KINH TRUNG BỔN KHỞI
( Còn một tên là
Tứ Bộ Tăng – Rút ra từ bộ Trường A Hàm )
- Hán dịch:
Ðời Hậu Hán, Tây Vức sa môn Ðàm Quả và Khương Mạnh Tường.
- Việt dịch:Thích
Chánh Lạc
---o0o---
– QUYỂN THƯỢNG.
1.- PHẨM CHUYỂN PHÁP LUÂN .
Tôn giả A Nam nói:
Trước đây tôi từng theo hầu đức Phật, nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở dưới gốc cây Nguyện Kiết, đạo tràng
Thiện Thắng, nước Ma Kiệt Ðề, có oai đức hùng mạnh hàng phục các ma, giác
huệ thần tịnh, tam đạt vô ngại, độ 2 người khách buôn, là Ðề Vị và Ba Lợi,
trao cho họ ba quy y, rồi truyền năm giới, làm Thanh–tín-sĩ . Bởi ngày
xưa, có đức Phật đầu tiên tên là Ðịnh Quang, ta nhờ lễ bái danh hiệu đức
Phật này, nên đức Phật ấy thọ ký rằng:
- Về sau, 91
kiếp nữa, người sẽ thành Phật tên là Thích Ca Văn, hiệu là Như Lai Chí
Chơn, Ðẳng Chánh Giác, Minh hạnh thành, Thiện Thệ Thế gian-giải, Vô
thượng sĩ, Ðạo pháp-ngự, Thiên-nhơn-sư, Phật, Chúng hựu, cứu độ người đời
như ta hiện nay vậy. Từ ấy đến nay ta tu tập bổn tâm, tu lục độ đến chổ
tột cùng, tích lủy công hạnh với pháp tu tứ đẳng (Từ, Bi, Hỷ, Xả) không
mệt mỏi, vạn hạnh đặc thù, nhẫn khổ vô lượng, công đức báo ân không hề
thiếu sót, nhờ phát khởi đại nguyện mà kết quả viên thành.
Ðức Thế Tôn
nghĩ rằng:
- Ta đã phát
tâm thệ nguyện: Vì các quần sanh, Phạm Thiên Ðế Thích đến thỉnh pháp, mà
cam lồ mở ra, ai thích hợp được thì nghe trước.
Ngày xưa ta
xuất gia, trên đường dẫn đến phạm chí, A Lan Ca Lan, Chờ lúc ta chứng ngộ,
hai người sẽ được độ trước: Nhờ nghĩ vậy nên bây giờ ta muốn độ họ.
Chư Thiên
vâng theo thánh chỉ, ở trên không trung thưa rằng:
- Hai vị ấy
đã mất cách đây 7 ngày rồi
Ðức Phật bảo:
- Khổ thay,
này A Lan Ca Lan, cửa cam lồ đang mở, sao ngươi không được nghe.
Ðức Phật lại
nghĩ rằng:
- Cam lồ đang
mở ra, kế đến, ai là người đáng nghe?
Uất Ðầu Lam
Phất là người đáng nghe tiếp theo, Ngài mới đứng dậy muốn đến đó, chư
Thiên lại thưa rằng:
- Người này
mới mạng chung vào chiều hôm qua.
Ðức Phật nói:
- Người ấy
mãi bị suy thối, cam lồ đang mở ra mà không được nghe, bị sanh tử qua lại,
làm sao có thể chấm dứt sự luân chuyển trong 5 đường, đau khổ biết bao.
Ðức Phật lại
nghĩ rằng:
- Trống pháp
cam lồ vang rền cả Tam thiên đại thiên thế giới, ai có thể nghe được? –
Ngày trước phụ vương ta bảo 5 người: 1) Câu Lân. 2) Ái Bệ. 3)Bạt Ðề.
4)Thập Lực Ca Diếp. 5) Ma Nam Câu Lợi. Cung cấp mè lúa cho ta, hầu hạ ta
khổ sở, công ấy cần được báo đền.
Khi ấy 5
người này đều ở tại nước Ba La Nại. Bấy giờ đức Như Lai mới từ dưới gốc
cây đứng dậy với tướng tốt oai nghiêm, hào quang chiếu diệu thế gian, oai
thần chấn động, ai thấy cũng hoan hỷ. Ngài đi thẳng đến nước Ba La Nại,
giữa đường Ngài gặp một Phạm chí tên là Ưu Hu, thấy đức Thế Tôn thần diệu,
nên làm cho ông mừng sợ giao xen, đứng một bên đường cất tiếng khen ngợi:
- Ngài thật
là người oai nghiêm linh cảm, nghi dung đỉnh đạc. Ngài thờ ai làm thầy mà
được tư dung như vậy?
Ðức Phật vì Ưu Hu nói bài tụng:
- Nhờ được tám chánh giác
Không ly không nhiễm ô
Hết thọ, phá lưới dục
Tự nhiên, không có thầy
Ta tu hành, không thầy
Quyết chí, không bạn lữ
Tích lũy đến thành Phật
Nhờ đó thông Thánh Ðạo!
Ưu Hu hỏi đức Phật Cú Ðàm:
- Ngài đi về đâu?
Ðức Phật nói với Phạm Chí:
- Ta muốn đến nước Ba La Nại, đánh trống pháp cam lồ,
chuyển pháp luân vô thượng mà các thánh nhân trong ba cõi chưa từng chuyển
pháp luân, làm cho mọi người đều nhập Nê hoàn như ta hôm nay vậy .
Ưu Hu rất vui mừng nói:
- Lành thay, lành thay! Như lời Cù Ðàm nói, xin Ngài mở
cam lồ, như vậy mà thuyết pháp.
Bấy giờ đức Như Lai liền đến dưới gốc cây nơi vườn Nai
chỗ của Cổ Tiê Nhân, nước Ba La Nại, Ngài đến chổ 5 người kia .
Năm người ấy từ xa trông thấy đức Phật đi đến, họ cùng
nhau nghị luận rằng:
- Chúng ta cần khổ, xa lìa nhà cửa, leo núi vượt đèo cô
cùng cực khổ, chính là vì để cung cấp mè lúa cho người này, song vị ấy
không thể chịu nỗi, nhân vì bị ma chiến bại, cho nên mới mềm yếu trốn
tránh như thế. Vì vậy nay vị ấy đến đây, một hạt mè, hạt lúa mà không chịu
nổi, lại đi cầu ăn thì làm sao có thể thành đạo được? Chúng ta chỉ nên
trải tòa ngồi ra đó, nhưng không quỳ, không hỏi han chi cả. Khi bị đối xử
tệ như vây chắc chắn vị ấy phải tụ bỏ mà đi.
Bấy giờ đức Thế Tôn vì 5 người này hiện đạo thần hóa,
làm cho họ hân hoan, sung sướng bất giác đứng dậy đảnh lễ, hầu hạ Ngài như
trước, Ðức Phật bảo 5 người ấy:
- Các ngươi cùng nhau bàn luận là không được đứng dậy,
vì sao nay lại đảnh lễ?
Họ đều thưa rằng:
- Chúng tôi ngồi ở đây là vì Tất Ðạt, nên phải trải qua
các thứ cần khổ. Vua Duyệt Ðầu Ðàn bạo nghịch vô đạo là do Ngài đó.
Ðức Phật bảo 5 người ấy:
- Các người đừng nên coi thường bậc
Vô-thượng-chánh-chơn. Như Lai bình đẳng giác, là bậc Vô-thượng-chánh-giác,
không nên có ý sanh tử đối với Ngài. Vì sao các ngươi lại lại đối với ta
mà lại nói tên của cha ta?
Ngài lại bảo 5 người:
- Các ngươi hãy xem thân của ta có giống như lúc ở dưói
gốc cây trước đây chăng?
Năm người kia đáp rằng:
- Lúc ấy Ngài tiều tụy, nay lại sáng lạng, Nhưng khi ấy
Ngài ở dưới gốc cây, ngồi ngay thẳng mắt nhắm, ngày ăn một hạt mè, hạt
lúa, mà còn gọi là chẳng phải đạo, huống chi nay Ngài vào nhân gian, thân,
miệng muốn ăn muốn mặc gì tùy thích, sao gọi là đạo được?
Ðức Phật bảo 5 người ấy:
- Thế gian có hai việc, làm cho bị xâm lấn khinh
thường.
Những gì là hai? – Ðó là sát sanh, dâm dật, dựa vào sự
giàu có, tham dục; nghèo khó, lao khổ, bên trong không có đạo tích. Không
có 2 việc này, chẳng phải là chơn đạo nhân sao? – Ta đối với 96 học thuật
cũng không xả bỏ, hướng vào trung đạo không vướng vào hai cực đoan. Vì sao
hướng vào trung đạo mà được giác huệ hạnh, đạt được các trí, ngộ lục thông
đầy đủ 8 chánh hạnh?
- Ðó gọi là hướng vào trung đạo, an trú ở Nê hoàn vậy .
Ðức Phật nói pháp ấy, nhưng năm vị kia vẫn chưa hiểu,
ba người đi khất thực, thì hai người ở nhà cúng dường. Ðức Phật thuyết
pháp cho hai người nghe:
- Sắc là khổ, tất cả các tai hoạn, đều do sắc dục mà
ra, vạn vật đều vô thường, con người cũng không thường trụ. Giống như nhà
huyễn thuật, ý muốn làm trò biến hóa, nhưng kẻ ngu thấy vậy thì ái luyến,
tham đắm không nhàm chán. Nhưng nhà huyễn thuật quán biết sự huyễn hóa ấy,
cho nên không nhiễm ô không đắm trước. Vì sao vậy? – Vì nó là giả chứ
không phải chơn.
Ðức Phật vì hai người ấy nói bài kệ:
- Tâm buông lung dục hạnh
Gốc tham dục thêm sâu
Tham đắm thêm oán, họa
Lìa dục không tai họan.
Ba người ở nhà cúng dường, hai người đi khất thực Ngài
nói cho họ nghe:
- Tham là khổ, nó làm cho thích điều lợi, cầu vinh hoa
người ngu mê đắm đuối, đưa đến sự tác hại và thất đức, đều do nơi tham:
mừng giận, được mất, kẻ tham dục không nhàm chàn vì tư lợi nên có sự nguy
khốn, sự vật như mây bay. Khi già bệnh chết đến, chẳnh có gì mà chẳng
phân tán. Giống như người nằm mộng, thức dậy chẳng thấy gì cả. Người trí
tuệ có thể bỏ tham mới được an ổn lớn.
Ðức Phật vì ba người ấy nói bài kệ:
- Ý tham dục là mộng
Tâm không chán là mộng
Dứt tham, bỏ cầu lợi
Không còn ưu sầu nữa.
Bấy giờ đức Thế Tôn nhân thuyết pháp rộng rãi, theo thứ
lớp, 5 người liền hiểu đạo, xin làm đệ tử.
Ðức Phật bảo:
- Thiện lai tỳ kheo!
Họ đều thành sa môn. Ðức Phật bảo:
- Này Tỳ kheo, có hai việc nếu làm phải rơi vào chỗ
thấp kém. Một là nghĩ đến sắc dục, không có tâm thanh tịnh. Hai là do ái
dục mà tham trước, không thể làm cho tâm ý thanh tịnh. Hai việc làm đó
khiến con người rơi vào tà hạnh sanh ra không gặp Phật, chống trái lìa xa
chơn đạo. Nếu ai có thể đoạn trừ tham, tinh tấn tu hành sáng suốt, người
ấy có thể đắc đạo Nê Hoàn. Kẻ học đạo trước tiên phải biết Tứ Ðế. Sao gọi
là Tứ Ðế?
- Ðó là: 1) Khổ. 2) Tập. 3) Tận. 4) Nhập đạo. Như vậy,
này Tỳ kheo, tiếp theo phải giữ giác huệ, một lòng nghĩ đến Thiền, nhận rõ
sự báo ứng của đạo. Pháp nhãn đã sáng, liền hiểu bốn đế ấy, lần lần nhập
vào dòng Dự Lưu.
Sao gọi là Khổ?
- Ðó là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ưu bi
não là khổ, ân ái xa lìa là khổ, oán thù gặp nhau là khổ, cầu mong không
được là khổ. Tóm lại, từ năm ấm mà chấp thủ là khổ.
Sao gọi là Tập?
- Do ái trước tập hợp, nếu không có ái trước thì cũng
không tập.
Sao gọi là Tận?
- Do Trí giác đoạn diệt ái, nên không ái, không niệm,
mà được giác ngộ.
Sao gọi là Nhập đạo?
- Ðó là Bát chánh đạo: 1) Chánh kiến. 2) Chánh lợi. 3)
Chánh ngôn. 4) Chánh hành. 5) Chánh mạng. 6) Chánh tri. 7) Chánh trí. 8)
Chánh định.
Ðó là Khổ, Tập, Tận, Ðạo. Chơn đế là vô sanh, vì vô
sanh cho nên vô tử. Vì vô tử cho nên vô bệnh, vì vô bệnh cho nên vô tử, vì
vô tử cho nên không khổ đau, vì không khổ đau cho nên được tốt lành vô
thượng, hướng đến Nê Hoàn. Bấy giờ đức Như Lai liền nói bài tụng:
- Ðạo màu không qua lại
Huyền vi, thanh diệu chơn
Không tử cũng không sanh
Chính đó là Nê Hoàn
Nó tịch tịnh vô thượng
Rốt ráo không tạo tác
Tuy cõi trời có đẹp
Nhưng không bằng Nê Hoàn.
Ngài thuyết pháp như vậy. Năm người là Câu Lân.....,
liền được pháp nhãn.
Ðức Phật hỏi:
- Này Câu Lân, ngươi hiểu chưa?
Tôn giả đứng dậy thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, con chưa hiểu.
Ðức Phật lại bảo:
- Này Câu Lân ở thời quá khứ lâu xa về trước, có mọt vị
vua tên là Ác Sanh, ông ta đem các kỷ nữ vào núi vui chơi, ra lệnh quan
thuộc hạ đứng dưới chân núi, ông ta chỉ dẫn các kỷ nữ theo, từ từ đi lên
đỉnh núi, lúc ấy nhà vua rất mệt mỏi nên nằm nghỉ, các kỷ nữ ấy để nhà vua
ở lại, còn họ thì đi hái hoa. Họ thấy một vị đạo nhân ngồi ngay thẳng dưới
gốc cây, nên trong lòng hân hoan đều đến để đảnh lễ. Vị đạo nhân cầu
nguyện cho họ:
- Các cô hãy đến đây! Ngài bảo họ ngồi xuống, Ngài
thuyết pháp cho họ nghe.
Khi nhà vua tỉnh giấc đi tìm các kỷ nữ, thấy họ đang
ngồi trước vị đạo nhân ấy, nên trong lòng đố kỵ, sanh ra ác tâm liền hỏi
đạo nhân:
- Tại sao ngươi dụ dỗ các kỷ nữ của ta? Ngươi là người
gì mà ngồi ở đây?
Ðạo nhân biết ý của vua hung bạo, độc hại, nên đáp
rằng:
- Tôi là người nhẫn nhục!
Nhà vua liền rút kiếm chặt đứt 2 tay của đạo nhân, rồi
hỏi tiếp:
- Ngươi là người gì?
Ngài đáp:
- Quả thật tôi là người nhẫn nhục!
Nhà vua lại cắt tai và mũi của đạo nhân. Nhưng tâm của
đạo nhân vẫn kiên cố bất động, Ngài vẫn nói: Tôi là người nhẫn nhục .
Nhà vua thấy nhan sắc của nhà vua không di động, mới
giật mình đến trước sám hối lỗi lầm. Ðạo nhân bảo nhà vua:
- Nay Ngài vì nũ sắc nên đã dùng dao cắt đứt thân mình
của ta. Nhưng sự nhẫn của ta như mặt đất, chắc chắn ta sẽ được quả bình
đẳng chánh giác. Ta sẽ dùng nhất thiết trí để đoạn trừ sanh tử cuả Ngài.
Nhà vua suy nghĩ mình tội nặng, chắc chắn phải gánh
lấy tai ương dữ dội mới đập đầu xuống đất, xin Ngài tha tội.
Ðạo nhân bảo nhà vua:
- Nếu ta quả thật là người nhẫn nhục, máu trong thân ta
sẽ biến thành sữa, làm cho những chổ bị đứt sẽ lành lại như xưa!
Ðúng như lời Ngài nói, sữa chảy ra và thân hình lại
bình phục như xưa.
Nhà vua thấy sự chứng minh về đức nhẫn đó của Ngài, mới
mong Ngài cứu tế, lại nói lời chân tình rằng:
- Nếu như Ngài thật sự thành đạo xin Ngài độ cho con
trước tiên.
Ðạo nhân đáp rằng: - Xin vâng.
Nhà vua liền hết mê muội, cáo từ trở về cung.
Ðức Phật bảo Câu Lân:
- Vị đạo nhân nhẫn nhục lúc ấy chính là thân của ta.
Còn vua Ác Sanh lúc đó chính là Câu Lân vậy.
Này Câu Lân! Ngươi đã hiểu chưa? Lúc ấy Câu Lân bạch
đức Phật:
- Con rất hiểu, bạch Thế Tôn!
Khi đức Phật thuyết bài pháp ấy xong, Câu Lân..... 5
người, được lậu tận, ý giải thoát đều chứng La-hán, và tám vạn chư thiên ở
trên đều được pháp nhãn, ba ngàn thế giới bị chấn động mạnh.
Ðó là lần đầu tiên Như Lai ở nước Ba La Nại dùng vô
thượng pháp luân cuyển cho người chưa được chuyển, cứu độ tất cả, không ai
mà không vui mừng.
2. PHẨM HIỆP BIẾN ( Còn Gọi Thiện Lai )
Bấy giờ ở trong thành Ba la nại có một trưởng giả tên
là A Cụ Lợi, ông ta có một người con tên là Dã Dã (nước Tấn gọi là Bảo
Xứng) lúc 24 tuổi, Xứng sanh điều kỳ lạ, có đôi guốc bằng lưu ly, hể giở
chân lên thì liền hiện. Cha Mẹ quý sự lạ lùng ấy cho nên đặt tên là Bảo
Xứng, họ làm cho chàng một ngôi nhà, chổ ở tùy theo thời tiết nóng lạnh
khác nhau, có kỷ nữ vui chơi không kể ngày đêm. Bấy giờ vào lúc nữa đêm,
Bảo Xứng bổng thức giấc, thấy các kỷ nữ đều như những thây chết, máu mũi
chảy đầy, tay chân rã rời, đầy cả gian phòng, in như bãi tha ma, chàng
hoảng hốt bỏ chạy ra cửa thì cửa lớn tự mở, lúc ấy đất trời tối tăm mù
mịt, chỉ thấy một tia ánh sáng, chàng chạy đến cửa thành phiá Ðông, cửa
thành lại tự mở, ánh sáng tỏa chiếu vườn Nai, chàng tìm theo ánh sáng đi
đến chỗ đức Phật, chàng xem thấy tướng đức Phật tốt đẹp lạ thường, sáng
láng, vòi vọi nên sợ hãi đứng lại, lúc ấy chàng như người nữa mê nữa tỉnh
cất tiếng than rằng:
- Lâu nay ta ở trong ngục ân ái, bị gông cùm danh sắc
trói buộc, nay ta theo đấng Thiên tôn, há không được giải thoát sao?
Lúc ấy đức Phật bảo:
- Này Ðồng tử! Ðã khéo đến với bậc giác ngộ. Nơi đây
không có sự lo âu, các hành đầy đủ.
Ðồng tử đến trước lạy dưới chân đức Phật rồi đứng qua
một bên. Ðức Phật thuyết pháp cho chàng nghe, chàng liền được con mắt pháp
vô cấu, lùi lại bạch đức Phật:
- Xin đức Phật cho con được làm đệ tử.
Ðức Phật nói:
- Thiện lai Tỳ kheo.
Ðồng tử liền thành sa môn.
Sáng sớm các kỷ nữ thức giấc hoảng hốt tìm kiếm khắp
nơi, kêu gào khóc lóc, trưởng giả hoảng sợ mới hỏi cớ sự, các kỷ nữ thưa
rằng:
- Không biết Bảo Xứng nay ở đâu?
Trưởng giả lo sợ, liền bảo người cỡi ngựa tìm kiếm khắp
nơi. Còn trưởng giả thì cởi xe của con mình chạy thật mau để tìm kiếm. Con
đường dẫn ông tới một dòng nước yên là Ba La Nại. Khi ông qua dòng nước ấy
thì thấy đôi guốc báu của con cởi bỏ lại bên bờ sông. Ông liền theo dấu
chân đến vườn Nai. Ðức Phật dùng phương tiện, khiến cho cha con hai bên
không thấy nhau.
Trưởng giả thấy đức Phật là bậc tôn nghi có tướng đẹp,
nên trong lòng mừng lo lẫn lộn quên mất sự cung kính mới hỏi đức Phật
rằng:
- Con của tôi tên là Bảo Xứng, dấu chân của nó tới đây,
vậy Cù Ðàm có thấy không?
Ðức Phật bảo trưởng giả:
- Nếu con của ông ở đây, lo gì mà không thấy.
Ðức Phật thuyết pháp cho ông nghe:
- Sanh tử là do si mê, sự ân ái nào cũng có chia ly,
phá bỏ 20 ức điều ác, liền chứng Tu Ðà Hoàn .
Lúc ấy tâm của Bảo Xứng khai mở, liền chứng La Hán, cha
con gặp nhau, tình ân ái mỏng dần, trưởng giả vui mừng thối lui bạch đức
Phật:
- Hôm nay tâm con sung sướng, trong lòng có hai điều
vui: Một là gặp và hiểu pháp nên vui. Hai là xa lìa ân ái nên hoan hỷ.
Khi ấy Bảo Xứng có 4 người bạn thân: 1) Phú Nhục. 2)
Duy Ma La. 3) Kiều Viêm Bát. 4) Tu Ðà. Họ nghe Bảo Xứng đã làm sa môn,
kinh hoàng, lông tóc dựng đứng nói rằng:
- Bạn của ta đức cao, trí thấy xa, cả nước đều biết,
chúng ta đều nương tựa vào người ấy, nay đã làm sa môn. Có lẽ đạo ấy chân
thật mới khiến bạn của ta bổng nhiên bỏ sự vinh lợi ở đời như thế? Họ cùng
đến gặp đức Phật, cùng hầu thăm Bảo Xứng. Họ liền cùng đi, thấy đức Phật,
nhờ bổn hạnh nguyện đời trước của họ nên tâm được khai mở, đầu mặt đảnh
lễ, đến trước bạch đức Thế Tôn rằng:
- Chúng con khao khát sự giáo hóa của Ngài, tâm hồn
trống rỗng lâu ngày, xin Ngài đừng cho chúng con là thô lậu, cho chúng con
xin làm đệ tử của Ngài.
Ðức Phật nói:
- Thiện lai Tỳ kheo!
Tất cả đều thành sa môn. Ngài nói về ý chỉ của bổn tâm,
để biểu sự thanh tịnh. Họ nghe ý nghĩa mà tâm được khai ngộ liền chứng
La-hán.
Bấy giờ ở gần Ba La Nại có huyện gọi là Ðồ, có 50
người, nhân có việc đi đến nước ấy nghe Bảo Xứng, Phú Nhục.... đều làm sa
môn, họ đều sanh ý nghĩ:
- “Những người con của các trưởng giả nầy kiêu ngạo,
hoan lạc, tự buông lung, tài nghệ hơn đời, nhưng chúng thảy đều cảm sự hóa
đạo, có lẽ Cù Ðàm là vị thần mới khiến bọn quý tộc không cần nghĩ đến vinh
hoa” . Những người ấy đều phát tâm muốn đến chỗ phật. Họ cùng đi dến vườn
Nai. Nhờ bổn nguyện ứng hợp với sự hóa độ, thấy đức Phật họ liền hiểu và
xin làm đệ tử. Ðức Phật nói:
- Thiện lai Tỳ kheo!
Họ đều thành sa môn. Nhờ thuận theo những lời dạy căn
bản, nên họ mau thành thục pháp yếu, hết trần cấu, thoát khỏi trói buộc,
đều chứng La-hán.
Bấy giờ ở tại vườn Nai có đông người tụ hội để ăn uống
ca múa. Khi ấy có một người nữ sắc đẹp phi phàm, đang múa ở trong hội ấy.
Mọi người đều hân hoan, trong lòng rất ưa thích cô ta. Cô gái múa chưa
xong thì bổng nhiên biến mất. Mọi người hỏi đức Phật:
- Vừa rồi có một cô gái cùng ca múa với chúng tôi, đi
đến đây. Cù Ðàm có thấy nàng chăng?
Ðức Phật bảo mọi người:
- Hãy tự quán sát thân mình, quán sát người khác làm
gì? Sắc dục là vô thường, có hội hiệp thì có chia ly, nó giống như bong
bóng, bọt nổi. Kẻ ngu luyến trước sắc dục nên tai họa do đó sanh ra. Thân
là vật chứa sự khổ, chúng sanh ai cũng vậy.
Khi nghe xong tâm của mọi người bừng tỉnh, xin làm sa
môn. Ðức Phật đều truyền giới cho họ, dẫn cho họ thấy chánh đế, họ đều đắc
quả ứng chơn (La hán).
Ðức Phật bảo rằng:
- Này Tỳ kheo, các ngươi hãy ra đi mà rộng độ chúng
sanh, tùy theo chỗ thấy pháp của mỗi người mà làm cây cầu, chỉ đường, rộng
thí pháp nhãn, tuyên xướng ba đấng tôn qúi, bạt trừ ái hữu, làm cho ai nấy
đều nhập Nê Hoàn. Nay ta độc hành đến Ưu Vi La.
Các Tỳ kheo thọ giáo, đầu mặt đãnh lễ dưới chân đức
Phật, nhiễu quanh ba vòng, từ đó ra đi.
3.- PHẨM HÓA ÐỘ CA DIẾP.
Bấy giờ đức Như Lai trở lại nước Ma Kiệt Ðề, đến vùng
Ưu Vi La, buổi tối Ngài dừng chân ở trong vườn Tư Nại. Ðức Phật hiện ánh
sáng vàng, chiếu thẳng vào ngôi nhà của Phạm chí. Ông có 2 người con gái,
cô chị tên là Nan Ðà, cô em tên là Nan Ðà Ba La. Họ thấy ánh sáng nên vui
mừng, liền đến chổ đức Phật, lễ bái thỉnh Phật. Ðức Phật bước vào nhà dạy
cho 2 cô gái quy y Tam Bảo, thọ trì 5 giới xong, đức Thế Tôn dạy rằng:
- Thân không phải là vật sở hữu của ta, vạn vật đều trở
về không.
Tâm hai cô gái khai mở, cúi đầu phụng hành. Ðức Thế Tôn
nghĩ rằng: “Từ lúc ta bắt đầu học đạo đến nay là để cứu độ chúng sanh làm
cho ma vương của dục giới quy phục trở về với đạo”.
Gần ở bờ sông Ni Lan Thuyền có một Phạm chí họ là Ca
Diếp, tên là Uất Tỳ La, đã 120 tuổi, có danh tiếng đồn xa, được người đời
phụng thờ, kính ngưỡng, tu theo đạo thờ lửa, ngày đêm không mệt mỏi, ông
ta có đến 500 người đệ tử hiếu học. Ca Diếp có hai người em. Tông sư là
anh tự cho là mình đã đắc đạo. Mỗi người đều có đệ tử riêng, đều sống dưới
hạ lưu của sông Ni Lan Thuyền. Ca Diếp tự nghĩ: “Danh tiếng của ta ngày
một cao, người trong nước đều kính ngưỡng. Nếu tài nghệ mà ít ỏi thì ta dễ
bị cùng đường, nếu đã cùng đường thì danh cũng bại liệt. Vậy ta hãy tạo
một kế hay để toàn quốc đều ngưỡng vọng”. Ông liền đi kiếm rồng, dùng chú
thuật để đến đó làm một cái nhà yên tĩnh, mà bảo với con rồng rằng:
- Nếu có ai khinh suất đột nhập vào ngôi nhà yên tĩnh
này thì ngươi hãy phóng lửa phun nọc độc để tiêu diệt kẻ đó.
Con rồng vì vậy đến ngày tiết hội, nó thường phun lửa,
cho nên người gần kẻ xa đều nói:
- Ðạo của đại sư là thần!
Tôn giả Ca Diếp nhờ vậy mà công danh ngày một phơi
phới. Ðức Thế Tôn nghĩ rằng: “Ngày xưa ta xuất gia giữa đường gặp vua Bình
sa. Nhà vua có nói: - Khi nào ta thành đạo thì độ cho nhà vua trước tiên”.
‘Ta nhờ tất cả mọi người nên mới được đắc đạo như vầy.
Nay ta quán sát lòng dân, họ đều ngưỡng vọng Ca Diếp đâu dễ gì mà họ liền
theo ta được! Giống như quả ngọt ở trên cây cao không thể ăn được. Tất cả
những khó khăn đều do con rồng mà ra cả. Trước tiên ta phải hàng phục nó,
thì Ca Diếp sẽ theo ta. Như vậy thì đạo lớn mới có thể giáo hóa rộng rãi,
không cùng tận.’Ðức Như Lai nói rằng:
- Mặt trời chiếu soi thiên hạ, có 3 đức:
Ánh sáng tỏa ra phá trừ tăm tối, chỗ nào cũng thấy rõ
ràng.
Năm màu xen nhau tuần tự mà chiếu soi hình dáng.
Làm nở mầm mộng tinh hoa của vạn vật.
Ðức Như Lai cũng có 3 đức:
Bậc nhất thiết đại trí chiếu trừ ngu tối.
Ngài phân bố 5 đường, đó là nguyên do của lời nói và
hành động.
Dùng phương tiện trí huệ để cứu tế làm chúng sanh được
lợi lạc và an ổn.
Bậc Chúng-hựu nghĩ như vậy xong, Ngài liền đến vườn Tư
Nại vào lúc chiều tối, đến ngôi nhà mà tôn giả Ca Diếp đã làm. Khi chưa
đến nơi Ngài liền hiện sắc vàng lên cây cối, đất đá đều có sắc như vàng
ròng.
Lúc ấy người đệ tử của tôn giả Ca Diếp thấy sự biến hóa
này, tâm động cho là lạ, ngoái đầu mà nhìn, từ xa thấy đức Thế Tôn, ánh
sáng bao trùm đất trời, y không biết vì sao mà có sự mầu nhiệm ấy, mới
chạy đến thưa với Thầy. Thầy trò cùng đi ra xem, thấy đức Thế Tôn oai
thần, oai nghi, rực rỡ, sáng rạng!
Trong tâm tôn giả ca Diếp lo sợ, hồi hộp, hoang mang
không rõ việc gì tự nghĩ rằng: “Ðây là mặt trời mà mắt ta thấy được chăng?
Ðó là Thiên nhân sao? Mắt của vị ấy như tia điện”. Sau đó ông suy nghĩ
mới hiểu rằng: - Ðó há không phải là thái tử Tất Ðạt con vua Bạch Tịnh
sao? . Ta thường nghe một cách đầy đủ rằng: - Con vua Bạch Tịnh, có phước
Thánh vương, không thích sự vinh hoa, tương lai sẽ được làm Phật. Ngày
trước ta nghe vị ấy xuất gia, có lẽ nay đã thành đạo rồi chăng?
Ðức Như Lai bỗng đi đến, tôn giả Ca Diếp rất vui mừng
nói:
- Thiện lai Cù Ðàm! Ngài có bình an chăng?
Ðức Phật nói bài kệ này cho tôn giả Ca Diếp:
- Trì giới, suốt đời an
Chánh tín, chỗ ở tốt
Trí huệ, thân an ổn
Không làm ác, được an.
Tôn giả Ca Diếp bạch đức Phật:
- Cúi mong Ngài hạ cố oai đức, đến chỗ tôi để nhận món
ăn đạm bạc.
Ðức Phật đáp:
- Này Ca Diếp, đạo pháp của chư Phật từ xưa hễ quá ngọ
thì không ăn, có lòng thành là tốt rồi. Ta muốn nhờ một việc, ngươi có vui
lòng chăng?
Tôn giả Ca Diếp đáp:
- Rất tiếc là tôi không dự bị trước, mong Ngài miễn
chấp.
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
- Ta muốn tá túc lại đây một đêm, ngươi có vui lòng
chăng?
Tôn giả Ca Diếp bạch đức Phật:
- Pháp Phạm chí của chúng tôi, khi ngủ không được ở
chung một phòng. Xin Ngài miễn thứ điều ấy không thể được. Nếu đi ngược
lại pháp ấy thì tánh mạng của chúng tôi rất nguy hiểm.
Ðức Phật chỉ ngôi nhà yên tĩnh kia hỏi:
- Ðó là ngôi nhà gì?
Ca Diếp đáp:
- Trong đó có thần Long, tánh tình nó rất nguy hiểm
hung ác. Nếu có ai vào ngôi nhà đó nó liền phun lửa thiêu cháy tức thì.
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
- Hãy cho ta nghĩ ở đó.
Tôn giả Ca Diếp đáp:
- Thật là rùng rợn, tôi chỉ sợ con rồng hại Ngài mà
thôi.
Năm trăm đệ tử của tôn giả thảy đều run sợ, lo thầy của
mình chấp nhận lời đề nghị của đức Phật. Song đức Phật yêu cầu đến ba lần
như vậy. Tôn giả Ca Diếp trong lòng hoài nghi, nhưng ý không dám chống
trái nói:
- Chỉ sợ Ngài bị họa mà thôi!
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
- Lửa dục trong 3 cõi ta đã tiêu diệt được, thì con
rồng không thể hại ta được.
Tôn giả Ca Diếp thưa rằng:
- Cù Ðàm là bậc tôn đức, có thể ở chỗ đó được thì tùy ý
Ngài.
Ðức Phật liền thu oai thần, đi vào ngôi nhà ấy.
Năm trăm người đệ tử của tôn giả Ca Diếp tin chắc là
con rồng sẽ hại Ngài, cho nên họ đều rơi nước mắt, tiếc thương cho bậc tôn
qúy như vậy mà bị con rồng giết hại.
Ðức Phật ngồi trong ngôi nhà đó giây lát thì con rồng
từ trong hang đi ra. Nó phun nọc độc quanh mình đức Phật. Ðức Như Lai liền
hóa những chất độc ấy thành những bông hoa. Con rồng thấy chất độc của nó
biến thành những bông hoa bao quanh đức Phật, nó càng tức giận khạt lửa để
hại Phật. Nhưng hơi nóng lại bay ngược về phía con rồng làm cho nó uất
uất, sầu muộn, muốn chết, nó ngẩn đầu nhìn đức Phật, nó biết Ngài là bậc
tôn qúy.
Ðức Phật hóa một luồng gió mát thổi đến phía con rồng.
Con rồng liền theo hơi mát đó đi đến chỗ đức Phật, Ngài làm cho lửa tắt,
độc trừ. Con rồng liền quy y Ngài, vào trong bình bát của Ngài.
Bấy giờ đức Phật liền dùng Hỏa quang (tam muội) lửa
khói ngập trời. Các đệ tử của tôn giả Ca Diếp, đứng thẳng để nhìn, họ thấy
hào quang của đức Phật mà tưởng là lửa của con rồng, cho nên họ đều cất
tiếng bi ai than thở:
- Tiếc thay cho bậc chơn nhân đã bị con rồng làm hại.
Thầy trò của tôn giả Ca Diếp hoảng sợ đồng chạy ra
ngoài để xem. Năm trăm đệ tử của tôn giả đồng tách Thầy họ rằng:
- Từ lúc khai thiên lập địa đến nay, chúng ta chưa thấy
ai vi diệu như Cù Ðàm, Ngài là bậc đáng tôn quý. Hận là chúng ta chưa thấy
Ngài kỷ, vậy làm sao có thể thấy lại Ngài được? Họ rơi nước mắt mà nói bài
tụng:
- Dung nhan, sắc vàng tía
Mặt tròn, tóc xanh biếc
Ðại nhân, trăm phước đức
Thần diệu, ứng tướng tốt
Thân cao, một trượng sáu
Có tám mươi vẻ đẹp,
Hào quang chiếu chỗ tối
Sao bỗng bị vô thường?!
Người đệ tử cuối cùng của tôn giả cho rằng lửa đã thiêu
đốt đức Phật, xót thương, ai oán rằng:
- Ðức Cù Ðàm đã bị hại, ta sống để làm gì?
Nói xong liền nhảy vào trong đống lửa ấy, nhưng anh
tháy mát mẻ, điều hòa, nên ngoái lại thưa với thầy mình:
- Ðức Cù Ðàm không hề gì cả. Chúng ta tưởng đó là lửa
của cong rồng, nhưng đây chính là hào quang của đức Phật!
Thầy trò của tôn giả đang buồn rầu xúm quanh bên nhau,
đứng một bên lắng lòng chờ bậc Ðạt Minh. Thì vào lúc sáng sớm đức Như Lai
ôm bát bước ra khỏi ngôi nhà. Tôn giả Ca Diếp hết sức vui mừng nói:
- Bậc đại đạo nhân vẫn còn sống chứ? Cái gì trong bình
bát đó?
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
- Ðó là con dộc Long, ta đã hàng phục và nó đã thọ pháp
của ta!
Năm trăm đệ tử của tôn giả đều nói:
- Ðây là vị Phật thần.
Tôn giả Ca Diếp trong lòng thì thầm phục đức Phật nhưng
luyến tiếc tiếng tăm của mình.
Ðức Phật bảo:
- Ngươi lại cống cao sao? Ðại đạo nhân chính thật là vị
thần! Ngươi không bằng ta, vì ta đã chứng A la hán!
Tôn giả Ca Diếp bạch đức Phật:
- Xin bậc đại đạo nhân hãy ở lại để chúng tôi được cúng
dường.
Sáng sớm tôn giả dọn trai soạn, tự mình đến thỉnh đức
Phật. Ðức Phật bảo:
- Ngươi hãy đi trước, ta sẽ đến.
Tôn giả Ca Diếp vừa về đến nhà thì đức Phật nhanh như
người co duỗi cánh tay, Ngài liền đến nước Phất Vu Ðãi xa cả ngàn ức dặm
về phía Ðông, lấy quả cây tên là Diêm Bức, bỏ đầy cả bát rồi trở về. Tôn
giả Ca Diếp chưa vào nhà thì thấy Ngài đã ngồi ở sàng tọa rồi, tôn giả Ca
Diếp hỏi đức Phật:
- Thưa đại đạo nhân, Ngài đi đường nào mà đến đây?
Ðức Phật đáp:
- Ngươi vừa đi, thì ta liền đến nước Phất Vu Ðãi ở
phương Ðông lấy những trái cây Diêm Bức này, nếu ăn vào rất thơm ngon.
Ðức Phật dùng cơm xong, tôn giả Ca Diếp nghĩ rằng: “Bậc
đại nhân này tuy là vị thần nhưng không bằng đạo chơn thật của ta”. Sáng
sớm đến giờ ăn, tôn giả lại đến thỉnh Phật. Ðức Phật bảo:
- Hãy về đi, ta sẽ đến liền.
Tôn giả Ca Diếp vừa trở về, đức Phật liền đến tận núi
Diêm Phù Ðề ở phía Nam lấy trái cây Loa Lặc, chứa đầy bình bát rồi trở về.
Tôn giả Ca Diếp đi chưa đến nhà, thì thấy Ngài ngồi
trên sàng tọa rồi.
Tôn giả Ca Diếp hỏi đức Phật:
- Làm sao Ngài lại đến trước?
Ðức Phật bảo:
- Ta đi qua phương Nam, lấy quả cây ngon này, hễ ăn vào
thì hết bệnh.
Sau khi đức Phật ăn xong, tôn giả Ca Diếp suy nghĩ: “Vị
sa môn này quả thật là thần diệu”. Sáng hôm sau tôn giả Ca Diếp lại đến
mời Phật. Ðức phật bảo:
- Hãy về trước đi, ta sẽ đến ngay.
Ðức Phật liền đến nước Câu Na Di ở phía Tây, lấy trái
cây A Ma Lặc bỏ đầy bình bát rồi trở về. Tôn giả Ca Diếp chưa đến nơi thì
đã thấy đức Phật đã đến ngồi ở sàng tọa. Tôn giả Ca Diếp hỏi đức Phật:
- Ngài lại đi hướng nào mà đến đây?
Ðức Phật trả lời:
- Ta đến nước Câu Da Ni ở phía Tây, lấy trái cây A Ma
Lặc bỏ đầy bình bát rồi trở về, ngươi có thể ăn chúng.
Ðức Phật dùng cơm xong. Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: “Việc
của vị đại sa môn này làm quả thực là sức của thần”. Sáng hôm sau tôn giả
Ca Diếp lại đến mời đức Phật. Ðức Phật bảo:
- Hãy về trước , ta sẽ đến sau.
Tôn giả Ca Diếp ngoái đầu lại nhìn thì bỗng không thấy
đức Phật. Ðức Phật đã đến nước Uất Ðơn Việt ở phía Bắc lấy thứ lúa gạo tự
nhiên. Tôn giả Ca Diếp đi chưa đến nhà thì thấy đức Phật đã ngồi ở sàng
tọa.
Tôn giả Ca Diếp hỏi đức Phật:
- Ngài từ đâu đến?
Ðức Phật đáp:
- Ta từ nước Uất Ðơn Việt ở phía Bắc, lấy lúa gạo tự
nhiên này, ngươi có thể ăn nó .
Sau khi đức Phật ăn xong, tôn giả Ca Diếp suy nghĩ:
- Vị đại tiên nhân này có sự thần diệu như vậy.
Buổi sáng đúng giờ thọ thực, đức Phật ôm bát tự mình
đến nhà tôn giả để lấy đồ ăn rồi trở về. Khi thọ thực xong, Ngài muốn tăm
rửa, súc miệng, nhưng không có nước. Thiên Ðế Thích liền hạ xuống lấy tay
chỉ mặt đất thì tự nhiên thành cái ao. Tôn giả ca Diếp sau buổi trưa thong
dong tản bộ thì thấy có cái ao, cho là lạ mới hỏi đức Phật:
- Vì sao có cái ao này?
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
- Sáng nay ta được ngươi cúng dường cơm. Ăn xong ta
muốn xúc miệng, nhưng không có nước, Thiên Ðế Thích mới chỉ mặt đất biến
thành ao nước để ta dùng, do đó cho nên có cái ao này.
Tôn giả Ca Diếp suy nghĩ: “Bậc đại đạo nhân này thật là
thần diệu, công đức vô lường”.
Ngày hôm sau đức Thế Tôn đến gần chỗ Ca Diếp ngồi dưới
một gốc cây. Ðêm thứ nhất có bốn vị Thiên vương đồng đến nghe đức Phật
thuyết pháp. Hào quang của 4 vị Thiên vương ấy chiếu sáng như đống lửa.
Tôn giả Ca Diếp buổi tối thức dậy, thấy trước đức Phật
có bốn đống lửa, sáng sớm ông hỏi đức Phật:
- Này Ðại đạo nhân, Ngài cũng thờ lửa sao?
Ðức Phật đáp:
- Không có! Ðêm qua có bốn vị Thiên vương đến nghe ta
thuyết pháp, đó là ánh sáng của họ.
Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ:
- Bậc đại sa môn này hết sức thần diệu mới khiến các vị
Thiên này đến nghe pháp, tuy nhiên vẫn không bằng đạo chân htật của ta.
Ngày hôm sau, đêm thứ hai, Thiên Ðế Thích đến chổ đức
Phật để nghe pháp, ánh sáng của Ðế Thích sáng gấp bội ánh sáng của Tứ
Thiên Vương. Buổi tối tôn giả Ca Diếp thức dậy thấy ánh sáng ở trước đức
Phật, trong ý tự nghĩ: ‘ Chính đức Phật có thờ lửa vậy’! Sáng sớm đến hỏi
đức Phật:
- Nếu Ngài không thờ lửa, vì sao ánh sáng lại gấp bội
đêm qua?
Ðức Phật bảo:
- Vì Ðế Thích đi xuống nghe kinh pháp, cho nên đó là
ánh sáng của ông ta.
Ðêm sau có vị Phạm Thiên thứ bảy lại đến nghe pháp. Ánh
sáng của Phạm Thiên sáng gấp bội ánh sáng của trời Ðế Thích. Tôn giả Ca
Diếp thấy ánh sáng ấy nghi là đức Phật có thờ lửa. Sáng sớm ông hỏi đức
Phật:
- Này Ðại đạo nhơn , chắc chắn ngài có thờ lửa!
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
- Ðêm qua vị Phạm Thiên thứ bảy đến nghe pháp. Ðó là
ánh sáng của ông ta vậy.
Tôn giả Ca Diếp tự nghĩ:
- “Bậc đại đạo nhân này có oai thần cảm động mới khiến
Phạm Thiên xuống nghe pháp?”.
Năm trăm người đệ tử của tôn giả Ca Diếp mỗi người thờ
ba ngọn lửa, như vậy có cả thảy là một ngàn năm trăm ngọn lửa. Sáng sớm
đốt lửa, lủa vẫn không cháy, họ thấy lạ mới đến hỏi Thầy. Vị Thầy bảo:
- Ðiều này chắc do Phật làm ra.
Ông liền đến bạch đức Phật:
- Năm trăm đệ tử của tôi sáng nay đốt lửa, nhưng lửa
vẫn không cháy. Có phải điều này do Ngài làm ra chăng?
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
- Ngươi muốn lửa cháy chăng?
Ðức Phật hỏi ba lần, và tôn giả đều đáp:
- Muốn cho lửa cháy.
Ðức Phật bảo:
- Hãy đi đi, lửa sẽ cháy.
Ngài vừa nói xong thì tất cả ngọn lửa đều cháy.
Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: “Bậc đại đạo nhân này hết sức
thần diệu vậy”!
Tôn giả Ca Diếp tự thờ 3 ngọn lửa, sáng sớm thì tắt
lửa, nhưng ngọn lửa không thể tắt. 500 người đệ tử và các người thờ lửa
đên giúp tôn giả tắt lửa, nhưng vẫn không thể tắt được, tôn giả nghi là
việc này do đức Phật làm ra, liền đến thưa đức Phật:
- Con tự thờ ba ngọn lửa nhưng không thể tắt được!
Ðức Phật hỏi:
- Ngươi muốn ngọn lửa tắt sao?
Thưa rằng: - Con muốn nó tắt.
Ðức Phật bảo: - Nó sẽ tắt.
Ngài vừa nói dứt lời thì ngọn lửa liền tắt. Tôn giả Ca
Diếp nghĩ rằng: “Bậc đại đạo nhân hết sức thần diệu, làm việc gì cũng
thành tựu”.
Ngày hôm sau 500 đệ tử của tôn giả Ca Diếp cùng nhau
chẻ củi, song khi mọi người giở búa lên thì đều không thể hạ búa xuống
được. Họ liền đến thưa với Thầy, Thầy họ bảo:
- Ðó là do đại sa môn làm vậy.
Tôn giả đến bạch Phật:
- Các đệ tử của con vừa rồi cùng nhau chẻ củi, khi họ
giơ búa lên thì không thể hạ xuống được.
Ðức Phật bảo:
- Hãy về đi, búa sẽ hạ xuống.
Tức thì các cây búa đều hạ xuống. Tôn giả Ca Diếp nghĩ:
“- Vị Ðại sa môn này chính là vị thấn vậy”.
Ngày hôm sau đức Phật lại ngồi dưới một gốc cây, Ngài
thấy một tấm vải dơ bị vất bỏ, Ngài muốn giặt nó. Thiên Ðế Thích vâng
theo Thánh ý của đức Phật, đến trên núi Át Na lấy một tảng đá có 4 mặt và
một tảng đá có 6 mặt, dâng cho Ngài để Ngài giặt tấm vải. Tôn giả Ca Diếp
đi du hành thấy bên bờ ao có 2 tảng đá lấy làm lạ mới hòi đức Phật:
- Hiện nay bên bờ ao có tảng đá rất đẹp, không rõ nó từ
đâu đến?
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
Ta muốn giặt rửa và phơi y, Thiên Ðế Thích mới mang 2
tảng đá đến để ta xử dụng.
Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: “Cù Ðàm là bậc thần đức,
không ai mà không cảm động”.
Sau đó đức Phật xuống ao do Ðế Thích tạo để tắm rửa
xong, khi muốn lên khỏi ao không có gì để nắm kéo lên, thì ở trên ao có
một cái cây tên là Ca Hòa rất đẹp, cây ấy cong xuống ao, đức Phật vịn vào
để ra khỏi ao.
Tôn giả Ca Diếp thấy cái cây tự nhiên cong xuống lấy
làm lạ hỏi đức Phật. Ðức Phật bảo tôn giả:
- Lúc sáng sớm ta xuống ao để tắm rửa, khi muốn ra khỏi
ao thì cây thần thả nhánh xuống để ta nắm mà lên.
Tôn giả Ca Diếp nghĩ:
- “Bậc Ðại đạo nhân này, là bậc chí đức, cảm hóa nhiều
loài, làm cho đại thọ phải thả nhánh cây xuống.”
Ðức Phật muốn khiến cho tôn giả Ca Diếp qui phục, Ngài
liền đi vào sông Ni Lan Thiền. Nước sông này rất sâu và chảy rất mạnh.
Ngài dùng thần lực cắt đứt dòng nước, làm cho nó đứng lại, dâng cao quá
đầu người. Khiến cho đáy sông hiện ra, Ngài đi trong đó.
Tôn giả Ca Diếp thấy đức Phật đi vào nước, sợ Ngài bị
chết chìm, liền bảo đệ tử chèo thuyền ra để cứu đức Phật. Họ thấy nước
dâng cao, phía dưới hiện rõ đáy sông, và thấy đức Phật ở trong đó nên rất
vui mừng, đồng hỏi rằng:
- Ðạo nhân vẫn còn sống sao?
Họ lại hỏi:
- Ngài có muốn lên thuyền không?
Ðức Phật bảo:
- Ta sẽ lên.
Ngài nghĩ: “Ta sẽ xoi đáy thuyền để lên, nhưng đừng cho
nước chảy vào”. Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: “Bậc Ðại đại đạo nhân này thật
là diệu hóa khó lường.
Bấy giờ quốc vương, quan dân nước Ma Kiệt, nhân ngày
hội lễ của năm, đi đến chỗ của tôn giả Ca Diếp, vui chơi trong bảy ngày.
Trong tâm của tôn giả Ca Diếp suy nghĩ: “Ðức Phật là vị Thánh minh, nếu
mọi người thấy được, chắc chắn họ sẽ bỏ ta. Nếu trong bảy ngày này mà Ngài
không xuất hiện thì vui biết bao”. Ðức Phật biết ý của tôn giả, cho nên ẩn
mặt trong 7 ngày; đến ngày thứ tám, tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: “Nay ta có
dư phẩm vật, nếu được cúng dường cho đức Phật thì khoái biết bao”. Tôn giả
mới nghĩ như vậy, đức Phật liền đến, nên tôn giả rất vui mừng, vì mới nghĩ
muốn gặp Ngài để cúng dường thì Ngài liền đến, thật vui sướng biết bao, và
hỏi rằng:
- Vừa rồi Ngài đi đâu và nay thì từ đâu đến?
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
-Tâm ngươi suy nghĩ rằng: “Ðức Phật là vị Thánh Minh,
nếu mọi người thấy Ngài họ sẽ bỏ ta, nếu trong bảy ngày này mà Ngài không
xuất hiện thì khoái biết bao”. Do đó không xuất hiện. Nay ngươi nghĩ đến
ta, cho nên ta lại đến.
Tôn giả Ca Diếp tâm niệm: “Ðức Phật đúng là bậc Chí
Thần, mới biết được ý niệm của con người” .
Ðức Phật biết tâm của tôn giả đã khâm phục, nên Ngài
liền bảo:
- Này Ca Diếp, ngươi không phải là La Hán, nếu không
biết chơn đạo, sao lại lấy cái hư vọng mà tự cho là quý?
Bấy giờ trong tâm của tôn giả Ca Diếp hoảng sợ lông tóc
dựng đứng, tự biết là mình không có đạo, liền cúi lạy thưa rằng:
- Bậc đại đạo nhân quả thật là thần thánh, mới biết
được ý niệm của con người. Vậy con có thể theo đại đạo nhân để được thần
hóa, lảnh tọ kinh giới, làm sa môn chăng?
Ðức Phật bảo:
- Rất tốt! Hãy báo cho các đệ tử ngươi biết, ngươi là
quốc sư, nay ngươi đã mặc pháp phục há có thể chỉ một mình ngươi biết sao?
Tôn giả Ca Diếp thọ giáo, quay lại gọi các đệ tử:
- Các ngươi cùng ta đều thấy sự thần hóa của đức Phật.
Nay ta đã tin và hiểu sự thần hóa ấy, nên ta làm sa môn. Vậy các ngươi thì
thế nào?
Năm trăm người đệ tử của tôn giả đều thưa:
- Chúng con đã biết, tất cả đều thọ ân của Thầy. Thầy
đã tôn trọng và tin tưởng đức Phật, chúng con đều nguyện theo Thầy.
Ngay khi ấy thầy trò của tôn giả đến chỗ của đức Phật,
đãnh lễ thưa rằng:
- Chúng con đều có ý tin tưởng, nguyện làm đệ tử của
Ngài.
Ðức Phật bảo:
- Thiện lai Tỳ kheo!
Tất cả đều thành sa môn. Tôn giả Ca Diếp đem áo lông
cừu, áo vải to, bình nước, gậy, dép, các dụng cụ thờ lửa đôi hết xuống
dòng nước.
Bấy giờ tôn giả Ca Diếp có hai người em. Người thứ nhất
tên là Na Ðề Ca Diếp và người út tên là Ca Da Ca Diếp. Mỗi người đều có
250 đệ tử, ở trong các ngôi nhà lá, gần bên dòng sông. Họ thấy các y phục,
đồ vật lặt vặt, dụng cụ thờ lửa trôi bập bềnh dưới dòng nước. Hai người em
kinh ngạc, sợ anh mình và các đệ tử bị người ta giết hại, họ cùng các đệ
tử theo dòng nước mà đi lên, thì thấy thầy trò của anh mình đều làm sa
môn. Họ kinh ngạc hỏi rằng:
- Ðại huynh tuổi lớn, tró tuệ cao vút, nha vua và nhân
dân đều kính thờ. Theo ý của chúng em thì anh đã chứng La-hán rồi, sao lại
bỏ đạo Phạm chí, học pháp sa môn? Ðây không phải là việc nhỏ. Không lẽ đạo
Phật là tôn đức, cao qúi sao?
Tôn giả Ca Diếp đáp:
- Ðạo Phật tối thắng, pháp môn vô lượng, song thế học
của ta chưa có ai đắc đạo, thần trí như đức Phật được.
Hai người em của tôn giả nghe điều đó, họ đều bảo các
đệ tử:
- Chúng ta muốn theo anh của ta, còn các ngươi thì thế
nào?
Năm trăm người đệ tử của họ đều nói:
- Xin làm như đại sư. Họ đều đến chổ đức Phật đảnh lễ
cầu xin làm sa môn.
Ðức Phật bảo:
- Thiện lai Tỳ kheo!
Họ đều thành sa môn. Bấy giờ đức Như Lai cùng một ngàn
vị Tỳ kheo tăng đi đến ngồi ở dưới gốc cây của khu rừng lớn ở Ca Da Tất.
Ngái nhập Tam muội, bỗng nhiên biến mất. Từ phương Ðông đến, biến mất ở
dưới gốc cây. Ở phương Tây cũng lại như vậy, nhảy lên đứng trên hư không
mà vẫn không rớt, trong thân phun ra lửa, nước, lên xuống tự do.
Các Tỳ kheo ngẩng đầu vui sướng mà không hay biết. Ðức
Như Lai trở về ngồi lại chổ cũ mà chẳng ai hay.
Các Tỳ kheo vui mừng, đến trước đảnh lễ dưới chân đức
Phật rồi thối lui, bạch đức Phật:
- Sự thị hiện ấy gọi là gì?
Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:
- Ðó gọi là thần túc thị hiện, còn có tên là giáo thọ
thị hiện. Các Tỳ kheo hãy lắng nghe hành động của thân ý và thức, do vì
nhiễm trước. Nên nay vì chỉ rõ bộ phận. Cho nên gọi là giáo thọ thị hiện.
Lại có tên là thuyết pháp thị hiện. Các Tỳ kheo hãy lắng nghe: - Vì tự yêu
sách cho nên bị suy tổn. Sáu tình đắm đuối nên bị suy tổn. Vì bị suy tổn
mãi cho nên sanh ra khổ.
Sao gọi là khổ sanh?
Vì lửa dâm, nộ, si, phát khởi liền có sự đau nhức, sự
sợ hãi già, bệnh và chết. Do đó phải dùng thuyết pháp thị hiện.
Ðức Phật ba lần thuyết pháp như vậy, khi ấy một ngàn vị
Tỳ kheo lậu chấm dứt, vọng không còn, tất cả đều chứng quả A La Hán.
Ðức Phật nói bài tụng này cho các Tỳ kheo:
- Hôm nay ngàn Tỳ kheo
Trưởng lão có tôn đức
Bỏ tà tu chánh kiến
Vô tưởng nhập thiền huệ.
Khi đức Phật nói pháp này, Thiên, Long, Quỷ, Thần,
không ai mà không thích nghe.
4. – PHẨM ÐỘ VUA BÌNH SA.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn đến La Duyệt Kỳ để độ cho vua
dân nước này. Ngay hôm ấy, vua nước La Duyệt Kỳ bảo sứ giả đi đến chổ đức
Phật, hết lòng cung kính, đảnh lể xong thưa rằng:
- Quốc vương Bình Sa, cúi lạy trước đức Phật, thân
cận, thừa sự đức Thế Tôn, bậc thành đạo hiệu là Phật, nên chư thiên, nhân
các loài, vui mừng được gặp Ngài, cúi mong đức Thế Tôn, đem lại lợi lạc
khương ninh, mong Ngài dủ lòng che chở, quan tâm đến nước quê mùa của
chúng con. Chúng con đang khao khát sự giáo hóa, để được phát khởi và tăng
trưởng đạo tâm. Mong Ngài xót thương chúng sanh, làm cho mọi người được
giải thoát.
Ðức Phật bảo:
- Này các Tỳ kheo! Các ngươi hãy mau chuẩn bị chu đáo,
nhà vua mời đến.
Các Tỳ kheo vâng lời, chuẩn bị xong, đi theo đức Thế
Tôn. Sứ giả chạy đến bạch đức Phật:
- Xin Ngài hạ cố dẫn theo một ngàn vị Tỳ kheo tăng. Nay
theo Tu Ða La, đến dưới gốc cây, cách thành 40 dặm.
Nhà vua trước đó ra lệnh:
- Nếu đức Phật vào nước, chúng ta phải tự mình đi ra
nghinh rước, người nào nghinh rước Ngài phước đức vô lượng. Nhà vua liền
ra lệnh chuẩn bị một ngàn cổ xe, một vạn con ngựa, bảy ngàn người tháp
tùng. Khi đã chuẩn bị xong, nhà vua lên xe, ra khỏi cung, đi đến thành,
nhưng lúc đó cửa thành tự đóng lại, làm cho xe ngựa bị cản trở. Nhà vua
hết sức kinh hãi, lo sợ có đại hoạn nói rằng, ta có trọng tội nên mới có
họa này.
Khi ấy ở trên không trung có tiếng nói:
- Bổn nguyện của nhà vua là nếu được làm người, thì thả
người bị giam trong ngục ra.... Vì lời thề ấy rất quan hệ, nên làm cho cửa
thành đóng lại. Bây giờ Ngài hãy ân xá giải phóng tất cả tù nhân, thì cửa
thành sẽ tự mở, được đến chỗ đức Phật...
Nhà vua từ xa trông thấy đức Như Lai, tướng tốt rạng
ngời, liền xuống xe, bỏ kiếm xuống, đức Phật biết bản tánh của vua Bình Sa
vốn kiêu mạn, cang cường, cống cao, nê Ngài muốn mau giải hóa nhà vua và
các quan theo hầu về nghi thức ăn mặc. Nếu vua Bình sa quay lại nhìn thì
thấy các quan theo hầu, in như mình không khác. Nhà vua sợ Phật không biết
điều đó, nên đầu mặt lạy dưới chân Ngài, nhiễu quanh bên mặt ba lần. Lạy
xong nhà vua tự trình bày:
- Con là Bình Sa, vua nước Ma Kiệt Ðề.
Nhà vua nói như vậy cho đến ba lần. Ðức Phật bảo nhà
vua:
- Ta chỉ chiếu soi tâm của vua, cần gì hình dáng.
Nhà vua hết sức vui sướng, lui về chỗ ngồi. Quần thần
thứ dân đều hết lòng cung kính đối với đức Phật, trong đó có người đến
đảnh lễ, có người tự xưng tên họ, có người đến trước đức Phật chấp tay vái
chào. Họ đảnh lễ xong thì đứng.
Ðức Phật bảo họ đều ngồi xuống, họ vâng lời ngồi xuống.
Ðức Phật bảo vua Bình Sa:
- Nhờ phước đời trước của vua nay được tăng trưởng lợi
ích, khiến cho nhân dân trong nước của quốc vương, trung hiếu, giàu có, an
vui, không lo lắng, được phước che chở, có đức tốt không có điều gì bất
lợi.
Trong chúng hội có điều nghi là tôn giả Uất Kỳ Ca Diếp
danh tiếng, sớm thành đạt, nay cùng ở với đức Phật, vậy ai là thầy?
Ðức Phật quán sát tâm niệm quần chúng, Ngài liền bảo
tôn giả Ca Diếp:
- Nếu co người sát sanh để tế tự, mong cầu được phước,
người ấy có được phước không? Kẻ đi vào trong núi cầu đạo mà không có
thầy, vậy người ấy có đắc đạo chăng?
Tôn giả Ca Diếp bạch đức Phật:
- Kẻ sát sanh để tế tự thì không có phước, vì thiên
thần không chứng, kẻ sát sanh phải bị tội. Người học đạo mà không thầy thì
không bao giờ thành đạo.
Tôn giả Ca diếp bạch đức Phật:
- Trước đây con thờ lửa, ngày đêm không giải đãi, cần
khổ nhiều năm. Các đệ tử giỏi có đến 500 người, đốt lửa một cách tinh
nhuệ, không kể trời lạnh hay nóng. Nay con tuổi già, các căn mòn mỏi,
không còn thấy rõ nữa. Người trước đã truyền điều không thật cho kẻ hậu
sanh, tự gọi đó là đạo, chỉ luống khổ mà không được quả báo. Nay con được
Phật dạy, tẩy rữa sự ô uế của tâm, con đã được La Hán.
Ðức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:
- Nay ngươi hãy hiện thần túc của La Hán.
Tôn giả vâng theo lời dạy của đức Phật, liền nhập định,
thân bay trên hư không, cách mặt đất mấy trượng, ở eo lưng trên bốc lửa,
eo lưng dưới phun nước, lại từ eo lưng trên phun nước, eo lưng dưới bốc
lửa, dùng nước rưới lửa, làm cho y khô không bị ướt, đứng trên hư không,
hiện sự biến hóa, bảy lần hiện, bảy lần ẩn, hào quang từ trong thân phóng
ra, năm màu rực rỡ, bay từ phương Ðông đến, rồi biến mất trước tòa của đức
Phật, bốn phương trên dưới cũng hóa hiện như vậy. Khi biến hóa xong, tôn
giả liền chấp tay, quỳ xuống bạch đức Phật:
- Ðệ tử Ca Diếp, mong nhờ từ ân của đức Phật, giải
thoát sự trói buột của tội lỗi. Ðức Như Lai rất tôn quý, ba cõi đều cúi
lạy.
Ðức Phật nói bài tụng này cho tôn giả Ca Diếp:
- Nếu người sông trăm tuổi
Thờ lửa tu dị thuật
Không bằng theo chánh đế
Ánh sáng chiếu tất cả.
Nếu người sông trăm tuổi
Học tà, tâm không thiện.
Không bằng sống một ngày
Siêng năng thọ chánh pháp.
Nhà vua và quần thần mới hay tôn giả Ca Diếp là đệ tử
của đức Phật.
Ðức Phật bảo vua Bìng sa:
- Con mắt của người trong thiên hạ, không chỉ thấy sắc
là khổ, lạc, vô thường thân mạng không trường cửu. Ý của người trong thiên
hạ có nhiều điều ác, ít điều thiện, tư tưởng ngổn ngang vạn mối, ý thích
chạy theo dục, nếu có thể bỏ được tâm ý đó thì có thể đắc đạo, công đức
ngang bằng Ca Diếp. Ðừng nên vì sự giàu có mà buông lung tình ý, đừng nên
tự do tham dục, không nhàm chán, đừng nêm vì mình mạnh mà xâm lấn kẻ yếu
đuối, đừng nên vì sự tức giận mà giết càng kẻ không có tội, đừng theo tâm
dâm, đừng theo tâm tham, đừng theo tâm sân, phải bỏ điều ác, theo điều
lành, hãy tin dùng lời chân thật, hãy nghĩ đến sự nguy kịch của sự chết,
sự bệnh khổ, suy nghĩ những hành động của mình, cũng có thể được thần túc
của tôn giả Ca Diếp. Nếu mắt thấy sắc, tâm phải kiềm chế, sắc đẹp hay xấu
tâm vẫn không động, tai nghe các thứ tiếng, tâm phải kềm chế, đừng có mừng
hay giận, mũi ngửi mùi thơm, mùi thối, tâm phải chế phục đừng có đắm
trước, miệng ăn các vị, tâm phải kềm chế, không khởi các tưởng, thân mặc
các y phục đáng ưa thích, phải kềm chế tâm, thức không dựa vào các vật bên
ngoài của ngũ ấm, phải lấy tâm kềm chế, sáu tình vô chủ, ấm suy vô danh,
công đức của tôn giả Ca Diếp, nhờ tu như vậy mà được. Thân hình của con
người phần nhiều cảm thọ ưu sầu, khổ não, bị đói khát lạnh nóng bức bách.
Kẻ ngu chấp đó là vui, người trí cho đó là khổ, vợ con vinh lợi người đời
mê hoặc, phàm các việc ấy, đều phải phân tán, ngàn năm, vạn năm đều bị hủy
diệt. Ðức Phật nói bài kệ này cho vua Bình Sa:
- Kẻ hướng dẫn thế gian
Theo chánh, không cuồng bạo
Dẫn đường chỉ lễ nghi
Pháp vua là như vậy
Thương yêu, tha kẻ chánh
Nhơn ái làm lợi người
Có lợi phải chia đều
Như vậy, dân thân cận.
Ðức phật hỏi vua Bình Sa:
- Từ lúc nhà vua tạo lập cung điện đến nay được bao
nhiêu năm?
Nhà vua quay lại hỏi một vị thần bên cạnh, vị cận thần
thưa:
- Từ lúc tạo lập cung điện đến nay là bảy, tám trăm
năm.
Ðức Phật hỏi các vị cận thần:
- Ðã trãi qua bao nhiêu đời vua?
Thưa rằng:
- Hơn 20 đời vua.
Ðức Phật hỏi vua Bình sa:
- Nhà vua có biết hết các vị vua ấy không?
Vua Bình sa đáp:
- Chỉ biết cha của con thôi, còn các vị khác thì không
biết.
Ðức Phật bảo vua Bình sa:
- Chỉ có đất là thường còn, con người là vô thường. Vì
tự thương thân mình, nên đừng sát hại kẻ khác, không nên phỉ báng người có
đạo. Sự sanh tử của chúng sanh đều do ân ái mà có. Cha mẹ tự nói: - Nó do
tôi sanh, nó là con của tôi. Song người con không phải do cha mẹ mà có,
bởi vì kẻ ấy đời trước giữ giới đầy đủ nay mới được làm người, nếu kẻ ấy
làm hạnh ác, sau khi chết phải đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Chúng
sanh do hành động sanh, chứ không do ai sanh cả, tội phước rất rõ ràng,
nhà vua phải suy nghĩ kỷ điều đó.
Ðức Phật bảo nhà vua:
- Nếu đứa con ở trong bào thai hoặc bị đui hay điếc thì
người mẹ có biết trước được không?
Nhà vua thưa:
- Thật không biết được.
Ðức Phật bảo:
- Ðó là do hành động tội ác đời trước của đứa bé này,
mới bị như vậy, chú không phải là lỗi của cha mẹ. Nếu đứa bé ở trong bào
thai là vị Thánh Minh, thì người mẹ cũng không dự biết được. Ðó là do hành
động hoàn toàn thanh tịnh đời trước của đứa bé tạo nên, chứ không phải
năng lực của cha mẹ mà được như vậy.
Lấy lý đó nghiệm thấy rõ ràng, nhà vua hãy khéo suy
nghĩ. Người đời bị tội là do hành động của ba chổ: Miệng nói lời hại
người, thân hành động giết hại tàn bạo, tâm chuyên ganh tỵ. Nếu ai có thể
bỏ được ba hành động ấy thì tuy chưa thể đắc Nê-hoàn liền, nhưng vẫn được
ở trên cõi trời, nhân gian hưởng được sự phú quý, tự do, cội gốc là ở con
người mà ra. Do si mà có thân hình, do thân hình mà có tình, do tình nên
sanh ra thức, do thức sanh ra dục, do dục mà có cha mẹ, do cha mẹ sanh ra
ân ái, do ân ái sanh ra ưu bi, qua lại trong năm đường, không bao giờ dừng
nghỉ. Con người cũng không biết được sanh từ đâu mà có, chết đi về đâu,
không biết được cội nguồn các tướng danh tự, nói rằng: - Ðây là cha, đấy
là con. Chỉ có người đắc đạo mới biết được cội nguồn của nhân duyên sanh
tử là bắt gốc từ si mà có, nên tất cả đều vô thường. Ðại vương hãy thọ
trì.
Ðức Phật bảo vua Bình Sa:
- Nếu có những người lành cẩn thận, hiếu thuận, khiêm
trinh, kỉnh nhường, tài cao, trí rộng, ở trong nước, không phạm pháp của
vua, nhưng không phải là quý tộc, nhà vua có đối xử khác nhau chăng?
Nhà vua thưa đức Phật rằng:
- Nếu ai có tên tuổi hiển đạt, con sẽ chọn tùy theo khả
năng mà phong chức.
Ðức Phật bảo:
- Này Ðại vương! Ðạo pháp không có người thân, chỉ có
việc thiện là giúp đỡ, thành thật giữ 5 giới, gọi là Thanh tín sĩ, tinh
tấn tu chơn, thấy chơn đế không thối lui, liền đắc Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm,
A Na Hàm, A La Hán. Tất cả đều nhờ bổn tâm, quả vị của đạo đó thì theo thứ
lớp.
Khi đức Phật dạy như vậy, nhà vua cùng một vạn hai ngàn
người ở trong nước, tám vạn chư thiên đều thấy dấu vết của đạo.
Ðức Phật bảo vua Bình Sa:
- Nhà vua đến đây đã lâu, vậy hãy mau trở về cung, trâu
ngựa và các người tùy tùng vì đứng lâu nên đã mỏi mệt, để ngày hôm sau ta
sẽ đến thành.
Nhà vua đứng dậy đảnh lễ đức Phật thọ giới rồi thối
lui, quần thần và các quan theo hầu, vui vẻ đến phía trước để thọ giới,
ngay lúc nhà vua và quần thần thọ 5 giới thì người và ngựa, trong và ngoài
đều im lặng không có tiếng động, Các Bà la môn đều được cảm hóa, tâm phục,
đều đến phía trước để thọ giới, rồi hoan hỷ lui ra.
Nhà Vua lên xe xong, quần thần quỳ xuống chúc mừng
công đức của Ðại vương nên được gặp đức Phật xuất thế, nên khiến cho quần
thần được tắm gội trở thành thanh tịnh.
Vua Bình Sa trở về cung ra lệnh nội cung, giữ tai trì
giới, mọi người trong nước đều tín hiểu, hoan hỷ. Thiên Ðế Thích ở cung
trời Ðao Lợi, dùng hoa rãi lên trên đức Phật.
Bấy giờ ở trong toà, có một trưởng giả giàu có tên là
Ca Lan Ðà, trong tâm suy nghĩ: “Thật đáng tiếc, khu vườn của ta đã thí cho
Ni Kiền. Ước gì đức Phật đến trước, ta sẽ cúng cho đức Phật và Tăng.
Trưởng giả hối hận vì đã bố thí trước,vĩnh viễn bị bỏ đi. Trưởng giả chí
tâm, nằm trên giường mà không yên. Nhờ phước đời trước của trưởng giả theo
đuổi, phước đức ứng hiện đầy đủ. Lúc ấy có Ðại quỷ tướng quân tên là Bàn
Sức, vâng theo thần chú của đức Phật, biết tâm niệm của ông ta, liền gọi
Duyệt Xoa xua đuổi Ni Kiền: “Lõa mình không biết xấu hổ, không được ở
trong vườn.”.
Quỷ Bàn Sức vâng lệnh, lấy chày đánh Ni Kiền, lôi kéo
đồ vật, Ni Kiền hoảng sợ bỏ chạy nói rằng:
- Người ác nào đây mà ác độc như vậy?
Quỷ Bàn Sức nói:
- Trưởng giả Ca Lan Ðà sẽ đem vườn trúc này làm tinh xá
cho đức Phật. Ta là Ðại quỷ tướng quân Bàn Sức, được lệnh đuổi ngươi đi.
Sáng sớm, Ni Kiền đi đến chổ trưởng giả, rất phiền
trách, tại sao vô cớ đổi ý bố thí, khiến cho bọn chúng ta chẳng biết phải
ở đâu? Ðó là trưởng giả thấy sự khốn đốn của ta như vậy.
Trong tâm của Ca Lan Ðà hết sức vui sướng vì nguyện của
mình đã thành tựu. Ðức Phật che chở cùng khắp, thấy sự chí tâm của ta,
liền đáp với Ni Kiền:
- Các quỷ sứ ấy cường bạo, sân hận, e rằng họ sẽ làm
hại Ngài, chi bằng Ngài hãy bỏ đi để tìm chổ an ổn mà ở.
Ni Kiền uất hận, ngay ngày hôm đó tức giận bỏ đi.
Trưởng giả vui mừng, liền tạo lập tinh xá, tăng phòng, tọa cụ, thảy đều
trang nghiêm đầy đủ, đi đến dưới cây thỉnh Phật và tăng chúng, thọ thí rồi
đến đó an trụ, để một thời sư hóa đạo được rộng khắp, không ai mà không
được hoan hỷ.
5.- PHẨM XÁ LỢI PHẤT, ÐẠI MỤC KIỀN LIÊN ÐẾN HỌC ÐẠO.
Ðức Phật ở tại Tịnh xá Trúc Viên, nước La Duyệt Kỳ,
cùng đông đủ một ngàn vị Tỳ kheo tăng, đều là bậc Ứng chơn (La Hán) như
Uất Tỳ La .v.v.. trong đó có một người tên là Na La Ðà. Ngày xưa có một
Phạm chí tên là Sa Nhiên. siêng tu hạnh tiên, một thời gian lâu mới thâu
nhận đệ tử, là Thích Tiên Ðạo, gồm có 250 người. Trong số môn đồ ấy có
hai người đạo cao kỳ túc, khó sánh kịp. Một người tên là Ưu Ba Thế, người
thứ hai tên là Câu Luật Ðà, tài trí thâm đạt, nghiên cứu tinh thông. Khi
Sa Nhiên bị bệnh biết mình sắp chết mới bảo hai người học trò giỏi:
- Các người mới học này, chỉ có đạo hạnh, mong hai con,
hãy làm cho chí họ được vẹn toàn.
Hai người kính cẩn vâng lời, thọ giáo phụng hành.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Tỳ kheo Át Bệ:
- Ngươi hãy đi tuyên hóa giáo pháp, đến chỗ người có
thể hóa độ, người có thể thấy đạo, trí huệ của họ minh đạt. Ngoài đức Như
Lai ra, không ai có thể nghị luận cùng họ. Nếu gặp những người ấy, hãy nói
điều căn bản của pháp, đừng có đối đáp với họ, để bị cười chê.
Tôn giả Át Bệ vâng lời, sửa lại y, cầm bát, đảnh lễ đức
Phật rồi ra đi. Khi ấy Ưu Bà Thế cùng các đệ tử cùng đi du hóa, từ xa
trông thấy tôn giả Át Bệ ăn mặc khác thường mới hỏi:
- Ngài từ đâu đến? Thầy Ngài là ai, co thể nói cho tôi
nghe được chăng?
Lúc ấy tôn giả Át Bệ đáp lại bằng bài kệ:
- Tuổi ta hãy còn nhỏ
Học đạ0 chẳng bao lâu
Sao nói pháp chí chơn,
Nghĩa rộng lớn Như Lai?
Gốc tất cả các pháp
Nhân duyên, không, vô chủ
Dứt tâm đạt cội nguồn
Nên gọi là sa môn.
Ưu Bà Thế mới nghe nghĩa của pháp, liền suy tư thấy rất
đúng lý, mà tự nghĩ rằng:
- Lúc nhỏ, ta đã ham học, lúc 8 tuổi theo thầy cho đến
16 tuổi, từ đạo thuật đến cổ tiên, không sách nào mà ta không quán xuyến.
Trong 16 nước lớn, gọi ta là bậc biết rộng, nhưng ta chưa từng nghe được ý
nghĩa chơn chánh trọng yếu này. Nay tình cờ du hóa lại gặp được kho tàng
quý giá này. Lời nói ấy vi diệu, ngon như cam lồ, làm cho tâm khai ngộ, ý
cởi mở, liền được pháp nhãn. Ông trở về tinh xá, trong lòng hết sức vui
mừng.
Câu Luật Ðà thấy nhan sắc của vị này hân hoan, nghi là
đã được cam lồ, liền hỏi Ưu Bà Thế:
- Bạn đã được pháp cam lồ rồi chăng? Vậy bạn chớ quên
lời thề trước, hãy an cho tôi một chút.
Ưu Bà Thế nói cho Câu Luật Ðà nghe một cách đầy đủ về
bài kệ mà mình được nghe, rằng nghe qua thì tôi không hiểu, vị ấy nói lại
lần thứ hai thì tôi hiểu, tôi liền suy tư phản chiếu nên được pháp nhãn.
Lúc ấy hai người nghị luận rằng:
- Nguyện ước xưa nay mong được cam lồ, nay đã được
uống, vậy chúng ta hãy cùng nhau đi đến chỗ đại sa môn, nhảy vào trong
biển thâm sâu của vị ấy, tắm rửa cho được thanh tịnh.
Khi nghị luận xong, hai vị đồng tâm chuẩn bị lên đường.
Bấy giờ Câu Luật Ðà suy nghĩ:
- Thầy của ta lúc lâm chung, phó chúc các đệ tử, bảo ta
phải tế độ cho họ thành đạo. Nay ta lại bỏ mà đi, thấy lòng không nở, liền
bảo các đệ tử:
- Bậc Ðại sa môn kia, có vị cam lồ của tiên, hóa giải
lưới bại hoại của thế tục, làm cho tâm đình chỉ, hạnh tịch tịnh. Ta muốn
đến vị ấy để học hỏi chổ u vi cùng tột để trở về với chơn tâm, vậy các
ngươi muốn đi đâu?
Các môn đồ thưa:
- Nay được nghe thấy điều gì, thì đó là ơn của đại sư.
Nay đại nhân đã kính ngưỡng tôn thờ vị nào, chúng con cũng xin vui sướng
vâng theo, ưa thích vị ngọt cam lồ, xin theo cùng thầy.
Vì chí nguyện của thầy trò hợp nhau, họ liền lên đường
đi đến Trúc Viên.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:
- Nay có hai hiền giả, cùng các đệ tử, nhờ hạnh nguyện
xưa, muốn làm sa môn, đó là nhà công đức của tôn giả Át Bệ vậy.
Các Tỳ kheo nghe đức Phật nói, thì thấy họ đang đi đến.
Ưu Ba Thế và Câu Luật Ðà.v.v... từ xa trông thấy đức
Như Lai, tướng tốt chói sáng, tinh thần chấn động, liền tự khen rằng:
- May mắn thay, chúng ta được tôn thờ những lời dạy bảo
của bậc thanh tịnh, thật là vinh hạnh khó nói.
Họ đến phía trước, đầu mặt lạy đức Phật. Lạy xong,
trong lòng họ càng thêm vô lượng hoan hỷ. Rồi họ tiến lên, trình bày đầy
đủ tấm lòng của họ rằng:
- Bọn chúng con bị tội lỗi che lấp, trôi theo dòng nước
mà vào hố thẳm. Mãi đến hôm nay, ngược dòng trở về nguồn. Ngưỡng mong đức
Phật chấp nhận cho chúng con được vào hàng tăng chúng.
Lúc ấy đức Phật liền chấp nhận, râu tóc của họ từ rụng
đều thành sa môn. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:
- Hai người này, nguyện đối với vị cổ Phật, chờ khi ta
thành đạo, làm kẻ hầu cận hai bên. Ðức Phật nói Ưu Ba Thế hiệu la øCAO
THẾ. Có hoa mà không có trái, nên tên thật của người là Xá Lợi Phất. Còn
Câu Luật Ðà đổi tên lại là Ðại Mục Kiền Liên.
Nhân nghe đức Phật thuyết pháp, hai vị liền đắc quả La
Hán.
Ðức Phật bảo thị giả nói với các vị Tỳ kheo:
- Ðừng nên kiết giới, không được đi hai người, chừng
nào tăng chúng được 1.250 vị đức Phật mới kiết giới.
Ðức Phật kiết giới xong. Các Tỷ kheo hoan hỷ, thảy đều
cung kính, đảnh lễ Phật rồi lui ra .
6.- PHẨM TRỞ VỀ BỔN QUỐC.
Bấy giờ đức Như Lai sắp trở về Xa Di cùng với chúng đại
Tỳ kheo tăng, đều là bậc ứng chơn (La Hán) tinh thần tĩnh lặng, thông
suốt những điều vi tế, hiểu rõ hạnh nghiệp ba đời của chúng sanh. Ðó là
hiền giả Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, Uất Tỳ Ca Diếp, Na Ðề Ca Diếp,
Già Da Ca Diếp .v.v... gồm 1.250 vị.
Khi ấy vua Duyệt Ðầu Ðàn của nước Ca Duy La Vệ bảo Phạm
chí Ưu Ðà Da đi đến Trúc Viên, thỉnh đức Phật về nước.
Bấy giờ Ưu Ðà Da thấy đức Phật tướng tốt, chiếu sáng
đất trời, nên trong tâm rất hoan hỷ, đầu mặt lạy dưới chân đức Phật rồi
đứng qua một bên, tâm ý ngay thẳng, quỳ xuống bạch đức Phật:
- Ðức phụ vương từ xa gởi lời vấn an Tất Ðạt, nghe Ngài
thành đạo, lại cứu độ tất cả, riêng đức phụ vương chưa được mong nhờ, vậy
Ngài hãy trở về. Do đó hôm nay sai sứ giả đến thỉnh Ngài.
Ðức Phật hỏi Ưu Ðà:
- Sức khoẻ của phụ vương có bình yên chăng?
Ưu Ðà thưa:
- Ðại vương không sao cả, chỉ nhớ đến Thế Tôn thôi.
Ðức Phật hỏi Ưu Ðà:
- Ngươi có thích đạo của ta chăng?
Ưu Ðà thưa rằng:
- Con rất thích, bạch Thế Tôn .
Ðức Phật chấp nhận cho Ưu Ðà làm sa môn, và truyền trao
giới pháp. Ưu Ðà tự nghĩ: “Nay là đệ tử, làm sao có điều kiện trở về, đức
vua đang chờ tin tức, vậy ai báo tin?.
Ðức Phật biết tâm niệm của Ưu Ðà, muốn trở về. Ðức Phật
dạy:
- Chớ thân cận sự nghiệp thế gian, tham đắm cửa nhà.
Ưu Ðà bạch Phật:
- Ðức Phật sẽ về nước Xá Vệ chứ?
Ðức Phật đáp:
- Sẽ về!
Ưu Ðà vâng lời Phật dạy quỳ xuống bạch đức Phật:
- Không rõ ngày nào đức Thế Tôn sẽ về?
Ðức Phật bảo Ưu Ðà:
- Sau 7 ngày nữa ta sẽ đến Xá Di!
Ưu Ðà hoan hỷ đảnh lễ đức Phật rồi lui về. Bấy giờ Ưu
Ðà Da trở về đến Xá Di, đến cung nhờ thông báo. Người giữ cửa liền tâu với
vua:
- Sứ giả Ưu Ðà đã trở về ở ngoài cửa cầu xin yết kiến.
Nhà vua ra lệnh cho vào để hỏi tin và nói:
- Ta mong Ưu Ðà như người khát nước mong được uống. Sao
lại ngăn cản, rồi mới xin thông báo cho đến 3 lần, rồi mới đến trước?
Nhà vua thấy Ưu Ðà đã mặc pháp phục, nên hỏi Ưu Ðà:
- Khanh làm sa môn rồi sao?
Ưu Ðà thưa:
- Thần đã thọ giáo pháp của đức Phật .
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Tất Ðạt khi ở trong cung, chỉ có khanh là thân nhất,
khi ra khi vào quấn quít bên nhau, không bao giờ thưa hỏi người giữ cửa.
Nay ngươi trở về, sao lại đứng bên ngoài cửa nhờ người thông báo?
Ưu Ðà thưa với vua:
- Ðức Phật dạy Tỳ kheo đừng nên gần gũi người bạch y,
quyến luyến nhà cửa, vì đạo và tục phải khác nhau .
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Con của ta lúc ở trong cung y phục tuyệt đẹp, nay đã
thành đạo, mặc y phục như thế nào?
Ưu Ðà chỉ cái y mình đang mặc, nói rằng hiện nay Ngài
mặc y phục như vậy.
Nhà vua liền rơi nước mắt nói rằng:
- Tất Ðạt khi ở nhà, ta đã làm cung điện cho tái tử, có
bảy báu chạm khắc tuyệt hảo trên thế gian. Nay nhà cửa của thái tử như thế
nào?
Ưu Ðà thưa nhà vua:
- Ngài thường ở dưới gốc cây. Ðạo pháp của chư Phật Thế
Tôn đều như thế.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Con của ta khi ở trong cung điện đệm chiếu êm ấm, đẹp
như gấm thêu, mềm mại. Nay tọa cụ của Thái tử như thế nào?
Ưu Ðà tâu với vua:
- Ngài lấy cỏ làm tòa, giữ tâm trong sạch, để trừ lòng
tham.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Khi Tất Ðạt ở nhà, ta cho người nấu các món ăn ngon
ngọt cho Thái tử dùng. Nay Thái tử ăn uống như thế nào?
Ưu Ðà tâu rằng:
- Ðến giờ thì Ngài ôm bát khất thực ở những chúng sanh
có phước. Khi Ngài ăn không chọn món ngon hay dở, Ngài chú nguyện cho thí
chủ.
Nhà vua nghe những lời ấy liền rơi nước mắt. Nhà vua
hỏi Ưu Ðà:
- Lúc Tất Ðạt ngủ, nếu ta muốn cho Thái tử thức giấc
thì ta cho khảy đàn ca hát, sau đó Thái tử mới thức. Nay ở trong núi sâu,
làm sao để đánh thức Thái tử.
Ưu Ðà tâu vua:
- Ðức Như Lai ở trong Tam muội, bất kể ngày hay đêm.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Lúc con của ta ở trong cung, nếu khi tắm rửa, có tám
thứ nước thơm, vậy nay tắm rửa thì dùng thứ gì?
Ưu Ðà tâu vua:
- Ngài dùng tám thứ nước giải thoát chơn chánh để tẩy
rửa tâm ô uế.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Khi Tất Ðạt ở trong nước, dùng các loại hương Chiên
đàn, tô hợp để xoa thân, con của ta, nay đã tu đạo thì dùng thứ gì?
Ưu Ðà tâu vua:
- Ngài dùng hương Giới, Ðịnh, Huệ, huân ướp tám thứ.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Lúc Tất Ðạt ở nhà ta ra lệnh làm giường cho Thái tử
nằm, toàn bằng bốn thứ báu. Vậy nay Ngài ngồi bằng thứ gì?
Ưu Ðà tâu rằng:
- Lấy Tứ thiền làm giường, dứt tâm không dục.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Khi con ta ở trong cung có các vệ sĩ theo hầu. Nay
thì ai theo hầu?
Ưu Ðà tâu rằng:
- Các đệ tử học đạo của Ngài gọi là Tỳ kheo Tăng theo
hầu đức Thế Tôn, gồm có 1.250 vị cả thảy.
Nhà vua hỏi Uu Ðà:
- Lúc Thái tử ở nhà, nếu lúc muốn đi dạo, có 4 loại xe
là xe trâu, xe dê, xe voi, xe ngựa để Thái tử cỡi. Còn nay lúc đi dạo thì
cỡi bằng thứ gì?
Ưu Ðà tâu vua:
- Lấy Tứ Ðế, Thần túc làm xe phi hành .
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Khi con của ta du hành để tham quan thì có cờ lọng,
tết bông làm dù che làm vật trang sức đẹp. Nay thì lấy gì để che?
Ưu Ðà tâu vua:
- Dùng 4 ân, từ bi rộng rãi, trang điểm cho chúng sanh.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Mỗi khi Tất Ðạt đi ra ngoài thì khua chuông, đánh
trống, người đi xem Thái tử đứng đầy đường. Bây giờ khi đi hay ở thì có âm
thanh gì?
Ưu Ðà thưa với vua:
- Lúc đức Phật mới thành đạo, Ngài đi tới nước Ba La
Nại, đánh trống pháp cam lồ, năm anh em của Câu Lân liền chứng La Hán, tám
vạn Chư Thiên được nhập Ðạo tích, 96 chủng loại, chẳng ai mà chẳng hân
hoan kính phục. Cái pháp âm vô lượng ấy vang khắp cả ba ngàn Ðại thiên thế
giới.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Ngày nay Tất Ðạt muốn thống lĩnh nước nào?
Ưu Ðà tâu vua:
- Ðức Thế Tôn thống lãnh không thể nói được. Ngài giáo
thọ chúng sanh không một ai mà không mong được độ thoát. Ngài dùng tâm
bình đẳng để tế độ tất cả, chẳng chỗ nào mà không thích hợp.
Nhà vua hỏi Ưu Ðà:
- Nếu con ta ở trong nước lo nghĩ việc chính trị, giúp
ta an dân, hành động đều thuận với lễ nghi, không ai mà không vâng lệnh.
Nay thái tử ở một mình, suy tư những gì?
Ưu Ðà tâu vua:
- Ðức Thế Tôn suy tư về không, khổ, lạc, phi chơn, cái
gì có hình tướng phải trở về không, thần tịnh vô vi.
Nhà vua nghe lời ấy nói rằng:
- Tai họa thay Tất Ðạt – Tất cả đều có sao ngươi nói là
không? Trái ngược thay Tất Ðạt, thật là mâu thuẩn với con người.
Ưu Ðà tâu vua:
- Chính vì muốn cho người trí khắp trong thiên hạ,
người có trăm cái đầu, đầu có trăm cái lưỡi, lưỡi giải thích cả trăm ý
nghĩa.Hợp tất cả nhân loại lại xưng tán đức Như Lai hết một kiếp cũng
không thể nói hết công đức của Ngài. Huống chi điều tôi nói chưa được một
phần ức, thì ăn thua gì. Chỉ có Phật với Phật thì mới thấy được cái đức ấy
rực sáng.
Nhà vua nói:
- Lành thay, đức Phật sẽ đến đây chứ? Ngày nào Ngài mới
đến?
Ưu Ðà tâu vua:
- Bảy ngày nữa Ngài sẽ đến.
Nhà vua rất vui mừng, liền ra lệnh quần thần rằng:
- Ta sẽ nghênh rước đức Phật, đem theo các nghi vệ hầu
hạ, thống nhất chuẩn bị pháp tắc khi Thánh vương đi ra đi vào, sửa sang
đường đi cho ngay thẳng, lấy nước hoa rưới trên mặt đất, các ngã tư trong
thành đều phải treo tràng phan, tất cả đều trang hoàng, hết sức tráng lệ,
xe, ngựa, người theo hầu, trong vòng 40 dặm.
Hôm đó đức Thế Tôn từ Trúc Viên cùng câu hội với Ðại Tỳ
kheo tăng 1.250 người vào Xá Di, con đường đi dẫn đến một con sông tên là
A Lâu Na, khi vượt qua dòng sông đứng trên bờ, với thần thông chiếu soi,
Ngài biết rõ sự hưng khởi ác tâm bên trong của Ðiều Ðạt, chắc là khó khai
hóa. Nên Ngài hiện thần túc, để cho Ðiều Ðạt phải tín phục. Ngài liền bay
lên hư không, cách mặt đất bảy nhẫn, chân Ngài giống như bước trên đất
nhưng kỳ thật là Ngài đang ở trên hư không. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:
Hãy xem xe ngựa của nhà vua năm màu trang nghiêm và đẹp
đẽ, giống nhu Thiên Ðế Thích đi dạo.
Bấy giờ mọi người thấy đức Phật và tăng chúng, bước
chân trên mặt đất, ngước nhìn dấu chân thì thấy nó ở trên hư không, trên
cao dần dần đi xuống, thứ lớp đến ngay chỗ nghênh rước, ngang đầu của con
người, làm cho những kẻ cang cường không ai không cúi đầu quy mạng lễ bái.
Tuy nhiên chỉ có Ðiều Ðạt khởi tâm ác, nói rằng:
- Người đi học đạo chỉ làm trò huyển thuật, mê hoặc mọi
người như vậy. Ta cũng làm huyễn thuật để rộng hóa độ cho mọi người.
Khi ấy đức phụ vương từ xa thấy đức Phật đi đến vừa
thương vừa kính. Một là kính đạo, hai là thương con, liền xuống xe voi,
cởi kiếm, bỏ lọng, nước mắt ràn rụa, đi đến chỗ đức Phật, đầu mặt lạy dưới
chân Ngài nói bài tụng:
- Lúc sanh nhờ phước đức
Ba hai tướng ta lạy
Bóng cây không ngã lạy
Thành đạo lạy lần ba.
phụ vương hỏi:
- Lúc con còn ở nhà
Cỡi voi là xe báu
Nay phải đi dưới đất
Vì sao mà khổ vậy?
Thế Tôn đáp lại:
- Cỡi xe ngựa sanh tử
Nguy hiểm, chẳng lâu bền
Ngồi lên xe ngũ thông
Ði đến đâu cũng được.
phụ vương hỏi:
- Xưa mặc y Thất Bảo
Ngọc ngà hết sức đẹp
Nay cạo đầu , y rách
Sao không biết xấu hổ?
Thế Tôn đáp:
- Xấu hổ vì y phục
Thế y thêm trần cấu
Pháp y chơn nhơn mặc
Dừng tâm là Như Lai.
phụ vương hỏi:
- Xưa dùng vàng và bạc
Các đồ ăn thơm ngon
Nay thì đi xin ăn
Ðồ dở làm sao nuốt?
Thế Tôn trả lời:
- Pháp vị là đạo thực
Ðói khát nay đã trừ
Thương đời nên khất thực,
Ôm bát, phước chúng sanh.
phụ vương hỏi:
- Xưa ở trong cung riêng
Có cung phi hầu hạ
Nay riêng ở núi rừng
Vì sao không sợ hãi?
Ðức Thế Tôn trả lời:
- Trừ bỏ sợ sanh tử
Nay đã nhập bổn vô
Không sầu cũng không vui
Chỗ ở gọi Ðạo tràng.
Phụ vương hỏi:
- Khi xưa con ở nhà
Tắm bằng các hương thơm
Nay ở trong núi rừng
Lấy gì để tắm rửa?
Ðức Phật trả lời:
- Kho Ðạo là ao tắm
Ðầy tràn nước Chánh định
Tắm xong hết ba độc
Tam Ðạt (Thiên nhãn, túc mạng, lậu tận) rất hoan hỷ.
Bấy giờ vua cha thỉnh đức Phật và Tăng đi vào vườn vua,
lấy đó làm tinh xá mãi mãi. Ðức Phật vâng theo ý vua, liền vào tịnh xá,
ngồi dưới cây Ni Câu Loại, rộng thuyết giáo pháp suốt bảy ngày và không
mệt mõi. Người nghe hoan hỷ. Trong đó có người phát tâm đại thừa, có người
thích hạnh Bích Chi Phật, có người phát ý La Hán, có người làm sa môn, tất
cả tùy theo sự phát tâm như sự tu hành mà đắc đạo. Lúc ấy các người mẹ ở
trong thành, đều sanh thiện niệm, thương khóc tự trách:
- Ðức Thế Tôn đã về nước, các người đàn ông có phước
đức, riêng được thấy Phật. Bọn chúng ta vì tội chướng ngăn che, không được
uống pháp vị. Sao lại khổ như vậy?
Ðức Phật biết tất cả tâm niệm của những người mẹ, Ngài
khen rằng:
- Lành thay, đã sanh tâm tốt muốn được nghe pháp để
được thoát khổ thực sự.
Ðức Phật liền nói với vua cha:
- Chánh pháp khó gặp, đạo giáo khó được. Vua cha hãy ra
lệnh các người mẹ ở trong nước ai thích nghe pháp hãy đến nghe.
Nhà vua liền ra lệnh, ai muốn thấy Phật để nghe pháp
thì đến. Lúc ấy các người mẹ ở trong thành, đều vui mừng đi đến gặp Phật
lễ bái, rồi đứng qua một bên.
Bấy giờ đức Thế Tôn như điều mong cầu của họ Ngài
thuyết pháp làm cho mọi người đều hiểu rõ, đều được pháp nhãn.
Ðức vua và nhân dân vui mừng lạy đức Phật rồi thối lui.
Khi ấy các Tỳ kheo bạch đức Phật:
- Các người nam nữ, già trẻ ở trong nước Xa Di, nghe
đức Phật thuyết pháp, như trong tâm họ mong muốn nên tất cả đều được quả
quyết, nhưng Phụ vương cũng có nghe pháp mà không được Ngài ghi nhận là có
chứng đắc?
Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:
- Phụ vương của ta vì ân ái chưa dứt, tình cha con càng
lúc càng nồng nên tâm cung kính hưa trọn vẹn, vì vậy mà không chứng đắc .
Sáng sớm đức Như Lai chỉ bảo tôn giả Mục Kiền Liên đi
đến cung vua, lên ngồi trên điện. Ðức Phật bảo tôn giả Mục Liên:
- Hãy biểu hiện đạo lực của người.
Tôn giả Mục Liên vâng lời, bay lên hư không, bảy lần
hiện ra bảy lần biến mất, toàn thân phun nước với lửa, từ trên hư không đi
xuống, đảnh lễ dưới chân đức Phật, rồi đứng hầu phía bên trái.
Ðức vua cha thấy sự biến hóa tâm ý cởi mở vui mừng, nên
ân ái đoạn diệt, bên trong phát tâm cung kính đứng dậy đảnh lễ đức Phật:
- Hết sức tốt lành, thưa Thế Tôn. Ðệ tử có công đức mới
được như vậy. Oai đức của Nhu Lai khó mà độ lượng. Nhờ vậy vua cha liền
phát đạo ý vô thượng chánh chơn.
Bấy giờ vua cha mỗi lần đến chỗ đức Phật, thấy Ca
Diếp... một ngàn người, hình thể rất xấu, liền nổi tâm bất bình. Nhà vua
nói:
- Các Tỳ kheo này tuy lại có tâm tinh tấn, mà không
biểu hiện nơi dung mạo, nên khuyên dòng họ của ta, thích đạo vô vi, bảo họ
làm sa môn, lựa chọn những người đoan chánh. Nhà vua liền ra lệnh người
trong hoàng tộc sáng mai ội họp ở điện. Mọi người vcâng lệnh đến dự. Nhà
vua nói với mọi người trong tộc họ:
- Thầy tướng A Di nói: - Nếu đức Phật không xuất gia sẽ
làm Thánh vương, thống l4nh bốn thiên hạ, có thị tùng hầu hai bên, dùng sự
đoan chánh để dẫn dắt nhân dân. Nay các đệ tử hình dáng khó coi. Ta muốn
lễ bái bậc có đạo, đầy đủ nghi dung để sung thêm vào tăng số, rực rỡ cho
đức Thế Tôn.
Mọi người đều nói:
- Hết sức tốt lành.
Mọi người nghe rồi hoan hỷ, lui về sửa soạn, bảy ngày
nữa sẽ đi.
Ðiều Ðạt liền bảo hành giả:
- Chúng ta là giòng họ của vua chúa, nay bỏ vinh hoa
thế gian, xuất gia sống với đạo, đó là điều tốt đẹp nhất của đời, voi ngựa
xe cộ giá trị ngàn vàng, nay chuẩn bị ra đi.
Người đến xem đứng đầy cả đường đi. Khi ấy cái mão và
cái khăn vén tóc trên đầu của Ðiều Ðạt tự nhiên rơi xuống đất, trật đường,
con voi mà ông ta đang cỡi, 4 chân trãi dài dưới mặt đất, cất tiếng kêu
như tiếng chim.
Thầy tướng số đoán rằng:
- Mọi người đều đắc đạo, chỉ có hai người là không tốt.
Tất cả đều đi đến chổ đức Phật, đều làm sa môn. Kẻ cang
cường thì được hàng phục, không ai mà không an lạc .
KINH TRUNG BỔN
KHỞI
QUYỂN THƯỢNG HẾT
-
Quyển hạ.
7.- PHẨM TU ÐẠT
Ðức Phật từ bổn quốc cùng với 1.250 đại Tỳ kheo Tăng
đầy đủ đi đến nước Trúc Viên của nước Vương Xá. Trưởng giả Bá Cần nhờ thần
lực của đức Phật, đi đến Trúc Viên, năm vóc cúi lạy dưới chân đức Phật,
nhiễu quanh, đứng một cách cung kính, tâm đoan chánh, bạch đức Phật:
Cúi mong đức Thế Tôn hạ cố đến nhà con thọ dụng món ăn
đạm bạc.
Ðức Phật im lặng nhận lời, trưởng giả vui mừng lạy dưới
chân đức Phật rồi ra về. Khi về đến nhà, chuẩn bị đầy đủ các món ăn ngon
bổ, trang hoàng lọng, phướng, đích thân ông làm lấy các thức ăn mùi vị
tuyệt vời.
Trưởng giả Xá Vệ tên là Tu Ðạt (Ðời Tấn gọi là Thiện
Ôn), cùng với chủ nhân Bá Cần tuy chưa bao giờ gặp nhau nhưng cùng tin
tưởng nhau, hành động giống nhau, đức hạnh giống nhau, tuy ở xa mà xem
nhau như là bạn thân.
Tu Ðạt nhân có việc đi đến nước bạn, đúng lúc Bá Cần
đang tự mình sửa soạn đồ ăn để cúng dường nên không ra để đón tiếp Tu Ðạt,
làm cho trưởng giả phải chờ lâu, nên trưởng giả mới gọi kẻ ở, hỏi rằng:
Vì sao ta từ xa đến đây mà ông chủ ngươi không ra tiếp?
Chúng ta hằng nhớ nhau, chẳng lẽ bây giờ lại làm mất tình bạn của chúng ta
sao? Vì sao hôm nay có vẻ lạt lẻo vậy?
Bất ngờ, Ca Lan Ðà ( Bá Cần) công việc đã xong, mới đi
ra để gặp bạn. Trưởng giả nói:
- Chúng ta từ lâu chưa được gặp nhau, cam chịu sự nhớ
nhung, nay tôi đến đây. Từ lâu chúng ta đã nghĩ đến nhau, sao hôm nay lại
có vẻ lạt lẻo vậy?
Ca Lan Ca (Bá Cần) việc xong liền đi ra chào hỏi. Tu
Ðạt ngồi yên không ngó lại, nói rằng:
Xưa nay tôi chưa từng chịu nhục như thế này!
Bá Cần nói:
- Không ngờ hôm nay bạn lại đến đây, xin lỗí! Ngày mai
tôi thỉnh Thế Tôn cho nên lo làm việc mà không tiện ra tiếp đón bạn được!
Thiện Ôn (Tu Ðạt) hỏi:
- Sao gọi là Thế Tôn? Ðó là việc hôn nhân, lễ trong
nước hay ngày hội chăng?
Ðáp rằng:
- Này! Bạn không nghe Thái tử con của vua Bạch Tịnh,
vào núi sáu năm để tu hành, nay đã thành đạo, hiệu là Phật. Thần minh của
vị ấy chiếu soi nơi tăm tối, thân cao một trượng sáu, sắc như hoa, có màu
vàng tía, thuyết pháp, truyền giới, ý nghĩa tinh vi, nhập thần, có các đệ
tử đi theo, gọi là Tỳ kheo Tăng. Các vị ấy ở nơi vắng vẻ, giữ thân ngay
thẳng, tu đức , giữ đạo, bỏ vinh hoa, lợi lạc, gọi là Chơn Nhân, gồn có
1.250 vị.
Thiện Ôn nghe tiếng Phật, lông tóc dựng đứng, trong
lòng sung sướng. Tuy ông thong thả chờ trời sáng nhưng trong tâm bồn chồ,
cứ trở mình không ngủ được. Do lòng chí thành nên có sự cảm thông, mới nữ
đêm mà trời bỗng chợt sáng. Ông liền ngồi dậy, chuẩn bị ra đi theo hướng
cửa thành. Ông ngoái lại, nhìn thấy phía bên trái cửa thành có nhà thờ
thần tên là Thấp Ba, ông liền đến đó quỳ lạy. Khi lễ bái xong, ông mới
nhận ra rằng là trời vẫn còn tối. Thiện Ôn hoảng sợ chẳng biết đi đâu! Tuy
có sự đột biến ấy nhưng trong tâm ông vẫn còn vang vọng tên của đức Phật,
nên sự lo sợ liền tan biến. Lúc ấy trên không trung có tiếng nói:
- Lành thay, này Tu Ðạt! Nhờ chí tâm mới được như vậy.
Trưởng giả liền hỏi lại tiếng nói trên hư không:
- Ðó là vị thần nào vậy?
Ðáp rằng:
- Tôi là Tử Thân Ma Nhân Ðề .
Hỏi:
- Bạn sanh ở đâu?
Một lát vị ấy trả lời:
- Ngày xưa, tôi theo ngài Ðại Mục Kiền Liên, là đệ tử
thần túc của đức Phật, nghe thuyết kinh pháp. Nhờ phước báo ấy nên được
sanh lên cõi trời. Vì công đức quá ít nên được trấn thủ ở đây, thấy ngài
chí tâm nên tôi đến để giúp đỡ. Ðức Phật là bậc chí tôn, cứ mỗi bước đến
với Ngài thì phước đức vô lượng. Tiếc vì lúc còn sống, tôi không được thấy
đức Phật. Như nay mà được thấy Ngài thì tôi sẽ thấu rõ được chân đế.
Vị thiên ấy phóng luồng ánh sáng lớn chiếu đến Trúc
Viên. Thiên Ôn cứ theo ánh sáng ấy, từ xa trông thấy đức Thế Tôn vượt hơn
những điều ông được nghe, ông liền đi đến trước để lễ bái, rồi bước qua
một bên, lắng lòng quán sát thân tướng của đức Phật. Ông hỏi đức Phật:
- Ðấng Thần tôn có bình an chăng?
Ðức Phật nói bài kệ này cho Tu Ðạt:
- Không có sự buồn vui
Tâm không, thanh tịnh , an
Chẳng có gì là sanh
Thấy Ðế nhập Niết-bàn
Giác chánh niệm trong sáng
Ðã qua năm đường hiểm
Xè rách lưới ân ái
Mãi vắng lặng, an lạc.
Trưởng giả Tu Ðạt đang nghe đức Phật thuyết nhờ công
đức đời trước, liền phát ý thanh tịnh nên được pháp nhãn, quy mạng tam
tôn, trọ trì năm giới, làm Thanh tín sĩ, đến trước bạch Phật:
- Cúi mong đức Như Lai quang lâm nước Xá Vệ, giáo hóa
cho một thời gian để tế độ quần chúng .
Ðức Phật lại hỏi:
- Tên họ của ngươi là gì?
Trưởng giả quỳ xuống thưa rằng:
- Con tên là Tu Ðạt. Nhờ nuôi dưỡng những người cô đơn,
già cả, cung cấp cơm áo cho họ, nên người trong nước còn gọi con là
Cấp-Cô-Ðộc.
Ðức Phật bảo rằng:
- Ở đó có tinh xá dung chứa chúng đệ tử của ta chăng?
Thưa rằng:
- Dạ, chưa có.
Trưởng giả Tu Ðạt vâng theo thánh chỉ của đức Phật đến
trước đức Phật, quỳ xuống bạch đức Thế tôn:
- Con sẽ lãnh trách nhiệm tạo lập tinh xá. Chỉ cần có
một vị Tỳ kheo đến để xem chổ nào thuận tiện.
Ðức Phật quay lại bảo:
- Này Xá Lợi Phất! Ngươi hãy đi, cùng lo giúp đỡ việc
xây cất.
Tôn giả vâng theo lời dạy của đức Phật, liền đảnh lễ
rồi lui ra. Ngài trở về Xá Vệ, đi khắp nơi để tìm đất. Ngài chỉ thấy Kỳ
Viên là đẹp. Nơi ấy có các thứ trái cây suối chảy, chim lạ tụ tập, đất đai
màu mở, cây cối tươi tốt, lại cách thành không xa. Nhân đó, trưởng giả mới
đến hỏi ý Kỳ Ðà, nhưng Kỳ Ðà hoàn toàn không có ý bán khu vườn ấy. Song
trưởng giả cứ yêu cầu mãi, ông ta mới tức giận nói:
- Nếu có thể đem kim tiền lát hết khu vườn, tôi mới
bán.
Trưởng giả lại hỏi:
- Có thật vậy chăng?
Kỳ Ðà bảo:
- Nói giá cao chắc ngươi phải thối chí, nên ta nói đùa
thế thôi.
Trưởng giả nói:
- Như vậy là đã quyết định rồi, còn nghi gì nữa!
Tu Ðạt giã từ, trở về nhà chở hàng xe kim tiền đi đến.
Người giữ vườn ngăn chận, chạy đến thưa với ông chủ:
- Tu Ðạt mang tiền đến, không rõ ngài có chấp thuận bán
vườn hay không mà không cho con biết?
Kỳ Ðà đáp:
- Ta có nói giỡn như vậy, nếu họ mang tiền đến thì đừng
nhậnx!
Lúc ấy Tu Ðạt và Kỳ Ðà tranh cãi nhau. Các kỳ lão cả
nước đến để khuyên can chấm dứt vụ tranh cãi. Các kỳ lão xử rằng:
- Giá đất đã định không nên hối tiếc gì nữa. Chánh trị
nước nhà đã thanh bình. Thái tử Kỳ Ðà không nên đi ngược lại luật pháp!
Khi ấy Kỳ Ðà đồng ý cho lát kim tiền, nhưng chưa đủ.
Bấy giờ trong ý nghĩ của Kỳ Ðà rất mừng, nói rằng:
- Ta sẽ được khu vườn.
Ông bảo người đến hối Tu Ðạt cùng đến xem vườn. Trưởng
giả Tu Ðạt thấy kim tiền lát chưa khắp khu vườn, trong lòng bực bội không
vui.
Kỳ Ðà bảo:
- Này Quốc Hiền! Nếu hối tiếc, hãy trả lại vườn cho
tôi.
Trưởng giả đáp:
- Tôi không hối tiếc. Tôi chỉ nghĩ: nên xuất số vàng
của kho nào để lát cho đủ khoảnh đất còn lại.
Lúc ấy trong tâm của Kỳ Ðà nghĩ rằng: “Chắc đức Phật là
bậc chí tôn cho nên mới khiến cho người này đem hết tiền bạc ra cúng dường
mà không hối hận. Như vậy vị ấy nên đội trên đầu, rất đáng kính ngưỡng, vì
có thần diệu như vậy”, nên Kỳ Ðà liền gọi Tu Ðạt:
- Ông chớ mang thêm kim tiền để lát khoảnh đất còn lại.
Tôi xin cúng dường rừng cây, chúng ta cùng lập tinh xá để cúng dường.
Tu Ðạt liền đáp:
- Lành thay! thưa vâng.
Lúc đó trưởng giả ra sức tạo lập tăng phòng, tọa cụ,
giường chỏng, mền nệm đẹp nhất trên đời, cúng thí tràng phang, dùng nước
hoa để rưới mặt đất, bày biện đầy đủ vật dụng cúng dường. Ông lại soạn các
món ăn thật ngon, đốt các hương thơm, từ xa quỳ xuống thỉnh đức Phật:
- Cúi mong Như Lai hạ cố giáng lâm.
Bấy giờ đức Chúng Hựu cùng với 1.250 vị đại Tỳ kheo
Tăng du hành đến nước Xá Vệ, theo lo82i thỉnh cầu của Tu Ðạt. Oai thần của
Phật chấn động; người nam, nữ; kẻ lớn, người nhỏ ở trong nước đứng chật cả
đường.
Trưởng giả Cấp Cô Ðộc cùng với Nan Ðà là em của vua,
đến trước, lạy dưới chân đức Phật, cùng lên tinh xá. Ðức Phật thọ nhận,
chú nguyện, gọi đây là: “vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà”.
Nhà vua vì có việc, triệu hồi Tu Ðạt về gấp, nên Tu Ðạt
đi đến dự hội, việc xong trở về, phụng trì trai giới hết sức cung kính.
Giữa đường có một người dâng một bình sữa nhưng không ai bưng hộ, tự bưng
mà đi. Trên đường đi gặp một Phạm chí, ông nhờ bưng giùm bình sữa, cùng
đến tinh xá. Tự tay ông dâng thức ăn cúng dường, bảo Phạm chí:
- Ông cứ tiếp tục dâng thức ăn cúng dường
Phật ăn xong dâng nước để Ngài rửa tay. Ðức Phật vì họ
nói pháp, tất cả mọi người đều hoan hỷ, khen là rất hay.
Buổi chiều Phạm chí trở về, vì trai giới không ăn nên
người vợ thấy lạ mới hỏi:
- Không rõ ông tức giận việc gì?
Ðáp rằng:
- Ta chẳng tức giận việc gì cả, vì ta giữ trai giới
vậy.
Người vợ lại hỏi:
- Theo ai mà trai giới?
Phạm chí đáp:
- Trưởng giả Cấp Cô Ðộc cúng dường cho đức Phật ở trong
vườn, mời ta đến thọ Bát quan trai.
Người vợ khóc lóc tức giận nói:
- Ông đã bỏ phép tắc truyền lại, tai họa từ đây sinh
ra, Cù-Ðàm loạn pháp, đâu đủ để thâu nạp.
Phạm chí bị vợ bức xúc mãi liền ăn cùng với vợ. Khi
Phạm chí mạng chung, vào lúc nữa đêm, sanh vào nước Uất Ða La Vệ, làm vị
thọ thần trong một cái đầm lớn. Khi ấy có năm trăm người Bà la môn muốn
đến ba chỗ thờ thần sông ở sông Hằng để tắm rửa sự cấu uế, cầu mong thần
tiên. Nhưng đi nữa đường họ bị thiếu lương thực, từ xa thấy cái cây ấy,
tưởng có dòng suối, họ chạy đến dưới cây ấy thì hoàn toàn chẳng thấy gì
cả. Họ bị cùng khốn tại cái đầm đó, đói khát kịch liệt. Khi ấy vị thần cây
hiện ra hỏi Phạm chí rằng:
- Các đạo sĩ từ đâu đến? Nay muốn về đâu?
Các Phạm chí đồng thưa:
- Chúng tôi muốn đến ao thần để tắm rửa, cầu được làm
tiên. Nay bị đói khát, rất mong Ngài thương xót cứu tế.
Bấy giờ vị thần cây liền đưa cánh tay lên, các món ăn
thơm ngon hiện ra rất nhiều. Họ ăn uống no nê, đi đến chổ vị thần, thưa
rằng:
- Ngài có những công đức gì mà có phép màu vòi vọi như
vậy?
Thần đáp các Phạm chí:
- Tôi nhờ ông trưởng giả Cấp Cô Ðộc ở nước Xá Vệ mà thọ
trì Bát quan trai, nhưng bị vợ cản trở làm thất bại nên không tu trọn
nghiệp lành ấy. Lúc tái sanh bị vào đầm này làm thọ thần. Nếu giữ pháp Bát
quan trai, phước được sanh lên cõi trời. Bấy giờ vị thọ thần mới nói bài
tụng:
Thờ thần , gieo gốc hoa
Ngày đêm sanh cành nhánh
Luống khổ hoại thân thể
Trai pháp độ thế tiên.
Phạm chí nghe bài kệ, tỉnh ngộ, tín thọ, trở về Xá Vệ.
Trên đường đi dẫn đến một nước tên là Câu Lam Ni. Trong nước này có một
trưởng giả tên là Cù Sư La (Tấn gọi là Mỹ-Âm) được nhân dân kính yêu, nói
gì họ cũng nghe. Các Phạm chí ấy đến xin ngủ trọ.
Mỹ Âm hỏi:
- Các đạo sĩ từ đâu đến? Nay muốn làm gì?
Họ tường thuật đầy đủ công đức của vị thọ thần ở đầm
kia cho trưởng giả nghe. Họ muốn đến chổ trưởng giả Cấp Cô Ðộc để xin thọ
trì trai pháp mới thỏa nguyện.
Mỹ Âm vui mừng nhảy nhót, nhờ phước đời trước cảm ứng
nên hiểu rõ, muốn đi theo. sáng sớm, ông ra lệnh những người trong giòng
họ và những người bạn thân rằng:
- Ai có thể cùng đi với tôi để thọ trì trai giới thì
đi!
Lúc ấy 500 người cùng ứng khẩu xin đi. Ðó là nhờ nguyện
xưa của họ đưa đẩy nên họ cùng chuẩn bị lên đường đi đến nước Xá Vệ.
Khi chưa đến Kỳ Hoàn, giữa đường thì gặp Tu Ðạt đi qua
mà ông không biết, ngoái lại hỏi những người đi theo:
- Vị Ðại phu nào vậy?
Ðáp rằng:
- Ðó là ông Cấp Cô Ðộc vậy!
Phạm chí và mọi người vui mừng rượt theo, nói rằng:
- Nguyện của ta đã thành, cầu người thì gặp người.
Chúng ta hãy chạy theo để tương kiến .
Mọi người đồng khen rằng:
- Từ lâu chúng tôi đã vâng theo đức của ngài, trong
lòng khát ngưỡng, nghe ngài dạy pháp Bát quan trai nên từ xa chúng tôi đến
đây để thọ giáo. Thật là may mắn, mong ngài chỉ dạy!
Tu Ðạt dừng xe lại đáp rằng:
- Tôi có vị đại sư hiệu là Như Lai, là bậc Chúng Hựu.
Ngài đang hóa độ mọi người ở gần Kỳ Hoàn. Vậy chúng ta hãy cùng nhau đến
đó để ra mắt đức Thế tôn.
Họ nghe lời của trưởng giả nói như vậy, đồng cung kính
thưa: “Vâng!”, hết lònh thành khẩn. Từ xa họ trông thấy đức Như Lai nên
tâm hoan hỷ phát sanh, năm vóc gieo xuống đất, lui ra và ngồi xuống. Nhờ
quán sát bổn tâm, thuận theo lời pháp yếu, nên 500 vị Phạm chí đều đắc quả
A-na-hàm, liền xin đức Phật cho làm sa môn. Còn bà con của Mỹ Âm... đều
được pháp nhãn.
Các Tỳ kheo bạch đức Phật:
- Năm trăm Phạm chí này và các trưởng giả kia vì sao
được đắc đạo nhanh như vậy?
Ðức Phật dạy:
- Trong đời quá khứ không lâu, khi ấy có đức Thế tôn
hiệu là Ca Diếp giảng pháp cho họ nghe. Ngài nói: “Ðời sau của ta, các
Phạm chí ở trước đức Phật kia nguyện được thấy đức Phật Thích Ca ở đời
tương lai”. Các trưởng giả này cũng đồng nguyện như vậy. Nhờ nhân duyên ấy
nên thấy ta, liền được giải thoát.
Các Tỳ kheo vui mừng, tín thọ phụng hành.
Trong tâm của Mỹ Âm muốn thỉnh đức Thế tôn. Ðức Phật
biết tâm của ông ta nghĩ như vậy, Ngài nói:
- Vì ngươi không có tinh xá nên ý nguyện của ngươi
không thành.
Mỹ Âm vui mừng vì đức Phật hiểu ý mình, nên đến trước
bạch đức Phật:
- Con có một cái nhà riêng xin đem làm tinh xá. Cúi
mong đức Thế tôn dủ lòng thương xót, đến đó tế độ quần sanh.
Nói xong ông trở về nước, sửa soạn đầy đủ vật dụng để
cúng, rồi ông đến chổ đức Phật đem đầu mặt lạy dưới chân đức Phật để dâng
cho Ngài. Lạy xong, rồi ra về./.
8.- PHẨM NHÂN DUYÊN HUYỀN-DUNG TRAI GIỚI.
Bấy giờ đức Như Lai cùng với 1.250 vị Tỳ kheo Tăng, từ
tinh xá Kỳ Hoàn, nước Xá Vệ du hành đến tinh xá của trưởng giả Mỹ Âm, nước
Câu Lam Ni. Khi Ngài đặt chân đến cổng thành thì đất trời chấn động, các
nhạc khí, châu ngọc, không đánh mà tự kêu. Ngay trong ngày hôm ấy các thứ
độc hại người biến mất, điều tốt lành hiện ra. Toàn dân trong nước không
ai mà không kinh ngạc, khát ngưỡng đức Thế tôn.
Bấy giờ có vị quốc vương tên là Ưu Ðiền, cường bạo xâm
lấn và làm hại nhân dân, nghe lời nịnh thần, đam mê nữ nhạc, tự chìm trong
lưới nghi, lại đặt hai vị phu nhân thay phiên nhau hầu hạ bên tả, bên hữu.
Hai Hoàng hậu là người đẹp nhất nước. Người phu nhân bên trái tên là
Chiếu Ðường, một con người kiêu ngạo, chỉ có toàn kẻ ác theo hầu, xàm tấu
kẻ hiền lương, vu khống kẻ vô tội không biết chán.
Người phu nhân phía bên phải tên là Huyền Dt con người
nhân ái, khiêm cung, kính nể, trong trắng, tự kiềm chế mình, không ai sánh
bằng. Nhà vua rất quý trọng phẩm hạnh ấy nên việc gì cũng tâm sự với bà.
Vì vậy Hoàng hậu Chiếu Ðường đem lòng ghen ghét, sàm tấu hết lời, nhưng
nhà vua thấy rõ đức hạnh của bà nên không tin.
Hoàng hậu Huyền Dung có một người hầu già tên là Ðộ
Thắng, thường đi ra chợ mua hương, nhân lúc trở về hỏi thăm trên con đường
đến tinh xá, mỗi lần đến chỗ các vị tu hành, bà cung kính, giảm bớt tiền
mua hương, góp lại để dành cúng dường trai phạn cho đức Phật và Tỳ kheo
Tăng. Ðức Phật thuyết pháp cho bà nghe, bà nhớ mãi không quên. Khi cúng
dường xong thì trở về cung, ngang qua chợ lấy hương. Nhờ công đức ấy,
phước nghiệp theo đuổi, nên mùi hương huân ướp, thấy cân lượng nhiều gấp
bội lúc bình thường. Khi bị cật vấn thì cùng lý, cúi đầu khai thật rằng:
- Mỗi lần đi chợ, tôi bớt tiền mua hương để cúng trai
phạn cho Phật và Tăng, để được nghe giáo pháp sâu xa, ý nghĩa vi diệu mà ở
thế gian không thể nghe được.
Hoàng hậu Huyền Dung nghe nói tiếng Phật, bỗng nhiên
trong tâm hoan hỷ, tự suy nghĩ: “Trong tâm của ta hân hoan vui sướng, vậy
làm sao để được nghe vô lượng pháp?”. Bà liền bảo Ðộ Thắng:
- Ngươi hãy nói thử ta nghe xem!
Ðộ Thắng thưa:
- Thân của hạ thần đê tiện, miệng thì xú uế, không dám
tự tiện tuyên nói lời tôn quý của đức Như Lai. Vậy xin Hoàng hậu hãy đi
đến chỗ đức Phật thọ giáo rồi trở về .
Hoàng hậu lại bảo Ðộ Thắng ra khỏi cung điện, rằng:
- Hãy thọ lãnh đầy đủ nghi thức rồi trở về.
Ðộ Thắng đi chưa trở về thì thị nữ của phu nhân đứng
chật cả sân.
Ðức Phật bảo Ðộ Thắng:
- Ngươi hãy trở về thuyết pháp, sẽ có nhiều người được
chứng đắc. Nghi thức của sự thuyết pháp trước nhất phải đặt một tòa cao.
Ðộ Thắng vâng lời dạy của đức Phật, tuyên dương Thánh
chỉ của đức Phật một cách đầy đủ. Hoàng hậu Huyền Dung sung sướng mở rương
lấy y chất thành tòa cao. Lúc ấy Ðộ Thắng nhờ oai thần của đức Phật mà
thuyết pháp như bậc Ứng chơn.
Khi ấy Hoàng hậu Huyền Dung và các thị nữ, tâm nghi đã
cởi mở, sự ác đã tiêu trừ, được đạo Cấu Hạng (Nhập lưu), ngay lúc ấy, Ðộ
Thắng đã được Tổng Trì.
Nghe vậy Hoàng hậu Chiếu Ðường trong lòng bừng bừng tức
giận, đố kị nên nhiều lần sàm tấu với vua. Nhà vua liền mắng nhiếc:
- Bọn ngươi là thứ yêu tinh, nói lời vô nghĩa, vu khống
người ta là kẻ tiết hạnh, thật đáng quý.
Trong tâm của Hoàng hậu Chiếu Ðường đố kị, nên muốn
giết hại Hoàng hậu Huyền Dung, bí mật tâu với vua:
- Hoàng hậu Huyền Dung thường bảo con hầu đến chỗ đức
Phật tâm tình, ngoại giao phóng đãng, ý chí dâm dật, tà vạy. Thiếp thật
lòng trung trực, thấy vậy đã mấy lần khuyên can mà vẫn không bỏ.
Nhà vua lấy làm nghi hoặc về âm mưu trong tâm của Hoàng
hậu Chiếu Ðường, cho người rình mò trong ngày trai giới của Hoàng hậu
Huyền Dung chắc chắn sẽ biết. Người rình mò ấy biết được ngày trai giới
của Hoàng hậu, nhân đó tâu với vua:
- Ngày hôm nay vui vẻ, chúng ta nên mời Hữu Phu nhân
đến để vui chơi.
Khi ấy nhà vua liền loan tin triệu tập mọi người đều
đến dự hội. Song, Hoàng hậu Huyền Dung vì trì trai giới nên không đến dự
được. Nhà vua cho người mời đến ba lần nhưng Hoàng hậu vì giữ giới nên vẫn
không đến. Vì vậy nhà vua rất tức giận, cho người kéo Hoàng hậu ra khỏi
phòng, trói lại, đem đến trước cung điện. Lúc sắp sửa hành hình, Hoàng hậu
Huyền Dung vẫn chẳng sợ hãi, một lòng hướng về đức Phật. Nhà vua tự mình
cầm cung bắn Hoàng hậu, nhưng mũi tên lại bay trở lại hướng nhà vua. Lần
thứ hai cũng in như vậy. Bấy giờ nhà vua rất sợ hãi, kinh ngạc, thả cung
xuống và hỏi rằng:
- Ngươi có yêu thuật gì mà khiến cho mũi tên bay ngược
lại như vậy?
Phu nhân tâu rằng:
- Tôi chỉ thờ đức Như Lai, quy mạng Tam tôn mà thôi.
Buổi sáng giữ trai giới của đức Phật, quá giờ ngọ thì không ăn. Lại thực
hành tám việc (Bát trai giới), thân thể không trang sức, cho nên đức Thế
tôn thương xót mà được như vậy.
Nhà vua nói:
- Lành thay! Lẽ nào việc ấy lại đơn giản đến thế?!
Nhà vua liền đến tinh xá để ra mắt đức Phật. Gặp lúc có
địch quốc khởi binh xâm nhập biên giới, thế địch rất hùng mạnh. Nhà vua
phải đích thân ra trận, ra lệnh cho Phạm chí Kiết-Tinh được thay mặt vua
thống lĩnh việc quốc chính. Khi ấy Hoàng hậu Chiếu Ðường rất vui sướng,
nói rằng:
- Cha của ta nắm việc quốc chính, ta sẽ giết (Hoàng
hậu) Huyền Dung vậy.
Nhà vua đi rồi, bà ta cùng cha mình lập mưu giết Hoàng
hậu Huyền Dung và người thị nữ, dối nói với mọi người là: “họ bị lửa
thiêu”. Nhưng sự việc tưởng là được ém dẹm, không ngờ bị phát lộ, nhà vua
rất tức giận, đuổi Kiết Tinh ra ngoài biên giới, vì ông ta là đạo sĩ nên
được tha tội chết. Còn Chiếu Ðường và đồng bọn đều bị bỏ vào hang tối dưới
đất. Lúc ấy, nhà vua xiển dương Phật pháp rộng rãi.
Các Tỳ kheo từ tòa đứng dậy, bạch đức Phật:
- Hoàng hậu Huyền Dung và cô thị nữ của nhà vua tinh
tấn như vậy, đã thấy chân lý, đắc đạo, không rõ vì tội gì mà bị lửa thiêu
đốt như vậy? Cúi mong đức Thế tôn nói rõ việc này cho chúng con nghe .
Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo rằng:
- Thời quá khứ có một cái thành tên là Ba la nại. Tại
đó có 500 người dâm nữ, chuẩn bị món ăn đạm bạc để tự cúng tế. Lúc ấy có
một vị Buích Chi Phật tên là Ca La, giáo hóa nhân dân, bảo họ giữ năm
giới. Các sĩ nữ trong nước đều quy y với Ngài. Vì Vậy, các dâm nữ tức giận
nói rằng:
- Tại sao người này đến đây làm mất khách của chúng ta?
Do đó họ đồng sân hận, âm mưu hủy hoại ngài.
Hôm sau ngài Ca La lại vào xóm này. Các dâm nữ đồng tức
giận, cùng lấy lửa của bếp lò đôi vào người tôn giả Ca La, làm cho toàn
thân ngài bị cháy xém mà chẳng có chút hối hận. Ngài liền hiện thần túc
bay lên hư không. Khi ấy các cô dâm nữ hoảng sợ, chảy nước mắt, hối hận
lỗi lầm của mình, quỳ dài ngẩng đầu lên trời, tự trình bày rằng:
- Bọn nữ chúng con ngu xuẩn, chẳng biết bậc chân nhân,
thật là ngu si mê muội nên mới hủy nhục bậc thần linh. Chúng con tự biết
lỗi của mình rất nhiều, tội ác như núi. Cúi mong ngài duỗi thần đức để
chúng con được tiêu trừ tội nặng.
Theo những lời ấy, ngài liền hạ xuống rồi Bát Nê hoàn.
Các cô gái ấy liền xây tháp cúng dường xá lợi.
Ðức Thế tôn nói tiếp:
- Các dâm nữ lúc ấy nay chính là Hoàng hậu Huyền
Dung.... Tội hay phước theo đuổi con người, việc từ lâu mà vẫn rõ ràng.
Khi đức Phật thyuết pháp xong, các người từ lớn đến nhỏ
ở trong nước đều tín phục, hoan hỷ, quy mạng Tam tôn, thọ giới rồi ra về.
Ðức Phật và các Tỳ kheo trở về tinh xá, dừng chân ở Kỳ
Hoàn./.
9.- PHẨM CÙ-ÐÀM-DI ÐI ÐẾN ÐỨC PHẬT XIN LÀM TỲ KHEO NI.
Bấy giờ đức Phật du hóa tại tinh xá giòng họ Thích,
nước Ca Duy La Vệ, cùng với 1.250 vị Ðại Tỳ kheo Tăng. Khi ấy Ðại Ái Ðạo
Kiều Ðàm Di đi đến chổ đức Phật, cúi đầu lạy Ngài rồi đứng qua một bên,
chấp tay bạch đức Phật:
- Con nghe người nữ tinh tấn tu học có thể đắc bốn đạo
quả sa môn, nên con xin được thọ pháp luật của đức Phật, vì con ở tại gia
có tín tâm, muốn được xuất gia học đạo.
Ðức Phật bảo:
- Thôi đi! Này Cù Ðàm Di, thật không thích hợp cho
người nữ xuất gia nhập vào pháp luật của ta, mặc pháp y, suốt đời thanh
tịnh, cứu cánh phạm hạnh.
Cù Ðàm Di cầu xin, khóc lóc như vậy cho đến ba lần
nhưng đức Phật vẫn không chấp thuận. Bà liền đến trước đức Phật đảnh lễ,
nhiễu quanh rồi ra về.
Sau đó không lâu, đức Phật cùng các Ðại Tỳ kheo Tăng
câu hội, từ tinh xá giòng họ Thích, vào nước Ca Duy La Vệ. Bà Ðại Ái Ðạo
nghe đức Phật và các đệ tử theo hầu đi vào quốc nội, trong lòng rất hoan
hỷ, liền đến chổ đức Phật, cúi đầu lạy dưới chân Ngài. Bà lại bạch đức
Phật:
- Con nghe người nữ tinh tấn học đạo có thể được bốn
đạo quả sa môn. Vậy con xin được thọ pháp luật của đức Phật. Con ở tại gia
có tín tâm, muốn được xuất gia học đạo.
Ðức Phật bảo:
- Thôi đi! Thôi đi! Này Cù Ðàm Di! Thật không thích hợp
cho người nữ gia nhập vào pháp luật của ta, mặc pháp phục, suốt đời thanh
tịnh, cứu cánh phạm hạnh.
Bà Ðại Ái Ðạo lại cầu xin, khóc lóc đến ba lần như vậy
nhưng đức Phật vẫn không chấp thuận. Bà liền đến trước đảnh lễ, nhiễu
quanh đức Phật rồi ra về.
Khi ấy đức Phật cùng Tỳ kheo Tăng ở lại trong đất nước
này lánh mưa ba tháng, vá lại y phục xong, mặc y ôm bát đi nơi khác. Bà
Ðại Ái Ðạo cùng các lão mẫu.... liền đi theo đức Phật.
Ðức Phật đi đến thôn xóm Na Tư, dừng chân trên bờ sông.
Bà Ðại ái đạo liền đến trước đảnh lễ đức Phật rồi đứng qua một bên bạch
rằng:
- Con nghe người nữ tinh tấn tu hành, có thể đắc bốn
đạo quả sa môn. Vậy con xin được thọ pháp luật của đức Phật, vì con ở tại
gia, có tín tâm, muốn được xuất gia học đạo .
Ðức Phật bảo:
- Thôi đi! Thôi đi! Này Cù Ðàm Di, thật không thích hợp
cho nữ nhân gia nhập vào pháp luật của ta, mặc pháp phục, suốt đời thanh
tịnh, cứu cánh phạm hạnh.
Bà đại Ái Ðạo cầu xin, khóc lóc như vậy cho đến ba lần,
nhưng đức Phật vẫn không chấp nhận. Bà liền đến trước đảnh lễ, nhiễu quanh
đức Phật rồi đi ra, đứng ngoài ngõ, y phục rách nát, bước chân lảo đảo,
mặt mày đầy bụi, thân thể mệt mỏi, khóc lóc bi thảm.
Khi ấy hiền giả A-Nan thấy mẫu thân Ðại ái Ðạo như vậy,
liền hỏi:
- Này Cù Ðàm Di! Vì sao y rách, chân không, mặt mày lấm
lem, y phục bụi bặm, mệt mỏi, khóc lóc như vậy?
Ðại Ái Ðạo trả lời:
- Này Hiền giả A-Nan! Nay tôi vì là người nữ nên không
được thọ pháp luật của đức Phật. Do đó mà tự xót thương mình!
Tôn giả A-Nan nói:
- Thôi! Thôi đừng khóc. Này Cù Ðàm Di, hãy thong thả
chờ tôi vào gặp đức Phật ngay bây giờ để thưa việc này cho!
Hiền giả A-Nan liền đi vào đảnh lễ dưới chân đức Phật,
quỳ xuống bạch rằng:
- Con nghe đức Phật dạy là: người nữ mà tu hành tinh
tấn có thể đắc được bốn đạo quả sa môn. Nay Ðại Ái Ðạo chí tâm muốn thọ
pháp luật, vì bà ở tại gia, có tín tâm, muốn xuất gia học đạo. Cúi mong
đức Phật chấp thuận.
Ðức Phật bảo:
- Thôi đi! Thôi đi! Này A-Nan! Thật không thích hợp cho
người nữ gia nhập làm sa môn trong pháp luật của ta. Vì sao vậy? Này
A-Nan! Thí như nhà tộc tánh mà sanh nhiều con gái, ít con trai thì nên
biết nhà ấy bị suy yếu, không thể cường thạnh được. Nếu nay để người nữ
gia nhập vào trong pháp luật của ta, chắc chắn sẽ khiến cho sự thanh tịnh,
phạm hạnh của giòng Phật không được lâu dài. Thí như ruộng lúa, mầm mộng
đang lên phơi phới mà gặp khí hậu xấu sẽ khiến cho những hạt lúa tốt bị
thương tổn, hư hoại. Nay nếu để cho người nữ gia nhập vào trong pháp luật
của ta, chắc chắn sẽ khiến cho đại đạo thanh tịnh của đức Phật không được
hưng thịnh lâu dài.
Tôn giả A-Nan lại thưa:
- Hiện nay bà Ðại ái đạo có nhiều thiện ý. Từ lúc đức
Phật mới chào đời, do bà nuôi dưỡng cho đến ngày khôn lớn.
Ðức Phật bảo:
- Này A-Nan! Quả đúng như vậy. Nếu Ðại ái Ðạo có tín
tâm, nhiều thiện ý, có ơn đối với ta, khi sanh ta mới bảy ngày thì mẫu
thân của ta đã mất, bà Ðại Ái Ðạo nuôi dưỡng ta cho đến ngày khôn lớn. Nay
ta là Phật trong thiên hạ, cũng có nhiều ân đức đối với Ðại ái Ðạo. Bà Ðại
ái Ðạo vì nhờ ta mà được đến để tự quy Phật, tự quy Pháp và tự quy Tỳ kheo
Tăng, lại còn tin Phật, tin Pháp và tin Tỳ kheo Tăng, không còn nghi về
khổ, nghi về Tập, nghi về Tận và nghi về Ðạo nữa, nên thành tựu tín tâm,
thành tựu cấm giới, thành tựu đa văn, thành tựu bố thí, th2nh tựu trí tuệ,
cũng có thể tự mình cấm chế, không sát sanh, không trộm cắp, không dâm
dật, không vọng ngữ, không uống rượu. Như vậy, này A-Nan, chính là cái
khiến cho người ta suốt đời cấp thí cho nhau áo quần, đồ ăn, thức uống,
ngọa cụ, thuốc men, khi bị bệnh khốn, không bằng công đức ấy của ta.
Ðức Phật bảo t6on giả A-Nan:
- Giả như người nữ muốn làm sa môn thì phải giữ 8 kỉnh
pháp, không được vi phạm, phải thọ trì suốt đời, học tập và thực hành 8
kỉnh pháp ấy. Ví như phòng nước tràn vào thì phải khéo đắp bờ đê ngăn
chận, đừng cho nước rịn vào mới thôi. Nếu người nữ có thể giữ 8 kỉnh pháp
như vậy mới có thể gia nhập vào giới luật của ta được.
Những gì là 8 kỉnh pháp?
1/ Tỳ kheo trì đại giới thì người nữ là Tỳ kheo ni phải
theo mà thọ (học) chánh pháp.
2/ Tỳ kheo Tăng trì đại giới, cứ mỗi nữa tháng trở lại,
Tỳ kheo ni phải lễ bái tôn thờ.
3/ Tỳ kheo Tăng và Tỳ kheo ni không được ở chung, sống
chung.
4/ Ba tháng dừng nghỉ trong một vùng, cùng nhau tự
kiểm điểm về những điểu nghe được và thấy được, nên tự phản tỉnh xem xét.
5/ Tỳ khei ni không được trách mắng, hỏi việc của Tỳ
kheo Tăng về nhũng điều nghe và thấy. Nhưng Tỳ kheo Tăng nếu có điều nghe
và thấy có quyền trách mắng Tỳ kheo ni, Tỳ kheo ni liền phải tự phản tỉnh
xem xét.
6/ Tỳ kheo ni có mong cầu đối với đạo pháp, được phép
hỏi Tỳ kheo Tăng những việc về kinh, luật.
7/ Tỳ kheo ni tự mình chưa đắc đạo, nếu phạm giới luật,
phải nữa tháng đến trong chúng nhận tội, tự sám hối để bỏ tánh kiêu mạn.
8/ Tỳ kheo ni tuy 100 tuổi, trì đại giới, đối với Tỳ
kheo Tăng trẻ tuổi mới thọ đại giới, phải ngồi dưới, lấy sự khiêm, kỉnh để
lễ bái.
Ðó là tám kỉnh pháp ta dạy cho người nữ nhập đạo không
được vi phạm, cho đến suốt đời phải học tập và thục hành như vậy. Nếu Ðại
ái đạo xét thấy có thể trì 8 kỉnh pháp này thì ta chấp nhận cho làm sa
môn.
Tôn giả A-Nan lãnh thọ lời đức Phật dạy xong, nhớ kỹ,
liền đảnh lễ rồi đi ra báo cho bà Ðại ái Ðạo biết rằng:
- Này Cù Ðàm Di! Chớ có ưu sầu nữa, vì bà đã có đức
tin, bỏ sản nghiệp, bỏ gia đình đến thọ giới. Ðức Phật dạy: nếu người nữ
làm sa môn phải có tám kỉnh pháp, không được vi phạm, phải giữ suốt đời,
cẩn thận học tập, phải giữ tâm như người giữ nước lở khéo đắp bờ đê không
cho nước nhỉ.
Tôn giả A-Nan mỗi mỗi nói cho Di mẫu nghe lời đức Phật
dạy về 8 kỉnh pháp như vậy. Tôn giả A-Nan nói rõ:
- Phật dạy: người nữ nào có thể giữ được như vậy thì
được gia nhập vào pháp luật của đức Phật.
Bà Ðại Ái Ðạo liền vui mừng nói rằng:
- Thưa vâng, tôn giả A-Nan! Tôn giả hãy nghe tôi nói
lời này: Ví như có con gái của bốn tộc tánh, tắm rửa, xoa hương, y phục
trang nghiêm, nhưng có người muốn làm cho họ được lợi ích, an ổn không sợ
hãi, lấy hương hoa, trâng bảo kết thành xâu ngọc, đem cho các cô gái ấy.
Há họ lại không yêu thích mà đội tràng hoa ấy lên đầu sao? Nay đức Phật đã
ban dạy tám kỉnh pháp, tôi cũng hân hoan nguyện lãnh thọ mà để trên đầu.
Bấy giờ bà Ðại Ái Ðạo liền thọ đại giới, làm Tỳ kheo
ni, phụng hành pháp luật, liền được Ứng Chơn (La hán). Một thời gian sau,
Tỳ kheo ni Ðại Ái Ðạo cùng các Tỳ kheo ni trưởng lão cùng đi đến chổ tôn
giả A-Nan hỏi rằng:
- Này tôn giả A-Nan, đây là các Tỳ kheo ni trưởng lão,
đều tu phạm hạnh đã lâu, đều đã thấy chân lý, vậy tại sao lại bảo lễ bái
Tỳ kheo Tăng nhỏ tuổi mới thọ đại giới:
Tôn giả A-Nan đáp:
- Hãy đợi, nay tôi sẽ vào để hỏi đức Phật.
Tôn giả A-Nan liền đi vào, cúi đầu lạy dưới chân đức
Phật, bạch rằng:
- Tỳ kheo ni Ðại Ái Ðạo thưa rằng: Ðây là các Tỳ kheo
ni trưởng lão, đều tu phạm hạnh đã lâu, đều đã thấy chân lý, tại sao lại
bảo phải đảnh lễ Tỳ kheo Tăng nhỏ tuổi, là những người mới thọ đại giới?
Ðức Phật bảo:
- Thôi đi! Thôi đi! Này A-Nan! Hãy cẩn thận, đừng nói
lời ấy. Ðiều ngươi biết không giống như điều ta biết. Nếu khiến cho người
nữ không làm sa môn trong đạo của ta thì ngoại đạo, các Phạm chí Dị học và
các cư sĩ đều sẽ lấy vãi trãi trên mặt đất, cầu khẩn các sa môn rằng:
“Hiền giả là bậc có tịnh giới, công hạnh cao viễn, xin Ngài hãy đi lên
trên vải này để con mãi mãi được phước”.
Ðức Phật bảo tôn giả A-Nan:
- Nếu khiến cho người nữ không làm Sa môn trong đạo của
ta thì nhân dân trong thiên hạ đều sẽ trãi tóc xuống đất cầu xin các Sa
môn rằng: “Hiền giả có giới, văn, huệ hành. Xin các ngài hãy đi lên trên
tóc này để khiến cho con mãi mãi được phước”.
- Nếu khiến cho người nữ không làm Sa môn trong đạo của
ta thì nhân dân trong thiên hạ đều chuẩn bị đầy đủ y phục, ẩm thực, giường
nằm, thuốc men chữa bệnh, nói rằng: “Xin các Sa môn hãy tự đến lấy để
dùng”.
- Nếu khiến cho người nữ không làm Sa môn trong đạo của
ta, thì nhân dân trong thiên hạ sẽ kính thờ Sa môn như thờ mặt trời, mặt
trăng, như thờ thiên thần, còn hơn cả các ngoại đạo, dị học .
- Nếu khiến cho người nữ không làm Sa môn trong đạo của
ta thì chánh pháp của đức Phật sẽ được hưng thạnh cả ngàn năm.
Ðức Phật bảo tôn giả A-Nan:
- Vì người nữ làm Sa môn nên khiến cho giáo pháp của ta
suy vi hết 500 năm. Vì sao vậy? Này A-Nan, vì người nữ có 5 điều không làm
được. Những gì là năm?
Người nữ không thể làm Như Lai chí chơn Ðẳng chánh
giác.
Người nữ không thể làm Chuyển luân Thánh vương.
Người nữ không thể làm Ðế Thích ở cõi trời Ðao Lợi thứ
hai.
Người nữ không thể làm ma Thiên vương đệ lục.
Người nữ không thể làm Phạm Thiên vương ở cõi trời thứ
bảy.
Phàm 5 chỗ trên chỉ có kẻ trượng phu mới làm được mà
thôi. Kẻ trượng phu được ở nơi thiên hạ làm Phật, được làm Chuyển luân
Thánh vương, được làm Thiên đế Thích, được làm ma Thiêng vương, được làm
Phạm Thiên vương.
Ðức Phật thuyết như vậy xong, mọi người thảy đều hoan
hỷ, tín thọ, phụng hành ./.
10.- PHẨM ÐỘ VUA BA TƯ NẶC.
Bấy giờ đức Như Lai trở về nước Xá Vệ, ở trong vườn
ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, cùng với 1250 vị Tỳ kheo Tăng. Lúc ấy
trong tâm của vua Ba Tư Nặc tự suy nghĩ: “Ðức Phật là giòng họ Thích, xuất
gia ở trong núi, đã thành bậc Vô thượng chánh chơn, chánh giác, oai
nghiêm, thần diệu, khiến cho trời, rồng quỷ thần, không ai mà không kính
ngưỡng. Ngài thuyết pháp cho mọi người nghe, phần đầu, phần giữa và phần
cuối đều thiện. Những người nghe Ngài thuyết pháp không ai mà không hoan
hỷ, mở đường phước đức, ngăn chận tai ương, lời nói đưa đến Niết-bàn”.
Nhà vua liền chuẩn bị xa giá lên đường, kẻ theo hầu dẫn
đường như mọi khi. Khi đến cử ngõ, nhà vua xuống xe, quần thần đều đến
phiá trước, đứng thẳng, chấp tay vái chào rồi ngồi xuống, bạch đức Phật
rằng:
- Tôi chợt nghe người con giòng họ Thích sáu năm đoan
tọa, thành đạo hiệu là Phật, điều đó có đúng chăng? Hay là do người đời
phong tặng thôi?
Ðức Phật bảo nhà vua:
- Ta đúng là Phật, không phải là người đời dối truyền.
Nhà vua lại nói:
- Cù Ðàm tự xưng là Phật chớ không phải là Phật chăng?
Ðức Phật lại trả lời nhà vua:
- Vào thời quá khứ lâu xa, khi ấy một vị Phật hiệu là
Ðịnh Quang thọ ký cho ta một cách chắc chắn rằng: “Vào đời sau, 91 kiếp
nữa, ngươi sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, có
18 pháp đặc thù vi diệu, 10 món thần lực, 4 vô sở úy. Nếu thiếu một trong
những thứ ấy thì không thể gọi là Phật. Nay ta đã có đủ các thứ ấy nên gọi
là Như Lai, vô sở trước, chánh chơn giác vậy.
Vì mê mờ, tâm vua nghi ngờ, lại hỏi đức Phật:
- Cù Ðàm tuổi còn nhỏ, học đạo chưa bao lâu. Vì sao như
vậy? Vì ở đời có Bà la môn tu thờ nước, lủa, siêng năng, cực khổ không kể
ngày đêm, đối với 96 học thuật, chẳng có cái nào mà học chẳng thông suốt,
tuổi cao đức lớn như Bất Lan Ca Diếp..... 6 người danh tiếng bao trùm
thiên hạ, còn chưa đủ quả Phật kia! Phật là bậc rất tôn quý, lấy đó mà suy
tôi rất nghi ngờ.
Ðức Phật bảo nhà vua:
- Nay ta sẽ thuyết pháp cho nhà vua nghe về chơn đế.
Vậy hãy lắng nghe cho rõ, chớ có nghi ngờ.
Nhà vua nói:
- Lành thay!
Ðức Phật bảo Nhà vua:
- Có bốn cái nhỏ nhưng không thể coi thường. Những gì
là bốn?
Một là: Thái tử tuy nhỏ, tương lai sẽ là vị vua. Với
người ấy không thể coi thường.
Hai là: một đốm lửa tuy nhỏ, nhưng sẽ thiêu rụi cỏ cây,
chừng nào cháy hết mới thôi. Với đốm lửa không thể coi thường.
Ba là: Con của loài rồng tuy nhỏ, nhưng có thể làm mưa
gió. sấm sét, mưa đá... Với nó, không thể coi thường.
Bốn là: Ðạo sĩ tuy nhỏ, nhưng đã nhập cốt lõi đạo, trí
huệ sâu xa vi diệu, có thể phi hành giáo hoá, độ thoát nhân dân. Với vị ấy
không thể coi thường.
Bấy giờ đức Thế tôn nói bài kệ này cho nhà vua:
- Thái tử phước thành
Sẽ làm vị vua
Người ngu khinh mạn
Tai họa liền sanh
Vì do tâm khởi
Coi trọng coi khinh
Ðã có túc hạnh
Phước tự theo mình
Phải quán gốc đức
Sau mới xét người
Gốc đạo đã đủ
Ðại vương thử nghĩ
Ðốm lửa gặp cỏ
Sẽ cháy vô cùng
Núi báu Tu Di
Cũng từ núi nhỏ
Kẻ trí quán vật
Không nhỏ không lớn
Gặp rồng không tránh
Chút độc (cũng) chết người.
Tỳ kheo phá ác
Tinh tấn nhập thiền
Thành đạo, thần thông
Biến hiện độ người
Kiến đế , tịnh không dơ
Ðã độ năm đường hiểm
Phật xuất hiện thế gian
Vì đời trừ sầu hoạn.
Nhà vua nghe lời chơn chánh ấy xong, vì tâm ô uế sâu
dày che lấp, hồ nghi, vẫn chưa ngộ, liền đến trước lạy dưới chân đức Phật,
cáo từ trở về cung.
Khi ấy ở trong đất nước của vua có Bà la môn giàu có,
nhiều của báu, đã già mà chẳng có con nên hết lòng khấn vái đất trời, sau
đó không bao lâu sanh được một người con trai. Cậu bé mới bảy tuổi bị bệnh
rồi chết. Người cha âu sầu khổ sở, đứng nằm không yên, lại chẳng ăn uống
gì cả. Ông ta nghe đức Phật có thể diệt trừ được ưu hoạn, nên ông liền đến
Kỳ Hoàn gặp Ngài.
Ðức Phật hỏi Phạm chí:
- Ông có sự buồn rầu gì mà nhan sắc tiều tụy như vậy?
Bà la môn thưa:
- Tuổi con đã già, chỉ có một đứa con trai duy nhất,
nhưng nó đã chết, bỏ con lại một mình, làm cho con buồn thương, đau đớn vô
cùng.
Ðức Phật bảo Phạm chí:
- Con người vì có ân ái nên mới bị ưu sầu (khổ não).
Song tâm của Phạm chí mê mờ, liền thưa đức Phật:
- Ân ái là vui, có gì là ưu bi khổ não?
Ðức Phật nói:
- Chẳng phải vậy.
Như vậy cho đến ba lần mà Bà la môn vẫn không hiểu,
liền chạy ra khỏi Kỳ Hoàn thì thấy hai người đang đánh cờ bạc, trong tâm
suy nghĩ: “Chắc họ là người trí, có thể giải tỏa được mối nghi của ta”,
liền hỏi hai người kia:
- Ân ái là vui hay là buồn khổ?
Họ trả lời Phạm chí:
- Ðiều vui trong thiên hạ không gì hơn là ân ái.
Phạm chí lại nói:
- Tôi gặp Cù Ðàm nhưng vị ấy đã nói ngược lại.
Hai người kia đáp:
- Sa môn Cù Ðàm đi ngược lại đời, mê hoặc con người,
cẩn thận đừng có tin ông ta.
Những người ngu trong nước cùng nhau chê cười lời đức
Phật. Câu chuyện đến tai nhà vua, khiến cho ý vua bị mê hoặc, nên nhà vua
mới gọi phu nhân – tên của phu nhân là Mạt-Lợi – bảo rằng:
- Cù Ðàm thật đáng cười, phản luận một cách thất lý.
Sao lại có chuyện ân ái mà sanh ưu bi được?
Phu nhân đáp rằng:
- Ðức Phật không bao giờ nói lời hư dối. Sự thật là
như vậy.
Nhà vua lại nói rằng:
- Nàng tôn kính Cù Ðàm, vì tôn thân như vậy mới tin lời
của vị ấy mà thôi.
Phu nhân tâu với vua:
- Sao ngài không tự đến hoặc bảo người có trí đến chỗ
đức Phật để thưa hỏi việc này, để chứng thật sự điên cuồng, mê hoặc của
người đời.
Nhà vua nghe lời nói ấy liền gọi vị thần có trí tuệ tên
là Na Lợi Thằng, bảo rằng:
- Ngươi hãy nhân danh ta đến hỏi đức Cù Ðàm rằng:
“Người đời ngu si, mê hoặc, dối truyền tôn chỉ, nói càn rằng: ân ái mà
sanh ra ưu bi, quái gỡ vì trái với lý, cho nên nhà vua sai sứ giả đến để
cúi nghe Phật giáo hóa”.Nếu đức Phật có dạy điều gì ngươi phải lãnh thọ
cho kỹ.
Vị thần vâng theo lệnh của nhà vua, liền đến Kỳ Hoàn,
lạy đức Phật, đứng dậy, đến trước, quỳ xuống bạch rằng:
- Quốc vương Ba Tư Nặc cúi lạy trước tòa, xin hỏi điều
không hiểu rõ, mong đức Phật chỉ dạy, dám thưa lời thật!
Bấy giờ đức Như Lai bảo vị đại thần ngồi xuống, Ngài
dạy:
- Cội gốc của ân ái là giòng nước sâu không đáy, sự áo
não ưu bi là do ân ái mà ra.
Ngài lại bảo vị đại thần:
- Ta nay hỏi ngươi, ý hiểu thế nào thì trả lời thế ấy.
Thí như có người, cha mẹ đều chết, vợ con cũng chết, tài sản bị quan huyện
tịch thu, thì người ấy có ưu não dữ dội không?
Ðại thần thưa:
- Ðúng như lời đức Thế tôn dạy.
- Lại nữa, này đại thần, ngày xưa có một người gia đình
bần cùng khốn khổ, nhưng khi cưới vợ, gặp gia đình vợ giàu có. Vì gia đình
vợ làm biếng, ăn không ngồi rồi, do đó gia đình ngày càng nghèo khổ. Gia
đình đã cùng khốn mà còn phải lo lót quan trên, cho nên họ muốn bắt cô dâu
tái giá. Người vợ nghe gia đình bàn luận, nàng liền nói cho chồng nghe
rằng: “Gia đình tôi sẽ dùng sức mạnh, chắc chắn họ sẽ bắt chàng. Vậy chúng
ta phải tính sao?!”. Người chồng nghe vợ nói bèn dẫn vợ vào phòng, nói
rằng: “Nay anh muốn chúng ta cùng chết một chỗ”. Chàng liền đâm vợ chết,
rồi tự đâm mình chết.
Ðức Phật bảo Na Lợi Thằng:
- Vì ân ái mà giết nhau, đâu phải chỉ có ưu bi thôi.
Ðại thần lãnh thọ lời Phật dạy, đảnh lễ rồi trở về
cung, nói đầy đủ tôn chỉ của đức Phật. Nhưng ý vua vẫn không ngộ, còn chê
cười lời dạy ấy, lại nói với Hoàng hậu Mạt-Lợi:
- Vì sao chính Cù Ðàm lại nói lời ấy?
Hoàng hậu hỏi nhà vua:
- Có hai quận kia: một là Ca Di, hai là Câu Ðạt Lô.
Nếu có người tâu với vua: “Hai nước ấy bị vua nước khác chiếm đoạt, vậy
vua làm sao?
Nhà vua bảo Hoàng hậu:
- Sự giàu có và an lạc của ta là nhờ hai nước ấy vậy.
Nếu mất hai nước ấy ta rất lo buồn.
Hoàng hậu lại hỏi:
- Thái tử Lưu Ly và Hoàng nữ Kim-Cương, hoặc bị bệnh
hay bị chết, vậy nhà vua làm sao?
Nhà vua đáp Hoàng hậu:
- Nếu như vậy thì ta không sao chịu nỗi!
Hoàng hậu hỏi vua:
- Ðó là do ân ái nên mới sanh ra ưu bi chứ?
Hoàng hậu lại hỏi:
- Tiện thiếp xấu xí, được hầu hạ dưới trướng đức vua,
nếu một mai bị bệnh mà chết, vậy bệ hạ sẽ làm sao?!
Nhà vua đáp:
- Này Mạt-Lợi! Nếu vậy thì tâm ta mờ mịt, mạng sống của
ta nguy ngập!
Hoàng hậu lại nói:
- Ðó là do ân ái nên sanh ra ưu bi chứ?
Lúc ấy tâm của vua khai mở, liền bước xuống giường, từ
xa hướng về Kỳ Hoàn đảnh lễ, quy mạng Tam tôn, sám hối lỗi lầm, cho đến
suốt đời vâng theo lời dạy của đức Phật . / .
11.- PHẨM TỰ ÁI.
Ðức Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà,
nước Xá Vệ, đang thuyết pháp cho đông đủ chúng tăng.
Bấy giờ vua Ba Tư Nặc nhân ngày rảnh rỗi, đi đến chổ
đức Phật, xuống xe, cất lọng, vòng tay, đến phía trước cúi lạy sát đất rồi
về chỗ ngồi.
Ðức Phật hỏi nhà vua:
- Ðại vương từ đâu đến đây mà y phục bị xé rách, hình
thể tiều tụy vậy?
Nhà vua liền rời khỏi chổ ngồi, gạt lệ bạch rằng:
- Quốc thái phu nhân đã từ giã cõi đời. Con theo hầu,
tống táng linh cữu, an táng, lo liệu xong con mới trở về, cúi xin đức Thế
tôn, mong ngài đến nước quê mùa của con. Tuy con đang bi ai tiều tụy, mong
được sự hiện diện của đức Thế tôn. Tánh con ngu ám, tình con mê hoặc bởi
tiếng tà, nay mới được giải toả, nhờ lời dạy sáng suốt, chí chơn của đức
Phật là: “Ưu bi khổ não đều do ân ái mà ra”. Mỗi khi nghĩ tới lời giáo
huấn ấy mà thế gian khó được nghe.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo nhà vua:
- Ðại vương hãy ngồi xuống và nghe cho kỹ.
Nhà vua thưa:
- Dạ vâng!
Ðức Phật dạy:
- Chúng sanh đã thọ nhận thân hình, không luận là già
hay trẻ, giàu hay nghèo, đến ngày mạng chung, không ai mà không bị phân
tán. Thí như hoa mùa xuân, màu sắc không thể tươi mãi, khi kết hạt thì hoa
rụng, lúc quả chín thì phải lìa khỏi gốc. Núi báu Tu Du kia. Khi kiến tân
cũng phải tan nát. Ðại hải sâu rộng kia có ngày còn phải bị khô kiệt. Mạng
của con người rất nguy cấp, người có trí không trông cậy vào nó, chỉ có tu
đức, tinh tấn hành đạo mà thôi.
Bấy giờ đức Thế tôn nói bài tụng:
- Mạng người như trái chín
Thường sợ bị rơi rụng
Vì sanh nên có khổ
Ai mà không bị chết
Như nước sông chảy xiết
Ðều đổ vào biển lớn
Mạng người cũng như vậy
Chết rồi không trở lại.
Ðức Phật lại bảo nhà vua:
- Vua Giá Ca Việt La thống lĩnh bốn cõi, phi hành đi
tuần tra, có bảy báu theo cùng, tuy thọ một ngàn tuổi cũng phải bị chết.
Chư thiên phước đức, muốn ăn đồ ăn tự nhiên hiện ra, đến khi hết lộc cũng
phải chết. Tỳ kheo diệt trừ điều ác, một lòng suy nghĩ đến thiền, vinh
hoa, lợi lộc không màng, chí vững chắc như núi, bậc thần thông chơn nhân
còn phải diệt độ. Như lai xuất thế, hiện thân bằng quyền huệ, thể của đức
Phật như Kim cang, hào quang chiếu sáng đại thiên, chu du ba cõi, tế độ
chúng sanh, nhưng đấng Thế hùng có Thập lực, còn phải hiện Nê Hoàn kìa!
Con người sống ở thế gian, thân mạng chẳng lâu dài, nhanh như điện xẹt,
mau như gió thoảng, với vinh hoa tôn quý, ngôi báu ở đời chỉ như giấc mộng
mà thôi. Suy việc xưa, nghiệm việc nay, vô thuỷ vô chung, luân chuyển
trong năm đường, hễ thấy chân lý sẽ trở về nẽo chánh.
Ðức Phật nói bài tụng này cho quốc vương:
- Như giòng nước xiết
Qua rồi không lại
Mạng người như vậy
Chết rồi không về
Tuy thọ ngàn tuổi
Cũng phải chết thôi.
Có hiệp phải ly
Chẳng gì nương tựa
Mọi vật đều chết
Ba cõi không yên
Chư thiên tuy sướng
Hết phước cũng đọa
Chí vững như đất
Ðức nặng như núi
Chân nhân vô cấu
Tịch nhiên quy diệt
Vui thay phước báu
Sở nguyện đều thành
Ðại nhân thượng tịch
Tự hiện Nê Hoàn.
Bấy giờ vua Ba Tư Nặc lại bạch Phật:
- Sao gọi là tự ái? Sao gọi là tự hộ?
Ðức Phật bảo:
- Lành thay về câu hỏi ấy! Ðại vương hãy nghe cho kỹ.
Con người sanh ở thế gian, do tứ đại hợp thành, tánh ngu, tập si, sát
sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, không tin đạo hạnh. Ðó là không tự ái
(không tự thương mình). Nếu tập điều thiện, làm điều nhân, biết cuộc đời
là phi thường, tin rằng chết rồi lại sanh, tâm tưởng nhớ Tam tôn, thờ
giới, nhiếp tâm, giữ lễ độ bằng lòng khiêm cung, hiếu thuận chí thành.
Người ấy xử thế là kẻ biết tự ái vậy. Còn người chứa điều thiện, nhóm công
đức, thân không làm điều ngang ngược, chí hạnh tu điều sáng suốt, được chư
thiên cõi trời vệ hộ, không luận là người nam hay người nữ, các hành
nghiệp đều trở về thân mình, binh đao không làm thương tổn, hổ dữ không
thể làm hại. Phương pháp của sự tự hộ chỉ có trì giới hạnh mà thôi.
Ðức Phật vì vua Ba Tư Nặc nói bài tụng:
- Phàm người làm ác
Không thể tự giác
Ngu si khoái ý
Sau bị nhiệt não
Sanh hạnh không lành
Chết đọa ác đạo
Vào ngục vô gián
Không còn hữu ích
Người tự ái thân
Cẩn thận gìn giữ
Ðiều thân, chánh thể
Phước ứng cõi trời
Người có tín hạnh
Ðược thánh khen ngợi
Tự ái như vậy
An lạc, không lo
Hạnh ác nguy thân
Kẻ ngu cho dễ
Việc thiện an thân
Kẻ ngu cho khó
Tín pháp, thờ giới
Ý huệ hay làm
Chư thiên vệ hộ
kẻ trí thích từ
Nhân ái không tà
ở yên không lo
Hay trừ tức giận
Nhờ đó thoát khổ.
Vua nghe lời pháp
Hết ngu, đoạn vọng
Liền thọ năm giới
Các quan theo hầu
Ðếu phát đạo tâm
Thiên, Long, quỷ, thần
Hoan hỷ thích nghe.
12.- PHẨM ÐẠI CA DIẾP LÚC MỚI ÐẾN HỌC ÐẠO.
Bấy giờ đức Thế tôn ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây
ông Kỳ-Ðà nước Xá Vệ, thuyết pháp cho mọi người. Thiên, long, quỷ, thần,
bốn chúng đệ tử nghiêm chỉnh đầy đủ.
Khi ấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp xỏa tóc, y rách, lần đầu
tiên đi đến đức Phật. Ðức Thế tôn từ xa trông thấy cất tiếng khen rằng:
- Thiện lai! Ca Diếp! Ta định nhường nữa sàn tòa để
chúng ta cùng ngồi.
Tôn giả Ca Diếp tiến tới trước, đem đầu mặt đảnh lễ đức
Phật, lui lại, quỳ xuống, tự trình bày:
- Con là đệ tử đi sau đức Như Lai. Ngài thương mà phân
cho con nữa tòa, thật ra con không dám vâng lệnh.
Ðại chúng đều nghĩ rằng: “Vị đạo sĩ già này có đức gì
lạ nên mới khiến cho Thế tôn nhường nữa tòa bảo ngồi. Người ấy có phải là
bậc tuấn kiệt hay không, chỉ có đức Phật mới biết mà thôi”.
Bấy giờ đức Như Lai quán sát tâm niệm mọi người, Ngài
muốn giải tỏa nghi ngờ cho họ. Ngài nói rộng Ðại hạnh của tôn giả Ca Diếp
ngang bằng với bậc Thánh. Ðức Thế tôn lại nói:
- Ta nhờ Tứ thiền, thiền định dứt tâm, từ đầu đến cuối
không có hao tổn. Tỳ kheo Ca Diếp cũng có Tứ thiền. Nhờ thiền mà định ý.
Ta nhờ tâm đại từ, nhân ái với tất cả. Thể tánh của tôn giả Ca Diếp cũng
có lòng từ như vậy. Ta nhờ lòng đại bi mà tế độ chúng sanh. Tỳ kheo ca
diếp cũng có lòng đại bi như vậy. Ta nhờ bốn thần Tam muội mà tự vui
thích, chẳng kể ngày đêm. Những gì là 4?
1/ Vô hình Tam muội
2/ Vô lượng ý Tam muội
3/ Thanh tịnh tích Tam muội
4/ Bất thối chuyển Tam muội.
Tỳ kheo Ca Diếp cũng có Tam muội ấy. Ta vốn thích Lục
thông, nay đã đắc được Lục thông. Tỳ kheo Ca Diếp cũng đắc được Lục Thông:
1/ Tứ thần túc niệm
2/ Biết rõ ý người
3/ Tai nghe tất cả
4/ Thấy nguồn gốc của chúng sanh.
5/ Biết chúng sanh do hạnh nghiệp mà đi về đâu
6/ Các lậu đã tận.
Nay đã được vô úy, độc tôn trong ba cõi. Ta nhờ bốn
định mà nêu rõ cách thức truyền bá chánh pháp.
1/ Giải định
2/ Trí định
3/ Huệ định
4/ Giới định.
Danh sắc đều diệt chỉ còn sự thanh tịnh, không có tưởng
buồn hay vui, đoạn trừ căn bản sinh tử. Tỳ kheo Ca Diếp cũng lại như vậy.
Ðức Thế tôn lại nói:
- Về thời quá khứ lâu xa có vị Thánh vương tên là Văn
Ðà Kiệt, hạnh cao chói sáng cuộc đời, công huân rung động thế gian, Ðế
Thích ở Ðao Lợi, khâm phục đức lạ của vị ấy, liền ra lệnh xe ngựa, đến
cung để rước vua. Khi ấy vua lên xe trời, bỗng nhiên bay lên hư không,
trời Ðế thích đi ra nghênh rước, cùng ngồi chung với vua, vui chơi hết sức
vui thích rồi đưa vua trở về cung.
Ðức Phật bảo Tỳ kheo:
- Thiên Ðế thích lúc đó là Ðại Ca Diếp, còn vua Văn Ðà
Kiệt là thân của ta vậy. Lúc đo Ðế Thích dùng tòa sanh tử sợ hãi mời ta
cùng ngồi. Nay ta dùng tòa pháp ngự Vô thượng chánh chơn, báo đền lại công
đức xưa.
Ðức Phật nói về tích xưa để hiển lộ thêm Thánh đức, Tỳ
kheo Ca Diếp và tất cả đều giải thoát, cùng phát đạo ý Vô thượng chánh
chơn. Pháp giáo lan xa, không ai mà không lạc thọ. / .
13.- PHẨM ÐỘ NẠI NỮ.
Ðức Phật từ nước Ca Duy La Vệ cùng với 1250 vị Tỳ kheo,
đến nước Bạt Kỳ để độ nhân dân xứ ấy. Khi đến Duy Da Ly, Ngài đi vào vườn
cây của Nại Nữ. Trong thành ấy có người con gái tên là A Phàm Hòa Lợi,
nghe đức Phật đến đây để giáo hóa, hết sức vui mừng, liền sửa soạn ra đi
cùng với 500 cô gái.
Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:
- Các ngươi hãy giữ ý đoan chánh, hạ tầm mắt xuống, chớ
có ngoái nhìn hư vọng, vì sắc dục làm mê loạn con người, chỉ có đạo mới có
thể ức chế được tình cảm, kiểm soát được tâm ý. Người trí mới làm được như
vậy. Nay có người nữ tên là A Phàm Hòa Lợi cùng với 500 người nữ đồng đến
đây muốn được nghe pháp. Các ngươi hãy giữ gìn tịnh hạnh, thọ trì không
phóng dật.
Lúc ấy các Tỳ kheo thưa:
- Dạ vâng, và nhớ lời Phật dạy.
Bấy giờ a Phàm Hòa lợi đi đến trước cửa, xuống xe, chấp
tay để trước ngực, cúi đầu, đi thẳng đến trước, lấy đầy mặt đảnh lễ đức
Phật rồi đứng về chỗ mình.
Ðức Thế tôn bảo:
- Thân hình không tồn tại lâu dài, không đẹp, không thể
tươi mãi; mạng sống con người như gió thổi, trẻ mạnh rồi suy yếu, chớ cậy
ở nhan sắc mà làm những hành động ô uế. Người thế gian mê hoặc xẩy ra tai
hoạn đều do sắc dục, ba đường (ác) rất khổ, người trí mới ngăn chận được
chúng.
Các cô gá`i nghe đức Phật dạy, tâm mở, lòng dục đình
chỉ, liền phát đạo ý, tự quy Tam tôn. Bấy giờ A Phàm Hòa Lợi thối lui,
bạch đức Phật:
- Mong Ngài đừng cho người nữ là thấp hèn, được uống
lời pháp. Mong đức Như lai cùng chúng Tỳ kheo Tăng sáng mai hạ cố đến chỗ
chúng con thọ thực món ăn đạm bạc.
Khi ấy đức Phật im lặng nhận lời. Biết đức Phật đã nhận
lời, các cô đứng dậy cúi đầu đảnh lễ đức Phật, vui mừng ra về.
Bấy giờ trong thành phố có người con của trưởng giả
cùng 500 đồng bạn nghe đức Phật đến đây để giáo hoá, đang dừng chân trong
vườn nại (xoài), liền cùng đi đến chỗ đức Phật để nghe pháp. Xe, ngựa và
phục sức của họ rực rỡnăm màu. Ra khỏi thành, đến khu vườn Nại, những
người tùy tùng, xe ngựa đều im lặng như pháp. Lúc đến cửa ngõ, họ xuống
xe, chấp tay tiến tới trước, lễ bái, chào hỏi rồi về chỗ ngồi. Ðức Phật
bảo:
- Này Tộc tánh tử! Các ngươi được địa vị hào quý, tôn
vinh, khoái lạc như vậy là do phước đức đời trước cảm nên. Nay lại được
thấy đức Phật, công đức càng tăng trưởng.
Lúc ấy các trưởng giả tử vui mừng, từ tòa đứng dậy, quỳ
dài thỉnh Phật:
- Sáng mai xin đức Thế tôn hạ cố, xót thương đến chổ
chúng con dùng bữa cơm đạm bạc .
Ðức Phật bảo rằng:
- Ta đã nhận lời mời trước rồi.
Ðức Phật không thọ nhận hai lần. Các trưởng giả tử lại
bạch:
- Chúng con không rõ tên họ của người thỉnh đó là ai?
Ðức Phật bảo:
- Vừa rồi, ta đã thọ nhận lời thỉnh cầu của A Phàm Hòa
Lợi, sáng mai ta sẽ đến đó.
Trưởng giả tử bạch đức Phật:
- Họ là dân ở trong nước , vì sao được ưu tiên?
Ðức Phật bảo:
- Này Tộc tánh tử! Ðức Như Lai trãi lòng tử đến khắp
nơi, không luận đó là kẻ tôn quý hay người thấp hèn.
Lúc ấy các trưởng giả tử đến trước đảnh lễ dưới chân
đức Phật rồi giã từ trở về nhà. Giữa đường họ gặp A Phàm Hòa Lợi, nói với
cô ta rằng:
- Ðức Phật là bậc chí tôn, vì tất cả mọi người nên đến
giáo hóa nước ta. Vậy việc cúng dường cho đức Phật và chúng tăng phải ưu
tiên cho chúng ta vì nam là tôn quý mà nữ là ty tiện, nên ngươi phải cúng
dường sau. Vậy cẩn thận chớ có trái lệnh, cho nên ta đến đây để nói với
ngươi.
Cô gái thưa với trưởng giả tử:
- Không phải vì cường hào oai lực mà lấn lướt kẻ yếu
kém. Nay tôi cầu xin bốn điều, nếu ngài ban cho tôi được thì tôi không dám
cúng dường trước:
Một là: cầu xin xho tâm tôi được gìn giữ điều thiện
không di động.
Hai là: xin cho tánh mạng của tôi được bảo tồn không
mất.
Ba là: xin cho tài vật của tôi được bảo tồn không hao
giảm.
Bốn là: xin cho đức Thế tôn thường ở đây để giáo thọ,
đừng đi nước khác.
Cháng liền nói với nàng:
- Thiện tâm khó bảo toàn, mạng người cũng như vậy, ta
chẳng làm gì được.
Họ cùng nói với nhau:
- Cô gái này là người có phước, được cúng dường đức
Phật trước, mới biết vô thường, hết sức hỷ lạc.
Trong nhóm ấy có những người niên thiếu hổ thẹn vì đến
sau nên mới sanh tâm cố chấp, ra lệnh cho người coi chợ phải bãi chợ. Lúc
bấy giờ nàng A Phàm Hòa Lợi bảo người ra chợ mua đồ nhưng chẳng mua được
gì cả. Cô ta trở về xem trong kho tàng thì thấy đầy đủ đồ ăn uống, chẳng
thiếu vật gì, ngoại trừ than củi để đốt! Cô ta đi kiếm nhưng vẫn chẳng có,
liền về mở kho lấy bông vải tẩm dầu thơm để đốt. Vì đồ trai soạn cúng
dường đã đầy đủ, vào lúc sáng sớm cô cho sứ giả đến bạch đức Phật thì bị
cửa thàng đóng kín, sứ giả liền trở về thưa lại:
- Cửa thành không mở .
Cô ta biết việc này do các con Trưởng giả làm ra, cô tự
suy nghĩ:
- Lẽ đáng là sai sứ đến bạch đức Phật việc cúng dường
đã chuẩn bị xong, nhưng làm sao để thông tin?!
Cô liền bảo chim Anh-Võ:
- Ngươi hãy đến bạch đức Phật .
Chim Anh Võ vâng lệnh bay ra khỏi nhà. Con các trưởng
giả liền dương cung lên bắn chim.... Vì con chim vâng lệnh đến thỉnh Phật
nên được oai thần che chở, các mũi tên hoá thành những bông hoa. Con chim
bay tới chổ đức Phật, đứng trên hư không bạch đức Phật rằng:
- Tất cả đã chuẫn bị xong, xin đức Thế tôn hạ cố.
Bấy giờ bậc Chúng Hựu với oai thần pháp lực, bước chân
đi thì cửa thành liền mở, đất trời chấn động, loài rồng phun mưa xuống mặt
đất, nhạc trời theo đó tấu lên. Các khí cụ âm nhạc tự nhiên vang rền. Khi
đức Phật thọ thực, lấy nước rửa tay xong, Ngài thuyết pháp cho 500 trưởng
giả tử, A Phàm Hòa Lợi và 500 cô gái, làm cho họ được pháp nhãn nên tất cả
đều thọ năm giới xong, đức Phật và Tỳ kheo tăng trở về vườn cây Nại Thị,
làm cho mọi người hoan hỷ, không ai mà không thích nghe . / .
14.- PHẨM NI KIỀN VẤN NGHI.
Ðức Phật từ nước Duy Da Ly cùng với 1250 vị Tỳ kheo
tăng và 1000 vị Ưu bà tắc đồng đến vườn Ba Hòa Ly, nước Na Nan Ðà. Bấy giờ
nước ấy đang phụng thờ Lục sư, mê theo tà hạnh. Trong thành có một vị
trưởng giả giàu có tên là A Di Bạt Ðề Phất, phụng sự Ni Kiền rất mực. Ông
ta nghe đức Phật đến xứ này nhưng vẫn đến chổ Ni Kiền lễ bái như thường.
Lúc ấy Ni Kiền hỏi:
- Ngươi có nghe Cù Ðàm đến đây chăng?
Thưa rằng:
- Có nghe .
Ni Kiền bảo rằng:
- Ngươi hãy đến vấn nạn Sa môn Cù đàm một việc, khiến
cho ông ta sẽ nghẹn họng.
Bạt Ðề Phất hỏi:
- Một việc ấy là gì mà khiến cho ông ta phải không thể
trả lời?
Ðáp rằng:
- Ngươi vấn nạn Cù Ðàm rằng: “Tôi nghe Sa môn chú
nguyện cho tất cả đều được no đủ, nay lại đê tiện dẫn đại chúng đến một
đất nước nghèo đói, làm phí tổn đồ ăn của mọi người. Ðiều này rất vô
ích!”.
Bạt Kỳ vâng lệnh, lui ra, liền đến chỗ đức Phật, ông
xem thấy thần đức, oai tướng của đức Phật vòi vọi, đệ tử của Ngài thì có
pháp nghi, siêng năng, lễ độ, nên ông sanh tâm cung kính, vòng tay tiến
lên vái chào rồi ngồi xuống bạch Phật:
- Con muốn hỏi một việc, mong Ngài giải thích.
Ðức Phật bảo:
- Nói đi ta nghe đây.
Bạt Ðề Phất thưa:
- Con trộm nghe Cù đàm làm lợi ích cho tất cả muôn
loài, khiến cho chúng được an lạc. Nay Ngài lại dẫn đại chúng đi đến một
nước nghèo đói, làm tổn giảm lương thực củ nhân dân, hao phí mà vô ích
nữa.
Ðức Phật bảo Di Bạt Ðề Phạát rằng ;
- Từ 91 kiếp trở lại đây, ta chưa hề nghe nói làm phước
bị tổn giảm mà vô ích cả. Nhưng ta nghe rằng: những người tôn quý giàu có
là do đời trước họ là kẻ bố thí rộng lớn. Chưa từng có ai bị tổn phí lớn
mà không có quả báo cả. Con người làm việc nhân nghĩa, hiện tại được xưng
dương truyền tụng, đời sau được sanh lên cõi trời, khuyên làm thiện, vui
thay họ có phước báo theo thân.
Ðức Phật lại bảo trưởng giả:
- Tài sản con người có tám điều nguy hại, tổn giảm mà
vô ích:
1/ Bị quan thu lấy
2/ Bị kẻ đạo tặc cướp giật
3/ Bị lửa cháy mà không biết
4/ Bị nước trôi
5/ Bị oan gia trái chủ cướp giật một cách ngang ngược.
6/ Có ruộng vườn mà không khai khẩn
7/ Buôn bán mà không có lợi
8/ Bị con bất hiếu lén lấy tiêu xài một cách phung phí,
vô đạo.
Tám việc như vậy rất nguy hại, khó bảo tồn. Khi tám
điều tai họa này ập đến thì không có sức mạnh nào có thể ngăn cản được.
Cho nên đức Như Lai vì lý do đó khuyên người bố thí, an trí nơi phước
điền, hết sức kiên cố, khó di động, nước lửa hay giặc cướp không thể làm
hại được. Lúc mạng chung được sanh lên cõi trời, y thực tự nhiên.
Ðức Phật bảo trưởng giả:
- Lời chơn thật chí yếu, giáo hóa sự ngu hoặc của người
đời. Nếu ai không tin là tự hủy diệt căn bản của con người, phải đọa lạc
vào ba đường (ác). Nếu ai có thể biết được, thay điều nghe, đổi hành động,
hóa thân vô vi, chỗ hướng đến rõ ràng.
Khi ấy A Di Bạt Ðề Phất nghe đức Phật thuyết pháp trong
tâm vui mừng, định tỉnh, từ tòa ngồi đứng dậy tự trình bày rằng:
- Con vì sự ngu si nên chồng chất mê hoặc, không biết
bậc chánh chơn nên mới chất vấn điều phi pháp. Thật ra đó chẳng phải là ý
thô lậu của con, mà là do Ni Kiền sai khiến, con phải vâng lời mà không
thể từ chối. Mong đức Phật dũ lòng thương, tha thứ tội lỗi của con.
Ðức Phật bảo:
- Ngươi đã tự giác, phước ấy vô lượng.
Trưởng giả vui mừng lại bạch đức Phật:
- Tâm con mê ám khó ngộ, mong được hỏi chổ nghi ngờ.
Ðức Phật bảo:
- Muốn hỏi gì tùy ý. Nay ta sẽ vì ngươi mà phân biệt
mọi việc.
Trưởng giả hỏi:
- Con thầm nghe đức Như Lai với lòng từ bình đẳng tế độ
tất cả, không rõ vì sao trong giáo pháp ấy, thiên lệch không đồng. Có
người thì đắc đạo, có người thì không đắc đạo. Con ôm mối nghi này đã lâu
ngày. Cúi mong đức Thế tôn khai mở cho con.
Ðức Phật dạy:
- Lành thay! Câu hỏi ấy, hãy lắng nghe và nhớ thọ trì.
Thí như người nông phu làm hai thửa ruộng: một thửa ruộng trên cao thì khô
ráo, đất phì nhiêu, hai là thửa ruộng ở dưới ẩm thấp, đất xấu. Vào mùa
xuân, ông ta vẫn ra sức cày bừa như nhau, gieo hạt đúng thời tiết, cuốc
xới, nhổ cỏ. Ðến mùa thu thì gặt hái mà cân đấu của hai thửa ruộng khác
nhau.
Ðức Phật bảo trưởng giả:
- Con người lúc dụng công như nhau mà kết quả lại không
đồng, chỉ vì đất dày hay mỏng mà thôi. Con người nghe pháp của ta, tín thọ
phụng hành, như ý chứng đắc, thí như ruộng lúa phì nhiêu nên thâu hoạch vô
số. Nay Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đó tùy ý mà thâm nhập
thần thông vô ngại. Còn người nghe lời đạo mà chống lại không tin, giống
như ruộng dưới thấp, hạt giống bị ngập nước, yếu ớt không sanh, nay chính
là bọn Lục sư Ni Kiền.... đó vậy.
Ðức Thế tôn lại bảo:
- Thí như có người đem hai bình đi lấy nước, một bình
thì nguyên vẹn, còn một bình thì bị thủng. Ðến lúc đựng nước thì bình
nguyên vẹn luôn luôn đầy, còn bình thủng thì bị chảy hết. Người nghe đạo
giáo mà siêng tu tinh tấn, thờ giới không phạm, giữ gìn thân, miệng, giống
như cái bình chứa nguyên vẹn, chứa nước rất tốt. Còn người nghe đạo pháp,
không thọ trì, không tin, lại còn hủy báng, quên mất cội gốc con người,
lại trở vào ác đạo, giống như cái bình lủng chảy, không thể chứa đầy.
Ðức Phật bảo trưởng giả:
- Nhờ thiện hạnh đời trước, nay mới được gặp Phật. Tuy
được giàu có, tôn quý mà không tin đạo, giống như hoa nở loạn xạ sẽ rơi
rụng mà không thành trái được.
Lúc ấy trưởng giả A Bạt Ðề Phất, tâm vui mừng, khen là
hay, lời chơn cảm thần, đã nói lời chí thành, liền phát đạo ý Vô thượng
chánh chơn, thọ giới rồi thối lui.
Tất cả mọi người trong nước đều phát tâm đạo. Tà thuật
của Lục sư thảy đều hủy bỏ. Trời, người, rồng, quỷ được tuyên dương, rực
sáng tiếng chánh pháp.
15.- PHẨM ÐỨC PHẬT ĂN LÚA NGỰA.
Bấy giờ đức Phật từ nước Ba Hòa Ly cùng câu hội với
1250 vị Tỳ kheo trở về vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà.
Khi ấy ở giữa ranh giới nước Xá Vệ có một quận tên là
Tùy Lan Nhiên, tại đó có một Bà la môn tên là A Kỳ Ðạt, có nhiều trí huệ
sáng suốt, nhà cửa giàu có không ai sánh bằng. Ông ta đi đến nhà của ông
A-Nan-Bân-Kỳ, luận nghị công việc đã xong,ông hỏi Tu Ðạt:
- Hiện nay tại đô ấp này có vị thần nhân nào có thể làm
Sư Tông chăng?
Tu Ðạt đáp:
- Ngươi chưa nghe sao? Có Vương tử giòng họ Thích xuất
gia hành đạo, nay đã thành đạo, hiệu là Phật, sắc thân có tướng tốt, người
đời khó thấy, pháp thức thanh nhã, chơn chánh, chiếu trừ tâm ô uế, thần
thông minh đạt, biết rõ nguồn gốc của chúng sanh, chư thiên, long, thần
không ai mà không thờ kính. Mỗi lần vị ấy nói lời pháp, ý nghĩa tinh yếu
nhập thần, không thể dùng trí tuệ le lói như đom đóm củ tôi mà tuyên nói
được.
A Kỳ Ðạt nghe đức Phật là bậc Thánh đức, trong tâm hồi
hộp liền hỏi:
- Hiện nay đức Phật ở đâu và có thể gặp được chăng?
Ðáp rằng:
- Ngài đang ở gần Kỳ Hoàn, rộng mở chơn ngôn.
Sáng sớm A Kỳ Ðạt đi đến Kỳ Hoàn. Vào cửa, thấy đức
Phật, oai thần sáng ngời nên tâm cung kính phát sanh. Ông đến phía trước
đảnh lễ dưới chân đức Phật, rồi ngồi qua một bên. Ðức Phật thuyết pháp cho
ông nghe, làm cho ông hoan hỷ phấn khởi liền đứng dậy, thỉnh đức Phật và
Tỳ kheo tăng dũ lòng thương chiếu cố đến cư trú ba tháng tại chỗ chúnbg
con.
Ðức Phật dùng thần chỉ, biết nhân duyên đời trước nên
Ngài im lặng nhận lời. A Kỳ Ðạt được đức Phật nhận lời mời, từ giã rồi trở
về nước. Bấy giờ A Kỳ Ðạt trở về nhà sửa soạn đồ cúng dường, là những món
ăn ngon bổ bậc nhất.
Ngày hôm đó, đức Phật và 500 Tỳ kheo tăng đi đến Tùy
lan Nhiên. Bấy giờ A Kỳ Ðạt bị thiên ma mê hoặc, đam mê ngũ dục: 1/ Ðồ
trang sức quý. 2/ Nữ nhạc. 3/ Y thực. 4/ Vinh lợi. 5/ Sắc dục, nên ông ta
ở phía nhà sau, bảo người giữ cửa là:
- Không được tiếp khách suốt trong ba tháng, không luận
đó là người tôn quý hay kẻ ti tiện. Phải nghe theo lệnh của ta.
Khi ấy đức Như Lai đi đến cửa mà cửa đóng lại không mở.
Ngài liền đến ngụ tại ngôi nhà bên đại tòng lâm. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo
tăng:
- Tại đây bị đói kém, con người lại không thích đạo,
các nhươi hãy tự tiện tùy chỗ nào có lợi thì đến khất thực.
Tôn giả Xá Lợi Phất vâng lời Phật dạy, bay lên cõi trời
Ðao Lợi, mỗi ngày ăn lúa gạo tự nhiên. Chúng tăng đi khất thực ba ngày
trên hư không trở về. Bấy giờ có người huấn luyện ngựa, giảm bớt phần lúa
mạch của ngựa để cúng đức Phật và chúng tăng. Tôn giả A-Nan được lúa mạch
ấy, lấy bát mà đựng, trong lòng đau xót nói rằng:
- Mùi vị ngon ngọt của chư thiên, món ăn ngon bổ của
quốc vương cúng dường, mỗi nơi có vị riêng mà không thể dâng cúng đức Thế
tôn. Nay được lúa mạch này, rất là thô xấu, nỡ nào lại đem cúng dường cho
đức Phật sao?
Khi tôn giả lấy được lúa mạch, bảo với một lão mẫu:
- Ðức Phật là bậc chí tôn, là bậc pháp ngự thượng
thánh. Nay muốn dùng cơm, mong lão mẫu giúp, công đức ấy vô lượng!
Lão mẫu ấy trả lời tôn giả A-Nan:
- Nay tôi đang bận việc, không thể nấu được.
Gần đó có một bà lão, nghe khen đức Phật Thế tôn nên
chạy đến xin nấu cơm hộ. Tôn giả A-Nan chấp nhận. Liền đó cơm chín, đức
Phật dùng cơm xong, chú nguyện; lúc ấy trong lòng tôn giả A-Nan thắt lại.
Ðức Phật muốn hóa giải, nên cơm còn lại Ngài đưa cho tôn giả. Tôn giả thấy
mùi cơm ấy đủ một tăm vị thơm ngon, thế gian không thể có. Trong tâm tôn
giả A-Nan được cởi mở, nói rằng:
- Diệu đức của Như Lai không thể nghĩ bàn.
Bấy giờ đức Như Lai muốn đến nước Bạt-Kỳ , trước tiên
Ngài bảo tôn giả A-Nan đến bảo cho trưởng giả A-Ky-øÐạt. Tôn giả A-Nan
vâng lệnh, đến báo cho trưởng giả A-Kỳ-Ðạt. Trưởng giả thấy tôn giả A-Nan
đi đến, chưa rõ chuyện gì. liền hỏi tôn giả:
- Bây giờ đức Thế tôn ở đâu?
Tôn giả A-Nan đáp:
- ở tại đây. Ba tháng vừa qua, trước đây Ngài đã nhận
lời mời của ông. Bậc tôn quý không nói hai lời. Nay thời gian đã mãn, nên
đến cáo biệt ông để ra đi.
A Kỳ Ðạt nghe đức Phật xót thương giáo hóa, không kịp
cúng dường, trong lòng buồn lo lẫn lộn, liền chạy đến chỗ đức Phật, lấy
đầu mặt đảnh lễ mà tự trình bày rằng:
- Con bị ngu si, tội lỗi che lấp nên đã bội tín. Mong
đức Phật từ bi tha thứ cho tội nặng này của con.
Ðức Phật bảo Phạm chí:
- Ta đã rõ tấm lòng chí thành của ngươi.
Lúc ấy A Kỳ Ðạt đến trước bạch đức Phật:
- Xin Ngài ở lại bảy ngày để con được cúng dường.
Vì vừa đã mãn hạ nên đức Phật nhận lời. Ngày hôm đó tôn
giả Xá Lợi Phất từ cõi trời đi xuống, thô tuế đã qua, Ngài sắp đến nước
Bạt Kỳ. A Kỳ Ðạt đem đồ cúng dường dư bỏ tung tán giữa đường, ông muốn đức
Phật đạp lên mà đi. Ðức Phật bảo Phạm chí:
- Lương thực, lúa gạo là phẩm vật để ăn, không nên đạp
lên trên.
Ðức Phật thọ nhận sự cúng dường ấy, Ngài chú nguyện
bằng bài kệ:
- Người ngoại đạo tu hành
Siêng thờ lửa là nhất.
Học vấn ngày một giỏi
Thông các nghĩa là nhất.
Mọi người đều quy ngưỡng
Giá Ca Việt là nhất.
Sông ngòi nguồn suối chảy
Biển lớn sâu là nhất.
Các sao trên bầu trời
Mặt trời, trăng sáng nhất.
Phật xuất hiện thế gian
Thọ thí là bậc nhất.
Tâm của A Kỳ Ðạt vui mừng, cởi mở, liền được pháp nhãn
thanh tịnh. Những người lớn nhỏ ở trong nước đều phát đạo tâm, đến trước
lạy dưới chân đức Phật, hoan hỷ rồi ra về. Bấy giờ tôn giả A-Nan nương
theo oai thần của đức Phật, biết trong tâm của các Tỳ kheo có sự nghi lớn,
nhơn đó bạch đức Phật:
- Như Lai thần diệu, Tam đạt rộng chiếu, biết sự suy
nghĩ của chúng sanh do đâu mà khởi, không rõ vì sao có lúc phải ăn lúa
mạch? Mong đức Phật khai hóa để giải tỏa sự nghi của mọi người.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo:
- Quá khứ lâu xa về trước, khi ấy có một nước lớn tên
là Bàn Ðầu Việt. Khi ấy có một vị vua tên là Tần Ðầu Vương. Vị vua này có
một Thái tử tên là Duy Vệ, xuất gia học đạo. Khi thành đạo làm Phật vẫn
lấy tên là Duy Vệ, tướng tốt oai đức, chư phật pháp duy nhất, có sáu vạn
hai ngàn Tỳ kheo theo hầu. Khi ấy phụ vương cúng dường cơm cho đức Phật và
Tỳ kheo tăng, trang sức bằng tràng phang quý nhất thế gian, sửa sang trong
thành huy hoàng, tráng lệ. Khi ấy có Phạm chí thanh khiết, đức cao, có các
đệ tử theo sau, nhân có việc đi vào thành, quay lại hỏi mọi người :
- Có lễ gì lạ mà trang hoàng rực rỡ như vậy?
Người đi đường đáp:
- Thái tử của vua Tần Ðầu đã đắc đạo, gọi là Phật, hôm
nay vị ấy sắp đến để nhà vua và quần thần cúng dường.
Ðạo sĩ nói:
- Người đời thật mê mờ, tôn phí dâng món ăn ngon bổ cho
người ấy làm gì. Như lời ngươi nói thì người ấy nên ăn lúa mạch của ngựa
mới đúng.
Năm trăm đệ tử của y cũng đồng thanh khen là thầy nói
phải. Trong đó có một người can vị thầy rằng:
- Lời thầy nói là sai. Thầy nên nói rằng: “Ðó là người
tôn đức, đáng ăn cơm của chư thiên”.
Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:
- Vị Phạm chí có hạnh cao lúc ấy chính là thân của ta,
năm trăm đệ tử lúc ấy chính là các ngươi bây giờ, còn người can gián vị
thầy lúc ấy là Xá Lợi Phất vậy, Ta gieo cái nhân ấy nên nay nới vậy.
Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:
- Các ngươi phải giữ gìn tâm, miệng. Cẩn thận chớ buông
lung. Việc thiện, ác sẽ đi theo người ta, dù lâu mà vẫn không mất, cần
phải tu hạnh sáng suốt thì có thể đắc đạo. Ta mà còn phải trả quả báo,
theo đó thì biết vậy.
Các Tỳ kheo nghe kinh xong, hoan hỷ tín thọ phụng hành
.
KINH TRUNG BỔN
KHỞI
Quyển hạ
(Hết)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật:
4-2003