PHẬT NÓI
KINH NGHIỆP BÁO SAI BIỆT CHO TRƯỞNG GIẢ THỦ CA
Hán dịch:
Ðời
Tùy Dương Xuyên Quận Thủ Cù Ðàm Pháp Trí.
Việt dịch:
Thích Chánh Lạc
---o0o---
Nghe như vầy:
Một thời
Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, nước Xá vệ.
Bấy giờ
đức Phật bảo Ðao Ðề Tử Thủ Ca trưởng giả rằng:
–Này
trưởng giả Thủ Ca, ta sẽ nói cho ông nghe về pháp môn sai biệt của nghiệp
báo thiện ác. Ông hãy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ.
Bấy giờ
Thủ Ca liền bạch đức Phật:
–Thưa
vâng, bạch Thế Tôn, con muốn được nghe.
Ðức Phật
bảo thủ Ca:
–Tất cả
chúng sanh bị hệ thuộc nơi nghiệp, y chỉ nơi nghiệp, tùy nơi nghiệp của
chính mình lưu chuyển, do nhân duyên đó mà có sự sai biệt lớn, vừa và nhỏ
không đồng. Hoặc có nghiệp khiến cho chúng sanh bị quả báo chết yểu, hoặc
có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được sống lâu, hoặc có nghiệp hay khiến
cho chúng sanh bị quả báo nhiều bệnh, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng
sanh được quả báo ít bệnh, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả
báo thô xấu, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo đoan
chánh, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh có quả báo có ít oai thế,
hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh có quả báo có oai thế lớn, hoặc có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh vào dòng họ thấp kém, hoặc
có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo vào dòng họ cao sang, hoặc
có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo có ít của cải, hoặc có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo có nhiều của cải, hoặc có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo tà trí, hoặc có nghiệp hay
khiến cho chúng sanh được quả báo chánh trí, hoặc có nghiệp hay khiến cho
chúng sanh bị quả báo địa ngục, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị
quả báo súc sanh, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo ngạ
qủy bị quả báo A tu la, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả
báo loài người, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo cõi
trời, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo cõi Sắc thiên,
hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo cõi Vô Sắc thiên,
hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo quyết định, hoặc có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo bất định, hoặc có nghiệp hay
khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh nơi biên địa, hoặc có nghiệp hay
khiến cho chúng sanh được quả báo sanh ở trung quốc, hoặc có nghiệp hay
khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh trọn tuổi thọ ở địa ngục, hoặc có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh nửa tuổi thọ ở địa ngục,
hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh trong địa ngục vừa
vào liền ra, hoặc có nghiệp làm mà không tụ tập, hoặc có nghiệp tụ tập mà
không làm, hoặc có nghiệp vừa làm vừa tụ tập, hoặc có nghiệp không làm
không tụ tập, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh trước vui sau khổ,
hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh trước khổ sau vui, hoặc có nghiệp
hay khiến cho chúng sanh trước khổ sau khổ, hoặc có nghiệp hay khiến cho
chúng sanh trước vui sau vui, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh
nghèo mà ưa bố thí, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh giàu mà keo
kiết, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh giàu mà hay bố thí, hoặc có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh nghèo mà keo kiết, hoặc có nghiệp hay
khiến cho chúng sanh thân được vui mà tâm bị khổ, hoặc có nghiệp hay khiến
cho chúng sanh tâm được vui mà thân bị khổ, hoặc có nghiệp hay khiến cho
chúng sanh cả thân tâm đều vui, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả
thân tâm đều khổ, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh mạng tuy hết rồi
nhưng nghiệp chưa hết, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh nghiệp tuy
hết rồi mà mạng vẫn còn, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả nghiệp
và mạng đều hết, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả nghiệp và mạng
đều còn, có thể đoạn trừ các phiền não, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng
sanh sanh nơi ác đạo mà hình dung tuyệt đẹp, đôi mắt đoan nghiêm, da dẻ
trong sáng, ai cũng ưa nhìn, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh
nơi ác đạo mà hình dung thô xấu, da dẻ xù xì, không ai thích nhìn, hoặc có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh nơi ác đạo, thân miệng hôi thúi, các
căn khuyết tật.
Hoặc có
chúng sanh tập hành mười nghiệp bất thiện bị ác báo bên ngoài, hoặc có
chúng sanh tập hành mười thiện nghiệp được quả báo thù thắng ở bên ngoài
Lại nữa,
này trưởng giả, hoặc có chúng sanh kính lạy tháp miếu của Phật được mười
thứ công đức, cúng thí bảo cái được mười thứ công đức, cúng thí tràng phan
được mười thứ công đức, cúng thí chuông linh được mười thứ công đức, cúng
thí y phục được mười thứ công đức, cúng thí chén bát đồ dùng được mười thứ
công đức, cúng thí đồ ăn thức uống được mười thứ công đức, cúng thí giày
dép được mười thứ công đức, cúng thí hương hoa được mười thứ công đức,
cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức, cung kính chắp tay được mười thứ
công đức.
Ðó gọi là lược thuyết về pháp môn sai
biệt của các nghiệp trong thế gian.
Ðức Phật
bảo:
–Này Thủ
Ca, có mười loại nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo chết yểu:
1.
Tự mình sát sanh.
2.
Bảo người sát sanh.
3.
Khen ngợi sự giết.
4.
Thấy giết vui sướng.
5.
Ðối với người oán ghét thì muốn tiêu diệt.
6.
Thấy người oán của mình bị tiêu diệt rồi trong lòng sung sướng.
7.
Làm hư thai tạng của người khác.
8.
Dạy người hủy hoại (thai tạng).
9.
Xây dựng miếu thờ trời để giết hại chúng sanh.
10.
Dạy người đánh nhau để hai bên bị tàn hại.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo chết yểu.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo trường thọ:
1. Tự mình không sát sanh.
2. Khuyên người khác đừng sát sanh.
3. Tán thán sự không sát sanh.
4. Thấy người không sát sanh trong lòng vui mừng.
5. Thấy người bị giết hại, phương tiện cứu thoát.
6. Thấy kẻ bị cái chết khủng bố, an ủi họ.
7. Thấy kẻ bị khủng bố, bố thí sự vô úy.
8. Thấy người bị các khổ loạn, khởi tâm thương xót.
9. Thấy người bị các điều cấp nạn, khởi tâm đại bi.
10. Dùng các thức ăn uống bố thí chúng sanh.
Do mười
nghiệp này nên được trường thọ.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo nhiều bệnh:
1. Thích đánh đập tất cả chúng sanh.
2. Khuyên người đánh đập.
3. Khen ngợi sự đánh đập.
4. Thấy đánh đập thì hoan hỷ.
5. Làm não loạn cha mẹ khiến cha mẹ buồn rầu.
6. Não loạn Thánh hiền.
7. Thấy người oán của mình bị bệnh khổ, trong lòng vô cùng vui
sướng.
8. Thấy người oán của mình lành bệnh, trong lòng không vui.
9. Ðối với bệnh của kẻ oán thù, cho không đúng thuốc trị bệnh.
10. Ðồ ăn cách đêm khó tiêu lại ăn vào.
Do mười nghiệp này nên bị quả báo nhiều bệnh.
Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo ít bệnh:
1. Không đánh đập tất cả chúng sanh.
2. Không khuyên người khác đánh đập.
3. Tán thán sự không đánh đập.
4. Thấy người không đánh đập, tâm sanh hoan hỷ.
5. Cúng dường cha mẹ và các người bệnh.
6. Thấy bậc Hiền thánh bị bệnh hoạn thì giúp đỡ trông coi, cúng
dường.
7. Thấy kẻ oán của mình lành bệnh sanh tâm hoan hỷ.
8. Thấy người bệnh khổ bố thí thuốc hay, cũng khuyên người khác bố thí.
9. Ðối với chúng sanh bệnh khổ, sanh tâm thương xót.
10. Ðối với đồ ăn thức uống, tự mình có thể tiết kiệm.
Do mười
nghiệp này nên được quả báo ít bệnh.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo thô xấu:
1. Ưa phẩn nộ.
2. Ưa ôm lòng ghét giận.
3. Dối láo mê hoặc người khác.
4. Não loạn chúng sanh.
5. Ðối với chỗ ở của cha mẹ không có lòng kính yêu.
6. Ðối với chỗ các Hiền thánh không sanh tâm cung kính.
7. Xâm đoạt ruộng vườn sinh sống của các Hiền thánh.
8. Làm mất ánh sáng đèn đuốc nơi tháp miếu của đức Phật.
9. Thấy người thô xấu thì hủy báng khinh chê.
10. Tập các hạnh ác.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo thô xấu.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo đoan chánh:
1. Không sân.
2. Bố thí y.
3. Thương yêu cha mẹ.
4. Tôn trọng Hiền thánh.
5. Tu bổ sơn phết tháp Phật.
6. Lau quét từ đường.
7. Lau quét già lam.
8. Lau quét tháp Phật.
9. Thấy người thô xấu không có tâm khinh khi, nhưng có lòng cung
kính.
10. Thấy người đoan chánh biết rõ do nhân đời trước (cảm nên).
Do mười
nghiệp này nên được quả báo đoan chánh.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo ít oai nghi:
1. Ðối với chúng sanh khởi tâm ganh ghét.
2. Thấy người khác được tài lợi, sanh tâm buồn rầu bực tức.
3. Thấy người khác bị mất lợi, trong lòng vui mừng.
4. Thấy người khác được danh tiếng sanh tâm ganh ghét.
5. Thấy người bị mất danh dự, trong lòng hân hoan.
6. Thối tâm Bồ đề, hưng hoại hình tượng của Phật.
7. Ðối với cha mẹ mình và chỗ ở của các Hiền thánh không có tâm thờ
phụng.
8. Khuyên người tu tập hành động ít oai nghi.
9. Làm chướng ngại kẻ khác tu tập hành động có oai nghi lớn.
10. Thấy người có ít oai đức sanh lòng khinh dễ.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo có ít oai thế.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh có quả báo được oai thế lớn:
1. Ðối với chúng sanh không có tâm đố kỵ.
2. Thấy người khác được tài lợi sanh tâm hoan hỷ.
3. Thấy người khác mất lợi sanh tâm thương xót.
4. Thấy người khác được danh dự trong lòng hân hoan.
5. Thấy người khác bị mất danh dự, giúp cho bớt buồn lo.
6. Phát tâm Bồ đề, tạo hình tượng Phật, cúng thí bảo cái.
7. Ðối với cha mẹ mình và chỗ các Hiền thánh cung kính nghinh rước.
8. Khuyên người bỏ nghiệp ít có oai đức.
9. Khuyên người tu hành nghiệp có oai đức lớn.
10. Thấy người không có oai đức không đem lòng khinh chê.
Do mười
nghiệp này nên được quả báo có oai thế lớn.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh vào dòng họ thấp kém:
1. Không biết kính Cha.
2. Không biết kính Mẹ.
3. Không biết kính Sa môn.
4. Không biết kính Bà la môn.
5. Ðối với các bậc Tôn trưởng không biết kính ngưỡng.
6. Ðối với các Sư trưởng không cung nghinh cúng dường.
7. Thấy các bậc Tôn trưởng không cung nghinh mời ngồi.
8. Ðối với chỗ ở của Cha Mẹ không tuân theo lời giáo huấn.
9. Ðối với bậc Hiền thánh không thọ giáo.
10. Khinh chê kẻ thấp kém.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo sanh vào dòng họ thấp kém.
Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sanh vào dòng họ
cao thượng:
1. Khéo biết kính Cha.
2. Khéo biết kính Mẹ.
3. Khéo biết kính Sa môn.
4. Khéo biết kính Bà la môn.
5. Kính hộ bậc Tôn trưởng.
6. Thờ kính bậc sư trưởng.
7. Thấy các bậc Sư trưởng cung nghinh mời ngồi.
8. Ðối với Cha Mẹ thì kính thọ lời giáo huấn.
9. Ðối với bậc Hiền thánh thì tôn kính và thọ giáo.
10. Không khinh kẻ thấp hèn.
Do mười nghiệp này nên được quả báo sanh vào dòng họ cao thượng.
Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo có ít của cải sinh
sống:
1. Tự mình làm việc trộm cắp.
2. Khuyên người khác trộm cắp.
3. Khen ngợi sự trộm cắp.
4. Thấy trộm cắp là hoan hỷ.
5. Ðối với chỗ Cha Mẹ không lo làm ăn.
6. Ðối với chỗ Hiền thánh thì chiếm đoạt tài vật.
7. Thấy người khác được tài vật thì tâm không hoan hỷ.
8. Ngăn cản người khác được lợi, làm cho họ thường gặp tai nạn.
9. Thấy người khác bố thí, không có tâm tùy hủy.
10. Thấy người đời đói kém, tâm không thương xót mà lại vui sướng.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo đời sống có ít của cải.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo đời sống có nhiều của
cải:
1. Tự mình xa lìa trộm cắp.
2. Không khuyên người khác trộm cắp.
3. Không tán thán sự trộm cắp.
4. Thấy người không trộm cắp sanh tâm hoan hỷ.
5. Ðối với chỗ ở của Cha Mẹ cung phụng sự làm ăn.
6. Ðối với các vị Hiền thánh thì cung cấp những vật cần dùng.
7. Thấy người khác được lợi, sanh tâm hoan hỷ.
8. Thấy người cầu lợi thì phương tiện hỗ trợ.
9. Thấy người bố thí thuốc (trị bệnh) sanh tâm hoan hỷ.
10. Thấy người đời đói khổ, sanh tâm thương xót.
Do mười
nghiệp này nên được quả báo đời sống có nhiều của cải.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo tà trí:
1. Không hay học hỏi với Sa môn, Bà la môn có trí tuệ.
2. Rao truyền pháp ác.
3. Không thể tu tập thọ trì chánh pháp.
4. Tán thán pháp không phải định, cho là pháp định.
5. Tiếc pháp không chịu nói.
6. Thân cận kẻ tà trí.
7. Xa lìa chánh trí.
8. Tán thán tà kiến.
9. Xả bỏ chánh kiến.
10. Thấy người ngu si, hung ác thì khinh khi chê bai.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo tà trí.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo chánh trí:
1. Khéo có thể hỏi han những vị Sa môn, Bà la môn có trí tuệ.
2. Rao truyền pháp lành.
3. Nghe và thọ trì chánh pháp.
4. Thấy người nói pháp định khen rằng: “Lành thay!”.
5. Ưa nói chánh pháp.
6. Thân cận người có chánh trí.
7. Nhiếp hộ chánh pháp.
8. Siêng tu hạnh nghe nhiều.
9. Xa lìa tà kiến.
10. Thấy người ngu si, hung ác không có khinh chê.
Do mười
nghiệp này nên được quả báo chánh trí.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo địa ngục:
1. Làm nghiệp ác nặng.
2. Miệng nói lời ác nghiệp nặng.
3. Ý nghĩ nghiệp ác nặng.
4. Khởi sanh đoạn kiến.
5. Khởi sanh thường kiến.
6. Khởi sanh vô nhơn kiến.
7. Khởi sanh vô tác kiến.
8. Khởi sanh vô kiến kiến.
9. Khởi sanh biên kiến.
10. Không biết báo ân.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo địa ngục.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo súc sanh:
1. Thân làm ác nghiệp bậc trung.
2. Miệng nói ác nghiệp bậc trung.
3. Ý nghĩ ác nghiệp bậc trung.
4. Từ phiền não tham khởi ra các ác nghiệp.
5. Từ phiền não sân khởi ra các ác nghiệp.
6. Từ phiền não si khởi ra các ác nghiệp.
7. Chửi mắng chúng sanh.
8. Não hại chúng sanh.
9. Bố thí vật bất tịnh.
10. Làm việc tà dâm.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo súc sanh.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo ngạ quỷ:
1. Thân làm nghiệp ác nhẹ.
2. Miệng nói nghiệp ác nhẹ.
3. Ý nghĩ nghiệp ác nhẹ.
4. Sanh tâm tham nhiều.
5. Sanh tâm tham ác.
6. Tật đố.
7. Tà kiến.
8. Ái trước của cải cuộc sống rồi bị mạng chung.
9. Do đói mà chết.
10. Bị khô khát bức bách mà chết.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo ngạ quỷ.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo A Tu La:
1. Thân làm nghiệp ác chút ít.
2. Miệng nói nghiệp ác chút ít.
3. Ý nghĩ nghiệp ác chút ít.
4. Kiêu mạn.
5. Ngã mạn.
6. Tăng thượng mạn.
7. Ðại mạn.
8. Tà mạn.
9. Mạn mạn.
10. Ðem các căn lành hướng về Tu La đạo.
Do mười
nghiệp này nên bị quả báo A Tu La.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sanh ở cõi trời:
1. Không sát sanh.
2. Không trộm cắp.
3. Không tà dâm.
4. Không nói láo.
5. Không nói thêu dệt.
6. Không nói hai lưỡi.
7. Không nói lời ác.
8. Không tham.
9. Không sân.
10. Không tà kiến.
Ðối với
mười nghiệp thiện, sứt mẻ không hoàn toàn (mười điều ấy). Do mười nghiệp
này nên được quả báo cõi người.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sanh vào trời cõi dục.
Ðó là tu hành đầy đủ mười điều thiện tăng thượng.
Lại có
mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sinh trời cõi sắc. Ðó là
tu hành mười điều thiện hữu lậu cũng tương ưng với định.
Lại
có bốn nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo cõi trời Vô sắc:
1. Vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ có đối tưởng v.v... nhập vào không
xứ định.
2. Vượt qua tất cả không xứ định, nhập vào Thức xứ định.
3. Vượt qua tất cả Thức xứ định, nhập vào Vô sở hữu xứ định.
4. Vượt qua Vô sở hữu xứ định, nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
Do bố
nghiệp này được quả báo cõi trời Vô sắc.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo quyết định. Nếu ai đối với
Phật, Pháp, Tăng và người giữ giới, khởi tâm tăng thượng bố thí. Do nghiệp
thiện này, phát nguyện hồi hướng, liền được vãng sanh. Ðó gọi là nghiệp
báo quyết định.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo bất định. Nếu tạo nghiệp không
phải tâm tăng thượng, lại không tu tập, cũng không phát nguyện hồi hướng
thọ sanh. Ðó gọi là nghiệp báo bất định.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh ở biên địa. Nếu tạo nghiệp
đối với Phật, Pháp, Tăng và người trì giới với chỗ ở của đại tăng, không
phát tâm tăng thượng cúng thí, rồi do căn lành này sanh ở biên địa. Do vậy
nên liền sanh ở biên địa, thọ quả báo tịnh và bất tịnh.
Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh
được quả báo sanh ở trung quốc. Nếu khi tạo nghiệp đối với Phật, Pháp,
Tăng, thanh tịnh trì giới, bên cạnh người phạm hạnh, và chỗ ở của đại
chúng, khởi tâm tăng thượng, ân cần bố thí. Nhờ thiện căn này quyết
định phát nguyện cầu sanh trung quốc, lại được gặp Phật và nghe chánh
pháp, thọ được quả báo thanh tịnh thượng diệu.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh mãi mãi ở trong địa ngục. Hoặc có chúng
sanh, tạo nghiệp địa ngục rồi, không hổ, không thẹn, cũng không yểm ly,
tâm không biết sợ sệt, trở lại còn sanh tâm hoan hỷ, lại không sám hối,
còn tạo thêm nghiệp ác sâu nặng, như Ðề Bà Ðạt Ða v.v... Do tạo nghiệp này
cho nên suốt đời ở trong địa ngục.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh đọa vào địa ngục, nửa chừng
thì mạng yểu, không hết tuổi thọ. Nếu có chúng sanh tạo nghiệp địa ngục,
chứa nhóm thành rồi, sau sanh sợ sệt, xấu hổ nhàm chán xa lìa, sám hối từ
bỏ, chẳng phải tâm tăng thượng. Do nghiệp này cho nên đọa vào địa ngục,
sau biết hối cải, ở trong địa ngục nửa chừng thì yểu, không hết tuổi thọ.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh đọa vào địa ngục, mới vào liền ra. Nếu có
chúng sanh tạo nghiệp địa ngục, làm rồi sợ sệt, khởi lòng tin tăng thượng,
sanh tâm xấu hổ, chán điều ác nên xả bỏ, ân cần sám hối, lại không tạo
nữa. Như vua A Xà Thế giết cha các tội, vừa vào địa ngục liền được giải
thoát. Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Nếu ai tạo tội nặng,
Tạo rồi tự trách mình.
Sám hối không tạo nữa
Nhổ hết nghiệp căn bản”.
Lại có
nghiệp làm mà không nhóm tập. Nếu có chúng sanh thân khẩu ý.. tạo các ác
nghiệp. Tạo rồi lo sợ, xấu hổ xa lìa, tự mình rất hối hận và than trách,
không còn tạo ác lại nữa, đó gọi là làm mà không nhóm tập.
Lại có
chúng sanh nhóm tập mà không làm. Nếu có chúng sanh tự không tạo nghiệp,
do vì ác tâm khuyên người làm ác. Ðó gọi là nhóm tập mà không làm.
Lại có
nghiệp cũng vừa tạo tác cũng vừa nhóm tập. Nếu có chúng sanh tạo các
nghiệp rồi, tâm không hối cải, mà lại thỉnh thoảng cứ tạo nghiệp, lại còn
khuyên người khác tạo ác. Ðó gọi là vừa tạo tác vừa nhóm tập.
Lại có
nghiệp không tạo tác cũng không nhóm tập. Nếu có chúng sanh tự mình không
tạo ác, cũng không dạy người khác tạo ác, thuộc về nghiệp vô ký. Ðó gọi là
không tạo tác cũng không nhóm tập.
Lại có
nghiệp ban đầu thì vui kết thúc thì khổ. Nếu có chúng sanh do
người khác khuyên nên hoan hỷ bố thí, nhưng tâm bố thí không kiên cố, sau
lại hối tiếc. Do nhân duyên đó sanh ở nhân gian, trước thì giàu có sung
sướng, sau lại bần cùng nghèo khổ. Ðó gọi là ban đầu thì vui kết thúc thì
khổ.
Lại có
nghiệp ban đầu thì khổ kết thúc thì vui. Nếu có chúng sanh nhờ người
khuyên hóa, miễn cưỡng bố thí chút ít, nhưng bố thí rồi thì hoan hỷ, tâm
không hối tiếc. Do nhân duyên này sanh ở nhân gian, ban đầu thì nghèo khổ
nhưng về sau thì giàu có sung sướng. Ðó gọi là ban đầu thì khổ nhưng kết
thúc thì vui.
Lại có
nghiệp ban đầu thì khổ kết thúc thì khổ. Nếu chúng sanh, xa lìa
thiện trí thức, không ai khuyến hóa dẫn dắt cho đến không thể làm việc bố
thí dù chút ít. Do nhân duyên này sanh
ở nhân gian ban đầu đã bần khổ về sau cũng bần khổ. Ðó gọi là ban đầu khổ
mà kết thúc vẫn khổ.
Lại có
nghiệp ban đầu sướng mà kết thúc cũng sướng. Nếu chúng sanh, gần gũi thiện
tri thức, họ khuyến hóa nên bố thí, rồi sanh tâm hoan hỷ, kiên cố tu
nghiệp bố thí. Do nguyên nhân đó sanh ở nhân gian, ban đầu đã giàu có sung
sướng, về sau cũng giàu có sung sướng.
Lại có
nghiệp nghèo mà ưa bố thí. Nếu có chúng sanh, trước đó đã từng bố thí,
nhưng không gặp phước điền, bị lưu chuyển sanh tử, sanh ở nhân gian,
vì không gặp được phước điền, nên được quả báo rất ít, vừa được liền mất.
Do tập nhân đã bố thí nên dù có bần cùng nhưng vẫn hay làm việc bố thí.
Lại có
nghiệp giàu có mà xan tham. Nếu có chúng sanh chưa từng bố thí, gặp thiện
tri thức khuyên hóa nên tạm thời làm việc bố thí, gặp được phước điền tốt
lành. Nhờ được ruộng tốt nên đời sống được sung túc. Vì trước không có tập
nhân cho nên kẻ ấy tuy giàu có mà keo kiết.
Lại có
nghiệp giàu có mà hay bố thí. Nếu có chúng sanh gặp được thiện tri thức tu
hạnh bố thí thật nhiều, gặp được phước điền tốt. Do nhân duyên này nên
được hết sức giàu có, được nhiều tiền của, mà vẫn có thể thực hành bố thí.
Lại có
nghiệp nghèo mà xan tham. Nếu có chúng sanh xa lìa thiện tri thức, không
ai khuyến hóa chỉ đạo, nên không thể thực hành bố thí. Do nhân duyên này,
sanh ở nhà bần cùng mà vẫn xan tham.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh được thân an lạc nhưng tâm không an lạc
như người phàm phu có phước.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh tâm được an lạc nhưng thân không an lạc
như A La Hán vô phước.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả thân lẫn tâm an lạc đều an lạc như A La
Hán có phước.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả thân lẫn tâm an lạc đều không an lạc
như kẻ phàm phu vô phước.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh mạng đã tận mà nghiệp không tận. Hoặc có
chúng sanh từ địa ngục, chết rồi cũng sanh lại địa ngục, súc sanh, ngạ
quỷ, cho đến người, trời, A tu la v.v... Cũng lại như vậy, đó gọi là mạng
đã tận mà nghiệp không tận.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh nghiệp đã tận mà mạng không tận. Hoặc có
chúng sanh hết vui thì thọ khổ, hết khổ thì được vui ... đó gọi là nghiệp
đã tận mà mạng không tận.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả nghiệp lẫn mạng đều tận. Hoặc có chúng
sanh từ địa ngục ra lại sanh vào súc sanh hay là ngạ quỷ, cho đến người,
trời, A tu la v.v... đó gọi là cả nghiệp lẫn mạng đều tận.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả nghiệp lẫn mạng đều không tận. Hoặc có
chúng sanh đã tận trừ các phiền não. Ðó gọi là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na
hàm, A la hán ... đó gọi là cả nghiệp lẫn mạng đều không tận.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh tuy sanh ở ác đạo nhưng hình dung lại tốt
đẹp, mắt mày đoan nghiêm, da thịt trong sáng ai cũng thích nhìn. Nếu có
chúng sanh do dục phiền não, khởi ra nghiệp phá giới. Do nhân duyên này,
tuy sanh ác đạo mà hình dung tốt đẹp, mắt mày đoan nghiêm, da thịt trong
sáng ai cũng muốn nhìn.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh ở ác đạo, hình dung xấu xí, da thịt
thô rít, chẳng ai muốn nhìn. Hoặc có chúng sanh do phiền não sân khởi ra
nghiệp phá giới. Do nhân duyên này sanh nơi ác đạo, hình sắc xấu xí, da
thịt thô rít, chẳng ai muốn nhìn.
Lại có
nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh nơi ác đạo, thân miệng hôi thúi, các
căn khuyết tật, hoặc có chúng sanh do phiền não si khởi ra nghiệp phá
giới. Do nhân duyên này sanh nơi ác đạo, thân miệng hôi thúi, các căn
khuyết tật.
Lại có
mười nghiệp bị ác báo bên ngoài. Hoặc có chúng sanh đối với mười nghiệp
bất thiện phần nhiều tu tập, cảm các ngoại vật đều không được đầy đủ:
1. Do nghiệp sát cho nên khiến cho các quả báo bên ngoài như đại địa
muối mặn, cỏ thuốc không có.
2. Do nghiệp trộm cắp nên cảm ra bên ngoài như sương, mưa đá, trùng
sâu... khiến cho đời sống bị đói khát.
3. Do nghiệp tà dâm cho nên cảm ra gió mưa dữ dội, và các trần ai.
4. Do nghiệp nói dối cho nên cảm sanh ngoại vật đều bị hôi thúi.
5. Do nghiệp nói hai lưỡi, cho nên cảm ra đại địa bên ngoài cao thấp
không bằng, bờ ao hang hiểm gồ ghề, gai gốc.
6. Do nghiệp ác khẩu mà cảm sanh quả báo bên ngoài như ngói, đá, cát,
sỏi, vật xấu thô rít không thể gần gũi.
7. Do nghiệp nói thêu dệt nên cảm sanh quả báo bên ngoài, khiến thành
cỏ cây rừng rậm, cành nhánh chông gai.
8. Do nghiệp tham nên cảm sanh quả báo bên ngoài khiến cho mầm lúa, hạt
giống vi tế.
9. Do nghiệp sân hận cảm sanh quả báo bên ngoài, khiến cho cây cối có
trái đắng.
10. Do nghiệp tà kiến cho nên cảm sanh quả báo bên ngoài lúa mạ, hạt
thu gặt ít ỏi.
Do mười
nghiệp này bị ác báo bên ngoài vậy.
Lại có
mười nghiệp được quả báo thù thắng ở bên ngoài. Nếu có chúng sanh tu mười
thiện nghiệp mà không chống trái nên biết liền đạt được mười quả báo thù
thắng ở bên ngoài. Hoặc có chúng sanh lạy tháp miếu của Phật, được mười
món công đức:
1. Ðược sắc đẹp, tiếng hay.
2. Có nói ra điều gì ai cũng tin phục.
3. Không sợ sệt trước mọi người.
4. Trời người đều ái hộ.
5. Ðầy đủ oai thế.
6. Có oai thế chúng sanh đều đến thân cận nương nhờ.
7. Thường được thân cận chư Phật, Bồ tát.
8. Có đầy đủ đại phước đức.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng Bồ đề.
Ðó gọi
là lạy tháp miếu của Phật được mười món công đức.
Hoặc có
chúng sanh cúng thí bảo cái được mười món công đức:
1. Sống ở thế gian như là cái dù che chở chúng sanh.
2. Thân tâm an ổn xa lìa các nhiệt não.
3. Mọi người đều kính trọng, không dám khinh mạn.
4. Có oai thế lớn.
5. Thường được thân cận chư Phật, Bồ tát, có oai đức lớn, lấy đó làm
quyến thuộc.
6. Hằng được làm Chuyển Luân Thánh Vương.
7. Luôn luôn làm thượng thủ tu tập thiện nghiệp.
8. Có đầy đủ phước báo lớn.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng Niết bàn.
Ðó gọi
là cúng thí bảo cái được mười món công đức.
Nếu có
chúng sanh cúng thí tràng phan được mười món công đức:
1. Ở đời giống như cái tràng phan, từ quốc vương đại thần, thân hữu
tri thức cung kính cúng dường.
2. Giàu có tự tại, đầy đủ tài sản lớn.
3. Tiếng tốt truyền khắp bao trùm các phương.
4. Tướng mạo đoan nghiêm, thọ mạng lâu dài.
5. Thường ở chỗ mình, thi hành kiên cố.
6. Có danh xưng lớn.
7. Có oai đức lớn.
8. Sanh nhà thượng tộc.
9. Thân hoại mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng Bồ đề.
Ðó gọi là
cúng thí tràng phan được mười công đức.
Nếu có chúng
sanh cúng thí chuông linh được mười công đức:
1. Ðược tiếng Phạm âm.
2. Ðược tiếng tăm lớn.
3. Tự biết kiếp trước.
4. Nói ra điều gì ai cũng kính thọ.
5. Thường có bảo cái để tự trang nghiêm.
6. Có ngọc anh lạc đẹp làm đồ trang sức.
7. Diện mạo đoan nghiêm, ai nhìn thấy cũng hoan hỷ.
8. Có đủ đại phước báo.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng Niết bàn.
Ðó gọi
là cúng thí chuông linh được mười món công đức.
Nếu có
chúng sanh cúng thí y phục được mười món công đức:
1. Mặt, mắt đoan nghiêm.
2. Da thịt tề nhuyễn.
3. Không dính bụi bặm.
4. Lúc sanh ra có đầy đủ y phục tốt đẹp.
5. Có ngọa cụ tốt đẹp, bảo cái che thân.
6. Có đầy đủ y phục hổ thẹn.
7. Ai thấy cũng kính yêu.
8. Có tài bảo lớn.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Mau chứng Niết bàn.
Ðó gọi
là cúng thí y phục được mười món công đức.
Nếu có
chúng sanh cúng thí đồ ẩm thực được mười món công đức:
1. Ðược thọ mạng.
2. Ðược sắc đẹp.
3. Ðược sức lực.
4. Ðược vô ngại biện tài an ổn.
5. Ðược vô sở úy.
6. Không có các sự biếng nhác, mọi người kính ngưỡng.
7. Mọi người đều yêu thích.
8. Có đủ phước báo lớn.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Mau chứng Niết bàn.
Ðó gọi
là cúng thí đồ ẩm thực được mười điều công đức.
Nếu có
chúng sanh cúng thí giày dép được mười món công đức:
1. Có đầy đủ xe đẹp.
2. Chân đi bình an.
3. Bàn chân mềm mại.
4. Ði xa khang kiện nhẹ nhàng.
5. Thân không mệt mỏi.
6. Dù đi đến đâu cũng không bị chông gai, ngói sạn làm chân bị tổn
thương.
7. Ðược thần thông lực.
8. Ðầy đủ các sứ giả giúp đỡ.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng Niết bàn.
Ðó gọi
là cúng thí giày dép được mười điều công đức.
Nếu có
chúng sanh cúng thí hương hoa được mười món công đức:
1.
Xử thế như bông hoa.
2.
Thân thể không hôi thúi.
3.
Hương phước hương giữ giới bay khắp các phương.
4.
Tùy sanh ở đâu, tỷ căn không hư hoại.
5.
Vượt trên thế gian được mọi người quy ngưỡng.
6.
Thân thường sạch thơm.
7.
Yêu thích chánh pháp, thọ trì đọc tụng.
8.
Ðủ phước báo lớn.
9.
Mạng chung sanh lên trời.
10.
Mau chứng Niết bàn.
Ðó gọi
là cúng thí hương hoa được mười công đức.
Nếu có
chúng sanh cúng thí đèn sáng được mười công đức:
1. Chiếu sáng thế gian như đèn.
2. Tùy sanh ở đâu mắt thịt không bị tổn hoại.
3. Ðược thiên nhãn.
4. Ðối với các pháp thiện ác, có trí tuệ biết rõ.
5. Trừ diệt sự si ám lớn.
6. Ðược trí tuệ sáng suốt.
7. Lưu chuyển ở thế gian, thương không bị ở nơi tối tăm.
8. Có đủ phước báo lớn.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng Niết bàn.
Ðó gọi
là cúng thí đèn sáng được mười công đức.
Nếu có
chúng sanh cung kính chắp tay được mười công đức:
1. Ðược phước báo thù thắng.
2. Sanh nhà giòng tộc cao.
3. Ðược sắc đẹp thù thắng.
4. Ðược âm thanh hay thù thắng.
5. Ðược bảo cái đẹp thù thắng.
6. Ðược biện tài vi diệu thù thắng.
7. Ðược đức tin vi diệu thù thắng.
8. Ðược giới vi diệu thù thắng.
9. Ðược đa văn vi diệu thù thắng.
10. Ðược diệu trí thù thắng.
Ðó gọi
là cung kính chắp tay được mười công đức.
Bấy giờ
đức Thế Tôn thuyết pháp này xong, trưởng giả Thủ Ca được tín tâm thanh
tịnh đối với Như Lai.
Bấy giờ
Thủ Ca, đầu mặt lạy đức Phật nói như vầy:
–Nay con
thỉnh đức Phật đến thành Xá bà Ðề, đến chỗ cha của con, nhà của trưởng giả
Ðao Ðề. Mong Ngài làm cho cha của con và tất cả chúng sanh mãi mãi được an
lạc.
Khi ấy
đức Thế Tôn vì lợi ích cho mọi người nên im lặng nhận lời.
Bấy giờ
Thủ Ca nghe Phật dạy xong, trong lòng hết sức hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui
ra.
PHẬT NÓI KINH
NGHIỆP BÁO SAI BIỆT CHO TRƯỞNG GIẢ THỦ CA
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 5-2003