PHẬT NÓI KINH: “THẬP NHỊ DU”
- Hán dịch: Ðời
Ðông Tần, Tây Vức,
Sa môn Ca Lưu Ðà Già.
- Việt dịch: Thích
Chánh Lạc
---o0o---
Ngày xa xưa, cách đây vô số kiếp, có Bồ-tát
là quốc vương. Cha mẹ Ngài mất sớm, Ngài bèn nhường ngôi cho em mình, bỏ
nước đi cầu đạo, từ xa Ngài thấy một vị Bà la môn họ Cù đàm (Bồ Tát) nhân
đó theo Bà la môn đi học đạo. Vị Bà la môn ấy bảo “Bồ Tát” rằng:
- Hãy
cởi bỏ y phục của nhà vua đi! Hãy bện tóc làm thành áo, hãy ăn mặc như ta!
Và lấy họ của ta là Cù Ðàm.
Bấy giờ
“Bồ Tát” dùng y phục này để mặc, lấy họ là Cù đàm, giữ chí trong sạch vào
trong núi sâu, rừng rú hiểm trở để tọa thiền suy niệm đạo.
Bà la
môn ấy bảo rằng:
-
Ngươi là nhà vua, lâu nay sống ở trong sự tôn quý, hãy học sự cần khổ, mùa
hạ thì uống nước, ăn các rau quả, mùa đông thì vào thành ấp, xóm làng để
khất thực, rồi trở về dưới gốc cây mà tọa thiền suy tư, chớ nên sai lời.
Khi
Bồ Tát đi khất thực, trở về lại nước của mình, toàn quốc từ trên nhà vua
cho đến thứ dân, không ai nhận ra Bồ Tát, họ gọi Ngài là Tiểu Cù Ðàm. Bồ
Tát ở trong vườn cam quả, ngoài thành, làm một tinh xá, ngồi tọa thiền một
mình trong đó.
Bấy
giờ có năm trăm tên đạo tặc, ở trong nước cướp giật đồ của nhà quan. Trên
con đường đào tẩu bọn họ ngang qua bên chiếc lều của Bồ Tát, dấu chân in
rải rác đây đó, chúng giấu cất vật trộm được bên phải, bên trái trong
chiếc lều của Ngài.
Sáng
mai những người truy lùng kẻ cướp đã lần theo các dấu chân đến nơi túp
lều của “Bồ Tát”. Nhân đó họ bắt Ngài rồi đưa lên cấp trên để thẩm vấn. Họ
cho Bồ Tát là tên đạo tặc trong nước, đã trộm cướp từ xưa đến nay. Vậy tội
đáng phải chết!
Nhà
vua bèn ra lệnh cho vị đại thần rằng:
-
Loại người như vậy cứ theo phép mà xử trị. Phải dùng cây đâm xuyên vào
thân, cột vào cây nêu lớn, để cho máu trong thân hắn chảy xuống đất!
Bấy
giờ vị Ðại Cù Ðàm ở trong núi sâu, bằng thiên nhãn thấy việc ấy, liền dùng
thần túc bay đến để hỏi:
-
Con có tội gì mà phải chịu sự đau đớn tàn khốc như vậy? Bị cây đâm xuyên
há chẳng đau đớn sao còn chịu khổ như vậy?
Bồ
Tát đáp rằng:
-
Bên ngoài tuy đau đớn, nhưng bên trong con vẫn ôm lòng từ bi, con chẳng
biết bị tội là gì, vô cớ mà bị giết hại như vậy!
Ðại
Cù Ðàm nói:
-
Ngươi không có con cháu lấy ai để nối dõi, lẽ nào chịu đau đớn vậy sao?
Bồ
Tát đáp:
-
Mạng người chỉ trong khoảnh khắc, kể đến con cháu mà làm gì.
Bấy
giờ quốc vương bảo tả hữu dùng cung nỏ, phi tiêu bắn vào Bồ Tát để kết
thúc đời ngài.
Khi
ấy Ðại Cù Ðàm buồn rầu khóc lóc, hạ thi thể xuống, bỏ vào quan tài, rồi
hốt đất vấy máu lấy bùn để viên lại, lấy đất bên tả bên hữu, đem về tinh
xá mà để trong núi, máu phía bên trái thì đựng trong hủ bên trái, phía bên
phải thì đựng trong hủ bên phải; Ðại Cù Ðàm nói:
-
Con là đạo sĩ, nếu con chí thành thì thần tiên sẽ khiến cho máu con hóa
thành người.
Mười
tháng sau bỗng nhiên phía bên trái biến thàng người nam, phía bên phải
biến thành nguời nữ; Khi ấy lấy họ là Cù Ðàm.
Một
người tên là Xá Di Nhân. Ðến thời Hiền Kiếp là Bảo Như Lai Thích Ca Việt,
thọ 500 vạn tuổi.
Từ
đó trở xuống 25 vị vua, thọ 300 vạn tuổi, vua Văn Ðà Kiệt thọ 100 vạn
tuổi; Vua Ðảnh Sanh Giá Ca Việt, vua Tả Tủy, Hữu Tủy, đều thọ 10 vạn tuổi,
từ vua Hoan Hỷ đến các vua sau này đều thọ 8 vạn 4 ngàn tuổi.
Từ
khi vua Giá Ca Việt có niệm ác giết một con trâu để tế tự, vì hại sinh
mạng cho nên mất Kim-luân (xe bằng vàng) được chiếc xe bằng bạc, làm chủ
ba thiên hạ, thọ một vạn tuổi. Vua Kiên Niệm làm áo giáp để mặc mà ra
trận, thọ 5 ngàn tuổi, được xe bằng đồng. Làm chủ 2 thiên hạ, chủ phía
Tây-Nam, vua Hỷ Sát thọ 2.500 tuổi, đươc chiếc xe bằng sắt, làm chủ thiên
hạ phía Nam. Nhà vua có một người Thái tử vì đã làm 5 điều ác, giết, hại
cho nên tuổi thọ giảm xuống còn một ngàn tuổi. Người dân cổ đại lúc ấy có
9 loại bệnh: Lạnh, nóng, đói, khát, sanh, lão, bệnh, tử.
Vì
Bà la môn phát sinh để tế tự nên từ đó sanh ra 400 loại bệnh. Từ lúc vua
Sư Tử Niệm, con người giảm xuống còn 120 tuổi. Từ lúc vua Sư Tử Niệm trở
về sau, Vua Sư Tử Ý có 84 vị vua, mạng con người giảm xuống dần chỉ còn có
80, 70, 50, 30, 20, và 10 tuổi.
Về
sau có vị vua Sư Tử Mạng Xa tên là Bạch Tịnh, là cha của Bồ Tát. Vậy là:
Kể từ thân của Bồ Tát từ đầu đến cuối và từ trước đến sau, giòng họ này có
đền 8 vạn 4 ngàn người.
Vua
Giá Ca Việt tên là Cù Ðàm, giòng họ là Thuần Thục, Bồ Tát ở trên cung trời
Ðâu Thuật, ý muốn hạ sinh, quan sát ở cõi trời, để xem nước nào có thể
sanh được. Bồ Tát thấy rằng chỉ có gia đình của vua Bạch Tịnh là có thể
sanh được.
Bấy
giờ, ở cõi trời có một cái cây tên là Ðâu Ðàm, Bồ Tát ngồi dưới gốc cây ấy
mà tư duy, làm cho cây Ðâu Ðàm không còn ánh tinh quang nữa.
Bấy
giờ có vị trời hỏi rằng:
- Vì
sao Bồ Tát lại bỏ chỗ ngồi lệ thường, mà ngồi dưới gốc cây khác?
Có
vị thiên tử biết rõ ý Bồ Tát đáp rằng:
-
Ngài muốn biết sao? Nay Bồ Tát muốn hạ sanh xuống cõi Diêm Phù Lợi, quán
xem nước nào có thể sanh được. Bồ Tát thấy chỉ có nhà Bạch Tịnh là có thể
sanh được mà thôi.
Khi
ấy chư thiên đều nói:
-
Nay Bồ Tát hạ sanh, vậy chúng ta lấy gì để làm lễ vật tiễn đưa Ngài?
Rồi
lập phương kế nói rằng:
-
Chỉ trên cõi trời Tịnh Minh có 400 tứ bảo, chạm trổ kỳ lạ, khác nhau, mỗi
cái đều có tên riêng, đồng có kho báu, có thể làm xe để cỡi.
Long
Vương Y La Mạn, lấy đó làm xe gọi là Bạch Tịnh, lông, cánh của nó còn
trắng hơn tuyết. Con voi có 35 cái đầu, mỗi đầu có 7 cái ngà, trên mỗi cái
ngà có 7 cái ao nước, mỗi cái ao cũng có 7 cái hoa sen ưu bát và trên mỗi
cái hoa bát la lại có một ngọc nữ. Sau đó Bồ Tát cùng tám vạn 4 ngàn thiên
tử, cỡi lên xe báu bạch tượng đi xuống.
Bấy
giờ trong giấc ngủ của hoàng hậu vua Bạch Tịnh, người mơ thấy con voi
trắng phảng phất. Tỉnh giấc hoảng sợ tâu với vua:
-
Cha của Bồ Tát tên là Bạch Tịnh. Anh của cha Ngài là người 4. Vua Bạch
Tịnh có hai người con, người con lớn tên là Tất Ðạt, người con nhỏ tên là
Nan Ðà, mẹ của Bồ Tát tên là Ma Da, mẹ của Nan Ðà tên là Cù Ðàm Di. Thúc
phụ của Bồ Tát là vua Cam Lồ Tịnh, ông cũng có hai người con. Trưởng nam
tên là Ðiều Ðạt, thứ nam tên là A Nan. Người chú giữa của Bồ Tát là vua
Hộc Tinh, ông có hai người con: trưởng nam tên là Ma Ha Nạp, thứ nam tên
là A Na Luật, người chú út của Bồ Tát là vua Thiết Tịnh, ông có hai người
con: lớn tên là Thích Ca Vương, nhỏ tên là Thích Tiểu Vương.
Nước
Ca Duy La Duyệt phồn vinh có 8 cái thành, gồm có 900 vạn nóc nhà. Ðiều Ðạt
thì sanh vào ngày mồng 7 tháng 4. Ðức Phật thì sanh vào ngày mồng 8 tháng
4. Nan Ðề em của đức Phật sanh vào ngày mồng 9 tháng 4. A Nan sanh ngày 10
tháng 4. Thân của Ðiều Ðạt cao 1 trượng 54 tấc, thân của đức Phật cao 1
trượng 6 thước, thân của Nan Ðà cao 1 trượng 54 tấc, thân của A Nan cao 1
trượng 53 tấc, Xá đi quý tộc, bà con của đức Phật cao 1 trượng 4 thước,
những người của nước khác đều cao 1 thước.
Ngoại gia của Bồ Tát cách thành 800 dặm, họ là Cù Ðàm Thị, là một vị vua
nước nhỏ, chủ của 1 trăm vạn nóc nhà tên là vua Nhất Ức, gia đình phía vợ
của Bồ Tát thuộc họ Cù Ðàm. Trưởng giả Xá Di tên là Thủy Quang, nhạc mẫu
của Ngài tên là Nguyệt Thị, sống bên cạnh một thành, lúc hạ sanh con gái,
mặt trời sắp lặn, ánh sáng sót lại chiếu khắp nội thất, nhân đó gọi Cù Di
là Minh Nữ. Cù Di là cháu chắt lớn của thái tử. Cha của nàng là trưởng giả
Thủy Quang. Người vợ thứ nhất của thái tử sanh ra La Vân, tên là Da Duy
Ðàn, cha của nàng tên là trưởng giả Di Thí. Ðệ tam phu nhân tên là Lộc Dã,
cha của nàng là Thích trưởng giả.
Thái
tử có ba phu nhân, phụ vương cho dựng ba cung điện hợp với ba mùa, mỗi
cung điện có hai vạn thiếu nữ, như vậy ba cung điện có đến sáu vạn thiếu
nữ.
Lúc
29 tuổi Ngài xuất gia, lúc 35 tuổi Ngài thành đạo.
Từ
ngày mồng 8 tháng 4 cho đến ngày rằm tháng 7, năm thứ nhất ngài ngồi dưới
một gốc cây, năm thứ hai ngài thuyết pháp cho nhóm A Nhã Câu Lân... nơi
vườn Lộc Dã, ngài lại thuyết pháp cho nhóm Tất Bà Ban, rồi lại thuyết
pháp cho nhóm Ca Giả La... cả thảy 17 người. Ngài lại thuyết pháp cho
trưởng giả Ðại Tài, và ưu bà di Nhị Tài Niệm, thuyết pháp cho Ni Kiền
Chánh Niệm, thuyết pháp co nhóm Ðề Hòa Kiệt La.... 42 người. Năm thứ ba
ngài thuyết pháp cho ba anh em Uất Vị Ca Diếp, với 100 vị Tỳ kheo. Năm thứ
tư ngài thuyết pháp cho loài Rồng, Quỷ thần ở trên núi Tượng Ðầu. Năm thứ
năm ngài thuyết pháp chi Tư Ha Vị ở trong vườn trúc...
Năm
năm qua, Ngài chưa đến nước Xá Vệ. Lúc đó tôn giả Xá Lợi Phất là Bà la
môn, có 125 đệ tử đang ngồi dưới một gốc cây. Khi ấy tôn giả Mục Liên là
Tướng quân thừa tướng của nước Di Di La, xuất hành thấy tôn giả Xá Lợi
Phất đang ngồi dưới một gốc cây kia liền hỏi:
-
Ngài ngồi chỗ này để làm gì?
Tôn
giả Xá Lợi Phất đáp:
- Ta
muốn học đạo.
Tôn
giả Mục Liên nói:
-
Tôi xin kết bạn với Ngài.
Tôn
giả liền bảo 100 vị quan, quần thần trở về, chỉ giữ lại 25 người thôi. Hai
người hiệp lại là 250 người.
Tôn
giả Xá Lợi Phất vào thành để khất thực, thấy đệ tử của đức Phật là Tỳ kheo
Mã Sư, liền hỏi:
- Vì
sao y phục của đạo sĩ không giống người bình thường.
Tỳ
kheo Mã Sư đáp:
-
Tôi là đệ tử của đức Phật.
Tôn
giả Xá Lợi Phất đáp hỏi:
-
Ðức Phật thuyết pháp như thế nào?
Ma
Sư đáp:
-
Các pháp đều do duyên sanh, hễ nhân duyên diệt thì các khổ đều tận diệt.
Bấy
giờ tôn giả Xá Lợi Phất liền đắc quả Tu đà hoàn đạo. Tôn giả vui mừng,
liền trở về bảo cho tôn giả Mục Liên rằng:
- Có
vị thần nhân ở thế gian!
Tôn
giả Mục Liên nói:
- Vị
ấy nói pháp gì?
Tôn
giả Xá Lợi Phất nói rõ đầu đuôi câu chuyện trên. Nghe xong tôn giả Mục
Liên cũng đắc quả Tu đà hoàn. Lúc ấy hai tôn giả cùng dẫn các đệ tử đi đến
chỗ đức Phật. Tuy họ chưa đến nhưng đức Phật đã biết trước liền bảo các Tỳ
kheo rằng:
-
Hiện nay đang có hai vị hiền sĩ, một người tên là Tỳ kheo trí tuệ, một
người tên là Tỳ kheo thần túc đang đi đến đây!
Ðức
Phật thuyết Tứ Ðế cho hai vị nghe, sau 7 ngày, tôn giả Xá Lợi Phất liền
chứng quả A la hán. Và tôn giả Mục Kiền Liên thì sau 15 ngày liền chứng
quả A la hán.
Năm
thứ sáu, trưởng giả Tu Ðạt cùng thái tử Kỳ Ðà làm Tịnh Xá dâng cúng đức
Phật, làm 12 Phật Ðồ Tự, 72 giảng đường, 3600 phòng ốc, 500 lầu gác.
Năm
thứ bảy, Ngài thuyết kinh “Ban Chu” cho nhóm Bà Ðà Hòa Bồ Tát cả thảy 8
người , ở nước Câu Da Ni.
Năm
thứ tám, Ngài thuyết pháp cho Hoàng đế của đức vua Truân Chơn Ðà La ở Liễu
Sơn .
Năm
thứ chín, Ngài thuyết pháp cho Ðà Khuật Ma ở trong núi Uế Trạch.
Năm
thứ mười, Ngài trở về nước Ma Kiệt thuyết pháp cho vua Phất Ca Sa.
Năm
thứ mười một, Ngài nói về Bốn Khởi cho Ngài Di Lặc ở dưới gốc cây Khủng
Cụ.
Năm
thứ mười hai, Ngài trở về nước của vua cha, thuyết pháp cho Sai Ma Kiệt ở
thảo am họ Thích, cách thành 80 dặm, rồi Ngài trở về cung thuyết pháp cho
phụ vương và dòng họ Thích Ca, độ cho 8 vạn 4 ngàn người, tất cả được đắc
quả Tu đà hoàn.
Ðó
là trong 14 nước, đức Phật du hóa thuyết pháp mới trong 12 năm. Vua Ba Tư
Nặc nước Tấn gọi là Hòa Duyệt. Ca Duy La Việt nước Tấn gọi là Diệu Ðức,
nước Xá Vệ nước Tấn gọi là không có vật gì mà không có, nước Duy Da Ly
nước Tấn gọi là Quảng Ðại, còn gọi là Ðộ-Sanh-Tử. La Duyệt Kỳ nước Tấn gọi
là thàng Vương Xá, nước Cưu Lưu, nước Tấn gọi là Lộc Dã, còn gọi là nước
của chư Phật.
Trong cõi Diêm Phù Ðề có 16 nước lớn, 8 vạn 4 ngàn thành, có 8 vị quốc
vương, 4 vị thiên tử: Phía Ðông có thiên tử nước Tấn, nhân dân đông đúc.
Phía Nam có thiên tử nước Thiên Trúc, đất đai có nhiều con voi nổi tiếng.
Phía Tây có thiên tử nước Ðại Tần, đất đai có nhiều vàng, bạc, ngọc bích.
Phía Bắc có thiên tử nước Nguyệt Chi, đất đai sanh nhiều ngựa quý. Trong 8
vạn 4 ngàn cái thành có 6 ngàn 4 trăm giống người, có vạn thứ âm thinh, có
56 vạn ức binh chủng. Có 6 ngàn 4 trăm loại cá, 4 ngàn năm trăm loại chim.
Hai ngàn bốn trăm loại thú, một vạn giống cây, tám ngàn loại cỏ để làm
thuốc, có bảy trăm bốn mươi loại thuốc tể, tạp hướng có 43 loại, châu báu
có 121 loại. Chánh bảo có 7 loại, ở trong biển có 2500 nước, trong đó có
180 ăn ngũ cốc, 350 nước ăn cá rùa cua trạnh. Trong 5 vị quốc vương, mỗi
vị vua làm làm chủ 500 thành. Vị vua thứ nhất tên là Tư Lê Quốc, không
thờ tà đạo, cả nước đều thờ Phật và thần dân lấy đạo Phật làm quốc giáo.
Vị vua thứ hai tên là Ca La, đất đai sinh bảy báu. Vị vua thứ ba tên là
Bất La, đất đai sinh ra 42 loại hương và Bạch-lưu-ly. Vị vua thứ tư tên là
Xà Da, đất đai sinh cây Tất Bát và Hồ Thúc. Vị vua thứ năm tên là Na Ất,
đất đai sinh ra ngọc trắng và ngọc lưu ly 7 màu.
Người trong thành của 5 nước lớn phần nhiều da đen, lùn và nhỏ thó, cách
nhau 65 vạn dặm, từ đó chỉ có nước biển, không có dân chúng, cách núi
Thiết Vi 140 vạn dặm.
PHẬT NÓI KINH “THẬP NHỊ DU”
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-4-2003