?
BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
* Nương tựa căn bản thức
Năm thức tùy duyên hiện
Hoặc chung hoặc không chung
Như sóng mòi với nước
*Ý thức thường hiện khởi
Trừ sanh vô tưởng thiên
Vô tâm hai thứ định
Chết ngất, lúc ngủ say
|
Y chỉ căn bản thức
Ngũ thức tùy duyên hiện
Hoặc câu hoặc bất câu
Như ba đào y thủy
Ý thức thường hiện khởi
Trừ sanh vô tưởng thiên
Cập vô tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt
|
GIẢI
THÍCH THUẬT NGỮ:
*
Căn bản thức: Tên khác của đệ bát thức. Căn bản thức đệ
bát thức cũng tức A lại da...
*
Vô tưởng thiên: Người tu định vô tưởng thuần thục, họ có
sự an lạc của họ.
*
Hai định Vô tâm:
-
Vô tưởng
định: Trong lúc nhập định, vận dụng pháp Xa ma tha thâm
hậu, tiền lục thức vắng lặng không hoạt động.
-
Diệt tận
định: Trong lúc nhập định tiền thất thức vắng bặt không
hiện hành.
YẾU LUẬN
Trong tám anh
em một ả si
Một chàng lanh lợi đáng kinh nghi
Năm em đon đả mời đưa khách
Quản lý gia cang một chị hiền
Tiền
thất thức lúc hiện khởi cũng như lúc tiềm tàng hoàn toàn nương
tựa đệ bát thức. Đệ bát thức có tên căn bản thức,
vì là chỗ căn cứ, cơ sở nương tựa của Tiền thất thức; như nước
là bản thể, chỗ y cứ mà hiện tượng sóng mòi bọt bóng được khởi
sinh.
Tiền
ngũ thức có thể sinh khởi cùng một lúc, nếu yếu tố sở duyên đầy
đủ; cũng có thể sinh khởi một, hai hoặc ba....tùy yếu tố sở
duyên hiện hữu, thuộc đối tượng của thức nào.
Đệ lục
thức thì hiện hữu trong mọi thời. Bất cứ lúc nào, bất cứ thức
nào trong năm thức sinh khởi, đều có sự hợp tác tham gia của ý
thức. Danh từ Ngũ câu ý thức nói lên
sự hợp tác tham gia đó.
..."Một
chàng lanh lợi đáng kinh nghi
Năm em đon đả mời đưa khách...."
"Năm em
đon đả mời đưa khách": Nói rõ sự nhạy cảm của tiền ngũ thức,
thường xuyên tiếp xúc với ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc)
mà các thức còn lại không có được chức năng ấy.
"Một
chàng lanh lợi đáng kinh nghi". Chàng đệ lục thức lanh lợi thật
bởi vì: với thiện ác, vô ký ba tánh; với hiện lượng, tỷ lượng,
phi lượng ba lượng; với tánh cảnh, đới chất, độc ảnh ba cảnh, đệ
lục thức đủ hết. Vì vậy, ý thức quả là:
"Một chàng
lanh lợi đáng kinh nghi !"
Dù lanh
lởi trùm cả tám anh em, dù tầm cỡ hoạt động bao gồm ba tánh, ba
lượng và ba cảnh nhưng đệ lục thức vẫn không hiện diện ở năm
trường hợp: Vô tưởng thiên, Vô tưởng định, Diệt tận định, ngủ
không chiêm bao và chết ngất. Trong khi đó đứa em gái thiệt
thà và người chị hiền quản lý gia cang, lẽo đẽo có mặt khắp nơi
trong tam giới !
****
Top
BÀI THỨ BẢY
Hỏi: Đã xác định vai trò của ba món
Năng biến, đã xác định ngã chỉ là đối tượng sở
biến
Vậy:
-
Năng biến và sở
biến đối với duy thức có hay không ?
-
Nếu tất cả duy
thức ngoại duyên không thực, tại sao hữu tình phân biệt
triền miên ?
-
Nếu là duy
thức, vấn đề hữu tình sinh tử tương tục, được giải thích thế
nào ?
BÀI
TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
* Do tám thức
chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Cả năng sở đều không
Xác định: rằng duy thức
* Do nhất thiết chủng thức
Biến như vậy...như vậy...
Và do lực biến chuyển (vận động)
Hiện tượng vô vàn sinh
*Do tập khí của
nghiệp
Và tập khí hai thủ
Dị thục trước vừa dứt
Tái hiện dị thục sau
|
Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Có nhất thiết duy thức
Do nhất thiết chủng thức
Như thị như thị biến
Dĩ triển chuyển lực cố
Bỉ bỉ phân biệt sanh
Do chư nghiệp tập khí
Nhị thủ tập khí câu
Tiền dị thục ký tận
Phục sanh dư dị thục
|
GIẢI
THÍCH THUẬT NGỮ:
*
Như vậy: Dịch chữ Như thị. Trong Phật giáo
có danh từ "Như thị", dùng trong lúc nói đến sự
nhiệm mầu mà không gian không thể hình dung, thời gian không
diễn đạt rõ, văn tự miêu tả không đến, ngôn ngữ lý giải không
cùng.
*
Nghiệp: Hành vi của con người thường xuyên liên tục biểu
hiện trong đời sống. Nghiệp biểu hiện qua thân, khẩu, ý gọi là
tam nghiệp.
*
Tập khí: Thói quen trong công việc làm, huân tập thành
chủng tử. Từ chủng tử có điều kiện sinh khởi hiện hành.
*
Hai thủ: Hai thứ chấp thủ, ôm chặt khư khư không cởi mở
được.
-
Kiến thủ:
Chấp ngã bên con người, ngã của tự thân.
-
Tướng thủ:
Chấp ngã bên vạn pháp, ngã của ngoại cảnh.
Dị thục:
(Xem lại bài Năng biến thứ nhất)
Chữ Dị thục ở đây chỉ cho sinh mạng, vì sinh mạng là sự kết trái
của một dòng nhân quả: Dị thời, Dị biến, Dị loại nhi thục.
YẾU LUẬN
*
Năng phân biệt, sở phân biệt đều là sản phẩm của thức:
"Thị
chư thức chuyển biến". Chữ "thị" chỉ cho tám
thức tâm vương là "năng phân biệt", "Sở phân biệt" là
"Tướng ngã", đối tượng chấp. Chấp ngã ở
vạn pháp cũng như chấp ngã ở con người, hoàn toàn
do sự chuyển hướng của các thức, hướng đến một lối chấp sai lầm,
rồi tự "biến" ra cái chấp: Ngã. Theo lập trường
của Duy thức học, trong vạn pháp đối tượng sở biến không có
ngã. Trong con người, bát thức Tâm vương là một tổng
hợp của con người cũng không có ngã. Do vậy, cái
nhìn của Duy thức học thấy rõ và xác định rằng: Năng phân biệt,
sở phân biệt hay năng biến, sở biến không có ngã.
Thế mà người đời chấp có ngã, thì cái ngã
đó duy thức của họ tự biến rồi tự chấp mà thôi.
*
Hiện tượng vạn pháp tồn tại khách quan. Đó là kết quả của chân
lý duyên sinh, chuyển biến trong nhất thiết chủng thức.
Không
vì chấp ngã mà hiện tượng vạn pháp sinh. Không vì
không chấp ngã mà hiện tượng vạn pháp không hiện
hữu và tồn tại.
Nhất thiết chủng thức, "Sở tàng", nó vừa là nguyên nhân
để duyên sinh sự vật, vừa là kết quả, hình thành chỉnh thể vô
vàn sự vật, vạn tượng sum la trước mắt.
Chủng
tử vạn pháp thì vô vàn, tựu trung có những chất liệu:
-
Một, thể lưu
ngại, có tính rắn chắc giống như đất, gọi là "địa đại"
-
Hai, thể lưu
nhuận, tính lỏng, giống như nước, gọi là "thủy đại"
-
Ba, thể viêm
nhiệt, tính nóng, giống như lửa, gọi là "hỏa đại"
-
Bốn, thể phiêu
động, tính chuyển động, giống như gió, gọi là "phong
đại"
-
Năm, thể rỗng
không, tính rỗng như hư không, gọi là "không đại"
Năm đại
này là những yếu tố hình thành khoáng vật, thực vật và những gì
thuộc vật chất. Ngoài ra, còn hai "đại" thuộc loại siêu văn tự
ngữ ngôn, siêu tư duy phân biệt bình thường. Duy thức học gọi
"Bất khả tri". Đó là "Kiến đại" và
"Thức đại". Con người nhận thức sự hiện hữu của Kiến
đại và Thức đại qua: (Hữu tác dụng pháp, Hiện thọ dụng pháp và
Hiện sở tri pháp), công năng nhận thức và công năng thọ dụng
trong cuộc sống hằng ngày; rồi mệnh danh đó là thức,
là tâm hoặc cũng gọi đó là tinh thần.
Bảy
chất liệu đó, vận động chuyển biến, phân giải, hóa hợp không sát
na ngừng trụ theo qui luật riêng của nó là: đồng
và dị. Nó vừa hằng vừa chuyển trong thức Nhất
thiết chủng. Sự vận động chuyển biến, phân giải, hóa hợp, tác
động qua lại với nhau, duyên khởi hình thành từng chỉnh thể của
hiện tượng vạn pháp bằng nhận thức tư duy hữu hạn, con người
không thể biết được. Kinh điển Phật giáo thường dùng từ
"Như thị" hoặc ""Như thị, Như thị" để chỉ
sự vận động chuyển biến nhiệm mầu đó.
Vạn
pháp là sản phẩm duyên sinh từ Nhất thiết chủng thức, con người
cũng là sản phẩm duyên sinh như vậy; khác nhau ở điểm, con người
hữu tình, có "tình thức" để nhận thức sự vật và nhận thức cả
chính mình. Vạn pháp là vô tình, chỉ là "sở phân biệt", đối
tượng bị nhận thức của con người.
Tóm
lại, chủng tử của vạn pháp từ Nhất thiết chủng thức chuyển biến
một cách nhiệm mầu mà hình thành hai loại chúng sinh:
-
Một, Hữu
tình chúng sinh, thuộc thành phần "năng phân biệt",
có khả năng nhận thức chấp "ngã" bên hiện
tượng vạn pháp, đồng thời cũng chấp "ngã" của
chính mình.
-
Hai, Vô
tình chúng sinh, sơn hà đại địa sum la vạn tượng, là
đối tượng "sở chấp" "sở phân biệt" của thành phần "năng
chấp" ấy. Do vậy, Hữu tình chúng sinh không có ngã,
Vô tình chúng sinh cũng không có ngã. "Ngã",
chỉ là "ức thuyết", sản phẩm của Duy thức "biến" mà thôi !
*
Sự sinh tử tương tục của hữu tình và chân lý không có ngoại lệ.
Bằng
cái thấy của Phật nhãn, vũ trụ: thành, trụ, hoại, không; tuy là
hy hữu nhưng là chuyện phải có. Sự vật trên cõi đời: sinh, trụ,
dị, diệt là chuyện tất nhiên. Với con người hữu tình: sinh, lão,
bệnh, tử....tương tục là bình thường, vì sự diệt sinh, sinh diệt
với các pháp hữu vi là qui luật tất yếu, tất nhiên của vũ trụ
vạn hữu. Đạo Phật gọi đó là chân lý vì lẽ thật đó không có một
thế lực nào làm cho khác hơn được.
Chủng
tử của vạn pháp trong Thức Nhất thiết chủng chuyển biến và duyên
sinh theo một trật tự, một qui luật tự nhiên. Đồng chủng
tương hợp, dị chủng tương xích. Đồng tính tương cự, dị tính
tương hấp. Đồng năng tương bội, dị năng tương để. Đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu.
Hiện
tượng vạn vật duyên sinh dựa trên nguyên tắc Đồng dị,
từ khi khởi điểm đến lúc hình thành một chỉnh thể nào đó, đều
tuân theo quá trình Nhân quả tuyệt đối của
Dị thục thức. Đó là Dị thời, dị biến và
dị loại nhi thục. Do vậy, quan sát hiện tượng vạn
pháp ta không tìm thấy một sự vật nào tồn sinh mà vượt ra luật
nhân quả. Luật nhân quả bao trùm vũ
trụ nhân sinh, hữu tình, vô tình đều nằm gọn, đồng thọ dụng một
chân lý ấy. Tuy nhiên, nếu nhìn sâu vào bản chất
di truyền "tương tục" của vạn pháp trong Dị thục thức, người ta
có thể thấy:
-
Khoáng vật di
truyền tương tục bằng chất.
-
Thực vật di
truyền tương tục bằng gen.
-
Động vật thứ
cấp và hạ cấp di truyền tương tục bằng gen.
-
Động vật, hữu
tình cao cấp như con người sinh tử tương tục di truyền bằng
nghiệp.
Nghiệp là công việc làm thường xuyên liên tục của hữu tình
nào đó. Việc làm hoặc là một nghề để sinh sống hoặc là một sở
thích. Việc làm lợi mình, lợi người gọi là Thiện nghiệp. Việc
làm hại người, hại mình gọi là Ác nghiệp. Thân, khẩu, ý con
người là cơ sở phát sinh và biểu lộ Thiện nghiệp hay Ác nghiệp.
Nếu có chánh niệm, mọi người có thể kiểm soát được nghiệp lực
của chính mình và tự mình có thể chuyển hóa nó theo ý nguyện của
dị thục hiện tại và dị thục tương
lai.
Tập
khí là thói quen. Tập khí và nghiệp làm nhân quả tác động
qua lại cho nhau. Trong cuộc sống hằng ngày "việc làm" (nghiệp)
của ta là thiện, nó sẽ thành "thói quen" (tập khí) không làm ác
được. Đã có "thói quen" không làm ác thì việc làm ấy đương nhiên
là thiện. Việc làm, làm nhiều, làm mãi thành thói quen, thói
quen cứ quen như thế mà làm mãi làm hoài. Trung gian giữa nghiệp
và tập khí huân tập thành chủng tử (hạt giống) được A lại da
thức chứa đựng. Từ đó, chủng tử sinh khởi nghiệp. Nghiệp sinh
tập khí. Tập khí và nghiệp huân tập thành chủng tử mới. Cái vòng
tròn: sinh diệt, diệt sinh. Cộng thêm tập khí, chủng tử và
nghiệp của hai món năng thủ và sở thủ biến thành một lực hấp
dẫn, một "thế giới từ trường" của "dẫn nghiệp" và "mãn nghiệp",
cho "Tiền dị thục" và "Hậu dị thục"
Tóm
lại, đời người là một dị thục quả của một chu kỳ
nhân quả. Chủng tử thiện hay ác, biểu hiện
nghiệp và tập khí. Thiện hay ác, là yếu tố
mới để hình thành một dị thục sau, một chu kỳ nhân
quả kế tiếp....
****
Top
BÀI THỨ TÁM
Hỏi: Nếu tất cả Duy thức thì cớ gì đức Thế
Tôn đề cập Tam tự tánh ở kinh Lăng già ? Mâu thuẩn đó
giải quyết như thế nào ?
BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
*Do mọi người
biến kế
Biến kế đủ thứ vật
Tính biến kế chấp này
Nó không có tự tính
*Tự tính y tha khởi
Kết hợp duyên mà sinh
Tự tính viên thành thật
Hằng viễn ly tánh trước
*Tính viên thành và y tha
Khác mà không phải khác
Như tính vô thường, vô ngã
Hiểu lệch mất cả hai
|
Do bỉ bỉ biến
kế
Biến kế chủng chủng vật
Thử biến kế sở chấp
Tự tánh vô sở hữu
Y tha khởi tự tánh
Phân biệt duyên sở sanh
Viên thành thật ư bỉ
Thường viễn ly tiền tánh
Cố thử dữ y tha
Phi dị phi bất dị
Như vô thường đẳng tánh
Phi bất kiến thử bỉ
|
GIẢI
THÍCH THUẬT NGỮ:
*
Biến kế:
Biến: Phổ biến,
thông thường, phổ cập...
Kế: Tính toán, so đo, xét nét, nghĩ ngợi
*
Biến kế sở chấp tự tính: Kiến chấp phổ biến trong đại đa
số quần chúng. Lối chấp không có sự thật, không hợp chân lý.
*
Y tha khởi tự tính: Nói đủ: "Y tha duyên nhi sinh khởi".
Nương nhiều nhân duyên, nhiều yếu tố mà hình thành một chỉnh thể
của một sự vật. Sự vật đó không có tính độc lập tự sinh.
*
Viên thành thực tính: Khi nhận thức rõ, không còn lầm
lẫn đối với tính y tha khởi; loại trừ tính chấp
biến kế sai lầm, ngay nơi đó là: tự tính duyên thành thực.
YẾU LUẬN
Đức Thế
Tôn đề cập Tam tự tính, nhưng Đức Thế Tôn không
chủ trương có một tự tính nào.
Tự tính biến kế sở chấp do sự chấp nê sai lầm phổ biến
của con người. Sự chấp nê sai lầm của nhiều người gọi là tính
biến kế sở chấp.
Hiện
tượng vạn pháp không có pháp nào có tính độc lập tự sinh mà phải
nương gá nhiều duyên khác, tức là nhiều yếu tố hợp lại mới cấu
tạo sinh ra một vật. Vì vậy, tính chất của sự vật hiện tượng
được gọi là y tha khởi tính, thực chất chẳng có
gì.
Sự thực
hiện tượng vạn pháp là "duyên sinh". Sự thực hiện
tượng vạn pháp là "Vô ngã". Hiểu đúng chân lý thì
ngay nơi đó có được: Tự tính viên thành thực. Vì
vậy, đức Thế Tôn đề cập Tam tự tính mà không có
tự tính nào của Thế Tôn nói.
Tìm
hiểu tính biến kế của con người qua bát thức tâm vương ta thấy:
-
Thức A lại da,
biến mà không kế, nghĩa là nó thường
xuyên hiện hữu trong đời sống con người nhưng nó không có công
năng tính toán so đo trong việc "chấp nê" dù sai hay đúng.
-
Thức Mạt na vừa
biến vừa kế, nghĩa là Mạt na cũng
thường xuyên hiện hữu cùng với A lại da nên gọi là biến
và nó có công năng "chấp ngã" trường kỳ nên gọi
là kế; bởi tính của nó là "tư lương".
"Tư lương vi
tính tướng"
"Tứ phiền não thường câu".
-
Đệ lục thức,
kế mà không biến, nghĩa là đệ lục
thức về mặt so đo tính toán "chấp nê" thì không có thức nào
bằng, đó là kế; nhưng trong sinh hoạt con người
có năm trường hợp ý thức vắng mặt. Vì vậy, ý thức không
biến mà chỉ có kế.
-
Tiền ngũ thức,
không biến cũng không kế, bởi vì
tiền ngũ thức hiện khởi tùy thuộc vào cảnh duyên, có cảnh
duyên mới sinh khởi; không có cảnh duyên không sinh khởi được.
Tiền ngũ thức không có tính liên tục thường xuyên cho nên
không biến và chỉ có hiện lượng cho nên cũng
không kế.
Do vậy,
Biến kế sở chấp tự tính chỉ là tính chấp sai lầm của bát thức
tâm vương không hề có tự tính !
Sự
tương quan gắn bó giữa tự tính Y tha khởi và tự tính Viên thành
thực cũng giống như sự gắn bó tương quan của chân lý vô
thường và vô ngã. Nếu không có tính Y tha
khởi hẳn không có tính Viên thành thực. Tính Viên thành thực có,
do nhận thức đúng tính Y tha khởi .
Chân lý
vô thường đúng vì bản chất vạn pháp vô ngã.
Bản chất vạn pháp vô ngã cho nên biểu hiện ra chân
lý vô thường: sinh, trụ, dị, diệt....
Tính Y
tha khởi và tính Viên thành thực khác, mà không phải có hai
tính. Người nghiên cứu Duy thức phải tư duy như vậy, bằng không,
tìm tòi hy vọng một tính Viên thành thực ở chân trời góc biển
hay ở thế giới mông lung....cũng không bao giờ có. Chẳng những
tìm không có tính Viên thành thực mà cũng đánh mất cái tính Y
tha khởi của vạn pháp.
Tóm
lại, nhìn bên tục đế, tự tính Y tha khởi, Thế Tôn
cũng không phủ nhận, mà đó là một chân lý.
Hiểu
sai chân lý ấy, Thế Tôn bảo đó là tính biến kế sở chấp
của mọi người.
Hiểu
đúng chân lý ấy, Thế Tôn dạy: Được ! Đấy là viên thành
thực tính, đấy !
Thế cho
nên, Thế Tôn đề cập Tam tự tánh, kỳ thực Thế Tôn
có nói tính nào đâu !
****
Top
BÀI THỨ CHÍN
Hỏi: Đức Thế Tôn đã đề cập ba tự tính rồi.
Cớ gì Thế Tôn lại dạy: tất cả pháp đều không tự tính ?
BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
*Chỉ vì ba tự
tính
Chỉ ra ba vô tính
Mật ý của Phật nói
Tất cả pháp vô tính
*Một hiện tướng, vô
tính
Hai tính tự nhiên, vô tính
Ba tính viễn ly, biến kế
Và tính chấp ngã, vô tính
*Đấy thắng nghĩa
các pháp
Đấy chính là chân như
Vì nó hằng như như
Đấy thực tính duy thức
|
Tức y thức
tam tánh
Lập bỉ tam vô tánh
Cố Phật mật ý thuyết
Nhất thiết pháp vô tánh
Sơ tức tướng vô tánh
Thứ vô tự nhiên tánh
Hậu do viễn ly tiền
Sở chấp ngã pháp tánh
Thử chư pháp thắng nghĩa
Diệc tức thị chân như
Thường như kỳ tánh cố
Tức duy thức thật tánh
|
GIẢI
THÍCH THUẬT NGỮ
* Hiện
tướng vô tính: Biến kế sở chấp, vô tính.
* Tự
nhiên vô tính: Y tha khởi, vô tính
* Tính
viễn ly biến kế: Viên thành thật, vô tính.
* Thắng
nghĩa: Nghĩa rốt ráo cũng gọi là liễu nghĩa.
* Chân
như: Chân lý bất di bất dịch của vũ trụ khách quan.
YẾU LUẬN
Như ta
đã biết, Đức Thế Tôn đề cập Tam tự tính kỳ thực
không có cái "tự tính" nào của Đức Thế Tôn nói ra. Ba "tự tính"
ấy chỉ là kết quả của sự hiểu biết sai lầm, ý thức chấp
ngã, trước vạn pháp vốn dĩ vô ngã. Đức Thế
Tôn không nói có Tam tự tính như vậy.
"Tất cả pháp không tự tính". Đấy mới là then chốt, lập
trường, là tôn chỉ của toàn bộ giáo lý Phật.
Hiện
tượng vạn pháp "vô tính" vì thực tướng của vạn
pháp là "vô tướng".
Tự
nhiên tính "vô tính" vì trên cõi đời không có cái
gì "tự nhiên" mà có. Y tha khởi tính tự nó nói lên rằng nó
"không phải tự nhiên" rồi !
Viên
thành thực tính "vô tính", viên thành thực, chỉ là
kết quả của sự "viễn ly". Viễn ly tính "biến kế", viễn ly tính
chấp ngã mà có được tên ấy.
-
Tất cả pháp
không "tự tính" là giáo nghĩa thù thắng.
-
Tất cả pháp
không "tự tính" là chân như của vạn pháp.
-
Tất cả pháp
không "tự tính" là tính thường như của vạn
pháp.
-
Tất cả pháp
không "tự tính", hiểu như thế là thể nhập
"thực tính Duy thức" rồi vậy.
****
Top
BÀI THỨ MƯỜI
Hỏi: Đã thành lập Duy thức tướng và
Duy thức tính rồi
BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:
Từ
khi:
Dịch
nghĩa |
Phiên âm |
*Khởi tâm tu
duy thức
Cầu trụ duy thức tánh
Hai thủ ngủ im lìm
Chưa diệt trừ chinh phục
*Được phần ít nhẹ nhàng
Cho là chứng duy thức
Vì còn thấy có được
Chưa thực trụ duy thức
*Chừng nào cảnh sở duyên
Tâm không hề sở đắc
Trụ duy thức là đây
Bởi hai thủ xa rời
*Thanh thoát vượt nghĩ bàn
Đấy! Trí xuất thế gian !
Viễn ly hai thô trọng
Thọ dụng quả chuyển y
*Đây cảnh giới vô lậu
Bất tư nghì, thiện, thường
An lạc, giải thoát thân
Cõi pháp thân, tịch mặc
|
Nải chí vị
khởi thức
Cầu trụ duy thức tánh
Ư nhị thủ tùy miên
Du vị năng phục diệt
Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị duy thức tánh
Dĩ hữu sở đắc cố
Phi thật trụ duy thức
Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhỉ thời trụ duy thức
Ly nhị thủ tướng cố
Vô đắc bất tư nghì
Thị xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y
Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghì thiện thường
An lạc giải thoát thân
Đại mâu ni danh pháp
|
GIẢI
THÍCH THUẬT NGỮ:
* Duy thức
tánh: Thực tánh của Duy thức. Đây là cảnh giới của con
người xa lìa "biến kế sở chấp", xa lìa "năng thủ" "sở thủ", xa
lìa tính "sở đắc" và quả "sở chứng". Nói cách khác, an trụ
duy thức tính, tức là thể nhập cảnh giới "tịch diệt
Niết bàn"
* Nhị thủ:
Hai món thủ:
-
Năng thủ: Chấp
ngã bên con người.
-
Sở thủ: Chấp
ngã bên hiện tượng vạn pháp.
*
Hai thô trọng:
-
Sở tri
chướng: Sở tri chướng cũng gọi "trí chướng".
Một thứ tri thức hữu hạn; thứ trí này chỉ có khả năng hiểu
biết "tục đế" những gì thuộc về "thế gian pháp". Nó trở ngại
con đường tiến triển đến: Nhất thiết trí, tự nhiên
trí, vô sư trí và nhất thiết chủng trí
của quả vô thượng bồ đề.
-
Phiền não
chướng: Căn bản phiền não, chi mạt phiền não...những thứ
phiền não ấy che chướng làm trở ngại sự thể nhập Niết bàn mà
đáng lý mọi người ai cũng có phần được thể nhập.
*
Chuyển y: Dựa trên hai thứ chướng mà chuyển hóa.
-
Phiền não
chướng, chuyển thành Niết bàn.
-
Sở tri chướng,
chuyển thành Bồ đề.
YẾU LUẬN
Đứng
bên mặt chân đế Pháp tánh không tuệ học, mà đề cập
vấn đề chứng đắc tức thì bị quở trách ngay: Rằng
"chưa được vào nhà !". Bên mặt tục đế, phương tiện, vận dụng văn
tự, ngôn thuyết, hướng dẫn hành giả phát tâm tu Duy thức
quán theo một tiến trình tạm chia năm giai đoạn với năm
địa vị:
-
Tư lương vị
-
Gia hạnh vị
-
Thông đạt
vị
-
Tu tập vị
-
Cứu cánh vị
Từ bài
tụng thứ nhất cho đến bài tụng thứ hai mươi lăm, trình bày về lý
do có mặt của Duy Thức Học, yếu tố hình thành của Duy Thức Học,
đối tượng nghiên cứu của Duy Thức Học và hướng dẫn cách nhận
thức để giải quyết những mắc mướu của con người theo quan điểm
lập trường của Duy Thức Học.
Sự có
mặt của Duy Thức Học, nhằm chỉ rõ tính vô ngã của con người và
tính vô ngã của hiện tượng vạn pháp, xác định chân lý
"Duyên sinh" và chân lý "Vô ngã" trong
Phật giáo.
Yếu tố
hình thành Duy Thức Học là chỉ rõ sự nhận thức phi chân lý, sự
"ức thuyết" của ai đó hay nói rõ hơn là sự ảo tưởng hoang đường,
phát xuất từ những bộ óc non nớt yếu mềm, mê tín dị đoan; những
nhận thức đó tác động tâm tưởng con người thông qua Bát
thức tâm vương và biểu hiện hoặc trừu tượng ở tư duy
hoặc cụ thể ở hành động như: thờ phượng, cúng lạy, van
xin....với những chức danh, địa vị không bao giờ có trong sự
thực.
Đối
tượng nghiên cứu của Duy Thức Học là hiện tượng vạn pháp, nên
nhớ mỗi con người nói riêng, mỗi động vật nói chung, cũng là một
pháp trong hiện tượng vạn pháp. Duy Thức Học chỉ rõ: Rằng:
Vạn pháp vô ngã.
Duy
Thức Học giải quyết những thắc mắc, đau khổ ngàn đời của con
người. Duy Thức Học đã vạch ra rằng:
-
Hiện tượng vạn
pháp "Duyên sinh" tồn tại khách quan
-
Vạn pháp
Vô thường và Vô ngã.
-
Sinh, lão,
bệnh, tử là việc bình thường.
-
Sinh, trụ, dị,
diệt là việc bình thường.
-
Thành, trụ,
hoại, không cũng là việc bình thường.
Người
muốn có an lạc, tránh lo âu sợ hãi phi lý cần tu học Duy Thức,
đi sâu vào Duy Thức Quán ngõ hầu thấy rõ chân lý Vạn pháp
duy thức.
Trong
quá trình triển khai diệu lý để thành lập duy thức,
người ta gọi đó là Duy thức cảnh. Tức là dựa trên
bối cảnh thực tiễn của con người và sự vật hiện hữu để thành lập
Diệu lý Duy thức.
Từ bài
tụng thứ hai mươi lăm đến bài tụng thứ ba mươi, trình bày năm
địa vị trên con đường tiến tu Duy thức quán. Năm
địa vị đó là:
Một,
Tư lương vị, tư lương có nghĩa chuẩn bị lương phạn,
sắp xếp hành lý cho một cuộc hành trình tiến tu Duy thức
quán.
"Khởi tâm tu
duy thức"
"Cầu trụ duy thức tánh"
"Hai thủ ngủ im lìm"
"Chưa diệt trừ chinh phục"