PHẬT NÓI
KINH LẬU PHÂN BỐ
Hán
dịch:
Ðời
Hậu Hán, Tam tạng Pháp sư An Thế Cao.
Việt dịch:
Thích Chánh Lạc
--- o0o ---
Nghe
như vầy:
Một thời đức Phật ở
tại Hành trị xứ danh vi pháp (đô ấp kiếm ma sắc đàm Câu Lâu?), nước Câu
Lưu.
Bấy giờ người nước
Câu Lưu đang sinh sống tại đó. Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo; các Tỳ
kheo thưa: “Dạ vâng”, và theo đức Phật để nghe dạy. Ðức Phật liền nói như
vầy:
–Tỳ kheo hãy lắng
nghe, ta sẽ thuyết pháp, phần đầu cũng lợi, phần giữa cũng lợi, phần cuối
cũng lợi, có lợi ích, có phương tiện, đầy đủ ý hiển hiện phạm hạnh. Hãy
nên lắng nghe cho kỹ, thọ trì kỹ để nhớ nghĩ điều được nghe.
Các Tỳ kheo thưa:
“Ðúng vậy!”. Và theo đức Phật để nghe thuyết pháp. Ðức Phật bèn nói như
vầy:
–Tỳ kheo phải biết
lậu, cũng phải biết nguồn gốc, cũng phải biết do lậu mà thọ lấy tai ương,
cũng phải biết sự phân bố của lậu, cũng phải biết sự chấm dứt của lậu,
cũng phải biết thọ hành gì khiến cho hết lậu. Tỳ kheo phải biết thống,
cũng phải biết nguyên nhân của thống, cũng phải biết do thống mà bị tai
ương, cũng phải biết sự phân bố của thống, cũng phải biết sự chấm dứt của
thống, cũng phải biết thọ hành gì để hết thống. Tỳ kheo nên biết tư tưởng,
cũng nên biết nguồn gốc của tư tưởng, cũng nên biết do tư tưởng mà thọ lấy
tai ương, cũng nên biết sự phân bố của tư tưởng, cũng nên biết thọ hành gì
để chấm dứt tư tưởng.
Tỳ kheo phải biết ái
dục, cũng phải biết nguồn gốc của ái dục, cũng phải biết do ái dục mà thọ
tai ương, cũng phải biết sự phân bố của ái dục, cũng phải biết sự chấm dứt
của ái dục, cũng phải biết thọ hành gì để không còn ái dục.
Tỳ kheo phải biết
hành, cũng phải biết nguyên nhân của hành, cũng phải biết vì hành mà bị
tai ương, cũng phải biết sự phân bố của hành, cũng phải biết sự chấm dứt
của hành, cũng phải biết thọ trì hạnh gì để không còn hành.
Tỳ kheo phải biết
khổ, cũng phải biết nguyên nhân của khổ, cũng phải biết vì khổ mà bị tai
ương, cũng phải biết sự phân bố của khổ, cũng phải biết sự chấm dứt của
khổ, cũng phải biết thọ hành gì để không còn khổ.
Tỳ kheo phải biết
lậu, cũng phải biết nguyên nhân của lậu, cũng phải biết vì lậu mà bị tai
ương, cũng phải biết sự phân bố của lậu, cũng phải biết sự chấm dứt của
lậu, cũng phải biết thọ hành gì mà hết lậu.
Những gì gọi là phải
biết lậu? Ðó là có ba lậu:
1.
Dục
lậu.
2.
Hữu
lậu.
3.
Si
lậu.
Như vậy là biết lậu.
Những gì gọi là phải
biết nguồn gốc của lậu? Ðó là: si là gốc của lậu, do đó mà lậu hiện hữu.
Như vậy là biết nguồn gốc của lậu.
Những gì gọi là do
lậu mà có tai ương? Ðó là do si mà có hành động lậu, hành động thế nào thì
phải thọ lấy tai ương như vậy, hoặc sanh chỗ tốt, hoặc đọa vào chỗ xấu.
Như vậy là biết do lậu mà thọ lấy tai ương.
Những gì gọi là biết
sự phân bố của lậu? Ðó là do hành động sai khác mà đọa vào địa ngục, hoặc
do hành động sai khác mà đọa vào súc sanh, hoặc do hành động sai khác mà
đọa vào ngạ quỷ, hoặc do hành động sai khác mà sanh lên trời, hoặc do hành
động sai khác mà sanh vào loài người. Như vậy gọi là biết sự phân bố của
lậu.
Sao gọi là phải biết
sự chấm dứt của lậu? Ðó là si đã chấm dứt nên lậu liền chấm dứt, như vậy
lậu chấm dứt. Ðó là biết sự chấm dứt của lậu.
Những gì là phải
biết thọ trì hạnh gì để lậu chấm dứt? Ðó là tám thứ đạo hạnh:
1.
Trực
kiến.
2.
Trực
cánh.
3.
Trực
ngữ.
4.
Trực
hành.
5.
Trực
nghiệp.
6.
Trực
phương tiện.
7.
Trực
niệm.
8.
Trực
định.
Như vậy là biết thọ
trì hạnh gì để chấm dứt lậu.
Này các Tỳ kheo, Tỳ
kheo đã biết lậu như vậy, biết nguyên nhân của lậu như vậy, biết do lậu mà
phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của lậu như vậy, biết sự chấm
dứt của lậu như vậy, biết thọ hành nên khiến lậu được chấm dứt như vậy. Ðó
gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc
đạo, làm cho các lậu được chấm dứt.
Tỳ kheo phải biết
thống, cũng phải biết nguyên nhân của thống, cũng phải biết vì thống mà
thọ tai ương, cũng phải biết sự phân bố của thống, cũng phải biết sự chấm
dứt của thống, cũng phải biết thọ hành gì khiến cho chấm dứt thống.
Những gì là phải
biết thống? Ðó là có ba loại thống:
1.
Lạc
thống.
2.
Khổ
thống.
3.
Cũng
không lạc không khổ thống.
Như vậy là biết
thống.
Những gì là phải
biết nguồn gốc của thống? Ðó là do suy tư điều hư vọng. Như vậy là biết
nguồn gốc của thống.
Những gì là phải
biết do thống mà thọ tai ương? Ðó là có loại suy tư xúc đưa đến sự khổ.
Như vậy là biết từ thống đưa đến tai ương.
Những gì là phải
biết sự phân bố của thống? Này Tỳ kheo, Tỳ kheo tiếp xúc với lạc thống
(thọ) thì biết là tiếp xúc lạc thống, tiếp xúc với khổ thống thì biết là
tiếp xúc với khổ thống, tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là
đang tiếp xúc với không lạc không khổ thống; thân tiếp xúc với lạc thống
thì biết là thân tiếp xúc với lạc thống, thân tiếp xúc với khổ thống thì
biết là thân tiếp xúc với khổ thống, thân tiếp xúc với không khổ không lạc
thống thì biết là thân tiếp xúc với không khổ không lạc thống; tâm niệm
tiếp xúc với lạc thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với lạc thống, tâm
niệm tiếp xúc với khổ thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với khổ thống,
tâm niệm tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là tâm niệm tiếp
xúc với không khổ không lạc thống. Lạc thống do mong cầu mà có thì biết
lạc thống do mong cầu mà có. Khổ thống do mong cầu mà có thì biết khổ
thống do mong cầu mà có. Không khổ không lạc thống do mong cầu mà có thì
biết không khổ không lạc thống do mong cầu mà có. Lạc thống không do mong
cầu mà có thì biết lạc thống không do mong cầu mà có. Khổ thống không do
mong cầu mà có thì biết khổ thống không do mong cầu mà có. Không khổ không
lạc thống không do mong cầu mà có thì biết không khổ không lạc thống không
do mong cầu mà có. Lạc thống do sống trong gia đình thì biết lạc thống do
sống trong gia đình. Khổ thống do sống trong gia đình thì biết khổ thống
do sống trong gia đình. Không khổ không lạc thống do sống trong gia đình
thì biết không khổ không lạc thống do sống trong gia đình. Lạc thống nhờ
bỏ gia đình thì biết lạc thống nhờ bỏ gia đình. Khổ thống nhờ bỏ gia đình
thì biết khổ thống nhờ bỏ gia đình. Không khổ không lạc thống nhờ bỏ gia
đình thì biết không khổ không lạc thống nhờ bỏ gia đình. Như vậy là biết
sự phân bố của thống.
Những gì là phải
biết sự chấm dứt của thống? Ðó là nhớ nghĩ đến sự từ bỏ thì thống liền
chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của thống.
Những gì là phải
biết thọ hành để thống chấm dứt? Ðó là tám thứ đạo hạnh:
1.
Trực
kiến.
2.
Trực
cánh.
3.
Trực
ngữ.
4.
Trực
hành.
5.
Trực
nghiệp.
6.
Trực
phương tiện.
7.
Trực
niệm.
8.
Trực
định.
Như vậy là biết thọ
hành để chấm dứt thống.
Này các Tỳ kheo, Tỳ
kheo đã biết thống như vậy, biết nguyên nhân của thống như vậy, biết do
thống mà bị tai ương như vậy, biết sự phân bố của thống như vậy, biết sự
chấm dứt của thống như vậy, biết thọ hành để chấm dứt thống như vậy. Ðó
gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, nhờ hành thanh tịnh nên được
đạo, làm cho thống được chấm dứt.
Tỳ kheo phải biết tư
tưởng, phải biết nguồn gốc của tư tưởng, phải biết do tư tưởng mà thọ lấy
tai ương, cũng phải biết sự phân bố của tư tưởng, cũng phải biết thọ hành
gì để chấm dứt tư tưởng.
Những gì là phải
biết tư tưởng? Ðó là có bốn loại tư tưởng:
1.
Tư
tưởng ít.
2.
Tư
tưởng nhiều.
3.
Tư
tưởng vô lượng.
4.
Tư
tưởng vô sở hữu bất dụng.
Như vậy là biết tư
tưởng.
Những gì là phải
biết nguồn gốc của tư tưởng? Tập là nguồn gốc của tư tưởng. Như vậy là
biết nguồn gốc của tư tưởng.
Những gì là phải
biết từ tư tưởng mà có tai ương? Ðó là như điều tư tưởng làm, như điều tư
tưởng hành. Ðó gọi là việc làm, hành động. Như vậy là biết do tư tưởng mà
thọ tai ương.
Những gì là phải
biết sự phân bố của tư tưởng? Ðó là tư tưởng về sắc thì khác, tư tưởng về
tiếng cũng khác, tư tưởng về hương cũng khác, tư tưởng về vị cũng khác, tư
tưởng về sự thô, tế của thân cảm xúc cũng khác. Như vậy là biết sự phân bố
của tư tưởng.
Những gì là phải
biết sự chấm dứt của tư tưởng? Ðó là tư tưởng đã hết thì tư tưởng liền
chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của tư tưởng.
Những gì là phải
biết thọ hành để chấm dứt tư tưởng? Ðó là tám loại chủng hạnh: 1- Trực
kiến. 2- Trực cánh. 3- Trực ngữ. 4- Trực hành. 5- Trực nghiệp. 6- Trực
phương tiện. 7- Trực niệm. 8- Trực định. Như vậy là biết thọ hành để chấm
dứt tư tưởng.
Này các Tỳ kheo, Tỳ
kheo đã biết tư tưởng như vậy, biết nguồn gốc của tư tưởng như vậy, biết
do tư tưởng mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của tư tưởng như
vậy, biết sự chấm dứt của tư tưởng như vậy, biết thọ hành nên khiến tư
tưởng được chấm dứt như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế
gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, khiến cho chấm dứt tư tưởng.
Tỳ kheo phải nên
biết ái dục, cũng phải biết nguồn gốc của ái dục, cũng phải biết do ái dục
đưa đến tai ương, cũng phải biết sự phân bố của ái dục, cũng phải biết sự
chấm dứt của ái dục, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt ái dục.
Những gì là phải
biết ái dục? Ðó là ái dục có năm loại: dục đắc, dục tối tại tâm, dục ái,
sắc tùy ý đưa đến tham trước, thân cận. Những gì là năm?
1.
Các sắc do nhãn căn nhận thức khả ái, dục đắc, dục tối thượng đối
với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.
2.
Các tiếng do lỗ tai nhận thức thì dục đắc, dục tối thượng với tâm,
dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.
3.
Các hương do lỗ mũi nhận thức thì dục đắc, dục tối thượng với tâm,
dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.
4.
Các vị do miệng nhận thức là dục đắc, dục tối thượng đối với tâm,
dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.
5.
Các xúc thô, tế do thân cảm xúc biết được, dục đắc, dục tối thượng
đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.
Như vậy là biết được
ái dục.
Những gì là biết
nguồn gốc của ái dục? Ðó là Tư. Như vậy là biết nguồn gốc của ái dục.
Những gì là biết vì
ái dục phải thọ tai ương? Nếu đã làm ra ái dục, đã sanh dục vọng, liền có
tranh cãi, mong chờ, liền sanh tư tưởng tai ương. Vì vậy phải tùy thuận
tai ương hoặc đến chỗ tốt, hoặc vào chỗ dữ. Như vậy là biết do ái dục mà
thọ lấy tai ương.
Những gì là phải
biết sự phân bố của ái dục? Ðó là ái dục sắc thì khác, ái dục của thinh
cũng khác, ái dục của hương cũng khác, ái dục của mùi vị cũng khác, ái dục
do thân tiếp xúc vật thô tế cũng khác. Như vậy là biết sự phân bố của ái
dục.
Những gì là biết sự
chấm dứt của ái dục? Ðó là Tư đã chấm dứt thì ái liền chấm dứt. Như vậy là
biết sự chấm dứt của ái dục.
Những gì là biết thọ
hành để chấm dứt ái dục? Ðó là tám thứ đạo hạnh:
1.
Trực
kiến.
2.
Trực
cánh.
3.
Trực
ngữ.
4.
Trực
hành.
5.
Trực
nghiệp.
6.
Trực
phương tiện.
7.
Trực
niệm.
8.
Trực
định.
Như vậy là biết thọ
hành để chấm dứt ái dục.
Này các Tỳ kheo, Tỳ
kheo đã biết ái dục như vậy, biết nguyên nhân của ái dục như vậy, biết do
ái dục mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của ái dục như vậy,
biết sự chấm dứt của ái dục như vậy, biết thọ hành để chấm dứt ái dục như
vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh, được
đắc đạo, khiến cho ái dục được chấm dứt.
Tỳ kheo cần phải
biết hành, cũng phải biết nguồn gốc của hành, cũng phải biết do hành mà
thọ lấy tai ương hay phước đức, cũng phải biết sự phân bố của hành, cũng
phải biết sự chấm dứt của hành, cũng phải biết thọ hành gì thì chấm dứt
hành.
Những gì là phải
biết hành? Ðó là điều nhớ nghĩ không xa lìa, gọi là hành.
Những gì là biết
nguồn gốc của hành? Ðó là từ ái dục có hữu vi, từ hành động ái có gốc
hành. Như vậy là biết nguồn gốc của hành.
Những gì là biết do
hành mà phải thọ tai ương hay phước đức? Ðó là hành động đen tối phải bị
tai ương xấu ác khiến phải sa đọa, có hành động thanh bạch, khiến cho có
phước thanh bạch, được sanh lên cao. Ðó là biết do hành mà phải thọ lấy
tai ương hay phước đức.
Những gì là phải
biết sự phân bố của hành? Ðó là có hành động đen tối phải theo sự đen tối
mà thọ lấy tai ương, có hành động thanh bạch thì nhờ sự thanh bạch mà được
phước đức thanh bạch. Vì có hành động đen tối hay thanh bạch nên đưa đến
nghiệp đen hay trắng, tai ương hay phước đức. Cũng có hành động chẳng phải
đen, cũng chẳng phải thanh bạch, nhờ đó được phước đức, mỗi hành mỗi hành
đều chấm dứt hoàn toàn. Như vậy là biết sự phân bố của hành.
Những gì là phải
biết sự chấm dứt của hành? Ðó là ái đã hết thì hành liền hết. Như vậy là
biết sự chấm dứt của hành.
Những gì là biết thọ
hành để chấm dứt hành động? Ðó là tám thứ đạo hạnh:
1.
Trực
kiến.
2.
Trực
cánh.
3.
Trực
ngữ.
4.
Trực
hành.
5.
Trực
nghiệp.
6.
Trực
phương tiện.
7.
Trực
niệm.
8.
Trực
định.
Như vậy là biết thọ
hành để chấm dứt hành.
Này các Tỳ kheo, nếu
Tỳ kheo đã biết hành như vậy, biết căn bổn của hành như vậy, biết do hành
mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của hành như vậy, biết sự
chấm dứt của hành như vậy, biết thọ hành để chấm dứt hành như vậy. Ðó gọi
là Tỳ kheo hối hận, yểm ly thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo,
khiến cho chấm dứt hành hoàn toàn.
Tỳ kheo phải biết
khổ, cũng phải biết nguyên nhân của khổ, cũng phải biết vì khổ mà thọ lấy
tai ương, cũng phải biết sự phân bố của khổ, cũng phải biết sự chấm dứt
của khổ, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt khổ.
Những gì là Tỳ kheo
phải biết khổ? Ðó là Tỳ kheo phải biết sanh là khổ, phải biết già là khổ,
biết bệnh là khổ, phải biết chết là khổ, phải biết oán thù gặp nhau là
khổ, phải biết ái biệt ly là khổ, phải biết cầu mong không được là khổ,
phải biết nguồn gốc của năm ấm là khổ. Như vậy là biết khổ.
Những gì là phải
biết nguồn gốc của khổ? Gốc là si, si là nguồn gốc của khổ. Như vậy là
biết nguồn gốc của khổ.
Những gì là phải
biết do khổ mà thọ lấy tai ương? Ðó là người thế gian ngu si không nghe
kinh điển, ở trong thân cảm xúc khổ thống kịch liệt, sự đau khổ kịch liệt
không thể chịu nổi, phải nên chấm dứt ý nghĩ đó, vì theo bên ngoài, cầu
mong pháp hữu vi bên ngoài, căn cứ bên ngoài mà cầu mong. Có Sa môn, Bà la
môn từ một câu, hai câu, ba câu, bốn câu, năm câu, một trăm câu trì chú để
cúng tế làm cho nhờ vậy mà thân được thoát khổ, hay đó là tai ương của
khổ. Như vậy là biết do khổ mà thọ lấy tai ương.
Những gì là phải
biết sự phân bố của khổ? Ðó là có khổ ít mà thọ tai ương lâu dài, hoặc là
có khổ ít mà không bị tai ương tật bệnh, hoặc có khổ nhiều mà thọ tai ương
lâu dài, hoặc khổ nhiều mà thoát tai ương tật bệnh. Như vậy là biết sự
phân bố của khổ.
Những gì là phải
biết sự chấm dứt của khổ? Ðó là si đã chấm dứt thì khổ liền chấm dứt. Như
vậy là biết sự chấm dứt của khổ.
Những gì là phải
biết thọ hành để chấm dứt khổ? Ðó là tám thứ đạo hạnh:
1.
Trực
kiến.
2.
Trực
cánh.
3.
Trực
ngữ.
4.
Trực
hành.
5.
Trực
nghiệp.
6.
Trực
phương tiện.
7.
Trực
niệm.
8.
Trực
định.
Như vậy là biết thọ
hành để chấm dứt khổ.
Này các Tỳ kheo, Tỳ
kheo đã biết khổ như vậy, biết nguyên nhân của khổ như vậy, biết vì khổ mà
thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của khổ như vậy, biết sự chấm dứt
của khổ như vậy, biết thọ hành để chấm dứt khổ như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo
hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh được đắc đạo, để chấm dứt khổ
đau.
Ðức Phật nói như
vậy, các Tỳ kheo thọ trì lời Phật dạy, trong tâm vui mừng thực hành, theo
đó thực hành, đạt được vô vi thanh tịnh.
PHẬT NÓI KINH
LẬU PHÂN BỐ
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật:
5-2003