PHẬT
NÓI KINH A NA LUẬT, BÁT NIỆM
Hán dịch:
Ðời
Hậu hán, Tam tạng Pháp sư Chi Khiêm.
Việt dịch:
Thích Chánh Lạc
--- o0o ---
Nghe như vầy:
Một thời Phật ở dưới cây Cầu sư, núi Thệ
Chi. Hiền giả A na luật ngồi thiền bên bờ đầm vắng, tư duy : “Ðạo pháp là
thiểu dục. Ða dục không phải là đạo pháp. Ðạo pháp là tri túc. Không nhàm
chán, không phải là đạo. Ở ẩn là đạo pháp, ưa thích đồ chúng không phải là
đạo. Tinh tấn là đạo pháp, giải đãi không phải là đạo. Kiềm chế tâm là đạo
pháp, phóng
đảng không phải là đạo pháp. Ðịnh ý là đạo pháp, nghĩ
nhiều không phải là đạo. Trí tuệ là đạo pháp, ngu ám không phải là
đạo”.
Ðức Phật dùng tâm thánh biết rõ ý của tôn
giả. Thí như lực sĩ co duỗi cánh tay, liền bay đến trước tôn giả khen rằng
:
–Lành thay ! Lành thay ! Này A na luật.
Những điều mà ngươi suy niệm chính là điều mà bậc đại sĩ suy niệm. Hãy
lắng nghe ta nói tám điều suy niệm của bậc đại sĩ, hãy khéo suy nghĩ mà
thực hành. Hãy nên học Tứ thiền, kiểm soát ý, quán sát, không bỏ nữa
chừng, chắc chắn được đại lợi, không mất chí nguyện. Sao gọi là Tứ thiền ?
Ðó là xả bỏ pháp dục ác, bất thiện, ý được hoan hỷ là Nhất thiền hạnh. Nhờ
xả niệm ác, chuyên tâm một cảnh, không cần hoan hỷ là Nhị thiền hạnh. Hoan
hỷ đã chấm dứt, chỉ như pháp quán, rõ thấy khổ vui là Tam thiền hạnh. Ðã
bỏ khổ vui, lo mừng đều đoạn mà an trụ thanh tịnh là Tứ thiền hạnh. Ðã học
như vậy rồi, sau đó thực hành tám điều suy niệm của bậc đại nhân. Tứ thiền
là phương pháp kiểm soát ý, ưa thấy nơi hành được lợi nguyện nhanh, không
bỏ cuộc nữa chừng. Vã lại, người thiểu dục thí như vua có cận thần, chủ
các rương hòm chứa đầy y phục đẹp, nhưng vua lại thích mặc đồ cũ, thiểu
dục tri túc, ở ẩn, tinh tấn, chí tâm, định ý, trí tuệ, bỏ gia đình, không
vui chơi, ngạo mạn, không có sai lầm, chắc chắn đó là người an ổn, đi đến
cửa Nê hoàn. Ðó là tám điều suy nghĩ của bậc đại nhân.
Nhưng Tứ thiền để kiểm soát ý, quán sát,
nghĩa của nó như nhà vua có cận thần trông coi việc nấu nướng, điều chế
năm vị, nhưng vua lại ưa thích việc đi khất thực, mục đích để nuôi thân,
không mong hưởng thụ. Ý nghĩa của nó như nhà vua có lầu các để trông xem,
nhưng tự vui thích núi đầm rừng cây, chỗ yên tịnh, tinh tấn vô dục đối với
thế gian. Ý nghĩa như nhà vua có cận thần, chủ các thứ thuốc hay và lạc,
tô, đề hồ, thạch, mật, nhưng vua lúc có bệnh dùng nước tiểu tiện để được
trừ bỏ khổ não. Nhờ thực hành tám suy niệm, tư duy tứ thiền, tinh tấn
không thiếu sót, tâm không sai lầm, chắc chắn tự mình an ổn, đi tới cửa Nê
hoàn.
Ðức Phật nói như vậy xong, liền trở về Thệ
Chi, bảo các đệ tử : “Ðạo thì phải thiểu dục, không được đa dục. Ðạo thì
phải tri túc, không được chứa nhóm cho dư. Ðạo thì phải phải ở chỗ yên
tịnh, không nên ưa thích hội chúng. Ðạo thì phải tinh tấn, không được giải
đãi. Ðạo thì phải kiềm chế tâm, không đượcphóng dật. Ðạo thì phải định ý,
không được loạn ý. Ðạo thì phải có trí tuệ, không được ngu ám. Tỳ kheo
phải lấy sự thiểu dục làm vui thích. Ðó là thân tự thiểu dục, nhưng đừng
để người biết mình thiểu dục. Ý nghĩa như vậy mới đúng.
Tỳ kheo tri túc đó là bình bát, y phục,
giường chõng, thuốc men chửa bệnh, các thứ đủ dùng thì thôi, đừng nên chứa
nhóm cho dư. Ý nghĩa như vậy mới đúng. Tỳ kheo ở ẩn, đó là tránh người thế
gian, không nhập vào chúng hội, ở xa nơi núi đầm, hang đá, gốc cây. Như có
tứ chúng hoặc vua, đại thần đến để hỏi đạo thì hãy nói pháp thanh tịnh cho
họ nghe, xong rồi đi liền. Thí như kẻ nghèo mắc nợ người giàu có, bị chủ
lôi kéo, kẻ ấy muốn xa lìa, không thích ở ẩn xa lìa mọi người. Như vậy mới
đúng nghĩa. Tỳ kheo tinh tấn là đoạn trừ điều phi pháp, siêng năng thực
hành kinh đạo, chưa hề giải đãi. Ðầu đêm, nữa đêm, cuối đêm kinh hành,
ngồi hay nằm, thường giác ngộ tâm ý, nhớ nghĩ điều thanh tịnh để trừ ngũ
cái. Như vậy mới đúng nghĩa. Tỳ kheo kiềm chế tâm là bỏ dục, ác pháp, ngồi
định ý, tư duy, quán tưởng để đoạn trừ khổ, lạc được tứ thiền hạnh. Như
vậy là đúng nghĩa. Tỳ kheo định ý là thường nhất tâm quán thân, quán ý,
không bị hành động sai khiến, nhiếp niệm theo đạo, bỏ tưởng ngu si não
hại. Như vậy là đúng nghĩa. Tỳ kheo trí huệ đó là biết Tứ đế : khổ, tập,
tận, đạo. Sao gọi là Khổ đế ? Ðó là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ,
ưu bi não khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng tội khổ, sở dục bất đắc khổ. Tóm
lại ngũ thạnh ấm là khổ. “Sanh khổ” là con người tùy theo hành động dẫn
dắt thọ vào bào thai mà thành sanh, có hình thể, hiện căn thân, có nhập có
thọ mà lớn lên. “Già khổ” là các căn con người đã chín mùi, hình thể đã
thay đổi, tóc bạc, răng long, gân mỏi, da nhăn, lưng còng phải chống gậy
mà đi. “Bệnh khổ” là con người bị tội hành hạ đến nỗi bị ung thư, ghẻ mũ,
kinh phong, điên cuồng... Bệnh có rất nhiều, hơn một trăm thứ. “Chết khổ”
là con người mạng chung, thân hình hư nát, hơi ấm không còn, tắt thở, hồn
thần đã lìa. Những thứ ấy đều là khổ.
Sao gọi là Tập đế ? Ðó là không thọ, không
nhập, ái đã hết sạch không còn nữa, sự trói buộc đã mở, người thấy bằng
trí tuệ, không còn tất cả. Người thế gian không có ai thấy sự trói buộc
của năm ấm. Vị này không còn tái sanh nữa, đã mở hết các dây ái trói buộc,
nhờ trí tuệ mà thấy “phi thường, khổ, không, phi thân”, nên đã đoạn trừ.
Ðó là Tập đế.
Sao gọi là Ðạo đế ? Ðó là tám trực đạo :
chánh kiến, chánh tư, chánh ngôn, chánh hành, chánh trị, chánh mạng, chánh
chí và chánh định. Sao gọi là chánh kiến ? Chánh kiến có hai loại : có tục
có đạo, biết có nhân nghĩa, biết có cha mẹ, biết có Sa môn, Phạm chí, biết
có kẻ đắc đạo, chơn nhân, biết có đời này đời sau, biết có thiện ác tội
phước. Từ đây đến bên kia nhờ thực hành mà chứng đạo. Ðó là chánh kiến thế
gian. Nhờ hiểu Tứ đế : khổ, tập, tận, đạo, đã được huệ kiến “không, tịnh,
phi thân”. Ðó là đạo chánh kiến.
Chánh tư cũng có hai. Suy tư về học vấn,
suy tư về hòa kính, suy tư về giới, thận, suy tư về vô hại. Ðó là thế gian
chánh tư. Suy tư về xuất xứ, suy tư về nhẫn, im lặng, suy tư về sự diệt
sạch hết ái trước. Ðó là đạo chánh tư.
Chánh ngôn cũng có hai. Không nói hai lưỡi,
không nói lời ác, mắng chửi, không nói dối, không nói lời thêu dệt. Ðó là
chánh ngôn của thế gian. Lìa bốn lỗi của miệng, giảng thông lời đạo, tâm
không tạo tác, sạch hết không còn tàn dư nữa. Ðó là chánh ngôn của đạo.
Chánh hạnh cũng có hai. Thân làm điều
thiện, miệng nói điều thiện, tâm nghĩ điều thiện. Ðó là chánh hạnh của thế
gian. Thân miệng tinh tấn, tâm niệm tịnh, tiêu diệt phóng đãng, chấp
trước. Ðó là chánh hạnh của đạo.
Chánh trị cũng có hai. Không sát không đạo,
không dâm, không tự mình cống cao, tu đức tự phòng thủ. Ðó là chánh trị
của thế gian. Lìa bỏ ba điều ác của thân, trừ đoạn khổ tập, diệt ái cầu độ
thoát. Ðó là chánh trị của đạo.
Chánh mạng cũng có hai. Cầu tiền của theo
đạo nghĩa, không tham của một cách bừa bãi, không dùng tâm dối trá với
người. Ðó là chánh mạng của thế gian. Ðã xa lìa tà nghiệp, bỏ chức vị thế
gian, không phạm sự ngăn cấm của đạo. Ðó là chánh mạng của đạo.
Chánh trí cũng có hai. Không ganh tị, không
giận hờn, không tà vạy. Ðó là chánh trí củathế gian. Lìa ba điều ác của
tâm, thực hành bốn điều đoan chánh của ý, thanh tịnh vô vi. Ðó là chánh
trí của đạo.
Chánh định cũng có hai. Thể tánh thuần
thục, điều hòa theo điều lành, an tâm kiên cố, tâm không quanh co tà vạy.
Ðó là chánh định của thế gian. Ðược bốn ý chí, tưởng nhớ không, vô tưởng,
không nguyện, thấy nguồn gốc của Nê hoàn. Ðó là chánh định của đạo. Ðó là
Ðạo đế.
Tỳ kheo bỏ nhà, dứt bỏ ân ái, suy tư về đạo
một cách an tịnh, không có luyến ái, hâm mộ, ý không chạy theo dục, thanh
tịnh, không chướng ngại. Ðó là nghĩa của đạo pháp, phải tuân theo như vậy.
Hiền giả A na luật nghe đức Phật nói kinh,
khai mở, dẫn dắt ý của Ngài. Ngài thọ trì thực hành trong ba tháng thì lậu
tận trừ, ý giải thoát, được ba trị, đã chứng đạo rồi, tự biết mình đã được
A la hán, liền nói bài kệ :
Không nhàm chán dục lạc.
Vì dục lạc phóng tâm.
Do đó phải chịu khổ.
Làm ác nhiều trói buộc.
Thiểu dục biết đạo hạnh.
Biết thẹn không tự kiến.
Pháp này được thanh tịnh.
Xa ác, thoát thế gian.
Ta dùng Như không định.
Các khổ được diệt trừ.
Theo lời đức Phật dạy.
Giữ hạnh bỏ dục ác.
Bỏ tai hoạn nơi thân.
Ðược lợi theo vô vi.
Từ đó được ba trị.
Ðã nhổ gốc ân ái.
Ngay nơi xóm Duy sa.
Vườn trúc, Bát Nê hoàn.
PHẬT NÓI KINH
A NA LUẬT, BÁT NIỆM
--- o0o ---
Vi Tính: Nguyên Tịnh
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật:
5-2003