NĂM TRĂM ÐỆ TỬ TỰ NÓI VỀ BỔN KHỞI (KIẾP
TRƯỚC)
- Hán dịch: Tây
Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ
- Việt dịch: Thích
Chánh Lạc
---o0o---
A-nậu-đạt Long vương ( Nước Tần gọi là Vô Phàn). Khi Ðức Phật còn tại thế
dẫn các Bồ Tát có đức thần dõng mãnh đến núi Côn Lôn, nơi điện báu cung
quán của con rồng này. Nguồn gốc của năm con sông bắt nguồn từ đấy. Nơi ấy
có ao nước tám vị có hoa bảy màu. Nếu ai muốn nước đó liền biết đựơc kiếp
trước.
Bấy giờ
Long vương thỉnh Ðức Phật Thế Tôn cùng năm trăm đệ tử thượng thủ của Ngài
đến thọ thực xong, ngồi trên tòa Liên Hoa, truy giảng những điều tội phước
đã tạo ở kiếp trước. Tất cả đều do những hành động rất nhỏ, chuyển thọ báo
ứng, trải qua nhiều đời nhiều kiếp, không thể tự tế độ được, phải nhờ gặp
bậc Chánh giác mới có thể độ thoát. Mỗi vị đề tự soạn bài ca để làm kệ
tụng.
1.
Phẩm
đại Ca-diếp (19 bài kệ)
Phật là vô pháp chốn nhơn gian
Chặt đức dây đan về Xá Lợi
Các căn tịch định đức uy nghiêm
Như Lai tự bảo các Tỳ-kheo
Có các qủy thần để vui thích
Cùng các thứ hoa vô số loại
Bốn dòng nước phun về bốn hướng
Các dòng nước chảy ra sông biển
Tư-đầu-na-đề Bá-sư-tử
Người không thể đến thần túc đến
Bay lướt thật nhanh bèn vượt qua
Cùng đến vực sâu, suối chảy ấy
Tỳ-kheo Thiện Duy vâng lời Phật
Ðại thông, an trụ, đệ tử đầu
Nghe lời Phật dạy lương thần túc
Thí như nhạn chúa dẫn bầy nhạn
Bay lên bầu trời chơi sông biển
Ngắm xem đồng loại cùng vui thích
Phật-trời trông trời cũng vậy thôi.
Cùng các đệ tử bay thỏa thích
Phật bèn bảo các đệ tử rằng:
“Nên biết đời trước chỗ trải qua
Hãy nói ta nghe đã làm gì
Mà được phước đức không kể xiết”
Ðệ tử Phật là ngài Ca-diếp
Giống như sư tử dạo núi sâu
Các kiếp trải qua không dám giấu
Nên nói việc làm các đời trước
“Nhặt được tổ yến và lúa mạch
Dâng cúng Phật-bích-chi chút ít
Tâm vui giải thoát không còn lậu
Dâng cúng không hành ý tịch tịnh
Khi ấy tâm niệm có nguyện này
Liền đó suy tư nơi thượng pháp
Cùng người như vậy hội một nơi”
Khi mạng chung, sanh Uất-đơn-việt
Nhờ nhân duyên ấy phước mới đến
Sanh Uất-đơn-việt cả ngàn lần,
Sau đó sanh nơi trời Thắng Mạng
Thân hình tuyệt đẹp không ai bằng
Tôi nhờ phước ấy tạo ra đức
Lại được ngàn lần sanh Ðao-lợi,
Thân đeo các hoa, hương, ngọc quý,
Thân đẹp vi diệu, được tự tại
Khi hết mạng sống ở trên trời
Lại được sanh nơi Uất-đơn-việt
Bởi vì đời trước nguyện như vậy
Do nhờ nhơn duyên phước đức ấy
Sanh nhà giàu có, giòng Phạm chí
Tài sản sự nghiệp vô số kể
Sống trong ngũ dục mà không tham
Ðối với dp không ai bằng
Lòng thương bao la giảng kinh pháp
Chủ lực nhất tâm định các căn
Thất-giác-chi, Tám-đạo-hạnh
Nhờ đã được nơi pháp này
Liền hết các lậu, tay cầm đuốc
Cùng câu hội chúng này lần cuối
Hợp nhau thành chánh thẳng lìa tà
Dp Như Lai thật khéo nói
Trọng người giữ giới được đắc chí
Những điều mong ước đều toại nguyện
Rốt cuộc thân sau được đủ đầy
Viễn ly sanh tử từ căn cội
Ái kết từ đây vĩnh viễn trừ
Chính là vương tử trong pháp Phật
Biết dừng biết đủ thường suy nghĩ
Thanh tịnh trong tâm chẳng đắm suy
Ý chí vững bền, không lay chuyển
Giống như núi lớn chẳng động lay
Như vậy Ðức Ca-diếp
Trong các Tỳ-kheo Tăng
Ao lớn A-nậu-đạt
Tự nói phước duyên trước.
2.
PHẨM XÁ LỢI PHẤT (12 bài kệ)
Là tiên sống nhàn cư |
Nơi đó thấy Sa-môn |
Phật-bích-chi tôn qúy |
Thân mặc áo chằm vá |
Thấy Ngài tâm hoan hỉ |
Ðang giặt giũ y phục |
Lại mặc ca sa vá |
Luôn luôn đảnh lễ Ngài |
Nên Ngài thương xót tôi |
Bay lên trên hư không |
Trên dưới phun lửa nước |
Phút chốc liền biến mất |
Tức thì tôi chắp tay |
Tự tâm phát nguyện rằng: |
“Khiến con được như vầy |
Thông minh, trí tuệ lớn |
Chớ sanh nhà hào qúy |
Không sanh loại nghèo hèn |
Thường sanh nhà bậc trung |
Chí nguyện làm Sa-môn”. |
Bởi nhờ công đức này |
Nên suốt năm trăm đời |
Thường làm được thân người |
Ðời đời làm Sa-môn |
Nay là đời cuối cùng |
Lại được làm thân người |
Nhờ được thấy chánh giác |
Ðạo sư không ai bằng |
Nên được làm sm |
Ở chỗ sư tử Thích |
Thành tựu A-la-hán |
Thanh lương mà diệt độ |
Nay ở trước Thế Tôn |
Trong chúng Tỳ-kheo Tăng |
Cho con trí bậc nhất |
Chuyển bánh xe chánh pháp |
Xá-lợi-phất trí tuệ |
Ở trước chúng Tỳ-kheo |
Ao lớn A-nậu-đạt |
Tự nói kiếp trước mình. |
3. PHẨM MA-HA MỤC-KIỀN-LIÊN (15 bài kệ)
Tôi là Tiên, nhàn cư |
Sống ở giữa rừng cây |
Nơi đó, có người đến |
Xin tôi làm Sa-môn |
Tôi cạo râu tóc họ |
Rồi lại giặt y phục |
Chằm vá rồi lại nhuộm |
Trong lòng tự hoan hỷ |
Vị ấy lui một chỗ |
Ngồi kiết già nghiêm chỉnh |
Liền chứng Bích-chi-phật |
Bèn bay lên hư không |
Lúc đó tôi phát nguyện: |
“Mong mình được thần túc |
Khiến tôi được như vậy |
Ðại lực đại thần túc |
Bởi nhờ phước đức ấy |
Nơi nơi chỗ sanh ra |
Trên trời và loài người |
Rực sáng nơi tạo phước |
Nay là đời cuối cùng |
Lại được làm thân người |
Nhờ được thấy chánh giác |
Ðạo sư không ai bằng |
Nên mới làm Sa-môn |
Ở nơi Thích sư- tử |
Liền thành A-la-hán |
Thanh lương mà diệt độ |
Ðã làm ít điều thiện |
Ðược vô lượng an ổn |
Tôi lại làm điều ác |
Nay, nói đại chúng nghe |
Phía Ðông La-duyệt-kỳ |
Sanh làm Tôn-giả-tử |
Ra ngoài mà dạo chơi |
Người nhà cầu uống ăn |
Liền thấy cha mẹ chúng |
Hai người cùng vui chơi |
Thấy rồi họ đánh ta |
Chửi mắng và đuổi theo |
Chỉ cần sống chánh mạng |
Nhưng ta lại không làm |
Nên đọa ngục Hắc Thằng |
Thọ khổ nhiều vô số |
Tai ương xưa còn xót |
Bây giờ đời cuối cùng |
Bị ngoại đạo dị học |
Ðánh ta nhừ như cỏ |
Ta gánh lấy tội lỗi |
Mạng chung rồi diệt độ |
Xưa đã tạo dư ương |
Bây giờ mới diệt hết |
Cho nên phải vui lòng |
Chí hiếu nhờ Cha Mẹ |
Nhờ tâm hoan hỷ này |
Người được lên Thắng Thiện |
Như vậy Câu Luật Tôn |
Ở trong chúng Tỳ-kheo |
Ao lớn A-nậu-đạt |
Tự nói nhân duyên trước |
4.
PHẨM LUÂN ÐỀ ÐÀ ( Tịnh Trừ 17 bài kệ)
Xưa tôi đi đến chùa |
Thấy đất chùa không sạch |
Bèn cầm lấy cây chổi |
Quét sạch nền đất chùa |
Lại thấy chùa thanh tịnh |
Trong lòng rất vui sướng |
Khiến tôi không trần cấu |
Sạch như đất chùa này |
Bởi nhờ công đức ấy |
Bất cứ sanh ở đâu |
Nhan sắc đẹp hòa duyệt |
Ðoan chánh không ai bằng |
Nhờ phước xưa sót lại |
Nay là đời cuối cùng |
Cha Mẹ đặt tên tôi |
Gọi là Vi Tịnh Trừ |
Tôi ở trong thân tộc |
Lúc sống cũng thanh tịnh |
Ðược mọi người ái kính |
Nhìn mãi không thấy chán |
Nhờ gặp được chánh giác |
Ðạo sư không ai bằng |
Nên thành A-la-hán |
Thanh Lương mà diệt độ |
Tôi nhờ chí nguyện ấy |
Khiến tôi không bụi trần |
Nay La Hán không nhỏ |
Vô lậu, việc đã xong |
Giả như quét sạch hết |
Khắp thiên hạ sạch trong |
Không bằng lìa ái dục |
Quét dọn chỗ kinh thành |
Như quét sạch thiên hạ |
Chỗ đạo nhân kinh thành |
Không bằng tứ phương tăng |
Quét sạch một tấc đất |
Giả như quét dọn sạch |
Tinh xá khắp thiên hạ |
Không bằng nơi chùa Phật |
Quét sạch một tấc đất |
Thân tôiđã làm phước |
Nhờ đó biết kỳ diệu |
Ngay khi quát chùa Phật |
Trong lòng rất hân hoan |
Lấy đó mà hiểu biết |
Ðẳng giác đạo đức cao |
Nên cúng thờ chùa Phật |
Ðược phước đức vô lượng |
Nay tôi tự nhớ rằng |
Xưa đã từng làm thiện |
Mới đưa đến quả thật |
Khả ý, an ổn lạc |
Cho nên với chùa Phật |
Khéo tịnh tâm cúng dường |
Nhân giả đó đệ nhất |
Phước điền không ai bằng |
Bây giờ hay cúng dường |
Ðược an ổn vô lượng |
Nhằm phá hoại trừ bỏ |
Tất cả dâm nộ si |
Không khinh, vu khống tâm |
Ðược phước đức đâu ít |
Hưởng Như Lai chánh giác |
Và các đệ tử Phật |
Như vậy Luân Ðề Ðà |
Ở trước các Tỳ-kheo |
Suối lớn A-nậu-đạt |
Tự nói nhân kiếp trước |
5.
PHẨM TU MAN (Thiện niệm 14 bài kệ)
Ngày xưa tôi đi dạo |
Cùng với các thân hữu |
Trên đầu đội vòng hoa |
Tai đeo hoa Tu Man |
Phật Duy Vệ thần thông |
Làm chùa lớn tại đó |
Xa thấy các dường dân |
Cùng đến để phụng sự |
Thân hữu đều đến đó |
Ðồng mang các hoa đẹp |
Ðều đem tâm thanh tịnh |
Cúng rải hoa chùa Phật |
Tôi thấy họ rộng thí |
Cũng lại mới phát tâm |
Liền lấy hoa trong rừng |
Ðem cúng trên chùa Phật |
Lúc sống không đọa lạc |
Lên trời, xuống làm người |
Nhờ gốc đức này vậy |
Ðã làm thiện thấy rõ |
Sau gặp Ðẳng Chánh Giác |
Bậc Ðạo sư Vô thượng |
Chứng quả A-la-hán |
Thanh lương được diệt độ |
Chỉ cúng một hoa thôi |
Liền được trăm ngàn năm |
Tự vui sướng cõi trời |
Phước dư được Nê hoàn (Niết bàn) |
Giả như tôi biết được |
Công đức Phật vô lượng |
Liền xây dựng tháp chùa |
Phước ấy không tính được |
Chư thiên tâm hoan hỷ |
Phước ấy vẫn còn nhỏ |
Như Lai Ðẳng Chánh Giác |
Và đệ tử chư Phật |
Chỉ tôi nhớ việc này |
Thân đã làm công đức |
Nay tôi được thật quả |
Khả ý, vui, an ổn |
Nhờ việc đã làm này |
Cuối cùng dứt sanh tử |
Vô lậu, vô sở trước |
Thanh lương được diệt độ |
Ðã chấm dứt năm đường |
Không còn vào bào thai |
Ðây là đời cuối cùng |
Không còn sanh trở lại |
Giải thoát gốc sanh tử |
Ðã vượt qua biển Hữu |
Nay tôi vì chuyện này |
Ðược gọi là Tu Man |
Khi trưởng giả Tu Man |
Hội ở trong Tăng chúng |
Trong ao A-nậu-đạt |
Tự nói việc làm xưa. |
6.
PHẨM LUÂN LUẬN (Nghe rõ 11 bài kệ)
Lúc thời Phật Duy Vệ
|
Trong nước Bát Ðầu Ma
|
Vốn vì bốn phương Tăng
|
Tạo lập một phòng thất
|
Thêm vào giường, ngọa cụ
|
Ðều đem để bố thí
|
Ðã đem tâm hoan hỷ
|
Lúc đó phát nguyện rằng
|
“Tôi thấy Ðẳng Cháng Giác
|
Mong được làm Sa-môn
|
Ðược Vô vi Vô thượng
|
Thanh lương chánh diệt độ
|
Nhờ gốc công đức này
|
Chín mốt kiếp an ổn
|
Ðã được thấy tự nhiên
|
Ở cõi trời, thế gian
|
Phước công đức còn dư
|
Nay là đời cuối cùng
|
Sanh trưởng giả quyền thế
|
Kiêu, qúi, không anh em
|
Ðược cha mình kính mến
|
Liền nhe lời dạy dỗ
|
Ông đem con cho ngài
|
Vô số ức kho báu
|
Dưới châm mọc lông lạ
|
Tự nhiên dài bốn tấc
|
Thân thể đẹp nhu nhuyến
|
An ổn được vô hại
|
Chín mươi kiếp quá khứ
|
Tất cả đều như nhau
|
Thân tôi không suy nghĩ
|
Khi giở chân đạp đất
|
Nay là đời cuối cùng
|
Lại được làm thân người
|
Thành tựu vô sở trước
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Phật rộng tuyên bố tôi:
|
Bậc tinh tấn đệ nhất
|
Giải thoát hết các lậu
|
Ðã được câu “Bất Ðộng”
|
Như vậy giòn Câu Lê
|
Ở ngay giữa chúng Tăng
|
Trong ao A-nậu-đạt
|
Tự nói công đức xưa.
|
7. PHẨM PHÀM KỲ (Thủ Thiện 8 bài kệ)
Tôi không rõ phước đức
|
Vốn cũng không biết nghĩa
|
Thấy chùa Phật duy Vệ
|
Cúng dường mà phụng thờ
|
Chùa vàng sắc đỏ tía
|
Phan lọng bằng hương hoa
|
Thấy cúng dường chùa tháp
|
Mà được sanh cõi lành
|
Thường ở trong trời, người
|
Chỗ làm được chiếu soi
|
Trải qua chín mốt kiếp
|
Chưa từng vào đường ác
|
Làm chút ít công đức
|
Ðược an lạc rất nhiều
|
Ðã được không chỗ chấp
|
Diệt độ mà thanh lương
|
Giả sử tôi biết được
|
Công đức Phật như vậy
|
Thường cúng dường chùa tháp
|
Sẽ được phước nhiều hơn
|
Cho nên phải biết rõ
|
Chánh giác, đức rộng lớn
|
Nên cúng dường chùa tháp
|
Phước đức sẽ vô cùng
|
Phật thấy khắp bảo con
|
Bậc kính nhạc đệ nhất
|
Ða văn rất nhiều loại
|
Hiện tại đức chí lớn
|
Khi trưởng giả Phàm Kỳ
|
Ðã ở trong tăng chúng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
8. PHẨM TÂN ÐẦU LÔ (Khất Bế môn 11 bài kệ)
Tôi vốn nhờ cha mẹ
|
Sanh làm con quý tử
|
Cung kính thờ cha mình
|
Và hiếu dưỡng với mẹ
|
Song thân và em gái
|
Nô tỳ và người ở
|
Tôi nói với cha mẹ:
|
“Ăn uống đúng thời tiết”
|
Khi khởi ý tham, ghét
|
Không ăn của cha mẹ
|
Vì tức giận hủy báng
|
Ðể được của phạn thực
|
Vì làm tội ác này
|
Ðọa địa ngục Thái Sơn
|
Ngục Hắc Hoằng thiêu đốt
|
Chịu khổ nhiều vô số
|
Từ địa ngục đi ra
|
Ðời đời sanh ở đâu
|
Thường đói khát dữ dội
|
Cần khổ mà chết đói
|
Nay là đời cuối cùng
|
Lại được làm thân người
|
Ðược gặp Ðẳng Chánh Giác
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Ở chỗ Thích sư tử
|
Lặng lẽ tâm thanh tịnh
|
Thành bậc Vô trước đạo
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Nhờ đó, tôi bây giờ
|
Thần túc hay phi hành
|
Lại vào trong hang nhỏ
|
Thì mới được ăn uống
|
Cho nên phải hoan hỷ
|
Cúng dường cho cha mẹ
|
Một lòng cuối đầu lạy
|
Ðược phước nhiều vô lượng
|
Nhờ đó tôi nhớ nghĩ
|
Bỏ ác hạnh đã làm
|
Phải thọ nhân đã gieo
|
Tội, phước không thể mất
|
Tân Ðầu Lô đóng cửa
|
Khi hội trong Tăng chúng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói làm việc xưa.
|
9. PHẨM HÓA KIỆT (Thiện Lai- 21 bài kệ)
Xưa tôi con trưởng giả
|
Tại nước Bàn Ðầu Ma
|
Giòn họ nhiều của cải
|
Và quyến thuộc vây quanh
|
Bao vậy ở bên vua
|
Khoái lạc vô cùng tận
|
Ðoan chánh ai cũng thích
|
Sắc mặt đẹp vô cùng
|
Khi tôi chuẩn bị đi
|
Kẻ hộ tống trước sau
|
Muốn đi dạo ngắm cảnh
|
Cùng với các thế nữ
|
Khi đến nơi ngắm cảnh
|
Thấy tướng Sa-môn tịnh
|
Tuân hành nghĩa an tịnh
|
Thân mặc y chằm đỏ
|
Khi tôi thấy Sa-môn
|
Liền phát khởi ác ý
|
Giận ghét hình dáng ấy
|
Lòng bực bội không vui
|
Vì sao cạo râu tóc
|
Nhan sắc đen xấu xí
|
Thân thể ghẻ, mụt nhọt
|
Thân tâm đều ốm yếu
|
Do vậy đã tạo tội
|
Miệng tôi nói lời ác
|
Tại đó, sau khi chết
|
Liền đọa trong địa ngục
|
Từ ngục được thoát ra
|
Nhan sắc đen, xấu xí
|
Thân thể ghẻ, ung thư
|
Thân tâm đều ốm yếu
|
Cầm chén bể xin ăn
|
Mặc y người chết vất
|
Mặc áo rách thô xấu
|
Chỗ ở không yên ổn
|
Muốn đi đến nơi nào
|
Xin ăn cho đỡ đói
|
Bị gậy đánh xua đuổi
|
Bị người ghét, hủy nhục
|
Như vậy năm trăm năm
|
Bất cứ sanh ở đâu
|
Bị đói khát cùng khốn
|
Cần khổ mà chết đói
|
Khi gặp bậc Chánh Giác
|
Tỳ-kheo Tăng vây quanh
|
Cùng đại chúng câu hội
|
Liền nhanh chân chạy đến
|
Ý muốn vào trong chúng
|
Hy vọng ăn uống no
|
Ðến thấy đại chúng hội
|
Ðều ngồi muốn nhe pháp
|
Nhưng không đạt bổn nguyện
|
Chẳng ai cho ăn uống
|
Ðại đức Trí thương xót
|
Như Lai mới bảo rằng:
|
Nhơn giả, khéo đến đây
|
Hãy ngồi vào tòa này
|
Bấy giờ tôi vui sướng
|
Nên một lòng chấp tay
|
Lạy dưới chân Thế Tôn
|
Rồi ngồi qua một bên
|
Bấy giờ Ðại Tôn thương
|
Cù Ðàm rất từ bi
|
Thứ lớp phân biệt dạy
|
Vì tôi giảng Tứ Ðế
|
Năng nhân cạo râu tóc
|
Nhờ đó thấy dấu đạo
|
Phật dạy hạnh Tịch-trí
|
Tại đó được thần thông
|
Do đó mới có hiệu
|
Ðặt tên là Thái Kiệt
|
Nhờ vậy Phật nói tôi
|
Bậc Chánh Thọ (Chánh định) đệ nhất
|
Phật Ðại tôn dũng mãnh
|
Thế hùng, Bậc tối thắng
|
Thần thông thật vô lượng
|
Ðộ tôi thoát các khổ
|
Khéo đến Phật như vậy
|
Khi ở trong chúng Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
10. PHẨM NAN ÐÀ (Hân Lạc 12 bài kệ)
Ðông thành nước Vương xá
|
Từng là phú tôn giả
|
Gặp phải lúc đói kém
|
Có đại sĩ đến đây
|
Khi tôi đang ngồi ăn
|
Có đạo sĩ đẹp đến
|
Hoại phá bậc duyên giác
|
Ðược vô lậu, tự tại
|
Hưng khởi ý tham, ghét
|
Tâm chí chứa độc ác
|
Nay Tỳ-kheo này đến
|
Lẽ nào cũng như vậy
|
Bấy giờ thọ ăn uống
|
Trộn cơm với lúa ngựa
|
Ðạo nhân khi ăn xong
|
Mạng chung ngay tức khắc
|
Sau khi tôi mạng chung
|
Mại đọa trong địa ngục
|
Hội nhau cùng kêu la
|
Ðời đời bị chưng nấu
|
Từ địa ngục ra khỏi
|
Trở lại làm thân người
|
Thân thường nhiều bệnh tật
|
Buồn khổ mà mạng chung
|
Năm trăm đời như vậy
|
Bất cứ sanh ở đâu
|
Thường tai ách đau khổ
|
Áo não mà qua đời
|
Nay là đời cuối cùng
|
Ðã được sanh làm người
|
Lại gặp Bậc Chánh Giác
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Xuất gia làm Sa-môn
|
Thọ pháp Thích Sư Tử
|
Ðã được đạo La hán
|
Thanh lương rồi diệt độ
|
Tôi lúc ấy, Nhân giả
|
Ðược thần túc vô lậu
|
Thân thể nhiều tật bệnh
|
Chổ ở không an ổn
|
Bây giờ nhớ nghĩ lại
|
Tôi vốn đã hành động
|
Phải gặt lấy quả báo
|
Tội, phước không thể mất
|
Như vậy, Ngài Nan Ðà
|
Ở trong chúng Tỳ-kheo
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
11. PHẨM DẠ DA (Danh văn- 26 bài kệ)
Xưa có một đạo nhân
|
Vào xóm làng khất thực
|
Thếy người nữ bị chết
|
Sình xanh rất hôi thối
|
Ngài kiết già phu tọa
|
Quán thấy sự vô thường
|
Xét rõ toàn bất tịnh
|
Một lòng học định tâm
|
Liền ngay trên chỗ ngồi
|
Có âm thanh tinh tế
|
Nghe tiếng mà hãi hùng
|
Cũng từ một tâm khởi
|
Thấy bụng tử thi vỡ
|
Hiện toàn đồ bất tịnh
|
Các lỗ hổng chảy ra
|
Hôi thối không chịu nổi
|
Thấy trường, vị, ngũ tạng
|
Tim gan đều tan nát
|
Biết bao nhiêu là trùng
|
Quán xong tâm lại tịnh
|
Xem thân chết bên ngoài
|
Quán soi lại thân mình
|
Người vậy, ta nào khác?
|
Thấy thân vốn hư ngụy
|
Từ Tam muội đứng dậy
|
Tu hành không giãi đãi
|
Cũng không đi khất thực
|
Cũng không nghĩ uống ăn
|
Nếu tôi vào xóm làng
|
Ðể đi xin thức ăn
|
Tuy thấy sắc xinh đẹp
|
Thường quán thấy bất tịnh
|
Xem các hình sắc kia
|
Như người chết không khác
|
Thấy nó vốn bại hoại
|
Tất cả chẳng gì vui
|
Tôi suy tư như vậy
|
Mà được lìa ái dục
|
Phụng thờ bốn phạm hạnh
|
Xét kỹ không coi thường
|
Ở đó, sau mạng chung
|
Liền được sanh Phạm- thiên
|
Ở Phạm Thiên mạng chung
|
Sanh xuống Ba-la-nại
|
Nhà trưởng giả quyền thế
|
Làm con trưởng giả ấy
|
Ai thấy cũng kính mến
|
Chánh thọ, độ vô cùng
|
Suốt ngày thường tu hành
|
Buổi tối không ngủ nghĩ
|
Thấy tất cả người nữ
|
Ðều xem đồ hôi thối
|
Kẻ gối trống nằm ngủ
|
Ca sĩ cầm không hầu
|
Ðồ kỷ nhạc ngổn ngang
|
Mộng tưởng, làm, nói, mơ
|
Nơi đó, về suy nghĩ
|
Xưa vốn làm công đức
|
Tưởng, thức chỗ bất tịnh
|
Ðời trước đã trải qua
|
Vừa quán thấy vậy rồi
|
Chí cầu ý vô dục
|
Lúc đó bị bức bách
|
Nhân giả, tôi bỏ đi
|
Liền từ sàng tọa dậy
|
Xuống điện trốn bỏ chạy
|
Chư Thiên thương xót tôi
|
Cánh cửa tự mở ra
|
Tôi liền ra khỏi thành
|
Ði đến bên giòng nước
|
Xa trông bờ bên kia
|
Thấy Sa-môn tịch tịnh
|
Lại thấy Ðại Tịch Chí
|
Cất tiếng kêu thật lớn
|
Bảo rằng tôi cùng khốn
|
Thần thông tôi xả dục
|
Tiếng Thế Tôn thâm diệu
|
Vì tiếng tôi cay đắng
|
Ðồng tử đến chẳng sợ
|
Ở đó không cùng ách
|
Tâm bỏ các khổ não
|
Liền vượt đến bờ kia
|
Ði đến chỗ đại bi
|
Thế Tôn không ai bằng
|
Tuyệt diệu, khó sánh kịp
|
Thí như người đói khát
|
Lại hiểu biết nghĩa này
|
Liền hiểu biết nghĩa ấy
|
Nhờ ngài thấy Ðạo đế
|
Theo Phật cầu xuất gia
|
Cù Ðàm đại từ bi
|
Cho tôi làm Sa-môn
|
Tức thời trong một đêm
|
Cho đến lúc sáng sớm
|
Chấm dứt hết các lậu
|
Thanh lương được diệt độ
|
Ðó là đời trước tôi
|
Ðã làm thiện hạnh này
|
Nay là đời cuối cùng
|
Tôi được dấu cam lồ
|
Như vậy Hiền Dạ Da
|
Tôn giả tử thần thông
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
12. PHẨM THI LỢI LA (20 bài kệ)
Xưa, thành Ba-la-nại
|
Phật Ca-diếp Nê Hoàn
|
Vua Cơ Duy dựng tháp
|
To lớn bằng thất bảo
|
Khi vua đang xâu tháp
|
Có tối đại Thái tử
|
Lúc đó vì tôn Phật
|
Tôi xây tháp bậc nhất
|
Bởi nhờ công đức này
|
Ðời đời sanh chỗ nào
|
Tại Thiên thượng, nhân gian
|
Thấy phước ấy rõ ràng
|
Nơi nơi sanh ở đâu
|
Giàu có nhất trong nước
|
Của cải nhiều vô cùng
|
Thường thích bố thí lớn
|
Tôi suốt năm trăm năm
|
Huệ thí, không tham tiếc
|
Cung cấp cho thường dân
|
Tịch Chí và Phạm Chí
|
Nhờ việc làm Nhất giác (Giác ngộ)
|
Lìa ái dục vô lậu
|
Tâm thanh tịnh hoan hỷ
|
Cúng dường năm trăm chúng
|
Bởi nhờ công đức này
|
Tại đây đời cuối cùng
|
Sanh họ Thích, thế lực
|
Ðúng thời, miệng tuyên thuyết
|
Trong nhà có của báu
|
Tiền tài và vật dụng
|
Tôi đem cho tất cả
|
Cứu các nngười bần cùng
|
Tôi cho không mệt mỏi
|
Cứu tế kẻ thấp hèn
|
Tin làm lành, báo đáp
|
Huống chi hay bố thí
|
Trong nhà nghe tôi nói
|
Buốn lo và hoảng hốt
|
Bỏ chạy khắp tám phương
|
Nhũ mẫu cũng lánh mặt
|
Mẹ tôi vì ân ái
|
Liền mới bảo tôi rằng:
|
“Là Trời, người, quỷ thần”
|
Sao nói lời quái dị?
|
Lúc đó tôi liền thưa:
|
“Con là người chẳng qủy
|
Biết kiếp trước bố thí
|
Ưa thích thấy người cho”
|
Khi mẹ nghe lời ấy
|
Vui mừng chẳng sợ hãi
|
Bà hứa khuyến trợ tôi
|
Rộng tâm mà bố thí
|
Trong nhà nhiều quyến thuộc
|
Mẹ bảo cúng dường tôi
|
Ðược mọi người kính yêu
|
Ai thấy cũng hoan hỷ
|
Lúc đó tôi mới sanh
|
Trong nhà liền hưng thạnh
|
Nhờ vậy các Tịch Chí
|
Gọi tôi: Thi Lợi La
|
Ở đó liền bố thí
|
Cấp dưỡng các người nghèo
|
Khi gặp bậc Chánh Giác
|
Liền bỏ nhà học đạo
|
Mới sanh nhà hưng thịnh
|
Chạm đất liền biết nói
|
Cho nên gọi Thi Lợi
|
Tiếng tăm ai cũng biết
|
Sanh ra chẳng tham lam
|
Cũng chẳng có sợ hãi
|
Nhờ tín xuất gia học
|
Ðủ tất cả thần thông
|
Ðược quốc chủ khâm phục
|
Vị Ðại thần, nhân dân
|
Ðược cúng nhiều y thực
|
Sàng tọa, các an ổn
|
Như vậy Thi Lợi La
|
Ở trong Tỳ-kheo Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc đời trước.
|
13. PHẨM BẠT CÂU LÔ (Họ Cố- 12 bài kệ)
Xưa tôi từng bán thuốc
|
Ở nước Bàn Ðầu Ma
|
Ngay đời Phật Duy Vệ
|
Kính cá Tỳ-kheo Tăng
|
Khi có người ốm đau
|
Ðem thuốc trị lành bệnh
|
Cung cấp các rê thuốc
|
Bố thí các Tỳ-kheo
|
Một năm các chúng Tăng
|
Chẳng thiếu thốn vật gì
|
Khi thí các Sa-môn
|
Cho một Ha Lê Lặc (Ha tử: tên một loại thuốc)
|
Trong chín mươi mốt kiếp
|
Chưa từng vào đường ác
|
Ở cõi trời hay người
|
Phước đó tự nhiên gặp
|
Tạo phước đức chút xíu
|
Thọ phước đức vô cùng
|
Cúng một Ha Lê Lặc
|
Mãi mãi sanh chỗ thiện
|
Phước đức xưa sót lại
|
Nay được làm thân người
|
Gặp được Bậc Chánh Giác
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Chưa từng tự nhớ nghĩ
|
Quận, Huyện, chỗ thọ thí
|
Nhân giả, tôi hai đêm
|
Chứng thông Tam Ðạt Trí
|
Thường mặc y thô xấu
|
Nhằm vá rất nhiếu lớp
|
Bỏ nhà đi học đạo
|
Muốn ở chỗ an nhàn
|
Thọ một trăm sáu mươi
|
Ở đó không dơ uế
|
Chưa từng có tật bệnh
|
Sanh đâu cũng an lạc
|
Phật thuyết pháp, khắp nơi
|
Thiểu dục, không ngủ nghĩ
|
Xét bố thí thuốc ấy
|
Phước đức lớn như vậy
|
Nay tôi đã nhớ rõ
|
Xưa gieo ít công đức
|
Ðã đạt quả chân thật
|
Vừa ý được an ổn
|
Khi Hiền Bạt Câu Lô
|
Giữa chúng Tỳ-kheo Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
14. PHẨM MA HA TRỞ (Ðại Trường- 12 bài kệ)
Xưa làm thợ thuộc da
|
Ðời sống cũng an ổn
|
Gặp lúc lúa thóc hiếm
|
Làm mềm da để thuộc
|
Khi gặp nhiều da tốt
|
Nấu chín làm thật đẹp
|
Lúc đó Sa-môn đến
|
Khất thực muốn xin ăn
|
Tôi thấy liền hoan hỷ
|
Chia phần cơm cúng dường
|
Vị Tịch Chí ăn xong
|
Liền bay lên hư không
|
Thấy đạo nhân bay vút
|
Tức thì tôi chắp tay
|
Cung kính Ngài khắp nơi
|
Ngài đi đâu cũng theo
|
Tâm hoan hỷ, rộng lớn
|
Liền tự phát nguyện rằng:
|
–Mong con được như vậy
|
Thường ở cùng tôn giả
|
Như pháp đạo nhân này
|
Ngài đã được pháp thân
|
Khiến thân con cũng vậy
|
Mau thành nghĩa chánh nguyện
|
Chỗ thí không hình sắc
|
Khí chất cũng ô uế
|
Không hương cũng không vị
|
Tôi đã thí như vậy
|
Ðã tạo chút ít đức
|
Ðược phước rất an lạc
|
Ở cõi trời hay người
|
Phước đó tự nhiên gặp
|
Nay là đời cuối cùng
|
Lại được làm thân người
|
Gặp được Ðẳng Chánh Giác
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Tôi vốn đã cầu nguyện
|
Thấy Thế tôn, thượng nhân
|
Bấy giờ đều như ý
|
Thanh lương được diệt độ
|
Lúc ấy đều biết rõ
|
Xưa đã làm công đức
|
Tất phải được thật quả
|
Vừa ý, được hoan hỷ
|
Bậc Ðại tôn như vậy
|
Tự nói việc làm xưa.
|
15.PHẨM ƯU VI CA-DIẾP (8 bài kệ)
Ðạo sư có hai người
|
Ðồng loại đều anh em
|
Thấy tháp Phật Ca-diếp
|
Hư nát và sụp đổ
|
Tập hợp các khách buôn
|
Cùng nhau sửa lại tháp
|
Lúc đó, hai anh em
|
Cùng nhau xây dựng tháp
|
Nhờ công đức xưa này
|
Sanh cõi trờ rất lâu
|
Lại sanh xuống nhân gian
|
Vào giòng họ thế tộc
|
Chưa gặp Bậc Chánh Giác
|
Bỏ nhà học đạo khác
|
Bên giòng sông Ni Liên
|
Tu lâu hạnh Bện tóc
|
Thế Tôn không ai bằng
|
Xót thương bọn chúng con
|
Ở bên giòn sông Hằng
|
Cảm động liền biến hóa
|
Chúng con thấy biến hóa
|
Theo Phật xin xuống tóc
|
Ðại tôn thấy xót thương
|
Cho chúng con xuất gia
|
Cúng dường Chùa Tháp Phật
|
Ðến trước cúi đầu lạy
|
Nhờ vậy bọn chúng tôi
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Ưu vi Ca-diếp tôn
|
Và Giang hà Ca-diếp
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
tự nói việc làm xưa.
|
16. PHẨM CA DA (Tróc Thủ- 15 bài kệ)
Xưa làm người bán hương
|
Khi được hương đem bán
|
Có một người đồng nữ
|
Ði đến chơ mua hương
|
Dung mạo thật tuyệt đẹp
|
Thấy cô đến chỗ tôi
|
Liền nắm tay đùa giỡn
|
Dục ý tuy đắm trước
|
Thân cũng không xúc phạm
|
Tôi cũng không hội hiệp
|
Chỉ nắm tay cô thôi
|
Vì giỡn con gái người
|
Do vậy bị tội ác
|
Mạng chung đọa địa ngục
|
Nay lại được thân người
|
Tay mặt tự nhiên khô
|
Như vậy năm trăm đời
|
Sanh ở đâu cũng vậy
|
Tay mặt thường teo tóp
|
Khổ đau rất bất tiện
|
Nhân gỉa, nên nghĩ rằng:
|
Tạo tội tuy rất ít
|
Bị tai ương vô cùng
|
Thiện, ác không lìa thân
|
Gặp được Bậc Chánh Giác
|
Bỏ nhà làm Sa-môn
|
Ðã chứng A-la-hán
|
Thanh lương nhập Niết-bàn
|
Nhân giả, tôi lúc đó
|
Có thần túc tự tại
|
Hiện nay cánh tay mặt
|
Không lanh bằng tay trái
|
Giả như có người nam
|
Thích phạm người nữ khác
|
Mạng chung đọa địa ngục
|
Khổ đau rất khốc hại
|
Không nên phạm sắc ngoài
|
Như vứt bỏ đống lửa
|
Bậc trí người hiểu rõ
|
Luôn luôn viết dừng đủ
|
Nếu thấy phụ nữ người
|
Phải quán thấy bất tịnh
|
Tôi vào trong địa ngục
|
Chịu khổ não vô lượng
|
Khi tôi phạm tội ấy
|
Tự cho không nói hết
|
Phải lãnh lấy thật quả
|
Tội phước chẳng hề lìa
|
Gặp được Bậc Chánh Giác
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Ðã được không chỗ chấp
|
Thanh lương được diệt độ
|
Ðây là đời cuối cùng
|
Ðã được câu cam lồ
|
Ðã hết tất cả khổ
|
Thanh lương được diệt độ
|
Ca Da Tôn như vậy
|
Ở trong Tỳ-kheo Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
17. PHẨM THỌ ÐỀ CÙ (37 bài kệ)
Phật Thế Tôn Duy Vệ
|
Thành nước Bàn Ðầu Ma
|
Có ông phú trưởng giả
|
Tên: A Năng Càn Na
|
Các quyến thuộc của Phật
|
Sáu mươi hai trăm ngàn
|
Thỉnh tôn Phật Duy Vệ
|
Và chúng, cúng ba tháng
|
Chủ tôi Bàn Ðầu Ma,
|
Tôi cúng Nhân-trung-tôn
|
Ăn uống vật ngon lạ
|
Cúng dường đệ tử Phật
|
Như cúng dường Ðức Phật
|
Tại nước bàn Ðầu Ma
|
Lúc đó, thí cuối cùng
|
Vua Bàn đầu muốn dâng
|
Cúng dường phạn thực ngon
|
Y phục và giường nằm
|
Làm nhà thí vi diệu
|
Chính do vua tạo nên
|
Dâng lên các tiện nghi
|
Sàng tọa đến trăm ngàn
|
Cứ mỗi một Tỳ-kheo
|
Huệ thí, khiến vừa ý
|
Quốc vương cuối cùng đó
|
Ðã cúng dường như vậy
|
Phụng sự các Thế Tôn
|
Thần thông bậc Ðạo sư
|
Lúc ấy thấy vua cúng
|
Giường nằm các tiện nghi
|
Thí y phục ẩm thực
|
Sàng tọa đều đầy đủ
|
Khi Chư Thiên-trung-tôn
|
Ðế thích đến bên tôi
|
Thiên Ðế Thích bảo tôi:
|
–Ta là bạn của ngươi
|
Tức thời biến nhà thí
|
Khả ý, như cõi trời
|
Ðặt bày tòa cõi trời
|
Cúng ẩm thực cõi trời
|
Khi ấy Phật Thế Tôn
|
Duy Vệ không ai bằng
|
Thỉnh cúng tròn một tháng
|
Tôn nhân và đệ tử
|
Tôi lấy ẩm thực trời
|
Cúng dường cho đạo sư
|
Dâng cúng y phục trời
|
Ðại nhân và đệ tử
|
Do nhờ công đức ấy
|
Thọ ân thật vô cùng
|
Suốt chín mươi mốt kiếp
|
Chưa từng rơi ác đạo
|
Thấy rõ phước đã làm
|
Thiên thượng và nhân gian
|
Tôi phụng thờ Ðại Thánh
|
Phật Duy Vệ tôn qúy.
|
Nay là đời cuối cùng
|
Sanh thành La-duyệt-kỳ
|
Trong cung Vua Bình Sa
|
Nhà giàu, của vô lượng
|
Ðược quốc Vương Bình Sa
|
Tất cả người ái kính
|
Mọi người thất cung phụng
|
Các thần và nhân dân
|
Tôi ở trời ca hát
|
Ðời bây giờ tự vui
|
Sanh ra được thân người
|
Tự vui kỷ nhạc trời
|
Bấy giờ Phật Ðại Trí
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Ði đến La-duyệt-kỳ
|
Ðạo sư ban lòng thương
|
Tôi nghe Ðại Trí tuệ
|
Phật đến thành Vương xá
|
Tâm vui mừng nhảy nhót
|
Ðến Thế Tôn nhân từ
|
Xa thấy hào quang Ngài
|
Chiếu sáng khắp tất cả
|
Tôi liền bước xuống xe
|
Ði bộ đến chỗ Phật
|
Vui mừng tôi đến trước
|
Cúi lạy chân tối thắng
|
Khi lạy Như Lai xong
|
Liền ngồi qua một bên
|
Tôi mãi nghĩ Chánh-Hùng
|
Nay mới thấy Ðại Nhân
|
Ðạo sư, bậc chiếu sáng
|
Hàng phục lưới của Ma
|
Thế Tôn, bậc vô thượng
|
Tức thì thương xót tôi
|
Giải nói pháp Tứ Ðế
|
Như điều Ngài giảng nói
|
Ngài bảo: “Chớ buồn lo”
|
Thế Tôn nói như vậy
|
Ðại Thông muốn xuân gia
|
Mong được thọ Ðại giới
|
Tức thì Ðại trí huệ
|
Ðức Phật không ai bằng
|
Nói rằng: Tỳ-kheo đến
|
Cụ Túc thành Sa-môn
|
Nhờ vậy chẳng buông lung
|
Vững tinh tấn, định ý
|
Ðã gặp chỗ cam lồ
|
Ðược vô vi không động
|
Ðược thấy Bậc Chánh Giác
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Do thành A-la-hán
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Nhân giả, tôi nhớ lại
|
Thân vốn đã làm ác
|
Ðều phải lãnh thật quả
|
Vừa ý, vui, an ổn
|
Rộng Hành được chu toàn
|
Lìa Sanh, Lão, Bệnh, Tử
|
Thoát tất cả khổ não
|
Ưu sầu và khóc lóc
|
Như vậy, thọ Ðề Tôn
|
Ở trong chúng Tỳ-kheo
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm trước.
|
18. PHẨM LẠI TRA HÒA LA (26 bài kệ)
Có Vua Tu-duy-ni
|
Nhà vua có một người con
|
Tên: Lại-tra-bạt-đàn
|
Là con út của vua
|
Phật Ca-diếp tốt đẹp
|
Xây dựng chùa tháp lớn
|
Muốn hộ ý Vua cha
|
Mới tạo lập cột chùa
|
Tâm vui mừng nhảy nhót
|
Kiến lập vòng tròn tháp
|
Tôi nguyện làm Sa-môn
|
Cùng hội Bậc Chánh giác
|
Bởi nhờ công đức này
|
Ðời đời sanh ở đâu
|
Hoặc cõi trời, hay người
|
Tự nhiên được đức ấy
|
Nay lần sanh cuối cùng
|
Tại nước Ðầu-lâu-tra
|
Sanh vào nhà tôn giả
|
Chỉ một người con gái
|
Tất cả đều mến yêu
|
Như vậy vua Câu Liệp
|
Là bà con nhà tôi
|
Quốc thổ cũng như vậy
|
Ðoan chánh đẹp vô cùng
|
Sắc mặt rất vui vẻ
|
Vui chơi trong kiếp người
|
Thọ hưởng tất cả dục
|
Hết lòng kính Thế Tôn
|
Ði đến Ðầu-lâu-tra
|
Tôi thấy tâm hoan hỷ
|
Liền xin làm Sa-môn
|
Công đức xưa tạo nên
|
Biến hóa khó so sánh
|
Từ bi, xót thương tôi
|
Miệng Ngài nói lời rằng:
|
“Chánh giáo của Chư Phật
|
Cha mẹ không cho phép
|
Không được làm Sa-môn”
|
Tộc tánh tử, tự biết
|
Liền trở về nhà mình
|
Ðến trước thưa cha mẹ:
|
“Xin xha mẹ cho con
|
xuất gia làm Sa-môn”
|
Cha mẹ nghe tôi nói
|
Ưu sầu không kể xiết:
|
“Con tuy có mạng chung
|
Còn không muốn xa lìa
|
Lúc ấy tôi không ăn
|
Một lòng, không ưa thích
|
Chí mong pháp thanh bạch
|
Muốn cầu làm Sa-môn
|
Lúc ấy tôi không ăn
|
Nằm dài trên mặt đất
|
Nếu không cho phép tôi
|
Thề chết ở nơi ấy
|
Sáu ngày không ăn uống
|
Một lòng chỉ buồn lo
|
Chí mong pháp thanh bạch
|
Muốn cầu làm Sa-môn
|
Lúc bạn hữu tri thức
|
Nói cha mẹ tôi rằng:
|
–Lành thay, thuận theo ý
|
Dùng thân chết làm gì?
|
Nếu vui lòng cho đi
|
Làm Sa-môn vẫn sống
|
Người sống có thể gặp
|
Chết rồi sau gặp được?
|
Thời cha mẹ tri thức
|
Ðồng buông tiếng bi ai
|
“Nếu cho làm Sa-môn
|
Về thăm nhà mới được”
|
Thì bạn hữu tri thức
|
Liền đến bảo chàng rằng:
|
“Cha mẹ anh đã cho
|
Sáng mai làm Sa-môn
|
Hai bác đồng giao ước:
|
Nếu anh làm Sa-môn
|
Thỉnh thoảng vể thăm nhà
|
Mới chịu cho xuất gia”
|
Anh nghe nói: Lành thay!
|
Tự bồi dưỡng sức khỏe
|
Ði đến chỗ Thế Tôn
|
Tới trước bạch Ðức Phật
|
“Cha mẹ đã cho phép
|
Thọ giáo pháp của Phật”
|
Thế Tôn cạo tóc tôi,
|
Cho tôi làm Sa-môn
|
Nhờ cúng vòng tháp tròn
|
Ðược an ổn khoái lạc
|
Ở cõi trời hay người
|
Công đức tự nhiên được
|
Phật thấy khắp, bảo tôi
|
“Thích nhàn cư bậc nhất”
|
Ðã chứng A-la-hán
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Cho nên phải hoan hỷ
|
Vui lòng hướng Thế Tôn
|
Nên cúng dường chùa tháp
|
Ðược thoát lo sợ lớn
|
Ðại tôn Lại Tra Hòa
|
Nhàn cư y ngủ nạp
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
19. PHẨM HÓA ÐỀ (27 bài kệ)
Là tôn giả giàu lớn
|
Từng ở thành Vương xá
|
Có năm trăm đạo sĩ
|
Ở nhà tôi một năm
|
Năm trăm các trưởng giả
|
Tất cả đều như vậy
|
Bấy giờ các đạo nhân
|
Ðến thọ thực một nhà
|
Thí như bọn chúng tôi
|
Nhà nào cũng nấu cơm
|
Với tất cả Tỳ-kheo
|
Cũng cúng dường như vậy
|
Xin đạo sĩ lớn tuổi
|
Phần ấy cho trưởng giả
|
Ðạo nhân vô thượng tôn
|
Tâm niệm ông như vậy
|
Cúng dường năm trăm người
|
Ðỗ đậu, canh trên cơm
|
Tôi đã cúng đầy đủ
|
Nuôi Tỳ-kheo như vậy
|
Suốt cả hai ngày trường
|
Bố thí Tỳ-kheo ấy
|
Lúc đó tôi khởi ý
|
Tâm tham, ghét và ác
|
Khó nuôi nấng con mình
|
Phụ nữ và chị em
|
Huynh đệ, các thân tộc
|
Cúng dường phạn thực này
|
Huống chi Tỳ-kheo này
|
Phải cúng dường ba tháng
|
Cúng dường năm trăm người
|
Nhà ta rất hao tổn
|
Ta muốn cho Tỳ-kheo
|
Bằng cách nào để chết
|
Giả sử họ chết đi
|
Nhà ta khỏi hao tổn
|
Tâm nghĩ điều ác rồi
|
Mới đem lúa của ngựa
|
Ðể nấu cơm cúng dường
|
Bảo: giết người, không khổ
|
Khi ăn cơm này xong
|
Bị bệnh rất khốn khổ
|
Cột, xé ruột, bao tử
|
Thương tổn cả năm tạng
|
Chư Thiên và quỷ thần
|
Ðều phát ra tiếng nói
|
“Trưởng giả này rất ác
|
Giết hại bậc Ðạo Nhân
|
Vị Duyên Giác tôn kính
|
Thanh lương mà vô lậu”
|
Tôi nghe, biết lời ấy
|
Suy nghĩ sầu khổ não
|
“Chúng tôi tội vô lượng
|
Sát hại Ðạo nhân tốt”.
|
Thân thuộc nghe lời ấy
|
Ðều buồn lo, suy nghĩ
|
Mời các Ðạo nhân lại
|
Cúi đầu xin sám hối
|
Quy y các Ðạo nhân
|
Cúi đầu sám hối xong
|
Thỉnh năm trăm đạo nhân
|
Cúng dường bằng trai soạn
|
Lại sám hối tội lỗi
|
Quy y các đạo nhân
|
Cúng dường trai soạn xong
|
tâm tự phát nguyện rằng:
|
Khiến cho con cùng với
|
Chư tôn giả hiệp hội
|
Ðều đắc độ như vậy.
|
Tâm con thoát điều ác
|
Ðời đời, sanh ở đâu
|
Chớ có bị bần cùng
|
Chớ khiến con hưng khởi
|
Tâm ý tham, ghanh ghét.
|
Vì hại Phật-bích-chi
|
Phạm tội ác như vậy
|
Sau khi bị mạng chung
|
Ðọa địa ngục Thái-Sơn
|
Khổ đau mấy ngàn năm
|
Áo não không thể nói
|
Lại được làm thân người
|
Chết yểu, dời rất nhanh
|
Hiện tại được giàu có
|
Ðược mọi người cúng dường
|
Ruột, bao tử đốt cháy
|
Sau đó mới mạng chung
|
Vứt bỏ nhà ra đi
|
Sa-môn chẳng ai kính
|
Siêng năng tu lời Phật
|
Ðoạn trừ tất cả dục
|
Ruột, bao tử năm tạng
|
Tất cả đều thối nát
|
Tôi đã tạo tội lỗi
|
Ác ý hại Tỳ-kheo
|
Tội ác xưa sót lại
|
Cuối cùng mới thấy rõ
|
Thân tôi đã tạo ác
|
Và làm các điều lành
|
Tôi phải chịu quả báo
|
Thiện và ác, trước sau
|
Sống trong thành Xá-vệ
|
Hóa Ðề, Ðại thần túc
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
20. PHẨM THIỀN THỪA CA-DIẾP (11 bài kệ)
Có các Tỳ-kheo Tăng
|
Suốt cả bảy năm rường
|
Gặp lúa gạo khan hiếm
|
Ðói kém rất hãi hùng
|
Tôi có gặp một người
|
Diệu Ðạo nhân Ma-kiệt
|
Bậc Duyên Giác tôn kính
|
Thanh lương mà vô lậu
|
Lúc đó tôi phát sanh
|
Khởi lên ý độc ác:
|
“Ta giữ đồ ăn lại
|
Nuôi Tỳ-kheo làm gì?
|
Liền giữ lại phạn thực
|
Khiến sanh dòi hôi thúi
|
Ðến xem các người ở
|
Sau đó mới cúng dường
|
Vì tạo tội ác này
|
Mạng chung đọa địa ngục
|
Hiệp hội thiêu với đốt
|
Ðau khổ không nói được
|
Khi ra khỏi địa ngục
|
Ðời đời sanh ở đâu
|
Làm biết bao phương tiện
|
Kiếm sống rất khó khăn
|
Nay là đời cuối cùng
|
Lại được sanh cõi người
|
Gặp bậc Ðẳng Chánh Giác
|
Là Ðạo sư vô thượng
|
Nhờ tin nên xuất gia
|
Trừ hại, hết các lậu
|
Ðã được không đắm trước
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Nhân giả! Tôi lúc đó
|
Thần túc thường tự tại
|
Cầu thực, bày phương tiện
|
Nhưng vẫn không thể được
|
Ði xa, tránh đường xá
|
Mệt mỏi không thể nói.
|
Nay mới được may mắn
|
Ăn uống vật cúng dường
|
Ngài Thừa già Ca-diếp
|
Thông suốt với tiếng tăm
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
21. PHẨM CHÂU LỢI BÀN BẠC (8 bài kệ)
Ngày xưa, kiếp trước tôi
|
Từng là người nuôi heo
|
Sống ở bên giòng sông
|
Cột chặt miệng các heo
|
Muốn đưa đến giữa giòng
|
Chỉ mình tôi qua được
|
Vì heo không được thở
|
giữa giòn đều chết chìm
|
Bấy giờ tôi kiếm sống
|
Chẳng còn gì để nương
|
Tiên nhân đến chỗ tôi
|
Phóng luồng ánh sáng từ
|
Khuyên nhũ, giáo hóa tôi
|
Cạo bỏ râu và tóc
|
Giả dụ, hay thiện luật
|
Hành vô tướng Tam muội
|
Sau khi thọ mạng chung
|
Liền được sanh cõi trời
|
Tuổi thọ trời lại hết
|
Liền sanh xuống nhân gian
|
Gặp được Bậc Chánh Giác
|
Bỏ nhà làm Tịch chí
|
Khi đó ý mê muội
|
Ðọc kinh liền quên ngay
|
Tôi đọc một bài kệ
|
Hết ba tháng mới thuộc
|
Tập đọa tụng bốn câu
|
Ðoạn tuyệt các ái dục
|
Ðức Thế Tôn hỏi tôi
|
Châu Lợi Bàn đặc thưa:
|
Nguyên nhân việc thiện ác
|
Tại ao A-nậu-đạt.
|
22. PHẨM THÍ ÐỀ HỒ (27 BÀI KỆ)
Phật Ca-diếp diệt độ
|
Tôi là đệ tử cuối
|
Rộng nghe biết ba đời
|
Thường thầm tiếc kinh pháp
|
Không nói cho Tỳ-kheo
|
Không chịu chỉ cho người
|
Dù có người xin hỏi
|
Cùng chúng tôi trao đổi
|
Ví có Tỳ-kheo đến
|
Chỗ tôi để hỏi chuyện
|
Thì tôi lừa dối họ
|
Họ không hiểu, tức giận
|
Các Ðạo nhân lại giận
|
Buồn lo mắng chửi rằng
|
“Vì sao không thuyết pháp
|
Nhân giả không chết sao?”
|
Ðến khi lúc mạng chung
|
tâm liền tự hối, trách:
|
Chưa từng giảng luận pháp
|
Ðó là điều rất xấu”.
|
Tự biết mình sắp chết
|
Chỉ còn bảy ngày nữa
|
Hội tụ các Tăng chúng
|
tức thời liền thuyết pháp
|
Ngày đêm giảng yếu nghĩa
|
Trừ bỏ tham, tật đố.
|
Thuyết pháp chưa hoàn tất
|
Buổi tối thì mạng chung
|
Như tôi đã phân biệt
|
Người nghe rất vui mừng
|
Thọ giáo suy tư nghĩa
|
Thay nhau cùng khuyến hóa
|
Tôi thuyết pháp rất ít
|
Hội mọi người bảy ngày
|
Nhờ vậy được sanh thiên
|
Dùng Thiên nhạc vui chơi
|
Hết tuổi thọ cõi trời
|
Trở lại thọ thân người
|
Tại Ca-duy-la-vệ
|
Sanh nhà vua họ Thích
|
Ðoan chánh ai cũng kính
|
Ðược mọi người mến yêu
|
Nhiều của cải châu báu
|
Ðem bố thí tất cả
|
Thấy các tộc tánh tử
|
Theo đạo bỏ nhà cửa
|
Tôi muốn làm Tịch Chí
|
Bỏ nhà, cửa, ái dục
|
Thế Tôn không ai bằng
|
Từ niệm, thương xót tôi
|
Ðã nhiều phen khích lệ
|
Khuyên bảo tôi xuất gia
|
Tôi liền vâng lời Phật
|
Học giáo lý vô thượng
|
Này nhân giả, thân tôi
|
Bảy năm làm bố thí
|
Bấy giờ hội thí xong
|
Hết bảy năm đó rồi
|
Sau đó làm Tịch Chí
|
Theo lời dạy Thắng Trí
|
Bảy năm là lâu dài
|
Mạng người thì ngắn ngủi
|
Hôm nay đem bố thí
|
Ai giữ được thân mình
|
Nhờ Thế Tôn dạy bảo
|
Tôi liền làm Tịch Chí
|
Nhơn giá, tôi bảy ngày
|
Xuất gia bỏ râu tóc
|
Tin tưởng làm Sa-môn
|
Tu hành thân Phật pháp
|
Trong hai mươi lăm năm
|
Tâm tịch định như nước
|
Bấy giờ tệ ác đạo
|
Khởi niệm đắm việc nhà
|
Phụng hành việc đáng bỏ
|
Cũng không dùng cam lộ
|
Với y, rất thổ thẹn
|
Mong cầu điều tệ hại
|
Hủy nhục với thân thuộc
|
Gặp cừu địch ganh ghét
|
Làm vậy là không nên
|
Cũng không bị oán hận
|
Ðã có chí giữ tịnh,
|
Há lại nhớ nhà cửa
|
Yù chủng tánh, nhà cửa,
|
Ðam mê nơi tà lợi
|
Phải nên bỏ ý ấy
|
Thề không xa lìa giới
|
Chẳng thà ta chết đi
|
Ðừng sống mà xấu ác
|
Ta nên cầm dao lớn
|
Hủy bỏ thân mạng này
|
Liền cầm dao kiếm lớn
|
Cắt bỏ thân mạng mình
|
Cắt đứ cấu trượt rồi
|
Thì tâm mới giải thoát
|
Nhất tâm bèn giải độ
|
Lần hồi khiến người định
|
Tôi đối thật quả Từ
|
Mau gặp pháp Quang Minh
|
Tuổi thọ tôi sắp mất
|
Giảng thuyết pháp tôn diệu
|
Nhờ làm được điều ấy
|
Ðịnh ý được giải thoát
|
Thích tử đại thần túc
|
Nhược căn Tát Ba Ðạt
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
23.PHẨM A NA LUẬT(Vô Liệp- 9 bài kệ)
Xưa tôi từng không ăn
|
Lúc ấy tôi bố thí
|
Gặp được bậc Sa-môn
|
Ðại thông Hòa-liệp-tra
|
Nên sanh nhà họ Thích
|
Hiệu là A-na-luật
|
Công đức tự vui chơi
|
Với tất cả kỷ nhạc
|
Lúc thấy Bậc Chánh Giác
|
Liền hâm mộ Thế Tôn
|
Trong lòng rất sung sướng
|
Bỏ nhà làm Tịch Chí
|
Ðời trước hành tinh tấn
|
Phương tiện thường kiên cố
|
Ðã thoát, Tam đạt trí
|
Ðầy đủ như Phật dạy
|
Tự biết mạng kiếp trước
|
Tạo hành đã trải qua
|
Ở trên trời Ðao-lợi
|
bảy lần sanh cõi trời
|
Bảy lần sanh nhơn gian
|
Vào trong nhà tôn kính
|
Giàu có và quân tử
|
Vàng, ngọc báu tự nhiên
|
Ở đây bảy, kia bảy
|
Sanh tử mười bốn lần
|
Vốn đã biết rõ ràng
|
Việc làm ở đời trước
|
Như vậy, quả bố thí
|
Chưa bao giờ tham, ghét
|
Ðời đời sanh ở đâu
|
Thường cầu không sanh tử
|
Lúc Ngài A-na-luật
|
Ở trong các chúng Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
24. PHẨM DI CA PHẤT (Lộc tử-14 bài kệ)
Xưa tôi theo chó dữ
|
Ði đến chợ bán thuốc
|
Gặp một vị duyên giác
|
Thân thể bị bệnh tật
|
Tôi cung cấp thuốc men
|
Ðiều dưỡng Ngài bảy ngày
|
Tôn nhân sau bảy ngày
|
Liền bay lên hư không
|
Lúc đó, tôi thấy, bảo:
|
Người nhà, khách, trẻ ở.
|
Các thần đã đến đây
|
Xuất gia học như vậy.
|
Tôi nghe trẻ nói vậy
|
Bích-chi-phật bay đi
|
Trong tâm rất hoan hỷ
|
Một lòng chắp tay vái
|
Nhờ ý được vui vẻ
|
Bố thí Ngài thuốc men
|
Ở cõi trời hay người
|
Công đức tự nhiên thấy
|
Nay là đời cuối cùng
|
Lại được làm thân người
|
Lại gặp Bậc Chánh Giác
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Ở chỗ Thích Sư Tử
|
Xuất gia làm Tịch Chí
|
Ðã được Vô sở trước
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Ngày xưa tôi làm vậy
|
Ðược cùng dường rất nhiều
|
Y phục và ẩm thực
|
Giường nằm và ngọa cụ
|
Vá y phục cho Ngài
|
Nhờ bố thí thuốc thang
|
Bốn phương cung cấp thuốc
|
Ðời sống không thiếu thốn
|
Trời người đến bảo rằng
|
Với Quốc vương Bình Sa
|
- Khanh nên đem thuốc thang
|
Cúng dường Di Ca Phất
|
Nước Ngài sẽ được lợi
|
Rất nhiều các loại thuốc
|
Bảo y vương Kỳ Vức
|
Ðem thuốc cúng Lộc tử
|
Y dược bốn phươn đến
|
Thảy đều đem cho tôi
|
Lúc đó vua Bình Sa
|
Thi thố đại thần thông
|
Bấy giờ đem cho tôi
|
Ðầy đủ nhà nhu nhuyến
|
Biến khắp Tỳ-kheo tăng
|
Ngàn hai trăm năm mươi
|
Vị Tỳ-kheo Lộc kia
|
Lục thông, Ðại thần túc
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
25. PHẨM LA VÂN (10 bài kệ)
Xưa tôi từng làm vua
|
Làm chủ nước Ma-kiệt
|
Có rất nhiều dân chúng
|
Xử sự bằng nghĩa lý
|
Bấy giờ có tiên nhân
|
Uống nước trong hào rãnh
|
Liền đi đến chỗ tôi
|
Nói với tôi như vầy:
|
–Ðại vương, tôi là giặc
|
Uống trộm nước của Ngài
|
Xin hãy trách phạt tôi
|
Như trị người trộm cắp.
|
Lúc đó tôi đáp rằng:
|
–Tiên nhân giữ pháp dược
|
Tôi tha thứ cho Ngài
|
Cứ đi, tùy ý thích
|
Ðại vương, tôi hồ nghi
|
Tội xưa chưa trừ được
|
Xin hãy trách phạt tôi
|
Ðể tiêu trừ tội chúng
|
Tôi nhốt ông sau vườn
|
Rồi quên luôn sáu ngày
|
Sau sáu ngày qua rồi
|
Cũng không cho ăn uống
|
Do nhân duyên như vậy
|
Chưa từng có ác ý
|
Ðọa Hắc Hằng thiêu đốt
|
Trải qua sáu vạn năm
|
Tại ương xưa sót lại
|
Nay lần sanh cuối cùng
|
Phải ở trong bụng mẹ
|
Sáu năm mới sanh được
|
Chưa từng khởi loạn ý
|
Thân, miệng không phạm tội
|
Mới gặp được thật quả
|
Tội phước không lìa mình
|
Như vậy La Vân Tôn
|
Ở trong Tỳ-kheo Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
26.PHẨM NAN ÐỀ (14 bài kệ)
Ðời xưa Phật Duy Vệ
|
Tôi cúng nhà tắm ấm
|
Cho các Tỳ-kheo Tăng
|
Và phát thệ nguyện rằng:
|
Khiến tôi cùng các Ngài
|
Tôn chúng cùng tập hội
|
Ðời đời được thanh lương
|
Ly dục, không trần cấu
|
Ðoan chánh thường tốt đẹp
|
Thanh tịnh như diệu hoa
|
Nhờ vậy sau mạng chung
|
Ðược sanh lên cõi trời
|
Tại cõi trời hay người
|
Nhan sắc đẹp đoan chánh
|
Ðời đời, sanh chỗ nào
|
chỗ ở thế lực lớn
|
Nơi đó, mạng chung rồi
|
Lại sanh ở nhân gian
|
Chư thiên và nhân dân
|
Nhìn tôi không biết chán
|
Thấy tháp Phật Bích Chi
|
Tôi tu bổ trở lại
|
Trang sức cho thật đẹp
|
Treo tràng phan ở trên
|
Lúc đó tôi phát nguyện:
|
Muốn cầu được tướng tốt
|
Thân chói sáng vàng tía
|
Ðoan nghiêm không ai bằng
|
Nhờ đã làm phước này
|
Sanh nước Ba-la-nại
|
Tại Chỉ Duy Ni Sanh
|
Làm con chẳng giận hại
|
Thấy tháp Phật Ca-diếp
|
Trong lòng rất hoan hỷ
|
Liền vào chùa tháp ấy
|
Cột trụ thật vững chắc
|
Dùng để cúng tháp này
|
Và sửa lại tháp ngài
|
Dựng trên một trụ đá
|
Tôi thọ phước vô lượng
|
Nhờ phước dư còn lại
|
Nay là đời cuối cùng
|
Sinh nhà Vua họ Thích
|
Ðược làm em Ðức Phật
|
Thân tôi tự nhiên có
|
Tướng tốt của Ðại nhân
|
Trang nghiêm thành La Sạn
|
Bình đẳng trải ba ngàn
|
Phật khắp thấy nói tôi
|
Là đoan chánh bậc nhất
|
Ðã trừ hết các lậu
|
Ðã được câu cam lồ
|
Nan-đề, con cha mẹ
|
Ở trong Tỳ-kheo Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
27. PHẨM BẠT ÐỀ (19 bài kệ)
Ngày xưa lúa thóc hiếm
|
Ðói khát rất hãi hùng
|
Có năm trăm Tỳ-kheo
|
Khất thực tôi đều cho
|
Tất cả các trưởng giả
|
Huệ thí các đạo thuật
|
Khất thực được đồ ăn
|
Liền đem đến cho tôi
|
Tuy được đồ ăn dở
|
Thường ăn nhín nuôi thân
|
Dù không thể biết tôi
|
Họ đều theo lời tôi
|
Các nhân dân đi đến
|
Kiếm đầy đủ thức ăn
|
Lúc đó tôi gắng sức
|
Theo họ để ra đi
|
Bấy giờ họ đuổi theo
|
Tin xa đến cầu xin
|
Hết sức đuổi theo sau
|
Cũng không theo kịp tôi
|
Tôi liền đi qua sông
|
Rồi ngồi xuống bờ sông
|
Nhìn chung quanh bốn hướng
|
Thanh tịnh, không người đến
|
Ngày nay, mình tôi ăn
|
Ðồ ăn mềm, thơm ngon
|
No đủ, lòng thỏa mãn
|
Cả ngày được an ổn
|
Bấy giờ có Tỳ-kheo
|
Là Duyên-Giác Thế Tôn
|
Oai thần cao vời vợi
|
Ðã trừ bỏ sanh tử
|
Tâm ý thường nghĩ rằng:
|
Nghèo khốn thật kịch khổ
|
Xưa không tu công đức
|
Cho nên nay mới nghèo
|
Liền khởi tâm thanh tịnh
|
Tâm hoan hỷ nghĩ rằng:
|
Nên cúng cho Tỳ-kheo
|
Ðó là gốc các phước
|
Thì Thế Tôn liền nhận
|
Ðến đó để thọ thực
|
Rồi Ngài xót thương tôi
|
Liền bay lên hư không
|
Lúc ấy tôi phát nguyện
|
Xin chớ để con nghèo
|
Ðời sau sanh giàu có
|
Ðoan chánh như hoa đẹp
|
Giống Thế Tôn chẳng khác
|
Ðời đời cùng hội ngộ
|
Khiến con nương pháp này
|
Như nhơn giả đã được
|
Nhờ đã tạo đức này
|
Ðược an vui mãi mãi
|
Ở cõi trời hay người
|
Tự thấy phước đã tạo
|
Cũng được làm quốc vương
|
Trời người vô số lần
|
Chưa từng đọa ác đạo
|
Cũng không có tội ương
|
Nhờ có phước dư ấy
|
Nay là đời cuối cùng
|
Lai sanh nhà quyền thế
|
Sanh đại tánh họ Thích
|
Khi ấy Phật Thế Tôn
|
Ði đến chỗ của tôi
|
Tôi liền làm Tịch Chí
|
Cùng với các thân quyến
|
Tôi vốn đã lập nguyện
|
Liền đầy đủ như ý
|
Ðã được vô sở trước
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Bỏ đời làm Sa-môn
|
Bạt Ðề theo Phật dạy
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
28.PHẨM LA BÀN BẠT ÐỀ (14 bài kệ)
Lúc Phật Câu-lâu-tần
|
Xưa có người dựng tháp
|
Lúc ấy tôi ở đấy
|
Ngôi chùa rất to lớn
|
Khi dựng chùa tháp này
|
Tôi buông miệng trách rằng:
|
–Tháp này hết sức lớn
|
Chừng nào mới thành tựu
|
Làm chút ít công đức
|
Như vậy dễ thành hơn
|
Ðã ít tốn công sức
|
Chùa tháp cũng mau thành
|
Dùng miệng nói lời ác
|
Vì lời nói tạo tội
|
Sau khi thọ mạng hết
|
Liền đọa trong địa ngục
|
Khi ở địa ngục ra
|
Thân lùn nhỏ, xấu tệ
|
Ðời đời sanh ở đâu
|
Bị mọi người khinh chê
|
Ðến thời Phật Ca-diếp
|
Làm quạ đen chim đỏ
|
Giữa đường Ba-la-nại
|
Bay liệng trong rừng cây
|
Thấy hào quang Thế Tôn
|
Có Tỳ-kheo vây quanh
|
Liền theo Phật đảnh lễ
|
Miệng kêu tiếng não nuột
|
Khi Phật Thế Tôn đi
|
Ðến nước Ba-la-nại
|
Ðều theo Ngài ra vào
|
Thường cất tiếng bi cảm
|
Nhờ làm công đức này
|
Lại được làm thân người
|
Ðượv gặp Bậc Chánh Giác
|
Ðạo sư không ai bằng
|
Ðược làm vị Tịch Chí
|
Ở chỗ Thích sư tử
|
Ðã được vô sở trước
|
Thanh lương mà diệt độ
|
La Hán được tự tại
|
Lục thông, Ðại thần túc
|
Gọi là bậc Trì Pháp
|
Chánh chơn có biệt tài
|
Tất cả chúng tụ hội
|
Lắng nghe âm thanh tôi
|
Chư Thiên và nhân dân
|
Tất cả đều hoan hỷ.
|
Tôi tạo tội chút ít
|
Cũng tạo phước chút ít
|
Ðều phải thọ thật quả
|
Ðã tạo tội và phước
|
Ngài La-bàn-bạt-đề
|
Ở trong Tỳ-kheo Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
29. PHẨM MA ÐẦU HÒA LUẬT CHÍ (21 bài kệ)
Xưa Phật Duy-da-ly
|
Tôi làm con khỉ lớn
|
Chạy đến cầm bát Phật
|
Tỳ-kheo thấy la mắng:
|
Ðừng làm bể bát Phật
|
Thế Tôn bảo Tỳ-kheo:
|
–Tỳ-kheo chớ có la
|
Nó không làm bể bát
|
Lúc ấy ầm bát Phật
|
Tôi từ từ lên cây
|
Lấy đầy một bát mật
|
Rồi lại leo xuống cây
|
Tay cầm bát đầy mật
|
Dâng lên đức Thế Tôn
|
Trong mật có trùng bọ
|
Ðức Chánh Giác không nhận
|
Vì Phật thấy trong bát
|
Ong chết cùng mật tạp
|
Tôi làm sạch thứ ấy
|
Lại dâng lên đức Phật
|
Thì Phật mới xem xét
|
Lại không chịu nhận bát
|
Tôi lấy nước rửa sạch
|
Mới đến trước đảnh lễ
|
Lấy nước rưới lên trên
|
Ðổ đầy một bát khác
|
Cúng dường Phật tôn xong
|
Tâm vui mừng hoan hỷ
|
Thế Tôn không ai bằng
|
Lúc đó độ ong chết
|
Liền thọ nhận bát mật
|
Ngài dùng với đệ tử
|
Khi ấy tôi vui mừng
|
Chấp tay và hướng Phật
|
Chuyên tâm trước Thế Tôn
|
Mà lòng thường tinh tấn
|
Và tôi phát nguyện rằng:
|
Khiến con làm thân người
|
Sanh đời gặp Thế Tôn
|
Liền hiểu nghĩa tối thượng
|
Nhờ tạo phước đức này
|
Nên được làm thân người
|
Ðược gặp Bậc Chánh Giác
|
Ðấng Ðạo sư Vô thượng
|
Xuất gia làm Sa-môn
|
Ðứng đầu Thích sư tử
|
Ðã được vô sở trước
|
Thanh lương mà diệt độ
|
Làm La-hán tự tại
|
Lục thông, Ðại thần túc
|
Lấy tên là Xuất Mật
|
Các Tỳ-kheo cũng biết
|
Nhờ trước đã làm phước
|
Nên nay được cung kính
|
Cùng mấy trăm Tỳ-kheo
|
Cùng chu du qua lại
|
Dù gặp bước đường cùng
|
Tỳ-kheo Tăng đói khát
|
Tâm liền tự phát nguyện:
|
–Tôi muốn được nước mật
|
Biết tâm tôi đang nghĩ
|
Mọi người liền trở về
|
Mang theo mật, cơm ngon
|
Là để dâng lên tôi
|
Tức thì tôi thọ nhận
|
Tự nhiên rất ngon bổ
|
Ðem cúng Tỳ-kheo Tăng
|
Khả ý, rất no đủ
|
Tôi lúc đó sanh ra
|
Làm con khỉ gieo phước
|
Ðộ thoát trong chớp nhoáng
|
Liền được câu cam lồ
|
Như tôi đã phát nguyện
|
Liền được như ý muốn
|
Cúng dường Phật Thế Tôn
|
Sở cầu được như ý
|
Nhơn giả, hãy nghĩ rằng:
|
–Tôi đã tạo công đức
|
Nên gặt lấy thật quả
|
Khả ý, tốt, an ổn
|
Cúng mật Phật như vậy
|
Ở trong Tỳ-kheo Tăng
|
Tại ao A-nậu-đạt
|
Tự nói việc làm xưa.
|
30. PHẨM THẾ TÔN (50 bài kệ)
Tất cả Thắng phổ minh
|
Tất cả thế gian tối
|
Ðã trừ hết các cấu
|
Hàng phục các chúng hội
|
Bậc thông huệ thấy khắp
|
Ðại nhân thông tất cả
|
Ðộ các oán, sợ hãi
|
Thuyền pháp đến bờ kia
|
Hiểu rõ các huyễn hóa
|
Vui thay, thương thế gian
|
Cứu người thoát sanh tử
|
Vì nghĩa cứu tất cả
|
Trừ khử cho mọi người
|
Ðều mở hết trói buộc
|
Tối thắng giữa loài người
|
Thuyết pháp để khai ngộ
|
Ðại nhơn, huệ vô cùng
|
Ðại hùng tiếng tăm lớn
|
Ðại quang, pháp vô biên
|
Ðộ thoát nhờ tối pháp
|
Ðại lực hóa không huệ
|
Khai hóa huệ sáng lớn
|
Khuyên bảo kiếp chúng sanh
|
Ðại y sư cứu độ
|
Thế Tôn phá các oán
|
Vô thượng trừ ưu sầu
|
Phật thương mà độ thoát
|
Ngục lớn chắc trói buộc
|
Ðại Long, Ðại sư tử
|
Vô trước, Ðại Tỳ-kheo
|
Thế Tôn, Ðại trí huệ
|
Cứu tế chúng trần lao
|
Tinh tấn có đại lực
|
Phương tiện rất kiên cường
|
Hàng phục chúng trời, người
|
Ðạo lớn, tịch tịnh an
|
Phật Ðại Thiên Trung Thiên
|
Tất cả các quỷ thần
|
Ðều lạt chân trí tuệ
|
Phật thương xót thế gian
|
Hằng tại sanh tử lớn
|
Xé rách lưới Ma vương
|
Thần thông thương tất cả
|
Ðộ thoát ngục chắc lớn
|
Ðại Long, Ðại Thiên nhơn
|
Ở trước các chúng hội
|
Rộng thí, thí vô cùng
|
Ðã được đại tịch tịnh
|
Bậc tôn trưởng tiên nhơn
|
Ðã độ các tôn pháp
|
Thành tựu Ðại đệ tử
|
Ðạo sư đức to lớn
|
Trên hết trong các Thần
|
Vô thượng trừ sầu lo
|
Các nơi độ được khắp
|
Bậc đủ các tướng tốt
|
Ðoạn tuyệt các sắc dục
|
Dứt sạch các ân ái
|
Khi du hóa Long-vương
|
ao lớn A-nậu-đạt
|
Các việc làm thành tựu
|
Bay lên trên hư không
|
Chúng đệ tử vây quanh
|
Năm trăm vị tịch nhiên
|
Xót thương các chúng sanh
|
từ hộ với mọi người
|
Quán sát chúng Tỳ-kheo
|
Liền tự nói lời rằng:
|
Nghe rõ lời ta nói
|
Việc làm ở đời trước
|
Thân xưa có tạo tác
|
Nay phải bị dư ương
|
Thân mạng ta lúc trước
|
Làm người tên Văn La
|
Phỉ báng Bích-chi-phật
|
Thiện diệu, không tỳ vết
|
Mọi người đều đến hội
|
Bắt trói Thiệu Diệu sĩ
|
Bỏ vào ngục, đóng lại
|
Bắt đi như tử tù
|
Lúc ấy thấy Sa-môn
|
Bị trói buộc khổ não
|
Trong lòng bỗng thương xót
|
Nên cứu thoát cho Ngài
|
Bởi do tội ương này
|
Ðọa địa ngục rất lâu
|
Sau được sanh làm người
|
Thường bị đời phỉ báng
|
Vì nghiệp ương xót lại
|
Nay là đời cuối cùng
|
Ði dạo Tu-đà-lợi
|
Nghị luận phỉ náng ta
|
Từng là Bà-la-môn
|
Nghe nhiều, trì đạo thuật
|
Có năm trăm học chí
|
Giảng thuật trong rừng cây
|
Thì có đại thần túc
|
Tỳ-kheo ngũ thông đến
|
Ta thấy đạo nhân tới
|
Phỉ báng dương điều ác
|
Tiên nhơn nhiều ái dục
|
Tự cao sống trong rừng
|
Các Ma-nạp nghe tiếng
|
Cùng bắt chước ta nói
|
Thì tất cả học chí
|
Nhà nhà đi xin ăn
|
Trong đại chúng phỉ báng
|
“Tiên nhân có dục uế”
|
Vì vậy mợi phạm tội
|
Cô gái Tu-đà-lợi
|
Năm trăm đệ tử Phật
|
Cũng đều bị phỉ báng
|
Phật là hết sức sáng
|
Bị chửi mắng sai lầm
|
Biết đệ tử Thế Tra
|
Người là Sa-môn sao:
|
Sanh trong ngục Thái Sơn
|
Khổ đau rất tàn khốc
|
Vì do dư ương này
|
Bị điều đạt đôi đá,
|
Khi ấy đá rơi xuống
|
Trúng dập ngón chân Phật.
|
Chèo thuyền vào sông biển
|
Cùng muốn vượt nước sâu
|
Khi cùng đi trên thuyền
|
Rút giao giết thương nhơn
|
Vì phạm tội báo này
|
Thân đọa trong địa ngục
|
Bởi do dư ương này
|
Gươm sắc hiện trước Phật
|
Từng ở chợ bắt cá
|
Lúc đó ta vui mừng
|
Vì phạm tội này vậy
|
Ðọa địa ngục Thái Sơn
|
Thiêu đốt trong Hắc Hằng
|
Khổ đau rất độc hại
|
Quốc vương Tỳ-lâu-lặc
|
Khi giết hại họ Thích
|
Vì có dư ương này
|
Ngày nay bị đau đầu
|
Thời Thế Tôn Duy Vệ
|
Mắng chửi đệ tử ông
|
Không nên ăn lúa thơm
|
Thường bảo ăn lúa sống
|
Bởi vì phạm tội này
|
Là do nói lời ác
|
Ðọa vào ngục Hắc hằng
|
Thọ khổ không thể được
|
Vì có dư ương này
|
Oán kết Bà-la-môn
|
Thỉnh ta suốt một thời
|
Ba tháng ăn lúa mạch
|
Từng là thầy cha bệnh
|
Chữa bệnh Tôn-giả-tử
|
Cố ý hốt nhầm thuốc
|
Khiến bệnh càng thêm nặng
|
Vì phạm tội lỗi này
|
Ðọa địa ngục rất khổ
|
Vì có dư ương này
|
Cho nên bị kiết lỵ
|
Ta vào lúc tiền thế
|
Từng là thầy dạy võ
|
Cùng lực sĩ đấu nhau
|
Giết hại người đối thủ
|
Bởi vì phạm tội này
|
Thọkhổ không lường được
|
Vì dư ương này vậy
|
Nên đau nhừ bên hông
|
Rằng Nan-đề-hòa-lợi
|
Khinh chê Phật Ca-diếp
|
Vì thấy Sa-môn này
|
Nói:–Không đắc Phật Ðạo.
|
KINH NĂM TRĂM ÐỆ TỬ NÓI VỀ BỔN KHỞI.
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-4-2003