CHUẨN ĐỀ PHẬT MẪU
Huyền Thanh dịch
I _ DANH TỰ:
Chuẩn Đề được dịch âm từ các tên Phạn là
Cundì , Cunïtïi , Cunïdïhi , Kunïdïi , Cunõdhe , Cunde, Cumïdi ,
Cumïdhe , ‘Suddhe ( Trong các tên Phạn này thì 2 tên thường được dùng là
Cunõdhe với ‘Suddhe ) và được phiên dịch theo các ý nghĩa là Khiết Tĩnh,
Thanh Tịnh, Diệu Nghĩa, Minh Giác, Hộ Trì Phật Pháp. Đây là vị Bồ Tát
hay hộ mệnh và tế độ các chúng sinh khiến cho ngộ giải Phật Quả .
Theo Truyền Thuyết của Ấn Độ thì Cunïtïi
hay Cunïdïhi là tên của một Apsara và có ý nghĩa là Nguồn suối nhỏ, cái
giếng nhỏ, may mắn, tốt giỏi, người có tài ba lỗi lạc.
Theo Truyền Thuyết khác thì Chuẩn Đề (
Kunïdïi ) là một tên gọi của Durga ( Hóa thân của Hắc Mẫu Thiên Kàli )
với bài Chú xưng tán là:
OMÏ _ KÀLI KULI KUNÏDÏI _SVÀHÀ
( Quy mệnh Hắc Mẫu Thiên. Nguyện tuân
theo sự tôn kính ‘Sakti mà thành tựu Pháp của Durga ).
Theo Truyền Thống Hoa Văn thì Chuẩn Đề
còn có các tên gọi khác là: Thất Câu Chi Phật Mẫu hay Thất Câu Đê Phật
Mẫu ( Sapta_Kotïi Buddha màtrï ) , Chuẩn Đề Phật Mẫu ( Cunõdhe Màtrï
) , Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề (Sapta_Kotïi Buddha Màtrï Cunõdhe
), Chuẩn Đề Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ), Chuẩn Đề Quán Aâm hay Chuẩn
Đề Quán Tự Tại ( Cunõdhe Avalokite’svara )
Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La ghi nhận
Chuẩn Đề là một trong 3 vị Phật Mẫu thuộc Biến Tri Viện với Tôn Tượng
màu vàng lợt, mặc áo lụa mỏng như Thiên Y , đầu đội mão báu có ngọc lưu
ly rũ treo, mặt có 3 mắt, ngồi trên tòa sen, toàn thân có 18 tay, mỗi
tay có đeo vòng xuyến khảm Xà Cừ và mỗi tay đều cầm các loại khí cụ biểu
thị cho các Tam Muội Gia ( Bản Thệ_ Samaya ). Trong Viện này thì Chuẩn
Đề biểu thị cho sự thanh tĩnh vô nhiễm cấu là đặc tính của Liên Hoa Bộ (
Padma Kulàya ) nên Chuẩn Để được xem là Mẫu ( Màtrï ) của Liên Hoa Bộ
trong Phật Bộ ( Buddha Kulàya ) nghĩa là từ Tôn này sinh ra các Tôn
trong Liên Hoa Bộ.
Trong Kim Cương Giới Man Đa La thì Chuẩn
Đề được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Hộ Bồ Tát ( Ràksïa
Bodhisatva ) là một trong 4 vị Bồ Tát thân cận của Đức Phật Bất Không
Thành Tựu ( Amoghasiddhi Buddha ) [ tức là Đức Phật Thích Ca (
‘Sàkyamunïi Buddha ) ] ở phương Bắc. Tôn này được sinh từ Môn Giáp
Trụ Đại Từ của tất cả Như Lai vì thế Chuẩn Đề được dịch ý là Hộ
Trì Phật Pháp và là vị Bồ Tát thường đi lại trong Thế Gian để đập
nát các Hoặc Nghiệp của tất cả chúng sinh, khiến cho kẻ đoản mệnh được
thọ mệnh lâu dài, tăng tiến Phước Tuệ , đời đời xa lìa nẻo ác, mau chóng
phát Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) và viên mãn mọi ước nguyện. Ý nghĩa này
thường được đại chúng nhận biết nhiều qua các công năng của Thần Chú
Chuẩn Đề ghi trong các Kinh Quỹ.
Dựa trên hai truyền thống này mà các Dòng
Phái Mật Giáo đã có sự nhận định khác nhau về Bồ Tát Chuẩn Đề.
_ Chuẩn đề thuộc Quán Aâm Bộ ( hay Liên
Hoa Bộ )
Căn cứ và chủng tử BU ( )
nghĩa là “ Ngộ Giải chẳng thể đắc”: của Bồ Tát Chuẩn Đề trong
Biến Tri Viện và Quán Tự Tại Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva ) ở
cánh hoa Đông Bắc trong Trung Đài Bát Diệp Viện cũng có chủng tử là BU
, đồng thời cả 2 Tôn này đều biểu thị cho Tâm Tính thanh tịnh nên người
đời hợp xưng thành danh hiệu Chuẩn Đề Quán Aâm và hồng danh này biểu thị
cho Hạnh Nguyện của Tâm Bồ Đề với Đức Tự Chứng.
Dựa trên ý nghĩa này nên Hệ Đông Mật của
Nhật Bản đem Chuẩn Đề làm một Tôn trong 6 vị Quán Aâm và nhiếp vào trong
6 vị Quan Aâm của Liên Hoa Bộ. 6 vị Quán Aâm này chia vào 6 nẻo tác thân
ứng hóa để tế độ các chúng sinh.
Theo Ma Ha Chỉ Quán thì 6 vị Quán Aâm
với hình sắs, danh hiệu như sau đều hiển tướng Từ Bi cứu độ chúng sinh
trong 6 nẻo , gồm có :
1 ) Đại Từ Quán Aâm là Biến Thân của
Chính Quán Aâm có chủng tử là JAHÏ ( ) cứu Địa Ngục Đạo ,
Thân màu xanh, tay trái cầm hoa sen xanh, tay phải Thí Vô Úy .
Kết Đại Tam Cổ Ấn , dùng Bản Chú.
2 ) Đại Bi Quán Aâm là Biến Thân của
Thiên Thủ Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ ( ) Cứu Ngạ Quỷ Đạo.
Thân màu vàng ròng , 6 mặt có tướng Từ Bi. Tay trái cầm hoa sen hồng,
tay phải Thí Vô Úy.
Kết Liên Hoa Hợp Chưởng, tụng Chú là:
OMÏ _ VAJRA DHARMA _ HRÌHÏ
3 ) Sư Tử Vô Úy Quán Aâm là Biến Thân của
Mã Đầu Quán Aâm có chủng tử là KHÌ ( ) hoặc HÙMÏ
( ) cứu Súc Sinh Đạo. Thân màu xanh, tay phải cầm hoa sen
trên hoa có Phạn Khiếp , tay trái Thí Vô Úy.
Kết Phạn Khiếp Ấn, tụng Chú là:
OMÏ _ VAJRA KHÌ _ SVÀHÀ
4 ) Đại Quang Phổ Chiếu Quán Aâm là Biến
Thân của Thập Nhất Diện Quán Aâm có chủng tử là KA ( ) cứu A
Tu La Đạo. Thân màu thịt. Tay phải cầm hoa sen hồng trên hoa có bình
hoa, miệng bình dứng báu Độc Cổ. Tay trái Thí Vô Úy.
Kết Bất Động Ấn, tụng Chú là:
OMÏ _ MAHÀ PRABHA _ SVÀHÀ
5 ) Thiên Nhân Trượng Phu Quán Aâm là
Biến Thân của Chuẩn Đề Phật Mẫu có chủng tử là SU ( ) cứu
Nhân Đạo.
Hợp 2 ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo
nhau bên trong. Dựng 2 ngón giữa , đem 2 ngón trỏ phụ lưng ngón giữa,
đem 2 ngón cái phụ bên cạnh 2 ngón trỏ. Tụng Chú là:
OMÏ _ SURE SURE SUNÏE _ SVÀHÀ
6 ) Đại Phạm Tấn Tốc Quán Aâm là Biến
Thân của Như Ý Luân Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ ( ) cứu
Thiên Đạo. Thân màu trắng. Tay trái cầm hoa sen, trên hoa dựng chày Tam
Cổ. Tay phải Thí Vô Úy
Kết Đại Tam Cổ Ấn, ngón trỏ như hình báu.
Tụng Chú là:
OMÏ _ HRÌHÏ MAHÀ PRA _ SVÀHÀ
. ) Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi :” Trùy
Chung Ca Thái La Vương là thân sở biến của Chuẩn Đề Quán Aâm”
. ) Quỹ ghi :” Tu Pháp Chuẩn Đề đều thấy
tượng của Quán Tự Tại”
. ) Tiểu Dã Sao ghi:” Thiên Nhân Trượng
Phu là Chuẩn Đề Phật Mẫu cứu độ Nhân Gian”
. ) Khuyến Tu Tự Sao ghi:’ Chuẩn Đề là
Quán Aâm”
. ) Thạch Sơn ghi:” Chuẩn Đề Quán Tự Tại
Bồ Tát”
. ) Thiền Tông cũng dùng Chuẩn Đề là một
Tôn trong Quán Aâm Bộ
Lại nữa Chuẩn Đề dịch là Thanh Tịnh
tức Thanh Tĩnh Quán Aâm , Vì Bất Không Quyến Sách Quán Aâm cũng có
tên là Thanh Tịnh và cũng là một Hóa Tôn cứu độ tất cả chúng sinh
trong Nhân Đạo nên Chuẩn Đề chính là Bất Không Quyến Sách .
Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong
Quán Aâm Bộ nên các hệ phái này đều dùng Kết Giới Minh Vương là Mã Đầu
hoặc Quân Trà Lợi.
_Chuẩn Đề thuộc Phật Bộ
Theo Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La thì
Chuẫn Đề là một Tôn trong Biến Tri Viện biểu thị cho đức Năng Sinh
của chư Phật và từ Tôn này sinh ra các Tôn của Liên Hoa Bộ. Lại nữa
Chuẩn Đề còn biểu thị cho Tâm Tính Thanh Tĩnh là khuôn mẫu để
sinh ra các Phật Tử ( Buddhaputra ) nên Chuẩn Đề được tôn xưng là Phật
Mẫu ( Buddha Màtrï ). Do Biến Tri Viện là một Viện trong Phật Bộ thuộc
Thai Tạng Giới nên Chuẩn Đề phải là một Tôn trong Phật Bộ.
Cao Huệ nói:” Chuẩn Đề là Hộ Bồ Tát, một
trong 4 Bồ Tát thân cận của Đức Bất Không Thành Tựu Như Lai mà Bất không
Thành Tựu Như Lai lại là Đức Phật Thích Ca. Do đó Chuẩn Đề là một Hóa
Thân của Đức Phật Thích Ca”
Khẩu nói:” Bất Động là Hóa Thân của Thích
Ca Mâu Ni mà Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi: Hiện Thân thứ năm
trong 8 loại thân là thân sở biến của Chuẩn Đề. Do đó Chuẩn Đề là
hóa thân của Đức Phật Thích Ca”
Khẩu nói:” Tu Pháp Chuẩn Đề thì dùng Ô Sô
Sa Ma ( Ucchusïma ) làm Kết Giới Minh Vương mà Ô Sô Sa Ma là thân sở
biến của 2 Tôn Thích Ca và Bất Động. Do đó Chuẩn Đề là một hóa Thân của
Thích Ca”.
Quỹ ghi :” Dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng
Thắng làm Kết Giới Kim Cương” vì Ô Sô Sa Ma và Vô Năng Thắng
(Aparajita ) đều là thân sở hóa của Thích Ca nên Chuẩn Đề phải là Hóa
Thân của Thích Ca
Bạch Bảo Khẩu Sao ghi nhận:” Chuẩn Đề là
hoá thân của Thích Ca biểu thị cho Đức Thuyết Pháp “
Hệ Thai Mật của Nhật Bản đem Chuẩn Đề
nhập vào Phật Bộ, dùng làm một Tôn trong Phật Bộ.
Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong
Phật Bộ nên các Hệ Phái này thường dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng Thắng
làm Kết Giới Minh Vương.
II_ TRÚ XỨ:
Chuẩn Đề Phật Mẫu cư ngụ tại Trời Sắc Cứu
Cánh.
III _ TÔN TƯỢNG:
Tôn Tượng Chuẩn Đề có nhiều dạng: 4 tay,
6 tay, 14 tay, 18 tay… nhưng thông thường người ta hay thờ phụng Tượng
18 tay.
Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Trung Hoa
: Tượng có 4 cánh tay, trên
đỉnh đội Định Ấn là một vị Hóa Phật. Bên trái : Tay thứ nhất để trước
eo, tay thứ hai cầm Bảo Châu ( Viên ngọc báu ). Bên phải: Tay thứ nhất
cầm chày Độc Cổ, tay thứ hai nâng cao lên đem ngón cái và ngón vô danh
cùng vịn nhau, Nhũ phòng ( hai vú ) sung mãn lộ xuất biểu thị cho tướng
Phật Mẫu.
Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Tây Tạng:
Tượng có 4 tay, ngồi Kiết Già trên hoa sen. Hai tay trái phải thứ nhất
đặt ở trên rốn cầm Bình Bát. Tay phải thứ hai rũ xuống tác Thí Vô Uý Ấn,
tay trái thứ hai co ở trước ngực cầm hoa sen trên hoa an trí một rương
Kinh Phạn.
Tôn Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu 18 tay
được ghi nhận rất rõ trong Kinh
Quỹ.Nay dựa vào Bạch Bảo Khẩu Sao ghi nhận lại sự minh họa ý nghĩa của
Tôn Tượng này .
Tượng có thân màu vàng trắng:
Màu vàng ( A ) tượng trưng cho Thai Tạng Giới, màu trắng ( VAMÏ ) tượng
trương cho Kim Cương Giới. Màu vàng trắng biểu thị cho nghĩa “ Lý Trí
chẳng hai, Định Tuệ một Thể” và biểu thị cho Đức Năng Sinh của
chư Phật.
Mặt Tượng có 3 mắt:
3 mắt là Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa “ 3 Đế
chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng”
Thân Tượng có mọi loại trang nghiêm tỏa
ánh hào quang tròn sáng rực lửa:
Sắc Pháp biểu thị cho nghĩa của Thai Tạng Giới. Mọi loại
biều thị cho các Pháp như cát bụi. Trang Nghiêm biểu thị cho
nghĩa Bồ Tát dùng phiền não làm Bồ Đề.Ánh hào quang tròn sáng rực lửa
biểu thị cho nghĩa Tâm Pháp của Kim Cương Giới, là Trí hay phá mọi
ám chướng của Tâm hư vọng.
Thân Tượng có 18 tay:
Hai tay bên trên tác Tướng Thuyết Pháp:
Tôn này vào Nhân Đạo hay làm
vị Hóa Chủ phá 3 Chướng nên đặt biệt hiện ra 3 mắt Trí nói Pháp lợi sinh
nên y theo giáo vì Pháp Cơ khiến cho chứng quả vị của 3 Thân
Bên Phải:
Tay thứ hai tác Thí Vô Úy:
5 ngón tay bên phải biểu thị cho 5 Trí là nghĩa của Quang Minh. Tôn này
là Hóa Chủ của Nhân Đạo nên ở Thế Giới Sa Bà có hiệu là Thí Vô Úy (
Abhayamïdada ) . Do hiển nghĩa Đại Bi chân thật sạu rộng nên hiện tay
này.
Tay thứ ba cầm cây Kiếm:
Cây Kiếm biểu thị cho Trí Tuệ giáng 4 Ma , trừ 3 Chướng, hại 3 Độc , dứt
5 Dục.
Tay thứ tư cầm Sổ Châu ( Tràng Hạt )
: Tràng Hạt biểu thị cho Trí
Tuệ mang nghĩa Chuyển Pháp Luân. Mẫu Châu là Bản Tôn A Di Đà. Manh mối
của tràng hạt là Quán Aâm, đây là manh mối Đại Bi của Quán Aâm xâu suốt
108 phiền nảo. Mỗi lần chuyển dời một hạt ắt dứt bỏ một phiền não, nên
đoạn 108 phiền não chứng 108 Tam Muội, mỗi mỗi đều đủ cho Pháp, như Đức
Thần Lực chẳng thể nghĩ bàn,mỗi mỗi đều đủ vô lượng Bản Thệ Tam Muội của
thân khẩu ý.
Tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca (
Bìjapùraka): Bìja
là hạt, Pùraka là tràn đầy nên
Bìjapùraka được dịch là Tử Mãn Quả, quả này chí có ở Thiên
Trúc.Quả này biểu thị cho hạt giống mãn vạn hạnh vạn thiện, hiển nghĩa
công đức viên mãn của Phật Quả.
Tay thứ sáu cầm cây búa (Phủ Việt ):
Cây búa phá tất cả, không có gì không tồi phá được là tồi phá nạn Vô
Minh, cắt đứt Hoặc Chướng biểu thị không dư sót.
Tay thứ bảy cầm móc câu:
Móc câu ( Anõku’sa ) có nghĩa là vua, 4 biển đều triều tôn nhà vua nên
vạn đức đều quy vào Tôn này, nghĩa là vua của các Tôn nên gọi là Phật
Mẫu. Sở Thuyên Câu Triệu tất cả chúng sinh khác vào cung Pháp Giới Nội
Chứng vốn có là có triệu vào Như Lai Tịch Tĩnh Trí Đức. Do vậy hiện tay
cầm móc câu.
Tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra )
: Đường gọi Độc Cổ Xử là chày
Kim Cương, Tam Cổ Xử là Bạt Chiết La ( Vajra ). Tam Cổ Xử hay tồi diệt
3 Độc hiển chư Tôn của 3 Bộ nên là Phật Mẫu của 3 Bộ.
Tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man)
: Hoa Man xâu suốt hoa lá biểu
thị cho nghĩa Vạn Đức Trang Nghiêm, là công đức của Bình Đẳng Tính Trí.
Bên trái:
Tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý:
Phướng báu Như Ý là phướng báu của Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) có địa vị
cao tột. Đối với chúng sinh không có Phước Tuệ , bần cùng thì ban cho
Nguyện Thế Xuất Thế. Viên ngọc báu ( Bảo châu ) là gốc rễ của mọi thiện,
đáy nguồn của vạn hạnh.
Tay thứ ba cầm hoa sen hồng:
Hoa sen hồng tên Phạn là Padma.
Hoa sen là tự tính thanh tĩnh biểu thị
cho nghĩa Tự Tính Thanh tĩnh của tất cả các Pháp. Là Pháp tĩnh 3 Độc , 5
Dục, tất cả tội của Nhân Gian.
Màu hồng biểu thị cho màu sắc khả ái (
đáng yêu )
Tôn này vào Nhân Đạo làm vị Hóa Chủ nên
đặc biệt dùng hoa sen hồng biểu thị cho Đức này
Tay thứ tư cầm bình Táo Quán:
Cái Bình mang nghĩa chứa đầy tất cả vật. Phật Mẫu Tôn sinh ra các Tôn
trong 3 Bộ là Đức chứa đầy. Do vậy hiện thị tay cầm bình Táo Quán.
Tay thứ năm cầm sợi dây:
Sợi dây biểu thị cho nghĩa giáng phục Ác Ma. Các Tôn Phẫn Nộ ( Krodha
Nàtha ) hay cầm sợi dây. Tôn này trói buộc kẻ khó phục khiến cho khuynh
động dẫn vào cung Pháp Giới vốn có. Trong 4 Nhiếp Phương Tiện thì đây là
phương tiện Đại Bi cực vị vậy.
Tay thứ sáu cầm bánh xe:
Bánh Xe ( Luân_ Cakra ) nghĩa là chuyển hoặc tồi phá, biểu thị cho sự
lưu chuyển sinh tử trong 25 Hữu. Khi luân chuyển đã diệt thì bánh xe
dừng lại vậy.
Tay thứ bảy cầm loa
: Loa là vỏ ốc ( ‘Sanõkha ) mang nghĩa
nói tịch tĩnh như Pháp. Lại biểu thị cho tiếng rống của sư tử, khi sư tử
rống thì muôn thú trong sơn dã đều bị giáng phục. Nay dùng tiếng vang
lớn của loa khiến giáng phục loại phiền não hoặc chướng của chúng
sinh.
Tay thứ tám cầm Hiền Bình:
Hiền Bình là Tam Muội Gia ( Samaya ) biểu thị sự chứa đầy 4 Trí Cam Lộ
ban cho chúng sinh đều khiến mở Hoa Giác vốn có.
Tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã :
Rương Kinh Bát Nhã biểu thị
cho Thể của Trí Tuệ. 10 phương 3 đời Phật Bồ Tát đều y theo Bát Nhã này
thành Chính Giác. Do Tôn này là Phật Mẫu của chư Phật nên cầm rương Kinh
Bát Nhã.
Để giúp cho Đồ Chúng dễ ghi nhớ Tôn Tượng
18 tay của Chuẩn Đề Phật Mẫu, các vị Đạo Sư Trung Hoa đã biên soạn bài
tán Chuẩn Đề Phật Mẫu là:
Khuôn mặt Bồ Tát như trăng đầy
Sắc tướng trắng vàng rất đoan nghiêm
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện thấy Tôn nhan thường cúng dường
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Trên mặt Bồ Tát có ba mắt
Như bốn biển lớn thật lặng trong
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được năm loại mắt thanh tịnh
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tai Bồ Tát đeo báu trang sức
Mọi thứ thù thắng rất trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Nhĩ Thông , nghe Diệu Pháp
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Lồng ngực Bồ Tát hiện chữ Vạn
Như trăng tròn diệu hiển quang minh
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện được Tâm Thông, nghe liễu ngộ
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát đội mão hoa trên đỉnh
Trong mão hóa hiện năm Như Lai
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Từ Tôn ban quán đỉnh
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát khoác áo màu trắng tinh
Sáu Thù đeo thể thật trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được quần áo khéo giải thoát
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Thân Bồ Tát đeo Châu Anh Lạc
Tay, ngón đeo vòng báu trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện đủ băm hai ( 32 ) tướng Như Lai
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát ngồi thẳng trên hoa sen
Lớn cao chẳng động tựa núi vàng
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện sau sẽ ngồi tòa Bồ Đề
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Mọi chi phần trên thân Bồ Tát
Thường phóng vô lượng ánh sáng lớn
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Từ Quang đến hộ niệm
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát kết Ấn Thuyết Pháp
Biểu thị khéo nói tất cả Pháp
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện được các Pháp đều thông đạt
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm Phướng báu diệu
Biểu thị Thế Gian là Tối Thắng
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện con hay dựng Phướng Đại Pháp
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát kết Ấn Thí Vô Úy
Dìu dắt chúng sinh bị hiểm nạn
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con mau lìa sự đáng sợ
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm hoa sen diệu
Biểu thị sáu căn thường thanh tịnh
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con lìa dơ ( ly cấu ) như hoa sen
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm kiếm Trí Tuệ
Hay chặt trói buộc của phiền não
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con chặt đứt Tham, Sân, Si
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay bồ Tát cầm bình Táo Quán ( rưới vảy )
Tuôn nước Cam Lộ thấm chúng sinh
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thường được Phật quán đỉnh
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm tràng hoa màu nhiệm
Mọi thứ trang điểm thật thù thắng
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện con được buộc lụa Diệu Pháp
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm sợi dây Kim Cương
Khéo hay dẫn nhập vào tất cả
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con được vào Pháp tương ứng
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm quả Thiên Diệu
Biểu thị viên thành quả Bồ Đề
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con rộng tu các quả lành
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm bánh xe tám căm
Uy quang chiếu diệu khắm Tam Giới ( 3 cõi
)
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thường chuyển Đại Pháp Luân
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm cây búa lớn
Hay phá Pháp Bất Thiện bền chắc
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con đập nát núi Nhân Ngã ( Người
và Ta )
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm Loa Đại Pháp
Âm thanh chấn động ba ngàn cõi
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con hay nói tất cả Pháp
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm móc câu Kim Cương
Khéo hay câu triệu khắp tất cả
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thành tựu Pháp Câu Triệu
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm Bình Như Ý
Tuôn ra Tạng báu với Kinh Điển
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thọ dụng thường như ý
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm chày Kim Cương
Tám Bộ Trời Rồng đều quy ngưỡng
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con điều phục kẻ khó phục
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm Kinh Bát Nhã
Hàm chứa nghĩa vi diệu thâm sâu
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con không Thầy tự nhiên ngộ
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm viên ngọc Ma Ni
Hào quang tròn trắng không tỳ vết
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện Tâm Địa con luôn lanh lợi
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát
Hiện mười tám tay ngồi trên Đàn
Tám Đại Bồ Tát hộ tám phương
Đệ Tử một lòng quy mệnh lễ
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
IV- CHÂN NGÔN:
Theo truyền thống Hoa Văn thì Chuẩn Đề có
Mật hiệu là Tối Thắng Kim Cương ( Vijaya Vajra ) hay Kim Cương
Mẫu ( Vajra Màtrï )
Chủng tử
là : BU ( ) hay SA
( ) hay CA ( )
Tam Muội Gia hình
là : Hiền Bình, Hoa sen, Giáp trụ, chày
Tam Cổ, chày Ngũ Cổ.
Phạn Hiệu
là ÀRYA BUDDHÀ BHAGAVATI ( Thánh Phật
Thế Tôn ) hay ÀRYA BUDDHÀ BHAGAVATI BODHISATVA ( Thánh Phật Thế Tôn
Bồ Tát )
Tam Mật Phòng ghi là: NAMO ÀRYA
‘SUDDHA BODHISATVA MAHÀ SATVA ( Kính lễ Thánh Thanh Tịnh Bồ Tát Ma Ha
Tát )
Tâm Chú của Chuẩn Đề được ghi nhận qua
nhiều bản khác nhau:
_ Hiển Mật Viên Thông ghi là:
OMÏ _ CALE CULE CUMÏDE _ SVÀHÀ
_ Thắng Định Phòng ghi là:
OMÏ _ ‘SALE ‘SULE ‘SUDDHE _ SVÀHÀ
_ Thất Câu Chi Viện ghi là:
OMÏ_ ‘SALE ‘SUDDHE _ SVÀHÀ
_ Pháp Tự Luân Quán ghi là;
OMÏ _ CARE SURE ‘SUDE _ SVÀHÀ
_ Bạch Bảo Khẩu Sao ghi là:
OMÏ_ ‘SALE ‘SULE ‘SUNTE _ SVÀHÀ
_ Tự Luân Quán ghi là:
OMÏ _ CALE SULE ‘SUDDHA _ SVÀHÀ
_ Đồ Tượng 10 ghi nhận là:
OMÏ _ ‘SALE ‘SULE CUMÏDE _ SVÀHÀ
Hay OMÏ_ CALE SURE ‘SUNDHE _ SVÀHÀ
_ Bản thường dùng ghi là;
OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ
_ Bản khác ghi là:
OMÏ_ ‘SARI ‘SÙRI ‘SUDDHE _ SVÀHÀ
Nay theo sự khảo cứu của chúng tôi thì
chỉ có 3 bài Chú biểu thị rõ nghĩa của Phạn Văn là:
1 ) OMÏ : Cảnh Giác
‘SARI : Thú tính hoang dã, người hung
bạo, loài thú hoang
‘SÙRI : Biến đổi trở thành anh hùng
‘SUDDHE : Thanh tịnh
SVÀHÀ : Quyết định thành tựu.
2 ) OMÏ : Nhiếp triệu
‘SALE : Cây thương , cây giáo
‘SÙLE: Tay cầm cây thương, quyền lực với
cây thương
‘SUDDHE : Thanh tịnh
SVÀHÀ : Quyết định thành tựu
3 ) OMÏ : 3 Thân quy mệnh
CALE : lay động. Nghĩa bóng là Giác động
tức là chuyển động sự Giác Ngộ.
CULE : Nghi thức cạo tóc Quy Y, đỉnh cao
của căn nhà, trung tâm của sao chổi. Nghĩa bóng là Trực khởi tức là đi
thẳng đến
CUNÕDHE ( hay CUNÏDÏHI ) là nguồn suối
nhỏ, cái giếng nhỏ, nguồn hạnh phúc.Nghĩa bóng là Tự Tính thanh tĩnh của
Tâm Bồ Đề.
SVÀHÀ : Quyết định thành tựu, hay thành
tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
Nếu dựa theo nghĩa đen thì bài Chú trên
hàm chứa nhiều ý nghĩa thô tục nên một số Học Giả đã loại bỏ câu Chú này
và thay bằng câu Chú thứ hai bên trên (Nhật Bản thường dùng câu Chú thứ
hai ) . Tuy nhiên dựa theo thói quen tu tập và nghĩa bóng thì người ta
thường dùng câu Chú thứ ba này với ý nghĩa là:
“ Khi thân khẩu ý hợp nhất với sự giác
ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào Tự Tính Thanh Tĩnh của Tâm Bồ Đề và thọ
nhận mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết Bàn”
CÔNG NĂNG CỦA THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ:
Công Năng của Thần Chú Chuẩn Đề được ghi
nhận rất nhiều trong các Kinh Quỹ. Nay chúng tôi chỉ ghi nhận thêm một
số công năng mà Kinh Quỹ ghi thiếu như sau:
_ Trừ Khẩu Thiệt: Đoạn 5 Tân, đủ
Trai Giới, trong 14 ngày vào Đạo Trường này liền tăng lộc ép buộc oan
gia tai hoạnh vì khẩu thiệt. Mỗi đêm 3 thời hướng về Bản Tôn tụng Chân
Ngôn 108 biến, cứ một biến thì xưng tên gọi của kẻ ấy một lần liền giải
oán kết, thân như cha mẹ.
Trừ Khẩu Thiệt Lợi Quan Trị Tất Trúng Chú
là:
“ Phu phu, túc bà túc bà, a kính bà a
kính bà, cứu tra cứu tra, sa ha”
BHUHÏ BHUHÏ_ ‘SUBHA ‘SUBHA _ AKAMÏPA
AKAMÏPA _ KUTÏA KUTÏA _ SVÀHÀ
_ Cầu Thông Minh: Nếu muốn cầu
thông minh. Lấy Thạch Xương Bồ, Ngưu Hoàng mỗi thứ nửa lạng, đảo quết
làm bụi nhỏ rồi hòa với bơ. Ở trước Phật làm Man Trà La, niệm tụng 5000
biến rồi uống vào liền được thông minh.
Thông Minh Chú là:
“ Mỵ đế mỵ đế, ưu đế ưu đế, ưu đà đế , sa
ha”
MITI MITI_ UTTI UTTI _ UDÀTTI _ SVÀHÀ
_ Thấy cha mẹ đã chết và diên mệnh:
Nếu muốn thấy cha mẹ đã quá vãng với nam nữ đã quá vãng kèm biết nơi
thọ sinh. Trong 14 ngày y theo Pháp niệm tụng đều được thấy biết.
Lại Quỹ ghi rằng: Cha mẹ gặp Pháp này,
được vào Quán Đỉnh hay khiến cho con cháu đều cùng được phước. Nếu nam
nữ được vào Quán Đỉnh hay khiến cho cha mẹ sống lâu tăng phước, vĩnh
viễn không có tai nạn, mong cầu vừ ý.
_ Cầu mưa: Nếu có đại hạn. Vào
giữa đêm đốt An Tất Hương , kết Ấn rồi Sắc cho Rồng ở 5 phương mau khiến
tuôn mưa. Nếu 21 ngày mà chưa tuôn mưa, liền lấy Trầm Thủy Hương khắc 5
vị Rồng dài 9 thốn, tùy phương vẽ 5 màu đều an trên Đàn. 7 ngày y theo
Pháp niệm tụng liền được tuôn mưa. Nếu muốn tạnh mưa liền ngửa mặt hướng
lên Trời tụng Đà La Ni 81 biến tức tạnh mưa.
_ Hiện Thanh Y Đồng Tử phụng sự:
Mỗi ngày đêm 6 thời tụng Đà La Ni này 1080 biến. Trải qua 49 ngày như
Niệm Tụng này tức Thanh Y Đồng Tử sẽ hiện thân phụng sự người niệm tụng.
Hai Đồng Tử ấy đều tự có Sứ Giả ( 7 người ) . Đồng Tử bên trái biết việc
sinh sống, thiện ác, cát hung của Nhân Gian. Vị Đồng Tử bên phải biết
việc thiện ác trong Minh Đạo ( Cõi Aâm ) . Muốn biết việc Quan Lộc, tuổi
thọ, cát hung của người liền Sắc cho Đồng Tử bên phải khiến nơi Minh Đạo
sao chép Tính ( Họ Tên ) sắc cho Tư Mệnh với Diêm La mau chóng báo .
Mỗi lần Sắc thời kết Ấn tụng Đà La Ni 7 biến liền ở trong cõi Aâm biết
đủ thiện ác. Vị Đồng Tử bên phải ấy tự hiện thân có thể hỏi gốc rễ.
Thầy nói: Nếu có thể 49 ngày như 6 thời
này niệm niệm xong. Sau đó tụng thêm 108 biến, cũng chẳng khác biến số.
Hai vị Đồng Tử ấy hỏi lấy Danh Tự, cần sai khiến liền sai khiến.
V_ ẤN KHẾ :
Ấn Khế của Chuẩn Đề có rất nhiều. Nay chi
ghi nhận 2 Ấn với ý nghĩa cơ bản của Ấn Khế.
Đệ Nhất Căn Bản Ấn:
Hai Luân Địa , hai Luân Thủy cài nhau đặt
trong lòng bàn tay. Hai Luân Hỏa dựng đứng thẳng cùng vịn nhau. Hơi co
hai Luân Phong vịn trên lóng thứ nhất trên lưng hai Luân Hỏa. Hai luân
Không đặt bên cạnh hai Luân Phong
Ấn này gọi là Tam Cổ Ấn, Tam Năng Sinh
Phật Mẫu Ấn tức là Phật Đỉnh Ấn biểu thị cho nghĩa của Phật Mẫu.Trong
đó:
Hai Luân Địa ( 2 ngón út ) cài bên trong
biểu thị cho Thành Sở Tác Trí, làm nghiệp Đức bên trong là Phật
Đỉnh Ấn nên tác nghiệp chẳng lộ ra ngoài.
Hai Luân Thủy ( 2 ngón vô danh) cài bên
trong biểu thị cho Diệu Quan Sát Trí là Đức Thuyết Pháp Đoạn Nghi
nên thường ở bên trong
Hai Luân Hỏa ( 2 ngón giữa ) là Pháp Thể
của Pháp Nhĩ căn bản
Hai Luân Phong ( 2 ngón trỏ ) là Giới Tuệ
của Tu Sinh Thủy Giác, thường hay khai mở nghĩa Tâm Bồ Đề của chúng sinh
Hai Luân Không ( 2 ngón cái ) là nghĩa
Nhất Đức Thành Tựu của Pháp Giới Thể Tính Trí
Kết Ấn này , tụng Chân Ngôn:
NAMO SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA
KOTÏINÀMÏ
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ
Đệ Nhị Căn Bản Ấn:
Hai tay hướng ra ngoài cài chéo nhau, kèm
dựng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái liền thành
Ấn này thường dùng để Hộ Thân. Khi kết Ấn
Hộ Thân thì khởi Tâm Đại Bi duyên khắp 4 loài sinh trong 6 nẻo. Nguyện
cho tất cả Hữu Tình đều mặc áo giáp Kim Cương bền chắc trang nghiêm Đại
Thệ mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
Kết Ấn này, tụng Chân Ngôn là:
OMÏ _ KAMALE VIMALE CUNÕDHE _ SVÀHÀ
Ý nghĩa của tay Ấn này là:
6 ngón ( 2 ngón út, 2 ngón vô danh, 2
ngón giữa ) cùng cột buộc nhau biểu thị cho sự ràng buộc sinh tử trong 6
nẻo
2 ngón trỏ chỉ cho Thể ngưng nghỉ của
Mệnh mà chúng sinh cột buộc trong Tả Đạo đã trở thành mệnh ngắn ngủi vô
thường. Do Phật Giới thuận Hữu Đạo nên Tuệ Mệnh thường trụ bất biến. Như
vậy 2 ngón trỏ hợp nhau biểu thị cho sự hòa dung của Phật Giới và Sinh
Giới khiến cho chúng sinh đoản mệnh được hòa hợp với Tuệ Mệnh thường trụ
của Phật Giới.
2 ngón cái hợp dựng biểu thị cho sự Quy
Pháp Giới Đại Không.
Riêng Ấn này tập Giáp Trụ Ấn. Do Tôn này
là sở biến của Bắc Phương Hộ Bồ Tát , mặc giáp trụ Kim Cương bền chắc hộ
Phật, hộ mệnh cho chúng sinh. Bên trong tồi phá phiền não của nẻo ác,
bên ngoài giáng phục 3 chướng nạn của Ma. Duyên khắp 4 loài trong 6 nẻo
thành tựu diên mệnh cho Hữu Tình. Nếu cầu Diên Mệnh Tất Địa thời quán
nghĩa lý này.
VI_Ý NGHĨA PHÁP VẼ TƯỢNG CHUẨN ĐỀ PHẬT
MẪU:
Thất Câu Đê Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề
Đà La Ni Kinh ( Do Tam Tạng BẤT KHÔNG dịch ) có ghi:
“ Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với thân màu
trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn có dính
hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới đều tác
màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc, đội Mão
Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo vòng
báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay.
Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp
Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay
thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm
cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay
thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt.
Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu
Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay
thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư
(‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương
Kinh Bát Nhã.
Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có
Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàga ràja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà (
Upananda Nàga ràja ) nâng tòa hoa sen.
Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò
hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì
Minh, hướng mắt nhìn xuống.
Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị
tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử, tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương
theo trên hư không đến cúng dướng Thánh Giả”.
Ý nghĩa của Tranh Tượng này là:
_ Thân màu trắng vàng: Biểu thị
cho nghĩa Lý Trí chẳng hai, Định Tuệ một Thể hàm chứa Đức Năng Sinh của
chư Phật.
_ Ngồi Kiết Già: Biểu thị cho tính
Nhất Như của sinh tử và Niết Bàn
_ Hoa sen
: Biểu thị cho Tâm Đại Bi
_ Thân tỏa hào quang: Biểu thị cho
Trí phá ám chướng của Tâm hư vọng.
_ Phía trên bên dưới toàn là màu trắng:
Biểu thị cho sự hiển bày Pháp Đại Bi trắng tịnh để hóa độ chúng sinh
_ Mọi thứ trang sức trên thân:
Biểu thị cho hiện tượng Bồ Tát đi vào dòng sinh tử dùng phiền não để
hiển thị Bồ Đề.
_ Mặt có 3 mắt : Hiện Phật Nhãn,
Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa Ba Đế chẳng dọc chẳng ngang,
nhất như bình đẳng.
_ Thân có 18 tay:
Hai tay thứ nhất
: tác tướng thuyết Pháp biểu thị cho
sự hiển bày Phật Pháp hóa độ chúng sinh . Còn lại tám tay bên trái biểu
thị cho Mê Giới và tám tay bên phải biểu thị cho Phật Giới .
Hai tay thứ hai
: Tay trái cầm Phướng báu tượng trưng
cho Tâm Bồ Đề vốn có nơi mọi chúng sinh mà chẳng tự biết . Nay dùng tay
Thí Vô Úy bên phải gia trì khiến cho hiển đắc Tâm Bồ Đề đó .
Hai tay thứ ba
: Tay trái cầm hoa sen tượng trưng cho
Bản Thể vô cấu nhiễm vốn có của mọi chúng sinh, nhưng do dựa vào phiền
não ngăn trệ mà dư Tập khí chưa hết nên chẳng hiển lộ được vạn đức . Nay
dùng cây kiếm sắc bén bên phải tượng trưng cho Đẳng Giác của Phật giới,
một lần chuyển kiếm chém đứt dư Tập khí ấy khiến cho hoa sen thanh tịnh
nở bày những cánh hoa vạn đức vạn thiện .
Hai tay thứ tư
: Tay trái cầm bình Quân trì chứa nước
Táo quán ( Nước rưới vảy ) tượng trưng cho Trí Tuệ vốn có của
chúng sinh . Nhưng do không có Phước, không có trí như đất khô cằn chẳng
có nước thấm ướt nên mầm giống Bồ Đề chẳng thể sinh trưởng được, đây tức
là dựa vào phiền não mà chẳng thể phát sinh Trí Tuệ . Nay dùng tay phải
cầm Tràng hạt gia trì khiến cắt đứt 108 phiền não để cho hiển đắc được
nước Trí Tuệ của Như Lai rưới thấm ướt đất tâm khô cằn . Nước ấy là Đức
của Trí Thủy chứa trong bình Quân Trì vậy .
Hai tay thứ năm
: Tay trái cầm sợi dây tượng trưng cho
sự ràng buộc cột trói chúng sinh trong nhà sinh tử, sự ràng buộc này
thiên về Thức thứ tám (Alàya vijnõàna). Tay phải cầm Cụ Duyên Quả (
Bìja pùraka_ Tử Mãn Quả ) tượng trưng cho thức thứ tám là thức của tâm .
Nhiều hạt giống của Pháp ở ngoài Tâm được thu nạp vào mà chẳng bị hư
hoại hao tổn, lại tùy ý khiến sinh ra sự xoay chuyển làm cho Thức thứ
tám lưu chuyển, chứng đắc được cảnh giới Đại Viên . Khi ấy tất cả năm ấm
thuộc chủng tử trong Thức thứ tám đều bị thiêu hủy hết nên A lại gia
hiển bày Tâm Tĩnh Bồ Đề vô cấu nhiễm giống như đẳng hư không . Như vậy,
dùng Cụ Duyên Quả gia trì chuyển Thức thành Trí thì dây nghiệp bị
thiêu cháy hết mà ngưng nghỉ sự luân chuyển của sinh tử bản hữu .
Hai tay thứ sáu
: tay trái cầm Bánh xe tượng trưng cho
sự luân chuyển trong ba cõi sáu đường của các chúng sinh . Tay phải cầm
cây búa là lợi khí đập nát . Nay dùng búa lớn đập nát bánh xe luân
chuyển khiến nó trở thành Đức Luân Viên Cụ Túc của Như Lai .
Hai tay thứ bảy
: Tay trái cầm Thương Khư ( ‘Sanõkha
) là vỏ ốc trong biển tượng trưng cho chúng sinh đang trầm luân trong
biển khổ sinh tử . Nay tay phải cầm Đại Bi Câu ( Móc câu Đại Bi
) tiếp dẫn khiến cho đến được bờ bên kia là Niết Bàn an lạc .
Hai tay thứ tám
: tay trái cầm Hiền Bình tượng trưng
cho sự hòa hợp của Sắc ( Rùpa ) Tâm ( Citta ) là nẻo sinh tử, nước
trong bình tượng trưng cho sự nắm giữ tội của ba nghiệp mà lưu chuyển
không cùng . Nay tay phải dùng Bạt Chiết La Tam Cổ Xử ( Chày Tam Cổ
Kim Cương ) phá nát ba nghiệp ấy mà chặn đứng dòng sinh tử .
Hai tay thứ chín
: Tay trái cầm Bát Nhã Phạm Khiếp là Trí Thức sở nạp trong Tâm, do
chẳng tự biết nên phải bị trầm luân trong biển khổ . Nay tay phải dùng
Bảo Man ( Vòng hoa báu ) gia trì khiến khai phát Bản Trí ấy . Bảo
Man là Tâm Tính Nghiêm vậy
Do các nghĩa này mà Chuẩn Đề ( Cunõdhe ) còn được dịch ý là MINH hoặc
Diệu Giác . Đây là thành quả của Tuệ Ba La Mật và là điều
kiện căn bản để phát sinh Chư Phật vậy .
_ Trong ao nước có 2 vị Long Vương Nan
Đà, Ô Ba Nan Đà cùng nâng đỡ tòa sen:
Tòa sen tượng trưng cho núi Tu Di (
Sumeru ) 2 anh em Long Vương Nanda và Upananda là 2 Long Vương quấn
quanh chân núi ấy.
Khi Đức Thích Ca đản sinh thời Long Vương
dùng nước nóng tắm gội nên 2 vị Rồng này biểu thị cho Đẳng Giác Vị hay
Vô Cấu Vị . Dùng nước Vô Cấu tắm gội khiến thành Diệu Giác, mãn Quả Diệu
Giác này thì Thích Ca và Chuẩn Đề đồng Thể. Sau khi mãn Quả dùng Đẳng
Giác Vô Cấu nên hai vị Rồng làm Tòa biểu thị cho nghĩa này.
Hai vị Rồng nâng đỡ cọng sen:
Bồ Tát Đạo theo thứ tự tu hành Địa Ba La Mật từ Địa thứ nhất cho đến
Địa thứ mười một. Nên biết Địa sau dùng Địa trước làm thềm bậc nên nói
Như Lai dùng Thân Bồ Tát làm Tòa Sư Tử. Nay 2 rồng nâng đỡ cọng
sen được biểu thị cho nghĩa này
Hoa sen sinh từ nước:
Nước biểu thị cho nước Định ( Định Thủy ) mang ý nghĩa Dưỡng Nuôi
Thủ Hộ . Do đó hoa sen sinh từ nước được hiểu là Dùng nước Định
nuôi dưỡng tự tính thanh tịnh bất nhị .
_Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên:
Chúng Tĩnh Cư gồm có 5 vị Thiên Tử
là: Tự Tại Thiên Tử, Phổ Hoa Thiên Tử, Quang Man Thiên Tử, Ý Sinh Thiên
Tử, Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử. Các vị Thiên này đều biểu thị cho nghĩa
Trong Sạch ( ‘Suddha ) đều là Pháp căn bản để sinh ra Thánh Giả.
Nay đề cử 2 vị Thiên này đều là Thánh Giả thân cận Đức Phật, lắng nghe
nói Pháp để hóa độ phương khác. Vì Chuẩn Đề Phật Mẫu hay vào Nhân Đạo
nói Pháp lợi sinh, xoay chuyển Pháp Luân tồi phá tội ác của chúng sinh.
Nên trong tranh tượng vẽ 2 vị Thiên này.
_ Bên trái vẽ người Trì
Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương
xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống:
Người Trì Minh cầm lò
hương chiêm ngưỡng Thánh Giả: Biểu thị cho sự đem nhiệt tâm chân thành
quán sát rõ ràng Pháp Yếu của Bản Tôn nhằm chuyên chú thực hành
Chuẩn Đề Phật Mẫu thương
xót người Trì Minh , hướng mắt nhìn xuống:
Biểu thị cho lực gia trì của Bản Tôn luôn
luôn hiện hữu. Nếu Hành Giả biết cách thọ nhận sẽ thành tựu Tất Địa mong
cầu.
Ngoài ra trong Kinh còn ghi rằng bên dưới
trang tượng nên viết Bài Kệ Pháp Thân Duyên Khởi nhằm giúp cho
Hành Nhân chuyên chú quán niệm sẽ mau chóng thực chứng được Pháp Duyên
Khởi mà chứng Đạo Bồ Đề.
Pháp Thân Duyên Khởi Kệ
là:
“ Chư Pháp tùng Duyên Khởi
Như Lai thuyết thị Nhân
Bỉ Pháp Nhân Duyên tận
Thị Đại Sa Môn thuyết”
Dịch là:
“ Các Pháp theo Duyên khởi
Như Lai nói là Nhân
Pháp ấy Nhân Duyên hết
Là Đại Sa Môn nói”
Các Bậc Đạo Sư Tây Tạng thì thay bài Kệ
trên bằng Thần Chú Duyên Khởi là:
OMÏ_YE DHARMA HETU PRABHÀVA HETUN
TESÏÀMÏ TATHÀGATO HYA
VADATA
TESÏÀMÏ CHAYO NIRODHA.
EVAMÏ VÀDI MAHÀ ‘SRAMANÏAHÏ
YE _ SVÀHÀ
Mùa Xuân năm
Giáp Thân ( 2004 )
HUYỀN THANH (Nguyễn Vũ
Tài) kính ghi
Mật Tạng Bộ 3_ No.1075 ( Tr.173_ Tr.178 )
PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ
ĐẠI MINH ĐÀ LA NI KINH
Hán dịch : Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng
KIM CƯƠNG TRÍ
Việt dịch : HUYỀN THANH
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già
Phạm ( Bhagavan_Thế Tôn ) ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc trong đại thành
Danh Xưng.Bấy giờ Đức Thế Tôn suy tư quán sát thương lo cho các chúng
sinh đời vị lai nên nói Quá Khứ Thất Câu Đê Chuẩn Đề Như Lai Đẳng
Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni cho đến nay Ta cũng nói. Liền nói Đại
Minh là:
“ Ná ma táp đa nam, tam miệu tam bột đà,
câu đê nam. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề, sa phộc ha”
NAMO SAPTANÀMÏ SAMYAKSÏAMÏBUDDHA
KOTÏINÀMÏ.
TADYATHÀ : OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _
SVÀHÀ
Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô
Ba Tư Ca thọ trì đọc tụng Đà La Ni này mãn 90 vạn biến thì 5 tội Vô Gián
với tất cả tội nặng trong vô lượng kiếp sau đều diệt hết không sót. Ở
nơi sinh ra đều gặp thẳng chư Phật, Bồ Tát, hết thảy tư cụ tùy ý sung
túc, vô lượng trăm ngàn đời thường được xuất gia, thường là nơi chư
Thiên yêu kính cũng thường thủ hộ. Nếu sinh vào chốn nhân gian sẽ làm
con của nhà Đế Vương, hoặc sinh vào nhà quý tộc. Nhà đó không có tai
hoạnh, bệnh khổ gây não hại, chẳng bị đọa vào 3 nẻo ác, mọi việc tạo tác
trong chư Hữu (các cõi ) không có gì không có đồng bạn, nói ra lời dạy
thì người đều tin nhận.
Tụng Đà La Ni này 10 vạn biến thì được
thấy Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật, nếu có tội nặng chẳng được
nhìn thấy. Liền tụng đủ 10 vạn biến tức trong Cảnh Giới nôn mửa cơm màu
đen. Hoặc thấy lên cung điện. Hoặc lên núi cao với trên cây. Hoặc thấy
biển lớn xoáy nước. Hoặc bay trên hư không tự tại. Hoặc thấy Thiên Nữ
ban cho Diệu Ngôn Biện. Hoặc thấy ở trong Đại Tập Hội nghe nói Diệu
Pháp. Hoặc thấy nhổ tóc, tự mình cạo đầu. Hoặc ăn Lạc Phạn ( Cơm có trộn
lạc ), uống Cam Lộ màu trắng. Hoặc vượt qua biển lớn. Hoặc nổi trên sông
nhỏ sông lớn.Hoặc lên Tòa Sư Tử. Hoặc thấy cây Bồ Đề. Hoặc ngồi trên
thuyền. Hoặc thấy Sa Môn. Hoặc mặc áo trắng, áo vàng dùng áo che phủ
đầu. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng. Hoặc thấy đồng nam, đồng nữ. Hoặc
thấy trên thân của mình có cây sữa. Hoặc lên cây có hoa quả. Hoặc thấy
trong miệng của Hắc Trượng Phu phun ra lửa mạnh, sợ hãi chạy đi. Hoặc
thấy ngựa, trâu ác có dạng tựa như đánh nhau. Hoặc thấy tự ăn cháo sữa.
Hoặc thấy hoa trắng có mùi thơm. Nếu thấy tướng như trên liến biết
Diệt tội sinh phước.
Nếu bị 5 tôi nghịch , nghiệp cực nặng
chẳng được thấy tướng trên. Cần phải tụng đủ 70 vạn biến ắt được thấy
tướng mạo như trước.
Lại nữa, nay Ta nói công năng, việc tạo
tác của Đà La Ni này.Nếu ở trước tượng Phật hoặc ở trước tháp xá Lợi hay
nơi thanh tĩnh, dùng Cù Ma Di xoa tô đất rồi làm Man Trà La ( Manïdïala
_ Đàn ) hình vuông rộng 4 khuỷu tay. Lại đem hương , hoa, phướng, lọng,
thức ăn uống, đèn sáng, đuốc lửa tùy theo sức bày biện y theo Pháp cúng
dường.
Nếu muốn cầu nguyện. Trước tiên
nên niệm tụng, gia trì vào nước thơm rải 8 phương, trên, dưới để Kết
Giới. Kết Giới xong, ở 4 góc và chính giữa Man Trà La đều để một cái
bình nước thơm. Hành Giả ở mặt Tây hướng về phương Đông, quỳ dài niệm
tụng 1080 biến. Bình nước thơm ấy liền tự chuyển động, tùy ý Đông Tây
nhận dùng cao thấp.
Hoặc dùng cái bát sành sứ sạch, đốt hương
xông ướp, trong ngoài bôi xoa hương thơm, chứa đầy nước thơm và hương
hoa tốt rồi đặt ở trong Mạn Trà La. Y theo Pháp cái bình lúc trước mà
tác niệm tụng thì cái bát ấy liền chuyển động cùng với cái bình không
khác.
Nếu muốn biết tất cả việc : Thành Tựu,
Chẳng Thành Tựu. Liền đốt hương, phát nguyện, khải bạch Thánh Giả,
Nguyện Tâm quyết nghi. Nếu chuyển bên phải thì biết thành tựu, chuyển
bên trái tức chẳng thành tựu
Lại lấy hoa tốt, niệm tụng 108 biến.
Khiến một Đồng Tử tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Dùng bột hương xoa
tay, nâng hoa án khôn mặt. Lại đưa tay của mình liền lấy hoa riêng niệm
tụng. Cứ một biến thì một lần ném lên thân Đồng Tử, đồng tử liền nghe
việc thiện ác và nói lại. Tùy ý múa cười, đứng ngồi, đi lại.
Hoặc ở mặt gương sáng sạch, dùng hoa tốt
niệm tụng 108 biến rồi rải lên trên gương thì Sứ Giả liền hiện trong
gương.
Lại dùng Pháp trước, liền lấy hoa tốt rải
trên mặt gương liền có tướng thiện ác hiện trong gương. Hoặc dùng Chu Sa
, hoặc dùng dầu thơm bôi móng ngón tay cái ( Dầu thơm dùng hoa Tô Ma Na
xâm trong dầu Hồ Ma ) niệm tụng 108 biến liền hiện Thiên Thần với hình
tượng chư Tăng, Bồ Tát,Phật. Nếu Tâm có sự nghi ngờ việc trong ba cõi,
mỗi mỗi thỉnh hỏi đều biết thiện, chẳng thiện tức đều tự hiện trên ngón
tay cái.
Nếu người bị bệnh ác. Dùng cành Thạch
Lựu, mầm non màu trắng, cỏ thơm… niệm tụng, dùng roi phất phẩy liền
khỏi.
Hoặc dùng cỏ mầm để trong bơ, niệm tụng 7
biến ném vào trong lửa thiêu đốt rồi xông khói vào người bệnh, liền trừ
khỏi.
Hoặc nhờ Đồng Nữ xe sợi thành dây chỉ,
niệm tụng một biến thì kết một gút. Như vậy đủ 21 gút đem cho người
bệnh, trẻ con nam nữ cột buộc trên đỉnh đầu thì bệnh do hàng Ma. Quỷ, Mỵ
ác gây ra đều được trừ khỏi.
Hoặc dùng hạt cải trắng để trong bơ. Lấy
chút ít hạt cải, niệm tụng một biến thì một lần ném trong lửa, 21 lần
như vậy thì bệnh liền khỏi.
Lại dùng Cù Ma Di xoa tô đất làm Mạn Trà
La. Dùng tro vẽ đất làm hình ấy, dùng roi gậy bằng cành Thạch Lựu đánh
thì Quỷ đó kêu khóc cầu xin, tự bỏ chạy chẳng dám đến. Hoặc dùng Đồng,
Thiếc, Gỗ làm chày Kim Cương để bên cạnh người bệnh, niệm tụng dùng gậy
đánh thì Quỷ cũng liền bỏ chạy.
Lại có Pháp. Nếu có người bị Quỷ ám thân,
lại ở nơi xa không thể tự đến, hoặc Hành Giả chẳng thể tự đi. Nên lấy
cành Dương Liễu, niệm tụng 108 biến rồi sai người mang đến chỗ ấy, nói
rằng:” Ngươi ở hay ngươi đi. Ta tên (….. ) sai mang gậy roi này cho
ngươi. Nếu ngươi chẳng đi sẽ tổn hại cho ngươi”. Nếu chẳng đi , dùng
roi đánh thì Quỷ liền bỏ đi.
Lại có Pháp. Nếu đi đêm trên đường, niệm
tụng không thiếu sẽ không bị vướng nạn sợ hãi về giặc cướp, trộm cắp,
cọp, sói, Quỷ, Mỵ ác. Giữ Tâm niệm tụng và tác Hộ Thân thì các nạn thuộc
nhóm ấy đều tự tiêu diệt, hoặc phát Tâm Bồ Đề hoặc sinh sợ hãi, hoặc có
lời nói Tâm cầu miễn nạn, nếu bị cột trói liền tự giải thoát.
Nếu muốn vượt qua sông hồ, biển lớn mà
trong nước có hàng Rồng, Cù đáng sợ. Niệm tụng như Pháp trước liền được
chẳng sợ.
Hoặc bị rắn cắn, liền khiến người ấy
nhiễu vòng quanh người Niệm Tụng một số vòng, liền khỏi.
Hoặc bị Đinh Sang, ung thư, ghẻ nhọt,
bệnh lác, bệnh lậu. Lấy Huân Lục Hương, đất sạch cùng hòa với nước, niệm
tụng 21 biến rồi xoa bôi lên trên, liền khỏi.
Hoặc quốc thổ bị khô hạn, nguồn nước
chẳng đều. Nhóm trâu, ngựa, súc vật vướng dịch độc lưu hành. Nên dùng Du
Ma, Đại Mạch, gạo tẻ, hạt dẻ, đậu, bơ, mật, sữa, lạc, cây có nhựa trắng,
các loại hương tạp… đều để một bên, đốt hương phát nguyện:” Vì tất cả
chúng sinh trừ khử tai nạn” . Liền tác Thủ Khế ( Tay Ấn ) Hộ Thân,
tưởng niệm. Lấy các vật lúc trước niệm tụng gia trì rồi ném vào trong
lửa thiêu đốt. Như vậy 7 ngày, mỗi ngày 3 thời tác Pháp, mỗi thời 1080
biến liền được mãn nguyện, tất cả an vui, tất cả Tam Bảo thảy đều hộ trợ
cũng hay thành tựu tất cả Đại Nguyện.
Nếu muốn giáng phục các Đại Quỷ Thần,
nhìn thấy liền tâm phục. Lấy 7 hạt xương Xá Lợi để trong cái bát Lưu Ly
trắng. Lấy nửa thăng Đề Hồ đổ đầy cái bát. Vào đêm thuộc ngày 15 của kỳ
Bạch Nguyệt, trước Đài Hương với trước tháp Suất Đổ Ba, dùng bùn xoa tô
Mạn Trà La hình vuông rộng một, hai khuỷu tay. Đặt cái bát ở trong, lấy
hoa tốt cúng dường, mặt Tây để một lò hương, thiêu đốt An Tất Hương, gấp
rút niệm tụng thì Xá Lợi trong cái bát ấy sẽ tỏa ánh sáng, hoặc sinh ra
Xá Lợi thời Hành Giả cầm lò hương phát nguyện lễ bái. Liền lấy Xá Lợi
ra, uống hết Đề Hồ. Lấy cái bình Lưu Ly chứa Xá Lợi ấy, dùng lụa ngũ sắc
phủ đầy rồi đội trên đầu, tức vô lượng câu đê Phật thường toại hạnh, các
hàng Quỷ Thần tự nhiên giáng phục. Lúc tác Pháp thời một ngày một đêm
chẳng ăn.
Nếu cầu giàu có. Dùng gạo tẻ, Du Ma để
trong bơ, lạc. Tay nhúm chút ít, phát nguyện niệm tụng 7 biến rồi ném
vào trong lửa thiêu đốt. Tùy sức từ 7 ngày đến 49 ngày , liền như nguyện
ấy.
Nếu cầu con. Ở trên lá, vỏ cây hoa viết
Đà La Ni này và vẽ Đồng Tử. Dùng áo lót màu tím, niệm tụng 1080 biến rồi
để trong búi tóc, liền mang thai.
Nếu muốn kẻ khác kính nhớ thì xưng tên
gọi của người ấy, niệm tụng Bản Bộ 1080 biến liền được kính nhớ.
Nếu chồng chẳng thích vợ. Lấy cái bình
sạch chứa đầy nước thơm, đặt riêng ở Tĩnh Xứ. Dùng Cù Ma Di xoa làm Mạn
Trà La, niệm tụng 108 biến. Như vậy 7 cái bình đều tác Pháp này. Ở Tĩnh
Xứ dùng hương hoa làm Đạo Trường, lấy nước thơm bên trong bình tắm gội
thì người chồng liền yêu thích, cũng được mang thai. Vợ chẳng thích
chồng cũng như Pháp lúc trước.
Nếu muốn giáng phục Xả Đổ Lô ( ‘Satrù:
Oan Gia ) Lấy một Kiếp Ba La, nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ. Lấy Hoàng
Đan hòa với bơ xoa bôi trên Kiếp Ba La liền xoa tô khắp rồi đặt trong
một Mạn Trà La nhỏ. Xong lấy 5 chén đèn bơ đặt ở 4 góc và chính giữa,
xưng Na Ma (Nàma: Tên gọi ) trước tiên, niệm tụng , một lần xưng một lần
tụng, gia trì vào hạt cải trắng. Để một chén sữa trên Mạn Trà La cúng
dường Kiếp Ba La này, một đêm đổi một lần, nói rằng:” Vì Con lấy Chất
Đa (Citta: Tâm ) ấy đến “. Cái đó tức Chất Đa Nậu Khư ( Citta
duhïkha : Sự khổ não bất toàn của tâm ) Muốn Mẫu Đà ( Buddha: Giác Tuệ )
thì Xả Đổ Lô ( ‘Satrù : Oan gia) ấy liền phục thật. Chớ khiến hết, vì
hết tức nhiều kiếp chất chồng sẽ trừ bỏ Đạo.
Nếu muốn cầu thông minh. Lấy Thạch Xương
Bồ, Ngưu Hoàng, mỗi thứ nửa lạng, giã thành bụi, dùng bơ hòa. Ở trước
Phật làm Mạn Trà La, niệm tụng 5000 biến rồi uống vào, liền được thông
minh.
Muốn được thấy tất cả Quỷ Thần. Lấy Ngưu
Hoàng niệm tụng khiến cho khói, lửa hiện ra. Liền bôi con mắt và uống
vào, liền nhìn thấy.
Lại có Pháp. Ở bên cạnh biển lớn hoặc
trên bãi cát bên sông, sông dùng ấn hình tượng cái Tháp. Ấn cát trên đầm
làm hình tượng Tháp, niệm tụng một biến thì ấn thành hình cái Tháp, như
vậy đủ số 60 vạn biến liền được nhìn thấy Tượng của Thánh Giả Quán Tự
Tại, hoặc thấy Đa La Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, tùy theo tâm nguyện
ấy đều được mãn túc. Hoặc thấy trao cho Thuốc màu nhiệm của Tiên Thần,
hoặc thấy trao cho Bồ Đề thọ ký, hoặc hiện trước mặt đến hỏi thì tùy
theo điều cầu nguyện đều được địa vị của hàng Bồ Tát.
Lại có Pháp. Nếu nhiễu quanh Tượng của
cây Bồ Đề, hành Đạo niệm tụng mãn 100 vạn biến liền thấy Phật, Bồ Tát,
La Hán vì mình nói Pháp. Ý muốn tùy Bồ Tát liền được làm tùy tòng, sự
mong cầu như nguyện cho đến thân đời này thành Đại Chú Tiên, liền được
đi đến Tĩnh Thổ ở 10 phương phụng sự chư Phật, được nghe Diệu Pháp.
Lại có Pháp. Nếu lúc khất thực thời
thường trì Đà La Ni này thì chẳng bị người ác, chó ác… xâm hại, khất
thực dễ được.
Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp hoặc trước
tượng Phật hoặc trước Tháp Xá Lợi tụng trì Đà La Ni này 30 vạn biến. Lại
vào ngày mồng một cho đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, bày cúng dường
lớn, một nhày một đêm chẳng ăn, chính niệm tụng thời được thấy Kim Cương
Tạng Bồ Tát liền đưa người ấy đến trong cung của mình.
Lại có Pháp. Nếu vướng Vương Nạn ( Nạn
vua chúa ) bị cột trói, nhốt cùm, xiềng xích, cấm đoán thân ấy. Tụng Đà
La Ni này liền được giải thoát.
Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp Chuyển Pháp
Luân , hoặc trước Tháp nơi Phật sinh ra, hoặc trước Tháp ở thềm báu mà
Đức Phật từ Trời Đao Lợi đi xuống, hoặc trước Tháp Xá Lợi . Ở trước các
Tháp của nhóm như vậy niệm tụng nhiễu theo bên phải 49 ngày liền thấy A
Bát La Thị Đa Bồ Tát ( Aparajita Bodhisatva: Vô Năng Thắng Bồ Tát ) và A
Lợi Đề Bồ Tát ( Hrïtye Bodhisatva_ Quỷ Tử Mẫu Bồ Tát ) , tùy theo sự cầu
nguyện đều được mãn túc. Nếu cầu Thuốc Tiên tức liền trao cho, lại vì
người ấy nói Pháp để hiển bày Đạo Bồ Đề.
Nếu có người tụng Đà La Ni này cho đến
chưa ngồi Đạo Trường thì tất cả Bồ Tát sẽ làm bạn tốt của người ấy.
Lại Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni này được
chư Phật nói vì lợi ích cho tất cả chúng sinh về Đạo Trường Bồ Đề vô
biên.
Nếu có chúng sinh bạc phước không có chút
căn lành, không có căn khí, không có Bồ Đề Phần. Nếu người đó được nghe
Chuẩn Đề Đà La Ni này hoặc đọc một biến liền được sinh mầm giống căn khí
của Bồ Đề Phần, huống chi tụng trì thường xuyên mà chẳng giải được sự vô
dụng ư ? !... Do căn lành này mau thành hạt giống Phật, đều được thành
tựu vô lượng công đức, vô lượng chúng sinh mau lìa trần cấu quyết định
thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vô Thượng Chính Đẳng Chính
Giác ).
PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN
ĐỀ ĐÀ LA NI NIỆM TỤNG PHÁP
Y theo bản Kinh Phạn có 10 vạn Kệ Tụng.
Nay Ta lược nói niệm tụng, Quán Hạnh, thứ tự cúng dường
Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô
Ba Tư Ca phát Tâm Bồ Đề , hành Hạnh Bồ Tát , cầu mau ra khỏi sinh tử.
Trước tiên nên vào Tam Muội Gia Quán Đỉnh Đạo Trường, thọ trì Cấm Giới
bền chắc chẳng lui, yêu thích Giới Hạnh Bồ Tát Đại Thừa, nơi 4 Uy Nghi
tu 4 Vô Lượng, phát 4 Hoằng Nguyện, cầu mau lìa Tam Đồ ( 3 nẻo Địa Ngục,
Ngạ Quỷ, Súc Sinh ) . Đối nới tất cả sự nghiệp, tâm chẳng tán loạn thì
mới có thẩ vào Pháp Môn Bí Mật này
Phàm Pháp Niệm Tụng Cúng Dường. Ở
nơi cư trú đều nên tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, tùy sức bày biện
nghiêm sức Đạo Trường
Pháp Đạo Trường ấy. Nên lựa chọn
Thắng Địa, Đông Tây Nam Bắc đều rộng 4 khuỷu tay làm Mạn Trà La hình
vuông, đào sâu xuống dưới một khuỷu tay trừ bỏ các loại: Xương, đá,
gạch, ngói, đất ác, tóc, lông, tro, than, trấu, cây nhiều gai, trùng,
kiến… Dùng đất sạch tốt lấp đầy và nện chặt cho bằng phẳng. Lấy Cù Ma Di
( Phân trâu trắng ở núi Tuyết ) và đất tốt hòa chung với nước thơm xoa
tô đất.
Nếu ở lầu gác , hoặc ở trên Điện thì y
theo Pháp Nê Đồ ( dùng bùn xoa tô) Nếu ở trong núi với nhà sạch tốt thì
chẳng nên đào đất mà y theo trước xoa tô nghiêm sức. Liền giương Thiên
Cái ( Lọng Trời ) , 4 mặt treo phướng. Nếu có Tượng Bản Tôn Thất Câu Đê
Phật Mẫu thì đặt yên trong Mạn Trà La hướng mặt về phương Tây. Nếu không
có Bản Tôn mà có các Tượng Phật, Xá Lợi với Kinh Điển Đại Thừa thì cúng
dường cũng được. Mài Bạch Đàn Hương xoa tô làm Mạn Trà La có 8 góc ( Bát
Giác Mạn Trà La ) giống như trăng đầy hoặc tựa như hoa sen 8 cánh. Liền
đem vật cúng mới sạch là vật khí bằng vàng, bạc, đồng đã tôi luyện (Thục
Đồng) Thương Khư ( ‘Sanõkha: Vỏ ốc ) , Bối ( vỏ sò ), Ngọc, đá, đồ sứ,
gỗ…chứa đầy các thức ăn uống với hương hoa tốt, đèn sáng, nước thơm Ứ
Già tùy theo sức mà đặt bày cúng dường.
Nếu là Bật Sô, Bật Sô Ni . Trước tiên giữ
Giới Hạnh rồi mới vào Đạo Trường, lại nên Sám Hối liền tự thề phát
nguyện Thọ Giới.
Nếu là Bồ Tát tại gia , mới đầu vào cũng
nên tự thề phát nghuyện tùy theo sức, thọ Tam Quy Ngũ Giới hoặc thường
giữ 8 Giới.
Nếu thường 3 thời niệm tụng. Liền ở Tây
Nam của Đạo Trường hướng về phương Đông, chí Tâm chắp tay cúi 5 vóc sát
đất kính lễ chư Phật Bồ Tát ở 10 phương, Chân thành vận tưởng tràn khắp
Hư Không Giới. Liền quỳ gối phải sát đất, chắp tay, chí Tâm Sám Hối :
” Từ Vô Thủy trở đi có bao nhiệu tội của
Thân Khẩu Ý. Nay đối trước chư Phật Bồ Tát, Đệ Tử ( họ tên… ) xin phát
lộ sám hối cho đến mọi loại Công Đức do viên mãn Phước Trí của chư Phật
Bồ Tát 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai . Nay con xin tùy hỷ”
Liền an Tâm quyết định ngồi theo thế Kiết
Già hoặc Bán Già, trừ tất cả vọng tưởng, quán chúng sinh trong 6 nẻo
từ vô thủy đến nay ở trong biển sinh tử bị luân hồi 6 nẻo. Nguyện đều
phát Tâm Bồ Đề, hành Hạnh Bồ Tát, mau được ra khỏi.
Liền dùng dầu thơm xoa tay rồi kết Thủ
Khế ( Tay Ấn ) . Lúc kết Khế thời dùng áo che tay đừng để người khác
nhìn thấy.Trước tiên kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế rồi kết các Khế.
Khế thứ nhất
:” Phật Bộ Tam Ma Gia Khế”. Tướng
của Khế đó là: Đều ngửa tay Phước Trí ( 2 bàn tay ) hơi co Đàn ( ngón út
phải ) Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn Nhục ( ngón giữa phải ) Bát Nhã (
ngón út trái ) Phương Tiện ( ngón vô danh trái ) Nguyện ( ngón giữa trái
) cùng trụ nhau. Tiến Lực ( 2 ngón trỏ ) đè lóng trên Nhẫn Nguyện ( 2
ngón giữa ) , Thiền Trí ( 2 ngón cái ) phụ bên cạnh Tiến Lực ( 2 ngón
trỏ ) liền thành. Tụng Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Đát tha nghiệt đổ phộc bá gia,
sa-phộc ha”
OMÏ_ TATHÀGATA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ
(Tụng 3 biến, đem Khế bung trên đỉnh đầu.
Liên Hoa Bộ, Kim Cương Bộ đều dựa theo đây )
Khế thứ hai
:” Liên Hoa Bộ Tam Ma Gia Khế”.
Hai Phước Trí (2bàn tay) cùng hợp nhau. Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn
( ngón giữa phải ) Tiến ( ngón trỏ phải ) Phương Tiện ( ngón vô danh
trái) Nguyện ( ngón giữa trái ) Lực ( ngón trỏ trái ) mỗi mỗi bung tán
rồi hơi co lại. Sáu Ba La Mật ( 6 ngón tay ) mở như hoa sen. Đàn ( ngón
út phải ) Tuệ ( ngón út trái ) Thiền ( ngón cái phải ) Trí ( ngón cái
trái ) cùng dính nhau, cũng hơi co lại liền thành. Tụng Diệu Ngôn là :
“ Aùn _ Bát đầu mâu phộc bá gia, sa-phộc
ha” ( Tụng 3 biến )
OMÏ_ PADMA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ
Khế thứ ba
: “ Kim Cương Bộ Tam Ma Gia Khế”
Úp Phước ( Bàn tay trái) ngửa Trí ( bàn tay phải ) Thiền ( ngón cái phải
) Bát Nhã ( ngón út trái ) Đàn (ngón út phải ) Trí ( ngón cái trái )cùng
cài nhau, liền thành. Tụng Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Phộc chiết lỗ bà bá gia, sa-phộc
ha” ( Tụng 3 biến )
OMÏ_ VAJRA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ
Khế thứ tư
:” Chuẩn Đề Phật Mẫu Căn Bản Thân Khế
“. Tướng của Khế đó là: Trước tiên đem 2 ngón út , 2 ngón vô danh
cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Dựng thẳng 2 ngón giữa cùng dính
đầu ngón, 2 ngón trỏ phụ bên cạnh lóng trên của 2 ngón giữa, 2 ngón cái
đều phụ bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành. Diệu Ngôn, tụng Căn Bản Đà La Ni
( Tụng 7 biến, đưa Khế bung tán trên đỉnh đầu. Dùng các Khế bên dưới
kết thành, đè chạm Ấn xong cũng đều nên bung trên đỉnh đầu )
Khế thứ năm
: “ Tịch Trừ Nhất Thiết Thiên Ma Aùc
Quỷ Thần Đẳng Khế”. Khế ấy: Trước tiên đem ngón giữa, ngón vô danh,
ngón út và ngón cái của tay phải nắm ngón giữa, ngón vô danh, ngón út
của tay trái. Tiếp đem ngón cái trái nắm trên móng của 3 ngón giữa, vô
danh, út của tay trái rồi hợp thành quyền, đem 2 ngón trỏ cùng dính đầu
ngón , liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Câu lỗ đa na, hồng, nhạ”
OMÏ _ KRODHANA HÙMÏ JAHÏ
( Tụng một biến, đem Khế chuyển quanh
thân theo bên phải. Làm như thế 3 lần )
Khế thứ sáu:
“ Kết Địa Giới Quyết Khế”. Tướng của Khế đó là: Đem 2 ngón giữa,
2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên
trái, co ngón trỏ trái như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ phải. Khiến 2
ngón cái, 2 ngón út cùng dính mặt ngón, liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, chỉ la dã, sa-phộc
ha”
OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , KÌLÀYA _ SVÀHÀ
( Tụng một biến, đem ngón cái của Khế
chạm đất một như thế đóng cọc. Làm 3 lần rồi nghỉ )
Khế thứ bảy:
“ Kết Tường Giới Khế”. Tướng của
Khế là: Dựa theo Quyết Khế lúc trước, đem ngón trỏ phải co như móc câu,
dựng thẳng ngón trỏ trái, liền thành.Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, bát la ca la gia,
sa-phộc ha”
OMÏ_ CUNÕDHE_ DHE, PRAKARÀYA _ SVÀHÀ
( Tụng ba biến, đưa Khế quơ theo bên phải
3 vòng )
Khế thứ tám:
“ Kết Võng Khế” . Khế đó dựa theo Tường Khế, mở ngửa dính nhau,
ngón cái phải vịn đầu ngón trỏ trái, ngón cái trái vịn đầu ngón trỏ
phải, ngón út y như cũ cùng trụ nhau, liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chuẩn nể, nê, bán nhạ la, sa-phộc
ha”
OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , PAMÏJALA _ SVÀHÀ
( Tụng 3 biến , đưa Khế tùy theo mặt trời
quơ 3 lần )
Khế thứ chín:
“ Kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế”. Khế đó : Dùng tay trái đè kín
lưng tay phải, trùng nhau. Dựng thẳng 2 ngón cái cùng cách nhau khoảng 2
thốn, liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ A tam ma nghĩ nễ, hàm, sa-phộc ha”
OMÏ_ ASAMÀMÏGNI HÙMÏ _ SVÀHÀ
( Tụng 3 biến, đưa Khế chuyển bên phải 3
lần )
Khế thứ mười:
“ Kết Xa Lạc Ấn”. Tướng của Khế đó là: Trước tiên, 2 tay hướng
vào bên trong cùng cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Liền ngửa mở
lòng bàn tay, duỗi thẳng 2 ngón trỏ dính đầu ngón, đưa 2 ngón cái bật
đầu 2 ngón giữa, đưa qua đưa lại, liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ đổ lô, đổ lô, sa-phộc ha”
OMÏ_ TURU TURU _ SVÀHÀ
( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Tập Hội ở
cung Trời A Ca Ni Sắt Tra (Sắc Cứu Cánh ) 10 Địa Bồ Tát vây quanh Đức Tỳ
Lô Giá Na Như Lai. Thỉnh Chuẩn Đề Phật Mẫu ngồi trên Xa Lạc 7 báu trang
nghiêm. Trên Xa Lạc có tòa hoa sen trắng, trên Tòa có hình tượng như
mong cầu. Trong Tâm tưởng niệm như ở ngay trước mắt. Liền tụng Diệu Ngôn
3 biến )
Khế thứ mười một:
“ Kết Nghinh Thỉnh Thánh Giả Khế” . Dựa theo Đệ Nhất Căn Bản Khế
lúc trước, đưa 2 ngón cái qua lại, triệu mời 3 lần, liền thành. Diệu
Ngôn là:
“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ê hế
duệ tứ, bạc già phộc để, sa-phộc ha”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ EHYEHI
BHAGAVATI _ SVÀHÀ
( Kết Khế này, tưởng Thánh Giả từ trên Xa
Lạc đi xuống đến Đạo Trường trên tòa sen trắng. Liền tụng Diệu Ngôn 3
biến )
Khế thứ mưới hai:
“ Kết Liên Hoa Tòa Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, kèm 2
ngón cái hướng về thân mở thẳng, liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Ca ma la, sa-phộc ha”
OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ
( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Đạo Trường
có mọi loại lưới báu, trên Tòa Sư Tử nở sen trắng, an đặt Thánh Giả trên
hoa sen. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến )
Khế thứ mười ba:
“ Kiết Ứ Già Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón cái
đều vịn dưới cạnh lóng thứ nhất ở gốc ngón trỏ, liền thành. Diệu Ngôn
là:
“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, át
kiềm, bạc già phộc để, bát la để sai, sa-phộc ha”
OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ ÀRGHÀMÏ
BHAGAVATI PRATICCHA _ SVÀHÀ
Khế thứ mười bốn:”
Kết Táo Dục Khế” Dựa theo Ứ Già Khế lúc trước, đem 2 ngón cái đều
vịn cạnh lóng giữa của 2 ngón giữa , liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chiết, sa-phộc ha”
OMÏ_ CA _ SVÀHÀ
Khế thứ mười lăm
: “ Kết Đồ Hương Khế”. Dựa theo
Căn Bản Khế lúc trước,đe 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ
phải, liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha”
OMÏ _ LE _ SVÀHÀ
Khế thứ mười sáu
: “ Kết Hoa Man Khế”. Dựa theo Căn
Bản Khế lúc trước, đe 2 ngón cái để cạnh lóng dưới của ngón trỏ trái,
liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chủ, sa-phộc ha”
OMÏ _ CU _ SVÀHÀ
Khế thứ mười bảy:
“ Kết Thiêu Hương Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, co ngón
trỏ phải vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là;
“ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha”
OMÏ _ LE _ SVÀHÀ
Khế thứ mười tám
: “ Kết Cúng Dường Ẩm Thực Khế”.
Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem ngón trỏ trái vịn đầu 2 ngón cái,
liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chuẩn, sa-phộc ha”
OMÏ _ CUNÕ _ SVÀHÀ
Khế thứ mười chín:
“ Kết Đăng Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón trỏ
đều vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là:
“ Aùn, đề, sa-phộc ha”
OMÏ _ DHE _ SVÀHÀ
( Nhóm Đồ Hương Khế bên trên, mỗi mỗi đều
dùng Khế chạm vào trên sắc vật thật rồi cúng dường )
Khế thứ hai mươi
: “ Kết Bố Tự Khế”. Tướng của Khế
đó là: Đưa 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh hướng vào bên trong cùng cài
chéo nhau. Kè dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út cùng dính đầu
ngón, liền thành.
Kết Thủ Khế này thành, liền tưởng thân
của mình giống như Thích Ca Như Lai với 32 tướng tốt 80 loại tùy hình
đẹp, thân tỏa ánh hào quang àu vàng tía ( Tử Ma Kim Sắc ) . Tưởng xong,
dùng Thủ Khế ( Tay Ấn ) chạm trên đầu an chữ Aùn (OMÏ
_ ) , chạm mắt an chữ Chiết ( CA_ ) mỗi mỗi
y theo thứ tự chữ cho đến đầy đủ và dùng Khế chạm bày.
Nói Pháp Tưởng chữ của Đà La Ni an bày
ở thân:
_ Aùn ( OMÏ _ ) tưởng
an trên đầu
Màu sắc trắng như trăng
Tỏa nơi vô lượng quang
Trừ diệt tất cả chướng
Liền đồng Phật Bồ Tát
Xoa trên đỉnh người ấy
_ Chữ Chiết ( CA_ ) an
hai mắt
Màu sắc như Nhật Nguyệt
Chiếu soi các ngu ám
Hay phát Thâm Tuệ Minh ( Ánh sáng Tuệ
thâm sâu )
_ Chữ Leä ( LE_ ) an
trên cổ
Màu như Lưu Ly cam
Hay hiển các sắc tướng
Dần đủ Trí Như Lai
_ Chữ Chủ (CU_ ) tưởng
an tim
Màu sắc như trắng sáng
Giống như Tâm thanh tĩnh
Mau đạt Đạo Bồ Đề
_ Chữ Leä ( LE_ ) an hai
vai
Màu vàng như Kim Sắc
Do quán sắc tướng ấy
Hay mặc Giáp Tinh Tiến
_ Chữ Chuẩn (
CUNÕ_ ) trưởng trong rốn
Màu trắng vàng màu nhiệm
Mau khiến lên Đạo Trường
Được Bồ Đề Bất Thoái
_ Chữ Đề ( DHE_ ) an
hai đùi
Màu sắc như vàng lợt
Mau chứng Đạo Bồ Đề
Được ngồi Tòa Kim Cương
_ Sa-Phộc ( SVÀ _ ) hai
bắp chân
Dạng ấy màu vàng đỏ
Thường hay tưởng chữ ấy
Mau được chuyển Pháp Luân
_ Chữ Ha ( HA_ ) hai bàn chân
Màu sắc như trăng đầy
Hành Giả tác tưởng đó
Mau được đạt Viên Tịch
Như vậy Bố Tự ( an bày chữ ) tưởng
niệm xong
Liền thành Chuẩn Đề Thắng Pháp Môn
Cũng là Bản Tôn Chân Thật Tướng
Hay diệt các tội, được cát tường
Giống như tụ Kim Cương bền chắc
Gọi là Chuẩn Đề Thắng Thượng Pháp
Nếu thường tu hành y như thế
Nên biết người ấy mau Tất Địa (
Siddhi_ Thành Tựu )
Khế thứ hai mươi mốt:”
Đệ Nhị Căn Bản Khế”. Tướng của Khế đó là: Đưa 2 tay hướng vào bên
trong cùng cài chéo nhau. Kèm dựng thẳng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái, liền
thành. Diệu Ngôn là:
“ Nam mô táp đá nẫm,tam miệu tam bột đà,
câu đê nam. Đát diệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha”
NAMO SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA
KOTÏINÀMÏ
TADYATHÀ : OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _
SVÀHÀ
( Tụng 7 biến, đưa Khế lên đỉnh đầu bung
tán )
Khế thứ hai mươi hai:
“ Kết Phụng Sổ Châu Khế” Tướng của Khế đó là: Trước tiên lấy Sổ
Châu ( Tràng hạt ) để trong 2 lòng bàn tay, liền để ngang trái tim rồi
chắp hai tay lại. Tụng Căn Bản Đà La Ni lúc trước 3 biến, đem tràng hạt
đội trên đỉnh đầu, liền tác Bả Sổ Châu Khế để Tĩnh Châu ( Làm cho
tràng hạt thanh tịnh )
Khế thứ hai mươi ba:
“ Bả Sổ Châu Khế”. Tướng của Khế đó là: 2 ngón vô danh, 2 ngón
cái đều vịn trên hạt châu, 2 tay cùng cách nhau khoảng một thốn, bung mở
các ngón còn lại rồi hơi co lại, liền thành. Tụng Tĩnh Sổ Châu Diệu
Ngôn là:
“ Aùn_ Vi lô già na, a ma la, sa-phộc ha”
OMÏ_ VAIROCANA AMALA _ SVÀHÀ
( Tụng 3 biến )
Tĩnh Sổ Châu xong. Tự Tâm tưởng trong
miệng của Thất Câu Đê Phật Mẫu tuôn ra văn tự của Thất Câu Đê Đà La Ni,
mỗi một chữ phóng tỏa ánh sáng ngũ sắc nhập vào trong miệng của Hành Giả
rồi an trong vành trăng ngay trái tim của mình, xoay chuyển theo bên
phải đặt bày. Liền tụng Căn Bản Đà La Ni một biến, dùng ngón vô danh
phải lần qua một hạt châu, cứ thế giáp vòng trở lại hạt ban đầu, chẳng
gấp chẳng chậm, chẳng được cao giọng. Nên xưng chữ rõ ràng mà tự nghe
được chữ an bày trên thân với Bản Tôn đã quán.
Niệm tụng Ký Số.Ở trong một niệm
và tu một thời, quán thấy chẳng được khiếm khuyết khiến Tâm tán loạn.Nếu
Quán Niệm mệt mỏi thì tùy sức niệm tụng hoặc 1000, 2000, 3000, 4000 cho
đến 5000 biến . Thường lấy một số làm hạn định. Nếu có duyên sự, cũng
chẳng được giảm số dưới 108 biến. Đây gọi là Thanh Niệm Tụng. Nếu
cầu giải thoát sẽ mau ra khỏi sinh tử.
_ Tác Tam Ma Địa Quán Hạnh này thì
không có ký không có số. Người niệm liền tưởng trái tim của mình có một
mặt trăng đầy rất ư thanh tĩnh, trong ngoài rõ ràng. Đem chữ Aùn
( ) để trong tâm mặt trăng. Đem các chữ Chiết lệ, chủ lệ,
chuẩn đề, sa-phộc ha(
) từ phía
trước chuyển theo bên phải, thứ tự giáp vòng an bày Luân Duyên. Thành
thật quán ( Đế quán ) nghĩa của mỗi một chữ, đem Tâm tương ứng chẳng
được khác biệt.
Nói Nghĩa Bố Tự của Tam Ma Địa Quán
Niệm
Aùn Tự Môn
( ) có nghĩa là Lưu Chú chẳng
sinh diệt. Lại ở tất cả Pháp làm nghĩa Tối Thắng
Chiết Tự Môn
( ) Ở tất cả các Pháp làm nghĩa
Vô Hành ( không có lưu chuyển )
Lệ Tự Môn
( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô
Tướng (không có tướng )
Chủ Tự Môn
( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô
Khởi Trụ ( Không có khới trụ )
Lệ Tự Môn
( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô
Cấu (không có bợn nhơ )
Chuẩn Tự Môn
( ) ở tất cả Pháp làm
nghĩa Vô Đẳng Giác
Đề Tự Môn
( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa
Vô Thủ Xả ( không có lấy, không có bỏ )
Sa-phộc Tự Môn
( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa
Bình Đẳng Vô Ngôn Thuyết
Ha Tự Môn
( )ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô
Nhân Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn
Đã nói nghĩa của chữ. Tuy lập văn tự đều
là nghĩa không có văn tự. Để không có văn tự nên đế quán mỗi một nghĩa
tướng, vòng quanh rồi lại bắt đầu, không có ký không có số, chẳng được
cắt đứt ( đoạn tuyệt ) . Chẳng cắt đứt là nghĩa Tối Thắng lưu
chú chẳng sinh chẳng diệt. Do nghĩa tối thắng chẳng sinh chẳng diệt
cho nên là Vô Hành. Vì nghĩa Vô Hành cho nên là Vô Tướng.
Vì nghĩa Vô Tướng cho nên là Vô Khởi Trụ. Vì nghĩa vô khởi trụ
cho nên là Vô Đẳng Giác. Vì nghĩa vô đẳng giác cho nên là vô
thủ xả. Vì nghĩa vô thủ xả cho nên là Bình đẳng vô ngôn thuyết.
Vì nghĩa bình đẳng vô ngôn thuyết cho nên là vô nhân tịch tịnh vô trụ
niết bàn. Vì nghĩa Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn cho nên là bất sinh bất
diệt tối thắng vô đoạn tuyệt, vòng quanh rồi lại bắt đầu. Đây gọi là
Tam Ma Địa Niệm Tụng
Nói Pháp Chuẩn Đề Cầu Nguyện Quán
Tưởng:
Nếu cầu Vô Phân Biệt nên quán
Vô phân biệt vô ký niệm
Nếu cầu Vô Tướng Vô Sắc nên quán
văn tự vô văn tự niệm
Nếu cầu Pháp Môn Không Hai ( Bất
Nhị Pháp Môn ) nên quán 2 cánh tay
Nếu cầu Bốn Vô Lượng nên quán 4
cánh tay
Nếu cầu Sáu Thông nên quán 6 cánh
tay
Nếu cầu Tám Thánh Đạo nên quán 8
cánh tay
Nếu cầu Mười Ba La Mật, viên mãn Mười
Địa nên quán 10 cánh tay
Nếu cầu Như Lai Phổ Biến Quảng Địa
nên quán 12 cánh tay
Nếu cầu mười tám Pháp Bất Cộng nên
quán 18 cánh tay. Liền quán Pháp như tượng vẽ
Nếu cầu 32 Tướng nên quán 32 cánh
tay
Nếu cầu 84000 Pháp Môn nên quán 84
cánh tay
Quán Niệm như trên sẽ vào Nhất Thiết
Như Lai Tam Ma Địa Thậm Thâm Phương Quảng Bất Tư Nghị Địa, là Chính
Niệm Xứ, là Chính Chân Như, là Chính Giải Thoát.
Niệm Tụng Quán Hạnh xong. Muốn ra khỏi
Đạo Trường , lại nên y theo thứ tự trước. Liền kết Thủ Khế của nhóm:
Thiêu Hương, Đăng Minh, Aám Thực, Cúng Dường, Sám Hối, Tùy Hỷ, Phát
Nguyện.
Liền kết Đệ Nhất Căn Bản Khế lúc trước,
tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu.
Lại kết Xa Lộ Khế lúc trước, đưa 2 ngón
cái hướng ra ngoài, bật đầu ngón giữa 3 lần, tụng Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Đổ lô, đổ lô, Sa-phộc ha”
OMÏ_ TURU TURU _ SVÀHÀ
( Tụng 3 biến )
Lại kết Nghinh Thỉnh Ấn lúc trước. Đem
ngón cái hướng ra ngoài, mở 3 lần liền thành Tống Thánh Giả Hoàn Bản
Cung. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, nghiệt
xa nghiệt xa, bà nga phộc để, sa phộc bá nẫm, bố ná , a yết la nga, ma
na gia, sa-phộc ha”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ GACCHA
GACCHA BHAGAVATI SVÀBHANÀMÏ BUDDHA ARGHA MANÀYA_ SVÀHÀ
Liền kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế lúc
trước, tụng A Tam Ma Kỳ Neã Diệu Ngôn, chuyển bên trái 3 lần liền
thành.
Liền kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế, đều tụng
Diệu Chân Ngôn một biến liền xong, tùy ý ra khỏi Đạo Trường, tùy ý Kinh
Hành. Đọc tụng Đại Bát Nhã hoặc Hoa Nghiêm, hoặc Vô Biên Môn, hoặc Pháp
Hoa, Lăng Nghiêm, Niết Bàn, Kinh Luận Đại Thừa…suy tư, tụng, nói hoặc
đem ấn Tháp Tượng Thất Câu Đê Phật, dùng ấn bùn thơm,trên cát, trên
giấy… tùy ý nhiều ít.
Nếu niệm tụng có công đức như cảnh giới
đã nói trong Kinh, mỗi mỗi biết thứ tự thật rõ ràng.
Muốn tác mọi loại phương pháp của nhóm
Phiến Để Ca ( ‘Sàntika_ Tức Tai ) hoặc vì tự thân hoặc vì người khác
liền dốc lòng y theo Pháp mà tác niệm tụng.Nếu muốn Tức Tai trừ
tất cả Quỷ Thần và được thông minh, trường thọ, cầu giài thoát. Liền ở
trong Đạo Trường, hướng mặt về phương Bắc, chéo 2 bắp chân dựng thẳng
đầu gối mà ngồi. Quần áo, thức ăn uống, hương, hoa, đèn, đuốc, đất đều
dùng màu trắng. Từ ngày mồng một đến ngày mồng 8 của tháng, một ngày 3
thời niệm tụng với Pháp của nhóm Hộ Ma. Nếu Niệm Tụng thời trước tiên
tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến xong, sau đó chỉ tụng từ chữ Aùn.
Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban cho
( họ tên của mình hay người
khác) trừ tai nạn, sa-phộc ha”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. )
‘SÀNTIMÏ KURU _ SVÀHÀ
Nói Pháp Bố Sắt Trí Ca ( Pusïtïika
_ Tăng Ích ) . Nếu muốn cầu tăng trưởng 5 Thông, Chuyển Luân, mọi loại
Bảo Tạng, Bố Xa Luân, Kiếm, Hiền Bình, Như Ý Bảo, An Thiện Na, Ngu Lý
Ca, Gương, Búa, Sợi dây, Tam Cổ Xoa… tất cả tài bảo, cỏ thuốc… cầu Pháp
thành tựu. Thân mặc áo vàng, hướng mặt về phương Đông, ngồi Kiết Già.
Mọi thứ cúng dường như hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc,
đất… đều dùng màu vàng. Từ ngày mồng 8 đến ngày 15 của tháng, mỗi ngày 3
thời niệm tụng, làm việc Hộ Ma, niệm tụng như trước. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban
cho ( họ tên… ) sở cầu như ý, sa-phộc ha”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. )
PUSÏTÏIMÏ KURU _ SVÀHÀ
Nói Pháp Phạt Thí Ca La Noa (
Va’sikaranïa_ Kính Aùi ) Nếu muốn hô triệu tất cả hàng Trời, Rồng, Quỷ ,
Thần, Người, Phi Nhân…thì nên tác Pháp này. Thân mặc áo đỏ, hướng mặt về
phương Tây, ngồi theo thế Hiền Tọa. Hương, hoa, thức ăn uống, Quả trái,
đèn đuốc, đất… đều dùng màu đỏ. Từ ngày 16 đến ngày 23 , mỗi ngày 3 thời
niệm tụng, tác Pháp Hộ Ma. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chiết lệ,chủ lệ, chuẩn đề. Vì
con nhiếp triệu vị Thần ( tên là…. ) thành tựu nguyện của con,
sa-phộc ha”
OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. )
VA’SI KURU _ SVÀHÀ
Nói Pháp A Tỳ Già Lỗ Ca (
Abhicàruka_ Giáng Phục ) Nếu muốn giáng phục tất cả Quỷ Thần với Người,
Trời… là tổn hoại Tam Bảo, chúng sinh có nhiệu tội nghiệp chướng nặng,
kẻ khó điều phục … hay khiến phát Tâm Bồ Đề, tu các nghiệp lành thì nên
khởi Tâm Từ Bi mà tác Pháp này. Thân mặc áo xanh, hướng mặt về phương
Nam, tác Tông Cứ Tọa ( chéo ống chân ngồi xổm ) ống chân phải đè ống
chân trái. Dùng hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đất… đều là màu xanh
đen. Từ ngày 23 đến ngày cuối tháng, mỗi ngày 3 thời niệm tụng, tác Pháp
Hộ Ma. Diệu Ngôn là:
“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, hồng,
phát tra”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE HÙMÏ PHATÏ
Tác Pháp xong, niệm tụng như thường
Nói Pháp Vẽ Tượng Thất Câu Đê Phật Mẫu
Chuẩn Đề
Lấy lụa trắng thanh tịnh chư bị cắt, loại
bỏ tóc người. Họa Sư thọ 8 Giới Tế, chẳng dùng keo nấu bằng da thú để
hòa màu sắc, mọi thứ trang nghiêm thân ấy. Từ eo trở xuống mặc áo trắng,
áo trên có hoa. Lại thân khoác áo ngoài ( Thiên Y ) bằng lụa mịn màng
mỏng nhẹ. Dùng đai ngũ sắc cột eo, mây sắc đỏ sáng sớm quấn quanh thân,
cổ tay đeo xuyến bằng vỏ ốc trắng, cánh tay đeo vòng xuyến dùng 7 báu
trang nghiêm. Trên mỗi một tay đeo Chỉ Hoàn ( Nhẫn ) . Thân có 18 tay,
mặt có 3 mắt.
2 tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp
Bên phải:
tay thứ hai Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm
tràng hạt, tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca ( Đường gọi là Tử Mãn
Quả, nơi này không có chỉ Tây Tạng mới có ) , tay thứ sáu cầm cây
búa, tay thứ bảy cầm móc câu, tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra_ Chày
Kim Cương ) , tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man )
Bên trái
: tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý,
tay thứ ba cầm hoa sen, tay thứ tư cầm bình Táo Quán, tay thứ năm cầm
sợi dây, tay thứ sáu cầm bánh xe, tay thứ bảy cầm vỏ ốc ( Loa ) tay thứ
tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã Ba La Mật.
Phía dưới Bồ Tát làm ao nước. Trong ao có
2 vị Long Vương ( Nàga Ràja ) là Nan Đà ( Nanda ) và Ô Bạt Nan Đà (
Upananda ) cùng nâng cuống hoa sen, ở trên hoa sen an Chuẩn Đề Bồ Tát (
Cunõdhe Bodhisatva ) . Vòng tròng chung quanh Tượng ấy an lửa rực sáng.
Tượng ấy tác con mắt thương xót nhìn xuống. Hành Giả ngồi ngay bên dưới,
tay cầm lò hương, hướng mặt lên trên nhìn Bồ Tát. Ở phía trên Bồ Tát vẽ
2 vị Tĩnh Cư Thiên. Tượng Pháp như vậy, xong.
PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ
ĐÀ LA NI KINH ( Kèm Niệm Tụng Quán Hạnh Pháp )
_ Hết_
19/10/2002
Mật Tạng Bộ 3 _ No.1076 ( Tr.178 _ Tr.
185 )
THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU SỞ THUYẾT CHUẨN ĐỀ
ĐÀ LA NI KINH
Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng
Sa Môn Đại Quảng Trí
BẤT KHÔNG phụng chiếu
dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già
Phạm ngự tại vườn Cấp Cô Độc trong rừng Thệ Đa thuộc Đại Thành Danh Xưng
cùng với chúng Đại Bật Sô, các vị Bồ Tát và 8 Bộ Trời Rồng trước sau vây
quanh.
Đức Thế Tôn nghĩ thương chúng sinh kém
phước nhiều nghiệp ác ở đời vị lai, liền nhập vào Chuẩn Đề Tam Ma
Địa ( Cunïdhi samàdhi ) nói Đà La Ni mà 7 câu đê ( 7 trăm triệu )
Phật đời quá khứ đã nói là:
“ Ná mạc tát đa nam, tam miệu tam một đà,
câu đê nam. Đát nễ dã tha: Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, sa-phộc hạ”
NAMAHÏ SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA
KOTÏINÀMÏ
TADYATHÀ: OMÏ _ CÀLE CÙLE CUNÏDHE _
SVÀHÀ
Nếu có Bồ Tát tại gia hay xuất gia tu
Hạnh Chân Ngôn, tụng trì Đà La Ni này mãn 90 vạn biến thì 10 tội ác, 4
tội nặng, 5 tôi nghịch, 5 tội Vô Gián đã gây tạo ra trong vô lượng kiếp
thảy đều tiêu diệt. Nơi sinh ra thường gặp chư Phật Bồ Tát, tài bảo
phong nhiêu, thường được xuất gia.
Nếu là Bồ Tát tại gia tu trì Giới Hạnh
bền chắc chẳng thoái lui, tụng Đà La Ni này thường sinh vào cõi Trời.
Hoặc ở nhân gian làm quốc vương, chẳng bị đọa vào nẻo ác, gần gũi Thánh
Hiền, chư Thiên yêu kính ủng hộ gia trì. Nếu kinh doanh các việc ở đời
thì không có tai hoạnh, nghi dung đoan chính, lời nói oai vệ, Tâm không
lo lắng buồn phiền.
Nếu là Bồ Tát xuất gia giữ đầy đủ các Cấm
Giới, 3 thời niệm tụng y theo Giáo tu hành. Đời này mong cầu Tất Địa
Xuất Thế Gian thì Định Tuệ hiện tiền, chứng viên mãn Địa Ba La Mật, mau
chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
Nếu tụng mãn một vạn biến tức ở trong
mộng thấy Phật Bồ Tát, liền nôn ra vật màu đen. Nếu người ấy có tội rất
nặng , tụng hai vạn biến tức mộng thấy chư Thiên, nhà, chùa, phòng ốc.
Hoặc lên núi cao. Hoặc thấy trên cây, hoặc thất tắm gội ở trong ao lớn.
Hoặc thấy bay trên hư không. Hoặc thấy cùng các Thiên Nữ vui chơi khoái
lạc. Hoặc thấy nói Pháp. Hoặc thấy nhổ tóc, cạo tóc. Hoặc thấy ăn Lạc
Phạn ( Cơm trộn sữa nấu chín ), uống Cam Lộ màu trắng. Hoặc vượt qua
biển lớn, sông lớn, sông nhỏ. Hoặc lên Tòa Sư Tử. Hoặc thấy cây Bồ Đề.
Hoặc ngồi trên thuyền. Hoặc thấy Sa Môn. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng.
Hoặc thấy đồng nam, đồng nữ. Hoặc thấy trên cây có quả sữa. Hoặc thấy
trong miệng Hắc Trượng Phu phun ra lửa mạnh cùng chiến đấu với người ấy
và được thắng. Hoặc thấy trâu, ngựa ác muốn đến chạm húc, người trì tụng
hoặc đánh hoặc nạt làm cho chúng sợ hãi bỏ chạy. Hoặc ăn cháo sữa, lạc
phạn. Hoặc thấy hoa Tô Ma Na ( sumanïa_ Xứng Ý Hoa ) . Hoặc thấy quốc
vương.
Nếu chẳng thấy cảnh giới như vậy nên biết
người này đời trước tạo 5 tội Vô Gián, cần phải tụng đủ 70 vạn biến tức
thấy cảnh giới như trên. Nên biết diệt tội liền thành Tiên Hạnh ( Pháp
hành trước tiên ) . Sau đó y theo Pháp vẽ Tượng Bản Tôn. Hoặc 3 thời, 4
thời hoặc 6 thời y theo Pháp cúng dường cầu Tất Địa Thế Gian Xuất Thế
Gian cho đến Vô Thượng Bồ Đề thảy đều đạt được.
Nếu có tu trì Đà La Ni này sẽ biết ngày
sau thành tựu nơi chốn: có nạn, không có nạn, Tất Địa chậm hay mau. Nên
ở một Tĩnh Thất dùng Cù Ma Di (Phân Trâu Trắng núi Tuyết ) xoa tô một
cái Đàn nhỏ, tùy sức cúng dường. Dùng Kết Giới Chân Ngôn kết 10
phương Giới. Đem một cái bình nước thơm để trong Đàn, một lòng niệm
tụng. Nếu cái bình chuyển động thì biết thành tựu việc mong cầu cần làm
, nếu chẳng chuyển động thì việc ấy chẳng thành.
Lại có Pháp. Lấy một cái chén sứ, dùng
hương xoa bôi rồi để trong Đàn, chuyên tâm niệm tụng. Nếu cái chén
chuyển động thì việc liền thành tựu, nếu chẳng chuyển động thì việc
chẳng thành.
Lại có Pháp. Muốn biết việc vị lai. Trước
tiên xoa tô một cái Đàn nhỏ, sai một đồng tử có đủ tướng Phước Đức tắm
gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Dùng Thất Câu Đê Chân Ngôn gia trì
vào hương rồi xoa bôi 2 bàn tay của đồng tử. Lại gia trì vào hoa 7 biến
đặt trong tay đồng tử rồi sai đồng tử che mặt đứng trong Đàn. Lại lấy
hoa riêng, tụng Chân Ngôn gia trì, cứ một biến thì đánh một lần vào lưng
bàn tay đồng tử, cho đến 21 lần liền hỏi đồng tử về chuyện Thiện Aùc,
đồng tử liền nói.
Lại có Pháp. Lấy một cái gương sáng để ở
trong Đàn. Trước tiên tụng Chân Ngôn gia trì vào hoa 108 biến, sau đó
lại tụng Chân Ngôn, cứ một biến thì ném đánh mặt gương một lần. Ở trên
mặt gương liền có văn tự hiện ra nói việc thiện ác.
Lại có Pháp. Muốn biết việc Thiện, bất
thiện, thành tựu, chẳng thành tựu. Lấy hoa Tô Ma Noa ( Sumanïa ) , dầu
thơm, tụng Chân Ngôn gia trì 108 biến rồi xoa bôi mặt ngón cái phải.
Tụng Chân Ngôn chẳng dứt tiếng và sai đồng tử quán trên mặt ngón tay sẽ
hiện hình tượng chư Phật Bồ Tát hoặc hiện văn tự nói đủ việc thiện ác.
Lại có Pháp. Nếu người bị bệnh Quỷ Mỵ.
Lấy cành Dương Liễu hoặc cỏ tranh, tụng Chân Ngôn rồi phất phủi trên
thân người bệnh , liền trừ khỏi bệnh.
Lại có Pháp. Nếu người bị bệnh nặng. Tụng
Chân Ngôn 108 biến, xưng tên người đó, dùng sữa bò Hộ Ma thì bệnh liền
khỏi.
Nếu trẻ thơ bị Dạ Đề ( Khóc đêm ) . Sai
đồng nữ se chỉ bên phải, tụng Chân Ngôn gia trì, kết 21 gút rồi đeo ở
dưới cổ thì trẻ thơ liền khỏi bệnh Dạ Đề.
Lại có Pháp. Trước tiên gia trì vào hạt
cải trắng 108 biến . Sau đó lấy hạt cải, tụng Chân Ngôn một biến thì ném
đánh người bị bệnh Quỷ Mỵ một lần, đủ 21 biến thì Quỷ Mỵ bỏ chạy và
người bệnh liền khỏi.
Lại có Pháp. Nếu có người bị Quỷ Mỵ. Lấy
Cù Ma Di xoa tô một cái Đàn nhỏ. Dùng tro trấu vẽ đất làm hình Quỷ Mỵ.
Tụng Chân Ngôn, dùng Thạch Lựu làm cây roi đánh thì Quỷ Mỵ ấy khóc lóc,
đuổi đi sẽ bỏ đi.
Lại có Pháp. Nếu người bị vướng Quỷ Mỵ.
Hoặc người bị bệnh ở nơi xa chẳng thể tự đến, hoặc người niệm tụng lại
chẳng đến nơi ấy được. Lấy cành Dương Liễu hoặc cành đào, hoặc hoa… gia
trì 108 biến rồi sai người đem đến chỗ người bệnh, dùng cành đó phủi
người bệnh. Hoặc đem hoa khiến người bệnh ngửi, hoặc dùng hoa đánh người
bệnh thì Quỷ Mỵ ấy liền bỏ đi, người bệnh được khỏi.
Lại có Pháp. Nếu bị rắn cắn, hoặc bị Noa
Cát Nữ Quỷ ( Dïàkinïì ) nắm giữ. Thời chuyển quanh người bệnh, tụng Chân
Ngôn thì người ấy liền khỏi bệnh.
Lại có Pháp. Nếu có người bị ung thủng
với bị các loại trùng độc cắn. Lấy nước cốt của Đàn Hương hòa với đất
làm bùn, tụng Chân Ngôn 7 biến rồi xoa lên vết thương thì bệnh liền
khỏi.
Lại có Pháp. Nếu đi trên đường, tụng Chân
Ngôn này thì chẳng bị giặc cướp gây thương tổn cũng xa lìa các nạn do
loài cầm thú ác gây ra.
Lại có Pháp. Nếu đấu tranh, kiện tụng,
luận lý và đàm luận cầu thắng . Tụng Chân Ngôn này sẽ thắng.
Lại có Pháp. Nếu đi trên sông nước, tụng
Chân Ngôn này thì chẳng bị nước cuốn chìm và chẳng bị các loài Rồng, cá
Ma kiệt, Cù, Giao Long… ở trong nước gay thương hại.
Lại có Pháp. Nếu bị tù cấm, cột trói.
Tụng Đà La Ni này sẽ mau được giải thoát.
Lại có Pháp. Ở trong nước ( Quốc thổ ) có
bệnh dịch. 7 ngày dùng dầu mè, gạo tẻ hòa với bơ, mật làm Pháp Hộ Ma thì
bệnh dịch liền được tiêu diệt, đất nước được an ninh.
Lại có Pháp. Nếu cầu phong nhiêu tài bảo.
Mỗi ngày đem mọi loại thức ăn tác Hộ Ma sẽ được tài bảo giàu có.
Lại có Pháp. Nếu uốn khiến người yêu kính
vui vẻ thì xưng tên của người ấy trong Chân Ngôn cú liền được vui vẻ
thuận phục.
Lại có Pháp. Nếu Vô Cầu ( không có mong
cầu ) thì niệm tụng liền được y nguyện.
Lại có Pháp. Nếu có người mà thân thể chi
tiết bị đau nhức thì gia trì vào lòng bàn tay 21 biến rồi xoa chạm vào
chỗ bị đau, liền được trừ khỏi.
Lại có Pháp. Nếu bị sốt rét với đau đầu (
Đầu thống ) thì gia trì vào lòng bàn tay 21 biến rồi xoa chạm cũng được
trừ khỏi.
Lại có Pháp. Xoa tô một cái Đàn nhỏ, lấy
một cái bát đồng chứa đầy tro sạch, khiến đồng tử dùng 2 tay đè trên cái
bát tro. Người Trì Tụng nên tụng Chân Ngôn thì Sứ Giả của Bản Tôn nhập
vào thân đồng tử, cái chén ấy liền chuyển động, giáng vào lời của đồng
tử. Tự kết Ấn Tam Muội Gia của 3 Bộ, tụng Chân Ngôn của 3 Bộ. Liền lấy
Cốt Thạch giao cho đồng tử. Đồng tử liền vẽ qua lại trên mặt đất nói
chuyện Thiện Ác , Cát Hung của việc vị lai với Kinh Luận bị thất thoát,
phát vọng vấn nạn nghĩa Chân Ngôn Ấn, liền được giải biết.
Lại có Pháp. Quân lính hai bên đánh nhau.
Vẽ Đà La Ni này trên vỏ cây hoa rồi treo trên ngọn trúc và sai người
cầm, tụng Chân Ngôn sẽ phá được quân địch ấy.
Lại có Pháp. Người nữ cầu con. Dùng Ngưu
Hoàng vẽ Chân Ngôn này trên vỏ cây hoa rồi khiến đeo thì chẳng lâu sẽ có
con.
Lại có Pháp. Hoặc người nữ chẳng được
chồng kính trọng. Lấy một cái bình mới chứa đầy nước sạch. Ở trong bình
bỏ 7 báu với các linh dược, ngữ cốc, hạt cải trắng. Dùng lụa màu cột cổ
bình, dùng Chân Ngôn gia trì 108 biến rồi khiến người nữ kết Căn Bản Ấn
đặt trên đỉnh đầu. Đem nước rưới đỉnh đầu liền được chồng thương yêu
kính trọng. Chẳng những được kính trọng lại còn có con nữa, thai nhi
được bền vững.
Lại có Pháp. Hành Giả mỗi lúc niệm tụng
thời kết Đại Ấn tụng Chân Ngôn, ấn Tháp đủ 60 vạn biến thì việc mong cầu
liền được đầy đủ. Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Đa La Bồ Tát
liền hiện thân khiến cho việc mong cầu được như ý. Hoặc vào trong cung A
Tô La, hoặc được Bồ Tát Địa, hoặc được thuốc trường thọ, hoặc được thành
tựu Pháp Kính Aùi.
Lại có Pháp. Ở Bồ Đề Đạo Trường, ở trước
Đại Chế Để ( Mahà caitya_ Tháp miếu lớp ) tụng Đà La Ni này sẽ được thấy
Thánh Tăng đến đàm Đạo và trao cho Tất Địa thành tựu, được đi chung với
vị ấy liền được đồng với Thánh Tăng ấy.
Lại có Pháp. Ở trên đỉnh núi cao, niệm
tụng một câu đê ( Kotïi_ 100 triệu) biến thì Kim Cương Thủ Bồ Tát cho
người ấy lãnh 560 người cùng vào cung A Tô La, sống lâu một kiếp được
thấy Di Lặc Bồ Tát, lắng nghe Chính Pháp. Nghe Pháp xong được Bồ Tát
Địa, được Bất Thoái Chuyển.
Lại có Pháp. Phía trên núi Tỳ Bổ La có
núi cao cũng được, ở trước Tượng Tháp có Xá Lợi tùy sức niệm tụng, đem
hương hoa cúng dường. Khất thực để nuôi dưỡng thân mệnh. Từ ngày mồng
một của tháng cho đến ngày 15 tụng Đà La Ni đủ 30 vạn biến. Chọn ngày
mãn hạn ấy, một ngày một đêm chẳng ăn, cúng dường gấp đôi, đến đêm sau
liền thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát đem Hành Nhân vào trong cung của mình, vì
Hành Giả hiển bày Môn A Tu La Quật ( Hang động của A Tu La ) vào trong
hang được Thiên Diệu Cam Lộ , thọ ngang bằng mặt trời mặt trăng.
Lại có Pháp.Ở thềm báu của 3 Đạo từ cõi
Trời xuống chỗ có Tháp báu. Hành Giả khất thực , nhiễu quanh, tụng một
Câu Đê biến liền thấy Vô Năng Thắng Bồ Tát ( Aparajita Bodhisatva ) ban
cho nguyện, vì người ấy nói Pháp màu nhiệm hiển bày Đạo Bồ Đề Vô Thượng.
Hoặc thấy Ha Lợi Để Mẫu ( Hàrïtye Màtrï _ Quỷ Tử Mẫu ) đem người ấy vào
trong cung của mình cho thuốc sống lâu , trở lại thành trẻ nhỏ đoan
chính đáng vui, đạt được phục tàng, đại nhân hứa khả, nên rộng làm lợi
ích Tam Bảo, được tất cả Bồ Tát an ủi, hiển bày Chính Đạo cho đến Đạo
Trường Bồ Đề.
Lại có Pháp. Nếu người trước kia không có
căn lành, không có hạt giống Bồ Đề, vừa tụng một biến ắt sinh Pháp Thân
Bồ Đề huống chi thường hay niệm tụng, yêu mến gìn giữ.
THẤT CÂU ĐÊ CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI. NIỆM TỤNG
NGHI QUỸ
Nếu có người tu tập Đà La Ni này cầu
thành tựu. Trước tiên nên tắm gội, ặc áo sạch, điểm tô Đạo Trường, an
trí Bản Tôn, tùy sức bày biện.
Pháp của Đạo Trường ấy nên chọn Thắng
Địa, làm một cái Đàn rộng 4 khuỷu tay, đào sâu xuống 3 khuỷu tay. Trử bỏ
gạch, ngói, đất ác, lông, tóc với xương cốt, tro, than, trùng, kiến…Lấy
đất sạch tốt lấp đầy rồi nện chặt cho bằng phẳng. Khi đào xuống không có
đất ác liền lấy đất cũ đổ lại và nện chặt. Nếu đất có dư, nên biết đất
ấy là Đại Cát Tường, mau chóng thành tựu. Lấy đất dư, Cù Ma Di ( Phân
trâu trắng ở núi Tuyết ) , nước thơm hòa với đất tốt làm bùng. Tụng Vô
Năng Thắng Bồ Tát Chân Ngôn gia trì 21 biến, sau đó đắp Đàn. Đắp xong
lấy 5 món tịnh hòa với nhau. Năm món tịnh là: Nước cốt của Cù Ma Di,
Nước tiểu của trâu ( ? bò ) , lạc ( sữa chưng chín ) , nhũ ( sữa tươi )
, bơ. Dùng Vô Năng Thắng Chân Ngôn gia trì 108 biến, xong theo bên phải
xoa tô khắp Đàn ấy.
Nếu ở trên đá núi kiến lập Đàn hoặc tại
lầu gác hoặc ở trên thuyền, nơi Đắc Đạo của tất cả Hiền Thánh… thì chỉ
dùng 5 món Tịnh xoa lau. Hành Giả ngồi hướng mặt về phương Đông, kết Vô
Năng Thắng Ấn đè đất, tụng Chân Ngôn 7 biến gia trì chính giữa Đàn. Lại
lấy các thuốc, 7 báu, ngũ cốc, mỗi thứ một chút phần. Chính giữa Đàn đào
sâu xuống một khuỷu tay rồi bỏ các thuốc với 7 báu vào và lấy đất cũ lấp
đầy, nện bằng phẳng.
Trị.
Dùng tay phải đè xuống, tụng Địa Thiên Kệ
3 biến. Cảnh Giác Thiên Thần Kệ là:
Ngươi, Trời gần, hộ giúp
Nơi các Phật Đạo Sư
Tu hành Hạnh Thù Thắng
Tĩnh Địa Ba La Mật
Như phá chúng Ma Quân
Thích Sư Tử cứu đời
Ta cũng giáng phục Ma
Ta vẽ Man Trà La
Tụng Địa Thiên Chân Ngôn là:
“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam. Tất-lị
thể vi duệ, sa-phộc hạ”
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ_ PRÏTHIVÌYE
_ SVÀHÀ
Tụng Kệ gia trì xong. Sau đó dùng Đàn
Hương xoa tô 9 vị trí của Bậc Thánh như mặt trăng tròn. Đem vật cúng mới
sạch : vàng, bạc, đồng đã tôi luyện, thương khư ( Vỏ ốc ) , bối ( vỏ sò
) , ngọc, đá, sành sứ, gỗ , vật khí mới… chứa các thức ăn uống với hương
hoa tốt, đèn đuốc, nước thơm Ứ Già. Tùy sức mà sắp bày cúng dường.
Nếu Bồ Tát Tại Gia Xuất Gia cầu Thành
Tựu. Mỗi lần vào Đạo Trường, trước tiên nên lễ Phật, Sám Hối, Tùy Hỷ,
Khuyến Thỉnh , Phát Nguyện. Nên thề thọ Bồ Đề Tâm Giới. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Một địa chỉ đa mẫu đát-bả ná dạ
nhĩ”
OMÏ_ BODHICITTAM UTPÀDA YÀMI
Tâm Bồ Đề (Bodhicitta ) lìa tất cả Ngã
Pháp. Mau lìa Uẩn, Xứ, Giới với lìa Năng Thủ, Sở Thủ. Nơi Pháp bình
đẳng, Tự Tâm vốn chẳng sinh, Tự Tính trống rỗng . Như thời Quá khứ tất
cả Phật Bồ Tát phát Tâm Bồ Đề, nay Ta cũng như vậy. Đây gọi là Tự Thệ
Thọ Bồ Đề Tâm Giới. Do tụng một biến suy tư Thắng Nghĩa Đế đắc được
vô lượng vô biên công đức Vô Vi trang nghiêm 3 nghiệp cho đến Bồ Đề Đạo
Trường. Phước ấy không bị gián đoạn, mau diệt tất cả nghiệp chướng, mau
được thành tựu Chân Ngôn, Bản Tôn hiện tiền như Hoa Nghiêm Nhập Pháp
Giới Phẩm: Từ Thị Bồ Tát vì Thiện Tài Đồng Tử nói công đức của Tâm
Bồ Đề.
Tự thệ thọ Bồ Đề Tâm Giới xong. Tùy ý
ngồi Bán Già hay Toàn Già, thẳng thân nhắm mắt, liền kết Định Ấn. Tưởng
trong Hư Không có Chuẩn Đề Phật Mẫu ( Cunõdhe Buddha Màtrï ) với 7 câu
đê ( 700 triệu ) Phật vây quanh tràn khắp hư không. Trong Định lễ tất cả
chư Phật với Chuẩn Đề Phật Mẫu, sao đó dùng hương xoa tay, nên kết Khế
Ấn.
Phật Bộ Tam Ma Gia Ấn:
Chắp hai tay lại giữa trống rỗng ( Hư Tâm Hợp Chưởng ) mở 2 ngón trỏ co
phụ cạnh lóng thứ nhất dưới móng 2 ngón giữa, 2 ngón cái đều phụ dưới
gốc 2 ngón trỏ, liền thành. Để ngang trái tim, tụng Chân Ngôn 7 biến,
tưởng Đức Như Lai có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Tướng tốt rõ ràng như đối
trước mắt. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Đát tha nghiệt đô nạp-bà phộc dã,
sa-phộc hạ”
OMÏ_ TATHÀGATA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn nên liền
cảnh giác tất cả Như Lai đều sẽ hộ niệm gia trì Hành Giả, dùng ánh sáng
chiếu chạm thì hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt, mau tăng thọ
mệnh, tăng trưởng Phước Tuệ, Thánh Chúng của Phật Bộ vui vẻ ủng hộ, đời
đời kiếp kiếp lìa các nẻo ác, hóa sinh trong hoa sen, mau chứng Vô
Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
Liên Hoa Bộ Tam Ma Gia Ấn:
Chắp hai tay lại giữa trống rỗng. Mở bung 2 ngón trỏ, 2 ngón giữa, 2
ngón vô danh rồi co lại như hình hoa sen> Để Ấn ngang trái tim, tụng
Chân Ngôn 7 biến. Tưởng Quán Tự Tại Bồ Tát có đầy đủ tướng tốt rồi bung
Ấn bên phải đỉnh đầu. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Bả ná-mô nạp bà phộc dã, sa-phộc
hạ”
OMÏ_ PADMA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do Kết Ấn này tụng Chân Ngôn liền cảnh
giác Bậc cầm hoa sen của hàng Quán Tự Tại Bồ Tát. Ánh sáng của tất cả
Bồ Tát chiếu chạm thì hết thảy nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả
Bồ Tát thường làm bạn tốt.
Kim Cương Bộ Tam Ma Gia Ấn:
Lật bàn tay trái hướng ra ngoài, đem lưng bàn tay phải để trên lưng bàn
tay trái sao cho ngón cái, ngón trỏ của 2 tay trái phải đều trợ móc
nhau. Tưởng Kim Cương Thủ Bồ Tát, tụng Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn bên
trái đỉnh đầu. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Phộc nhật-lô nạp bà phộc dã,
sa-phộc hạ”
OMÏ_ VAJRA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này với tụng Chân Ngôn nên liền
cảnh giác tất cả Kim Cương Thánh Chúng gia trì ủng hộ, hết thảy tội
chướng đều được tiêu diệt, tất cả bệnh khổ rốt ráo chẳng dính vào thân,
thường được Thể Kim Cương bền chắc
Tiếp kết Đệ Nhị Căn Bản Ấn ( Dùng
Hộ Thân ): Hai tay cùng cài chéo nhau bên ngoài, kèm dựng thẳng 2 ngón
trỏ, 2 ngón cái, liền thành. Tụng Phật Mẫu Tâm Chân Ngôn, ấn 5
nơi trên thân là: vầng trán, vai phải, vai trái, trái tim, cổ họng rồi
bung Ấn trên đỉnh đầu. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Ca ma lê, vĩ ma lê, chuẩn nê,
sa-phộc hạ”
OMÏ_ KAMALE VIMALE CUNÕDHE _ SVÀHÀ
Lúc kết Ấn Hộ Thân thời khởi Tâm Đại Bi
duyên khắp 4 loài trong 6 nẻo. Nguyện cho tất cả Hữu Tình đều mặc áo
giáp Đại Thệ Trang Nghiêm Kiên Cố Kim Cương, mau chứng Vô Thượng Chính
Đẳng Bồ Đề.
Tiếp kết Địa Giới Quyết Ấn: Hai
tay cùng cài chéo nhau bên trong. Dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2
ngón út đều hợp nhau. Co ngón trỏ trái như móc câu, rút kéo ngón cái 3
lần chỉ mặt đất ,liền thành. Một lần rút kéo thì tụng Chân Ngôn một lần.
Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Chuẩn nễ, nễ, chỉ la dã, sa-phộc
hạ”
OMÏ CUNÏDHE _ DHE _ KÌLÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn gia trì Địa
Giới cho nên bên dưới đến Thủy Tế như Tòa Kim Cương. Thiên Ma với các
loài gây chướng chẳng dám gây não hại, chỉ thêm chút công sức mà mau
được thành tựu.
Người Trì Tụng tiếp nên ở trong Đàn. Tâm
tưởng hoa sen lớn có 8 cánh, bên trên có Tòa Sư Tử. Trên Tòa có lầu gác
báu rũ treo các Anh Lạc, lụa, phan, phướng, lọng, cột báu bày hàng, rũ
treo áo khoác ngoài màu nhiệm ( Diệu Thiên Y). Chung quanh bày mây hương
tuôn mưa đủ loại hoa, dâng tấu các kỹ nhạc, bình báu, Ứ Già, thức ăn
uống màu nhiệm của cõi Trời, Ngọc Ma Ni làm đèn. Nếu không có Mạn Trà La
thì chỉ quán tưởng ở trong hư không, liền thành. Tác quán này xong, niệm
tụng Kệ là:
Dùng lực công đức Ta
Lực Như Lai gia trì
Cùng với lực Pháp Giới
Cúng dường khắp mà trụ
Tụng Kệ này xong, liền tụng Đại Hư
Không Tạng Bồ Tát Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Nga nga nẵng, tam bà phộc, phộc
nhật-la, hộc”
OMÏ_ GAGANA SAMÏBHAVA VAJRA HOHÏ
Do tụng Chân Ngôn này gia trì nên tưởng
vật cúng dường đều thành vật chân thật không khác, tất cả Thánh Chúng
đều được thọ dụng.
Tiếp kết Bảo Xa Lạc Ấn: Hai tay
cùng cài chéo nhau bên trong. Ngửa lòng bàn tay, đặt 2 ngón trỏ nằm
ngang cùng trụ nhau, 2 ngón cái đều vịn dưới gốc ngón trỏ. Tưởng Xa Lạc
7 báu có Sứ Giả của Phật Bộ ngự nương chiếc xe 7 báu đó đi đến trong
cung điện của Tỳ Lô Giá Na Phật ở cung Trời A Ca Ni Tra ( Sắc Cứu Cánh
Thiên ) trên đỉnh của cõi Sắc, tụng Chân Ngôn 7 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Đổ lỗ, đổ lỗ, hồng”
OMÏ_ TURU TURU HÙMÏ
Do tụng Chân Ngôn kết Ấn gia trì nên Xa
Lạc 7 báu đi đến đỉnh Sắc Giới. Phật Mẫu Chuẩn Đề với 8 vị Đại Bồ Tát và
các Thánh Chúng quyến thuộc vây quanh ngồi trên Xa Lạc 7 báu đó.
Tiếp kết Thỉnh Xa Lạc Ấn: Dựa treo
Ấn trước, đem ngón cái hướng về thân, bạt ngón giữa liền thành.Tụng Chân
Ngôn 7 biến. Chân Ngôn là:
“ Nẵng mạc tất-để-lị dã địa-vĩ ca nam,
đát tha nghiệt đa nam. Aùn_ Phộc nhật-lãng nghĩ yết lị-sái dã, sa-phộc
hạ”
NAMAHÏ STRIDHVIKANÀMÏ _ TATHÀGATÀNÀMÏ
OMÏ_ VAJRÀMÏGNI AKARSÏÀYA _ SVÀHÀ
Do tụng Chân Ngôn gia trì cho nên Thánh
Chúng từ Bản Thổ đi đến Đạo Trường, trụ ở hư không.
Tiếp kết Bản Tôn Ấn: Từ Xa Lạc
giáng hạ xuống Đạo Trường. Dựa theo Căn Bản Ấn thứ nhất lúc trước, đem 2
ngón cái hướng về thân triệu mời, tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, ê hế duệ
tứ, bà nga phộc để, sa-phộc hạ”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ EHYEHI
BHAGAVATI _ SVÀHÀ
Tiếp kết Vô Năng Thắng Bồ Tát Ấn
tịch trừ loài gây chướng. Hai tay, bên phải đè bên trái, cài chéo bên
trong rồi nắm quyền. Dựng 2 ngón giữa sao cho đầu ngón hợp nhau, liền
thành. Nhiễu thân xoay 3 vòng bên trái, tác suy tư là:” Hết thảy loài
gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca, các Quỷ Thần ác hãy mau chạy đi. Nơi Thánh
Chúng đến chẳng vượt qua Bản Tam Ma Gia Đại Bi mà trụ. Nguyện xin gia
hộ”.
“ Nẵng mạc tam mãn đa bột đà nam. Aùn_ Hộ
lỗ, hộ lỗ, chiến noa lý, ma đắng kỳ, sa-phộc hạ”
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ OMÏ HURU
HURU CANÏDÏARI MATANÕGI _ SVÀHÀ
Tiếp kết Tường Giới Ấn: Dựa theo
Địa Giới Ấn lúc trước. Co ngón trỏ phải, giương ngón trỏ trái, xoay theo
bên phải 3 vòng, tùy Tâm gần xa, liền thành bức tường kiên cố. Chư Phật
Bồ Tát còn chẳng trái vượt huống chi các loài khó điều phục khác, Tỳ Na
Dạ ca với trùng độc, loài có nanh vuốt chẳng thể tiếp cận được. Chân
Ngôn là:
“ Aùn_ Chuẩn nễ, ninh, bát-la ca la gia,
sa-phộc hạ”
OMÏ CUNÕDHE _ DHE _ PRAKARÀYA _ SVÀHÀ
Tiếp kết Thượng Phương Võng Giới Ấn:
Dựa theo Tường Giới Ấn lúc trước. Giương ngón trỏ trái, bên phải đè
bên trái, sao cho lóng giữa giao nhau, liền thành. Tụng Chân Ngôn này 3
biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Chuẩn nễ, ninh, bán nhạ la,
sa-phộc hạ”
OMÏ CUNÕDHE _ DHE _ PAMÏJALA _ SVÀHÀ
Tiếp kết Hỏa Viện Mật Phúng Ấn:
Đem tay trái che đậy tay phải sao cho lưng bàn tay trùng nhau, dựng
thẳng 2 ngón cái , liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến, xoay theo bên phải
3 vòng, tưởng bên ngoài bức tường Kim Cương có lửa Kim Cương vây quanh.
Chân Ngôn là:
“ Aùn_ A tam mãng nghĩ nễ, hồng, phát
tra”
OMÏ_ ASAMÀMÏGNI HÙMÏ PHATÏ
Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn thành Đại
Kết Hộ Mật Phúng, chẳng bị các Ma nhập vào.
Tiếp kết Ứ Già Ấn: Hai tay cài
chéo nhau bên trong, dựng 2 ngón giữa dính nhau, đem 2 ngón trỏ vịnlưng
2 ngón giữa, cạnh bên của 2 ngón cái phụ gốc 2 ngón trỏ, liền thành Căn
Bản Ấn. Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, hơi co 2 ngón cái vào lòng bàn
tay liền thành Ứ Già Ấn, tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, át kiềm,
bát-la để sai, bà nga phộc để, sa-phộc hạ”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ ÀRGHÀMÏ
PRATICCHA BHAGAVATI _ SVÀHÀ
Hành Giả suy tư Thánh Chúng mỗi mỗi rõ
ràng. Tưởng thân của mình ở dưới chân của chư Phật, Thánh Chúng. Tay cầm
bình Ứ Già 7 báu chứa đầy nước thơm, rửa chân Thánh Chúng. Do hiến nước
thơm Ứ Già cho nên 3 nghiệp của Hành Giả được thanh tịnh, tẩy sạch vết
nhơ phiền não, tiêu diệt nghiệp chướng.
Tiếp kết Liên Hoa Tòa Ấn: Dựa theo
Căn Bản Ấn lúc trước, kèm 2 ngón cái hướng về thân dựng thẳng. Vận tưởng
từ Ấn này tuôn ra vô lượng Tòa Sư Tử phụng hiến tất cả Thánh Chúng, các
Thánh Chúng ấy mỗi mỗi đều ngồi. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Ca ma la, sa-phộc hạ”
OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ
Do kết Tòa Ấn tụng Chân Ngôn phụng hiến
Thánh Chúng cho nên Hành Giả sẽ mau được mãn túc 10 Địa, được Tòa Kim
Cương.
Tiếp kết Táo Dục Ấn: Dựa theo Căn
Bản Ấn lúc trước, đem 2 đầu ngón cái vịn lóng giữa của 2 ngón giữa, liền
thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Giả, sa-phộc hạ”
OMÏ _ CA _ SVÀHÀ
Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh
sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng Hiền Bình 7 báu, tưởng đầy tràn
nước thơm màu nhiệm của cõi Trời rưới rót tắm rửa tất cả Thánh Chúng.
Lại tưởng trong hư không có vô lượng âm nhạc của cõi Trời cúng dường Bản
Tôn, các Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng.
Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên
chẳng lâu Hành Giả sẽ chứng Pháp Vân Địa.
Tiếp kết Đồ Hương Ấn:Dựa theo Căn
Bản Ấn lúc trước, đem 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ phải,
liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Lễ, sa-phộc hạ”
OMÏ_ LE _ SVÀHÀ
Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh
sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển hương bột, dầu thơm
màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, Chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh
Chúng.
Do kết Ấn tụng Chân Ngôn cho nên sẽ chứng
Hương Giới, Định , Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến của tất cả Như
Lai.
Tiếp kết Hoa Ấn: Dựa theo Căn Bản
Ấn lúc trước, đem 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ trái, liền
thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Chủ, sa-phộc hạ”
OMÏ_ CU _ SVÀHÀ
Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh
sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển hoa màu nhiệm của cõi
Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng.
Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên sẽ
được thành tựu Đại Từ Tam Ma Địa, hay lợi lạc cho vô biên chúng sinh,
thân chẳng dính các tai nạn.
Tiếp kết: Thiêu Hương Ấn Dựa theo
Căn Bản Ấn lúc trước, co ngón trỏ phải vịn đầu 2 ngón cái, liền thành.
Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Lễ, sa-phộc hạ”
OMÏ_ LE _ SVÀHÀ
Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh
sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng hòa hợp câu sinh mây biển hương
đốt màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, các Thánh Chúng.
Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên sẽ
được thành tựu Phổ Mãn Pháp Giới Tam Ma Địa.
Tiếp kết Aåm Thực Ấn: Dựa theo Căn
Bản Ấn lúc trước, đem ngón trỏ trái vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Tụng
Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Chuẩn, sa-phộc hạ”
OMÏ_ CUNÕ _ SVÀHÀ
Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh
sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển mọi thức ăn uống màu
nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh
Chúng sẽ được thành tựu Pháp Hỷ Thiền Duyệt Thực Tam Giải Thoát Tối
Thắng Vị Tam Ma Địa.
Tiếp kết Đăng Ấn: Dựa theo Căn Bản
Ấn lúc trước, đem 2 ngón trỏ vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Tụng Chân
Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Nê, sa-phộc hạ”
OMÏ _ DHE _ SVÀHÀ
Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh
sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển mọi loại đèn đuốc 7
báu màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả
Thánh Chúng sẽ được Bát Nhã Ba La Mật Quang Minh Ngũ Nhãn Thanh Tịnh.
Tiếp tụng Tán Thán:
A phộc đát la tả đổ la-ná xá la-đà ,
sa-ma la , lị bổ cú trí, bát-la noa ma bả ná vĩ tứ đế. A giả lễ đát tai
sa lị tố nễ, tổ lễ tất đình, tư chuẩn nê tát-la muộn để nam. Sa phộc xả
ma nễ, sa-phộc hãn đế , tát phả-la noa phệ.
Đát-nễ dã tha: Ngật-lệ la noa nghiệt đế.
A vĩ nễ đa tát đát-phộc, ná ma nãnh-la cức na lộ ca đát-la dã, la-tha ca
lợi la ngật-đa la-vĩ na thú tị nãnh bá đát-la , ca la đạc ngật-sử nãnh,
sa-phổ châm tất-thể đát-phộc. Chuẩn đề đa ma la-tham sắt-châm lý khư,
nhạ nẵng nẵng, na nễ để, ma đế, nẵng phả-la nẵng phả-la , khố-vũ địa lệ
la thủy lê dã. Tát-đát phạm, đế la nhĩ-diễm nhạ bế đát-mẫu nãnh, mạo nễ,
phộc nhật-lị, đảm chỉ la đà niệm , tố la tị bổ bà phộc nam. Phả-la phệ
xả dã để.
A lị-dã phộc lộ chỉ đế , bá tất đình, để
nặc tăng xả gian, tát đát đa nhạ bả đa nẵng tất-để tát-đát-phạm. Nẵng na
ná nhạ nghiệt để khẩn chỉ nễ-dã, yết-để tỳ-dược. Nhất để sa ca la bả phả
nẵng xá ninh, bà nga phộc để, phả xỉ đa ma đát-la tất địa. Ca lị , bố la
dã, ma nỗ la tham minh cức ná để nẵng đát-phạm, sa-ma lãm ca thất-tử đa.
Bà nga phộc để, chuẩn nê đà la ni, tát-đố
đát-la tát ma phả-đa.
Tiếp nói Bản Tôn Đà La Ni Bố Tự Pháp
Từ đỉnh đầu cho đến chân, quán mỗi một
chữ của Chân Ngôn cong quẹo rõ ràng tuôn ra ánh sáng chiếu soi Hữu Tình
luân hồi theo 4 cách sinh trong 6 nẻo, khởi sâu lòng thương xót ban cho
an vui.
Dùng 9 chữ của Đà La Ni an bày nơi thân
của Hành Giả, liền thành. Dùng Như Lai Ấn, 8 vị Đại Bồ Tát làm nơi gia
trì thân.
Nếu tác Tức Tai ( ‘Sàntika ) , Tăng Ích (
Pusïtïika ) , Kính Aùi ( Va’sikaranïa), Giáng Phục ( Abhicàruka ) .Tùy
theo 4 loại Pháp là màu trắng, màu vàng, màu đen, màu đỏ để thành biện
Tất Địa.
Liền kết Bố Tự Ấn: Hai tay cài
chéo nhau bên trong. Dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út cùng
hợp nhau liền thành.
Tưởng chữ Aùn ( _OMÏ )
đặt ở đỉnh đầu, dùng ngón cái chạm trên đầu
Tưởng chữ Giả ( _JA
? _ CA ) lại dùng ngón cái chạm trên mắt phải mắt trái
Tưởng chữ Leã ( _ LE )
an ở trên cổ, dùng ngón cái chạm vào
Tưởng chữ Chuû ( _CO
? _CU ) ngang trái tim, dùng ngón cái chạm vào
Tưởng chữ Lễ ( _LE ) an
ở vai trái, vai phải. Dùng ngón cái chạm vào
Tưởng chữ Chuẩn ( _CA
? _ CUNÕ )an ở trên rốn, dùng ngón cái chạm vào
Tưởng chữ Neâ ( _NDE
? _DHE ) an trên đùi phải, đùi trái. Dùng ngón út chạm vào.
Tưởng chữ Sa-phộc ( _
SVÀ ) an ở bắp chân phải, bắp chân trái. Dùng ngón út chạm vào.
Tưởng chữ Ha ( _ HÀ )
an trên lòng bàn chân phải, lòng bàn chân trái. Dùng ngón út chạm vào.
Do tưởng bày Chân Ngôn kết Ấn gia trì cho
nên thân của Hành Giả liền thành thân của Chuẩn Nê Phật Mẫu, tiêu diệt
tất cả nghiệp chướng, gom chứa vô lượng phước đức cát tường. Thân ấy
thành thể Kim Cương Bất Hoại.
Nếu thường chuyên chú Quán Hạnh thì tất
cả Tất Địa đều được hiện tiền, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
Tiếp kết Căn Bản Ấn, tụng Căn Bản Chân
Ngôn 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu.
Liền lấy đủ 108 hạt Bồ Đề, y theo Pháp
xâu xỏ thành tràng hạt. Liền lấy dầu thơm xoa bôi trên tràng hạt ấy.
Dùng 2 tay nâng tràng hạt ngang trái tim, tụng Chân Ngôn 7 biến gia trì
tràng hạt. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Vĩ lô giả na, ma la, sa-phộc hạ”
OMÏ_ VAIROCANA AMALA _ SVÀHÀ
Gia trì đội trên đỉnh đầu. Tâm miệng tác
lời Nguyện là:” Nay con muốn niệm tụng. Nguyện xin Bản Tôn , chư Phật
Bồ Tát gia trì hộ niệm. Nguyện khiến cho mau được tùy ý viên mãn Tất Địa
mong cầu”
Sau đó dùng ngón vô danh , ngón cái của
tay trái đỡ tràng hạt. Dùng ngón cái, ngón vô danh của tay phải lần dời
hạt châu. Tay có tướng như Thuyết Pháp đặt ở trước trái tim, cầm tràng
hạt niệm tụng. Tiếng niệm ấy chẳng chậm chẳng gấp. Quán thân của mình
đồng với thân của Bản Tôn với đầy đủ tướng tốt.
Lại ở trước thân, trong Đàn quán tưởng
Thất Câu Chi Phật Mẫu với quyến thuộc vây quanh, mỗi mỗi rõ ràng đối
diện chỗ ngồi của mình. Mỗi lần xưng shữ Sa-phộc ha ( SVÀHÀ )
đồng thời lần dời một hạt. Hoặc 108, hoặc 1080 làm biến số niệm tụng,
thường nên có hạn định. Nếu chẳng mãn 108 biến tức chẳng đủ cầu biến số
của Tất Địa.
Niệm tụng xong rồi. Cầm tràng hạt ở trong
lòng bàn tay đưa lên đỉnh đầu đội rồi phát nguyện. Tác lời Nguyện là:”
Dùng công đức niệm tụng của con, tất cả chúng sinh đã tu Hạnh Chân Ngôn
cầu Tất Địa Thượng, Trung, Hạ sẽ mau được thành tựu”. Xong rồi đặt
tràng hạt vào trong cái hộp.
Liền kết Định Ấn, thân ngay thẳng, nhắm
mắt, lắng Tâm, định Ý. Nên ở trong thân, ngay ức ngực tỏa hiện ánh sáng
tròn trịa ( Viên Minh ) như trăng tròn sáng rực rỡ, khởi đại tinh tiến,
quyết định thủ chứng. Nếu chẳng lười biếng mà chuyên công ắt sẽ được Tâm
thanh tĩnh của cội nguồn.
Ở trong Viên Minh , tưởng chữ Aùn, 8 chữ
còn lại chuyển theo bên phải an bày trên viên minh. Ở trong Định cần
thấy chữ của Chân Ngôn rõ ràng chẳng tán động sẽ được Định tức tương ứng
với Bát Nhã Ba La Mật. Liền vẽ Viên Minh Nguyệt Luân
Tiếp nên suy tư về nghĩa của Tự Mẫu
Chủng Tử
Chữ Aùn ( _ OMÏ ) nghĩa
là 3 Thân, cũng có nghĩa là tất cả Pháp vốn chẳng sinh
Chữ Giả ( _ CA ) nghĩa
là tất cả Pháp chẳng sinh chẳng diệt
Chữ Lễ ( _LE ) nghĩa là
tất cả Pháp Tướng không có sở đắc
Chữ Chuû ( _CO
? _CU ) nghĩa là tất cả Pháp không có sinh diệt
Chữ Lễ ( _LE ) nghĩa là
tất cả Pháp không có dơ bẩn ( vô cấu )
Chữ Chuẩn ( _CU
? _ CUNÕ ) nghĩa là tất cả Pháp không có Đẳng
Giác ( Vô Đẳng Giác )
Chữ Neâ ( _NDE
? _DHE ) nghĩa là tất cả Pháp không có lấy bỏ (Vô thủ
xả )
Chữ Sa-phộc ( _ SVÀ )
nghĩa là tất cả Pháp bình đẳng không có ngôn thuyết
Chữ Ha ( _ HÀ ) nghĩa
là tất cả Pháp không có Nhân ( vô nhân )
Do tất cả Pháp vốn chẳng sinh nên liền
được chẳng sinh chẳng diệt
Do chẳng sinh chẳng diệt nên liền được
tướng không có sở đắc
Do tướng không có sở đắc nên liền được
không có sinh diệt
Do không có sinh diệt nên liền được không
có dơ bẩn
Do không có dơ bẩn nên liền được không có
Đẳng Giác
Do không có Đẳng Giác nên liền được không
có lấy bỏ
Do không có lấy bỏ nên liền được bình
đẳng không có ngôn thuyết
Do bình đẳng không có ngôn thuyết nên
liền được không có Nhân không có Quả, tương ứng Bát Nhã không có sở đắc
dùng làm phương tiện nhập vào Thắng Nghĩa, chân thật chứng Pháp Giới
Chân Như.
Dùng đây làm Tam Ma Địa Niệm Tụng
Xong rồi nên kết Căn Bản Ấn
Tiếp nên kết Táo Dục Ấn
Tiếp kết Ngũ Cúng Dường Ấn
Tiếp tụng Tán Thán hiến Ứ Già
Tiếp kết A Tam Ma Nghĩ-nễ Ấn (
Asamàmïgni Mudra ) chuyển bên trái một vòng giải Giới.
Tiếp kết Bảo Xa Lạc Ấn. Đem ngón cái
hướng ra ngoài bật đầu ngón giữa Phụng Tống Thánh Giả quay về Bản
Cung. Phụng Tống Chân Ngôn là:
“Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, nghiệt xa
nghiệt xa, bà nga phộc để, sa-phộc bà phộc nam, bố ná la nga ma na dã,
sa-phộc hạ”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ GACCHA
GACCHA BHAGAVATI SVABHÀVÀNÀMÏ BUDDHA ÀRGHA MANÀYA _ SVÀHÀ
Tiếp kết 3 Bộ Tam Ma Gia Ấn, đều tụng
Chân Ngôn, nhiễu một lần lễ Phật. Như trước Sám Hối, Tùy Hỷ, Khuyến
Thỉnh, Phát Nguyện, Hồi Hướng Vô Thượng Bồ Đề, tùy ý kinh hành, chuyển
đọc Kinh Điển Đại Thừa : Hoa Nghiêm, Đại Bát Nhã Kinh… ấn Tháp Tượng,
tắm rửa Xá Lợi. Xoay quanh theo bên phải nghĩ 6 Niệm, dùng nhóm Phước
hồi hướng Tất Địa mà mình mong cầu.
Tiếp nói về 4 loại Pháp:Tức Tai, Tăng
Ích, Kính Aùi, Điều Phục
Pháp Phiến Để Ca ( ‘Sàntika ) :
Cầu diệt tội, chuyển chướng, trừ tai họa. Quỷ Mỵ, bệnh tật, tù cấm, gông
cùm, dịch bệnh, quốc nạn, mưa nắng không đều, sâu trùng làm tổn hoại lúa
non, 5 Tinh ( Tinh Tú ) xâm bức Bản Mệnh… thảy đều trừ diệt, giải thoát
phiền não. Đây gọi là Pháp Tức Tai.
Lúc tác Pháp này thời mặc áo trắng, hướng
mặt về phương Bắc, chéo ống chân dựng đầu gối ngồi theo thế Cát Tường.
Quán Bản Tôn màu trắng. Cúng dường thức ăn uống, quả trái, hương hoa,
đèn đuốc, đất… thảy đều màu trắng. Từ mồng một của tháng đến ngày mồng 8
. Mỗi ngày 3 Thời niệm tụng, ban đêm làm Hộ Ma . Tức Tai Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến
cho con tên….Nếu vì người khác thì niệm tụng xưng tên của người ấy ) ,
phiến để , củ lỗ, sa-phộc hạ”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho con
…. ) ‘SÀNTÏIMÏ KURU _ SVÀHÀ
Pháp Bổ Sắt Trưng Ca ( Pusïtïika )
: Cầu diên mệnh ( sống lâu ) quan vinh, phục tàng, quan sang, thông tuệ,
nghe giữ chẳng quên, thành tựu Pháp Thuốc, thành tựu chày Kim Cương…
Hoặc làm hình của loài sư tử, voi, ngựa. Dùng Chân Ngôn gia trì hiện 3
tướng. Tùy mong cầu Thượng, Trung, Hạ sẽ được Quả như Tất Địa rộng
nói.Muốn cầu Trì Minh Tiên, vào hang A Tô La với cầu vào hang của các
Quỷ Thần trong 8 Bộ đều được, chứng địa vị thần thông, cầu 2 loại tư
lương sẽ được đầy đủ, mau thành Vô Thượng Bồ Đề. Đây gọi là Pháp Tăng
Ích.
Lúc tác Pháp này thời thân mặc áo vàng,
hướng mặt về phương Đông, ngồi Kiết Già. Quán Bản Tôn màu vàng. Cúng
dường hương hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc, đất… thảy đều màu
vàng. Từ ngày mồng 8 của tháng đến ngày 15. Mỗi ngày 3 Thời niệm tụng,
ban đêm làm Hộ Ma. Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến
cho con… ) Bổ sắt trưng, củ lỗ, sa-phộc hạ”
OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho
con… ) PUSÏTÏIMÏ KURU _ SVÀHÀ
Pháp Phạt Thí Ca La Noa (
Va’sikaranïa ). Nếu muốn khiến cho tất cả người nhìn thấy phát Tâm vui
vẻ. Nhiếp phục câu triệu hoặc nam hoặc nữ, 8 Bộ Trời Rồng, nữ Dược Xoa
với nhiếp phục Quỷ Thần khó giáng phục hoặc kẻ oán địch gây ra việc
chẳng nhiêu ích đều khiến cho hồi tâm vui vẻ, chư Phật hộ niệm gia trì.
Đây gọi là Pháp Nhiếp Triệu Kính Aùi.
Người tác Pháp này. Thân mặc áo đỏ, hướng
mặt về phương Tây, dựng 2 đầu gối kèm ống chân ngồi theo thế Hiền Tọa.
Quán Bản Tôn với chỗ cúng dường, hương hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn
đuốc, đất… đều là màu đỏ. Từ ngày 16 đến ngày 23. Mỗi ngày 3 Thời niệm
tụng, ban đêm tác Hộ Ma. Nhiếp Triệu Chân Ngôn là:
“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến
cho con… ) phộc thí , củ lỗ, sa-phộc hạ”
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho
con…. ) VA’SI KURU _ SVÀHÀ
Pháp A Tỳ Già Lỗ Ca ( Abhicàruka )
: Phạm 5 tội Vô Gián, phỉ báng Đại Thừa Phương Quảng, giết hại Phật
Tính, bội nghịch Quân Chủ, rối loạn Chính Pháp… Đối với người như vậy,
khởi sâu Bi Mẫn nên tác Pháp Giáng Phục.
Lấy phân lừa hoặc phân lạc đà, hoặc tro
thiêu xác… đem dùng xoa tô Đàn. Lúc tác Pháp này thời thân mặc áo đen
hoặc áo xanh, hướng mặt về phương Nam, ống chân trái đè ống chân phải
ngồi theo thế Tông Cứ Tọa ( Ngồi xổm ) . Quán Bản Tôn màu đen. Lấy hoa
màu đen hay màu xanh có mùi hôi thối không có mùi thơm cúng dường. Nơi
cúng dường, thức ăn uống, hương hoa, quả trái, đèn đuốc, đất… đều là màu
đen hoặc màu xanh. Từ ngày 23 của tháng cho đến ngày cuối tháng. Chọn 2
thời niệm tụng là giờ Ngọ và nửa đêm ( giờ Tý ) , ban đêm tác Hộ Ma.Chân
Ngôn là:
“ Hồng, giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến
cho con….. ) phá-la nẫm, già đa gia, hồng, phát tra”
HÙMÏ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho
con…. ) PRANÀMÏ JATÏÀYA _ SVÀHÀ
Tiếp nói Pháp vẽ Tượng Chuẩn Nê Phật
Mẫu:
Lấy một mảnh lụa trắng chưa bị cắt. Loại
bỏ lông, tóc rồi treo ở bức tường sạch. Trước tiên nên xoa tô Đàn. Tùy
sức đem Ứ Già, thức ăn uống mà cúng dường. Họa Sư nên thọ 8 Giới Trai
trong sạch vẽ Tượng. Trong thái sắc ấy đừng dùng keo nấu bằng da thú,
điều phối màu sắc trong vật khí mới. Nên vẽ Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với
thân màu trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn
có dính hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới
đều tác màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc,
đội Mão Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo
vòng báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay.
Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp
Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay
thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm
cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay
thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt.
Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu
Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay
thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư
(‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương
Kinh Bát Nhã.
Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có
Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàga ràja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà (
Upananda Nàga ràja ) nâng tòa hoa sen.
Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò
hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì
Minh, hướng mắt nhìn xuống.
Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị
tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử, tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương
theo trên hư không đến cúng dướng Thánh Giả.
Vẽ Tượng xong. Tùy sức Tăng Thứ, thỉnh 7
vị Tăng cúng dường, bày ánh hào quang, chú nguyện, tán thán.
Ở bên dưới Tượng vẽ bài Kệ Pháp Thân
Duyên Khởi. Rồi đem Tượng để ở Tinh Thất, bí mật cúng dường. Dùng lụa
phủ kín Tượng, lúc niệm tụng thì bỏ mảnh lụa che ra, chiêm lễ cúng
dường. Niệm tụng xong lại dùng lụa che kín không cho người khác thấy.
Tại sao thế ? Vì theo Thầy thọ Pháp Nghi Quỹ vẽ Tượng, nếu truyền cho
người xem Tượng thì Ma kia được dịp thuận tiện gây rối, nên phải giữ bí
mật.
THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU SỞ THUYẾT ĐÀ LA NI
KINH
( Hết )
02/03/2004
Mật Tạng Bộ 3 _ No.1077 ( Tr.185_ Tr.186
)
PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU TÂM ĐẠI
CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI KINH
Hán dịch : Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng
ĐỊA BÀ HA LA
Việt dịch : HUYỀN THANH
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc trong nước Xá Vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn suy tư quán sát thương xót
các chúng sinh đời vị lai nên nói Pháp Thất Câu Đê Phật Mẫu Tâm Chuẩn
Đề Đà La Ni đó. Liền nói Chú là:
“ Nam mô táp đá nam, tam miệu tam một đà,
câu đê nam. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chẩn đề, sa bà ha”
NAMO SAPTANÀMÏ SAMYAKSÏAMÏBUDDHA
KOTÏINÀMÏ
TADYATHÀ : OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE_
SVÀHÀ
Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu
Bà Di thọ trì đọc tụng Đà La Ni này đủ 80 vạn biến thì vô lượng kiếp tới
có gây tạo nhóm 5 Vô Gián, tất cả các tội thảy đều tiêu diệt. Ở nơi sinh
ra đều được gặp thẳng các Phật, Bồ Tát. Hết thảy tư cụ tùy ý sung túc,
đời đời thường được xuất gia, trì đủ Luật Nghi Tịnh Giới của Bồ Tát.
Hằng sinh làm Người, Trời chẳng bị đọa vào nẻo ác,thường là nơi Thủ Hộ
của chư Thiên.
Nếu có hàng Nam Nữ thiện tại gia tụng trì
thì nhà ấy không có tai hoạnh, bệnh khổ gây ra não hại được. Mọi việc
tạo tác trong chư Hữu ( các cõi ) không có gì không có đồng bạn, ngôn
ngữ nói ra được người tin nhận.
Nếu tụng Đà La Ni này đủ 10 vạn biến thì
trong mộng được thấy chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Tự thấy
trong miệng nôn ra vật màu đen. Nếu có tội nặng, tụng đủ 20 vạn biến thì
trong mộng cũng thấy chư Phật Bồ Tát, cũng tự thấy nôn ra vật màu đen.
Nếu có 5 Tội Nghịch chẳng được mộng tốt
như vậy thì cần phải tụng đủ 70 vạn biến, lúc đó lại được tướng như
trước cho đến mộng thấy nôn ra màu trắng như lạc, cơm… Nên biết người
này được tướng thanh tĩnh diệt tội.
Lại nữa nay Ta nói việc tạo làm của Đà La
Ni này. Nếu ở trước tượng Phật hoặc ở trước Tháp hoặc nơi thanh tịnh.
Dùng Cù Ma Di xoa tô đất rồi làm cái Đàn hình vương, lớn nhỏ tùy ý. Lại
đem hoa, hương, phan, lọng, thức ăn uống, đèn, đuốc tùy theo sức bày
biện mà cúng dường.Lại chú vào nước thơm rải ở 4 phương,trên, dưới dùng
để Kết Giới. Ở 4 góc Đàn với chính giữa Đàn đều để một cái bình nước
thơm. Người Trì Chú ở trong Đàn ấy, hướng mặt về phương Đông, quỳ dài
tụng Chú 1008 biến thì bình nước thơm ấy tự chuyển động. Xoa tay nâng
tạp hoa ( Đủ loại hoa ) chú 1008 biến rải lên mặt gương. Lại ở trước
gương chính quán, tụng Chú cũng 1008 biến rồi rải cúng dường. Tùy theo
Pháp thỉnh hỏi, không có gì không quyết xong.
Nếu có bệnh Quỷ, dùng chú vào cỏ tranh
rồi phẩy quét người bệnh, liền được trừ khỏi.
Nếu có con nít bị Quỷ ám. Dùng chỉ Ngũ
Sắc nên nhờ Đồng Nữ xe thành sợi dây, cú một lần Chú thì một lần kết
gút, đủ 21 gút dùng buộc trên cổ đứa bé ấy. Dùng hạt cải, chú đủ 7 biến
rồi rải lên mặt tức liền trừ khỏi.
Tiếp lại có Pháp. Ở trước người bệnh,
dùng mực vẽ hình người ấy, chú vào cành Dương Liễu rồi đánh vào hình vẽ
ấy thì cũng được trừ khỏi bệnh.
Tiếp lại có Pháp. Nếu đi trên đường, tụng
Chú này thì không có nhóm giặc cướp, trộm cắp, thú ác nào gây sợ hãi
được.
Tiếp lại có Pháp. Thường trì Chú này, giả
sử có tranh tụng thì không có gì không được thắng.
Nếu muốn vượt qua sông nhỏ, sông lớn,
biển lớn , tụng Chú rồi vượt qua thì không có loài thú ác nào trong nước
gây ra nạn được.
Tiếp lại có Pháp. Nếu bị cột trói, cấm
nhốt, gông cùm, cấm đoán thân ấy. Tụng Chú này liền được giải thoát.
Tiếp lại có Pháp. Nếu các quốc thổ bị
nguồn nước khô cạn chẳng điều hòa, dịch độc lưu hành. Nên lấy bơ hòa với
Hồ Ma, gạo tẻ. Dùng 3 ngón tay lấy một nhúm, chú vào 1 biến rồi ném
trong lửa thiêu đốt. Hoặc trải qua 7 ngày 7 đêm , 6 thời như vậy liên
tục chẳng dứt thì tất cả tai dịch thảy đều tiêu diệt.
Tiếp lại có Pháp. Ở trên cồn cát bên sông
đầm. Dùng Ấn ấn lên cát làm hình tượng cái Tháp. Tụng Chú một biến thì
ấn thành một cái tháp, đủ 60 vạn lần. Hoặc thấy Quán Thế Aâm Bồ Tát,hoặc
thấy Đa La Bồ Tát, hoặc thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát. Tùy Tâm mong cầu đều
được mãn túc. Hoặc trao cho Thuốc Tiên, hoặc thấy cho nhận Bồ Đề Ký.
Tiếp lại có Pháp. Nhiễu quanh bên phải
Tượng cây Bồ Đề, tụng Chú đủ 1000 vạn biến liền thấy Bồ Tát vì người đó
nói Pháp. Muốn tùy theo Bồ Tát liền được tùy tòng.
Tiếp lại có Pháp. Tiếp lại có Pháp. Nếu
lúc khất thực thời thường trì Chú này sẽ chẳng bị đẳng loại người ác,
chó ác gây não hại.
Nếu ở trước Tháp, hoặc trước Tượng Phật,
hoặc trước Tháp Xá Lợi tụng trì Chú này 30 vạn biến. Lại vào ngày 15 của
kỳ Bạch Nguyệt làm cúng dường lớn, một ngày một đêm chẳng ăn chỉ niệm
tụng Chú cho đến được thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát thì vị Bồ Tát ấy liền
đem người này đến ở nơi cung của mình.
Tiếp lại có Pháp. Nếu ở trước tháp Chuyển
Luân Vương, hoặc ở trước tháp nơi Đức Phật sinh ra, hoặc ở trước tháp
của thếm báu mà Đức Phật đi từ Trời Đao Lợi xuống, tụng Chú nhiễu quanh
bên phải liền thấy Bồ Tát A Bát La Thị Đa ( Aparajita_ Vô Năng Thắng )
với Bồ Tát Ha Lợi Đề ( Hàrïtye_ Quỷ Tử Mẫu ) thì tùy theo ước nguyện
thảy đều mãn túc. Nếu cần Thuốc Tiên liền được trao cho, lại vì người ấy
nói Pháp hiển bày Bồ Tát Đạo.
Nếu có người tụng Đà La Ni này cho đến
chưa ngồi Đạo Trường thì tất cả Bồ Tát thường làm bạn tốt.
Lại Chú Pháp của Chuẩn Đề Đà La Ni này là
điều mà tất cả chư Phật đời quá khứ đã nói, tất cả chư Phật đời vị lai
sẽ nói, tất cả chư Phật đời hiện tại đang nói. Nay Ta cũng nói như vậy,
vì lợi ích cho tất cả chúng sinh nên khiến cho được Vô Thượng Bồ Đề.
Nếu có chúng sinh kém phước không có chút
căn lành. Nếu được nghe Pháp Đà La Ni này sẽ mau chóng chứng được A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác ).
Nếu có người hay tự mình ghi nhớ, tụng
trì Chú này thì vô lượng căn lành đều được thành tựu.
Đức Phật nói Pháp Đại Chuẩn Bồ Đề Đà La
Ni này thời vô lượng chúng sinh mau lìa bơn nhơ được công đức Đại Minh
Chú của Đại Chuẩn Đề Đà La Ni, được thấy chư Phật, Bồ Tát, các hàng
Thánh chúng ở 10 phương tác lễ rồi lui ra.
Một quyển Kinh Thất Câu Đê Phật Mẫu
Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni này được trích ra từ trong sáu vạn bài Kệ
của Đại Minh Chú Tạng
20/10/2002
Mật Tạng Bộ 3 _ No.1078 ( Tr.186_ Tr.187
)
THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU TÂM
ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI PHÁP
Hán dịch : Đời Đường_ THIỆN VÔ ÚY phụng
chiếu dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
“Na ma táp đá nẫm, tam miệu tam bột đà,
câu đê nẫm. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha”
NAMAHÏ ( ? NAMO ) SAPTANÀMÏ
SAMYAKSÏAMÏBUDDHÀ KOTÏINÀMÏ
TADYATHÀ : OMÏ_ CALE CULE CÀDDHE ( ?
CUNÕDHE )_ SVÀHÀ
Tổng Nhiếp 25 Bộ Đại Mạn Trà La Ấn:
Đem 2 ngón vô danh, 2 ngón út cùng cài chéo nhau ở bên trong, dựng thẳng
2 ngón giữa cùng trụ nhau, co 2 ngón trỏ phụ lóng thứ nhất của 2 ngón
giữa, 2 ngón cái vịn lóng giữa của 2 ngón vô danh.Nếu có Triệu Thỉnh
thì đưa 2 ngón trỏ qua lại.
Đức Phật nói Chú Ấn này hay diệt 10 ác, 5
nghịch, tất cả tội nặng, thành tựu tất cả Pháp trắng, đủ Giới Tĩnh
Khiết, mau được Bồ Đề.
Nếu là người tại gia cho dù chẳng đoạn
rượu thịt, vợ con chỉ y theo Pháp của Ta thì không có gì không thành
tựu.
Đức Phật nói:” Nếu cầu thành tựu. Trước
tiên , y theo Đàn Pháp, chẳng đồng các Bộ, rộng tu cúng dường. Đào đất,
bùn thơm xoa tô để kiến lập. Dùng một mặt gương sạch chưa từng dùng, ở
trước tượng Phật, đêm thuộc ngày 15 của tháng, tùy sức cúng dường, đốt
An Tất Hương với nước trong sạch.Trước hết nên tịnh Tâm không có sự suy
tư, sau đó kết Ấn tụng Chú, chú vào gương 108 biến, dùng cái hộp bọc
chứa gương, thường đem theo thân. Sau này muốn niệm tụng chỉ dùng cái
gương này đặt ở trước mặt, kết Ấn tụng Chú, y theo gương làm Đàn liền
được thành tựu”
Đức Phật nói:” Muốn trì Chú này, vào đêm
thuộc ngày 15 , tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, hướng mặt về phương
Đông, ngồi Bán Già, để gương ngay trước mặt. Tùy có hương hoa, nước
trong sạch, các vật. Trước tiên nên tịnh Tâm, dứt suy tư , sau đó kết Ấn
trên trái tim, tụng Chú này 108 biến. Lúc tụng Chú này thời hay khiến
cho chúng sinh đoản mệnh lại được tăng thọ. Như bệnh Ma La (Màra_ bệnh
do Ma gây ra ) còn được trừ khỏi huống chi bệnh khác. Nếu chẳng tiêu
khỏi thì không có chuyện đó”
Đức Phật nói:” Nếu có người nhất Tâm tịnh
Ý tụng đủ 20 vạn biến, 40, 60 vạn biến thì Pháp Thế Xuất Thế
không có gì chẳng xứng toại”
Đức Phật nói:” Nếu người tại gia ngày
thường dùng nước sạch xúc miệng, chẳng ăn huân huyết ( Loài rau có vị
cay như hành, hẹ và loài có máu ) thời hướng mặt về phương Đông đối
gương kết Ấn, tụng Chú 108 biến. Như vậy 49 ngày chẳng gián đoạn sẽ có
việc tốt lành, Chuẩn Đề Bồ Tát sai hai vị Thánh thường tùy người ấy, Tâm
có sở niệm đều được mỗi mỗi nói đầy đủ bên tai”
Đức Phật nói:” Chúng sinh đoản mệnh nhiều
bệnh. Vào đêm thuộc ngày 15 của tháng, đốt An Tất Hương, kết Ấn tụng Chú
108 biến thì loài Ma Quỷ gây bệnh tâm thần, loài chồn hoang ( Dã Hồ )
gây bệnh ác đều hiện bản thân ấy ở trong gương, tùy ý giết thả liền
chẳng dám đến. Người đó được tăng thọ vô lượng”
Đức Phật nói:” Nếu người không có tướng
phước đức, cầu quan chẳng dời đổi. Đối gương tụng Chú này thì Quan phước
đức sẽ mau xứng toại”
Đức Phật nói:” Nếu muốn có chỗ làm ( sở
tác) Trước tiên nên suy tư Chuẩn Đề Thánh Giả, chính niệm Chú này đủ 7
biến, thân ngay thẳng, đột nhiên thân ấy tự nhiên dao động liền biết có
thể được việc vừa ý và tốt lành. Nếu thân cứng đơ ngả trước ngả sau liền
biết việc chẳng được ắt có tai nạn”
Đức Phật nói:” Muốn biết Pháp này thành
hay chẳng thành. Y theo Pháp tụng Chú đủ 7 ngày, liền ở trong mộng thấy
Phật Bồ Tát với dùng hoa quả, miệng nôn ra vật màu đen sau đó ăn vật màu
trắng, liền biết thành tựu”
Đức Phật nói:” Đà La Ni này có thế lực
lớn. Chí Tâm tụng trì ắt sẽ tự chứng hay khiến cho cây khô nở hoa huống
chi quả báo của Thế Gian.Nếu thường tụng trì thì nước, lửa, đao binh,
oan gia, thuốc độc đều chẳng thể hại.
Nếu có người bị Quỷ Thần đánh chết. Kết
Ấn tụng Chú 7 biến, dùng Ấn ấn trái tim đều khiến cho sống lại.
Nhà cửa chẳng yên bị Quỷ Thần gây họa.
Chú vào 4 hòn đất đem trấn 4 góc thì Quỷ Thần liền bỏ đi”
Đức Phật nói:” Nếu người có Lục Thân
chẳng hòa, chẳng thương nhớ nhau.Y theo Pháp tụng Chú , hướng tới sự hòa
hợp thì họ nghe tên thấy người đều sinh vui vẻ.Phàm sự mong cầu không có
gì không vừa ý huống chi hay trai tịnh đủ Giới, một lòng thanh tịnh, y
theo Pháp tụng trì thì chẳng chuyển thân này liền chứng Bồ Đề có công
lực lớn”
Đức Phật nói:” Nếu có người muốn trường
sinh. Ở trong tháp xưa với núi sâu, hoặc bên trong tịnh phòng , y theo
gương làm Đàn. Tụng đủ 2,4,6,10 vạn biến. Đem hoa sen xanh hòa với An
Tất hương rồi thiêu đốt ắt ở trong mộng được ăn thuốc Tiên hoặc được
trao cho Tiên Phương. Hoặc ở trong gương có ánh sáng 5 màu, trong ánh
sáng có thuốc, tùy ý lấy ăn liền được trường sinh”
Đức Phật nói:” Nếu y theo Pháp tụng trì,
một lòng tinh cần thì chẳng thể nói hết công lực. Pháp Đàn này chẳng
được để người nhìn thấy, nếu thấy tức chẳng tốt, chẳng thành Tất Đàn,
nên giữ kín Pháp này chẳng thể nói thì tự nhiên chứng biết, tùy ý mong
cầu mau được thành tựu, nhận thắng diệu lạc ( niềm vui thù thắng màu
nhiệm )
THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU TÂM ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ
LA NI PHÁP
( Hết )
21/10/2002
Mật Tạng Bộ 3 _ No.1079 ( Tr.187_ Tr.188
)
THẤT CÂU ĐÊ ĐỘC BỘ PHÁP
Hán dịch : Tam Tạng Sa Môn VÔ ÚY
Việt dịch : HUYỀN THANH
Tổng Nhiếp 25 Bộ Đại Man Trà La Ấn
: Đem 2 ngón vô danh, 2 ngón út cùng
cài chéo nhau bên trong. Duỗi thẳng 2 ngón giữa cùng vịn nhau, 2 ngón
trỏ phụ ở lóng thứ nhất của 2 ngón giữa, 2 ngón cái cùng vịn lóng giữa
của 2 ngón vô danh. Nếu có Triệu Thỉnh thì đưa 2 ngón trỏ qua
lại.
Đức Phật nói:” Chú và Ấn này hay diệt 10
ác, 5 nghịch, tất cả tội nặng, thành tựu công đức của tất cả Pháp trắng.
Tác Pháp này chẳng kể tại gia hay xuất gia. Nếu người tại gia uống rượu
ăn thịt , có vợ con, chẳng kể tịnh uế chỉ y theo Pháp của Ta thì không
có gì không thành tựu. Thứ nhất là Đàn Pháp, thứ hai là Pháp Niệm Tụng,
thứ ba là Pháp Thành Nghiệm, thứ tư là Pháp Quảng Minh Tự Tại, thứ năm
là hàng Trời được đại thần thông.
1 ) Đàn Pháp
Đức Phật nói:” Nếu cầu thành tựu. Tác Đàn
Pháp chẳng đồng với các Bộ, rộng tu cúng dường.Đào đất làm Đàn,dùng bùn
thơm xoa tô để xây dựng. Chỉ dùng một cái gương sạch mới chưa từng dùng.
Ở trước tượng Phật, vào đêm thuộc ngày 15 của tháng, tùy sức cúng dường,
đốt An Tất hương với nước trong sạch. Thoạt tiên nên tịnh Tâm không có
sự suy tư, sau đó kết Ấn tụng Chú , chú vào cái gương 108 biến, dùng cái
hộp bọc chứa gương, thường đem theo thân. Muốn niệm tụng chỉ đem cái
gương này đặt ở trước mặt, kết Ấn tụng Chú, y theo gương làm Đàn liền
được thành tựu”
2 ) Pháp Niệm Tụng
Đức Phật nói:”Muốn trì Pháp này. Vào đêm
thuộc ngày 15, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, hướng mặt về phương
Đông ngồi Bán Già, để gương ngay phía trước. Tùy sức dùng hương hoa,
nước trong sạch, các vật. Trước tiên nên tịnh Tâm dứt niệm, sau đó kết
Ấn ấn ở trên trái tim, tụng Chú này 108 biến. Lúc tụng Chú này thời hay
khiến cho kẻ đoản mệnh thành trường mệnh ( sống lâu ) như bệnh Ma La
(bệnh do Ma gây ra ) còn được trừ khỏi huống chi bệnh khác. Nếu chẳng
tiêu khỏi thì không có chuyện đó. Mỗi tháng : ngày mồng một, ngày 8,
ngày 14, ngày 15, ngày 18, ngày 23, ngày 24, ngày 28,ngày 29, ngày 30…
Mười ngày như vậy, mỗi buổi sáng sớm dùng nước sạch xúc miệng, hướng mặt
về phương Đông tụng Chú này 108 biến , sau đó ăn uống. Giả sử có vợ con
chẳng đoạn Tân ( ngũ tân ) , thịt cũng sẽ thành nghiệm.
3 ) Pháp Thành Nghiệm
Mỗi tháng vào ngày 18, dùng gương với kết
Ấn niệm tụng. Trừ 10 ngày trai chẳng nên đối gương với kết Ấn, chỉ vào
buối sáng sớm, lúc chưa dùng Tân Nhục ( Ngũ tân và thịt ) tụng trì Chú
này 108 biến xong. Như vậy 49 ngày chẳng dứt.
Mỗi lần có chuyện thiện ác, cát tường,
tai biến thì Chuẩn Đề Bồ Tát sai 2 vị Thánh đi theo người ấy. Hết thảy
việc thiện ác, chú 7 biến rửa mặt rưới thân, tâm tưởng, tác tưởng vui vẻ
sẽ hay khiến cho quốc vương, đại thần, trưởng giả sinh tâm cung kính,
nhìn thấy liền vui vẻ như bề tôi kính trọng nhà vua, như cha yêu con,
tâm tùy theo ước muốn cho đến thân mệnh đều không có luyến tiếc, thảy
đều thành tựu.
Nếu có chúng sinh đoản mệnh nhiều bệnh.
Vào đêm tuộc ngày 15 của tháng thiêu đốt An Tất Hương, tụng Chân Ngôn
này 108 biến thì Ma Quỷ, cuồng đồ bị tâm thần, Hồ Ly, Quỷ ác đều hiện
hình ở trong gương. Lúc đó muốn dạy bảo giết liền giết, dạy thả liền
thả, tức chẳng dám đến và người ấy được tăng thọ vô lượng.
Nếu lại có người không có Phước, không có
tướng cầu quan không dời đổi, bị áp bức nghèo khổ. Mỗi ngày trong 10
ngày trai thường tụng Chú này hay khiến cho đời hiện tại được địa vị
Chuyển Luân Vương, mong cầu quan được xứng toại.
Nếu muốn Triệu hàng Tứ Thiên Vương, Phạm
Vương, Đế Thích, 28 Bộ Trời, Ba Tuần…. Đối gương kết Ấn đưa ngón trỏ qua
lại. Ở nơi thanh tĩnh cao giọng tụng 21 biến thì chúng Hiền Thánh , Diêm
La Vương, Quỷ tùy theo tình ắt đến chẳng dám bỏ đi trước. Hết thảy
nghiệm liền tùy theo tình đều được.
Nếu muốn biết Pháp này thành hay chẳng
thành. Đầy đủ 7 biến y theo Pháp tụng Chú thì trong mộng thấy Phật Bồ
Tát với dùng hoa quả, miệng nôn ra vật màu đen lại ăn vật màu trắng liền
biết thành tựu.
4 ) Pháp Quảng Minh Tự Tại
Đức Phật nói:” Đà La Ni này có thế lực
lớn, dời núi Tu Di với nước biển lớn, chú vào cây khô hay sinh hoa quả.
Nếu thường tụng trì thì nước chẳng thể cuốn chìm, lửa chẳng thể thiêu
đốt. Thuốc độc, đao binh, oán bệnh đều chẳng thể hại.
Nếu biết trong đất có Bảo Tàng vật. Kết
Ấn tụng Chú đầy đủ 7 biến thì Phục Tàng trong đất tự nhiên phun lên, tùy
ý mong muốn đều được sung túc.
Nếu có nạn quân trận, giặc cướp. Kết Ấn
ấn chỉ thì tùy theo nơi chỉ thảy đều lui tan.
Nếu có người chết do Quỷ Thần đánh chết.
Kết Ấn tụng Chú , dùng Ấn ấn trên trái tim thì người bị chết vì bệnh
nặng liền được sống lại
Nếu nhà cửa chẳng yên bị Quỷ Thần gây
họa. Chú vào 4 hòn đất đem trấn ở 4 góc thì chúng liền bỏ đi.
Nếu có người mà Lục Thân chẳng hòa, người
chẳng thương nhớ. Y theo Pháp tụng Chú hướng đến sự hòa hợp thì họ nghe
tên thấy thân đều sinh vui vẻ, chẳng muốn lìa bỏ.
Trong lửa mạnh dùng Ấn chỉ lửa thì lửa
liền tiêu diệt. Dùng Ấn chỉ nước thì sóng xô liền lặng. Phàm mọi sự cầu
nguyện không có gì không xứng toại huống chi liền hay kết Ấn, giữ Trai
Giới y theo Pháp trì tụng há chẳng chuyển Nhục Thân ( Thân máu thịt này
) đi đến Tĩnh Thổ ở 4 phương ư ?...
5 ) Hàng Trời được Đại Thần Túc
Nếu cầu trường sinh với Sắc cho
chư Thiên lấy Thuốc Tiên. Ở trước Tháp xưa và trong núi sâu hoặc bên
trong Tịnh Phòng, y theo gương làm Đàn, đầy đủ 7 ngày hoặc 21 ngày, đốt
hoa sen xanh hòa với An Tất Hương. Vào lúc đầu đêm tụng Chú 108 biến tức
lúc nằm ngủ hoặc ở trong mộng ăn Thuốc Tiên hoặc Nhiếp Lực Pháp. Hoặc ở
trước mặt gương có ánh sáng 5 màu, trong ánh sáng có Thuốc, tùy ý ăn
liền thành Tiên Đạo. Các công lực khác có hàng trăm ngàn ức , nói chẳng
thể hết.
CHUẨN ĐỀ BIỆT PHÁP
Trước tiên, tay trái: đem 3 ngón trỏ, vô
danh, út để ở trong lòng bàn tay, dùng ngón cái vịn trên móng của 3 ngón
trỏ, vô danh, út. Tay phải cũng vậy. Cùng hợp 2 ngón giữa dính đầu ngón.
Tụng Chú
Kết Giới Ấn:
Hai tay phải trái: Ngón giữa, ngón vô
danh hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. Dựng thẳng 2 ngón út, 2
ngón trỏ cùng trụ nhau. Ngón cái của 2 tay đều vịn lóng giữa của ngón
trỏ. Tụng Chú
Hộ Thân Ấn:
Chắp 2 tay lại, 2 ngón trỏ hướng ra ngoài
cùng cài chéo nhau, ngón cái kèm vịn trên lóng giữa của ngón trỏ. Ba
ngón từ ngón giữa trở xuống dựng thẳng hợp nhau.
Nếu gặp trộm, giặc cướp. Đem Ấn đội trên
đỉnh đầu, Trước tiên ấn vai trái, tiếp vai phải, ấn trước trái tim ( Ức
ngực ), Aán dưới đầu ( Cổ họng ) ấn My Gian (tam tinh ) thì bọn này
chẳng dám xâm nhiễu.
Trị Bệnh ấn:
Hai ngón trỏ, 2 ngón giữa hướng vào bên
trong cùng cài chéo nhau. 2 ngón vô danh, 2 ngón út hướng ra ngoài cùng
trụ nhau rồi chắp tay lại, 2 ngón cái đều vịn lóng giữa của ngón trỏ.
Tổng Nhiếp Ấn:
Hai ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo nhau trong lòng bàn tay, dựng thẳng
2 ngón giữa cùng hợp đầu ngón, mở dính 2 ngón trỏ rồi hơi co lại, 2 ngón
cái che ngón vô danh. Lúc Triệu Thỉnh thì đưa ngón trỏ qua lại tựa như
Đài Hoa, tụng Chú 7 biến. Dùng ấn ở 2 bắp tay, dưới cổ họng, my gian,
chân tóc. Lại để Ấn này ngang trái tim, tụng Chú 108 biến.
Phá Thiên Ma Ấn:
Hai tay phải trái dùng 4 ngón che ngón
cái bên trong lòng bàn tay, gấp nắm quyền so tính. Tức là hết thảy nơi
đáng sợ, nghi có Quỷ Mỵ, Rồng độc liền tác Ấn này, dùng âm thanh sân nộ
tụng Chú.
Thỉnh Quỷ Thần Ấn:
Tay phải : Ngón giữa che ngón cái đè Đàn,
đem các ngón còn lại bên trên đều duỗi như răng nanh. Hơi co gấp ngón
trỏ, ngón út qua lại. Tụng Chú 7 biến, đến biến thứ ba thì tất cả Quỷ
Thần đều đến.
Bên trên là Thất Câu Đê Độc Bộ Quỹ.
Xưa kia có vị Luật Sư thấy bản Lược Đề nói:” Chẳng kể tại gia, xuất
gia, uống rược, ăn thịt, có vợ con, chẳng kể tịnh uế” liền cho là
Văn đọc bị sai lầm nên cho đó là Ngụy Văn
Trong Thiên Minh , Sa Môn LƯỢNG
HÙNG biện giải sự sai lầm đó, dùng bản Cụ Đề làm bản chính còn bản Lược
Đề là bản thảo chưa được sửa chữa.
Sa Môn TUỆ LƯỢNG ấn thí bản Cụ Đề lưu
hành ở đời, dùng cái nhìn tầm thường cho là chẳng đúng, lại nương vào
bản thảo gần đúng mà quyết định
Mật Sao Vấn Đáp Đẳng Dẫn
dùng Quỹ này
Năm nay, hợp mọi bản cất chứa của viện
Thanh Hà ở Lạc Bắc, viện Trí Tích ở Lạc Tây, Chùa Diên Mệnh ở Hà Châu,
Đương Sơn Aùi Nhiễm Viện Đại Diễn Đẳng… xem xét rồi đính chính nên đem
cả 2 bản ấn hành.
Thời ấy, Hưởng Hòa cải nguyên, năm Tân
Dậu, tháng Trung Thu.
Phong Sơn Diệu Aâm Hạ Tổng Trì Viện_
KHOÁI ĐẠO ghi
Một lần xem xong_ TỪ THUẬN
22/10/2002
Mật Tạng Bộ 3 -
No 1169 (Tr. 677 ( Tr. 681)
PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO
TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ NHẤT
Long Thọ Bồ Tát lược ra trong Trì Minh Tạng
Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh, Tam Tạng Triều Tán Đại Phu Thí Quang
Lộc Khanh. Minh Giáo Đại Sư – Kẻ bày
tôi là PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
ĐẠI MINH
THÀNH TỰU
PHẦN
THỨ NHẤT
Bấy
giờ, Đức Phật dạy rằng: “Đại giáo Du Già của Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai
này, nếu có người trai lành nào vui muốn tu tập các Pháp Thành Tựu
thì nên dựa vào Pháp Đại Minh của Tôn Na Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva
). Ở trong giáo ấy, một lòng chuyên chú tinh cần tu tập ắt mọi sự nguyện
cầu không có gì không thành tựu.
Nếu
có Hành Nhân muốn làm Pháp Thành Tựu Thù Thắng Tối Thượng. Trước tiên ở
bên bờ biển lớn, tụng Đại Minh Căn Bản Chú của Tôn Na Bồ Tát và làm 6
Lạc xoa cái tháp bằng cát. Khi đủ số lượng rồi thì mọi việc mong cầu ắt
được thành tựu.
_ Lại
nữa, nếu muốn cầu thấy Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva )
, hoặc Kim Cương Thủ Bồ Tát ( Vajrapànïi Bodhisatva ) … cứ tu tập như
trước thì các vị Bồ Tát ấy sẽ hiện thân, an ủi Hành Nhân và cho thỏa mãn
ước nguyện, cho đến hoặc tác Pháp Kính Ái … hoặc cầu mọi loại thuốc
Thánh, hoặc cầu ngôi Vua của hàng A Tố Lạc, hoặc cầu địa vị Trì Minh
Thiên ( Vidyadhàra Deva ). Mọi việc như vậy ắt được thành tựu. Nếu tu
tập lâu ngày mà chuyên chú không thoái lui thì cũng có thể đạt được địa
vị Bồ Tát.
_ Lại
nữa, Hành Nhân đến trước đỉnh núi Chính Giác, ở trứơc Tháp Phật thường
trì Bát Thực (ôm bình bát đi xin thức ăn). Tụng Đại Minh đủ 1 câu
đê biến (100 triệu lần ) sẽ được thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát. Vị Bồ Tát
ấy tự dẫn Hành Nhân vào cửa Cát Tường và bảo Hành nhân rằng: “Ngươi
vào cửa này không còn bị Ma nạn, đều mãn sự nguyện cầu, xa lìa tất cả sợ
sự hãi, nhận được niềm vui thích lớn, trong tương lai được gặp Đức Từ
Thị (Di Lặc Phật) đựơc nghe Diệu Pháp, chứng Bồ Tát Địa, cho đến hoặc
đựơc địa vị A Phệ Phộc Ly Đê Ca Bồ Tát”.
_ Lại
nữa, Hành nhân hoặc đến núi Vĩ Bổ La ( Vipùla _ Quảng Bác ) , khiến tịnh
tất cả, thường trì Bát Thực, ở trước Tượng có Xá Lợi tùy khả năng bày
biện hương, hoa, đèn, hương xoa mà làm cúng dường. Tụng Đại Minh đủ 3
Lạc xoa biến (30 vạn lần ). Tụng đủ biến số xong lại đặc biệt làm Đại
cúng dường, gia tăng gấp bội Trai Giới khiết tịnh cho đến hết 15 ngày.
Tụng trì suốt ngày đêm không ngừng nghỉ thì Kim Cương Thủ Bồ Tát quyết
định hiện thân tiếp dẫn Hành nhân đến ngay cung điện của Ngài và dạo
chơi ở cửa Cát Tường, khiến cho Hành nhân bước vào và được thọ mệnh lâu
dài ngang bằng mặt trời, mặt trăng.
_ Lại
nữa, Hành nhân đến nơi Tháp Phật có 3 bậc thềm báu thường trì Bát Thực,
nhiễu quanh bên phải Tháp Phật, tụng Đại Minh 1 câu đê biến. Tụng đủ số
xong sẽ được thấy Vô Năng Thắng ( Aparajita ) với hàng Ha Lị Đế (
Hàrïtye_ Quỷ Tử Mẫu ) và sự cầu mong đều được như ý. Vị Ha Lị Đế tiếp
dẫn Hành giả đến ngay cung điện của Ngài ban cho mọi loại thuốc Thánh.
Ngài Vô Năng Thắng cũng hiện thân vì Hành giả mà nói Pháp khiến cho
chứng đạo Vô Thượng Bồ Đề và ban cho thuốc Thánh, biến thân Hành giả có
đủ tướng Thù Thắng lại được tất cả Bồ Tát tiếp dẫn chứng đạo cho đến mau
chóng ngồi ở Bồ Đề Đạo Trường.
Tôn
Na Đại Minh này chính là điều mà tất cả Như Lai và các Bồ Tát cùng diễn
nói. Do đó chẳng sinh khởi Tâm Bồ Đề, vĩnh viễn
chẳng đắc được Pháp BỒ ĐỀ PHẦN. Người như vậy chợt gặp Bậc Tri
Thức, tụng Đại Minh này 1 lần lọt qua tai thì tội nặng giảm nhỏ lại liền
sinh Căn Lành. Huống chi Hành nhân luôn luôn trì tụng, chuyên chú, tinh
cần, người như vậy cầu Pháp Thành Tựu thì quyết định đạt được.
((((((
QUÁN TRÍ
THÀNH TỰU
PHẦN
THỨ HAI
_ Lại
nữa, Hành nhân muốn tu tập các Pháp Thành tựu. Trước tiên nên tu tập
Quán Trí, với các Ấn Tướng đều phải tinh thục không hề sai lầm
mới có thể cầu các Tất Địa.
Nếu ở
trong Pháp của Tôn Na Bồ Tát cầu Tất Địa. Trước tiên quán Luân chữ vi
diệu căn bản của Tôn Na Bồ Tát đặt ngay trên thân thể mình. Đó là:
Quán
chữ ÁN (OMÏ - ) đặt ở ngay trên đỉnh đầu.
Quán
chữ TẢ (CA - ) đặt ở hai con mắt.
Quán
chữ LỆ (LE - ) đặt ở cái cổ.
Quán
chữ TỔ (CU - ) đặt ở hai cánh tay.
Lại
quán chữ LỆ ( LE - ) đặt ở trái tim.
Quán
TÔN (CUNÕ - ) đặt ở trong lỗ rốn.
Quán
chữ NỄ (DHE - ) đặt ở hai bắp đùi.
Quán
chữ SA (SVÀ - . ) đặt ở bắp chân.
Quán
chữ HA (HÀ - ) đặt ở hai bàn chân.
Hành
nhân quán tưởng chữ vi diệu căn bản của Tôn Na ở trên thân thể của mình
mỗi mỗi cần phải rõ ràng thì tất cả tội nghiệp người đó đã làm trước đây
thảy đều tiêu diệt. Quyết định được thành tựu Tất Địa đã mong cầu. Hoặc
tác Pháp Tăng Ích, Tức Tai, Kính Aùi, Điều Phục, … thì mỗi một Đại Minh
trì tụng đều khác nhau.
_ Tác
Pháp Tức Tai thì trì tụng ĐẠI MINH là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, Sa ha”
(
OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE SVÀHÀ
_ Tác
Pháp Tăng Ích thì tụng ĐẠI MINH là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ mạo sa tra”
(
OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE MUSÏTÏI
_ Tác
Pháp Kính Ái thì tụng ĐẠI MINH là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, Nẵng mạc”
( OMÏ
- CALE CULE CUNÕDHE NAMAHÏ
_ Tác
Pháp Điều Phục thì tụng ĐẠI MINH là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, nhược tứ hồøng phát tra”
(
OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE JAHÏ HÌ HÙMÏ PHATÏ
Nếu 4
Pháp như trên ắt nên thỉnh triệu Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Tác Pháp
xong, liền ngửa mặt Phát Khiển (đưa về)
_ Câu
Triệu Đại Minh:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ Hồng”
(
OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE HÙMÏ
_ Lại
nữa, Hành nhân lúc tác Man Noa La ( Manïdïala_ Đàn ), muốn thỉnh Bản
Tôn với kêu gọi Hiền Thánh trong Đàn. Trước tiên tụng Chỉ Lý Chỉ Lỳ Kim
Cương (Kìlikìla Vajra ) Đại Kinh mà làm khiết tĩnh (cực trong sạch). Đại
Minh là:
“ÁN – Chỉ lý chỉ lý, phộc nhật la Hồng, phát tra”
(
OMÏ - KÌLIKÌLA VAJRA HÙMÏ PHATÏ
Tụng
Minh này, tác khiết tĩnh xong. Hành nhân tưởng Bản Tôn TÔN Na Bồ Tát ở
trên Trời Sắc Cứu Cánh giáng hạ đến vào trong Man Noa La. Lại tưởng
trong Man Noa La có Tòa Sư Tử, có hoa sen che khắp đủ mọi thức trang
nghiêm. Liền kết Căn Bản Ấn của Bồ Tát. Lại tụng Căn Bản Đại Minh cúng
dường Bồ Tát. Hành nhân liền nói: “Bồ Tát khéo đến” và dâng Ứ Già
… sau đó tác Pháp Trì Tụng.
_ Lại
nữa, Hành nhân y theo Pháp làm Man Noa La, ngồi ngay thẳng, chính niệm
Pháp quán tưởng, tưởng trước mặt có bánh xe chữ vi diệu căn bản đặt ở
các phần thân thể. Thoạt đầu tưởng như tất cả Như Lai ngự ngay trên đỉnh
đầu. Lúc tác tưởng này thì kết Tam Muội Ấn.
Tiếp,
tưởng chữ TẢ ( ) ở hai con mắt, nên dùng Phật Nhãn
Ấn. Lại tưởng chữ này chuyển thành Vị Luân Vương có thế lực lớn.
Tiếp,
tưởng chữ LỆ ( ) màu đen đặt ở cái cổ, dùng kết LOA ẤN
liền chuyển thành Đại Phẫn Nộ Tôn Bất Động Minh Vương ( Mahà Krodhanàtha
Acala Vidyaràja ), tay cầm kiếm với sợi dây .
Tiếp,
tưởng chữ TỔ ( ) hiện ở trái tim, liền biến thành thân
Phật màu đỏ có 4 tay, với 2 tay chắp lại thành tướng Đỉnh Lễ, 2 tay kết
Ấn Thuyết Pháp là tướng giáng phục các ma.
Lại
tưởng chữ LỆ ( ) hiện ở 2 cánh tay, nên dùng Sa Tất Đế
Ca Ấn, trên 1 cách tay biến thành Bất Không Quyến Sách Bồ Tát ( Amogha
Pà’sa Bodhisatva ), mặt có 3 mắt. Trên một cánh tay biến thành QUÁN TỰ
TẠI BỒ TÁT với thân màu vàng.
Tiếp,
tưởng chữ TÔN ( ) hiện ở vành rốn, nên tụng Tôn Na Bản Ấn,
biến thành Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát. Nếu quán thân có 18 tay thì tưởng màu
trắng. Nếu quán thân có 6 cánh tay thì tưởng màu vàng. Nếu quán thân có
4 cánh tay thì tưởng màu đỏ. Dùng theo cách quán mà tưởng hiện trước
mắt. Xong, tưởng vị Bồ Tát này ở trong Tam Giới làm lợi ích lớn.
Tiếp
tưởng chữ NỄ ( ) hiện ở hai bắp đùi, dùng Cát Tường Ấn liền
biến thành Phật với Bồ Tát hay làm thành tất cả việc.
Tiếp,
tưởng chữ SA ( ) hiện ở hai bắp chân. Lại dùng Loa
Ấn, Kiếm Ấn. Trên bắp chân trái biến thành Ngật La Ha cận Nễ. Trên bắp
chân phải biến thành Nhạ Chí Nễ.
Tiếp,
tưởng chữ HA ( ) hiện ở hai bàn chân, dùng Liên Hoa Ấn liền
biến thành Phộc Nhật La Nẵng Khế Minh Vương, tay cầm dây lụa. Tiếp, dùng
Phật Nhãn Bồ Tát Ấn với Phật Nhãn Bồ Tát Đại Minh gia trì 5 nơi. Minh
là:
“ÁN – Lỗ lô sa phổ la, nhập phộc la để sắt tra tất đà lạc tả nễ. Tát ly
phộc ly tha sa đạt nễ, sa phộc hạ”
(
OMÏ RURU SPHURU JVALA TISÏTÏA SIDHA LOCANE SARVA ARTHA SÀDHANI
SVÀHÀ
_ Lại
nữa, Hành Nhân tác Quán Trí xong, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp 2 tay lại
thành Ấn Đỉnh Lễ. Lại tụng Đại Minh là:
“Nẵng
mộ sáp bát đa nẫm. Tam miệu ngật tam một đà câu đê nẫm. Nẵng mạc tả lệ
tôn nễ, nẵng mạc”
(
NAMO SAPTANÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDHÀ KOTÏINÀMÏ NAMAHÏ CALE CUNÕDHE
NAMAHÏ
Sức
của Đại Minh này phá chúng Ma, không có loài Ma nào hoặc Thiên Ma nào
dám trái ngược.
_
Tiếp dùng Phát Khiển Ấn để phát khiển các Ma. Khiến cho nơi Hành
nhân không có các chướng nạn. Phát Khiển Ma Ấn, dùng tay trái duỗi rộng
rồi dao động thành thế đuổi đi. Tay phải kèm tướng Tam Muội Kim Cương.
Đặt ngay cạnh của eo trái. Đem chân trái đạp đất làm tướng phẫn nộ. Tụng
Đại Minh là:
“Nẵng mạc, A tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, Hạ nẵng, na hạ, ma tha vĩ đặc võng,
tát dụ sa la dã đa, hồng phát tra”
(
NAMAHÏ ACALE CULE CUNÕDHE HANA DAHA PACA VIDHVAMÏ ‘SAYA
SARAYATA HÙMÏ PHATÏ
_
Tiếp, tác Kết Giới Ấn. Đem 2 tay đưa lên đưa xuống trong 10
phương ở hư không, chuyển động như tướng gió thổi liền thành ấn. Liền
tụng Đại Minh là:
“ÁN – tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, Đạt ca đạt ca, nhập phộc la, tát ly phộc nễ
thâu, mãn đà mãn đà Hồng”
(
OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ DHAKA DHAKA _ JVALA JVALA - SARVA DI’SE
BANDHA BANDHA HÙMÏ
Minh
này có thể dùng Kết giới ở tất cả các nơi.
_
Tiếp, dùng Nhất Thiết Thành Tựu Minh gia trì hương hoa với nước sạch,
vào Man Noa La rảy tịnh xong.
Liền
kết Lâu Các Ấn, ngửa hai bàn tay ngang bằng rồi cùng các ngón hơi
co lại. Duỗi 2 ngón trỏ, 2 ngón cái phụ bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành
ấn.
Lúc
kết ấn này tưởng lầu các của Cung điện Thù diệu tối thượng hiện ra trước
ắt. Lại tưởng chữ vi diệu hòa thành mọi loại hoa sen thù diệu trang
nghiêm Tòa Sư tử.
Tác
quán thành xong, liền tụng Thỉnh Triệu Đại Minh, để thỉnh triệu Bản Tôn
với chúng Hiền Thánh vào trong tòa ngồi. Tùy dùng Bản Hộ đặt làm Tòa
chính giữa. Nếu dùng Tôn Na làm Bản Hộ, liền dùng Tôn Na làm Tòa chính
giữa. Liền quán tưởng Tôn Na Bồ Tát có 18 cánh tay, thân màu trắng như
mặt trăng mùa thu, mặc áo trắng với mọi thứ trang nghiêm. Dùng đá quý
làm quyến đeo ở cổ tay, 10 ngón tay đều có cái vòng trang nghiêm. Mặt có
3 mắt, 2 tay phải trái trên cùng tác tướng Thuyết Pháp. Bên phải, tay
thứ hai tác tướng Vô Úy, tay thứ ba cầm Cây Kiếm, tay thứ tư cầm cái
Chuông nhỏ, tay thứ năm cầm Vĩ Nhạ Bổ La ( Bìja Pùraka _ Tử Mãn Quả ),
tay thứ sáu cầm Việt Phủ (cây búa lớn), tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ
tám cầm Chày Kim Cương, tay thứ chín cầm tràng hạt. Bên trái, tay thứ
hai cầm cây Phướng Báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen, tay thứ tư cầm
Quân Ni (bình Quân Trì), tay thứ năm cầm Vòng dây lụa, tay thứ sáu cầm
Bánh xe, tay thứ bảy cầm Vỏ ốc (loa), tay thứ tám cầm cái Hiền Bình, tay
thứ chín cầm quyển Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Ở bên
phải đặt Phật Nhãn Bồ Tát ( Buddha Locana Bodhisatva ) với chúng Hiền
Thánh, bên trái đặt Kim Cương Thủ Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, các vị Bồ
Tát còn lại với chúng Hiền Thánh. Tùy ý đặt bày xong, lại dùng Nhất
Thiết Thành Tựu Minh với Phật Nhãn Bồ Tát Minh, gia trì nước Ứ Già với
hương, hoa, hương đốt dâng lên Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Liền bạch
rằng: “Bồ Tát với các Hiền Thánh, con đem lòng tin và y theo sức Tam
Muội dâng hiến nước Ứ Già, hương, hoa … Nguyện xin Từ Bi nhận thức cúng
dường của con”.
Nước
Ứ Già ấy, nếu tác Pháp Tức Tai thì dùng nước sữa, Đại mạch đồng làm. Nếu
tác Pháp Tăng Ích thì gia thêm Chỉ ma (Mè). Nếu tác Pháp Điều Phục thì
gia thêm máu với kiều mạch hòa chung, chén dùng chứa nước Ứ Già, vật
chứa Ứ Già cũng khác nhau.
Liền
nói Thỉnh Triệu Ấn, dùng Táo Dục Ấn (Ấn tắm gội) sửa 2 ngón cái
phụ bên cạnh ngón trỏ, như tướng móc câu liền thành ấn.Thỉnh Triệu Đại
Minh là:
“Nẵng mạc tam miệu ngật tam một đà câu đê nẫm, y tứ bà nga phộc đế. Nhất
sắt tra nễ phộc đa địa sắt trí đế. ÁN – tả lệ, tổ lê, tôn nễ nhược
nhược, sa phộc hạ”
(
NAMAHÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ EHYEHI BHAGAVATE TISÏTÏA DEVATA
ADHISÏTÏITE - OMÏ CALE CULE CUNÕDHE JAHÏ JAHÏ SVÀHÀ
Tụng
Minh này xong, nên tụng Hiến Tòa Đại Minh là:
“ÁN – Ca ma la Sa phộc hạ”
(
OMÏ KAMALA SVÀHÀ
_
Tiếp, nói về Kiếm Ấn, cũng là Bất Động Tôn Minh Vương Ấn.
Đem ngón cái, ngón vô danh, ngón út của tay trái nắm quyền, duỗi ngón
trỏ, ngón giữa của tay phải đưa vào trong quyền trái, các ngón còn lại
củng nắm quyền liền thành Ấn. Bất Động Tôn Đại Minh là:
“Nẵng mạc tam mãn đà phộc nhật la nă. ÁN A ra la, ca noa Thể nông, sa
đạt dã Hồng, phát tra”
(
NAMAHÏ SAMANTA VAJRÀNÏÀMÏ – OMÏ ACALA KANÏDÏA SÀDHAYA HÙMÏ PHATÏ
_
Tiếp, nói về Tam Muội Gia Ấn, đem ngón cái tay phải đè lên móng
ngón út, các ngón còn lại như tướng cái chày Kim Cương liền thành Ấn.
Kết Ấn này, tụng Tam Muội Gia Đại Minh là:
“ÁN – Thương yết ly, Tam ma duệ, Sa phộc hạ”
(
OMÏ SAMÏKARE SAMAYE SVÀHÀ
_
Tiếp, hiến Ứ Già Ấn, dùng Táo Dục Ấn chỉ sửa ngón cái tách ra đặt bên
cạnh ngón trỏ làm tướng chắp tay, liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN - Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ A ly gia Bà nga phộc đế. Bát la đê tha Sa
phộc hạ”
(
OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ ÀRGHA BHAGAVATE PRATICCHA SVÀHÀ
Hiến
Ứ Già xong, Hành nhân chắp tay lại và nói là: “Bạch Đại Bồ Tát!
Nguyện xin từ bi nhận sự cúng dường này”. Hành nhân lại dùng Kim
Cương Quyết Ấn để kết giới trừ ma. Dùng Chày Kim Cương làm giới, nơi kết
giới tùy Pháp mà dùng. Hoặc lúc làm Pháp Đại Aùc thì kết ấn này. Đem
ngón trỏ tay trái làm như móc câu, ngóc cái như cây kim đặt ở trước mặt.
Đây là Quyết Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Tôn nễ, Ni, kế la dã, Sa phộc hạ”
(
OMÏ CUNÕDHE _ DHE_ KÌLÀYA SVÀHÀ
_ Kết
Kim Cương Giới Ấn, chẳng sửa Ấn trước chỉ dùng ngón trỏ tay phải
làm như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ tay trái liền thành Ấn, chuyển động
trong hư không, Kết Kim Cương giới Đại Minh là:
“ÁN – Tôn nễ ni, bát la ca la dã, Sa phộc hạ”
( OMÏ
CUNÕDHE _ DHE _ PRAKAVÀYA SVÀHÀ
_ Lại
nữa, kết Kim Cương Bán Nhạ La Ấn, chẳng sửa Ấn trước, đem 2 ngón
trỏ, 2 ngón giữa cùng vịn nhau, đưa lên đỉnh đầu dao động liền thành ấn.
Đại Minh là:
“ÁN – Tôn nễ nĩ, bán nhạ la, Sa phạ ha”
(
OMÏ CUNÕDHE _ DHE _ PAMÏJALA SVÀHÀ
_
Tiếp, kết Căn Bản Ấn, niệm Căn Bản Đại Minh 3 biến.
_
Tiếp, kết Đại Ấn và tụng Đại Minh 3 biến.
_
Tiếp, kết Tam Xoa Ấn, đem 2 tay nắm quyền, đều duỗi ngón trỏ,
ngón giữa, ngón vô danh như 3 cái chỉa (Tam xoa) liền thành ấn. Đại Minh
là:
“ÁN – Tôn – sa phộc hạ”
(
OMÏ CUNÕ SVÀHÀ
_
Tiếp, kết Đảo Xử Ấn, đem 2 tay nắm quyền, 2 ngón cái cùng cài
chéo nhau liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Tả lê – Hồng”
(
OMÏ CALE HÙMÏ
Tiếp,
kết Tràng Ấn, dùng tay phải nắm quyền dựng thẳng ngón trỏ, ngón
giữa liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Hàng Hồng Phát tra”
(
OMÏ HAMÏ MAMÏ PHATÏ
_
Tiếp, tụng Kim Cương Nẵng Khứ Tâm Minh là:
“ÁN – Nhĩ nẵng, nhĩ câu”
(
OMÏ JINAJIK
_
Tiếp, kết Đồ Hương Ấn, và tụng Kinh gia trì hương xoa, dâng lên
Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Đại Minh là:
“ÁN – Lệ Sa phộc hạ”
(
OMÏ LE SVÀHÀ
_
Tiếp, kết Hoa Ấn, chẳng sửa Ấn trước, tụng Đại Minh là:
“ÁN – Tôn Sa phộc hạ”
(
OMÏ CUNÕ SVÀHÀ
_
Tiếp, kết Hương Ấn. Đem ngón cái phải đè chính giữa lóng ngón trỏ
liền thành Ấn.
“ÁN – Lệ Sa phộc hạ”
(
OMÏ LE SVÀHÀ
_
Tiếp, kết Xuất Sinh Ấn. Đem ngón cái và ngón trỏ tay trái cùng
vịn nhau liền thành Ấn. Liền tụng Hiến Thực Minh là:
“ÁN – Tôn Sa phộc hạ”
(
OMÏ CUNÕ SVÀHÀ
_
Tiếp, kết Hiến Đăng Ấn, đem ngó út tay phải đè lóng thứ nhất của
ngón giữa liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Nê Sa phộc hạ”
(
OMÏ DHE SVÀHÀ
Như
trên đã nói về vật cúng dường cho đến thức ăn uống, hương hoa … để phụng
hiến Phật với Hiền Thánh. Bao nhiêu Ấn với Đại Minh đều tùy Bản Hộ mà
thi hành theo thứ tự trước sau.
Nếu
tác Pháp Tức Tai, trước hết dùng hương xoa, … Sau đó kết Hiến Cúng Dường
Ấn. Hoặc tác quán tưởng, hoặc Nội hoặc Ngoại, tất cả cúng dường dâng lên
Hiền Thánh.
_
Tiếp, kết Đại Ấn. Đem 2 tay cùng nắm quyền, đặt ở trái tim, tưởng bên
trên 2 quyền đều có chữ A ( ) liền thành Ấn. Dùng Ấn này
hiến các Hiền Thánh.
_
Tiếp, kết Liên Hoa Ấn, chắp 2 tay lại, dựng 8 ngón đều cách nhau như
tướng hoa sen. Co 2 ngón cái vào lòng bàn tay liền thành Ấn. Kết Ấn này
hiến các Hiền Thánh. Đại Minh là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, thất ly lạc sắt di mạo sa tra”
(
OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ ‘SRÌ LAKSÏMI MUSÏTÏI
_
Tiếp, kết Căn Bản Ấn, chắp 2 tay lại, duỗi 2 ngón cái vào trong lòng bàn
tay liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Tôn đát la dã – A sa đát la kiến, ÁN Tô để sa phổ la. A Bát sa đát
lã. ÁN Tôn hạ nẵng nẵng la thế”
(
OMÏ CUNÕ TÀRÀYA - ASÏTÏA KHAMÏ - OMÏ CUTÏI SPHURA -
ABHÀSATRAMÏ - OMÏ CUNÕ HANA NÀRA ‘SE
_
Tiếp, kết Bát Bức Luân Ấn. Đem 2 tay lật ngược nhau, duỗi thẳng
mở rộng 10 ngón tay, lấy tay phải đè lưng tay trái liền thành Ấn. Đặt
trên đỉnh dao động. Tụng Đại Minh là:
“ÁN – Tôn bát la Sa phổ la tác nhật lãm”
(
OMÏ CUNÕ _ PRASPHURA CAKRA
_
Tiếp, kết Quyến Sách Ấn, co 4 ngón: cái, vô danh, út, trỏ, của
tay trái như móc câu liền thành Ấn. Tụng Đại Minh là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, ngột ly”
(
OMÏ CALE CULE CUNÕDHE HRÌHÏ
_
Tiếp, kết Hiến Quảng Đại Cúng Dường Ấn. Chắp 2 tay lại, co lóng
thứ 3 của 10 ngón tay sao cho không dính nhau liền thành Ấn. Đặt trên
đỉnh đầu. Lúc Hành nhân kết ấn này thời phát Tâm chẳng thể luận bàn (
Bất khả tư nghị Tâm ) , không có Tâm ngã sở, không có Tâm thủ xả.
Lại
quán tưởng tất cả hương hoa trân bảo thù diệu của Thế gian cho đến núi
báu và kho tàng báu trong biển lớn. Tất cả vật thảy đều hiện trước mặt,
dùng hiến tất cả Phật với Bồ Tát. Đem công đức này hồi thí Chân Như Pháp
Giới. Lại vận tâm Ngã Sở tác cúng dường như vậy. Phước lực đã đạt được
chuyển rộng thành vô lượng cúng dường dâng hiến 10 phương tất cả Như Lai
với các Bồ Tát, chúng trong Đại hội. Nguyện Phật, Bồ Tát chẳng bỏ Đại Bi
Nhiếp thụ cúng dường. Đại Quảng Phổ Cúng Dường Minh là:
“Nẵng mạc tác ly phộc, đát tha nga đế. Tỷ dụ, vĩ thấp hộc mục khê tỷ
dược, tát ly phộc tha, nghiệt mẫu nại nga để, sa phả la tứ hàm, nga nga
nẵng kếim, Sa phộc hạ”
(
NAMAHÏ SARVA TATHAGATEBHYU – VI‘SVA MUKHEBHYAHÏ SARVÀTHA KHAMÏ
UDGATE SPHARA HÌMÀMÏ GAGANAKAMÏ SVÀHÀ
PHẬT
THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU
NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ
NHẤT ( Hết )
Mật Tạng Bộ 3 - No
1169b (Tr. 680 ( Tr. 684)
PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO
TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU
NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ HAI
Long Thọ Bồ Tát lược trích từ TRÌ MINH TẠNG
Hán dịch: Minh Giáo Đại Sư PHÁP HIỀN
Việt dịch: HUYỀN THANH
QUÁN TRÍ
THÀNH TỰU
PHẦN
THỨ HAI
Lại
đến ca ngợi với các Hiền Thánh
( Ca
ngợi Phật là:
Đức
Phật dùng Đại Bi
Điều
phục các chúng sanh
Thành
biển Phước Công đức
Vì
thế con tán lễ
( Ca
ngợi Pháp là:
Diệu
lý của Chân như
Hay
hoại các nẻo ác
Lợi
sinh, trụ tịch tĩnh
Vì
thế con tán lễ
( Ca
ngợi Tăng là:
Bền
vững trì Giới hạnh
Chứng
nhập môn Giải thoát
Trụ
cõi Công đức thắng
Vì
thế con tán lễ
( Ca
ngợi Tôn Na với các Hiền Thánh:
_
ÁN – Lạc khất sất di la khất xoa nễ vĩ
Tát ly phộc lạc khất xoa noa man di đa
Bôn noa dã Hàm nga đa tất ly dã
_
Tao ma dã Tô ma nẵng sa nễ phộc dã
Phộc la hạ phộc la na tất ly dã
Bát nạp ma sa nẵng bát nạp ma mục khế
Vi
ma la vi ma lệ khất xoa noa
_
Câu ma ly ca thuế đa bà sa
Ô
na dã ly ca Tam ma bát la bà
Nhạ nẵng nễ nga ly nhạ nê tỷ ma
Ma
hạ di cụ già phộc ly sa ni
_
A di đa A mật ly đa bà sa
A
nhạ la A ma la độ lô phộc
Tất đà tất đà la dã gao ly
Bát đát la hạ sa đa nhị đê dân niết ly dã
_
Nại xả bà la di đa bát la bát đa
Nại xả bộ di số tăng tất thể đa
Để
ly lạc ca nhạ nẵng nê đạt nê dã
A
di đa ly tha bát la sa đạt mê
_
Nhạ nga sa la lhất xoa nữ nại dụ ngật đa
Bát la dã ngật ly bát dã nễ đa
Nga dã để ly tát ly phộc một đà âm
Sa
vĩ đế ly tả nhị nô la sa
_
Đát la noa bộ đa nhạ nga đà để ly
Sa
ly nga ma ly nga bát nga nại ly sa nâm
Nhất tha lô ba ma hạ ma dã
Nẵng nẵng nễ ly ma noa lỗ bế ni
_
Bát la đê hạ ly dã ma họ sa hạ
Bôn ni dã tam bà la tam bột ly đa
Ác
khất xoa dã Ác khất xoa la tuất nễ dã
Phiến đa kiến đa đát bể tất thể đa
_
Đa nẵng hạ la ma hạ tát đỏa
Tát đỏa nẵng tất ly để phộc sa la
Kiến đa la da ni nạp ly nga
Tát ly phộc thương ca bát la mô tả nê
_
Nhạ diên đế nhạ đa phệ na tả
Một la hàng ma yết lạp ba ma nô nhạ phộc
Tán đa ca bá ly nê tả ma
Ma
nẵng sa ma nẵng tế bộ đa
_
Nhan ngu lê nẵng nghĩ nê ngu tứ-dạ
Tô
bà nga tất-ly dã nại ly sa-nẵng
Đạt la ni đà la ni Tôn Na
Phộc nễ dã để-ly bộ phộc nễ sa ly
_
Phan bà thất tổ đa la ni bố sắt-ni
Ngột-ly sắt-trí na phiến để na dĩ nễ
Đạt ly-ma nga ly-bà mẫu nễ phộc la
Nễ
dã bà phộc bát xả nẫm
Tinh hạ một-la đa bát tra một-ly đa
_
A ba la nhĩ đa lạc ca yết ly
Tát ly-phộc nạp ly nga đế nễ phộc la ni
Tao bà nga-dã na phộc hỗ bộ nhạ
Để
ly lạc ca nhạ nẵng nễ thất phộc
_
Ngật-ly sắt-noa nhĩ nẵng phộc để a ly-dã
Tát ly-phộc ma la bát-la ma ly-na nễ
Tát ly-phộc một để bát-la thiết sa đa dã
Tam bột ly đa dã ngu ni ly ngu long
_
A phộc lạc cát dã tăng nghê dã dã
Nẵng mô niết đát dã ngật ly bá đát ma nễ
Ma
hạ phộc la dã thế noa dã
Vị
nê dã la nhạ dã sa đạt phệ
Nạp ly nan đà na ma ca dạ dã
Nẵng mô tất đế phộc nhật la bà noa duệ
_ Lại
nữa, Hành nhân ca ngợi Tam Bảo với Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát như vậy xong,
chắp tay chí tâm bày tỏ sám hối là:
“Con (họ tên … ) từ vô thủy đến nay luân hồi trong các nẻo đã tạo nghiệp
Đại ác, hành Pháp bất thiện. Tự mình làm và dạy người làm, thấy nghe
việc ấy đều tùy vui. Nghiệp như vậy thật là vô lượng vô biên. Giờ đối
trước Phật, Bồ Tát xin tỏ bày sám hối. Từ nay trở đi con chẳng dám gây
tội nữa. Nguyện xin Phật Bồ Tát Đại từ Đại bi nhận lời sám hối của con”.
_ Lại
nói rằng: “Con (họ tên …) từ nay về sau sẽ đi thẳng đến ngồi ở Bồ Đề
Đạo Trường. Thề xong, quy y Pháp Giới vắng lặng của Chánh Đẳng Chánh
Giác Vô Thượng Như Lai cho đến quy y hết thảy A Phệ La Ly Để Đại Bồ Tát
chúng ở 4 phương với Phật Bồ Tát. Xả bỏ thân mệnh không hề hối tiếc chỉ
nguyện từ bi nhiếp thọ cho con.
_ Lại
nói rằng: “Con (họ tên …) từ nay trở đi, thẳng đến ngồi ở Bồ Đề Đạo
Trường. Các Pháp Sở Hữu nơi UẨN, XỨ, GIỚI, đều Vô ngã, Vô Thủ, Vô Xả. Xa
lìa tất cả tướng. Tự tính như Hư không, chỉ như Phật và các Bồ Tát phát
Tâm Bồ Đề. Lại như Chư Phật từ Tâm Sơ Giác biết Phước tối thượng là đem
các phước có được tùy hỷ hối thí cho Chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh
Văn, cho đến cùng tận giới chúng sinh con cũng tùy hỷ đem Công đức này
nguyện cho con sau này cùng ở tất cả giới chúng sinh như Phật Đại bi
tuôn mưa Đại Pháp, mọi loại phương tiện, ở các Thế gian làm lợi ích lớn,
lợi lạc cho chúng sinh. Dùng tâm dũng mãnh mau thành sự nghiệp.
Tại sao vậy? Vì giới phàm phu này là Nan Địa (Đất khó khăn, nguy
hiểm) chẳng có cứu cánh. Con đối với tất cả chúng sinh của giới này,
nguyện đều khiến cho được đạo Xuất Thế gian, vắng lặng, an vui. Đã được
đạo rồi, con liền khiến cho được Công dức Tối thượng, A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề”.
Hành
nhân Tán Thán, Sám Hối, Tùy Hỷ, Hồi Hướng, Phát Nguyện như vậy xong.
Liền kết Đại Ấn, kết xong lại kết Tam Muội Ấn, đem 2 bàn
tay cùngnắm quyền, kèm ngón giữa như cây kim, 2 ngón trỏ hướng ra ngoài
như cái Chày Kim Cương, đặt 2 ngón cái bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành
Ấn. Kết Ấn này, tụng Đại Minh là:
“ÁN _ Thương yết ly, Ma hạ tam ma duệ, Sa phộc hạ”
(
OMÏ SAMÏKARE MAHÀ SAMAYE SVÀHÀ
_
Tiếp, kết Tam Ma Địa Ấn, đặt tay trái ở lỗ rốn. Đặt tay phải bên
trong tay trái, 2 ngón cái và 2 ngón trỏ dính nhau liền thành Ấn. Tụng
Đại Minh là:
“ÁN – Tôn”
(
OMÏ CUNÕ
Kết
Tam Ma Địa Ấn, tụng Đại Minh xong, liền nhập vào Tam Ma Địa, quán trong
trái tim mình như trước sinh ra một hoa sen lớn do mọi báu hợp thành. Ở
trên hoa sen có Tôn Na Bồ Tát đủ 5 phần Pháp Thân. Ở trong thân ấy tuôn
ra ánh hào quang lớn. Nơi tuôn ra ánh sáng tùy vào Pháp đã làm hoặc màu
trắng, hoặc màu vàng, hoặc màu đỏ, hoặc màu đen. Tùy hiện một màu tràn
khắp thân ấy. Tưởng trong hào quang ấy tuôn ra chữ vi diệu tuôn ra ánh
sáng lớn. Ánh sáng ấy liền thành Kim Cương Giới ( Vajra Dhàtu ) . Hành
nhân tự tưởng thân của mình với thân Hiền Thánh không sai khác. Sau đó
lại quán trên chóp mũi có Vật, chuyên chú Tâm ấy tác Tưø
(Maitra:Ban vui cho người khác ) kiên cố, hơi thở ra vào thật nhẹ nhàng,
ngồi ngay thẳng khiến đầu, cổ, eo hơi cúi xuống. Lại ở bên trong trái
tim mình quán có Đức Như Lai. Lại quán trong trái tim của Như Lai hiện
vành mặt trời (Nhật luân), ở trong vành mặt trời hiện 1 hoa sen hé nở do
mọi báu hợp thành. Ở trong hoa sen hiện Tôn Na Bồ Tát có thân như màu
vàng ròng mặc áo màu trắng, mọi thứ trang nghiêm. Ở hai hông sườn của
Tôn Na tuôn ra ánh sáng lớn. Lại tưởng trong lỗ tai, con mắt, cái miệng
tuôn ra ngọn lửa lớn. Tác quán tưởng như vậy mỗi mỗi hiện trước mặt cho
thật rõ ràng không có sai lầm. Sau đó, thâu ánh sáng vào, cúi đầu đỉnh
lễ, dâng hiến Ứ Già. Lại tụng Phật Nhãn Bồ Tát Đại Minh 7 biến hoặc 21
biến.
Hoặc
vào lúc tác Pháp ngay trong Man Noa La, nằm ngủ lại gặp mộng ác, liền
tụng Phật Nhãn Bồ Tát Đại Minh 800 biến. Ngay lúc tụng MINH, tay trái
cầm tràng hạt, tay phải cầm Chày Kim Cương. Đại Minh là:
“ÁN – Độ nẵng phộc nhật la Hắc”
( OMÏ
_ DHUNA VAJRA _ HOHÏ
_ Lại
nữa, nói về Gia Trì Sổ Châu Ấn, duỗi rộng 2 ngón giữa của 2 tay,
đem 2 ngón trỏ đè giữ ngón giữa, dùng 2 ngón cái, 2 ngón vô danh, 2 ngón
út giữ tràng hạt. Tụng Đại Minh là:
“ÁN – A nạp bộ đế, vĩ nhạ duệ, tất đế tất đà ly thể Sa phộc hạ”
(
OMÏ_ ADPUTE _ VIJAYE SIDDHI _ SIDDHA ARTHE _ SVÀHÀ
Lại
chắp hai tay lại đặt trên đỉnh đầu, tiếp đặt trên trái tim. Tụng Đại
Minh là:
“ÁN – Nẵng mô bà nga phộc để, tất đê, sa đạt dã, tát đà ly thê, sa phộc
hạ”
(
OMÏ NAMO BHAGAVATE _SIDDHI SÀDHAYA_SIDDHA ARTHE SVÀHÀ
Lại
nữa, nói về Sổ Châu Pháp. Hoặc dùng hạt Bồ đề, hoặc Xà cừ, Pha lê
… nên dùng 108 làm sổ (Chuỗi tràng hạt). Nhờ Đồng nữ xe chỉ lấy 21 sợi
hợp thành một sợi chỉ mà xỏ kết chuỗi. Lúc trì tụng dùng ngón cái lần
chuỗi, mội 1 hạt tụng Đại Minh 1 biến.
_ Chữ
của Đại Minh ấy cũng có 3 loại. Hoặc dùng chữ của Đại Minh trong vành
trăng Tâm, hoặc dùng chữ vi diệu của Pháp Đỉnh Lễ. Lúc Hành nhân trì
tụng thời chí tâm chuyên chú chẳng được giải đãi.
Nếu
là Pháp Tức Tai, Tăng Ích thì tụng nhẹ nhàng chữ Hồng (HÙMÏ) với
chữ Phát tra (PHATÏ).
Nếu
làm Pháp Điều Phục cũng dùng chữ HỒNG với chữ PHÁT TRA, chỉ khởi Tâm
phẫn nộ dùng âm thanh giận dữ mà trì tụng. Đây là nghi tắc thông thường.
Mỗi
lần tác Pháp trì tụng xong thì thường tụng Phật Nhãn Đại Minh và hiến Ứ
Già. Tùy theo ước nguyện mà chí tâm cầu khẩn. Lại là Cúng Dường, Tán
Thán, Sám Tạ “Con (họ tên …) đã mời Chư Vị đến mà cúng dường đơn sơ
không có gì thù diệu. Nguyện xin Bồ Tát vui vẻ bỏ qua cho”.
Lại
hiến Ứ Già mà tác đỉnh lễ.
Tác
Pháp xong rồi, Phát Khiển Thánh Giả
Nghinh ( Mời đến ) dùng Câu Triệu Ấn chỉ dùng ngón cái dao
động 3 lần làm phát khiển. Đại Minh là:
“Dã tứ dã tứ đế, vỉ ma nẵng lô căn, vĩ bát ly nhạ duệ”
(
YAHI YAHITE VIMANA LOKAMÏ VIPARI JAYE
Phát
Khiển Hiền Thánh xong, Hành nhân lại tác Man Noa La Phộc Ấn ủng
hộ ngay thân mình.
Tiếp
tác A Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn ( Asamàmïgni Mudra ). Liền dùng tam Muội
Ấn, tách mở ngón cái đều như cây kim xoay về bên trái. Đại Minh là:
“ÁN Ngột ly A Tam hàm nghi nễ Hồng phát tra”
(
OMÏ HRÌHÏ _ ASAMÀMÏGNI _ HÙMÏ PHATÏ
Lại
kết Tam Muội Ấn làm ủng hộ.
Lại
tụng Vô Năng Thắng Đại Minh. Minh này hay thành tựu tất cả việc. Đại
Minh là:
“Năng mô tam mãn đà một đà nẫm. Aùn_ hổ lô, tán noa ly, ma đăng nghĩ sa
phộc hạ”
(
NAMAMÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ
OMÏ _
HULU HULU _ CANÏDÏARI MATANÕGI _ SVÀHÀ
Mỗi
khi ăn xong dùng Đại Minh gia trì vào thức ăn dư rồi dùng Hiến Bất Động
Tôn Minh Vương. Đại Minh là:
“Nẵng mạc tam man đa phộc nhật la nẫm, đát la tra A mô gia tán noa, lô
sa noa, sa bố tra dã, Hồng đát la tra hồng, Hàm”
(
NAMAHÏ SAMANTA VAJRÀNÏAMÏ _ TRATÏ _ AMOGHA CANÏDÏA ROSÏANÏA
SPHATÏAYA _ HÙMÏ _ TRATÏ _ HÀM _ MÀMÏ
Người
trì tụng làm 5 loại thuốc, nước sách. Mỗi một lần làm lấy nửa tháng làm
giới hạn. Mỗi ngày uống cả 2 thứ 3 lần, dùng lá Ba La Xả làm vật chứa
nước uống.
Năm
loại thuốc là: Nước sữa bò vàng, củ Mâu Đát La Cù Ma Gia, lạc ( Sữa nấu
chín ), cỏ Cát Tường, nước hòa hợp thành xong, liền tụng Đại Minh gia
trì sau đó mới uống. Đại Minh là:
“Nẵng mô bà nga phộc đế, ô sắt nị sa dã. ÁN vĩ thủ đê, vĩ la nhi, thủy
phệ, phiến để ca ly, Sa phộc hạ”
(
NAMO BHAGAVATE USÏNÏISÏÀYA - OMÏ _ VI’SUDDHE VIRAJI ‘SIVE _
‘SÀNTI KARI _ SVÀHÀ
Hành
nhân dùng hoa màu hồng nhuộm chỉ, nhờ Đồng nữ hợp lại. Dùng Đại Minh gia
trì 1.000 biến, kết 7 gút xong buộc cạnh eo lưng. Đại Minh là:
“Án – Hạ la hạ la , mãn đê thủ cật la đà ly ni tất đê, sa phộc hạ”
(
OMÏ HARA HARA _ BANDHA ‘SUKRA DHÀRANÏI SIDDHI _ SVÀHÀ
Minh
này cũng hay cấm phục Thủ Cật La và hay phá Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru : Oan
Gia ). Nghi quỹ như vậy, người hành trì tụng có thể dùng 3 thời làm giới
hạn.
_ Lại
nữa ở Pháp môn Du Già, nếu muốn tu tập cầu các Tất Địa ( Siddhi ). Trước
tiên nơi thân của mình ra mọi loại tác Pháp. Sám trừ Nghiệp đời trước (
Túc Nghiệp ) khiến không có chướng nạn. Nếu chẳng như vậy thì khó thành
Thánh Đạo.
Lại
nữa, lúc hành nhân muốn tác Pháp thời trước tiên nên phát Tâm xa lìa
các nơi ồn ào luận nghị, ở ngay thân phân tưởng chữ vi diệu sao cho
tướng các chữ mỗi mỗi hiện trước mặt. Nếu được hiện trước mặt thì tất cả
mọi tội cấu đều được tiêu diệt.
Chữ
vi diệu ấy trứơc tiên ở cửa miệng tưởng chữ HÀM ( -
MAMÏ)
Ở
trên vai phải tưởng chữ ÁM ( _ AMÏ )
Ở
trên vai trái tưởng chữ ÁC ( _ AHÏ )
Ở
trên đầu tưởng chữ ÁM ( _ AMÏ )
Ở
trên cánh tay phải tưởng chữ A ( ), trên cánh tay trái tưởng
chữ PHỘC ( _ VA )
Ở
trong lỗ rốn tưởng chữ HỒNG ( _ HÙMÏ ).
Lại ở
toàn thân tưởng chữ A ( )
Chữ
vi diệu như vậy đều là chữ Phạn
Lại
nữa, Hành nhân hồi tưởng chữ như vậy, ở trên thân phần hiện thời liền
lại tụng Đại Minh là:
“Hồng Tả lệ tổ lệ Tông nễ Hồng”
(
HÙMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ HÙMÏ
Nếu
tụng Minh này được 1 Lạc xoa biến thì hay trừ tất cả tội.
_ Lại
tụng Đại Minh là:
“ÁN – Tả lệ tổ lệ Tôn nễ Phát tra”
( OMÏ
_ CALE CULE CUNÕDHE _ PHATÏ
Nên
tụng Minh này đủ một Lạc Xoa ( 100 ngàn biến ) thì được Đại Trí tuệ.
_ Lại
tụng Đại Minh là:
“Nẵng mạc tả lệ tổ lệ Tôn nễ nẵng mạc”
(
NAMAHÏ CALE CULE CUNÕDHE _ NAMAHÏ
Thường trì Minh này thì hay trừ tất cả Trần cấu.
_
Tiếp, lại nói về chữ vi diệu căn bản của Chư Phật Bồ Tát.
Chữ
MÂU ( - MAMÏ) là căn bản của Diệu Cát Tường Bồ Tát
(Manõju’srì Bodhisatva_ Văn Thù Bồ Tát )
Chữ
MUỘI ( -MAI) là căn bản của Từ Thị Bồ Tát ( Maitrì
Bodhisatva )
Chữ
THẤT LY ( - ‘SRÌ) là căn bản của Như Lai( Tathàgata ), lại là
căn bản của LY PHỆ Hiền Thánh.
Chữ
ÁM ( - AMÏ) là căn bản của Phổ Hiền Bồ Tát ( Samantabhadra
Bodhisatva )
Chữ
ÁC ( - AHÏ) là căn bản của Hư Không Tạng Bồ Tát ( Aøkà’sa
Garbha Bodhisatva )
Chữ A
( - À) là căn bản của tất cả Như Lai.
Chữ
BỘT LONG ( - BHRÙMÏ) là căn bản của Đại Luân Minh
Vương ( Mahà cakra Vidyaràja )
Chữ A
( - À) lại là căn bản của Quán Tự Tại Bồ Tát (
Avalokite’svara bodhisatva ) , lại là căn bản của Kim Cương Thủ Bồ Tát (
Vajrapànïi Bodhisatva )
Chữ
HỒNG ( - HÙMÏ) là căn bản của Diễm Ma Đắc Ca Minh
Vương ( Yamantaka Vidyaràja )
Chữ
ÁN ( - OMÏ) là căn bản của Tỳ Lô Giá Na Phật ( Vairocana
Buddha )
Chữ
TẢ ( - CA) là căn bản của Đại Luân Minh Vương.
Chữ
LỆ ( - LE) là căn bản của Bất Động Minh Vương ( Acala
Vidyaràja ) , lại là căn bản của Mã Đầu Minh Vương ( Hàyagrìva Vidyaràja
)
Chữ
TÔN ( - CUNÕ ) là căn bản của Đại Tôn Na Bồ Tát ( Mahà
Cunõdhe Bodhisatva )
Chữ
NỄ ( - DHE) là căn bản của Kim Cương Tát Đỏa Bồ Tát
(Vajrasatva Bodhisatva )
Chữ
SA ( - SVÀ) là căn bản của I Ca Nhạ Tra.
Chữ
HẠ ( - HÀ) là căn bản của Phộc Nhật La Nẵng Khư ( Vajra
Dhaka)
_
Tiếp, lại diễn nói về các Ấn: là Trạch Địa Ấn, La Ấn (ấn cái cày),
Phương Vị Ấn, Liên Hoa Ấn, Tam Xoa Ấn, Bát Ly Ca Ấn, Quyến Sách Ấn, Câu
Ấn, Đảo Xử Ấn (ấn cái chày dầm), Bột Tổn Ni Ấn, Bảo Trượng Ấn, Tọa Ấn,
Kim Cương Tọa Ấn với Hiền Toạ Ấn, Sa Tất Đế Ca Ấn, Nhạ Phộc Năng Ấn, Sư
Tử Tọa Ấn, Thuyết Pháp Luân Ấn, Sư Tử Bộ Ấn (ấn bước đi của sư tử), Sư
Tử Ngọa Ấn (ấn sư tử nằm), Phan Ấn, Phiến Ấn, Bạch Phất Ấn, Kim Cương
Linh Trân Châu Lưu Ly Ấn, Pháp Cổ Ấn, Loa Ấn, Ưu Bát La Hoa Man Ấn, Tăng
Già Lô Y Bát Ấn, Vô Úy Ấn, Pháp Luân Ấn, Hoa Ấn, Đồ Hương Ấn, Đăng Ấn,
Thực Ấn, Thỉnh Triệu Bản Tôn Ấn, Phát Khiển Ấn, Cúng Dường Ấn, Át Già
Ấn, Y Phục Trang Nghiêm Ấn, Hiền Bình Ấn, Hoa Man Ấn, Thần Thông Ấn, Nhạ
Phộc Năng Xả Ấn, Thất Di Lô Ấn, Bồ Đề Thọ Ấn, An Tam Muội Ấn, Trừ Ma Ấn,
Đầu Đỉnh Khí Trượng Ấn, Định Ấn, Phật Nhãn Ấn, Ma Ha Chỉ Ấn, Nhạ La Bá
Ba Ni Ấn, Tĩnh Tranh Tượng Ấn, Quân Trì Ấn, Ca La Dã Noa Ấn, Tản Cái Ấn,
Cách Tỉ Ấn, Đỉnh Lễ Ấn, Mộc Dục Ấn, … 84 ấn.
Tiếp,
lại nói về các ấn tướng, khiến cho Hành nhân tu tập viên mãn được Pháp
thành tựu. Lúc hành nhân muốn tác Pháp, trước tiên nên trong sạch thân
tâm. Sau đó là dùng hương xoa bôi lên hai bàn tay thì mới có thể kết khế
ấn. Hành nhân đứng ngay thẳng ở mặt Đông, chắp tay đặt trên đỉnh đầu
đỉnh lễ Ta Bảo, sau đó đỉnh lễ Bản Tôn Đại Tôn Na Bồ Tát. Tiếp đỉnh lễ
Quán Tự Tại Bồ Tát, tiếp đỉnh lễ Kim Cương Thủ Bồ Tát. Như vậy đỉnh lễ
Chư Phật Bồ Tát xong rồi mới có thể kết ấn.
KINH
ẤN: Chắp hai tay lại, dựng thẳng ngón trỏ, ngón giữa của tay trái và đặt
ngón cái, ngón vô danh, ngón út vào trong lòng bàn tay phải. Đem ngón
tay trái cùng kết lại thì thành ấn. Ấn này đúng vào lúc nhập vào Tam
Muội và lúc tác Pháp thành tựu.
PHƯƠNG VỊ ẤN: Trước tiên, đứng thẳng làm thế múa bên phải (Hữu Vũ Thế)
mà chuyển theo bên phải. Đem tay phải tác Thí Nguyện, tay trái làm tướng
Tam Phan (3 cây phướng) đặt trên trán. Lại tác Hữu Vũ Thế rồi tác Tả Vũ
Thế … thì thành ấn. Ấn này hay phục Sư tử, Rồng , Cọp với Bộ Đa, Quỷ Tất
Xá Tả ( Pi’sàca ) … cho đến nhóm giặc cướp.
_
Tiếp, nói về PHÁP ẤN, hợp 2 tay lại như tướng hoa sen 8 cánh khiến cho
ngón tay không chạm nhau. Đem 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay thì
thành ấn. Kết ấn này thì khiến cho Chư Thiên có Đại uy đức thảy đều hoan
hỷ hay ban cho Hành nhân việc Đại cát tường và thành tựu ước nguyện.
_
Tiếp, đến TAM XOA ẤN: tay trái nắm quyền, duỗi ngón trỏ, ngón giữa,
ngón vô danh thì thành ấn. Ấn này có uy lực lớn dùng vào lúc tác Pháp
Tức tai.
_
Tiếp, đến BÁT LY GIÀ ẤN: đem 2 bàn tay đều đặt trên cánh tay, đều dựng
ngón trỏ thành ấn, ấn này hay trừ tất cả bệnh sốt rét (ngược bệnh).
_
Tiếp, đến QUYẾN SÁCH ẤN: Hai tay cùng kèm song song nhau, đem ngón vô
danh và ngón cái cùng móc nhau như cái khóa thì thành ấn. Ấn này ở trong
Pháp Kính Ái, tác Câu Triệu thì có Công đức lớn.
_
Tiếp, đến ĐẢO XỬ ẤN: 2 tay nắm quyền cùng hợp nhau. Đem ngón cái cùng
cái chéo nhau thì thành ấn. Ấn này nên dùng ngưng trừ Tú Diệu (các vì
sao) đại ác.
_
Tiếp, đến BỘT TỔN NI ẤN: Đặt 2 tay kèm song song nhau, lại cùng đảo lộn
đầu nắm quyền. Hơi co ngón giữa vào trong ngón cái thì thành ấn. Ấn này
dùng trong lúc tác Pháp Điều Phục, hay phá hoại Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru )
và ngưng trừ nhóm Dạ Xoa ( Yaksïa ) , Tú Diệu Đại Ác.
_
Tiếp, đến BÁT TRÌ BÀ ẤN: đem ngón cái, ngón út của tay phải ở đầu ngón
trỏ thành ấn. Ấn này hay giáng phục A TÔ La.
_
Tiếp, đến TỌA ẤN: Co ngón vô danh của tay phải, và duỗi rộng các
ngón cái và hơi co
ngón cái lại thì thành ấn. Kết ấn này thì
tưởng thành Tòa Báu hiến các Hiền Thánh.
_
Tiếp, đến KIM CƯƠNG TỌA ẤN: 2 tay cùng kèm song song nhau nắm quyền. Lại
tác như Châm Phộc (cây kim đan cột buộc nhau). Đặt ngón cái vào ở dưới
cây kim thì thành ấn. Kết ấn này thì tưởng thành tòa Kim Cương phụng
hiến Phật Thế Tôn.
_
Tiếp, đến HIỀN TỌA ẤN: trước tiên, giương tay trái ngang bằng đặt ở dưới
lỗ rốn. Giương bằng bằng phải đảo lộn với tay trái và đặt trên tay trái
thành ấn. Ấn này lúc tác Man Noa La ( làm Đàn ) với lúc nhập định dùng
hiến Tôn Na Bồ Tát với Kim Cương Thủ Bồ Tát.
_
Tiếp, đến SA TẤT ĐẾ CA ẤN: Trước tiên, ngồi ngay trên tòa hoa sen, đặt
chân phải vượt qua chân trái. Lại dùng tay phải mở rộng đè ngón cái tay
trái thì thành ấn. Lúc tác Pháp thành tựu thì dùng ấn này, thường ban
Tất Địa cho Hành nhân.
_
Tiếp, đến NHẠ PHỘC NĂNG ẤN: Trước tiên, đứng thẳng chân, sau đó xoay
chuyển về bên phải, 2 tay đều nắm quyền, duỗi ngón giữa dao động thì
thành ấn. Hành nhân dùng ấn này trong lúc bị nạn lớn hoặc lúc bị Pháp
cấm phộc thì tất cả việc ấy chẳng có thể làm hại được.
_
Tiếp, đến SƯ TỬ NGOẠ ẤN: Trước tiên, tưởng ngồi yên trên hoa sen. Liếc
ngó về bên phải, lại quay lưng ngồi sau đó đem bàn chân phải vượt qua
bàn chân trái, đặt tay chạm đất thì thành ấn. Dùng ấn này vào lúc quán
tưởng.
_
Tiếp, đến PHAN ẤN: duỗi thẳng ngón trỏ và ngón giữa của tay trái làm thế
dao động thì thành ấn. Dùng ấn này vào lúc cúng dường.
_
Tiếp, đến TRÀNG ẤN: Tay phải nắm quyền, duỗi thẳng ngón giữa thì thành
ấn. Dùng ấn này vào lúc chiến đấu hoặc có sự sợ hãi lớn.
_
Tiếp, đến SƯ TỬ TỌA ẤN: Trước tiên, đặt 2 tay kèm song song nhau. Lại
như hợp chưởng, để ngón giữa và ngón út như cây kim, ngón vô danh và
ngón trỏ như cái vòng, dựng thẳng ngón cái lên trên cho cứng thành ấn.
Ấn này là Thế Tôn Ấn dùng để giáng phục Đại Dạ Xoa
Tiếp,
đến PHÁP ẤN: Trước tiên, ngồi kiết già, tay trái nắm quyền dựng thẳng
ngón trỏ, dùng tay phải nắm ngón trỏ tay trái, đặt ở lỗ rốn thì thành
ấn. Dùng ấn này đề cầugiải thoát, tất cả Trời, người thảy đều xưng tán.
_
Tiếp, đến BÁT BỨC LUÂN ẤN: Duỗi rộng 2 bàn tay sao cho các ngón rời nhau
rồi xoay chuyển trên đầu như tướng bánh xe (Luân Pháp) thì thành ấn. Ấn
này có uy lực hay trừ tất cả đại ác.
_
Tiếp, đến SƯ TỬ BỘ ẤN: Trứơc tiên, đứng ngay ngắn như con Sư tử, sau đó
đặt tray trái ở sau lưng, rồi đặt ở bên phải, dựng ngón út như cây kim,
hơi co 2 ngón trỏ dang rộng cùng dính nhau. Đặt ngón cái bên cạnh ngón
trỏ thì thành ấn. Ấn này dùng vào lúc Câu Triệu và Phát Khiển ở trong
Pháp Kính Ái.
_
Tiếp, đến TÔN NA BỒ TÁT CĂN BẢN ẤN: Dùng các ấn tướng ở thân phần của Bồ
Tát.
_
ĐỈNH LỄ ẤN: Trước tiên đứng ngay thẳng, chắp tay lại làm tướng đỉnh lễ
thì thành ấn. Ấn này là Tôn Na Đỉnh Lễ, là ấn tối thượng.
_
Tiếp, đến LIÊN HOA ẤN: Chỉ sửa tướng lúc trước, chắp tay, lại đặt ở trái
tim của Tôn Na. Liền dùng 2 chân đảo lộn đầu thì thành ấn. Đây cũng gọi
là Tối Thượng Ấn
_
Tiếp, đến ĐẦU ẤN: Trứơc tiên, kiễng bàn chân trái, sau đó quỳ gối phải
sát đất, tay phải đặt trên trán làm thế dao động. Lại để 4 ngón cùng kèm
song song nhau, đặt ngón cái ở trong lòng bàn tay thì thành ấn.
_
Tiếp, đến ĐỈNH ẤN: đặt ngón giữa như cây kim và ngón cái của tay phải
cùng vịn nhau thì thành ấn. Ấn này nếu dùng Gíap Trụ Đại Minh thì đồng
dạng, cũng gọi là Giáp Trụ Ấn
_
Tiếp, đến TÔN NA BẢN ẤN: Trước tiên, dao động ngón cái của 2 tay xong,
chắp 2 tay lại, để ngón cái của tay phảivào bên trong lòng bàn tay thì
thành ấn, đặt ở trái tim.
_
Tiếp, đến HOA ẤN: 2 tay nắm quyền lại, dựng 2 bàn tay như cây kim, đặt
ngón trỏ và ngón cái cùng hợp nhau thì thành ấn.
_
Tiếp, đến ĐẠI ẤN: 2 tay cùng kèm song song cái ngón đừng để dính nhau.
Đặt ngón cái ở lóng thứ 3 của ngón út, sau đó nắm quyền bền chắc thì
thành ấn. Đặt ấn này ở Bãn Tâm ( Trái tim của mình ) , liền tụng Đại
Minh 7 biến thì hay tác tất cả Pháp.
_
Tiếp, đến ĐỆ NHỊ ẤN: (ấn thứ hai) Liền dùng ấn lúc trước, dựng 2 ngón
cái, giương duỗi các ngón còn lại đừng cho dính nhau thì thành ấn.
_
Tiếp, đến ĐỆ TAM ẤN: (ấn thứ ba) Dùng ấn lúc trứơc, đều đặt ngón trỏ ở
lóng thứ 3 của ngón giữa thì thành ấn.
_ ĐỆ
TỨ ẤN: (ấn thứ tư) Đem 2 tay duỗi rộng các ngón và đều co lóng giữa. Lại
đặt ngón giữa, ngón vô danh trên ngón cái ở ngay lóng giữa thì thành ấn.
_
Tiếp, đến KINH ẤN: Đem 2 ngón cái đè móng 2 ngón út. Lại đặt tay phải
trên tay trái thì thành ấn.
_
Tiếp, đến LOA ẤN: Giương rộng ngón trỏ, ngón giữa của 2 tay sao cho dính
nhau, để ngón út vịn móng ngón cái bền chắc thì thánh ấn.
_
Tiếp, đến ĐỊNH ẤN: Trước tiên ngồi kiết già, giương rộng 2 bàn tay, đặt
tay phải trên tay trái sao cho móng 2 ngón cái dính nhau rồi đặt dưới lỗ
rốn thì thành ấn.
Các
Ấn Tướng như vậy cũng tùy phần diễn nói, Hành nhân tu thành thành
tâm ghi nhớ tu tập khiến cho tinh thục, chẳng thành Ấn Khế tức Hiền
Thánh chẳng vui, phàm sự cầu đảo chẳng được thành tựu.
PHẬT
THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU
NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ
HAI ( Hết )
Mật Tạng Bộ 3 - No
1169C (Tr. 684 ( Tr. 687)
PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO
TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU
NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ BA
Long Thọ Bồ Tát lược trích từ TRÌ MINH TẠNG
Hán dịch: Minh Giáo Đại Sư PHÁP HIỀN
Việt dịch: HUYỀN THANH
TẠO TRANH
TƯỢNG
PHẦN
THỨ BA
Bấy
giờ, Đức Phật nói: “Ta đã lược nói về các Ấn Tướng trong Đại Giáo Du Già
của Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai xong. Nay ta lại nói về các thức vẽ tượng.
Nếu
có Hành nhân ở trong Pháp của Tôn Na tu tập cầu thành tựu, thì trước
tiên cần hiểu rõ (liễu đạt) thứ tự nghi thức vẽ tượng. Hành nhân nếu
muốn vẽ tượng, trước nên nên dùng lụa thuần màu trắng tinh thật tốt
không có lẫn lộn lông, tóc và các vật tạp loạn. Nếu mua của người khác
thì tùy theo giá lụa chẳng được trả giá nhiều ít. Khi được rồi, trước
tiên đặt trong đống lúa gạo 7 ngày đêm, sau đó đem ngâm trong nước sạch
có 5 vị thuốc 3 ngày hoặc 5 ngày, 7 ngày là tốt nhất. Xong dùng nước
sạch rửa kỹ, lại ngâm trong nước sạch thơm 1 ngày đêm rồi lấy ra. Lại
dùng nước Ngũ Tịnh vẩy sạch sẽ, rồi dùng nước Ngũ Bảo tẩy rửa, thì mới
có thể vẽ lên trên.
An
bày xong, Hành nhân tự tác quy mệnh là: “Nam mô thất thập thất câu đê
chính đẳng chính giác”, cũng khiến người vẽ chuẩn bị tinh khiết, đến
thời thì quy mệnh xong mới bắt đầu vẽ các Hiền Thánh. Bức tranh đó trước
tiên Hành Nhận tụng Đại Minh gia trì xong mới dùng đất màu trắng hòa với
phấn rồi xoa lên khuôn vải. Xoa tô xong đem đặt ở nơi thanh tịnh. Từ đây
về sau cho đến lúc dùng màu vẽ xong thường đem hương hoa, Ứ Già cúng
dường. Nếu y theo Pháp như vậy làm là Phẩm tối thượng.
Bắt
đầu làm thì chia vẽ Giới Đạo, cũng nên vẽ xoay theo bên phải.
Trước tiên ở mặt dưới tranh vẽ ao hoa sen bên trong chứa đầy hoa và có
mọi loài Thủy Tộc như: cá, ốc, trai, sò, rùa cùng với Uyên Ương, phi
cầm… Trên mặt ao vẽ 3 tòa hoa sen do mọi báu hợp thành.
Trên
hoa sen ở chính giữa vẽ Đức Phật Thế Tôn màu trắng tỏa hào quang
rực lửa chiếu soi khắp cả có tay phải kết Ấn Thí Nguyện, tay trái
kết Ấn Thuyết Pháp với hào quang màu trắng. Ở trong lỗ rốn tuôn
ra ánh sáng lớn, trong ánh sáng đó hiện ra Tôn Na Bồ Tát.
Trên
hoa sen bên phải Đức Phật vẽ Đức Phật Đỉnh thứ ba có 6 cánh tay.
Bên phải: tay thứ nhất kết ấn Thí Nguyện, tay thứ hai cầm hoa sen, tay
thứ ba cầm tràng hạt. Bên trái: tay thứ nhất cầm chày Kim Cương, , tay
thứ hai cầm Quyển Kinh, tay thứ ba kết Ấn Thuyết Pháp. Toàn thân có hào
quang rực rỡ vây quanh.
Trên
hoa sen , bên trái vẽ Đức Bất Không Quyến Sách ( Amogha Pà’sa )
có 4 mặt, 8 cánh tay, mặc áo da cọp quấn quanh nách. Lại dùng da nai làm
áo khoác ngoài ( Thiên Y ) . Khuôn mặt có 3 mắt, đầu đội mão báu , tóc
buông rũ xuống dưới. Bên phải: tay thứ nhất kết Ấn Thí Nguyện, tay thứ
hai cầm tràng hạt, tay thứ ba cầm vòng dây, tay thứ tư kết Ấn Thí Vô Úy.
Bên trái: tay thứ nhất cầm hoa sen trắng, tay thứ hai cầm Quyển Kinh,
tay thứ ba nắm quyền dựng đứng ngón trỏ làm Ký Khắc Ấn, tay thứ tư cầm
móc câu.Toàn thân rực lửa chiếu diệu rực rỡ.
Mặt
bên dưới vẽ 2 vị Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàgaràja ) và Ô Ba
Nan Đà ( Upananda Nàgaràja ) đều có 7 đầu, tay cầm Phật Tọa với
nhánh hoa sen.
Ở bên
phải vẽ Mãn Hiền ( Samantabhadra ) đầu đội mão Trời, thân có mọi
thứ trang nghiêm, tay cầm viên ngọc báu.
Ở mặt
trên, hai bên trái phải vẽ 5 cái Tháp Phật . Trong Tháp vẽ các Đức Cát
Tường Như Lai ( ‘Srì Tathàgata ) . Thứ nhất vẽ Đức Hải Cát Tường Như
Lai , thứ hai vẽ Đức Thiên Bảo Kế Cát Tường Như Lai , thứ ba
vẽ Đỉnh Quan ( cái mão ) Tạng Cát Tường Như Lai . Thân các
Như Lai đều tác màu vàng ròng, tay kết Ấn Thí Vô Úy.
Lại ở
2 bên phải trái đều vẽ núi báu. Trên núi báu ở mặt trái vẽ Ma Ma Chỉ
Bồ Tát ( Mamàki Bodhisatva ) ngồi trên Tòa hoa sen, tay cầm chày Kim
Cương. Tiếp phía sau vẽ Vô Năng Thắng ( Aprarajita ) . Ở mặt trên
vẽ Tra Chỉ Minh Vương (Takki Vidyaràja ).
Lại ở
mặt bên trái vẽ Kim Cương Câu Minh Vương ( Vajra Anõku’sa
Vidyaràja ).
Ở
phía trên Đức Thế Tôn , hai bên phải trái vẽ mây hiện tướng chớp lóe (
Thiểm Điện ) . Trong mây vẽ chư Thiên giáng mưa châu báu ( Trân
bảo ) . Lại vẽ chư Thiên hiển tướng ca nhạc. Ở mặt trên vẽ Nhật
Nguyệt Thiên (Àditya Deva và Cadra Deva ) Lại ở trong Hư Không giáng
xuống mọi thứ hoa như cơn mưa.
Tiếp
ở phía bên phải. Trên núi Bảo Tạng ( Ratnagarbha ) vẽ Tam Giới
Thắng Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát ( Trailokya Vijaya Àrya
Avalokite’svara Bodhisatva ) tay cầm hoa sen.
Tiếp
ở phía bên phải vẽ Thánh Đa La Bồ Tát ( Àrya Tàrà Bodhisatva )
tay cầm hoa Ưu Bát La ( Utpala ) màu xanh.
Tiếp
ở bên trái vẽ Phật Mẫu Ma Gia ( Màya Buddha Màtà )
Tiếp
ở mặt phía sau vẽ Đại Khổng Tước Minh Vương ( Mahà Majuri Vidya
rajnõi ). Tiếp ở phía sau, hai bên trái phải vẽ chim công đang múa.
Lại ở
mặt trên , phía bên phải vẽ 5 Đức Như Lai. Thứ nhất vẽ Pháp Hải Hạnh
Cát Tường Vương Như Lai, thứ hai vẽ Thiện Quang Minh Vương Như
Lai, thứ ba vẽ Từ Thị Trang Nghiêm Cát Tường Như Lai, thứ tư
vẽ Đăng Quang Vương Như Lai, thứ năm vẽ My Gian Hào Tướng Cát
Tường Như Lai. Năm Đức Như Lai ấy đều ngồi trên Tòa Sen.
Tiếp
vẽ một vị Dược Xoa Chủ ( Yaksïa Adhipatàye ). Tiếp vẽ Trời Đế
Thích (Indra Deva ) cầm cái lọng.
Như
vậy y theo thứ tự vẽ Phật Bồ Tát với Chúng Hiền Thánh đều viên mãn uy
đức tự tại khiến cho các hàng Trời, Rồng, Quỷ Thần trong Thế Gian nhìn
thấy đều giáng phục. Như vậy vẽ tượng xong.
Người
hành Trì Tụng liền đối trước tranh tượng này làm Pháp An Tượng, khánh
tán. Hành Nhân ở ngày mồng một của đầu tháng hoặc ngày 15 bắt đầu tu
tập, cầu nương uy lực của tất cả Thánh Hiền. Sau đó khiết tĩnh xong thì
thân mặc áo mới sạch, thọ trì Trai Giới trong 3 ngày đêm hoặc một ngày
đêm, hoặc Tĩnh Trai chẳng ăn hoặc ăn rau cải hoặc uống sữa. Lúc
khác, thường trì Bát Thực. Lại thọ 8 Giới xong mới chuẩn bị mọi
thứ hương, hoa, dầu thơm, nước sạch lại đốt đèn dầu bơ và dùng mọi loại
quần áo cực tốt trang nghiêm, tô điểm bằng các thứ quý báu. Lại dùng 5
cái bình Ứ Già chứa đầy nước thơm màu nhiệm và chứa đầy 5 loại báu ( Ngũ
bảo ) , nước của 5 loại thuốc ( Ngũ Dược ) dùng làm Ứ Già cho đến mọi
thức ăn uống tác cúng dường.
Hành
Nhân liền đứng thẳng trước bức tranh đặt ở nơi muốn trì tụng. Liền đem
mọi vật cúng dường mà cúng dường tranh tượng đã vẽ. Như vậy làm Pháp
An Tượng xong, từ đây về sau hành y theo Pháp mà tu hành.
Tiếp
lại nói về Pháp Tượng của Tôn Na Bồ Tát
Người
hành Trì Tụng nếu muốn vẽ Tượng của Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát. Trước
tiên tìm lụa mới thanh tịnh thuần màu trắng. Kiếm được lụa rồi liền
khiến Họa Sư chuẩn bị tinh khiết , đến ngày khởi công khiến thọ 8 Giới,
sau đó khiến dùng vật mới điều phối sắc vẻ thật đẹp. Vẽ Tôn Na Bồ Tát,
thân có màu mặt trăng mùa thu, mặt có 3 mắt, có 18 cánh tay, mặc áo
trắng với mọi thứ trang nghiêm.Dùng A Tha làm áo khoác ngoài ( Thiên y )
, báu Xà Cừ làm xuyến đeo tay, 10 ngón tay có vòng báu ( Nhẫn báu ) .
Hai
tay bên trên tác Ấn Thuyết Pháp
Bên
phải: tay thứ hai kết Ấn Thí Vô Úy , tay thứ ba cầm cây kiếm, tay thứ tư
cầm Bảo Đạc ( Chuông báu nhỏ cầm trong tay ), tay thứ năm cầm quả Vĩ
Nhạ Bố La ( Bìja pùraka_ Tử Mãn Quả ) , tay thứ sáu cầm cây búa ( Việt
Phủ ) , tay thứ bảy cầm móc câu, tay thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ
chín cầm Tràng Hạt.
Bên
trái: tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm hoa sen, tay
thứ tư cầm cái bình Quân Trì, tay thứ năm cầm vòng dây, tay thứ sáu cầm
bánh xe, tay thứ bảy cầm vỏ ốc ( ‘Sànõkha ), tay thứ tám cầm Hiền Bình,
tay thứ chín cầm Quyển Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa
Ở mặt
dưới Bồ Tát.Vẽ ao hoa sen, bên trong ao đó sinh ra một hoa sen lớn. Vẽ 2
vị Nan Đà ( Nanda Nàgaràja ) , Ô Bạt Nan Đà ( Upananda Nàgaràja ) tay
cầm cọng sen.
Trên
hoa vẽ Tôn Na Bồ Tát có hào quang tròn lớn rực rỡ tràn khắp. Phía trước
mặt Bồ Tát ,vẽ người Trì Tụng tay cầm lò hương với tướng hướng gọi Bản
Tôn.
Ở mặt
trên, vẽ Người Trời Tĩnh Cư với tướng tuôn mưa hoa mưa báu.
Vẽ
Tượng như vậy chỉ dùng Khiết Tĩnh Chí Tâm là tốt nhất. Ở trước mặt Tượng
tác Pháp thì không có gì không thành tựu.
(((((((((((
PHÁP LÀM MAN NOA LA
PHẦN THỨ TƯ
Lại
nữa Hành Nhân ở trong Pháp của Tôn Na, tu tập thành tựu làm Man Noa La (
Manïdïala _ Đàn ) Trước tiên y theo Pháp chọn được Thánh Địa xong. Liền
đào bỏ đất cát ác, than, tro, lông, tóc, xương cốt… Lấy đất tốt lấp
đầy,nện chặt cho thật bằng phẳng. Sau đó ở bên trên phân chia làm Man
Noa La. Man Noa La ấy hoặc rộng 16 khuỷu tay, hoặc 8 khuỷu tay, hoặc 4
khuỷu tay, có 3 loại chẳng quyết định. Cho dù lớn nhỏ cũng phải tô điểm
trang nghiêm. Bốn phương của Man Noa La ấy mở 4 cửa, Chính giữa cửa đều
đặt bánh xe Pháp, ở trong dùng chỉ ngũ sắc buộc thắt.Bên trong Man Noa
La làm 8 vị trí của Hiền Thánh. Nếu thiếu liền dùng chỉ ngũ sắc thay
thế. Trong Man Noa La có 33 Câu Đê Thiên . Ở trên Man Noa La chia 7 bình
Ứ Già , bên trong mỗi một bình Ứ Già tưởng có một Câu Đê Thiên ( 100
triệu vị Trời ) . Lại ở bên trong Man Noa La đặt 8 vị Đại Long Vương.
Bên
trong Man Noa La, ngay chính giữa vẽ Tôn Na Bồ Tát và an bày theo thứ tự
các Hiền Thánh khác.
Ở
phương Đông Bắc, an Đại Luân Minh Vương ( Mahà Cakra Vidyaràja )
Ở
phương Đông Nam , an Bất Động Minh Vương ( Acala Vidyaràja )
Ở
phương Nam, an Kim Cương Thủ Bồ Tát ( Vajrapànïi Bodhisatva )
Ở
phương Bắc, an Quán Tự Tại Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva )
Ở
phương Tây Bắc, an Bất Không Quyến Sách Bồ Tát ( Amogha Pà’sa Bodhisatva
)
Ở
phương Tây, an Y Nhạ Ca Tra Bồ Tát ( Eja Katïà Bodhisatva_ Nhất Kế Bồ
Tát )
Ở
phương Tây Nam, an Phộc Nhật La Năng Khế Bồ Tát ( Vajra Dhàka Bodhisatva
).
Ở bên
cạnh Đông của Man Noa La, an tranh tượng lúc trước. Lại ở trước bức
tranh , bên trên mặt đất vẽ hoa sen 8 cánh, bên trên làm cái lò Hộ Ma.
Hành Nhân ở chính giữa cái lò này mà làm Pháp Hộ Ma.
Trước
tiên Hành Nhân rải lúa, gạo, hoa khắp lên trên đó rồi dùng nước có 5
loại thuốc để Sái Tịnh ( Rưới vẩy cho trong sạch ) . Sau đó an
Ngoại Cúng Dường để cúng dường Hiền Thánh. Dùng hương, hoa, dầu
thơm, vật dụng bằng vỏ ốc, quần áo, phướng, phan… cho đến bình Ứ Già,
mọi thứ vật cúng dường để cúng dường Hiền Thánh. Lại dùng nước có 5 thứ
Báu hiến nơi Bản Bộ. Khiết tĩnh xong mới dùng 4 thứ Bạch Thực là bơ,
sữa, lạc ( Sữa nấu chín ) điều hòa với nhau làm thức ăn. Thức ăn dùng
làm 3 Phẩm. Nếu tác Pháp Thượng Phẩm thì dùng thượng phẩm cúng dường.
Nếu tác Pháp Trung Phẩm thì dùng trung phẩm cúng dường. Pháp Đệ Tam Phẩm
thì dùng cách cúng dường thứ ba. Tuy nói là 3 Phẩm nhưng đều nên dùng
Thượng Vị mà dâng hiến Hiền Thánh bên trong Man Noa La. Nếu Hội này có
các Mẫu Quỷ, La Sát Sa ( Ràksïasa ) , Bộ Đa ( Bhùta ) Tất Xá Tả (
Pi’sàca ) … tùy theo sự câu triệu ấy từ 10 phương đi đến thì đều phải
bình đẳng cúng tế thức ăn cho họ, không được để cho họ bị thiếu hụt
chẳng đầy đủ.
Vật
khí hiến thức ăn cũng chẳng giống nhau. Nếu hiến dâng 8 vị Như Lai với
Tôn Na Bồ Tát ở trong Man Noa La thì đều hiến một hoa sen bằng vàng lớn
bằng một ngón cái rồi dùng cái bát bằng đồng chứa đầy Lạc, Mật với các
thức ăn.
Phụng
hiến Phật Bồ Tát xong mới dùng vật khí bằng sành sứ mới sạch cúng tế cho
nhóm Tất Xá Tả ( Pi’sàca ) từ 10 phương đi đến. Thức ăn cúng tế dùng
rượu, thịt với cá hoặc dùng toàn là cá để cúng.Nơi hiến Hiền Thánh với
nhóm Tất Xá Tả đều phải dùng thân tâm chuyên chú thành tín cúng dường,
ắt Hiền Thánh vui vẻ và sự mong cầu sẽ được thành tựu.
Làm
như vậy xong. Hành Nhân liền vào Quán Tưởng . Tưởng trên đầu mũi của
mình có một vật, thấy rõ xong cứ chuyên chú chẳng tán loạn sẽ thành lòng
Từ (Maitra ) vững chắc, khiến cho hơi thở ra vào thật nhẹ nhàng, ngồi
ngay thẳng cúi đầu hé mắt nhìn xuống bàn chân. Liền tưởng trong trái tim
hiện một vành mặt trời, tưởng chính giữa vành mặt trời có hoa sen hé nở
do các báu hợp thành. Ở trong hoa sen có Tôn Na Bồ Tát thân màu vàng
ròng, mặc áo trắng tinh với mọi thứ trang nghiêm. Lại tưởng trong 5 thân
phần của Bồ Tát tuôn ra ánh sáng lớn. Lại tưởng ở trong 9 cửa ( 2 mắt ,
2 tai, 2 lỗ mũi, miệng, hậu môn, đường tiểu ) của Bồ Tát cùng tuôn ra
ánh sáng. Ánh sáng ấy rực rỡ chiếu diệu tất cả. Tác Quán thành xong thì
thâu ánh sáng rồi đứng dậy. Lại đem hương, hoa với Ứ Già… dâng lên Hiền
Thánh rồi cung kính làm lễ.
Lại
nữa Hành Nhân vẽ Tượng, làm Man Noa La, an bày vị trí của Hiền Thánh,
mọi loại sở tác đều vâng theo sự chỉ dạy của A Xà Lê ( Àcarye ) mỗi mỗi
chẳng được trái ngược, nơi Nghi Quỹ này thảy đều ghi nhớ không cho sai
lầm. Đệ Tử liền y theo lời dạy như Nghi Thức an bày Hiền Thánh, chuẩn bị
hương hoa với mọi thứ vật dụng cúng dường Hiền Thánh xong, A Xà Lê dùng
lụa che mặt đệ tử , lại khiến đệ tử dâng hoa ném ở trên Man Noa La.
Nhận rõ vị trí hoa rơi dính trên Tôn Tượng thì luôn biết vị Chủ ủng hộ
cho Thân mình.. Từ đây về sau thường tụng Đại Minh của vị Hiền Thánh này
để cầu gia hộ. Như vậy ném hoa nhận biết Bản Tôn xong.
Đệ Tử
liền đem bình bát chứa đầy 5 thứ báu dâng lên A Xà Lê để cảm tạ sự cực
nhọc của Thầy. Từ đây về sau, Đệ Tử phải phụng dưỡng Tôn Tượng của vị A
Xà Lê hơn cha mẹ gấp ngàn lần, cho đến đem các vật báu đã cúng dường
trong Man Noa La bố thí cho tất cả Sa Môn. Từ đây về sau đối với người
có đủ Đức và các bậc Tôn Trưởng thường tăng thêm sự kính trọng cũng
chảng được đối với các vật đã dùng trong Man Noa La cho đến lửa với,bơ,
lạc… mà khởi sự khinh mạn, cũng chẳng được đạp lên hoa sen. Vị A Xà Lê
khuyên răn hạn chế Đệ Tử xong thì Đệ Tử lễ tạ. Từ đây về sau Đệ Tử muốn
tác Pháp thì y theo Nghi Quỹ tu tập ắt không có gì không thành tựu.
((((((((((
PHÁP HỘ MA
PHẦN THỨ NĂM
Lại
nữa Hành Nhân muốn tu tập Pháp Hộ Ma của Tôn Na Bồ Tát thì nên đối với
Tôn Na Bồ Tát và Hiền Thánh trong Man Noa La làm đại cúng dường. Trước
tiên chuẩn bị hoa Nhạ Đê, hoa Ma Lê với mọi thứ danh hoa và diệu hương…
mà cúng dường. Sau đó tùy ý theo Pháp mà làm Hộ Ma.
Hành
Nhân đó muốn được thành tựu tất cả sự mong cầu thì trước tiên ở trong lò
Hộ Ma đốt củi Cát Mộc rồi dùng hương Bạch Đàn, Long Não với diệu hương
khác hòa hợp với bơ, sữa đem tẩm vào hoa sen xanh thiêu đốt, tụng Đại
Minh làm Pháp Hộ Ma liền được như nguyện. Đại Minh là:
“
Nẵng mạc táp bát đa nẫm, tam miệu tam ngật tam bột đà, câu chi nẫm. Aùn_
Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ”
NAMAHÏ SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ
OMÏ_
CALE CULE CUNÕDHE
Nếu
tác Pháp Tức Tai ( ‘Sàntika ) . Dùng lá của cây A Một La tẩm bơ,
sữa cùng thiêu đốt làm Hộ Ma liền được như nguyện
Nếu
tác Pháp Tăng Ích ( Pusïtïika ). Nên dùng cây A Thuyết Tha với cây Bát
La Xá, cây Ô Lạp Ma La… Đem nhóm cây như vậy làm củi tẩm bơ, một, lạc
thiêu đốt làm Hộ Ma liền được như nguyện. Đại Minh là:
“
Aùn_ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. Aùn, phát tra”
OMÏ _
CALE CULE CUNÕDHE _ OMÏ PHATÏ
Nếu
vì Phát Khiển Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru : Oan gia ) . Dùng Hung Mộc làm củi
tẩm dầu rồi nhen lửa đốt. Lại dùng Nga Lị Đà Bà Luyện Noa khoảng chừng
một A dữu đa ( một vạn cái ) tụng Đại Minh làm Hộ Ma liền được như
nguyện. Đại Minh là:
“
Hồng_ Phát tra, tả lệ, tổ lệ, phát tra, tôn nễ, hồng, phát tra”
HÙMÏ
PHATÏ _ CALE CULE PHATÏ _ CUNÕDHE HÙMÏ PHATÏ
Nếu
vì phá hoại Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru ) và cấm Tâm của chúng thì thiêu đốt
củi bằng cây Tả Tổ La. Dùng màu hòa với dầu hạt cải, dùng lá cây Ninh Ma
Mộc với cây kim làm bằng Vĩ La Mộc khoảng chừng một A Dữu Đa ( một vạn
cái ) . Tụng Đại Minh Phát Khiển lúc trước làm Hộ Ma liền được Như Ý.
Tiếp
lại muốn tất cả thành tựu. Trước tiên nên thọ Quán Đỉnh, sau đó phát Tâm
kiên cố, thường trì Tôn Na Bồ Tát rồi tác Pháp đều được thành tựu.
((((((((((
PHÁP TRÌ TỤNG CỦA TÔN NA BỒ TÁT
PHẦN THỨ SÁU ( Chi một )
Lại
nữa, Hành Nhân muốn tu tập , trì tụng Pháp của Tôn Na Bồ Tát. Trước
tiên nên thọ Tam Muội rồi kết Man Noa La xong thì mới có thể bắt đầu Trì
Tụng. Lúc đang trì tụng thời mỗi ngày vào buổi sáng sớm, Hành Nhân dùng
Đại Lực Minh Vương Đại Minh gia trì vào ngón cái 7 lần để ủng hộ thân.
Hoặc đi nhà xí cũng gia trì 5 nơi là đỉnh đầu, 2 vai, trái tim, cổ họng
xong liền vào nơi húc uế. Đại Lực Minh Vương Đại Minh là:
“
La đát nẵng phộc nhật la, nẵng đế. Aùn_ Cốt lỗ đạt nẵng, hồng, nhược”
RATNAVAJRA NADI_ OMÏ KRODHANA HÙMÏ JAHÏ
Vào
nơi húc uế xong, dùng đất sạch với Cù Ma Di ( Phân trâu trắng ở núi
Tuyết ) tác tịnh. Lại tụng Cam Lộ Quân Tra Lợi Đại Minh 7 biến gia trì
vào đất để rửa thân phần và phần bên dưới lỗ rốn, lại cũng dùng rửa hạ y
( áo bên dưới ) xong liền rửa tay thì mới được thanh tĩnh. Lấy đất tụng
Đại Minh là:
“
Aùn_ Nễ khứ nẵng phộc , tô đạt , sa phộc hạ”
OMÏ_
NIKATÏA NAVA ‘SUDDHA _ SVÀHÀ
Lấy
được đất xong đặt ở nơi sạch sẽ hoặc dùng tác tĩnh. Lấy một nhúm đất nhỏ
rửa tay và rửa chân. Liền tụng Tác Tĩnh Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tam mãn đa một đà nẫm. Aùn, truật đệ ly nạp thâu đạt nẵng dã,
sa phộc hạ”
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ
OMÏ _
‘SUDDHE RÏIDDHI ‘SODHANÀYA _ SVÀHÀ
Tụng
Tĩnh Đại Minh này xong, nắm quyền dựng thẳng ngón cái. Liền tụng Cam Lộ
Quân Trà Lợi Đại Minh gia trì 5 nơi trên thân. Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại
Minh là:
“
Nẵng mạc la đát nẵng đát la dạ dã. Nẵng mạc thất tán noa, ma ha cốt lô
đà dã. Aùn, hổ lô hổ lô, để sắt tra để sắt tra, mãn đà mãn đà, hạ nẵng
hạ nẵng. A mật lị để, hồng, phát tra, sa phộc hạ”
NAMO
RATNATRAYÀYA
NAMAHÏ ‘SCANÏDÏA MAHÀ KRODHÀYA
OMÏ _
HURU HURU _ TISÏTÏA TISÏTÏA _ BANDHA BANDHA _ HANA HANA _ AMRÏTE
HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
Tụng
Đại Minh này xong. Lại tụng Tam Muội Đại Minh 3 biến hoặc 7 biến. Tam
Muội Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tát ly phộc một đà mạo địa tát đỏa nẫm. A vi la nhĩ, ma hạ phộc
nhật ly, xá đa xá đa, sa la đế sa la đế, đát la duệ đát la duệ, vĩ đạt
ma nễ, tam bà nhạ nệ, hạ la ma để, tất đà , ngột lị, đát la tra, sa phộc
hạ”
NAMAHÏ SARVA BUDDHA BODHISATVÀNÀMÏ
AMÏ_
VIRAJI MAHÀ VAJRI _ SATA SATA _ SARATE SARATE _ TRAYI TRAYI _
VIDHAMANI SAMÏBHAMÏJANI _ HARA MATI SIDDHA _ HRÌHÏ TRATÏ _ SVÀHÀ
Tụng
Minh này xong. Lấy một bụm nước dùng Quân Trà Lợi Đại Minh lúc trước gia
trì xong tự rưới lên đỉnh đầu với rửa sạch tay. Lúc dùng nước lại tụng
Bản Bộ Đại Minh 7 biến. Đại Minh là:
“
Aùn_ Tốt, hật-lị”
OMÏ_
CU _ SVÀHÀ
Tụng
Minh tác tĩnh xong. Lại nắm quyền đem ngón cái đặt ở trái tim. Tụng Tâm
Đại Minh là:
“
Aùn, tôn, phát tra”
OMÏ_
CUNÕ PHATÏ
Tụng
Tâm Minh xong. Lại tụng Giáp Trụ Đại Minh ủng hộ 5 nơi của thân mình.
Giáp Trụ Đại Minh là:
“
Aùn, tôn, mãn đà”
OMÏ_
CUNÕ BANDHA
Tụng
Minh này xong. Lại tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh gia trì vào 7 bụm
nước sái tĩnh ( rưới vảy cho trong sạch ) và đuổi Ma chướng. Lại tụng
Thổ Giáp Trụ Đại Minh gia trì 5 nơi trên thân dùng làm giáp trụ. Nếu
được Kim Cương Thủ Bồ Tát nhìn thấy tự ủng hộ không sai khác. Thổ Giáp
Trụ Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Aùn, bộ, nhập phộc la, hồng”
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ
OMÏ_
BHUHÏ JVALA HÙMÏ
Tụng
Minh này xong. Lại tụng Như Lai Bộ Tâm Minh gia trì vào nước, 3 bụm hiến
nơi Tam Bảo. Như Lai Bộ Tâm Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Nhi nẵng nhi câu”
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ JINA JIK
Tụng
Minh này xong, Lại tụng Phật Nhãn Đại Minh gia trì vào nước, 3 bụm dùng
rưới lên đỉnh đầu của mình. Phật Nhãn Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tát ly phộc, đát tha nga đế vi dược. Aùn, lô lô , sa phổ lô,
nhập phộc la, để sắt tra, tất đà , lạc tả nê, táy ly phộc ly tha, sa đạt
nễ, sa phộc hạ”
NAMAHÏ SARVA TATHÀGATEBHYAHÏ
OMÏ_
RURU SPHURU JVALA TISÏTÏA SIDDHA LOCANI SARVA ARTHA SÀDHANI _
SVÀHÀ
Lại
dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh gia trì vào nước, 3 bụm dùng rưới lên
đỉnh đầu liền thành. Mộc Dục Tâm Đại Minh là:
“
Án_ A mật ly đế, hồng”
OMÏ _
AMRÏTE HÙMÏ
Lại
tụng Tĩnh Đại Minh lúc trước. Như trước Hộ Thân xong, lại tụng Tâm Đại
Minh lúc trước 21 biến gia trì vào nước dùng rưới vảy cho trong sạch và
đuổi Ma Chướng. Sau đó tùy ý tắm gội, khăn lau chùi cũng được giặt cho
sạch sẽ, lại rửa bàn tay. Làm Khiết Tịnh xong, đi vào Đạo Trường gần gũi
Hiền Thánh. Áo mặc của Hành Nhân cũng dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh
gia trì. Lại nữa, áo thường mặc cũng dùng Đại Minh gia trì 3 biến hoặc 7
biến, xong rồi mặc như thường. Gia Trì Y Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Aùn, lạc khất xoa, tát lị phộc đát tha
nga đa, a địa sắt đê đa dã, tức phạ ra, sa phộc hạ”
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ
OMÏ_
RAKSÏA _ SARVA TATHÀGATA ADHISÏTÏITÀYA CÌVARA _ SVÀHÀ
Hành
Nhân y như vậy làm mọi thứ khiết tịnh xong mới được vào Đạo Trường của
Hiền Thánh. Ở trước mặt Hiền Thánh phát Tâm chí thành chắp tay cung kính
cho đến làm lễ. Rồi dùng nước Ngũ Tịnh rưới lên cỏ Tát Tường ( Ku’sala )
làm Tòa mà ngồi. Tiếp dùng xoa 2 bàn tay y theo Nghi Tắc kết Ấn ủng Hộ
tự thân. Trước tiên kết Tam Muội Ấn của các Bộ.
Phật Bộ Tam Muội Ấn : Đặt 2 tay kèm song song nhau rồi chắp lại. Đem
2 ngón trỏ đặt ở bên cạnh lóng thứ ba của ngón giữa thì thành Ấn. Kết Ấn
này, tùy theo Ấn tụng Phật Bộ Tam Muội Đại Minh là:
“
Aùn, đát tha nga đổ nạp bá phộc dã, sa phộc hạ”
OMÏ_
TATHÀGATA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Tiếp
kết Liên Hoa Bộ Tam Muội Ấn : Trước tiên chắp 2 tay lại rồi bung
2 bàn tay, 2 ngón giữa cùng hợp nhau như tướng hoa sen thì thành Ấn. Tùy
theo Ấn tụng Liên Hoa Tam Muội Đại Minh là:
“
Aùn_ Bát nạp mô nạp bà phộc dã, sa phộc hạ”
OMÏ_
PADMA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Tiếp
kết Kim Cương Bộ Tam Muội Ấn : Đem 2 bàn tay cùng hợp lưng với
nhau. 2 ngón cái, 2 ngón út cùng vịn nhau, duỗi thẳng các ngón còn lại
thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Kim Cương Bộ Tam Muội Đại Minh là:
“
Aùn_ Phộc nhật lỗ nạp bà phộc dã, sa phộc hạ”
OMÏ_
VAJRA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Tụng
Đại Minh này xong. Lại kết Cam Lộ Quân Trà Lợi Ấn: Ngửa 2 bàn tay bằng
nhau, đảo ngược đầu 2 ngón út cùng cài nhau, co 2 ngón vô danh và 2 ngón
giữa vào lòng bàn tay, 2 ngón trỏ như tướng Kim Cương, 2 ngón cái như
cây kim thì thành Ấn. Tụng đặt ở trên đỉnh đầu, tùy theo Ấn dùng Cam Lộ
Quân Trà Lợi Đại Minh lúc trước làm Pháp tự ủng hộ.
PHẬT
THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA BỒ TÁT
ĐẠI
MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ
BA ( Hết )
Mật Tạng Bộ 3 - No
1169D (Tr. 688 ( Tr. 691)
PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO
TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU
NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ TƯ
Long
Thọ Bồ Tát lược trích trong TRÌ MINH TẠNG
Hán dịch : Minh Giáo Đại Sư PHÁP HIỀN
Việt dịch : HUYỀN THANH
PHÁP TRÌ TỤNG CỦA TÔN NA
PHẦN THỨ SÁU ( Chi hai )
Tiếp
lại kết Như Lai Bộ Tam Muội Ấn. Hai tay nắm quyền duỗi ngón cái
thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Như Lai Bộ Tam Muội Minh lúc trước
để ủng hộ.
Tiếp
kết Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Ấn. Hai tay nắm quyền, 2 ngón giữa như
cây kim, đặt 2 ngón trỏ ở lóng ngón giữa, đặt 2 ngón cái bên cạnh ngón
trỏ rồi đặt trên đỉnh đầu thì thành Ấn. Lúc kết Ấn này thời tụng Tôn
Na Bồ Tát Căn Bản Đại Minh , ở ngay thân của mình làm đại ủng hộ.
Hành Nhân vào lúc kết Ấn tụng Minh sẽ được Tôn Na Bồ Tát vui vẻ nhìn
ngó.
Tiếp
kết Đầu Ấn : Chắp 2 tay lại, co 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay
thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Đầu Đại Minh là:
“Án _ Tôn, ngật-lị”
( OMÏ
_CUNÕ HRÌHÏ
Tiếp
kết Đỉnh Ấn : Dùng Ấn lúc trước, sửa ngón cái phải vịn lóng giữa
của ngón giữa phải thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Đỉnh Đại Minh
là:
“
Án, Tôn, hồng”
( OMÏ
_ CUNÕ HÙMÏ
Tiếp
kết Tâm Ấn ; Hai tay nắm quyền, hơi duỗi 2 ngón trỏ thì thành Ấn.
Tùy theo Ấn, tụng Tâm Đại Minh là:
“Án _ Tôn, phát tra”
(
OMÏ_ CUNÕ PHATÏ
Tiếp
kết Giáp Trụ Ấn : Dùng Đỉnh Ấn lúc trước, bung 2 bàn tay thì
thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Giáp Trụ Đại Minh là:
“Án _ Tôn, mãn đà”
( OMÏ
_ CUNÕ BANDHA
Tiếp
kết Bản Bộ Mẫu Ấn cũng gọi là Phật Nhãn Ấn . Chắp 2 tay
lại đỉnh lễ, co 2 ngón trỏ vịn lóng ngón giữa, co 2 ngón cái vào trong
lòng bàn tay thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại
Minh lúc trước
Tiếp
kết Bản Bộ Tôn Ấn . Đưa 2 ngón vô danh vào lòng bàn tay lay động.
Tiếp để 2 ngón giữa như cây kim, duỗi thẳng 2 ngón trỏ đặt ỡ lưng ngón
giữa, duỗi 2 ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của ngón giữa thì thành Ấn.
Tùy theo Ấn, tụng Bản Bộ Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Câu la hột-lị, câu la hột-lị na dã”
(
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ KULA HRÌHÏ _ KULA HRÏDAYA
Tụng
Minh này xong. Lấy cái bát thật sạch chứa đầy nước thơm. Lại dùng Cam
Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh 7 biến ,ở Đạo Trường bắt đầu từ góc Đông
Bắc rảy tịnh 4 phương và Phát Khiển Ma Chướng
Tiếp
kết Thỉnh Triệu Ấn . Dùng Căn Bản Ấn lúc trước, sửa 2 ngón cái co
như móc câu thì thành Ấn. Dùng Ấn này Thỉnh Triệu Hiền Thánh. Tùy theo
Ấn, tụng Thỉnh Triệu Đại Minh là:
“I
tứ, bà nga phộc đế, tôn na đà la ni. A nga tha, a nga tha, ma ma, bạc
khất đát-dã đát, tam ma duệ nẵng tả lị già, bát la đế thế nan, bát la tế
na mi”
(
EHI BHAGAVATI CUNÕDHE DHÀRANÏI _ AGCCHA AGACCHA MAMA PAKSÏÀYATÀ
SAMAYE DA’SA ÀRGHA PRATICCHANÀMÏ PRATICCHA ME
Tụng
Minh này xong. Tưởng các Hiền Thánh tùy theo lời Triệu đi đến. Liền tụng
Cam Lộ Quân Trà Lợi an trú Hiền Thánh xong.
Tiếp
kết Tam Muội Ấn và tụng Hiến Hiền Thánh Tòa Đại Minh. Tam
Muội Ấn là: Tay phải đem ngón cái đè móng ngón trỏ, các ngón còn lại như
tướng Kim Cương thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Tam Muội Đại Minh
là:
“Án _ Thương yết lị, tam ma duệ, sa phộc hạ”
( OMÏ
_ SAMÏKARE SAMAYE _ SVÀHÀ
Tụng
Minh này xong, Hành Nhân liền nói:” Nguyện xin Bồ Tát ngồi ở chỗ này
xong, an trú Đạo Trường nhận sự cúng dường của con”
Tiếp
tụng Bản Bộ Đại Minh 7 biến gia trì vào nước thơm dùng làm Ứ Già.
Tụng Bản Bộ Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A lị-già bà nga phộc đế, bát la đế tha, sa
phộc hạ”
(
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ÀRGHA BHAGAVATI PRATICCHA _ SVÀHÀ
Tiếp
kết Căn Bản Ấn . Mật kết 2 ngón cái duổi thẳng đặt ngang bằng thì
thành Ấn và tụng Đại Minh 3 biến gia trì vào nước Ứ Già lúc trước. Sau
đó ở bên mặt Đông, quỳ gối dâng hiến Hiền Thánh. Đại Minh là:
“Án
_ Ca ma la, sa phộc hạ”
(
OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ
Hiến
Ứ Già xong, lại dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Ấn và tụng Cam Lộ
Quân Trà Lợi Đại Minh kết Kim Cương Giới ( Vajra Dhàtu ) làm ủng hộ.
Tiếp
kết Thập Phương Giới . Đặt 2 bàn tay song song nhau. Trước tiên
đem ngón giữa phải, ngón vô danh phải với ngón trỏ trái đặt ở lóng thứ
nhất của ngón út trái. Lại đem ngón giữa trái, ngón vô danh trái với
ngón trỏ phải đặt ở lóng thứ nhất của ngón út phải. Ngón trỏ, ngón út
còn lại như cây kim. Lại đem ngón cái đât ở lóng thứ nhất của ngón trỏ
thì thành Ấn. Lúc kết Ấn này , tùy theo Ấn tụng Kết Thập Phương Kim
Cương Giới Đại Minh là:
“La
đát nẵng, bát la nẵng đế. Aùn_ Sa la sa la, phộc nhật-la , bát la ca la,
hồng, phát tra, sa-phộc hạ”
(
RATNA VAJRA NADI_ OMÏ SARA SARA _ VAJRA PRAKARA HÙMÏ PHATÏ _
SVÀHÀ
Tiếp
kết Kim Cương Bán Nhạ La Ấn. Liền dùng Ấn lúc trước, tách ngón
cái ra thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Bán Nhạ La Đại Minh là:
“
La đát nẵng phộc nhật la nẵng đế. Aùn_ vĩ sa-phổ la lạc khất xoa, phộc
nhật la bá la, hồng , phát tra”
(
RATNA VAJRA NADI_ OMÏ_ VISPHURAD RAKSÏA _ VAJRA PAMÏJALA HÙMÏ
PHATÏ
Tiếp
kết Hạ Phương Kết Giới Ấn : Đùng Aánnhư lúc trước, sửa 2 ngón cái
thẳng xuống bên dưới như cây kim thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Kết
Hạ Phương Giới Đại Minh là:
“
La đát nẵng phộc nhật la nẵng đế. Aùn_ chỉ lị chỉ lị phộc nhật la, phộc
nhật lị, bộ, vãn đạt nễ, hồng, phát tra”
(
RATNA VAJRA NADI_ OMÏ KÌLIKÌLA VAJRA_ VAKRI BHUR BANDHANI HÙMÏ
PHATÏ
Tiết
kết Đại Ô Sắt Nị Sa Ấn . Đặt 2 tay song song nhau. Co 2 ngón vô
danh vào lòng bàn tay, 2 ngón giữa như cây kim đặt ở lóng thứ ba của 2
ngón cái. Lại để ngón cái, ngón vô danh như cây kim đem ngón út đè lóng
thứ ba. Lại để ngón út như cây kim đặt ở ngón trỏ như tướng Kim Cương
thì thành Ấn. Tùy theo Ấn,tụng Ô Sắt Nị Sa Đại Minh là:
“Án _ Thương yếi lị, ma hạ tam ma duệ, sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ SAMÏKARE MAHÀ SAMAYE _ SVÀHÀ
Dùng
Ấn với Đại Minh của nhóm như vậy tác Kết Giới xong. Hành Nhân
hướng về Bản Tôn, Hiền Thánh cung kính làm lễ.
Tiếp
kết Căn Bản Ấn. Co lóng giữa của 2 ngón cái thì thành Ấn. Kết Ấn
này, tụng Đại Minh, quỳ gối hiến Ứ Già dùng rưới tắm Hiền Thánh. Đại
Minh là:
“Án _ Tả, sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ CA _ SVÀHÀ
Tiếp
kết Đồ Hương Ấn. Đem ngón cái phải đặt ở lóng thứ nhất của ngón
trỏ phải, lại bung duỗi rộng thì thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Đồ Hương
Đại Minh là:
“Án, tôn, sa-phộc hạ”
(
OMÏ_ CUNÕ _ SVÀHÀ
Tiếp
kết Hoa Ấn. Tay phải đem ngón cái và lóng thứ nhất của ngón trỏ
cùng vịn nhau thì thành Ấn. Dùng Ấn này hiến hoa,tụng Hoa Đại Minh
là:
“Án _ Tôn, sa-phộc hạ”
(
OMÏ_ CUNÕ _SVÀHÀ
Tiếp
kết Hương Ấn. Đem ngón giữa và ngón cái của tay phải cùng vịn
nhau thì thành Ấn. Dùng Ấn này hiến hương đốt, tụng Hương Đại Minh
là:
“Án, lệ, sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ LE _ SVÀHÀ
Tiếp
kết Đăng Ấn . Tay trái dem ngón cái đè lóng của ngón giữa thì
thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Hiến Đăng Đại Minh là:
“Án _ Nễ, sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ LE _ SVÀHÀ
Tiếp
kết Xuất Sinh Ấn. Tay trái đem ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của
ngón giữa thì thành Ấn. Kết Ấn này hiến thức ăn. Tụng Hiến Thực Đại
Minh là:
“Án _ Tổ, sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ CU _ SVÀHÀ
Như
vậy kết Ấn , tụng Minh làm mọi thứ cúng dường phụng hiến tất cả Hiền
Thánh trong Man Noa La xong.
Lại
tác quán tưởng : Trong tất cả Thế Gian có bao nhiêu thứ vật cúng
dường được nhìn thấy , nghe thấy , Hành Nhân vận Tâm đem cúng dường tất
cả Hiền Thánh ở 10 phương.
Lại
kết Phổ Cúng Dường Ấn.Trước tiên chắp tay đỉnh lễ xong, lại đem
10 ngón tay cùng cài chéo nhau thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Phổ
Cúng Dường Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tát lị-phộc một đà mạo địa tát đỏa nẫm. Tát lị-phộc tha, ổ nạp
nga đế, sa bà la tứ hàm, nga nga nẵng kiếm, sa-phộc hạ”
(
NAMAHÏ SARVA BUDDHA BODHISATVÀNÀMÏ
SARVATHÀ KHAMÏ UDGATE SPHARA HÌMAMÏ GAGANAKAMÏ _ SVÀHÀ
Như
vậy cúng dường xong.
Tiếp
dùng Kệ ca ngợi Tam Bảo với Đẳng của Quán Tự Tại, Kim Cương Thủ Bồ Tát.
Tán Phật là:
Đức
Phật Đại Từ Bi
Điều
phục các Hữu Tình
Trú
biển Cong Đức Phước
Vì
thế con tán lễ
Tán Pháp là:
Lìa
dục, vui tịch tĩnh
Hay
đoạn các nẻo ác
Thuần
một Lý Chân Như
Vì
thế con tán lễ
Tán Tăng là:
Kiên
cố giữ Thi La ( ‘Sìla_ Giới Thanh Lương )
Chứng
được Đạo Giải Thoát
Trú
cõi Công Đức lớn
Vì
thế con tán lễ
Tán chư Hiền Thánh là
Đát Noan nễ vĩ, tát bát đa nhĩ nẵng , câu đê, la tỳ bát la dụ nga
Nại dã sa đa , nại dã tha bát na dục đế nẵng, tả lệ tổ lệ nẵng
Dục khất đa ma thí sa nạp lị đa, bát la xá ma dã, tôn nễ
Sa
hạ phộc đế , tam ma la, để đát tả câu đổ vĩ bát để
Tát lị phộc một đà duệ, bát la thiết sa dã, tam bột lị đá dã, ngu ni li
ngu lỗ
A
phộc lộ cát đa tắc nghê dã, dã nẵng mộ nĩnh đát dã,ma ha đát ma nễ
Ma
hạ ma la dã, tán noa dã, vĩ nễ dã la nhạ dã, sa đạt duệ
Nạp lị nan đa ma ca dã, thất tả nẵng ma tất đế, phộc nhật la bá noa duệ
Lại
nữa Hành Nhân tán thán như vậy xong. Lại nói lời Sám Hối là:” Đệ Tử (
Họ tên…. ) từ vô thủy cho đến nay, ở trong Luân Hồi tạo nghiệp chẳng
lành, hoặc tự làm hoặc dạy người làm cho đến thấy nghe đều tùy vui với
tất cả sự Bất Thiện. Nay đối trước Tam Bảo xin phát lộ sám hối. Từ nay
trở đi, con xin phụng trì Cấm Giới chẳng dám làm điều ác nữa. Lại từ nay
trở đi đối với hết thảy các Đại Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn cho đến
tất cả chúng sinh đã làm Pháp Lành thì con đều tùy vui”
Nói
xong liền kết Căn Bản Ấn , tụng Căn Bản Minh 3 biến. Hành
Nhân lại chắp tay bạch rằng:” Con ( Họ tên…. ) đã mời chư vị đến để
cúng dường. Nếu chẳng được đầy đủ, hoặc quên mất thứ tự chẳng y theo
Pháp Tắc, cầu xin Bồ Tát với chúng Hiền Thánh Đại Từ Đại Bi vui vẻ bỏ
qua cho”
Tiếp
kết Ứ Già Ấn . Dùng Căn Bản Ấn lúc trước chỉ sửa ngón cái đặt ở
lóng thứ nhất của ngón trỏ thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Ứ Già Đại
Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A lị-già, bà nga phộc đế, bát la đế tha,
sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ CALE CULE CUNÕDHE _ ÀRGHA BHAGAVATI PRATICCHA _ SVÀHÀ
Lại
nữa Hành Nhân quán tưởng thân của mình là Tôn Na Vồ Tát. Trước tiên kết
Ấn, dùng 2 tay nắm Kim Cương Quyền. Đặt 2 ngón trỏ và ngón út như cây
kim. Tiếp duỗi các ngón còn lại cũng như cây kim. Lúc kết Ấn này thì
quán tưởng thân mình thành Tôn Na Bồ Tát.
Ở
trên đỉnh đầu hiện chữ ÁN ( ) là Như Lai Ô Sắt Nị Xá (
Tathàgata Usïnïìsïa_ Như Lai Đỉnh )
Tiếp
ở 2 con mắt hiện chữ TẢ ( ) thành Ô Sắt Nị Xá Đại Luân
(Usïnïìisïa mahà cakra _ Đỉnh Đại Luân )
Tiếp
ở trên cổ hiện chữ LỆ ( ) thành Bất Động Tôn Minh Vương
(Acala vidyaràja ) tay cầm Loa với sợi dây
Tiếp
ở trên trái tim hiện chữ TỐT ( ) thành Quán Tự Tại Bồ Tát
(Avalokite’svara Bodhisatva )
Tiếp
ở 2 cánh tay hiện chữ LỆ ( ) thành Quang Tích Minh Vương
Tiếp
ở trong trái tim lại hiện chữ LỆ ( ) thành vị Hiền Thánh có 3
mắt. Tay cầm hoa sen, vòng dây, bình Quân Trì…
Tiếp
ở trong lỗ rốn hiện chữ TỐT ( ? TÔN _ ) thành Bản Tôn
Tôn Na Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva )
Tiếp
ở 2 bắp vế hiện chữ NỄ ( ) thành Kim Cương Thủ Bồ Tát
(Vajrapànïi Bodhisatva )
Tiếp
ở trong 2 bắp chuối chân hiện chữ SA ( ) thành I Ca Nhạ Tra
Bồ Tát ( Ekajatïà_ Nhất Kế Bồ Tát ) mặt có 3 mắt, 6 cánh tay, thân màu
xanh, dùng da voi làm áo.
Tiếp
ở 2 bàn chân hiện chữ HA ( ) thành Phộc Nhật La Nẵng Khế Bồ
Tát ( Vajra dhàka Bodhisatva ) như màu pha lê.
Như
vậy Quán Tưởng xong.
Tiếp
liền Trì Tụng. Pháp Trì Tụng cũng có 2 thứ : Một là Vô Tướng, hai là Hữu
Tướng
Vô
Tướng Trì Tụng : Trước tiên kết Thiên Định Ấn , ngồi Kiết
Già, ngay thẳng thân mình, lắng tâm, hơi cúi đỉnh đầu và cổ. Ở trên đầu
lỗ mũi tưởng hơi thở ra vào chẳng mạnh chẳng yếu, chẳng chậm chẳng gấp.
Tâm duyên vào Đại Minh chuyên chú trì tụng đừng để gián đoạn cũng
đừng để cho Tâm có sự mệt mỏi. Trì Tụng như vậy gọi là Tối Thượng.
Hữu Tướng Trì Tụng : Liền cầm chuỗi đếm số. Mỗi lần Trì Tụng nên để
ý đến Nguyên Số thẳng đến gặt được Tất Địa, chẳng được thiếu một
số. Nếu thiếu một số gọi là Gián Đoạn ắt đối với việc mong cầu
chẳng được thành tựu. Mỗi lúc muốn Trì Tụng, trước tiên kết Sổ Châu
Ấn Co lóng giữa của ngón vô danh , ngón trỏ cùng vịn lóng giữa của
ngón giữa thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Đại Minh là:
“Án _ Hát nạp bộ đế, vĩ nhạ duệ, tất địa, tất đà lị tán, sa phộc hạ”
( OMÏ
_ ADPUTE VIJAYE SIDDHI SIDDHA ARTHA _ SVÀHÀ
Tụng
Minh này xong. Liền chắp 2 tay lại nâng tràng hạt, tụng Đại Minh 7 biến
gia trì tràng hạt đó. Đại Minh là:
“Án _ Nẵng mô bà nga phộc đế, tất đề, sa đạt dã, sa đạt dã, tát lị phộc
ly tha, sa đạt nễ, tất đà ly tán, sa-phộc hạ”
(
OMÏ NAMO BHAGAVATE _ SIDDHI SÀDHAYA SÀDHAYA _ SARVA ARTHA SÀDHANI
SIDDHA ARTHA _ SVÀHÀ
Tụng
Minh này xong. Liền cầm tràng hạt lễ Tam Bảo , Hiền thánh sau đó y theo
Pháp trì tụng đầy đủ ký số.
Lại
tụng Phật Nhãn Đại Minh 7 biến. Kết Căn Bản Ấn, lại tụng Phật
Nhãn Minh 3 biến hiến Ứ Già cho Hiền Thánh. Lại bạch rằng:” Nay con
đem hết sự Trì Tụng này phụng hiến lên Bồ Tát với hiến hương, hoa, đèn,
dầu thơm mà cúng dường”
Tiếp
lại dùng Phật Nhãn Đại Minh mà tự Ủng Hộ và Kết Giới
Tiếp
dùng A Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn ( Asamàmïgni Mudra ) hộ 5 nơi trên thân. A
Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn : Đặt 2 bàn tay song song nhau, đảo ngược đầu 2
ngón vô danh vào trong lòng bàn tay, 2 ngón giữa và 2 ngón út như cây
kim. Lại ngón trỏ như cây kim đặt bên cạnh 2 ngón cái thẳng xuống dưới
và đưa 2 ngón vô danh vào lòng bàn tay thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng
A Tam Hàm Nghĩ Nễ Đại Minh là:
“Án, a tam hàm nghĩ-nễ, vĩ la nại duệ đế, hồng, phát tra, sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ ASAMÀMÏGNI VÌRADAYETE HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
Tiếp
kết Căn Bản Ấn và tụng Đại Minh dùng để Phát Khiển, Tướng Ấn như
trước. Đại Minh là:
“
Nga tha để, cật-lị hệ đát phệ hàm. Hiến đường , bổ sắt bán , độ bán, mạt
lăng, bát-la nễ bán tả, lạc khật-xoa, bát la để hạ đa, phộc la bát la
khất la di, sa-phộc hạ”
(
GACCHATI AGRI HITANVESÏIN GHANÏTÏAMÏ PUSÏPAMÏ DHÙPAMÏ MÀLAMÏ
PRADÌPTA RAKSÏA APARATIHATA VARA PRAKARA ME SVÀHÀ
Như
vậy Phát Khiển xong.
Lại
cầm tràng hạt hướng về trái tim làm Ủng Hộ. Lại kết Cam Lộ Quân Trà Lợi
Ấn mà tự ủng hộ xong. Sau đó đỉnh lễ chư Phật Bồ Tát rồi đứng dậy ra
khỏi Đạo Trường. Chỉ được đọc Kinh Đại Thừa Phương Quảng, Hoa Nghiêm và
Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Hoặc xoa tô Man Noa La và làm Tháp Tượng,
chẳng được nói chuyện Thế Tục với sách vở Thế Gian. Đây là Nghi Thừc
bình thường ( Thướng Thức) .
Lúc
Hành Nhân ăn thường dùng Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Đại Minh gia trì xong,
sau đó có thể ăn. Hoặc lúc ngủ nghỉ cũng tụng Căn Bản Đại Minh tác ủng
hộ xong liền có thể ngủ nghỉ. Căn Bản Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tam mãn đa một đà nẫm. Aùn_ Phộc lan na nễ đế nhĩ du , ma lý
nễ, sa-phộc hạ”
(
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ
OMÏ _
VALAMÏDADE MALINI _ SVÀHÀ
Tiếp
lại nói Pháp Quán Tưởng chữ vi diệu của Phật và Hiền Thánh. Chữ
này đều là căn bản của chư Phật, Hiền Thánh biểu thị cho Lý Chân Thật
cho đến Vô Tướng Trì Tụng với Pháp của 4 loại của nhóm Tức
Tai đều được diễn nói trong Pháp của Tôn Na. Nếu Hành Nhân tác Pháp Tức
Tai, Tăng Ích, Kính Aùi, Giáng Phục đối với các Pháp cần phải biết rõ
mọi thứ tự như Nghi.
Nay
sẽ lược nói về chữ Vi Diệu. Ở trong Man Noa La an bày 9 vị trí theo thứ
tự là:
Thứ
nhất ở góc Đông Bắc đặt chữ ÁN ( ) .Thứ hai ở góc Đông Nam
đặt chữ TẢ ( ).Tiếp chữ LỆ ( ) . Tiếp chữ TỐT
( ) . Như vậy an 4 góc xong.Tiếp ở vị trí trung ương đặt chữ
TÔN ( ) . Tiếp đặt chữ LỆ ( ). Tiếp đặt chữ
NỄ ( ) .Tiếp đặt chữ SA ( ) .Tiếp đặt chữ HA
( ) Chín chữ này thành Căn Bản Đại Minh, thành 9 vị Hiền
Thánh..
Lại
nữa chữ ÁN ( OMÏ ) là Pháp Giới Vô Tướng
Chữ
TẢ ( CA ) là Đại Luân
Chữ
LỆ ( LE ) là Bất Động Tôn
Chữ
TỐT ( CU ) là Quán Tự Tại
Chữ
LỆ ( LE ) là Bất Không Quyến Sách Bồ Tát
Chữ
TÔN ( CUNÕ ) là Tôn Na Bồ Tát
Chữ
NỄ ( DHE ) là Kim Cương Thủ Bồ Tát
Chữ
SA ( SVÀ ) là I Ca Nhạ Tra Bồ Tát
Chữ
HA ( HÀ ) là Phộc Nhật La Nẵng Khế Bồ Tát.
Nếu
đem chữ Án làm đầu thì hay thành tựu tất cả Pháp
Nếu
chữ Tả thì đối với 3 Pháp Tức Tai, Tăng Ích, Giáng Phục có đại
thế lực.
Chữ
Lệ hay phá hoại Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru_ Oan Gia ) cùng tác Phát
Khiển với Pháp ủng hộ sẽ có công lực cực lớn
Chữ
Tốt hay phá hoại và đánh tan quân địch như Kim Xí Điểu ( Garudïa
) hay ăn loài Rồng ( Nàga )
Chữ
Lệ hay phá các đại ác có lực tối thắng
Chữ
Tôn hay thành tựu tất cả việc, hay phá các cấm phộc kiên cố
Chữ
Nễ hay phá các Ma ác với các đại ác , cũng hay làm Pháp Nhập
Ngụ
Chữ
Sa hay tự ủng hộ với hay phá oán, cũng hay khiến làm Pháp Bát
Nhập Ngụ ( ? )
Chữ
Ha hay trừ đại độc với tất cả bệnh.
Chữ
của nhóm như vậy giống Bát Chính Đạo hay khiến cho Hữu Tình giải
thoát luân hồi, sau đó được tịch tĩnh.
Lại
nữa Hành Nhân quán tưởng chữ Vi Diệu như vậy ở thân phần của mình, mỗi
mỗi hiện rõ trước mặt, Hoặc biến sắc tướng hoặc biến hình nghi. Nếu được
hiện rõ như vậy trước mặt thì hay diệt được tất cả tội nghiệp trong
thân, đoạn trừ phiền não.
Khởi
đầu trong chữ ÁN hiện trên đỉnh đầu có màu hoàng kim ( vàng chóe )
Tiếp
tưởng chữ TẢ hiện ở 2 con mắt cũng có màu vàng
Tiếp
tưởng chữ LỆ hiện ở trên cổ có màu đen đậm.
Tiếp
tưởng chữ TỐT hiện ở lỗ rốn như màu sen hồng hoặc màu xanh. Nơi hiện màu
ấy tùy theo Pháp tác.
Tiếp
tưởng chữ LỆ hiện ở 2 cánh tay hóa thành Tượng Hiền Thánh hoặc có màu
vàng ròng hoặc có màu đỏ.
Tiếp
tưởng chữ TÔN hiện ở trên trái tim biến thành Tôn Na Bồ Tát có thân màu
trắng.
Tưởng
chữ NỄ hiện ở 2 bắp đùi
Tưởng
chữ SA hiện ở 2 bắp chuối chân
Tưởng
chữ HẠ hiện ở 2 bàn chân
Tưởng
chữ như vậy ở trên thân phần của mình, mỗi mỗi hiện rõ trước mặt. Được
hiện rõ trước mặt xong thì cắt đứt các phiền não, diệt tất cả tội cho
đến hay khiến cho Nội Tâm sáng tỏ tinh khiết như tướng bụi che tùy theo
phất phủi mà trong sạch , tinh tiến. Chư Thiên thảy đều kính yêu.
Lại
nữa tưởng chữ Vi Diệu biến thành Bản Vị Hiền Thánh .
Quán
chữ thành bản thân Tôn Na Bồ Tát có thân màu trắng, mặt có 3 mắt, có 18
cánh tay và toàn thân rực lửa, ngồi trên hoa sen trắng và ở trong thân
hay sinh ra chư Phật.
Nếu
quán chữ thành Đa La Bồ Tát ( Tàrà Bodhisatva ) thì thân có màu xanh,
hiện tướng phẫn nộ ló nanh nhọn ra bên ngoài, mặc áo da voi, một tay cầm
kiếm, một tay cầm đầu lâu chứa đầy máu.
Nếu
quán chữ thành I Ca Nhạ Tra Bồ tát thì bên phải: Tay thứ nhất cầm cây
gậy báu, tay thứ hai cầm sợi dây. Bên trái : Tay thứ nhất cầm Kiệt Trung
Nga (Khatvanõga _ cây đao ) , tay thứ hai cầm đầu người nhỏ máu.
Nếu
quán chữ thành Phộc Nhật La Nẵng Khế thì thân có màu như mặt trăng, 2
tay bên phải cầm Kiếm với cây búa ( Phủ Việt ) , 2 tay bên trái cầm sợi
dây với hoa sen. Vị Phộc Nhật La Nẵng Khế này là thân sở hóa của Mã Đầu
Minh Vương ( Hàyagriva Vidyaràja ) có uy lực lớn. Nếu bị Đắc Xoa Ca
Long Vương (Taksïaka Nàgaràja ) làm hại thì tất cả các lực lượng không
có thể cứu độ, chỉ có Phộc Nhật La Nẵng Khế mới có thể cứu tế được thôi.
Nếu Hành Nhân dùng ở mọi nơi thì đều được thành tựu như Báu Như Ý , tất
cả tùy theo câu
Lại
nữa ở các Đại Minh thêm chữ sỡ dụng thì mỗi mỗi đều thành tựu Pháp.
Nếu
thêm chữ Aùn ( OMÏ ) thì hay tác cảnh giác với Phát Khiển
Nếu
thêm 3 chữ Aùn, Lệ , Hồng ( OMÏ LE HÙMÏ ) thì sức hay chặt cắt
Nếu
thêm 5 chữ Aùn, La, Hồng, Phát tra ( OMÏ LA HÙMÏ PHATÏ ) thì
sức hay cảnh bố với hay phá hoại cũng hay ủng hộ.
Nếu
thêm 4 chữ Aùn, Tổ, nẵng, mạc ( OMÏ CU NAMAHÏ ) thì hay thành
tựu Pháp Kính Aùi
Nếu
thêm 3 chữ Án, tổ, hồng ( OMÏ CU HÙMÏ ) thì hay đẩy lui quân
địch (Tha Quân )
Nếu
thêm 4 chữ Aùn, lệ, phát tra ( OMÏ LE PHATÏ ) thì chận đứng
được cuộc chiến đấu lớn.
Nếu
làm Pháp Tức Tai (‘Sàntika ) dùng Đại Minh này là:
“Án
_ Tôn, a mẫu yết tả, phiến đỉnh, câu lỗ, sa-phộc hạ”
(
OMÏ CUNÕ _ AMOGHASÏYA ‘SÀNTIMÏ KURU _ SVÀHÀ
Nếu
làm Pháp Tăng Ích ( Pusïtïika ) dùng Đại Minh này là:
“Án _ Tôn , a mẫu yết tả, lạc xoa di, câu lỗ, sa-phộc hạ”
(
OMÏ CUNÕ _ AMOGHASÏYA LAKSÏMI KURU _ SVÀHÀ
Nếu
làm Pháp Kính Aùi ( Va’sikaranïa ) dùng Đại Minh này là:
“Án _ Tôn, nẵng mạc”
( OMÏ
_ CUNÕ _ NAMAHÏ
Nếu
chận đứng cuộc chiến đấu lớn, dùng Đại Minh này là:
“Án _ Tôn nễ, hồng, phát tra”
( OMÏ
_ CUNÕDHE HÙMÏ PHATÏ
Lại
làm Pháp Tức Tai, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần
cầu nguyện. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết tả, phiến đỉnh, câu lỗ, sa-phộc
hạ”
(
OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ AMOGHASÏYA ‘SÀNTIMÏ KURU _ SVÀHÀ
Lại
làm Pháp Tăng Ích, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần
cầu nguyện. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ
Lại
làm Pháp Kính Aùi, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó , nói việc
cần cầu nguyện. Đại Minh đồng với Pháp Tăng Ích.
Lại
làm Pháp Giáng Phục ( Abhicàruka ) Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên ngưới
đó, nói việc cần cầu nguyện. Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tả lệ , tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết phộc thi, câu lỗ, sa-phộc hạ”
(
NAMAHÏ CALE CULE CUNÕDHE _ AMOGHA VA’SI KURU _ SVÀHÀ
Lại
làm Pháp Câu Triệu ( Akarsïanïi ) . Tụng Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết ma yết lị sa dã, hột-lị”
(
OMÏ CALE LULE CUNÕDHE _ AMOGHAM AKARSÏÀYA HRÌHÏ
Lại
Khu Trục ( Xua đổi ) Oan Gia . Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó,
nói việc cần mong cầu.Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết mẫu tả tra dã, hồng”
(
OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ AMOGHAM UCCÀTÏÀYA HÙMÏ
Lại
có Pháp phá hoại Ma Oán. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết ma la dã , hồng, phát tra”
(
OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ AMOGHA MÀRÀYA HÙMÏ PHATÏ
Lại
làm Pháp cực phá hoại Ma Oán. Đại Minh là:
“Án_ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A điên đa ma la ni, sa-phộc hạ”
(
OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ AJITA MÀRÀNÏI _ SVÀHÀ
Lại
làm Pháp Đại Tức Tai. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng việc thành tựu mong
cầu ấy. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ , tổ lệ, tôn nễ, sa-phộc hạ”
( OMÏ
_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ
Lại
làm Pháp Đại Kính Aùi. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên của người ấy, nói
việc cần thành tựu. Đại Minh là:
“
Nẵng mạc tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, nẵng mạc a điên đa, phộc thi duệ,
hột-lị”
(
NAMAHÏ CALE CULE CUNÕDHE _ NAMAHÏ AJITA VA’SÌYE _ HRÌHÏ
Lại
làm Pháp Đại Câu Triệu. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, hột-lị”
( OMÏ
_ CALE CULE CUNÕDHE _ HRÌHÏ
Lại
làm Pháp cực hoại ( làm hư nát hết ) đại oán. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng
tên của người đó, nói việc cần làm.
“
Hồng _ Aùn, tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, hồng_ A điên đổ tả tra ( xưng
việc…) phát tra, tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, phát tra”
(
HÙMÏ _ OMÏ CALE CULE CUNÕDHE HÙMÏ _ AJITA UCCÀTÏA (xưng việc cần
làm….. ) PHATÏ _ CALE CULE CUNÕDHE PHATÏ
Đại
Minh của nhóm như vậy, mỗi mỗi đều tùy theo nơi tác Pháp. Xưng nói việc
ấy thì không có gì không thành tựu.
Chư
Phật đã nói :” Giáo của Tôn Na Bồ Tát hay thỏa mãn nguyện của tất cả
chúng sinh”.Dùng Kệ ca ngợi rằng:
Công
Đức của Tôn Na
Tâm
vắng lặng thường trì
Tất
cả các nạn lớn
Không
thể xâm phạm người
Trên
Trời và Thế Gian
Thọ
phước ngang bằng Phật
Lại
thêm báu Như Ý
Quyết
định không gì bằng
PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA
BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ TƯ ( Hết )
13/03/2004
VẠN TỰ TỤC TẠNG KINH _ NO.1481 ( Tr.547 _ Tr.555 )
CHUẨN ĐỀ TAM MUỘI HÀNH PHÁP
Hán văn
: Thiên Khê Tỳ Khưu THỤ ĐĂNG Tập
Việt
dịch : HUYỀN THANH
I _
KHUYẾN TU :
Đại Đà
La Ni này được chư Phật 3 đời đã nói, đang nói, sẽ nói mà Đức Thích Ca
của Ta cũng nói như vậy nhằm giúp cho chúng sinh được lợi lạc , được vào
Bồ Đề vậy.
Phàm
tất cả chúng sinh chưa gieo hạt giống căn lành, không có Bồ Đề Phần mà
hay trì tụng 3 biến ắt sẽ sinh mầm giống căn lành và có được phần của Bồ
Đề. Nếu là Bồ Tát Xuất Gia trong đời này mong cầu Tất Địa Xuất Thế thì
Định Tuệ hiện tiền, chứng Địa Ba La Mật, viên mãn Vô Thượng Bồ Đề. Nếu
là Bồ Tát Tại Gia trong đời này mong cầu sẽ sinh vào cõi Trời hoặc làm
Nhân Vương, gần gũi Thánh Hiền, chư Thiên ủng hộ, trọn đời không có tai
hoạnh, tâm không lo buồn. Hoặc muốn diệt trừ 5 Nghịch, 10 Aùc, tất cả
tội nặng. Gom chứa 10 Thiện, 6 Độ, vô lượng Công Đức , các Đại Bồ Tát sẽ
vì người ấy nói Pháp, thường được tùy thuận theo cõi Phật ở 10 Phương.
Nếu có ham muốn khiến cho hàng Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng Giả, Cư Sĩ
sinh tâm yêu kính , khởi ý lợi lạc thì tùy theo ước nguyện của người ấy
thảy đều thành tựu, có các Phước báu.
Nếu Thọ
Mệnh bất toàn, cuộc sống bị rút ngắn, cầu Quan chẳng dời đổi, mọi khổ áp
bức. Nguyện khiến cho đời này được Phước của Luân Vương, đầy đử tướng
thọ mệnh, lộc vị cao sang, các việc tốt lành cho đến nguyện khiến cho
nước chẳng thể cuốn chìm, lửa chẳng thể đốt cháy… Thuốc độc, đao binh,
oan gia, bệnh tật đều chẳng thể gây hại mà hay chuyển ác làm lành thì
nên ở trong Đạo Trường xác định kỳ hạn cần yếu của công việc, một lònh
tinh tiến tu Chuẩn Đề Tam Muội (Cunãdhe samàdhi ) này. Bởi vì Đà
La Ni này là Ỵang Bí Mật của chư Phật 3 đời, nơi tán nói của 7 Câu Chi
Như Lai cho nên Long Thọ ( Nàgàrjuna ) đã tổng nhiếp 25 Bộ làm Độc Bộ
Biệt Hạnh . Ví như viên ngọc Như Ý là vật tối thượng trong các báu,
viên ngọc ấy lại chìm sâu trong biển lớn ắt bị mất đi sự mong cầu viên
ngọc này. Nay đã được mở bày Pháp Tối Thượng nên có thể phát tâm chuyên
kính ngưỡng Đức Chí Tôn mà tu chứng, xa lìa sinh tử . Ở nơi niệm mỏng
quyết định Tam Muội trong một hạn kỳ , cho nên chẳng kể thân mệnh giành
lại cái đã mất. Chẳng lẽ lại thêm Nhân noi theo sự lười biếng chậm chạp
trong việc hoàn thành nơi thời khác ư ? ! ….
II _
THỌ GIỚI PHÁT TÂM :
Niệm
Tụng Nghi ghi rằng:” Bật Sô, Bật Sô Ni trước tiên giữ Giới Hạnh. Nếu vào
Đạo Trường lại nên tự thề phát nguyện thọ Giới. Nếu là người Tại Gia mới
vào Đạo Trường cũng nên tùy sức phát nguyện thọ Tam Quy, Ngũ Giới hoặc
giữ 8 Tế Giới cho nên Phương Đẳng Tam Muội khiến y theo vị Nhất Giải
Nội Ngoại Luật Sư phát lộ thọ 24 Giới”
Như đây
biết, muốn vào Đạo Trường ắt lại trùng nghiêm Giới Pháp, ấy là Thi La (
‘Sìla_ Thanh Lương Giới ). Chẳng thanh tĩnh thì Tam Muội chẳng hiện
tiền. Điều này đánh mất sự dạy bảo sáng tỏ của Đức Phật là sự phụng
trọng thích hợp vậy. Đã Thọ Giới xong nên phát Tâm Bồ Đề rộng lớn, hành
Bồ Tát Hạnh (Bodhicàrya _ Bồ Đề Hạnh ).Phàm Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) là
Nhân Chính để thành Phật , gốc rễ của Trí Tuệ. Cho nên từ ngày
nay trở đi cho đến khi thành Chính Giác chỉ dùng Tâm Yếu của 4 Hoằng Thệ
Nguyện. Oâm giữ Hoằng Thệ thì rõ biết Đế Lý ( Lý chân thật ).
Bồ Đề
Tâm Giới Nghi ghi rằng:” Các Pháp Vô Ngã Bình Đẳng như Không, Tâm vốn
chẳng sinh, Không Tính, Viên Tịch . Nên biết nơi viên tịch của Tính
Không ( ‘Sùnyatà _ Tính trống rỗng ) tức là lúc Cảm Ứng Đạo Giao.Cảm
ứng Đạo giao là đầu mối của Tâm Bồ Đề. Vì thế cho nên dâng cao lòng
Từ vận chuyển Tâm Bi ( Hưng Từ Vận Bi ) , trên cầu Bồ Đề ,
dưới hóa độ chúng sinh ( Thượng cầu hạ hóa ), siêng tu 6 Độ, giành trụ
Nhất Như , lìa 3 Chướng, dùng thanh tĩnh nguyện viên dung 3 Đức,
nhất định kết thúc cội nguồn. Đừng nên chẳng trụ tại đấy vậy”.
Hai
Pháp Thọ Giới, Phát Tâm này là yếu môn khởi Hạnh của Hành Nhân,
là nơi chính của Tâm tiêu biểu. Tự thích nghi , nhiếp tâm theo học thì ý
thông suốt mở sự sáng tỏ. Ví như sơ lược Vị này mà chẳng soi xét, há chỉ
học theo sự khổ hạnh bỏ nhiều công sức mà gây tạo các chướng nạn ư ? ! …
III
_ HÀNH NHÂN VỚI HẠN KỲ NGÀY, THỜI SỐ :
Người
tu Chân Ngôn đã được sự hỗ trợ bên ngoài ( Ngoại Hộ ) xem xét giềng mối
của Kinh, chọn lực 10 người đồng với Hành Giả , đã tự quay đầu đồng tâm
cùng chí như nương theo một con thuyền. Lại nữa thỉnh riêng một vị A Xà
Lê ( Aøcàrya_ Quỹ Phạm Sư ) dùng làm Giáo Thọ ( tức là Phương Đẳng Tam
Muội Minh Nội Ngoại Luật Sư ) bày rõ dường lối quán chiếu ( Quán Đạo )
mở trừ sự trở ngại chướng nạn. Xưa kia thì Tăng Tục cùng ở một nơi. Nay
tu như có Tục Chúng đồng tu thì nên đặt bày một Giới Tướng để
phân cách, tuy đồng một Đạo Trường nhưng chẳng chung một Đàn Tịch ( cái
chiếu ngồi trong Đàn ) . Vì kẻ Tại Gia buông thả sự thấm ướt Giới Phẩm,
chưa đủ Đạo Nghi, tiến dừng chẳng hài hòa, ngược lại thành điều nhiễu
động. Cho nên đừng đem Địa Vị, Thế Lực, Sức mạnh cưỡng ép bắt theo ( Vị
Thế Cường Tòng ) cũng đừng lấy tình người noi theo sự ưa chuộng của Tăng
Chúng mà đào thải riêng biệt. Tục Chúng dung nạp hỗn tạp các Kiến ấy,
phong tục mạn loạn, phần lớn chẳng như Pháp. Như muốn Thánh ứng hình
sáng rõ thì cần phải cẩn thận chọn lựa cho thích hợp. Khởi đầu là đây
vậy.
_ NHẬT
KỲ ( Hạn kỳ ngày ) :
Kinh
ghi là :” 7 ngày, 14 ngày cho đến 49 ngày”
Điện
Công Viên Thông Tập quyết định là 120 ngày
Nay tóm
lược Pháp. Khảo xét kỹ nền tảng mà quyết định là 21 ngày. Vì một kỳ tinh
tiến tu Pháp từ 7, 14 tăng đến 49 đều tùy theo sức người. Xong đấy chỉ
là căn cơ trình độc của người mới tu, còn bậc Sinh Tu ( người tu
cả đời ) thì chưa chắc đã theo hoàn toàn.
Lại
trước lúc Chính Tu nên tác phương tiện. Nếu chẳng nghiêm tịnh thân tâm
an luyện Nghi Chế mà vội vàng vào Đạo Trường ắt Tâm chẳng phát và không
có nơi cảm ứng. Vì thế nên 7 ngày, trước tiên tự đoạn trừ tất cả duyên
bám níu, bớt ngủ, ăn uống chừng mực để điều phục Tâm ấy. Rồi lại tụng
tập Hối Văn , dẫn dịch Quán Đạo, vẫn cầu Tam Bảo gia hộ. Tiến
Đạo như không có ma che chắn hay Định Tuệ hiện tiền thì thành mãn Tất
Địa
_ THỜI
SỐ :
Kinh
ghi là :” Hoặc 3 thời, hoặc 4 Thời, hoặc 6 Thời y theo Pháp tụng trì ,
cầu Tất Địa Thế Gian Xuất Thế Gian”
Đây tức
là ngày 3 Thời, đêm 3 Thời làm Thông Quỹ ( quy tắc chung ) của việc Tiến
Tu vậy
IV _
PHÁP TU CHÍNH :
Bản
Phạn của Kinh này có 10 vạn bài Kệ . Nay có 3 bản văn dịch rất là ẩn
lược. Xong lâu dài tác Pháp : Thủ Tướng, Vô Sinh, 3 loại Tam Muội
Môn thì vẫn có đủ chứ không thiếu. Công năng tác Pháp này với dùng
Thủ Tướng ( chấp giữ hình tướng ) giống như lại Xưng Tán cho nên
ở Tây Thổ ( Aán Độ ) việc tu Chân Ngôn tập hợp rộng rãi các Bộ, Đàn,
Nghi, Aán, Chú mà tiếp đến ở đây dùng giúp cho Bản Chú làm Pháp Quán
Hạnh gọi là Niệm Tụng Nghi . Dịch truyền Đông Hạ , đời đều
xưng tập . Nhưng do lỗi câu nệ vào Pháp quá nhiều cho nên chẳng thể
không Truyền Duyên Đàn Aán nghiêng về thủ giữ chữ tiếng . Đây là
mối hại vì do chưa đạt Lý Quán làm chủ, cất chứa Tụng Trì , tiếp làm Ý
vậy .
Nay đưa
ra phương pháp . Tuy có 3 loại Sám Pháp Tướng , tu để tiến mà quán lý Vô
Sinh, thật làm lối đi trước ( Tiền Đạo ). Các Pháp Tính Không, Vạn
hạnh vô tác, viên nhân … được căn cứ làm tiêu chuẩn. Đại Quả
làm chỉ quy.
Nay lập
phương pháp này dùng xem dấu tích là Tụng Nghi, Danh Số chẳng sai
, trước sau trợ cho chỗ sai biệt. Cho nên trước dẫn Tụng Nghi
cùng đối hợp này, sau cùng là chính thức đưa ra 10 Ý. Y theo thứ tự tiến
tu.
Trong
Nghi ấy, thoạt tiên làm Mạn Trà La mà nay là Pháp Trị Đạo Trường
.
Tiếp
vào Đạo Trường : Trước tiên Lễ Phật, Sám Hối, Tùy Hỷ, Khuyến Thỉnh, Phát
Nguyện , Hồi Hướng. Nay Lễ Phật dời đến bước thứ sáu.
Ngũ Hối
dời đến bước thứ tám.
Tiếp
bày chỗ ngồi, 3 Bộ Aán Chú tức nay là Tổng Lễ Tam Bảo Hộ Thân.
Nay
bước thứ hai : Thanh Tịnh 3 Nghiệp, Kết Giới được đặt bày vào Tang
Nghiêm Đạo Trường, Nghinh Thỉnh.
Bước
thứ tư : Thỉnh Tam Bảo Chư Thiên, 5 Cúng Dường
Bước
thứ ba : 3 Nghiệp cúng dường, Phạn Tán
Bước
thứ năm: Tán Thán, Bố Tự với Thanh Tụng ( tụng ra tiếng )
Bước
thứ bảy : Trì Chú
Tam Ma
Địa Niệm Tụng , nay dời đến bước thứ mười
Muốn ra
khỏi Đạo Trường lại nên y như thứ tự : 5 cúng dường, 5 Hối, Tống Hoàn (
tiễn đưa về Bản Vị ) . Đây sẽ là bước thứ chín
Hành
Đạo Ích Hạnh, Pháp xoay chuyển Phạn Xướng chính là một thời Pháp Sự cùng
chấm dứt. Lại vận Sở Tu lúc trước làm Sự, không rõ Khế biển 3 Đức Tạng.
Vả lại Ý trụ trong vạn điều đeo níu cho nên nghĩa lý thật đồng, trùng
khế với 3 Bộ Aán tức là 3 Tự Quy. Đây ắt trước sau có sai khác mà Sám
Văn không khác biệt. Thứ tự xem xét đồng một Thể Hiển Mật . 10 Khoa Minh
Pháp thông làm Mật Nhân, 3 Mật gia trì đồng thành Hiển Giác.
Thứ tự
10 Ý phương pháp là:
1 )
Nghiêm Trị Đạo Trường
2 )
Thanh Tĩnh ba nghiệp
3 ) Ba
Nghiệp cúng dường
4 )
Thỉnh Tam Bảo chư Thiên
5 ) Tán
Thánh Thân Thành ( Duỗi thành )
6 ) Tác
lễ
7 ) Trì
Chú
8 ) Tu
hành Ngũ Hối
9 )
Hành Đạo Tuyền Chuyển
10 )
Vào Tam Ma Địa
Thoạt
đầu vào Đạo Trường. Thứ nhất thời tu đầy đủ 10 Pháp này. Sau đó trong
mỗi một Thời lược bỏ Thỉnh Phật, 9 bước còn lại đều hành không khác. Tức
dùng Pháp Hoa Tam Muội bổ trị nghĩa, Quán tưởng Cú Kệ , Chú ở sự Nghi.
Chính
Tu thời dùng Vô Sinh Lý Quán ( Quán Lý Vô Sinh ) mà dung tức là nên biết
10 điều này đều đủ Sự Lý, đều thông Cảm Ứng, đủ khắp 3 nghiệp, đều Tĩnh
3 Chướng, đều hội 3 Đức. Đấy chính là Tam Muội của các Nhà ngày nay vậy
.
Như vậy
Quán xong, dùng Tiến Tu . Tự chẳng đồng với Truyền Duyên Đàn Aán làm chỉ
quy , thiên về giữ Chữ Tiếng làm cứu cánh vậy .
1
) Nghiêm Trị Đạo Trường:
Thoạt
tiên hiểu rõ ràng cách Trị Đàn Nghiêm Tượng. Tiếp biết rõ Kết
Giới. Nên chọn Thắng Địa : đào sâu xuống một khuỷu tay ( Khuỷu
tay của Đức Phật là 3 thước 6 tấc ) loại bỏ đất ô uế, riêng lấy đất
mới lấp đầy rồi nện chặt cho bằng phẳng (Hoặc ở cao nguyên, hoặc bên
bờ sông lớn… đào sâu xuống dưới 5 thước thì đất ấy cũng mới ).Lại
lấy đất sạch hòa với mảnh vụn của hoa tạp làm bùn xoa tô đất rộng 4
khuỷu tay làm Mạn Trà La hình vuông ( Kinh dùng Cù Ma Di hòa với đất
xoa tô Đàn. Đây nên dùng phân trâu trắng ở núi Tuyết là giống thuần
chủng mập mạp, hơi thơm tinh khiết. Phương cách này rất khó nên có thể
dùng đất thơm bên trên ). Treo lọng báu. Khắp 4 mặt trep lục, phướng
, phan rực rỡ , quạt lụa mỏng, phất trần trắng…Chính giữa nâng đặt
Tượng Bản Tôn Câu Chi Phật Mẫu ( Hướng về phương Tây đặt Tòa. Nguyên
xuất từ hình thức của Thánh ( Thánh Tài ) . Xét 4 Pháp Hộ Ma thì là Tăng
Ích Hộ Ma, quyết sẽ hướng mặt về phương Tây. Nay là chuẩn của Tất Địa
Xuất Thế này. Bày biện tùy sức thích hợp mà làm )
Nếu
không có Bản Tôn thì tùy đặt Tượng Phật, Xá Lợi với Kinh Chú Đại Thừa
cũng được. Hành Giả để riêng một Tòa thấp đối trước Tượng . Liệu tính
đất thấp ẩm ướt nên trải chiếu cói chung quanh. Lại đem nước thơm rưới
vảy Địa Giới, nơi nơi án bờ mé khiến cho hợp thức. Đến ngày đầu tiên vào
Đàn ( nên dùng ngày Trai ) dùng Bạch Đàn Hương xoa tô làm 8 Mạn
Trà La giống như trăng đầy ( 8 Mạn Trà La này là 8 Đại Bồ Tát Tam Ma
Cảnh tức Phật Bồ Tát Căn Bản Tâm Đại Minh. BẤT KHÔNG dịch là: 9 chỗ
Thánh Vị. Đấy là hợp với Phật Mẫu mà gọi tên vậy )
Liền
đem vật cúng mới sạch chứa đầy thức ăn uống với hương, hoa, đèn sáng,
nước thơm Ứ Già. Tùy sức có được mà đặt bày cúng dường. Thuần Tâm tận Ý
nghiếm khiết như Pháp. Tại sao thế ? vì trong Tâm kính trọng Tam Bảo,
vượt khỏi Tam Giới. Nay muốn phụng thỉnh cúng dường há có thể coi nhẹ
sao ! Nếu chẳng rút bỏ tư tài ( tài sản riêng của mình ) cúng dường Đại
Thừa thì dùng cái gì để chiêu cảm Hiền Thánh diệt tội nặng mà thành Diệu
Quả đây ? !...
_ KẾT
GIỚI :
Kinh
ghi rằng :” Nếu muốn cầu nguyện. Trước tiên nên niệm tụng gia trì nước
thơm rải ở 8 phương trên dưới để làm Kết Giới. Hành Giả ở 4 bên của Đạo
Trường hoặc lấy chỉ ngũ sắc, hoặc vật ngăn cong… Trước hết Tướng
Tiêu Giới dùng làm cho nơi tu hành được nhay ngắn chỉnh tề. Lúc vào
Đạo Trường thời Tâm tưởng chư Phật 10 phương, Bản Tôn Phật Mẫu đi đến
ngồi cho nên đốt hương, rải hoa, cung kính cảm tạ nghiêm trì. Liền lấy
nước sạch , Chú vào 108 biến rải khắp 4 phương trên dưới thành Pháp Kết
Giới”
2 )
Thanh Tĩnh ba Nghiệp :
_ Niệm
Tụng Nghi ghi là:” Ở nơi cư ngụ, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Nơi 4
uy nghi phát 4 Hoằng Thệ. Đối với tất cả công việc, tâm chẳng tán loạn”
_ Pháp
Hoa Tam Muội ghi là:” Mới vào Đạo Trường nên dùng nước nóng thơm tắm
gội, mặc áo thật sạch như Đại Y với các quần áo mới nhuộm. Nếu không có
đồ mới thì nên chọn thứ hơn hết trong quần áo của mình dùng làm áo vào
Đạo Trường . Sau đó nếu ra khỏi Đạo Trường đến chốn Bất Tịnh thì nên cởi
áo sạch ra, mặc áo chẳng sạch vào. Việc làm đã xong, nên tắm gội , lại
mặc cái áo sạch lúc trước, vào Đạo Trường hành Pháp”
_ Đại
Bi Tam Muội ghi là:” Giả sử một ngày một đêm chẳng đến chỗ uế , cũng nên
tắm gội một lần. Xong hết một Kỳ, chuyên chú đừng nói lung tung ( Tạp
Ngữ ) với tất cả hội họp, hỏi han vấn đáp. Xong hết một Kỳ , y theo Kinh
, vận tưởng chẳng được có một Sát Na niệm dính với việc đời. Nếu ăn uống
tiện lợi thì cũng nên gìn giữ đừng để tán mất. Xong việc liền vào Đạo
Trường, chẳng được giao việc để dựa dẫm dài lâu”
Đại yếu
là: Thân Luận mở che, Khẩu Luận nói dừng, Ý Luận
Chỉ Quán.
3 )
Ba Nghiệp cúng dường:
(
Chỉ Quán ghi là: “ Đốt hương vận ý, 3 nghiệp cúng dường”. Hành Giả mới
vào Đạo Trường , đến trước Pháp Tòa, bày Ni Sư Đàn, chính thân chắp tay
đứng tựa. Như vậy suy tư:” Ta là chúng sinh phát Tâm Bồ Đề, hưng Từ
vận Bi Thệ, muốn cứu bạt mà lại xấu hổ , thật đáng thương ! “ . Giữ
tưởng Tam Bảo lấp đầy hư không, ảnh hiện Đạo Trường. Tay bưng lò hương ,
đốt mọi danh hương, miệng xướng Tam Bảo, 5 Thể cúi sát đất. Bắt đầu cử
rằng)
_ Tất
cả cung kính ( Dưới đây khác miệng cùng lời )
_ Nhất
Tâm đỉnh lễ Thập phương Pháp Giới thường trụ Phật
(
Tâm tùy thân, miệng. Một lòng đỉnh lễ không phân tán Tưởng, biết rõ thân
này như ảnh chẳng thật. Năng Lễ, Sở Lễ không có chỗ đắc. Tất cả chúng
sinh đồng vào trong biển Pháp Giới này )
_ Nhất
tâm đỉnh lễ thập phương Pháp Giới thường trụ Pháp
(
Nơi đây và Tăng bên dưới , dùng Tâm như trên )
_ Nhất
tâm đỉnh lể thập phương Pháp Giới thường trụ Tăng
( Lễ
Tam Bảo xong. Quỳ gối, đốt hương, dùng tay rải hoa. Bắt đầu bạch rằng)
_ Các
Chúng Đẳng đây mỗi đều quỳ gối, nghiêm trì hương hoa, như Pháp cúng
dường
(
Dưới đây Chúng đồng thanh xướng )
_
Nguyện mây hương hoa này tràn đầy 10 phương Giới , mỗi mỗi các cõi Phật
có vô lượng hương trang nghiêm , đủ Đạo Bồ Tát, thành tựu Như Lai Hương
(
Tưởng rằng: Hương hoa này của ta tràn khắp 10 phương. Dùng Thiên Bảo
Hương, thức ăn hiếm có của chư Thiên, Thiên Bảo Y chẳng thể luận bàn,
bụi Diệu Pháp mỗi mỗi hạt bụi tuôn ra tất cả bụi , mỗi một hạt bụi tuôn
ra tất cả Pháp xoay chuyển không ngại, trợ nhau trang nghiêm đến trước
Tam Bảo của 10 phương , trước Tam Bảo của 10 phương Pháp Giới đều có
thân ta tu cúng dường. Mỗi mỗi tưởng tràn đầy khắp Pháp Giới, mỗi mỗi
không ngại, không có chướng ngăn che bờ mé vị lai làm Phật Sự, xông ướp
khắp Pháp Giới. Các chúng sinh nương theo sự xông ướp đều phát Tâm Bồ
Đề, đồng vào Vô Sinh, chứng Phật Trí
Tưởng xong bắt đầu bạch kết )
Cúng
dường xong. Tất cả cung kính ( 1 lạy )
4 )
Thỉnh Tam Bảo chư Thiên :
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Nam mô Bản Sư Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Thế Tôn
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Nam mô Quá khứ Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Nam mô Hiện Tại Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Nam mô Vị Lai Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Quy mệnh mười Đức Phật Thế Tôn ở mười phương trong nhóm
Thiện Đức Phật ở phương Đông.
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Quy mệnh ba Thân của bảy Câu Chi Như Lai, tán nói
Chuẩn Đề Đà La Ni.
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Quy mệnh năm Bộ là nơi thu nhiếp các Đà La Ni cùng với
tất cả Tôn Pháp ba đời ở mười phương
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Nam mô Bản Tôn Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Nam mô Đại Luân Minh Vương Bồ Tát, Bất Động Tôn Minh
Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha
Tát
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Nam mô Bất Không Quyến Sách Bồ Tát, Y Ca Nhạ Tra Bồ
Tát, Phộc Nhật-La Nẵng Khế Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm phụng thỉnh. Quy mệnh tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát ba đời ở mười phương.
_ Nhất
Tâm phụng thỉnh. Nam mô Ma Ha Ca Diệp, tất cả các Đại Thanh Văn, Duyên
Giác, Hiền Thánh Tôn.
_ Nhất
tâm phụng thỉnh: Vô Năng Thắng Bồ Tát, Đa La Bồ Tát, Ha Lợi Đế Mẫu Bồ
Tát với tất cả Chúng Đại Phẫn Nộ Trì Minh Vương.
_ Nhất
tâm phụng thỉnh : Đại Phạm Tôn Thiên, Tam Thập Tam Thiên, Bốn Vương Hộ
Thế, Tám ( 8 ) Bộ Thần Đẳng, Hai ( 2 ) Tĩnh Cư Thiên Tử, Hai ( 2 ) Nan
Đà Long Vương, Cát Tường Cung Môn, Chúng Trì Minh Tiên. Tất cả Linh Miếu
ở Danh Sơn, sông lớn bên trong đất nước này. Quỷ Thần bên trong Địa Phận
thuộc Châu ( tên … ) . Thần hộ Già Lam, tất cả Thánh Chúng có trú xứ ở
chốn này.
_
Nguyện xin Bản Sư Thất Câu Chi Chuẩn Đề Phật Mẫu , Chuẩn Đề Như Lai của
ba đời, Mười Phật Thế Tôn ở mười phương… chẳng dời Bản Tế, bình đẳng Từ
Huân giáng đến Đạo Trường chứng cho con hành Pháp.
Bảy Câu
Chi Phật Mẫu đã nói Chuẩn Đề Đà La Ni , Bí Yếu của Trung Đạo .. hiển
hiện Đạo Trường nhận sự cúng dường của con.
Bản Tôn
Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát. Các vị Bồ Tát đồng Đàn với nhóm Đại Luân, Bất
Động nương sức Đại Nguyện đi đến Đạo Trường , gia trì Thần Chú , tùy Tâm
mãn nguyện.
Ma Ha
Ca Diệp, các Đại Thanh Văn đồng vận Từ Bi đều đến cùng lúc
Các Đại
Minh Vương thuộc nhóm Vô Năng Thắng , Đa La Bồ Tát, Ha Lị Đế Mẫu… Nguyện
vì con nói Pháp, trao cho niềm vui của Pháp ( Pháp Lạc ) , đuổi các Ma
Chướng, thị hiện cát tường.
Phạm,
Thích, Bốn Vương, Tám Bộ Trời Rồng, Tĩnh Cư Thiên Chủ, Các Trì Minh
Tiên… tùy theo con thỉnh đều đến giữ vững Đạo Trường, ủnh hộ Quốc Giới.
Khiến cho Sở Tu của con chẳng trái ngược với Bản Thể ( 1 lạy )
5 )
Tán Thán Thân Hành :
_ Nên
dùng Đại Từ Bi
Điều
phục các chúng sinh
Thành
biển Công Đức Phước
Vì thế
con tán lễ
_ Chân
Như thuần một Lý
Lìa các
nẻo Dục Hoại
Lợi
sinh trụ Tịch Tĩnh
Vì thế
con tán lễ
_ Giữ
Tịnh Giới bền chắc
Chứng
nhập Môn Giải Thoát
Trụ cõi
Tối Công Đức
Vì thế
con tán lễ
_ Nhóm
Công Đức Chuẫn Đề
Tâm
vắng lặng thường giữ
Tất cả
các nạn lớn
Không
thể xâm hại được
Trên
Trời với nhân gian
Thọ
Phước ngang bằng Phật
Gặp Báu
Như Ý này
Quyết
được Đại Bồ Đề
Dùng
Tán Phật Công Đức này, tu hành Đại Thừa, căn lành vô thượng. Dâng phước
lên chư Thiên cõi trên, 8 Bộ Rồng Thần, Thần Đất của cõi này, Bậc Hộ
Chính Pháp.
Lại vì
Quốc Vương Đế Chủ, Sư Tăng, Cha Mẹ, Tri Thức Đàn Việt , rộng đến Pháp
Giới Chúng Sinh. Nguyện ghi chép căn lành này , bình đẳng huân tu . Tiêu
diệt 10 ác, 5 Nghịch, 3 Chướng. Công Đức Trí Tuệ làm 2 loại Trang
Nghiêm, nghe Môn Tổng Trì, thành Đạo Chủng Trí
6 )
Tán Lễ :
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Bản Sư Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Thế Tôn
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Quá Khứ Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Hiện Tại Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Vị Lai Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
_ Nhất
Tâm đỉnh lễ Thiện Đức Thế Tôn ở Thế Giới Vô Ưu thuộc phương Đông
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Chiên Đàn Đức Thế Tôn ở Thế Giới Hoan Hỷ thuộc phương Nam
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Vô Lượng Minh Thế Tôn ở Thế Giới Danh Thiện thuộc phương Tây
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Tướng Đức Thế Tôn ở Thế Giới Vô Động thuộc phương Bắc
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Vô Ưu Đức Thế Tôn ở Thế Giới Nguyệt Minh thuộc phương Đông
Nam
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Bảo Thí Thế Tôn ở Thế Giới Chúng Tướng thuộc phương Tây Nam
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Hoa Đức Thế Tôn ở Thế Giới Chúng Aâm thuộc phương Tây Bắc
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Tam Thừa Hạnh Thế Tôn ở Thế Giới An Aån thuộc phương Đông
Bắc
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Minh Đức Thế Tôn ở Thế Giới Quảng Đại thuộc phương trên
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Quảng Tụ Đức Thế Tôn ở Thế Giới Chúng Nguyệt thuộc phương
dưới
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Ba Thân của 7 Câu Chi Như Lai tán nói Chuẩn Đề Đà La Ni ( 3
lạy )
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Năm Bộ là nơi thu nhiếp các Đà La Ni với tất cả Tôn Pháp ba
đời ở mười phương
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Bản Tôn Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lạy )
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Đại Luân Minh Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Bất Động Tôn Minh Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Bất Không Quyến Sách Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
Tâm đỉnh lễ Y Ca Nhạ Tra Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Phộc Nhật-La Nẵng Khế Bồ Tát Ma Ha Tát
_ Nhất
tâm đỉnh lễ tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát ba đời ở mười phương
_ Nhất
tâm đỉnh lễ Ma Ha Ca Diệp, tất cả các Đại Thanh Văn, Duyên Giác, Hiền
Thánh Tăng
7 )
Trì Chú :
Đạo
Chân Ngôn này rộng lớn viên dung Thật Tướng Vô Tướng, lìa các
phân biệt, Tính đồng hư không , đầy đủ 3 Đức, chẳng dọc chẳng ngang,
bình đẳng che giữ làm nhóm Công Đức. Chư Phật ở đây Như Như Bất Động
, khéo vượt 160 Tâm không có ngại, mà các chúng sinh chẳng tự chứng
được , tùy thuận Vô Minh, chìm đắm trong 3 cõi ( Tam Hữu ) giống như giữ
lò lửa xoay chuyển chẳng dừng. Do đây đè nghẹt , thấy nghe đều lỗi. Cho
nên Đức Chuẩn Đề Như Lai của Ta , Từ Bi không bờ mé . Từ Bản Thùy
Tích , 3 Mật đốn hóa, lưu dấu tích theo Bản Thùy , 9 Chữ đều
sáng rực , hợp với Trí Sắc của Lý Địa , bật ra Thanh
Duyên ( duyên với âm thanh ) của Giáo Môn, lưu chuyển thích hợp xứng
với Theå, kết thành chữ Phạn, muốn khiến chúng sinh nghe Tri
Kiến của Diệu Giác, thành Trí Thân của Bản Nhiên
.Tức sự nghe thấy này chẳng phải là Tiếng Chữ hay sự việc,
làm Nhất Lý Môn ( Môn của một Lý ) , duyên tiếng vào
Trí , nhân Chữ tận Tính, xa lìa Tiếng Chữ cũng
không giải thoát
Ngày
nay Hành Giả giương Tâm lập Hạnh , phá Chướng hiển Lý. Nếu chẳng Bố Tự
duyên tiếng vào Tam Ma Địa thì không tới được đường về nhà . Theo Nhân
chứng Quả, nên tu Pháp này . Tùy lập 2 Môn tức duyên Tiếng bày Chữ , trì
cho vào Tam Ma Địa , trì tên Long Thọ. Đây là Hữu Tướng Trì, Vô Tướng
Trì vậy. Vô Tướng Trì thì đến chương thứ mười sẽ rõ. Hữu Tướng Trì
là tỏ tường Tiếng Chữ này vậy. Cỏ Tranh làm Sắc Pháp thông làm Giáo Thể
.
Mã Minh
nói :” Sắc Tính tức Trí, gọi tên là Trí Thân”
Thiên
Thai nói :” Niệm Pháp Môn Thân”
Niệm
Tụng Nghi ghi là:” Từ đỉnh đầu đến chân dùng 9 chữ Phạn an bày trên thân
Hành Giả. Cho nên dùng:
Chữ ÁN
( _ OMÏ ) bày ở đỉnh đầu ắt thành Nhất Thiết Chủng Trí
Chữ
CHIẾT ( _ CA ) bày ở 2 con ngươi ( Đồng Thần ) ắt thành 2 Đế
Chân Tục
Chữ LỆ
( _ LE ) bày ở mắt trái, mắt phải tức thành Từ Bi
Chữ CHỦ
( _ CU ) bày ở họng cổ tức thành Vô Ngại Biện
Chữ LỆ
( _ LE ) bày ở vai trái, vai phải thành 4 Hoằng Thệ
Chữ
CHUẨN ( _ CUMÏ ) bày ở trái tim thành Như Lai Tạng
Chữ ĐỀ
( _ DHE ) bày ở lỗ rốn thành 3 Tam Muội
Chữ
SA-BÀ ( _ SVÀ ) bày ở 2 bắp chân thành Địa Ba La Mật
(
Thiên Thai nói 10 Địa là ống chân, bàn chân. Thiên Thai Sớ dùng 10 Độ
làm ống chân của 10 Địa )
Chữ HA
( _ HÀ ) bày ở 2 bàn chân là Định Tuệ thành vậy.
Biết
các Pháp đấy, nhóm họp thành Thân. Sắc Tính đã là Trí , Trí Tính cũng là
Sắc. Nên Trí Thân này lúc an bày thành, thời Chướng ở đấy, liệu phá được
ư ? !... Đức cũng dùng Hiển ấy. Bên trên là Pháp Thể cao xa, bên dưới
nên vịn vào Sinh Báo Trí Thân Sắc nhằm sắp gần thành cái ấy vậy.
Lại nữa
nên biết Môn 9 chữ Phạn vào 9 địa vị Hiền Thánh , Nhân Quả hợp một. Thân
Pháp Tướng cao xa tức thành dụng Như Lai Aán , nơi Thân Gia Trì của 8
Đại Bồ Tát . Bản Tích tuy đặc thù chẳng thể luận bàn xứng với Thắng Pháp
Môn. Bởi vì Có là do vậy.
Đã an
bố xong. Sau đó Thanh Tụng ( tụng ra tiếng ) . Pháp Tụng ấy, trước tiên
thấu tỏ Tính của âm thanh là trống rỗng ( ‘Sùnya _ Không ) , hình sắc
của chữ là Vô Tướng ( Alaksïanïa ) . Tiếng chẳng chậm rãi chẳng gấp gáp,
Chữ không có trước sau , Tính của Tâm là Vô Tính, Tâm chẳng khác Duyên.
Tiếng Phạn cong quẹo cùng với 9 chữ Phạn rõ ràng minh bạch . Nơi bày chữ
trên Thân và 9 tướng Thánh mỗi mỗi thấu tỏ chẳng mịt mờ. Niệm Trì như
vậy, há chẳng tiến bộ sao ? Mỗi mỗi biện rõ, không gián đoạn sáng tỏ. Tự
nhiên liền thấy hào quang , tướng tốt của Bản Tôn với Quyến Thuộc vây
quanh cùng Ta đối diện ngồi. Đây là Bố Tự Duyên Thanh Trì Pháp.
(Ngay thẳng Thân, Uy Nghi, đốt hương rải hoa , đồng thanh tác lời nguyện
là)
Con (
Tên là… ) nay muốn niệm tụng. Nguyện xin Bản Tôn , chư Phật, Bồ Tát gia
trì niệm tụng. Nguyện khiến cho mau viên mãn Tất Địa mong cầu tùy theo Ý
( Xướng 3 lần, 1 lạy )
Bấy giờ
Đức Thế Tôn thương xót các chúng sinh có Nghiệp ác, Phước mỏng ở đời vị
lai. Liền nhập vào Chuẩn Đề Tam Ma Địa nói Đà La Ni mà 7 Câu Chi Phật
trong đời quá khứ đã nói.
( Chúng
đồng kết Thủ Aán, miệng tụng Chân Ngôn, Tâm giữ các an bố chữ Phạn )
Nam
mô táp đá nam, tam miệu tam bột đà câu chi nam. Đát điệt tha : Aùn,
chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa bà ha
NAMO
SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ
TADYATHÀ : OMÏ _ CALE CULE CUMÏDHE _ SVÀHÀ
(
Trong Đàn chẳng tiện ngồi riêng thì đi đứng tụng trì 108 biến, là mãn số
Tất Địa . Nay cầu 3 Phẩm Tất Địa là thích hợp với 3 biến, 108 biến,
chẳng nhiều chẳng ít. Bắt đầu y theo Pháp lần chuỗi ghi số, số mãn thì
đặt chuỗi về cỗ cũ ( Quy vị ) . Đưa Aán hướng lên đỉnh đầu giải tán.
Người đứng đầu bạch rằng Mở Chú chứng Vị )
Khi Đức
Phật nói Pháp Đại Chuẩn Đề Đà La Ni này thì vô lượng chúng sinh mau lìa
trần cấu, được chứng Công Đức của Chuẩn Đề Đà La Ni. Được thấy Phật, Bồ
Tát, Thánh Chúng ở 10 phương, quyết định thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(
Bạch xong, đồng thanh tác nguyện )
Con (
Tên là… ) đem Công Đức niệm tụng này , nơi tu Chân Hạnh của tất cả chúng
sinh cầu mau được thành tựu Thượng Phẩm Tất Địa.
8 )
Tu Hành Ngũ Hối:
Thoạt
đầu là Pháp Sám Hối :
Kinh
ghi :” Tiêu diệt tội nặng , 10 ác, 5 Nghịch từ vô thủy đến nay, vĩnh
viễn không có bệnh tật như chẳng đọa vào nẻo ác, tại chốn sinh ra lìa
khổ được vui, gần gũi gặp được Đức Phật, thành tựu Bồ Đề”
Xong Ta
ngày nay chuyên giữ Mê Ngu, chẳng chịu Sám ắt bị đọa vào Tam Đồ
trăm kiếp chịu khổ , chẳng có lúc nhàn rỗi thăm hỏi Bồ Đề để có thể thấy
Phật. Cho nên nghĩ nhớ tội nghiệp đời trước thì rất kinh sợ mà tỏ bày
Sám Hối.
Sám
gọi là Sám Tạ. Hối gọi là Tàm Quý ( Xấu hổ ) . Cầu thương sửa
lỗi là Chân Sám Hối.
Khuyến
Thỉnh, Tùy Hỷ, Hồi Hướng, Phát Nguyện cũng gọi là Hối. Tuy đều lập Hạnh
mà cùng khả năng diệt tội.
Khuyến Thỉnh ắt diệt tội Ba Tuần ( Ma Vương Ba Tuần ) thỉnh Phật vào
Niến Bàn
Tùy
Hỷ ắt diệt tội lỗi ganh ghét người Tu Thiện
Hồi
Hướng ắt diệt Tâm điên đảo cầu ba cõi ( Tam Giới)
Phát
Nguyện ắt diệt lỗi Thoái chí tu hành
Ba
Nghiệp cạn hết, chẳng tiếc thân mệnh, khóc ra máu , lệ tuôn như mưa, tỏ
bày gốc rễ của tội
Pháp
Hoa Tam Muội ghi là:” Nghiệp Tính tuy Không nhưng Quả Báo chẳng mất.
Nhân Duyên điên đảo khởi các tội nặng, lệ tuôn thương khóc, miệng bày
Sám Hối”
(
Trước tiên Phổ Sám. Tưởng rằng: Ta với chúng sinh từ vô thủy thường
vì 3 Nghiệp 6 Căn mà gây tội nặng , Sở Chướng chẳng thấy chư Phật, chẳng
biết lối cần ra, thuận theo sinh tử chẳng biết Diệu Lý . Nay Ta đã biết
: Do cùng với tất cả chúng sinh đồng bị tất cả tội nặng, sớ chướng nên
đối trước Chuẩn Đề Bồ Tát Tôn vì khắp cả chúng sinh mà quy mệnh sám
hối. Nguyện xin gia hộ khiến tiêu diệt tội chướng.
Tưởng xong. Xướng rằng )
Khắp vì
4 Ân 3 Cõi Pháp Giới Chúng Sinh đều nguyện đọa trừ 3 Chướng. Quy mệnh
Sám Hối.
(
Xướng xong. Cúi 5 vóc sát đất, lại Tự Sám. Xướng rằng )
Chí Tâm
Sám Hối. ( Tỳ Kheo, tên là …. ) cùng với Pháp Giới chúng sinh , hiện
tiền nhất niệm Viên Minh rộng lớn , đánh mất sự giữ gìn Bí Tạng . 6 căn
6 trần giao sinh nhiễm dính, tuần hoàn 3 cõi không có tạm dừng. Vì thân
khẩu ý mà không có điều ác nào không tạo, muốn giết sinh mệnh thì giết,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt ( Ỷ ngữ ) , nói chia rẽ ( Lưỡng
Thiệt ), nói thô ác ( ác khẩu ), tham dục, giận dữ, si mê, tà kiến , ngu
si. Mười ác như vậy , tự mình làm hoặc sai người khác làm, tùy vui theo
người ác, khen ngợi Pháp ác. Lại khởi Tâm ác lớn mạnh tạo Nghiệp Vô Gián
như Giết cha hại mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá Hòa Hợp
Tăng.Lại điên cuồng buông lung mê tưởng , mở cửa Kiết Sử , thường giữ
Luật Tà , đời gom Tăng ( Ganh ghét ) Mạn ( Kiêu mạn ) , chẳng tin
Phương Đẳng … trợ dùng nâng dắt. Nơi Pháp của Phật nói là Phi Pháp, Phi
Pháp nói là Pháp, Các chúng sinh có Đức lại nói là mất Đức ( thất đức )
, chẳng oan nói là oan. Chẳng vui phụng trì Pháp Luật Xuất Thế , Luân
Thường Trị Thế cho đến Thừa Huấn Giáo
Tội lỗi
như vậy vô lượng vô biên. Buông hình mệnh ấy thường đọa nẻo ác chỉ vì
Cái Ta .
Vì Thất
Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Thế Tôn thương xót con cho nên vào Tam Ma Địa
nói Chuẩn Đề Đại Đà La Ni này. Nếu có chúng sinh hay tụng trì thì 10
Aùc, 5 Nghịch thảy đều tiêu diệt . Ngày nay y Pháp tu hành, phụng đối
Sám Hối, chẳng dám che dấu. Ngưỡng Nguyện Bản Tôn Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha
Tát có đầy đủ 5 mắt chân thật thấy biết , biến 18 tay xót thương gia hộ
TRước khiến trong mộng được thấy Thánh Chúng, miệng nôn vật đen, thân
hiện cát tường. Tiếp vào Tam Ma Địa mau tròn Tất Địa, nhiếp khắp 10 Địa,
Định Tuệ hiện tiền, hết thảy Nghiệp Chướng sẽ tiêu trừ hết, đời sau
chẳng nhận tất cả ác báo, vĩnh viễn lìa Tam Giới, các căn làm sạch dòng
mê diệu thâm, vành trăng tròn sáng nơi tim cùng Phật thọ dụng , mở Môn
Tổng Trì, cùng các chúng sinh, cuối cùng quy vào Bí Tạng.
(
Văn này với Phổ Sám bên trên , 4 Sám bên dưới đều tuyên nói 3 lần. Nếu
thời ngắn gấp thì ban đêm tuyên 3 lần hoặc có thể nói một lần, ban ngày
nói 3 lần. Nói xong đứng dậy xướng kết )
Sám Hối
xong. Quy mệnh lễ Tam Bảo ( 1 lạy )
_ Tiếp
Pháp Khuyến Thỉnh : ( Đốt hương, quỳ gối )
Con (
tên là… ) chí tâm khuyến thỉnh tất cả chư Phật ở 10 phương, Bậc đắc đạo
hiện tiền. Nay thỉnh chuyển Pháp Luân khiến các quần sinh được an vui.
Tất cả Phật ở 10 phương nếu muốn bỏ Thọ Mệnh , nay con cúi đầu mặt lễ ,
khuyến thỉnh xin trụ lâu ở đời.
Khuyến
Thỉnh xong. Quy mệnh lễ Tam Bảo
_ Tiếp
Pháp Tùy Hỷ :
Con (
tên là… ) chí tâm tùy hỷ. Hết thảy Phước : Bố Thí, Trì Giới, Tu Thiền
Hành sinh từ Thân , Miệng, Ý . Hết thảy Phước của người tu học 3 Thừa,
Bậc thành tựu 3 Thừa, tất cả phàm phu … đều tùy mà khiến vui
Tùy Hỷ
xong. Quy mệng lễ Tam Bảo.
_ Tiếp
Pháp Hồi Hướng :
Con (
tên là…) chí tâm hồi hướng. Tất cả Phước Đức mà con có được đều hòa hợp
vì các chúng sinh mà chính hồi hướng Phật Đạo. Phước : Sám Tội Ứng như
vậy, Khuyến Thỉnh, Tùy Hỷ đều xin hồi hướng về Bồ Đề với Chân Như Pháp
Giới.
Hồi
Hướng xong. Quy mệnh lễ Tam Bảo.
_ Tiếp
Pháp Phát Nguyện :
Con (
tên là… ) chí tâm phát nguyện. Nguyện cho các hàng chúng sinh đều phát
Tâm Bồ Đề, Định Tuệ thường hiện tiền, chứng Địa Ba La Mật. Nguyện con
lúc lâm chung được vãng sinh về cõi An Lạc, được thọ ký xong thì quay
trở lại cõi Sa Bà ( Sahaloka ) giáo hóa các chúng sinh.
Phát
nguyện xong. Quy mệnh lễ Tam Bảo
9 )
Hành Đạo Tuyền Chuyển :
( Thân
ngay thẳng, uy nghi, nhiễu quanh vòng bên phải Pháp Tòa. Đốt hương, rải
hoa, bước đi an tường. Quán Sở Tu cúng dường, lễ bái, tụng trì, Ngũ Hối
lúc trước… mỗi mỗi là Tính Không , vống không có chỗ đắc, nhất chân hạ
chân chẳng trụ hình tướng. Hương Quang nghiêm thân , ảnh hiện 10 phương,
tâm tưởng như mộng, tiếng Phạn như tiếng vang dội lại trong hang núi.
Đồng tác Khế, xướng)
_ Nam
mô thập phương Phật
Nam mô
thập phương Pháp
Nam mô
thập phương Tăng
Nam mô
Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Phật
Nam mô
Tất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni
Nam mô
Bản TÔn Chuẩn Đề Bồ Tát
Nam mô
Quán Tự Tại Bồ Tát
Nam mô
Kim Cương Thủ Bồ Tát
Nam mô
Đại Luân Minh Vương Bồ Tát
( Hoặc
xưng 3 lần, hoặc xưng 7 lần. Rồi quay về trước Tượng Phật )
_ Tự
Quy Y Phật nên nguyện chúng sinh : Giải thoát Đạo lớn, phát Tâm vô
thượng
_ Từ
Quy Y Pháp nên nguyện chúng sinh : Vào sâu Kinh Tạng, Trí Tuệ như biển
_ Tụ
Quy Y Tăng nên nguyện chúng sinh: Hợp Lý đại chúng, tất cả không ngại
Hòa
cùng Thánh Chúng
10 )
Vào Tam Ma Địa :
Hành
Giả Lễ Sám xong nên ra khỏi Đạo Trường, chọn ở một nơi, thân đã có dây
cột giường ngồi, vào Tam Ma Địa .
Niệm
Tụng Nghi ghi là :” Thẳng thân nhắm mắt, lắng tâm tĩnh lự , nơi ức ngực
hiện rõ Viên Minh ( Vòng sáng tròn trịa ) như tướng trăng đầy. Ở chính
giữa Viên Minh , bày chữ ÁN . 8 chữ còn lại bày xoay vòng theo bên phải.
Ở trong Định, chẳng tán động liền tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật”
Liền vẽ
một tướng Viên Minh . Tùy mà suy nghĩ Nghĩa Tướng, Chủng Tính của Mẫu
Tự.
Chữ ÁN
( _ OMÏ ) Nghĩa là : Tất cả Pháp vốn chẳng sinh.
Cũng có nghĩa là 3 Thân. Lại có nghĩa là Lưu Chú
chẳng sinh diệt. Cũng có nghĩa là Tối Thắng
Chữ
CHIẾT ( _ CA ) nghĩa là Vô Hành ( không có đi
lại lưu chuyển ). Lại có nghĩa là Tất cả Pháp chẳng sinh chẳng
diệt
Chữ LỆ
( _ LE ) nghĩa là Vô Tướng ( không có tướng )
Chữ CHỦ
( _ CU ) nghĩa là Vô Khởi Trụ ( Không có Khởi
Trụ )
Chữ LỆ
( _ LE ) nghĩa là Vô Cấu ( không có dơ bẩn )
Chữ
CHUẨN ( _ CUMÏ ) nghĩa là Vô Đẳng Giác ( Hiểu
rõ không có đẳng cấp )
Chữ ĐỀ
( _ DHE ) nghĩa là Vô Thủ Xả ( không có giữ bỏ
)
Chữ
SA-BÀ ( _ SVÀ ) nghĩa là Bình Đẳng Vô Ngôn Thuyết (
Bình đẳng không có nói năng )
Chữ HA
( _ HÀ ) nghĩa là Vô Nhân Tịch Tĩnh Vô Trụ Niết Bàn
Tướng
của Viên Minh này , 9 chữ Phạn này cùng với 10 Thừa của các nhà hiện nay
đều không có sai khác. Nói 10 Thừa là :
1 )
Quán cảnh Bất Tư Nghị
2 )
Chân chính phát Tâm Bồ Đề
3 )
Khéo léo an Tâm Chỉ Quán
4 ) Phá
Pháp nghiệng lệch
5 )
Biết thông bít ( Thức thông tắc )
6 )
Điều Thích Đạo Phẩm ( Điều chỉnh cho thích hợp Đạo Phẩm )
7 ) Đối
trị trợ giúp khai mở
8 )
Biết vị thứ
9 ) Hay
an nhẫn
10 )
Lìa Pháp Aùi
Nay
liền dịch Ý ấy. 9 Chữ của Chân Ngôn tức y theo quán Cảnh Bất Khả Tư
Nghị. Nhóm phát Tâm Bồ Đề là 9 Pháp Thừa. Dùng tướng Viên Minh ban đầu
là Lý Cảnh . Viên Minh cắt đứt sự chờ đợi, vốn chẳng sinh diệt,
không có hành, không có tướng, không có khởi, không có dơ, không có đẳng
cấp, không có giữ, không có nói, không có trụ. Xong noi theo chân lý của
9 chữ ấy để cùng tiến.
Do
vốn chẳng sinh tức được không có hành, dùng đến noi theo
không có lời nói, tức được Nhân Quả cùng quên ( Song vong nhân quả )
, tương ứng Bát Nhã , dùng Vô Sở Đắc ( Không có chỗ đắc ) mà làm
phương tiện vào Thắng Nghĩa Thật , ắt chứng Chân Như, không cắt không
nối, xoay tròn không có đầu mối. Đây là Sơ Tuyền Đà La Ni Môn.
Tướng
Viên Minh như Thể của bánh xe, phương tiện như đủ độ. Nếu hay tu hành
như vậy thì Định Tuệ hiện tiền, chứng Địa Ba La Mật, mau đến Vô Thượng
Chính Đẳng Bồ Đề. Cho nên biết Tướng Viên Minh cùng với 9 chữ Phạn , 10
Thừa trợ ý cho nhau vậy.
_ Lại
nữa Pháp này. Trước tiên Hành Giả tự thệ Tâm Bồ Đề, nơi 4 uy nghi phát 4
Hoằng Thệ trang nghiêm 3 Thân cho đến Đồ Đề Đạo Trường . Nếu chẳng y
theo Thật Lý thì há có thể lìa cột buộc mà thoát được sao ? !...
Y theo Lý với Thệ được gọi là Chân Chính. Thoạt đầu là
quán Cảnh Bất Khả Tư Nghị tức là gốc Bồ Đề, 8 chữ sau là Thành
Pháp Bồ Đề . Cho nên dùng chữ ÁN ( _ OMÏ ) bày ở chính
giữa, còn lại 8 chữ được an bày xoay theo bên phải vòng quanh Luân
Duyên. Nên biết Kinh này thì biết rõ ngay Hạnh Bồ Đề.
Lại nữa
Đạo Chân Ngôn này. Bộ tại Mật Viên ( Tròn kín ) , 10 Pháp thành Thừa.
Dạy thì có Hiển Viên, Hiển Mật Viên Tu nên vẫn có 2 loại là Hữu Tướng
và Vô Tướng.
Hữu
Tướng hiển Pháp Môn Thân mà lúc trước đã lược bày rõ
Vô
Tướng quán Thật Tướng Thân . Tướng Viên Minh ban đầu là Cảnh
Bất Tư Nghị chỉ là được một niệm tỏ rõ hiện Viên Minh. Tuy đủ 10 giới,
100 giới, 1000 giới… nhưng vẫn như Vốn chẳng sinh , cũng chẳng
phải là Nhân Quả, Pháp Giới Nhất Như , Bìng Đẳng Như Như , dứt đường
ngôn ngữ, diệt nơi Tâm Hành cho nên bí mật diễn bày Thị với
Hiển đều chẳng thể dùng Thức ( Vijnõàna ) để biết thì làm sao lại
có thể dùng lời để nói được ! … Đây là Bất Tư Nghị Viên Minh Tướng
vậy
_ Chữ
ÁN ( _ OMÏ ) là Phát Tâm Bồ Đề . Đã hiểu sâu Viên Minh là
cảnh Bất Tư Nghị. Lại nghĩ tất cả chúng sinh , niệm niệm đều như thế.
Biết một Khổ , tất cả Khổ mà tự thương Khổ lúc xưa, thương người khác
cũng vậy. Liền khởi Đại Bi và 2 Thệ Nguyện.Vì tất cả Pháp vốn chẳng sinh
cho nên độ chúng sinh của Vốn chẳng sinh mà Lưu Chú chẳng sinh
diệt. Vì cắt đứt Phiền Não của Chẳng sinh chẳng diệt cho nên biết
một vui, tất cả vui, Ta với chúng sinh xưa kia tuy cầu vui mà chẳng biết
Nhân của vui. Nay mới giải được nên khởi Đại Bi và 2 Thệ Nguyện, học
Pháp Môn tối thắng vô thượng , thành 3 Thân , vô lượng Phật Đạo.
Như thệ
nguyện Từ Bi này cùng với Viên Minh bên trên vốn chẳng trước chẳng sau,
đồng thời cùng khởi nên nói chữ ÁN bày ở chính giữa là tất cả Pháp
lưu chú vốn chẳng sinh và là nghĩa 3 Thân tối Thắng vậy.
_ Chữ
CHIẾT ( _ CA ) là khéo an Chỉ Quán . Bên trên đạt sâu cảnh
Trí Viên Minh, chuyển vận Từ Bi rộng lớn. Nay hành hành Chân Nguyện
Hành
tức Chỉ Quán , nên dùng Chỉ Quán không hai ( Bất Nhị Chỉ Quán ) an ở
Pháp Tính khiến cho lặng lẽ ( Tịch Nhiên ) chẳng hai thì Hành đó
tức là nghĩa Vô Hành (Không có hành ) .
Lại
dùng Pháp Tịch Chỉ ( Lặng dừng ) an tâm thì các Pháp sinh diệt , nay là
Thật của Thể . Sinh là Pháp Tính sinh, Diệt là Pháp Tính diệt ,
thường là Pháp Tính, không có gì không là Pháp Tính . Tức là nghĩa
Tất cả Pháp chẳng sinh chẳng diệt
_
Chữ LỆ ( _ LE ) là phá nghiêng lệch. Lý nếu chưa
hiển . Do 3 Hoặc ngăn che . Thường quán Hoặc này vốn trống
rỗng ( ‘Sùnya _ Không ) , quán Trí cũng đứt là nghĩa Vô Tướng
_ Chữ
CHỦ ( _ CU ) là biết thông bít . Nếu dính vào Năng Quán này
thì ở Thông khởi bít . Biết Thông Tắc ( Thông bít )
này tức là nghĩa Vô khởi trụ
_ Chữ
LỆ ( _ LE ) là Đạo Phẩm. Quán tuy không có tướng nhưng chứng
do Đạo Phẩm. Phẩm chưa điều chỉnh cho thích hợp thì chưa lìa nhiễm cấu.
Phẩm tiếp đến Tướng Sinh là nghĩa Vô Cấu ( không dơ bẩn )
_ Chữ
CHUẨN ( _ CUMÏ ) là Đối Trị Trợ Khai. Che bỏ Lý Cảm
chẳng hiển Chân Như , sự độ trợ giúp mở cho thấy bờ Diệu
Giác là nghĩa Vô đẳng giác
_ Chữ
ĐỀ ( _DHE ) là biết vị thứ . Làm ngưng Tâm thô ấy là đến chỗ
thâm sâu. Nếu biết Viên Vị thì miễn trừ Tăng Thượng Mạn , chẳng
lìa cảnh Thánh là nghĩa Vô Thủ Xả ( Không giữ bỏ )
_ Chữ
SA-BÀ ( _ SVÀ ) là hay an nhẫn, gọi là lợi Quyến Thuộc lìa 3
Thuật. Nơi cảnh thuận nghịch vẫn an nhiên bất động là nghĩa Bình đẳng
vô ngôn thuyết
_ Chữ
HA ( _ HÀ ) là lìa Pháp Aùi. Hành 9 việc bên trên vượt Chướng
trong ngoài. Nếu khởi Pháp Aùi thì dính Tịnh tựa Nhân ,
không trụ hơi thở. Nếu lìa Aùi này thì phát Chân Trung Đạo , tự
nhiên tuôn chảy vào biển Tát Bà Nhã ( Sarva Jnõa _ Nhất Thiết Trí ) .
Đây là nghĩa Vô nhân tịch tịnh vô trụ Niết Bàn
Thượng
Căn : Quán cảnh liền vào Sơ Trụ hoặc Nội Ngoại Phàm
Trung
Căn : Từ 2 đến 7
Hạ Căn
: Tận dụng toàn Tính khởi tu.
Toàn Tu
tại Tính, nối tiếp chỉ có một Thật cho nên gọi là Chân Thật Tướng.
Đây là Vô Tướng Hành, bên trên là Hữu Tướng Hành .
Cùng tu mà tiến.
Nếu
hành lập Tụng Trì hoặc ngồi xuống suy tư , quán cảnh Bất Tư Nghị mà chưa
từng thề xa lìa. Đây gọi là Y Giáo tu hành. Cho nên trước lập Pháp
Môn Bố Tự . Nay bày Thật Tướng của 10 Thừa. Tướng của 10 Thừa này
tức là nơi an bày Pháp. Đã khiến y Giáo Tu Hành tức là Danh Tự Tu
Tướng , chuyên chú quán Hạnh thành tất cả Tất Địa. Tức Quán Hạnh Tu
Tướng dùng phương tiện Tuệ vào Thắng Nghĩa Thật. Tức Tướng tựa Tu
Tướng, Định Tuệ hiện tiền, chứng Địa Ba La Mật cho đến Vô Thượng Bồ Đề ,
tức phần mãn chứng Tướng.
Lại nữa
Hành Giả chưa thể tu 2 Pháp trên thì nên tin sâu, cắt đứt các Tâm nghi,
tụng Đà La Ni này, số 10 vạn biến. Trước tiên thấy Tướng thanh tĩnh diệt
mọi loại tội. Như vậy đã tiến kịp 2 Pháp này. Tự nhiên nhậm vận lưu nhập
mà không có trở ngại. Cho nên biết Sơ Tâm tu hành, nhập Môn có nhiều
loại nhưng lúc Diệu Ngộ thời Lý Ứng Lưỡng Xả
V _
TRÌ MINH NGHIỆM TƯỚNG :
Tướng
Trì Nghiệm có hai loại. Một là Tiên Hành , hai là Y Pháp tụng
trì
Trước
tiên Hành Giả chẳng qua chỉ là hay dùng miệng tụng mà chưa khởi Quán
Giải. Xong có thể mãn 10 vạn biến liền được mộng thấy các Phật Hiền
Thánh, miệng nôn ra vật màu đen.Nếu có Nghiệp Tội 10 ác thì chẳng được
thấy. Liền tụng 10 vạn tức trong cảnh mộng được thấy Thiên Đường, Chùa…
Hoặc cùng Thiên Nữ vui vẻ. Hoặc lên núi, vượt biển. Hoặc bay trên hư
không, tắm gội trong ao. Hoặc ăn Lạc Phạn. Hoặc uống Cam Lộ. Hoặc ngồi
trên tòa nói Pháp. Hoặc ngồi trên thuyền dạo chơi. Hoặc thấy Sa Môn, Cư
Sĩ. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng, nam, nữ. Hoặc đánh thắng Hắc Phu (
người đàn ông da đen ) . Hoặc sợ hãi đuổi bò, ngựa… Liền biết là tướng
thanh tịnh diệt mọi loại tội.
Giả sử
có tội 5 Nghịch, Chướng cực nặng mà chưa thể nhìn thấy tướng Cát Tường.
Liền gia thêm 70 vạn biến ắt quyết định được thấy tướng mạo như trước.
Đây mãn 90 vạn biến liền được thấy Tướng.
Căn cứ
vào kẻ có tội 10 Aùc, 5 Nghịch mà Pháp Hoa Tam Muội ghi là: ” Nếu
được mọi loại mộng tốt linh dị là Hạ Phẩm Giới Căn Tĩnh Tướng vậy”
Tiếp y
Pháp tụng trì , có 2 loại: Một là Duyên Thanh Bố Tự Trì , hai là
Nhập Tam Ma Địa Trì . Đây là 2 Nguyện cầu về Tất Địa Thế Gian và
Xuất Thế Gian, không có gì không thành tựu.
1 )
Duyên Thanh Bố Tự Trì :
Hành
Giả dùng 9 chữ của Đà La Ni an bày trên thân xong , liền thành. Dùng Như
Lai Aán, Thân Sở Gia Trì của 8 Đại Bồ Tát . Thân ấy tức là Chuẩn Đề
Phật Mẫu, Kim Cương Bất Hoại, diệt trừ tất cả Nghiệp Chướng, gom chứa vô
lượng Phước Đức. Cho nên tụng mãn 30 vạn biến liền được Kim Cương Thủ Bồ
Tát dẫn vào cung của Ngài.
Tụng
mãn 60 vạn biến thì được thấy Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát,
Đa La Bồ Tát… Tùy Tâm mãn nguyện
Nếu mãn
100 vạn biến thì chư Phật Bồ Tát vì mình mà nói Pháp, thường được tùy
tòng. Cũng được đi đến 10 phương Tĩnh Thổ phụng sự chư Phật, gần gũi
nghe Diệu Pháp.
Lại
tụng một Câu Chi biến thì chẳng chuyển nhục thân đi đến cung Đau Suất
theo Di Lặc Bồ Tát , lắng nghe Chính Pháp, được Bất Thoái Chuyển. Hoặc
được Vô Năng Thắng Bồ Tát nguyện vì mình nói Pháp. Ha Lợi Để Mẫu trao
cho nhóm Pháp vui.
Đấy đều
là Hành Lập Tụng Trì chẳng vào Tam Muội. Bất quá chỉ là Y Pháp Bố
Tự Duyên Thanh Tụng Trì. Cho nên Pháp Hoa An Lạc Hạnh chẳng vào
Tam Muội, chẳng qua là Hành Lập Tụng Trì cũng được thấy sắc tượng thượng
diệu của Phổ Hiền.
2 )
Nhập Tam Ma Địa Trì :
Chuyên
chú Quán Hạnh vào Tam Ma Địa. Ngay thẳng thân, nhắm mắt, lắng tâm, tịnh
ý. Nên ở ức ngực hiện rõ Viên Minh giống như trăng đầy. Ở trong Viên
Minh , suy tư Chủng Tính 9 chữ của nhóm chữ ÁN, vào Tuyền Chuyển Đà
La Ni Môn ắt sẽ được thấy Tâm trong sạch của cội nguồn ( Bản Nguyên
thanh tĩnh Tâm ) cùng tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật, Định Tuệ hiện
tiền, chứng nhập 10 Địa.
Pháp
Hoa Tam Muội ghi là :” Hành Giả ở hành tọa, trong lúc niệm tụng, thân
tâm lặng lẽ giống như hư không, vào các Tịch Định. Ở trong Chính Tuệ,
diện kiến Phổ Hiền Bồ Tát cỡi voi trắng 6 ngà cùng với vô lượng Bồ Tát
tự vây quanh. Dùng nơi vui nhìn của tất cả chúng sinh mà hiện trước mặt
người ấy. Vì thấy Phổ Hiền Bồ Tát cho nên liền được Tam Muội với Đà La
Ni Tam Muội”
Tam
Muội là Định. Đà La Ni là Tuệ. Tức là Định Tuệ nhị căn tĩnh tướng vậy.
Cần nên tham khảo thêm 3 Phẩm Tất Địa trong Kinh Tô Tất Địa.
CHUẨN ĐỀ TAM MUỘI HÀNH PHÁP
( Hết )
18/07/2004
VẠN TỰ TỤC TẠNG KINH_ No.1482 ( Tr.559 _
Tr.563 )
ĐẠI CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT PHẦN TU TẤT ĐỊA
SÁM HỐI HUYỀN VĂN
Việt dịch : HUYỀN THANH
Tịnh khẩu Chân Ngôn:
Aùn_ Tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị,
sa bà ha
OMÏ TURE TURE MAHÀ TURE TUTTURE
SVÀHÀ
Tịnh Thân Chân Ngôn:
Aùn _ đa lị, đa lị, đốt đa lị, đốt đốt đa
lị, sa bà ha
OMÏ TÀRE TÀRE TUTTÀRE TUTTUTTÀRE
SVÀHÀ
Tịnh Thủ ( Bàn tay ) Chân Ngôn:
Aùn _ Trụ khư la dã, sa bà ha
OMÏ SUKARÀYA SVÀHÀ
( Các phần trên đều niệm 3 biến )
Vào Đàn ba lễ ( Trước tiên đủ số, quỳ
gối, thắp hương, đứng dậy bưng lò, tưởng là )
Chí Tâm tín lễ Chuẩn Đề Đại Bồ Tát trụ
Diệu Nguyệt Luân Tam Ma Địa, mặt tròn như trăng đầy, thần phần có 18
cánh tay, hiện Từ Bi, ngồi đài sen, cầm vật báu, thể đeo châu Anh Lạc,
lồng ngực đề chữ Vạn ( ) có 8 vị Đại Bồ Tát vây quanh hộ vệ, mở
môn Đại Tổng Trì , đều tế độ các Duyên, Nguyện cùng quy về Diệu Chân
như lối nẻo của Chính Giác
(Tưởng xong, quỳ dài, tác Phạn Xướng là )
Đại Từ Đại Bi thương chúng sinh
Đại Hỷ Đại Xả cứu Hàm Thức
Tướng tốt, ánh sáng tự trang nghiêm
Chúng Đẳng chí Tâm quy mệnh lễ
( Nhất Tâm phụng thỉnh )
Nam mô thường trụ thập phương Phật
Nam mô thường trụ thập phương Pháp
Nam mô thường trụ thập phương Tăng
( Mỗi lần đứng, quỳ dài, đốt hương, 3 lần
thỉnh một lần cúi đầu . Phía dưới mô phỏng theo điều này )
Nam mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Cửu
Giới Bồ Tát
Nam Mô Vô Tướng Pháp Giới Bồ Tát
Nam mô Phật Đỉnh Đại Luân Bồ Tát
Nam mô Bất Động Tôn Vương Bồ Tát
Nam mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát
Nam mô Bất Không Quyến Sách Bồ Tát
Nam mô Kim Cương Thủ Bồ Tát
Nam mô Y Ca Nhạ Tra Bồ Tát
Nam mô Phộc La Nẵng Khế Bồ Tát
Nam mô Hý, Mạn, Ca, Vũ Bồ Tát
Nam mô Hương, Hoa, Đăng,Đồ Bồ Tát
Nam mô Câu, Sách, Tỏa, Linh Bồ Tát
Nam mô Ô Xu Sắt Ma Bồ Tát
Nam mô Thánh Giáng Tam Thế Bồ Tát
Nam mô Chuẩn Đề Hội Thượng Chư Tôn Bồ Tát
Ma Ha Tát
_ Nam mô Tổ Sư Long Thọ Bồ Tát
Nam mô Bắc Thần Diệu Kiến Bồ Tát
Nam mô Nội Bộ Đại Uy Đỗ Tướng Chủ Bồ Tát
Nam mô Thánh Tôn Na Lý Tướng Chủ Bồ Tát
Nam mô Đỉnh Hạnh Tướng Chủ Bồ Tát
Nam mô Thánh Quân Tra Lị Tướng Chủ Bồ Tát
Nam mô Căng Yết La Tướng Chủ Bồ Tát
Nam mô Thánh Chế Sất Ca Tướng Chủ Bồ Tát
Nam mô A Lê Trí Mẫu Tướng Chủ Bồ Tát
Nam mô Càn Đạt Bà Vương Tướng Chủ Bồ Tát
Nam mô Quán Đỉnh Bộ Chủ Bồ Tát
Nam mô Uế Tích Kim Cương Bồ Tát
Nam mô Minh Xà Sứ Giả Bồ Tát
Nam mô Hộ Pháp Chư Thiên, nhất thiết
Thánh Chúng
( Thỉnh xong, thưa bạch rằng )
Đệ Tử ( Họ Tên…. ) trì tụng Thất Câu
Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Đại Chuẩn Đề Đà La Ni mong cầu Tất Địa.
Nguyện xin mười phương Tam Bảo,các Đại Bồ Tát, vô lượng Thánh Chúng gia
trì hộ niệm khiến cho tùy ý viên mãn Tất Địa mong cầu
( Thưa bạch xong, tán rằng )
Thân Phật tràn đầy nơi Pháp Giới
Hiện ngay trước mặt các Quần Sinh
Tùy Duyên phó cảm, theo chẳng trọn
Mà thường ở tòa Bồ Tát này
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Thập Thất Câu Chi Chính Đẳng Giác
( Một bái, phần sau giống như vậy )
Khuôn mặt Bồ Tát như trăng đầy
Sắc tướng trắng vàng rất đoan nghiêm
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện thấy Tôn nhan thường cúng dường
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Trên mặt Bồ Tát có ba mắt
Như bốn biển lớn thật lặng trong
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được năm loại mắt thanh tịnh
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tai Bồ Tát đeo báu trang sức
Mọi thứ thù thắng rất trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Nhĩ Thông , nghe Diệu Pháp
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Lồng ngực Bồ Tát hiện chữ Vạn
Như trăng tròn diệu hiển quang minh
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện được Tâm Thông, nghe liễu ngộ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát đội mão hoa trên đỉnh
Trong mão hóa hiện năm Như Lai
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Từ Tôn ban quán đỉnh
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát khoác áo màu trắng tinh
Sáu Thù đeo thể thật trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được quần áo khéo giải thoát
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Thân Bồ Tát đeo Châu Anh Lạc
Tay, ngón đeo vòng báu trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện đủ băm hai ( 32 ) tướng Như Lai
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát ngồi thẳng trên hoa sen
Lớn cao chẳng động tựa núi vàng
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện sau sẽ ngồi tòa Bồ Đề
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Mọi chi phần trên thân Bồ Tát
Thường phóng vô lượng ánh sáng lớn
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Từ Quang đến hộ niệm
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát kết Ấn Thuyết Pháp
Biểu thị khéo nói tất cả Pháp
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện được các Pháp đều thông đạt
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm Phướng báu diệu
Biểu thị Thế Gian là Tối Thắng
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện con hay dựng Phướng Đại Pháp
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát kết Ấn Thí Vô Úy
Dìu dắt chúng sinh bị hiểm nạn
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con mau lìa sự đáng sợ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm hoa sen diệu
Biểu thị sáu căn thường thanh tịnh
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con lìa dơ ( ly cấu ) như hoa sen
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm kiếm Trí Tuệ
Hay chặt trói buộc của phiền não
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con chặt đứt Tham, Sân, Si
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay bồ Tát cầm bình Táo Quán ( rưới vảy )
Tuôn nước Cam Lộ thấm chúng sinh
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thường được Phật quán đỉnh
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát cầm tràng hoa màu nhiệm
Mọi thứ trang điểm thật thù thắng
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện con được buộc lụa Diệu Pháp
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát cầm sợi dây Kim Cương
Khéo hay dẫn nhập vào tất cả
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con được vào Pháp tương ứng
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm quả Thiên Diệu
Biểu thị viên thành quả Bồ Đề
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con rộng tu các quả lành
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát cầm bánh xe tám căm
Uy quang chiếu diệu khắp Tam Giới ( 3 cõi
)
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thường chuyển Đại Pháp Luân
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm cây búa lớn
Hay phá Pháp Bất Thiện bền chắc
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con đập nát núi Nhân Ngã ( Người
và Ta )
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm Loa Đại Pháp
Âm thanh chấn động ba ngàn cõi
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con hay nói tất cả Pháp
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát cầm móc câu Kim Cương
Khéo hay câu triệu khắp tất cả
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thành tựu Pháp Câu Triệu
Chí Tâm Đỉnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm Bình Như Ý
Tuôn ra Tạng báu với Kinh Điển
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thọ dụng thường như ý
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm chày Kim Cương
Tám Bộ Trời Rồng đều quy ngưỡng
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con điều phục kẻ khó phục
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Tay Bồ Tát cầm Kinh Bát Nhã
Hàm chứa nghĩa vi diệu thâm sâu
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con không Thầy tự nhiên ngộ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản
Tôn Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Bồ Tát cầm viên ngọc Ma Ni
Hào quang tròn trắng không tỳ vết
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện Tâm Địa con luôn lanh lợi
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản
Tôn Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
Phật Mẫu Tôn Na Đại Bồ Tát
Hiện mười tám tay ngồi trên Đàn
Tám Đại Bồ Tát hộ tám phương
Đệ Tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
( Các Vị bên trên tùy theo Kệ giải Tướng
, Lễ, Thời. Tác Quán chỉ giữ lấy Bản Tôn đầy đủ tướng tốt, 177 Câu Chi
số Phật đồng thời biểu hiện nhận sự kính lễ của ta. Phàm Bản Tôn thì nên
quán một thân 18 cánh tay, có 8 vị Đại Bồ Tát vây quanh 8 phương. Còn
lại tùy Kệ tác quán, quan trọng là bàn tay cầm vật gì )
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Giáo
Chủ Vô Tướng Pháp Giới Bồ Tát Ma Ha Tát
( Trước tiên xướng Kệ , sau đó đỉnh lễ.
Còn lại mô phỏnh theo điều này )
Vô Tướng Pháp Giới Đại Bồ Tát
Ba mươi hai tướng trang nghiêm khắp
Thân phần trần sát hóa chúng sinh
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Phật Đỉnh Đại Luân Bồ Tát Ma Ha Tát
Phật Đỉnh Đại Luân Đại Bồ Tát
Ba đầu sáu tay hiện uy thần
Nghiêm trì khí trượng phục ( Giáng phục )
Tà Ma
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Bất Động Tôn Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
Bất Động Tôn Vương Đại Bồ Tát
Tỳ Lô Giá Na Phật hóa thân
Tay cầm kiếm, dây hộ Luân Đàn
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát
Thánh Quán Tự Tại Đại Bồ Tát
Liên Hoa Bộ Chủ Tối Thắng Vương
Tầm Thanh Cứu Khổ Đại Từ Bi
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bãn Tôn
Giáo Chủ Bất Không Quyến Sách Bồ Tát Ma Ha Tát
Bất Không Quyến Sách Đại Bồ Tát
Tỵ Hư Hỏa Diễm Đỉnh Long Vương
Hóa Thân của Bồ Tát Quán Aâm
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thánh Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát
Thánh Kim Cương Thủ Đại Bồ Tát
Đại Lực Phẫn Nộ Trì Minh Vương
Khéo hay điều phục các Ma ác
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Y Ca Nhạ Tra Bồ Tát Ma Ha Tát
Y Ca Nhạ Tra Đại Bồ Tát
Thân lớn màu xanh, áo da voi
Chẳng ngược Bản Thệ hộ Chuẩn Đề
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Phộc La Nẵng Khế Bồ Tát Ma Ha Tát
Phộc La Nẵng Khế Đại Bồ Tát
Hiện uy lực lớn khiển ( Sai khiến ) Long
Thần
Lại hay trừ độc cứu chúng sinh
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Hý Mạn Ca Vũ Bồ Tát Ma Ha Tát
Hý Mạn Ca Vũ Đại Bồ Tát
Hành Cương Bộ Đẩu ( Các sao Thiên Cương
Bắc Đẩu ) trấn chín châu
Trừ sạch nghiệp ác, đuổi Tà Ma
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Hương Hoa Đăng Đồ Bồ Tát Ma Ha Tát
Hương Hoa Đăng Đồ Đại Bồ Tát
Thơm lừng chiếu diệu khắp bốn phương
Các Tà nghe thấy đều khép nép
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Câu Sách Tỏa Linh Bồ Tát Ma Ha Tát
Câu Sách Tỏa Linh Đại Bồ Tát
Tay cầm Pháp Khí trấn Bắc phương
Quần Ma, Quỷ ác đều ẩn nấp
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Cam Lộ Quân Tra Lị Bồ Tát Ma Ha Tát
Cam Lộ Quân Tra Lị Đại Bồ Tát
Gia trì nước Pháp, tĩnh Đàn Trường
Tịch trừ Ma Chướng hộ Hành Nhân
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Ô Xu Sắt Ma Bồ Tát Ma Ha Tát
Ô Xu Sắt Ma Đại Bồ Tát
Tiêu trừ uế ác, tịch Quần Ma
Chốn Tịnh, Bất Tịnh đều hiện thân
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thánh Giáng Tam Thế Bồ Tát Ma Ha Tát
Thánh Giáng Tam Thế Đại Bồ Tát
Đại Lực Phẫn Nộ Trì Minh Vương
Khéo hay giáng phục các Ma ác
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Ngã
Đẳng Tổ Sư Long Thọ Bồ Tát Ma Ha Tát
Tổ Sư Long Thọ Đại Bồ Tát
Mở Tạng Trì Minh độ chúng sinh
Được nghe Diệu Pháp, cảm ân Tổ
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Hộ Pháp
Bắc Thần Diệu Kiến Bồ Tát Ma Ha Tát
Bắc Thần Diệu Kiến Đại Bồ Tát
Thân hiện năm Trụ Kim Cương Thần
Tay cầm kiếm báu phục Yêu Ma
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Nội Bộ
Đại Uy Đổ Tướng Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát
Đại Uy Tướng Chủ Đỗ Bồ Tát
Nội Đàn Giáo Chủ hộ Chuẩn Đề
Bay nhảy ( Phi đằng ) chín Địa hiển Thần
Thông
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Nội Bộ
Tướng Chủ Thánh Tôn Na Lý Bồ Tát Ma Ha Tát
Thánh Tôn Na Lý Đại Bồ Tát
Ba đầu sáu tay hiện ánh vàng
Từ Bi cứu khắp Đại Càn Khôn
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Đỉnh
Hạnh Tướng Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát
Đỉnh Hạnh Tướng Chủ Đại Bồ Tát
Thống lãnh Chư Chân hộ Chuẩn Đề
Tay cầm gậy báu phục Yêu Ma
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn
Giáo Chủ Thánh Quân Tra Lị Tướng Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát
Thánh Quân Tra Lị Đại Bồ Tát
Ngoại Đàn Hộ Pháp trải uy linh
Tay cầm cây Kích trấn Đàn Trường
Đệ tữ một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Thánh
Căng Yết La Bồ Tát Ma Ha Tát
Thánh Căng Yết La Đại Bồ Tát
Tay cầm Quả Báu độ chúng sinh
Tầm Thanh Tiếp Dẫn Đại Từ Bi
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Thánh
Chế Sất Ca Bồ Tát Ma Ha Tát
Thánh Chế Sất Ca Đại Bồ Tát
Phẫn Nộ Diệu Tướng chấn tám phương
Lòng son ( Xích Tâm ) rực lửa trăm Tà sợ
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi A Lê
Trí Mẫu Bồ Tát Ma Ha Tát
A Lê Trí Mẫu Đại Bồ Tát
Năm trăm Thần Linh Thuộc ( giòng tộc Thần
Linh ) giáng sinh
Aùi Tử Chân Đồng tùy thân Thánh
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Quán
Đỉnh Bộ Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát
Quán Đỉnh Bộ Chủ Đại Bồ Tát
Rộng ban Cam Lộ thấm chúng sinh
Mười phương Thiện Tín đều thấm sũng
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Uế Tích
Kim Cương Bồ Tát Ma Ha Tát
Uế Tích Kim Cương Đại Bồ Tát
Dọc ngang biến hóa phục Tà Ma
Đất nước gió lửa đều hiện hình
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Minh Xà
Sứ Giả Bồ Tát Ma Ha Tát
Minh Xà Sứ Giả Đại Bồ Tát
Thiên Y ( Thuốc của cõi Trời ) Nội Viện
hiển uy linh
Tiêu tai trừ độc cứu chúng sinh
Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Hộ Pháp
chư Thiên nhất thiết Thánh Chúng
Hộ Pháp chư Thiên các Thánh Chúng
Mười phương vây quanh hộ Luân Đàn
Chẳng quên Tự Bộ, giỡn Aán Minh
Giúp con xiển dương Pháp Chuẩn Đề
Cúi lạy quy y Tô Tất Địa
Đầu mặt đỉnh lễ bảy Câu Chi
Nay con xưng tán Đại Chuẩn Đề
Nguyện xin Từ Bi thương gia hộ
Nẵng mô tát đá nẫm, tam miệu tam bồ đà,
câu chi nẫm. Đát điệt đà : Aùn, chiết lị chủ lị, chuẩn đề, sa phộc hạ
( Hoặc 1 hoặc 3 hoặc 7 biến đồng ra khỏi
Đàn. Nếu tại Quán Đường thì trì 108 biến )
NAMO SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA
KOTÏINÀMÏ
TADYATHÀ : OMÏ CALE CULE CUNÕDHE
SVÀHÀ
Nguyện Phật Từ Bi cầu sám hối
Chí Tâm Sám Hối
Đệ tử ( Họ Tên…… ) từ vô thủy đến nay
trải qua nhiều Đại Kiếp. Do mê lầm Vô Ngã Giác nên tính có Ta
Người. Thường duyên theo Ngã Sở , Căn, Trần tạo nhiễu. Thức Aám bôn ba
cột buộc lay động thân tâm giống như điện chuyển . Mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý thanh tịnh một niệm chẳng Giác . Trái lại gây tạo Lục Sư
, ăn trộm Pháp Vương Tài cộng với giặc Biên Kiến. Giặc đã
lớn mạnh ắt phá thành trì Niết Bàn, tán hại Pháp Thân , thiêu đốt
Tuệ Mệnh…Tội lỗi như vậy, số nhiều hơn cát bụi, từ mê đến mê , không suy
xét đầu cuối.
Nay bắt đầu Giác Ngộ, tự chặt khối lỗi
thâm sâu, ngày đêm sợ hãi, thân tâm run rẩy, vĩnh viễn cắt đứt : Mê
Giác, tham ái ,Ngã Nhân … hợp thành trì Niết Bàn, quy về nước An
Lạc. Dùng Vô Ngã Giác ( sự hiểu biết Vô Ngã ) giáng phục Lục Sư (
6 luận thuyết Ngoại Đạo ) , lấy Pháp Vương Tài ( Tài sản của Pháp Vương
) , nạp 3 Kiên Tạng ( 3 Tạng bền chắc ) , nuôi dưỡng Tuệ Mệnh , tăng ích
Pháp Thân, thắp đèn Pháp Tính, thường chiếu vô tận. Hạnh Nguyện Sự Lý,
Trần Giới chẳng nghịch . Thề sẽ hoằng hộ 3 báu 3 Thừa. Tội của Mê Giác
tùy Sám tiêu trừ .
Nguyện từ ngày nay cho đến Bồ Đề, niệm
niệm kiên cố, niệm niệm tinh tiến, thân tâm tự tại, biện thuyết vô ngại,
ở trong một niệm đủ Nhất Thiết Trí. Nên biết Rốt ráo Không Tịch mà
thường độ thoát tất cả chúng sinh đồng chứng Niết Bàn. Chẳng dùng
Niết Bàn làm chỗ Chứng.
ĐẠI LUÂN MINH VƯƠNG DIỆT TỘI CHÂN NGÔN:
Nam mô tất địa lý dã địa vĩ ca nẫm, đát
đá nghiệt đá nẫm. Aùn, vi la chỉ, vi la chỉ, ma ha chước yết la, bạch
nhạ bạch tức lị, tát đỏa tát đỏa, sa la để, sa la để, đát la lị, đát la
lị, vĩ đá ma nĩnh, tam bát tả nĩnh, đát la ma ni tất đa, nghiệt lị dã,
đát lãm diễm, sa bà ha
NAMAHÏ STRYIDHVIKANÀMÏ TATHÀGATÀNÀMÏ
AMÏ _ VIRAJI VIRAJI _ MAHÀ CAKRA VAJRI
_ SATA SATA _ SARATE SARATE _ TRAYI TRAYI _ VIDHAMANI SAMÏBHAMÏJANI
_ TRAMATI SIDDHA _ AGRIYE TRÀMÏ _ SVÀHÀ
Sám hối xong. Chí Tâm quy mệnh lễ Thường
Trụ Tam Bảo.
Chí Tâm phát nguyện
Nguyện điều con tu hành
Tất cả các Quả lành
Lễ niệm quy lực Sám
Hồi thí các Hữu Tình
Xa lì khổ ba cõi ( Tam Giới )
Mau chứng nơi Niết Bàn
Hồi hướng Ngã Sở Cầu ( sự mong cầu của
con )
Trợ thành Thắng Tất Địa
Phát nguyện, hồi hướng xong. Chí Tâm quy
mệnh Thường Trụ Tam Bảo
Quy y các Như Lai ( 4 câu 1 bái )
Năm Trí , mười Thân Phật
Nguyện cùng các chúng sinh
Đồng vào Kim Cương Giới
Quy y Tối Thượng Thừa
Du Già Bí Mật Giáo
Nguyện cùng các chúng sinh
Đồng vào Kim Cương Giới
Quy y Bấy Thoái Chuyển
Đại Bi Bồ Tát Tăng
Nguyện cùng các chúng sinh
Đồng vào Kim Cương Giới
Quy y Tam Bảo xong
Các Công Đức có được
Hồi thí các Hữu Tình
Cùng thành Đạo Vô Thượng
Như trên đỉnh lễ Đại Chuẩn Đề Bồ Tát
Phần ( Thiêu Đốt ) Tu Tất Địa Sám Hối Huyền Văn . Công Đức viên mãn,
nhân lành vô hạn, rải thấm Sa Giới, hòa khắp Thánh Chúng
( Hành Giả vào Quán, lúc tụng trì thời
trước tiên nên biết rõ chư Phật, Chúng Sinh và Ta. Tâm này đồng một
viên minh.
Bền vững tìm tòi hoành biến.Một niệm hiện
tiền đầy đủ Vô Diệt, Vô Nhị, Vô Biệt mà thường an trụ cảnh giới
thâm sâu. Nhớ đem lại sự an vui cho chúng Hữu Tình. Dùng 3 Mật tương ưng
mà tác Tất Địa.
Xong nơi bày Quán trong Trì niệm , tuy có
nhiều nhưng chẳng vượt qua tiếng của chữ Phạn, Tướng chung Tướng riêng.
Lại nữa xa lìa Năng Quán, Sở Quán, Năng
Trì, Sở Trì , một sự một Lý đều là Lý Cảnh bí mật chẳng thể luận bàn.
Hành trì như vậy mà Phật Quả chẳng tròn, tội chướng chẳng diệt, Tất Địa
chẳng thành ư ? !...)
Thuận Trị, Nhâm Thìn, Quý Hạ ( Cuối mùa
hè )
Đệ Tử ĐỈNH KHIÊM Pháp Danh HOẰNG TUỆ từ
Mân Trung Tam Sơn chân thành mô phỏng HUÂN MỘC ghi khắc lần nữa
17/06/2004