PHẬT NÓI
KINH HỘ QUỐC
Hán
dịch:
Ðời
Tây Thiên, dịch kinh Tam Tạng, Minh giáo Ðại sư Pháp Hiền
Việt dịch:
Thích Chánh Lạc
--- o0o ---
Một
thời đức Thế Tôn ở tại thành Câu Lư, du hành hóa độ làm lợi ích chúng
sanh, dần dần đi đến xóm Ðổ La cùng đông đủ chúng Ðại Bí sô. Bấy giờ ở xóm
này có các Bà la môn, trưởng giả v.v... cùng nhau bàn luận rằng:
–Vị Ðại Sa môn Cù
Ðàm này đã bỏ ngôi vua, xuất gia hành đạo, quả đầy tròn sáng, danh tiếng
đồn khắp, chính là bậc Ứng Cúng, Chánh đẳng chánh giác, Minh hạnh túc,
Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn
sư, Phật, Thế Tôn. Ðối với Thiên, Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn, người và
chẳng phải người, các cõi, nhờ hạnh nguyện của chính mình mà Ngài đã thành
đẳng chánh giác, trải lòng từ bi, tuyên thuyết chánh pháp, phần đầu thiện,
phần giữa thiện, phần cuối cũng thiện, nghĩa của văn sâu xa, thuần nhất
không xen tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh viên mãn, đầy đủ sự tối tôn, tối
thượng như vậy, nếu chúng ta gặp Ngài sẽ cùng được điều thiện lợi ích. Cho
nên chúng ta hãy đến chỗ Phật để chiêm ngưỡng đảnh lễ, xưng tán.
Họ cùng nhau bàn
luận xong, đồng đến hội chúng của Phật. Khi đến chỗ đức Phật rồi, có người
lạy đức Phật, có người chỉ chấp tay, có người hết lời xưng tán. Chúng dân
đông như vậy, khi đảnh lễ tán thán xong đều ngồi qua một bên.
Bấy giờ đức Thế Tôn
thuyết pháp cho mọi người nghe, khiến cho tâm họ hân hoan, phát tâm đại
đạo. Bấy giờ các Bà la môn, đại trưởng giả ... ấy, đã nghe và thọ trì pháp
xong, thảy đều hân hoan, phát tâm đại đạo. Họ liền từ tòa ngồi đứng dậy,
chấp tay hướng về đức Phật hết lời xưng tán, đảnh lễ đức Phật rồi ra về.
Khi ấy trong hội có
một đại trưởng giả tên là Hộ Quốc, vì luyến mộ đức Phật nên không rời khỏi
pháp hội và nghĩ như vầy: “Pháp mà ta được nghe, nếu có thể nương tựa,
chắc chắn sẽ thành chánh giác. Nếu ta ở tại gia thì phải luân hồi vĩnh
viễn. Ðức Phật thật khó gặp được, nhờ đức tin, xuất gia để cầu thoát khỏi
luân hồi, cho nên nay ta phải xa lìa các sự phóng dật, phát đại tinh tấn,
theo Phật xuất gia, thanh tịnh tu phạm hạnh. Ta nên lập chí nguyện cạo bỏ
râu tóc, mặc áo cà sa”.
Lúc đó trưởng giả Hộ
Quốc nghĩ như vậy xong, liền từ tòa ngồi đứng dậy đi đến trước đức Phật,
đầu mặt lạy ngang chân Ngài, chấp tay hướng về đức Phật bạch rằng:
–Con theo đức Thế
Tôn, được nghe chánh pháp, chán khổ luân hồi, khởi tâm tin vui, cho nên
nay con xin đức Phật được phép xuất gia. Cúi mong đức Thế Tôn chấp nhận
cho con.
Ðức Phật nói:
–Này Hộ Quốc, ngươi
dốc lòng tin xuất gia, vậy cha mẹ của ngươi đã cho phép chưa?
Hộ Quốc thưa:
–Thưa chưa, bạch Thế
Tôn. Cha mẹ con không cho phép.
Ðức Phật nói:
–Này Hộ Quốc, cha mẹ
không cho phép thì không được xuất gia.
Hộ Quốc lại bạch đức
Phật:
–Bạch Thế Tôn, tuy
cha mẹ chưa cho phép nhưng con sẽ cầu xin khẩn thiết, thế nào cha mẹ con
cũng cho.
Ðức Phật bảo:
–Này Hộ Quốc, như
điều mong ước của ngươi, nay đã đúng lúc.
Bấy giờ Hộ Quốc quỳ
xuống, vâng theo lời dạy của đức Phật, đảnh lễ rồi lui ra, trở về nhà thưa
với cha mẹ rằng:
–Xin cha mẹ thương
yêu, chấp nhận sự thỉnh nguyện của con: “Con ở nơi hội chúng của Phật,
nghe Phật thuyết pháp, khi nghe pháp ấy, con đều biết rõ, con liền phát
khởi chánh tín, muốn được xuất gia”. Cúi mong cha mẹ chấp nhận lời xin của
con.
Bấy giờ cha mẹ Hộ
Quốc bảo rằng:
–Con muốn xuất gia
để được cái lợi gì? Lại có chứng đắc cái gì mà cầu xuất gia? Nếu con muốn
xuất gia vậy không phải vì mục đích xin ăn để sống chứ? Con nên biết rằng,
hiện nay tiền của, châu báu của ta nhiều vô lượng. Con chỉ cần ở tại gia,
bỏ của ra làm phước, tương lai sẽ được giàu có an lạc, cần gì phải xuất
gia?
Cha mẹ của Hộ Quốc
dùng những lời hay đẹp để khuyến dụ Hộ Quốc. Bấy giờ Hộ Quốc lại thưa:
“Xin cha mẹ nên nghĩ rằng: con nhàm chán luân hồi, vứt bỏ sự vinh hoa thế
gian, chí mong cầu xuất gia. Cúi mong cha mẹ chấp thuận cho con”.
Hộ Quốc đã thỉnh cầu
cha mẹ đến hai, ba lần như vậy. Khi ấy cha mẹ lại bảo rằng: “Ngươi đã
quyết tâm, chí cầu xuất gia, vậy đừng có đi xin ăn để được sống. Kho tàng
vàng bạc, châu báu của nhà ta nhiều vô số kể. Ngươi chỉ nên ở nhà để làm
phước, hưởng thọ phú quý, cần gì phải xuất gia”.
Cha mẹ ngài cũng
hai, ba lần khuyến dụ như vậy. Lúc đó Hộ Quốc lại thưa rằng: “Nếu cha mẹ
không cho phép, kể từ ngày hôm nay trở về sau, con thề sẽ không ăn uống
cho đến chết”.
Khi phát lời thệ
nguyện xong, liền không ăn uống gì cả. Bấy giờ rất nhiều bạn hữu tri thức
của Hộ Quốc nghe việc này xong liền cùng nhau đến nhà của cha mẹ trưởng
giả Hộ Quốc, cùng nhau nói rằng: “Này trưởng giả chủ, chúng tôi đều nghe
rằng con của hai bác là Hộ Quốc, ưa thích xuất gia. Tuy anh ta hết lòng
mong cầu nhưng hai bác vẫn không chấp thuận. Chúng tôi biết con của hai
bác đang hưởng thọ sự giàu sang sung sướng, bỗng kiên tâm cầu đạo. Nay nếu
hai bác không chấp thuận, anh ta sẽ bị đau khổ, có thể dẫn đến mạng chung,
khiến cho hai bác phải bị cái khổ ái biệt ly. Do đó hai bác nên cho phép
anh ta tùy ý xuất gia.
Bấy giờ trưởng giả
chủ thấy các bạn tri thức của con mình hết lời cầu xin nên liền cho anh
xuất gia. Khi ấy các bạn tri thức của Hộ Quốc vâng theo lời của cha anh,
liền đến chỗ Hộ Quốc cùng nhau nói rằng: “Này Hộ Quốc, anh nên biết, nay
cha mẹ của anh đã chấp thuận cho anh xuất gia”.
Khi ấy Hộ Quốc nghe
lời cha mẹ dạy, hoan hỷ phấn khởi, đến chỗ cha mẹ bái lạy, từ biệt ra đi,
trở lại chỗ đức Phật, đến chỗ đức Phật xong lấy đầu mặt lạy dưới chân đức
Phật, chấp tay đứng qua một bên, bạch đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, nay
cha mẹ của con đã chấp thuận cho con xuất gia rồi, cúi mong đức Phật từ bi
rủ lòng thương xót chấp thuận cho con được làm Bí sô”.
Bấy giờ đức Thế Tôn
bảo Hộ Quốc: “Lành thay! Lành thay! Nay đã đúng lúc nhiếp thọ cho ngươi”.
Khi ấy Hộ Quốc râu
tóc tự rụng, mặc áo cà sa, thành tướng Bí sô, tu trì phạm hạnh, trừ bỏ
phóng dật, lìa các ưu não, tự tâm điều phục, nhu nhuyễn, chứng pháp thanh
tịnh, biết rằng: sự sanh của ta đã hết, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa.
Bấy giờ tôn giả Hộ
Quốc các lậu đã hết rồi, y chỉ với đức Phật trong mười hạ. Lúc đã đủ mười
hạ, tôn giả đắp y, trì bát, đến trước đức Phật, đem đầu mặt lạy dưới chân
Ngài, chấp tay đứng qua một bên bạch đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, con vốn
sanh sống ở làng xóm Ðổ la, xả bỏ các thân quyến, chí tín xuất gia, nay
con muốn trở về quê cũ để thăm thân bằng quyến thuộc. Cúi mong đức Thế Tôn
cho phép”.
Bấy giờ đức Thế Tôn
biết những ước muốn trong tâm tôn giả Hộ Quốc, ngài lại quán biết tâm chí
của tôn giả Hộ Quốc muốn làm lợi ích cho tất cả, huống chi tôn giả này
ngày trước đã ở nhà thường lìa các dục, ngài quán thấy như vậy liền bảo
rằng: “Này tôn giả Hộ Quốc, nay đã đúng lúc, nên làm theo ý muốn của
ngươi”.
Bấy giờ tôn giả Hộ
Quốc vâng lời Phật dạy, hoan hỷ phấn khởi, nhiễu quanh đức Phật ba vòng,
đem đầu mặt lạy dưới chân đức Phật, giã từ đức Phật rồi ra về.
Tôn giả trở về quê
cũ, thứ lớp du hành, lần hồi về đến xóm của mình. Bấy giờ tôn giả đã nghỉ
qua đêm xong vào lúc trời hừng sáng, đắp y ôm bát, thứ lớp khất thực. Ði
đến nhà mình, thấy một người nữ đứng ngoài cửa nhà mình mang cái giỏ đầy
thức ăn, muốn đem đi đổ. Tôn giả thấy vậy bảo người nữ kia rằng: “Ngươi
không biết xấu hổ, chớ đổ thức ăn đi, sao bằng đổ chúng vào trong bát của
ta thì sẽ được sự lợi ích”.
Khi ấy người nữ nghe
tiếng nói của tôn giả, sanh tâm kính trọng, liền đổ vào trong bình bát cho
tôn giả. Tôn giả nhận xong, đi đến dưới một gốc cây lớn, trải tọa cụ ngồi,
muốn ăn.
Khi ấy người nữ kia
nghĩ như vầy: “Ðây chính là tôn giả Hộ Quốc, con của chủ ta”. Lúc ấy người
nữ kia nghĩ như vậy xong, liền đến chỗ trưởng giả chủ thưa rằng: “Vừa rồi,
ở ngoài cửa, tôi thấy con của trưởng giả ôm bát đi khất thực, đến dưới một
gốc cây lớn trải tọa cụ ngồi, muốn thọ thực”.
Bấy giờ chủ trưởng
giả nghe lời nói ấy rồi trong lòng hết sức vui mừng, liền hỏi người nữ kia
rằng: “Như lời ngươi nói, việc ấy có đúng thật chăng?”.
Người nữ đáp: “Việc
này quả đúng như vậy”.
Khi ấy trưởng giả
chạy nhanh ra khỏi nhà, đến dưới gốc cây lớn. Khi đến đó rồi thấy đúng là
tôn giả Hộ Quốc đang ở đó, muốn thọ thực, ông liền bảo rằng: “Con của ta
là Hộ Quốc, lìa bỏ nhà mình làm khách ngao du xứ người, du hành như vậy,
đến thôn xóm mình, lại chẳng chịu vào nhà, là nghĩa làm sao?”.
Bấy giờ tôn giả Hộ
Quốc liền trả lời với cha rằng: “Pháp Sa môn của con, nghi thức là như
vậy, vào nhà người khác là không nên”.
Khi ấy trưởng giả
chủ nắm tay đưa tôn giả Hộ Quốc vào nhà. Lúc vào nhà rồi, trải tọa cụ mời
ngồi. Bấy giờ mẹ của tôn giả đi đến trước con, nhớ thương tha thiết, an ủi
thăm hỏi con đến hai, ba lần. Bà bảo tôn giả Hộ Quốc rằng: “Này con của
mẹ, tại sao con lại quyết ý xuất gia? Con đã xuất gia, hiện nay đã có lợi
gì và đã được cái gì? Hay là đi xin ăn để kiếm sống? Vì vậy nay con đừng
xuất gia nữa, cứ ở nhà đem của bố thí làm phước để được giàu có sung sướng
ở kiếp sau”.
Lúc ấy người mẹ hiền
bày các phương tiện lưu luyến con mình không thể xa cách. Bà lại lấy vàng
bạc, các thứ châu báu đặt một đống trước mặt tôn giả, bảo với con rằng:
“Con của mẹ nên biết như vầy, mẹ có rất nhiều tiền của châu báu, nay mẹ
đem cho con, chưa kể tiền của của cha con thì lại nhiều vô số. Do ý nghĩa
này cần gì đi xuất gia. Nay con ở nhà bỏ tiền của ra làm phước để được
giàu có sung sướng ở kiếp sau”.
Bấy giờ tôn giả thưa
với mẹ: “Từ mẫu nên biết, các vàng bạc, các thứ châu báu này là nguồn gốc
của mọi lỗi lầm. Vậy hãy lấy xe chở hoặc gánh vác chúng đổ giữa dòng
sông”.
Tôn giả lại thưa mẹ:
“Từ mẫu nên biết như vầy, tài bảo do lòng tham luyến, từ đó làm nhơn sanh
ra các điều lỗi lầm, dẫn đến sự hoạn nạn. Ðó là các nạn nước, lửa, vua,
giặc và con ác, sanh ra các thứ bại hoại khổ đau như thế. Nếu hiểu rõ được
nguyên nhân sự khổ, mẹ sẽ thoát khổ”.
Khi ấy mẹ của tôn
giả Hộ Quốc luyến ái con không thôi. Bà lại đặt kế hoạch suy nghĩ như vầy:
“Lúc con mình còn ở nhà đã có người vợ. Hãy bảo nó trang điểm thân thể
bằng những ngọc báu, đến chỗ Hộ Quốc có thể làm vui lòng con mình”. Nghĩ
như vậy xong, bà đến chỗ người vợ cũ của tôn giả, nói rằng: “Chồng của
ngươi là Hộ Quốc, lúc trước ở nhà đã ưa thích các thứ châu báu anh lạc
trang nghiêm nào, vậy nay ngươi hãy trang sức đầy đủ các thứ ấy xong đến
chỗ Hộ Quốc để làm vui lòng chàng”.
Bấy giờ người vợ của
Hộ Quốc vâng lệnh mẹ chồng xong liền trang điểm các thứ châu báu rồi đến
chỗ Hộ Quốc, thưa rằng: “Này người con của trưởng giả, ý chàng thế nào mà
chàng thọ trì phạm hạnh, không phải là mong cầu thiên nữ nào chăng?”.
Tôn giả Hộ Quốc đáp
rằng: “Chẳng phải vậy, này đại tỷ, ta thọ trì phạm hạnh là để cầu đạo quả,
chớ không phải theo ý nghĩa như lời ngươi nói”.
Khi ấy vợ của Hộ
Quốc nghe tôn giả gọi mình bằng “chị”, liền đổi sắc mặt, xấu hổ lui ra.
Bấy giờ tôn giả Hộ Quốc nghĩ như vầy: “Sắp đến giờ ăn rồi”, liền thưa với
cha: “Này trưởng giả, có món ăn nào hãy cho con ăn”.
Khi ấy cha mẹ tôn
giả đích thân mang các món ăn thượng vị, các món ẩm thực dâng cúng cho tôn
giả.
Bấy giờ tôn giả ăn
uống xong, rửa bát xếp y, trải tòa mà ngồi, rồi tôn giả tuyên thuyết chánh
pháp cho cha mẹ nghe, làm cho họ khởi tâm hoan hỷ mà sanh ý đạo. Tôn giả
lại dùng thần thông đứng trên hư không, thuyết kệ rằng:
Xem sắc thân bôi vẽ
Với các báu trang
nghiêm
Kẻ ngu mê đắm trước
Người trí thường xa
lìa
Tham dục như dây tơ
Hay trói buộc thế
gian
Kẻ ngu bị mê hoặc
Người trí thường xa
lìa.
Bấy giờ tôn giả nói
bài kệ xong, từ hư không đi xuống, trở lại dưới cây đại thọ, điềm tỉnh
đứng yên.
Khi ấy có một vị vua
tên là Câu Lư, cỡi ngựa ngao du ngoài thành, đến gần một bên của làng xóm
Ðổ La. Thị thần tâu với vua rằng: “Tâu đại vương, nên biết rằng trong xóm
làng này có một người con của trưởng giả tên là Hộ Quốc, ngài có nhiều
quyến thuộc, của cải châu báu vô lượng nhưng đã vứt bỏ tất cả để xuất
gia”.
Nghe việc ấy rồi,
nhà vua liền hỏi những người trong làng ấy rằng: “Này các khanh, ở chốn
này có người con của trưởng giả tên là Hộ Quốc, đã xả bỏ thân bằng quyến
thuộc để xuất gia, việc này có thật chăng?”.
Bấy giờ các người
trong làng liền tâu với vua rằng: “Ðại vương nên biết, đó đúng là sự thật.
Tôn giả Hộ Quốc ở dưới một gốc cây đại thọ, trong làng xóm của chúng thần,
thường trì phạm hạnh. Tất cả nhân dân chúng thần đi đến để thân cận cúng
dường”.
Nhà vua nghe lời tâu
rồi liền vào trong làng đó, đến dưới gốc cây đại thọ, nơi tôn giả đang
dừng nghỉ. Bấy giờ tôn giả từ xa trông thấy vua Câu Lư đang đi nhanh đến
chỗ mình, liền từ tòa đứng dậy, đi đến trước mặt vua, tâu như vầy: “Thật
tốt đẹp, Ðại vương đã đến. Ðây là cảnh giới nhà vua đang thống lĩnh. Nay
thỉnh Ðại vương đến dưới gốc cây kia, hãy ngồi lên tòa của tôi”.
Nhà vua đáp: “Này Hộ
Quốc, ý của ta như vậy, muốn đến chỗ của ngươi, ngồi lên tòa của ngươi”.
Tôn giả Hộ Quốc lại
thưa: “Vì ý vua như vậy cho nên tôi mới mời vua như vậy”.
Bấy giờ nhà vua cùng
với tôn giả đến dưới gốc cây đại thọ, ngồi xuống tòa. Khi ấy Ðại vương nói
với tôn giả Hộ Quốc rằng: “Vì có bốn pháp, do bốn pháp này nên người ta
mong cầu xuất gia. Bốn pháp đó là:
1.
Biết
thân thuộc.
2.
Biết
phú quý.
3.
Biết
bệnh.
4.
Biết
già.
Ðó là bốn pháp.
Thế nào là biết thân
thuộc? Ðó là nếu có người có bà con thân thuộc thật nhiều, bỗng nhiên bị
tán diệt, người ấy nghĩ rằng: “Quyến thuộc, bằng hữu tri thức của ta đều
đã tán diệt, chỉ còn mình ta cô độc, vậy ta nên xuất gia”. Vì người ấy
biết rõ không còn quyến thuộc nữa cho nên mong cầu xuất gia. Nay tôn giả
Hộ Quốc có quyến thuộc thật nhiều, cũng chẳng phải cô độc, tôi không rõ vì
lẽ gì mà lại xuất gia?
Lại nữa, sao gọi là
biết phú quý? Ðó là hoặc có người trước đây có tiền bạc, châu báu, là
người giàu có lớn, nhưng sau đó bị khánh tận, nghèo khổ sống lây lất. Do
vì bần cùng nên người ấy nghĩ rằng: “Nay vì bần cùng nghèo khổ nên ta phải
xuất gia”. Vì người ấy biết mình bần cùng nên muốn xuất gia. Nay tôn giả
Hộ Quốc của cải phú quý vô lượng, cũng không bần cùng, tôi không rõ vì lẽ
gì mà lại xuất gia?
Lại nữa, sao gọi là
biết bệnh khổ? Ðó là hoặc có người đã bị bệnh lâu năm, nằm liệt giường
không thể cứu chữa mới nghĩ như vầy: “Bệnh tật của ta thật nặng, hết sức
đau khổ, cho nên nay ta phải mong cầu xuất gia”. Người ấy vì biết rõ bệnh
khổ cho nên mới mong cầu xuất gia. Nay tôn giả Hộ Quốc ít bệnh, ít não,
cũng không ưu sầu khổ đau, tôi không rõ vì lẽ gì mà lại xuất gia?
Lại nữa, sao gọi là
biết già nua? Ðó là hoặc có người tuổi già suy nhược nên mới nghĩ như vầy:
“Nay ta già nua, đối với sự giàu có sung sướng cũng chẳng ích lợi gì, cho
nên nay ta nên cầu mong xuất gia”. Vì người ấy biết rõ sự già nua không
kham nổi cho nên mới mong cầu xuất gia. Nay tôn giả Hộ Quốc đang tuổi
thiếu niên khỏe mạnh, chưa hưởng thọ các thú vui, tôi không rõ tại sao lại
đi xuất gia?
Tôn giả Hộ Quốc nên
biết, vì bốn pháp như vậy mới làm cho người ta xuất gia. Nay tôi lại hỏi
tôn giả Hộ Quốc, tôn giả vì thấy, nghe gì mà đi xuất gia?”.
Bấy giờ tôn giả trả
lời với vua rằng: “Ðại vương nên biết, vì có bốn thứ pháp nên tôi mong cầu
xuất gia. Những gì là bốn? Ðó là sự già, sự bệnh, sự ái dục và chết chóc.
Con người bị biến hoại không trường tồn nên gọi là già, bị bệnh khổ không
thể điều trị được cho nên gọi là bệnh, vì không biết nhàm chán, biết đủ
nên gọi là ái, phải bỏ lại tất cả các đối tượng cho nên gọi là chết. Bốn
pháp như vậy đức Phật Thế Tôn của tôi đã khéo biết, khéo thấy, tôi cũng
theo đức Phật, đích thân thấy, đích thân nghe việc ấy. Tôi chấp nhận những
việc ấy nên phát đại tín tâm mà xuất gia”.
Nhà
vua nói: “Tôn giả, như trước đã nói một cách tóm tắt nên tôi chưa hiểu
rõ, cúi mong tôn giả hãy vì tôi nói một cách rộng rãi để tôi được
khai mở hiểu rõ”.
Bấy giờ tôn giả nghe
vua nói xong, tâu với vua rằng: “Này đại vương, thật là hay. Như ý nguyện
của ngài, vậy tôi sẽ nói”.
Nhà vua nói: “Này
tôn giả, vì biến hoại không lâu dài nên già là nghĩa thế nào?”.
Tôn giả đáp rằng:
“Này Ðại vương, ý ngài thế nào? Hoặc con người từ hai mươi, ba mươi cho
đến lúc bốn mươi tuổi, thân có sắc tướng, sức lực, cử động, tiến tới, đình
chỉ của người ấy như thế nào?”.
Nhà vua nói: “Này
tôn giả, lúc con người trẻ hai mươi đến bốn mươi tuổi có đủ đại sắc tướng,
sức lực của thân thể cường tráng, thịnh vượng, tới lui dõng kiện, các việc
làm của mình tự cho là không ai bằng. Ðến lúc tuổi tác già nua, xế chiều
không còn khả năng, sắc tướng đã đổi khác, thân lực suy nhược, đi đứng bại
hoại”.
Tôn giả bảo rằng:
“Như lời vua nói đó là bị tướng già biến hoại ở thế gian. Ðại vương nên
biết, đó chính là pháp thứ nhất mà đức Phật của tôi dạy. Lại nữa đức Phật
Thế Tôn khéo rõ, khéo biết, khéo nói pháp này, tôi cũng thấy, nghe chánh
pháp này nên yêu thích dốc lòng mong cầu, tín tâm xuất gia”.
Bấy giờ nhà vua nói
rằng: “Tôn giả Hộ Quốc, tôi cũng đối với điều này vui mừng gặp được chánh
pháp, yêu thích dốc lòng mong cầu”.
Lại nữa nhà vua nói:
“Này tôn giả Hộ Quốc, sao gọi là bị bệnh khổ không lành gọi là bệnh?”.
Tôn giả đáp rằng:
“Như người có tài bảo lớn và các thân thuộc rất đông, ý của vua thế nào?
Người đó bị bệnh nằm liệt giường thọ các khổ não. Thân thuộc và các thị
giả tùy tùng có thể thay thế sự khổ não ấy được chăng?”.
Nhà vua nói: “Không
thể được. Này Hộ Quốc, nếu con người bị bệnh nằm liệt giường thì riêng
người ấy phải thọ lãnh các sự khổ, không ai có thể thay thế, cũng không ai
có thể cứu được.”
Tôn giả bảo rằng:
“Như lời vua nói, không ai có thể thay thế, không ai có thể cứu được, đó
là tướng của bệnh. Ðó tức là pháp thứ hai mà đức Phật của tôi dạy. Vả lại,
đức Phật Thế Tôn khéo rõ, khéo biết, khéo nói pháp này. Tôi cũng thấy,
nghe chánh pháp này nên ưa thích, mong cầu, tín tâm xuất gia”.
Lúc đó nhà vua thưa:
“Này tôn giả Hộ Quốc, tôi cũng đối với pháp đó vui mừng gặp được chánh
pháp, ưa thích mong cầu”.
Nhà vua lại hỏi
rằng: “Này tôn giả, sao gọi là không có nhàm chán biết đủ, gọi là ái?”.
Tôn giả đáp rằng:
“Này Ðại vương, ý của vua thế nào? Vua là người giàu có, sở hữu đất đai,
thành ấp, cho đến nhân dân sinh sống ở phía Ðông, Tây, Nam, Bắc trong nước
do vua thống lĩnh, đều hết sức giàu có chăng?”.
Vua đáp: “Này tôn
giả, đúng như vậy, đúng như vậy”.
Tôn
giả lại nói: “Này Ðại vương, ngài đã thống lĩnh đất đai, tụ lạc trong
nước, giàu có như vậy, giả sử có một người ở bên mé biển đến thưa
với Ðại vương rằng: “Tôi thấy nước kia có thành ấp
rộng lớn, nhân dân đông đúc, vàng bạc, châu báu, các vật lạ lùng, voi,
ngựa, binh chúng hằng hà sa số. Này Ðại vương, khi nghe lời ấy, ý ngài thế
nào?”.
Vua đáp: “Này tôn
giả, khi tôi nghe điều ấy rồi, nếu tôi không đến được thì tôi cũng bảo sứ
đến đánh nước ấy, chở tất cả châu báu các vật về chất đầy kho tàng của
tôi”.
Bấy
giờ tôn giả nói rằng: “Này Ðại vương, sự không nhàm chán biết đủ này
gọi là Ái. Ðó chính là pháp thứ ba mà đức Phật đã nói. Vả lại, đức
Phật Thế Tôn khéo rõ, khéo biết, khéo nói pháp này. Tôi cũng vì thấy, nghe
chánh pháp này nên ưa thích, mong cầu, tín tâm xuất
gia”.
Khi
ấy nhà vua nói rằng: “Này tôn giả Hộ Quốc, tôi cũng đối với điều đó vui
mừng gặp được chánh pháp, nên ưa
thích, chí tâm mong cầu”.
Nhà
vua lại hỏi: “Này tôn giả, sao gọi là xả ly các đối tượng gọi là
chết?”.
Tôn giả
đáp rằng: “Này Ðại vương, ý ngài thế nào? Tôi thấy người có nhiều châu
báu là người giàu có số một. Người ấy khi bỏ cõi này sanh về cõi
khác, vậy tất cả những châu báu có thể mang theo được chăng?”.
Vua nói: “Không thể
được”.
Tôn
giả lại nói: “Này Ðại vương, đối với người trong đời này mà bỏ lại các
đối tượng thân yêu để sanh vào đời khác, đó gọi là chết. Ðó chính
là pháp thứ tư mà đức Phật nói ra. Ðức Phật đã khéo hiểu, khéo biết, khéo
nói pháp này. Tôi cũng vì thấy, nghe chánh pháp này nên ưa thích, mong
cầu, tín tâm xuất gia”.
Nhà
vua nói: “Thưa tôn giả, tôi cũng đối với điều đó vui mừng gặp được chánh
pháp, nên ưa thích, chí tâm mong cầu”.
Bấy giờ tôn giả lại
nói với vua rằng:
–Ðối với nghĩa này,
tôi muốn trùng tuyên lại, vậy ngài hãy lắng nghe.
Nhà vua thưa:
–Thật tốt, tôi mong
được nghe.
Bấy giờ tôn giả nói
bài kệ này:
Ta thấy người thế
gian
Tham ái mà cất chứa
Vì của nên bị nạn
Càng tăng thêm các
dục
Nhà vua chủ đất đai
Rộng lớn đến bờ biển
Như vậy chưa biết đủ
Lại muốn chiếm nước
người
Các chúng sanh thế
gian
Do tham ái mà chết
Thương khóc thật não
nùng
Than ôi chết nhanh
quá!
Như người chứa của
báu
Lại bị lửa đốt cháy
Chúng sanh cũng theo
nghiệp
Ðã tạo phải thọ báo
Giàu có không cứu
mạng
Cũng không thoát già
nua
Giàu nghèo đều phải
chết
Già trẻ cũng vô
thường
Bệnh đâu chừa kẻ
mạnh
Cũng chẳng tránh từ
già
Ðều do lòng tham ái
Nên phải bị vô
thường
Ví như người trộm
cắp
Trở lại tự tổn
thương
Như vậy thấy thế
gian
Tự tạo các nhân ác
Như quả chín tự rụng
Già, trẻ chết cũng
thế
Ý vui thích tạo
nghiệp
Phải thọ báo khổ não
Lúc người ngu thế
gian
Tạo nghiệp không tự
biết
Hoặc sanh ở đời sau
Do yêu ghét bị khổ
Mạng chung trong bào
thai
Ai có thể cứu được?
Giả sử, thân trí
thức
Mạng chung ai cứu
được?
Dục, hủy hoại, trói
buộc
Sanh khổ thêm hãi
hùng
Thấy pháp huyễn thế
gian
Cho nên tôi xuất
gia.
Bấy giờ đại vương
Câu lưu nghe tôn giả nói bài kệ xong, hoan hỷ tin nhận, lại thưa rằng:
–Tôn giả Hộ Quốc là
người có thể khéo xuất ly, cho nên nay tôi xin quy y với tôn giả.
Tôn giả Hộ Quốc bảo
rằng:
–Chớ có quy y nơi
tôi. Bậc mà tôi quy y là Phật Thế Tôn, Pháp, và Tăng chúng. Vua cũng nên
quy y như vậy.
Vua thưa:
–Ðúng vậy, đúng vậy.
Nay tôi quy y Phật, Pháp và Tăng chúng, suốt đời thọ trì giới Ưu bà tắc.
Lúc đó đại vương đã
phát lời thệ nguyện xong, đảnh lễ, phụng sự tôn giả, trở về cung vua.
PHẬT NÓI KINH HỘ QUỐC
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật:
5-2003