PHẬT NÓI KINH HƯNG KHỞI HẠNH
- Hán dịch:
Hậu Hán Tam Tạng Khương Mạnh Tường
- Việt dịch: Thích
Chánh Lạc
Chứng nghĩa: Tỳ kheo
Thích Ðồng Minh.
---o0o---
Bài tựa
Núi Côn Lôn là trung tâm của
đất Diêm Phù Lợi. Núi này toàn là đá quý, chung quanh có năm trăm hang
động, mỗi hang động đều có vàng ròng. Năm trăm vị La hán thường sống ở đó,
có con suốt tên là A Nậu tại đây. Bên ngoài là núi bao bọc, bên trong là
núi đất bằng, con suối ở chính giữa, trên bờ suối toàn là vàng ròng. Nhờ
bốn loại thú phun nước từ miệng, mỗi vòi phun ra chảy quanh một vòng rồi
trở vể chỗ cũ, xong đổ ra bốn biển. Nước từ miệng con voi phun ra chính là
sông Hoàng Hà. Dòng suối này vuông vức hai mươi lăm Do diên, sâu ba quyết
liệt, mỗi quyết liệt là bảy dặm. Trong suối này có một cái đài vàng vuông
vức một Do diên, trên đài có hoa sen vàng, cành hoa bằng bảy loại báu.
Ðức Như Lai dẫn năm trăm vị
La hán, thường vào ngày rằm mỗi tháng thuyết giới trên đài báu ấy. Nhân
tôn giả Xá Lợi Phất hỏi đức Phật về mười nhân duyên đời quá khứ, sau đó
vào ngày rằm, đức Phật nói kiếp trước của Ngài cho các đệ tử, nói xong thì
kết thúc. Như vậy cho đến chín lần, cho nên mười lần hỏi mà chỉ có chín
lần trả lời mà thôi, dùng cây giáo nghĩa để dạy người đời nhân duyên kiếp
trước đã tạo ra thì không thể trốn tránh được.
Vả lại trong suối A Nậu
không phải là người có thân hình hữu lậu mà có thể đến đó được. Sở dĩ đức
Phật ân cần dặn bảo tôn giả Xá Lợi Phất là vì Ngài muốn giáo hoá loài Rồng
vậy.
PHẬT NÓI KINH
HƯNG KHỞI HẠNH.
Quyển Thượng.
Nghe như vầy: Một
thời, |
Phật ở nước Ma Kiệt |
Vì các loài chúng sanh |
Dừng chân trong vườn
Trúc |
Phật bảo các Tỳ kheo |
Và La hán thần túc |
Ðều ôm bát khất thực |
Ðồng đến suối A Nậu |
Ngang qua nước Ngũ
Tánh |
Dẫn các chúng Tỳ kheo |
Cùng khất thực trong
đó |
Năm trăm vị Tỳ kheo |
Dùng thần túc bay đến |
Tỳ kheo tăng đoanh vây |
Ðến suối lớn A Nậu |
Thế Tôn ngồi ở giữa |
Thế Tôn thọ thực rồi |
Tỳ kheo mới thọ thực |
Ngay khi đang thọ thực |
Mặt đất chấn động mạnh |
Tỳ kheo hỏi Thế Tôn: |
–Sao mặt đất chấn
động? |
Ðức Thế Tôn liên nói: |
–Ðộng vì thương chúng
sanh |
Ðịa ngục có tội nhân |
Làm các hạnh nghịch ác |
Có ngàn người quỷ thần |
Chặt đứt hai xương
sườn |
Không chút nào dừng
nghỉ! |
Với búa rìu cháy đỏ |
Chặt ngót cả ngàn năm |
Hết sức mới chịu đứt |
Hỏi rằng bị tội gì? |
Bị khổ thống như vậy? |
Xương sườn này lớn lắm |
Khiến mặt đất chấn
động! |
Người này ở thế gian |
Hay ưa dâm vợ người |
Bởi vì tham sắc dục
|
Lại giết thanh tín sĩ |
Do vì túc duyên này |
Nên thọ thân to lớn |
Có ngàn người quỷ thần |
Thường chặt hai bên
sườn! |
Thế Tôn nói như vậy |
Rồi Ngài hỏi bốn
chúng: |
Các người gieo nhân gì |
Mỗi người hãy tự nói? |
Thần thông đại đệ tử |
Thay Phật chuyển Pháp
luân |
Trí huệ Xá Lợi Phất |
Ðứng dậy hỏi Thế Tôn |
–Thế Tôn không ai bằng
|
Không việc gì không
biết |
Thế Tôn tự nói trước |
Các nhân duyên đời
trước |
Tôn Ðà Lợi hủy báng |
Mong được sự kính nể |
Vô cớ hủy báng Phật |
Ðó là nhân duyên gì? |
Sanh Xa Di Bạt Ðề? |
Năm trăm Tỳ kheo này |
Vô cớ cùng phỉ báng |
Ðó là nhân duyên gì? |
Sao lại bị đau đầu |
Khi giết hại ngũ thân? |
Các chi tiết đau nhức |
Và bị cứng xương sống |
Dùng gươm đâm vào chân |
Bị Ðiều Ðạt đôi đá |
Làm dập ngón chân cái |
Ðó là nhân duyên gì? |
Bị đồng nữ nhiều lời |
Ðộn bụng cho to lên |
Vô cớ đến hủy báng |
Ở trước mặt mọi người? |
Lại ở ấp Tỳ Lan |
Ba tháng ăn luá ngựa |
Phạm chí Quốc sư thỉnh |
Ðó là nhân duyên gì? |
Ở nơi Uất Bí Ðịa |
Sáu năm tu khổ hạnh |
Ðứt hơim thiền ốm yếu |
Ðó là nhân duyên gì? |
Xin Thế Tôn diễn
thuyết |
Xá Lợi Phất lắng nghe |
Nay xin Phật nói rõ |
Ðời trước làm hạnh gì? |
1. Phật nói kinh Nhân
duyên kiếp trước của Tôn Ðà Lợi.
Nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại con suối
A Nậu cùng với năm trăm vị Ðại Tỳ kheo đều là bậc A la hán, lục thông thần
túc, có tiếng tăm lớn, đoan chánh, đẹp đẽ, đều có các tướng: không cao,
không thấp, không trắng, không đen, không mậP, không ốm, màu sắc giống như
hoa sen hồng, có thể hàng phục tâm ý, chỉ trừ có một Tỳ kheo, đó là tôn
giả A-Nan.
Tôn giả Xá Lợi Phất từ tòa bằng hoa đứng
dậy, sửa y phục, trạch vai bên hữu, quỳ gối bên hữu trên tòa hoa sen, chấp
tay hướng về đức Phật, hỏi đức Thế Tôn rằng:
- Ðức Thế Tôn không có việc gì mà Ngài
không thấy, không có việc gì mà Ngài không nghe, không có việc gì mà Ngài
không biết. Thế Tôn là bậc không ai sánh bằng, đã diệt trừ các điều ác,
đầy đủ các điều thiện. Ðối với chư Thiên, Long, Thần, vua, quần thần và
nhân dân, tất cả chúng sanh Ngài đều muốn độ thoát. Bạch Thế Tôn, bây giờ
vì có những duyên hiện hữu còn sót lại, kính mong đức Phật tự nói duyên
này, khiến cho trời, người, chúng sanh nghe xong đều hiểu rõ. Vậy vì
nguyên nhuân gì mà Ngài bị Tôn Ðà Lợi đến hủy báng? Vì nguyên nhân gì bị
Xa Di Bạt đề hủy báng Ngài với năm trăm vị La hán? Vì nhân duyên gì mà
đức Thế Tôn bị đau đầu? Vì nguyên nhân gì mà xương cốt, tay chân đức Thế
Tôn bị đau nhức? Vì nguyên nhân gì mà xương cốt đức Thế Tôn bị cứng đờ? Vì
nguyên nhân gì mà Ngài bị cây gươm đâm vào chân? Do nhân duyên gì Ðịa Bà
Ðạt Ðâu lấy đá mé núi đôi Ngài? Vì nhân duyên gì cô gái Ða Thiệt (nhiều
lời) đọân bụng cho lớn, ở trong đại chúng hữu lậu, vô lậu, đến trước nói
lời hủy báng rằng:
- Vì sao không tự nói chuyện nhà cửa, mà
cứ nói chuyện người khác? Nay tôi sắp sanh, cần phải có dầu bơ để dùng?
Do nhân duyên gì mà ở ấp Tỳ Lan, Ngài và
năm trăm vị Tỳ kheo phải ăn lúa mạch? Do nhân duyên gì mà Ngài khổ hạnh
sáu năm tại Uất Bí Ðịa, rồi bảo:“Ta sẽ thành Phật”.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
- Hãy ngồi xuống tòa Hoa, ta sẽ nói các
nhân duyên đời trước cho nghe!
Tôn giả Xá Lợi Phất liền về ngồi lại chỗ
cũ. Khi ấy Ðại Long Vương A Nậu nghe đức Phật sắp nói về nhân duyên, vui
mừng hớn hở, liền làm cái lọng bảy báu ở giữa khoảng không để che đức
Phật. Trong cái lọng thì mưa hương bột Chiên đàn rưới khắp các tòa. Vô số
các Trời, Rồng, Qủy thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khần Na la, Ma
hầu na già, đều đến chỗ đức Phật, chắp tay đảnh lễ rồi đứng bao vây chung
quanh.
Bấy giờ đức Phật nói cho Tôn giả Xá Lợi
Phất nghe rằng:
- Ngày xưa, ở thời quá khứ, trong thành Ba
La Nại, có một diễn viên sân khấu tài ba tên là Tịnh Nhãn, giỏi nghề ca
hát. Khi ấy có một dâm nữ tên là Lộc Tướng, nhan sắc tuyệt vời, nghiêm
tịnh không ai bằng. Bấy giờ Tịnh Nhãn đi đấn chỗ Lộc Tướng nói với nàng
rằng:
- Chùng ta nên ra ngoài thành, vào trong
rừng cây, tìm chỗ đất tốt cùng nhau vui chơi chứ?
Cô gái thưa:
- Xin vâng!
Lộc Tướng liền trở về trang điểm y phục,
đến nhà Tinh Nhãn. Tịnh Nhãn liền chuẩn bị xe ngựa thật tốt cùng đi với
Lộc Tướng, ra khỏi thành Bà La Nại, đến một khu vườn, họ vui chơi với nhau
mãi cho đến trời tối. Tịnh Nhãn thấy y phục cô ta có kết ngọc quý mới sanh
lòng tham muốn giết cô ta để lấy y phục đó. Ông ta lại nghĩ:”Nếu giết cô
ta thì dấu thây ở đâu?”. Khi ấy ở trong vườn này có một vị Bích Chi Phật
tên là Lạc Vô Vi, ở cách đó không xa, Tịnh Nhãn lại nghĩ:”Vị Bích Chi Phật
này lúc sáng sớm đã vào thành khất thực, ta sẽ giết Lộc Tướng, chôn trong
am của vị ấy, rồi mang y phục trở về thì ai biết ta đâú”.
Sáng sớm vị Bích Chi Phật vào thành khất
thực, sau đó Tịnh Nhãn liền giết Lộc Tướng, cởi lấy y phục rồi chôn xác cô
ta trong am của Ngài Lạc Vô Vi, phả đất bằng phẳng như cũ rồi cởi xe vào
thành bằng cửa khác.
Khi ấy vị quốc vương của nước Ba La Nại là
Phạm Ðạt. Nhân dân của nước này không thấy Lộc Tướng ở đâu, họ mới đến tâu
với quốc vương:
- Chúng thần chẳng thấy Lộc Tướng ở đâu
cả!
Nhà vua liền triệu tập quần thần bảo họ
phải đến các nhà, các ngõ hẻm đường làng tìm cho ra Lộc Tướng. Các thần
vâng lệnh đi kiếm, nhưng kiếm khắp mà chẳng thấy Lộc Tướng ở đâu! Họ bèn
ra khỏi thành thì thấy bầy chim bay liệng ở trên rừng cây rất đông. Họ
liền suy nghĩ:” Ðã kiếm khắp trong thành mà chẳng thấy cô ta ở đâu cả. Có
lẽ chỗ này thôi!”. Vì vậy họ cùng nhau đến chỗ đó tìm kiếm. Họ đến trước
cái am của Lạc Vô Vi thì tìm được tử thi. Lúc ấy quần thần nói với Lạc Vô
Vi:
- Ngươi đã hành động bất tịnh, sao lại còn
giết người?
Vị Bích Chi Phật vẫn im lặng không trả
lời. Họ hỏi đến ba lần nhưng Ngài vẫn không trả lời. Ngài Lạc Vô Vi đặt
tay chân lên mặt đất, biết việc này là nhân duyên của đời trước nên Ngài
mới im lặng không đáp.
Khi ấy mọi ngươì mới bắt trói gô Ngài lại
để tra khảo hỏi cung. Bấy giờ vị thọ thần liền hiện ra nửa người, bảo tất
cả rằng:
- Ðừng có tra khảo người này.
Quần thần hỏi:
- Vì sao không tra khảo?
Thần đáp:
- Ðiều đó không có! Ngài không bao giờ
hành động như vậy.
Quần thần tuy nghe vị thần này nói như
thế, nhưng họ chẳng thèm để ý, họ dẫn Lạc Vô Vi đền chỗ vua, tâu rằng:
- Gã đạo sĩ này đã làm điều bất tịnh lại
còn giết ngườí!
Nhà vua nghe lời ấy tức giận, quát lớn,
bảo các đại thần thẩm tra xem gã đạo sĩ này đã làm điều phi pháp đến như
vậy sao?!. Nhà vua bảo quần thần:
- Phải trói gấp gã này vào Lạc Ðà, đánh
trống dẫn đi khắp nơi, sau đó đem ra cửa thành phía Nam, dắt tới một gốc
cây, lấy giáo đâm xuyên vào thân, treo lên đầu cây sào, dùng cung nỏ bắn
cho chết. Nếu không chết thì chặt đầu y đí!
Quần thần vâng lệnh, gấp cột Ngài vào con
Lạc Ðà, đánh trống rao khắp hang cùng ngõ hẻm. Những người trong nước thấy
vậy cho là chuyện lạ nên có người tin, có người vẫn không tin. Mọi người
tụ lại để xem thì thấy Lạc Vô Vi bị trói ngược trên con Lạc Ðà, mọi người
đi theo sau. Thấy vậy tâm ông suy nghĩ:”Vị đạo sĩ này vô cớ mà chết oan
uổng! Ðiều này chẳng phải nên có sự qúi kính sao. Chính tự tay ta giết Lộc
Tướng chứ không phải đạo sĩ giết. Vậy chính ta phải chịu tội chết mà để
cho đạo sĩ sống”. Tịnh Nhãn nghĩ như vậy xong, liền bước ra khỏi bức
tường, chạy theo mọi người, gọi vị thượng quan nói rằng:
- Ðừng giết đạo sĩ ấy! Không phải đạo sĩ
ấy giết Lộc Tướng đâú chính tôi mới là người giết cô ta. Vậy xin các Ngài
hãy thả vị đạo sĩ này ra. Hãy trói tôi lại, tùy theo tội mà sử trị.
Lúc ấy các vị quan đều kinh ngạc, bảo
rằng:
- Vì ao ngươi lại có thể chịu tội thay thế
người khác được?
Họ liền mở trói cho vị Bích Chi Phật, rồi
bắt Tịnh Nhãn trói ngược lại như họ đã làm với đạo sĩ. Bấy giờ các Thượng
quan...đều hướng về Bích Chi Phật cầu xin sám hối, rằng:
- Bọn con ngu si, vô cớ mà làm đạo sĩ khốn
đốn một cách oan uổng. Mong Ngài lấy lòng từ bi mà tha tội cho chúng con.
Ðừng để cho tương lai chúng con phải gánh láy tội nặng.
Họ nói như vậy ba lần, nhưng vị Bích Chi
Phật Lạc Vô Vi vẫn im lặng không trả lời. Vị Bích Chi Phật suy nghĩ
rằng:”Ta không nên vào thành Ba La Nại khất thực nữa, ta phải nên diệt độ
ở đây, truớc mọi người”. Vị Bích Chi Phật liền ở trước mọi người nhảy lên
hư không, đi qua đi lại, ngồi nằm rồi đứng, từ dưới eo lưng thì khói phun,
trên eo lưng thì phun lửa; hoặc dưới eo lưng thì phun lửa, trên eo lưng
thì phun khói: hoặc bên hông trái thì phun khói, bên hông phải thì phun
lửa; hoặc bên hông trái phun lửa, bên hông phải phun khói; hoặc trước bụng
thì phun lửa, trên lưng thì phun khói; hoặc trước bụng thì phun khói, trên
lưng thì phun lửa; hoặc từ eo lưng trở xuống thì phun lửa, eo lưng trở lên
thì phun nước; hoăc eo lưng trở xuống phun nước, eo lưng trở lên thì phun
lửa; hoặc hông trái phun lửa, hông phải phun nước; hoặc hông trái phun
nước, hông phải phun lửa; hoăc trước bụng phun nước, trên lưng lưng phun
lửa; hoặc trước bụng phun lửa, trên lưng phun nước; hoăc vai trái phun
lửa, vai phải phun nước; hoặc vai trái phun nước, vai phải phun lửa; hoạêc
cả hai vai phun đều nước; hoặc cả hai vai phun đều lửa. Sau đó toàn thân
phun khói, toàn thân phun lửa, toàn thân phun nước. Ngay khi đó, ở trên
không, Ngài thiêu thân diệt độ.
Bấy giờ đại chúng thảy đều sót thương rơi
lệ, hoặc có người sám hối, hoặc có người đảnh lễ. Họ thu lấy xá lợi, dựng
bảo tháp ở ngã tư đường.
Bấy giờ các thượng quan liền dẫn Tịnh Nhãn
đến chỗ vua Phạm Ðạt tâu rằng:
- Chính người này đã giết Lộc Tướng chớ
không phải là đạo sĩ.
Nhà vua tức giận. Liền quở quan Giám Ty:
- Lúc trước tại sao ngươi dôí tâu việc
không thật rằng:” Ðây là kẻ giết người”, nay lại nói là không phải, khiến
cho ta trở thành con người lừa dối, gây oan uổng, khốn khổ cho đạo sĩ?
Quần thần tâu vua:
- Khi ấy thần đã nhiều lần hỏi đạo sĩ:
“Sao lại giết người?”, nhưng lúc ấy đạo sĩ vẫn cứ im lặng, chẳng thấy trả
lời gì cả. Lại còn đặt tay sát đất nữa. Vì vậy chúng thần bảo đó là kẻ sát
nhân.
Bấy giờ vua ra lệnh cho vị đại thần:
- Cột người này lên con Lạc đà, vào thành
phía Nam, lấy mâu đâm vào, sau đó lấy cây sào đâm lên đến đầu, rồi lấy tên
mà bắn. Nếu chưa chết thì chặt đầu để kết thúc đời người này.
Các quần thần vâng lệnh, liền dắt con Lạc
đà đã trói Phạm nhân dẫn đi đánh trống khắp nơi, đem ra thành phía Nam lấy
mâu đâm xuyên thân bằng cây nhọn, dùng cung để bắn, sau đó thì chặt đầu
con người ấy.
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
- Ngươi có biết Tịnh Nhãn lúc đó là ai
chăng? Chính là thân của ta. Này Xá Lợi Phất! Ngươi có biết Lộc Tướng lúc
đó là ai chăng? Ðó chính là Tôn Ðà Lợi bây giờ vậy. Này Xá Lợi Phất! Ngươi
có biết vua Phạm Ðạt lúc đó là ai chăng? Ðó chính là chấp trượng dòng họ
Thích bây giờ vậy.
Này Xá Lợi Phất, lúc xưa ta đã giết Lộc
Tướng, làm oan uổng, khốn khổ cho vị Bích Chi Phật, vì tội ác như vậy cho
nên trải qua vô số ngàn năm, ta đã bị chưng nấu trong địa ngục, rồi bị leo
lên rừng kiếm. Vô số nààn năm ta đã trong loài súc sanh, vô số ngàn năm ta
đã ở trong loài qủy đói. Cái tai ương ta sót lại lúc ấy, đến nay tuy ta đã
thành Phật mà vẫn bị Tôn Ðà Lợi hủy báng.
Bấy giờ đức Phật tự nói về nhân duyên kiếp
trước của mình bằng bài kệ:
Trước ta tên Tịnh Nhãn |
Là diễn viên sân khấu |
Bích Chi tên Lạc Vô |
Không bị tội khốn khổ |
Ngài là chơn tịnh hạnh |
Bị chúng làm ưu não |
Huỷ nhục và bắt trói |
Muốn đem ra khỏi thành |
Ta thấy Bích Chi Phật |
Bị khốn nhục trói buộc |
Nên khởi lòng từ bi |
Ðể Ngài được giải
thoát |
Do nhân duyên như vậy |
Mãi thọ khổ địa ngục |
Tai ương còn sót lại |
Nay mới bị huỷ báng |
Ta nay hết tái sanh |
Chấm dứt ngay đời này |
Ngồi đây Tôn Ðà Lợi |
Mới đến để huỷ báng |
Nhân duyên không thể
thoát |
Cũng chẳng thành hư
không |
Nên giữ ba nhân duyên |
Trước sau không vi
phạm |
Ta tự thành Tôn Phật |
Ðược làm tướng ba cõi |
Nên nói nhân duyên
trước |
Trong suối lớn A Nậu. |
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi xem đức Như Lai, các điều ác đã
hết, các điều thiện đầy đủ, có thể hoá độ Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời
Ðế Thích, quần thần nhân dân, cho đến loài bò, bay, máy, cựa, Ngài đều
khiến cho được đắc độ vô vi an lạc. Tuy Ngài có công đức nhu vậy nhưng vẫn
không thoát khỏi nhân duyên kiếp trước. Huống chi kẻ ngu si tăm tối chưa
đắc đạo, không thu nhiếp thân, miệng và ý, bọn người ấy sẽ như thế nào?
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi nên học như vậy, và các La hán với
tất cả chúng sanh phải hộ trì ba lỗi ở thân, bốn lỗi ở miệng và ba lỗi ở
ý. Này Xá Lợi Phất! Ngươi nên học như vậy và mọi người cũng như thế.
Khi đức Phật dạy như vậy, tôn giả Xá Lợi
Phất và năm trăm vị La hán, Ðại Long vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần,
Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la và Ma hầu la già nghe đức Phật
dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.
2. Phật nói kinh Nhân
duyên kiếp trước của Xa Di Bạt.
Nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở tại con suốt lớn tên
là A Nậu, cùng với chúng Ðại Tỳ kheo là năm trăm vị, đều là bậc La hán,
lục thông, thần túc, chỉ trừ có một Tỳ kheo là A Nan.
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ở thời quá khứ lâu xa, cách đây chín mươi
mốt kiếp. Lúc ấy có một vị vua tên là Thiện Thuyết, có một cái thành tên
là Thiện Thuyết do vua xây cất. Trong thành có một Bà la môn tên là Diên
Như Ðạt, hiếu học, quảng bác bốn bộ sách của ngoại đạo: Thiên văn, Ðồ sấm,
Chiêm tướng, Nghệ thuật. Hiểu bảy loại sách và giáo giới của ngoại đạo,
hiểu rõ các Pháp, sách vở thế tục gồm có ba mươi loại, thường dạy học cho
năm trăm đồng tử của những gia đình giàu có.
Lại có một Bà la môn tên là Phạm Thiên,
giàu có, nhiều của cải, voi, ngựa, bảy báu, có kẻ hầu người hạ. Vợ của ông
ta tên là Tịnh Âm, đoan chánh, dung mạo không ai bằng, diệu hiền, tánh
hạnh diệu hoà, không có tâm ganh ghét đố kỵ.
Bà la môn Phạm Thiên là đàn việt của Diên
Như Ðạt, nên vợ ông ta cúng dường cho vị này đồ ẩm thực, quần áo, giường
nằm, toạ cụ, thuốc men chữa bệnh lúc đau ốm.
Có một vị Bích Chi Phật tên là Aùi Học, đi
vào trong thành, mặc y, ôm bát, muốn đi khất thực, tình cờ đến trước cửa
nhà của Phạm Thiên. Bấy giờ Phu nhân Tịnh AÂm thấy vị Bích Chi Phật y phục
tểø chỉnh, bước đi vững chải, sáu căn định tịch tĩnh nên trong tâm rất
kính mến, liền thỉnh Ngài về để cúng dường, thưa rằng:
–Từ nay về sau, đối với y phục, ẩm thực,
giường nằm, thuốc men, con xin thường xuyên cúng dường. Mong Ngài vì con
mà thọ nhận.
Phu nhân Tịnh Âm liền lấy đồ ẩm thực thơm
ngon đổ đầy bát để cúng Ngài. Vị Bích Chi Phật thọ nhận xong, ôm bát bay
lên hư không, bảy lần xoay chuyển, rồi bay về chỗ cũ. Khi ấy người trong
thành thấy sự thần túc này, bảo rằng:
–Trong nước ta có vị này, sẽ khiến cho
chúng ta có phước.
Vì vậy nhân dân cả nước vui mừng hăng hái
cúng dường cho Ngài. Phu nhân Tịnh AÂm cúng dường cho vị Bích Chi Phật mỗi
ngày một nhiều, còn cúng dường cho Bà la môn Diên Như Ðạt ngày một ít.
Diên như đạt tự biết Phu nhân cúng dường
cho mình ngày mộït ít, còn vị kia ngày một nhiều, nên mới sanh lòng đố
kỵ, bài báng rằng:
–Ðạo sĩ này thật ra chẳng có giới đức gì
cả. Vì sao vậy? Vì ông ta cùng Phu nhân Tịnh AÂm là điều bất tịnh. Do đó
mới khiến bà ta cúng dường cho ông nhiều.
Diên Như Ðạt nói với năm trăm đệ tử rằng:
–Ðạo sĩ này Phạm giới, không có hạnh tinh
tấn. Vậy các đồng tử hãy trở về nhà mình nói rõ cho mọi người biết rằng:
“Gã đạo sĩ này không có hạnh thanh tịnh, tư thông với Phu nhân Tịnh AÂm”.
Các đồng tử thưa:
–Dạ vâng!
Rồi như lời thầy nói: “Gã đạo sĩ này thật
có tâm dâm dục”.
Bấy giờ năm trăm đồng tử thọ giáo đi vào
thành, đến các ngõ đường làng tuyên bố rằng:
–Gã đạo sĩ này có tâm dâm dục, tư thông
với Phu nhân Tịnh AÂm.
Khi ấy mọi người trong nước đều nghi hoặc,
cho rằng: “Bậc có thần túc như vậy mà có tiếng xấu như vậy sao?”.
Tiếng đồn xấu ấy đến bảy năm mới chấm dứt.
Sau đó vị Bích Chi Phật hiện mười tám cách biến hoá, rồi diệt độ. Lúc ấy
mọi người mới biết: Diên Như Ðạt là hư vọng, còn vị Bích Chi Phật là thanh
tịnh.
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi có biết Diên Như Ðạt lúc ấy là ai
chăng? Ðó chính là thân của ta vậy. Phạm Thiên lúc ấy chính là vua Ưu
Diên. Tịnh Âm lúc ấy chính là Xa Di Bạt. Còn năm trăm đồng tử lúc ấy nay
là năm trăm La hán này vậy.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Lúc ấy vì ta mất sự cúng dường nên mới
sanh tâm đố kỵ, ganh ghét, cùng với các ngươi huỷ báng vị Bích Chi Phật.
Do nhân duyên đó nên ta và các ngươi cùng vào địa ngục, chưng nấu trong
vạc nước sôi trong vô số ngàn năm. Do tai ương này còn sót lại, nay ta tuy
đã làm Phật, cùng với các ngươi vẫn bị Xa Di Bạt huỷ báng.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói nhân duyên đời
trước bằng bài kệ:
Trước ta là Phạm Chí |
Học rộng sách ngoại đạo |
Sống ở trong rừng cây |
Dạy năm trăm đồng tử. |
Có một Bích Chi Phật |
Thanh tịnh có thần túc |
Thấy Ngài được cúng dường |
Nên dựng chuyện huỷ báng |
Lại bảo các đồng tử: |
“Ðạo sĩ làm bất tịnh” |
Ta vừa nói như vậy |
Ðồng tử đều hoan hỷ. |
Khi nghe xong điều ấy |
Học đến các xóm làng |
Tuyên bố mọi người biết: |
“Ðạo sĩ làm bất tịnh”. |
Do nhân duyên như vậy |
Ở mãi trong địa ngục |
Ta và bọn các ngươi |
Thọ lãnh vô lượng khổ |
Vì nhân duyên sót lại |
Năm trăm người chúng này |
Vô cớ bị phỉ báng |
Bởi nàng Xa Di Bạt |
Nay là đời cuối cùng |
Ta thành đạo Vô thượng |
Như Lai thành Tôn Phật |
Là đại tướng ba cõi |
Trong ao lớn A Nậu |
Tự nói duyên đời trước. |
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi xem đức Như Lai, các lậu đã hết,
các điều thiện đầy đủ, thương yêu Trời, người cho đến loài côn trùng, làm
cho tất cả đều được độ thoát. Tuy có công đức như vậy, nhưng vẫn không
thoát khỏi nghiệp duyên kiếp trước. Huống chi kẻ ngu si mông muội chưa
hiểu đạo!
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi phải học như vậy. Các La hán, tất
cả chúng sanh đầu phải học như vậy.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi phải phòng hộ ba lỗi của thân, bốn
lỗi của miệng và ba lỗi của ý. Này Xá Lợi Phất! Phải học như vậy.
Khi đức Phật dạy như vậy, tôn giả Xá Lợi
Phất và năm trăm vị La hán, Ðại Long vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần,
Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la và Ma hầu la già nghe đức Phật
dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.
3. Phật nói kinh nhân
duyên kiếp trước của sự đau đầu.
Nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở tại con suối lớn tên
là A Nậu, cùng với năm trăm vị đại Tỳ kheo, đều là bậc A la hán, lục
thông, thần túc, chỉ trừ Tỳ kheo là A Nan.
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Vào thời quá khứ lâu xa về trước, trong
thành lớn của La Duyệt Kỳ, gặp vào lúc lúa thóc khan hiếm, con người đi
nhặt xương trắng về đập vụn nấu nước để uống, đào gốc các cây cỏ để ăn
sống qua ngày. Lúc ấy người ta lấy một thăng vàng (một phần mười đấu) đổi
lấy một thăng lúa.
Khi ấy ở La Duyệt Kỳ có một thôn lớn, có
mấy trăm ngôi nhà gọi là Chi Viêt. Không xa Phiá Ðông cái thôn có một cái
ao tên là Ða Ngư. Người của thôn Chi Việt dẫn vợ con đến bên cái ao nhiều
cá ấy, bắt ca ăn thịt.
Khi những người bắt đôi cá lên bờ, cá nhảy
lạch đạch trên mặt đất. Lúc ấy ta là một cậu bé mới bốn tuổi, thấy cá
nhảy ta rất vui, lấy cây đập lên đầu chúng. Khi ấy ở trong ao có hai loại
cá: một loại tên là Phù Ngư, một loại tên là Ða Thiệt. Chúng tự nói với
nhau:
–Chúng ta không xúc phạm con người, nhưng
họ lại bắt càn để ăn thịt. Ðời sau ta phải trả báo này.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi có biết người nam, nữ, bé, lớn của
thôn Chi Việt lúc ấy là ai chăng? Ðó là giòng họ Thích của nước Ca Tỳ La
Vệ hiện nay vậy. Cậu bé lúc ấy chính là thân của ta bấy giờ. Con cá Phù
Ngư lúc đó thì nay là vua Tỳ Lâu Lặc. Con cá Ða Thiệt lúc ấy thì nay là Bà
la môn Aùc Thiệt, tướng sư của vua Tỳ Lâu Lặëc vậy. Lúc đó có con cá nhảy,
ta dùng gậy nhỏ đánh lên đầu nó. Do nhân duyên ấy ta phải đọa trong địa
ngục vô số ngàn năm. Nay ta đã được thành quả chánh đẳng chánh giác, nhưng
vì nhân duyên còn sót lại kiếp trước, nên vua Tỳ Lâu Lặc chinh phạt giòng
họ Thích, thì lúc đó ta bị đau đầu,
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi có biết vì sao ta bị đau đầu? Nầy
Xá Lợi Phất! Khi ta mới bị đau đầu, bảo tôn giả A Nan rằng: “Lấy cái bát
bốn thăng chứa đầy nước lạnh đem lại đây”. Tôn giả A Nan vâng lời đi lấy
nước, lấy tay bịt miệng bát, làm nước trong bình bị đục, do đó nước trong
bát bị khô sạch, giống như mặt trời suốt ngày nóng bức chiếu vào nồi đồng
lớn. Nếu nhỏ một giọt nước vào nồi đồng ấy thì giọt nước bị không liền. Sự
nóng bức trong đầu ta cũng giống như vậy. Giả như khiến cho một bên của
núi Tu Di bỗng xuất hiện một hòn núi cao một Do diên đến một trăm Do diên,
nếu gặp sức nóng đau đầu của ta thì cũng Phải cháy tan. Này Xá Lợi Phất!
Ðức Như Lai đau đầu như vậy.
Bấy giờ đức Phật nói bài kệ về túc duyên:
Ðời trước thôn Chi Việt |
Có một Chi Việt tử |
Bắt cá bỏ trên bờ |
Lấy gậy đập đầu nó |
Bởi do nhân duyên này |
Ở lâu trong địa ngục |
Gọi là ngục Hắc Thằng |
Thiêu nấu vô số kiếp |
Do nhân duyên sót lại |
Nay bị đau đầu, nhức. |
Khi tàn sát họ Thích |
Aùc hạnh Tỳ Lâu Lặc |
Duyên này không tiêu hoá |
Cũng chẳng thành hư không. |
Các ngươi tự cẩn thận |
Phòng hộ thân khẩu ý |
Ta tự thành Tôn Phật |
Là tướng lĩnh ba cõi |
Nên nói duyên đời trước |
Trong suối lớn A Nậu. |
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Người thấy đức Như Lai, các điều ác đã
chấm dứt, các điều thiện đầy đủ, Ngài muốn khiến cho Trời, Rồng, Quỷ thần,
vua Trời Ðế Thích, quần thần nhân dân đều nghĩ đến điều thiện, vì lý do
như vậy. Huống lại những bọn ngu si chưa thấy đạo!
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi nên học như vậy. Cùng với các La
hán, tất cả chúng sanh đều nên học như vậy.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi nên gìn giữ ba lỗi của thân, bốn
lỗi của miệng và ba lỗi của ý. Này Xá Lợi Phất! Phải học như vậy!
Khi đức Phật dạy như vậy, tôn giả Xá Lợi
Phất và năm trăm vị La hán, Ðại Long Vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần,
Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la và Ma hầu la già nghe đức Phật
dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.
4. Phật nói kinh Nhân
duyên xương cốt, các khớp đau nhức.
Nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở tại con suối lớn tên
là A Nậu, cùng với đại chúng Tỳ kheo năm trăm vị, đều là bậc A la hán, lục
thông, thần túc, chỉ trừ có Tỳ kheo A Nan.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngày xưa, rất lâu, ở trong thành La Duyệt
Kỳ có một người con của trưởng già bị bệnh sốt rất nguy kịch. Trong thành
đó có một người con của thầy thuốc giỏi, riêng biết các loại thuốc, có thể
trị lành các chứng bệnh. Khi ấy người con của trưởng giả bảo người con của
thầy thuốc rằng:
–Xin bạn hãy chữa tôi lành bệnh, tôi sẽ
cho bạn nhiều của cải quý.
Người con của thầy thuốc liền điều trị,
làm cho con của trưởng giả được lành bệnh. Sau khi lành bệnh thì con của
trưởng giả không đền ơn. Người con của trưởng giả sau đó lại bị bệnh, lại
mời anh ta đến chữa, nhưng lành bệnh rồi vẫn phủi ơn. Như vậy cho đến ba
lần mà con của trưởng giả vẫn chẳng đền ơn. Sau đó người con của trưởng
giả lại bị bệnh, lại mời anh ta đến chữa trị. Lúc ấy anh ta suy nghĩ:
“Trước đây ba lần ta đã chữa hết bệnh mà vẫn chẳng thấy báo đền”. Bấy giờ
con của trưởng giả nói:
–Anh đã chữa trị tôi như trước và sau mà
chưa được báo đền. Nay anh hãy chữa trị cho tôi thật tốt, lành bệnh tôi sẽ
báo đền luôn một lần.
Lúc đó người con của thầy thuốc nghĩ: “Gã
này đã lừa dối ta ba lần như vậy, như phỉnh đứa con nít. Nay ta sẽ bốc
thuốc làm cho y phải chết”. Anh ta liền đưa cho con trưởng giả thứ không
phải thuốc, làm cho người này bệnh càng lúc càng nguy kịch, kết cuộc phải
chết.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi biết người con của thầy thuốc lúc
đó là ai chăng? Chính là thân của ta. Còn người con của trưởng giả lúc đó
là ai vậy? Ðó chính là Ðề Bà Ðạt Ða vậy.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Lúc ấy ta cho thứ không phải thuốc cho
người con của trưởng giả này, làm cho y bị chết. Do nhân duyên ấy nên bị
thiếu đốt dưới địa ngục mấy ngàn năm, rồi làm súc sanh, ngạ quỷ. Nay ta
tuy đã làm Phật nhưng vẫn bị xương cốt, các khớp đau nhức.
Bấy giờ đức Phật nói về nhân duyên kiếp
trước bằng bài kệ:
Xưa ta con thầy thuốc |
Trị bệnh trưởng giả tử |
Tức giận cho thuốc độc |
Vì vậy y phải chết |
Do nhân duyên kiếp trước |
Phải chịu khổ địa ngục |
Nay duyên xưa sót lại |
Cho nên bị đau nhức |
Nhân duyên không thể mất |
Cũng không thành hư không |
Do bởi ba nhân duyên |
Phải giữ thân, miệng, ý |
Ta tự thành Tôn Phật |
Làm tướng lĩnh ba cõi |
Nên nói duyên kiếp trước |
Trong suối lớn A Nậu. |
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Người thấy đức Như Lai, các điều ác đã
chấm dứt, các điều thiện đầy đủ, Ngài muốn khiến cho Trời, Rồng, Quỷ thần,
vua Trời Ðế Thích, quần thần nhân dân đều nghĩ đến điều thiện, vì do nhân
duyên đó nên ta phải bị như vậy, huống chi bọn người ngu si chưa đắc đạo!
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi nên học như vậy. Năm trăm La hán,
tất cả chúng sanh đều phải học như vậy.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi nên gìn giữ ba lỗi của thân, bốn
lỗi của miệng và ba lỗi của ý. Này Xá Lợi Phất! Ngươi nên học như vậy!
Khi đức Phật dạy như vậy, tôn giả Xá Lợi
Phất và năm trăm vị La hán, Ðại Long Vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần,
Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la và Ma hầu la già nghe đức Phật
dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.
5. Phật nói kinh Nhân
duyên kiếp trước của sự đau lưng.
Nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở tại con suối lớn A
Nậu, cùng với đại chúng Tỳ kheo là năm trăm vị đều là bậc A la hán, lục
thông, thần túc đầy đủ, ngoại trừ có Tỳ kheo là tôn giả A Nan.
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngày xưa, rất lâu, ở La Duyện Kỳ, nhân
ngày lễ lớn, mọi người tụ hội. Bấy giờ trong nước có hai lực sĩ của hai
dòng họ là Sát đế lợi và Bà la môn cũng đến tụ hội. Lúc hai lực sĩ đấu
nhau, lực sĩ Bà la môn bảo lực sĩ Sát đế lợi rằng:
–Ngươi đừng đánh ta, ta sẽ cho ngươi nhiều
tiền của.
Vì vậy lực sĩ Sát đế lợi không dùng hết
sức, chỉ giả bộ chịu Phục. Do đó hai người đều được nhà vua khen thưởng.
Nhưng lực sĩ ba la môn không làm đúng như lời đã hứa với lực sĩ Sát đế
lợi. Sau đó lại đến ngày lễ lớn, họ lại đến tụ hội để đấu với nhau. Lực sĩ
Bà la môn lại yêu cầu lực sĩ Sát đế lợi in như lần trước. Lực sĩ Sát đế
lợi lại tha thứ, không đánh, nên lực sĩ Bà la môn được thưởng như lần đầu,
nhưng anh ta lại nuốt lời hứa. Như vậy cho đến ba lần, sau đó lại đến ngày
lễ hội, lực sĩ Bà la môn lại nói với lực sĩ Sát đế lợi rằng:
–Tôi đã hứa với ban trước và sau. Vậy để
lần này báo đền một lần luôn.
Khi ấy trong tâm lực sĩ Sát đế lợi suy
nghĩ: “Người này đã mấy lần lừa dối ta. Chẳng những y không báo đền mà còn
xâm lấn phần của ta nữa. Hôm nay ta Phải tiêu diệt gã”. Khi ấy lực sĩ Sát
đế lợi cười khan, bảo rằng:
–Anh đã lừa dối tôi ba lần. Nay tôi không
cần tiền bạc của anh đâu.
Nói xong anh ta lấy tay mặt đè cổ, tay
trái nắm eo lưng, hai tay xiết lại, bẻ gẫy xương sống của lực sĩ Bà la
môn. Xiết ba lần như vậy để cho mọi người thấy, sau đó mới đôi xuống đất.
Khi rơi xuống đất, lực sĩ Bà la môn chết liền. Bấy giờ vua và quần thần
reo hò sung sướng, tặng anh ta mười vạn tiền vàng.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi có biết lực sĩ Sát đế lợi hạ sát
lực sĩ Bà la môn lúc đó là ai chăng? Chính là thân của ta. Còn lực sĩ Bà
la môn lúc đó là Ðề Bà Ðạt Ða vậy.
–Nầy Xá Lợi Phất! Lúc vì tham, giận cho
nên ta đã giết lực sĩ này. Do nhân duyên này mà ta đọa trong địa ngục, bị
thiếu đốt, hành hạ, trải qua mấy ngàn năm. Nay ta đã thành chánh đẳng
chánh giác, các lậu đã hết mà nhân duyên còn sót lại nên nay mới bị cứng
đau xương sống này.
Bấy giờ đức Thế Tôn tự nói về nhân duyên
quá khứ bằng bài tụng:
Lễ hội cùng đánh nhau |
Ý muốn đối thủ phục |
Một lần đôi xuống đất |
Làm y gãy xương sống |
Bởi do nhân duyên này |
Mãi thọ khổ địa ngục |
Dư ương còn sót lại |
Nay bị đau xương sống |
Duyên này không biến mất |
Cũng chẳng thành hư không |
Giữ ba thân duyên này |
Ðừng phạm thân, khẩu, ý |
Ta tự thành Tôn Phật |
Là tướng lĩnh ba cõi |
Trong suối lớn A Nậu |
Tự nói duyên kiếp trước |
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Người thấy đức Như Lai, các điều ác đã
chấm dứt, các điều thiện đầy đủ, đối với Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Ðế
Thích, quần thần nhân dân tất cả chúng sanh, Ngài đều làm cho họ được đắc
độ, mà không còn thoát khỏi tai ương đời trước còn sót lại. Huống chi kẻ
ngu si chưa đắc đạo!
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
– Các ngươi phải học như vầy: gìn giữ ba
lỗi của thân, bốn lỗi của miệng và ba lỗi của ý.
Ðức Phật thuyết như vậy xong, tôn giả Xá
Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Bát bộ, quỷ thần, nghe đức Phật dạy, thảy
đều hoan hỷ phụng hành.
6. Phật nói kinh nhân
duyên bị cây giáo đâm chân.
Nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại Tinh xá Trúc Viên, La
Duyệt Kỳ, cùng với Ðại Tỳ kheo Tăng là năm trăm vị.
Ðức Thế Tôn vào lúc sáng sớm, mặc y bưng
bát cùng với năm trăm Tỳ kheo Tăng và tôn giả A Nan, vây quanh cùng vào
thành La Duyệt Kỳ để khất thực, đang đến các nhà bỗng thấy một thanh gỗ
dài một thước hai của người đẻo gỗ cứng trong xóm, đang chạy loạn xạ theo
bên Phật và đứng ngay trước Ngài.
Ðức Phật liền nghĩ:
–Ðiều này do nhân duyên kiếp trước do
chính ta tạo ra, nay ta phải gánh lấy.
Mọi người thấy chuyện lạ đều xúm lại xem.
Họ thấy xong, kinh ngạc, la thất thanh.
Ðức Phật lại nghĩ:
–Nay ta nên hiện rõ sự quả báo kiếp trước,
cho mọi người thấy, tin và hiểõu sự gánh lấy tai ương đời trước, để họ
không dám tạo điều ác.
Do đo, đức Phật bay lên hư không, cách mặt
đất một nhẫn; cây giáo nhọn liền đuổi theo đức Phật cũng cao một nhẫn,
đứng trước đức Phật. Ðức Phật lại bay lên cao hai nhẫn, ba nhẫn, bốn nhẫn
cho đến bảy nhẫn, cây giáo cũng đuỗûi theo Ngài cao đến bảy nhẫn. Ðức Thế
Tôn lại bay lên cao một cây Ða la, thì cây giáo cũng bay theo cao đến một
cây Ða la. Ðức Phật bay lên cao bảy cây Ða la, cây giáo nhọn cũng đuổi
theo và đến đứng trước Ngài. Ðức Phật lại bay cao bảy dặm, cây giáo cũng
bay theo cao bảy dặm. Ðức Phật lại bay cao mười dặm, cây giáo cũng bay cao
như vậy. Ðức Phật lại bay cao một Do diên, cây giáo cũng bay theo Ngài.
Ðức Phật lại bay cao bảy Do diên, cây giáo cũng đuổi theo Ngài. Khi ấy đức
Phật ở trên không trung lại hoá thành một tảng đá xanh, bề dày sáu Do
diên, rồi Ngài đứng trên tảng đá ấy; cây giáo liền đâm thủng tảng đá, đứng
trước đức Phật. Ðức Phật lại ở trên không trung hoá ra một dòng nước, rộng
mười hai Do diên, sâu sáu Do diên. Ngài đứng trên dòng nước ấy, cây giáo
lại xuyên qua dòng nước, đứng trước đức Phật. Ðức Phật lại ở trên không
trung hoá thành một đống lửa lớn, bề sáu rộng mười hai Do diên, cao Do
diên, rồi đứng trên đống lửa ấy; cây giáo cũng xuyên qua đống lủa, đến
đứng trước đức Phật. Ðức Phật lại ở trên hư không hoá thành luồn gió xoáy
rộng mười hai Do diên, cao Do diên, rồi dứng trên luồng gió ấy, cây giáo
bay theo một bên chênh chếch, đến đứng trước đức Phật. Ðức Phật lại bay
lên cung điện Tứ Thiên Vương, rồi ở trong đó, cây giáo cũng bay theo rồi
đứng trước đức Phật. Ðức Phật lại bay lên cõi trời thứ ba mươi ba, ngồi
trên tảng ngọc lưu ly vuông vức một Do diên; cây giáo cũng bay theo, đến
đứng trước đức Phật.
Sau khi đức Phật đi rồi, các Tứ Thiên
Vương bảo nhau rằng:
–Ðức Phật sợ cây giáo này, nhưng cây giáo
vẫn đuổi theo Ngài, không tha.
Họ đều có vẻ không vui.
Ðức Phật từ cõi trời thứ ba mươi ba biến
mất, hiện đến cõi trời Diệm Thiên; rồi biến mất khỏi Diệm Thiên, hiện đến
Ðâu Suất; biến mất khỏi Ðâu Suất, hiện đến Niết Ma La Tha; biến mất khỏi
Niết Ma La Tha, hiện đến Bà La Ni Mật; biến mất khỏi Bà La Ni Mật, hiện
đến Phạm Thiên; nhưng cây giáo từ cõi trời thứ ba mươi ba, thứ lớp đi lên,
cho dến cõi Phạm Thiên, đứng trước đức Phật.
Lúc ấy chư Thiên đều bảo nhau rằng:
–Ðức Phật sợ cây giáo này bỏ chạy, mà nó
vẫn đuổi theo không tha!
Bấy giờ Thế Tôn tự nói nhân duyên kiếp
trước của mình cho các Phạm Thiên nghe. Từ cõi trời Phạm Thiên, Ngài xuống
Bà La Ni Mật, từ cõi Bà La Ni Mật, Ngài xuống Niết Ma La Tha; từ Niết Ma
La Tha, Ngài xuống cung trời Ðâu Suất; từ Ðâu Suất, Ngài xuống Diệm Thiên,
từ Diệm Thiên, Ngài đến cõi trời thứ ba mươi ba; từ cõi trời thứ ba mươi
ba, Ngài xuống cõi trời Tứ Thiên Vương, từ Tứ Thiên Vương, Ngài trở về
thành La Duyệt Kỳ.
Qua các cõi trời, Ngài đều thuyết pháp
nhân duyên kiếp trước. Lúc ấy cây giáo vẫn đuổi theo Ngài trên các cõi
trời cho đến lúc Ngài xuống La Duyệt Kỳ. Ðức Phật cũng nói về nhân duyên
quá khứ cho mọi người ở thành La Duyệt Kỳ nghe.
Ðức Phật cùng Tỳ kheo Tăng ra khỏi thành
La Duyệt Kỳ mà cây giáo vẫn đuổi theo đức Phật. Khi ấy mọi người trong
nước đều đi theo đức Phật ra khỏi thành.
Bấy giờ đức Phật hỏi mọi người:
–Các ngươi muốn đi đâu?
Mọi người thưa rằng:
–Chúng con muốn theo đức Như Lai để xem
nhân duyên này.
Ðức Phật bảo mọi người:
–Các ngươi hãy tự trở về, đức Như Lai tự
biết thời tiết.
Tôn giả A Nan hỏi đức Phật:
–Tại sao đức Như Lai bảo mọi người phải
trở về?
Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:
–Nếu mọi người thấy ta trả quả báo này,
họ sẽ chết ngất rơi xuống đất.
Tôn giả A Nan liền im lặng:
Ðức Thế Tôn trở về Tinh xá Trúc Viên, tự ở
trong phòng bảo các Tỳ kheo:
–Các ngươi hãy trở về phòng mình.
Mọi người vâng lời đều trở về phòng.
Tôn giả A Nan hỏi đức Phật:
–Con sẽ làm gì?
Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:
–Ngươi cũng trở về phòng của mình.
Tôn giả A Nan liện trở về phòng.
Ðức Phật liền suy nghĩ:
–Việc này do đời trước ta tự tạo, chắc
chắn ta phải gánh lấy. Ngài liền lấy Ðại y, gấp làm bốn lớp, ngồi lên chỗ
ngồi cũ. Ðức Phật liền đưa chân mặt ra. Khi ấy cây giáo liền từ gót chân
Ngài đưa lên rồi đâm xuống, rồi xuyên qua lòng đất, sâu đến sáu vạn tám
ngàn Do diên; xuyên qua đất thì đến nước, nước sâu sáu vạn tám ngàn Do
diên; xuyên qua nước đến lửa; lửa cao sáu vạn tám ngàn Do diên; khi cây
giáo đến lửa thì bị cháy tiêu. Ngay khi ấy, mặt đất có sáu lấn chấn động.
Bấy giờ tôn giả A Nan, các Tỳ kheo đều tự
nghĩ rằng:
–Mặt đất bây giờ chấn động chắc cây giáo
đã đâm trúng chân đức Phật rồi!
Khi đức Phật bị cây giáo đâm xong, liền bị
đau một cách khổ sở, đau một cách cay nghiệt, đau một cách nhứt nhối, đau
gần đứt hơi thở. Tôn giả A Nan liền đến chỗ đức Phật, thấy cây giáo đâm
vào chân Ngài làm bị thương, liền bị chết ngất, ngã nhào xuống đất. Ðức
Phật liền lấy nước rảy lên tôn giả A Nan, tôn giả A Nan đứng dậy, đảnh lễ
dưới chân đức Phật, xoa vào chân Ngài, khóc lóc rơi lệ nói rằng:
–Ðức Phật nhờ chân này mà đến dưới gốc cây hàng phục ma quân; rồi lên đến
cõi trời thú ba mươi ba thuyết pháp cho mẹ Ngài. Thân của đức Thế Tôn là
Kim Cương, do nhân duyên gì mà một cây giáo nhỏ lại làm hại Ngài được?!
Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:
–Thôi đi, chớ có buồn rầu khóc lóc nữa! Vì nhân duyên của thế gian nên bị
luân chuyển sanh tử, mới có khổ hoạn này.
Tôn giả A Nan hỏi đức Phật:
–Nay cái vết thương này gây nên đau nhức, nó sẽ phát triển hay sẽ bớt dần?
Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:
–Dần dần sẽ bớt.
Khi ấy, tôn giả Xá Lợi Phất dẫn các Tỳ kheo Tăng đến chỗ đức Phật, cúi lạy
dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên. Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi đức Phật:
–Không biết sự đau nhức của vết thương này của Thế Tôn sẽ phát triển hay
bớt dần?
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Sự đau nhức của vết thương sẽ dần dần bớt.
Bấy giờ trong chúng Tỳ kheo có vị lậu chưa tận, thấy vết thương ấy kêu
khóc bi ai, rơi lệ than rằng:
–Ðức Thế Tôn đại từ bi, không có vật nào mà không tế độ, nhưng vì sao lại
bị sự đau đớn này?!
Ðức Phật bảo các vị ấy rằng:
–Thôi đi, đừng khóc! Ðời trước tự ta đã tạo ra việc này, nên phải gánh
lấy, không thế trốn tránh ở đâu được. Nó cũng không phải do cha tạo ra,
cũng không phải do mẹ tạo ra, cũng không phải do vua tạo ra, cũng không
phải do trời tạo ra, cũng không phải do Sa môn, Bà la môn tạo ra. Chính ta
đã tạo thì nay ta Phải gánh lấy.
Các vị lậu tận, thần thông, đều im lặng suy nghĩ: “Ngày trước đức Phật đã
từng nói kệ:
Người đời đã tạo tác
Hoặc làm thiên hay ác
Việc ấy trở lại mình
Không mất, không hư nát.
Bấy giờ Kỳ Bà nghe đức Phật bị cây giáo đâm chân, khóc lóc đi đến chỗ vua
A Xà Thế.
Vua A Xà Thế hỏi:
–Vì sao khanh khóc?
Kỳ Bà đáp:
–Tôi nghe đức Phật bị cây giáo đâm chân, nên tôi khóc.
Vua A Xà Thế nghe lời nói ấy xong, từ trên giường chết ngất, rơi xuống
đất, giây lâu mới tỉnh. Khi ấy, toàn cung điện trong và ngoài đều kinh
hoàng, sợ hãi.
Nhà vua đứng dậy, rơi nước mắt, ra lệnh quần thần:
–Hãy mau chuẩn bị xe cộ, ta muốn đến chỗ đức Phật.
Quần thần vâng lệnh, chuẩn bị xe cộ xong tâu vua:
–Xe cộ đã chuẩn bị xong.
Nhà vua liền lên xa, đi ra khỏi thành. Bốn tộc tánh trong thành, thanh tín
nữ, nghe đức Phật bị cây thương đâm vào chân, vì vậy nhà vua cùng em là Kỳ
Bà, với dân chúng tong thành có cả trăm ngàn người vây quanh, cùng đi đến
chỗ đức Phật. Vua xuống xe, cởi mũ, bỏ kiếm, cất lộng, đi bộ đến chỗ đức
Phật. Lúc ấy đức Phật đang nằm bên hông Phải.
Nhà vua đảnh lễ đức Phật xong, lấy tay nắm chân đức Phật, xoa nén, miệng
thì tự xưng quốc hiệu, tên họ rằng:
–Con là A Xà Thế, vua nước Ma Kiệt, thăm hỏi đức Thế Tôn : “Sự đau nhức
của vết thương có giảm chút nào chăng?”.
Ðức Phật trả lời vua A Xà Thế:
–Mong Ðại vương thường được an ổn, trường thọ, không bệnh, vua nên lấy
pháp trị dân, đừng hành động phi pháp.
Ðức Phật bảo nhà vua ngồi xuống. Nhà vua liền ngồi. Nhà vua hỏi đức Phật:
–Con theo đức Như Lai được nghe rằng: “Thân của Phật là Kim Cang, không
thể huỷ hoại được. Không rõ vì sao bây giờ lại bị cây giáo bằng gỗ đâm vào
chân?
Ðức Phật bảo nhà vua:
–Tất cả các pháp đều do nhân duyên mà huỷ hoại. Thân của ta tuy là Kim
Cương, gương giáo không thể phá hoại được, nhưng do nhân duyên kiếp trước
huỷ hoại.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài tụng:
Người đời đã tạo tác
Liền tự thấy hành động.
Làm thiện được báo thiện
Làm các bị báo ác.
Cho nên này Ðại vương! Cần phải học bỏ điều ác, theo đều thiện. Những kẻ
ác độc ngu si không học vấn chưa biết chơn đạo, đùa giỡn, coi thường việc
tạo tội, về sau phải khóc lóc mà lãnh thọ. Cho nên, này Ðại vương! Không
nên vì đùa giỡn mà tạo tội. Vua nên học như vậy!
Nhà vua bảo Kà Bà:
–Ngươi hoà hiệp các thứ thuốc thật tốt rửa vết thương, chữa trị và chú
nguyên làm cho vết thương của đức Phật mau lành!
Kà Bà thưa:
–Xin vâng!
Kỳ Bà liền đảnh lễ đức Phật, rửa chân Ngài, rồi đắp thuốc để sanh da, sau
đó đọc lời cầu nguyện để khỏi đau. Kỳ Bà bỏ ra trăm ngàn tiền để mua giạ
đắp lên chân đức Phật; lấy tay xoa bớp chân Ngài, dùng miệng chú nguyện:
“Mong đức Phật sống lâu, mong tai hoạn này chóng tiêu trừ, mong cho tất cả
chúng sanh được vĩnh viễn thoát khỏi cái khổ”. Ông liền đứng lên đảnh lễ
đức Phật, rồi đứng qua một bên.
Bấy giờ đức Phật vì vua A Xà Thế, tất cả mọi người trong hội, nói Pháp Tứ
Ðế. Sao gọi là Tứ Ðế? Ðó là khổ đế, khổ tập đế, khổ tận đế, khổ tận đạo
đế. Ðó là Tứ Ðế.
Khi đức Phật thuyết như vậy, sáu mươi Tỳ kheo, được lậu tận, ý khai mở.
Môït vạn một ngàn người, được Pháp nhãn tịnh.
Bấy giờ nhà vua cáo từ thưa rằng:
–Vì việc nước đa đoan, con xin cáo từ ra về.
Ðức Phật bảo:
–Phải nên biết thời.
Vua liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi trở
về. Mọi người cũng đảnh lễ đức Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi trở về.
Bấy giờ vào lúc nửa đêm, có bảy vị thiên nhân, mỗi vị có thể phát ra trăm
thứ âm nhạc, đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh sàn
toạ một vòng rồi đứng. Khi ấy có một vị trời bạch đức Phật:
–Sa môn Cù Ðàm như sư tử bị thương, có thể nhẫn nhục chịu sự khổ thống
không bảo cho người khác biết.
Lại có một vị trời nói:
–Sa môn Cù Ðàm như voi bị thương, có thể nhẫn nhục chịu sự khổ thống không
bảo cho người khác biết.
Có một vị trời lại nói:
–Sa môn Cù Ðàm như Lê Ngưu biết thời, cũng không biết sự khổ thống.
Một vị trời lại nói:
–Sa môn Cù Ðàm như Thuỷ Ngưu, bất giác bị khổ thống.
Một vị trời lại nói:
–Sa môn Cù Ðàm như Thiên Vương Tám Tay bị thương, có thể chịu đựng sự
thống khổ.
Một vị trời lại nói:
–Sa môn Cù Ðàm như ngựa báu, bất giác bị khổ thống.
Một vị trời khác lại nói:
–Sa môn Cù Ðàm quán xét chơn lý, thanh tịnh, bất giác bị khổ thống.
Một vị trời nói:
–Ðức Phật là sư tử trong loài người, voi trong loài người, Lê Ngưu trong
loài người, Thuỷ Ngưu trong loài người, Thiên Vương Tám Tay trong loài
người, ngựa báu trong loài người, bậc rõ chơn đế, thanh tịnh trong loài
người. Ðức Thế Tôn như những ví dụ ấy, có thể chịu đựng sự thống khổ. Bọn
ngu si nhẫn chịu sự thống khổ, nhưng đức Thế Tôn dùng trí tuệ để nhẫn
chịu, không như ngoại học Phạm chí, vì họ quá trung niên, vứt bỏ tất cả để
lấy vợ, mà mong được thoát khổ, làm sao được đắc độ? Vì sao? Vì không thể
rốt ráo ậy. Trong pháp của đùức Như Lai, thanh tịnh rốt ráo, đoạn các ái
dục, được đến Niết Bàn. Như vậy mới có thể vượt qua cái biển hôi thối của
ba cõi. Vì sao? Vì tâm ý họ được chánh định, từ Tứ Ðế mà cầu Niết Bàn.
Vị trời nói kệ rằng:
Hung dữ khó hàng phục,
Si, nghi, không định trí
Chí mê, ở rừng rú
Không thoát hố sanh tử
Ðịnh trí, trừ hung ngu,
Luyện ý, mở trói buộc.
Chí tịnh, không mê hoặc
Là vượt biển sanh tử.
Bấy giờ, vị trời nói kệ xong, đức Phật im lặng chấp nhận. Các vị trời thấy
đức Phật im lặng, biết Ngài bằng lòng, liền cúi lạy dưới chân Phật, nhiễu
quanh ba vòng, bỗng nhiên biến mất. Ðến sáng, đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi
Phất:
–Ngày xưa, vô số A tăng kỳ kiếp về trước, bấy giờ có hai đội khách buôn.
Mỗi đội có năm trăm người, tại Ba La Nại, họ đều bỏ chung tiền của, muốn
dóng thuyền đi biển, công việc đã xong, mở neo, trương buồm, xuất hành.
Gió thổi đưa đi, liền đến bãi biển ngọc quý. Trên bãi thấy có sự giàu có,
nào là y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, toạ cụ và các cô gái xinh đẹp,
đủ loại châu báu, chẳng thiếu thứ gì.
Bấy giờ người chủ của một đội khách buôn bảo mọi người rằng:
–Chúng ta vì của cải nên mới khổ sở đến đây. Nay điều mong ước đã đạt
được, vậy nên ở lại đây, lấy năm điều vui thích để tự vui chơi.
Còn người chủ của đội thứ hai là Tát Bạt, bảo nhóm ông rằng:
–Ở đây tuy giàu có, các chân báu, ngũ dục, thể nữ, y thực không thiếu thứ
gì, nhưng không nên ở đây lâu.
Bấy giờ ở trên hư không có vị Thiên nữ, thương yêu đoàn khách buôn này,
muốn khiến cho họ mong gì được nấy, có nhiều của cải, trở về an toàn, nên
ở trên hư không bảo các khách buôn rằng:
–Ở đây tuy có của cải, ngũ dục, thể nữ, y phục, đồ ẩûm thực, nhưng không
nên ở lâu, phải sớm trở về. Vì sao? Vì sau bảy ngày nữa, vùng đất này sẽ
bị chìm dưới nước.
Vị ấy noi xong, biến mất.
Lại có Thiên Ma Nữ, ý muốn khiến cho các khác buôn này bị chết hết tại
đây, không thể trở về, bấy giờ ở trên không trung, bảo rằng:
–Các ngươi không nên chuẩn bị ghe thuyền trở về làm gì, vì ở đây rất khoái
lạc, hết sức vui sướng. Mặt đất tại đây, ban đầu không có nước đến, cho dù
có nước đến đây đi nữa, thì tại đây sẵn có châu báu, đồ ẩm thực, y phục,
các gái đẹp, ngũ dục đầy đủ. Do đâu mà có? Vì vị trời trước đã nói: “Nước
sẽ ngập chìm vùng này”. Ðó là lời hư vọng, không đủ để tin tưởng.
Nói vậy xong, biến mất.
Bấy giờ người chủ của đoàn thứ nhất là Tát Bạt, nghe Thiên nữ nói xong,
bảo mọi người rằng:
–Các bạn chớ có chuẩn bị thuyền bè để trở về làm gì; chớ có tin vào lời vị
trời trước nói. Ðó là hư vọng mà thôi. Ở đây khoái lạc, ngũ dục đầy đủ; vì
ở Diêm Phù khổ sở, chính là muốn cầu đến đây. Nay đã đến được rồi sau lại
bỏ mà đi?!
Người chủ Tát Bạt thứ hai lại bảo mọi người trong nhóm:
–Các bạn hớ tham ngũ dục mà ở đây lâu. Sau bảy ngày nửa nước sẽ dâng lên
phủ bằng nơi đây, phải mau mua bán, chuẩn bị tu sửa ghe thuyền, vì vị trời
trước đã nói lời chí thành, chớ không phải hư dối. Giả sử nếu bảy ngày mà
không có nước dâng, chúng ta vẫn phải sửa lại ghe thuyền để trở về kia mà;
há chúng ta có thể bỏ cha mẹ vợ con ở quê nhà sao? Còn nếu sau bảy ngày,
nước không đến đây, chúng ta sẽ ở đây, lấy ngũ dục để vui chơi, sau đó từ
từ sẽ trở về. Nếu nước tràn ngập như vị trời trước đã nói, thì chúng ta
vẫn chuẩn bị xong, đi trở lại nào có khó gì.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Sau đó bảy ngày, như lời vị trời trước đã nói, nước phủ bằng mặt đất;
đoàn Tát Bạt thứ hai, khi ấy trước đã chuẩn bị xong rồi, ngày nước dang
lên tất cả đều được lên thuyền. Còn đoàn Tát Bạt thứ nhất, vì trước đó
không sửa soạn, chuẩn bị, nên ngày nước dâng lên họ giành thuyền của đoàn
đã chuẩn bị xong. Thuyền chủ vì muốn sống còn, không để họ đi trước, mới
mặc áo giáp, cầm gậy để đánh nhau. Vị Tát Bạt thứ nhì ở trên thuyền dùng
mâu kích đâm Tát Bạt thứ nhất làm cho y gãy chân rồi mạng chung.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Người có biết người Tát Bạt thứ nhất là ai chăng? Ðó là Ðề Bà Ðạt Ða. Còn
người Tát Bạt thứ hai dùng mâu kích để đâm Tát Bạt thứ nhất đó chính là
thân ta. Bấy giờ đoàn khách buôn năm trăm người đoàn khách buôn thứ nhất
thì nay là đệ tử của Ðề Bà Ðạt Ða; còn năm trăm người khách buôn của đoàn
thứ hai lúc đó thì nay là năm trăm vị La hán vậy. Vị Thiên nữ lúc ấy, nay
chính là Xá Lợi Phất. Thiên nữ thứ hai lúc ấy thì nay là đệ tử Bà la môn
của Tỳ kheo Mãn Nguyện vậy.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ðời trước ta làm Tát Bạt, tham của sợ chết, vượt biển, cùng tranh thuyền
với chủ ghe thứ nhất, lấy mâu kích đâm vào chân y. Do nhân duyên đó, trong
vô số ngàn năm, mãi chịu khổ trong địa ngục, ở trong địa ngục vô số ngàn
năm, bị mâu kích đâm chém, vô số ngàn năm đọa trong loài súc sanh, bị
người săn bắn, trong vô số ngàn năm ở trong loài ngạ quỷ, bị chuỳ sắt
đánh. Nay tuy được thân Kim Cang của Như Lai rồi, nhưng do dư ương đời
trước còn sót lại, nay mới bị cây giáo đâm chân.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ túc duyên:
Ðời trước là Tát Bạt |
Lên thuyền đi ra biển |
Hai người cùng tranh thuyền |
Lấy mâu đâm kẻ ấy |
Vì do nhân duyên ấy |
Mãi chịu khổ địa ngục |
Làm súc sanh bị bắn |
Ngạ quỷ, trên cây chuỳ |
Nay đã thành Phật đạo |
Vì thương xót chúng sanh |
Tuy được thân Kim Cang |
Không tránh khỏi giáo nhọn |
Nhân duyên trọn chẳng mất |
Cũng không thành hư không |
Phải giữ ba nhân duyên |
Ðừng phạm thân, khẩu, ý. |
Ta nay thành Tôn Phật |
Ðược làm tướng ba cõi |
Trong suối lớn A Nậu |
Tự nói duyên kiếp trước. |
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi xem đức Như Lai các điều ác đã hết, các điều thiện đầy đủ, với chư
Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Ðế Thích, quần thần và nhân dân, tất cả
chúng sanh đều muốn cho họ được độ thoát, mà còn không thoát khỏi sự báo
ứng này. Huống chi bọn ngu si, tăm tối chưa thấy đạo?!
Cho nên, này Xá Lợi Phất! Phải giữ gìn thân, khẩu, ý, đừng phạm ba thứ ấy.
Này Xá Lợi Phất! Các ngươi nên học như vậý
Ðức Phật thuyết như vậy xong, tôn giả Xá Lợi Phất hoan hỷ phụng hành.
PHẬT NÓI KINH HƯNG KHỞI HẠNH
Quyển Hạ
7. Phật nói kinh Nhân
duyên Ðề Bà Ðạt Ða đôi đá.
Nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại con suối lớn A Nậu
cùng với năm trăm Ðại Tỳ kheo đều là bậc A la hán, lục thông, thần túc đầy
đủ, chỉ trừ một Tỳ kheo là tôn giả A Nan.
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngày xưa vào thời quá khứ, ở thành La
Duyệt Kỳ có một trưởng giả tên là Tu Ðàn, hết sức giàu có, của cải, voi
ngựa, bảy báu, trẻ nhỏ ở để hầu hạ sai bảo, sản nghiệp đầy đủ. Ông có một
người con trai tên là Tu Ma Ðề. Trưởng giả Tu Ðàn bỗng nhiên mạng chung.
Tu Ma Ðề có một người em khác mẹ là Tu Da Xá. Lúc ấy Ma Ðề suy nghĩ:”Ta
Phải lập kế gì để không cho Tu Da Xá hưởng Phần tài sản”. Tu Ma Ðề lại suy
nghĩ: “Chỉ có cách giết nó đi mới khỏi chia gia tài”. Do đó Tu Ma Ðề bảo
với Tu Da Xá:
- Anh em ta cùng lên đỉnh núi Kỳ Xà Quật,
nơi đó có “luận thuyết về vấn đề khứ, lai”.
Tu Da Xá đáp:
- Thưa vâng!
Khi ấy Tu Ma Ðề liền nắm tay em cùng lên
đỉnh núi. Khi đã lên đỉnh đến gần mé núi, nơi cao nhất, liền xô nhười em
xuống chân núi, rồi lấy đá đè lên, khiến cho người em chết ngay.
Ðức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:
- Ngươi có biết vị trưởng giả Tu Ðàn lúc
ấy là ai chăng? Chính là Phụ vương Chơn Tịnh bây giờ. Người con ông tên là
Tu Ma Ðề lúc ấy thì chính là thân của ta. Người em là Tu Da Xá lúc ấy thì
nay là Ðề Bà Ðạt Ða.
Ðức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:
- Lúc ấy vì ta tham của cải mà giết hại
người em. Do tội ác này nên trải qua vô số ngàn năm phải bị thiêu đốt
trong địa ngục, bị núi sắt đè lên. Bây giờ duyên xưa còn sót lại, nay ta
tuy đã được thành Ðẳng Chánh giác nhưng không thoát khỏi quả báo đời
trước. Ta ở trên núi Kỳ Xà Quật, đang kinh hành trên mặt đất, bị Ðề Bà Ðạt
Ða nâng tản đá dài sáu trượng, rộng ba trượng, đội lên đầu ta. Khi ấy vị
thần cuả núi Kỳ Xà Quật tên là Tỳ La lấy tay chụp đá. Chỉ có một mẫu đá
nhỏ rơi trúng ngón chân cái củûa ta, làm rách da chảy máu.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ liềùn
nói bài kệ về đời trước rằng:
- Xưa, ta vì của cải |
Giết người em khác mẹ |
Xô xuống tận chân núi |
Lấy đá đè lên người |
Do nhân duyên như vậy |
Mãi chịu khổ địa ngục |
Ở trong địa ngục này |
Bị núi sắt đè lên |
Do tai ương sót lại |
Ðề Bà Ðạt đôi đá |
Mảnh đá rơi trúng chân |
Làm dập ngón chân cái |
Nhân duyên không thể mất |
Cũng không thành hư không |
Phải giữ ba nhân duyên |
Chớ phạm thân, khấûu ý |
Nay ta thành Tôn Phật |
Ðược làm tướng ba cõi |
Trong suối lớn A Nậu |
Nói chuyện đời trước này. |
Ðức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:
- Ngươi xem đức Như Lai, các điều ác đã
hết, các điều thiện đầy đủ. Với các Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Ðế
Thích, quần thần nhân dân và chúng sanh, Ngài đều muốn độ thoát. Vậy mà
vẫn bị nhân duyên kiếp trước, không thềû thoát khỏi, huống chi bọn ngu si
mê muội chưa đắc đạo?! Này Xá Lợi Phất, các ngươi nên học như vậy, đừng
phạm lỗi của thân, khẩu, ý.
Ðức Phật thuyết như vậy xong, tôn giả Xá
Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Long vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần,
Càn thát bà, A tu la, Câu lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nghe đức Phật
dạy xong hoan hỷ phụng hành.
8. Phật nói kinh nhân
duyên Bà la môn nữ tên là Chiên Sa hỷ báng Phật.
Nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở tại con suối lớn A Nậu
cùng với chúng Ðại Tỳ kheo gồm năm trăm vị, đều là bậc La hán, lục thông,
thần túc đầy đủ, chỉ trừ một Tỳ kheo là tôn giả A Nan.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
- Ngày xưa, vô số kiếp về trước, bấy giờ có
đức Phật là Tận Thắng Như Lai, Chí Chơn Ðẳng chánh giác, Minh hạnh thành,
là bậc thiện thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự, Thiên nhân sư,
Phật Thế Tôn. Lúc bấy giờ ở nước Ba La Nại, cùng với chúng Ðại Tỳ kheo gồm
sáu vạn tám ngàn người đều là bậc La hán.
Này Xá Lợi Phất! Bấy giờ đức Như Lai Tận
Thắng có hai vị Tỳ kheo: một là Tỳ kheo Vô Thắng, hai là Tỳ kheo Thường
Hoan. Tỳ kheo Vô Thắng thì có lục thông thần túc. Còn Tỳ kheo Thường Hoan
thì kết sử chưa trừ. Bấy giờ ở thành Ba La Nại có một trưởng giả tên là
Ðại Aùi, có voi, ngựa, bảy báu, của cải vô số. Trưởng giả có một người vợ
tên là Thiện Huyễn, đoan chánh không ai bằng. Hai vị Tỳ kheo này thường
hay lui tới nhà ông ta để thọ ân cúng dường. Vợ của ông cúng dường cho Tỳ
kheo Vô Thắng y phục, đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men, tứ sự cúng dường
không thiếu thứ gì. Còn bà cúng dường cho Tỳ kheo Thường Hoan thì rất ít.
Vì sao? Vì Tỳ kheo Vô Thắng đã đoạn hết các lậu, lục thông cụ túc. Còn Tỳ
kheo Thường Hoan chưa hết kiết sử, chưa thành đạo vậy.
Tỳ kheo Thường Hoan thấy Tỳ kheo Vô Thắng
thọ sự cúng dường một cách thiên lệch nên sanh lòng đố kỵ, phỉ báng ngang
ngược rằng:
- Tỳ kheo Vô Thắng tư thông với phu nhân
Thiện Huyễn nên không cúng dường theo đạo Phật pháp mà tự đem sự ân ái để
cúng dường.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
- Ngươi có biết Thường Hoan đệ tử của đức
Như Lai Tận Thắng là ai chăng? Ðó chính là Thân của ta, còn muốn biết phu
nhân Thiện Huyễn là ai thì nay là con gái của Bà la môn, tên là Chiên Sa.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
Lúc ấy ta phỉ báng vô cớ vị La hán Vô
Thắng. Vì tội ác ấy, nên trải qua vô số trăm ngàn năm ở địa ngục chịu các
thống khổ. Nay ta được thành Phật, đối với Lục sư... Các chúng Tỳ kheo, kẻ
lậu tận, người lậu chưa tận, và các vị vua, thần dân, thanh tín sĩ và
thanh tín nữ, khi ta đang thuyết pháp, vì oan xưa còn sót lại, nên bị đồng
nữ Ða Thiệt độn bình đựng nước vào bụng, đến trước ta nói rằng:
- Này Sa Môn! Sao không tự nói chuyện nhà
cửa mà nói toàn chuyện đâu đâu! Nay riêng một mình ông vui sướng mà không
biết sự thống khổ của tôi sao?! Vì sao vậy? Vì trước đây ông tư thông với
tôi, khiến cho tôi phải có mang. Nay sắp đến tháng sinh sản, tôi cần có
bơ, dầu để nuôi đứa bé. Ông hãy cung cấp những thứ ấy cho tôi!
Bấy giờ chúng hội đều im lặng, cúi đầu. Khi
ấy Ðức Ðề Hoàn Nhân đứng hầu quạt phía sau đức Phật, dùng thần lực hóa làm
con chuột, chạy vào trong áo nàng Ða Thiệt, cắn đứt sợi dây buộc cái bình,
làm cho nó tự nhiên rơi xuống đất.
Bấy giờ bốn chúng đệ tử và các học trò của
Lục sư đều hết sức vui mừng, cất tiếng khen là thật hay, hân hoan vô
lượng, đều đồng thanh chửi đồng nữ kia rằng:
- Này đồ chết tiệt! Sao lại đem cái vật tội
lỗi, với ác ý, hồng phỉ báng sự thanh tịnh, vô thượng chánh chơn? Mặt đất
này vô tri, há có thể chứa con người tội ác đến như vậy sao?!.
Mọi
người đề nói như vậy, tức thì mặt đất nứt ra, lửa từ lòng đất phun lên, cô
gái liền rơi vào trong đó, đi thẳng đến địa ngục lớn A-Tỳ. Ðại chúng thấy
cô gái thân đang còn sống mà đã rơi vào địa ngục. Lúc ấy vua A Xà Thế cảm
thấy kinh khủng, lông tóc trong người dựng đứng, đứng dậy, chắp tay, quỳ
dài, bạch đức Phật:
- Hiện
nay cô hái này đang đọa nơi nào?
Ðức Phật
trả lời:
- Này
Ðại vương! Hiện nay cô gái này đang đọa vào địa ngục A-tỳ.
Vua A Xà
Thế lại hỏi đức Phật:
- Cô gái
này không giết người, không trộm cắp, chỉ vì vọng ngữ mà dọa vào địa ngục
A Tỳ sao?
Ðức Phật
bảo vua A Xà Thế:
- Ta đã
nói Duyên Pháp có hành động thượng, trung, hạ của thân, khẩu, ý.
Vua A Xà
Thế lại hỏi:
- Sao
gọi là nặng? Sao gọi là vừa? Sao gọi là nhẹ?
Ðức Phật
bảo vua A Xà Thế:
- Hành
động của ý là nặng, hành động của thân là vừa, hành động của thân là nhẹ.
Vua A Xà
Thế lại hỏi:
- Vì sao
vậy?
Ðức Phật
trả lời:
- Hành
động của thân hiện ra một cách thô sơ, việc ấy có thể thấy được. Hành động
của miệng thì tai có thể nghe được. Hai loại hành động ấy thế gian có thể
thấy, nghe được.
Ðức Phật
bảo:
- Này
Ðại vương! Về hành dộng của ý, giả sử nó khởi lên ý niệm thì không thể
thấy nghe được. Ðó là hành động ở bên trong do ý quyết định trói buộc.
Nhà vua
lại hỏi:
- Ý
không thể thấy, sao lại buộc ý quyết định?
Ðức Phật
trả lời nhà vua:
- Nếu
thiện nam tử, thiện nữ nhân, giả sử hành động của họ muốn sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, thì trước tiên họ phải suy nghĩ, rồi trong tâm quyết định khi
nào nên hành động, suy nghĩ nên đến chỗ nào.
Ðức Phật
lại bảo nhà vua:
- Phàm
con người khi hành động trong tâm suy tính, sau đo mới hành độïng. Cho nên
ý là quang trọng, chứ không phải thân và miệng.
Ðức Phật
bảo lại nhà vua:
- Nếu
miệng phát ngôn, khi miệng muốn phát ngôn, trước tiên ý phải suy nghĩ,
hoặc trong đại hội, khi giảng luận pháp, hoặc khi cùng ngồi xử đoán luật
hiện hành. Hoặc có người hỏi ta phải phản bác luận thuyết kẻ ấy; trong khi
đó chẳng phải là việc đã xong. Nếu có lời nói này, ta liền phản bác. Ðiều
đó là ý khí của người khác nên nói lên lời ấy vậy. Nếu thực ba đều đo thì
nên đừng đắm trước. Lại còn nghĩ kế:” Nên đến đó để đánh nhau”. Rằng
:”Muốn giết tôi, phá tôi, hoại tôi. Anh phải theo lời tôi, đừng nên tin
người kia”. Nếu nói lời hai lưỡi ấy thành ra lời hư ngụy, giảm mất chánh
pháp của mình, sau khi mạng chung bị đọa vào địa ngục.
Ðức Phật
bảo nhà vua:
- Cho
nên miệng phát ngôn là do ý đã nghĩ, không phải quan trọng ở thân và
miệng.
Nhà vua
lại hỏi đức Phật:
- Vì sao
vậy?
Ðức Phật
bảo nhà vua:
- Thân
có ba lỗi, miệng có bốn lỗi đều do ý định. Nếu không suy nghĩ thân không
thể tự mình làm được. Cho nên thân và miệng phụ thuộc vào ý định.
Bấy giờ
đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
- Trong ý suy nghĩ
kỹ |
Thân miệng mới hành
động |
Thân miệng giả xấu
hổ |
Ý nào biết xấu hổ |
Ý phải xấu hổ trước |
Thân, miệng xấu hổ
sau |
Thân miệng không
lìa ý |
Không thể tự hành
động. |
Bấy giờ
vua A Xà Thế nghe đức Phật thuyết pháp, buồn thương rơi lệ. Ðức Phật hỏi
nhà vua:
- Vì sao
vua khóc?
Nhà vua
thưa:
- Vì
chúng sanh không có trí tuệ, không hiểu ba việc này, nên mãi bị tổn hại,
cho nên con thương sót họ. Bọn chúng sanh chỉ cho rằng thân, khẩu là lớn
mà không biết ý thâm độc. Bạch Thế Tôn, con vốn cho rằng thân, khẩu là
lớn, còn ý là nhỏ. Nay theo Phật nghe Pháp mới biết ý là to lớn; thân,
khẩu là nhỏ.
Ðức Phật
hỏi nhà vua:
–Xưa sao
vua cho là thân, khẩu là lớn, ý là nhỏ. Nay mới biết ý là lớn mà thân,
khẩu là nhỏ?
Nhà vua
lại bạch đức Phật:
–Phàm
người sát sanh, mọi người đều thấy được, hoặc trộm cắp, dâm dật thì mọi
người cũng thấy được; ba việc này của thân, thiên hạ đều thấy biết. Miệng
nói lời vọng ngữ, ác khẩu, hai lưỡi, lời nói không thành thật, bốn việc
này của miệng, thiên hạ cũng đều nghe được. Còn ba việc của ý thì tai
không thể nghe, mắt không thể thấy, vì vậy mà chúng sanh lấy việc mắt thấy
tai nghe thì cho là lớn. Nay con nghe Phật dạy mới biết tâm ý là lớn, mà
thân khẩu là nhỏ. Vì vậy hành động của thân khẩu lệ thuộc với ý dịnh.
Ðức Phật
lại hỏi nhà vua:
–Vì sao
biết ý là lớn, hành động của thân và khẩu lệ thuộc nơi ý định?
Vua bạch
đức Phật:
–Cô gái
Ða Thiệt muốn lập mưu huỷ báng đức Phật, trước tiên tâm phải suy nghĩ, mới
lấy cái bồn đựng nơi bụng, rồi ở trong đại chúng mới vu khống như vậy. Con
nghe lời đức Phật dạy cho nên con biết ý là lớn mà thân khẩu là nhỏ.
Ðức Phật
bảo:
–Này Ðại
vương! Vì sao bây giờ vua hiểu được ý là lớn mà thân, khẩu là nhỏ?
Nhà vua
thưa:
–Giả sử
khi muốn làm việc gì, trước hết tâm phải suy nghĩ, sau đó thân, khẩu mới
hành động, cho nên con biết ý là lớn mà thân, khẩu là nhỏ.
Ðức Phật
nói:
–Lành
thay! Lành thay! Này Ðại vương! Vua đã hiểu rõ việc này, vậy phải thường
học như vầy: ý là lớn mà thân, khẩu là nhỏ.
Khi đức
Phật nói xong, tám mươi vị Tỳ kheo ở trong chúng được lậu tận, ý giải, hai
trăm vị Tỳ kheo được đạo A Na Hàm, bốn trăm vị Tỳ kheo được đạo Tư Ðà Hàm,
tám trăm vị Tỳ kheo được đạo Tu Ðà Hoàn, tám vạn vị Thiên và người đều
được Pháp nhãn thanh tịnh, mười vạn người và chẳng phải người đều thọ năm
giới, hai mươi vạn quỷ, thọ thần Tam Tự Quy.
Bấy giờ
đức Thế Tôn nói bài kệ về nhân duyên quá khứ:
Lúc Như Lai Tận
Thắng |
Ta, Tỳ kheo Ða Hoan |
Huỷ báng Ngài Vô
Thắng |
Mãi đoạ vào địa
ngục |
Do nhân duyên sót
lại |
Ðồng nữ Ða Thiẹât
đến |
Ở trong đại chúng
này |
Tới trước huỷ báng
ta |
Oan xưa không thể
mất |
Cũng chẳng thành hư
không |
Phải giữ ba nhân
duyên |
Ðừng phạm thân,
khẩu, ý |
Nay ta thành Phật
đạo |
Lại làm tướng ba
cõi |
Trong suối lớn A
Nậu |
Tự nói chuyện đời
trước. |
Ðức Phật
bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:
- Ngươi
xem đức Như Lai, các điều ác đã hết, các điều thiện đầy đủ. Với các Trời,
Rồng, Quỷ thần, vua Trời Ðế Thích, quần thần nhân dân và chúng sanh, Ngài
đều muốn độ thoát. Vậy mà vẫn không tránh khỏi nhân duyên kiếp đời trước
này, huống chi bọn ngu si chưa đắc đạo?! Này Xá Lợi Phất! Phải phòng hộ
thân, khẩu, ý.
Ðức Phật
dạy như vậy xong, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Ðại Long
Vương A Nậu, tám bộ quỷ thần nghe đức Phật dạy xong hoan hỷ phụng hành.
9. Phật nói kinh Nhân
duyên kiếp trước phải ăn luá ngựa.
Nghe như
vầy:
Một thời
đức Phật ở tại con suối lớn A Nậu, cùng với đại chúng Tỳ kheo là năm trăm
vị, đều là bậc A la hán, đầy đủ lục thông, thần túc.
Bấy giờ,
đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Thời
quá khứ lâu xa, khi ấy có một vị Phật tên là Tỳ Bà Diếp Như Lai, Chí chơn,
Ðẳng chánh giác, Minh hạnh thành, là bậc Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô
thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, ở trong thành
Bàn Ðầu Ma Bạt, cùng với chúng Ðại Tỳ kheo là mười sáu vạn tám ngàn vị.
Bấy giờ
nhà vua tên là Bàn Ðầu, cùng với quần thần, thứ dân, thanh tín sĩ và thanh
tín nữ, đem bốn sự cúng dường cho đức Như Lai Tỳ Bà Diếp cùng với đại
chúng chẳng thiếu thứ gì. Khi ấy ở trong thành có một Bà la môn tên là
Nhân Ðề Kỳ Lợi, hiểu rộng bốn bộ sách (Tứ Phệ Ðà) của Phạm chí; cũng biết
về pháp thuật của Bà la môn. Ông dạy học cho năm trăm đồng tử.
Bấy giờ
nhà vua mở hội, trước tiên mời đức Phật, đức Phật im lặng nhận lời. Nhà
vua trở về cung chuẩn bị các món ngon bổ và đặt sàn toạ, dùng nệm, thảm
bằng nỉ lót sàn nhà, xong nhà vua bưng lò hương, ở trên toà, quỳ dài bạch
rằng:
–Nay đã
đúng giờ cúi mong đức Thế Tôn hạ cố.
Khi ấy
đức Phật Tỳ Bà Diếp thấy thì giờ đã đến, liền bảo đại chúng mặc y ôm bát,
đến phó hội, theo lời thỉnh của nhà vua. Bấy giờ đại chúng vây quanh, đi
đến cung vua, rồi ngồi trên toà. Nhà vua liền mời đức Phật và đại chúng
thọ thực. Tự tay vua bới sớt thức ăn, các thứ ngon bổ để dâng cúng. Lúc ấy
có một Tỳ kheo là Di Lặc bị bệnh, không đến dự được.
Ðức Phật
và đại chúng thọ thực xong, liền trở về. Khi trở về, các Ngài có nhận đồ
ăn của nhà vua cúng dường cho các Tỳ kheo bệnh. Lúc các Ngài đi ngang qua
hòn núi của Phạm chí, ông ta thấy đồ ăn ngon, liền sanh lòng đố kỵ, nói
rằng:
– Sa môn
trọc đầu này, đúng ra phải ăn lúa của ngựa, chứ không nên cúng dường món
ăn ngon bổ này.
Ông bảo
các đệ tử:
–Các
ngươi thấy gã đạo nhân trọc đầu này ăn toàn đồ ăn ngon bổ chăng?
Các đồng
tử thưa:
–Quả
thật chúng con có thấy.
Họ nói:
–Thầy
trò của bọn người này phải ăn lúa ngựa mới đúng.
Ðức Phật
bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi
có biết người Bà la môn ở núi Chúa lúc ấy là ai chăng? Chính là thân của
ta đó. Còn năm trăm đồng tử lúc đó thì nay là năm trăm vị La hán này. Còn
Tỳ kheo Di Lặc bị bệnh lúc ấy thì nay là Bồ Tát Di Lặc này.
Ðức
Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Lúc ấy
vì ta có lòng đố kỵ nó rằng: “Bọn người này không nên ăn những món ăn ngon
bổ. Họ nên ăn lúa ngựa mới phải”. Lúc ấy các ngươi cũng nói vậy, do đó ta
và các ngươi trải qua vô số ngàn năm ở trong địa ngục. Nay ta tuy thành
Phật, nhưng vì nghiệp duyên sót lại đời trước, nên ta và các ngươi phải ăn
lúa ngựa ngót chín mươi ngày tại ấp Tỳ Lan. Lúc ấy ta không nói:“Cho Phật
ăn lúa ngựa”. Ta chỉ nói: “Cho các Tỳ kheo ăn lúa ngựa”. Vì vậy cho nên
nay ta được ăn lúa đã làm sạch. Vì các ngươi lại nói thêm: “Nên cho Phật
ăn lúa ngựa”, cho nên nay các ngươi phải ăn lúa ngựa chưa sạch vỏ.
Bấy giờ
đức Thế Tôn nói bài kệ về nhân duyên kiếp trước:
Xưa ta là Phạm chí |
Sở học rất uyên bác |
Dạy năm trăm đồng tử |
Ở tại trong rừng cây |
Vào thời Phật Tỳ Diếp |
Mắng nhiếc các Tỳ
kheo: |
“Không nên cơm gạo
ngon |
Chỉ nên ăn lúa ngựa”. |
Các đồng tử cũng nói |
“Ðúng như lời thầy dạy, |
Cả thầy trò bọn chúng |
Ðều nên ăn lúa ngựa”. |
Do nhân duyên như vậy |
Mãi chịu khổ địa ngục |
Tai ương xưa sót lại |
Cùng năm trăm Tỳ kheo |
Khi Bà la môn thỉnh |
Hội tại ấp Tỳ Lan |
Cùng ăn lúa của ngựa |
Ròng rã chín mươi ngày |
Nhân duyên không thể mất |
Cũng không thành hư không |
Nên giữ ba nhân duyên |
Chớ phạm thân, khẩu, ý |
Nay ta thành Phật đạo |
Lại làm tướng ba cõi |
Trong suối lớn A Nậu |
Tự nói chuyện đời trước. |
Ðức
Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:
-
Ngươi xem đức Như Lai, các điều ác đã hết, các điều thiện đầy đủ. Với các
Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Ðế Thích, quần thần nhân dân tất cảø chúng
sanh đều muốn làm cho họ được độ thoát. Vậy mà vẫn không thể khỏi tai ương
sót lại đời trước, huống chi bọn ngu si chưa đắc đạo?!.
Ðức
Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi phải học và hộ trì ba nhân duyên, Chớ phạm thân, khẩu, ý. Này Xá
Lợi Phất! Phải học như vậy
Ðức
Phật dạy như vậy xong, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Ðại Long
vương A Nậu, tám bộ quỷ thần nghe đức Phật dạy, thảy hoan hỷ phụng hành.
Phải giữ ba nhân duyên |
Ðừng phạm thân, khẩu, ý |
Nay ta thành Phật đạo |
Lại làm tướng ba cõi |
Trong suối lớn A Nậu |
Tự nói chuyện đời trước. |
Ðức
Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:
- Ngươi xem đức Như Lai, các điều ác đã hết, các điều
thiện đầy đủ. Với các Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Ðế Thích, quần thần
nhân dân và chúng sanh, Ngài đều muốn độ thoát. Vậy mà vẫn không tránh
khỏi nhân duyên kiếp đời trước này, huống chi bọn ngu si chưa đắc đạo?!
Này Xá Lợi Phất! Phải phòng hộ thân, khẩu, ý.
Ðức Phật
dạy như vậy xong, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Ðại Long
Vương A Nậu, tám bộ quỷ thần nghe đức Phật dạy xong hoan hỷ phụng hành.
10.
Phật Nói Kinh Nhân Duyên Kiếp Trước Của Sự Khổ Hạnh
Nghe như
vầy:
Một thời
Phật ở tại con suối lớn A Nậu cùng với chúng Ðại Tỳ kheo là năm trăm vị,
đều là bậc A la hán, lục thông, thần túc đầy đủ, ngoại trừ một Tỳ kheo là
tôn giả A Nan.
Bấy giờ
đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngày
xưa tại thành Ba La Nại, cách thành này không xa cóù một cái ấp tên là Ða
Thú, trong đó có một Bà la môn là Thái sử của nhà vua, đứng đầu trong
nước. Ông ta có một người con, trên đầu tự nhiên có vòng hoa bằng lửa (Hoả
Man), do đó đặt tên cho chàng là Hoả Man, thân hình xinh đẹp, có ba mươi
tướng tốt. Các sách vở của Phạm chí, Ðồ Thơ, Sấm ký ... không thú gì mà
không thấu triệt. Cấm giới của ngoại đạo và các nghệ thuật toán số thảy
đều luyện tập thuần thục.
Bấy giờ
có một người con của thợ làm đồ gốm tên là Nan Ðề Bà La (Hộ Hỷ), từ nhỏ
vốn là bạn thân với Hoả Man. Trong lòng họ kính trọng nhớ nhau không chút
nào quên. Người con của thợ làm đồ gốm thì tinh tấn, dõng mãnh, nhân từ,
hiếu thuận. Cha mẹ chàng đều mù, chàng cung phụng song thân chẳng thiếu
vật gì. Nan Ðề Bà La tuy là thợ làm đồ gốm, nhưng tay chàng không đào đất,
cũng không bảo người khác đào, chàng chỉ lấy đất vách tường vở, bờ sập và
đất chuột đào nhồi lại làm đồ dùng, đẹp vô cùng, nếu có người nam hay
người nữ muốn mua các đồ gốm ấy, họ chỉ cần lấy luá mạch, mè, đậu để trên
mặt đất rồi lấy đồ gốm đi. Ngay từ đầu chàng đã chẳng định giá món hàng là
bao nhiêu. Chàng cũng không lấy vàng bạc, của cải, vải vóc, chàng chỉ lấy
luá gạo để dâng cúng cho cha mẹ mà thôi.
Tinh xá
của đức Như Lai Ca Diếp cách ấp Ða Thú không xa, cùng với chúng Ðại Tỳ
kheo là hai vạn người, đều là bậc La hán. Khi ấy Hộ Hỷ nói với Hoả Man
rằng:
–Chúng
ta cùng nhau đi đến viếng thăm đức Như Lai Ca Diếp chứ?
Hoả Man
đáp:
–Hộ Hỷ
muốn viếng thăm đạo nhân trọc đầu ấy à? Gặp con người trọc đầu ấy làm gì
có đạo? Phật đạo khó có thể được.
Chàng
nói như vậy cho đến ba lần. Ngày hôm sau Hộ Hỷ lại nói với Hoả Man:
–Chúng
ta cùng đến bờ sông để tắm rửa chứ?
Hoả Man
đáp:
–Ðồng ý!
Họ cùng
đến bờ sông để tắm rửa, rồi mặc y phục. Hộ Hỷ cầm cục đá trên tay, chỉ về
hướng xa, bảo bạn rằng:
–Tinh xá
của đức Như Lai Ca Diếp cách đây không xa, chúng ta hãy đến thăm Ngài một
lát chứ!
Hoả Man
đáp:
–Hộ Hỷ
muốn gặp đạo nhân trọc đầu ấy à? Ðạo nhân trọc đầu thì làm gì có đạo Phật?
Ðạo Phật khó mà đạt được!
Bấy giờ
Hộ Hỷ nắm áo của Hoả Man kéo đi, bảo rằng:
–Chúng
ta hãy đến chỗ Phật Ca Diếp. Ðức Phật ở gần đây lắm!
Khi ấy
Hoả Man cởi áo bỏ chạy, Hộ Hỷ liền đuổi theo sau, nắm đai ngang eo lưng
bảo rằng:
–Chúng
ta có thể gặp đức Phật chốt lát rồi trở về chứ?
Hoả Man
lại cởi dây đai bỏ chạy, bảo rằng:
–Tọi
không muốn gặp gã Sa môn trọc đầu ấy.
Hộ Hỷ
liền nắm đầu chàng kéo đi, bảo rằng:
–Hãy
cùng gặp đức Phật một lần rồi hãy về!
Ðức Phật
bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Tục lệ
người nước Ba La Nại thuở ấy tối kỵ là nắm đầu người ta. Hễ ai nắm đầu
người khác thì bị tử hình.
Lúc ấy
trong lòng Hoả Man rất đổi kinh hãi, nghĩ rằng: “Người con của thợ làm đồ
gốm này lẽ nào chịu tội chết mà nắm đầu ta sao?”.
Hộ Hỷ
bảo Hoả Man:
–Vì bạn
mà tôi bị chết cũng chẳng ân hận gì, miễn là làm sao bạn thấy được đức
Phật là tôi vui rồi!
Hoả Man
suy nghĩ: “Chuyện này chẳng phải nhỏ, có lẽ là việc tốt gì đây mới khiến
cho bạn ta chịu chết mà nắm đầu như vậy”. Anh nói:
–Hãy thả
đầu tôi ra, tôi sẽ theo anh.
Khi ấy
Hộ Hỷ liền thả ra. Hoả Man liền đi theo bạn.
Anh bối
tóc, mặc y phục lại, cùng đi với bạn đến chỗ đức Phật Ca Diếp. Hộ Hỷ đảnh
lễ dưới chân đức Như Lai Ca Diếp rồi ngồi qua một bên, còn Hoả Man thì
đứng thẳng, giơ tay chào hỏi rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy Hộ Hỷ chắp tay
bạch đức Phật Ca Diếp rằng:
–Anh Hoả
Man này là con của Thái Sử trong ấp Ða Thú, là bạn thân của con từ thời
thơ ấu, nhưng anh ta không biết Tam Tôn, không tin Tam Bảo, không thấy
Phật, không nghe Pháp, không cúng dường chúng Tăng. Cúi mong đức Thế Tôn
khai hoá cho sự ngu muội, làm cho anh ấy tin hiểu.
Bâý giờ
đồng tử Hoả Man nhìn kỹ đức Phật từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, thấy
đức Phật tướng tốt, oai nghi vòi vọi, các căn tịch định, thuần thục, điều
hoà, thân Ngài có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹïp, giống như hoa
cây Sa la, thân của Ngài giống như núi Tu Di, không thể thấy được đảnh
đầu, mặt Ngài như trăng rằm, hào quang chói sáng như mặt trời giữa ban
ngày, thân sắc như núi vàng. Khi ấy Hoả Man thấy tướng tốt của đức Phật
xong, liền suy nghĩ: “Sách Sấm Ký của Phạm chí có ghi chép về tướng tốt,
nay đức Phật đã có đủ các tướng ấy, chỉ có hai tướng là ta không thấy
được”. Bấy giờ Hoả Man dùng kệ hỏi:
Con nghe bậc Ðại sĩ |
Ðủ ba hai tướng tốt |
Tôn quý giữa loài
người |
Con không thấy hai
tướng |
Vậy thân bậc trượng
phu |
Có Mã âm tàng
chăng? |
Và có lưỡi rộng dài |
Che khắp cả đầu mặt |
Xin Ngài thè lưỡi
ra |
Ðể con hết hồ nghi |
Thấy rồi con mới
biết |
Như kinh ghi chép
chăng? |
Bấy giờ
đức Như Lai Ca Diếp liền thè tướng lưỡi rộng dài ra che phủ cả mặt, lên
tới nhục kế, qua hai lỗ tai. Bảy lần đưa lưỡi lên đầu rồi thu lưỡi vào
miệng. Hào quang trong thân Ngài phóng ra chiếu sáng cả đại thiên thế giớ,
luôn cả ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, cho đến cõi trời A Ca Nị Tra,
hào quang trở lại xoay quanh thân Ngài bảy vòng rồi lại vào đảnh đầu của
Ngài.
Ðức Như
Lai Ca Diếp dùng sức thần túc hiện tướng Mã âm tàng, chỉ cho một mình Hoả
Man thấy, ngoài ra mọi người đều không thấy.
Khi ấy
đồng tử Hoả Man thấy đức Phật đủ ba mươi hai tướng tốt chẳng thiếu tướng
nào nên hớn hở vui mừng, không thể tự kiềm chế được.
Bấy giờ
đức Như Lai Ca Diếp thuyết pháp cho đồng tử Hoả Man nghe. Ngài thuyết về
Pháp Bồ Tát đoạn mất công đức. Những pháp gì là đoạn mất công đức của Bồ
Tát? – Ðó là thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ðiều mà thân không nên
làm lại làm, miệng không nên nói lại nói. Ý không nên nghĩ lại nghĩ.
Sao gọi
là Bồ Tát thân không nên làm lại làm? –Ðó là sau thành Phật, thân hình
lùn, nhỏ. Này Tộc tánh tử, đó là quả báo thân không nên làm mà làm của Bồ
Tát
Sao gọi
là Bồ Tát miệng không nên nói lại nói? –Ðó là sau khi xuất gia học đạo, nỗ
lực cần khổ mới được thành Phật. Này Tộc tánh tử, đó là quả báo miệng
không nên nói mà lại nói của Bồ Tát.
Sao gọi
là Bồ Tát ý không nên nghĩ mà lại nghĩ? –Ðó là Bồ Tát sau khi thành Phật,
Tăng chúng bên trong Tỳ kheo thường không hoà hợp, bất cứ ở đâu cũng cãi
nhau chuyện thị phi, phải trái. Này Tộc tánh tử, đó là quả báo tâm không
nên nghĩ mà lại nghĩ của Bồ Tát.
Này Tộc
tánh tử! Ðó là quả báo về ba ác hạnh của Bồ Tát. Này Tộc tánh tử! Hãy bỏ
những điều ấy.
Bấy giờ
đồng tử Hoả Man liền tiến tới đảnh lễ dưới chân đức Phật, quỳ dài chắp tay
bạch đức Phật:
–Nay con
xin sám hối điều thân không nên làm lại làm, miệng không nên nói lại nói,
tâm không nên nghĩ lại nghĩ. Cúi mong đức Thế Tôn chấp nhận sự sám hối của
con. Kể từ nay về sau, con không dám phạm nữa!
Ðồng tử
sám hối cho đến ba lần như vậy. Ðức Như Lai Ca Diếp im lặng nhận lời. Khi
ấy đồng tử Hoả Man, đồng tử Hộ Hỷ đồng đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức
Phật, cáo từ rồi ra về. Ðồng tử Hoả Man ngay giữa đường bỗng nghĩ đến ba
ác báo, liền bảo Hộ Hỷ rằng:
–Anh bị
thất lợi, không làm điều có lợi. Anh làm điều không có lợi, không làm điều
có lợi. Tôi không muốn nhìn mặt anh nữa, tôi không muốn nghe nói đến tên
của anh nữa!
Hộ Hỷ
hỏi rằng:
–Vì sao
như vậy?
Hoả Man
đáp:
–Anh sớm
theo đức Phật Ca Diếp, nghe Pháp bảo sâu xa, tại sao vẫn ở nhà mà không
hành đạo?
Hộ Hỷ
đáp:
–Anh
không biết là cha mẹ tôi già cả, lại bị mù loà, tôi phải cúng dường song
thân, làm sao xuất gia được? Không lâu nữa, tôi cũng muốn hành đạo. Nếu
tôi xuất gia hành đạo, khi nào cha mẹ tôi đã mạng chung mới được. Vì vậy
nên tôi không muốn xuất gia.
Hoả Man
nói với Hộ Hỷ:
–Tôi nhờ
theo đức Phật Ca Diếp, được nghe Ngài nói về nhân duyên quả báo của Bồ Tát
khi làm ba ác hạnh, nên tôi không thích sống ở nhà nữa. Tôi muốn ngay tại
chỗ này quay trở lại chỗ đức Phật để xin làm Tỳ kheo.
Hộ Hỷ
hỏi rằng:
–Lành
thay! Lành thay! Hoả Man đã do sức mạnh của tư duy mới có thể trở lại với
đức Phật đúng lúc. Vì sao vậy? Vì ở đời khó gặp Phật vậy.
Ðồng tử
Hoả Man liền ôm Hộ Hỷ xong, nhiễu quanh ba vòng, chắp tay tạ rằng:
–Giả sử
thân, khẩu, ý của tôi có lỗi với anh, mong anh tha thứ! Anh đã khổ sở chỉ
cho tôi đạo lớn chánh chơn.
Bấy giờ
Hoả Man nói kệ tán thán bạn:
Bạn lành đã thương tôi |
Pháp hữu không tham quyến |
Dẫn tôi đến chánh đạo |
Bạn này, Phật khen ngợi! |
Ðồng tử
Hoả Man nói kệ xong, Như Lai nhiễu quanh Hộ Hỷ ba vòng rồi trở lại tinh xá
của Phật Ca Diếp, cúi đầu lạy dưới chân đức Phật, hai gối quỳ dưới đất,
chắp tay bạch đức Phật:
–Con có
được phép theo đức Như Lai Ca Diếp, cạo bỏ râu tóc, nhập Phật đạo, thọ
giới cụ túc chăng?
Lúc ấy
đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ðức Ca
Diếp Như Lai bấy giờ liền độ đồng tử Hoả Man, truyền trao Pháp giới cụ
túc.
Ðức Phật
bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
–Ngươi
biết đồng tử Hoả Man lúc ấy là ai chăng? Chính là thân của ta đó! Cha của
Hoả Man lúc ấy nay chính là Phụ vương Chân Tịnh. Còn Hộ Hỷ đồng tử, thợ
làm đồ gốm lúc ấy, nay chính là người mà lúc ta làm Thái tử, đang ở tại
cung của thể nữ, vào lúc nửa đêm, làm Thiên Tử Bình, đến bảo ta rằng:
“Thời gian đã đến, hãy xuất gia học đạo đi!”.
Ðức Phật
bảo:
–Này Xá
Lợi Phất! Anh Hộ Hỷ cứ khuyên ta xuất gia mãi, chính là vị thiện tri thức
trong đạo vậy .
Ðức Phật
nói với tôn giả Xá Lợi Phất:
–Lúc
trước ta đã nói lời ác với Hộ Hỷ là: “Phật Ca Diếp là Sa môn trọc đầu. Ðâu
có đạo Phật, đạo Phật rất khó được”. Do lời nói ác ấy, cho nên khi thành
chánh đẳng chánh giác mà sáu năm ta Phải chịu khổ hạnh. Này Xá Lợi Phất!
Lúc ấy, mỗi ngày ta ăn một hạt mè, hạt lúa, hạt đậu lớn, hạt đậu nhỏ. Ta
đã chịu sự tận khổ như vậy, nhưng chẳng có lợi ích gì đối với đạo Pháp cả.
Ta đã chịu đựng sự khổ của đói, khát, lạnh, nóng, mưa, gió, muỗi mòng,
thân hình khô đét. Ta gọi đó là thành Phật đạo, nhưng thật ra lúc đó chẳng
thành gì cả.
Nầy Xá
Lợi Phất! Ta tu hành khổ hạnh sáu năm là đền bù nhân duyên kiếp trước đã
xong, sau đó mới thành A Nậu tam niệu tam Bồ Ðề – Vô thượng chánh đẳng
chánh giác vậy.
Bấy giờ
đức Thế Tôn nói bài kệ về nhân duyên kiếp trước:
Xưa ta là Hoả Man |
Nói với Hộ Hỷ rằng: |
“Gã trọc đâu có
Phật |
Phật đạo rất khó
thành” |
Do nhân duyên như
vậy |
Suốt cả sáu năm
trường |
Chịu đựng sự khổ
hạnh |
Mong được thành
Phật đạo |
Không phải vì khổ
hạnh |
Có thể thành Phật
đạo |
Mong cầu bằng phi
đạo |
Nhân duyên tự trói
buộc |
Duyên xưa không thể
mất |
Cũng chẳng thành hư
không |
Phải giữ ba nhân
duyên |
Chớ phạm thân,
khẩu, ý |
Nay ta thành Phật
đạo |
Lại làm tướng ba
cõi |
Trong suối lớn A
Nậu |
Tự nói chuyện đời
trước. |
Ðức Phật
bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:
- Ngươi
xem đức Như Lai, các điều ác đã hết, các điều thiện đầy đủ. Với các Trời,
người, Quỷ thần, Càn thát bà, A tu la, Câu lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la
già, tất cả chúng sanh, ta đều muốn độ thoát. Vậy mà ta vẫn không thoát
khỏi nghiệp duyên đời trước, huống chi bọn ngu muội chưa đắc đạo?!.
Này Xá
Lợi Phất! Phải học cách giữ gìn ba lỗi của thân, bốn lỗi của miệng và ba
lỗi của ý. Này Xá Lợi Phất! Phải học như vậy.
Khi đức
Phật nói về nhân duyên đời trước của đức Như Lai thì một vạn, một ngàn
thiên tử đắc đạo Tu Ðà Hoàn. Tám ngàn loài rồng đều thọ năm giới; năm ngàn
Dạ xoa thọ Tam Tự Quy.
Lúc bấy
giờ Ðại Long Vương A Nậu chắp tay bạch đức Phật:
–Thưa
Thế Tôn! Xin Ngài nhận sự cúng dường của con ngay trên con suối này Ngài
đã thuyết pháp nhân duyên về kiếp trước, khiến cho tương lai con khi thành
Phật, được tránh khỏi nhân duyên như vậy, làm cho con dứt sạch các điều
ác, thành Chơn Tịnh Như Lai.
Ðức Phật
bảo Long Vương A Nậu:
–Nếu
ngươi muốn được như điều mong ước ấy, ngươi phải hết sức giữ gìn thân,
khẩu, ý đừng để vi phạm thì ngươi mới có thể đạt được như điều mong ước
trên, tiêu diệt hết các điều ác, thành Chơn Tịnh Như Lai.
Khi ấy
Ðại Long Vương A Nậu nghe đức Phật dạy như vậy, hớn hổ vui vẻ, lấy hương
chiên đàn ở cõi trời rải lên trên đức Phật và năm trăm vị La hán.
Bấy giờ
đức Phật nói Pháp an ủi cho các Trời, Rồng, quỷ thần nghe. Sao gọi là Pháp
an ủi? Ðó là thực hành Pháp bố thí, Pháp trì giới, Pháp sanh lên cõi trời,
Pháp đoạn dục, Pháp đoạn trừ ba ác đạo, Pháp vô lậu, Pháp thanh tịnh.
Ðức Phật
thuyết như vậy xong, Ngài cùng Tỳ kheo rời khỏi toà hoa đang ngồi. Các Tỳ
kheo vây quanh đức Phật bay lên hư không, cao đến bảy cây Ða la, dùng thần
túc phi hành, giống như con chim bay lượn trên mây, rồi từ từ trở về Tinh
xá Trúc Viên ở La Duyệt Kỳ.
Khi đức
Phật thuyết như vậy xong, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Ðại
long Vương A Nậu, tám bộ quỷ thần thảy đều hoan hỷ, phụng hành.
PHẬT NÓI KINH
HƯNG KHỞI HẠNH
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 4-2003